Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÍ LỚP HỌC BẰNG CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỶ LUẬT TÍCH CỰC 3

Thực hiện: GV Lê Thị Thu Phương
Đơn vị: THPT Võ Trường Toản

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Quản lí lớp học là công tác chủ nhiệm có ý nghĩa rất lớn trong việc bồi dưỡng đạo đức và hoàn thiện nhân cách của học sinh (HS). Công tác này đòi hỏi sự khéo léo, linh hoạt và nhiệt tâm của mỗi giáo viên (GV). Không phải giáo viên chủ nhiệm nào cũng có được một phương pháp tốt để quản lí lớp học của mình, thậm chí còn tỏ ra lúng túng trong một số tình huống sư phạm. Thêm nữa, nhìn lại chặng đường đã qua của công tác giáo dục, xã hội nói chung và các thầy cô giáo nói riêng không khỏi băn khoăn về một số phương pháp quản lí lớp học trước đây tỏ ra thiếu hiệu quả, thậm chí còn gây tổn hại lâu dài và nặng nề về thể chất cũng như tinh thần của học sinh. Vì thế, đổi mới công tác chủ nhiệm với phương pháp quản lí lớp học bằng các biện pháp giáo dục tích cựcthực sự là mong mỏi và thu hút được sự quan tâm của xã hội và đặc biệt của những người đang đứng trên bục giảng. Bản thân tôi đã giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm được 4 năm trong quá trình làm việc tôi rút ra được một số kinh nghiệm nhỏ và mong muốn được đóng góp một vài ý kiến của mình về phương pháp giáo dục tích cực này, với hi vọng ý kiến đó sẽ phần nào gợi ý cho những giáo viên chủ nhiệm làm tốt hơn công tác của mình.
II. NỘI DUNG:
1. Cơ sở lí luận:
Phương pháp quản lí lớp học bằng các biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực được phát triển từ dự án Môi trường thân thiện do Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển thực hiện thí điểm ở 12 trường tiểu học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và hiện tại đang được nhân rộng ra tại các trường Tiểu học, THCS, THPT trên cả nước. Trước khi đóng góp cho chuyên đề một số các biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực, tôi xin trình bày một số những nội dung sau để có cái nhìn ban đầu về kỉ luật, biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực:
a. Khái niệm kỉ luật:
Theo từ điển tiếng Việt, kỉ luật là tổng thể những điều quy định có tính chất bắt buộc đối với hoạt động của các thành viên trong một tổ chức để bảo đảm tính chặt chẽ của tổ chức, là hình thức phạt đối với người vi phạm kỉ luật.
Theo quan điểm của Cambell – nhà tâm lí học người Anh: Kỉ luật có nghĩa là rèn luyện cho tâm trí và nhân cách của trẻ để giúp đỡ trẻ trở thành những người biết tự chủ và có ích cho xã hội, sự kỉ luật bao gồm : hướng dẫn trẻ bằng cách nêu gương, khuyên dạy bằng lời nói, bằng sách vở, dạy dỗ và giúp trẻ học thông qua kinh nghiệm vui tươi. Hình phạt chỉ là một trong số những biện pháp của việc kỉ luật, thậm chí còn là biện pháp kỉ luật tiêu cực nhất.
Như vậy, theo hai cách hiểu trên ta thấy kỉ luật là những quy định và hình phạt, song trong giáo dục cần đưa ra những kỉ luật có tác dụng giáo dục tích cực đến người học.
b. Khái niệm biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực:
Biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực là cách giáo dục dựa trên nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của HS, không làm tổn hại đến thể xác và tinh thần của HS, có sự thỏa thuận giữa GV – HS và phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí HS.
Theo như khái niệm trên cho ta hai cách hiểu về phương pháp quản lí lớp học bằng các biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực . Thứ nhất, đó là biện pháp giáo dục ý thức kỉ luật (ý thức tôn trọng nội quy trường lớp, đáp ứng các yêu cầu của chương trình giáo dục của nhà trường) ở HS một cách tích cực. Thứ hai, đó là biện pháp giáo dục bằng các hình thức kỉ luật có tác động một cách tích cực đến người học.
2. Cơ sở thực tiễn:
Hiện nay, không ít GV có thói quen giáo dục HS bằng cách trừng phạt thể xác: đánh HS bằng tay hoặc roi, bắt HS đi quanh sân đeo bảng kê tội trước ngực, dán băng keo vào miệng, tự vả vào miệng mình khi mắc lỗi nói chuyện trong lớp, bắt HS quỳ gối, ngậm giẻ và liếm ghế....Còn có GV trừng phạt về tinh thần bằng cách xỉ nhục, hạ thấp nhân phẩm của HS như : chửi bới, xa lánh...
Có nhiều GV tỏ ra bất lực trong việc giáo dục những HS cá biệt, khó bảo, nên đã sử dụng bạo lực. Biện pháp này thiếu hiệu quả, thậm chí là biện pháp tiêu cực, phản giáo dục, chỉ có tác dụng trước mắt, gây thương tổn về lâu dài đến tinh thần của HS. HS phát triển thái độ thù nghịch, về lâu dài các em trở nên chai lì với đòn roi, hung tợn và hiếu thắng.
Cũng đã có những GV phạt tiền cho mỗi lỗi vi phạm của HS. Mặc dù ở mức độ nào đó hình phạt này có thể hạn chế sự vi phạm của HS, được sự chấp thuận, đồng tình của tập thể lớp và phụ huynh học sinh nhưng sẽ tác động tiêu cực đến nhận thức của các em. Vô hình chung tạo nên ở HS nét suy nghĩ: mọi tội lỗi, sai phạm đều có thể mua chuộc được bằng đồng tiền.
3. Giải pháp:
Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực trạng giáo dục với việc sử dụng các biện pháp giáo dục kỉ luật học sinh, tham luận này xin đưa ra một số các biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực. Theo cách hiểu giáo dục kỉ luật tích cực là biện pháp giáo dục ý thức kỉ luật (ý thức tôn trọng nội quy trường lớp, đáp ứng các yêu cầu của chương trình giáo dục của nhà trường) ở HS một cách tích cực, có thể áp dụng một vài biện pháp có ý nghĩa đi trước ngăn chặn việc HS vi phạm kỉ luật sau:
a. Biện pháp 1: Thay đổi cách cư xử trong lớp học:
Thay đổi cách cư xử là dựa trên cơ sở động viên, khuyến khích, nêu gương, tìm hiểu nhằm thúc đẩy HS có thái độ và hành vi đúng.
GV cần nắm bắt được tình hình, đặc điểm lớp học từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp. GV không nên cầu toàn, đặt quá nhiều kì vọng vào HS, không nên yêu cầu quá cao ở học trò. GV cần ghi nhận những cố gắng và kết quả mà các em đạt được về mọi mặt học tập, nề nếp hay tham gia các hoạt động văn thể mĩ của trường. Đồng thời khuyến khích các em phát huy thế mạnh của mình, kích thích sự tích cực của mỗi cá nhân trong lớp học. GV cần tuyên dương HS có tiến bộ trong mỗi tuần. Sự động viên, khích lệ kịp thời của GV sẽ có sức mạnh cổ vũ sự tự ý thức của HS.
GV nhận xét, góp ý một cách khéo léo về những điều mà các em chưa làm được hoặc làm chưa tốt, không nên chê bai, chỉ trích vì điều đó sẽ làm thui chột đi sự tích cực chủ động ở các em. Hãy để HS cảm nhận được sự tin tưởng của thầy cô dành cho chúng.
Mỗi lời nói, mỗi hành động, tác phong cũng như cách cư xử của GV trên lớp sẽ có tác động không nhỏ đến nhận thức và tình cảm của học trò. GV sẽ không thuyết phục được HS nghe theo sự chỉ dạy của mình nếu như bản thân không chuẩn mực và thiếu đi sự chân thành. Cho nên, mỗi GV phải là một tấm gương sáng về nhân cách để HS noi theo.
b. Biện pháp 2: Quan tâm đến những khó khăn của HS:
Mỗi HS đến trường với những hoàn cảnh và điều kiện khác nhau cả về vật chất lẫn tinh thần ( sức khỏe, nhận thức, tâm lí...). Những điều kiện đó ảnh hưởng rất lớn đến quá trình học tập và rèn luyện đạo đức của các em trên lớp. Vì vậy, quan tâm đến những khó khăn của HS là việc làm vô cùng cần thiết.
GV nên tìm hiểu kĩ về hoàn cảnh của từng học sinh và đặc biệt chú ý đến những HS có hoàn cảnh khó khăn và thiếu thốn tình cảm do cha hoặc mẹ mất sớm, cha mẹ li hôn, gia đình bất hòa, cha mẹ thiếu sự quan tâm. Những HS có hoàn cảnh này thường dễ có thái độ sống buông thả, bất cần; vi phạm nội quy lớp học. GV lúc này không chỉ đóng vai trò là người thầy mà còn là người bạn gần gũi, thân thiện, được HS tin tưởng tâm sự, sẻ chia những khó khăn, vướng mắc của mình. GV cần lắng nghe và gợi ý, định hướng cho HS giải quyết những khó khăn của mình. Nếu mỗi GV gần gũi và tạo được sự tin tưởng ở học trò thì chắc chắn sẽ có ít hơn trường hợp vì giận gia đình, vì đổ vỡ trong chuyện tình cảm mà tìm đến những cái chết thương tâm.
GV liên hệ, trao đổi qua điện thoại hoặc tìm đến gia đình những HS có hoàn cảnh khó khăn để hiểu và có sự cảm thông đối với các em. GV có thể thông qua trước lớp việc miễn lao động, đối với những HS nhà xa, thể chất yếu. Cuối mỗi học kì, GV gợi ý lớp trích quỹ để khen thưởng, động viên những HS vượt khó vươn lên trong học tập.
c. Biện pháp 3: Tăng cường sự tham gia của HS trong việc xây dựng nội quy:
Nội quy là những điều quy định để bảo đảm trật tự và kỉ luật của lớp học. Nội quy lớp học được xây dựng trên cơ sở ý kiến của tập thể lớp, cha mẹ học sinh. HS là người tự đề ra nội quy và thực hiện theo nội quy đó. Điều này có ý nghĩa tác động vào tinh thần tự giác của HS, tình thần tôn trọng kỉ luật tập thể mà chính các em đề ra. Hiện tại ở lớp 11A13 tôi đang chủ nhiệm đang thực hiện theo nội quy đã được tập thể lớp thông qua từ đầu năm học:
– Đi học đúng giờ, không nghỉ học không phép, không cúp tiết.
– Làm bài tập đầy đủ trước khi đến lớp, tích cực xây dựng bài mới.
– Không nói chuyện, không làm việc riêng trong lớp.
– Không vi phạm quy định về đồng phục
– Tích cực tham gia hoạt động do đoàn, trường phát động.
– Tham gia đầy đủ và nghiêm túc các buổi tập trung.
– Không gây mất đoàn kết trong lớp.
– Không đánh nhau, tàng trữ vũ khí.
– Không vô lễ với GV, Cán bộ công nhân viên nhà trường, không xúc phạm đến bạn, không nói tục chửi bậy.
– Đóng góp đầy đủ, đúng quy định.
– Không vẽ bậy lên bảng, bàn ghế, vệ sinh sạch sẽ lớp học và không làm trừ điểm thi đua của lớp...
Nếu thực hiện tốt nội quy, mỗi tuần HS được thưởng 100 điểm.
– Nếu HS được điểm tốt trong tuần thì được cộng thêm 5 điểm/điểm tốt
– Vi phạm mỗi lỗi bị trừ 5 điểm
Xếp loại:
+ Nếu tổng điểm của tuần 91- 100 điểm: đạt loại xuất sắc
+ Nếu tổng điểm của tuần đạt từ 80 – 90 điểm: đạt loại Tốt.
+ Nếu tổng điểm của tuần đạt 65 – 79 điểm: đạt loại khá.
+ Nếu tổng điểm của tuần đạt 50 – 64 điểm: đạt loại trung bình.
+ Nếu tổng điểm của tuần đạt dưới 5 điểm : đạt loại yếu.
GV và Ban cán sự lớp kiểm tra và giám sát chặt chẽ việc chấm điểm về ý thức kỉ luật của các thành viên trong lớp để đảm bảo sự khách quan và công bằng. Việc chấm điểm trong quá trình thực hiện nội quy sẽ kích thích sự hào hứng, tạo không khí thi đua sôi nổi giữa các thành viên trong lớp học.
d. Biện pháp 4: Tổ chức các hoạt động xây dựng tập thể lớp:
Một tập thể lớp tốt là một tập thể đoàn kết, thân ái, thân thiện, cởi mở, tôn trọng nhau. Để xây dựng tập thể đó GV cần tăng cường tổ chức các hoạt động nhóm, tổ chức trò chơi hoặc hướng dẫn HS tự tổ chức trò chơi trong các giờ sinh hoạt lớp. Thiết nghĩ những giờ sinh hoạt vui chơi như vậy sẽ giúp HS mạnh dạn hơn, tăng cường sự gắn bó đoàn kết trong lớp học.
GV chia lớp thành 4 tổ, mỗi tổ sẽ đảm nhận nhiệm vụ tổ chức trò chơi trong giờ sinh hoạt của từng tuần. Có phần thưởng dành cho các nhóm. Mỗi tháng hoặc vào những dịp đặc biệt như: 20/10, 20/11, 25/ 12, tết,... GV có thể thiết kế trò chơi (có thể mô phỏng hoặc dựa vào những trò chơi truyền hình như: Đường lên đỉnh Olimpia, Rung chuông vàng, Đuổi hình bắt chữ, Trò chơi âm nhạc...) bằng giáo án Power Point với những hình ảnh và âm thanh sinh động, hấp dẫn. Biện pháp giáo dục tích cực này tôi đã áp dụng tại lớp 11A13 mình đang chủ nhiệm và đã được HS trong lớp nồng nhiệt tham gia. Biện pháp này đã kích thích được sự chủ động, tinh thần tham gia vào hoạt động tập thể của các em.
e. Biện pháp 5: Một số hình phạt tích cực:
Mục tiêu của giáo dục là phát triển con người một cách toàn diện, chú trọng giáo dục, tác động, uốn nắn hành vi hơn là trừng phạt, răn đe. Trong một số trường hợp HS cá biệt, vi phạm nội quy trường lớp, các biện pháp giáo dục ý thức kỉ luật HS tỏ ra bất lực thì các hình thức kỉ luật bằng hình phạt mới được đưa vào để giáo dục. Như vậy, hình phạt chỉ là biện pháp sau cùng nhằm mục đích điều chỉnh những sai phạm của người học. Biện pháp kỉ luật bằng hình phạt phải vì lợi ích của HS, không gây tổn hại đến thể xác và tinh thần của các em. Dưới đây là một số hình thức kỉ luật tích cực có thể tham khảo:
e.1. Lao động tích cực:
e.1.1. Vệ sinh trường lớp:
Đối tượng bị phạt lao động là những HS xả rác bừa bãi, viết bậy hoặc vấy bẩn lên tường lớp học, làm hư hại cơ sở vật chất của trường. HS bị phạt sẽ vệ sinh trường lớp, tự khắc phục hậu quả do hành vi vô ý thức của các em gây ra. Biện pháp giáo dục bằng hình thức kỉ luật lao động này sẽ giúp HS biết trân trọng môi trường sạch đẹp mình đang có, giúp HS ý thức rằng việc giữ gìn cảnh quan trường lớp không phải chỉ là công việc của những lao công mà là trách nhiệm của mỗi HS với ngôi trường của mình.
e.1.2. Trồng cây xanh:
HS cũng có thể đi trồng cây (cây cảnh, cây bong mát, cây thuốc nam...) hoặc chăm sóc cây tạo bóng mát trong khuôn viên của trường. Hành động này sẽ bồi dưỡng tình yêu và thái độ thân thiện với môi trường. Hơn nữa, HS sẽ ngày càng biết quý trọng lao động và giá trị của lao động.
Đây là biện pháp kỉ luật tích cực song hiệu quả của nó cần phải có thời gian để kiểm chứng. Hơn nữa, khuôn viên của nhà trường có hạn, không có nhiều không gian để thực hiện và cần có sự đầu tư để bảo vệ kết quả lao động của HS.
Do vậy, cần hạn chế số lượng cây trồng, chú trọng vào khâu chăm sóc, bảo quản, quan tâm đến chất lượng lao động hơn là số lượng. Mỗi lớp cần được phân công một không gian riêng để trồng cây và tự bảo vệ. HS có thể trồng những cây cảnh nhỏ, nếu phát triển tốt HS bứng trồng vào những chậu cảnh và đặt trên bàn của GV thay cho những bình hoa giả vẫn được sử dụng từ trước đến nay. Hoặc đặt những chậu cảnh đó tại góc lớp cạnh bục giảng hay đặt cạnh cửa sổ tạo không gian trong lành, thoáng mát, giảm bớt sự căng thẳng trong lớp học.
Để động viên HS tích cực hơn trong việc trồng cây và tạo cảnh quan cho lớp học, ngoài sự khích lệ, khen ngợi của GV chủ nhiệm, nhà trường cần tuyên dương trong giờ sinh hoạt dưới cờ những lớp học có không gian sạch sẽ, dễ chịu và có thẩm mĩ...
Biện pháp giáo dục kỉ luật bằng hình thức trồng cây xanh có ý nghĩa rất lớn, giúp HS thêm yêu và gắn bó, biết giữ gìn và bảo vệ ngôi trường và lớp học của mình. Song biện pháp này chỉ có thể áp dụng ở những trường có mặt bằng rộng rãi.
e.1.3. Giúp đỡ những gia đình HS nghèo vượt khó (trong trường, lớp)
GV tập hợp danh sách những HS vi phạm nội quy như: đánh bài, chơi cờ caro, cúp tiết, chơi điện tử...huy động những HS này đi lao động giúp đỡ những gia đình HS trong trườn hoặc lớp có hòan cảnh khó khăn mà vươn lên trong học tập. Hành động thiết thực này giúp HS hiểu và thông cảm hơn với hoàn cảnh sống của bạn mình, thấy ở bạn mình một tấm gương về nghị lực vươn lên trong cuộc sống. Từ đó, hướng HS đến nhận thức thái độ sống, học tập chưa đúng đắn của mình. Trong những giờ lao động, GV có điều kiện gần gũi và khéo léo tác động vào nhận thức và tình cảm của HS để các em tự điều chỉnh hành vi của mình theo chiều hướng tích cực.
Khó khăn khi thực hiện biện pháp này là cần rất nhiều thời gian, rất khó xác định lao động những gì để giúp đỡ những gia đình HS khó khăn. Nếu như phân công lao động không hợp lí sẽ lãng phí thời gian mà không mang lại hiệu quả. Mặt khác, sẽ là bất lợi nếu gia đình HS được giúp đỡ ở địa bàn cách xa trường học.
Để khắc phục những khó khăn này, GV cần liên hệ trước với gia đình HS đó, ngỏ ý giúp đỡ và hỏi thăm trước những công việc mà gia đình đó cần chia sẻ. GV phân công lao động và lựa chọn những gia đình HS ở không quá xa địa bàn trường học.
Nói tóm lại, biện pháp giáo dục này có thể chỉ áp dụng với HS ở vùng nông thôn. Kết quả mà GV hướng tới từ biện pháp giáo dục này là bồi dưỡng tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách và sự tự ý thức ở HS. Nếu là HS thành phố, GV có thể huy động các em đến trung tâm giáo dục của người khuyết tật để giúp đỡ, để cảm thông chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh, thiệt thòi; để thấy được mình thực sự may mắn và biết quý trọng hơn những gì đang có và có thái độ đúng đắn hơn trong học tập.
e.2. Đọc sách:
Sách là sản phẩm tinh thần kì diệu của nhân loại. Sách cung cấp cho chúng ta vô vàn kiến thức về mọi lĩnh vực của đời sống tự nhiên và xã hội. Sách không chỉ nâng cao tầm hiểu biết mà còn bồi dưỡng và hoàn thiện nhân cách cho người đọc. Cho nên việc đọc sách là hoạt động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhận thức được những ích lợi của việc đọc sách, GV đưa ra hình thức kỉ luật HS: đến thư viện của trường tìm đọc một cuốn sách mà GV giới thiệu. Trong thời gian 1 tuần HS phải đọc và chia sẻ những điều mà mình đã đọc và học được ở cuốn sách đó trong giờ sinh hoạt lớp.
Giá trị của biện pháp này là giúp HS hiểu được vai trò, tầm quan trọngcủa sách, ý nghĩa của việc đọc sách, kích thích ở HS khả năng tự đọc, tự học, hình thành ở HS thói quen đọc sách và tra cứu tài liệu. Việc giới thiệu hững điều mình đọc được với các bạn trong lớp sẽ rèn luyện thêm cho HS một số kĩ năng giao tiếp, giúp HS mạnh dạn, tự tin trình bày trước tập thể những suy nghĩ của mình. Nếu HS giới thiệu tốt có thể gây được sự tò mò, hứng thú của một số HS khác trong lớp, kích thích những HS đến với thư viện nhiều hơn.
Khi đọc sách chắc chắn HS sẽ bắt gặp không ít những bài học về cuộc đời, về tình yêu thương, sự bao dung, lòng vị tha cao thượng, những tấm gương về nghị lực vươn lên trong cuộc sống. Và chắc chắn sẽ không có HS nào dửng dưng, vô cảm trước nghĩa cử cao đẹp trong đời, thờ ở trước nỗi đau của người khác, hay không hề phẫn nộ trước những việc làm xấu xa, vô nhân đạo. Khi biết phân biệt yêu – ghét, tốt – xấu, hay – dở, HS tự ý thức điều chỉnh hành vi của mình, có trách nhiệm hơn với việc học tập và cuộc sống của mình. Thiết nghĩ, đọc sách là biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực có hiệu quả lâu dài.
Có khó khăn khi thực hiện biện pháp này. Đó là khả năng tự đọc, nhận thức của mỗi HS khác nhau. Những HS vi phạm phần lớn lười học, không thuộc bài, không soạn bài, thường xuyên bị điểm kém...có học lực trung bình, yếu kém. GV không thể bao quát hết được những cuốn sách có trong thư viện trương đê hướng dẫn và kiểm chứng kết quả đọc của các em. Thêm nữa, không phải HS nào cũng gạt bỏ được sự tự ti để trước lớp giới thiệu một cách trôi chảy về cuốn sách mình đã đọc.
Giải pháp hạn chế khó khăn để biện pháp giáo dục trở nên hiệu quả hơn là GV không cầu tòan về kết quả đọc sách của HS, cần lựa chọn những cuốn sách tiêu biểu, có dung lượng vừa phải, hoặc GV sẽ lựa chọn chủ đề có nội dung giáo dục tương ứng với điều HS vi phạm:
VD: Đối với HS có thái độ vô lễ với GV, nói tục chửi bậy, đánh nhau, gây mất đoàn kết trong lớp, GV có thể đưa ra những chủ đề về tình thầy trò, tình bạn hoặc hướng HS đến những cuốn sách trong tủ sách Hạt giống tâm hồn: Giá trị của yêu thương, tấm lòng vàng, quà tặng cuộc sống, hay một số sách: Tinh hoa xử thế, Nghệ thuật sống, 365 ngày sống, Rèn luyện đức khiêm tốn...
VD: Đối với những HS lười học, ngủ hoặc làm việc riêng trong giờ, không soạn và không ghi chép bài đầy đủ, thường xuyên nghỉ học, cúp tiết, GV hướng HS đến những cuốn sách: Khoa học vui, Những bài toán dân gian đố vui, Danh nhân thế giới, Câu chuyện về các nhà khoa học.............
Để đạt được hiệu quả giáo dục từ biện pháp kỉ luật này, GV hướng dẫn HS cách đọc, thường xuyên động viên, khích lệ HS, không yêu cầu quá cao về kết quả tự đọc của các em, ghi nhận những điều HS đã làm được và khen thưởng những HS tích cực đọc và trình bày khá tốt trước lớp. GV có thể yêu cầu 1,2,3 HS cùng đọc một cuốn sách, cùng giới thiệu về một đối tượng. GV lắng nghe, so sánh và uốn nắn lại.
Thêm nữa, GV cử ra một thư kí, ghi chép lại một cách chọn lọc những điều HS trình bày trước lớp, tổng hợp lại và post lên blog của lớp để mọi người cùng chia sẻ. Điều này sẽ tác động mạnh vào lòng tự trọng, sự kiêu hãnh của HS về những điều đã làm được. Từ đó HS tự xác định thái độ nghiêm túc trong việc đọc sách.
Nói tóm lại, nhờ biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực này làm cho hiểu biết của HS thêm phong phú bên cạnh những kiến thức được truyền dạy trên lớp. Việc HS chia sẻ trước lớp về cuốn sách nào đó cũng là một hoạt động rất thiết thực, lành mạnh và có tính giáo dục cao trong giờ sinh hoạt lớp.
4. Kết quả:
Ý thức được tầm quan trọng và ý nghĩa mà biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực mang lại, trong thời gian qua tôi đã vận dụng phần lớn biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực trên tại lớp chủ nhiệm của mình trong năm học 2009-2010, từ đầu năm học 2010-2011 đến nay và bước đầu đã thu được những kết quả khả quan.
Về nề nếp, HS có ý thức hơn trong việc thực hiện nội quy lớp học, số HS vi phạm nội quy đã giảm. Do vậy, kết quả xếp loại hạnh kiểm cuối năm học 2009-2010 có sự cải thiện đáng kể: 70 % HS trong lớp đạt hạnh kiểm tốt tăng 10 %, 25 % HS đạt hạnh kiểm khá tăng 7 %, 5 % HS đạt hạnh kiểm trung bình giảm 7% (sự tăng giảm đó đều được so sánh với kết quả thống kê được từ kết quả của năm học trước). Và đặc biệt không có HS hạnh kiểm yếu. Có thể nhận thấy từ kết quả này là sự tiến bộ rõ rệt ở HS.
Về học tập, HS đã tích cực hơn trong việc xây dựng bài, hạn chế được HS không thuộc, không soạn và không chép bài đầy đủ. Cuối năm, trong lớp có 1HS đạt học lực giỏi chiếm 2,2 % , tăng 4,5 %; 15 HS đạt học lực khá chiếm 33,3 %, tăng 12 %; 29 HS đạt học lực trung bình, chiếm 64,5% , tăng 20%. Không có HS yếu kém.
5. Bài học kinh nghiệm:
a. Ý nghĩa của việc sử dụng các biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực:
* Đối với HS:
Biện pháp giáo dục kỉ luật tích cưc có tác dụng khiến HS có nhiều cơ hội chia sẻ, HS được bày tỏ cảm xúc, được mọi người quan tâm tôn trọng và lắng nghe ý kiến. HS trở nên tự tin trước đám đông, phát huy được khả năng của mình.
* Đối với GV:
Khi sử dụng biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực sẽ nhận được những kết quả tốt đẹp như giảm được áp lực quản lí lớp học vì HS hiểu và tự giác chất hành kỉ luật. Từ đó, GV tạo được sự tin tưởng nơi HS, được HS tôn trọng và quý mến. Điều quan trọng nữa là xây dựng được mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò.
* Đối với nhà trường, gia đình và xã hội:
Nhà trường trở thành môi trường học tập thân thiện an toàn, tạo được niềm tin đối với xã hội. Sử dụng các biện pháp giáo dục tích cực sẽ giảm thiểu được tệ nạn xã hội, bạo hành và bạo lực; xã hội có được những công dân tốt, giàu khả năng phục vụ, cống hiến cho gia đình và xã hội trong tương lai.
b. Phương pháp và yêu cầu thực hiện:
Để phương pháp này được thực hiện có hiệu quả, cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa GV chủ nhiệm, nhà trường, gia đình và các tổ chức xã hội ở địa phương.
Khi vận dụng phương pháp trên cần chú ý đến đối tượng và mục tiêu giáo dục. Mỗi GV chủ nhiệm cần khéo léo, linh hoạt, không áp dụng một cách máy móc, cứng nhắc, đơn điệu để đạt được hiệu quả giáo dục cao nhất.
Có những biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực chưa cho hiệu quả tức thời. Cho nên, khi vận dụng GV không nên nóng vội, cần có sự kiên trì và tâm huyết với công tác quản lí lớp học của mình.
III. KẾT LUẬN
Phương pháp quản lí lớp học bằng các biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực là phương pháp giáo dục tiến bộ. Phương pháp này chủ yếu hướng tới sự tự giác, tự nhận thức và tự điều chỉnh hành vi của HS hơn là các áp dụng các biện pháp kỉ luật. Thực hiện tốt phương pháp này xây dựng được môi trường giáo dục lành mạnh, tích cực; góp phần phát triển con người một cách toàn diện, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, cần nhân rộng, phát triển phương pháp trên tại các trường học trên toàn quốc.
Thiết nghĩ, mỗi phương pháp cũng như biện pháp cụ thể được đưa ra cần được thực tiễn và thời gian kiểm chứng. Lí thuyết sẽ không còn là viển vông, không tưởng nếu như được thực hiện một cách nghiêm túc và có sự đầu tư xứng đáng. Trên đây là ý kiến tham luận của tôi, bày tỏ một góc nhìn về đổi mới công tác chủ nhiệm lớp, chắc chắn không tránh khỏi chủ quan và có phần phiến diện. Rất mong được sự lắng nghe và góp ý từ các tham luận khác để có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về phương pháp giáo dục thực sự mới mẻ và có ý nghĩa này.
IV. KIẾN NGHỊ
Sở cần tổ chức báo cáo chuyên đề hàng năm để các trường học hỏi kinh nghiệm những phương pháp hay và luôn có cái nhìn mới mẻ, tích cực về công tác giáo viên chủ nhiệm lớp bậc trung học phổ thong. Qua đó cũng cần có sự tổng kết, đánh giá kết quả cũng như những khó khăn trong quá trình thực hiện các phương pháp giáo dục ở các trường phổ thông.
Công tác chủ nhiệm đòi hỏi mỗi GVCN cần có sự đầu tư về thời gian và tâm sức. Vì vậy, cần có sự quan tâm, động viên kịp thời và thiết thực về cả tinh thần lẫn vật chất của nhà trường và các cơ quan đoàn thể, để GV có thể yên tâm, dành trọn tâm huyết với nghề của mình.
Cần giảm thiểu thời gian giảng dạy trên lớp của GV và tăng cường thời lượng cho các tiết chủ nhiệm. Có như vậy, việc thực hiện các biện pháp giáo dục mới có điều kiện phát huy hết được hiệu quả của nó.

s N\�7'�m-

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #giaoduc