GiaiMaTamLinh4
Kỳ 19: Bí mật của thôi miên
Thôi miên do bác sĩ Anton Mesmer người Áo phát hiện trong thế kỷ 18. Đó là "trạng thái thăng thiền giống giấc ngủ, tạo ra do những ám thị của nhà thôi miên được đối tượng chấp nhận". Năm 1842, bác sĩ James Braid người Scotland đưa ra thuật ngữ "thôi miên", tiếng Hy Lạp có nghĩa là giấc ngủ.
Bản chất của thôi miên
Về thực chất, thôi miên là gì? Thật lạ lùng là sau gần hai thế kỷ khảo sát, giới khoa học vẫn chưa đạt được sự nhất trí trong vấn đề căn bản đó.
Khả năng ám thị và sự tưởng tượng: Có mối quan hệ trực tiếp giữa sự tưởng tượng và khả năng bạn bị một nhà thôi miên ám thị. Vì thế có người xem thôi miên chỉ là sự đóng kịch. Hơn nữa đáp ứng đối với thôi miên phụ thuộc vào hành vi thời niên thiếu của người chịu ám thị. Nếu lúc nhỏ thường bị phát nặng, khi lớn lên nhiều khả năng bạn sẽ dễ dàng tuân theo những ám thị từ một nhà thôi miên.
Quay ngược thời gian: Thôi miên có thể giúp ta nhớ lại những sự kiện quá khứ đã bị lãng quên. Khi nhập định sâu, người thôi miên có thể làm sống lại các ký ức tuổi thơ. Chẳng hạn khi được yêu cầu quay về sinh nhật lần thứ năm, một phụ nữ kể được từng người dự tiệc và từng món quà, cũng như nội dung những giấc mơ đẹp cô nằm mơ tối hôm đó. Nhiều người đi xa hơn, khi kể chi tiết những gì cha mẹ họ đã nói khi đang mang thai họ; còn một số người kể về các tiền kiếp, thậm chí từ 35.000 năm trước! Vì thế có người quan niệm sai lầm rằng, ký ức tái hiện nhờ thôi miên chính là bằng chứng của sự luân hồi.
Thôi miên và trí nhớ: Một số cơ quan cảnh sát thường dùng thôi miên để điều tra tội phạm. Cảnh sát Mỹ từng thôi miên nhân chứng để họ nhớ lại các tình tiết bị quên trong một số vụ án. Tuy nhiên phần lớn nhà tâm lý không đồng ý như vậy. Chẳng hạn theo Martin Orne, nguyên chủ tịch Hội thôi miên quốc tế, ký ức dưới thôi miên thường không chính xác, vì nhà thôi miên dễ dàng cài các ký ức sai, còn đối tượng bị thôi miên cũng rất dễ chấp nhận chúng.
Thôi miên và chứng đau: Khá lạ là đối tượng bị thôi miên vừa thấy giảm đau vừa không, như một thí nghiệm kinh điển của nhà tâm lý Hilgard, ĐH Stanford, Mỹ, chuyên gia về thôi miên, đã chứng tỏ. Điều đó càng khẳng định, thôi miên vừa là trạng thái thăng thiền vừa là trạng thái đóng thế vai.
GS Charcot đang thôi miên một nữ bệnh nhân hysteria tại Paris, khoảng giữa thế kỷ 19
Người quan sát giấu mặt: Hilgard tin thôi miên là một trạng thái ý thức biến đổi, trong đó ý thức bị phân ly. Khi đó một phần tâm trí bạn hoạt động theo cách bị thôi miên và không cảm thấy đau nếu nhà thôi miên yêu cầu bạn như vậy. Nhưng một phần khác, là phần vẫn có thể giao tiếp với mọi người bằng động tác, thì không bị thôi miên, nên vẫn cảm nhận được cơn đau mà ý thức bạn đang cố nén đi. Hilgard gọi đó là "người quan sát giấu mặt". Phần tâm trí này rất giống với sự phân ly nhân cách vẫn xảy ra với bệnh nhân tâm thần. Vì thế người đa nhân cách hết sức nhạy cảm và dễ dàng đáp ứng đối với thôi miên.
Lợi ích của thôi miên
Kiểm soát đau: Dưới thôi miên, bệnh nhân đau mãn tính được ám thị rằng, cơn đau giảm hay biến mất. Sự phân ly nhân cách dưới thôi miên như thế là một phương thức "đánh lạc hướng" các trung khu cảm nhận và giải đoán đau trong não, nên có tác dụng giảm đau tốt. Thôi miên rất có ích trong giảm đau khi sinh nở và khi chữa răng.
Cai nghiện thuốc lá: Dù không thành công trong nghiện rượu và ma túy, thi thoảng thôi miên giúp cai nghiện thuốc lá. Người đang dưới thôi miên được ám thị rằng, mùi vị thuốc rất khó chịu. Cách khác là người nghiện tự thôi miên để từ bỏ thèm muốn hay tự ám thị rằng họ có cách bảo vệ bản thân khỏi sự độc hại của khói thuốc.
Điều trị một số rối loạn tâm lý: Thôi miên thường dùng để tạo thư giãn, giảm lo âu hay sửa chữa các ý nghĩ tự hủy hoại ở một số rối loạn tâm thần.
Điều tra tội phạm: Thôi miên được dùng để nhớ lại các tình tiết vụ án mà nhân chứng đã quên. Tuy nhiên thông tin thu được thường chỉ có ý nghĩa tham khảo chứ không có tính pháp lý.
Cải thiện thành tích thể thao: Thỉnh thoảng giới vận động viên chuyên nghiệp dùng thôi miên để cải thiện thành tích. Chẳng hạn võ sĩ vô địch thế giới Ken Norton thường thôi miên trước lúc thượng đài, còn ngôi sao bóng rổ nhà nghề Mỹ Rod Carew dùng thôi miên để tăng sự tập trung trong thi đấu.
Kết luận
Thôi miên có thể có tiềm năng ứng dụng mạnh mẽ; tuy nhiên lợi ích thực sự phụ thuộc vào từng cá thể. Với những ai nhạy cảm và tin tưởng vào thôi miên, nó có thể mang lại nhiều lợi ích. Còn với đa số mọi người chưa từng biết đến thôi miên, dường như nó chỉ là câu chuyện lúc trà dư tửu hậu mà thôi.
Kỳ 20: Hé mở bí mật khí công
Một trong những di sản của văn hóa phương Đông là khí công đang thu hút sự quan tâm của dư luận, khi các nhà khoa học bắt đầu vén bức màn bí ẩn bao phủ lên nó đã hàng ngàn năm. Nghiên cứu tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hong Kong, Mỹ... cho thấy, nó có một phần sự thật.
Bản chất dòng khí
Quan niệm cơ bản của khí công là dòng khí trong cơ thể con người có thể được điều chỉnh nhờ các kỹ thuật khác nhau. Và khí công sư cũng có thể phát công để chữa trị cho người khác.
Vậy bản chất dòng khí đó là gì? Trong bốn tương tác vật lý chi phối cả vũ trụ (hấp dẫn, điện từ, yếu và mạnh), chỉ điện từ là có vai trò khả dĩ thích hợp. Có lẽ các nhà khoa học ĐH Vũ Hán, Trung Quốc, đã lập luận như vậy khi dùng kỹ thuật cộng hưởng từ hạt nhân NMR để nghiên cứu tác động của khí công trên hóa chất O-N-propyl-O-allylthiophosphoramide. Loại hóa chất này được chọn vì hai lý do: nó có phổ NMR được biết rõ và rất nhạy cảm với điện từ trường. Đúng như mong đợi, khi khí công sư phát công để tác động lên hóa chất đựng trong một hộp thủy tinh, phổ NMR của nó thay đổi. Tác động càng nhiều lần thì sự thay đổi càng lớn. Điều đó chứng tỏ trường điện từ đã được phát ra khi khí công sư phát công; và chính nó làm thay đổi phổ cộng hưởng từ của hóa chất.
Cường độ và tần số điện từ trường
Các nhà khoa học tại Hội Khí công Nhật Bản và Khoa Sinh lý, ĐH Showa, Tokyo, đã tiến hành xác định cường độ và tần số của điện từ trường do khí công sư tạo ra khi phát công. Trong số 37 người tình nguyện thuộc các nhóm vẫn luyện tập khí công, yoga và thiền, chỉ 3 người phát tín hiệu điện từ đủ lớn, với cường độ từ trường cỡ miliGauss, tức lớn hơn của người bình thường khoảng 1.000 lần. Tần số của các tín hiệu đó nằm trong dải cực thấp, từ 4 tới 10 Hz.
Công phu phái Khí công Lâm Sơn Động
Nghiên cứu hệ thống của Khuyết Xảo Căn (Trung Quốc) cho thấy, ngoài các tín hiệu nằm trong dải tần cực thấp như trên, khí công sư còn phát các bức xạ hồng ngoại gần (bước sóng 1.06 micromét) và hồng ngoại xa (bước sóng 9.3 micromét). Chúng được phát hiện nhờ tác dụng lên phim cảm quang có bước sóng hấp thụ chọn lọc.
Tác dụng của bức xạ hồng ngoại sinh học
Một đặc trưng của bức xạ hồng ngoại là tác dụng nhiệt. Đo đạc cho thấy, khi đắc khí, nhiệt độ bàn tay và ngón tay khí công sư tăng 4- 60C, đủ để ta cảm nhận được từ bên ngoài mà không cần dùng các kĩ thuật ghi nhiệt.
Khí công Lâm Sơn Động
Thực nghiệm tiếp theo ở nhiều nơi tại Trung Quốc cho những kết quả rất thú vị. Khí phát công mượn đường qua lưng hai nhà khí công khác, nhiệt độ bàn tay người thụ công cũng tăng 40C. Ngoài ra, các khí công sư cũng có thể phát công thành công qua các vật cản như gỗ, nhôm và chì.
Khi phát công qua tấm gỗ dày 0.5cm đặt trên lưng người thụ công, sau 20 phút, nhiệt độ bàn tay người thụ công cũng tăng 20C. Thay gỗ bằng tấm nhôm dày tương đương, tác dụng tuy giảm nhưng không hề bị triệt tiêu. Đặc biệt, khi thay gỗ hay nhôm bằng tấm chì dày 0.5cm, tác dụng tuy giảm rất nhiều nhưng vẫn không mất hẳn. Điều đó cho thấy, có thể cơ thể đã dùng một hiệu ứng vật lý đặc biệt là ngưng tụ Bose-Einstein để ghi nhận các tín hiệu điện từ đã suy giảm rất nhiều khi truyền qua vật chắn. Điều đó giúp loại bỏ các quan niệm sai lầm như "trường sinh học" có thể lan truyền không suy giảm qua khoảng cách.
"Khí công sư điện tử"
Khuyết Xảo Căn đã chế tạo thành công các thiết bị tần phổ phát tín hiệu hồng ngoại gần mô phỏng "dòng khí" của khí công sư. Khi bức chiếu cho người tình nguyện, "khí công sư điện tử" này tạo ra được những phản ứng thụ công điển hình (cảm giác nóng hay lạnh, tê, thư giãn...) như một khí công sư thực thụ!
Đặc biệt, khi bức chiếu cho người đang luyện tập khí công, thiết bị tạo cảm giác khí và cải thiện sự đắc khí rõ rệt. Nó cũng có tác dụng tốt trên nhiều nhóm bệnh vẫn đáp ứng với khí công trị liệu. Với giá bán khá rẻ, chỉ hơn một triệu đồng Việt Nam, thiết bị tần phổ đã có mặt tại nước ta từ 10 năm trước.
Khi phát minh ra khí công, do hiểu biết còn hạn chế, nên người xưa xem dòng khí là một loại tương tác hay năng lượng bí ẩn. Nghiên cứu tại nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở Trung Quốc, cho thấy đó có thể chỉ là các biểu hiện đặc biệt của tương tác điện từ, loại tương tác chi phối sự sống. Và như vậy, bức màn bí ẩn bao phủ môn khí công đã hàng ngàn năm đang dần dần được hé mở.
Kỳ 21: Bí mật của xuất hồn - thoát xác
Xuất hồn hay thoát xác là hiện tượng khá phổ biến trong hầu hết các nền văn hóa. Người ta tin rằng, khi đó "hồn" bay khỏi "xác", bồng bềnh giữa không trung, quan sát thể xác và thế giới xung quanh. Nhiều người xem đó là bằng chứng của "linh hồn" và "thế giới tâm linh".
Theo nữ tâm lý gia Susan Blackmore, người đã nghiên cứu hiện tượng này hơn 40 năm, xuất hồn là "kinh nghiệm mà dường như một người cảm nhận được thế giới từ một vị trí ngoài cơ thể vật chất". Còn theo Irwin, đó là kinh nghiệm mà "trung tâm ý thức dường như chia tách với cơ thể". Các nhà tâm lý cho rằng, xuất hồn không phải là hiện tượng "tâm linh", mà là một trạng thái ý thức biến đổi. Nó có thể liên quan với psi (đã giải thích trong các kỳ trước), nhưng không phải là psi.
Bằng chứng thống kê
Theo Blackmore, khoảng 15-20% dân chúng thi thoảng xuất hồn. Đa phần chỉ một vài lần trong đời, nhưng một số xuất hồn khá thường xuyên, còn một số ít thì luyện tập đến mức xuất hồn lúc nào cũng được!
Xuất hồn thường xảy ra lúc nghỉ ngơi, trước khi ngủ hay đang thiền. Đặc trưng chung của trạng thái là thư giãn, giảm hay mất cảm giác bản thể và kích thích cảm giác. Nó xảy ra trong thời gian ngắn, thường bắt đầu với cảm giác đi vào đường hầm tối đen với ánh sáng rực rỡ phía cuối, giống trạng thái cận kề cái chết. Có người thấy "hồn" xuất rồi lại nhập vào xác.
Hành trình của linh hồn trong sự tưởng tượng của các họa sĩ
Xuất hồn độc lập với tuổi, giới tính, học vấn hay tôn giáo, mà phụ thuộc chủ yếu vào khả năng bị thôi miên và sự nhập vai. Vì thế giới nghệ sĩ dễ xuất hồn. Nhiều kỹ thuật có thể tạo xuất hồn, phần lớn xem thư giãn và tưởng tượng là yếu tố cơ bản. Thôi miên là kỹ thuật được ưa thích. Một số thuốc hướng thần cũng gây xuất hồn, như thuốc gây ảo giác, thuốc mê... nên có người thấy xuất hồn khi được phẫu thuật.
Để lý giải xuất hồn, hiện có ba giả thuyết chính: một cái gì đó ("hồn") rời khỏi xác, ảo giác kết hợp với ngoại cảm và các lý thuyết tâm lý.
Thoát xác
Đa số người xuất hồn thấy thoát xác, dẫn tới giả định về sự tồn tại của "linh hồn", độc lập với thể xác và có thể tồn tại sau cái chết của thể xác. Đây là một quan điểm sai lầm vì chia tách con người thành thể xác và linh hồn và xem chúng khác nhau. Vậy chúng tương tác với nhau như thế nào? Khi chết hồn bay đi đâu? Ở người chết đi sống lại, hồn thoát rồi nhập xác ra sao? Đó là những câu hỏi chưa bao giờ được trả lời.
Ảo giác và ngoại cảm
Tyrrell là người đầu tiên giả định xuất hồn là những ảo giác mang thông tin thu được nhờ ngoại cảm. Nói cách khác, do đọc ý nghĩ từ xa trong lúc ảo giác mà người xuất hồn cảm thấy hồn như bay lên quan sát các sự kiện, thậm chí từ xa. Điểm yếu của lý thuyết là giả định về ngoại cảm, vì bản thân ngoại cảm cũng là chủ đề chưa được làm rõ. Không thể giải thích một hiện tượng chưa biết bằng một hiện tượng chưa biết khác!
Các lý thuyết tâm lý
Nhóm lý thuyết này quan tâm tới các yếu tố nội tại của xuất hồn như ảo giác, ước vọng, các quá trình tâm lý và sự tưởng tượng. Chúng không loại trừ nhưng cũng không lưu tâm đặc biệt tới ngoại cảm.
Ảo giác là lý thuyết đầu tiên, sau đó là các lý thuyết phân tâm học. Từ những năm 1970, các lý thuyết chính thống hơn được phát triển. Palmer xem xuất hồn là sự giảm hay mất cảm giác bản thể. Irin hay Blackmore nhấn mạnh sự thay đổi tri giác, nhất là sự cách ly cảm giác (thí nghiệm tại ĐH McGill, Canada, 1951, cho thấy, khi bị cách ly cảm giác, người tình nguyện thấy "hồn" bay lơ lửng giữa khoảng không để quan sát xác). Trên thực tế, khi xuất hồn, các hình ảnh bản thể và thế giới bị phá vỡ nên tâm trí phải tái cấu trúc một hiện thực ảo để thay thế, trên cơ sở ký ức và tưởng tượng cá nhân, nên người xuất hồn như "thấy" bản thân từ bên ngoài cơ thể.
Khả năng dị thường khi xuất hồn
Các thành viên Hội nghiên cứu tâm linh Mỹ tổ chức một số thí nghiệm có kiểm soát để kiểm tra khả năng ngoại cảm khi xuất hồn. Chẳng hạn năm 1971, Osis nghiên cứu một đối tượng là Swann bằng cách đặt đồ vật trên giá cao 3m và yêu cầu Swann gửi "hồn" lên để đọc. Osis tuyên bố kết quả khả quan, nhưng nghiên cứu tiếp theo không lặp lại được kết quả.
Hiện tượng xuất hồn cũng là dấu hiệu đặc trưng của kinh nghiệm cận kề cái chết. Nhiều bệnh nhân được cứu sống hay tỉnh lại sau phẫu thuật tuyên bố họ cảm nhận được các biến cố xung quanh "thể xác đang chết" của họ, một tuyên bố không được thực tế khẳng định. Cho đến nay nhiều người vẫn xem xuất hồn là bằng chứng của linh hồn bất tử. Tuy nhiên thành tựu mới trong các khoa học tâm trí không ủng hộ quan điểm này. Thực tế xuất hồn chỉ là những ảo giác xuất hiện khi hệ cảm giác bản thể của cơ thể bị rối loạn.
Kỳ 22: Thực chất của viễn di sinh học
Viễn di sinh học (psychokinesis/telekinesis) là khả năng dùng tâm trí tác động lên thế giới vật chất mà không dùng đến các tương tác vật lý đã biết. Ví dụ điển hình của viễn di sinh học là dùng ý nghĩ làm cong thìa hay tác động lên bộ phát số ngẫu nhiên. Uri Geller người Israel mà TT&VH đã viết hay Nina Kalugina (1926-1990) người Nga là những nhà tâm linh nổi tiếng nhất trong lĩnh vực này.
Uri Geller người Israel
Nina Kalugina
Được xem là người có nhiều khả năng tâm linh, nhất là viễn di sinh học, Nina Kalugina được nghiên cứu tại Liên Xô trong một thời gian dài. Trong chiến tranh lạnh, một bộ phim đen trắng về khả năng làm di chuyển đồ vật bằng "sức mạnh tâm trí" của bà đã được phổ biến trên toàn thế giới, đem lại nỗi hào hứng ghê gớm cho những người ủng hộ, nhất là khi họ biết bộ phim được làm dưới sự kiểm soát của nhà nước.
Thí nghiệm nổi tiếng nhất được Kalugina thực hiện tại một phòng thí nghiệm tại Leningrad ngày 10/3/1970. Đã nghiên cứu khả năng di chuyển đồ vật, nay người ta yêu cầu bà dùng ý chí tác động lên tim ếch trong dung dịch nuôi. Nhà y khoa nổi tiếng Sergeyev là một trong số những nhà khoa học chứng kiến thí nghiệm. Ông nói Kalugina có thể điều khiển tim ếch đập nhanh hoặc chậm, thậm chí ngừng đập.
Nhiều cá nhân và tổ chức nghi ngờ đã phê phán thí nghiệm, như Quỹ giáo dục James Randi (nhà ảo thuật lặp lại mọi trò lừa giả danh tâm linh của Uri Geller, người đặt ra giải thưởng một triệu USD cho bất cứ ai thực hiện được một khả năng tâm linh dưới sự kiểm soát của ông năm 1999. Hiện tiền được gửi tại một ngân hàng New York và thời gian thử nghiệm kéo dài tới 2010) hay Ủy ban điều tra các tuyên bố dị thường Ý. Họ cho rằng thời gian chuẩn bị lâu và thí nghiệm thực hiện tại khách sạn giúp Kalugina dễ dàng lừa gạt. Việc không có giới ảo thuật tham gia thí nghiệm càng khiến sự nghi ngờ tỏ ra có lý. Ngoài ra là ước vọng chiến thắng trong cuộc "chiến tranh tâm linh", giống như thắng trong chiến tranh vũ trụ hay trong chạy đua vũ trang.
Tác động lên bộ phát ngẫu nhiên
Đáp lại những chỉ trích như trên, giới tâm linh tổ chức các thử nghiệm có kiểm soát, như tác động lên bộ phát số hay sự kiện ngẫu nhiên. Điển hình nhất là nhà vật lí Helmut Schmidt, mà sự trung thực và sáng tạo trong tổ chức thí nghiệm được cả các đối thủ kính trọng. Một nhà nghiên cứu khác là Robert Jahn và phòng thí nghiệm tại ĐH Princeton. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của hai ông đều không thỏa mãn cả người ủng hộ lẫn người phản đối.
Qua hàng triệu lần ấn nút bộ phát số với nhiều nhà tâm linh, Schmidt thu được khác biệt tuy tin cậy về mặt thống kê, nhưng cực kì nhỏ, chỉ là 50.5% so với 50% của xác suất ngẫu nhiên. Còn trong phòng thí nghiệm của Jahn, sau 114 triệu lần thử nghiệm, chỉ thu được tỉ lệ 50.2%. Sai khác tuy nhỏ, nhưng tin cậy về mặt thống kê, nên Schmidt và Jahn tuyên bố viễn di sinh học là sự thật, tuy khá hiếm thấy.
Giới nghi ngờ không đồng ý như vậy, vì hai ông chưa tính tới các sự biến tự phát. Chẳng hạn trong một sô diễn truyền hình, nhà tâm linh nói sẽ dùng sức mạnh tâm trí làm đồng hồ của khán giả ngừng chạy. Vài chục phút sau, hàng chục người gọi điện thông báo, quả thật đồng hồ họ đã hỏng. Đó là "tâm linh"? Hoàn toàn không, đó chỉ là các sự biến tự phát: trong hàng triệu người xem ti vi, nhất định nhiều người sẽ hỏng đồng hồ, một kết quả chỉ mang tính thống kê thuần túy.
Các nhà khoa học còn phát hiện nhiều khiếm khuyết trong cách tổ chức thí nghiệm của Schmidt, Jahn và nhiều nhà nghiên cứu khác. Đây là vấn đề rất khó tránh, vì tổ chức một thí nghiệm đứng trên mọi chỉ trích hầu như là không thể trong lĩnh vực dị thường. Đó là một trong những lí do mà khoa học chưa thu được một bằng chứng không thể bác bỏ về các hiện tượng lạ.
Kết luận
Là một trong những đối tượng của bộ môn cận tâm lý, cùng ngoại cảm, viễn di sinh học là mối quan tâm hàng đầu của giới nghiên cứu chuyên ngành. Trong các "thử nghiệm tại thực địa" thiếu sự kiểm soát chặt chẽ, thường thu được kết quả rất ấn tượng nhưng không được các nhà khoa học chấp nhận. Còn trong các thử nghiệm tại phòng thí nghiệm, kết quả chưa vượt qua được xác suất ngẫu nhiên hay các sự biến tự phát. Vì thế giới khoa học có thẩm quyền chưa chấp nhận tính hiện thực của viễn di sinh học.
Kỳ 26: Bí ẩn những giấc mơ tiên tri
Giấc mơ là những hình ảnh, ý nghĩ và cảm giác trải nghiệm khi đang ngủ, liên quan chặt chẽ với giấc ngủ cử động mắt nhanh. Nội dung và ý nghĩa sinh học của giấc mơ chưa được biết đầy đủ, mặc dù là đối tượng quan tâm và suy đoán suốt tiến trình lịch sử nhân loại. Giấc mơ tiên tri là giấc mơ mà người nằm mơ thấy trước các sự biến tương lai.
Các giấc mơ tiên tri nổi tiếng
- Năm 1865, tổng thống Mỹ Abraham Lincoln kể cho bạn bè về một giấc mơ mà trong đó, ông nghe thấy những tiếng động của đám tang từ căn phòng phía tây trong Nhà trắng. Trong đó có một cái xác quấn vải niệm, với nhiều lính gác đứng xung quanh. Vì khuôn mặt cũng bị che kín nên khi được ông hỏi, một lính gác trả lời "Tổng thống". Lincoln bị ám ảnh vì giấc mơ và một tuần sau ông bị ám sát.
Tác phẩm "Giấc mơ hiệp sĩ" của Antonio de Pereda
- Năm 1912, một số người thoát chết trong thảm kịch Titanic nổi tiếng, khi họ kể nằm mơ thấy tàu sẽ chìm. Tình thế tương tự cũng xẩy ra trong tai nạn ở Aberfan, xứ Wales, vương quốc Anh (mưa gây trượt than đá làm chết 116 trẻ em và 28 người lớn tại Trường tiểu học Pantglas). Ít nhất 22 người Anh đã mơ thấy thảm kịch từ trước.
- Ngày 28/5/1968, tâm linh gia Alan Vaughan gửi thư tới chuyên gia về giấc mơ Stanley Krippner, thông báo ông mơ thấy một người da đỏ bắn chết Robert Kennedy, ứng cử viên tổng thống Mỹ. Rồi Vaughan mơ thấy cách bảo vệ nạn nhân; tuy nhiên trước khi nhận được lời cảnh báo, ngày 5/6 Kennedy bị ám sát.
Ý nghĩa của giấc mơ
Nhiều giả thuyết đã được nêu về ý nghĩa và mục đích sinh học của giấc mơ. Được thừa nhận rộng rãi là các lý thuyết sau:
Giấc mơ Jacob về chiếc thang của thiên thần
- Mơ là biểu hiện của ước vọng vô thức: Cha đẻ của phân tâm học Freud cho rằng, giấc mơ là "con đường vương giả" dẫn đến vô thức, thành tố quyết định bản chất con người. Theo đó, bay trong mơ thể hiện sự khát dục; đào, táo, nho biểu tượng đôi nhũ hoa; súng, lửa, đạn, gậy, rắn biểu tượng bộ phận sinh dục nam, còn bếp lò, chai, lọ ứng với cơ quan sinh dục nữ. Thực tiễn không ủng hộ các suy đoán quá chủ quan này. Thống kê trên sinh viên năm 1958 cho thấy, thường gặp nhất trong mơ là bị rơi (84%) và bị săn đuổi (80%). Lẽ nào bị rơi và bị săn đuổi lại là ước vọng vô thức của con người? Mơ thấy đi mãi mà không tới phòng thi không phải là ước vọng vô thức, mà chính là dấu hiệu của sự chưa thuộc bài!
-Mơ để làm sạch bộ não: Crick (nhà vật lý đoạt giải Nobel vì cấu trúc ADN) và Mitchison, 1983, giả định mơ giúp loại bỏ thông tin vô ích, làm "vệ sinh" bộ não và dành ô nhớ cho thông tin có ích.
- Mơ để sinh tồn: Theo Pavlides và Winson, 1989, mơ để truy xuất và xử lý lại thông tin cần thiết cho sự sinh tồn. Theo đó, mơ giúp xử lý tin 24/24 giờ. Vì thế ngủ trong căn phòng bị phun nước thường mơ thấy nước.
- Mơ như quá trình hoạt hóa - tổng hợp: Theo Hopson và McCarley, 1977, bộ não sinh điện năng trong giấc ngủ REM để kích thích ngẫu nhiên các bộ nhớ khác nhau trong não. Và não sắp xếp các kí ức ngẫu nhiên đó thành mạch truyện có logic và bổ sung chi tiết cần để tạo nên bức tranh toàn cảnh hợp lý. Như vậy giấc mơ là một trò chơi tự tổ chức của bộ não hơn là một hiện tượng tâm lý có mục đích tự thân.
Giải mã giấc mơ tiên tri
Dù nhớ hay không thì hàng đêm ta vẫn mơ hàng chục giấc mơ. Và người sống đến 70 tuổi sẽ có 150 ngàn giấc mơ trong cả cuộc đời. Với hàng trăm tỷ người từng sống trên trái đất, tổng các giấc mơ của loài người đạt tới con số 15 triệu tỷ! Trong đó các giấc mơ tiên tri chỉ chiếm một tỷ lệ vô cùng nhỏ, cho thấy chúng chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên.
Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln đã từng mơ về cái chết trước khi bị ám sát
Trong trường hợp Lincohn, ông có nhiều kẻ không ưa và luôn trong tình trạng đe dọa ám sát. Vì thế giấc mơ của ông phản ánh tâm trạng đầy âu lo về tình thế bất ổn vây quanh ông (phù hợp với giả thuyết mơ để sinh tồn). Trong thảm họa Titanic, phần lớn linh cảm được thông báo sau sự kiện nên không đáng tin cậy. Trong tai nạn Aberfan, cư dân trong vùng nhiều lần cảnh báo mối nguy hiểm chết người nhưng nhà chức trách không quan tâm đúng mức. Trong trường hợp thượng nghị sĩ Robert Kennedy, nên nhớ rằng anh của ông, tổng thống John Kennedy bị ám sát chỉ vài năm trước và mối nguy hiểm không lúc nào rời Robert khi ông ra tranh cử. Vì thế nếu có người mơ thấy ông bị bắn thì cũng không có gì lạ.
Trên khía cạnh khoa học, nguyên lý bất định Heisenberg và tính ngẫu nhiên của các sự biến vũ trụ không cho phép tiên tri có thể xẩy ra trong vũ trụ của chúng ta. Muốn có tiên tri, cần một vũ trụ khác, với thời gian trôi ngược từ tương lai về hiện tại. Thật đáng tiếc là chúng ta không thể sống trong một vũ trụ như thế!
Kỳ 27: Thực chất của "Gọi vong người chết"
Thời gian qua, tại nước ta nổi lên hiện tượng "gọi vong" hay "nói chuyện với người chết". Qua đó cô đồng hay nhà ngoại cảm (chính xác hơn là nhà tâm linh) dường như thu được một số thông tin chưa ai biết, góp phần giúp thân nhân tìm thấy hài cốt người đã khuất. Đó là hiện tượng cầu hồn hay "gọi vong".
Nhà văn Conan Doyle, cha đẻ thám tử Sherlock Holmes lừng danh, là người rất mê cầu hồn
Cầu hồn xuất phát từ tâm linh luận (spiritualism), một quan niệm tôn giáo - triết học về sự tồn tại sau cái chết. Theo đó thì ta có thể tiếp xúc với người chết qua giới đồng cốt, những người được cho là có khả năng "gọi vong" hay "cầu hồn".
Trong khi triết học duy vật và khoa học bác bỏ khái niệm linh hồn bất tử (cặp phạm trù cấu trúc - chức năng của sinh học nói rằng, một chức năng cụ thể chỉ được thực hiện nhờ một cấu trúc vật chất đặc trưng. Chỉ tim mới bơm máu, chỉ não mới tư duy. Linh hồn với tư cách một chức năng - tư duy, tình cảm, nhận thức - mà không cần bộ não với tư cách cấu trúc vật chất là không thể về mặt sinh học), nhiều người đã dẫn kết quả của một số cô đồng hay nhà ngoại cảm để biện minh. Vậy tại sao giới đồng cốt có thể đưa ra một số thông tin được công nhận là chính xác?
Các kỹ thuật lấy tin
Thầy bói, cô đồng hay "nhà ngoại cảm" có thể thu được một số thông tin về người chết nhờ các kỹ thuật sau:
* Đọc nóng (hot reading): Đây là cách lấy tin trước khi thực hiện cầu hồn hay bói toán. Khi được đề nghị, thầy bói có thể kêu mệt vì bói cho nhiều người và đề nghị người xem bói tuần sau quay lại. Rồi thầy cho người bám theo và dò hỏi những thông tin cần thiết (đơn giản là ở bà bán nước đầu ngõ!). Khi quay lại, ta có thể choáng váng khi thầy nói vanh vách về tên tuổi, nghề nghiệp, gia cảnh của mình! Sau đó thầy nói gì ta cũng sẽ tin. Đây là kĩ thuật mà cô đồng Ph. ở miền Trung thường áp dụng, khi mọi người phải chầu chực mãi mới được nói chuyện với "vong", để đội ngũ cò mồi của cô moi tin.
Pháp sư người Uranina, được cho là có khả năng "nói chuyện với người chết"
* Đọc ấm (warm reading): Đây là sự áp dụng các nguyên tắc tâm lý chung cho một trường hợp cụ thể. Khi thấy vết đeo nhẫn, thầy bói sẽ nói thân chủ gặp rắc rối trong hôn nhân. Các cô gái trẻ thường được thông cảm về trở ngại trong tình yêu hay thi cử; đàn ông trung niên thường được khuyên nhủ về công danh hay tiền bạc; phụ nữ có tuổi ăn mặc sang trọng thường được chia sẻ chuyện chồng có bồ nhí. Thời gian qua, khi thị trường chứng khoán và địa ốc trầm lắng, người giầu có, năng động thường được phán là mắc vào chứng khoán hay đất đai...
Giới đồng cốt Mỹ thường kể, người chết cảm thấy đau đầu hay đau ngực. Tuyên bố này dễ được thân nhân người chết đồng tình vì đột quị não và nhồi máu cơ tim là hai nguyên nhân tử vong hàng đầu. Giới đồng cốt nước ta thường nói bên cạnh hài cốt liệt sĩ thời chống Pháp có "vài cúc áo", xuất phát từ thực tế cúc áo thời đó khó phân hủy hơn. Đó là kết quả của những chiêm nghiệm xuất phát từ thực tế, chứ không phải do "nói chuyện với người chết" hay do thấu thị, "nhìn xuyên đất đá". Nói chung kĩ thuật này rất đa dạng, nên chỉ có thể nhận ra thực chất nó khi khảo sát từng trường hợp cụ thể mà thôi.
* Đọc nguội (cold reading): Đây là kĩ thuật tinh xảo nhất mà giới đồng cốt hay bói toán có thể sử dụng. Trong bài "Thuyết phục người lạ rằng bạn biết tất cả về họ như thế nào" trên tạp chí Người yêu cầu nghi ngờ của Ủy ban điều tra khoa học các tuyên bố về hiện tượng dị thường Mỹ, tập 1, số 2, năm 1977, nhà tâm lý Hyman đã phát hiện kỹ thuật này. Đó là cách moi tin từ chính thân chủ bằng nhiều phương cách như nói lấp lửng nước đôi, đọc ngôn ngữ cơ thể... (thầy bói hay cô đồng thường nói tràng giang đại hải, khi gặp thông tin khớp, ta thường nhướn mày, chớp mắt, rung cơ, thở nhanh... nên cô đồng nắm được. Đó là hiệu ứng Hans thông minh quen thuộc trong lĩnh vực dị thường học).
Cô đồng Ph. ở trên thường nắm tay thân chủ chính là để phát hiện sự rung cơ như vậy. Đó cũng là lí do không một cô đồng, thầy bói hay nhà ngoại cảm nào nói ít. Xin nhấn mạnh, đây là kĩ thuật tinh vi nhất của giới đồng cốt và bói toán. Với một "nhà ngoại cảm" thành thạo cả ba kĩ thuật, ta không tin mới là chuyện lạ! Có lẽ ở ta chưa có ai giỏi như vậy, nhưng giới đồng cốt hay "ngoại cảm" vẫn được tin tưởng, chủ yếu do chúng ta muốn tin, như đã trình bày trong các bài trước.
Trùng hợp ngẫu nhiên
Vẫn còn một khả năng nữa là trùng hợp nhẫu nhiên. Trên thực tế, nhiều nhận định có xác suất thành công cao, như sinh trai hay gái, thắng hay thua (tỷ lệ đúng 50%). Cần bao nhiêu người để hai trong số đó có ngày tháng sinh trùng nhau? Xin chớ ngạc nhiên, khi biết chỉ cần 23 người là đạt tỷ lệ trên 50%, chứ không phải 183 người (365 ngày chia hai) như ta thường nghĩ. Bạn đang nghĩ về người bạn đã lâu không gặp, thì nhận được tin nhắn của chính người đó? Đó không phải là "tâm linh", mà là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhà thơ T.Đ.K. từng kể với người viết rằng, cô đồng nói được một chi tiết mà gia đình nhà thơ phải đi hỏi mãi mới biết là đúng. Đó chỉ là trường hợp ăn may, "chó ngáp phải ruồi" mà thôi.
Ta cần làm gì?
Nếu ngồi đối diện một cô đồng đủ nhạy cảm, rất khó tránh sự đọc nguội. Trong hoàn cảnh nào thì cô đồng cũng có thể bắt một ngôn ngữ cơ thể, như ngựa Hans từng chứng tỏ. Còn nếu ta bất hợp tác (ngồi im, nhắm mắt, bịt tai để không phát lộ ngôn ngữ cơ thể), giới đồng cốt vẫn có một lối thoát vạn năng là tuyên bố "hồn thăng", do thân chủ không thành tâm! Vì thế nên dùng tên và nhân thân giả để kiểm tra, như một số phóng viên từng khôn khéo thực hiện. Và bạn sẽ thấy thực chất của "gọi vong" hầu như ngay lập tức.
Tại sao chúng được tin tưởng?
Như các cuộc thăm dò dư luận đã chứng tỏ, mặc cho hiểu biết của nhân loại ngày càng tăng, niềm tin vào hiện tượng lạ của con người vẫn luôn tồn tại với thời gian. Vì thế James McConnell, ĐH Michigan, Mỹ, Susan Blackmore, ĐH Tây Anh quốc, John Barrow, ĐH Cambridge, Anh đưa ra các lý giải như sau:
1. Psi có thể có thật, nhưng ta chưa biết thực hiện nó trong phòng thí nghiệm.
2. Một số hiện tượng tự nhiên chưa có lời giải đáp thỏa đáng, nên nhiều người xem psi cũng có thể như vậy.
3. Con người có xu hướng tin vào cảm nhận bản thân hơn các bằng chứng khách quan. Theo Blackmore (1986): "Người tự xem mình thông minh, học hành tử tế và người có khiếu quan sát tốt thường tin rằng, cái mà mình chưa hiểu nhất định phải là cái siêu nhiên"
4. Ở mức độ nhất định, niềm tin vào sự huyền bí và hiện tượng lạ là nhu cầu có thực và mang tính ưu thế sinh tồn của con người, theo Barrow (1995).
Đó là một trong những lý do thúc đẩy cố thiên văn gia lừng danh Carl Sagan, cha đẻ chương trình tìm kiếm các nền văn minh ngoài trái đất SETI bằng cách theo dõi các sóng điện từ liên hành tinh, viết cuốn Thế giới quỷ ám: Khoa học như ngọn nến trong bóng tối, 1996. Qua đó ông muốn nhắn gửi thông điệp gan ruột rằng, đừng hy vọng ánh sánh khoa học có thể đẩy lùi bóng tối mê tín một cách dễ dàng, khi mỗi người chưa tự thắp cho mình một ngọn lửa.
Tại sao chúng bị nghi ngờ?
Theo Bách khoa toàn thư về các hiện tượng dị thường, do NXB Promethus Books ấn hành năm 1996, psi và các hiện tượng lạ khác bị khoa học chính thống nghi ngờ vì 8 lý do như sau:
1. Chúng không thỏa mãn tiêu chí tiến bộ của khoa học, vì sau hơn 100 năm nghiên cứu, kể từ khi Hội nghiên cứu tâm linh đầu tiên trên thế giới được thành lập tại Anh năm 1882, ngành dị thường học không hề thu được một thành tựu đáng chú ý nào.
2. Chúng quá phức tạp, nên không có định nghĩa thống nhất. Vì thế khoa học rất khó giới hạn vấn đề để trao đổi và nghiên cứu.
3. Thiếu chứng cớ ủng hộ đáng tin cậy. Sagan từng đặt ra tiêu chí "Tuyên bố dị thường đòi hỏi chứng cớ dị thường". Hiện chưa có những chứng cớ như vậy.
4. Giản lược về phương pháp nghiên cứu, cách thu thập và xử lý kết quả. Nghiên cứu tại nước ta nằm trong tình trạng này, vì chỉ dùng cách "thử nghiệm tại hiện trường", tức thấy sao ghi vậy, nên không ngăn ngừa được sự rò rỉ thông tin, cũng như sự lừa gạt và man trá, nếu có.
5. Không thỏa mãn tiêu chí liên thông của khoahọc,vì psi và các hiện tượng lạ khác không liên quan với các khoa học hiện hành, theo tuyên bố của giới tâm linh học. Đối với trình độ khoa học hiện hành thì đây là một nhược điểm chí tử.
6. Tính lặp lại quá kém. Các hiện tượng khách quan thì phải lặp là được trong nhiều thử nghiệm khác nhau. Các hiện tượng dị thường không thỏa mãn tiêu chí này.
7. Ngụy tạo, lừa gạt và man trá, cả chủ ý và không chủ ý, là bạn đồng hành chung thủy của lĩnh vực dị thường từ buổi bình minh nhân loại. Nhà tâm linh Uri Geller (lsrael) hay cô đồng Ph. (miền Trung) là những minh họa cụ thể.
8. Một số hiện tượng dị thường có cách giải thích hoàn toàn bình thường, như "ma nhập" chỉ là các rối loạn tâm thần kiểu nhân cách phân ly nay đa nhân cách, "nói chuyện với người chết" chỉ là cách lấy án từ thân nhân bằng các kỹ thuật khác nhau (đọc nóng, đọc ấm và đọc nguội).
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro