giao ly du tong
GIÁO LÝ DỰ TÒNG
PHẦN MỞ ĐẦU
LỜI GIỚI THIỆU
LỜI NGỎ
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN I TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN
PHẦN II PHỤNG VỤ và BÍ TÍCH
PHẦN III ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN
PHẦN IV KINH NGUYỆN TÍN HỮU
LỜI GIỚI THIỆU
"Không ai lên trời, ngoại trừ Đấng từ trời xuống, tức là Con người, vốn ở trên trời" (Ga 3,13)
Lời Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô không nhằm làm cho chúng ta thất vọng, nhưng cho thấy khoảng cách giữa Thiên Chúa hằng sống với con người quá lớn, vượt quá tầm vóc sức lực chúng ta, hơn nữa, tội lỗi càng đẩy chúng ta ra xa Chúa nhiều hơn. Thế nhưng con người còn có hy vọng, vì : "Thiên Chúa yêu thương thế gian (nhân loại tội lỗi), đến nổi đã ban Con Một của Ngài, để bất cứ ai tin vào Người, thì không phải chết, nhưng có sự sống đời đời" (Ga 3,16)
Đạo siêu việt, là Ơn Chúa; không do con người, nhưng là biết đón nhận Ơn Chúa, nên cần phải Cầu Xin. Đạo Duy nhất, "Ta là Đàng, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với Cha mà không nhờ Ta" (Ga 14,6)
Bởi vậy, HỌC ĐẠO trước tiên là học biết Chúa Giêsu, tin theo Người, rồi mới nói đến những điều Người dạy (các Tín điều), những phương thế Người trao cho (Hội Thánh, các Bí Tích), sau cùng thực hành lệnh truyền của Người (các Giới răn). Trong khi chờ đợi sách Giáo Lý Dự Tòng do Hội Đồng Giám Mục chuẩn nhận, Giáo Phận Vĩnh Long cho ấn hành Tập Sách nầy, để phục vụ các Linh mục, Tu Sĩ, Giáo Lý viên trong sứ mạng truyền giảng Phúc âm cho lương dân.
Vĩnh Long, ngày 11.11.2002
+ Tôma Nguyễn Văn Tân
Giám Mục Giáo phận Vĩnh Long
LỜI NGỎ
- Tập Giáo lý Dự Tòng được biên soạn nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách Dạy Giáo lý cho người Dự Tòng, chia sẻ cách dạy cho người bình dân đơn sơ, chất phác, với mong muốn cố gắng trình bày Giáo lý giản lược, ngắn gọn, dễ học, dễ hiểu và giúp ghi nhớ.
- Tập Giáo lý Dự Tòng gởi đến các Giáo lý viên (GLV) như những "gợi ý giảng dạy", gởi đến các Dự Tòng như "bạn đồng hành", giúp nhớ bài giảng trong giờ giáo lý.
- Tập Giáo lý Dự Tòng được biên soạn từ những sách Giáo lý Dự Tòng đang hiện hành tại các Giáo phận (Cần thơ, Xuân lộc, Saigon ... ), nhưng trình bày theo sát bố cục của Sách GLGHCG (1992) : Tuyên xưng Đức tin, Bí tích Đức tin, Đời sống Đức tin, Kinh nguyện tín hữu.
I. CẤU TRÚC
Nội Dung chương trình Giáo lý Dự Tòng gồm có 4 PHẦN trong 38 bài, mỗi bài có một chủ đề, được trình bày qua 5 đề mục :
Mục 1: Ghi nhớ:
"Giáo lý là lý lẽ của Đạo". Mỗi bài học cần được ghi nhớ bằng 1 hoặc 2 câu giáo lý Hỏi - Thưa ngắn gọn, để nêu ý nghĩa và giúp nhớ chủ đề bài học. Nếu học viên hiểu và thuộc các câu nầy, là đã thuộc phân nửa bài học rồi. Mục 2:Thánh Kinh:
"Giáo lý là làm vang dội Lời Chúa trong lòng người nghe, giúp họ hoán cải". Vì nguồn mạch của Giáo Lý là Thánh Kinh, nên mục này nêu lên một vài câu Thánh Kinh liên quan tới bài học để làm nền tảng cho chủ đề và giúp học viên gặp gỡ Chúa qua Lời Chúa.
Mục 3: Giải thích:
Mục nầy dựa vào Lời Chúa và các câu Hỏi - Thưa để gợi ý cho GLV tuỳ nghi tham khảo và giảng dạy. Mục này cũng để cho học viên có giờ xem trước hoặc sau khi nghe GLV giảng dạy, để hiểu rỏ hơn đề tài và còn lưu lại trong trí nhớ chút gì đã được nghe giảng.
Mục 4: Thực hành:
Học để Hiểu và Nhớ Giáo lý là cần thiết, nhưng quan trọng hơn, chính là thực hành trong cuộc sống. Mục nầy đề nghị vài việc cụ thể để giúp học viên thực hành điều đã học, cũng giúp GLV đánh giá mức độ tăng trưởng đức tin của học viên.
Mục 5: Cầu nguyện:
"Giáo lý dẫn đến gặp gỡ và hiệp thông thân mật với Chúa Kitô". Mục này gợi lên vài tâm tình nhằm giúp học viên hướng ý cầu nguyện, cảm tạ và xin ơn Chúa.
II. GỢI Ý SƯ PHẠM
A. CHUẨN BỊ
Dù mỗi bài đã có phần giải thích sẳn, nhưng GLV cần phải dọn bài trước, đọc kỹ, thuộc bài và nhất là có thể làm một dàn bài riêng cho mình, thêm vài ví dụ, chọn vài câu chuyện để minh hoạ.
Khi giảng bài, GLV cần chú ý đến từ ngữ và cách diễn đạt cho đơn sơ, dễ hiểu, vừa tầm tuổi tác và trình độ văn hoá của học viên.
B. TIẾN TRÌNH GIẢNG DẠY
1. Vào lớp giáo lý
GLV chào hỏi, mời mọi người đứng lên và hướng dẫn học viên cầu nguyện đầu giờ. Mỗi giờ giáo lý là giờ gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, nên GLV cần dạy về Cầu nguyện ngay những giờ đầu tiên. Lời nguyện cần đơn sơ, chân thành, được soạn sẳn cho phù hợp với đề tài. Nếu đọc kinh, cần giải nghĩa kinh trước và đọc chậm, với ý thức cao, để tránh lệ thói, đọc vô hồn.
2. Kế đến
GLV dành ít phút ôn lại bài củ và công bố đề tài của bài mới. Cần giới thiệu bài mới, nêu vài nét ý nghĩa và tầm quan trọng của bài, vị trí của bài học trong toàn bộ Giáo lý.
3. Mục Ghi nhớ
Nếu học viên đông, có thể chia 2 bên Hỏi-Thưa, đọc 2 hoặc 3 lần cho thuộc tạm, nhớ được ý chính của bài học, nhờ đó học viên sẽ dễ tiếp thu bài hơn.
4. Mục Thánh Kinh:
Có thể đứng lên, đọc cách long trọng, do một người hay nhiều người tuỳ ý. Có thể đọc 2 lần.
5. Mục Giải thích:
Cho học viên ngồi, GLV tuỳ ý mà giảng dạy. Cần diễn đạt hấp dẫn, vui tươi, sống động; giọng điệu cần sắc bén, thuyết phục. Giải thích xong, có thể đặt vài câu hỏi gợi ý suy nghĩ, kiểm tra mức tiếp thu của học viên. GLV cần nhẩn nại giải thích, minh hoạ cho dễ hiểu.
Ở mục này, nếu dạy cho các em nhỏ, GLV có thể tập bài hát có nội dung phù hợp đề tài, hoặc trò chơi, băng reo, kể chuyện ...
Trước khi sang mục Thực hành, GLV cho ôn lại vài lần câu giáo lý Hỏi-Thưa để giúp nhớ đề tài.
6. Mục thực hành
Tuy có đề nghị vài việc cụ thể, nhưng GLV tuỳ hoàn cảnh uyển chuyển, có thể đề nghị việc khác.
7. Cầu nguyện kết thúc.
GLV mời mọi người đứng lên, rồi cùng nhau đọc lời nguyện đã dọn sẳn, hoặc GLV soạn lời nguyện khác, mọi người kết thúc bằng AMEN.
C. SAU GIỜ DẠY
Nên lưu ý 3 mục tiêu của việc Dạy Giáo lý Dự tòng là:
Dạy chân lý đức tin (Tín lý)
Trình bày Giới luật (Luân lý)
Tập sống đời Kitô hữu (Bí tích, Cầu nguyện)
Vì thế, GLV cần giúp cho học viên hiểu và nhớ bài học, nhưng quan trọng hơn, đó là mời gọi học viên Hoán cải và Tập sống đời Kitô hữu. Nhờ gương sáng đời sống của GLV và cộng đoàn tín hữu, người Dự tòng thực hành quen dần nếp sống Kitô giáo. GLV cũng cần khích lệ, hướng dẫn người Dự tòng tham dự các cuộc cử hành Phụng vụ, để họ hiểu và cảm nghiệm được điều họ đã học hỏi và cũng được hưởng nhờ những ân phúc do các cuộc cử hành mang lại. GLV đừng quên mời gọi người Dự tòng tập làm gương sáng và làm Tông đồ, vì đây cũng là điều quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Chúc Bạn thành công trong Sứ mạng Rao giảng Tin mừng.
Ban Giáo Lý Giáo Phận
HỌC ĐẠO
Tiền huấn giáo
1. Học Đạo để TRỞ THÀNH NGƯỜI KITÔ HỮU.
Không chỉ là gia nhập một đoàn thể, không chỉ là chấp nhận một số lý thuyết hay một số lề luật. Nhưng trước hết là để gặp Chúa, để Tin Chúa và khám phá tình yêu vô tận của Chúa trong cuộc sống của bạn.
2. Đạo không chỉ là một lý thuyết.
Nhưng là một lối sống. Học Đạo không chỉ là để hiểu biết, nhưng còn là để thay đổi lối sống, hoán cải bản thân, sống cuộc đời mới theo tinh thần của Chúa Giêsu.
3. Theo Đạo
Thiên Chúa không hứa ban cho bạn một cuộc đời dễ dãi, những lợi lộc vật chất hay tinh thần. Theo Chúa thường tràn ngập chông gai, cần phấn đấu vượt qua. Cuộc đời của những người theo Chúa thường gặp nhiều khó khăn, nhưng cũng tràn đầy hạnh phúc, vì biết mình được Chúa yêu thương, dẫn dắt và nâng đỡ.
4. Thiên Chúa yêu thương bạn.
Ngài hiện diện trong đời bạn từ lâu, Ngài luôn tìm kiếm bạn, nhưng hôm nay bạn mới nhận ra. Hãy đón nhận Ngài với lòng tri ân, cảm tạ. Cùng với Ngài, bạn hãy học Đạo và bắt đầu một đời sống mới trong tình yêu Chúa.
5. Bạn hãy cầu nguyện ngay hôm nay.
Dù bạn chưa biết nhiều về Chúa, nhưng bạn có thể làm quen và nói chuyện với Ngài. Cầu nguyện là gặp gỡ Chúa trong tâm hồn, là tâm sự với Chúa, là nói với Chúa và nghe Chúa nói trong bạn. Cầu nguyện để có niềm tin. Nhờ cầu nguyện, bạn sẽ hiểu sâu hơn và Chúa sẽ từng bước biến đổi đời bạn.
BẠN HIỂU GÌ VỀ ĐẠO? TẠI SAO BẠN THEO ĐẠO?
"Đạo nào cũng tốt, đạo nào cũng dạy ăn ngay, ở lành". Nhiều người hiểu Đạo chỉ dạy cách ăn ngay ở lành là đủ ! Hiểu như thế rất thiếu sót! Chủ đích của Tôn giáo là đưa tới chân lý cuộc đời, là tìm về cội nguồn Tình yêu và Hạnh phúc. Người ta có thể ăn ngay ở lành mà chưa tìm ra ý nghĩa của cuộc sống. Đối với con người có suy nghĩ, sống không quan trọng cho bằng ý nghĩa của cuộc sống : Tại sao ta sống ? Sống để làm gì ? Cuộc sống rồi sẽ đi về đâu? Một Tôn giáo đúng nghĩa sẽ mang đến cho con người một niềm tin, một chân lý cho cuộc sống, để sống có ý nghĩa và đạt hạnh phúc thật.
Đạo Phật, Đạo Khổng, Đạo Ông Bà ... là do con người sáng lập, do lòng hiếu thảo hình thành. Đức Phật, Đức Khổng là những con người, có thể ví như là bậc thánh hiền, những vị sứ giả mà Chúa sai đến để dạy dỗ loài người làm lành lánh dữ. Đạo Ông Bà là Đạo hiếu, dạy ta cần phải thảo hiếu, biết ơn ông bà tổ tiên, những người có công sinh thành, dưỡng dục. Đạo Tin Lành cũng dạy tin thờ Chúa, nhưng chỉ là nhánh tách ra từ gốc là Kitô giáo (thế kỷ 16). Đạo Hồi...
Đạo Thiên Chúa : nghĩa là Đạo từ trời xuống. Đạo này không do con người sáng lập, mà là do Thiên Chúa truyền dạy. Đạo tôn thờ Thiên Chúa và dẫn tới gặp Chúa là hạnh phúc thật. Thuở xưa, Chúa chọn một Dân riêng là Dân Israel để tỏ cho con người biết Chúa. Đến thời Tân ước, cách đây hơn 2000 năm, Chúa sai Con Một Chúa là ĐỨC GIÊSU KITÔ xuống thế làm người để giảng Đạo và Đạo ấy lưu truyền cho đến ngày nay, tên gọi là Kitô giáo hay là Đạo Công giáo.
Đạo Công giáo dạy: Cuộc sống của ta là do Chúa yêu thương ban tặng. Ta sống để nhận biết, tin thờ Thiên Chúa là Cha chúng ta, và yêu thương mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng xã hội tốt đẹp, cho ngày sau được về hưởng hạnh phúc với Chúa. Luật của Đạo Chúa là Mến Chúa Yêu người và Yêu Thương là giữ trọn Luật Đạo.
Theo Đạo chính là theo Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu độ duy nhất, Đấng đã phán: "Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống".
Hãy bước đi Con đường của Ngài,
Hãy tìm đến Sự Thật của Ngài,
Hãy đón nhận Sự Sống của Ngài.
Ước mong mỗi ngày Bạn hiểu được ĐẠO, khám phá ra Tình yêu Chúa trong đời Bạn, Bạn TRỞ THÀNH KITÔ HỮU tốt, thành Chứng nhân Tình yêu, nhờ đó, Bạn được sự bình an và hạnh phúc thật nơi Chúa.
PHẦN MỞ ĐẦU
Bài 1
CON NGƯỜI TÌM KIẾM CHÚA
1. GHI NHỚ
H. Con người dựa vào đâu để biết Thiên Chúa ?
T. Con người có thể nhận biết Thiên Chúa khi dựa vào trật tự trong vũ trụ, vào khát vọng hạnh phúc, vào các tôn giáo, cách riêng vào Đạo Công giáo.
2. THÁNH KINH. "Thiên Chúa đã tạo thành toàn thể nhân loại, để họ ở trên mặt đất. Người đã vạch ra những thời kỳ nhất định và những ranh giới cho họ. Như vậy là để họ tìm kiếm Thiên Chúa; may ra họ dò dẫm mà tìm thấy Người, tuy rằng thực sự Người không ở xa mỗi người chúng ta ... " (CV 17, 26-28).
3. GIẢI THÍCH.
Con người có thể nhận biết Thiên Chúa :
Dựa vào thiên nhiên: Khi ta nhìn xem vũ trụ, trời đất, muôn vật với trật tự lạ lùng, vẻ đẹp kỳ diệu, khiến ta nhận ra có Đấng Tạo hoá và điều khiển vũ trụ. Cách nhận biết nầy được gọi là luật nhân quả : nghĩa là xem hậu quả thì biết nguyên nhân (xem quả biết cây).
Dựa vào con người: Khi nhìn lại đời người : ta nhận thấy có tiếng lương tâm nhắc bảo ta làm lành lánh dữ. Ta còn nhận thấy có nơi ta có khát vọng muốn sống Hạnh phúc, muốn đạt điều chân thật, tốt đẹp (Chân-Thiện-Mỹ). Khát vọng ấy khiến ta tìm đến Đấng là căn nguyên, là cội nguồn của sự thật, sự tốt. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể lấp đầy mọi khát vọng hạnh phúc cho ta.
Dựa vào Tôn giáo: Qua các hiện tượng tôn giáo, các hình thức thờ tự, cúng vái, khẩn cầu, các tâm tình tôn giáo ăn sâu sâu vào con người, giúp ta nhận ra : ngoài thế giới trần tục, có thế giới thần linh.
Dựa vào Đạo Công giáo: Đạo Công giáo giúp ta nhận biết Thiên Chúa cách chắc chắn và có hiệu quả.
- Chắc chắn: vì đạo Công giáo do chính Chúa lập. Thiên Chúa đã sai Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô xuống trần gian, để giảng dạy, để tỏ cho loài người (một Đạo), con đường để gặp gỡ Chúa (Đạo Mạc khải).
- Hiệu quả: vì Chúa vừa chỉ đường, vừa ban nhiều ơn trợ lực, giúp trí khôn con người nhận biết và kiên trì tìm gặp Chúa.
4. THỰC HÀNH
Tôi quyết tâm siêng học giáo lý, năng cầu nguyện, để ngày càng nhận biết và yêu mến Chúa nhiều hơn.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa, " con là người ngoại đạo, nhưng vẫn tin Chúa ngự trên cao". Chính niềm tin đơn sơ ấy thúc đẩy con tìm kiếm Chúa. Xin ban thêm niềm tin và sự hăng say, giúp con kiên trì học giáo lý để biết Chúa và yêu mến Chúa. Amen.
Bài 2
THIÊN CHÚA NÓI VỚI CON NGƯỜI
1. GHI NHỚ.
H. Thiên Chúa dùng cách nào để tỏ mình cho con người ?
T. Chúa dùng nhiều cách, qua nhiều giai đoạn để tỏ mình ra cho con người biết Chúa, cách rõ ràng nhất là bằng Thánh Kinh.
2. THÁNH KINH.
"Thuở xưa, nhiều lần, nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ ; nhưng đến thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Chúa Con". (Dt 1,1)
3. GIẢI THÍCH.
Chúa muốn tỏ mình: Loài người tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng thực ra chính Chúa tìm gặp con người trước. Chúa gieo vào tâm hồn con người khát vọng tìm Chúa, rồi chính Chúa tỏ mình cho con người, gọi là Mạc Khải, nhờ đó, con người mới có thể biết Chúa. Chúa dùng lời nói, hành động mà tỏ mình qua từng giai đoạn của lịch sử, nhất là qua Thánh Kinh. Chúa tỏ mình qua nhiều giai đoạn : Thuở xưa, qua các Tổ phụ, các Ngôn sứ, sau cùng Chúa tỏ mình cách trọn vẹn qua Chúa Giêsu Kitô.
Thánh Kinh là gì ?
Là bộ sách chứa đựng Lời của Chúa nói với con người, trải qua các thời đại lịch sử của một dân tộc (Israel), được viết nhiều hình thức khác nhau, do nhiều tác giả nhân loại, dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần.
Thánh Kinh gồm có 2 bộ:
Bộ Cựu Ước gồm 46 quyển, viết về giao ước Chúa ký kết với Dân tộc Israel .
Bộ Tân Ước, gồm 27 quyển, viết về giao ước giữa Chúa và loài người, qua Chúa Giêsu. Có 4 sách Phúc Âm là quan trọng nhất, vì ghi lại đời sống và lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
Nội dung Thánh Kinh: là chương trình và hành động cứu độ của Thiên Chúa thực hiện trong suốt lịch sử loài người, từ tạo thiên lập địa, cho đến ngày tận thế.
Đọc Thánh Kinh: Mỗi lần đọc Thánh Kinh là ta được gặp gỡ chính Chúa. Ta cần siêng đọc Thánh Kinh trong đức tin, với tâm tình cầu nguyện khiêm tốn, đơn sơ và đọc theo sự hướng dẫn của Hội Thánh.
Thánh Truyền: Những điều được ghi chép bằng văn tự gọi là Thánh Kinh, còn thêm những điều không ghi chép, tất cả được gìn giữ, bảo tồn và lưu truyền trong Đạo Công giáo, gọi là Thánh Truyền.
4. THỰC HÀNH.
Biết Chúa luôn tìm kiếm gặp gỡ, tôi quyết tâm tìm gặp Chúa trong cầu nguyện và nhất là tìm đọc Thánh Kinh để thêm biết Chúa.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy chúa, con biết Chúa luôn tìm kiếm và gặp gỡ con, và hôm nay con biết Thánh Kinh là bộ sách ghi lại Lời Chúa. Xin cho con biết qúi mến và siêng đọc Thánh Kinh, để thêm hiểu biết thánh ý Chúa. Amen.
Bài 3
CON NGƯỜI ĐÁP TRẢ BẰNG ĐỨC TIN
1. GHI NHỚ.
H. Đức tin là gì ?
T. Đức tin là hồng ân Chúa ban và là hành vi tự do của con người, để con người đáp lại lời mời gọi của Chúa và chấp nhận mọi Lời Chúa dạy.
2. THÁNH KINH
Đám đông dân chúng hỏi Chúa Giêsu : "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện việc Thiên Chúa muốn ?"Chúa Giêsu trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn các ông làm là: tin vào Đấng Người đã sai đến". (Ga 6,28-29)
3. GIẢI THÍCH.
Tin: là chấp nhận là thật lời người khác nói về một điều mà ta chưa thấy, chưa biết. Mức độ tin còn tuỳ thuộc vào uy tín của người nói (người lớn hay trẻ con, đáng tin hay hèn hạ...).
Trong đời sống hàng ngày, niềm tin là điều cần thiết cho cuộc sống, nếu thiếu niềm tin, thì cuộc sống sẽ nặng nề vì ngờ vực, nghi kỵ. Từ thực tế đó, niềm tin vào Thiên Chúa trở nên gần gũi, nhưng cao siêu hơn, vì tin vào Thiên Chúa quyền năng, tin là gắn bó tuyệt đối vào Chúa, chấp nhận mọi lời Chúa dạy.
Đức Tin: là nhân đức siêu nhiên (đối thần) do Chúa ban, giúp ta vững lòng chấp nhận những Lời Chúa dạy, nhờ Hội Thánh truyền lại cho ta. Đức tin là còn sự gắn bó toàn diện con người với Thiên Chúa, đức tin dẫn đến hành động vì ''đức tin không có việc làm là đức tin chết''.
Đặc tính đức tin: Trước tiên, đức tin là Hồng Ân Chúa ban, nghĩa là Chúa thúc đẩy ta qui hướng về Chúa, Chúa mở lòng mở trí để ta suy nghĩ và đón nhận Chúa và tất cả giáo lý Chúa dạy. Đồng thời, đức tin cũng là Hành vi tự do của con người, có suy nghĩ và chấp nhận : "Tôi tin để hiểu và tôi hiểu để tin nhiều hơn". Cuối cùng, đức tin cũng là một Ơn ban trong Hội Thánh, chính Hội Thánh là Mẹ trao ban và dạy dỗ ta đức tin. Khi lãnh phép Rửa tội, ta được hỏi : Con xin gì cùng Hội Thánh ? Và ta trả lời : Thưa con xin đức tin... Đức tin mang lại cho con sự sống đời đời.
Đức tin cần thiết để được cứu độ: Chúa Giêsu dạy : "Ai tin và chịu Phép Rửa sẽ được cứu độ" (Mc 16,16) vì "không có đức tin, thì không thể đẹp lòng Thiên Chúa" (Dt 11,6). "Đức tin của con đã cứu chữa con".
Những điều phải TIN trong Đạo: tóm trong Kinh Tin Kính, gồm 3 điều: 1. Tin Chúa Cha Tạo dựng trời đất,
2. Tin Chúa Con cứu chuộc loài người
3. Tin Chúa Thánh Thần, tin đạo Công giáo.
Sống đức tin: Tuy đức tin do Chúa ban, nhưng cũng có thể bị mất, nếu ta không học hỏi, bồi dưỡng, hay nói đúng hơn là sống đức tin. Sống đức tin là sống đời cầu nguyện, siêng lãnh bí tích, tuân giữ giới răn, sống đời Chứng nhân gương mẫu.
4. THỰC HÀNH
Quyết tâm học hỏi giáo lý, siêng đọc Thánh kinh, để biết Chúa và tin Chúa nhiều hơn.
5. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, xin ban đức tin cho chúng con, để chúng con vững lòng chấp nhận mọi điều điều Chúa dạy, nhờ Hội thánh truyền lại cho chúng con. Amen.
PHẦN I
TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN
HỌC KINH TIN KÍNH
Bài 4
MỘT CHÚA BA NGÔI
1. GHI NHỚ
H. Có mấy Đức Chúa Trời ?
T. Có một Đức Chúa Trời mà Người có Ba Ngôi, Ngôi thứ nhất là Đức Chúa Cha, Ngôi thứ hai là Đức Chúa Con, ngôi thứ ba là Đức Chúa Thánh Thần. Ba ngôi bằng nhau.
2. THÁNH KINH
Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới lên, thì kìa tầng trời mở ra. Ngài thấy Thánh Thần Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự xuống trên Ngài. Và có tiếng từ trời phán rằng : "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Ngài" (Mt 3,16-17).
3. GIẢI THÍCH
Mỗi nước chỉ có một người làm đầu gọi là Tổng thống, chủ tịch, hay Quốc trưởng. Cũng vậy, trời đất muôn vật cũng chỉ có Một Thiên Chúa Tạo Hoá làm chủ mà thôi.
Thiên Chúa là Đấng nào ? Thiên Chúa là Đấng tự hữu, thiêng liêng, hằng có đời đời, quyền phép, thánh thiện, tốt lành, nhân từ, công bằng và chân thật vô cùng.
Một Chúa Ba Ngôi : Thiên Chúa đúng là chỉ có 1, nhưng lại có 3 Ngôi Vị khác biệt nhau là: Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần.
Thông thường ở trần gian, thì Cha phải sinh ra truớc con, lớn hơn con, nhưng đối với Thiên Chúa thì Ngôi Cha, Ngôi Con, Ngôi Thánh Thần đều có từ thuở muôn đời, đều có quyền phép và cao trọng như nhau. Đó là một mầu nhiệm.
Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là điều vượt quá trí khôn loài người, cho nên ta không thể hiểu thấu được, chỉ cần đón nhận bằng lòng tin. Mầu nhiệm nầy được diển tả qua biến cố Chúa Giêsu chịu phép Rửa ở sông Gio-đan, nhất là do chính Chúa Giêsu đã dạy, khi Ngài sai các Tông đồ ra đi rao giảng, làm phép Rửa: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Ba Ngôi yêu thương chúng ta, qua công việc:
Chúa Cha tạo dựng muôn loài,
Chúa Con Cứu chuộc loài người,
Chúa Thánh Thần thánh hoá loài người.
4. THỰC HÀNH
Nghiêm trang, chăm chỉ là Dấu Thánh Giá, để tuyên xưng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi.
5. CẦU NGUYỆN
Kinh Sáng Danh: "Sáng Danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh THần. Như đã có trước vô cùng, và bây giờ, và hằng có, và đời đời chẳng cùng. Amen."
Bài 5
THIÊN CHÚA SÁNG TẠO
1. GHI NHỚ
H. Trời đất muôn vật bởi đâu mà có ?
T. Trời đất muôn vật do Thiên Chúa tạo thành mà có. Trong muôn loài Chúa dựng nên, có hai loài quan trọng : đó là Thiên thần và Loài người. Vì thế, Thiên Chúa là Chủ muôn loài và là Cha của loài người chúng ta.
2. THÁNH KINH
"Từ đầu hết, Thiên Chúa đã dựng nên trời và đất...Ngài phán : "Vòm trời hãy có trăng sao ... Mặt đất hãy có thảo mộc xanh tươi, rau cỏ nảy hạt giống theo loại, cây sinh trái trong có hạt giống theo loại ...Đất hãy sản xuất ra sinh vật theo : súc vật, côn trùng, mãnh thú ... Và Thiên Chúa đã dựng nên con người giống như mình ..." (St 1,1 - 27).
3. GIẢI THÍCH.
Xem quả thì biết có cây. Có cái nhà là kết quả lao động của bao nhiêu tay thợ và công nhân. Ruộng lúa chín vàng là công của kẻ cấy người gieo. Chén cơm ta ăn phải có người thổi nấu v..v..
Chúa tạo dựng vũ trụ: Vậy trong vũ trụ bao la, trên trời thì trăng sao lấp lánh, dưới đất thì cỏ cây xanh tươi, muôn chim cầm thú đủ mọi giống loài, nhất là con người ta, tất yếu phải được Tạo Hóa sinh thành, chứ không thể tự nhiên mà có được. Kinh thánh diễn tả Chúa dựng nên muôn loài trong vũ trụ trong 6 ngày, ngày thứ 7, Chúa nghỉ ngơi. (Kể chuyện Tạo dựng (ST 1;2).
Trong các loài Chúa dựng nên có 2 loài quan trọng là Thiên thần và Loài người. Thiên thần là loài thiêng liêng, không có hình hài thể xác. Chúa dựng nên để hưởng phúc và phục vụ bên Chúa. Một số trong các thiên thần đã phản nghịch Chúa, bị trừng phạt, gọi là Tà thần hay ma qủi.
Thiên Chúa là Chủ, là Cha: Chúa đã tạo dựng nên trời đất thì đương nhiên Ngài là Chúa Tể của trời đất, cũng như người bỏ tiền ra xây nhà thì là chủ ngôi nhà. Chúa đã sinh dựng nên loài người thì Ngài là Cha của con người, có khác chi cha mẹ trần gian sinh ra con cái thì là cha mẹ của con cái. Như thế nói rằng Tạo Hoá là Tổ Phụ của loài người rất đúng. Do đó, loài người cần phải nhận biết, thờ phượng, kính mến Chúa, để trọn bề thảo hiếu của kẻ làm con.
Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục việc sáng tạo bằng việc chăm sóc và hướng dẫn mọi loài thụ tạo, để vũ trụ luôn phát triển theo các qui luật Ngài đã an bài. Đó là sự Chúa quan phòng.
4. THỰC HÀNH.
Hết lòng thảo hiếu với Thiên Chúa là Cha, luôn tin tưởng, thờ phượng và yêu mến Ngài.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Thiên Chúa là Cha của con, đã bao năm nay con không được ai chỉ cho biết Chúa là Cha sinh thành dưỡng dục con. Kể từ hôm nay, sau khi đã được biết Chúa, con nguyện một lòng tin theo và thờ phượng Chúa suốt đời, để xứng đáng là con thảo của Chúa. Amen.
Bài 6
LOÀI NGƯỜI VÀ TỘI TỔ TÔNG
1. GHI NHỚ
H. Loài người là loài nào ?
T. Loài người là loài có thể xác và có linh hồn, được Thiên Chúa tạo thành giống hình ảnh Ngài.
H. Tội Tổ tông là tội gì ?
T. Là tội do tổ tông loài người là Ông Ađam và bà Evà đã xúc phạm đến Chúa, vì kiêu căng không tuân lệnh Chúa.
2. THÁNH KINH
"Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính" (Rm 5,19 ).
3. GIẢI THÍCH
Theo Thánh Kinh, chính Thiên Chúa đã tạo nên con người. Con người ta được tạo nên khác hẳn mọi loài mọi vật, vì Thiên Chúa đã ban cho nó có một linh hồn thiêng liêng bất tử. Bởi vậy, con người là "linh ư vạn vật" và giống Tạo Hóa ở phần linh thiêng đó. Chính vì loài người có hồn thiêng bất tử, giống hình ảnh Thiên Chúa, nên rất đáng kính đáng trọng, nhất là sau này khi mãn phần, sẽ được hưởng phúc vinh quang với Chúa, Đấng Tạo Hóa của mình (lá rụng về cội).
Nhưng, đáng tiếc thay, thói thường "sướng quá hóa hư", con người được Thiên Chúa yêu thương, đã chẳng thảo hiếu, lại nghe lời ma quỉ xúi bậy, manh tâm phản bội Đấng sinh thành dưỡng dục mình. Đó là tội Tội Tổ Tông , tức là tội do Tổ tông loài người đã phạm, vì bất tuân lệnh Chúa.(Kể chuyện Ađam - Eva ăn trái cấm)
Hậu quả : Vì tội Tổ tông, con người phải mang án tội : đánh mất hạnh phúc Chúa ban, phải đau khổ và phải chết! Chúng ta vì sinh ra bởi dòng dõi Ađam-Evà, nên đã bị mắc tội do Tổ tông truyền, bị tước mất chức vị làm con Chúa.
Chúa hứa cứu chuộc : Tuy nhiên, dù phạt đấy song vẫn thương đấy, Thiên Chúa đã có kế hoạch cứu vớt loài người. Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu thế: ''Bởi người Nữ, sẽ có Đấng sinh ra, đạp nát đầu con rắn''. Người nữ đó chính là Mẹ Maria và con Mẹ là Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế.
4. THỰC HÀNH
Ma quỉ hằng xúi giục ta làm điều tội lỗi, nhưng có Chúa phù trì, ta quyết tâm chống cự lại.
5. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, vì tội Tổ Tông nên lòng trí chúng con luôn hướng về điều ác hơn điều lành. Xin Chúa giúp sức để chúng con luôn chiến thắng ma quỉ và mãi mãi trung thành với Chúa. Amen.
Bài 7
NGÔI HAI LÀM NGƯỜI
1. GHI NHỚ
H. Ngôi Hai Thiên Chúa làm người thế nào ?
T. Do quyền năng Chúa Thánh Thần, Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, được sinh ra làm người như ta, tên là GIÊSU.
2. THÁNH KINH
"Thiên Chúa sai Sứ Thần Gabriel đến gặp Trinh nữ Maria và nói : "Thưa Bà Maria, Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu" . . . Bà Maria thưa: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng". Sứ Thần đáp : "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà và quyền năng Đấng Tốí Cao sẽ rợp bóng trên Bà ... Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được". Bấy giờ Bà Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ Thần nói" (Lc 1,26 - 38).
3. GIẢI THÍCH
Thiên thần Truyền Tin: Khi tới thời đã định, Thiên Chúa sai một Sứ Thần tên là Gabriel đến gặp Trinh nữ Maria, đề nghị cô làm mẹ Đấng Cứu Thế. Nghĩ rằng nếu làm mẹ thì sẽ mất sự trinh khiết, nên Trinh nữ đã không nhận lời. Sứ Thần giải thích rằng sự thụ thai này không phải là kết quả của việc vợ chồng mà là do quyền năng của Chúa Thánh Thần, cho nên dù thụ thai và sinh con, bà vẫn giữ được sự trinh khiết.
Sau khi hiểu rõ như thế, Trinh nữ Maria liền ưng thuận và nói : "Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ Thần nói". Thế là Thánh Thần Thiên Chúa ngự xuống trên Trinh nữ và quyền năng Đấng Tối Cao đã khiến Trinh nữ Maria thụ thai.
Và Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria, được sinh ra làm người mang tên là Giêsu (nghĩa là Chúa Cứu thế), tại làng Bêlem, thuộc nước Do thái.
Chúa Giêsu sống ở trần gian 33 năm. Ngài đã sống 30 năm ẩn dật tại làng Nadarét. Trong 3 năm cuối, Ngài sống công khai, ra đi giảng đạo, lập nhóm 12 tông đồ. Ngài đã sống gương mẫu, thánh thiện và làm nhiều phép lạ để minh chứng lời giảng dạy.
Chúa Giêsu giảng dạy : Ngài dạy cho ta biết Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em. Ngài kêu gọi ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng. Ngài dạy ta sống bác ái, yêu thương và tha thứ. Ngài hứa ban sự sống đời đời cho kẻ tin vào Ngài.
4. THỰC HÀNH.
Học thuộc Kinh Kính Mừng.
5. CẦU NGUYỆN. Sốt sắng đọc Kinh Kính Mừng.
Kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phước lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu, Con lòng Bà gồm phước lạ.
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi này và trong giờ lâm tử. Amen.
Bài 8
CHÚA GIÊSU CỨU CHUỘC
1. GHI NHỚ.
H. Chúa Giêsu đã làm gì để cứu chuộc ta ?
T. Chúa Giêsu đã Nhập thể làm người, đã sống ẩn dật 30 năm tại làng Nadarét, và 3 năm cuối cùng, Ngài đã ra đi loan báo Tin Mừng Nước Trời, Ngài đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết trên Thánh giá và sống lại để cứu chuộc ta.
2. THÁNH KINH
Khi đến nơi gọi là "Núi Sọ", họ đóng đinh Ngài vào thập giá cùng lúc với hai tên gian phi "Bấy giờ Chúa Giêsu cầu nguyện rằng : "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm ...." Và Đức Giêsu kêu lớn tiếng : "Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha...". Nói xong, Ngài tắt thở" (Lc 23, 34.46).
3. GIẢI THÍCH
Việc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết trên thập giá để cứu chuộc loài người là kế hoạch của Chúa Cha đã hoạch định từ muôn thuở. Chính Chúa Giêsu đã loan báo kế hoạch ấy 3 lần trước khi sự việc xảy ra. (Mt 16,21 ; Mt 17,20-30 ; Mt, 20,18-19).
Dưới đây là diễn tiến cuộc tử nạn của Chúa :
Trong khi rao giảng, Chúa đã nói thẳng, nói thật, nhất là khi nói tới những người có chức có quyền như các Thày Thượng Tế, các ông Biệt phái hay Ký lục ... Chúa đã phê phán những hành vi xấu xa đê tiện của họ như: lợi dụng Đền thờ để buôn bán, giả hình nhân đức, bóc lột người nghèo, kiêu căng tự đắc v.v. Thói thường lời thật mất lòng ! Hơn nữa dân chúng lại bỏ họ mà theo Chúa Giêsu, vì được Ngài yêu thương, bênh vực và thi ân giáng phúc. Vì danh dự bị giảm sút và quyền lợi bị sứt mẻ, các Thượng tế, Biệt phái và Ký lục ganh ghét và tìm cách trừ Chúa.
Tối thứ năm, sau Bửa Tiệc Ly, Giu-đa, một người trong nhóm 12, đã phản bội bán Chúa 30 đồng, ông dẫn thủ hạ của các Thượng tế đến Vườn Cây Dầu, nơi Chúa đang cầu nguyện để bắt giữ Ngài.
Chúa Giêsu bị bắt, bị đem về dinh Thượng tế Cai-pha, nơi Hội Đồng Do Thái đang chờ đợi. Họ cáo gian cho Chúa nhiều điều phi nhân, vô nghĩa và ra lệnh cho thủ hạ đánh đập, hành hạ Chúa. Cuối cùng đồng thanh lên án tử hình cho Chúa.
Vì giáo quyền Do thái không có quyền xử tử ai, nên tảng sáng ngày thứ Sáu, các đầu mục Do thái dẫn Chúa đến dinh Phi-la-tô, một quan chức của đế quốc Rôma, yêu cầu ông ra lệnh giết Ngài về tội chính trị. Phi-la-tô xác nhận Chúa Giêsu vô tội và định tâm tha Ngài. Nhưng dưới áp lực của người Do thái, ông đành nhượng bộ để cho họ đem Chúa đi đóng đinh.
Binh lính điệu Chúa lên Đồi Sọ (Can-vê) ở ngoài thành Giê-ru-sa-lem. Tới nơi họ lột áo, đóng đinh chân tay Chúa vào thập giá, đào lỗ dựng thập giá lên. Hai bên Chúa có hai tử tội cùng bị đóng đinh như Ngài.
Cuối cùng, Chúa Giêsu xin Chúa Cha tha tội cho họ và gục đầu tắt thở ! Lúc đó vào khoảng 3 giờ chiều, ngày thứ Sáu, áp lễ Vượt Qua.
Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu là một hiến tế rất đẹp lòng Chúa Cha và có giá trị cứu độ loài người, như lời thánh Phaolô nói : "Ngài ...lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm ... và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa" (Dt 9,10).
4. THỰC HÀNH
Các ngày thứ Sáu, hãy đặc biệt kính nhớ cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Luật Hội Thánh kiêng thịt ngày thứ 6.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương con, Chúa đã chịu đau khổ, chịu chết trên Thánh giá để cứu chuộc con. Xin Chúa thương xót con là kẻ tội lỗi. Amen.
Bài 9
CHÚA GIÊSU PHỤC SINH
1. GHI NHỚ.
H. Chúa Giêsu có chết mãi không ?
T. Không, vì sau khi chết chưa đủ ba ngày thì Chúa Giêsu đã tự mình sống lại, đúng như lời Ngài đã báo trước.
2. THÁNH KINH.
Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ : "Phần các bà, các bà đừng sợ ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su. Ngài không có ở đây, vì Ngài đã sống lại như Ngài đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Ngài đã nằm, rồi mau về nói với môn đệ Ngài như thế này: "Ngài đã sống lại từ cõi chết ..." (Mt, 28, 1-7).
3. GIẢI THÍCH
Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã ba lần nói trước rằng: Ngài sẽ bị bắt, bị đánh đòn và bị giết chết, ngày thứ 3 Chúa sẽ sống lại. (x. Mt 16,21 ; Mt 17,22-23 ; Mt 20, 18-19). Thánh Mat-thêu ghi lại:
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần (Chúa nhật), các bà đạo đức ra mộ với ý định xức thêm thuốc thơm cho xác Chúa Giêsu. Vừa tới nơi, các bà hoảng hốt vì đất động dữ dội và thiên thần từ trời xuống lăn tảng đá lấp cửa mồ ra. Thiên thần bảo các bà rằng Chúa Giêsu đã sống lại rồi và bảo các bà đi báo cho các Tông đồ biết tin vui ấy.
Sống lại rồi, Chúa Giêsu còn lưu lại trần gian suốt 40 đêm ngày. Trong thời gian đó, Ngài hiện ra với các Tông đồ nhiều lần để củng cố đức tin các ông, đồng thời truyền cho các ông ra đi rao giảng Tin Mừng cứu độ. Những ngày đầu, các Tông đồ còn bán tín bán nghi. Nhưng dần dần, qua nhiều lần Chúa hiện ra dạy bảo, các ông trở thành những người tin mạnh mẽ vào việc Chúa sống lại. Các ông đã bỏ tất cả, giã từ gia đình, say mê rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô Phục sinh, đến nỗi dám liều chết để làm chứng việc Chúa Phục sinh.
Ý nghĩa việc Chúa Sống lại : Chúa Sống lại để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa thật và những lời Ngài giảng dạy là thật. Ngài đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, và Ngài ban sự sống lại cho những ai tin Ngài.
4. THỰC HÀNH
Sống nhân ái, thuận hòa với mọi người chung quanh để làm chứng về Chúa Giêsu Phục sinh.
5. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa củng cố đức tin yếu hèn của con, để con tin thật Chúa đã sống lại, đồng thời giúp con cố gắng sống tốt, hầu làm chứng cho Chúa và sau này được Chúa cho sống lại vinh quang. Amen.
Bài 10
CHÚA THÁNH THẦN
1. GHI NHỚ
H. Chúa Thánh Thần là Đấng nào ?
T. Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba, bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, cùng một bản tính và một quyền năng như 2 ngôi cực trọng ấy.
Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần, để khai sinh Hội Thánh.
2. THÁNH KINH
"Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh lùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi lửa, tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần. (Cv 2,1-4).
3. GIẢI THÍCH
Chúa Thánh Thần hiện xuống: Trước khi về trời, Chúa Giêsu hứa sẽ xin Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến với các Tông đồ. Quả nhiên chỉ sau 10 ngày về trời, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các ông trong khi họ đang cầu nguyện với Mẹ Maria.
Sự việc xảy ra như sau :
- Sau khi tiễn Chúa về trời, các Tông đồ, Đức Maria và một số người khác trở về Giê-ru-sa-lem ngụ tại một ngôi nhà, ở đó các ngài ăn chay cầu nguyện. - Đến ngày lễ Ngũ Tuần, tức 10 ngày sau khi Chúa lên trời, vào buổi sáng, mọi người bỗng nghe tiếng gió thổi mạnh như cuồng phong vang dội vào nhà. - Kế đó, ai nấy đều thấy trên đầu nhau hình lưỡi lửa phừng phừng cháy. Đó là dấu chỉ của Thánh Thần.
- Kết quả là mọi người đầy Thánh Thần và bắt đầu nói tiếng khác lạ, tùy theo Thánh Thần ban cho họ phát ngôn.
Hiệu quả nơi các Tông đồ: Sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các Tông đồ được hoàn toàn đổi mới : Trước đây, họ là những con người nhát sợ, nay trở nên can đảm phi thường, dám công khai rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu phục sinh và dám chết để làm chứng điều mình rao giảng. Trước đây, họ là những con người ít học, lâu nhớ mau quên, nay trở thành thông minh sáng suốt, ăn nói hùng hồn và lãnh đạo tài giỏi. Ngoài ra các ngài còn được Chúa Thánh Thần ban cho khả năng nói nhiều thứ tiếng và làm nhiều phép lạ để hỗ trợ việc rao giảng của các ngài và củng cố đức tin của các tín hữu.
Thời kỳ của Chúa Thánh Thần bắt đầu ngay sau ngày Chúa Giêsu về trời. Ngài quả thật là Đấng khai sinh Hội Thánh. Thật vậy, nếu không có Ngài hiện xuống thì làm gì có 12 Tông đồ được đổi mới. Mà nếu các Tông đồ không đổi mới thì Hội Thánh làm sao được khai sinh, được phát triển và vững tiến cho đến hôm nay ?
Riêng mỗi người tín hữu, Chúa Thánh Thần hằng ở với họ và tác động trong tâm hồn, để họ luôn kiên vững trong đức tin. Và đức tin ấy được thể hiện bằng lòng mến Chúa yêu người. Nhờ đó, người tín hữu trở nên muối men cho đời, xứng đáng là chiến sĩ Phúc âm của Chúa Kitô.
4. THỰC HÀNH
Tôn trọng thân xác của ta và của người khác, vì là Đền thờ của Chúa Thánh Thần.
5. CẦU NGUYỆN.
Sốt sắng đọc kinh Đức Chúa Thánh Thần.
Bài 11
HỘI THÁNH CHÚA KITÔ
1. GHI NHỚ.
H. Chúa Giêsu thành lập Hội Thánh thế nào ?
T. Chúa Giêsu rao giảng Nước Thiên Chúa, qui tụ các kẻ tin theo Người, chọn riêng 12 Tông đồ, đặt Phêrô thay mặt Người làm đầu Hội Thánh.
Chúa Giêsu lập Hội Thánh nhằm để tiếp tục công cuộc cứu rỗi nơi trần gian.
2. THÁNH KINH.
"Trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi ra núi cầu nguyện và Ngài đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Ngài kêu các môn đệ lại, chọn lấy 12 ông và gọi là Tông Đồ" (Lc, 12-13).
3. GIẢI THÍCH
Chúa Giêsu lập Hội Thánh: Chúa Giêsu biết Ngài sẽ không sống mãi ở trần gian để mà rao giảng Tin Mừng cứu độ. Do đó, Ngài muốn thành lập Hội thánh để tiếp tục công cuộc cứu chuộc ở trần gian. Vì thế, ngay từ khi bắt đầu rao giảng, Ngài đã chọn 12 Tông đồ, như thời Cựu Ước, dân Do-thái dựng nước và giữ nước nhờ con cháu của 12 Tổ phụ thế nào, thì nay một dân tộc mới là Hội thánh cũng được khởi đi từ 12 Tông đồ như vậy. Trước khi tuyển chọn 12 Tông đồ, Chúa Giêsu đã thức suốt đêm cầu nguyện. Sau khi chọn rồi, Ngài lại huấn luyện các ông thật kỹ càng.
Ba nhiệm vụ của Hội Thánh: Để tạo điều kiện thuận lợi cho các Tông đồ xây dựng thành công Hội thánh, Chúa Giêsu đã trao cho các ông 3 nhiệm vụ (3 quyền) sau đây :
Quyền giảng dạy : Trước khi lên trời, Chúa Giêsu đã công khai truyền lệnh: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo ..." (Mc 16,15). Qua quyền giảng dạy được trao ban này, Hội thánh nắm giữ kho tàng Kinh Thánh, giải thích và loan báo Lời Chúa cho mọi người.
Quyền thánh hóa : qua việc cử hành các Bí Tích, đó là phương tiện làm cho người tín hữu được nên thánh. Mỗi khi lập Bí tích nào, Chúa Giêsu cũng ban quyền và truyền cho các Tông đồ làm như thế. Sau khi lập Bí tích Thánh Thể, Ngài nói: "Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ tới Thày" (Lc,22,19 ). Khi lập Bí tích Rửa tội, Chúa Giêsu đã truyền : "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần..." (Mt 28,19) v..v..
Quyền lãnh đạo : Với Phêrô Chúa nói : "Hãy chăn dắt chiên con của Thày ... Hãy chăn dắt chiên mẹ của Thày..." (Ga,21,15 - 17). Với tất cả các Tông đồ khác, Chúa Giêsu cũng ban quyền lãnh đạo khi Ngài nói : "Ai nghe anh em là nghe Thày, và ai khước từ anh em là khước từ Thày..." (Lc,10,16).
Như Chúa Giêsu đã sử dụng quyền hành Chúa Cha ban cho để phục vụ loài người thế nào, thì các Tông đồ (ngày nay là các vị ĐGH,GM,LM) cũng sử dụng quyền hành Chúa Giêsu trao cho để phục vụ mọi người như thế.
4. THỰC HÀNH.
Cộng tác với các vị lãnh đạo trong Hội thánh, cụ thể là cha sở, để giúp các ngài chu toàn sứ mệnh Chúa trao.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa Giêsu, vì thương yêu, Chúa đã thiết lập Hội thánh để giảng dạy, thánh hoá và hướng dẫn chúng con. Xin Chúa cho chúng con biết mến yêu và ra sức làm vinh danh Hội thánh.Amen.
Bài 12
TỔ CHỨC HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
1. GHI NHỚ
H. Hội Thánh Công giáo gồm những ai ?
T. Hội thánh Công giáo gồm các người tín hữu trên thế giới, dưới sự lãnh đạo của Đức Giáo hoàng và các Giám mục hiệp nhất với ngài.
Các tín hữu trong Hội Thánh đều hiệp nhất và thông công cùng nhau.
H. Hội thánh Việt Nam là gì ?
T. Hội thánh Việt Nam là thành phần của Hội thánh toàn cầu, gồm tất cả những tín hữu người Việt Nam .
2. THÁNH KINH
"Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Họ đồng tâm nhất trí, ngày càng chuyên cần đến Đền thờ. Khi làm lễ tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ" (Cv 2,42.46 - 47).
3. GIẢI THÍCH.
HỘI THÁNH TOÀN CẦU.
Lời trích sách Tông Đồ Công Vụ trên đây cho chúng ta một hình ảnh của Hội thánh đầu tiên : Các tín hữu chuyên chăm nghe các Tông đồ giảng dạy, sốt sắng tham dự thánh lễ và đoàn kết yêu thương nhau. Ngày nay trên thế giới, những ai là tín hữu đúng nghĩa thì cung cách sống đạo cũng giống như thế.
Mầu nhiệm Hội thánh được diển tả như là Dân Thiên Chúa, là Thân Thể Chúa Kitô, là Đền thờ Chúa Thánh Thần.
Thành phần của Hội thánh: gồm Đức Giáo Hoàng đứng đầu, các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ và giáo dân hiệp nhất làm thành Dân Thiên Chúa. Như thế, Hội thánh là một tổ chức hữu hình (gồm những con người), có cơ cấu tổ chức điều hành nhằm phục vụ con người. Nhưng Hội thánh lại có tính cách thiêng liêng (thờ phượng Thiên Chúa và lo việc phần hồn), nhận sức sống và ân sủng của Chúa.
Cho nên Hội thánh được gọi là Thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, mà Chúa Kitô là Đầu, thông ban sức sống và ân sủng cho mọi Chi thể là các tín hữu. Chúa Kitô hứa luôn ở cùng Hội thánh mọi ngày cho đến ngày tận thế.
Hội thánh ly khai : Chúa Kitô thiết lập chỉ có một Hội thánh. Nhưng qua thời gian, do sự vụng về của con người mà có những Hội thánh khác : Tin lành, Chính thống, Anh giáo.
Hội thánh đích thực của Chúa Kitô cần có đủ 4 đặc tính: - Duy nhất - Thánh thiện - Công giáo - Tông truyền .
Hội thánh Công giáo có đủ 4 đặc tính ấy, nên đúng là Hội thánh đích thật của Chúa Kitô.
Hội thánh Hiệp nhất và thông công: Các tín hữu trong Hội thánh bao gồm: Các thánh trên trời (GH khải hoàn), các tín hữu còn sống (GH chiến đấu) và các đẳng linh hồn (GH đau khổ). Tất cả đều được hiệp nhất với nhau vì "chỉ một đức tin, một phép rửa, một Thiên Chúa là Cha". Tất cả đều được liên kết với nhau trong tình yêu và sức sống của Chúa, nên có thể cầu nguyện và chuyển thông công trạng cho nhau. Đó là tín điều Các Thánh thông công.
HỘI THÁNH VIỆT NAM .
Nước Việt Nam chúng ta được phúc đón nhận đức tin công giáo vào giữa thế kỷ XVI (1533). Nhưng mãi năm 1659 Tòa Thánh mới thành lập được 2 giáo phận Đàng Trong và Đàng Ngoài, đồng thời trao cho các Giám Mục Hội Thừa sai Paris và dòng Đa minh cai quản.
Hội thánh Việt Nam bị bách hại suốt 300 năm (1580 - 1885). Khoảng trên 100.000 tín hữu thuộc mọi thành phần từ Giám mục đến giáo dân cả nam lẫn nữ, đã can đảm hy sinh mạng sống để làm chứng đức tin, trong đó có 117 vị đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong lên bậc hiển thánh vào ngày 19.06.1988.
Năm 1960, Phẩm trật Hội thánh Việt nam được thiết lập với 3 Giáo Tỉnh (Hà nội, Huế, Sài gòn). Hiện nay, Hội thánh Việt nam có 25 Giáo phận, với hơn 30 Giám mục, hơn 2.000 linh mục triều dòng, hơn 10.000 tu sĩ nam nữ, có khoảng 6 triệu giáo dân sống rải rác trên mọi nẻo đường đất nước. Hội thánh Việt nam hiệp thông với Hội thánh toàn cầu dưới sự lãnh đạo của vị Mục tử tối cao là Đức Giáo Hoàng.
4. THỰC. HÀNH
Kính trọng và vâng phục các phẩm trật, đồng thời cộng tác với các ngài để xây dựng Nước Chúa.
5. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, xin ban cho Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám mục và các Linh mục, được luôn khôn ngoan sáng suốt và đức tin mạnh mẽ, để các ngài hướng dẫn đoàn chiên Chúa đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Amen.
Bài 13
TÔN KÍNH ĐỨC MẸ MARIA
1. GHI NHỚ.
H. Tại sao ta sùng kính Đức Maria ?
T. Ta sùng kính Đức Maria vì Ngài là Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Hội Thánh và là Mẹ của ta.
2. THÁNH KINH.
"Sứ thần vào nhà Trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà ...Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu" (Lc 1, 28, 31).
3. GIẢI THÍCH.
- Đức Maria là người được diễm phúc nhất trong hàng phụ nữ. Mẹ là một người như bao người khác, nhưng được Chúa đoái thương tuyển chọn làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu thế. Bởi vì Đấng Cứu thế là Thiên Chúa làm người, nên Đức Maria được suy tôn tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Trên trời, dưới đất, ngoài Thiên Chúa ra, còn có ai hay có gì cao trọng hơn vinh quang Chúa dành cho Đức Mẹ ?
-Nhưng để xứng đáng làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu thế, Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria nhiều đặc ân cao quí. Ngoài đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa như nói ở trên, còn có 3 đặc ân khác như :
Vô Nhiễm Nguyên tội, tức là Chúa gìn giữ Đức Mẹ khỏi vướng mắc tội Nguyên tổ. Nhờ đó, Mẹ thoát ách thống trị của Sa-tan, trở nên thánh thiện tuyệt vời và cung lòng Mẹ xứng đáng làm nôi cưu mang Chúa Cứu thế.
- Đồng trinh trọn đời. Thánh Kinh cho chúng ta biết: Đức Mẹ trinh tiết khi sinh Chúa Cứu thế là lẽ dĩ nhiên, vì do quyền năng Thiên Chúa. Nhưng sau đó, Chúa còn ban ơn gìn giữ, để Mẹ sống cuộc đời trinh khiết trọn vẹn.
Lên trời cả hồn lẫn xác. Thông thường khi chết thì hồn lìa khỏi xác và xác tan rã trong lòng đất.
- Nhưng Mẹ Maria được hưởng các ơn đặc biệt của Chúa: vô nhiễm nguyên tội, đồng trinh trọn đời, cưu mang và cộng tác với Đấng cứu thế... thì cuối cùng để kết thúc mọi đặc ân, Chúa gìn giữ thân xác Mẹ khỏi bị hư nát trong mồ giống như Con mình. Nên sau khi thắng sự chết Mẹ được đưa lên vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, làm Nữ vương, ngự bên hữu Con mình (Pio XII).
- Hội thánh được ví như một Thân thể mầu nhiệm, mà Chúa Giêsu là Đầu. Người mẹ sinh ra người con thì sinh cả đầu lẫn thân thể. Cũng vậy, Mẹ Maria đã sinh ra Chúa Giêsu là Đầu, thì cũng sinh ra Thân thể là Hội Thánh, nên Mẹ cũng được gọi là Mẹ Hội thánh. Mà Hội thánh là các tín hữu, là mỗi người chúng ta. Như vậy, Mẹ Maria đương nhiên là Mẹ của mọi người chúng ta. Trước khi chết, Chúa Giêsu cũng đã trối ông Thánh Gioan làm con Đức Mẹ.
- Không người mẹ nào lại không thương con. Đức Mẹ yêu thương Chúa Giêsu thế nào, thì cũng yêu thương chúng ta như vậy. Lịch sử cho thấy nhiều lần Mẹ đã phù trợ Hội thánh thoát khỏi những bước gian nguy. Có khi Mẹ đích thân hiện ra (Lộ đức, Fatima ) trực tiếp chỉ dạy Hội Thánh phải sống thế nào để cứu mình và cứu loài người thoát khỏi diệt vong.
- Hội thánh sung sướng nhận Đức Maria làm Mẹ và tỏ lòng tôn kính Mẹ cách rất đặc biệt. Mỗi người chúng ta, với tư cách là con, hãy hết lòng yêu mến Mẹ bằng thực hiện 3 mệnh lệnh của Mẹ là:
-Ăn năn sám hối,
-Siêng năng lần chuổi,
-Tôn sùng trái tim Mẹ.
Hãy thi đua bắt chước các gương nhân đức của Mẹ : sống khiêm nhượng, vâng
phục, bác ái...
- Được như vậy, chắc chắn Đức Mẹ sẽ cầu xin Chúa ban cho chúng ta không thiếu một ơn gì, nhất là ơn cứu độ lại càng được bảo đảm. Thánh Bê-na-đô quả quyết: "Xưa nay chưa từng có ai chạy đến cùng Mẹ xin bầu chữa cứu giúp mà Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời..."
4. THỰC HÀNH.
Siêng năng lần chuỗi, đọc kinh Kính Mừng mỗi ngày để yêu mến Mẹ (Học cách Lần chuổi).
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Mẹ Maria, thật sung sướng biết bao, khi biết Mẹ là Mẹ của con. Mẹ hằng yêu thương che chở, phù giúp con trên đường về quê trời. Xin cho con biết đền đáp tình thương của Mẹ bằng siêng năng lần chuổi và bắt chước các nhân đức sáng ngời của Mẹ. Amen.
Bài 14. TỨ CHUNG
1. GHI NHỚ.
H. Tứ chung là gì ?
T. Đó là 4 điều sau cùng của đời người: Chết, Phán Xét, Thiên Đàng-Hoả Ngục, Sống Lại.
2. THÁNH KINH.
"Tất cả những ai thấy và Tin vào Người Con, thì được sự sống đời đời và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Ga. 6,40)
3. GIẢI THÍCH.
1. CHẾT: Chết là chấm dứt cuộc sống trần gian, là linh hồn lìa khỏi thân xác. Chết là một sự thật không ai chối cãi. Vì linh hồn thiêng liêng nên bất tử, còn xác là vật chất nên bị hư nát.
Theo quan niệm dân gian : Sinh ký, Tử qui, nghĩa là sống gởi, thác về: Chết là trở về trình diện với Cha. Đức tin công giáo dạy : Chết là do hậu quả của tội lỗi, "vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian và tội lỗi đã gây nên sự chết" (Rm 5,12). Chết là ngưỡng cửa bước vào đời sau, đặc biệt, chết là tham dự cuộc Tử nạn với Chúa Kitô để chờ ngày sống lại trong vinh quang.
2. PHÁN XÉT.
- Ngay sau khi chết, linh hồn mỗi người gặp Chúa phán xét riêng, tuỳ các việc lành-dữ đã làm khi còn sống, để nhận lấy số phận hạnh phúc (nơi Thiên đàng) hoặc đau khổ (nơi Luyện ngục - Hoả ngục).
- Thánh Kinh còn dạy, đến ngày sau hết (ngày Tận thế), thân xác mọi người sẽ sống lại, Chúa Kitô sẽ đến lần thứ 2 trong vinh quang để phán xét chung toàn thể loài người. Phán xét chung sẽ cho ta biết sự công chính của Thiên Chúa toàn thắng tội lỗi và tình yêu của Chúa mạnh hơn sự chết.
3. THIÊN ĐÀNG - HOẢ NGỤC - LUYỆN NGỤC.
Thiên đàng : Là trạng thái hưởng hạnh phúc với Chúa. Linh hồn những người chết trong ơn nghĩa Chúa và đã được thanh tẩy vẹn toàn, thì sẽ sống hạnh phúc với Chúa trong Nước Trời, còn gọi là Thiên đàng.
Luyện ngục : là tình trạng thanh luyện những người chết trong ơn nghĩa Chúa, nhưng chưa sạch mọi tỳ vết tội lỗi, hoặc chưa đền tội đủ, nên chờ thanh luyện cho xứng, chờ được vào thiên đàng.
Hoả ngục : là tình trạng bị giam cầm đau khổ vì khước từ hạnh phúc với Chúa, mà án phạt nặng nhất là xa cách Chúa đời đời. Đó là những người chết trong tình trạng tội trọng, không ăn năn hối cải, cố chấp.
4. Sự SỐNG LẠI.
Kinh tin kính kết thúc : tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy "Đó là nói đến ngày Tận thế, tất cả mọi người chết sẽ sống lại, dù "người lành cũng như người dữ". Tuy nhiên, khi xác sống lại, không phải số phận mỗi người giống nhau, vì:"ai làm điều lành sẽ sống lại để được sống hạnh phúc, ai đã làm điều dữ thì sẽ sống lại để bị kết án" (Gn 5,29). Sống lại như thế nào? Mỗi người sẽ sống lại với thân xác của mình, nhưng được biến đổi thành "xác có thần khí" không hư nát" (I Cor 15,44), còn việc sống lại bằng cách nào thì vượt quá trí hiểu của ta.
4.THỰC HÀNH
Can đảm nhìn sự chết, để quyết tâm sống thánh.
5. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, Chúa đã chết và đã sống lại để cứu chuộc con. Xin cho con biết sống cuộc sống hiện tại tốt đẹp, biết chuẩn bị cho giờ chết, để sau cái chết, con sẽ được sống lại bên Chúa. Amen.
PHẦN II
PHỤNG VỤ BÍ TÍCH
Bài 15. HIỂU VÀ SỐNG PHỤNG VỤ
1. GHI NHỚ
H. Phụng vụ là gì ?
T. Phụng Vụ là việc tôn thờ chính thức của Hội Thánh, để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi và để thánh hoá con người.
2. THÁNH KINH.
Chúa Giêsu nói vối người phụ nữ Samaria : "Này chị, hãy tin tôi, đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa không phải trên núi này hay ở Giêrusalem ... Nhưng những người thờ phượng Thiên Chúa đích thực, sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thánh Thần và trong sự thật". (Ga 4, 21.23)
3. GIẢI THÍCH.
Học Đạo cần biết những điều phải Tin, phải Giữ, nhưng cũng cần biết những nghi lễ thờ phượng, hay việc tổ chức thờ phượng theo các Mùa trong năm. Việc tổ chức nghi lễ thờ phượng đó gọi là Phụng Vụ.
Phụng vụ có 2 mục đích chính : nhằm để tôn vinh Thiên Chúa và để thánh hoá con người, vì trong Phụng vụ, chúng ta tuyên xưng đức tin và tôn thờ Thiên Chúa Cha, là Đấng ban mọi phúc lành cho ta. Trong Phụng vụ, ta tái diển mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô, để thánh hoá con người, và nhờ Chúa Thánh Thần khơi dậy lòng tin và giúp ta yêu Chúa yêu người nhiều hơn.
Những việc cử hành Phụng vụ là: Thánh Lễ, các Bí tích và Phụng vụ Giờ Kinh (Kinh Nhật tụng).
Năm Phụng Vụ: được tổ chức thành các Mùa, nhằm giúp cho các tín hữu hiểu và sống các Mầu nhiệm đức tin trong đạo cách thiết thực hơn. Năm Phụng vụ khởi đầu từ Mùa Vọng, mùa Giáng sinh, đến Mùa Chay và mùa Phục sinh, mùa Thường niên.
-Mùa Vọng : gồm 4 tuần trước lễ Giáng sinh, nhằm chuẩn bị tâm hồn tín hữu mừng mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể.
-Mùa Giáng Sinh: từ lễ Chúa Giáng sinh đến lễ Chúa chịu Phép Rửa, để mừng kính Mầu nhiệm Nhập thể.
-Mùa Chay : gồm 40 ngày, từ thứ tư Lễ tro, đến Thứ Năm tuần Thánh, chuẩn bị tín hữu mừng mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh.
-Mùa Phục sinh: từ lễ Vọng Phục sinh đến lễ Hiện Xuống, mừng việc Chúa Kitô Phục sinh, chiến thắng tội lỗi và Sự chết.
-Mùa Thường niên, xen kẻ giữa mùa Giáng sinh đến đầu mùa Chay và từ sau lễ Hiện xuống đến hết tuần lễ Chúa Kitô Vua, nhằm giúp tín hữu sống các mầu nhiệm cứu độ cách đầy đủ hơn.
Sống Phụng Vụ : Như cây non lớn dần và trổ hoa, kết trái tuỳ thuộc thời tiết, mùa màng trong năm, thì đức tin của người tín hữu cũng lớn mạnh dần nhờ việc biết sống các Mùa Phụng vụ. Vì thế, ta cần siêng năng học hỏi và tham dự các nghi lễ Phụng vụ, nhất là sống theo tinh thần các Mùa Phụng vụ.
4. THỰC HÀNH.
Tôi cố gắng sốt sắng tham dự Thánh lễ, và sống tinh thần của các Mùa Phụng vụ, để sinh nhiều hoa trái nhân đức.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa, Hội Thánh đã lập ra nhiều mùa, nhiều lễ trong một năm để giúp con suy niệm, kính nhớ các biến cố đời sống của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các Thánh. Xin cho con hiểu ý nghĩa các ngày lễ, để tham dự sốt sắng và được hưởng nhiều ơn ích Chúa ban. Amen.
Bài 16
ƠN CHÚA VÀ BÍ TÍCH
1. GHI NHỚ.
H. Ơn Chúa là gì ?
T. Ơn Chúa là sự sống và sức mạnh Chúa ban để ta sống hạnh phúc đời này và đời sau.
H. Bí tích là gì ?
T. Là những dấu chỉ bề ngoài, do Chúa Giêsu lập, để chỉ ý nghĩa và chuyển thông ơn bên trong, cho ta được nên thánh.
2. THÁNH KINH.
"Không có Ta, các con không thể làm được gì ?"
3. GIẢI THÍCH.
1. ƠN CHÚA :
Con người tự sức riêng mình không thể làm được việc gì. Sự sống, sức khoẻ, tài năng, mọi cái ta có đều do Chúa ban. Ơn Chúa chính là sức sống, sức mạnh Chúa ban, để ta được sống và được hưởng hạnh phúc đời này và đời sau.
Có 2 thứ ơn Chúa :
Ơn Thánh Hoá: là sự sống siêu nhiên của Chúa Ba Ngôi ban cho ta ngày ta chịu Rửa tội, để ta được làm con Chúa và được hưởng hạnh phúc với Chúa.
Ơn Trợ giúp: là sức mạnh Chúa ban, để giúp ta làm lành lánh dữ, giúp ta ăn năn sám hối khi đã phạm tội.
Muốn lãnh nhận Ơn Chúa, ta cần cầu nguyện, làm việc lành và nhất là lãnh các Bí tích.
2. BÍ TÍCH :
Bí là kín đáo, không thấy được. Tích là dấu chỉ bên ngoài thấy được. Bí tích là những dấu hiệu bề ngoài để chỉ ý nghĩa và chuyển thông ơn bên trong, do Chúa Giêsu lập, để ta được nên thánh.
Ví dụ : Bí tích Rửa tội, khi Hội thánh lấy nước đổ trên đầu (dấu chỉ bên ngoài thấy được) thì Chúa tha thứ tội lỗi, ban ơn làm con Chúa bên trong (ơn thiêng liêng ban trong tâm hồn ta không thấy).
Có 7 Bí tích (xem Kinh), nhưng có 3 Bí tích chỉ được lãnh một lần, đó là Bí tích Rửa tội, Thêm sức và Truyền chức thánh, vì 3 bí tích này in dấu thiêng liêng vào linh hồn không thể xoá được.
Muốn lãnh Bí tích : ta cần hiểu biết, có lòng tin, có ý ngay lành và cần phải dọn hồn, dọn xác cho xứng đáng.
3. CÁC PHỤ TÍCH (Á bí tích) :
Đó là những nghi thức do Hội Thánh lập ra, để chuẩn bị cho tín hữu lãnh nhận các Bí tích và để thánh hoá những hoàn cảnh trong cuộc sống.
Có 3 thứ Phụ tích :
1. Việc chúc lành cho người, đồ dùng, hoặc nơi chốn.
2. Nghi thức thánh hiến người, đồ dùng hoặc nơi cử hành Phụng vụ. 3). Nghi thức trừ quỉ.
Các nghi thức của Phụ tích : thường có lời kinh, kèm theo một dấu hiệu như việc đặt tay, giơ tay chúc lành với dấu Thánh giá và rảy nước thánh.
4. THỰC HÀNH.
Quyết tâm mau mắn đón nhận Ơn Chúa qua cầu nguyện, siêng lãnh Bí tích, cùng cộng tác với Ơn Chúa để nên thánh thiện hơn.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy chúa, con cám ơn Chúa đã thương ban rất nhiều ơn cho con trong cuộc sống. Xin cho con biết dùng Ơn Chúa, siêng năng cầu nguyện và làm nhiều việc lành để được hưởng nhiều Ơn Chúa ban. Amen.
Bài 17
BÍ TÍCH RỬA TỘI
1. GHI NHỚ
H. Bí tích Rửa tội là gì ?
T. Là Bí tích Chúa Giê-su đã lập, để tha thứ tội lỗi và ban ơn Thánh hóa cho ta xứng đáng làm con của Chúa.
2. THÁNH KINH.
"Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thày đã truyền cho anh em" (Mt 28, 19).
3. GIẢI THÍCH.
Trước khi lên Trời, Chúa Giêsu đã sai các Tông đồ đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, làm phép Rửa tội cho những ai tin và ước muốn được làm con cái Thiên Chúa.
Rửa tội là Bí tích đầu tiên để gia nhập đạo Công giáo. Khi Rửa tội, Hội thánh lấy nước đổ trên đầu (dấu chỉ bên ngoài thấy được) thì Chúa tha thứ tội lỗi bên trong (ơn thiêng liêng ban trong tâm hồn ta không thấy).
Bí tích Rửa tội ban các ơn : Sạch tội Tổ tông và tội mình làm; Ban cho ta sự sống mới: là làm con Chúa và là chi thể chủa Chúa Kitô; Được gia nhập vào Hội Thánh ; được ghi dấu ấn thiêng liêng vào linh hồn không hề mất.
Bí tích Rửa tội rất cần thiết : vì Chúa Giêsu đã nói : "Ai không sinh lại bởi nước và Thánh Thần, thì không được vào nước Thiên Chúa" (Ga 3,5)
Người lớn nếu muốn chịu bí tích Rửa tội cần phải :
- Học biết giáo lý đầy đủ, có đức tin vào Chúa.
- Hoàn toàn tự do xin rửa tội.
- Thật lòng sám hối, từ bỏ tội lỗi, ma quỉ.
- Quyết tâm thờ Chúa, trong Hội Thánh Công giáo.
Ai được ban Bí tích : Trong trường hợp thông thường thì chỉ những ai có chức thánh mới được quyền Rửa tội. Còn trường hợp khẩn cấp, nguy tử thì bất cứ ai cũng được quyền và phải rửa tội để cứu rỗi linh hồn những người anh em. Nhưng cần phải rửa theo cách thức và ý của Hội thánh.
Cách thức Rửa Tội : Lấy nước lã (nước sông, nước mưa, nước suối), đổ trên đầu (không đổ trên đầu được thì đổ bất cứ nơi chi thể nào), vừa đổ nước vừa đọc : Tôi rửa Ông (...), nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. (Có thể tùy vai vế mà xưng hô : Ong, bà, anh, chị, con...).
Ý Hội Thánh : là muốn họ được Rửa tội để làm con Chúa, trong Hội Thánh Công giáo.
Vài nghi thức phụ khác như : Xức dầu thánh trên đỉnh đầu, có ý chỉ rằng người Tân tòng được hiến thánh, thuộc dòng dõi vương đế, tư tế, tiên tri.
Mặc áo trắng : Hội thánh dạy người tân tòng : từ đây tâm hồn họ thanh sạch, trong trắng như tuyết. Họ cần giữ mãi nó trắng đẹp như chiếc áo trắng tinh tuyền.
Trao nến cháy : dạy ta phải tỏa sáng đức tin, tỏa ra mùi hương thơm nhân đức bằng các việc bác ái, yêu thương.
4. THỰC HÀNH.
Siêng năng cầu nguyện và làm nhiều việc lành để chuẩn bị lãnh Bí tích Rửa tội.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa, con sung sướng vì sắp được làm con thật của Chúa qua Bí tích Rửa tội. Xin Chúa giúp con, ngay từ hôm nay, biết sốt sắng chuẩn bị cho ngày hồng phúc đó. Amen.
Bài 18
BÍ TÍCH THÊM SỨC
1. GHI NHỚ.
H. Bí tích Thêm sức là gì ?
T. Là Bí tí tích Chúa Giêsu đã lập, để ban Chúa Thánh Thần và bảy Ơn Chúa, giúp ta thêm mạnh sức, để ta can đảm sống đạo và truyền đạo.
2. THÁNH KINH.
"Các Tông đồ ở Giê-ru-sa-lem nghe biết dân miền Sa-ma-ri đã nhận Lời Thiên Chúa, thì cử ông Phêrô và ông Gio-an đến với họ. Khi đến nơi, hai ông cầu nguyện cho họ, để họ nhận được Thánh Thần. Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ : vì họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần" (Cv 8, 14-17).
3. GIẢI THÍCH.
- Trong khi rao giảng, Chúa Giêsu nhiều lần nói tới Chúa Thánh Thần như là Đấng Bảo Trợ, Đấng An Ủi, Đấng ban Sự Sống, Đấng Làm Chứng, Thần Chân Lý. Và Ngài hứa sẽ xin Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến với các Tông đồ : "Thày sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi, đó là Thần Khí Sự Thật" (Ga, 14, 16-17).
- Ngay sau khi về trời, Chúa Giêsu đã thực hiện lời hứa ấy. Đúng ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Cha đã sai Thánh Thần của Ngài xuống tràn đầy trên các Tông đồ (Cv 2, 1-13). Chúa Thánh Thần đã hoàn toàn đổi mới các Tông Đồ : từ nhát sợ trở nên can đảm, từ dốt nát trở nên thông minh sáng suốt và lãnh đạo đại tài.
- Đến lượt mình, các Tông đồ lại ban Thánh Thần cho những người Tân tòng qua cầu nguyện và đăt tay, như trường hợp ở Sa-ma-ri sách Tông đồ Công vụ đã tường thuật và được trích dẫn trên đây.
- Hội thánh qua Bí tích Thêm sức, tiếp tục ban Chúa Thánh Thần và 7 Ơn Chúa Thánh thần là : Khôn ngoan, Thông minh, Hiểu biết, Lo liệu, Sức mạnh, Đạo đức và Kính Sợ Chúa, cho những người đã được Rửa tội, để họ trưởng thành trong đức tin, hăng say làm việc truyền giáo và can đảm làm chứng cho Chúa Ki-tô trong cuộc sống hằng ngày.
- Người ban BT Thêm sức : Thông thường thì chỉ các Giám mục hoặc các linh mục được ủy quyền mới ban Bí tích Thêm sức. Linh mục nào Rửa tội cho người trưởng thành, thì sau đó được ban Bí tích Thêm sức ngay.
Nghi thức ban Bí tích Thêm sức gồm :
- Tuyên xưng đức tin,
- Đặt tay trên đầu người lãnh Bí tích và đọc lời cầu nguyện.
- Xức dầu thánh ghi hình Thánh giá trên trán và chúc bình an.
4. THỰC HÀNH.
Quyết tâm xa tránh tội lỗi, để tâm hồn và thân xác ta xứng đáng là Đền thờ của Chúa Thánh Thần.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa, xin ban tràn đầy Thánh Thần xuống trên con, để Ngài đổi mới toàn bộ tâm hồn và thể xác con. Amen.
Bài 19
BÍ TÍCH THÁNH THỂ
1. GHI NHỚ.
H. Bí tích Thánh Thể là gì ?
T. Là Bí tích Chúa Giêsu đã lập, để tiếp tục lễ hy sinh trên Thánh giá, và để ban Mình Máu Ngài trong hình Bánh Rượu làm của nuôi linh hồn ta.
2. THÁNH KINH.
"Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh Ta sẽ ban tặng, chính là Thịt Ta đây, để cho thế gian được sống". (Ga 6, 51).
3. GIẢI THÍCH.
- Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi 5.000 người ăn no trong sa mạc, Chúa Giêsu trở về Galilê, vào Hội đường Ca-pha-na-um rao giảng về Bánh Hằng Sống, Bánh bởi trời. Ngài hứa ban Thịt Máu Ngài làm của ăn thiêng liêng nuôi sống những ai tin vào Ngài. Nhiều khán thính giả đã phản ứng quyết liệt : "Lời gì mà khó nghe quá!" . Nhưng Chúa Giêsu vẫn khẳng định: "Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống".
Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể: Vào chiều Thứ Năm trước ngày chịu nạn, trong bữa Tiệc ly, Chúa Giêsu "cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra trao cho các Tông đồ và nói : "Đây là Mình Thày, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thày". Và cuối bữa ăn, Ngài cũng làm như vậy và nói : "Chén này là giao ước mới, lập bằng Máu Thày, máu đổ ra vì anh em" (Lc 22, 19-20).
Qua lời nói đó, Chúa Giêsu đã biến bánh rượu trở nên Mình Máu Thánh Ngài. Ngài thực sự ngự nơi bánh rượu với tất cả hồn xác và bản tính Thiên Chúa. Ngài ngự trong bánh rượu cách thiêng liêng nên giác quan ta không cảm thấy, không đụng chạm tới được. Đây quả thực là một mầu nhiệm đức tin. Chúng ta tin vì Lời Chúa là chân lý, Chúa không bao giờ lừa dối ta.
Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể nhằm 3 mục đích :
- Để tái diễn và tưởng niệm lễ hy sinh trên Thánh giá.
- Để làm của ăn của uống nuôi linh hồn ta.
- Để chúng ta thấy được tình yêu tận hiến của Chúa Giêsu, mà noi gương Ngài hiến thân phục vụ mọi người.
Chúng ta cần phải cảm mến, tri ân và sùng mộ Bí tích Thánh Thể, đồng thời hãy chuẩn bị tâm hồn để rước lễ mỗi khi tham dự thánh lễ.
4. THỰC HÀNH.
Khi đã lãnh Bí tích Rửa tội rồi, hãy siêng năng dự lễ và rước lễ.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa Giê-su, con cảm tạ Chúa, vì yêu thương con, Chúa đã lập Bí tích Thánh Thể để làm của ăn nuôi linh hồn con. Xin cho con yêu mến Chúa nhiều để đáp lại lòng Chúa thương con. Amen.
Bài 20
THÁNH LỄ
1. GHI NHỚ.
H. Thánh lễ là gì ?
T. Thánh lễ là việc Chúa Giêsu, nhờ tay linh mục hợp cùng toàn thể Dân Chúa, dâng mình làm của lễ cho Đức Chúa Cha, như xưa chính Ngài đã tự hiến trên Thánh giá.
2. THÁNH KINH.
"Các tín hữu đầu tiên, họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, hiệp thông với nhau, tham dự nghi lễ bẻ bánh và cầu nguyện". (Cv, 2, 42)
3. GIẢI THÍCH.
Lịch sử:
- Ngay sau khi lập Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông đồ : "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày" (Lc,22,19 ). Nghĩa là Chúa muốn chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể để nhớ lại lễ hy sinh thập giá xưa, hầu mọi người ở mọi nơi, mọi thời được hưởng ơn cứu độ qua sự chết và Phục sinh của Ngài. Việc cử hành Thánh Thể gọi là Thánh Lễ.
- Như sách Tông đồ Công vụ ghi lại, các Tông đồ đã vâng lệnh Chúa, cử hành nghi lễ Bẻ bánh với các tín hữu thời Hội thánh sơ khai. Đặc biệt vào các ngày thứ nhất trong tuần (Chúa nhật), các tín hữu tụ họp cầu nguyện và bẻ bánh trong tình thông hiệp yêu thương. Từ đó, việc cử hành Bí tích Thánh thể được tiếp tục trong Hội thánh cho tới ngày hôm nay.
- Theo lịch sử phụng vụ, Thánh lễ mang nhiều tên gọi như : lễ Tạ ơn, lễ Bẻ bánh, lễ Tưởng niệm, Bữa ăn của Chúa, Bữa tiệc thánh, Lễ hy sinh, Mỗi tên gọi làm nổi bật một nét trong ý nghĩa phong phú của Thánh lễ.
THÁNH LỄ có hai phần chính:
- Một là Phụng vụ Lời Chúa : gồm những lời cầu nguyện, ngợi khen dâng lên Chúa, những Lời Chúa dạy trong Thánh Kinh và bài giảng.
- Hai là Phụng vụ Thánh Thể : gồm việc chuẩn bị lễ vật, kinh Tạ ơn và việc Rước lễ.
VIỆC RƯỚC LỄ.
Đó là việc rước Mình Máu Chúa Giêsu trong hình bánh rượu.
4 Ơn ích khi Rước Lễ nên :
Được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và hiệp nhất với nhau.
Được tha các tội nhẹ và được gia tăng ơn thánh hoá.
Thêm sức chống trả cám dỗ và sửa các nết xấu.
Bảo đảm cho ta được sự sống đời đời.
Muốn Rước lễ nên, ta cần : Sạch tội trọng, có ý ngay lành và giữ chay một giờ trước khi Rước lễ.
Tâm tình trước và sau khi Rước lễ : ta cần sám hối, ăn năn tội, ao ước được rước Chúa. Sau sau Rước lễ, ta thờ lạy, cám ơn và xin ơn Chúa.
NÊN NHỚ :THÁNH LỄ là sự tôn thờ Thiên Chúa cách tuyệt hảo. Không kinh nguyện nào, không của lễ nào, không một hy sinh bác ái nào làm đẹp lòng Chúa Cha cho bằng Thánh lễ, vì trong Thánh lễ, chính Chúa Giêsu, Con Một yêu dấu của Chúa Cha vừa là Chủ tế lại vừa là Của lễ. Ta hãy siêng năng dự lễ cách tích cực và sốt sắng, để làm đẹp lòng Chúa và lãnh nhận được nhiều ơn thánh.
4. THỰC HÀNH.
Siêng năng tham dự Thánh lễ và Rước lễ.
5. CẦU NGUYỆN.
"Lạy Chúa, con sẽ bước tới Bàn thờ Thiên Chúa, Đến gặp Thiên Chúa là nguồn vui của lòng con" Amen. (Tv 42 ).
Bài 21. BÍ TÍCH GIẢI TỘI
1. GHI NHỚ.
H. Bí tích Giải tội là gì ?
T. Là Bí tích Chúa Giêsu đã lập, để tha các tội ta phạm từ khi lãnh Bí tích Rửa tội về sau, cùng giao hoà ta với Chúa và Hội thánh.
2. THÁNH KINH.
"Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ " (Ga 20, 22 - 23).
3. GIẢI THÍCH.
- Ngay chiều ngày sống lại, Chúa Giê-su đã hiện ra với các Tông đồ, trao ban Thánh Thần và cho các ông quyền tha tội: "Anh em tha tội cha ai thì tội người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Ga, 20, 23). Lời nói trên chứng tỏ Chúa Giê-su muốn lập Bí tích Giải tội.
Bí tích Giải tội để tha tội : Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, ta được tha tội Tổ tông và các tội riêng, nếu có. Nhưng vì tội Tổ tông, con người trở nên yếu đuối, dễ hướng chiều về điều ác, dễ sa ngã phạm tội xúc phạm đến Chúa và Hội Thánh, làm thiệt hại cho mình và cho anh em. Biết rõ thân phận yếu hèn, tội lỗi của con người, vì thương, Chúa Giê-su đã lập Bí tích Giải tội để tha tội cho ta và giao hoà ta với Thiên Chúa, với Hội thánh và với anh em.
Chúa ban quyền tha tội: Đúng ra, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Nhưng vì không còn ở trần gian để qua hành vi, ngôn từ mà tha tội cho con người, nên Chúa Giêsu mới trao quyền cho các Tông đồ để các ông thay mặt Chúa mà tha tội cho những ai thành tâm sám hối. Hội Thánh thì trường tồn. Do đó, khi các Tông đồ khuất đi, quyền tha tội Chúa đã trao ban lại được chuyển qua người kế nghiệp, và cứ thế mà thông truyền mãi cho đến ngày nay. Kế vị các Tông đồ là các Giám mục. Các Giám mục lại chia sẻ quyền tha tội cho các Linh mục. Khi các ngài giơ tay tuyên bố trên hối nhân: "Cha tha tội cho con, nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần" thì không phải các ngài tha tội, song chính là Thiên Chúa tha thứ qua các ngài.
Muốn lãnh Bí tích Giải tội, phải làm 4 việc :
Xét mình : là nhìn lại cuộc sống đã qua xem có làm điều gì mất lòng Chúa, như : ăn gian, nói dối, nói tục, chửi thề, bài bạc, trộm cắp, say sưa, đàng điếm v.v. Mỗi thứ tội phạm khoảng mấy lần.
Ăn năn sám hối : thực tình đau buồn về những lỗi phạm và quyết tâm dốc lòng chừa, không tái phạm.
Xưng tội : Là nói cho cha giải tội những tội mình đã xét thấy một cách chân thành. Tuyệt đối không giấu giếm hay nói quanh co chữa mình.
Đền tội : Làm những điều mà cha giải tội chỉ dạy, (như đọc kinh, lần chuổi...)
(Xem BẢN XÉT MINH và CÁCH XƯNG TỘI ở cuối sách.)
4. THỰC HÀNH.
Tôi quyết xa tránh dịp tội ... và không bao giờ cố tình phạm tội.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa, vì biết con yếu đuối, dễ sa ngã phạm tội, nên Chúa đã lập Bí tích Giải tội để tha thứ cho con. Xin giúp con luôn sống tốt, năng làm điều lành và xa tránh điều dữ. Amen.
Bài 22. BÍ TÍCH XỨC DẦU BỆNH NHÂN
1. GHI NHỚ.
H. Bí tích Xức dầu bệnh nhân là gì ?
T. Là Bí tích Chúa Giêsu đã lập, để nâng đỡ bệnh nhân và người già yếu về phần hồn cũng như phần xác.
2. THÁNH KINH.
"Ai trong anh em đau yếu ư ? Hãy mời các kỳ mục của Hội thánh đến ; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh ; người ấy được Chúa nâng dạy, và nếu người ấy đã phạm tội thì sẽ được thứ tha" (Gc 5,14-15).
3. GIẢI THÍCH.
- Chúa Giêsu quan tâm người đau khổ, bệnh tật. Trong khi loan báo Tin Mừng, Chúa Giê-su luôn tỏ ra thương và chia sẻ những nỗi khổ đau của con người, nhất là đối với các bệnh nhân. Ngài chữa lành mọi kẻ đau yếu tật nguyền. Hành động chữa bệnh của Chúa là dấu chỉ rõ ràng Thiên Chúa viếng thăm dân Ngài (Lc 6,16). Chúa Giê-su không những có quyền chữa bệnh mà còn có quyền tha tội (Mc 2, 5-12). Ngài là vị lương y tuyệt hảo chữa lành con người cả hồn lẫn xác. -Ngài cảm thương bệnh nhân đến nổi đồng hóa với họ. "Ta đau yếu, các con đã viếng thăm" (Mt 25, 26). Ngài nhận lấy những đau khổ của ta làm của mình."Ngài đã mang lấy những tật nguyền của ta và đã gánh lấy các bệnh hoạn của ta" (Mt 8, 17).
Đối với các Tông đồ, Chúa đã ra lệnh cho các ông phải chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỉ, cứu giúp những kẻ khổ đau. " Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong cùi được sạch bệnh và khử trừ ma quỉ " (Mt 10,8). Các Tông đồ đã y theo lệnh Chúa "Các ông trừ được nhiều quỉ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh" (Mc 6, 13).
- Qua việc quan tâm chăm sóc, chữa trị các bệnh nhân và việc sai các Tông đồ đi rao giảng, chữa bệnh, trừ quỉ ... Chúa Giêsu chứng tỏ ý định thành lập Bí tích Xức dầu bệnh nhân. Sau này thánh Gia-cô-bê đã rõ rệt công bố bí tích này trong thơ của ngài : "Ai trong anh em đau yếu, hãy mời các kỳ mục của Hội thánh đến cầu nguyện cho người ấy sau khi xức dầu nhân danh Chúa " (Gc 5, 14-15).
- Ơn ban của Bí tích : Nhờ Bí tích Xức Dầu, bệnh nhân được nâng đỡ bởi quyền năng Chúa Thánh Thần : Tâm hồn được tha thứ mọi tội khiên và nếu đẹp ý Chúa, thân xác sẽ được chữa lành. Vậy nếu gia đình mình hay gia đình bên cạnh có ai già nua, bệnh tật, hãy mời linh mục đến ban Bí tích xức dầu, đồng thời cho rước Mình Thánh Chúa là nguồn an ủi để giúp bệnh nhân an tâm đón nhận thánh ý Chúa.
4. THỰC HÀNH.
Năng thăm viếng bệnh nhân và những người già cả neo đơn, để ủi an giúp đỡ họ phần hồn phần xác.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương các bệnh nhân và chữa lành tật nguyền của họ. Xin cho con biết cảm thương những người anh em đau khổ và can đảm chấp nhận mọi khổ đau như thánh giá Chúa gởi tới. Amen.
Bài 23. BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC THÁNH
1. GHI NHỚ.
H. Bí tích Truyền chức thánh là gì ?
T. Là Bí tích Chúa Giêsu đã lập, để thông ban quyền chức linh mục cho những người được tuyển chọn, hầu phục vụ Dân Chúa bằng giảng dạy, tế lễ và mục vụ.
2. THÁNH KINH.
"Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm và được đặt lên làm đại diện cho loài người trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội " (Dt 5,1).
3. GIẢI THÍCH.
Chúa Giêsu là Linh Mục được Chúa Cha đặt lên theo lời Kinh Thánh : "Con là Thượng Tế muôn đời, theo phẩm hàm Men-ki-sê-đê" (Dt 5,6). Chỉ mình Ngài mới có quyền tế lễ, rao giảng Tin Mừng, ban các Bí tích và chăm sóc các linh hồn. Tuy nhiên Ngài không hiện diện mãi với mọi thế hệ loài người để đích thân thi hành những sứ vụ đó. Chính vì thế, nên ngay từ buổi đầu đời sống công khai, Chúa Giêsu đã tuyển chọn 12 Tông đồ để các ông nối tiếp công việc cứu độ trần gian.
Tuyển chọn, huấn luyện: Suốt 3 năm sống với Chúa, các Tông đồ được huấn luyện bằng mắt thấy tai nghe những việc Chúa làm và những lời Chúa nói, rồi được Chúa sai đi rao giảng Tin Mừng, Rửa tội và thu nạp các kẻ tin (Mt 28,29). Các ông cũng được Chúa ban quyền tế lễ (Lc 22,19), quyền tha tội (Ga 20,22). Tóm lại Chúa đã tuyển chọn và huấn luyện những kẻ kế nghiệp. Cuối cùng đã truyền chức linh mục (Lc 22,19) và trao cho họ 3 nhiệm vụ là Rao giảng Tin Mừng, làm các Bí tích và chăm sóc hướng dẫn Dân Chúa trong cuộc hành trình về Quê trời (việc Mục vụ).
- Sau Lễ Ngũ Tuần, các Tông đồ hăng say ra đi rao giảng Tin Mừng. Theo gương Chúa Giêsu, các ông cũng tuyển chọn những người đạo đức nhiệt thành, huấn luyện họ rồi đặt tay truyền chức thánh cho họ. Khi các Tông đồ khuất bóng, Hội thánh vẫn có các chủ chăn kế tục sự nghiệp cho đến ngày nay và mãi tới tận thế, Bí tích Truyền chức không ngừng sinh ra cho Hội thánh nhiều Giám mục, Linh mục và Phó tế để phục vụ Dân Chúa.
- Để được lãnh BT Truyền chức thánh, những người được Chúa chọn gọi phải được huấn luyện đầy đủ và kỹ lưỡng về tinh thần đạo đức, lòng nhiệt thành phục vụ, có trình độ về Thần học, Kinh thánh, Mục vụ v.v... Giám mục sẽ được Giám mục khác truyền chức. Linh mục và Phó tế được Giám mục truyền chức. Trừ Phó tế vĩnh viễn, còn các Giám mục, Linh mục và Phó tế khi chuẩn bị lên chức linh mục đều tuyên hứa tự nguyện sống độc thân, khiết tịnh theo gương Chúa Giêsu và truyền thống của Hội thánh, để cống hiến trọn vẹn thân xác và tâm hồn cho Chúa, đồng thời cũng để khỏi bận bịu việc gia đình, hầu dâng trọn thời giờ sức khoẻ ... cho công tác cứu độ trần gian.
4. THỰC HÀNH.
Tôn kính, vâng phục và cầu nguyện cho các bậc tu trì. Nhiệt thành cộng tác với các linh mục trong việc tông đồ.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa, Chúa đã lập Bí tích Truyền Chức để ban cho Hội thánh nhiều mục tử chăn dắt đoàn chiên Chúa. Con xin cám ơn Chúa. Xin cho con biết yêu mến, vâng lời và cộng tác với các vị chủ chăn của con, để làm vinh danh Chúa. Amen.
Bài 24
BÍ TÍCH HÔN PHỐI
1. GHI NHỚ.
H. Bí tích Hôn phối là gì ?
T. Là Bí tích Chúa Giêsu đã lập, để kết hợp hai người tín hữu một nam một nữ, thành vợ chồng trước mặt Thiên Chúa và Hội thánh, cùng ban ơn cho họ chu toàn nghĩa vụ vợ chồng, bổn phận cha mẹ.
2. THÁNH KINH.
"Từ thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ, và Ngài phán : "Vì thế người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly" (Mt 19, 4-6).
3. GIẢI THÍCH.
- Ngay từ thuở ban đầu, Thiên Chúa dựng nên Ađam-Evà và đã kết hợp họ thành vợ chồng đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Như thế tức là chính Thiên Chúa đã thiết lập hôn nhân và ban giao ước hôn phối cho con người.
- Nhưng hôn phối giữa người nam và người nữ lúc ban đầu chỉ là hôn phối tự nhiên, đến thời Chúa Giêsu mới được nâng lên hàng Bí tích.
Bí tích Hôn phối có 2 đặc tính sau đây:
- Đơn hôn, tức là một vợ một chồng,
- Vĩnh hôn, tức là vợ chồng phải ăn ở với nhau suốt đời.
Qua hai đặc tính này, Chúa Giêsu có ý dạy: trong hôn nhân hai người trở thành một, gắn bó với nhau trong tình yêu. Vì thế, không được đa thê, đa phu, ngoại tình, không được ly dị bất cứ vì lý do gì. Trung thành với 2 đặc tính trên, đôi vợ chồng mới tạo dựng được hạnh phúc, gia đình mới thực sự là tổ ấm của tình yêu.
Cử hành Bí tích Hôn phối. Khi đôi bạn trẻ đã cầu nguyện, tìm hiểu và thực tình yêu nhau, muốn kết thành vợ chồng, họ đến nhà thờ xin Thiên Chúa và Hội thánh chứng nhận và chúc phúc cho tình yêu của họ. Trước mặt Linh mục, hai nhân chứng và cộng đồng giáo dân, đôi trẻ trao ban Bí tích Hôn phối cho nhau, qua cam kết nhận nhau làm vợ chồng và thề hứa chung thuỷ với nhau cho đến mãn đời. Họ cũng trao nhẫn cưới cho nhau, nói lên tình yêu và lòng trung thành của mình.
Hiệu quả : Bí tích Hôn phối làm cho đôi bạn thuộc về nhau mãi mãi và ban ơn cho họ chu toàn bổn phận làm vợ làm chồng đối với nhau và làm cha làm mẹ đối với con cái (sinh sản, nuôi dưỡng, giáo dục con cái nên người đức hạnh). Bí tích hôn phối còn làm cho mọi người trong gia đình nên thánh nhờ việc chu toàn bổn phận, sống yêu thương và làm việc tông đồ.
Bí tích Hôn phối rất cao quí đến nỗi đã được Chúa Giêsu đến tham dự và làm phép lạ biến nước thành rượu để cho niềm vui của đôi tân hôn được trọn vẹn, như tại tiệc cưới làng Ca-na (Ga 2, 1-11). Các Tông đồ, thánh Phao-lô chẳng hạn, cũng đề cao Bí tích hôn phối. Ngài đã sánh Bí tích này như sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh (Ep 5, 32).
4. THỰC HÀNH.
Trước khi kết hôn, cần cầu nguyện, tìm hiểu kỹ lưỡng và bàn hỏi với người khôn ngoan.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng con người có nam có nữ. Xin cho các bậc vợ chồng biết yêu thương và chung thủy với nhau cho đến trọn đời. Amen.
PHẦN III
ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN
Bài 25
SỐNG THEO THÁNH Ý CHÚA
1. GHI NHỚ.
H. Làm thế nào ta biết được ý Chúa ?
T. Ta biết được ý Chúa qua tiếng lương tâm, qua các lề luật, nhất là sống theo tinh thần Phúc âm.
2. THÁNH KINH.
"Ai yêu mến Ta, thì giữ lời Ta, Ta sẽ yêu mến người ấy, và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy".
3. GIẢI THÍCH.
Khi yêu mến ai, ta muốn sống chiều theo ý muốn người đó. Khi ta muốn yêu mến Chúa, ta cần biết được ý Chúa để Sống theo ý Chúa. Thực hiện ý Chúa, tuân giữ điều răn Chúa, tức là GIỮ ĐẠO. Ý Chúa thể hiện qua:
1. Lương tâm : là luật mà Chúa đã ghi sẵn nơi tâm hồn mỗi người, để soi dẫn ta, dạy ta làm lành lánh dữ.
Ai trong chúng ta cũng cảm thấy khi ta làm điều lành, tâm hồn ta vui mừng, khi làm điều ác, sẽ thấy tâm hồn áy náy, lo âu... đó là do tiếng lương tâm ngay chính, Chúa ghi khắc trong tâm hồn mỗi người. Để được lương tâm ngay chính, ta cần cầu nguyện, siêng học Lời Chúa , lãnh các Bí tích và xa các dịp tội.
2. Các Điều Răn : Đó là ý Chúa muốn dạy ta tuân giữ lề luật để sống đẹp lòng Chúa và tạo hạnh phúc với nhau.
Mười điều răn Đức Chúa Trời : là các điều luật Chúa ban cho Dân Do Thái, qua ông Môsen, trên núi Sinai, gồm tóm trong 2 điều : Kính Chúa và yêu người. Chúa Giêsu tiếp tục và kiện toàn các điều răn.
Sáu điều răn Hội Thánh : là những điều luật Hội Thánh lập ra để dạy ta áp dụng cụ thể việc yêu mến Chúa.
3. Tinh thần Phúc âm : là 8 mối phúc thật, đó là bài giảng trên Núi của Chúa Giêsu, dạy ta ăn ở nhân hiền với nhau, hầu đạt hạnh phúc Nước Trời.
4. TỘI : là không sống theo Ý Chúa, là sự lỗi điều răn Chúa, làm điều xúc phạm đến Chúa, gây tổn thương cho bản thân hay cho tha nhân.
Phạm tội trong tư tuởng, lời nói, việc làm hay bỏ những bổn phận phải làm. Có 2 thứ tội : Tội trọng và tội nhẹ.
Tội trọng : là cố tình phạm, phạm điều luật nặng, mà ta đã hiểu biết. Tội nhẹ : là thiếu 1 trong 3 điều kiện trên.
Tội trọng rất tai hại, vì làm ta mất sự sống siêu nhiên, dứt tình nghĩa với Chúa, nếu không kịp ăn năn hối cải, sẽ bị xa cách Chúa đời đời.
Muốn được tha tội : ta phải ăn năn, sám hối và lãnh bí tích Giải tội. Các tội ta thường phạm thường do 7 nết xấu, quen gọi là 7 Mối Tội đầu.
4. THỰC HÀNH.
Quyết tâm từ bỏ các nết xấu và sống theo lương tâm ngay chính. Học thuộc 10 điều răn Đức Chúa Trời, 6 Điều răn Hội Thánh và 7 mối Tội đầu. (Xem Phần Kinh nguyện)
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy chúa, xin thương xót con là kẻ có tội, xin cho con quyết tâm từ nay biết từ bỏ tội lỗi và sống theo thánh ý Chúa. Amen.
Bài 26. ĐIỀU RĂN I
THỜ PHƯỢNG VÀ KÍNH MẾN CHÚA
1. GHI NHỚ.
H. Điều răn thứ nhất dạy ta những gì ?
T. Điều răn thứ nhất dạy ta thờ phượng và kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự.
2. THÁNH KINH.
"Có một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Ngài rằng :"Thưa Thày, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào lớn nhất ?" Đức Giêsu đáp : " Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn trọng nhất ..." (Mt 22, 35-38).
3. GIẢI THÍCH.
Điều răn thứ nhất : Dạy ta phải thờ phượng Chúa. Lý do ta phải thờ phượng Chúa vì Ngài là Tạo Hóa sinh dựng nên ta, đồng thời là Chúa Tể trời đất muôn vật. Là thụ tạo, ta không thể không nhớ tới Đấng sinh thành. Sự "nhớ tới" này được biểu hiện qua lòng việc thờ phượng. Và chỉ tôn thờ một mình Chúa mà thôi (Mt 4,10).
Việc thờ phượng Thiên Chúa trước hết ở trong tâm hồn là tin tưởng, kính mến, nhận Ngài là Chúa tể, coi Ngài là tối thượng, không gì và không ai sánh bằng. Ngoài ra, con người chúng ta còn có thân xác cụ thể, nên việc thờ phượng Ngài cũng cần những nghi thức bên ngoài do Hội thánh qui định như đọc kinh, cầu nguyện, dự thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích, giữ các Điều răn v.v. Việc thờ phượng chính thức của Hội Thánh là Phụng Vụ.
Đối với Đức Mẹ và các Thánh là những đấng đã sống cuộc đời hoàn hảo, có nhiều nhân đức đáng nêu gương. Các Ngài được Chúa thưởng công trong vinh quang Thiên Quốc. Hội Thánh thay mặt Chúa, tuyên dương các Ngài lên bậc hiển thánh, để chúng ta tôn kính và noi gương, đồng thời xin các Ngài bầu cử cho chúng ta trước mặt Chúa.
Chúng ta cần nhớ : Đối với Chúa thì phải suy tôn thờ phượng, còn Đức Mẹ, các Thánh thì chúng ta chỉ sùng mộ tôn kính mà thôi.
Các Tội nghịch điều răn thứ nhất : Thờ các loài thụ tạo, mê tín dị đoan, phạm thánh và chối đạo.
4. THỰC HÀNH.
Quyết tâm tôn thờ yêu mến một Chúa cho đến trọn đời.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa, con chúc tụng Chúa là Chúa Tể càn khôn, Chúa đã sinh dựng và gìn giữ dưỡng nuôi con. Xin dạy con biết hết lòng thờ phượng kính mến Chúa, để đáp lại phần nào tình Chúa thương con. Amen.
Bài 27. ĐIỀU RĂN II
TÔN KÍNH TÊN CHÚA
1. GHI NHỚ.
H. Điều răn thứ hai dạy ta những gì ?
T. Điều răn thứ hai dạy ta phải tôn kính Danh thánh Chúa, và giữ những điều nhân danh Ngài mà thề hứa.
2. THÁNH KINH.
"Ngươi không được kêu tên Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, mà làm điều bất xứng, vì Thiên Chúa không dung tha những kẻ kêu tên Ngài mà làm điều bất xứng". ( Xh 20,7)
3. GIẢI THÍCH.
- Khi trả lời cho Môsê hỏi Thiên Chúa là ai, Chúa nói : "Ta là Đấng hằng có" (Xh 3,14), nghĩa là Ngài có từ muôn thuở, tự mình hiện hữu chớ không ai dựng nên Ngài, không có tên tuổi gì. Tuy nhiên, để xưng tụng Ngài, người Do thái đã gọi Ngài bằng một tên thật đẹp là "Thiên Chúa Gia-vê", còn mọi dân mọi nước trên khắp thế giới, có nơi gọi Ngài là Tạo Hóa, là Thượng Đế, nơi khác lại gọi là Đấng Tối Cao, là Thiên Chúa, cũng có nơi như Việt Nam ta chẳng hạn, ngoài những Tên trên, còn gọi Ngài là Ông Trời hay Ông Thiên.
- Dù dùng tên gì để chỉ về Chúa, ta phải xưng tụng một cách cung kính. Kêu Tên Chúa cách ngạo mạn hay buồn phiền trách móc lòng nhân lành Chúa hoặc nói phạm đến các Thánh ... đều là xúc phạm đến Chúa.
Điều răn thứ hai còn cấm ta không được dùng Tên Chúa mà thề vặt hay thề dối. Về vấn đề thề thốt, chính Đức Giêsu đã dạy :"Đừng thề thốt chi cả, đừng lấy trời mà thề vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng lấy đất mà thề vì đất là bệ chân Ngài. Lời của các ngươi phải có thì nói có, không thì nói không ! Kỳ dư là tự ác tà mà ra cả" (Mt 5,34-37). Do đó không bao giờ ta được thề gian dối. Chỉ khi nào cần thiết và điều thề là chân thật và quan trọng, thì lúc đó mới nên thề.
Ngoài ra, điều răn thứ hai này dạy ta phải trung thành với lời đã khấn hứa. Đã hứa với Chúa điều gì thì phải thực hiện cho trọn. Vô cớ mà bỏ thì phạm tội bội hứa với Chúa.
4. THỰC HÀNH.
Luôn tôn kính thánh danh Chúa.
Không bao giờ thề gian thề dối.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết sùng mộ và tôn kính thánh Danh Chúa. Đồng thời cho con được trung thành theo Chúa đến cùng. Amen.
Bài 28
ĐIỀU RĂN THỨ III
THÁNH HÓA NGÀY CHÚA NHẬT
1. GHI NHỚ .
H. Điều răn thứ ba dạy ta những gì ?
T. Điều răn thứ ba dạy ta thánh hóa ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc.
2. THÁNH KINH.
"Ngươi hãy nhớ ngày Sa-bat, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó ngươi không được làm công việc nào..." (Xh 20,8-10) .
3. GIẢI THÍCH.
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa buộc người Do Thái phải tuân giữ ngày thứ bảy (sa-bát ). Trong ngày đó, mọi người Do Thái, kể cả súc vật, phải tuyệt đối nghỉ ngơi. Việc duy nhất được làm và phải làm là thớ phượng Chúa.
Sau thời Tân Ước, Hội thánh chọn ngày Chúa nhật để thờ phượng Thiên Chúa thay vì ngày thứ bảy. Lý do rất dễ hiểu là vì Đức Giêsu, Đấng sáng lập đạo ta, đã sống lại vinh quang vào Ngày Chúa nhật.
Để giữ ngày Chúa nhật, Hội thánh đã qui định hai việc phải làm : một là dự thánh lễ, hai là kiêng việc xác.
Về việc dự lễ, bất cứ tín hữu nào từ có tuổi khôn trở lên đều phải đến nhà thờ dự lễ. Nếu vô cớ mà bỏ thì khó tránh khỏi tội nặng, vì phạm điều luật quan trọng. Tuy nhiên, có khi không đi lễ mà không mắc tội, như già yếu, bệnh tật, coi bệnh nhân, nuôi con thơ, giữ nhà, công tác chung, ở xa nhà thờ v.v.. Trong những trường hợp này nếu ai có khả năng (có sức, có giờ) thì phải đọc kinh bù lại, như lần chuỗi 5 chục hay đọc và suy niệm lời Chúa.
Nghỉ việc xác thì sao ? Hội thánh muốn ta nghỉ lao động để có thời giờ thờ phượng Chúa và thăm viếng nhau hay làm công tác tông đồ ... Hơn nữa thân xác ta ngày tận thế sẽ được sống lại vinh quang, nên ta cần phải tôn trọng nó, đồng thời cũng phải bảo vệ sức khỏe cho nó, vì ta là người chứ không phải cổ máy. Tuy nhiên, những ai nghèo túng cần làm việc để có của sinh sống, thì Hội thánh cho phép làm, miễn là trình báo cha giải tội để được chấp thuận (mỗi năm xin một lần). Cần nhớ rằng : được làm việc xác nhưng vẫn buộc phải đi dự lễ.
4. THỰC HÀNH.
Siêng năng đi lễ ngày Chúa nhật.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa, xin cho con biết quí trọng ngày Chúa nhật, vì là ngày của Chúa, để con siêng năng tham dự thánh lễ và thăm viếng bạn bè, nhất là những người già cả, neo đơn, bệnh tật, hầu tỏ tình liên đới anh em. Amen.
Bài 29. ĐIỀU RĂN THỨ IV
THẢO KÍNH CHA MẸ
1. GHI NHỚ.
H. Điều răn thứ bốn dạy ta những gì ?
T. Điều răn thứ bốn dạy ta thảo kính cha mẹ, và chu toàn bổn phận đối với gia đình, xã hội và Hội Thánh.
2. KINH THÁNH.
"Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, như Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi, để được sống lâu, và để được hạnh phúc trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, ban cho ngươi"(Đnl 5,16).
3. GIẢI THÍCH.
Công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ đối với con cái thật to lớn như trời biển. Nhưng vì ích kỷ, nhiều khi con cái quên đi bổn phận phải đáp đền bằng tình hiếu thảo, vì thế mà Chúa đã ra lề luật để loài người nhớ mà thi hành.
Chúng ta phải báo hiếu cha mẹ thế nào ? Phải báo hiếu các ngài khi còn sống cũng như lúc đã qua đời. Khi các ngài dạy bảo những điều hay lẽ phải, con cái phải vâng nghe, phải ăn ở ngoan ngoãn nết na để các ngài vui lòng. Trong gia đình, lớn việc lớn, nhỏ việc nhỏ, phải siêng năng làm việc giúp đỡ cha mẹ. Khi có công ăn việc làm, hãy đem lương bổng về phụ giúp gia đình. Đến khi cha mẹ lớn tuổi, không còn khả năng lao động tự túc, con cái phải dưỡng nuôi chăm sóc tận tình. Trường hợp cha mẹ đau yếu, con cái phải lo thuốc thang, cơm cháo phần xác và các Bí tích phần hồn. Nếu cha mẹ qua đời thì phải lo chôn cất theo truyền thống đạo đời, đồng thời xin bà con đọc kinh, dự lễ cầu nguyện cho linh hồn các ngài mau được hưởng vinh quang Nước Chúa. Và suốt đời, ngoài các ngày kỵ giỗ phải giữ trọn, con cái còn phải tiếp tục làm nhiều việc thiện để cầu cho linh hồn ông bà cha mẹ.
Ngoài ông bà cha mẹ phải thảo hiếu, chúng ta còn phải tôn kính, vâng lời các bậc trưởng thượng, bề trên như : chú bác, cô dì, cậu mợ, các thầy cô giáo hay những người lớn tuổi đáng bậc cha anh. Nhất là các Đấng bậc trong Hội thánh như Giám mục, linh mục, tu sĩ ... và các vị lãnh đạo chánh quyền nhà nước.
Điều răn này cũng dạy bậc làm cha mẹ cũng phải chu toàn bổn phận đối với con cái, qua việc sinh sản, nuôi dưỡng và giáo dục con cái theo lề luật Chúa, nhất là làm gương sáng cho con cái noi theo.
4. THỰC HÀNH.
Luôn thảo hiếu, vâng lời ông bà cha mẹ và các bậc bề trên.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa, xin giúp con biết hết lòng thảo hiếu với ông bà, cha mẹ khi các ngài còn sống cũng như lúc đã qua đời, để con được nên giống Chúa Giêsu nơi thánh Gia thất xưa. Amen.
Bài 30
ĐIỀU RĂN THỨ V
CHỚ GIẾT NGƯỜI
1. GHI NHỚ.
H. Điều răn thứ năm dạy ta những gì ?
T. Điều răn thứ năm dạy ta tôn trọng, bảo vệ thân xác và mạng sống của mình và của người khác.
2. THÁNH KINH.
"Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng : Chớ giết người. Ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thày, Thày bảo cho anh em biết : ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt " (Mt 5,21-22).
3. GIẢI THÍCH.
- Tại sao ta phải tôn trọng và giữ gìn mạng sống ? Vì mạng sống con người là quà tặng Chúa ban, được Chúa yêu thương và cứu chuộc. Chỉ một mình Chúa là chủ sự sống.
Cấm Giết người : Giết người là vô cớ làm cho người ta phải chết như cầm súng bắn, lấy dao đâm, thuốc độc hay bằng những hành động gây thiệt hại c ho thân thể người khác như đánh đập, gây thương tích v.v...Người đây, dĩ nhiên là người đang sống trong xã hội, nhưng còn người đang sống ở trong bụng mẹ, là thai nhi, chúng ta cũng phải tôn trọng sự sống của nó, tức là không được phá thai bằng bất cứ hình thức nào.
Cấm tự tử : đó là giết mình như : nhảy xuống sông, lao đầu vào xe đang chạy, uống thuốc độc, thuốc ngủ v.v...
Cấm huỷ hoại thân xác hoặc gây nguy hiểm cho sức khoẻ, do những hành động sa đọa của mình mà thân thể bị hao mòn tàn tạ, dẫn tới cái chết như : xì-ke ma tuý, rượu chè, bài bạc, chặt tay chặt chân...
Về mặt tinh thần, điều răn thứ năm còn cấm giận hờn, ghen ghét, chửi rủa, thù oán hay là xúi giục kẻ khác làm hại người ta, hoặc làm gương xấu khiến kẻ khác bắt chước mà phạm tội.
Về mặt tích cực, điều răn thứ năm dạy ta phải thương yêu giúp đỡ mọi người, phần xác cũng như phần hồn. Giúp phần xác như cho kẻ đói ăn mặc, thăm viếng ủi an những người bệnh tật, cô đơn, già yếu ... Giúp phần hồn như khuyên bảo người ta ăn ngay ở lành, tha thứ cho kẻ làm hại mình, nhịn nhục người khinh dể ta, cầu nguyện cho kẻ đang sống cũng như người đã qua đời.
4. THỰC HÀNH.
Không bao giờ chửi bới, đánh đập bất cứ ai.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết tôn trọng mọi người, vì bất cứ ai cũng đều là hình ảnh của Chúa. Amen.
Bài 31
ĐIỀU RĂN THỨ VI VÀ IX
KHÔNG LÀM SỰ DÂM DỤC
1. GHI NHỚ.
H. Điều răn thứ sáu và thứ chín dạy ta những gì ?
T. Điều răn thứ sáu và thứ chín dạy ta giữ đức Trong sạch trong tư tưởng, lời nói và hành động.
2. THÁNH KINH.
"Thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác" (1Cr 6,13).
3. GIẢI THÍCH.
- Giới răn thứ sáu cấm làm mọi hành vi dâm ô bên ngoài như nói lời tục tĩu, xem sách báo, tranh ảnh khiêu dâm, làm điều dâm ô nơi thân xác mình hay nơi thân xác kẻ khác, hưởng thụ bất chính những khoái lạc sinh lý.
- Giới răn thứ chín cấm mọi ước muốn những điều dâm ô. Vì Thiên Chúa trong sạch vô cùng, nên chỉ một tư tưởng xấu xa cũng đã làm hoen ố tấm áo rửa tội và xúc phạm đến Chúa. "Ai nhìn người nữ mà ước muốn phạm tội với họ thì cũng đã phạm tội rồi " (Mt 5,28).
- Sự hoan lạc trong việc truyền sinh của vợ chồng là chính đáng và được Chúa chúc phúc. Nhưng ai lạm dụng hoặc không được phép hưởng mà làm thì đều có tội. Những người không là vợ chồng của nhau tất nhiên không được tìm sự hoan lạc này. Những ai đang ở bậc vợ chồng thì không được ao ước hay làm việc dâm ô với vợ chồng người khác hay với người khác phái nào đó.
Những tội nghịch phạm đến hôn nhân : ngoại tình, ly dị, đa phu đa thê, loạn luân, đồng tính luyến ái, tự do sống chung như vợ chồng ngoài hôn nhân.
Mặt tích cực: Hai điều răn này dạy chúng ta giữ đức Trong sạch. Muốn được thế, ta cần biết:
- Luôn nhớ mình yếu đuối để sáng suốt đề phòng.
- Luôn sống tiết độ trong ăn uống ... và nết na đức hạnh.
- Siêng năng cầu nguyện và lãnh các Bí tích.
- Tránh dịp tội cho mình và cho người khác.
4. THỰC HÀNH.
- Ăn nói nết na đức hạnh.
- Không đến chỗ có dịp tội.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết giữ gìn thân xác con trong sạch, để xứng đáng là Đền thờ Chúa Thánh Thần ngự. Amen.
Bài 32
ĐIỀU RĂN THỨ VII VÀ X
CHỚ LẤY CỦA NGƯỜI
1. GHI NHỚ.
H. Điều răn thứ bảy và thứ mười dạy ta những gì ?
T. Điều răn thứ 7 và thứ 10 dạy ta giữ đức Công bình, không được lấy, hay muốn lấy của cải của người khác làm của mình.
2. THÁNH KINH.
"Người không được trộm cắp" Ngươi không được ham muốn nhà cửa của người ta" ( Xh 20, 15, 17 ).
3. GIẢI THÍCH.
Chiếm đoạt tiền bạc, của cải của người khác làm của mình là phạm tội lỗi đức Công bình. Đến như loài người có luật pháp trừng trị kẻ trộm cướp, phương chi Thiên Chúa, Đấng công bình vô cùng, làm sao Ngài có thể làm ngơ được. Chính vì thế, Chúa đã ban hai điều luật thứ bảy và thứ mười, dạy loài người giữ đức công bình bằng cách tôn trọng của cải của người khác.
Hành vi lỗi đức công bình có nhiều lắm:
Trước hết, nó phát xuất từ trong tư tưởng như ước muốn chiếm đoạt, nghĩ ra mưu kế hay xúi giục kẻ khác lấy ...dù chưa lấy được cũng đã có tội rồi !
Kế đến là hành động chiếm lấy như : trộm cắp, vay mượn mà không trả, trả công không xứng, cho vay nặng lời ...Hay trong lãnh vực công cộng như tham nhũng, móc ngoặc, buôn lậu, trốn thuế v.v...
Tội lỗi đức công bình, dù xưng thú, cũng chưa được tha, mà phải đền trả đủ mới hoàn toàn được khỏi. Tốt hơn hết, ta không bao giờ lấy của ai bất cứ cái gì, giá trị hay tầm thường, để cho lương tâm được yên ổn.
Mặt tích cực : Hai điều răn này dạy ta tôn trọng quyền tư hữu, tài sản riêng của người khác. Hãy biết sử dụng của cải trong tinh thần liên đới, chia sẻ giúp đở mọi người. Hãy tôn trọng tài nguyên thiên nhiên, giữ gìn môi sinh, môi trường vì ích lợi của mọi người.
4. THỰC HÀNH.
Không bao giờ gian tham, trộm cắp, dù là những của rất nhỏ mọn.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa, xin cho con đủ nghị lực, để chống trả mọi cám dỗ gian tham trộm cắp. Xin cho con luôn sống công bình với mọi người, về cả tinh thần lẫn vật chất. Amen.
Bài 33
ĐIỀU RĂN THỨ VIII
CHỚ LÀM CHỨNG DỐI
1. GHI NHỚ.
H. Điều răn thứ tám dạy ta những gì ?
T. Điều răn thứ tám dạy ta sống thành thật, tôn trọng sự thật, và danh dự của người khác.
2. THÁNH KINH.
"Hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác qui" (Mt 5, 37 )
3. GIẢI THÍCH.
Tại sao ta phải sống thành thật ? Vì Thiên Chúa là Đấng chân thật, ta con là con Chúa cũng phải sống như thế. Vì sự thật làm tăng giá trị và uy tín con người. Vì sự thật rất cần cho đời sống chung huynh đệ.
Phải tôn trọng Danh dự con người, vì danh dự ví như mạng sống. Mất danh dự có nghĩa là bị người ta khinh chê, coi rẻ, không còn tín nhiệm và không ai dám cộng tác làm ăn nữa. Như thế thì sống cũng như chết rồi còn gì ! Quyền lợi tinh thần và cả vật chất sẽ bị tổn hại to lớn. Bởi đó, loại tội xúc phạm danh dự thường rất nặng. Ngoài việc sám hối xưng tội, còn phải đền trả tiếng tốt. Nếu gây thiệt hại vật chất nữa thì phải bồi thường đầy đủ mới được khỏi tội.
Để tôn trọng sự thật, không bao giờ chúng ta được ăn gian nói dối, dù để chữa mình hay bênh vực người khác. Ăn gian nói dối có những hình thức như : nói hành, nói xấu, nói dối, vu khống, cáo gian, làm chứng gian, bội thề, khen khi người khác làm điều xấu hay từ chối làm chứng cho sự thật.
Nói hành nói xấu: là tật xấu mà đa số ta thường phạm, khi tỏ ra cho người khác biết những lỗi lầm, tật xấu của người khác (còn kín hay công khai), làm tổn hại uy tín của họ, khi không có lý do chính đáng.
Nói dối : là nói sai sự thật với ý định đánh lừa người khác. Tội này nặng nhẹ tuỳ mức độ nói sai sự thật, tùy hoàn cảnh gây ra thiệt hại nhiều hay ít.
Ngoài ra, ta cũng không được phép tiết lộ bí mật riêng tư của người khác, trừ khi vì lợi ích chung bắt buộc. Tuy nhiên, cha giải tội thì tuyệt đối giữ kín bí mật của Toà giải tội.
Muốn không vi phạm điều răn này, tốt nhất ta luôn " nghĩ tốt, nói tốt, làm tốt" cho mọi người.
4. THỰC HÀNH.
Tập luôn nghĩ tốt, nói tốt và làm tốt cho mọi người.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa, xin giúp con luôn ăn ở ngay thẳng thật thà, luôn nghĩ tốt, nói tốt và làm tốt cho mọi người, như Chúa Giêsu đã dạy và nêu gương. Amen.
Bài 34
SÁU ĐIỀU RĂN HỘI THÁNH
1. GHI NHỚ.
H. Sáu điều răn Hội thánh dạy ta những gì ?
T. Sáu điều răn Hội thánh dạy ta :
- Dự lễ và kiêng việc xác ngày Chúa nhật và lễ buộc,
- Xưng tội hằng năm và Rước lễ trong Mùa Phục Sinh,
- Ăn chay, kiêng thịt những ngày Hội thánh dạy.
2. KINH THÁNH.
"Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ " dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thày đã truyền cho anh em " (Mt 28, 19-20).
3. GIẢI THÍCH.
Căn cứ vào chức năng giảng dạy mà Chúa Giêsu trao cho, Hội thánh đã ban hành 6 điều luật để giải thích và giúp ta thực thi 10 điều răn của Chúa.
Điều răn thứ 1 và 2: dạy thánh hoá ngày Chúa nhật : Điều răn thứ 3 của Chúa chỉ nói trống là "giữ ngày Chúa nhật". Để người tín hữu biết phải làm gì để giữ trọn luật đó, Hội thánh qui định là phải đi dự lễ và nghỉ việc xác. Các ngày lễ lớn trong năm đều rơi vào Chúa nhật, trừ lễ Giáng sinh (lễ buộc) là mừng đúng ngay ngày 25 tháng 12 mỗi năm, ngày đó có thể rơi vào ngày thường. Việc dự lễ ngày Chúa nhật là bắt buộc. Còn làm việc xác thì Hội thánh thường uyển chuyển, nhất là đối với những người thiếu thốn túng nghèo.
Điều răn thứ 3 và 4 : dạy ta Xưng tội trong một năm và rước Mình Thánh Chúa trong Mùa Phục sinh :
Người tín hữu sốt sắng thì siêng năng Xưng tội Rước lễ thường xuyên. Tuy nhiên, để thúc đẩy những người khô khan trễ nải, Hội thánh ra luật truyền họ phải Xưng tội mỗi năm ít là một lần và Rước lễ trong mùa phục sinh. Mùa Phục sinh bắt đầu từ thứ tư lễ Tro cho đến hết lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Ai cố tình bỏ thì phạm luật Hội thánh, mắc tội nặng.
Điều răn thứ 5 và 6 : Giữ chay, kiêng thịt :
Để noi gương Đức Giê-su ăn chay 40 đêm ngày và để giúp người tín hữu hãm mình đền tội, Hội thánh ra luật Ăn chay (hiện nay chỉ ăn chay mỗi năm hai lần vào thứ tư lễ Tro và thứ Sáu tuần thánh ). Ăn chay theo thể thức đạo Công giáo là: sáng và tối không ăn gì hay chỉ ăn chút ít thôi, trưa thì ăn no. Tuổi Ăn chay là từ 18 đến 60 .
Kiêng thịt cũng là cách hãm mình đền tội. Luật chung Hội thánh buộc kiêng thịt các ngày thứ sáu trong tuần. Nếu vì lý do chính đáng như phải tiếp khách, đi ăn giỗ, ăn cưới ... thì có thể ăn thịt, nhưng sau đó cần làm việc lành nào khác thay thế, như đọc kinh thêm hay làm phước bố thí.
4. THỰC HÀNH.
Quyết tâm không bao giờ bỏ lễ Chúa nhật.
5. CẦU NGUYỆN.
Lạy Chúa, xin gìn giữ Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám mục và hàng linh mục, cùng toàn thể dân Chúa. Xin Chúa ban cho Hội thánh sự hiệp nhất và bình an. Amen.
TÓM LƯỢC GIÁO LÝ CÔNG GIÁO
TIN - GIỮ - LÃNH - XIN
I. NHỮNG ĐIỀU PHẢI TIN TRONG ĐẠO
Gồm tóm trong Kinh TIN KÍNH, có 3 điều tin chính yếu
1. Tin Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo thành trời đất.
2. Tin Chúa Con là Ngôi Hai xuống thế làm người, sinh bởi Mẹ Maria đồng trinh, đã chịu đau khổ, chịu chết trên Thánh giá và sống lại để Cứu chuộc ta.
3. Tin Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hoá, Tin Hội Thánh Công giáo, tin phép tha tội, tin xác sống lại và sự sống vĩnh cữu.
II. NHỮNG ĐIỀU PHẢI GIỮ TRONG ĐẠO
Đó là giữ 10 điều răn ĐCT và 6 điều răn Hội Thánh :
Gồm tóm trong 2 điều : KÍNH CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI.
Yêu thương là giữ trọn luật đạo, vì Chúa là Tình yêu.
Muốn được Chúa tha tội, cần phải An năn tội và đi Xưng tội.
III. NHỮNG VIỆC CẦN LÃNH TRONG ĐẠO
Cần lãnh nhận Ơn Chúa, qua Phụng vụ và 7 BÍ Tích.
Phụng vụ là việc tôn thờ Thiên Chúa và thánh hoá con người, quan trọng nhất là Phụng vụ Thánh Lễ.
Bí tích là những phương thế Chúa Giêsu lập để ban ơn thánh.
Muốn lãnh Bí tích : cần có lòng tin, có ý ngay lành và dọn hồn dọn xác cho xứng đáng.
IV. NHỮNG ĐIỀU CẦN XIN TRONG ĐỜI SỐNG
Những ý nguyện tín hữu gồm tóm trong KINH LẠY CHA:
3 lời tôn vinh Chúa : - Nguyện Danh Cha - Nước Cha, -Ý Cha.
4 lời xin nhu cầu : Lương thực - Tha nợ - khỏi cám dỗ - khỏi sự dữ.
Cần SỐNG ĐỨC TIN, SỐNG CẦU NGUYỆN, SỐNG CHỨNG NHÂN CK.
CÁC KINH QUEN THUỘC
LÀM DẤU THÁNH GIÁ
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
KINH CHÚA THÁNH THẦN
Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần/ xuống đầy lòng chúng con là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con. Chúng con xin Đức Chúa Trời/ cho Đức Chúa Thánh Thần xuống, sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.
Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần/ xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời/ cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống, an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành. Vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con./ Amen.
KINH TIN
Lạy Chúa con, con tin thật có một Đức Chúa Trời/ là Đấng thưởng phạt vô cùng ; con lại tin thật Đức Chúa Trời có Ba Ngôi, mà Ngôi Thứ Hai đã xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết mà chuộc tội cho thiện hạ. Bấy nhiêu điều ấy, cùng các điều Hội Thánh dạy, thì con tin vững vàng, vì Chúa là Đấng thông minh và chân thật vô cùng, đã phán truyền cho Hội Thánh./ Amen.
KINH CẬY
Lạy Chúa con, con trông cậy vững vàng, vì công nghiệp Đức Chúa Giêsu, thì Chúa sẽ ban ơn cho con giữ đạo nên ở đời này, cho ngày sau đặng lên thiên đàng/ xem thấy mặt Đức Chúa Trời hưởng phước đời đời, vì Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng, đã phán hứa sự ấy, chẳng có lẽ nào sai đặng/. Amen.
KINH MẾN
Lạy Chúa con, con kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự, vì Chúa là Đấng trọn lành vô cùng; lại vì Chúa, thì con thương yêu người ta như mình con vậy./ Amen.
KINH SẤP MÌNH
Lạy Chúa con, con sấp mình xuống trước mặt Chúa con. Con tin thật Chúa ở khắp mọi nơi thông biết mọi sự, hằng xem thấy con, hằng nghe lời con cầu nguyện. Xin Chúa rất nhân từ/ hãy đoái xem sự nghèo ngặt con và nhậm lời con nguyện. Lạy Chúa, xin hãy mở miệng lưỡi con ra, thì con sẽ cao rao những lời ngợi khen Chúa.
LÀM DẤU THÁNH GIÁ KÉP
Lạy Chúa chúng con, vì Dấu (Thánh giá, xin chữa (chúng con, cho khỏi (kẻ thù. Nhân danh Cha (và Con và Thánh Thần. Amen.
KINH LẠY CHA
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con/ như chúng con cũng tha/ kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
KINH KÍNH MỪNG
Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu Con lòng Bà gồm phúc lạ.
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội/ khi này và trong giờ lâm tử./ Amen.
KINH SÁNG DANH
Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần. Như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng. Amen.
KINH SÁNG SOI
Cúi xin Chúa sáng soi, cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm xin Chúa giúp đỡ, cho mỗi kinh mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành, đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen
KINH ĂN NĂN TỘI
Lạy Chúa con, Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng. Chúa đã dựng nên con và cho Con Chúa ra đời chịu nạn chịu chết vì con ; mà con đã cả lòng phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa.
Thì con lo buồn đau đớn, cùng chê ghét mọi tội con trên hết mọi sự. Con dốc lòng chừa cải, và nhờ ơn Chúa thì con sẽ lánh xa dịp tội, cùng làm việc đền tội cho xứng. Amen.
KINH LẠY NỮ VƯƠNG
Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành làm cho chúng con đặng sống, đặng vui, đặng cậy, thân lạy Mẹ !
Chúng con, con cháu E-và ở chốn khách đày kêu đến cùng Bà. Chúng con ở nơi khóc lóc than thở kêu khấn Bà thương. Hỡi ôi, Bà là chủ bàu chúng con, xin ghé mắt thương xem chúng con. Đến sau khỏi đày, xin cho chúng con đặng thấy Đức Chúa Giêsu, Con lòng Bà gồm phước lạ.
Ôi khoan thay, nhơn thay, dịu thay, Thánh Maria trọn đời đồng trinh. Amen.
KINH CÁM ƠN
Con cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành vô cùng, chẳng bỏ con, chẳng để con không đời đời, mà lại sinh ra con, cho con đặng làm người, cùng hằng gìn giữ con, hằng che chở con ; lại cho Ngôi Hai xuống thế làm người, chuộc tội chịu chết trên cây Thánh giá vì con, lại cho con đặng đạo thánh Đức Chúa Trời, cùng chịu nhiều ơn nhiều phép Hội thánh nữa, và đã cho phần xác con qua ngày (đêm) hôm nay đặng mọi sự lành, lại cứu lấy con kẻo phải chết tươi ăn năn tội chẳng kịp.
Vậy các Thánh ở trên nước Thiên đàng cám ơn Đức Chúa Trời thế nào, thì con cũng hiệp cùng các thánh, mà dâng cho Chúa con lời cám ơn như vậy. Amen.
KINH TRÔNG CẬY
Chúng con trông cậy rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời, xin chớ chê chớ bỏ lời chúng con nguyện trong cơn gian nan thiếu thốn, Đức Nữ Đồng Trinh hiển vinh sáng láng. Hằng chữa chúng con cho khỏi mọi sự dữ. Amen.
KINH TIN KÍNH
Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất.
Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô là Con Một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi ; bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi Bà Maria đồng trinh ; chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác ; xuống ngục Tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại ; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng ; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần. Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế nầy ; các thánh thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
CÁC KINH ĐỌC NGÀY CHÚA NHẬT
KINH NGHĨA ĐỨC TIN
Ngày (Chúa nhật, Lễ... ) hôm nay, chúng con hiệp nhau kính lạy thờ phượng Chúa, không khen cảm tạ ơn Chúa, vì mọi ơn lành Chúa đã ban cho chúng con, và phạt tạ Chúa/ vì những tội lỗi chúng con đã phạm mất lòng Chúa, thì chúng con dám xin Chúa hãy khấng ban những ơn cần kíp/ cho chúng con đặng rỗi linh hồn.
Nay chúng con cả lòng tin vững vàng mọi điều đạo thánh Chúa dạy, nhứt là những điều cần kíp nầy : là có một Đức Chúa Trời, phép tắc vô cùng dựng nên trời đất, mà Người có Ba Ngôi : Ngôi thứ Nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con, Ngôi thứ Ba là Thánh Thần ; Ba Ngôi cũng một tính một phép, cho nên Ba Ngôi cũng một Chúa mà thôi.
Chúng con tin Ngôi thứ Hai ra đời làm người, sinh bởi Bà Maria đồng trinh, đặt tên là Giêsu ; ở thế gian 33 năm, đoạn chịu chêt trên cây Thánh giá mà chuộc tội cho thiên hạ ; đến ngày thứ ba Người sống lại, khỏi 40 ngày lên trời, đủ 10 ngày lại cho Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống/ trên các Thánh Tông đồ và Hội Thánh mới lập ; ai chẳng thông công cùng Hội Thánh ấy/ thì chẳng đặng rỗi linh hồn. Mà linh hồn là giống thiêng liêng chẳng hề chết đặng. Và đến ngày tận thế, xác loài người ta sẽ sống lại mà chịu phán xét, kẻ lành lên thiên đàng hưởng phước đời đời, kẻ dữ sa hỏa ngục chịu phạt vô cùng.
Mà chúng con tin các sự ấy mà thôi thì chưa đủ cho đặng lên thiên đàng, song phải giữ Mười Điều răn Đức Chúa Trời/ cùng Sáu Luật điều Hội Thánh, và làm những việc lành phước đức. Nhơn vì sự ấy, chúng con hằng phải sợ hãi và trốn lánh các tội lỗi, nhất là Bảy Mối Tội đầu/ là căn nguyên mọi tội lỗi khác.
Vậy chúng con phải ân cần lo lắng/ mà năng chịu các phép Bí tích Đức Chúa Giêsu đã truyền, là những dược linh nghiệm cho chúng con được nên thánh. Có Bảy phép Bí Tích mà thôi, song phép Rửa tội, phép Mình Thánh Chúa, cùng phép Giải tội/ là ba phép cần kíp hơn cho chúng con đặng rỗi.
Ấy vậy, chúng con hằng phải ra sức lo lắng thế nào, mà năng chịu các phép trọng ấy cho nên, cùng tin thật vững vàng, mà giữ cẩn thận các điều trước nầy, thì mới đặng hưởng phước thanh nhàn đời đời kiếp kiếp. Amen.
MƯỜI ĐIỀU RĂN
Đạo Đức Chúa Trời có 10 Điều răn :
Thứ nhất : thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự.
Thứ hai : chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ,
Thứ ba : giữ ngày Chúa nhật,
Thứ bốn : thảo kính cha mẹ,
Thứ năm : chớ giết người,
Thứ sáu : chớ làm sự dâm dục,
Thứ bảy : chớ lấy của người,
Thứ tám : chớ làm chứng dối,
Thứ chín : chớ muốn vợ chồng người.
Thứ mười : Chớ tham của người.
Mười điều răn ấy tóm về hai điều nầy mà chớ :
Trước, kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự.
Sau, lại yêu người như mình ta vậy. Amen.
HỘI THÁNH CÓ 6 ĐIỀU RĂN
Thứ nhất : Xem lễ ngày Chúa nhật cùng các ngày lễ buộc
Thứ hai : Chớ làm việc xác ngày CN cùng các ngày lễ buộc.
Thứ ba : Xưng tội trong một năm ít là một lần.
Thứ bốn : Chịu Mình Thánh ĐCGiêsu trong mùa Phục sinh.
Thứ năm : Giữ chay những những ngày Hội thánh buộc.
Thứ sáu : Kiêng thịt ngày thứ sáu cùng những ngày khác Hội Thánh dạy.
BẢY BÍ TÍCH
Đạo Đức Chúa Trời có 7 phép Bí Tích :
Thứ nhất : là phép Rửa tội.
Thứ hai : là phép Thêm sức.
Thứ ba : là phép Mình Thánh Chúa. (Thánh thể )
Thứ bốn : là phép Giải tội.
Thứ năm : là phép Xức Dầu Thánh. (bệnh nhân )
Thứ sáu : là phép Truyền Chức Thánh.
Thứ bảy : là phép Hôn Phối.
THƯƠNG NGƯỜI CÓ 14 MỐI
Thương xác 7 mối
Thứ nhất : Cho kẻ đói ăn.
Thứ hai : Cho kẻ khát uống.
Thứ ba : Cho kẻ rách rưới ăn mặc.
Thứ bốn : Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc.
Thứ năm : Cho khách đỗ nhà.
Thứ sáu : Chuộc kẻ làm tôi.
Thứ bảy : Chôn xác kẻ chết.
Thương linh hồn 7 mối
Thứ nhất : Lấy lời lành mà khuyên người.
Thứ hai : Mở dạy kẻ mê muội.
Thứ ba : An ủi kẻ âu lo.
Thư bốn : Răn bảo kẻ có tội.
Thứ năm : Tha kẻ dể ta.
Thứ sáu : Nhịn kẻ mất lòng ta.
Thứ bảy : Cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
CẢI TỘI BẢY MỐI CÓ BẢY ĐỨC
Thứ nhất : khiêm nhượng chớ kiêu ngạo.
Thứ hai : rộng rãi chớ hà tiện.
Thứ ba : giữ mình sạch sẽ chớ mê dâm dục.
Thứ bốn : hãy nhịn chớ hờn giận.
Thứ năm : kiêng bớt chớ mê ăn uống.
Thứ sáu : yêu người chớ ghen ghét.
Thứ bảy : siêng năng việc Đức Chúa Trời chớ làm biếng.
PHƯỚC THẬT TÁM MỐI
Thứ nhất : Ai có lòng khó khăn ấy là phước thật, vì chưng Nước Đức Chúa Trời là của mình vậy.
Thứ hai : Ai hiền lành ấy là phước thật, vì chưng sẽ được đất Đức Chúa Trời là của mình vậy.
Thứ ba : Ai khóc lóc ấy là phước thật, vì chưng sẽ được an ủi vậy.
Thứ bốn : Ai khao khát nhân đức trọn lành ấy là phước thật, vì chưng sẽ được no đủ vậy.
Thứ năm : Ai thương xót người ấy là phước thật, vì chưng mình sẽ được thương xót vậy.
Thứ sáu : Ai giữ lòng sạch sẽ ấy là phước thật, vì chưng sẽ được thấy mặt Đức Chúa Trời vậy.
Thứ bảy : Ai làm cho người hòa thuận ấy là phước thật, vì chưng sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời vậy.
Thứ tám : Ai chịu khốn nạn vì đạo ngay ấy là phước thật, vì chưng sẽ được Nước Đức Chúa Trời làm của mình vậy. Amen.
SÁU ĐIỀU CẦU KÍP
HẾT MỌI NGƯỜI PHẢI TIN CHO ĐẶNG RỖI LINH HỒN.
- Thứ nhất : Có một ĐCT là Đấng phép tắc vô cùng, thưởng kẻ lành và phạt kẻ dữ.
- Thứ hai : Mỗi người có một linh hồn là tính thiêng liêng hằng sống chẳng hề chết đặng.
- Thứ ba : Phải ăn năn tội thì mới đặng Chúa tha tội.
- Thứ bốn : Có một ĐCT mà Người có Ba Ngôi : Ngôi thứ Nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con, Ngôi thứ Ba là Thánh Thần.
- Thứ năm : Ngôi thứ Hai đã xuống thế làm người.
- Thứ sáu : Ngôi thứ Hai làm người chuộc tội chịu chết vì tội lỗi loài người ta.
BẢN GỢI Ý XÉT MÌNH XƯNG TỘI
(Những tội thường phạm)
N.B: Có 2 cách Xét Mình :
1. Dựa 10 Điều răn ĐCT+ 6 Điều răn Hội Thánh + 7mối tội.
2. Xét 3 bổn phận : đối với Chúa, Tha nhân, chính mình.
Trước khi xét mình, cần Đọc Kinh, cầu xin Chúa và Mẹ Maria soi sáng cho ta nhớ lại các tội lỗi ta đã phạm và sám hối ăn năn, quyết tâm dứt bỏ tội lỗi.
1. ĐỐI VỚI CHÚA
- Nghi ngờ quyền năng, tình thương yêu của Chúa ... ?
- Chối đạo, lung lạc đức tin, nản lòng trông cậy Chúa ... ?
- Mê tín dị đoan, xem thầy bói, bùa ngải ?
- Phạm thánh, lãnh bí tích bất xứng, rước lễ lúc mắc tội trọng ?
- Than phiền, trách móc, nói phạm thượng đến Chúa ?
- Chống đối, phê bình, xúc phạm đến các thánh, nơi thánh, giáo sĩ, làm hại Giáo Hội ?
- Thề gian thề vặt, chúc dữ, nguyền rủa ?
- Không giữ lời khấn hứa, mắc lời thề ?
- Bỏ Thánh lễ Chúa nhật vì lười biếng, làm việc xác không chính đáng ... ?
- Bỏ bỏ đọc kinh sáng tối, hay lo ra chia trí... ?
2. ĐỐI VỚI NGƯỜI KHÁC
- Thiếu hiếu thảo với bề trên : vô lễ, khinh bĩ, hỗn xược, ngổ ngịch, chửi rủa, cải lệnh, không vâng lời, không phụng dưỡng cha mẹ xứng đáng... ?
- Với người dưới : bỏ bê, thiếu sót bổn phận, không giáo dục, cản trở việc tốt, làm gương xấu, la rầy chửi mắng, đánh đập con cháu ...
- Trong gia đình : bất hòa, hờn dỗi, cải cọ, trách mắng, xúc phạm trong lời nói và hành động, đay nghiến, đánh đập, lợi dụng, ăn bám, ích kỷ, không trợ cấp xứng đáng...?
- Với người ngoài : xúc phạm
* trong tư tưởng : nghĩ xấu, ghét bỏ, giận hờn, ganh tị, oán thù, khinh bỉ, mong điều dữ ...
* trong lời nói : cải cọ chửi rủa, chỉ trích, nói xấu, sỉ nhục người.
* trong hành động : đánh lộn, hành hạ, gây thiệt hại, làm nhục.
- Về tính dục : tư tưởng ước muốn xấu, cám dỗ khêu gợi, ăn mặc hở hang, xem sách báo phim ảnh xấu, lỗi khiết tịnh, tự do luyến ái, thủ dâm, tà dâm, ngoại tình, phá gia cang người khác ... cưỡng bức hoặc từ chối việc vợ chồng thiếu lý do chính đáng, chỉ tìm thỏa mãn cá nhân, sinh con vô trách nhiệm, dùng phương pháp điều hòa sinh sản nghịch luật Giáo hội, trực tiếp hoặc cộng tác phá thai...
- Về công bằng : quá lo tiền của đến quên Chúa quên anh em, không giúp đỡ người khác khi cần. Ăn cắp ăn trộm, giữ-giấu, lượm-mượn của người khác mà không trả, giựt nợ, lường gạt, gian lận, làm thiệt hại tài sản, cho vay nặng lãi, trả công không xứng đáng, thâm lạm của công, hối lộ...
- Về sự thật và danh dự : nói dối, thất hứa, tiết lộ bí mật, phao tin thất thiệt, bôi nhọ danh dự, nói hành nói xấu, vu khống, cáo gian, gây nhục nhã, làm thiệt hại danh dự ... ?
3. ĐỐI VỚI CHÍNH MÌNH
- Kiêu ngạo, phách lối, ganh tị...
- Se xua, keo kiệt, hoang phí tiền của...
- Nóng giận quá đáng, đòi hỏi khắt khe, hờn dỗi, la lối nạt nộ, vui buồn quá độ ...
- Phung phí sức khỏe, nhậu nhẹt say sưa, ăn uống quá độ, bệnh tật không chữa trị, ước muốn tự tử ...
- Lười biếng việc bổn phận, ăn bám, lợi dụng lòng tốt người khác.
- Có giấu tội lần trước, xưng lại chưa?
Lưu ý : Sau khi Xét mình xong, thì giục lòng, đọc kinh ăn năn tội, và quyết tâm từ bỏ tội lỗi, rồi đi vào Toà Giải tội để Xưng tội.
BẢN XÉT XÌNH
DỰA VÀO 10 ĐIỀU RĂN ĐỨC CHÚA TRỜI
1. ĐR thứ nhất : Chúa dạy kính mến Chúa trên hết mọi sự:
Tôi có đọc kinh, cầu nguyện sáng tối không ?
Tôi có thờ lạy ma quỉ, bụt thần không?
Tôi có mê tín, dị đoan, coi bói không?
Tôi có nhớ Chúa để thờ lạy Chúa không?
2. ĐR thứ 2: Chúa dạy tôn kính danh thánh Chúa.
Tôi có chưởi trời trách đất không?
Tôi có thề dối, thề vặt không?
3. ĐR thứ 3: Chúa dạy thánh hoá ngày Chúa nhật.
Tôi có bỏ lễ ngày Chúa nhật không ?
Tôi có làm việc xác ngày Chúa nhật ?
4. ĐR thứ 4: Chúa dạy Thảo kính cha mẹ và chu toàn bổn phận.
Tôi có bất hiếu, xúc phạm cha mẹ, ông bà ?
Tôi có lỗi với bạn tôi không ?
Tôi có lỗi gì với con cái không ? Đánh đập, chửi mắng?
5. ĐR thứ 5: Chúa dạy tôn trọng thân xác và mạng sống người.
Có làm thiệt hại thân xác mình và người khác?
Có giết người, phá thai, tự tử ?
ĐR thứ 6 và thứ 9 : Chúa dạy ăn ở thanh sạch.
Tôi có làm chuyện dân dục ?
Tôi có nói chuyện tục tỉu?
Tôi có ước muốn chuyện xấu ? Ham muốn vợ chồng người ?
ĐR thứ 7 và thứ 10 : Chúa dạy giữ đức công bằng
Có trộm cắp đồ vật, tiền bạc của người khác? Bao nhiêu?
Tham lam, muốn trộm cắp của người?
Có gian lận, cờ bạc ?
Có phá hại tài sản, của cải người khác?
ĐR thứ 8 : Chúa dạy sống thật thà.
Có lừa gạt người khác? Có làm mất thanh danh người khác?
Có nói hành, nói xấu, vu khống người khác ?
CÁCH XƯNG TỘI
Khi vào toà Giải tội, cần làm Dấu Thánh giá và nói :
-Thưa Cha, con là kẻ có tội, xin Cha ban phép lành cho con.
-Con xưng tội trong ...(1)... tháng (4 tuần).
-Con đã phạm tội ....(kiêu ngạo), ....(2) lần.
....(kể tội mình nhớ được cho LM nghe, cách rỏ ràng)
-Thưa cha, con xưng tội xong.
Sau đó, lắng nghe cha Giải tội khuyên nhủ và giao việc Đền tội (= đọc Kinh), rồi giục lòng ăn năn tội và nghe Cha đọc Lời Xá giải.
Lm : Thiên Chúa là Cha hay thương xót, đã nhờ sự chết và sự sống lại của Con Chúa mà giao hoà thế gian với Chúa, và ban Thánh thần để tha tội. Xin Chúa dùng tác vụ của Hội thánh mà ban cho con ơn tha thứ và bình an.
Vậy, Cha tha tội cho con, Nhân danh Cha X và Con X và Thánh Thần X .
Đáp : - AMEN.
Khi cha bảo : Con hãy về bình an.
Đáp : - Con cám ơn cha.
Rồi đi ra ngoài làm việc Đền tội càng sớm, càng tốt.
ĐẠO HIẾU
TRONG ĐẠO ÔNG BÀ và ĐẠO CÔNG GIÁO
1. Đạo Ông Bà là gì ?
Đạo Ông Bà là Đạo Hiếu, là đạo truyền thống của dân tộc Việt Nam, dạy con cháu phải hiếu thảo với cha mẹ, ông bà, tổ tiên, khi các ngài còn sống cũng như khi các ngài qua đời.
2. Đạo Công Giáo là gì ?
Công là chung, Giáo là tôn giáo hay là Đạo. Công Giáo là tôn giáo chung của mọi người (không phân biệt màu da tiếng nói, dân tộc) và gồm chung mọi chân lý do Thiên Chúa đã tỏ ra để dẫn đưa loài người vào Nước Trời hưởng sự sống trường sinh bất tử.
3. Đạo Công giáo có phải là Đạo Hiếu không ?
- Đạo Công giáo rất chú trọng về Đạo hiếu và coi Đạo Hiếu như nền tảng của mình, nên Đạo Công giáo rất phù hợp với tinh thần hiếu thảo của dân tộc Việt Nam . Vì Đạo Công giáo quan niệm vũ trụ như một đại gia đình, trong đại gia đình đó, Đức Chúa Trời là Cha Mẹ sinh ra tất cả, và tất cả mọi người đều là anh em.
- Như vậy, Đạo Công giáo chính là một tôn giáo của Đạo hiếu theo nghĩa chính xác nhất của nó, và Đạo hiếu này được thể hiện qua ba bổn phận rõ rệt: đối với Cha trên Trời (Thượng Phụ), đối với đất nước và Giáo Hội (Trung Phụ), và đối với cha mẹ dưới đất (Hạ Phụ). Bổn phận đối với Cha trên Trời là căn bản, các bổn phận sau xuất phát từ bổn phận căn bản trên.
- Vì thế, giữa hai thứ hiếu: hiếu đối với Cha trên Trời, và hiếu đối với cha mẹ, thì hiếu trước nặng hơn hiếu sau và là nền tảng cho hiếu sau. Người Công giáo tin tưởng rằng Cha trên Trời yêu thương chúng ta gấp trăm ngàn lần cha mẹ dưới đất yêu thương chúng ta.
5. Về hiếu thảo, Đạo Công Giáo và đạo Ông Bà có điều giống nhau :
1- Cả hai đạo đều đề cao lòng hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ, khi các ngài còn sống cũng như khi qua đời. Con cái phải yêu mến, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ, ông bà khi các ngài còn sống và tưởng nhớ các ngài khi qua đời.
2- Cả hai đạo đều tin rằng khi ông bà, cha mẹ qua đời, các ngài vẫn còn tồn tại và hiện diện trong trạng thái vô hình (hay khuất mặt). Vì thế, con cháu thường xuyên phải tưởng nhớ và cầu nguyện cho các ngài hoặc tổ chức giỗ hằng năm.
6. Đạo Công Giáo và đạo Ông Bà có điều khác nhau :
1- Đạo Ông Bà thì theo truyền thống cha ông để lại một số quan niệm về lòng hiếu và một số nghi lễ thể hiện lòng hiếu thảo; không có giáo thuyết, luật lệ và tổ chức.
- Đạo Công Giáo có Đấng sáng lập là Chúa Giêsu, có giáo thuyết, luật lệ và tổ chức gồm hai thành phần : giáo sĩ và giáo dân; có những điều phải tin, những điều phải giữ và các bí tích phải chịu để được Đức Chúa Trời ban sự sống thiêng liêng.
2- Trong ngày giỗ ông bà, cha mẹ :
- Người đạo Ông Bà thì tưởng nhớ công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ, ông bà, đặt đồ cúng ở trước bàn kính gia tiên, đốt nhan khấn vái và mời các ngài về hưởng.
- Ngoài việc tưởng nhớ công ơn sinh thành và dưỡng dục của ông bà cha mẹ, người Công Giáo còn chú ý đến việc thường xuyên cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ. Giáo Hội cũng dành 1 tháng trong năm (tháng 11) để tưởng nhớ và cầu nguyện cho người đã khuất .
Kết : Qua sự so sánh trên, ta thấy Đạo Công giáo và Đạo Ông Bà rất gần gủi nhau về Đạo Hiếu. Theo Đạo Công giáo, không là bất nghĩa, bất hiếu với Ông bà Tổ tiên, không quên đi cội nguồn, nhưng trái lại, càng chứng tỏ lòng hiếu thảo đối với Ông bà Tổ tiên cách cao đẹp hơn và quan trọng hơn, chính là lòng hiếu thảo đối với Đấng sinh thành Ông Bà Tổ tiên, đó là Thiên Chúa.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro