Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

grim

Nàng công chúa chăn ngỗng

Ngày xưa có một bà hoàng hậu tuổi đã cao. Đức vua chết đã

lâu. Bà có một cô con gái rất xinh đẹp. Khi lớn lên, nàng được hứa

hôn với một chàng Hoàng tử con vua một nước xa xôi. Đến ngày tổ

chức lễ cưới, nàng công chúa sửa soạn đi nước xa lạ. Mẹ nàng gói

ghém cho nàng những vật quí giá: đồ trang sức, vàng, bạc, cốc, châu

ngọc, tóm lại là tất cả những gì xứng đáng làm của hồi môn cho một

công chúa, vì mẹ nàng rất mực thương nàng. Mẹ nàng gửi gắm

nàng cho một thị nữ có nhiệm vụ dẫn nàng đi đến chỗ ở người

chồng chưa cưới. Mỗi người cưỡi một con ngựa. Ngựa công chúa cưỡi

tên là Phalađa, biết nói. Đến lúc chia tay, bà hoàng vào trong phòng

ngủ, lấy một con dao nhỏ trích ngón tay, để chảy ba giọt máu. Bà

cho máu thấm xuống một cái khăn trắng nhỏ, đưa cho cô gái và

dặn: "Con thân yêu, con hãy giữ gìn cẩn thận cái khăn này, nó sẽ có

ích cho con trên đường đi".

Hai mẹ con buồn bã từ biệt nhau. Công chúa áp cái khăn lên

ngực, nhảy lên yên ngựa để đi đến nơi ở của người yêu. Sau khi đã

đi một tiếng, cô cảm thấy khát khô họng, bèn bảo thị nữ: "Em hãy

xuống ngựa, lấy cốc của ta múc nước suối kia và mang lại đây cho

ta, ta khát nước lắm" - "Nếu cô khát, thị nữ trả lời, thì hãy tự nhảy

xuống, rồi vươn người ra trên mặt nước mà uống. Tôi không phải là

đầy tớ của cô".

Công chúa khát lắm, bèn xuống ngựa, cúi xuống dòng nước

suối để uống nước. Nàng không dám uống nước bằng cốc vàng. "Trời

ơi!" nàng kêu to. Ba giọt máu bảo cô: "Nếu mẹ cô biết sự tình thế

này, thì hẳn tim bà sẽ tan nát trong ngực". Nhưng công chúa là

người can đảm. Nàng không nói gì và lại nhảy lên ngựa. Ngựa phi

được vài dặm. Trời thì nóng nực, chẳng mấy chốc nàng lại khát

nước. Tới một con sông, nàng bảo thị nữ: "Em hãy xuống ngựa và

cho ta uống nước bằng cái cốc vàng". Cô đã quên đứt những lời độc

ác của thị nữ. Nhưng thị nữ lại trả lời ngạo mạn hơn: "Nếu cô khát

thì tự đi uống nước một mình, tôi không phải là đầy tớ của cô".

Công chúa khát quá, nhảy xuống ngựa, cúi xuống dòng nước chảy

xiết, khóc và kêu lên: "Trời ơi!" Ba giọt máu liền đáp lại: "Nếu mẹ cô

biết sự tình thế này, thì hẳn tim bà tan nát trong ngực". Trong khi

cô cúi xuống để uống thì cái khăn có thấm ba giọt máu, tuột khỏi

ngực cô và trôi theo dòng nước mà cô không hay biết, vì lúc đó cô rất

sợ hãi. Thị nữ thì lại trông thấy hết và nó rất vui mừng từ giờ trở đi

công chúa sẽ bị nó trả thù. Từ lúc đánh mất ba giọt máu, công chúa

trở nên yếu đuối, không đủ sức tự vệ nữa. Khi nàng định trèo lên

con ngựa Phalađa thì thị nữ bảo: "Tôi sẽ cưỡi con Phalađa, còn cô,

cô hãy cưỡi con ngựa tồi của tôi". Công chúa đành làm như vậy.

Tiếp đó thị nữ ra lệnh, lời lẽ gay gắt, bắt nàng phải cởi quần áo

hoàng cung ra và mặc quần áo của nó vào.

Cô lại phải thề với trời đất là khi đến cung điện sẽ không nói lộ

ra. Nếu cô không chịu thề thì nó sẽ giết cô tại chỗ. Nhưng con

Phalađa đã quan sát tất cả và ghi nhớ tất cả.

Thị nữ cưỡi con Phalađa, còn công chúa thì cưỡi con ngựa tồi.

Nó lại tiếp tục đi, cuối cùng đến lâu đài nhà vua. Ở đấy, mọi người

rất vui mừng khi họ tới, và Hoàng tử vội chạy tới tận nơi đón họ, đỡ

thị nữ xuống ngựa, vì tưởng rằng đó là vợ chưa cưới của mình. Thị

nữ đi lên bậc thềm lâu đài, còn nàng công chúa thì phải đứng lại

ngoài sân. Vua cha nhìn ra, qua cửa sổ thấy nàng duyên dáng và

tuyệt đẹp. Người vào trong cung hỏi cô gái được coi là vợ chưa cưới

của Hoàng tử xem cô gái đứng ngoài sân là ai. "Tâu vua cha, con đã

gặp cô gái đó trên đường đi và con đưa cô ta đi cùng để đỡ lẻ loi một

mình. Xin vua cha cho cô ta làm việc để cô ta khỏi phải vô công rồi

nghề".

Nhưng vua cha không có việc gì giao cho cô làm cả. Người bảo:

"Ở ngoài kia, ta có một anh chàng chăn ngỗng, hãy để cô ta giúp

việc vậy. Chàng trai tên là Cuốc. Vợ chưa cưới của Hoàng tử phải

giúp anh chăn ngỗng.

Ít lâu sau, vợ chưa cưới giả tâu với hoàng tử: "Chàng thân yêu

ơi, em muốn một điều, chàng hãy làm vui lòng em". Hoàng tử nói:

"Được thôi!"

- Chàng hãy cho gọi người thợ lột da đến đập chết con ngựa em

đang cưỡi đến đây, vì trong khi đi đường nó làm em bực tức".

Thật ra thì nó sợ con ngựa kể lại cách nó đã đối xử với công

chúa. Đến lúc con ngựa trung thành Phalađa phải chết thì công

chúa được tin. Nàng hứa với người thợ lột da là sẽ bí mật biếu anh

một đồng tiền bằng bạc nếu anh giúp nàng một việc nhỏ. Trong đô

thị có một cái cổng to rất tối, hàng ngày, sớm tối nàng phải dẫn đàn

ngỗng đi qua. Nàng xin người thợ lột da hãy đóng đanh treo đầu

con Phalađa vào cái cổng ấy để nàng có thể luôn luôn trông thấy nó.

Người thợ lột da hứa sẽ làm và bác đóng chặt đanh treo đầu ngựa

vào dưới cái cổng tối om.

Sáng sớm, khi cùng Cuốc đi qua cổng, cô bảo cái đầu:

"Ôi, Phalađa, mày bị treo ở đây ư!"

Cái đầu trả lời:

"Ôi! Nàng công chúa của tôi, nàng qua đây ư! Nếu mẹ nàng biết

nông nỗi này tim mẹ sẽ vỡ tan tành"

Lặng lẽ, cô đi khỏi đô thị, dẫn đàn ngỗng ra cánh đồng. Đến

đồng cỏ, cô ngồi xuống và rũ tóc ra. Tóc cô óng ánh như vàng

nguyên chất và Cuốc rất thích nhìn mớ tóc ấy lóe sáng. Anh muốn

nhổ vài sợi tóc. Công chúa bèn nói:

"Ta khóc đây, ta khóc đây! Hỡi làn gió nhẹ. Hãy cuốn cái mũ

của Cuốc đi! Anh ta sẽ chạy theo cái mũ cho đến khi nào tóc ta chải

và tết xong".

Tức thì gió thổi mạnh cuốn đi cái mũ của Cuốc. Anh ta chạy

theo ngay. Khi anh trở về thì công chúa đã chải đầu xong và anh

không nhổ được sợi tóc nào. Anh rất bực và không nói năng gì với cô

nữa. Họ lại tiếp tục chăn ngỗng đến chiều, rồi cùng về nhà.

Sáng sớm hôm sau, khi lùa ngỗng qua cổng, cô gái nói:

"Ôi, Phalađa, mày bị treo ở đây ư!"

Cái đầu trả lời:

"Ôi! Nàng công chúa của tôi, nàng qua đây ư! Nếu mẹ nàng biết

nông nỗi này, tim mẹ sẽ vỡ tan tành"

Đi ra khỏi đô thị, cô lại ngồi trên đồng cỏ và lại rũ tóc ra chải.

Cuốc muốn nắm lấy mớ tóc. Cô vội vàng nói:

"Ta khóc đây, ta khóc đây! Hỡi làn gió nhẹ, hãy cuốn cái mũ

của Cuốc đi! Anh ta sẽ chạy theo cái mũ cho đến khi nào tóc ta chải

và tết xong".

Gió nổi lên, cuốn cái mũ đi. Cuốc phải chạy theo. Khi anh trở

về thì công chúa đã chải đầu xong từ lâu và anh không nắm được

mớ tóc ấy. Và rồi hai người lại cùng chăn ngỗng đến chiều.

Nhưng chiều hôm ấy, về tới nhà, Cuốc đến gặp vua cha và tâu:

"Kính thưa hoàng thượng, con không thể chăn ngỗng cùng cô gái

này nữa" - "Tại sao vậy?", vua hỏi. "Suốt ngày, cô ta làm con bực

mình!" - Vua cha bảo anh kể lại sự việc đã xảy ra. Cuốc nói: "Buổi

sáng, chúng con dẫn đàn ngỗng qua cái cổng tối om, ở đấy có một

cái đầu ngựa treo trên tường. Cô ta nói với nó: "Ôi, Phalađa, mày bị

treo ở đây ư!" Cái đầu trả lời: "Ôi! Nàng công chúa của tôi, nàng

qua đây ư! Nếu mẹ nàng biết nông nỗi này tim mẹ sẽ vỡ tan tành"

Và Cuốc kể các sự việc đã xảy ra ở cánh đồng chăn ngỗng và tại

sao anh ta lại phải chạy theo cái mũ.

Vua cha dặn anh ta ngày hôm sau cứ đi chăn ngỗng như

thường lệ. Sáng sớm ngài thân chinh đến dưới cái cổng tối om và

nghe được những câu cô gái nói với cái đầu Phalađa. Ông theo ra

cánh đồng và nấp vào một bụi cây. Chính mắt ngài trông thấy anh

thanh niên và cô gái lùa ngỗng thế nào và sau một lúc, cô gái ngồi

xuống gỡ mớ tóc vàng lóe sáng. Rồi cô lại nói:

"Ta khóc đây, ta khóc đây! Hỡi làn gió nhẹ, hãy cuốn cái mũ

của Cuốc đi! Anh ta sẽ chạy theo cái mũ cho đến khi nào tóc ta chải

và tết xong".

Một cơn gió thổi mạnh, cuốn cái mũ đội đầu của Cuốc đi. Anh

phải chạy theo rất xa. Cô gái chăn ngỗng chải tóc và cuốn thành

từng búp. Vua cha nhìn thấy tất cả. Không ai nhận ra ngài khi ngài

rời khỏi đó. Chiều đến, cô gái về nhà, ngài cho gọi cô đến và hỏi tại

sao cô lại làm như thế. "Tâu bệ hạ, con không thể nói được", - cô trả

lời. - "Con không thể kể nỗi khổ của con với bất cứ ai trên thế gian

này, con đã thề như vậy để khỏi bị người ta giết".

Vua cha cô ép cô nói, nhưng ngài không biết được gì thêm bèn

nói: "Nếu con không muốn nói với ta, thì con hãy kể nỗi khổ của con

với cái bếp lò này". Rồi ông bỏ đi. Cô đến ngồi gần cái bếp lò, than

khóc, thổ lộ tâm can:

"Ta ngồi đây, bị cả thế gian ruồng bỏ, dù ta là con vua. Một tên

thị nữ độc ác đã áp chế ta, bắt ta đổi cho nó quần áo hoàng cung. Nó

thay thế ta để làm vợ chưa cưới của người yêu ta, và ta bắt buộc

phải làm công việc bình thường của người chăn ngỗng. Nếu mẹ ta

biết nông nỗi này, tim bà sẽ tan nát".

Vua cha đứng ở phía tường bên kia gần ống thông hơi, ngài đã

nghe thấy hết. Ngài trở về và gọi cô hãy rời cái lò đến gặp ngài.

Người ta mang đến cho cô quần áo hoàng cung, cô mặc vào đẹp

như là có phép lạ. Vua cha cho gọi con trai đến và bảo cho con biết

về cô vợ chưa cưới giả mạo. Cô người yêu thật đứng trước chàng,

đấy là cô gái chăn ngỗng.

Hoàng tử thấy cô rất đẹp và phúc hậu nên lòng tràn ngập niềm

vui. Một bữa tiệc được sửa soạn để mời tất cả các bạn bè thân

thuộc. Hoàng tử và công chúa ngồi ở đầu bàn, trước mặt họ là con

thị nữ. Nó bị chỗáng ngợp và không nhận ra cô chủ trang sức lộng

lẫy. Khi họ đang ăn uống vui vẻ, vua cha ra một câu đố cho thị nữ.

Nó phải trả lời là một người đàn bà lừa dối chủ thì sẽ bị xử tội như

thế nào. Ngài kể các sự việc đã xảy ra và hỏi nó: "Như thế sẽ xứng

đáng với hình phạt gì". - "Nó xứng đáng phải đuổi đi khỏi đất nước"

- "Kẻ ấy chính là mày, mày sẽ bị xử tội như mày nói".

Sau khi hình phạt được thi hành, Hoàng tử cưới nàng công

chúa làm vợ và họ trị vì đất nước trong hòa bình và hạnh phúc.

Các em được nghe một câu chuyện về cuộc đời. Những người

hiền hậu, tốt bụng sẽ có hạnh phúc, còn những kẻ có tâm địa xấu xa

sẽ bị trừng phạt.

Cây củ cải

Ngày xưa có hai anh em đều đi lính. Anh thì giàu, em thì

nghèo. Người em không muốn sống nghèo khổ mãi, bỏ lính về làm

nông dân. Anh cuốc một vạt đất ở đầu cánh đồng và gieo hạt củ cải.

Mầm mọc, củ lớn dần, lớn dần, lớn không ngừng đến mức có thể coi

là củ cải chúa, chưa bao giờ từng có củ cải nào to như vậy và cũng

sẽ chẳng bao giờ sẽ thấy củ cải to như thế. Cuối cùng, nó thành một

củ cải khổng lồ, một mình nó có thể chiếm hết một xe chở và phải

gióng hai con bò để kéo xe. Bác nông dân không biết dùng củ cải ấy

làm gì và tự hỏi không biết đây là phúc hay là họa. Rút cuộc, bác tự

bảo: "Nếu mang bán thì người ta sẽ trả bao nhiêu? Nếu ăn củ cải

thì ăn những củ nhỏ cũng đến thế thôi. Tốt nhất là ta mang tiến

vua để tỏ lòng thành kính".

Bác khiêng củ cải lên một cái xe, gióng hai con bò, dắt xe đến

cung nhà vua để dâng vua.

- Cái vật kỳ lại này là cái gì vậy?" - Vua phán - Ta đã từng trông thấy

nhiều vật lạ, nhưng chưa thấy một vật khổng lồ như thế này, không biết mọc từ

cái hạt giống gì ra? Hoặc giả ngươi là phù thủy và đã đích thân làm ra củ này?

- Tâu bệ hạ, không phải thế đâu ạ - Bác nông dân trả lời - Thần

là một anh lính nghèo nuôi thân không xong nên phải thôi lính về

làm đất. Thần có một người anh giàu có, bệ hạ biết nhiều về anh ấy.

Nhưng thần thì không có gì, nên bị mọi người ruồng bỏ.

Nhà vua thương hại bác nông dân và phán:

- Nhà ngươi sẽ không nghèo đói nữa, ta sẽ ban cho ngươi của

cải để nhà ngươi cũng giàu như anh nhà ngươi.

Vua ban cho bác nông dân rất nhiều vàng, ruộng nương, đồng

cỏ và gia súc, đến mức bác trở nên rất giàu, của cải người anh

không sánh được.

Khi người anh biết là em trở nên giàu có nhờ có một cây củ cải,

thì anh ta ghen tức và nghĩ nát óc ra tìm một cách để cũng gặp may

như em. Anh láu hơn em, mang biếu nhà vua vàng và ngựa, nghĩ

rằng vua sẽ ban cho anh nhiều của cải hơn em. Nếu em ta chỉ biếu

nhà vua có một củ cải mà được vua ban cho chừng nấy của thì vua

sẽ ban cho ta biết mấy để đáp lại những tặng phẩm quý giá! Vua

nhận đồ dâng của anh và phán là không có gì quí hơn và hiếm hơn

là cây củ cải. Vua bèn cho anh cây củ cải to tướng. Người anh đành

chất cây củ cải của người em lên một cái xe rồi kéo về nhà.

Về đến nhà, người anh không biết trút cơn tức giận lên đầu ai

cho tới khi nẩy ra ý nghĩ độc ác là giết em. Anh thuê những kẻ giết

người và cho chúng nấp ở một nơi. Anh đến gặp em và bảo: "Chú ạ,

tôi biết nơi cất giấu một kho vàng, chúng ta cùng đi lấy rồi chia

nhau". Người em đi với anh, không nghi ngờ gì cả. Khi hai người đi

tới nơi đã định, những kẻ giết người nhảy xổ vào người em, trói em

lại và chuẩn bị treo cổ lên một cái cây. Khi chúng đang làm việc đó

thì ở xa có tiếng hát và tiếng vó ngựa vọng lại. Chúng sợ hãi nhét

người bị bắt - đầu lộn ngược - vào một cái bao, treo lên một cái cây

rồi chạy trốn. Ở trên cây, người em giãy giụa cho tới khi cái bao bị

thủng một lỗ, đầu lọt ra. Người đi tới chẳng qua là một cậu sinh

viên đi lang thang, một thanh niên đang vừa ruổi ngựa trong rừng

và hát vang lên. Người em ở trên cây thấy có người vừa qua bên

dưới bèn kêu to:

- Cậu đến thật đúng lúc!

Cậu sinh viên ngó quanh, không biết tiếng nói từ đâu ra. Cuối

cùng cậu nói:

- Ai gọi tôi thế?

Từ ngọn cây, người em trả lời:

- Hãy ngẩng lên mà nhìn. Tôi ở trên cao, trong một cái túi dạy

khôn. Trong một thời gian ngắn, tôi đã học được không biết bao

nhiêu điều hay; những điều học ở trường chẳng thấm vào đâu. Tôi

học sắp xong rồi, tôi sẽ xuống và tôi sẽ giỏi hơn mọi người trên thế

gian này. Tôi thông thiên văn, biết hướng đi của gió, cát ở ngoài

biển, cách chữa mọi bệnh tật, công dụng của cây cỏ, các loại chim và

các loại đá. Nếu anh chui vào đây, anh sẽ thấy ở trong túi dạy khôn

này hạnh phúc biết chừng nào.

Cậu sinh viên nghe thấy thế ngạc nhiên vô cùng và nói:

- Quả là trời phù hộ cho tôi được gặp bác. Bác làm ơn cho tôi

vào trong túi một lúc có được không?

Người em trả lời như có vẻ chần chừ: "Tôi cũng muốn để anh

chui vào một tí nếu anh đưa tôi một ít tiền và ăn nói tử tế, nhưng

anh hãy đợi một giờ nhé. Còn có điều tôi muốn học thêm đã".

Cậu sinh viên chờ một chốc, sốt ruột năn nỉ xin người em cho

chui vào vì anh nóng lòng muốn học khôn. Người em giả bộ như

cũng chiều ý cậu và nói:

- Muốn để tôi bước ra khỏi cái nhà dạy khôn này, anh hãy hạ

túi dọc theo cái dây thừng. Sau đó sẽ đến lượt anh vào".

Cậu sinh viên hạ người em xuống, mở túi cho anh chui ra. Sau

đó, cậu kêu lên:

- Giờ thì hãy kéo tôi lên cao nhanh lên!"

Rồi anh chui vào trong túi. "Hượm đã!" - người em nói, - "như

thế chưa được". Anh đẩy cậu sinh viên đầu lộn ngược vào túi, buộc

miệng túi lại rồi kéo lên cây. Anh đẩy cho cái túi đu đưa trên không

rồi hỏi:

- Cậu thấy thế nào hở cậu? Cậu thấy đấy, cậu cảm thấy khôn

ngoan đang đến đấy, cậu đã học được nhiều. Hãy cứ nằm im, cho

đến khi nào khôn ngoan hơn."

Sau đó, người em nhảy lên con ngựa của anh sinh viên và đi.

Được một giờ, anh cho người đến tháo cho cậu sinh viên xuống.

“Ở hiền gặp lành" là sợi chỉ đỏ xuyên suốt nội dung của các

truyện cổ tích. Trong câu chuyện trên ca ngợi người em sống thật

thà thì luôn gặp may mắn, hạnh phúc. Người anh tham lam dù có

cố gắng đến đâu cũng không bao giờ đạt được mục đích.

Jôrinđơ và Jôgigơn

Ngày xưa, có một bà già sống một mình trong một tòa lâu đài

cổ giữa một khu rừng bao la, rậm rạp. Đó là một mụ phù thủy cừ

khôi. Ban ngày, mụ hóa thành mèo hoặc cú vọ. Đến chiều tối, mụ

lại hiện nguyên hình người. Mụ có tài dụ dỗ muông thú để giết lấy

thịt nấu nước ăn. Quanh lâu đài một trăm bước, ai đi đến tự dưng

đứng sững tại chỗ, chỉ bước đi được khi mụ phù thủy cho phép. Khi

một cô gái trong sạch lọt vào cái vòng ma quái đó thì mụ sẽ hóa

phép biến thành chim, mụ đem nhốt vào lồng rồi đặt lồng vào một

phòng của lâu đài.

Có một cô gái tên là Jôrinđơ, đẹp hơn tất cả các cô gái khác. Cô

đã hứa hôn với chàng trai tên là Jôringơn. Đôi trai gái sống những

ngày chờ cưới và quấn quít bên nhau.

Để được chuyện trò thoải mái, một hôm họ vào rừng dạo chơi.

- Em cẩn thận chớ đến quá gần lâu đài! - Jôringơn dặn.

Buổi chiều thật là đẹp. Mặt trời còn chiếu nắng qua các thân

cây thành các vệt sáng trên nền trời xanh thẫm của rừng. Chim gáy

gù rầu rĩ trên cây sồi.

Jôrinđơ thỉnh thoảng lại khóc lóc, ngồi dưới ánh nắng mà than

vãn, Jôringơn cũng than vãn. Họ xúc động như chết đến nơi. Họ

nhìn quanh, nhưng lại không tìm ra đường về nhà. Mặt trời đã

khuất một nửa sau rặng núi. Đúng lúc đó Jôringơn nhìn qua bụi

rậm thấy các bức tường cổ của lâu đài hiện ra sát bên mình. Anh sợ

hãi tái nhợt như người chết. Jôrinđơ hát:

- Con chim bé nhỏ của tôi đeo chiếc nhẫn vàng.

Rên rỉ buồn thảm, nó khóc than cái chết của con chim bồ câu

Jôringơn quay lại nhìn Jôrinđơ thì thấy cô đã hóa thành một

con chim họa mi đang hót. Một con cú có đôi mắt như lửa đỏ bay

quanh cô ba lần và kêu ba lần: "Hú! Hú! Hú!" Jôringơn không nhúc

nhích được. Anh đứng nguyên tại chỗ như phỗng đá, không khóc

được. Mặt trời đã lặn. Con cú bay vào bụi rậm và ngay sau đó một

mụ già gù từ trong bụi bước ra. Mụ gày gò, vàng vọt, có đôi mắt đỏ

rực, cái mũi khoằm và nhọn chấm sát cằm. Mụ làu nhàu, bắt chim

họa mi để lên tay mang đi. Jôringơn không nói gì được, không động

đậy được. Chim họa mi không còn ở đấy nữa. Cuối cùng, mụ già trở

lại nói giọng âm u: "Ta chào ngươi, đồ ngu. Khi nào trăng chiếu

sáng cái rổ nhỏ này là lúc xéo đi ngay, đồ ngu ạ". Thế là Jôringơn

thoát. Anh quỳ xuống chân mụ già, van xin mụ hãy tha cho

Jôrinđơ. Mụ trả lời là không bao giờ anh lại nhìn thấy mặt cô nữa,

rồi mụ đi. Anh gào khóc và rên rỉ nhưng vô ích: "Trời ơi! Cái gì sẽ

đến với tôi đây?". Jôringơn rời chỗ đó đến một làng quê xa lạ. Một

thời gian dài, anh chăn cừu. Nhiều lần anh đi quanh lâu đài, nhưng

không lại gần quá.

Một đêm, anh ngủ mê thấy mình được một bông hoa đỏ như

máu, ở giữa có một hạt ngọc to và đẹp vô cùng. Anh hái bông hoa,

tiến đến lâu đài. Hoa đụng vào cái gì thì cái đó liền thoát khỏi phù

phép. Anh cũng mơ thấy nhờ có bông hoa, anh lấy lại được Jôrinđơ.

Sáng sớm ngủ dậy, anh ra đi, trèo đèo, lội suối, đi tìm bông hoa như

đã mơ thấy. Anh đi tám ngày, sáng sớm ngày thứ chín, anh tìm

thấy bông hoa đỏ như máu. Một giọt sương to, đẹp như hạt ngọc đẹp

nhất trần gian, nằm ở giữa nhị hoa. Anh cầm hoa đi suốt ngày đêm

tới lâu đài. Khi còn cách một trăm bước, anh không bị đứng bất

động. Anh tiếp tục đi đến cửa lâu đài. Lòng tràn ngập vui sướng,

anh chạm bông hoa vào cửa. Cửa mở toang ra. Đi qua sân, anh vào

lâu đài. Anh lắng nghe chim hót một lúc. Rồi anh đi về phía có chim

hót. Anh tìm ra căn phòng mà ở đó mụ phù thủy đang cho chim ăn;

chim bị nhốt trong bảy nghìn chiếc lồng nhỏ. Khi mụ nhận ra

Jôringơn, mụ nổi giận, mụ giận dữ kêu thét ầm ĩ, phun thuốc độc

và mật đắng vào anh, nhưng mụ không tiến lại gần anh một

khoảng cách là hai bước. Anh không để ý gì đến mụ, tiếp tục đi

nhìn các lồng có nhốt chim. Anh thấy hàng trăm con chim họa mi.

Làm thế nào tìm được ra Jôrinđơ trong số chim đó? Trong khi chú ý

nhìn chim, anh nhận thấy mụ già rón rén đi lấy một cái lồng nhốt

một con chim rồi bước về phía cửa.

Anh nhẩy bổ lại gần mụ, chạm bông hoa vào cái lồng và mụ ta.

Thế là phép phù thủy mụ hết thiêng! Jôrinđơ hiện ra đứng đó, ôm

cổ anh, vẫn đẹp như xưa. Rồi anh giúp cho tất cả mọi con chim hoàn

nguyên hình thành thiếu nữ. Anh cùng Jôrinđơ về nhà và sống

hạnh phúc cho đến khi đầu bạc răng long.

Câu chuyện ca ngợi tình yêu bất diệt: tình yêu sẽ chiến thắng

tất cả những thế lực xấu xa nhất. Đồng thời kẻ gây tội ác bao giờ

cũng bị trừng trị thích đáng.

Ngày xưa, một bác bần nông có tuổi và ngoan đạo chết. Bác đến

trước cổng Trời. Một lãnh chúa rất giàu, chết cùng một lúc với bác,

cùng đến cổng Trời lúc bác đến. Thánh Pêtrux mang chìa khóa đến

mở cửa đón ông ta vào. Hình như thánh không thấy bác bần nông

nên đóng sập cửa lại. Đứng bên ngoài, bác bần nông nghe rất rõ

tiếng đàn hát đón chào lãnh chúa lên trời. Cuối cùng yên tĩnh trở

lại.

Thánh Pêtrux đến, mở cửa Trời cho bác nông dân vào. Bác

tưởng là cũng sẽ có đàn hát đón chào. Nhưng bốn bề lặng ngắt. Dĩ

nhiên cuộc tiếp đón thân mật; các thiên thần ra đón bác. Nhưng

không có ca hát. Bác bần nông hỏi Thánh Pêtrux tại sao người ta

không ca hát đón bác như đón vị lãnh chúa. Bác thấy hình như ở

trên trời cũng bất công như ở trần gian.

Thánh Pêtrux bèn trả lời:

- Không phải đâu, chúng tôi quý bác như bất cứ một người nào

khác. Bác sẽ được hưởng thú vui trên trời này như vị lãnh chúa

giàu có kia. Nhưng bác phải hiểu là những người bần nông như bác

thì ngày nào cũng có người lên trời. Nhưng lãnh chúa giàu có thì

hàng trăm năm họa có một người.

Câu chuyện muốn nói lên rằng: ở bất cứ đâu cũng có người tốt

kẻ xấu cho dù đó là thiên đàng, nơi mà mọi người quan niệm ở đó có

nhiều hạnh phúc, công bằng nhất.

Hênxen và Grêten

Ngày xưa có hai vợ chồng một bác tiều phu nghèo khó, sống ở

ven một khu rừng lớn. Gia đình có hai con. Con trai tên là Hênxen,

con gái tên là Grêten. Nhà không đủ ăn. Một năm, trời làm đói

kém, miếng bánh hàng ngày cũng chẳng có. Tối hôm ấy, chồng nằm

trằn trọc mãi, thở dài bảo vợ:

- Chả biết rồi sao đây? Lương thực cạn rồi, lấy gì nuôi con?

Đói khổ khiến người mẹ đâm ra nhẫn tâm. Hết đường xoay xở,

vợ bảo chồng:

- Thầy nó ạ, biết sao đây! Ngày mai, sớm tinh mơ, tôi với nhà

đưa chúng vào rừng rậm, đốt lửa lên, cho mỗi đứa một mẩu bánh

rồi bỏ chúng đấy mà đi làm. Chúng không biết đường mà về, thế là

rảnh.

Chồng đáp:

- Nhà nó ạ, tôi chịu không làm thế được đâu. Nỡ nào đem bỏ

con vào rừng cho thú đói ăn thịt!

- Thầy nó thật là điên. Không làm thế thì chết đói cả bốn mạng,

chỉ còn việc bào gỗ đóng săng mà thôi.

Người vợ lèo nhèo mãi, kỳ đến lúc chồng phải làm theo ý mình.

Chồng nói:

- Nhưng tôi vẫn thương xót chúng nó lắm!

Hai đứa trẻ đói quá không ngủ được, nghe được hết. Grêten

khóc sướt mướt, bảo Hênxen:

- Anh em mình chết đến nơi rồi.

Hênxen đáp:

- Em đừng lo buồn, anh sẽ có cách thoát chết.

Chờ lúc bố mẹ ngủ rồi, nó dậy mặc áo, mở cửa, lén ra ngoài.

Trăng sáng. Sỏi trắng ở trước nhà lóng lánh như bạc. Hênxen nhặt

sỏi bỏ đầy túi áo, rồi về nhà bảo Grêten:

- Em ơi, cứ yên trí mà ngủ đi.

Rồi nó lại đi ngủ.

Tang tảng sáng, mặt trời chưa mọc thì mẹ đã đến đánh thức

hai con:

- Đồ lười! Dậy đi, còn phải vào rừng lấy củi chứ!

Rồi mẹ đưa cho mỗi con một mẩu bánh dặn:

- Chúng mày cầm lấy mà ăn trưa. Chớ có ăn nghiến ngấu

trước, không còn nữa mà cho đâu.

Grêten bỏ bánh vào túi áo và Hênxen đã bỏ đá đầy túi rồi. Cả

nhà cùng nhau đi vào rừng.

Đi được một lát, Hênxen chốc chốc lại dừng lại ngoảnh về mé

nhà. Bố thấy vậy bảo:

- Hênxen, sao mày cứ lùi lại nhìn gì mãi thế? Liệu đấy, đừng có

dềnh dàng.

Hênxen đáp:

- Con nhìn con mèo trắng của nhà ngồi trên mái từ biệt con

đấy.

Mẹ nói:

- Đồ ngốc! Không phải con mèo đâu, đấy là ống khói phản chiếu

ánh mặt trời đấy.

Hênxen lùi lại không phải để nhìn mèo, mà cốt để rắc sỏi trắng

ra đường.

Khi đến giữa rừng, bố nói:

- Chúng mày hãy đi nhặt củi, còn bố đốt lửa để chúng mày khỏi

rét.

Hênxen và Grêten đi nhặt củi khô xếp thành đống. Khi ngọn

lửa đã cao, củi cháy nỏ, mẹ nói:

- Thôi bây giờ chúng mày nằm gần lửa mà nghỉ. Tao và bố đi

đẵn củi, xong sẽ quay về đón.

Hai đứa trẻ ngồi bên lửa. Đến trưa, chúng lấy bánh ra ăn.

Nghe thấy tiếng bổ vào cây, chúng tưởng bố chúng ở gần đấy.

Nhưng không phải tiếng rìu của bố, mà đó chỉ là tiếng cành cây bị

gió đập vào cây khô.

Chúng ăn xong, mắt díp lại vì mệt, liền ngủ một giấc say. Khi

chúng thức dậy thì trời đã tối như mực. Grêten khóc nói:

- Bây giờ làm thế nào mà ra khỏi rừng được?

Hênxen dỗ em:

- Em cứ đợi một lát, chờ trăng lên, chúng mình sẽ tìm được lối

về nhà.

Khi trăng mọc, Hênxen cầm tay em theo vết sỏi lóng lánh như

tiền mới mà lần về nhà. Chúng gõ cửa. Mẹ mở, thấy Hênxen và

Grêten liền nói:

- Đồ khốn kiếp, sao chúng mày ngủ kỹ ở trong rừng thế? Tao cứ

tưởng chúng mày không muốn về nữa.

Bố thấy con về thì mừng lắm vì trong thâm tâm bố không

muốn bỏ con.

Sau đó ít lâu, trời lại làm đói kém khắp nơi.

Một đêm hai anh em nghe thấy mẹ nằm trên giường nói với bố:

- Mọi thứ lại hết sạch rồi. Chỉ còn có nửa cái bánh ăn nốt là hết

nhẵn. Phải tống chúng nó đi. Lần này ta đem bỏ chúng vào rừng

sâu hơn trước để chúng không tìm được lối về. Bằng không thì

không còn cách nào thoát.

Người chồng không đành lòng nghĩ bụng:

- Thà chia nhau với con ăn miếng bánh cuối cùng còn hơn.

Vợ không nghe, chửi chồng thậm tệ, cho là đã chót thì phải

trét, lần trước đã theo ý mụ thì lần này cũng phải theo.

Hai đứa trẻ chưa ngủ, nghe hết những chuyện bố mẹ bàn nhau.

Khi thấy bố mẹ đã ngủ rồi, Hênxen dậy định ra ngoài nhặt sỏi như

lần trước. Nhưng mẹ nó đã khóa cửa mất rồi, nó không ra được. Nó

dỗ em gái:

- Em ạ, đừng khóc nữa, em cứ ngủ yên đi, anh sẽ có cách.

Sáng sớm tinh mơ, mẹ kéo cổ chúng dậy, cho mỗi đứa một mẩu

bánh bé hơn lần trước.

Dọc đường đi đến rừng, Hênxen cho tay vào túi bẻ vụn bánh mì

ra và chốc chốc lại dừng lại rắc bánh xuống đất.

Bố hỏi Hênxen:

- Sao mày cứ hay dừng chân ngoảnh lại thế? Đi đi.

Hênxen đáp:

- Con nhìn con chim bồ câu của con nó đậu trên mái nhà để

chào con kia kìa.

Mụ đàn bà nói:

- Đồ ngốc, không phải là chim bồ câu đâu mà là cái ống khói có

mặt trời chiếu vào đấy.

Dù sao, dọc đường, Hênxen cũng rắc được hết bánh.

Mụ đàn bà dẫn hai con vào tít chỗ rừng sâu mà từ thủa cha

sinh mẹ đẻ mụ chưa tới bao giờ. Sau khi đốt lửa cháy to lên, mụ nói:

- Chúng mày ngồi đó. Lúc nào mệt thì ngủ đi một tí. Tao với bố

mày đi đẵn gỗ, chiều tối xong sẽ quay lại đón chúng mày.

Đến trưa Grêten chia bánh cho anh vì bánh của anh đã rắc ở

dọc đường rồi. Ăn xong, chúng ngủ. Tối đến, chẳng ai đến đón hai

đứa bé đáng thương cả.

Đêm tối như mực, hai đứa thức giấc, Hênxen dỗ em gái:

- Em ạ, chờ cho trăng lên, trông rõ bánh anh đã rắc, thì ta lại

tìm thấy đường về.

Trăng vừa mọc lên thì hai đứa đứng dậy đi, nhưng chẳng thấy

tí bánh nào vì hàng ngàn con chim trong rừng đã ăn mất cả rồi.

Hênxen bảo em:

- Thế nào rồi chúng ta cũng sẽ tìm được đường.

Nhưng chúng không tìm ra đường. Chúng đi suốt cả đêm, suốt

cả ngày hôm sau, mà không ra được khỏi rừng. Hai anh em bụng

đói như cào mà chỉ nhặt được ít quả dại ở dưới đất.

Chúng mệt quá, bước không nổi, nằm lăn ra ngủ dưới gốc cây.

Chúng xa nhà đã ba ngày rồi.

Chúng lại đi, đâm sâu mãi vào rừng, và nếu không gặp ai cứu

giúp thì đến chết đói, chết mệt thôi.

Giữa trưa, chúng thấy một con chim đẹp, trắng như tuyết đậu

trên cành hót hay lắm. Chúng liền dừng lại để nghe. Chim hót xong

xòe cánh bay trước mặt chúng. Chúng theo chim đến tận một túp

nhà con; chim đến đậu trên mái nhà ấy. Chúng lại gần thấy nhà xây

bằng bánh mì, lợp bằng bánh ngọt, cửa sổ bằng đường trắng tinh.

Hênxen nói:

- Thôi ổn rồi. Chúng ta được bữa ăn ngon đấy. Anh ăn một góc

mái nhà, còn em ăn một mảnh cửa sổ, ngọt đấy.

Hênxen giơ tay bẻ một mảnh mái nhà để nếm thử và Grêten

đứng bên cửa kính nhấm nháp một mảnh. Bỗng trong nhà có tiếng

người nhẹ nhàng vọng ra:

- Ai gặm nhà ta đấy?

Hai đứa trẻ đáp:

- Gió đấy! Gió đấy! Con trời đấy!

Rồi hai đứa cứ việc ăn, không e ngại gì cả.

Hênxen thích ăn mái nhà, bẻ một miếng tướng, và Grêten cũng

gỡ lấy cả một khung kính tròn xuống.

Bỗng cửa mở, một bà lão bé nhỏ chống nạng rón rén bước ra.

Hai anh em sợ rụng rời, đánh rời hết cả các thứ cầm trong tay. Bà

lão lắc lư đầu, nói:

- Các cháu yêu dấu, ai đưa các cháu đến đây? Các cháu đừng

sợ, cứ vào. Ở đây với bà, bà không làm gì đâu.

Bà lão dắt hai đứa vào, cho ăn ngon: sữa, bánh tráng đường,

táo và hạnh đào. Rồi bà sửa soạn hai cái giường nhỏ xinh đẹp trắng

tinh cho hai đứa trẻ ngủ. Hai đứa bé ngỡ là ở trên thiên đàng.

Nhưng mụ già chỉ giả bộ tử tế ngoài mặt đó thôi. Đó là một mụ

phù thủy gian ác rình bắt trẻ con nên làm nhà bằng bánh kẹo để

nhử chúng. Khi thấy hai đứa bé vừa tới, mụ đã cười nham hiểm mà

nói đùa:

- Chúng mày vào tay bà rồi, có bay lên trời cũng chẳng thoát

được tay bà.

Sáng sớm, mụ dậy trước hai đứa, thấy chúng ngủ thật đáng

yêu, má hồng phinh phính, mụ lẩm bẩm:

- Thật là món ngon.

Mụ đưa đôi tay khô héo ra nắm lấy Hênxen đem nhốt vào một

cái cũi nhỏ, đóng cửa chấn song lại. Thằng bé kêu gào mãi mụ cũng

mặc kệ.

Rồi mụ đánh thức Grêten dậy bảo:

- Đồ con gái lười chảy thây, đi dậy lấy nước làm một bữa ngon

cho anh mày. Nó ở trong cũi kia, tao muốn nó chóng béo. Khi nào

nó thực béo, tao sẽ ăn thịt.

Grêten khóc thảm thiết, nhưng nào có ích gì, vì con mụ phù

thủy sai gì phải làm nấy.

Hênxen được ăn thức ăn nấu nướng ngon lành còn Grêten phải

ăn thừa.

Sáng nào mụ già cũng lê đến bên cũi bảo Hênxen:

- Giơ ngón tay tao xem đã béo chưa.

Hênxen chỉ đưa cho mụ xem một cái xương nhỏ. Mắt kém, mụ

tưởng đó là ngón tay thật, lấy làm lạ sao không thấy béo.

Được một tháng vẫn không thấy Hênxen béo lên chút nào mụ

đâm ra sốt ruột, không muốn chờ nữa. Mụ gọi Grêten:

- Con Grêtên đâu? Nhanh lên, đem nước lại đây, thằng Hênxen

dù béo hay gầy, ngày mai tao cũng cứ làm thịt đem nấu.

Khốn nạn con bé vừa xách nước vừa khóc, nước mắt dòng dòng

hai má. Nó kêu la:

- Lạy trời phù hộ cho chúng con. Thà để thú dữ ăn thịt trong

rừng thì hai anh em cũng được cùng nhau chết.

Mụ già bảo:

- Thôi đừng kêu khóc nữa mà vô ích.

Mới bảnh mắt, Grêten đã phải đặt nồi, lấy nước và dóm bếp.

Mụ già bảo:

- Hãy nướng bánh trước đã. Tao đã dóm lò và nhào bột rồi.

Mụ đẩy Grêten đáng thương tới bên lò.

Ngọn lửa trong lò đã bắt đầu bốc lên. Mụ già bảo:

- Mày bò vào lò xem đủ nóng chưa, để cho bánh vào nướng.

Mụ định khi Grêten vào lò rồi thì đóng nắp lại, quay ăn một

thể. Nhưng Grêten biết ý nói:

- Cháu không biết làm thế nào mà vào được.

Mụ già nói:

- Đồ ngu như bò, lò có cửa khá rộng cơ mà. Trông đây này, tao

vào cũng còn lọt nữa là mày.

Mụ lại gần lò và thò đầu vào. Grêten liền đẩy mạnh mụ vào,

đóng cửa sắt lại, rồi cài then ở ngoài.

Mụ già rú lên khủng khiếp nhưng Grêten đã bỏ chạy để mặc

mụ chết thiêu. Em chạy thẳng đến cũi vừa mở cửa cho anh vừa reo:

- Anh ơi, anh em ta thoát rồi, con mụ phù thủy đã chết rồi.

Cửa vừa mở thì Hênxen nhảy ra như con chim trong lồng được

thả. Hai anh em vui mừng, ôm nhau hôn. Bây giờ chúng không còn

sợ gì nữa, chúng đi xem nhà mụ già thì thấy ở xó nào cũng có

những hòm đầy ngọc.

Hênxen vừa ních đầy túi vừa nói:

- Của này quí hơn sỏi.

Còn Grêten nói:

- Em cũng phải lấy về nhà mới được.

Lấy đầy túi rồi, em nói:

- Bây giờ hai anh em ta đi ra khỏi khu rừng của mụ phù thủy

đi.

Đi được vài giờ, chúng đến bên một cái đầm lớn. Hênxen nói:

- Anh không thấy có cầu, qua sao được?

Grêten bảo:

- Một chiếc thuyền nhỏ cũng chẳng có. Nhưng kia có vịt trắng

đang bơi, để em nhờ nó giúp.

Rồi em bảo vịt rằng:

- Vịt ơi vịt, Grêten và Hênxen đây. Kè chẳng có, cầu cũng

không, Hãy cõng anh em tôi qua với.

Vịt đến. Hênxen cưỡi lên lưng vịt và bảo em lên ngồi cạnh

mình.

Em đáp:

- Thôi anh ạ, ngồi thế nặng quá. Để vịt cõng từng người một.

Vịt tốt bụng cõng làm hai chuyến.

Đến bờ bên kia, hai anh em nhận dần ra đường lối trong rừng

quen thuộc, và nhìn thấy nhà ở đằng xa. Chúng liền chạy ba chân

bốn cẳng, nhảy bổ vào nhà, ôm ghì lấy cổ bố mẹ.

Từ ngày bỏ con trong rừng, bố mẹ không lúc nào vui.

Grêten dốc túi ngọc xuống đất và Hênxen thò tay vào túi lấy ra

từng nắm ngọc.

Từ đó, cả nhà hết lo và cùng nhau sống một cuộc đời hạnh

phúc.

Chú Hanh lười biếng

Hanh tính lười biếng. Chú chẳng phải làm gì khác ngoài việc

hàng ngày chăn một con dê ở ngoài cánh đồng. Ấy vậy mà chiều tối,

hết ngày, về nhà, chú còn thở ngắn than dài: "Chăn dê ngoài đồng

cả năm, cho đến tận cuối thu quả là một gánh nặng, một việc vất

vả". Giá mà có thể nằm ngủ lại đi một nhẽ! Nhưng không! Luôn

luôn phải mở mắt ra để canh, sợ dê nó phá hoại cây non, nhảy qua

rào vào vườn, hoặc từ đó chạy trốn. Thế thì còn làm thế nào được

nghỉ ngơi một chút cho thoải mái!" Chú ngồi suy nghĩ tìm cách trút

được cái gánh nặng. Một thời gian dài, chú không tìm ra được cách

gì. Nhưng rồi một hôm, bất chợt, trong đầu lóe ra một ý nghĩ như là

cái màng che mắt rơi xuống: "Mình biết là phải làm gì rồi!" Chú kêu

lên. "Mình chỉ cần lấy cô Tơrinô đẫy đà thôi. Cô ta cũng có một con

dê. Cô ta sẽ chăn con dê của mình cùng với con dê của cô ả. Như

vậy, mình sẽ không còn tự mình phải làm khổ mình mãi nữa".

Hanh bèn đứng dậy và cử động đôi chân, đôi tay mệt mỏi. Chú

tạt ngang đường (đường cũng không còn xa) mà đến nhà bố mẹ cô

Tơrinô đẫy đà xin cưới cô gái chăm chỉ và đức hạnh. Bố mẹ cô

không loại trừ: "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã", hai cụ nghĩ bụng và

nhận lời ngay lập tức. Thế là cô Tơrinô đẫy đà làm vợ chú Hanh và

chăn cả hai con dê. Chú Hanh sống thoải mái, không còn phải nghĩ

ngợi đến công ăn việc làm nữa mà chỉ còn nghỉ ngơi do cái mệt của

lười biếng gây ra, thỉnh thoảng chú đi chăn cừu cùng cô và bảo cô:

"Tôi chỉ làm để hưởng được cái thú nghỉ ngơi thôi. Nếu không sẽ

không tận hưởng được cái thú đó!"

Cô Tơrinô đẫy đà cũng lười biếng không kém gì chồng. "Anh

Hanh yêu quý của em ơi, - một hôm cô bảo anh, - tại sao chúng ta

phải sống cơ cực khi không cần thiết, để phí hoài ngày xanh? Hai

con dê của chúng mình sáng nào cũng kêu be be đánh thức chúng

mình dậy giữa lúc đang ngủ ngon. Tại sao chúng mình không đổi

cho bác hàng xóm lấy một đõ ong? Chúng mình sẽ chỉ việc đặt đõ

ong ở đằng sau nhà, ở một góc có nắng và không còn mất công chăm

sóc gì nữa. Không cần phải canh ong, hoặc dẫn chúng ra đồng. Ong

tự bay đi, tự tìm đường về nhà và tự làm ra mật mà ta không cần

phải bận tâm đến".

"Em đúng là một người đàn bà thông minh, - Hanh nói - Chúng

ta sẽ thực hiện ý đó tức thì. Cũng phải nói thêm là mật ong ngon

hơn và bổ hơn sữa dê, lại để được lâu hơn".

Bác hàng xóm bằng lòng đổi đõ ong lấy hai con dê. Không mệt

mỏi, ong bay đi bay lại, từ sáng đến tối làm đầy đõ mật ngon. Khi

mùa thu hái đến, Hanh thu hoạch được một vò mật đầy. Hai vợ

chồng đặt vò mật lên cái giá ở đầu giường. Như vậy, là có thể với

được gậy để đuổi những khách không mời mà đến, mà không phải

nhổm dậy. Chú Hanh lười biếng không ra khỏi giường trước lúc

giữa trưa. "Kẻ nào dậy sớm, - chú tự nhủ, - là phung phí của cải".

Một buổi sáng, mà chú Hanh vẫn còn nằm ườn trong chăn để

cho đỡ mệt và ngủ. Chú bảo vợ: "Trước khi em ăn hết mật, tốt nhất

là ta đem mật đổi lấy một con ngỗng mẹ với một con ngỗng con".

Tơrinô cãi ngay lại: "Nhưng phải đợi đến lúc nào ta có đứa con để

nó chăn ngỗng rồi hãy đổi. Tôi là tôi không chịu chăn ngỗng cho

mệt và mất sức, khi không cần thiết".

"Em tưởng là con nó sẽ chăn ngỗng à? - Hanh nói - Thời buổi

này, trẻ con không vâng lời nữa đâu. Chúng chỉ làm theo ý chúng vì

chúng cho là chúng khôn hơn bố mẹ. Ấy cứ y như là cái thằng đầy

tớ nọ phải tìm bò mà lại chạy theo ba con sáo".

"Ồ! Nó cứ liệu hồn nếu nó không làm theo lời em! Em sẽ lấy

gậy nện cho nó túi bụi. Rồi anh sẽ thấy, anh Hanh ạ, - cô hăng lên

hét và vơ lấy cái gậy dùng để đuổi chuột, - em sẽ đánh nó thế này

này, cô khua cái gậy và chẳng may va phải cái vò mật ong đặt ở đầu

giường. Vò va vào tường vỡ thành nghìn mảnh. Mật ong ngon lành

chảy khắp mặt đất.

"Đấy là ngỗng mẹ và ngỗng con, - Hanh nói - Không cần phải

chăn ngỗng nữa. Cũng còn may là vò mật không rơi xuống đầu.

Chúng ta thật quả là còn mừng vì số hãy còn may". Nhìn thấy một

ít mật còn dính ở mảnh vò vỡ, chú nói thêm một cách vui vẻ: "Nhà

nó ạ, giờ chúng ta nhấm nháp chút mật còn sót lại này, rồi nghỉ

ngơi cho quên nỗi khủng khiếp vừa rồi. Chúng ta có dậy muộn hơn

thường ngày một chút cũng không hề gì. Ngày cũng đủ dài cơ mà!".

- Đúng rôi, - Tơrinô trả lời, - làm tốt thì lúc nào chả được. Anh

biết chuyện con ốc sên đi dự đám cưới rồi chứ. Nó lên đường, và khi

đến nơi là lúc đứa con chịu lễ rửa tội. Đến trước nhà, nó va vào

tường, bèn nói: "Vội vàng là không hay!".

Các em được đọc một truyện rất bổ ích. Truyện đã nêu lên một

bài học: kẻ lười biếng thì không thể làm được việc gì mà còn bị mọi

người chê cười.

Con quỷ và bà nó

Ngày xưa xảy một cuộc chiến tranh lớn. Nhà vua có rất nhiều

lính, trả lương cho họ quá ít, không đủ để sống. Có ba người lính

bèn rủ nhau đào ngũ.

"Nếu họ bắt được chúng ta, họ sẽ treo cổ chúng ta. Vậy thì làm

thế nào bây giờ?", người thứ nhất nói.

Người thứ hai nói:

- Cách anh hãy trông cánh đồng lúa bát ngát kia. Nếu chúng ta

trốn trong đó thì không ai có thể tìm thấy được chúng ta. Quân đội

không được phép sục vào ruộng lúa. Ngày mai thì đơn vị mình đã

chuyển quân đi nơi khác.

Thế là họ chui vào ruộng lúa, nhưng quân đội không di chuyển

đi đâu mà ở nguyên vị trí chung quanh đó. Ba người lính trốn trong

ruộng lúa hai ngày, hai đêm. Họ đói lả như sắp chết đến nơi. Họ

không dám ló ra vì sợ chết. Họ bảo nhau: "Trốn trong ruộng lúa này

không được tích sự gì cả. Chúng ta sẽ chết và thối rữa ra ở đây mất

thôi".

Đúng lúc đó, có một con rồng lửa bay trên trời qua đó. Nó xà

xuống gần họ và hỏi tại sao lại trốn ở đấy. Họ trả lời: "Chúng tôi là

ba người lính, chúng tôi đào ngũ vì lương ít quá. Giờ thì chúng tôi

sẽ chết đói ở đây hoặc người ta sẽ treo cổ chúng tôi nếu chúng tôi ra

khỏi đây"

- Nếu các anh đồng ý phục vụ ta bảy năm, Rồng nói, - ta sẽ đưa

các anh lên cao, bay qua cả cánh quân lớn mà không ai chạm được

vào các anh.

- Chúng tôi làm gì có quyền lựa chọn, đành bằng lòng thôi. Họ

trả lời.

Rồng quắp họ vào móng, đưa họ khỏi cánh quân khá xa, rồi lại

để họ xuống đất. Rồng đâu phải ai khác, chính nó là con quỷ. Nó

đưa cho họ một cái roi nhỏ và bảo: "Các anh hãy tự đánh vào người

bằng cái roi này, ở trong người các anh sẽ tuôn ra số tiền mà các

anh cần có; các anh sẽ sống sung sướng như ông hoàng, tha hồ lên

xe xuống ngựa. Nhưng sau bảy năm, các anh sẽ thuộc về ta". Nó

đưa cho ba người lính một quyển sách và bảo ký tên vào đó. Nó lại

nói thêm:

- Lúc đó sẽ ra cho các anh một câu đố, nếu giải được thì các anh

sẽ được tự do và thoát khỏi quyền lực của ta". Nói xong, con rồng

bay đi.

Ba người lính bắt đầu sử dụng cái roi. Họ có nhiều tiền, họ đi

may quần áo sang trọng và đi chu du thiên hạ. Ở đâu họ cũng sống

vui và xa hoa, lên xe xuống ngựa, ăn uống thỏa thích nhưng họ

không làm điều gì xấu. Thời gian trôi đi rất nhanh, và bảy năm sắp

qua. Hai người lính cảm thấy tim thắt lại vì sợ hãi. Trong khi đó,

người thứ ba vẫn còn nhìn mọi việc với khía cạnh tốt. Anh nói: "Các

cậu ạ, đừng sợ! Tớ có phải là đồ ngu đâu! Tớ sẽ giải được câu đố!"

Họ cùng đi ra cánh đồng, ngồi xuống. Hai người đầu mặt mày rầu

rĩ.

Lúc đó, có một bà già đi tới. Bà hỏi tại sao họ buồn thế? - "Dào

ôi! Cụ biết thì có ích gì cho cụ đâu? Dù sao, cụ cũng không giúp gì

được chúng tôi!"

- Biết đâu đấy! Cụ trả lời, - các anh hãy tin ta, hãy kể ta nghe

nỗi lo lắng của các anh.

Họ kể với bà cụ là đã thành người hầu của con quỷ trong bảy

năm. Nó đã cung cấp cho họ tiền tiêu tha hồ, và họ sẽ thuộc hẳn về

nó nếu sau bảy năm, họ không giải được một câu đố. Bà già nói:

"Nếu các anh muốn ta giúp đỡ, thì một người trong các anh phải

vào rừng. Anh ta sẽ đến một tảng núi bị sập, nom như một cái nhà.

Anh ta phải vào trong nhà ấy và sẽ được giúp đỡ".

Hai người lính đầu buồn rầu nói: "Có làm việc đó cũng không đi

đến đâu cả", rồi ngồi ỳ ra. Người thứ ba luôn luôn vui vẻ, đứng dậy

đi vào rừng; anh đi mãi cho tới khi tới cái nhà ở tảng núi sập. Trong

nhà có một cụ già ngồi như phỗng đá. Đó là người đàn bà của quỉ.

Cụ hỏi anh, ở đâu đến và muốn gì. Anh kể cụ nghe những việc đã

qua. Vì anh được lòng bà cụ nên cụ thương hại anh và hứa sẽ giúp

anh. Cụ nhấc hòn đá to che lối vào một cái hầm và bảo: "Anh hãy

trốn vào đấy. Anh sẽ nghe thấy mọi lời nói. Hãy bình tĩnh và đừng

có bị kích thích, khi rồng về, ta sẽ hỏi nó về câu đố. Nó sẽ nói hết

với ta. Còn anh, anh hãy lắng nghe các câu nó trả lời".

Đến nửa đêm, rồng về và đòi ăn. Bà nó dọn ra bàn ăn rượu và

đồ nhắm để nó vui lòng. Họ cùng nhau ăn uống. Trong khi nói

chuyện, bà nó hỏi nó về các chuyện xảy ra trong ngày, và nó đã

chiếm được bao nhiêu linh hồn. "Hôm nay, cháu không gặp may -

nó trả lời. Nhưng cháu đã bắt được ba thằng lính, chắc chắn cháu

sẽ chiếm được linh hồn những thằng này" - "Ba người lính à! Bà cụ

hỏi, đó là những trai tráng, có thể chúng nó sẽ thoát tay mày".

Con quỉ nói với giọng khinh miệt: "Chúng thuộc về cháu mà.

Cháu sẽ ra cho chúng một câu đố mà chúng không giải được" - "Câu

đố thế nào?" bà hỏi,

- Để cháu nói và nghe: ở biển Bắc bao la có một con mèo biển

chết, nó sẽ được mang rán và cháu sẽ cho chúng ăn. Một cái xương

sườn cá voi sẽ dùng làm thìa và một cái móng ngựa cũ dùng làm cốc

cho chúng uống rượu vang.

Khi con quỉ đi ngủ, người bà nhấc hòn đá lên, cho người lính ra.

- Anh đã nghe thấy hết chưa?

- Thưa cụ rồi ạ, cháu đã biết kha khá và cái đó sẽ giúp cháu.

Anh lính trèo qua cửa sổ không một tiếng động, và vội vào đi

tìm các bạn. Anh kể cho họ nghe là người bà sẽ giương bẫy lừa con

quỷ thế nào và anh đã học được cách giải câu đố. Cả bọn đều vui vẻ,

mặt mày hớn hở, cầm roi đánh vào người và tiền vung ra khắp bốn

phía.

Bảy năm đã trôi qua. Con quỉ mang quyển sách đến, chỉ cho họ

những chữ ký và bảo:

- Ta sẽ dẫn các anh xuống địa ngục, ở đấy các anh sẽ được ăn

một bữa. Nếu các anh đỗán sẽ được ăn thịt gì rán, thì các anh sẽ

được tự do và được giữ lại cả cái roi nữa.

Lúc đó người lính thứ nhất bắt đầu nói:

- Ở biển Bắc bao la, có một con mèo biển chết. Chắc chắn nó sẽ

được rán cho bọn tôi ăn.

- Con quỷ nổi giận, nói "Hừ! Hừ! Hừ!" và hỏi người lính thứ hai:

"Nhưng các anh lấy gì làm thìa?" - "Một cái sườn con cá voi sẽ dùng

làm thìa". Con quỉ tái mặt đi, lại làu nhàu ba lần: "Hừ! Hừ! Hừ!" và

bảo người lính thứ ba: "Anh có biết là cái gì sẽ dùng làm cốc uống

rượu vang không?" - "Một cái móng ngựa cũ sẽ dùng làm cốc uống

rượu vang cho chúng tôi".

Quỷ liền bay đi và thét to lên. Nó không còn quyền lực gì đối

với ba người lính. Còn ba người lính thì giữ lại được cái roi, họ làm

ra rất nhiều tiền tùy theo ý muốn và sống sung sướng đến hết đời.

Các em vừa đọc được câu chuyện nói về sự thông minh của con

người. Không có thế lực nào có thể thắng được con người cho dù đó

là quỷ, một nhân vật huyền thoại có sức mạnh siêu nhiên.

Ả Grêten thông minh

Ngày xưa có một cô ả nấu bếp tên là Grêten. Ả thường đi giày

gót đỏ khi dạo chơi. Ả ngó đông ngó tây, thích chí nghĩ bụng mình

cũng vào loại xinh đấy chứ . Về đến nhà, ả cao hứng uống ngụm

rượu vang; Ả nếm tất cả những món ăn ngon nhất ả đã nấu, nếm

đến no nê. Ả nói: "Người nấu bếp là phải biết món ăn mình nấu vị

ra sao chứ!".

Một hôm ông chủ bảo ả:

- Grêten này, tối nay nhà có khách mày hãy thịt hai con gà

mái, mà nấu cho ngon nhé!

- Thưa ông, xin ông hãy để cháu lo - Grêten trả lời.

Ả giết hại con gà mái, nhúng nước sôi, làm lông, xiên vào xiên,

đến chiều thì mang quay trên lửa. Gà vàng dần và đã vàng rộm đều

mà khách vẫn chưa đến, Grêten thưa với chủ:

- Thưa ông, nếu khách chưa đến thì cháu phải nhấc con gà ra

khỏi lửa. Thật là đáng tiếc. Gà vừa chín tới, tí nữa ăn ngay thì ngọt

thật.

Chủ nói:

- Thôi để tao chạy đi gọi khách ngay!

Chủ vừa quay lưng đi thì Grêten nhấc gà ra khỏi lửa và nghĩ:

"Đứng gần lửa mãi vừa nóng vừa khát. Biết bao giờ khách mới đến?

Trong khi chờ, mình phải xuống hầm uống ngụm rượu vang đã". Ả

chạy xuống hầm, lấy một cái vò rượu rồi nói: "Lạy chúa phù hộ cho

con" rồi uống một hơi dài. "Rượu đã chảy là chảy mạnh, ả nói, khó

mà ngừng được". Ả lại uống tiếp một cách thoải mái. Ả lại chạy lên

bếp, đặt gà lên lửa, phết bơ và vui vẻ quay cái xiên. Gà quay thơm

điếc mũi. Ả nghĩ bụng hãy còn thiếu cái gì đó, phải nếm xem sao. Ả

nhúng ngón tay vào nước xốt, liếm và nói: "Ồ! Nhưng con gà mái

này ngon tuyệt! Không ăn ngay thì thật là có tội, thật đáng xấu

hổ!".

Ả chạy ra cửa sổ nhìn xem ông chủ và khách đã về chưa.

Nhưng ả chẳng thấy ai cả. Ả lại quay về với những con gà và nghĩ:

"Một cánh bị cháy, tốt nhất là chặt đi". Ả chặt cái cánh và ăn ngon

lành. Ăn xong một cánh, ả tự bảo: "Mình phải chặt nốt cái cánh kia

đi, nếu không ông chủ về thấy có gì thiếu". Ả xơi cả cái cánh, rồi ra

cửa sổ xem chủ về chưa nhưng không thấy ai! Ai mà biết được ông

ấy chợt nghĩ ra cái gì! không thấy bọn họ trở về, có thể là đi đâu

đấy.

Ả nói: "Này Grêten ạ, việc gì phải thắc mắc! Khi bắt đầu ăn con

gà thì hãy uống nữa đi và chén nốt đi! Sau đó thì sẽ yên tâm. Tại

sao lại phí của giời thế!". Ả lại chạy xuống hầm, uống ra trò, rồi lại

chén nốt con gà một cách vui vẻ.

Thế là ăn hết sạch một con gà. Chủ thì vẫn chưa về. Grêten liếc

nhìn con gà thứ hai và nói: "Phải cho con này đi theo con kia thôi,

không thể tách chúng ra được. Đối xử với con kia thế nào thì hẳn là

đối xử với con này cũng phải thế. Mình cho là nếu có uống thêm

một chút, thì cũng chẳng hại gì". Ả lại phấn khởi uống, con gà thứ

hai cũng chạy theo con thứ nhất.

Khi ả đang ăn ngon lành thì ông chủ về - "Nhanh lên, Grêten!

Ông gọi to khách đến ngay bây giờ đấy" - "Thưa vâng, Grêten trả

lời, xong ngay đây ạ". Ông chủ đến bàn ăn xem sắp xếp đã đủ chưa.

Ông mang con dao để cắt thịt đi mài.

Đúng lúc đó, khách gõ cửa khe khẽ, lịch sự. Grêten ra cửa, thấy

khách thì đưa ngón tay lên môi ra hiệu và nói: "Khéo chứ! Khéo

chứ! Ông hãy mau chạy ngay đi! Nếu chủ tôi trông thấy ông thì

nguy cho ông đấy. Chủ tôi mời ông đến ăn nhưng cốt để xẻo đôi tai

ông đấy. Ông có nghe thấy tiếng mài dao không?"

Khách nghe quả là đúng có tiếng mài dao, vội ba chân bốn cẳng

chạy xuống cầu thang. Grêten lúc đó cũng vội chạy lên chỗ ông chủ

mồm loa mép giải: "Ông ơi, khách của ông sao mà quí hóa thế!" "Ô

mày nói gì lạ vậy, Grêten?" - "Ông ta cướp của cháu hai con gà đặt

trên đĩa rồi biến đi" - "Tệ quá! Ông chủ nói, tiếc rẻ hai con gà ngon -

ít ra thì ông ta cũng phải để lại một con cho mình chứ!".

Ông gọi to mời khách trở lại, nhưng khách giả đò không nghe

thấy. Ông liền chạy theo khách, dao hãy còn cầm ở tay và réo: "Một

thôi! Một thôi!" ý nói là khách ít ra cũng phải để lại một con gà.

Nhưng khách lại hiểu là chủ đòi một cái tai, nên chạy lao như gió,

để mong giữ được cả hai tai nguyên vẹn về nhà.

Câu chuyện đã cho thấy sự khôn khéo của người ở và gây cười

cho người đọc. Nói lên quan hệ giữa chủ và tớ - Ông chủ kém thông

minh thường bị người ở khôn ngoan lừa.

Bà lão chăn ngỗng

Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi

hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chúng quanh

có một khu rừng lớn. Sáng nào bà cũng chống nạng lẩy bẩy đi vào

rừng. Bà bận nhiều việc lắm, một người nhiều tuổi như bà tưởng

khó có thể làm nổi: đi kiếm cỏ cho ngỗng, hái quả dại vừa tầm tay

với, vác cả lên lưng về nhà.

Trông thì tưởng chừng bà vác nặng đến ngã khuỵu xuống mất,

nhưng cũng may là bao giờ bà cũng mang về được tới nhà. Bà gặp

ai cũng chào hỏi niềm nở:

- Chào người bà con. Hôm nay trời đẹp nhỉ! Bà con thấy già đi

tha cỏ về thì chắc lấy làm lạ lắm nhỉ, ai mà chẳng phải vác gánh

nặng của mình trên lưng.

Tuy vậy, thiên hạ không thích gặp bà lão, họ thường đi đường

vòng để tránh bà. Khi một ông bố cùng con trai đi qua mặt bà, ông

khẽ bảo con:

- Con phải coi chừng mụ già này. Mụ ấy thâm hiểm lắm. Đó là

một mụ phù thủy đấy.

Một buổi sáng, có chàng thanh niên đẹp trai đi qua rừng. Trời

nắng, chim kêu ríu rít, gió mát thổi qua cành lá, lòng chàng lâng

lâng vui sướng. Chàng chẳng gặp một ai. Bỗng chàng nhìn thấy bà

phù thủy đang cắt cỏ bằng liềm. Bà đã nhét vào tay nải một mớ

nặng, cạnh đó còn có hai giỏ đầy lê và táo dại.

Chàng nói:

- Này bà lão, bà làm thế nào mà mang hết đi được?

Bà già đáp:

- Thưa ngài, thế mà tôi vẫn phải mang cho được đấy. Con nhà

giầu có đâu cần như vậy. Nhưng nông dân thường nói: "Thôi đừng

ngó quẩn ngó quanh làm gì! Cái lưng người vốn nó phải còng."

Chàng đứng bên bà, bà bèn bảo:

- Thế chàng giúp già một tay có được không? Lưng chàng còn

thẳng, chân còn cứng, đối với chàng thì dễ thôi. Nhà già cũng gần

đây, trên cái bãi hoang kia, ở ngay sau núi, chàng chạy một lát thì

đến ngay đấy mà.

Chàng thanh niên thương hại bà lão, trả lời:

- Quả cha tôi không phải là nông dân, mà là một v? bá tước

giàu có, nhưng thôi cứ để tôi mang giúp bà chiếc tay nải kia.

Bà già nói:

- Nếu chàng cố giúp cho thì quý hóa quá. Chắc chắn là chàng

phải đi mất một giờ đấy, nhưng đối với chàng thì thấm vào đâu.

Chàng phải mang giúp cho cả táo và lê đến đấy nữa nhé!

Nghe nói đi mất một giờ thì vị bá tước trẻ tuổi hơi phân vân,

nhưng bà già không buông chàng ra, bà buộc khăn gói trên lưng

chàng, khoác đôi giỏ vào cánh tay chàng và nói:

- Chàng thấy chưa, cũng dễ thôi mà!

Bá tước vừa đáp vừa nhăn nhó:

- Đâu, không dễ đâu! Cái bọc nặng như là bọc đá ấy, lê táo cũng

nặng như chứ. Thở chẳng ra hơi nữa!

Chàng muốn trút tất cả mọi thứ, nhưng bà già không chịu. Bà

nói mỉa:

- Trông kìa! Có đời thuở nhà ai một vị trai tráng mà không chịu

mang cái mà một bà già như ta đã từng lê đi bao nhiêu lần. Nói

hay, nói đẹp thì sao mà mau thế! Hễ công việc thật thì chỉ muốn lẩn

thôi.

Bà nói tiếp:

- Sao chàng lại chần chừ, đứng ỳ ra như thế! Chịu khó nhấc

chân lên chứ. Không ai đỡ gói cho đâu.

Còn đi trên đất bằng thì chàng còn chịu nổi. Nhưng khi lên núi,

phải trèo, đá lăn dưới chân chàng y như chúng là những vật sống

thì thật là quá sức chàng. Mồ hôi nhễ nhại trên trán, chảy ròng

ròng xuống lưng chàng, khi thì nóng bốc lên, khi thì lại lạnh toát

sống lưng. Chàng nói:

- Bà già ơi, tôi không chịu nổi nữa, cho tôi nghỉ một tí.

Bà già đáp:

- Không nghỉ ở đây được. Để đến nơi đã, hãy nghỉ. Bây giờ cứ đi

đi. Biết đâu thế chả là điều hay cho chàng.

Bá tước nói:

- Mụ già kia, mụ thật hỗn xược.

Chàng định vứt chiếc khăn gói đi, nhưng loay hoay mãi mất

công toi. Khăn gói dính chặt vào lưng chàng y như là nó mọc từ

lưng ra. Chàng quay cuồng, vặn vẹo mãi mà không tài nào thoát ra

được.

Bà già thấy vậy cười và nhảy nhót trên đôi nạng một cách

khoái trá. Bà nói:

- Chàng ơi, xin chàng chớ tức giận, mặt chàng đã đỏ chín lên

như gà chọi rồi. Chàng cứ chịu khó đeo khăn gói đi, đến nhà, già sẽ

thưởng cho xứng công.

Chàng biết làm sao bây giờ? Chàng đành tuân theo số phận,

nhẫn nhục lê theo bà già. Bà ta có vẻ mỗi lúc một lanh lẹn, còn

chàng thì thấy gánh trên vai mỗi lúc một thêm nặng. Rồi bỗng bà

nhún người nhảy một cái, ngồi trên khăn gói.

Bà gầy khẳng khiu như cái cọc rào, mà sao nặng hơn cả một

mụ nông dân béo? Chàng thanh niên lảo đảo, nhưng nếu chàng

không chịu đi thì bà lây roi và cành gai đánh vào chân chàng.

Chàng không ngừng rên rỉ, trèo lên núi, mãi đến khi sắp khuỵu

xuống mới tới nhà bà. Đàn ngỗng thấy bà già gọi thì vỗ cánh vươn

cổ lên, chạy ra đón và kêu quang quác. Một mụ đã có tuổi, mạnh

khỏe to lớn, xấu như ma lem, cầm roi theo sau đàn ngỗng. Bác ta

bảo bà lão:

- Mẹ ơi, có việc gì mà sao lâu thế?

Bà lão đáp:

- Con cứ yên tâm, chả gặp điều gì dữ cả. Trái lại, chàng đây lại

mang giúp cho mẹ. Này con ạ, khi mẹ mệt chính chàng ta lại cõng

mẹ trên lưng nữa. Thành ra đường đi không thấy xa, đi rất vui vẻ

và luôn luôn đùa giỡn với nhau.

Mãi sau bà già mới chịu tụt xuống, đỡ khăn gói khỏi lưng

chàng, lấy giỏ khỏi tay chàng, thân mật nhìn chàng và bảo:

- Thôi bây giờ, chàng hãy ngồi ở chiếc ghế dài trước cửa mà

nghỉ. Chàng thật đáng được trả công một cách xứng đáng. Mà nhất

định là có thôi.

Rồi bà bảo mụ chăn ngỗng:

- Con hãy vào trong nhà, con ạ. Con đứng một mình với chàng

trai trẻ thật là không tiện, không nên đổ dầu vào lửa. Chàng ta có

thể mê con đấy.

Bá tước chẳng biết nên cười hay nên khóc. Chàng nghĩ bụng: đồ

của thừa như thế, giá có trẻ hơn ba chục tuổi cũng chẳng làm cho

mình rung động được.

Trong khi ấy, bà lão vuốt ve đàn ngỗng như con, bà cùng mụ

con gái vào nhà. Chàng thanh niên ngả mình trên chiếc ghế dài ở

gốc một cây táo. Không khí êm dịu, ấm áp. Chung quanh rải ra một

đống cỏ xanh rờn, đầy hoa ngọc châu, hoa bách lý và hàng trăm thứ

hoa khác. Một con suối trong veo, lóng lánh ánh mặt trời chảy

ngang. Đàn ngỗng trắng nhởn nhơ đi qua đi lại hoặc lội bì bõm dưới

nước. Chàng nghĩ bụng:

- Ở đây thật là yêu kiều, nhưng ta buồn ngủ quá, mắt cứ díp

lại. Ta phải ngủ đi một tí mới được. Chỉ mong đừng có cơn gió nào

thổi bay đôi chân mình đi, chân mình đã nhũn ra như bùi nhùi mất

rồi.

Chàng ngủ được một lát thì bà già đến lay dậy, bà bảo:

- Dậy đi, chàng ơi! Chàng không ở lại đây được đâu, quả là già

đã làm cho chàng vất vả, nhưng cũng chưa hại gì đến tính mạng.

Giờ thì già trả công cho chàng. Tiền bạc và của cải thì chàng không

cần đến, để ta cho thứ khác.

Nói rồi, bà nhét vào tay chàng một chiếc hộp nhỏ làm bằng một

viên ngọc xanh nguyên khối và dặn:

- Chàng hãy giữ hộp này cẩn thận, nó sẽ mang phúc đến cho

chàng.

Bá tước vùng dậy, cảm thấy trong người khoan khoái, lại sức,

cảm ơn bà già rồi lên đường, không buồn quay lại nhìn con gái xinh

đẹp của bà lấy một lần. Chàng đi được một quãng đường vẫn còn

nghe thấy tiếng ngỗng kêu vui vẻ từ xa vọng lại.

Bá tước phải lang thang ba ngày trong rừng hoang mới tìm ra

được lối đi. Chàng đến một thành phố lớn. Ở đấy không ai biết

chàng. Người ta dẫn chàng đến cung điện. Vua và hoàng hậu đã

ngự triều. Bá tước quì xuống, rút chiếc hộp bằng ngọc xanh ở túi ra

để xuống chân hoàng hậu. Bà truyền cho chàng đứng dậy, chàng

cầm lấy chiếc hộp dâng lên bà vừa mở ra xem thì ngã xuống đất bất

tỉnh nhân sự. Bá tước bị bọn thị vệ nắm chặt lấy định đem tống

ngục. Nhưng hoàng hậu mở mắt, truyền phải tha chàng. Bà đuổi

mọi người ra và muốn tiếp chuyện riêng chàng.

Khi chỉ còn mình bà với bá tước, hoàng hậu khóc lóc thảm thiết

và bà nói:

- Giàu sang phú quí đối với ta có làm gì, vì sáng nào ta thức

dậy cũng phải lo âu phiền não. Ta có ba con gái, con gái út đẹp

nhất, thiên hạ coi là của quí kỳ diệu. Da nó trắng như tuyết, má nó

hồng như táo, tóc nó rực rỡ như ánh sáng mặt trời. Khi nó khóc,

không phải giọt lệ thường, mà là hạt châu, hạt ngọc ở mắt nhỏ ra.

Năm nó mười lăm tuổi, vua cho đòi ba chị em nó đến trước ngai

vàng. Chàng không thể tưởng tượng quần thần trố mắt ra nhìn thế

nào khi đứa thứ ba bước vào. Thật y như mặt trời mọc. Vua phán

"Các con ạ, cha không biết ngày nào cha chết. Hôm nay, cha muốn

quyết định xem sau khi cha chết, mỗi con được hưởng gì. Các con

đều yêu cha cả, nhưng con nào yêu cha tha thiết nhất sẽ được

hưởng cái quý nhất". Cô nào cũng nhận là yêu cha tha thiết nhất.

Vua hỏi: "Các con hãy nói xem các con yêu cha thế nào. Cha sẽ hiểu

được lòng các con". Cô cả nói: "Con yêu cha như yêu đường ngọt

nhất". Cô thứ hai nói: "Con yêu cha như yêu chiếc áo đẹp nhất của

con". Cô thứ ba lặng thinh. Vua cha liền hỏi: "Thế nào, con yêu ta

như thế nào?". Cô đáp: "con không biết lấy gì ví lòng con yêu cha".

Nhưng vua cha đòi cô phải nói lên cái gì để ví. Sau mãi cô mới nói:

"Món ăn ngon nhất mà thiếu muối thì con không thể ăn ngon được.

Do đó con yêu cha như muối". Vua cha nghe vậy, nổi giận phán:

"Nếu mày yêu ta như muối thì ta sẽ lấy muối thưởng tấm lòng của

mày". Vua liền chia giang sơn làm đôi cho hai cô con gái lớn và sai

bược lên lưng cô đi một bị muối, rồi cho hai người nông nô dẫn cô

vào rừng hoang.

Hoàng hậu nói tiếp:

- Tất cả chúng tôi đều van xin, nhưng vua vẫn không nguôi

giận. Chao ôi! Con tôi nó khóc lóc thảm thiết làm sao khi nó phải từ

bỏ chúng tôi. Suốt dọc đường rơi đầy châu ngọc ở mắt nó tuôn ra.

Sau đó ít lâu, vua hối hận vì đã quá nhẫn tâm. Vua cho đi tìm đứa

con đáng thương khắp trong rừng nhưng chẳng ai thấy nó. Ta cứ

nghĩ nó bị thú dữ ăn thịt là ta lại buồn rầu. Đôi khi, ta tự an ủi với

hy vọng là nó vẫn còn sống, chui rúc trong một cái hang nào đó hay

nương tựa ở nơi nào có người thương hại. Chàng có thể tưởng tượng

được không, khi ta mở chiếc hộp con bằng ngọc xanh của chàng ra,

ta thấy có một hạt ngọc đúng như hạt lệ ở mắt con ta nhỏ ra. Chàng

hiểu tại sao ta thấy ngọc mà lòng ta xúc động. Chàng phải nói cho

ta biết làm sao ngọc ấy lại vào tay chàng.

Bá tước kể lại cho hoàng hậu biết là chàng nhận được ngọc của

một bà lão trong rừng, có vẻ khả nghi lắm, chắc là một mụ phù

thủy. Chàng không hề nghe nói gì về công chúa hoặc trông thấy

nàng. Vua và hoàng hậu quyết định đi tìm bà lão vì nghĩ là ngọc ở

đâu ắt là có thể tìm ra tung tích con mình ở đó.

Bà lão ngồi ở ngoài trời, chỗ bãi hoang, kéo sợi bên chiếc

giường. Trời đã tối. Ở dưới bếp, một thanh củi hắt ra ánh sáng leo

lắt. Bỗng ở ngoài có tiếng ồn ồn, ngỗng từ đồng cỏ về nhà, kêu

quang quác ầm lên. Một lát sau, một người đàn bà bước theo vào.

Bà lão chả buồn chào đáp lại người ấy, chỉ khẽ gật đầu. Người đàn

bà lại ngồi bên mẹ cầm guồng quay sợi nhanh nhẹn như một thiếu

nữ. hai người ngồi vậy hai giờ, không nói với nhau nửa lời. Mãi sau

có tiếng động khẽ ở cửa sổ. Rồi có đôi mắt sáng như lửa chằm chằm

nhòm vào. Đó là một con cú, nó hú lên ba lần. Bà già ngẩng lên

nhìn một tí rồi bảo:

- Con ạ, đã đến lúc con đi ra làm việc rồi con ạ.

Người đàn bà đứng dậy đi ra. Bác đi đâu vậy? Bác băng qua

đồng cỏ, đi mãi đến thung lũng. Sau đó bác đến một dòng suối, trên

bờ có ba cây sồi cổ thụ. Trong khi ấy mặt trăng tròn và to đã lên

quá đỉnh núi. Trăng sáng đến nỗi có thể tìm được cái kim nhỏ. Bác

bỏ miếng da úp trên mặt ra rồi xuống suối rửa. Xong xuôi, bác

nhúng miếng da vào nước rồi đặt xuống đồng cỏ để phơi khô và cho

bạc màu dưới ánh trăng. Bác biến đổi khác hẳn. Chưa ai được thấy

một người đẹp đến thế! Mái tóc hoa râm vừa rơi xuống thì mớ tóc

vàng sổ ra như ánh mặt trời, phủ lên khắp người như một chiếc áo

khoác. Đôi mắt cô thiếu nữ sáng ngời như sao trên trời, đôi má ửng

hồng mịn dịu như hoa táo.

Nhưng cô gái xinh đẹp lại buồn rầu. Cô ngồi khóc thảm thiết,

nước mắt tuôn lã chã trên mớ tóc dài rơi xuống đất. Cô cứ ngồi mãi

cho đến khi trên cành cây gần đó có tiếng loạt xoạt, rào rào.

Cô nhảy chồm lên như con hoẵng nghe tiếng súng của người đi

săn, đúng lúc ấy mặt trăng bị mây che phủ. Chỉ trong giây lát, cô

lấy miếng da đắp lên mặt như cũ rồi biến đi như ngọn đèn bị gió

thổi tắt.

Cô run rẩy như lá liễu, bỏ chạy về nhà. Bà già đứng trước cửa.

Cô định kể lại sự việc xảy ra. Nhưng bà lão cười thân mật và bảo:

- Mẹ biết hết cả rồi.

Bà dẫn cô vào buồng và nhóm thêm một thanh củi nữa. Nhưng

bà không ngồi bên guồng nữa mà đi lấy một cái chổi quét tước sạch

sẽ.

Bà bảo cô:

- Tất cả mọi thứ đều phải tinh tươm, sạch sẽ.

Cô bảo:

- Này mẹ, nhưng sao khuya rồi mẹ mới bắt đầu làm việc? Mẹ

định làm gì?

Bà già hỏi:

- Thế con không biết mấy giờ rồi à?

Cô đáp:

- Chưa đến nửa đêm, nhưng đã quá mười một giờ rồi.

Bà nói tiếp:

- Thế con không biết cách đây ba năm, đúng ngày này năm ấy,

con đã đến đây với ta à? Vận hạn của con đã hết, chúng ta không

thể cùng ở với nhau nữa.

Cô gái sợ hãi hỏi:

- Trời ơi, mẹ yêu dấu, mẹ định bỏ con à! Con biết đi đâu bây

giờ? Con không có bạn bè, không có quê hương, con biết nương tựa

vào ai? Mẹ muốn gì, con đều đã làm cả, có bao giờ con làm phật ý

mẹ đâu. Xin mẹ đừng đuổi con đi!

Bà già không muốn nói cho cô gái việc sắp xảy ra.

Bà bảo cô:

- Mẹ không thể ở đây lâu hơn nữa. Nhưng khi mẹ dọn đi thì

nhà cửa phải cho sạch sẽ. Vì vậy, con đừng làm cản trở công việc

của mẹ. Về phần con, chớ có lo ngại. Con sẽ tìm ra một mái nhà có

thể ở được. Con cũng sẽ hài lòng về công xá mẹ trả cho con.

Cô gái lại hỏi:

- Nhưng mẹ hãy nói cho con biết việc sắp xẩy ra.

- Mẹ bảo con lần nữa là đừng có quấy rầy mẹ trong khi mẹ bận

làm. Con đừng nói gì nữa, con cứ về phòng riêng bỏ miếng da che

mặt xuống, mặc chiếc áo lụa vào, chiếc áo mà con mặc khi con đến

với mẹ, rồi cứ đợi ở trong phòng cho đến khi mẹ gọi ra.

Nhưng để tôi kể cho các bạn nghe về việc vua và hoàng hậu

cùng bá tước ra đi tìm bà già ở bãi hoang. Ban đêm, vào rừng, bá

tước bị lạc vua và hoàng hậu nên phải đi một mình. Chàng đi mãi

đến xẩm tối. Chàng trèo lên một cây định ngủ qua đêm vì lo lạc

đường. Ánh trăng vừa tỏ xuống, sáng khắp vùng thì chàng thấy có

một bóng người thẫn thờ từ trên núi xuống. Người đàn bà không

cầm roi trong tay nhưng chàng nhận ra ngay là bác chăn ngỗng mà

chàng đã gặp ở nhà bà già trước kia. Chàng kêu lên:

- Chà, mụ ấy đây rồi. Ta đã vớ được mụ phù thủy này thì mụ

kia cũng không thoát được đâu.

Chàng rất ngạc nhiên khi thấy mụ đến bên suối, bỏ tấm da che

mặt ra rửa thì mớ tóc vàng xõa xuống cả người. Trên đời, chàng

chưa từng thấy có ai đẹp thế. Chàng nín thở, cố vươn cổ qua cành lá

nhìn không chớp mặt. Không hiểu tại chàng vươn quá xa hay tại

duyên cớ gì khác, bỗng cành cây kêu đánh rắc một cái và ngay lúc

đó cô gái lại đeo bộ da mặt vào, nhảy như con hoẵng khỏi nơi đó.

Cùng lúc ấy, mây che khuất mặt trăng, chàng không nhìn thấy

nàng nữa.

Nàng vừa biến mất thì bá tước trèo xuống, rảo bước theo sau.

Chàng đi được một lát thì thấy bóng tối lờ mờ, hai bóng người đi

trên đồng cỏ. Đó là vua và hoàng hậu. Hai người nhìn thấy xa xa có

ánh đèn trong chiếc nhà nhỏ của bà già bèn đi lại đó. Bá tước kể lại

những điều kì lạ chàng được nhìn thấy bên suối và hai người đinh

ninh đó là cô con gái bị lạc. Họ vui mừng đi tiếp và chẳng mấy chốc

tới căn nhà con. Chung quanh nhà, ngỗng nằm ngủ, đầu ấp vào

cánh, không con nào động đậy. Họ nhìn qua cửa sổ thấy bà lão ngồi

yên lặng, kéo sợi, đầu gật gù, không nhìn ngang ngửa.

Trong buồng sạch sẽ y như là nơi ở của những người ngoài trần

tục, chân không dính một tí bụi nào. Nhưng họ không nhìn thấy con

gái bà đâu cả. Họ đứng nhìn mọi thứ một lúc rồi đánh bạo, khẽ gõ

cửa sổ.

Hình như bà lão vẫn chờ họ nên bà đứng dậy một cách niềm

nở:

- Xin các vị cứ việc vào, già biết các vị rồi.

Khi họ vào buồng rồi bà lão nói:

- Nếu cách đây ba năm, các người đừng đuổi đưa con ngoan

ngoãn dễ thương một cách bất công thì có phải đỡ một quãng đường

dài không? Kể ra thì cũng chẳng thiệt hại gì cho cô ta, cô phải chăn

ngỗng ba năm thôi. Cô chẳng tiêm nhiễm điều gì xấu cả, cô vẫn giữ

được tấm lòng trong sạch. Các người đã bị trừng phạt khá đủ rồi vì

đã sống trong lo sợ.

Nói rồi, bà lão đi đến phòng gọi:

- Con ơi ra đi con.

Cửa mở, công chúa đi ra, mặc áo lụa, tóc vàng mắt sáng ngời.

Nàng đi tới cha mẹ, ôm choàng lấy cổ hôn. Lẽ dĩ nhiên là tất cả mọi

người đều khóc vì vui mừng. Vị bá tước trẻ tuổi đứng bên họ. Khi

nàng nhìn thấy chàng thì mặt nàng đỏ ửng như đỗá hoa hồng, chính

nàng cũng không biết tại sao.

Vua bảo:

- Con yêu dấu ơi, biết lấy gì cho con bây giờ, giang sơn của cha,

cha đã cho đi hết rồi.

Bà lão nói:

- Nàng không cần gì đâu. Già đã tặng cho nàng những giọt lệ

đã vì các người mà khóc. Đó toàn là ngọc cả, đẹp hơn hạt châu dưới

bể, quí giá hơn tất cả giang sơn nhà vua. Để trả công hầu hạ của

nàng, già để cho nàng căn nhà con của già.

Bà lão nói xong thì biến mất. Ở trên tường có tiếng nổ khe khẽ,

họ nhìn quanh thì thấy căn nhà nhỏ đã biến thành một tòa lâu đài

rực rỡ, tiệc hoàng gia dọn linh đình, kẻ hầu người hạ chạy đi chạy

lại tới tấp.

Câu chuyện còn tiếp diễn, bà tôi kể chuyện này trí nhớ kém

quá nên quên mất đỗån sau. Thôi thì tôi cứ cho là nàng công chúa

đẹp đẽ lấy bá tước, hai vợ chồng ở lại lâu đài, hưởng phúc trời cho.

Tôi không rõ nhưng tôi không ngờ những con ngỗng trắng như

tuyết chăn ở bên nhà cũng đều là những cô thiếu nữ (xin đừng ai

mếch lòng) mà bà cụ đã đem về nuôi, và có lẽ các cô ấy cũng đã hiện

nguyên hình để làm thị nữ cho bà hoàng hậu trẻ tuổi.

Có một điều chắc chắn là bà lão không phải là một mụ phù

thủy như người ta tưởng mà là một bà lão tốt bụng. Rất có thể đó là

bà mụ khi sinh ra công chúa đã chúc cho nàng khóc ra châu lệ chứ

không phải nước mắt thường. Ngày nay truyện ấy không xẩy ra

nữa, nếu không thì người nghèo khó chẳng mấy chốc trở nên giàu

có.

Các em có bao giờ ăn cơm mà không có muối chưa, chắc là chưa

đúng không nào? Vậy các em hãy thử bảo bố mẹ làm các món ăn mà

không cho muối xem sao! Ta coi muối là rất bình thường trong các

bữa ăn mà không biết nó quý giá đến chừng nào. Từ đó các em có

thể đỗán được tại sao nàng công chúa út lại quý cha như muối.

Chú bé tí hon

Xưa có một bác nông dân nghèo. Buổi tối, bác thường ngồi bên

bếp lửa, nói với bác gái đang xe chỉ:

- Vợ chồng mình hiếm hoi thật là buồn. Nhà mình tẻ ngắt, còn

các nhà láng giềng thì thật là vui vẻ nhộn nhịp.

Bác gái thở dài đáp:

- Giá như được một đứa con dù bé bằng ngón tay cái, tôi cũng

thỏa lòng, chắc vợ chồng mình sẽ yêu quí nó lắm nhỉ.

Được ít lâu, người vợ thụ thai và bảy tháng sau sinh được một

thằng bé đầy đủ mặt mũi chân tay, nhưng chỉ vừa bằng ngón tay

cái.

Hai vợ chồng nói:

- Thật đúng như lời ước nguyện. Vợ chồng mình sẽ yêu quí nó

lắm nhỉ.

Vì nó bé bằng ngón tay cái nên họ đặt tên nó là Tý hon.

Tuy hai vợ chồng cho con ăn uống đầy đủ, con vẫn không nhỉnh

lên một chút nào cả, cứ nguyên như lúc đẻ ra. Được cái mắt nó

sáng, có vẻ thông minh. Chẳng bao lâu nó đã khôn ngoan khéo léo,

làm gì cũng được.

Một hôm người bố sửa soạn vào rừng đẵn củi, miệng lẩm bẩm:

"Giá ta có người đánh xe hộ có thích không". Tý hon bèn thưa rằng:

- Bố ạ, con đánh xe được, bố cứ tin ở con, thế nào xe cũng đến

rừng đúng lúc.

Bố cười nói:

- Con đánh xe thế nào được! Con bé quá, không cầm nổi cương

đâu.

- Không sao bố ạ. Nếu mẹ con thắng ngựa vào cho con, con sẽ

ngồi vào tai nó. Con thét một tiếng là nhất định nó phải đi.

Bố nói:

- Được, để thử xem.

Mẹ thắng ngựa và đặt Tý hon vào tai ngựa. Nó thét "Tắc, tắc"

cho ngựa chạy. Thế là ngựa chạy như có người đánh xe thật, và xe

cứ lên đường chạy vào rừng.

Khi xe rẽ ở một chỗ ngoặt, Tý hon thét: "Tắc, tắc" thì có hai

người lạ mặt chạy đến.

Một người nói:

- Trời ơi, không thấy người đánh xe mà xe cứ đi, lại nghe thấy

tiếng người đánh xe. Quái lạ nhỉ:

Người kia cũng nói:

- Ừ, cũng lạ thật, ta thử đi theo xem xe ở chỗ nào.

Xe chạy thẳng một mạch vào rừng rồi dừng lại đúng chỗ có củi

đã đẵn.

Tý hon thấy bố gọi:

- Bố ơi, bố thấy chưa, con đã đưa xe đến đây, bố cho con xuống

đi.

Bố chạy đến, tay trái nắm cương ngựa, tay phải nhấc con ra

khỏi tai ngựa, rồi đặt con xuống. Tý hon vui vẻ ngồi lên một cọng

rơm.

Trông thấy Tý hon hai người lạ mặt sửng sốt không nói lên lời.

Một người kéo bạn ra một chỗ bảo:

- Này, nếu ta đem thằng nhóc này đi làm trò ở tỉnh to thì phát

tài đấy. Ta mua nó đi.

Hai người bèn đến bảo bác nông dân:

- Ông bán cho chúng tôi thằng bé này, chúng tôi sẽ chăm sóc nó

cẩn thận.

Người bố đáp:

- Không, nó là khúc ruột cắt đôi của tôi. Bạc vàng trên cả thế

gian này đối với tôi cũng không bằng được.

Nghe thấy hai người hỏi mua, Tý hon níu lấy quần áo bố trèo

lên vai nói thầm:

- Bố ơi, bố cứ bán con đi, thế nào rồi con cũng về được.

Ông bố liền bán con lấy một số tiền to.

Hai người kia hỏi Tý hon:

- Mày muốn ngồi đâu?

- Khó gì đâu, cứ để cháu lên vành mũ, cháu sẽ đi đi lại lại trên

ấy xem phong cảnh, cháu không ngã đâu mà ngại.

Một người đặt nó lên vành mũ.

Sau khi Tý hon đã chào bố, họ đem nó đi, đi mãi. Đến xâm xẩm

tối, Tý hon nói:

- Cho cháu xuống đất một lát, cháu cần lắm.

Người mang nó trên mũ nói:

- Cứ việc ở trên ấy, không có gì phiền bác đâu, chim thỉnh

thoảng vẫn ỉa trên ấy mà!

Nó nói:

- Không mà, cháu cũng biết cư xử thế nào cho phải, ông cho

cháu xuống mau mau đi.

Người ấy cất mũ, nhắc Tý hon xuống ruộng gần vệ đường. Nó

lẩn ngay vào giữa những cục đất, rúc vào một cái hang chuột. Rồi

nó lên tiếng chế hai người kia:

- Thôi chào hai ông, hai ông về với nhau nhé.

Hai người lấy gậy chọc vào hang chuột để bắt nó, nhưng mất

công toi vì Tý hon bò vào sâu quá.

Trời đã tối hẳn, hai người đành bỏ về tay không.

Khi họ đi rồi, Tý hon chui ở hang ra. Nó nghĩ bụng: "Đêm tối

mà cứ chuệnh choạng ngoài đồng thì nguy, vỡ đầu gãy cẳng như

chơi". May sao nó vấp phải một cái vỏ sên. Nó chui vào nói:

- Lạy chúa, đêm nay con có chỗ ngủ yên rồi.

Vừa chợp mắt, thì nó nghe thấy tiếng hai người đi qua. Một

người nói:

- Làm thế nào mà ăn trộm được vàng bạc của lão cha xứ giàu

sụ nhỉ? Tý hon nói xen vào:

- Để tôi bày mưu cho.

Một tên trộm hốt hoảng nói:

- Cái gì thế? Tao vừa nghe thấy tiếng người nói:

- Các bác cứ đi theo, tôi sẽ giúp cho.

- Nhưng mày ở chỗ nào cơ?

- Các ông cứ tìm tôi ở dưới đất, chỗ nào có tiếng nói ấy.

Bọn kẻ trộm tìm mãi mới thấy Tý hon. Chúng nhấc nó lên hỏi:

- Mày liệu giúp chúng tao được việc gì hở nhãi?

- Cháu sẽ luồn qua chấn song cửa sổ nhà cha xứ. Các bác muốn

lấy gì cháu chuyền ra cho chứ gì.

- Được. Để xem tài mày ra sao.

Khi kẻ trộm đến nhà cha xứ, Tý hon chui vào buồng, rồi thản

nhiên hỏi rõ to:

- Các bác có muốn khoắng sạch cái buồng này không?

Bọn kẻ trộm sợ hãi bảo nó:

- Nói khẽ chứ, người ta thức dậy bây giờ!

Nhưng Tý hon vẫn tảng lờ như không nghe tiếng lại hỏi to:

- Các bác muốn lấy gì, khoắng sạch nhé?

Bà cụ làm bếp ngủ ở buồng bên cạnh nghe thấy ngồi nhỏm dây,

lắng tai nghe. Bọn kẻ trộm hốt hoảng toan lẩn ra nhưng lại trấn

tĩnh, cho là Tý hon trêu mình thôi. Chúng trở lại khẽ bảo:

- Thôi nào đừng đùa nữa. Có gì thì chuyển ra đi nào!

Tý hon lại kêu thật to:

- Cháu chuyển tất cả nhé, giơ tay ra mà đón lấy.

Lần này bà già nghe thấy rõ mồn một, bước xuống giường lò mò

ra cửa. Kẻ trộm vội chạy bán sống bán chết như có ma đuổi. Bà già

không thấy gì, đi thắp nến. Khi bà trở lại, Tý hon đã trốn vào đống

cỏ. Bà lục soát mọi chỗ không thấy gì, tưởng là mình mê ngủ, lại lên

giường nằm.

Tý hon nằm co ro trong đám cỏ khô, định ngủ đến sáng mai rồi

về nhà. Nhưng định thế này lại ra thế khác. Chà, ở đời thật lắm nỗi

gian nan! Trời vừa tàng tảng sáng, bà già đã dậy cho súc vật ăn.

Trước tiên bà vào kho, lấy một ôm cỏ, đúng ngay chỗ Tý hon ngủ.

Tý hon ngủ say quá, nên mãi đến khi vào mồm bò rồi mới thức giấc.

Nó kêu lên:

- Trời ơi tôi đã ở trong cối bác nện dạ rồi.

Nhưng sau đó biết ngay là mồm bò rồi. Nó cố tránh cho khỏi bị

nghiến, thì bị nuốt trôi vào dạ dày. Nó nghĩ bụng: "Gian nhà này

không có cửa sổ, chẳng thấy mắt trời, đèn đóm gì cả!". Ở đây nó

thấy khó chịu lắm, khổ nhất là cỏ cứ tuôn vào, chỗ ở ngày càng

thêm chật hẹp. Nó sợ quá kêu to:

- Đừng tuôn cỏ tươi vào nữa! Đừng tuôn cỏ tươi vào nữa!

Lúc đó, bà già đang vắt sữa bò, không trông thấy người mà lại

nghe thấy tiếng nói y như tiếng đêm qua. Bà sợ quá, đang ngồi ghế,

ngã lăn ra đổ hết sữa.

Bà vội đi tìm cha xứ mách:

- Quái lạ, bò nhà biết nói cha ạ.

Cha xứ hỏi:

- Bà điên à?

Rồi cha xuống chuồng bò xem thực hư thế nào.

Cha mới bước vào, đã nghe thấy tiếng Tý hon kêu to:

- Đừng tuồn cỏ tươi vào nữa!

Cha xứ cũng đâm hoảng. Cho là bò bị quỷ ám. Cha sai giết bò.

Người ta làm thịt bò xong quẳng ra đống phân cái dạ dày có chứa

Tý hon.

Nó loay hoay mãi mới thò được đầu ra, lại gặp ngay sự chẳng

lành: một con chó sói đói bụng qua đấy, nuốt chửng cả dạ dày lẫn

nó. Tý hon vẫn yên trí nghĩ bụng:

- "Có lẽ sói này bảo được". Rồi từ trong bụng sói nó nói to:

- Cậu sói ơi, tôi muốn mách cậu một miếng ăn tuyệt ngon.

Sói hỏi:

- Ở đâu thế?

Tý hon bảo cho sói biết nhà bố mình ở đâu và nói:

- Cậu cứ chui qua cống vào bếp thì cậu sẽ tha hồ chén bánh

ngọt, mỡ, xúc xích, đủ thứ.

Sói không đợi Tý hon phải nói hai lần. Đêm đến, sói vội chui

qua cống vào bếp chén thả cửa. Sói ăn no phình bụng rồi, muốn ra

không được, vì qua đường cũ không lọt nữa. Tý hon đã tính trước

đến mức đó. Thế là ở trong bụng sói, Tý hon kêu la inh ỏi lên. Sói

nói:

- Mày có im đi không người ta thức dậy bây giờ.

Tý hon đáp:

- Úi chà, cậu đã chém thích rồi, tôi cũng phải tiêu khiển chứ.

Nói xong nó lại hét ầm lên.

Bố mẹ nó nghe tiếng, thức dậy chạy xuống bếp ngó qua keo

vách thì thấy sói. Ông chạy đi lấy rìu, bà lấy hái. Lúc vào chồng bảo

vợ:

- Bà đứng sau tôi, nếu tôi choảng một cái mà nó chưa chết

ngay, thì bà đâm vào bụng nó nhé.

Tý hon nghe thấy tiếng bố, reo lên:

- Bố ơi, con ở trong bụng sói đấy.

Bố mừng quýnh nói:

- Lạy chúa! Đứa con vàng bạc của tôi đã về đây rồi.

Rồi bác bảo vợ vứt hái đi để con khỏi bị thương. Đỗån ông giơ rìu

lên, giáng cho sói một nhát chết tươi. Sau bác lấy dao kéo mổ bụng

sói, lôi Tý hon ra.

Bác nói:

- Ở nhà bố mẹ lo cho con quá con ạ.

- Thưa bố, con đã đi đây đi đó nhiều, may mà nay con lại được

thở không khí trong lành.

- Thế con đã đi những đâu?

- Bố ạ, con đã ở trong hang chuột, trong dạ dày bò, trong bụng

sói, bây giờ con muốn ở nhà với bố mẹ.

Bố mẹ ôm hôn con mà rằng:

- Từ nay dù được bao nhiêu tiền, bố mẹ chẳng bán con nữa đâu.

Rồi bố mẹ cho con ăn uống và may quần áo mới cho nó, vì quần

áo cũ đi nhiều đã rách hết.

Các em đã bao giờ giúp bố mẹ làm việc chưa? Nếu chưa thì các

em thua chú bé Tý hon rồi đấy. Chú chỉ bé bằng ngón tay cái nhưng

chú giúp bố mẹ chú rất nhiều việc nhờ vào trí thông minh. Các em

sẽ giúp được bố mẹ nhiều việc tùy vào khả năng của mình để không

bao giờ phải thua chú bé Tý hon nhé!

Ngôi nhà trong rừng

Có một bác tiều phu nghèo sống với vợ và ba con gái trong túp

lều nhỏ ven một khu rừng hẻo lánh.

Một buổi sớm, lúc sắp đi làm bác dặn vợ: "Trưa nay mình để

đứa lớn mang thức ăn vào rừng cho ta nhé, tôi về sợ làm không hết

việc". Bác nói thêm: "Để nó khỏi lạc, tôi sẽ đem theo một túi kê rải

dọc lối đi".

Mặt trời vừa lên tới giữa đỉnh đầu, cô con gái lớn xách một liễn

cháo đầy lên đường. Nhưng lũ sẻ đồng và sẻ rừng, lũ sơn ca và họa

mi, lũ sáo sậu và phù dung đã nhặt hết các hạt kê từ lâu rồi, cô bé

không thể nào tìm được dấu hướng đường nữa.

Cô cứ liều đi, mãi cho tới khi mặt trời đã lặn và đêm xuống

nghe cây cối rì rào trong bóng tối, lại nghe tiếng cú rúc, cô bắt đầu

sợ. Chợt cô thấy phía xa có ánh đèn lấp ló sau hàng cây. Cô nghĩ

bụng chắc là ở đó có người, mình có thể tới xin ngủ được. Cô đi về

phía ánh đèn. Chỉ một lúc sau, cô đã tới một ngôi nhà, cửa sổ có ánh

đèn. Cô gõ cửa. Một giọng khàn khàn từ trong nói ra: "Cứ vào".

Cô bước lên nền nhà tối mò gõ cửa. "Cứ vào đi". Lại có tiếng gọi.

Cô mở cửa thấy một ông già tóc hoa râm ngồi bên bàn, đầu đặt lên

hai bàn tay, chòm râu bạc rải qua mặt bàn gần đến đất. Lại có ba

con vật đang nằm bên lò sưởi: một con gà mái, một con gà trống và

một con bò sữa có bộ lông đốm sặc sỡ. Cô bé kể cho ông cụ nghe

chuyện của mình và xin ngủ nhờ một đêm. Ông cụ quay lại hỏi mấy

con vật:

Ới gà mái!

Ới gà trống!

Ới bò hoa lông đốm!

Chúng mày nghĩ sao?

"Được", mấy con vật đồng thanh trả, như thế là chúng mày đã

bằng lòng. Ông cụ bảo: "Ở đây chẳng thiếu một thứ gì, con hãy

xuống bếp nấu bữa ăn tối cho chúng ta đi".

Cô bé xuống bếp, thấy quả là thứ gì cũng thừa thãi. Cô nấu bữa

ăn thật ngon, song quên khuấy mất mấy con vật. Cô bưng lên dọn

trên bàn một bàn đầy rồi ngồi vào cùng ăn với ông cụ cho đỡ đói

lòng. ăn xong cô hỏi: "Con mệt lắm, giờ chỉ muốn nằm ngủ, giường ở

đâu xin cụ chỉ giùm".

Mấy con vật đồng thanh đáp:

Cô đã ăn với cụ ấy,

Cô đã uống với cụ ấy,

Cô chẳng đoái tới bọn này

Giờ ngủ đâu, cô liệu lấy.

Ông cụ bảo cô bé: "Con cứ lên gác, sẽ thấy một cái phòng có hai

cái giường, trải khăn trắng, ta cũng buồn ngủ rồi đây".

Cô bé trèo lên, giũ giường trải khăn xong, cô nằm quay ra ngủ

không đợi ông già.

Một lát sau ông cụ cũng lên soi đèn thấy cô đã ngủ say rồi, ông

cụ lắc đầu, mở luôn một cái cửa hầm cho cô bé rơi xuống đó.

Mãi hôm sau, bác tiều phu mới về nhà. Bác mắng bác gái đã để

bác phải nhịn đói suốt ngày.

Bác gái phân trần: "Có phải tại tôi đâu, con bé lớn đem bữa

trưa cho mình. Chắc hẳn nó lạc đâu rồi, mai nó về".

Hôm sau trời chưa sáng, bác tiều phu đã dậy để lại đi rừng: bác

dặn vợ để con gái thứ hai mang bữa trưa vào rừng cho bác.

"Tôi sẽ đem theo một túi đỗ. Hột đỗ nhỉnh hơn hạt kê, dễ thấy

hơn, không sợ con lạc nữa".

Đến trưa cô thứ hai đem bữa đến chỗ bố. Song cũng như ngày

hôm trước, đỗ đã bị chim rừng ăn sạch rồi. Cô bé đi loanh quanh

trong rừng, tối hôm đó cô cũng tới căn nhà có ông cụ râu bạc. Cô

cũng xin ăn và xin trọ.

Ông cụ quay lại hỏi ba con vật:

Ới gà mái!

Ới gà trống!

Ới bò hoa lông đốm!

Chúng mày nghĩ sao?

Ba con vật đồng thanh trả lời: "Được!". Mọi việc sau đó lại xảy

ra hệt như hôm trước. Cô bé nấu một bữa ăn ngon, cùng ngồi ăn

uống với ông cụ, song không đỗái hoài gì tới ba con vật. Đến lúc cô

hỏi chỗ ngủ. Ba con vật đồng thanh đáp:

Cô đã ăn với cụ ấy,

Cô đã uống với cụ ấy,

Cô chẳng đỗái tới bọn này

Giờ ngủ đâu, cô liệu lấy.

Sau khi cô ngủ rồi, ông cụ lên nhìn cô lắc đầu. Ông cụ cũng cho

cô tụt xuống hầm như cô chị.

Sáng hôm sau, bác tiều phu dặn vợ: "Bữa nay mình để con bé

út nó mang cái ăn cho tôi vậy. Con bé biết vâng lời, nó sẽ đi đến nơi

về đến chốn, chẳng giống như các chị nó đâu! Hai đứa ấy cứ như

mấy con ong dại, suốt ngày bay nhởn nhơ".

Bác gái không ưng nên hỏi lại: "Thế lại muốn mất nốt cả đứa

con gái tôi cưng nhất hay sao?".

Bác trai đáp: "Mình đừng lo, con bé ấy thông minh và rất khôn,

nó sẽ không lạc đâu. Vả bữa nay tôi đem đỗ Hà Lan đi kia mà.

Giống đỗ này to hơn giống đỗ thường, mất dấu đường sao được!".

Nhưng đến lúc con bé con mang làn đi thì dọc đường có bao

nhiêu hột đỗ đậu đều vào diều lũ gà rừng cả rồi. Cô chẳng còn biết

đường đi lối nào nữa. Cô bé con lo lắng, cô lo bố đói, lo không về thì

mẹ sẽ than vãn.

Tối đến, thấy có ánh đèn, cô theo hướng đó lần tới. Cô nói rất lễ

phép, xin ngủ nhờ một đêm. Ông cụ già râu bạc quay lại hỏi mấy

con vật:

Ới gà mái!

Ới gà trống!

Ới bò hoa lông đốm!

Chúng mày nghĩ sao?

"Được", chúng đồng thanh trả lời. Cô bé bước ngay tới lò sưởi

chỗ mấy con vật nằm, khẽ vuốt ve bộ lông óng mượt của hai con gà,

rồi lại xoa đầu con bò lông đốm. Sau đó theo lời ông cụ dặn, cô đi

nấu ăn. Nấu xong, bưng bát ra bàn đâu đấy. Cô tự hỏi: "Mình no

mà để mấy con vật khôn ngoan kia nhịn đói có đành lòng không?

Ngoài ấy thiếu gì thức ăn phải cho chúng ăn no cái đã".

Cô đi lấy lúa mạch rắc cho hai con gà ăn và đi bê vào cho con bò

cả một ôm rơm ngát mùi thơm. Cô trìu mếm nói với mấy con vật:

"Chúc các bạn ăn ngon nhé. Nếu khát, tôi sẽ lại đi kiếm nước mát

về cho mà uống".

Nói đoạn, cô đi xách một thùng nước đầy. Hai con gà nhảy lên

mép thùng, chúng cứ nhúng mỏ xuống nước, rồi lại vươn cổ lên một

hồi, uống như giống chim thường làm. Còn bò ta làm thẳng một hơi

ra trò. Cho mấy con vật ăn uống no nê rồi, cô bé mới lại ngồi vào

bàn ăn nốt những thức ăn ông cụ còn bỏ thừa lại.

Một lúc sau, đôi gà bắt đầu rúc đầu dưới cánh. Bò cũng chớp

mắt liên hồi. Cô bé liền hỏi: "Giờ ta đi ngủ rồi chứ nhỉ?".

Phải không, gà mái

Phải không, gà trống

Phải không, bò lông đốm

Có đúng thế không?

Mấy con vật đồng thanh đáp:

Đúng, cô đã ăn với bọn tôi,

Cô đã uống với bọn tôi.

Cô đã không quên bọn tôi.

Đêm nay chúc cô ngon giấc.

Cô bé trèo lên gác, giũ gối, trải khăn đâu đấy chờ cho ông cụ đi

nằm, chòm râu bạc dài chấm chân, rồi cô mới lên giường ngủ. Ngủ

được một giấc ngon đến nửa đêm bỗng thấy nhà cửa tự lay chuyển,

cô tỉnh dậy. Cả bốn góc nhà bắt đầu chuyển răng rắc, cánh cửa lớn

cứ sập vào rồi lại tự mở ra đập sầm sầm vào tường. Xà nhà như

muốn rơi, gác như muốn đổ. Sau đó, dường như cả mái nhà muốn

sập. Rồi lại thấy yên tĩnh, cô bé thấy mình chẳng việc gì nên cứ

nằm yên và ngủ lại.

Sớm ngày hôm sau, cô tỉnh dậy trong ánh nắng tươi sáng, và lạ

chưa, cô thấy mình đang nằm trong một căn phòng lớn, quang cảnh

xung quanh vô cùng lộng lẫy. Tường bọc toàn bằng lụa mầu lá cây,

làm nền cho những cụm hoa vàng thật. Giường nằm bằng ngà, chăn

bọc nhung đỏ. Cạnh giường có một cái ghế trên xếp một đôi hài thêu

điểm trân châu.

Cô cứ ngỡ mình nằm mơ. Nhưng kìa đã thấy ba người hầu ăn

mặc rất sang: Họ bảo cô có sai bảo gì không.

Cô bảo họ: "Các bác cứ ra đi, tôi sẽ dậy ngay đây. Cứ để tôi nấu

cháo cho ông cụ xong tôi sẽ cho gà, cho bò lông đốm ăn sau".

Cô nghĩ bụng chắc ông cụ dậy rồi. Cô ngoảnh sang giường bên

xem sao nhưng không thấy ông cụ mà lại thấy một người lạ, trẻ,

đẹp. Cô đang ngắm nghía thì người ấy đã trở dậy bảo cô:

- Ta chính là một Hoàng tử đã bị một con mụ phù thủy hiểm

độc phù phép hãm hại. Nó đã biến ta thành một ông già tóc bạc,

đẩy ta ở giữa rừng sâu với ba người hầu cũng đã bị nó biến thành

một con gà mái, một con gà trống và một con bò sữa. Phép yêu ấy

chỉ được giải khi nào có một người con gái tốt bụng tới đây, không

những biết thương người mà biết thương cả giống vật. Người con

gái đó là nàng. Nửa đêm hôm qua, nàng đã giải thoát cho bọn ta,

ngôi nhà cổ giữa rừng đã thành nguyên hình là cung điện của ta

trước kia.

Đợi cô dậy rồi, Hoàng tử sai ba người hầu đi mời bố mẹ đến để

làm lễ cưới.

Cô hỏi:

- Nhưng hai chị của thiếp hiện giờ ở đâu?

- Ta đã giam hai cô đó xuống hầm. Mai ta sẽ giải vào rừng. Họ

sẽ phải hầu hạ một người đốt than ở đó cho tới khi nào họ biết sửa

lỗi, biết thương yêu súc vật, không để chúng khỏi đói khát.

Nhà các em có nuôi con vật nào trong nhà không, mèo, chó, hay

gà,... Đối với con vật nào cũng thế thôi, các em phải luôn thương

chúng vì chúng luôn giúp ích cho ta và không phải bị giam như hai

cô chị trong truyện này nhé!

Đứa con vàng

Xưa có hai vợ chồng nhà kia rất nghèo. Của cải chỉ có độc một

túp lều nhỏ. Ngày ngày hai người đi bắt cá, làm chẳng đủ ăn. Bỗng

một hôm, người chồng thả lưới xuống nước cất lên được một con cá

toàn vàng.

Bác còn đang kinh ngạc ngắm nghía thì thấy cá lên tiếng nói:

- Này, bác đánh cá ơi, xin hãy ném trả tôi xuống nước, tôi sẽ

biến túp lều nhỏ của bác thành một tòa lâu đài tráng lệ.

Bác đánh cá đáp:

- Ăn còn không có, lâu đài để làm gì?

Cá vàng nói tiếp:

- Tôi sẽ lo cả chuyện đó cho bác nữa. Trong nhà sẽ có một cái

tủ. Bác cứ việc mở ra là đã sẵn thức ăn ngon trong đó rồi. Toàn cao

lương mĩ vị, muốn bao nhiêu cũng có.

Bác đánh cá đáp:

- Nếu thế thì ta làm ơn cho mi cũng được thôi.

Cá nói:

- Vâng, song bác phải hứa với tôi một điều, bác không để lộ cho

bất kì ai trên thế gian này biết sự may mắn của bác do đâu mà có.

Chỉ cần bác hé ra một lời là bác sẽ lại mất hết.

Bác đánh cá bèn ném trả con cá thân xuống nước rồi về nhà.

Tới nơi, bác chẳng thấy túp lều đâu nữa, giờ đây là cả một tòa lâu

đài đồ sộ. Bác đứng nhìn hồi lâu rồi bước vào nhà thì gặp bác gái,

quần áo lộng lẫy, đang ngồi trong một căn phòng vô cùng tráng lệ.

Bác gái có vẻ hả hê lắm, cứ hỏi bác:

- Mình ơi sao bỗng dưng lại được thế này? Ôi sung sướng quá!

- Phải - bác đáp - Tôi cũng vui sướng. Nhưng này, đói lắm rồi

đấy, dọn cái gì ăn đi.

Bác gái bảo:

- Tôi chẳng có gì đâu, mà cũng không biết trong tòa nhà mới

này có gì hay không?

Bác trai nói:

- Không khó đâu, đằng kia có một cái tủ lớn, lại mở ra xem nào.

Bác gái mở ra thì thấy bên trong nào bánh nào thịt, nào hoa

quả, nào rượu nho như mời mọc.

Bác sướng quá kêu lên:

- Ta còn ước gì hơn nữa?

Hai người ngồi xuống cùng ăn uống. Ăn đã no, bác gái hỏi:

- Nhưng nhà này, của ở đâu thế?

- Chà - bác trai đáp - hỏi chuyện ấy làm gì, tôi không nói được

đâu. Tôi mà hở ra cho ai biết thì chúng mình sẽ lại mất hết.

Bác gái nói:

- Được, nếu như không được phép biết thì tôi cũng chẳng thiết

hỏi làm gì.

Tuy miệng nói thế nhưng bụng lại nghĩ khác, đêm ngày bác ta

đứng ngồi không yên. Bác cứ giày vò thúc bác trai mãi, kỳ cho đến

khi bác trai sốt ruột, kể cho bác biết câu chuyện con cá thần đã bị

bắt, được thả như thế nào. Kể chưa dứt lời, tòa lâu đài tráng lệ với

cái tủ kia đã biến đâu mất. Hai người lại ngồi trong túp lều đánh cá

cũ.

Người chồng lại phải bắt cá kiếm ăn. Dường như vận may đã

định, bác lại bắt được con cá vàng phen nữa. Cá nói với bác:

- Này nếu như bác lại thả tôi thì tôi sẽ trả cho bác tòa lâu đài

với cái tủ kia, đầy ắp những thứ nấu và rán cho bác. Bằng không sẽ

lại mất hết.

Bác đánh cá đáp:

- Tôi sẽ cố giữ.

Bác ném con cá xuống nước. Về đến nhà, bác lại giàu có như

trước. Bác gái hả hê vô cùng, song sự tò mò vẫn chưa thôi day dứt

bác. Chỉ vài ngày sau, bác lại tỉ tê dò hỏi nguyên do sự việc. Bác

trai mới đầu còn giữ, nhưng sau tức vợ quá bác kể tuột luôn mọi

chuyện. Tức thì chỉ trong nháy mắt, tòa lâu đài biến mất, hai người

lại ngồi trong túp lều cũ. Bác trai phàn nàn:

- Đã thấy chưa, giờ rồi đến chết đói.

Bác gái đáp:

- Ôi chà, thà không có của còn hơn có mà chẳng biết của từ đâu

đến, bảo tôi im sao được.

Người chồng lại đi bắt cá. Ít lâu sau, bác lại bắt được con cá

vàng lần thứ ba. Cá nói:

- Này, thế là cái phận tôi không thể thoát tay bác rồi. Bác cứ

đem tôi về chặt làm sáu khúc, hai khúc cho bác gái ăn, hai khúc cho

con ngựa của bác ăn, còn hai khúc chôn xuống đất rồi bác sẽ được

phú quý.

Bác trai xách con cá về nhà, làm đúng theo lời căn dặn. Kết

quả là sau đó hai khúc cá chôn dưới đất biến thành hai cây huệ

vàng, con ngựa đẻ ra một đôi ngựa con bằng vàng và bác gái sinh

được hai đứa con cũng toàn vàng.

Hai đứa trẻ lớn lên nom vừa khỏe vừa đẹp, hai cây huệ với đôi

ngựa con cũng lớn lên.

Hai con bảo bố:

- Cha ơi, chúng con muốn lên ngựa vàng đi giang hồ bốn bể một

phen.

Bác trai bối rối đáp:

- Để các con đi mà rồi đây cha không biết được các con ra sao

thì cha đành lòng sao được? Hai con nói:

- Hai cây huệ vàng vẫn còn đây, cha cứ xem hoa khắc biết

chúng con thế nào. Hoa cứ tươi là chúng con vẫn khỏe, hoa héo là

chúng con đang ốm, hoa rụng đi là chúng con đã chết.

Hai con lên ngựa ra đi. Tới một quán trọ kia, bên trong rất

đông khách, mọi người thấy hai đứa trẻ bằng vàng đi vào cứ khúc

khích cười và lên tiếng đùa cợt. Một chú nghe thấy người ta chế

nhạo, phát ngượng không muốn đi nữa, mới quay về nhà với bố.

Còn chú kia vẫn cưỡi ngựa đi, đi tới một khu rừng lớn, chú vừa định

giục ngựa vài rừng thì có người bảo:

- Không được đâu, không thể đi qua được đâu, trong đó toàn

bọn cướp của giết người, tất chúng sẽ sinh chuyện. Nhất là khi

chúng lại thấy chú và ngựa của chú toàn bằng vàng, chúng sẽ giết

chú mất.

Song chú bé không sợ, chú bảo:

- Nhất định tôi phải đi và sẽ đi được.

Chú lấy da gấu, phủ lên mình và phủ cho ngựa để không ai

thấy đó là vàng nữa, rồi ung dung giục ngựa phi nước kiệu vào

rừng. Mới đi được một quãng thì thấy có tiếng xì xào trong bụi. Chú

nghe rõ tiếng người gọi nhau. Phía này gọi:

- Có một đứa vào đấy.

Phía kia đáp:

- Cho nó đi. Cái đồ vô dụng ấy, kiết xác mà trần trụi như một

con chuột trong xó nhà thờ, được việc g´!

Thế là chú bé vàng may mắn lọt qua được khu rừng, bình yên

vô sự.

Một hôm khác, chú tới một làng kia. Chú gặp một cô thiếu nữ

xinh đẹp quá, tưởng chừng như ở trên đời này không thể còn ai xinh

đẹp hơn. Chú thấy yêu cô nàng vô cùng, mới lại gần hỏi:

- Ta rất yêu nàng, yêu tha thiết, nàng có ưng lấy ta không?

Người thiếu nữ nhìn chú cũng thấy ưng ý nên bằng lòng ngay

và bảo:

- Vâng, thiếp xin theo lời chàng, thiếp nguyện suốt đời sẽ

chung thủy với chàng.

Hai người làm lễ cưới. Đang giữa cuộc vui, bỗng bố cô dâu về.

Thấy lễ cưới con gái, bác ta ngạc nhiên lắm, hỏi:

- Thế chú rể đâu?

Mọi người chỉ chú bé vàng, lúc này vẫn còn đang khoác tấm da

gấu. Người bố nổi giận, quát:

- Không đời nào ta chịu gả con cho những quân vô dụng.

Bác ta muốn giết chú rể vàng.

Cô dâu vội ra sức van xin và nói:

- Dù sao thì chàng cũng đã là chồng con rồi, con rất thương

chàng.

Sau rồi người bố cũng xiêu lòng, nhưng trong dạ vẫn chưa được

yên. Sáng hôm sau bác trở dậy thật sớm muốn xem kỹ con rể, có

đúng chỉ là một tên ăn mày tầm thường rách rưới không. Song

người nằm trong giường lại là một chàng trai rất đẹp, toàn bằng

vàng, tấm da gấu vất bỏ dưới đất. Bác quay trở ra, nghĩ bụng: "Tốt

quá, may mà mình kìm được cơn nóng, bằng không đã phạm sai

lầm lớn".

Trong lúc đó thì chàng người vàng đang mơ màng, thấy mình

săn trượt theo một con hươu rất đẹp. Lát sau tỉnh giấc, chàng bảo

vợ:

- Ta muốn đi săn một bữa.

Người vợ thấy lo, nài chồng ở nhà. Nàng bảo:

- Chỉ sợ sẽ xảy ra vạ lớn cho chàng.

Nhưng chàng gạt đi:

- Ta phải đi và nhất định đi được.

Nói xong chàng đứng lên đi luôn vào rừng. Đi mới được một lát

đã thấy một con hươu ngạo nghễ đứng chắn ngang đường, đúng

như trong giấc mơ. Chàng vừa giơ súng toan bắn thì hươu đã nhảy

vọt đi mất. Chàng liền rượt theo, băng qua hố qua bụi, suốt ngày

hôm đó mà không thấy mệt. Đến chiều thì con hươu biến đi đâu

mất. Chàng người vàng nhìn quanh quất thấy phía trước có một

ngôi nhà nhỏ. Trong nhà có một mụ phù thủy đang ngồi. Chàng gỗ

cửa. Mụ già bước ra cất tiếng hỏi:

- Ngày đã muộn thế này mà ngươi còn quanh quẩn làm chi

trong rừng?

Chàng hỏi lại:

- Bà có thấy con hươu nào chạy qua không?

- Có, - mụ đáp - Con hươu ấy ta biết rõ lắm.

Vừa lúc ấy, một con chó nhỏ theo mụ từ trong nhà ra cứ hướng

vào chàng trai mà sủa ầm ĩ.

Chàng mắng nó:

- Có câm không, đồ khốn. Ta lại cho mi một phát chết tươi bây

giờ.

Mụ phù thủy nổi nóng hét lên:

- Sao, mi muốn giết chó của ta à?

Mụ phù thủy biến luôn chàng trai thành đá nằm lì tại đó.

Vợ ở nhà đợi mãi không thấy chồng về, nghĩ bụng: "Chắc đã

xảy ra chuyện gì rồi". Nàng lo buồn hết sức.

Trong lúc đó, ở nhà người em đang đứng bên hai cây huệ vàng

bỗng thấy một bông gục xuống. Chàng kêu lên:

- Trời ơi, anh con gặp vạ lớn rồi, phải đi ngay, may ra còn cứu

được.

Người cha gạt đi:

- Ở nhà thôi, mất nốt con thì bố biết làm sao?

Nhưng người con vẫn kiên quyết:

- Con phải đi và nhất định đi.

Chàng bèn cưỡi lên con ngựa vàng, phóng ngựa phi thẳng đến

khu rừng lớn, chỗ anh chàng đã bị hóa đá. Mụ phù thủy già ở trong

nhà chạy ra, gọi chàng và có ý định bắt nốt chàng, song chàng

không lại gần mà chỉ gọi với lại:

- Nếu như mi không làm cho anh ta sống lại thì ta sẽ bắn chết

mi.

Mụ phù thủy buộc lòng phải đặt ngón tay lên tảng đá, tức thì

tảng đá lại hóa thành người. Hai người con vàng gặp lại nhau, vui

mừng khôn xiết, ôm hôn nhau rồi cùng lên ngựa ra khỏi rừng. Một

người về nhà vợ, còn người kia về nhà cha mẹ. Người cha bảo:

- Cha cũng biết là con đã cứu được anh con rồi, vì cha thấy

bông huệ vàng kia lại đứng thẳng và tươi như cũ.

Họ sống rất hạnh phúc đến trọn đời.

Các em có thích giàu có không? Ai cũng muốn trở nên giàu có,

đúng không nào? Nhưng tự nhiên trở nên giàu có mà không biết

nguồn gốc của sự giàu có ấy thì ai cũng thắc mắc như vợ bác đánh

cá trong truyện đúng không?

Cô bé hai mắt

Ngày xưa, có một bà có ba cô con gái. Con lớn tên là Một Mắt vì

cô chỉ có độc một mắt ở giữa trán. Cô thứ hai tên là Hai Mắt vì cô có

hai mắt như mọi người khác. Cô út tên là Ba Mắt vì cô có ba mắt,

mắt thứ ba cũng ở giữa trán.

Cô Hai Mắt giống y như những người thường khác nên bị mẹ,

chị và em không chịu được.

Họ bảo cô:

- Có hai mắt thì cũng chẳng hơn gì người thường, không phải là

họ hàng nhà ta.

Họ thấy cô đâu là xua đấy, quẳng cho cô quần áo xấu xí, chỉ cho

cô thức ăn thừa, tìm đủ cách làm cho cô đau khổ.

Có lần cô Hai Mắt ra đồng chăn dê, đói lắm vì chị và em cho ăn

ít quá. Cô liền ngồi xuống bờ ruộng khóc lóc thảm thiết, nước mắt

tuôn ra như hai dòng suối nhỏ.

Đang than vãn, cô ngẩng lên thấy một bà đứng bên mình hỏi:

- Hai Mắt, sao con lại khóc?

Hai Mắt trả lời:

- Con không khóc sao được? Chỉ vì con có hai mắt như người

bình thường, mẹ, chị và em không chịu được, xua con từ xó này

sang xó khác, quăng cho con quần áo cũ, chỉ cho con ăn cơm thừa

canh cặn. Hôm nay ở nhà cho con ăn ít quá, con đói lắm.

Bà lão bảo:

- Hai Mắt, con hãy lau mặt đi, bà sẽ bảo con cái này để con

không bị đói nữa. Con cứ việc bảo con dê cái của con:

Này dê con, hãy be lên!

Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!

Thì lập tức trước mắt con sẽ hiện ra một cái bàn xinh xắn, ở

trên bày các thức ăn ngon lành, con tha hồ ăn. Sau khi con ăn no

rồi, không cần đến bàn nữa, thì con chỉ việc nói:

Này dê con, hãy be be!

Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!

Thì bàn lập tức sẽ biến mất.

Sau đó, bà lão đi. Hai Mắt nghĩ bụng: "Mình phải thử ngay

xem lời bà dặn có đúng không vì mình đói quá". Cô nói:

Này dê con, hãy be lên!

Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!

Nói chưa dứt lời, thì có một chiếc bàn xinh xắn phủ chiếc khăn

nhỏ trắng tinh hiện ra. Trên bàn có đĩa, dao, dĩa, thìa bạc, đầy các

thức ăn tuyệt ngon còn nóng, hơi lên nghi ngút như vừa bưng ở

dưới bếp lên.

Hai Mắt ăn uống ngon lành. No nê rồi, cô lại nói như lời bà lão

dặn:

Này dê con, hãy be be!

Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!

Lập tức chiếc bàn xinh xắn và các thứ ở trên biến mất. Hai Mắt

nghĩ bụng làm nội trợ kiểu ấy thật thú vị, cô hả hê vui thích lắm.

Buổi tối, cô chăn dê về nhà, thấy có chiếc bát sành đựng thức

ăn mà chị và em để phần cho, nhưng cô không đụng đến. Ngày hôm

sau cô lại chăn dê đi, để nguyên mấy mẩu bánh phần cô. Lần đầu

và lần thứ hai, chị và em không để ý, nhưng cứ thế mãi nên họ cũng

biết và nói:

- Con Hai Mắt có điều gì khả nghi. Không lần nào nó đụng đến

thức ăn, thế mà mọi khi để cho nó cái gì là nó chén hết sạch cơ mà.

Phải tìm cho ra đầu đuôi việc này mời được.

Khi Hai Mắt ra đi. Một Mắt đến bảo:

- Để tao đi ra đồng với, xem mày chăn dê có tốt không, mày có

chịu đưa dê đi ăn ở nơi tốt cỏ không.

Nhưng Hai Mắt đã biết được ý định của Một Mắt, cô chăn dê

đến đồng cỏ rậm và bảo:

- Chị Một Mắt ạ, chị em mình ngồi xuống rồi em hát cho chị

nghe.

Một Mắt ngồi xuống, mệt quá vì chưa quen đi đường và vì trời

nắng chang chang, còn Hai Mắt cứ hát mãi:

Một Mắt ơi, chị còn thức không?

Một Mắt ơi, chị ngủ đấy à?

Một Mắt nhắm mắt độc nhất của mình lại mà ngủ. Lúc Hai

Mắt thấy một mắt đã ngủ say, việc không thể lộ được, cô mới bảo:

Này dê con, hãy be lên!

Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!

Cô ngồi vào chiếc bàn xinh xắn, ăn uống no nê rồi lại nói:

Này dê con, hãy be be!

Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!

Tất cả mọi thứ đều biến ngay.

Hai Mắt liền đánh thức Một Mắt dậy mà bảo:

- Chị Một Mắt ạ, chị định đi chăn dê mà lại ngủ à? Trong khi

đó dê nó có thể chạy khắp thiên hạ mất. Thôi ta về nhà chị ơi.

Hai người về nhà. Hai Mắt để nguyên không đụng đến thức ăn.

Một Mắt không cho mẹ biết được tại sao em không chịu ăn. Nó xin

lỗi mẹ:

- Con ra đồng ngủ quên đi mất.

Hôm sau, mẹ bảo Ba Mắt:

- Lần này, mày đi cùng phải để ý xem con Hai Mắt ra ngoài có

ăn gì không, có ai mang gì đến cho nó ăn uống không, vì nhất định

là nó phải ăn uống lén lút.

Ba Mắt đến bảo Hai Mắt:

- Em muốn đi với chị để xem chị chăn dê có tốt không, chị có

đưa dê đi ăn nơi tốt cỏ không?

Nhưng Hai Mắt đỗán được ý định của Ba Mắt nên cô chăn dê

đến đồng cỏ rậm rồi bảo:

- Em Ba Mắt ạ, ta ngồi đây. Chị sẽ hát cho em nghe.

Ba Mắt ngồi xuống. Đường xa, trời nắng, nên người mệt nhoài.

Hai Mắt lại bắt đầu hát bài hát hôm trước:

Ba Mắt ơi, thức đấy ư?

Nhưng sau đáng lẽ phải hát:

Ba Mắt ơi, ngủ đấy à?

Thì cô lại đãng trí hát:

Hai Mắt ơi, ngủ đấy à?

Rồi cứ hát mãi:

Ba Mắt ơi, thức đấy ư?

Hai Mắt ơi, ngủ đấy à?

Hai con mắt của Ba Mắt nhắm lại ngủ, còn con mắt thứ ba

không bị phép của câu thần chú nên không ngủ. Thật ra thì Ba Mắt

nhắm cả mắt thứ ba, nhưng nó nhắm giả vờ làm như ngủ, nó nhấp

nháy để có thể nhìn rõ được hết mọi việc. Hai Mắt tưởng là Ba Mắt

đã ngủ say rồi, liền niệm chú:

Này dê con, hãy be lên!

Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!

Cô ăn uống no nê rồi bảo chiếc bàn nhỏ biến đi:

Này dê con, hãy be be!

Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!

Ba Mắt trông thấy hết. Hai Mắt đến chỗ nó đánh thức dậy bảo:

- Úi chà. Ba Mắt em ngủ à? Thế mà cũng đòi đi chăn dê? Thôi

ta về nhà đi!

Về đến nhà, Hai Mắt lại không ăn. Ba Mắt liền mách mẹ:

- Giờ thì con biết tại sao cái con làm bộ ấy nó không ăn rồi. Ở

ngoài đồng nó nói "Này dê con, hãy be lên! Thức ăn, này hỡi bàn

xinh, hãy bày!" thì có một chiếc bàn nhỏ bày đầy thức ăn, thức uống

tuyệt ngon, ngon hơn ở nhà ta nhiều, hiện ra. Nó ăn uống no nê rồi

nó bảo: "Này dê con, hãy be be! Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến

này!" thì mọi thứ đều biến mất. Con trông thấy tất cả rõ mồn một.

Hai mắt nó niệm thần chú cho con ngủ, nhưng may còn con mắt

trên trán vẫn thức. Người mẹ đố kỵ liền kêu lên:

- A, mày lại đòi hơn chúng tao à! Phải cho mày chừa cái thói ấy

đi!

Mụ lấy dao mổ lợn, đâm trúng tim dê, dê khuỵu xuống chết.

Hai Mắt thấy vậy, buồn bã đi ra ngồi bờ ruộng khóc lóc thảm

thiết. Bà lão bỗng lại hiện ra bên cô mà bảo:

- Hai Mắt làm sao con khóc?

Cô đáp:

- Con không khóc sao được! Mẹ con đã đâm mất con dê mà

hàng ngày, khi con niệm câu thần chú của bà, nó dọn thức ăn thật

ngon cho con ra bàn. Giờ thì con lại phải chịu đói khát, khổ sở rồi.

Bà lão bảo:

- Hai Mắt ạ! Để bà bày cho con một kế hay: con hãy xin chị và

em lấy bộ lông của con dê đã bị giết, con đem chôn ở trước cửa rồi sẽ

gặp may.

Nói xong bà lão biến mất. Hai Mắt về nhà bảo chị và em:

- Chị và em yêu dấu ơi, dê ấy của tôi, cho tôi xin chút đỉnh của

nó với. Tôi chẳng dám xin gì ngon lành đâu, chỉ xin bộ lông mà thôi.

Hai đứa cười ồ lên bảo:

- Ừ, nếu chỉ xin có thế thì cứ việc mà lấy đi.

Hai Mắt lấy bộ lông, đến tối theo lời bà lão dặn lặng leo đem

chôn trước cửa nhà.

Sáng hôm sau, khi cả nhà cùng dậy ra cửa thì thấy có một cây

kỳ lạ, đẹp lộng lẫy, quả vàng xen giữa lá bạc, trần gian không có gì

đẹp bằng. Không ai biết tại sao qua một đêm, cây ở đâu mọc ra. Chỉ

có Hai Mắt biết rõ là cây ở lông dê mọc lên vì nó mọc đúng ở nơi

chôn bộ lông.

Mẹ liền bảo :

- Một Mắt, con trèo lên hái quả xuống.

Một Mắt trèo lên, nhưng cứ định hái một quả táo vàng thì cành

lại tuột khỏi tay. Mà lần nào cũng như vậy, khiến cho nó không hái

được quả nào, hái mãi cũng không được.

Mẹ liền bảo:

- Ba Mắt, con hãy trèo lên, con có ba mắt, ắt là nhìn rõ hơn Một

Mắt.

Một Mắt tụt xuống. Ba Mắt trèo lên. Nhưng Ba Mắt cũng

chẳng tài gì hơn, với mãi mà vẫn cứ bị hụt, táo vàng vẫn cứ thụt lại.

Sau bà mẹ sốt ruột, đích thân trèo cây, nhưng định hái quả thì

lại chỉ nắm không khí, chẳng hơn Một Mắt và Ba Mắt:

Hai Mắt liền bảo:

- Để tôi lên xem sao, có thể là được.

Chị và em gái nói:

- Đồ Hai Mắt thì làm được trò trống g´!

Nhưng khi Hai Mắt trèo lên, táo vàng không thụt lại, mà tự ý

rơi vào tay cô, cô hái được hết quả nọ đến quả kia, mang xuống đấy

một tạp dề. Bà mẹ giật lấy. Đáng lẽ, mụ, Một Mắt và Ba Mắt phải

đối đãi tử tế hơn với cô Hai Mắt đáng thương, thì họ lại đố kỵ thêm

vì chỉ có mình cô hái được quả vàng. Họ đối với cô càng thêm cay

nghiệt.

Một hôm, họ đang đứng bên cây thì có một hiệp sĩ trẻ tuổi đi

tới.

Cô chị và cô em gọi:

- Hai Mắt ơi, nhanh lên, trèo xuống đi kẻo chúng tao ngượng cả

mặt vì mày.

Rồi hai người vớ vội một chiếc thùng rỗng để ở ngay gốc cây úp

lên cô Hai Mắt đáng thương. Chúng lại nhét tất cả táo vàng mà cô

hái được vào trong đó. Hiệp sĩ đến nơi. Ấy là một nhà quí phái rất

đẹp. Chàng ngừng lại ngắm cây táo vàng lộng lẫy và bảo cô chị và

cô em:

- Cây đẹp này của ai? Cho ta một cánh thì muốn xin gì ta cũng

cho.

Một Mắt và Ba Mắt vội đáp là cây của chúng, chúng sẵn sàng

bẻ cho chàng một cành. Hai chị em ra sức bẻ nhưng lần nào cành và

quả cũng thụt lại.

Chàng hiệp sĩ liền bảo:

- Quái lạ, sao cây của các cô mà các cô lại không hái được?

Chúng vẫn khăng khăng nói là cây của chúng. Trong khi ấy,

Hai Mắt ở dưới thùng để mấy quả táo vàng lăn đến chân hiệp sĩ vì

nàng bực tức là Một Mắt và Ba Mắt lại không chịu nói thật. Hiệp sĩ

thấy táo, ngạc nhiên hỏi táo từ đâu đến. Một Mắt và Ba Mắt đáp

chúng còn một người chị em, không dám để cho ra mắt vì cô cũng

chỉ có hai mắt như những người thường khác. Nhưng hiệp sĩ đòi

xem mặt cô và gọi:

- Cô Hai Mắt đâu, lại đây nào!

Hai Mắt bình tĩnh chui ở dưới thùng ra. Hiệp sĩ ngạc nhiên về

sắc đẹp của cô, hỏi:

- Chắc cô Hai Mắt bẻ được cho tôi một cành chứ!

Hai Mắt đáp:

- Thưa vâng, hẳn là được, vì cây của em.

Cô trèo lên cây, nhẹ nhàng bẻ một cành có lá bạc quả vàng thật

đẹp đưa cho hiệp sĩ.

Hiệp sĩ liền bảo:

- Cô Hai Mắt ơi, tôi trả công cô thế nào đây?

Hai Mắt đáp:

- Từ sáng tinh mơ đến tối mịt, em chịu đói khát, cơ cực, buồn lo,

nếu chàng chịu mang em đi để cứu em thì em thật là sung sướng.

Hiệp sĩ liền đỡ Hai Mắt lên ngựa, mang về lâu đài cha. Tới nơi,

chàng cho cô mặc quần áo đẹp đẽ, tha hồ ăn uống. Chàng yêu cô và

lấy cô làm vợ ... Lễ cưới rất vui vẻ.

Khi chàng hiệp sĩ đẹp trai mang Hai Mắt đi rồi, chị và em lồng

lên vì thấy cô sung sướng.

Hai cô nghĩ bụng: Cây thần còn ở tay ta, dù ta không hái được

quả nào, thì mọi người vẫn cứ phải ngừng lại, ngắm cây, vào tìm ta

để khen cây. Biết đâu rồi ta chẳng gặp may.

Nhưng sáng hôm sau, cây thần bỗng biến mất, hy vọng của hai

chị em cũng tiêu tan. Khi Hai Mắt từ trong phòng nhỏ nhìn ra, cô

mừng rỡ thấy cây đã theo cô và hiện lên.

Cô Hai Mắt hưởng hạnh phúc lâu dài. Một hôm, có hai người

đàn bà nghèo khó đến lâu đài cô xin ăn. Cô Hai Mắt nhận ra chị và

em mình. Một Mắt và Ba Mắt bị sa sút, nghèo túng, phải đi tha

phương cầu thực. Cô Hai Mắt niềm nở chào hai người, đối đãi tốt

với họ, chăm sóc họ, khiến họ hối hận, vì đã từng đối xử độc ác với

cô.

Câu chuyện thật là cảm động và qua câu chuyện này các em sẽ

thấy một bài học: trong cuộc đời ai có tấm lòng nhân hậu sẽ được

hưởng hạnh phúc, kẻ độc ác, xấu xa sẽ gặp phải nhiều bất hạnh.

Ba cô chị

Ngày xưa có một ông vua rất giàu, vua giàu đến nỗi tưởng là

của cải của mình không bao giờ hết được.Vua sống xa hoa, chơi bàn

cờ bằng vàng, con ki bằng bạc. Vua sống như thế một thời gian thì

của cải tiêu tan hết. Vua phải đem cầm lần lần những thành thị và

lâu đài, sau cùng chỉ còn có mỗi một tòa lâu đài cổ trong rừng. Vua,

hoàng hậu và ba công chúa dọn đến đấy ở, họ sống chật vật, hàng

ngày bữa ăn chỉ có khoai tây thôi.

Một hôm, vua định đi săn xem có bắn được con thỏ gì chăng.

Vua nhét khoai tây đầy túi rồi ra đi. Vua đến ven một khu rừng lớn

không dám vào vì người ta kể rằng trong đó có nhiều thú rùng rợn

lắm. Gấu ăn thịt người, phượng hoàng mổ mắt, chó sói, sư tử và

nhiều loại thú dữ. Vua chẳng sợ gì cả, tiến thẳng vào rừng. Thoạt

tiên vua không thấy gì. Có những cây to, ở dưới thật là yên lặng.

Vua đi vơ vẩn như vậy một lúc rồi thấy đói, liền ngồi xuống gốc cây

định ăn khoai tây, thì bỗng có một con gấu ở trong rừng hiện ra,

lạch bạch đến thẳng phía vua và càu nhàu:

Sao ngươi lại dám ngồi ở gốc cây mật ong của ta? Tội ngươi

thật đáng chết.

Vua sợ hãi, đưa cho nó khoai tây để nó nguôi giận. Nhưng gấu

cất tiếng nói:

-Ta thiết gì ăn khoai tây của ngươi, ta muốn ăn thịt ngươi cơ.

Ngươi chỉ có một cách thoát thân là gả cho ta con gái đầu lòng của

ngươi. Nếu ngươi bằng lòng thì ta còn cho thêm ngươi nửa tạ vàng

nữa.

Vua sợ bị ăn thịt nói:

- Ta sẽ gả cho, miễn là ngươi để cho ta yên lành.

Gấu liền chỉ đường cho vua về và còn càu nhàu sau lưng vua.

- Trong bảy ngày nữa, ta sẽ đến đón cô dâu đấy.

Vua yên trí về nhà, nghĩ nhất định là gấu không chui lọt nổi

loa khóa, hơn nữa nhất định là không có cái gì để ngỏ. Vua ra lệnh

cho khóa tất cả các cửa ngoài, kéo cầu treo lên, và dặn con gái phải

bình tĩnh. Muốn bảo vệ được cô chắc chắn khỏi bị chú rể gấu bắt đi,

vua cho cô ở một phòng nhỏ tít dưới lỗ châu mai trên mặt thành. Cô

phải trốn vào đấy cho qua bảy hôm. Nhưng sáng tinh sương hôm

thứ bảy, khi mọi người con ngủ thì có một cỗ xe lộng lẫy đóng sáu

ngựa đến lâu đài. Có nhiều kỵ sĩ mặc áo bằng vàng vây quanh xe.

Cỗ xe đến nơi thì tự nhiên cầu treo hạ xuống, khóa tự nhiên bật

tung ra, xe đi vào sân, một vị Hoàng tử trẻ và đẹp bước xuống. Vua

nghe tiếng động tỉnh dậy, nhìn ra cửa sổ thấy Hoàng tử đã đón con

gái đầu lòng của mình ở tít trên căn phòng nhỏ khóa kín, và vừa bế

nàng lên xe. Vua chỉ kịp kêu lên:

Thôi vĩnh biệt, thiếu nữ yêu kiều.

Đi đi mãi, hỡi cô dâu của gấu!

Cô ngồi trên xe còn vẫy chiếc khăn trắng nhỏ. Rồi cỗ xe phóng

đi như gió cuốn, tiến sâu mãi vào khu rừng thiêng.

Lòng vua nặng trĩu, vì vua đã chót gả con gái cho gấu. Vua

buồn quá, cùng hoàng hậu khóc ba ngày liền. Đến ngày thứ tư,

khóc hết nước mắt, vua nghĩ là việc đã xảy ra rồi cũng đành thôi.

Vua xuống sân, ở đấy có một cái hòm gỗ mun nặng khó mà nhấc lên

được. Vua chợt nghĩ đến điều gấu đã hứa, liền mở ra thì thấy trong

đó có nửa tạ vàng sáng lấp lánh.

Vua nhìn thấy vàng thì cũng nguôi buồn. Vua đem vàng chuộc lại

các thành thị đã đem cầm rồi lại quay về cuộc sống giàu sang ngày

trước. Cứ như thế cho đến khi hết nửa tạ vàng thì vua lại phải đem

cầm hết mọi thứ và lại phải lui về lâu đài trong rừng ăn khoai tây.

Vua còn có một con chim ưng. Một hôm, vua đem nó ra đồng

định kiếm lấy một cái gì ăn cho ngon một tí. Chim ưng cất cánh

bay, tới khu rừng thiêng âm u, vua không dám vào nữa. Vua vừa

tới thì có một con đại bàng vút lên đuổi chim ưng. Chim ưng bay về

phía vua. Vua định dùng giáo ngăn đại bàng, nhưng đại bàng quắp

lấy giáo bẻ gẫy như một cây sậy, rồi lấy móng bóp nát chim ưng. Nó

lấy móng kia quặp vào vai vua và bảo:

- Tại sao ngươi đến quấy rối khoảng trời của ta? Tội ngươi đáng

chết, muốn sống phải gả cho ta con gái thứ hai của ngươi.

Vua nói:

- Được, ngươi sẽ được con gái ta, nhưng ngươi cho ta gì.

Đại bàng đáp:

- Một tạ vàng. Trong bảy tuần nữa ta sẽ đến đón nàng về.

Rồi nó thả vua ra, bay thẳng vào rừng.

Vua rất buồn bã vì lại gả con gái thứ hai của mình cho chim dữ.

Vua không dám nói gì với con về việc ấy. Sáu tuần lễ đã trôi qua.

Đến tuần thứ bảy, công chúa ra một bãi cỏ trước lâu đài định giũ

vải phơi cho trắng. Bỗng có một đỗân kỵ sĩ oai phong lẫm liệt đến.

Người đẹp nhất đi đầu nhảy xuống gọi:

Hãy nhảy lên đây, hỡi thiếu nữ yêu kiều

Hãy cùng đi, hỡi cô dâu mới của đại bàng.

Nàng chưa kịp trả lời thì chàng đã đỡ nàng lên ngựa, phi vào

rừng nhanh như cắt. Thôi vĩnh biệt, vĩnh biệt!

Ở lâu đài, người ta đợi mãi chẳng thấy công chúa. Mãi sau vua

mới nhớ ra là có lần trong thế bí đã hứa gả con gái cho một con đại

bàng. Hẳn là nó đã đến đón cô đi. Khi vua đỡ đau buồn chút ít, chợt

nhớ đến lời hứa của chim đại bàng, liền đi đến và tìm thấy trên bãi

cỏ hai quả trứng vàng, mỗi quả nặng nửa tạ. Vua nghĩ bụng: "Cứ

có vàng là ngoan đạo" và xua đuổi tất cả những tư tưởng buồn chán

ra khỏi đầu óc. Cuộc sống vui chơi lại bắt đầu và đến khi hết nhẵn

tạ vàng. Vua lại dọn về lâu đài trong rừng và nàng công chúa còn

lại lại phải luộc khoai tây.

Vua không muốn đi săn thỏ trong rừng hay chim ưng trên trời

nữa, nhưng vua thèm ăn cá. Công chúa phải đan lưới để vua đi đánh

cá ở một cái hồ gần rừng. Ở đó có một chiếc thuyền quăng lưới, kéo

lên được một mẻ cá hương chấm đỏ rất đẹp. Vua định chèo vào bờ thì

thấy thuyền mắc chặt một chỗ, vua loay hoay mãi mà không trèo ra

được. Bỗng có một con cá voi to lớn vùng vẫy ngoi lên hỏi:

- Tại sao ngươi lại bắt những thần dân của ta? Tội ngươi thật

đáng chết!

Nó mở mồm to ra như định nuốt cả vua lẫn chiếc thuyền. Vua

thấy cái mồm kinh khủng của nó thì mất hết cả can đảm, chợt nghĩ

đến cô gái thứ ba liền kêu lên:

- Ngươi tha chết cho ta, ta sẽ cho ngươi con gái út của ta .

Cá voi càu nhàu:

- Được lắm, để rồi ta cho ngươi cái gì nhé. Vàng thì ta chẳng có

vì vàng đối với ta xoàng quá. Nhưng đáy hồ của ta rải ngọc châu, ta

sẽ cho ngươi ba bị đầy. Đến tháng thứ bảy ta sẽ lại đón dâu.

Nói xong con cá lặn xuống.

Vua ghé vào bờ, mang cá hương về nhà, nhưng khi cá đã rán

rồi vua chẳng thiết ăn con nào. Vua nhìn thấy con gái, đứa con độc

nhất còn lại, đẹp nhất, mà vua yêu nhất, thì vua lại nhói lên như

hàng ngàn mũi dao đâm vào thịt. Sáu tháng trôi qua, hoàng hậu và

công chúa chẳng hiểu làm sao mà vua mắt mũi lúc nào cũng ủ rũ.

Đến tháng thứ bảy, đúng lúc công chúa đang đứng ngoài sân,

trước một cái giếng có ống phun nước và hứng một cốc nước đầy thì

bỗng có một cỗ xe sáu ngựa trắng và người mặc quần áo bằng bạc đi

tới. Từ trên xe bước xuống một Hoàng tử rất đẹp, từ thủa nhỏ nàng

không thấy ai đẹp đến như thế. Chàng xin nàng một cốc nước. Nàng

vừa đưa cốc ra thì chàng ôm lấy nàng bế lên xe. Xe ra cửa băng qua

đồng tới hồ:

Thôi vĩnh biệt, thiếu nữ yêu kiều!

Hãy đi đi, cô dâu xinh đẹp của cá voi.

Hoàng hậu đứng bên cửa sổ nhìn thấy cỗ xe chạy xa dần.

Bà thấy vắng con gái, lòng đau xót, bà gọi nàng, tìm nàng khắp

nơi. Nhưng bà chẳng nghe thấy tiếng đáp, chẳng trông thấy nàng ở

đâu. Khi bà biết chắc chắn sự việc, bà òa lên khóc. Vua nói rõ cho

bà biết đầu đuôi: chắc con cá voi đã đến đón nàng đi. Bị buộc phải

hứa gả con cho nó, vua cứ luôn luôn buồn bã. Vua muốn an ủi bà,

bèn cho bà biết sẽ nhận được nhiều của cải. Hoàng hậu không thiết

và bảo đứa con còn lại duy nhất của bà quí hơn tất cả những kho

tàng trên thế gian.

Trong khi Hoàng tử cá voi đến chiếm công chúa, có thị vệ mang

đến lâu đài ba bao nặng. Vua mở ra thấy đầy châu ngọc to bằng hạt

đậu lớn. Vua lại giàu có, giàu hơn trước kia. Vua chuộc lại thành

thị, lâu đài, nhưng vua không trở lại cuộc sống xa hoa nữa. Vua

sống yên tĩnh, tiết kiệm. Mỗi khi nghĩ đến ba con gái yêu, không

biết sống giữa đám thú rừng ra sao, có thể bị chúng ăn thịt rồi, thì

vua mất hết niềm vui.

Không ai an ủi được hoàng hậu. Hạt lệ bà khóc con còn nhiều

hơn cả các hạt ngọc cá voi đã bỏ ra đổi lấy công chúa út. Về sau, bà

mới hơi nguôi nguôi. Cách đó một thời gian, bà lại thật vui vì bà lại

sinh được một cậu con trai xinh đẹp. Đứa con ra thật bất ngờ nên

gọi nó là Rainan, có nghĩa là đứa con kỳ diệu.

Đứa trẻ khỏe mạnh to lớn. Hoàng hậu thường kể cho nó nghe

việc ba chị bị ba con vật bắt giữ ở trong khu rừng thiêng. Khi cậu

mười sáu tuổi, cậu đòi vua cho áo giáp và gươm. Được những thứ đó

rồi, cậu muốn đi phiêu lưu, cậu từ biệt cha mẹ rồi lên đường.

Cậu đi thẳng đến khu rừng thiêng, chỉ nghĩ đến việc tìm các

chị. Lúc đầu, cậu đi lang thang trong rừng rậm, không gặp một

người nào hay một con vật nào. Sau ba ngày, cậu thấy ở trước một

cái hang một thiếu phụ ngồi chơi với một con gấu con. Một con gấu

khác rất bé ngồi trên đùi nàng. Rainan nghĩ bụng chắc là chị cả

mình. Cậu để ngựa lại, đi bộ đến và nói:

- Chị yêu dấu, em là em Rainan của chị, em đến thăm chị đây.

Công chúa nhìn cậu, thấy cậu giống bố y hệt, không nghi ngờ gì

lời cậu nói. Nàng sợ hãi bảo:

- Em yêu dấu ơi, trời ơi! Nếu em còn muốn sống thì em hãy

chạy đi cho nhanh. Nếu anh gấu, chồng chị về thấy em thì nó ăn

thịt em không chút động lòng đâu.

Nhưng Rainan bảo:

- Em không sợ, em nhất định ở lại với chị xem tình hình chị ra

sao.

Khi công chúa thấy không lay chuyển được ý chí của em, nàng

đưa em vào hang tối tăm, đúng là chỗ ở của gấu. Một bên có một

đống là và cỏ khô, Trên đó là nơi chồng cô và các con ngủ, bên kia là

chiếc giường đẹp lộng lẫy, bọc vải đỏ và nạm vàng của công chúa.

Nàng bảo em chui xuống gầm giường và tuồn cho em thức ăn.

Được một chốc, gấu về nhà nói: "Ta đánh hơi thấy mùi thịt

người" và định rúc đầu xuống gầm giường. Công chúa vội gọi:

- Cứ bình tĩnh, có ai mà lại vào đây được!

Mồm còn dính máu, gấu càu nhàu:

- Ta tìm thấy ở trong rừng một con ngựa và ăn thịt nó rồi. Tất

phải có người đi với ngựa, ta đánh hơi thấy rồi.

Rồi nó lại định chui vào gầm giường. Nàng liền đá vào bụng

gấu, nó lộn nhào một cái rồi đi ra ổ nằm, đút cẳng vào mồm mà

ngủ.

Cứ bảy ngày một lần, gấu lại hiện nguyên hình là một Hoàng

tử đẹp trai, hang của nó biến thành một tòa lâu đài lộng lẫy và thú

vật trong rừng biến thành thị vệ, cứ đến ngày ấy, chàng đến đón

công chúa. Những thiếu nữ xinh đẹp ra cửa lâu đài đón nàng, thật

là một buổi hội tưng bừng, nàng vui mừng say sưa ngủ. Nhưng khi

nàng tỉnh dậy thì thấy mình nằm trong hang gấu tối tăm, chồng đã

biến thành gấu càu nhàu ở chân mình. Chỉ có cái giường và tất cả

các thứ khác mà nàng đã sờ đến là vẫn nguyên không biến. Thành

thử nàng cứ sống sáu ngày trong đau khổ, đến ngày thứ bảy thì

nàng được an ủi. Nhưng vì nàng còn trẻ, tuy chỉ được có một ngày,

nàng cũng vui với cuộc sống. Nàng sinh được hai Hoàng tử sáu

ngày hình gấu, chỉ ngày thứ bảy mới là hình người. Mỗi lần như

thế nàng lại nhét đầy các thức ăn ngon lành, bánh trái hoa quả vào

giường rơm để ăn suốt tuần, con gấu vâng lời nàng và nàng muốn gì

nó làm nấy.

Khi Rainan tỉnh dậy thì thấy mình nằm trên giường lụa, người

hầu hạ chầu chực, mặc cho chàng quần áo sang trọng, vì hôm ấy

đúng là ngày thứ bảy. Chị cậu cùng hai Hoàng tử xinh đẹp và anh

rể gấu mừng rỡ bước vào vì thấy cậu đã đến. Thôi thì mọi thứ đều

đẹp lộng lẫy, suốt ngày vui vẻ. Nhưng đến tối công chúa bảo:

- Em yêu dấu, bây giờ thì em liệu đi ngay đi! Đến tang tảng

sáng, chồng chị sẽ lại biến ra gấu. Nếu sáng ngày, anh ấy vẫn thấy

em còn ở đây, anh ấy sẽ không cưỡng lại bản chất gấu mà sẽ ăn thịt

em đấy.

Hoàng tử gấu vừa tới đưa cho cậu vài sợi lông gấu mà dặn:

- Nếu gặp nạn thì em cứ sát lông vào người, anh sẽ đến cứu em

ngay.

Mọi người hôn nhau từ biệt. Rainan lên một cỗ xe thắng sau

ngựa đen, rồi đi. Đường đi vượt núi đèo, qua bãi hoang rừng rậm, qua

bụi qua bờ, không dừng không nghỉ. Mãi cho đến lúc trời hửng sáng

Rainan bỗng thấy mình trên mặt đất, ngựa xe biến mất. Đến khi trời

sáng tỏ, cậu thấy sáu con kiến lật đật đi tới, tha một vỏ hạt dẻ.

Rainan thấy mình vẫn ở trong rừng thiêng, cậu muốn đi tìm

các chị. Cậu lại đi lang thang một mình trong hiu quạnh ba ngày,

nhưng chẳng được việc gì. Đến ngày thứ tư, cậu nghe thấy một con

chim đại bàng bay rào rào rồi hạ xuống tổ. Rainan trốn trong bụi

rậm, đợi đến lúc nó bay đi. Bảy giờ sau nó lại bay lên không.

Rainan bèn nhoi ra, đến trước cây gọi:

- Chị yêu dấu, nếu chị ở trên đấy thì hãy lên tiếng cho em biết.

Em là Rainan, em của chị đây, em đến tìm chị đây.

Cậu nghe có tiếng vọng từ trên xuống:

- Nếu em là Rainan, em yêu của chị mà chị chưa từng nhìn

thấy, thì hãy lên đây với chị.

Rainan định trèo lên, nhưng thân cây to mà lại trơn quá. Cố

trèo ba lần đều uổng công. Bỗng một cái thang tết bằng dây lụa

được thả xuống. Cậu liền trèo lên tổ đại bàng. Tổ vương chắc như

một chiếc bao lơn trên cây thùy dương. Chị cậu ngồi dưới một chiếc

tán bằng lụa màu hồng. Trong lòng nàng ủ một quả trứng đại bàng,

ấp cho nở. Hai người mừng rỡ. Nhưng một lúc sau, công chúa nói:

- Em yêu dấu ạ, thôi em mau mau đi ngay. Nếu đại bàng chồng

chị thấy em thì anh ấy móc mắt ăn tim em mất.

Rainan đáp:

- Không, em cứ ở đây cho đến khi chồng chị biến thành người cơ.

- Việc ấy chỉ xảy ra trong sáu tuần nữa. Nhưng nếu em chịu

được thì em cứ trốn vào trong thân cây rỗng, ngày ngày chị sẽ thả

thức ăn xuống cho.

Rainan chui vào trong thân cây, công chúa ngày ngày thả thức

ăn xuống cho cậu. Hễ đại bàng bay đi thì cậu lại trèo lên với chị.

Sáu tuần sau đại bàng biến thành người. Rainan tỉnh dậy thấy

mình nằm trên giường cũng như ở nhà anh rể gấu, nhưng có phần

lộng lẫy hơn. Cậu sống bảy ngày rất vui vẻ ở nhà anh rể đại bàng.

Đến ngày thứ bảy, từ biệt nhau, đại bàng cho cậu ba chiếc lông và

dặn:

- Gặp cơn hoạn nạn, em hãy xát lông này vào người, anh sẽ lại

cứu.

Rồi người anh rể cho người hầu đi chỉ đường cho cậu. Tới sáng,

bỗng tất cả mọi người biến đâu hết cả, còn lại mình Rainan đứng

trên đỉnh núi cao, giữa cảnh hoang vu rùng rợn.

Rainan nhìn quanh, thấy ở xa mặt nước sáng như gương của

một cái hồ lớn, phản chiếu những ánh nắng đầu tiên sáng loáng.

Cậu nghĩ tới người chị thứ ba, chắc là chị ấy đấy. Cậu liền đi xuống,

len lỏi qua các bụi cây và phiến đá. Cậu đi như vậy ba ngày. Lắm

khi cậu mất hút cả hồ. Nhưng đến sáng ngày thứ tư thì cậu tới bên

hồ. Cậu đứng trên bờ kêu:

- Chị yêu dấu ơi, nếu chị có ở dưới đấy thì hãy lên tiếng, em là

Rainan của chị đây, em đến thăm chị đây.

Nhưng không có ai trả lời. Tất cả đều im lặng. Cậu bẻ vụn

bánh mì ném xuống nước bảo cá:

- Hỡi cá yêu dấu, hãy đi gặp chị ta, bảo là Rainan đứa trẻ kỳ

diệu đã đến đây và muốn đi tới chỗ chị ở.

Nhưng cá hương chấm đỏ đớp bánh mì mà không nghe thấy

cậu nói gì. Cậu thấy có chiếc thuyền liền cởi ngay áo giáp ra, chỉ

cầm trong tay một thanh kiếm trần, nhảy xuống thuyền chèo. Cậu

chèo mãi thì thấy một ống khói xây bằng thạch anh vọt lên trên

mặt nước tỏa ra một mùi thơm êm dịu. Rainan liền chèo thuyền tới

đó, chắc là chị mình sống ở dưới. Rồi cậu ngồi vào trong ống khói

mà tụt xuống. Công chúa bỗng thấy hai chân người vung vẩy thì sợ

quá. Một lát sau, nàng thấy cả thân người tụt xuống, cậu tự nhận

là em nàng. Nàng sung sướng vô cùng, nhưng cũng rất buồn rầu

bảo em:

- Cá voi đã biết tin là em định tìm chị và phàn nàn là nếu em

đến đúng lúc anh ấy là cá voi, thì anh ấy sẽ thèm ăn thịt em, không

nhịn được, anh ấy sẽ đập tan nhà bằng thạch anh của chị, chị cũng

sẽ đến bỏ mình trong ngọn sóng.

- Thế chị có thể dấu em cho qua hạn phù phép không?

- Ấy chết, không được, vì em có thấy là tường bằng pha lê trong

suốt không?

Nàng suy nghĩ mãi, chợt nghĩ đến buồng để củi. Nàng liền xếp

củi thật khéo - trông ngoài không biết được, dấu đứa trẻ kỳ diệu vào

trong. Một lát sau, cá voi đến. Công chúa run như lá liễu rung rung.

Cá bơi mấy vòng quanh tòa nhà pha lê. Khi nó thấy mảnh áo của

Rainan trong đống củi lòi ra, nó quẫy mạnh đuôi, thở phì phò. Nếu

nó mà nhìn thấy nhiều lần nữa, ắt là nó sẽ đập tan nhà ra. Ngày

nào, cá voi cũng đến lượn quanh. Mãi cho đến tháng thứ bảy, hết

phù phép. Rainan thấy mình ở trong một tòa lâu đài còn lộng lẫy

hơn cả lâu đài của đại bàng, ngay chính giữa có một hòn đảo đẹp đẽ.

Cậu sống cả một tháng trời rất là vui vẻ cùng chị và anh rể. Một

tháng sắp hết thì cá voi cho cậu ba cái vẩy mà dặn:

- Nếu em bị hoạn nạn, thì em cứ xát vẩy vào người, anh sẽ giúp

em.

Rồi cá voi lại để cậu chèo vào bờ. Đến nơi, cậu thấy bộ áo giáp

vẫn còn đó. Đứa trẻ kỳ diệu lại đi bảy ngày trong hoang vu. Trong

bảy đêm, cậu ngủ ngoài trời. Bỗng cậu thấy một tòa lâu đài có cánh

cổng bằng thép trên cửa có một cái khóa rất chắc. Phía trước có một

con bò rừng mắt nảy lửa đang canh gác lối vào. Rainan xông đến,

chém mạnh vào cổ nó, nhưng cổ nó bằng thép, gươm gãy tan ra

từng mảnh như thủy tinh. Cậu dùng giáo đâm, nhưng giáo gãy vụn

như là một sợi rơm. Bò rừng lấy sừng ghì cậu, tung cậu lên không,

khiến cậu mắc lủng lẳng trên cành cây. Trong cơn nguy khốn

Rainan chợt nhớ đến ba sợi lông gấu. Cậu xát lông vào bàn tay thì

lập tức có một con gấu lạch bạch chạy ra, đánh bò rừng và xé nó ra.

Nhưng từ trong bụng bò rừng có một con vịt trời vút lên không và

bay đi thật nhanh. Rainan liền xát vào người ba cái lông đại bàng,

lập tức có một con đại bàng reo mây bay đến đuổi theo con chim

đang bay thẳng về phía một cái hồ, sà xuống nó và xé nhỏ nó.

Nhưng Rainan thấy nó thả xuống nước một quả trứng vàng. Cậu

liền xát ba vẩy cá vào lòng bàn tay. Một con cá voi bơi lại ngay,

ngậm quả trứng và nhô lên bờ. Rainan cầm lấy, dùng đá đập vỡ thì

thấy trong đó có một chiếc chìa khóa nhỏ. Đó chính là chiếc chìa

khóa mở được chiếc cửa bằng thép.

Chìa khóa vừa đụng vào khóa thì cửa mở tung ra, Rainan bước

vào. Cậu đi đến đâu, then cửa tự động bật ra đến đấy. Cậu qua bảy

cửa, vào bảy phòng đẹp lộng lẫy, sáng trưng. Ở phòng cuối cùng, có

một thiếu nữ nằm ngủ trên giường. Nàng đẹp tuyệt vời khiến cậu

hoa mắt lên. Cậu định đánh thức nàng dậy, nhưng chỉ mất công vì

nàng ngủ say như chết. Chàng tức quá đập vào một chiếc bảng đen

ở bên giường. Thiếu nữ tỉnh dậy ngay, nhưng lại ngủ tiếp. Chàng

liền cầm lấy bảng, ném lên nền đá, bảng vỡ tan nghìn mảnh. Ngay

lúc đó, thiếu nữ mở mắt ra. Phép thuật tiêu tan. Thiếu nữ ấy là em

gái của ba anh rể Rainan. Vì nàng không chịu yêu một tên phù

thủy, nó đã bắt nàng ngủ say như chết và biến ba anh nàng thành

ba con vật. Phù phép sẽ còn hiệu lực nếu bảng đen vẫn y nguyên.

Rainan đưa nàng ra. Cậu vừa đến trước cửa thì các anh con rể

cưỡi ngựa từ ba phía đi lại cùng vợ con. Nàng vợ đại bàng đã ấp

xong trứng và ẵm lại một cô bé xinh đẹp. Mọi người đi tới gặp vua

và hoàng hậu đã già. Đứa trẻ kỳ diệu đưa ba chị về nhà, và cách đó

ít lâu, chú kết hôn với nàng thiếu nữ xinh đẹp kia.

Khắp nơi đều vui mừng, con mèo chạy về nhà, câu chuyện tôi

kể đến đây là hết.

Ông Vua trong câu chuyện rất giàu có, đúng không nào? Thế

nhưng tại sao ông Vua đó lại phải đem ba cô con gái cho Gấu, Đại

Bàng và Cá Voi? Phải chăng do ông Vua sống rất xa hoa. Qua câu

chuyện, ta thấy rằng: dù giàu có đến đâu nhưng sống xa hoa thì tất

cả của cải phải đội nón ra đi.

Vua trộm

Một hôm, hai vợ chồng bác nông dân già ngồi nghỉ trước túp

lều tồi tàn sau khi làm việc vất vả. Bỗng có một chiếc xe tứ mã lộng

lẫy đến đỗ ngay trước nhà. Một vị ăn mặc sang trọng bước từ trên

xe xuống. Bác giai đứng dậy, tiến đến gần vị quí tộc, hỏi ông cần gì.

Người lạ mặt bắt tay bác và nói: "Tôi chỉ ước ao có một điều là được

ăn bữa ăn nông thôn một lần xem sao. Hai bác hãy nấu cho tôi một

món khoai tây như bác thường nấu, tôi sẽ rất vui sướng được ăn

cùng hai bác".

Bác nông dân cười và nói: "Ngài hẳn là bá tước, hoàng thân hay

hầu tước. Những người lịch sự đôi khi hay thèm như vậy. Tôi xin

làm theo ý thích của ngài."

Bác gái vào bếp rửa và gọt khoai tây để làm món khoai theo

kiểu nông thôn. Trong khi bác gái làm bếp, bác giai bảo khách:

"Trong khi chờ ăn, mời ngài ra vườn cùng tôi. Tôi còn phải làm việc

ngoài đó". Bác đã đào hố để trồng cây.

Khách hỏi: "Bác không có con cái đỡ đần cho à?" "Không - bác

trả lời. Thật ra tôi cũng đã có một thằng con trai, bác nói tiếp,

nhưng nó đi chu du thiên hạ từ lâu rồi. Nó là một thằng hư hỏng,

láu cá và nhiều mưu mô. Nhưng nó lại không muốn học hành gì cả,

chỉ chuyên đi phá quấy. Cuối cùng, nó bỏ nhà đi, và từ bấy đến nay,

tôi không có tin gì về nó cả".

Bác già lấy một cây non đặt vào hố và cắm vào một cái cọc

chống bên cạnh. Rồi bác vun gốc; khi đã đắp được đất khá cao, bác

buộc cây trồng vào cái cọc chống bằng những cây rạ, buộc trên cao,

ở giữa và ở dưới.

"Bác ơi, - vị khách giàu sang nói, - sao bác không buộc cả cọc

chống cho cái cây còi cọc ở trong góc kia cho nó mọc thẳng. Nó mọc

gần sát mặt đất vì thân cây quăn queo".

Bác già cười và nói:

- Ông nói mà chẳng hiểu gì cả. Người ta biết ngay là ông chưa

từng làm vườn. Cái cây ấy đã già cỗi, còi cọc. Không ai có thể dựng

nó mọc thẳng lên được. Phải uốn cây từ lúc còn non.

- Cũng như thằng con bác ấy, - người lạ mặt nói, - khi nó còn

trẻ, nếu bác dạy dỗ nó tử tế thì nó đã không bỏ nhà ra đi, hẳn bây

giờ nó cũng còi cọc rồi.

- Cái đó thì chắc rồi, - bác già nói, - nó đi đã lâu hẳn là nó đã

thay đổi.

- Liệu bác có nhận được ra anh ta nếu anh ta đứng trước mặt

bác không?

- Nhận được mặt nó cũng khó đấy, Bác nông dân trả lời. Nhưng

nó có một dấu vết đặc biệt, một cái nốt ruồi ở vai, giống như hạt

đậu.

Khi bác nói tới đó, người lạ mặt cởi áo ngoài ra, trật vai ra và

chỉ nốt ruồi cho bác nông dân xem.

- Trời ơi! - Bác kêu lên, - đúng là con ta đây rồi. Và tình yêu con

tràn ngập trong lòng bác. - Nhưng, - bác nói thêm, - có thể nào anh

lại là con ta? Con ta trở thành một ông lớn sống trong giàu sang

phú quí! Làm thế nào con lại được như thế?

- Thưa cha! Người con trả lời: - Cây non đã không được buộc

vào cọc chống nên đã cong queo. Bây giờ cây già rồi, không mọc

thẳng lại được nữa.

- Sao con lại được như thế này ư?

- Con đã thành thằng ăn trộm. Nhưng cha đừng sợ. Con là Vua

trộm. Đối với con thì không có khóa, có then cài nào cả. Cái gì con

thích là con chiếm được. Cha đừng nghĩ con là thằng ăn trộm như

một tên trộm tầm thường. Không. Con chỉ lấy cái thừa mứa của nhà

giàu. Những người nghèo thì có thể yên tâm, con còn cho họ là đằng

khác, chứ không lấy của họ. Mà lấy trộm cái gì mà không vất vả,

không cần có mưu mẹo và khéo léo thì con không lấy.

- Ừ, ừ! Bác già nói, - nhưng dù sao, ta cũng không hài lòng về

con. Thằng ăn trộm vẫn là thằng ăn trộm. Ta nói cho con biết, rồi

cũng không ra gì đâu.

Bác dẫn con đến bác gái. Khi nhận ra con trai mình, bác gái

khóc vì vui sướng, nhưng khi bác giai cho biết con là Vua trộm thì

hai dòng nước mắt buồn tủi lại tràn đầy mắt bác. Cuối cùng bác nói:

"Dù nó có là thằng ăn trộm đi nữa thì nó vẫn là con tôi, tôi rất sung

sướng được gặp lại nó".

Mọi người cùng ngồi vào bàn ăn và tên ăn trộm lại được cùng

ăn với bố mẹ cái món ăn đạm bạc mà lâu nay nó không được ăn.

Sau đó người cha bảo: "Nếu ngài bá tước ở trong lâu đài kia mà biết

mày đi ăn trộm thì ông ấy đã không bế mày trong lòng ông mà ru

như hôm làm lễ rửa tội cho mày. Ông ấy sẽ lấy thừng treo cổ mày

lên cho mày đu đưa"

- Cha đừng lo, người con nói, ông ta sẽ không làm gì con đâu:

con thạo nghề của con. Ngay hôm nay, con sẽ đến gặp ông ta.

Đến chiều, vua trộm lên xe đi đến lâu đài. Bá tước tiếp đón anh

một cách kính nể, coi anh là một vị khách cao quý. Khi khách nói

cho chủ biết mình là ai thì ông tái mặt đi và ngồi lặng yên một lúc.

Rồi ông nói:

- Anh là con đỡ đầu của ta. Đáng lẽ phải xử theo pháp luật thì

tha thứ cho anh, xử sự với anh có độ lượng. Anh đã huênh hoang là

Vua trộm, vậy ta thử tài anh xem. Nếu anh thất bại thì sợi dây

thừng sẽ là vợ anh và tiếng quạ kêu sẽ thành nhạc cưới của anh.

- Thưa ngài, tên trộm nói ngài hãy thử thách tôi ba lần thật

khó tùy theo ý của ngài; nếu tôi không làm nổi, thì ngài muốn xử

tôi thế nào cũng được.

Ông bá tước suy nghĩ một lúc, rồi nói:

- Vậy thì, đầu tiên, anh hãy lấy trộm được con ngựa của ta

đang ở trong chuồng. Hai là anh phải lấy trộm được cái khăn trải

giường trong khi vợ chồng ta đang nằm ngủ mà chúng ta không

biết, đồng thời, anh phải rút được cái nhẫn cưới vợ ta đeo ở ngón

tay. Ba là anh phải bắt cóc được cha xứ và người giúp việc ông ngay

trong nhà thờ. Hãy để ý đến các điều đó nếu không thì toi mạng

đấy!

Vua trộm đến một đô thị gần nhất. Anh mua một bộ quần áo cũ

của một bà nông dân rồi mặc vào. Anh bôi mặt thành da màu nâu,

vẽ lên mặt nhiều nếp nhăn. Không ai có thể nhận ra anh. Anh đổ

đầy rượu vang Hung vào một cái thùng to; trong rượu anh trộn một

loại thuốc ngủ rất mạnh. Anh đặt thùng rượu trên một cái giá vác

trên lưng và đi chuệnh choạng, bước chậm chạp đến lâu đài bá tước.

Khi anh đến nơi, thì đêm đã khuya. Anh ngồi trên một hòn đá

ở sân, ho lụ khụ như một bà già đau ngực và xoa tay mạnh vào

nhau như sắp chết rét. Trước cửa chuồng ngựa, lính canh đang nằm

dài quanh đống lửa. Một người trong bọn họ trông thấy bà già, liền

gọi:

- Lại đây mẹ ơi, mẹ hãy lại đây mà sưởi với chúng con. Mẹ

không có nơi ngủ, thì mẹ hãy bạ đâu ngủ đấy vậy.

Bà già loạng choạng bước lại gần, nhờ họ nhấc xuống hộ cái giá

đỡ và thùng rượu, rồi ngồi bên họ.

- Mẹ có gì trong thùng thế? Một người lính hỏi

- Rượu ngon đấy, bà già trả lời, tôi buôn rượu mà. Các chú nói

tử tế và trả cho tôi ít tiền thì tôi vui lòng để các chú uống một cốc.

- Mẹ rót rượu cho con uống thử xem, một chú lính nói. Uống

xong, anh nói: - Nếu rượu ngon thật, con sẽ làm cốc nữa.

Bà rót rượu cho anh, những người lính khác cũng bắt chước

bạn.

- Này! Các bạn ơi, - một người trong bọn họ gọi những người ở

chuồng ngựa, - ở đây có bà mẹ mang rượu vang lâu năm, tuổi rượu

ngang tuổi bà mẹ. Hãy lại đây mà uống, các bạn sẽ ấm bụng hơn

sưởi lửa.

Bà già mang thùng rượu vào chuồng ngựa. Một người lính ngồi

trên con ngựa đã đóng yên của bá tước; một người khác cầm dây

cương, người thứ ba đang tết đuôi ngựa. Bà rót rượu cho mọi người

uống thỏa thích, cho tới khi thùng rượu cạn. Chẳng mấy chốc dây

cương tuột khỏi tay cầm và anh ta lăn ra đất mà ngáy. Người kia

buông đuôi ngựa ra, rồi cũng nằm dài ra đất mà rống to hơn. Người

ngồi trên ngựa thì vẫn ngồi yên nhưng cái đầu thì cúi rạp xuống

gần cổ ngựa; anh ta cũng ngủ và ngáy như kéo bễ lò rèn. Những

người lính ở bên ngoài đã ngủ từ lâu. Họ không động đậy, cứ như

người đá. Khi Vua trộm đã thấy mọi việc đều trôi chảy, anh đặt vào

tay người lính sợi thừng thế cho dây cương, anh đặt vào tay người

lính kia cái chổi rơm thế cho cái đuôi. Nhưng trường hợp thứ ba,

giải quyết người ngồi trên yên ngưa bằng cách nào đây? Anh không

muốn làm cho người lính ngã xuống đất, anh ta sẽ tỉnh dậy và có

thể kêu la lên. Vua trộm tìm được một kế hay: anh tháo sợi dây

buộc yên ngựa ra treo cái yên lên tường bằng những sợi thừng luồn

qua các cái vòng, rồi kéo chàng kỵ mã lên sát trần nhà. Sau đó anh

buộc thật chắc dây thừng vào một cái cột. Loáng một cái, anh đã

tháo được ngựa ra khỏi xích. Nhưng từ lâu đài người ta có thể nghe

thấy tiếng vó ngựa đập trên nền sân bằng đá. Anh bèn lấy giẻ bọc

móng ngựa lại, dắt ngựa cẩn thận ra khỏi chuồng và đi qua sân, rồi

anh nhảy lên ngựa và phi nước đại.

Khi trời sáng, Vua trộm phi ngựa đến lâu đại. Bá tước vừa ngủ

dậy và đứng nhìn qua cửa sổ. "Chào ngài bá tước! Vua trộm kêu to.

đây là con ngựa tôi đã lấy được ra khỏi chuồng ngựa; ngài hãy nhìn

kìa, lính của ngài đang ngủ ngon giấc! Nếu ngài ra chuồng ngựa thì

ngài sẽ thấy quân canh gác của ngài thoải mái như thế nào". Bá

tước không nhịn được cười. Ông nói: "Lần này, anh được cuộc.

Nhưng lần sau thì không dễ may mắn thế đâu. Ta báo cho anh biết

nếu ta bắt được anh đang ăn trộm, thì ta sẽ đối với anh như một tên

ăn trộm".

Buổi tối, khi đi ngủ, bà bá tước nắm chặt tay có đeo nhẫn. Bá

tước bảo vợ: "Tất cả các cửa ra vào đều đóng và cài then chặt. Tôi sẽ

thức để rình thằng ăn trộm. Nếu nó chui cửa sổ nào thì tôi sẽ bắn

hắn".

Vua trộm lẩn vào trong bóng tối, đến cái giá treo cổ, tháo gỡ

xuống một người phạm tội đáng thương treo ở đó; anh cõng cái xác

trên lưng đi đến lâu đài. Anh dựng một cái thang ở dưới cửa sổ

phòng ngủ của bá tước, công kênh xác chết trên vai và trèo lên. Khi

anh lên đã khá cao, đầu người chết đã hiện ra ở cửa sổ, thì bá tước

nằm trong giường vẫn rình, bắn một phát súng lục. Lập tức, tên

trộm để xác người bị treo cổ rơi xuống đất, và nó cũng nhảy xuống

khỏi thang chạy nấp vào một góc. Sáng trăng vằng vặc, nó trông

thấy rõ ràng bá tước trèo thang xuống, vác cái thây ra vườn... Ông

ta đào hố để chôn. Đúng dịp may đây rồi, tên trộm tự nhủ, nó chạy

nhanh ra khỏi nơi đang trốn, leo lên thang và vào phòng bà bá tước:

"Bà nó ơi, tên trộm bắt chước giọng ông bá tước để nói, thằng ăn

trộm đã chết rồi. Nhưng nó là con đỡ đầu của tôi, và nó là thằng bịp

bợm chứ không phải là một tên gian ác. Tôi không muốn đưa ra

công chúng để làm nhục nó. Tôi cũng thương bố mẹ nó nghèo khổ.

Tôi sẽ đem chôn nó ở ngoài vườn trước khi trời sáng để câu chuyện

khỏi vỡ lở. Bà đưa cho tôi cái khăn giải giường để tôi liệm nó rồi

lẳng lặng vùi nó như một con chó" - Bà bá tước đưa cho tên trộm cái

khăn trải giường " À mà này, bà ạ, tôi lại nổi máu hào hiệp đây, bà

đưa tôi cái nhẫn của bà. Thằng xấu số này đã liều mạng vì cái

nhẫn, thôi thì ta cho nó để nó mang xuống mồ". Bà bá tước không

muốn trái ý chồng; tuy miễn cưỡng, bà cũng rút nhẫn ra đưa. Tên

trộm bước ra với hai thứ đã lấy được, nó về nhà không bị cản trở

trước khi ông bá tước chôn xong ở trong vườn.

Sáng hôm sau, ông bá tước ngẩn tò te ra khi tên trộm mang lại

cho ông cái khăn và cái nhẫn!

- Mày là phù thủy à? Ông hỏi. Ai đã kéo mày ra khỏi nấm mồ,

là nơi chính tao đã chôn mày? Ai đã làm mày sống lại?

- Ông có chôn tôi đâu, thưa ông bá tước, tên trộm nói, đó là xác

một người phạm tội đáng thương ở giá treo cổ - Và nó kể lại tỉ mỉ nó

đã làm như thế nào. Ông bá tước phải công nhận nó đúng là một

tên trộm nhiều mưu mẹo.

- Nhưng chưa xong đâu! Ông bảo tên trộm. Mày còn việc cuối

cùng phải làm và nếu không làm được thì tất cả những gì mày đã

làm đều vô ích.

Đến đêm, nó lại nhà thờ làng, vác một cái bao tải to trên lưng,

cắp nách một cái gói, tay cầm một cái đèn. Trong bao tải có cua,

trong gói có những cây nến nhỏ. Tên trộm ngồi ở trong nghĩa địa sát

nhà thờ, lôi một con cua trong bao tải ra, gắn lên mai cua một cây

nến. Nó thắp nến lên rồi đặt con cua xuống đất cho nó bò đi. Nó lấy

con thứ hai, cũng làm như vậy, và tiếp tục đến khi trong bao hết

sạch cua. Lúc đó nó khoác một cái áo lông đen dài, giống cái áo của

cha xứ, và gắn vào cằm một bộ râu dài màu xám. Không ai nhận

được ra nó nữa. Nó vào trong nhà thờ, đứng lên trên bục giảng.

Đúng lúc ấy, chuông đồng hồ điểm nửa đêm. Khi tiếng chuông

cuối cùng đã âm vang, nó kêu gầm, giọng vang lên: "Hãy nghe đây,

hỡi các người tội lỗi. Ngày tận thế đã đến! Ngày phán xử cuối cùng

không còn xa! Hãy nghe đây! Hãy nghe đây! Ai muốn lên thiên

đường thì hãy chui vào cái bao này. Ta là thánh Pê-tơ-rut, làm

nhiệm vụ đóng và mở cửa Thiên đường. Hãy nhìn ra ngoài kia,

những xác chết đang chui ra khỏi mồ và đang gom hài cốt lại. Hãy

lại đây và chui vào bao này, ngày tận thế đã đến!"

Tiếng tên trộm vang khắp làng. Cha xứ và người giúp việc ở sát

nhà thờ, là người nghe thấy trước tiên. Khi họ trông thấy ánh sáng

trong nghĩa địa, họ hiểu là có chuyện bất thường xảy ra và họ chạy

đến nhà thờ. Họ nghe lời phán truyền của tên trộm một lúc. Người

giúp việc lấy khuỷu tay huých cha xứ và nói: "Dầu sao cũng không

nên bỏ lỡ cơ hội, cùng nhau lên Thiên đường không phải khó khăn

vất vả gì cả" - "Nhất định rồi, cha xứ trả lời: Tôi cũng nghĩ thế. Nếu

anh đồng ý thì ta cùng đi" - "Vâng, người giúp việc nói, nhưng người

đi trước phải là cha, con xin đi theo sau". Cha xứ tiến lên trước, trèo

lên bục giảng, ở đó tên trộm đang cầm bao. Cha chui vào bao trước,

theo sau là người giúp việc.

Ngay lập tức, Vua trộm cột chặt miệng bao và kéo bao từ bục

giảng xuống. Mái đầu của hai người ngớ ngẩn chạm phải bậc lên

xuống, tên trộm lại kêu to: "Chúng ta đang leo lên núi!" Cứ như vậy

nó lôi họ đi qua làng, khi qua một vũng nước thì nó lại kêu: "Bây

giờ chúng ta đang qua những đám mây sinh ra mưa đấy!" Và cuối

cùng, khi leo lên bậc thềm của lâu đài thì nó kêu: "Chúng ta đang

trèo các bậc thang lên Thiên đường; chúng ta sẽ vào tiền sảnh!" Khi

trèo lên cao, nó vứt cái bao vào chuồng chim bồ câu; chim đập cánh

thì nó nói: "Các ông có nghe thấy tiếng đập cánh của các thiên thần

đang vui đùa không?" Xong đâu đó, nó đóng cửa chuồng chim lại và

bỏ đi.

Sáng hôm sau, vua trộm đến gặp bá tước bảo đã làm xong việc

thứ ba là bắt cóc cha xứ và người giúp việc ngay trong nhà thờ -

"Thế mày để họ ở đâu", bá tước hỏi - "Họ đang ở một cái bao trên

chuồng chim bồ câu và họ tưởng là đang ở trên trời".

Bá tước đích thân lên xem và thấy tên trộm nói đúng. Khi ông

mở bao cho cho cha xứ và người giúp việc ra, ông nói: "Mày là Vua

trộm và mày đã thắng cuộc. Nhưng mày hãy đi khỏi xứ sở của ta!

Nếu người ta còn thấy mày luẩn quẩn ở đây thì chắc chắn mày sẽ

hết đời trên giá treo cổ". Vua trộm về từ biệt bố mẹ, rồi lại lên

đường đi chu du thiên hạ. Từ đấy, không ai có tin gì về anh ta nữa.

Các em có thấy tên trộm trong câu chuyện có thực sự tài giỏi

không? Nhưng tại sao ông Bá tước lại đuổi ông Vua trộm ra khỏi xứ

sở của mình? Bởi vì không ai ưa những tên trộm các em ạ. Nếu ông

Bá tước không đuổi tên trộm ra khỏi xứ sở của ông thì sẽ có ngày

của cải trong nhà ông sẽ lọt vào tay tên trộm mất thôi, đúng không

nào?

Con rắn trắng

Ngày xưa có một ông vua nổi tiếng trong cả nước là khôn

ngoan. Không cái gì là vua không biết, dường như gió đưa lại cho

vua những tin tức bí mật nhất.

Vua có một thói quen kỳ lạ. Sau bữa ăn trưa, khi đã dọn bàn

xong, không còn ai nữa thì một người hầu tin cẩn bưng thêm vào

cho vua một bát. Bát đậy kín, ngay người hầu cũng không biết

trong có gì. Cũng chẳng ai được biết, vì vua đợi đến khi chỉ còn một

mình mới mở ra ăn. Cứ thế mãi tới một hôm, người hầu quá tò mò,

khi bưng bát không nhịn được nữa, đem bát về buồng mình. Anh ta

khóa cửa cẩn thận rồi mở nắp ra, thấy ở trong có một con rắn trắng.

Anh giữ mồm không được, muốn nếm thử bèn cắt một miếng bỏ

mồm. Anh vừa động lưỡi thì nghe thấy ở bên cửa sổ có tiếng nói rì

rào là lạ. Anh lại nghe, thì ra chim sẻ chuyện trò với nhau, kể cho

nhau nghe chúng đã thấy gì ở đồng ruộng và ở núi rừng. Thì ra

chính vì anh ta ăn rắn mà hiểu được tiếng nói loài vật.

Đúng ngày hôm đó, hoàng hậu mất chiếc nhẫn đẹp nhất và

nghi cho người hầu tin cẩn ấy ăn cắp vì anh ta vẫn được đi lại tự do

trong cung. Vua truyền gọi anh đến, mắng anh thậm tệ, hẹn cho

đến sáng hôm sau nếu không tìm ra được kẻ gian thì sẽ bị coi là thủ

phạm và đem xử tội. Anh kêu oan cũng vô ích, và bị đuổi ra ngoài

một cách tàn nhẫn. Anh lo sợ, xuống sân để nghĩ xem có cách nào

thoát không.

Ở đây có đàn vịt đang chụm nhau ngồi bên dòng nước vừa rỉa

lông vừa chuyện trò bù khú. Anh người hầu đứng nghe. Vịt kể lể với

nhau sáng nay lạch bạch đi đâu, tìm được món gì ngon. Một con cáu

kỉnh nói:

- Bụng tao anh ách khó chịu quá. Trong lúc vội vã, tao nuốt

phải cái nhẫn rơi ở dưới cửa sổ hoàng hậu.

Anh người hầu liền tóm ngay cổ con vịt ấy mang vào bếp bảo

nhà bếp:

- Bác thịt con này đi nhé, nuôi béo lắm rồi đây!

Nhà bếp nhận lời, nhắc vịt lên xem đã nặng chưa rồi nói:

- Chú mày tọng cho đầy, đợi ngày được quay cũng đã lâu rồi

đấy!

Bác ta chặt cổ, mổ vjt. Anh người hầu tìm thấy chiếc nhẫn của

hoàng hậu trong mề vịt nên việc minh oan cũng dễ dàng. Nhà vua

muốn đền bù cho anh, hỏi anh muốn gì và hứa phong cho anh chức

tước cao nhất triều đình.

Anh ta không nhận mặc dù còn trẻ và đẹp trai. Anh chán ngán

không thiết ở lại nữa. Anh chỉ xin một con ngựa và ít tiền ăn đường

đi chu du thiên hạ.

Một hôm, anh đi qua một cái ao thấy có ba con cá bị mắc vào

đám sậy, đang thoi thóp. Người ta nói là cá thì câm, vậy mà anh lại

nghe thấy chúng than vãn vì bị chết một cách bi thảm như thế. Anh

vốn nhân từ, nên xuống ngựa gỡ cá thả xuống nước. Cá vui mừng

quẫy, thò đầu lên kêu:

- Cám ơn ân nhân đã cứu chúng tôi, thế nào chúng tôi cũng xin

trả ơn này!

Anh lại cưỡi ngựa đi. Đi một lúc chợt nghe như có tiếng nói ở

trên cát, ngay dưới chân. Anh lắng tai nghe thấy kiến chúa than

vãn:

- Giá loài người đừng để những con vật thô lỗ đụng đến mình có

phải hay không. Cái con ngựa ngu ngốc này lại sắp lấy móng nặng

giẫm nát trăm họ của ta mà không chút động lòng đây.

Anh bén tránh sang bên đường. Kiến chúa kêu:

- Cám ơn ân nhân, chúng tôi sẽ trả ơn này.

Đi qua rừng, anh thấy bố quạ và mẹ quạ đậu bên tổ vứt lũ quạ

con xuống kêu:

- Cút đi, đồ chết đâm chết chém. Chúng tao không nuôi báo cô

chúng mày mãi được. Nhớn rồi, liệu đi mà kiếm ăn lấy!

Tội nghiệp lũ quạ con nằm xoài dưới đất, cố vỗ cánh kêu...

Chim con yếu ớt, bay còn chưa nổi, kiếm mồi làm sao được! Thôi thì

đành nằm đây chờ chết đói vậy.

Anh thanh niên xuống ngựa, rút gươm chém chết ngựa cho quạ

con ăn. Quạ con nhảy tới ăn no nê rồi gọi:

- Cảm ơn ân nhân, chúng tôi sẽ trả ơn này.

Anh đành đi bộ, đi mãi tới một thị trấn lớn. Trong phố có tiếng

ồn ào, nhân dân xô nhau nghe một người cưỡi ngựa đến báo là công

chúa kén chồng, ai muốn hỏi phải làm một việc rất khó, nếu chẳng

may không làm được thì toi mạng. Có nhiều người đã thử nhưng

đều bị chết. Anh thanh niên trông thấy công chúa đẹp lộng lẫy mê

mẩn cả người, quên hết nguy hiểm, đến tâu vua xin làm rể.

Người ta đưa anh ra bể, vứt trước mặt anh một chiếc nhẫn

vàng xuống nước. Nhà vua truyền cho anh mò chiếc nhẫn lên và

phán:

- Nếu nhà ngươi lên tay không thì sẽ lại bị ném xuống bể cho

đến khi chết đuối.

Mọi người đều tiếc cho đời chàng thanh niên đẹp trai. Chàng ở

lại bờ bể một mình nghĩ xem nên làm gì thì bỗng thấy có ba con cá

bơi lại. Chính là ba con cá mà anh đã cứu trước đây. Con bơi giữa

ngậm ở mồm một con hến và đặt hến lên bãi bể bên chân chàng.

Chàng cầm hến lên mở ra thì thấy ở trong có chiếc nhẫn vàng.

Chàng mừng lắm đem nhẫn dâng vua, tưởng nhà vua giữ lời hứa

thưởng cho mình. Nào ngờ công chúa vốn kiêu kỳ, thấy chàng

không phải môn đăng hộ đối, khinh rẻ chàng và bắt chàng phải làm

việc khó thứ hai. Nàng vào vườn, rắc mười bị kê xuống cỏ và bảo:

- Từ giờ đến sớm mai, trước khi mặt trời mọc, anh phải nhặt

cho kỳ hết kê, không được thiếu hạt nào.

Anh thanh niên ngồi trong vườn nghĩ mãi không biết làm như

thế nào. Anh rầu rĩ ngồi đợi sáng cho người ta dẫn ra pháp trường.

Ánh bình minh vừa chiếu vào vườn thì anh thấy mười bị kê đầy xếp

cạnh nhau, không thiếu hạt nào. Thì ra đêm ấy, kiến chúa đã cùng

hàng nghìn vạn kiến quân kéo đến. Các con vật biết ơn đã cần cù

nhặt kê bỏ bị. Công chúa đích thân xuống vườn xem. Nàng hết sức

ngạc nhiên thấy anh thanh niên đã làm được việc mình giao cho.

Nhưng nàng vẫn chưa hết kiêu kỳ, lại bảo:

- Tuy anh đã làm được hai việc, nhưng muốn lấy ta thì còn phải

dâng ta một quả táo trường sinh .

Anh không biết cây ở đâu, nhưng cũng đành lên đường nhắm

mắt đưa chân một cách tuyệt vọng. Anh đã đi qua cả nước, một tối

kia tới một khu rừng. Anh ngồi xuống gốc cây, định đánh một giấc.

Bỗng thấy trên cành cây có tiếng rào rào, rồi một quả táo vàng rơi

vào tay anh. Cùng lúc có ba con quạ bay xà xuống, đậu lên đầu gối

anh nói:

- Chúng tôi là ba quạ con mà ân nhân đã cứu khỏi chết đói.

Chúng tôi nay đã lớn, thấy ân nhân đi tìm quả táo trường sinh, vội

vượt bể đến tận cùng thế giới là nơi có cây trường sinh để hái quả

táo này.

Anh thanh niên mừng lắm, mang táo về dâng công chúa xinh

đẹp. Nàng không còn hoạnh họe gì được nữa, đem cắt đôi quả táo

cùng anh ăn. Lòng nàng bỗng tràn ngập tình yêu. Hai vợ chồng

hưởng hạnh phúc cho đến lúc đầu bạc răng long.

Các em có muốn mình nghe được tiếng loài vật như người hầu

ở trong truyện này không? Thật là kỳ diệu biết bao nếu điều đó là

hiện thực, đúng không nào? Qua câu chuyện này các em thấy yêu

quý và gần gũi các loài vật hơn.

Người đầy tớ trung thành

Xưa có một ông vua tuổi già lâm bệnh, nghĩ bụng: "Ta chết đến

nơi mất rồi". Vua cho đòi "bác Jôhannơt trung thành" tới. Bác là

người hầu được vua yêu nhất. Bác đã suốt đời tận tụy với vua. Vì

vậy mà vua gọi bác là "bác Jôhannơt trung thành".

Khi bác đến bên giường vua, vua phán:

- Jôhannơt trung thành ơi, ta biết ta sắp chết, ta chỉ băn khoăn

về con ta. Nó còn ít tuổi, dại dột, nếu nhà ngươi không hứa với ta sẽ

dạy cho nó biết những cái gì cần biết và khuyên nó như người cha

thứ hai, thì ta không yên tâm mà nhắm mắt.

Bác Jôhannơt đáp:

- Dù phải hy sinh đến tính mệnh, thần cũng không rời bỏ

hoàng tử. Thần xin thề một lòng một dạ phụng sự hoàng tử.

Vua nói:

- Thế thì ta chết cũng được yên tâm. Sau khi ta đã nhắm mắt

rồi, thì nhà ngươi dẫn cho nó xem toàn thể cung điện, tất cả các

buồng, các phòng, các hầm, cùng tất cả châu báu ở đó, trừ cài buồng

ở cuối hành lang dài có bức chân dung công chúa Mai vàng, vì ta sợ

nó đâm si tình mà ngất đi, rồi sẽ gặp nhiều tai ương. Nhà ngươi

phải bảo vệ nó.

Sau khi nghe "bác Jôhannơt trung thành" thề lần thứ hai, vua

yên lặng, đặt đầu xuống gối, rồi tắt thở.

Tang lễ đã làm xong, bác Jôhannơt trung thành cho vua mới

biết lời mình thề với vua cha bên giường bệnh và nói:

- Thần sẽ giữ lời thề và sẽ tận tụy với bệ hạ cũng như với vua

cha, dù phải hy sinh tính mệnh cũng cam.

Đoạn tang vua cha, bác Jôhannơt trung thành tâu với vua mới:

- Bây giờ là lúc thần phải cho bệ hạ biết kho tàng của người.

Thần xin đưa bệ hạ đưa bệ hạ đi thăm cung điện vua cha để lại.

Bác dẫn vua đi khắp cả cung điện, từ trên xuống dưới, xem tất

cả của báu, trừ cái buồng có bức chân dung nguy hiểm là bác không

mở. Bức chân dung để ở chỗ mà mới thoạt mở cửa là nom thấy

ngay, lộng lẫy trông tựa người thật, đẹp và có duyên nhất trần gian.

Vua thấy đến cửa đó bác Jôhannơt đi thẳng qua liền hỏi:

- Sao nhà ngươi không mở cửa ấy cho ta?

Jôhannơt đáp:

- Dạ bẩm trong đó có cái đáng ngại cho bệ hạ.

Nhà vua nói:

- Ta đã xem tất cả cung điện, giờ ta muốn biết trong buồng này

có gì.

Vua sắp định cố sức ẩn cửa, thì Jôhannơt trung thành vội níu

lại nói:

- Khi vua sắp chết, thần đã hứa không để cho bệ hạ thấy vật ở

trong buồng, nếu không sẽ vạ đến bệ hạ và lẫn cả thần.

Nhà vua đáp:

- Không được. Nếu không vào được thì ta cũng đến héo hon. Ta

sẽ ăn không ngon ngủ không yên, nếu không được thấy cho tận

mắt. Ta cứ đứng lì đây cho đến khi nào ngươi chịu mở cửa ra.

Biết không ngăn được vua, Jôhannơt trung thành buồn bã thở

dài, tìm chìa khóa buồng trong chùm chìa khóa to của bác. Bác mở

cửa buồng vào trước, định che bức chân dung không cho vua trông

thấy, nhưng không được vì vua đứng kiễng lên nhìn qua vai bác.

Khi trông thấy người thiếu nữ đẹp lộng lẫy, đeo toàn vàng ngọc,

vua lăn ra, bất tỉnh nhân sự. Bác Jôhannơt trung thành nâng nhà

vua dậy, mang lên giường và lo lắng nghĩ: "Trời ơi! Tai họa đã xảy

đến rồi. Biết làm sao bây giờ?"

Bác đổ rượu vang cho vua. Vua tỉnh lại hỏi:

- Cô gái đẹp trong tranh là ai?

Jôhannơt trung thành đáp:

- Dạ thưa, đó là nàng công chúa Mai vàng.

Vua nói:

- Ta yêu nàng say đắm. Dẫu tất cả lá cây đều biến ra lưỡi thì

cũng không thể nói hết được lòng ta. Ta phải chiếm được nàng thì

ta mới sống được. Ngươi là Jôhannơt trung thành của ta thì ngươi

phải giúp ta làm việc này.

Người hấu trung thành suy nghĩ mãi, vì riêng việc tìm đến gặp

mặt Công chúa cũng đã khó. Mãi sau bác mới nghĩ ra một mẹo, liền

tâu vua:

- Chung quanh Công chúa, cái gì cũng bằng vàng, từ bàn ghế

đến bát đĩa cốc tách và các đồ gia dụng khác. Bệ hạ có cả thảy năm

tấn vàng. Bệ hạ nên giao cho thợ kim hoàn một tấn để làm đủ các

vật dụng cùng các loại chim, thú rừng, các con vật kỳ lạ. Công chúa

sẽ thích lắm. Ta sẽ đem những của đó đến gặp nàng xem sao.

Vua sai đòi tất cả các thợ kim hoàn trong nước đến bắt làm

đêm ngày cho xong những vật đẹp lộng lẫy. Khi đã đem các thứ đó

xuống thuyền, "bác Jôhannơt trung thành" ăn mặc giả nhà buôn,

vua cũng trá hình như vậy. Vua tôi vượt bể đi đến thành phố của

Công chúa Mai vàng.

"Jôhannơt trung thành" lên bến một mình, dặn vua ở lại chờ.

Bác nói:

- May ra thì thần đem được công chúa về đây. Vậy bệ hạ nên

cho dọn dẹp trang trí con thuyền, bày đồ vàng ra.

Sau đó, bác dắt vào lưng đủ mọi thứ nữ trang, rồi lên bờ đi đến

cung điện vua cha nàng.

Khi vào trong sân, bác thấy một cô gái đẹp ở gần giếng cầm hai

chiếc thùng vàng múc nước. Lúc quẩy nước lóng lánh đi, cô ngoảnh

lại, trông thấy khách lạ, liền hỏi bác là ai.

Bác cởi thắt lưng ra cho cô xem mà nói:

- Tôi là lái buôn, cô ạ.

Cô reo lên:

- Lắm đồ tư trang đẹp thật!

Cô đặt thùng nước xuống, xem từng thứ rồi nói:

- Công chúa thích đồ vàng lắm. Ông cho Công chúa xem, Công

chúa sẽ mua tất cả đấy.

Cô gánh nước đó là thị tì của Công chúa. Cô dẫn bác đến ra

mắt công chúa.

Công chúa thấy đồ nữ trang thích quá, nói:

- Đẹp lắm, ta muốn mua ngay tất cả.

Nhưng "bác Jôhannơt trung thành" bảo nàng:

- Tôi chỉ là đầy tớ của một phú thương. Những đồ này chỉ là

một phần không đáng kể trong số hàng của chủ tôi để ở trên

thuyền. Đồ vàng đó đẹp và quí giá vô cùng.

Nàng muốn bảo đem hàng đến cho nàng xem, nhưng bác

Jôhannơt nói:

- Hàng nhiều quá, phải nhiều ngày mới tải được hết đến đây.

Trong cung điện này e không có đủ phòng mà chứa.

Nàng càng thêm tò mò ao ước, nói:

- Thế bác đưa ta đến xem những vật quí của chủ để dưới

thuyền vậy.

Jôhannơt hớn hở đưa nàng về thuyền. Thấy nàng đẹp hơn cả

trong tranh, vua sướng ngây ngất. Nàng xuống thuyền, vua đón

vào.

Jôhannơt đứng đằng sau bảo người lái cho nhổ neo:

- Căng hết buồm ra cho thuyền lướt nhanh như chim bay.

Trong khi đó, ở trong thuyền, vua cho Công chúa xem bát đũa,

cốc chén, chim, thú rừng và những con vật kỳ lạ bằng vàng.

Nàng mải mê xem, không để ý là thuyền đã nhổ neo đi được vài

giờ rồi.

Xem xong, nàng cảm ơn người phú thương giả để về cung. Ra

tới mạn thuyền, nàng mới biết thuyền đã ra khơi, cánh buồm đương

căng thẳng. Nàng sợ hãi kêu lên:

- Thôi ta bị lừa rồi. Ta bị mắc vào tay một tên lái buôn, thà chết

cho rảnh.

Vua cầm tay nàng bảo:

- Tôi không phải là lái buôn, tôi là vua một nước, chỉ vì quá

yêu nàng nên phải dùng mưu bắt nàng. Lần đầu thoạt tiên trông

thấy chân dung nàng, tôi đã ngã xuống ngất đi.

Công chúa Mai vàng nghe nói yên tâm, cảm kích thuận lấy

vua.

Thuyền đang lênh đênh ngoài khơi thì một hôm, bác Jôhannơt

ngồi đằng mũi chơi đàn bỗng thấy ba con quạ bay đến trước mặt

bác. Bác bèn lắng tai nghe tiếng chúng vì bác hiểu tiếng chúng.

Một con nói:

- Úi chà! Vua bắt Công chúa Mai vàng đem đi về nhà rồi!

Con thứ hai nói:

- Nhưng vua chưa chiếm được Công chúa đâu.

Con thứ ba nói:

- Chẳng chiếm được là gì! Công chúa ngồi bên vua ở trong

thuyền ấy.

Con thứ nhất lại nói:

- Ăn thua gì! Khi vua lên bộ, một con ngựa màu hung sẽ nhảy

lại. Vua mà lên ngựa thì ngựa sẽ bay lên chín tầng mây, vua không

còn bao giờ thấy mặt vợ trẻ ấy nữa.

Con thứ hai nói:

- Có cách nào thoát nạn không?

Con thứ nhất đáp:

- Có chứ! Nếu có một người khác nhảy tót lên ngựa, rút súng ở

yên ra bắn cho nó chết thì cứu được vua. Nhưng ai biết được việc

đó? Người nào biết mà nói với vua thì sẽ hóa đá từ chân đến đầu

gối.

Con thứ ba nói:

- Tao còn biết thêm là dù con ngựa có bị giết chăng nữa vua

cũng không lấy nổi Công chúa đâu! Khi hai người về đến cung điện,

thì thấy một cái đĩa vàng trong đặt một cái áo lót của chú rể trông

như dệt bằng vàng bằng bạc nhưng kỳ thực chỉ là nhựa thông và

diêm sinh. Nếu vua mặc áo lót đó thì sẽ bị thiêu đến xương tuỷ.

Con thứ nhất hỏi:

- Không có cách nào tránh được nạn ấy à?

Con thứ hai đáp:

- Có, miễn là có người đeo bao tay, cầm áo lót ném vào lửa thì

vua thoát nạn, Nhưng cũng chẳng ăn thua gì! Người nào biết mà

nói ra cho vua biết thì sẽ hóa đá từ đầu gối đến quả tim.

Con thứ ba nói:

- Tao còn biết thêm là áo lót có cháy đi nữa, vua cũng vẫn chưa

lấy được vợ, vì sau lễ cưới, nếu cô dâu khiêu vũ thì người bỗng sẽ

tái đi, rồi chết ngất. Nếu không có người nâng nàng dậy, mút ngực

bên phải ra ba giọt máu, rồi nhổ ngay đi, thì nàng bị chết mất.

Nhưng ai biết mà nói ra cho vua biết, thì sẽ hóa đá từ đầu đến

chân.

Ba con quạ nói chuyện xong lại bay đi. Từ khi được biết hết sự

việc, bác Jôhannơt buồn rầu, không nói năng gì cả. Không nói thì

hại đến chúa mà cho chúa biết thì thiệt đến thân, Nhưng sau bác

nghĩ bụng: "Ta nhất định cứu chúa, dù phải hy sinh tính mệnh

cũng cam".

Thuyền cặp bến, sự việc xảy ra đúng như lời quạ nói. Một con

ngựa hung rất đẹp nhảy tới.

Vua nói:

- Được để ta cưỡi nó về cung.

Vua chưa kịp lên ngựa thì bác Jôhannơt đã nhảy lên, rồi rút

súng ở yên ra bắn chết con ngựa.

Những tên hầu khác vốn ghen ghét bác Jôhannơt nhao nhao

lên:

- Nó xược quá! Dám giết con ngựa đẹp đem đến để vua cưỡi về

cung.

Nhưng vua bảo chúng:

- Chúng bay im đi, "Jôhannơt trung thành" của ta làm như thế

chắc là có lý do chính đáng.

Vua và Công chúa về cung thì thấy trên một cái đĩa bằng vàng

có một chiếc áo lót chú rể trông tựa như là dệt bằng vàng bằng bạc.

Vua định lấy áo mặc thì bác Jôhannơt đẩy vua ra, lấy áo ném vào

lửa cho cháy.

Những tên hầu khác lại nhao nhao lên:

- Đấy, nó lại đốt cả cái áo lót cưới của vua.

Nhưng vua lại quở rằng:

- Jôhannơt hết sức trung thành của ta làm thế chắc có lý do,

chúng bay biết đâu.

Hôn lễ đã cử hành. Cuộc khiêu vũ bắt đầu, Công chúa sắp

nhảy. Bác Jôhannơt luôn luôn theo dõi nàng, bỗng thấy nàng tái đi

ngã lăn ra bất tỉnh. Bác vội chạy đến nâng nàng dậy và đem về

buồng đặt nàng lên giường. Rồi bác quì xuống mút ở ngực bên phải

của nàng ba giọt máu, nhổ đi. Công chúa hồi lại. Vua thấy vậy

không hiểu tại sao bác lại hành động như thế, nổi giận thét: "Giam

nó vào ngục".

Sáng hôm sau, bác bị kết án tử hình rồi bị đưa lên giá treo cổ.

Bác trèo hết bậc thang rồi nói:

- Trước khi bị xử tử, tội nhân nào cũng được phép nói, vậy thần

có được phép nói không?

- Được, ta cho phép.

- Thần đã bị xử oan, thần đã luôn luôn tận tụy với bệ hạ.

Rồi bác kể lại cho vua biết bác đã nghe thấy ở trên mặt bể ba

con quạ nói với nhau những gì và tại sao bác đã phải làm những

việc vừa qua để cứa chúa.

Vua bèn kêu lên:

- Tội nghiệp quá! Hãy tha cho Jôhannơt trung thành của trẫm.

Cho bác xuống.

Nhưng bác Jôhannơt vừa nói dứt lời thì ngã lăn ra hóa đá rồi.

Vua và hoàng hậu thấy thế buồn lắm.

Vua nói:

- Jôhannơt đã tận tụy với ta mà ta đã nỡ xử như thế ư!

Rồi vua sai khiêng tượng Jôhannơt vào buồng ngủ, đặt bên

giường mình. Mỗi lần trông thấy tượng, vua lại khóc mà nói:

- Jôhannơt trung thành ơi, ước gì ta làm cho ngươi sống lại

được.

Cách đó ít lâu, hoàng hậu đẻ sinh đôi. Hai đứa con trai lớn lên

là nguồn vui của mẹ. Một hôm, hoàng hậu đi lễ nhà thờ, hai con ở

nhà chơi gần bố. Bố lại ngắm bức tượng thở dài và nói:

- Jôhannơt trung thành của ta ơi, ước gì ngươi sống lại.

Bức tượng bỗng lên tiếng nói:

- Bệ hạ có thể làm trẫm sống lại, nếu bệ hạ chịu hy sinh cái gì

bệ hạ yêu quí nhất.

Vua nói:

- Trẫm sẽ vì ngươi mà hy sinh tất cả cái gì trẫm có ở trần gian.

Tượng đá nói:

- Nếu bệ hạ chịu tự tay chặt đầu hai Hoàng tử lấy máu bôi vào

thần thì thần sẽ sống lại.

Nghe nói, vua rùng mình, không dám tự tay giết con. Nhưng

vua lại nhớ đến ơn người bầy tôi trung thành đã vì mình mà chết,

bèn rút gươm chặt đầu hai con lấy máu bôi vào tượng thì quả là

tượng sống lại. Bác Jôhannơt lại khỏe mạnh tươi tắn đừng trước

vua. Bác tâu với vua:

- Bệ hạ ăn ở có thủy có chung, bệ hạ được hưởng phúc.

Rồi bác cầm lấy hai cái đầu lắp vào thân hai đứa bé, bôi máu

vào chỗ chặt. Hai đứa bé sống lại, chơi đùa chạy nhảy như trước.

Vua mừng lắm. Khi thấy hoàng hậu về, vua giấu bác Jôhannơt

và hai con vào một cái tủ lớn.

Hoàng hậu bước vào nói:

- Lúc nào thiếp cũng nghĩ đến "bác Jôhannơt trung thành" đã

vì chúng ta mà chịu nạn.

Vua bảo:

- Nàng có thể làm cho bác sống lại, nhưng phải chịu hy sinh hai

đứa con mình.

Hoàng hậu tái mặt đi, lòng se lại, nhưng rồi đáp:

- Bác Jôhannơt đã trung thành đối với mình, mình chịu ơn bác

nhiều lắm.

Vua thấy vợ mình cũng chung một ý nghĩ như mình, thích lắm,

đi mở tủ cho bác Jôhannơt và hai con ra và nói:

- Lạy Chúa, bác đã được giải thoát và hai con nhỏ của mình

sống lại.

Rồi vua kể cho hoàng hậu nghe sự việc vừa qua.

Từ đó, vua, hoàng hậu, hai Hoàng tử và bác Jôhannơt cùng vui

hưởng hạnh phúc suốt đời.

Câu chuyện ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của những con người

biết sống có tình, có nghĩa. Con người luôn vượt qua được những

khó khăn, cản trở nếu có tấm lòng cao thượng.

Cuộc ngao du của tí hon

Một bác thợ may có đứa con trai, người chỉ bằng ngón tay cái,

vẫn gọi là Tí hon. Tí hon rất can đảm. Một hôm nó thưa bố:

- Bố ơi, con phải đi ngao du thiên hạ một phen mới được!

Ông bố già đáp:

- Được thôi, con ạ!

Bác lấy cái kim thêu, hơ lên ngọn nến, đính một cái núm bằng

xi vào đó rồi đưa cho con, bảo:

- Đây cho con thanh kiếm đi đường.

Tí hon còn muốn ăn với bố mẹ bữa nữa, nên nó nhảy xuống bếp

xem mẹ nó nấu gì. Nhưng nồi vừa mới đặt lên bếp, Tí hon hỏi mẹ:

- Mẹ ơi, có gì ăn thế?

Bà mẹ bảo:

- Con hãy ngó vào xem.

Nhảy tót lên bếp, vươn cổ dòm vào nồi. Nó vươn mãi cổ vào sâu

quá, hơi thức ăn bay nghi ngút cuốn luôn nó lên ống khói. Nó ngồi

ngất ngưởng trong đám hơi, cứ thế lơ lửng mãi trên không, lúc lâu

sau mới rơi xuống.

Thế là chú bé con bác thợ may có dịp đi ngao du thiên hạ. Chú

đi đây đi đó, rồi đến xin tập việc một người thợ cả. Nhưng ở đây họ

cho chú ăn chẳng được ngon. Chú nói với bà chủ nhà:

- Bà chủ ạ, bà không chịu cho tôi ăn khá hơn thì nhất định tôi

sẽ đi. Sáng mai tôi sẽ lấy phấn viết ngay trước cửa nhà:

Khoai khá nhiều, thịt khá ít,

Thưa đức vua khoai, tôi xin vĩnh biệt.

Bà chủ giận lắm, quát:

- Con chấu ranh kia, mày còn muốn gì hử?

Bà rút cái giẻ lau, định quất chú. Nhưng chú đã mau lẹ bò lên

cái bao ngón tay của bà, rồi từ trên đó chú dòm xuống, thè lưỡi nhạo

bà. Bà tháo bao định chộp chú thì chú lại tót sang cái giẻ mất rồi.

Thừa lúc bà giũ giẻ tìm chú, chú trốn luôn xuống kẽ bàn. Chú thò

đầu lên, giễu bà:

- Ê! Bà chủ ơi!

Lúc bà sắp đánh, chú lẩn xuống ô kéo. Nhưng rồi bà cũng tóm

được và tống chú ra khỏi cửa.

Tí hon lại đi lang thang. Đến cánh rừng kia, chú gặp kẻ trộm

đang bàn nhau đi ăn trộm của vua. Chợt thấy Tí hon, bọn kẻ trộm

sực nghĩ: "Thằng nhãi ranh này nhất định chui lọt lỗ khóa, có thể

dùng nó thay chìa khóa giả được đây".

Một tên gọi:

- Này, ông khổng lồ Gôliat ơi, có muốn nhập với bọn mình đến

kho của báu không? Ông có thể chui vào ném tiền ra cho bọn này.

Tí hon nghĩ một lát rồi bằng lòng nhận. Chú đi với chúng. Đến

nơi, chú ngắm kỹ cửa trên, cửa dưới xem có cái kẽ nào không. Tìm

hồi lâu thấy một khe hở, cũng khá rộng, đủ cho chú lọt qua. Chú đã

sắp chui vào thì bị một tên lính canh cửa nhìn thấy. Nó bảo tên kia:

- Xem kìa, có con nhện gớm ghiếc đương bò kia kìa. Tao phải

dẫm chết nó mới được!

Tên kia can:

- Thôi mặc nó, kẻo tội nghiệp. Nó có làm gì mày đâu!

Thế là Tí hon lọt được vào trong kho. Chú mở cửa sổ chỗ bọn kẻ

trộm đợi rồi nhặt tiền ném ra, cứ từng đồng một. Đương lúc mê mải

chợt có tiếng chân vua vào soát kho. Tí hon vội chuồn ngay. Vua

soát, biết là có nhiều đồng tiền dày đã bị mất nhưng không thể hiểu

kẻ nào đã lấy, vì lẽ then khóa vẫn y nguyên không có chút dấu hiệu

suy chuyển.

Vua đành ra lệnh cho hai tên lính:

- Bay phải coi chừng, có kẻ rình lấy tiền đấy!

Lúc Tí hon tiếp tục hoạt động thì bọn lính đứng ngoài rình

nghe thấy tiếng vàng rơi xủng xoẻng. Chúng vội nhảy vào kho để

bắt kẻ trộm. Nhưng Tí hon nhanh hơn, đã tót được vào một xó,

khuân một đồng tiền lấp lên mình. Chú trêu bọn lính:

- Tớ đây cơ mà!

Lúc bọn lính xô tới thì chú lại chuồn sang xó khác, léo nhéo gọi:

- Này, tớ đây cơ mà!

Bọn lính đến thì chú đã sang xó thứ ba từ lâu rồi. Chú lại gọi:

- Này, tớ đây kia mà!

Cứ thế, Tí hon dử cho hai tên lính chạy quanh đến mệt lử và

phải bỏ cuộc. Chú tiếp tục ném tiền ra ngoài cho bọn trộm hết đồng

này đến đồng khác. Còn lại đồng cuối, chú ra sức quăng mạnh, đoạn

nhảy liền theo, cưỡi tiền bay vút qua cửa sổ.

Bọn trộm hết lời tán tụng chú:

- Quả là tay anh hùng! Chú có muốn là chủ tướng không?

Tí hon cảm ơn. Chú nói, chú còn muốn đi ngao du thiên hạ đã.

Bọn trộm chia nhau số tiền. Tí hon chỉ lấy phần mình có một đồng,

vì có lấy nữa chú cũng chẳng mang nổi.

Chú buộc lại thanh kiếm bên sườn, chào bọn cướp rồi ra đi.

Chú đến nhà mấy bác thợ cả nữa xin làm. Nhưng ở đâu cũng chóng

chán. Sau cùng chú đến làm cho một quán trọ. Đám hầu gái nhà

này không ai ưa chú, chỉ vì họ không nhìn thấy chú, thế mà ai bí

mật làm gì chú đều biết hết. Chú lại hay mách chủ những chuyện

họ ăn uống vụng trộm, hoặc ăn cắp dưới hầm. Họ vẫn đe:

- Liệu hồn! Thế nào cũng có bữa cho mày chết đuối.

Họ bảo nhau xỏ Tí hon một vố. Một hôm, chú đương mải miết

nhảy nhót, leo trèo giữa đám cỏ dại ngoài vườn thì bị một cô hầu ra

cắt cỏ bắt gặp. Tiện tay cô vơ luôn cả Tí hon với cỏ, buộc túm vào

một cái khăn lớn rồi ném cho bò. Một con bò mộng đen nuốt chửng

Tí hon vào bụng. Chú không bị đau đớn gì nhưng nằm trong ấy thật

khó chịu quá, tối như bưng. Đợi lúc có người vào vắt sữa, chú ra sức

gào: Tơrip, torắp, torôn! Sắp đầy thùng chưa?

Tiếng sữa tia rào rào, át mất tiếng chú nên không ai nghe thấy.

Lát sau, chủ quán vào bảo:

- Mai thịt con bò này!

Tí hon sợ quá, lại gân cổ gào:

- Thả tôi ra đã, tôi ở trong này mà!

Chủ quán nghe thấy, nhưng không biết ai gọi ở đâu. Bác hỏi

lại:

- Ở đâu thế?

Tí hon vội đáp:

- Trong bụng con đen ấy mà!

Chủ quán không hiểu nghĩa câu nói, bỏ đi.

Sáng hôm sau, họ thịt con bò đen. Cũng may lúc họ hạ bò rồi xả

thịt, không có nhát dao nào chém phải Tí hon. Chú bị lẫn trong

đống thịt để tra dồi. Lúc người thợ băm dồi vào sắp làm, chú ra sức

bình sinh gào:

- Đừng băm sâu quá! Đừng băm sau quá! Tôi ở dưới đấy!

Nhưng vì dao băm đã gỗ rộn lên nên chẳng ai nghe được tiếng

chú gọi. Giờ mới thật nguy cho chú, nhưng thói thường có khó mới

ló cái khôn, chú nhảy tránh rất tài giữa các đường dao, khiến chẳng

một nhát nào chạm được vào người chú. Chú thoát chết. Tuy thế,

chú vẫn chưa nhảy ra ngoài được. Chú bị họ tra lẫn với miếng mỡ

vào một khoanh dồi tiết. Trong khoanh dồi chật chội quá, đã thế họ

lại còn mắc lên ống khói lò bếp để hun cho kỹ. Tí hon thấy thời gian

lúc này mới dài làm sao!

Nhưng rồi cũng đến mùa đông, họ tháo khoanh dồi xuống. Nhà

có khách, họ định đem dồi đãi khách. Lúc bà chủ thái dồi, sợ lưỡi

dao xoẹt ngang một nhát. Chờ lúc thuận lợi, chú lấy hơi nhảy tót ra

ngoài.

Chú không muốn ở lại nhà ấy nữa, nơi chú đã phải chịu bao

điều đen đủi. Tí hon lại đi giang hồ. Nhưng cuộc đời tự do của chú

cũng chẳng được bao lâu nữa. Chú đang lang thang giữa đồng thì

chạm trán phải một con cáo, nó đớp luôn chú. Chú vội van nài:

- Bác cáo ơi, tôi đấy mà, chả bõ cuống họng bác, chi bằng bác

thả tôi ra!

Cáo đáp:

- Mày nói cũng có lý. Ăn mày cũng như không ăn gì. Mày hứa

cho tao mấy con gà ở nhà bố mày đi, tao sẽ thả.

Tí hon đáp:

- Tôi rất sẵn lòng, nhà có bao nhiêu gà sẽ xin tạ bác hết.

Cáo bèn thả chú ra, lại thân đưa chú về nhà. Ông gặp lại con

mừng quá, nhà có bao nhiêu gà biếu cáo tất.

Tí hon đưa cho bố đồng tiền vàng mà chú đã kiếm được trong

chuyến đi vừa rồi.

- Con có đồng tiền rất đẹp để đến cho bố đây này. Nhưng sao bố

lại chịu để cáo nó thịt hết cả đàn gà con của nhà?

- Ôi, thằng ngốc! Con là đứa con đẻ đứt ruột của bố, lý nào bố

lại quí đàn gà ngoài sân hơn cả con trai.

Các em đã bao giờ phải xa bố mẹ chưa? Chắc là chưa đâu nhỉ!

Các em sẽ gặp rất nhiều rắc rối khi phải xa rời bố mẹ mình. Qua

câu truyện này các em học được một điều: không ở đâu sung sướng,

hạnh phúc hơn là được ở bên cạnh bố mẹ mình.

Mười hai người thợ săn

Ngày xưa có một vị Hoàng tử yêu vợ chưa cưới tha thiết. Một

hôm, chàng đang ngồi bên nàng rất đỗi sung sướng thì nhận được

tin cha ốm sắp chết muốn gặp mặt chàng trước khi nhắm mắt.

Chàng liền bảo người yêu:

- Anh phải từ biệt em đi ngay. Anh tặng em chiếc nhẫn này

làm kỷ niệm. Mai sau anh lên ngôi vua rồi, anh sẽ trở lại đón em.

Chàng lên ngựa ra đi. Khi chàng về gặp vua cha thì vua ốm

thập tử nhất sinh sắp chết đến nơi. Vua cha phán:

- Con yêu dấu ạ. Cha muốn nhìn mặt con một lần cuối cùng

trước khi chết. Con phải hứa với cha là sau khi cha chết đi, con sẽ

lấy vợ theo ý muốn của cha.

Rồi vua cho chàng biết tên một nàng công chúa mà chàng phải

lấy làm vợ. Trong lúc choáng váng cả người, Hoàng tử không suy

nghĩ gì, chỉ thưa:

- Thưa cha, con sẽ làm theo như ý cha.

Nhà vua, nhắm mắt từ trần.

Hoàng tử lên ngôi vua. Hết thời gian tang lễ chàng phải giữ lời

hứa với cha cho đi hỏi nàng công chúa ấy và được nàng nhận lời.

Người vợ chưa cưới đầu tiên của chàng được tin đó buồn bao vì bị

phụ tình ốm suýt chết.

Cha nàng liền hỏi nàng:

- Con yêu dấu, làm sao con buồn rầu thế? Con ước muốn gì, cha

cũng cho.

Nàng nghĩ một lúc rồi nói:

- Thưa cha, con mong ước có mười một thiếu nữ từ mặt mũi,

hình dáng, vóc người đều giống con y hệt.

Vua cha nói:

- Nếu là điều có thể làm được thì điều ước của con nhất định sẽ

thành sự thật.

Vua sai người đi tìm trong khắp nước kỳ cho đến khi được đủ

mười một thiếu nữ giống con gái mình y hệt, từ mặt mũi hình dáng,

đến khổ người.

Khi các thiếu nữ có đến trước công chúa, nàng cho may mười

hai bộ quần áo đi săn y hệt nhau, cho mười một cô mặc vào, chính

nàng cũng mặc một bộ. Sau đó, nàng từ biệt vua cha, cùng họ lên

ngựa đi đến triều đình của người chồng chưa cưới cũ mà nàng đã

yêu tha thiết.

Nàng đến hỏi xem nhà vua có cần thợ săn và có muốn mượn cả

mười hai người không?

Vua nhìn nàng nhưng không nhận ra được. Vua thấy họ đẹp

quá nên đồng ý mượn cả. Thế là họ thành mười hai người thợ săn

của nhà vua.

Nhà vua vốn có một con sư tử. Đó là con vật kỳ lạ biết hết mọi

điều bí ẩn. Một buổi tối nó nói với nhà vua:

- Bệ hạ đinh ninh là có mười hai người thợ săn phải không?

Vua bảo:

- Đúng, đó là mười hai người thợ săn.

Sư tử lại nói tiếp:

- Bệ hạ lầm rồi, đó là mười hai thiếu nữ đấy.

Vua đáp:

- Nhất định không đúng. Người làm thế nào chứng minh được

việc ấy!

Sư tử đáp:

- Ồ dễ thôi, bệ hạ chỉ việc rải đỗ vào phòng thì biết ngay. Đàn

ông bước mạnh nên khi giẫm lên đỗ thì không hạt nào động đậy,

nhưng phụ nữ bước thì thoăn thoắt lại hay xoay chân, hạt đỗ sẽ lăn

đi.

Vua khen là kế hay, cho rắc hạt đỗ.

Nhưng có người hầu nhà vua có lòng tốt đối với những người

thợ săn, nghe thấy nói nhà vua nhất định thử họ, liều đi kể cho biết

hết và bảo:

- Sư tử nó muốn mách nhà vua rằng các người là gái cả đấy.

Công chúa cảm ơn bác ta rồi bảo các cô thiếu nữ:

- Các em cố sức giẫm mạnh lên các hạt đỗ nhé.

Sáng hôm sau nhà vua truyền mười hai người thợ săn đến

phòng có rải hạt đỗ. Các cô thiếu nữ cố giẫm thật mạnh, bước đi của

họ khỏe và chắc đến nỗi không một hạt đỗ nào lăn hoặc chuyển

động, sau khi họ đi khỏi, nhà vua bảo sư tử:

- Mày đánh lừa tao rồi, chúng đi chắc bước, đó là đàn ông.

Sư tử đáp:

- Vì biết là bị thử thách nên họ đã gắng đi cho chắc bước. Bệ

hạn cứ để mười hai chiếc guồng kéo kéo sợi vào phòng, họ sẽ mừng

rỡ và xán lại ngay, đàn ông thì không bao giờ thế.

Nhà vua cho là kế hay, bèn sai để guồng kéo sợi vào phòng.

Nhưng người hầu vốn thật thà với những người thợ săn, đến

nói lộ cho họ biết hết mưu kế. Công chúa bảo riêng mười một thiếu

nữ: "Các em cố nhịn đừng có ngó tới guồng kéo sợi nhé". Sáng hôm

sau vua cho triệu mười hai người thợ săn đến, họ vào phòng không

chú ý gì đến guồng sợi.

Vua lại bảo sư tử:

- Mày đánh lừa tao. Đúng là đàn ông rồi, vì chúng không nhìn

gì đến guồng kéo sợi.

Sư tử đáp:

- Họ biết là bị thử thách nên cố nhịn đấy.

Nhưng vua nhất định không tin sư tử nữa.

Ngày nào mười hai người thợ săn cũng theo vua đi săn, càng

ngày vua càng yêu quí họ. Một hôm trong khi họ đi săn, thì được tin

vợ chưa cưới của nhà vua sắp tới. Người vợ chưa cưới chính thức

nghe vậy đâu khổ quá. Tim bị nhói lên ngã lăn xuống đất bất tỉnh

nhân sự.

Vua tưởng là người thợ săn yêu quí của mình bị làm sao vội

chạy lại cứu... Vua lại tháo bao tay ấy thì thấy chiếc nhẫn mình đã

tặng cho người vợ chưa cưới thứ nhất. Vua nhìn mặt nhận ra nàng.

Lòng vua hồi hộp, vua hôn nàng lúc nàng mở mắt, vua bảo:

- Em là của anh, anh là của em. Thiên hạ không ai thay đổi

được điều ấy.

Vua phái sứ giả đến gặp người vợ chưa cưới kia xin nàng quay

về nước vì vua đã có vợ rồi. Ai đã tìm thấy chiếc chìa khóa cũ thì

không cần đến chiếc mới nữa.

Sau đó hôn lễ được cử hành. Sư tử được tha tội, vì quả là nó nói

đúng sự thật.

Câu truyện ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người con gái và tình

yêu bất diệt. Với tình yêu chân chính, con người luôn tìm được hạnh

phúc dài lâu.

Ba sợi tóc vàng của quỷ

Ngày xưa, ở một làng kia, có một người đàn bà nghèo sinh được

một đứa con trai. Khi nó ra đời, người ta tiên tri là năm mười bốn

tuổi, nó sẽ lấy được công chúa. Vào lúc đó, nhà vua vi hành qua

làng, không một ai biết. Vua hỏi trong làng có sự gì lạ không, thì

dân làng tâu:

- Gần đây có một đứa trẻ mà người ta tiên tri là năm mười bốn

tuổi, nó sẽ lấy được công chúa.

Nhà vua vốn độc ác nghe nói như vậy tức lắm, liền đến ngay

nhà bố mẹ đứa trẻ, giả vờ thân mật bảo:

- Các bác nghèo khó, hãy giao con cho tôi để tôi chăm sóc nó

cho.

Hai vợ chồng nhà kia trước con từ chối, sau thấy người lạ mặt

đưa cho nhiều vàng, nghĩ bụng: "Con mình là đứa tốt số. Như thế

lại hay cho nó", nên cuối cùng bằng lòng trao con.

Vua đặt đứa trẻ vào một cái hòm, cưỡi ngựa tới một chỗ nước

sâu, ném hòm xuống, nghĩ thầm: "Thế là con gái ta thoát khỏi tay

anh chàng rể bất đắc dĩ này".

Nhưng cái hòm không chìm, cứ nổi như một chiếc tàu nhỏ,

nước không thấm vào một giọt. Hòm trôi lềnh bềnh cách kinh kỳ

hai dăm, đến cửa cổng một cối xay thì bị mắc lại. May lúc đó có

thằng bé xay bột trông thấy, lấy móc kéo vào. Nó tưởng trong có

của, nhưng khi mở ra thì thấy một đứa bé khỏe mạnh, khôi ngô. Nó

mang đứa trẻ về cho chủ. Hai vợ chồng này không có con, nên mừng

lắm.

Họ hết sức chăm sóc, đứa bé hay ăn chóng lớn.

Một hôm, tình cờ vua vào nhà xay để tránh mưa. Vua hỏi vợ

chồng người xay bột có phải gã thanh niên cao lớn là con trai họ

không.

Họ đáp:

- Tâu bệ hạ không phải, đó là đứa trẻ nhặt được cách đây mười

bốn năm. Nó nằm trong một cái hòm trôi dạt tới cửa cổng, thằng bé

xay bột nhà chúng tôi đã vớt nó lên.

Vua nghĩ thầm chắc là đứa bé tốt số mà mình đã vứt xuống

nước trước kia, bèn nói:

- Này ta muốn nhờ gã này mang một lá thư đến cho hoàng hậu,

có được không? Ta sẽ thưởng cho hai đồng vàng.

Bố mẹ nuôi vâng lệnh bảo gã chuẩn bị đi.

Vua viết thư cho hoàng hậu nói: "Khi gã thanh niên mang thư

này đến, thì giết nó ngay và chôn nó đi. Phải thi hành mệnh lệnh

này trước khi ta về".

Chàng thanh niên cầm thư lên đường, nhưng đi lạc đến một

khu rừng to. Trong đêm tối, chàng thấy một ánh đèn, lại gần thì là

một cái nhà nhỏ.

Chàng vào nhà thấy một bà lão ngồi một mình bên bếp lửa. Bà

lão thấy chàng, hoảng sợ hỏi:

- Con ở đâu đến? Con đi đâu?

- Con ở nhà xay đến. Con phải mang thư đến cho hoàng hậu,

nhưng bị lạc trong rừng. Con muốn xin ngủ lại đêm nay ở đây.

- Tội nghiệp! Con lạc vào nhà kẻ cướp rồi. Chúng về thì chúng

sẽ giết con.

- Thôi, muốn ra sao thì ra. Cháu chẳng sợ. Vả lại cháu mệt quá,

không đi được nữa đâu.

Chàng nằm lên ghế dài ngủ.

Lát sau bọn cướp về, tức giận hỏi gã thanh niên nào ngủ đó.

Bà lão nói:

- Trời ơi! Thằng bé có tội tình gì đâu! Nó lạc vào rừng, tôi

thương tình cho nó vào đây. Nó phải mang thư cho hoàng hậu đấy.

Bọn cướp bóc dấu niêm phong thư thấy nói là phải giết ngay

người mang thư này. Bọn cướp tuy nhẫn tâm mà cũng động lòng,

tên tướng cướp xé tan lá thư đó, viết lá thư khác đại ý nói phải gả

công chúa ngay cho chàng thanh niên mang thư này đến. Họ để cho

chàng ngủ yên đến sáng. Sáng hôm sau, họ giao thư cho chàng và

chỉ đường cho đi.

Hoàng hậu nhận được thư, theo lệnh tổ chức đám cưới linh

đình, gả công chúa cho chàng tốt số.

Chú rể đẹp trai và tốt nết, công chúa sống với chồng hạnh phúc

lắm.

Sau đó ít lâu, vua về, thấy lời tiên tri đã thành sự thật, đứa bé

tốt số đã lấy con mình, bèn nói:

- Chẳng hiểu sao lại thế, trong thư ta ra lệnh khác cơ mà.

Hoàng hậu lấy thư đưa vua xem. Vua thấy thư đã bị đánh tráo,

bèn hỏi con rể thư cũ đâu, sao lại đánh tráo thư khác.

Chàng đáp:

- Tâu bệ hạ, con không biết. Chắc ban đêm con ngủ trong rừng,

thư đã bị đánh tráo.

Vua tức giận nói:

- Như thế không ổn. Muốn lấy con ta thì phải xuống âm phủ

nhổ ba sợi tóc vàng của con quỉ đem về nộp ta. Nếu người làm nổi

thì vẫn được phép làm chồng con ta.

Vua định làm như thế để tống khứ chàng thanh niên đi.

Nhưng chàng đáp:

- Con không sợ quỉ, con sẽ lấy được tóc vàng về.

Chàng bèn cáo từ vua ra đi.

Khi chàng đến một thành phố lớn, lính canh hỏi chàng làm

nghề gì và biết những gì.

Chàng đáp:

- Gì cũng biết.

Lính canh nói:

- Thế anh bảo giùm chúng tôi tại sao giếng ở chợ chúng tôi

trước kia luôn chảy ra rượu vang, mà nay lại cạn hẳn đi, đến một

giọt nước cũng không còn.

Chàng nói:

- Chờ khi tôi về, tôi sẽ bảo cho biết.

Chàng lại đi, đến một thành phố khác. Lính canh cũng hỏi

chàng làm nghề gì và biết những gì.

Chàng lại đáp:

- Gì cũng biết.

Lính canh nói:

- Thế anh bảo giùm chúng tôi biết tại sao trong thành chúng tôi

có cây táo trước kia ra quả vàng mà nay đến một chiếc lá cũng

không còn?

Chàng lại đáp:

- Chờ tôi về, tôi sẽ cho biết.

Chàng lại đi, đến một con sông lớn.

Người lái đò hỏi chàng làm nghề gì và biết những gì.

Chàng đáp:

- Gì cũng biết.

Người lái đò nói:

- Thế anh bảo giùm tôi biết tại sao tôi cứ phải chở đò qua lại

trên khúc sông này không có ai thay.

Chàng đáp:

- Để khi trở về tôi sẽ bảo cho biết.

Qua sông đến bến, chàng thấy cửa âm phủ tối om, ám khói.

Con quỉ đi vắng. Ở nhà chỉ có một bà già ngồi trong một chiếc ghế

bành rộng. Bà không có vẻ ác. Bà hỏi:

- Cháu muốn g´?

- Cháu muốn lấy ba sợi tóc của con quỉ, nếu không thì mất vợ.

- Kể thì quá đấy. Nếu con quỉ về mà thấy cháu ở đây thì chắc

chắn là cháu mất đầu. Nhưng thôi, ta thương hại cháu, để xem có

cách nào giúp cháu không.

Bà làm phép cho chàng biến ra kiến và bảo:

- Cháu hãy bò vào trong áo ta thì mới toàn tính mệnh được.

- Vâng, quí hóa quá, nhưng con còn muốn biết ba điều:

"Một là tại sao giếng nước trước kia chảy ra rượu vang, nay

bỗng cạn hẳn, không còn một giọt nước?

Hai là tại sao cây táo kia trước có quả táo vàng mà giờ không

có đến một cái lá?

Ba là tại sao bác lái đò kia cứ phải chở đò mãi, không có ai

thay".

Bà già nói:

- Ba câu hỏi này khó thật, nhưng cháu cứ yên tâm, lắng tai

nghe con quỉ nói khi ta nhổ ba sợi tóc vàng của nó nhé.

Đến tối con quỉ về nhà. Vừa vào cửa, nó đã ngờ ngợ thấy mùi gì

lạ. Nó nói:

- Quái, ta ngửi như có mùi thịt người ở đây, có phải không?

Bà lão chế nó:

- Tôi vừa quét dọn ngăn nắp, bây giờ anh lại lục tung cả ra. Lúc

nào mũi anh cũng chỉ ngửi thấy mùi thịt người. Thôi ngồi xuống ăn

đi.

Ăn uống xong, con quỉ thấy mền mệt, tựa đầu vào gối bà già và

bảo bà bắt chấy cho. Được một lát, nó thiu thiu ngủ rồi ngáy khò

khò. Bà già nhổ một sợi tóc vàng của nó, để bên mình.

Con quỉ hỏi:

- Ái chà, bà làm gì thế?

Bà lão nói:

- Tôi mộng thấy sự không lành, nên tôi đã nắm tóc anh đấy.

Con quỉ hỏi:

- Bà mộng thấy gì?

- Tôi nằm mộng thấy giếng ở chợ trước kia thường chảy ra rượu

vang, nay cạn hẳn, đến một giọt nước cũng không còn? Tại sao thế?

Con quỉ đáp:

- Chà! Nếu biết thì đã chẳng nên chuyện. Dưới tảng đá ở đáy

giếng có một con cóc. Đem giết nó đi thì rượu vang lại chảy ra.

Bà lão lại bắt chấy cho con quỉ. Quỉ lại ngủ, Ngáy rung cả cửa

kính. Bà già lại nhổ một sợi tóc nữa.

Quỉ cáu, nói:

- Ô hay, làm gì thế?

Bà lão đáp:

- Anh đừng giận nhé, tôi lại mộng đấy mà.

- Lại mộng gì nữa thế?

- Tôi thấy ở một nước nọ có một cây táo trước kia thường vẫn ra

quả vàng mà nay đến một cái là cũng chẳng còn. Tại sao thế?

- Chà! Nếu biết thì đã chẳng nên chuyện. Có một con chuột

nhắt gặm rễ cây. Giết nó đi thì cây lại ra quả vàng. Nếu để chuột

gặm mãi thì cây đến chết mất. Nhưng thôi, đừng có mơ mộng gì nữa

nhé, để cho tôi ngủ yên, nếu còn làm tôi thức giấc, tôi sẽ tát cho

đấy.

Bà lão dỗ dành con quỉ, rồi lại bắt chấy cho nó. Nó lại ngủ và

ngáy. Bà nhổ sợi tóc vàng thứ ba của nó.

Con quỉ chồm dậy, kêu lên và toan đánh bà, nhưng bà lại nói

ngọt rằng:

- Khốn nỗi cứ mộng mãi thì biết làm thế nào?

Con quỉ tò mò hỏi:

- Bà còn mộng thấy gì nữa?

- Tôi chiêm bao thấy có một người lái đò than phiền là cứ phải

chở đò qua lại mãi mà không có người thay. Tại sao thế?

Quỉ đáp:

- Ngốc quá. Nếu có ai muốn qua sông, thì hắn chỉ việc trao mái

chèo cho người ấy là thoát, và người kia sẽ chở đò thay hắn thôi.

Sau khi đã nhổ ba sợi tóc vàng của con quỉ và đã được nghe nó

trả lời ba lần, bà già để cho nó ngủ đến sáng.

Con quỉ bước chân ra khỏi cửa, thì bà liền bắt con kiến ở trong

nếp áo bà ra, hóa phép biến nó lại thành người.

Bà lão nói:

- Đây ba sợi tóc vàng đây, còn ba câu trả lời của con quỉ thì

cháu nghe được rõ rồi chứ?

Chàng đáp:

- Vâng, cháu đã nghe rõ rồi, cháu sẽ nhớ kỹ.

Bà lão bảo:

- Thôi thế mày thoát rồi nhé. Lên đường về được rồi đấy.

Chàng cảm ơn bà lão đã giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn.

Chàng đi khỏi âm phủ, Trong lòng phấn khởi vì mọi việc đều được

như ý.

i chàng gặp bác lái đò, bác xin chàng giải đáp cho như chàng đã

hứa.

Chàng tốt số nói:

- Bác hãy chở tôi sang bờ bên kia, tôi sẽ bảo bác cách giải thoát.

Tới bờ, chàng cho bác biết câu trả lời của con quỉ:

- Nếu có người muốn qua sông thì bác chỉ việc đặt mái chèo vào

tay người ấy rồi đi.

Chàng lại lên đường, đến thành phố có cây trụi quả. Lính canh

cũng đang chờ chàng giải đáp. Chàng nhắc lại lời của con quỉ:

- Giết con chuột nhắt gặm rễ cây đi, thì cây lại ra quả táo vàng.

Họ cám ơn chàng và biếu chàng hai con lừa tải nặng vàng.

Sau cùng, chàng đến thành phố có giếng cạn. Chàng cũng nhắc

lại lời con quỉ:

- Có một con cóc ngồi dưới hòn đá ở đáy giếng, phải tìm nó giết

đi, thì rượu vang lại chảy ra nhiều.

Lính canh cảm ơn chàng và cũng tặng chàng hai con la trở

nặng vàng.

Chàng về tới nhà; vợ chàng vui mừng khôn xiết, vì lại trông

thấy mặt chồng và thấy chồng đi gặp được mọi việc đều như ý.

Chàng dâng vua ba sợi tóc vàng của con quỉ. Vua thấy bốn con

la tải nặng vàng, mừng lắm, nói:

- Nay con đã làm xong mọi việc ta giao cho, thì con vẫn được

lấy con gái ta. Này con, con lấy đâu ra nhiều vàng thế? Thật là một

kho tàng vô giá!

- Con lấy ở bên kia sông, đó là cát trên bờ.

Vua tham lam, hỏi:

- Ta có lấy được không?

Chàng rể đáp:

- Bẩm muốn lấy bao nhiêu cũng được ạ. Bệ hạ bảo người chở đò

đưa sang bờ bên kia thì tha hồ lấy.

Ông vua tham lam kia vội lên đường ngay. Đến bờ sông, vua ra

hiệu cho bác chở đò đưa qua sông.

Người lái đò mời vua xuống thuyền. Khi sang đến bờ bên kia,

bác đặt mái chèo vào tay vua rồi nhảy lên bờ. Thế là ông vua, vì

tham của mà chịu tội thành anh lái đò.

- Thế vua còn trèo đò nữa không?

- Sao! Thì đã có ai cầm mái chèo cho nhà vua đâu!

Các em vừa được đọc một câu truyện thật là hấp dẫn. Chàng

trai trong truyện có xứng đáng làm Vua của một nước sau khi ông

Vua tham lam và độc ác trở thành người lái đò không? Chàng là

một con người dũng cảm, nhân hậu và có trái tim tràn ngập tình

yêu nên chàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc, đúng không nào?

Hai anh em

Xưa có hai anh em, anh thì giàu mà em thì nghèo. Người anh

giàu có làm nghề thợ vàng, tính vốn ác nghiệt. Người em tết chổi

bán kiếm tiền ăn, tính tình hiền hậu ngay thật. Người em có hai

con, đẻ sinh đôi giống nhau như hai giọt nước. Hai đứa bé thỉnh

thoảng vẫn lui tới nhà bác để hòng kiếm thức ăn thừa.

Một bữa kia, người em vào rừng đốn củi bỗng thấy có con chim

toàn vàng, xưa nay anh chưa từng thấy. Anh nhặt một viên sỏi

ném, may trúng chim, nhưng chỉ rụng có một chiếc lông vàng còn

chim bay mất. Anh lại nhặt cái lông mang về cho người anh. Gã

nhìn rồi bảo: "Vàng thật đấy" rồi gã trả tiền cho em.

Bữa sau, người em trèo lên một gốc bạch dương định chặt lấy

mấy cành, tình cờ lại thấy con chim hôm trước bay đi. Anh tìm một

lát thấy tổ chim, trong có quả trứng vàng. Anh nhặt trứng đem về

cho người anh, gã lại bảo: "Vàng thật đấy" và trả tiền cho em.

Sau rốt, gã thợ vàng bảo: "Ta muốn có cả con chim kia!"

Người em vào rừng lần thứ ba lại thấy con chim đang đậu trên

cây. Anh nhặt đá ném nó rơi xuống, đoạn xách nó về cho người anh,

được gã trả cho một nắm vàng. Anh nghĩ bụng: "Giờ thì ta có thể

sống đàng hoàng rồi đấy". Anh hài lòng lắm, ra về.

Gã thợ vàng vốn là tay tinh quái, ranh mãnh nên gã thừa biết

con chim kia đáng giá bao nhiêu rồi. Gã gọi vợ, bảo: "Hãy mang

quay con chim vàng này cho tôi, nhớ chú ý đừng để mất đi tí gì nhé,

tôi muốn ăn một mình tất cả".

Con chim này đâu có phải giống chim thường. Nó vốn thuộc

một loài rất lạ. Ai ăn được tim gan nó trong vòng mười năm, cứ mỗi

sáng lật gối lên sẽ có một đồng vàng. Người vợ mổ chim xong, cắm

vào một cái xiên bỏ lò quay. Lát sau, chị ta có việc cần đi ra ngoài.

Tình cờ giữa khi ấy, hai đứa nhỏ con người em chạy vào bếp đứng

xem quay chim. Chúng nó xoay cái xiên đi, lại mấy vòng. Thấy hai

miếng gì nho nhỏ rơi từ trong bụng chim xuống lòng chảo, một đứa

bảo: "Ta ăn tí đi, em đói lắm, chẳng ai biết đâu mà sợ". Mỗi đứa

nhặt ăn một miếng. Đang ăn bỗng người đàn bà trở vào thấy rõ

chúng nhai mới hỏi: "Bay ăn gì thế?".

Hai đứa đáp: "Có vài miếng từ bụng chim rơi xuống bác ạ".

"Tim gan nó đấy mà!". Người đàn bà hãi quá. Để chồng khỏi

thấy thiếu mà nổi nóng, chị vội thịt ngay một con gà, moi tim gan

ra bù vào chỗ thiếu ở con chim vàng. Chim chín rồi, chị mang lên

cho chồng. Gã ngốn tất một mình, không còn sót lại lấy một miếng.

Sớm hôm sau, lúc luồn tay xuống dưới gối, gã cứ đinh ninh sẽ được

một đồng vàng nhưng gã chẳng thấy gì hết.

Còn hai đứa nhỏ, chúng không ngờ vận may đã đến với chúng.

Sớm hôm sau, lúc chúng thức giấc, bỗng có vật gì rơi xuống đất,

tiếng kêu lanh lảnh. Chúng nhặt lên, té ra là hai đồng vàng. Chúng

vội đem vào cho bố. Anh ta ngạc nhiên lắm, cứ tự hỏi: "Đầu đuôi thế

nào đây nhỉ?".

Nhưng rồi sáng hôm sau lại được hai đồng vàng nữa và cứ thế.

Anh ta bèn tìm người anh và kể cho anh nghe câu chuyện lạ. Gã

thợ vàng hiểu ngay ra thế nào rồi, chắc hai đứa bé đã xơi mất cỗ

tim gan trong con chim vàng của gã. Vốn tính tham lam cay nghiệt,

để báo thù, gã mới dọa em: "Các cháu nó rỡn với quỷ rồi đấy! Chú

chớ có lấy vàng và cũng chẳng nên cho chúng ở nhà nữa. Quỷ đã ám

chúng và có thể sẽ còn hại cả chú nữa".

Người em nghe nói sợ lắm, nên mặc dù trong lòng đau như cắt,

anh đành dắt hai con vào rừng, và ngậm ngùi bỏ con lại đó.

Hai đứa trẻ quanh quẩn mãi trong rừng mà chẳng tìm được lối

về, chúng bị lạc càng sâu hơn. Sau gặp một người đi săn hỏi chúng:

"Các cháu là con cái nhà ai thế?".

Chúng đáp: "Chúng cháu là con người tết chổi nghèo". Chúng

kể cho người đi săn biết chuyện cha chúng không muốn giữ chúng ở

nhà chỉ vì sáng nào ở dưới gối của chúng cũng có một đồng tiền

vàng. Người đi săn bảo: "Được, có gì khó khăn đâu, chỉ miễn là các

cháu cứ ở cho ngay thật và chớ làm biếng".

Người đi săn tốt bụng này vốn không có con. Thấy hai đứa trẻ

dễ thương, anh đưa luôn chúng về nhà mình và bảo: "Ta nuôi các

cháu làm con". Anh truyền cho chúng nghề thợ săn và cất hộ chúng

những đồng vàng mà sáng chúng vẫn được, để sau này dùng tới.

Khi hai đứa trẻ đã lớn rồi, một hôm bố nuôi mới dắt cả hai vào

rừng và bảo: "Bữa nay, các con phải bắn thử để ta còn làm lễ cho

các con chính thức vào nghề". Ba người vào chỗ ẩn nhưng họ đợi

mãi chẳng thấy con thú nào mò tới. Bác thợ săn mới ngẩng đầu lên

nhìn bắt gặp đàn vịt trời trắng như tuyết đang xếp theo hình tam

giác bay qua. Bác bảo con lớn: "Thử hạ mỗi góc một con coi nào?".

Người con lớn bắn và đạt được đúng như đúng lời bố dặn. Lát sau

lại có đàn nữa bay tới, lần này chúng xếp thành hình số hai. Bác lại

bảo con thứ hai thử hạ mỗi góc một con. Anh chàng này bắn cũng

đạt. Bố nuôi bảo: "Ta tuyên bố là kể từ nay, các con chính thức vào

nghề". Tiếp đó, hai anh em đưa nhau vào rừng bàn bạc và nhất trí

với nhau điều gì đó. Tối đến, lúc ngồi vào bàn ăn, hai người thưa với

bố nuôi: "Chúng con sẽ chẳng chịu ăn đâu nếu như bố không thuận

cho chúng con một điều".

Bác hỏi: "Các con có điều gì vậy?".

Hai người đáp: "Giờ chúng con đã học thành nghề rồi, muốn đi

thử tài với thiên hạ một phen, xin hãy cho chúng con đi.". Bác thợ

săn vui lòng lắm: "Các con ăn nói đúng như những người thợ săn

dũng cảm, điều mong muốn của các con cũng chính là điều ước

nguyện của bố, các con cứ đi đi, tất sẽ thành công". Ba người lại ăn

uống rất vui vẻ.

Tới ngày đã định, bố nuôi tặng mỗi người một khẩu súng với

một con chó săn. Số vàng dành dụm bấy lâu nay cũng trả cho các

con mang theo tùy ý muốn. Bác đi tiễn các con một đoạn đường. Lúc

chia tay, bác còn cho thêm hai đứa một con dao còn mới sáng loáng

và bảo: "Khi nào các con từ biệt nhau, nhớ cắm con dao này vào một

gốc cây. Lúc trở về, cứ xem dao khắc biết tin nhau. Rút dao ra, nếu

thấy han rỉ tức là người vắng mặt đã chết. Trái lại, dao còn sáng

tức là người còn sống".

Hai anh em đi miết tới một khu rừng to, đi trọn một ngày mà

chưa hết rừng. Họ phải ngủ đêm ở đó và lấy lương khô ra ăn. Lại đi

trọn một ngày hôm sau nữa cũng chưa hết rừng. Lương ăn đã cạn

rồi anh bảo em: "Phải bắn con gì ăn cho đỡ đói". Nói xong anh nạp

đạn và tìm quanh. Thấy con thỏ chạy tới, anh giương súng ngắm

nhưng thỏ kêu: "Hãy tha mạng cho tôi, tôi xin nộp hai con thỏ con".

Nó nhảy ngay vào bụi, sau đó tha ra hai chú thỏ con. Mấy con vật

nhỏ này trông rất đáng yêu, hai người động lòng thương không nỡ

giết. Họ giữ chúng lại và mang theo, hai con thỏ cũng bám rất sát

dấu chân hai người.

Một lát sau đó, lại gặp một con cáo. Hai người định bắn thì cáo

kêu lên: "Hãy tha mạng cho tôi, tôi xin nộp hai con cáo nhỏ". Cáo

tha ra hai chú cáo nhỏ. Hai người cũng không nỡ giết, cho đi cùng

với hai con thỏ. Lát sau, một con sói ở chỗ rừng rậm ra. Hai người

định bắn thì sói kêu: "Hãy tha mạng cho tôi, tôi xin nộp hai con sói

nhỏ". Họ tha hai con sói nhỏ nhập đàn với mấy con kia cùng đi.

Lại gặp một con gấu nhưng gấu cũng tham sống kêu lên: "Hãy

tha mạng cho tôi, tôi xin nộp hai con gấu nhỏ". Hai con gấu nhỏ

được nhập cùng đàn với mấy con trên, thành tám con tất cả.

Sau đó, họ gặp sư tử. Sư tử rũ bờm tiến lại. Nhưng hai người

nào có sợ. Họ giương súng ngắm. Sư tử vội kêu lên: "Hãy tha mạng

cho tôi, tôi xin nộp hai con sư tử con". Nó tha hai con nó ra. Thế là

hai người đã có một đôi sư tử, một đôi gấu, một đôi sói, một đôi cáo,

một đôi thỏ theo hầu. Trong bụng vẫn đói, họ mới bảo hai con cáo:

"Này các chú cáo, các chú vốn ranh mãnh, đa mưu lại nhẹ nhàng,

hãy kiếm cái gì ăn đi".

Cáo đáp: "Cách đây không xa có một thôn nhỏ, bọn tôi vẫn

thường tới đó ăn trộm gà, để chúng tôi xin dẫn đường".

Hai người tìm đường vào thôn, mua ít thức ăn, lại không quên

cho cả mấy con vật ăn rồi tiếp tục ra đi. Hai con cáo vốn đã biết quá

rõ trong vùng ấy chỗ nào nuôi gà, nên chúng chỉ đường cho hai

người thợ săn rất rành.

Đi quanh quẩn đã khá lâu rồi mà vẫn chẳng tìm ra được chốn

nào có việc làm mà lại ở cùng với nhau, nên hai anh em bàn: "Chỉ

còn cách là ta chia tay nhau thôi.". Hai người chia đám súc vật ra,

mỗi người lấy một con sư tử, một con gấu, một con sói, một con cáo

và một con thỏ. Rồi họ từ biệt nhau, hứa sẽ giữ tình anh em trọn

đời và cắm con dao mà bố nuôi đã cho họ lên một gốc cây.

Một người theo hướng đông mà đi, còn người kia lần theo

hướng tây. Người em dẫn đàn súc vật đi tới một thành thị kia, thấy

khắp nơi trong thành treo toàn cờ đen. Chàng rẽ vào một quán trọ

hỏi chủ quán có chỗ cho súc vật của chàng trọ không. Chủ quán đưa

chúng vào một cái chuồng, trên vách chuồng có lỗ thủng. Thế là thỏ

ta chui được ra ngoài đi kiếm một cái bắp cải trắng. Cáo cũng kiếm

được một con gà mái, ăn xong nó lại xơi luôn nốt con gà trống.

Nhưng sói, gấu và sư tử vì thân hình to lớn quá, không vào chuồng

được. Chủ quán bèn dẫn chúng ra một nơi, có con bò sữa đang nằm

trên thảm cỏ, chúng thịt ngay con bò sữa.

Chàng thợ săn lo cho đàn súc vật xong xuôi rồi mới hỏi thăm

chủ quán xem tại sao trong thành chỉ thấy toàn cờ tang.

Chủ quán cho biết: "Sáng mai, công chúa con một của đức vua

qua đời".

Chàng hỏi lại: "Nàng bị ốm nặng hay sao?".

Chủ quán đáp : "Không đâu, nàng vẫn tươi tỉnh khỏe mạnh

nhưng nàng sẽ phải chết".

Chàng thợ săn vẫn hỏi: "Sao vậy?".

- Trước cửa thành có một ngọn núi cao, trên núi có một con

rồng. Năm nào rồng cũng đòi phải hiến cho nó một người con gái

đẹp, bằng không nó sẽ tàn phá cả giang sơn này. Giờ thì con gái đẹp

trong thành đã hết rồi, chỉ còn lại mình công chúa, bắt buộc phải

hiến nàng cho nó thôi. Mai là tới kỳ hạn đó".

Chàng thợ săn lại hỏi: "Thế sao không giết con rồng đi?".

Chủ quán đáp: "Trời ơi, biết bao hiệp sĩ đã bỏ mình với nó rồi.

Vua hứa là nếu ai thắng nổi nó thì sẽ được lấy con gái người, sau

này lại sẽ được hưởng ngôi báu nữa".

Chàng thợ săn không nói gì nữa. Sáng hôm sau chàng lẳng

lặng dẫn súc vật lên núi tìm rồng. Lên đến trên núi chàng thấy có

một ngôi nhà thờ. Trên bàn thờ có ba cốc rượu đầy, bên cạnh có mấy

dòng chữ viết: "Ai uống cạn mấy cốc rượu này thì sẽ trở thành người

khỏe nhất trần gian và sẽ múa nổi thanh kiếm chôn ở dưới bậc

cửa". Chàng không uống rượu mà ra nhấc thanh kiếm ngay nhưng

không sao nhấc nó lên. Chàng đành phải quay lại uống cạn rượu,

lúc này mới đủ sức nhấc nổi thanh kiếm và còn có thể múa nó rất

dễ dàng nữa.

Tới giờ nộp công chúa cho con rồng, cả đức vua, quan nguyên

soái và quần thần đều đi theo để tiễn nàng. Từ xa nàng đã nom

thấy chàng thợ săn đứng trên một ngọn núi. Nàng ngỡ đó là con

rồng đang đợi nàng nên không chịu đi nữa. Nhưng nàng lại nghĩ số

phận của cả thành, nàng lại đành phải đi, bước chân nặng trĩu. Vua

và quần thần quay về, lòng buồn vô hạn, chỉ duy quan nguyên soái

còn phải đứng lại đó để chứng kiến từ xa các việc sắp xảy ra.

Công chúa lên ngọn núi thấy chẳng phải là rồng mà lại là

chàng thợ săn trai trẻ. Chàng an ủi nàng, bảo cho nàng biết là

chàng sẽ cứu nàng, đưa nàng vào trong nhà thờ và khóa cửa lại.

Một lát sau, có tiếng gió cuốn dữ dội rồi một con rồng bảy đầu xuất

hiện. Thấy chàng thợ săn nó ngạc nhiên lắm, hỏi:

- Mi lên núi có việc g´?

Chàng trả lời:

- Ta muốn đọ sức với mi.

Rồng bảo:

- Bao nhiêu hiệp sĩ đã bỏ mình ở nơi đây rồi, ta sẽ cho mi theo

gót chúng.

Tức thì cả bảy cái đầu của nó phun lửa phì phì. Lửa bắt vào cỏ

khô. Chàng thợ săn sẽ chết trong đám khói nếu mấy con vật của

chàng không kịp chạy tới dập tắt. Rồng bèn xông vào chàng. Chàng

vung kiếm, thanh kiếm rít trên không, chém rụng ba đầu rồng. Con

rồng nổi điên, nó bay vút lên cao khạc lửa đồng thời định đâm bổ

xuống. Chàng thợ săn lại chém luôn một nhát, đứt thêm ba đầu

nữa. Con vật đã quá kiệt sức rơi xuống nhưng nó vẫn muốn xông

vào lượt nữa. Chàng lấy hết sức còn lại chém đứt đuôi nó. Chàng

không đánh được nữa bèn gọi mấy con vật của chàng. Chúng xô lại

xé xác con rồng ra thành từng mảnh.

Cuộc chiến đấu đã xong, chàng mở cửa nhà thờ thấy công chúa

đang nằm lăn dưới đất. Trong lúc đánh nhau, nàng đã ngất đi vì

quá sợ. Chàng vực nàng ra ngoài, đợi một lúc nàng đã tỉnh và hé

mắt nhìn chàng mới chỉ cho nàng mấy khúc xác rồng để cho nàng

biết là nàng đã thoát. Công chúa mừng lắm nói: "Rồi chàng sẽ là

chồng thiếp vì cha thiếp có hứa sẽ gả con gái cho ai giết được rồng".

Nàng tháo chuỗi vòng san hô đang đeo ở cổ chia cho mấy con vật để

thưởng công cho chúng, riêng sư tử được chia cái khóa vàng. Còn

chiếc khăn tay thêu tên nàng, nàng đưa tặng chàng thợ săn. Chàng

bèn ra cắt bảy cái lưỡi của bảy đầu rồng, bọc vào khăn giữ cẩn thận.

Sau đó vì bị lửa hun và đánh nhau đã kiết sức, chàng bảo công

chúa: "Hai ta đều đã quá mệt mỏi, ta hãy ngủ một lúc". Công chúa

ưng thuận. Hai người nằm ngay dưới đất. Chàng bảo sư tử: "Mày

hãy ngồi canh đừng cho ai xâm phạm vào chúng ra trong giấc ngủ".

Hai người ngủ. Sư tử nằm cạnh hai người để canh, nhưng vì nó

cũng mệt rồi nên nó gọi gấu bảo: "Mày lại nằm cạnh tao, tao cần

ngủ một lúc, có chuyện gì thì mày đánh thức tao". Gấu lại nằm bên

sư tử nhưng vì gấu cũng mệt nó gọi sói bảo: "Mày lại nằm cạnh tao,

tao cần ngủ một lúc, có chuyện gì thì mày đánh thức tao". Sói lại

nằm bên gấu nhưng vì sói cũng mệt nên nó gọi cáo bảo: "Mày lại

nằm cạnh tao, tao cần ngủ một lúc, có chuyện gì thì mày đánh thức

tao". Cáo lại nằm bên sói nhưng vì cáo cũng mệt nên gọi thỏ bảo:

"Mày lại nằm cạnh tao, tao cần ngủ một lúc, có chuyện gì thì mày

đánh thức tao". Thỏ lại nằm bên cáo nhưng vì chính chú thỏ đáng

thương cũng mệt rồi mà chẳng nhờ được ai canh giùm nên nó ngủ

thiếp đi mất. Thế là công chúa, anh thợ săn, sư tử, gấu, sói, cáo, thỏ

tất cả ngủ say.

Tên nguyên soái vẫn đứng nhìn ở đằng xa, lúc này không thấy

rồng cắp công chúa bay lên, trên núi đâu đấy vẫn yên tĩnh, hắn bạo

dạn đi lên. Lúc đến nơi, hắn thấy mấy khúc xác rồng lăn lóc trên

mặt đất và cách đó một quãng, công chúa với người thợ săn và mấy

con vật đang say sưa ngủ. Hắn vốn là tay gian ác xảo quyệt nên rút

kiếm chặt ngay đầu người thợ săn, rồi hắn bế công chúa xuống núi.

Công chúa thức giấc, thấy thế sợ lắm, nhưng tên nguyên soái đã

bảo: "Nàng giờ ở trong tay ta rồi, nàng phải nói chính ta đã chém

chết con rồng".

Công chúa đáp: "Ta không thể làm được đâu vì đó là công của

người thợ săn với mấy con vật".

Tên nguyên soái rút kiếm ra dọa nếu nàng không chịu nghe

hắn sẽ giết nàng. Công chúa đành phải nhận lời. Ngay sau đó, hắn

đưa nàng đến gặp vua cha. Vua cha vốn đinh ninh là con gái yêu

của mình đã bị quái vật xé xác nên thấy con vẫn sống trở về, vua

vui mừng khôn xiết.

Tên nguyên soái tâu: "Thần đã có công chém được con rồng để

cứu công chúa và cứu nước, nay xin bệ hạ cho thần được lấy nàng

như lời bệ hạ đã hứa hẹn.

Vua hỏi công chúa: "Có đúng như lời của hắn nói không?". Công

chúa đáp: "Thưa đúng như thế nhưng con xin đợi một năm lẻ một

ngày nữa rồi hãy làm lễ cưới". Nàng mong mỏi trong khoảng thời

gian đó may ra có thể được tin tức về người yêu.

Trên quả núi rồng, khi ấy mấy con vật vẫn còn nằm ngủ say

sưa cạnh thân chủ chúng. Bỗng có một con ong bay đến đậu ngay

trên mũi thỏ. Thỏ giơ chân gạt nó rồi lại ngủ. Ong bay đến lần thứ

hai, thỏ cũng gạt nó đi rồi lại ngủ. Ong bay lại lần thứ ba, đốt luôn

vào mũi thỏ. Thỏ giật mình tỉnh dậy. Nó đánh thức cáo, cáo đánh

thức sói, sói đánh thức gấu, gấu đánh thức sư tử. Sư tử tỉnh dậy,

thấy công chúa đã biến mất, chỉ còn chủ nằm chết đó, nó rống lên

rất dữ dội và hét: "Kẻ nào đã làm việc này? Gấu sao mày chẳng

đánh thức tao?". Gấu hỏi sói: "Sao mày chẳng đánh thức tao?". Sói

hỏi cáo: "Sao mày chẳng đánh thức tao?". Cáo lại hỏi thỏ: : "Sao

mày chẳng đánh thức tao?". Thỏ không biết trả lời thế nào, thành

thử tội lỗi đổ cả lên đầu nó.

Mấy con vật kia định xông vào đánh thỏ, thỏ vội khẩn khoản:

"Các anh đừng giết tôi, để tôi sẽ làm cho chủ của chúng ta sống lại.

Tôi biết một quả trên núi, trên có thứ rễ cây, chỉ cần ngậm thứ rễ

cây ấy là bệnh tật thương tích gì cũng khỏi. Nhưng quả núi lại ở

cách đây có tới hai trăm tiếng đồng hồ đường bộ kia". Sư tử bảo:

"Hẹn cho mày nội trong hai mươi bốn tiếng phải tới đó lấy bằng

được thứ rễ nọ về đây".

Thỏ nhảy tót đi ngay. Hăm bốn giờ sau nó đã về, mang theo

thứ rễ nọ. Sư tử vội tha đầu chủ, chắp vào mình như trước, còn thỏ

nhét rễ cây vào miệng chủ. Tức thì đầu lại liền ngay với mình, tim

bắt đầu đập và người chết sống lại. Chàng thợ săn tỉnh dậy thấy

mất công chúa, kinh hoảng lắm. Chàng nghĩ bụng: "Chắc nàng đã

thừa lúc ta ngủ bỏ trốn rồi".

Lúc sư tử chắp đầu cho chủ, nó vội quá nên chắp trái chiều,

nhưng chủ nó đang buồn không để ý. Mãi đến trưa lúc sắp ăn chàng

mới biết là đầu mình ngoảnh lại phía sau lưng. Chàng không hiểu

sao cả, bèn hỏi mấy con vật đã có chuyện gì xảy ra trong khi chàng

ngủ. Sư tử kể rằng khi ấy chúng ngủ hết vì mệt quá, lúc nó tỉnh dậy

thấy chủ đã chết, đầu bị chặt lìa khỏi xác, thỏ đã đi lấy rễ cây

trường sinh, còn nó trong lúc quá vội đã chắp đầu trái chiều, giờ nó

muốn sửa lại thiếu sót ấy. Kể xong, nó rứt luôn đầu chàng thợ săn

ra, xoay trở lại và thỏ lại vội lấy rễ cây chữa cho liền lại.

Chàng thợ săn buồn lắm. Chàng đi đây đi đó, dạy mấy con vật

nhảy múa làm vui cho thiên hạ xem. Đúng một năm sau, chàng trở

lại chỗ thành thị chỗ chàng đã cứu công chúa ngày trước. Lần này

thấy phố xá treo toàn cờ đỏ. Chàng hỏi chủ quán: "Thế là thế nào?

Năm trước phố xá treo toàn cờ đen, năm nay sao lại chỉ thấy treo

toàn cờ đỏ?". Chủ quán đáp: "Năm trước, vua chúng tôi phải tiến

công chúa cho rồng, may nhờ quan nguyên soái đánh nhau với rồng

đã chém được nó. Mai đây là ngày cưới nàng. Chính vì vậy mà năm

trước phố xá treo cờ đen để chịu tang, còn hôm nay treo cờ đỏ để ăn

mừng".

Hôm nay là ngày lễ cưới, đến bữa trưa, chàng thợ săn bảo chủ

quán: "Ông chủ có tin là bữa nay ta sẽ lấy được bánh mì ở tận bàn

tiệc của nhà vua về đây ăn không?".

Chủ quán thưa: "Tôi chẳng dám tin đâu; vâng, tôi xin cuộc với

ngài trăm đồng vàng đây".

Chàng thợ săn nhận đánh cuộc. Chàng cũng đưa ra một cái túi

đựng một trăm đồng vàng. Đoạn chàng gọi thỏ và bảo: "Chú thỏ tài

nhảy nhót, chú hãy vào lấy bánh của nhà vua ăn ra đây cho ta".

Thỏ vốn bé nhất đám, chẳng thể sai khiến con vật nào khác

nên nó đành phải tự thân đi lấy. Nó nghĩ bụng: "Một mình mình

chạy giữa phố thế này tất sẽ bị chó săn đuổi mất thôi". Quả như nó

nghĩ, có mấy con chó rượt theo, muốn lột da nó. Nó chạy nhanh như

biến và lẩn ngay được vào một cái chòi gác mà lính canh chẳng biết

gì hết.

Đàn chó xông lên định lôi nó ra nhưng tên lính canh lại ngỡ

đàn chó muốn rỡn với mình, hắn nổi nóng phang luôn mấy báng

súng. Lũ chó sủa om sòm rồi chạy mất.

Thỏ thấy đã hết nguy, nhảy luôn vào lâu đài. Nó đến thẳng chỗ

công chúa, lẻn dưới gầm ghế nàng ngồi khẽ cào chân nàng. Công

chúa tưởng là con chó của nàng nên mắng: "Mày có đi chỗ khác

không?". Thỏ cào lần thứ hai, công chúa lại mắng: "Mày có đi chỗ

khác không?". Nhưng thỏ không hề bối rối, nó cào lần thứ ba. Công

chúa mới nhòm xuống và nhờ cái dây buộc ở cổ thỏ, nàng nhận được

nó. Nàng bế nó lên, mang vào phòng hỏi: "Thỏ yêu quí ơi, thỏ muốn

gì thế".

Thỏ đáp: "Chủ tôi là người giết rồng hiện đã tới đây. Người sai

tôi vào xin một tấm bánh mì vua vẫn ăn". Công chúa nghe nói

mừng lắm. Nàng cho gọi ngay người thợ làm bánh vào, sai lấy một

tấm bánh, thứ mà vua vẫn thường ăn. Thỏ lại nói: "Xin cho người

thợ làm bánh đem tôi ra ngoài để lũ chó săn khỏi hại tôi".

Người thợ làm bánh đem thỏ đến tận cửa nhà trọ. Thỏ ôm tấm

bánh mì bằng hai chân trước, đi bằng hai chân sau đem vào chỗ ông

chủ. Chàng thợ săn bảo chủ quán: "Thấy chưa, ông chủ quán ơi,

trăm đồng vàng kia là của tôi rồi". Chủ quán kinh ngạc lắm, nhưng

chàng thợ săn đã nói tiếp: "Vâng ông chủ ạ, bánh đã có rồi, giờ thì

tôi lại muốn ăn cả món thịt rán của nhà vua nữa kia!". Chủ quán

bảo: "Để xem nào". Nhưng anh ta không dám đánh cuộc nữa. Chàng

thợ săn liền gọi cáo bảo: "Chú cáo, chú hãy vào lấy món thịt rán của

vua ra đây cho ta".

Con cáo lông đỏ này luồn tài hơn thỏ. Nó cứ tìm ngõ ngách mà

đi nên không bị con chó nào trông thấy. Nó lẻn vào dưới gầm ghế

công chúa ngồi, cào lên chân nàng. Công chúa nhìn xuống, thấy sợi

dây buộc ở cổ cáo, nhận ra nó, đem nó vào phòng, hỏi: "Cáo yêu quí

ơi, cáo muốn gì thế?".

Cáo đáp: "Chủ tôi là người giết rồng, hiện đã ở đây rồi. Người

sai tôi vào xin một miếng thịt rán của vua ăn. Công chúa gọi đầu

bếp, sai làm món thịt rán vua vẫn ăn đem ra cho cáo. Cáo bưng lấy

đĩa thịt, đem về cho chủ.

Chàng thợ săn bảo chủ quán: "Thấy chưa, ông chủ ơi, bánh,

thịt đã có rồi, bây giờ ta muốn ăn món rau của nhà vua nữa".

Chàng gọi sói vào bảo: "Chú sói, chú vào lấy món rau của nhà vua

ăn ra đây cho ta".

Sói chẳng sợ ai cả nên nó vào thẳng trong lâu đài. Nó đến

phòng công chúa, khẽ kéo áo nàng để nàng buộc phải nhìn xuống.

Nàng trông thấy sợi dây buộc ở cổ nó, nhận ra nó mới đưa nó vào

phòng, hỏi: "Sói thân yêu ơi, sói muốn g´?".

Sói đáp: "Chủ tôi là người giết rồng, hiện đã ở đây rồi. Người

sai tôi vào xin món rau của vua ăn".

Công chúa gọi đầu bếp, sai làm món thịt rau vua vẫn ăn đem

ra tận cửa cho sói. Sói bưng liễn rau đem về cho chủ.

Chàng thợ săn bảo chủ quán: "Thấy chưa, ông chủ ơi, bánh,

thịt, rau đã có rồi, bây giờ ta muốn ăn món đồ ngọt của nhà vua

nữa". Chàng gọi gấu và bảo: "Chú gấu, chú vốn thích liếm của ngọt,

chú hãy lấy món đồ ngọt của vua ăn ra đây cho ta".

Gấu lạch bạch chạy vào lâu đài. Dọc đường, ai thấy nó cũng

phải lảng tránh. Tới chỗ lính canh, tên lính giơ súng định ngăn

không cho nó đi. Nó nhẩy ngay lên, và cho tên lính mấy cái tát vào

má phải má trái. Cả cái chòi gác đổ sập. Nó lại thẳng đường vào chỗ

công chúa, đứng sau lưng nàng khẽ gầm gừ. Công chúa quay lại

nhận ra gấu, bèn gọi nó vào phòng hỏi: "Gấu thân yêu ơi, gấu muốn

g´?".

Gấu đáp: "Chủ tôi là người giết rồng, hiện đã ở đây rồi. Người

sai tôi vào xin món đồ ngọt của nhà vua vẫn dùng".

Công chúa vội gọi người thợ làm bánh ngọt, sai làm thứ bánh

ngọt vua thường ăn, mang ra cho gấu.

Gấu liếm đường rơi bên dưới lên cả phía trên rồi nó mới đứng

dậy, bưng âu bánh đem về cho chủ.

Chàng thợ săn bảo chủ quán: "Thấy chưa, ông chủ ơi, bánh,

thịt, rau, đồ ngọt đã có rồi, bây giờ ta lại muốn uống thứ rượu mà

vua thường dùng".

Chàng gọi sư tử vào và bảo: "Chú sư tử, chú vốn thích rượu.

Chú hãy vào lấy thứ rượu nho của vua về cho ta". Sư tử đi ra

đường, ai thấy nó cũng chạy; tới chỗ chòi gác. Lính canh định cản

đường nó, nó rống lên một tiếng, mọi thứ đã bị bắn tung đi hết. Sư

tử đến trước phòng vua, quất đuôi lên cửa. Công chúa ra, thoạt thấy

nó rất kinh khủng, nhưng rồi nàng nhận ra nó nhờ có cái chìa khóa

vàng buộc ở cổ nó. Nàng gọi nó vào phòng, hỏi: "Sư tử thân yêu ơi,

sư tử muốn gì?".

Sư tử đáp: "Chủ tôi là người giết rồng, hiện đã ở đây rồi. Tôi

vào xin thứ rượu nho mà vua vẫn uống".

Công chúa vội cho gọi người hầu rượu, sai đem thứ rượu nho

vua vẫn uống ra cho sư tử. Sư tử nói: "Để tôi đi xem có đúng thứ ấy

không!".

Nó liền đi theo người hầu rượu. Xuống dưới hầm, người này

định lấy thứ rượu thường của bọn người hầu vẫn uống. Sư tử bảo:

"Khoan, đợi ta nếm xem đã!". Nó tự rót lấy nửa bình, tu một hơi cạn

ráo. Nó bảo: "Không phải thứ này". Người hầu rượu liếc trộm nó rồi

ra chỗ thùng rượu khác, định lấy thứ rượu vẫn dành cho quan

nguyên soái. Sư tử lại bảo: "Khoan để ta nếm xem đã!". Nó tự rót

nửa bình nữa, tu cạn: "Có khá hơn nhưng vẫn chưa phải".

Người hầu rượu phát cáu mới nói: "Cái đồ súc vật, ngu độn còn

biết gì về rượu!". Tức thì gã bị sư tử vả ngay cho một cái vào sau

gáy ngã phục xuống bất tỉnh nhân sự. Lúc tỉnh lại rồi, gã không

dám nói gì nữa, cứ lẳng lặng đưa sư tử đến bên một cái hầm đặc

biệt nhỏ nhắn. Trong đó là rượu của vua. Xưa nay ngoài vua ra

không ai được uống.

Sư tử lại rót lấy nửa bình nếm trước. Xong nó bảo: "Có thể

đúng đấy". Nó sai gã kia rót ra sáu chai đầy, rồi cùng đi lên. Lúc ra

tới bên ngoài, nó thấy chuyếnh choáng hơi say. Gã kia đem rượu ra

đến tận cửa cho nó. Nó ngoạm giỏ rượu vào mồm tha về cho chủ.

Chàng thợ săn bảo chủ quán: "Thấy chưa ông chủ, bánh, thịt,

rau, đồ ngọt, rượu nho của vua đã có đủ cả, giờ ta mới cùng mấy con

vật thưởng thức đây".

Chàng ngồi vào ăn uống, lại chia cả cho thỏ, cáo, sói, gấu, sư tử

cùng ăn và uống. Chàng thấy công chúa vẫn yêu mình nên vui lắm.

Ăn xong, chàng bảo: "Này ông chủ, tôi đã ăn uống như vua rồi, giờ

tôi muốn vào triều để xin lấy công chúa đây!". Chủ quán hỏi: "Xin

thế nào được! Công chúa đã có nơi có chốn rồi, mà hôm nay là ngày

cưới kia mà".

Chàng bèn rút túi ra lấy cái khăn tay mà công chúa đã cho

chàng ở trên núi rồng khi trước, trong khăn tay vẫn gói bảy cái lưỡi

của con quái. Chàng nói: "Ta đã có vật này trong tay, nó sẽ giúp ta

làm việc ấy". Chủ quán xem cái khăn rồi bảo: "Tin gì thì tin chứ

điều đó tôi không thể tin được. Tôi sẵn lòng xin cuộc cả nhà cửa,

sân vườn đây!". Chàng thợ săn lại lấy ra một cái túi trong đó có

nghìn đồng vàng, đặt lên bàn rồi nói: "Ta cũng xin cuộc số vàng

này".

Ở bàn ăn trong cung, vua hỏi công chúa: "Mấy con thú cứ đi ra

đi vào trong cung, chúng đến chỗ con có việc gì thế?". Nàng đáp:

"Con chẳng dám tâu trình đâu, xin cha cứ cho người đi gọi chủ

nhân của nó tới đây, cha sẽ rõ".

Vua sai kẻ hầu đến quán trọ mời người lạ mặt. Kẻ hầu đến,

đúng như chàng thợ săn đã đánh cuộc với chủ quán. Chàng bảo:

"Ông thấy chưa, ông chủ, vua sai kẻ hầu đi mời tôi đó, nhưng tôi

chẳng đi như thế này đâu".

Chàng lại bảo người hầu: "Ngươi về tâu vua xin hãy gởi hoàng

bào cho ta, xin hãy cấp cho ta một cỗ xe sáu ngựa với một số quân

hầu".

Vua được tin báo, hỏi công chúa: "Làm sao bây giờ?". Công chúa

đáp: "Xin cứ triệu và cấp mọi thứ như chàng đòi, sẽ không uổng

đâu". Vua bèn sai đem áo hoàng bào với một cỗ xe sáu ngựa cấp cho

chàng, lại cấp cho một số người để hầu hạ chàng. Chàng thợ săn

thấy đoàn người kéo đến, bảo chủ quán : "Thấy chưa, ông chủ, thế

là tôi đã được triệu, đúng như tôi đòi đấy nhé". Chàng mặc áo

hoàng bào, cầm theo chiếc khăn gói lưỡi rồng rồi lên xe vào chầu.

Vua thấy chàng đã đến, hỏi con gái: "Ta tiếp hắn thế nào đây?".

Nàng đáp: "Xin Người cứ ra đón, sẽ không uổng đâu".

Vua bèn đón chàng, đưa chàng vào, mấy con vật cũng đi theo

sau. Vua chỉ cho chàng ngồi cạnh mình với công chúa. Còn tên

nguyên soái ngồi ghế chú rể ở phía bên kia, nhưng gã không nhận

ra được chàng.

Vừa khi đó, bảy chiếc đầu rồng được đem bày. Vua phán: "Bữa

nay, ta gả con gái cho quan nguyên soái là để thưởng cái công đã

chém được bảy chiếc đầu này".

Chàng thợ săn liền đứng lên, ra mở từng đầu một hỏi: "Thế bảy

cái lưỡi rồng đâu?". Tên nguyên soái sợ tái mặt. Không biết trả lời

ra sao, sau cùng gã nói liều: "Rồng không có lưỡi".

Chàng thợ săn bảo: "Chỉ những đứa gian trá mới không có lưỡi,

còn lưỡi rồng chính là vật chứng của người thắng trận". Chàng cởi

chiếc khăn ra, bảy cái lưỡi vẫn nguyên đó. Chàng lắp từng cái một

vào từng đầu rồng, quả nhiên đều khớp hết. Sau đó chàng lại đưa

cho công chúa xem chiếc khăn thêu tên nàng và hỏi nàng đã cho ai

chiếc khăn này. Công chúa đáp: "Cho người đã chém chết con rồng".

Chàng lại gọi từng con vật lại, tháo lấy mấy sợi dây buộc ở cổ chúng

rồi tháo cả cái khóa vàng ở cổ sư tử, đưa cho công chúa và hỏi của

ai. Nàng đáp: "Mấy sợi dây buộc cổ và cái khóa vàng này đều là của

thiếp, thiếp chia cho mấy con vật để thưởng chúng đã góp công giết

rồng".

Khi ấy chàng thợ săn mới nói: "Thừa lúc thần đánh rồng xong,

mệt mỏi ngủ mất, tên nguyên soái kia đã đi đến chặt đầu thần. Sau

đó, gã đưa công chúa đi và mạo nhận là chính gã đã chém rồng.

Mấy cái lưỡi, chiếc khăn tay với mấy sợi dây buộc cổ đây chứng

minh là gã nói dối".

Chàng lại kể tiếp chuyện mấy con vật đã đi kiếm rễ cây thần về

cứu chàng như thế nào, một năm qua chàng đã đi phiêu dạt những

đâu, rồi cuối cùng lại quay trở về đúng nơi đây, nhờ chủ quán trọ

nói cho nghe mà biết được mưu gian của tên nguyên soái.

Vua bèn hỏi công chúa: "Có đúng người này đã chém rồng

không?". Nàng đáp: "Tâu, đúng thế, giờ con mới dám nói ra cái tội

của tên nguyên soái. Con không nói thì chuyện cũng lộ rồi. Nó đã

bức con phải hứa giữ kín. Mà con xin để một năm lẻ một ngày sau

hãy làm lễ cưới, chính cũng vì chuyện ấy".

Vua cho triệu mười hai mưu sĩ đến để luận tội tên nguyên soái.

Các mưu sĩ khép hắn vào án tử hình. Xử tội hắn xong, vua cho

chàng thợ săn lấy công chúa, lại phong chàng làm phó vương trong

cả nước. Đám cưới được tổ chức rất trọng thể. Phó vương cho người

đi triệu bố đẻ và bố nuôi mình, tặng hai người rất nhiều châu báu.

Chàng cũng không quên người chủ quán trọ. Chàng cho triệu người

ấy vào, bảo: "Thấy không, ông chủ, tôi đã lấy công chúa rồi, nhà cửa

sân vườn nhà ông giờ là của tôi". Chủ quán thưa: "Thưa như vậy là

đúng lý". Nhưng vị phó vương đã bảo: "Thôi để ta khoan hồng cho:

nhà cửa sân vườn ông cứ giữ, còn nghìn vàng nọ ta tặng thêm cho

ông đó". Còn người bác nghe chuyện, sợ chàng hỏi tội trốn đi mất.

Phó vương với công chúa từ đó sống rất vui vẻ và hạnh phúc. Chàng

đi săn luôn, vì đó là sở thích của chàng và mấy con vật trung thành

thường đi theo chủ.

Gần đó có một khu rừng. Người ra đồn trong rừng có quỷ và ít

ai vào rừng mà lại ra được. Vị phó vương trẻ tuổi rất muốn đi vào

đó săn. Chàng cứ nài mãi, cuối cùng ông vua già phải bằng lòng cho

chàng đi. Chàng lên ngựa, đem theo một đoàn tùy tùng rất đông.

Vào đến cửa rừng thấy con hươu cái lông trắng như tuyết. Chàng

bảo những người theo hầu: "Các người hãy chờ ta ở đây, ta muốn đi

săn con thú đẹp đẽ kia". Chàng thúc ngựa đuổi theo hươu vào rừng,

chỉ có mấy con vật theo chàng thôi.

Đoàn người đứng lại đợi cho đến chiều, không thấy chàng ra.

Họ đành quay ngựa về báo với công chúa: "Phó vương đuổi theo một

con hươu trắng vào khu rừng thiêng rồi không thấy trở ra".

Công chúa lo cho chồng vô cùng. Trong lúc ấy, chàng vẫn mãi

đuổi con thú mà không sao theo kịp nó được. Cứ đúng lúc chàng

thấy vừa tầm bắn thì nó lại nhảy xa hơn và cứ thế sau rồi nó biến

đâu mất.

Lúc này chàng mới thấy mình đã vào quá sâu trong rừng.

Chàng đưa tù và lên rúc một hồi, không thấy trả lời vì không ai

nghe được tiếng tù và của chàng. Tối đến, thấy rõ mình không kịp

về nữa, chàng xuống ngựa, bên một gốc cây đốt lửa định bụng sẽ

ngủ đêm tại đó.

Chàng vừa ngồi xuống bên đống lửa, mấy con vật cũng nằm

quanh đó, chợt nghe văng vẳng như có tiếng người. Chàng nhìn

quanh nhưng chẳng thấy gì. Lúc sau lại thấy có tiếng rên ở trên

cao. Chàng nhìn lên thấy một mụ già ngồi vắt vẻo trên cây, đang

rên rỉ: "Hu, hu, hu, rét quá!". Chàng bảo mụ: "Rét thì xuống đây mà

sưởi".

Nhưng mụ ta đáp: "Chịu thôi, lũ súc vật của người sẽ cắn ta

mất".

Chàng lại bảo: "Chúng không làm gì mẹ đâu, mẹ ơi, cứ xuống

đây".

Mụ già ấy chính là một mụ phù thủy. Mụ bảo: "Để ta ném cây

gậy xuống. Người cứ lấy cây gậy đập lên lưng chúng là chúng sẽ

không làm gì ta nữa đâu". Nói rồi mụ ném xuống một cái gậy nhỏ.

Chàng lấy gậy đập lên lưng mấy con vật. Tức thì chúng nằm yên và

bị hóa đá ngay tức khắc. Không phải lo về mấy con vật nữa, mụ phù

thủy mới nhảy xuống, lấy cây gậy đập nốt vào người chàng, biến

chàng thành đá. Xong mụ rú lên cười, lôi chàng và mấy con vật

xuống một cái hố, trong lòng hố có nhiều tảng đá loại ấy rồi.

Công chúa ở nhà đợi mãi không thấy chồng về, càng lo sợ.

Vừa khi ấy, người anh lúc chia tay đi về hướng đông, nay cũng

tới xứ này. Chàng đi tìm việc làm chẳng được, cứ lang thang đây đó,

dạy mấy con vật nhảy múa làm trò vui. Một ngày kia, chàng muốn

về thăm gốc cây, chỗ hai người đã cắm lưỡi dao lúc chia tay để xem

em mình ra sao.

Trở về đó, chàng thấy bên mặt dao của em đã bị rỉ mất một

nửa, chỉ còn một nửa vẫn sáng. Chàng lo quá, thầm nghĩ: "Chắc em

ta gặp nạn lớn rồi, nhưng may ra còn cứu được, vì nửa dao kia vẫn

sáng. Chàng vội dẫn súc vật đi về hướng tây. Lúc tới cổng thành,

lính canh hỏi có cần phải vào tin cho hoàng hậu biết không: từ mấy

hôm nay, hoàng hậu rất lo vì sự vắng mặt của phó vương, người chỉ

sợ phó vương đã gặp họa trong rừng mất rồi.

Lính canh tưởng chàng chính là vị phó vương trẻ tuổi, vì nom

chàng giống em như hệt, lại cũng có một đàn súc vật đi theo. Khi ấy

chàng biết tên lính đã nhầm mình với em mình, bèn tự nghĩ thầm:

"Tốt nhất là ta hãy nhận đi, sẽ càng dễ cứu em hơn". Chàng liền để

tên lính đưa mình vào trong cung và được đón tiếp rất vui vẻ. Công

chúa cũng tưởng đó là chồng mình nên hỏi: "Tại sao chàng vắng

nhà lâu thế?". Chàng đáp: "Ta bị lạc vào rừng, mãi mới tìm được lối

ra". Tối đến chàng nằm trên giường em, để một thanh kiếm hai lưỡi

chắn giữa mình và công chúa. Công chúa chẳng hiểu thế nào,

nhưng không dám hỏi.

Chàng ở lại vài ngày, thăm dò mọi tin tức về khu rừng thiêng

nọ, rồi chàng bảo: "Ta phải đến đó săn lần nữa". Vua và công chúa

muốn can ngăn mà không được. Chàng dẫn một đoàn tùy tùng rất

đông lên đường. Vào đến rừng, chàng cũng gặp đúng mọi sự như em

mình trước đó. Chàng thấy một con hươu trắng, bèn bảo những

người đi theo: "Hãy đợi ta ở đây, ta muốn săn con thú kia". Chàng

thúc ngựa vào rừng, mấy con vật chạy theo sau chàng. Nhưng

chàng không tài nào đuổi kịp được con hươu. Vào đã sâu quá, tối

đến chàng phải ngủ lại trong đó. Vừa khi đốt được đống lửa, chàng

nghe trên đầu có tiếng rên: "Hu, hu, hu, rét quá!". Chàng nhìn lên,

thấy mụ phù thủy ngồi trên cây. Chàng bảo: "Nếu rét, thì xuống

đây mà sưởi mẹ ạ". Mụ đáp: "Chịu thôi, lũ súc vật của người sẽ cắn

ta mất". Nhưng chàng lại bảo: "Chúng không làm gì mẹ đâu". Mụ

bèn gọi xuống: "Ta sẽ ném cho người một cái gậy, người lấy gậy ấy

mà đập chúng thì chúng sẽ không làm gì ta nữa".

Chàng thợ săn nghe thấy thế không tin mụ già nữa. Chàng

bảo: "Ta sẽ không đánh mấy con vật của ta đâu, mụ hãy xuống đi,

bằng không ta sẽ lôi mụ xuống". Mụ bèn hét lên: "Mày muốn gì

nào? Mày làm gì được ta?". Nhưng chàng đáp: "Mụ không xuống thì

ta sẽ bắn mụ ngã xuống". Mụ bảo: "Mày cứ việc bắn, ta không sợ gì

mấy viên đạn của mày". Chàng giơ súng bắn, nhưng vì đạn chì nên

không thể xuyên vào người mụ, Mụ cười sằng sặc và hét: "Mày

không tài nào bắn trúng được ta đâu!". Chàng thợ săn đã biết,

chàng vội rứt ba cái cúc bạc trên áo nạp luôn vào nòng súng. Vì

như thế, tà thuật của mụ không linh thiêng nữa, nên khi chàng

bấm cò thì nó hét lên lộn nhào ngay xuống đất. Chàng dẫm một

chân lên người nó, bảo: "Con mụ phù thủy già, nếu mày không chịu

thú em ta hiện ở đâu thì ta sẽ sách mày quăng luôn vào đống lửa".

Mụ sợ quá, xin tha và nói: "Chàng cùng mấy con vật đã bị hóa đá ở

dưới một cái hố". Chàng liền bắt mụ dẫn tới đó, đe mụ và bảo: "Con

khỉ độc già kia, giờ mày phải làm cho em ta và mọi vật ở dưới này

sống lại. Bằng không ta sẽ ném mày vào lửa".

Mụ vội lấy gậy khẽ động vào các tảng đá, tức thì em chàng với

mấy con vật đều sống lại, cả nhiều người khác nữa, lái buôn, thợ

thủ công, mục đồng. Mọi người đứng dậy, cảm ơn cứu mạng, rồi kéo

nhau về. Hai anh em gặp nhau, ôm hôn, vui mừng khôn kể. Hai

người túm lấy mụ phù thủy, trói mụ lại vứt vào lửa. Sau khi mụ

chết thiêu rồi, khu rừng tự nó cũng biến đổi, trở nên quang đãng

sáng sủa hơn, có thể thấy được cung điện chỉ các đó ba giờ đường

bộ.

Hai anh em cùng về. Dọc đường, hai người kể cho nhau nghe

chuyện mình. Khi người em báo tin là chàng được thay vua trị vì

cả nước thì anh bảo: "Điều ấy anh đã biết. Lúc anh vào thành,

người ta cứ tưởng anh là chú nên đã dành cho anh mọi thứ nghi lễ

của các bậc vua chúa. Ngay công chúa cũng tưởng anh là chồng nên

anh đã phải ăn cùng bàn, nằm cùng giường với nàng".

Em nghe tới đó nổi ghen, điên tiết rút kiếm chém một nhát đứt

lìa đầu anh. Đến lúc thấy anh nằm chết đó, máu tuôn chảy thì anh

hối hận vô cùng. Chàng kêu lên: "Anh ta đã cứu ta mà giờ ta nỡ hại

người", rồi khóc lóc thảm thiết.

Thỏ chạy lại xin cho đi lấy rễ cây trường sinh. Nó đi rồi về còn

vừa kịp: người chết sống lại và không biết gì về vết thương trên

mình cả.

Hai người lại đi tiếp. Em bảo: "Nom anh giống em như hệt.

Anh cũng mặc áo hoàng bào như em, đằng sau cũng có mấy con vật

kéo theo. Ta thử vào hai cổng khác nhau rồi từ hai phía cùng đi vào

chỗ vua ngự xem thế nào?".

Hai người tách ra. Sau đó vua thấy cùng một lúc lính canh ở

hai cổng khác nhau cùng báo là phó vương dẫn mấy con vật đi săn

về.

Vua phán: "Sao lại thế được, hai cổng thành cách nhau có đến

một giờ đường bộ kia mà?". Trong khi ấy, hai anh em từ hai phía

khác nhau đã cùng vào tới trước sân lâu đài và đang cùng bước lên.

Vua hỏi công chúa: "Con bảo người nào là chồng con? Hai người

giống hệt nhau, ta không phân biệt được". Công chúa sợ lắm, chẳng

biết nói sao. Sau nàng chợt nhớ đến sợi dây vàng đã cho lũ súc vật

để buộc cổ. Nàng tìm một lúc thấy ngay chiếc khóa vàng ở cổ một

con sư tử. Nàng mừng quá, reo lên: "Người có con sư tử này đi theo

mới thật là chồng con". Phó vương cười bảo: "Đúng, đúng vậy đó".

Mấy người cùng ngồi vào bàn ăn uống rất vui vẻ.

Tối hôm ấy, lúc phó vương vào giường nằm, công chúa mới bảo:

"Tại sao mấy đêm trước, đêm nào chàng cũng đặt thanh kiếm hai

lưỡi giữa giường, thiếp cứ nghĩ là chàng có ý định chém chết thiếp".

Khi ấy phó vương mới rõ hết tấm lòng của anh mình.

Chân lý luôn thuộc về những con người trung hậu, dũng cảm.

Những thế lực đen tối luôn bị chặn đứng trước những con người

trung hậu, dũng cảm đó.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: