giã từ vũ khí
Giang Hà dịch
Chương 1
Vào cuối hạ năm ấy chúng tôi đóng quân trong một ngôi nhà ở một làng trông sang sông và trông sang cánh đồng bằng chạy dài đến chân núi. Lòng sông trong vắt nhiều sỏi, đá cuội, long lanh ngời dưới ánh nắng mặt trời và nước thì ngả màu xanh cuồn cuộn chảy.
Trước nhà, những đoàn quân tiến qua và làm tung bụi phủ lớp lớp lên lá. Thân cây cũng vướng đầy bụi. Năm ấy lá lại rụng sớm hơn mọi năm, đồng thời chúng tôi lại thấy những đoàn quân tiến trên đường; bụi lại bay; lá lại rơi rụng theo gió; đoàn quân tiếp tục đi để rồi sau đó con đường lại trở nên vắng vẻ và trắng phau dưới tàn lá.
Cánh đồng ngập lúa. Ở đây có nhiều vườn cây, xa tít chân trời là rặng núi trơ trọi ngả màu nâu. Trong rặng núi này chiến sự tiếp diễn và về đêm chúng tôi thấy được ánh lửa của trọng pháo. Trong đêm tối, ánh lửa loé lên như sấm chớp ngày hè, nhưng đêm lại mát và không có cảm giác là lại sắp có cơn giông.
Đôi khi trong đêm tối, chúng tôi nghe thấy tiếng binh sĩ qua nhà cùng những khẩu trọng pháo có máy kéo. Ban đêm xe và người tấp nập. Trên đường những con lừa mang những thùng đạn dược nặng trĩu hai bên hông, cạnh những quân xa chở đầy người, và trong sự tấp nập ấy có nhiều xe khác phủ bạt di chuyển chậm chạp. Ban ngày, những cỗ trọng pháo được kéo đi, toàn thân được ngụy trang bằng những cành lá xanh; những xe kéo cũng được ngụy trang bằng dây nho và lá xanh. Bên này sông, về phía Bắc, là một cánh rừng dẻ, xa hơn nữa là một trái núi. Có lần, giao tranh đã diễn ra để tranh giành ngọn núi này nhưng không có kết quả và về mùa thu, khi mưa đến, lá lại đổ, cành cây dẻ và thân cây trơ trọi sậm đen vì mưa thu.
Vườn nho cũng thưa lá, trơ trụi và cả đồng quê ướt át, thâm nâu, như tàn chết với mùa thu. Sương phủ trên sông, mây quanh đỉnh núi, trên đường thì nước bùn tung tóe theo bánh lăn của quân xa và đoàn binh sĩ choàng áo tơi, cũng bị lấm láp ướt át. Súng của họ bị ướt, và dưới áo tơi, họ đeo hai túi đạn ở dây thắt lưng và mang hai túi đạn bằng da màu xám đựng đầy băng đạn 6,5 ly làm áo choàng phồng lên khiến cho đoàn người đang đi trên đường giống như những người có mang sáu tháng rồi.
Trên đường có những chiếc xe nhỏ màu xám chạy qua rất nhanh. Thông thường thì có một vị sĩ quan ngồi phía trước cạnh người lái và nhiều sĩ quan khác ngồi phía sau. Những chiếc xe nhỏ này lại làm bắn bùn nhiều hơn xe tải. Nếu có một sĩ quan nhỏ bé ngồi giữa hai vị tướng, nhỏ bé đến nỗi ta không thấy mặt, chỉ thoáng thấy chỏm chiếc mũ kết cùng chiếc thắt lưng hẹp của ông và nếu chiếc xe đó đặc biệt chạy nhanh thì đó có thể là nhà vua. Ngài ngự tại Udine và hàng ngày vi hành như vậy để xem tình hình chiến sự. Và tình hình thì ngày càng trầm trọng.
Khi tiết trời sang đông, mưa càng rơi tầm tã ngày đêm và mưa đưa tới bệnh dịch thổ tả. May là bệnh này đã bị chặn đứng lại được và sau cùng chỉ có bảy ngàn người bỏ mạng thôi
Chương 2
Năm sau, quân đội chiến thắng liên tiếp. Ngọn núi nằm bên kia thung lũng và trên sườn đồi cây dẻ đã bị chiếm giữ. Cũng chiến thắng cả ở phía bên kia đồng bằng trên vùng cao nguyên chạy đến miền Nam. Tháng tám thì chúng tôi qua sông, ngụ tại một căn nhà nhỏ ở Gorizia. Nhà này có một máy nước, có nhiều cây rậm rạp, mát mẻ, nằm trong một ngôi vườn chung quanh có vách tường bao bọc, và một giàn hoa nho nở tím cả một bên cạnh nhà. Lúc bấy giờ chiến trận xảy ra ở dãy núi bên kia, cách xa gần một dặm. Thành phố trông rất đẹp và ngôi nhà của chúng tôi cũng rất dễ chịu. Con sông chảy sau nhà và thành phố đã bị chiếm một cách dễ dàng nhưng dãy núi nằm phía bên kia sông khó mà có thể chiếm được. Riêng tôi vui mừng khi thấy bọn Áo tỏ vẻ muốn về thành phố một ngày nào đó nếu chiến tranh chấm dứt bởi vì họ oanh tạc để phá huỷ trọn thành phố mà chỉ vì mục tiêu chiến lược mà thôi. Dân chúng ở lại thành phố, ở đây có bệnh viện, tiệm giải khát, cùng trọng pháo ở các góc phố. Vào cuối mùa hạ với những đêm mát trời, với những trận đánh trong rặng núi bên kia thành phố, với những thanh cầu mang nhiều vết đạn trái phá, với đường hầm sập cạnh con sông nơi xảy ra chiến trận, với cây cối bao bọc chung quanh công viên và con đường trồng cây chạy dài đến công viên; tất cả những cái đó với việc có gái chơi trong thành phố, với việc Hoàng thượng ngủ trong xe mà khi đi ngang qua, xe không còn chạy mua nữa, bây giờ người ta thỉnh thoảng thấy khuôn mặt, chiếc cổ dài và râu xám giống như chòm râu mọc lún phún dưới hàm con dê, bao nhiêu thứ đó hợp cùng vẻ lạ kỳ ở bên trong của những ngôi nhà mà một vạt tường đổ vì đạn trái phá khiến cho vôi vữa, gạch vụn đổ xuống vườn nhà và đôi khi ở cả ngoài đường cùng với chiến dịch may mắn ở Cacrô, tất cả những điều đó đổi thay còn thì mọi việc bình thường làm cho mùa thu khác hẳn với mùa thu trước dù chúng tôi vẫn đóng ở miền quê. Và bộ mặt chiến tranh cũng thay đổi.
Cánh rừng sồi trên ngọn núi phía sau thành phố đã biến đâu mất. Vào mùa hạ, lúc chúng tôi tiến vào thành phố thì khu rừng còn xanh tươi, nhưng giờ đây chỉ còn trơ lại mấy gốc cây cụt ngủn cùng những thân cây gãy đổ và mặt đất bị đào xới tung lên. Một hôm, vào cuối mùa thu, đến khu rừng sồi ngày trước, tôi thấy một đám mây trên đỉnh núi. Mây kéo đến nhanh, khiến mặt trời chuyển thành màu vàng sậm. Cảnh vật nhuộm một màu xám ngắt và bầu trời phủ đầy mây. Mây sà xuống núi rồi bất chợt bao quanh chúng tôi và chúng tôi nhận ra đó là tuyết. Tuyết rơi lả tả theo chiều gió, phủ đầy mặt đất trơ trọi, những gốc cây nhô lên đen sậm. Tuyết bám vào súng và dần dần những lối mòn, dẫn tới những chòi lá sau các chiến hào hiện ra trong tuyết.
Sau đó, trở về thành phố, tôi ngắm tuyết rơi từ cửa sổ của căn nhà dành cho sĩ quan. Tôi nghỉ ở đó với một người bạn, hai cái ly và một chai rượu Asti. Ngồi nhìn tuyết rơi chậm chạp, nặng nề, chúng tôi biết rằng năm nay tình hình chiến sự thế là đã xong. Phía trên thành phố chưa kiểm soát được một ngọn núi nào hết. Ở bên kia sông cũng chẳng chiếm được ngọn nào cả. Việc ấy đành phải để sang năm vậy. Bạn tôi nhìn thấy cha tuyên úy bước rón rén trên đường bùn lầy để xuống phố. Thấy vậy bạn tôi bèn đập vào cửa sổ cho vị linh mục chú ý. Người ngước mắt nhìn lên thấy chúng tôi liền mỉm cười. Bạn tôi làm hiệu mời vào nhưng ông lắc đầu đi thẳng.
Tối đó, trong buổi ăn chung, sau món mì Ý ai nấy đều ăn một cách hối hả và nghiêm trang, hoặc là họ dùng nĩa xúc mì lên để cho những sợi mì rời nhau ra từng sợi một gọn gàng, rồi mới cho vào mộm hoặc là cứ đưa mì lên đút từ từ vào miệng. Chúng tôi tự rót rượu từ bình có lót rơm chung quanh, bình để lỏng trong một cái máng sắt, ngón tay trỏ ấn cổ bình xuống là một thứ rượu vang đỏ tươi ngon lành chảy vào cái ly cũng cầm ở trong tay đó.
Có người ở ngoài đi vào, khi cánh cửa mở ra, tôi nhìn thấy ngoài trời tuyết đang rơi và nói :
- Tuyết bắt đầu rơi, chắc là bây giờ sẽ không còn tấn công nữa.
- Chắc vậy - Viên thiếu tá đáp lại - Anh nên đi nghỉ phép, anh hãy đến Naples, La Mã, Sicily...
- Nên đến Amalfi - Viên trung úy nói - Để tôi viết cho anh lá thư giới thiệu anh với gia đình ở Amalfi. Ở đó mọi người sẽ coi anh như con cái.
- Nên đi Palermo.
- Không, hắn phải đi Capri mới được.
- Tôi mong anh đến thăm gia đình tôi tại vùng núi Abruy.
- Tôi thì thích cho anh đi viếng Abruzzi và thăm gia quyến ở Capracotta - Cha tuyên úy nói.
- Hãy để cha nói về Abruzzi, nới đó có nhiều tuyết hơn ở đây nữa. Hắn ta đâu có muốn thăm viếng những người dân quê. Nên để cho hắn đến những trung tâm văn hoá và văn minh.
- Hắn ta còn cần phải có gái đẹp nữa chứ. Để tôi cho nhiều địa chỉ ở thành phố Naples. Nơi có nhiều cô tuyệt đẹp - mà đều có những bà mẹ đi kèm. Ha! Ha! Ha!
Viên đại úy nói rồi xoè bàn tay ra, ngón cái đưa lên và những ngón kia xoè ra như khi ta làm hình bóng bằng các ngón tay rọi lên tường vậy. Trên tường in bóng bàn tay viên đại úy. Ông lại nói bằng thứ tiếng Ý lóng “Khi anh ra đi thì anh bằng như thế này”. Ông chỉ ngón tay cái. “Khi trở về thì anh còn bằng thế này”. Ông ta chỉ ngón tay út. Ai nấy đều cười ầm lên.
- Xem này - Đại úy nói tiếp, ông lại xoè bàn tay ra nữa. Và một lần nữa ngọn nến lại in bóng bàn tay ông lên tường. Đại úy bắt đầu đưa thẳng ngón tay cái lên rồi gọi thứ tự năm ngón tay khởi sự từ ngón cái - Này là anh cả (ngón cái), anh hai (ngón trỏ), anh ba (ngón giữa), anh tư (ngón đeo nhẫn) và em út (ngón út). Khi ra đi anh bằng anh cả, khi trở lại thì anh cả chỉ còn là em út.
Tất cả lại cười to lên, viên đại úy có vẻ đang thành công với trò chơi các ngón tay...
- Anh nên đi nghỉ phép ngay là hay hơn - Thiếu tá bảo tôi.
- Tôi thích đi cùng để hướng dẫn cho anh - Viên trung úy nói.
- Bao giờ về, nhớ mang theo cái máy hát.
- Mang cả những đĩa nhạc ca kịch hay.
- Mang đĩa Caruso, hắn hát như sủa ấy.
- Cậu có ao ước được rống như Caruso không? Hắn rống, tôi bảo hắn rống mà.
- Tôi thích anh đi Abruzzi - Cha tuyên úy nói - Anh có thích dân cư ở đó, và tuy lạnh nhưng quang đãng, khô ráo. Anh có thể ở gia đình tôi, cha tôi là một thiện xạ nổi tiếng - Ở người khác la lối phản đối, nhưng ông vẫn tiếp tục nói - Ở đó săn bắn rất tốt. Rồi anh sẽ thấy thích dân chúng và dù thời tiết lạnh, nhưng trời trong sáng và khí hậu khô, anh có thể tạm nghỉ ở gia đình tôi, cha tôi là một nhà thiện xạ.
- Nào ta đi thôi - Vị đại úy nói - Chúng ta đến nhà thờ trước khi cửa đóng.
- Xin chào cha - Tôi chào cha tuyên úy.
- Chào anh - Vị tu sĩ đáp lại.
Chương 3
Khi tôi trở lại mặt trận thì chúng tôi vẫn còn đóng tại thành phố đó. Trong những vùng quanh đấy người ta có đặt thêm nhiều đại bác và xuân đã đến. Cánh đồng xanh rờn, trên giàn nho đã có những mầm non nho nhỏ. Cây dọc theo đường bắt đầu trổ lộc và gió mát từ biển thổi vào. Tôi lại thấy thành phố với ngọn đồi xưa và tòa lâu đài cũ kỹ nằm trong một hẻm đất trên đồi với những rặng núi màu nâu thẫm, hai bên sườn đã có hơi điểm màu xanh non. Trong thành phố đã có thêm súng, vài bệnh viện mới. Ngoài đường người ta gặp những người đàn ông, thỉnh thoảng vài người đàn bà Anh và thêm một vài ngôi nhà nữa mới bị bắn phá. Tiết trời ấm áp như mùa xuân, tôi đi xuống con đường nhỏ đầy cây, người tôi ấm lên nhờ ánh nắng phản chiếu trên tường. Tôi nhận thấy chúng tôi vẫn ởtrong ngôi nhà cũ và mọi vật quanh tôi đều giữ y nguyên như khi tôi rời chúng để ra đi. Cửa mở, một anh lính ngồi trên chiếc ghế dài dưới ánh nắng mặt trời. Một chiếc Hồng thập tự lưu động đang đợi ở cửa bên. Bên trong, khi bước chân vào, tôi ngửi thấy hơi lạnh ở sàn đá và mùi thuốc men bệnh viện. Tất cả vẫn nguyên như trước khi tôi ra đi - Chi trừ có điều bây giờ là mùa xuân. Tôi nhìn vào cửa của gian phòng lớn, và thấy viên thiếu tá đang ngồi ở bàn viết, cửa sổ mở rộng, ánh sáng tràn vào căn phòng. Ông ta không thấy tôi và tôi cũng không biết là mình nên vào để tường trình mọi việc với ông ta hay là nên đi thẳng lên gác trước để rửa ráy đã. Tôi quyết định lên gác trước.
Cửa phòng của tôi ở chung với trung úy Rinaldi nhìn ra sân. Cửa sổ mở toang. Giường tôi được trải một tấm nệm và đồ đạc của tôi thì treo trên tường, chiếc mặt nạ phòng hơi ngạt đựng trong một cái hộp sắt hình chữ nhật, chiếc mũ sắt cũng treo cùng một chiếc giá trên tường. Chiếc rương của tôi nằm sát dưới chân giường và đôi ủng mùa đông, da giày bóng loáng vì dầu mỡ nằm trên đó. Cây súng tôi đoạt được của tên Áo chuyên môn bắn trộm, với nòng súng xám xanh hình bát giác, báng súng màu nâu sậm treo giữa hai chiếc giường. Tôi chợt nhớ ra chiếc ống rất hợp, khóa bỏ trong rương. Trung úy Rinaldi nằm nghỉ bên giường kia. Khi tôi bước vào phòng, anh thức giấc và ngồi nhỏm dậy.
- Chà - Anh nói - đi chơi thế nào?
- Tuyệt!
Chúng tôi bắt tay nhau, anh choàng tay qua cổ tôi và hôn.
- Cậu bẩn thật - Anh bảo - Tắm rửa cho sạch sẽ đi. Nhưng hãy kể liền bây giờ cho tôi nghe xem cậu đã đi những đâu và làm những gì nào.
- Tôi đi khắp nơi. Milano này, Florence, La Mã, Naples, Villa San Gionvanni, Messina, Taormina...
- Cậu liệt kê như bảng chỉ dẫn xe lửa ấy. Cậu có nhiều chuyện phiêu lưu thú vị không?
- Có chứ.
- Ở đâu?
- Milano, Firenze, Rome, Napoli...
- Thôi đủ rồi. Nói rõ xem ở đâu hay nhất.
- Ở Milano.
- Vì đó là nơi đầu tiên chứ gì.
- Cậu gặp nàng ở đâu? Ở Cova à? Cậu đi đâu? Và cảm thấy thú vị ra sao? Kể mau nghe coi. Cậu có ở lại suốt đêm với nàng không?
- Có.
- Không đáng kể. Hiện giờ ở đây chúng ta có nhiều gái đẹp, nhiều nàng mới chưa từng thấy ở mặt trận từ trước đến giờ.
- Tuyệt quá.
- Cậu không tin à? Chiều nay tớ sẽ đưa đi xem ngay. Trong thành phố còn có nhiều cô người Anh nữa. Tớ hiện đang yêu cô Barkley. Tớ sẽ giới thiệu cậu với cô ấy. Tớ sẽ cưới nàng.
- Thôi để tớ còn phải đi tắm rửa rồi lên trình diện. Giờ còn việc gì làm nữa không?
- Từ ngày cậu đi nghỉ phép đến nay chẳng có gì ngoài bệnh tê cóng nẻ, vàng da, lậu, những vết thương tự gây ra, sưng phổi và hạ cam cứng và mềm. Mỗi tuần lại có người bị những mảnh đá vỡ gây thương tích. Chỉ có một vài người bị thương thật sự. Tuần tới chiến tranh lại bắt đầu. Có thể thế... Nghe cấp trên nói vậy. Sao, cậu bảo có nên cưới Barkley không? Dĩ nhiên là sau chiến tranh kia.
- Được hẳn đi chứ - Tôi vừa nói vừa đổ nước đầy bồn tắm.
- Đêm nay cậu hãy kể mọi việc cho tớ nghe nhé - Rinaldi bảo tôi - Bây giờ tớ phải ngủ lại cho khỏe khoắn, tươi tỉnh để đến thăm nàng Barkley chứ.
Tôi cởi áo choàng và sơ mi rồi ngồi trong bồn nước lạnh tắm. Vừa lấy khăn kỳ cọ mình mẩy, tôi vừa nhìn chung quanh gian phòng, nhìn ra cửa sổ rồi nhìn Rinaldi đang nằm dài trên giường, đôi mắt nhắm lại. Anh từ Amalfi đến, trạc tuổi tôi, đẹp trai. Anh rất yêu nghề giải phẫu và hai chúng tôi là đôi bạn chí thân. Khi tôi nhìn, anh mở mắt ra hỏi :
- Cậu có tiền không?
- Có.
- Cho tớ vay 50 đồng lia.
Tôi lau tay khô rồi với lấy ví trong chiếc áo choàng treo trên tường. Rinaldi cầm lấy tiền gấp lại rồi cứ nằm trên giường mà nhét tiền vào túi quần đùi ghết. Anh mỉm cười bảo :
- Tớ phải làm cho cô Barkley tưởng là giàu có mới được. Cậu là bạn chí thân của tớ đồng thời cũng là vị cứu tinh của tớ về vấn đề tiền bạc.
- Thôi yên đi - Tôi bảo hắn.
Đêm đó trong buổi ăn chung, tôi ngồi gần cha tuyên úy. Ông ta tỏ vẻ thất vọng và bỗng nhiên cảm thấy bị chạm tự ái khi biết tôi không đi Abruzzi. Ông đã viết thư cho cha ông biết tôi sẽ đến đó, gia đình ông đã chuẩn bị sẵn sàng để tiếp đón tôi. Chính tôi cũng cảm thấy ân hận như ông nhưng tôi chẳng hiểu tại sao tôi lại không đến Abruzzi. Thực ra thì tôi cũng đã có ý định đi đến đó. Tôi cố gắng giải thích cho vị linh mục hiểu lý do thế nào mà định một đàng lại đi một nẻo. Sau cùng ông hiểu ra và biết rằng trong thâm tâm tôi rất muốn đi và mọi việc đều tạm ổn. Tôi đã uống nhiều rượu không kể cà phê và rượu Strega. Tôi lè nhè giải thích vì sao chúng tôi không làm những điều chúng tôi muốn làm; chúng tôi không bao giờ làm như thế cả.
Hai chúng tôi nói chuyện với nhau trong khi những người chung quanh thi nhau tranh luận. Thực ra tôi đã có ý định đi Abruzzi. Tôi không thấy một nơi nào mà đường sá đóng băng cứng như sắt, thời tiết thì lạnh, khô và tuyết vừa khô vừa nhẹ rơi lấm tấm như bụi mù, mà người ta thấy những vết chân thỏ rừng trên tuyết. Tôi chẳng đi đến nơi nào như thế cả, ngoài những nơi quyện đầy khói thuốc, của những quán rượu, những đêm khi gian phòng quay cuồng và phải nhìn vào tường để thấy nó dừng lại; những đêm say mèm, nằm trong giường thấy cõi đời này chỉ có thế, khi mình cảm thấy tỉnh táo lạ thường và chẳng biết mình nằm cạnh ai và trong bóng đêm mọi vật đều hư hư thực thực. Rồi bỗng nhiên mình lại quá lo lắng và ngủ thiếp đi để rồi sáng ra thức giấc với những ý tưởng lo lắng trở lại, tất cả những gì đã xảy ra hôm qua đều biến đi đâu mất, cuộc đời hiện ra với những đường nét rõ ràng sắc nhọn và đầy khó khăn hoặc đôi khi là một cuộc cãi nhau về giá cả. Cũng có lắm lúc lòng lại thấy thoải mái, thích thú và ấm áp. Rồi đi ăn điểm tâm, cơm trưa hoặc đôi khi quên hết mọi chi tiết nhỏ nhặt và sung sướng được đi dạo phố. Nhưng rồi một ngày khác lại bắt đầu và tiếp theo là đêm với cuộc sống không thay đổi. Tôi cố gắng nói lên sự khác biệt giữa ngày và đêm. Tôi muốn diễn tả cho mọi người biết đêm hơn ngày biết bao chỉ trừ khi nào ban ngày trong sáng và lạnh, nhưng tôi không sao nói lên được điều ấy; và bây giờ tôi cũng không sao diễn tả được cảm nghĩ đó. Nhưng ai cũng đã từng có ý nghĩ đó sẽ biết. Vị linh mục không hề có ý nghĩ đó như tôi nhưng ông ta đã hiểu được thực ra tôi đã có ý muốn đi Abruzzi nhưng tôi không đi được. Chúng tôi tuy vẫn là bạn, với nhiều ý thích giống nhau, nhưng giữa chúng tôi đã có điểm khác nhau. Ông luôn luôn biết những điều mà tôi không được biết và những điều mà khi học tôi không thể nào nhớ nổi, và dù sau đó có học lại đi chăng nữa tôi cũng chẳng hề biết gì cả. Lúc này tất cả đều dự bữa ăn chung. Khi ăn xong thì cuộc tranh luận lại tiếp tục. Hai chúng tôi ngừng nói chuyện. Vị đại úy lớn tiếng nói :
- Cha không được vui...
- Tôi vui chứ - vị linh mục trả lời.
- Cha không vui. Cha muốn bọn Áo thắng - Đại úy nói tiếp. Mọi người lắng tai nghe.
Vị linh mục lắc đầu trả lời :
- Không.
- Cha muốn chúng tôi đừng bao giờ tấn công cả. Có phải rằng cha muốn chúng tôi đừng bao giờ tấn công địch không?
- Không phải thế, chúng ta đánh nhau, tôi nghĩ chúng ta nên đánh chứ.
- Ta phải tấn công! Cha tán thành đi. Chúng ta sẽ tấn công.
Cha tuyên úy gật đầu.
- Thôi hãy để cha yên - Thiếu ta bảo - Cha rất tốt.
- Vả lại nữa cha cũng không thể làm gì được trong cuộc chiến này - Viên đại úy nói.
Tất cả chúng tôi đều rời bàn đứng dậy.
Chương 4
Sáng ra tiếng đại bác ở vườn bên đánh thức tôi dậy và ánh nắng đã tràn vào phòng qua cửa sổ. Tôi trỗi dậy ra khỏi giường, đến bên cửa sổ đưa mắt nhìn ra ngoài. Những con đường trải sỏi ẩm ướt, cỏ xanh hãy còn đẫm sương đêm. Tiếng đại bác nổ hai lần và mỗi lần như thế khiến không khí chuyển động, lay động cửa sổ và làm vạt áo ngủ của tôi bay phần phật. Tôi không thấy súng nhưng chắc là nó đang nhắm thẳng về hướng chúng tôi. Thật là khó chịu khi ở gần chúng nhưng cũng thật là hạnh phúc vì chúng không nổ to hơn nữa. Khi đưa mắt nhìn ra vườn, tôi nghe có tiếng ô tô rồ to ngoài đường. Tôi mặc quần áo, đi xuống nhà dưới, vào bếp uống tí cà phê rồi đi ra nhà xe.
Mười chiếc xe đậu cạnh nhau dưới mái kho dài. Đó là những xe Hồng thập tự đầu tròn và mui nặng trịch sơn xám, giống như xe vận tải. Những người thợ máy đang làm việc trên một chiếc xe đậu trong sân. Ba chiếc khác được đưa lên trạm cấp cứu trên núi. Tôi hỏi người thợ :
- Này, có bao giờ địch nã trọng pháo vào những khẩu đại bác của ta không?
- Thưa không, vì những khẩu đại bác được ngọn đồi nhỏ che khuất.
- Còn mấy chiếc xe này thì như thế nào?
- Cũng còn dùng tạm được. Chiếc này không được tốt nhưng những chiếc khác đều dùng được - Anh dừng tay và mỉm cười nhìn tôi - Ông đi phép về ạ?
- Phải.
Anh chùi tay vào chiếc áo choàng ngoài rồi cười hỏi tôi :
- Ông nghỉ thoải mái chứ?
Những người thợ khác cũng cười theo.
- Thoải mái lắm - Tôi đáp - Còn chiếc xe này bị hỏng gì vậy?
- Nó chẳng dùng được, bị hỏng hết.
- Lần này làm sao?
- Phải thay séc măng ạ.
Tôi để cho họ làm việc. Chiếc xe trông ảo não và trống rỗng, đầu máy bị tháo ra từng mảnh nằm ngổn ngang trên chiếc ghế. Tôi đi vào để xem xe. Tất cả đều khá sạch sẽ, một vài chiếc vừa được lau chùi cẩn thận, còn những chiếc khác bám đầy bụi. Tôi xem xét kỹ những bánh xe để tìm những vêt móp hay nứt. Tất cả đều trông có vẻ khả quan. Dĩ nhiên là dù tôi có đến đây xem chúng hay không thì mọi việc vẫn vậy thôi chứ không có gì khác cả. Tôi đã tưởng tượng và cho rằng tình trạng của những chiếc xe này, việc sơ tán, đều tuỳ ở tôi. Quả thật chúng tôi được phân công vận chuyển bình an các thương binh và các bệnh nhân ở các trạm cấp cứu, chở họ từ trên núi đến trạm cứu thương địa phương rồi lại đưa họ đi đến các bệnh viện chỉ định sẵn trên thẻ của họ. Nhưng dĩ nhiên sự có mặt của tôi không cần thiết lắm.
Tôi hỏi một trung sĩ cơ khí :
- Trung sĩ có gặp khó khăn gì về phụ tùng xe không?
- Thưa không ạ.
- Hiện kho xăng ở đâu?
- Dạ vẫn ở chỗ cũ.
- Vậy thì tốt lắm.
Nói xong tôi trở vào nhà uống thêm một ly cà phê ở bàn ăn chung. Cà phê có màu hơi xám, ngọt lịm sữa đặc. Ngoài cửa sổ, buổi sáng mùa xuân trông rất đẹp. Người ta sẽ có cảm giác khô ở mũi, thế có nghĩa là ngày sẽ nóng. Hôm đó tôi đi xem xét các trạm trên núi và khi trở lại thành phố, trời đã xế chiều.
Mọi việc có vẻ tiến triển khả quan khi tôi vắng mặt. Tôi nghe nói sắp sửa đánh nhau lại. Chúng tôi được phân công tấn công ở thượng nguồn. Thiếu tá giao cho tôi tổ chức các trạm cấp cứu khi tấn công. Chúng tôi sẽ mở cuộc tấn công băng ngang qua sông đi vòng lên đường đèo hẹp rồi chiếm lĩnh các vị trí ở sườn đồi. Những chiếc xe tải thương phải ẩn đỡ càng gần sông càng tốt và sẽ được bảo vệ. Dĩ nhiên việc chọn lựa là do bộ binh nhưng chính chúng tôi thi hành. Đó là một trong những trường hợp gây ra cảm giác sai lầm là đã góp phần vào cuộc chiến đấu.
Người tôi đầy bụi và vấy bẩn, tôi liền lên phòng tắm. Rinaldi dang ngồi trên giường cầm quyển “Văn phạm Anh văn của Hugo”. Anh ăn mặc chững chạc, mang đôi ủng đen, mái tóc chải mượt. Thấy tôi anh bảo :
- Tuyệt quá, anh với tôi đến thăm cô Barkley nhé?
- Tớ không đi đâu.
- Đi, cậu hãy đi cho tớ vui và cô ấy có ấn tượng tốt đẹp.
- Thôi được rồi. Đợi một phút tớ thay quần áo đã.
- Cứ tắm rửa đàng hoàng rồi hãy ra.
Tôi đi tắm, chải đầu rồi chúng tôi đi.
- Này, khoan đã - Rinaldi bảo - Có lẽ chúng ta nên uống tí gì đi đã - Anh mở rương lấy ra chai rượu.
- Tôi không uống Strega đâu.
- Không phải Strega, Grappa mà.
- Thế thì được.
Anh rót ra hai ly, chúng tôi chạm cốc, ngón tay trỏ đưa lên. Rượu Grappa rất mạnh.
- Ly nữa nhé?
- Ừ thì nữa.
Chúng tôi cạn ly thứ hai, Rinaldi cất chai rượu, chúng tôi bước xuống cầu thang. Ở thành phố, đi bộ nóng nhưng mặt trời bắt đầu lặn nên thấy dễ chịu. Bệnh viện Anh đặt ở một biệt thự to lớn do người Đức xây cất trước chiến tranh. Cô Barkley đang ở trong vườn với một cô y tá khác. Chúng tôi thấy bộ đồng phục trắng của họ qua cành cây kẽ lá, bèn tiến về phía họ. Rinaldi đưa tay chào. Tôi cũng chào nhưng vừa phải thôi.
Cô Barkley hỏi tôi.
- Chào ông, ông không phải là người Ý chứ?
- Ồ không ạ.
Rinaldi nói chuyện với hai cô y tá kia. Họ đang cười đùa vui vẻ.
- Không phải người Ý mà lại ở trong quân đội Ý, thật là một chuyện kỳ.
- Đó không hẳn là quân đội, mà chẳng qua chỉ là đội cứu thương thôi.
- Dù sao việc ấy cũng kỳ lạ. Sao ông lại làm thế?
- Không biết nữa - Tôi đáp - Bao giờ cũng có những việc không giải thích được.
- Ồ, thế ư? Thưở bé người ta đã giáo dục tôi với ý tưởng trái ngược như thế.
- Vậy thì quý lắm.
- Bộ chúng ta định tiếp tục nói chuyện theo lối này sao?
- Không.
- Thế dễ chịu hơn, ông nhỉ?
- Cây gậy gì thế? - Tôi hỏi.
Cô Barkley người dong dỏng cao. Nàng mặc bộ quần áo theo tôi nghĩ là đồng phục y tá. Tóc nàng màu hung hung, da nâu và mắt màu tro. Tôi thấy nàng rất đẹp.
Nàng đang cầm cây gậy mây giống như cán roi ngựa bọc bằng da. Nghe tôi hỏi, nàng đáp :
- Chiếc gậy này của một thanh niên bị giết chết năm ngoái.
- Xin lỗi.
- Anh ấy rất dễ thương, sắp cưới tôi thì bị tử thương trong trận Somme.
- Khủng khiếp quá.
- Ông có dự trận đó không?
- Không.
- Tôi có được nghe kể lại. Thật ra ở dưới này không có trận nào như thế cả. Họ gởi cho tôi chiếc gậy nhỏ này. Mẹ chàng trao lại cho tôi. Họ gởi chiếc gậy cùng đồ đạc khác nữa...
- Cô và anh ấy hứa hôn với nhau lâu chưa?
- Tám năm. Chúng tôi cùng sống trong một gia đình.
- Nhưng sao lại không tổ chức cưới?
- Cũng chẳng biết làm sao nữa - Nàng đáp - Chính tại tôi quá ngốc. Tôi cũng có thể để chàng tổ chức. Nhưng tôi nghĩ như thế không hay cho anh ấy.
- Tôi hiểu.
- Ông đã từng yêu ai chưa?
- Chưa - Tôi đáp.
Chúng tôi cùng ngồi xuống chiếc ghế dài. Tôi nhìn nàng, nói :
- Cô có mái tóc đẹp quá!
- Ông thích ư?
- Thích lắm!
- Tôi đã có ý định cắt hết tóc khi anh ấy chết.
- Đừng, không nên.
- Tôi muốn làm một cái gì đó để kỷ niệm cho anh ấy. Ông thấy đó, tôi chẳng quan tâm gì đến mái tóc và muốn tặng nó cho anh ấy. Nếu trước kia tôi biết được anh ấy muốn những gì, tôi sẽ làm cho anh ấy mãn nguyện. Hoặc là tôi lấy anh ấy, hoặc là điều gì khác bất kỳ. Bây giờ thì tôi đã hiểu tất cả. Nhưng anh ấy muốn ra trận, và lúc ấy tôi không hề biết gì cả.
Tôi im lặng.
- Lúc ấy tôi chẳng hiểu biết gì cả. Tôi cho là không tốt đôi với anh ấy; tôi cho rằng có lẽ anh ấy không thể chịu đựng được cuộc sống đó. Thế rồi anh ấy hy sinh và hết mọi chuyện.
- Làm sao biết được.
- Ồ, biết chứ. Hết thật rồi.
Chúng tôi nhìn Rinaldi đang nói chuyện với cô y tá kia.
- Cô ấy tên gì nhỉ?
- Ferguson, Helen Ferguson. Có phải bạn anh là bác sĩ không?
- Vâng, hắn tốt lắm.
- Thế thì hay quá, khó kiếm được bác sĩ giỏi ở một nơi sát mặt trận như thế này. Vì chúng ta ở sát mặt trận có phải không?
- Vâng, gần lắm.
- Thật là một mặt trận buồn thảm, nhưng ở đây lại rất đẹp. Có phải họ đang mở một cuộc tấn công không?
- Vâng.
- Vậy là chúng ta lại phải làm việc. Bây giờ thì không có việc gì cả.
- Cô làm y tá đã lâu chưa?
- Từ cuối năm 1915. Tôi bắt đầu làm nghề này thì anh ấy cũng nhập ngũ. Hồi tưởng lại, có lần tôi có ý nghĩ rồ dại là có một ngày nào đó anh ấy sẽ vào bệnh viện tôi làm với một vết gươm, một cuộn băng quấn ngang đầu hoặc một viên đạn trên vai, một điều gì đấy đẹp đẽ.
- Mặt trận này đẹp đấy chứ!
- Vâng - Nàng đáp - Người ta không thể tưởng tượng được tình trạng nước Pháp ra sao. Nếu tưởng tượng được, mọi việc không thể nào tiếp tục được. Tôi tưởng thế nhưng thực ra anh ấy không bị một vết gươm nào mà xác anh ấy bị tan tành từng mảnh.
Tôi không biết nói gì.
- Ông cho rằng trận chiến sẽ kéo dài mãi không?
- Không.
- Điều gì sẽ dẫn tới kết thúc?
- Người ta sẽ nhượng bộ.
- Chính chúng ta sẽ nhượng bộ. Chúng ta sẽ thất bại ở Pháp.Họ không thể nào cứ tiếp tục làm những gì như ở trong trận Somme mà không nhượng bộ một ngày nào đó.
- Nhưng họ không thất bại ở đây.
- Ông cho là không à?
- Không, hè năm rồi, họ thu nhiều thắng lợi.
- Họ có thể vẫn thất bại - Nàng đáp - Ai cũng có thể thất bại được cả.
- Cả quân Đức cũng vậy.
- Không - Nàng nói tiếp - Tôi không tin thế.
Chúng tôi đi về phía Rinaldi và cô Ferguson.
Rinaldi hỏi cô Ferguson bằng tiếng Anh :
- Cô thích nước Ý chứ?
- Thích lắm - Cô đáp lại bằng tiếng Anh.
- Không hiểu gì cả - Rinaldi lắc đầu nói.
Tôi dịch ra tiếng Ý cho anh. Anh lắc đầu nói :
- Không hay. Cô có yêu nước Anh không?
- Không thích lắm, vì tôi là người Tô Cách Lan như ông đã biết.
Rinaldi nhìn tôi ngơ ngác không hiểu gì.
Tôi nói lại bằng tiếng Ý cho anh.
- Cô ấy là người Tô Cách Lan cho nên cô yêu nước Tô Cách Lan hơn là yêu nước Anh.
- Nhưng Tô Cách Lan cũng thuộc về Anh quốc cơ mà.
Tôi dịch lại cho cô Ferguson.
- Chưa hẳn thế - Cô đáp.
- Không đúng thế à?
- Không, chúng tôi không thích người Anh.
- Không thích người Anh? Vậy thì cô không thích cô Barkley à?
- Ồ, chuyện đó lại khác. Ông không nên hiểu mọi việc theo từ ngữ như thế được.
Một lúc sau chúng tôi chào nhau rồi chia tay. Trên đường về nhà, Rinaldi bảo tôi :
- Cô Barkley thích anh hơn tôi. Điều đó thấy rõ quá. Nhưng con bé Tô Cách Lan trông rất dễ thương.
- Ừ, dễ thương thật - Tôi đáp - Nhưng thực ra khi nãy tôi chẳng chú ý đến cô ta. Anh thích cô ấy phải không?
- Không - Rinaldi đáp.
Chương 5
Chiều hôm sau tôi lại đi thăm cô Barkley. Nàng không có ở ngoài vườn. Tôi bèn đi về phía cửa hông của bệnh viện nơi có nhiều xe đậu. Tôi gặp bà y tá trưởng, bà ta bảo là cô Barkley đang bận.
- Đang chiến tranh mà, chắc ông hiểu.
Tôi đáp là rất thông cảm.
- Ông là người Mỹ ở trong quân đội Ý phải không? - Bà hỏi.
- Thưa bà vâng.
- Việc xảy ra như thế nào mà ông tham gia quân đội Ý? Sao ông không nhập ngũ ở bên Mỹ?
- Tôi cũng không biết nữa - Tôi đáp - Bây giờ còn tiến hành được không?
- Tôi e là không được. Vì sao ông gia nhập quân đội Ý?
- Vì tôi ở Ý, nói tiếng Ý.
- Ừ, tôi đang học tiếng Ý đấy, tiếng ấy rất hay.
- Có người bảo là chỉ cần học trong hai tuần lễ thì phải.
- Ờ, tôi không học xong trong hai tuần đâu. Tôi đã học nhiều tháng rồi. Nếu muốn, ông có thể đến thăm cô ấy sau bảy giờ. Giờ đó cô ấy sẽ rảnh, nhưng nhớ đừng dẫn theo cả một lô bạn Ý nhé.
- Ngay cả vì cái thứ ngôn ngữ đẹp của Ý cũng không được hay sao?
- Không. Cũng chả cần đến bộ đồng phục đẹp của họ nữa.
- Thôi, chào bà.
- Chào Trung úy.
Tôi vẫy tay, chào bằng tiếng Ý rồi đi ra. Thật khó chào người ngoại quốc như dân Ý mà vẫn không thấy khó chịu. Cách chào của người Ý có vẻ không bao giờ thông dụng ở ngoại quốc.
Ngày hôm đó trời nóng nóng bức. Tôi đi ngược theo dòng sông đến đầu cầu ở Plava. Cuộc tấn công sẽ bắt đầu ngay tại đấy. Năm rồi người ta không thể nào tiến xa được vì chỉ có con đường độc đạo dẫn từ đèo đến cầu nổi, con đường đó lại ở dưới họng súng máy và họng trọng pháo trong khoảng gần một dặm. Từ năm trước con đường này không đủ rộng để có thể dùng vào mọi việc chuyên chở cần thiết cho cuộc tấn công; bọn Áo rất có thể mở một cuộc tàn sát ở đây. Nhưng dân Ý đã vượt qua được và tràn ra ở con đường nhỏ phía đằng xa, chiếm một khoảng độ một dặm rưỡi cách xa nơi bọn Áo đóng trên sông. Nhưng chỗ này là một vị trí hiểm yếu nên bọn Áo quyết chẳng để mất. Tôi cho rằng đó chỉ là một sự nhân nhượng lẫn nhau vì bọn Áo hãy còn đóng giữa phía đầu cầu chạy dài xuống mé sông. Hầm trú ẩn của bọn chúng ở phía trên sườn đồi chỉ cách ranh giới Ý vài thước. Trước kia, ở đấy có một thành phố nhỏ nhưng bây giờ chỉ là một đống gạch vụn đổ nát. Chỉ còn sót lại những mảnh vụn của nhà ga xe lửa và của cây cầu bị phá vỡ mà người ta không thể sửa chữa hoặc dùng được nữa, vì nó đứng chơ vơ lộ liễu trước hoả lực của địch.
Tôi xuống theo con đường hẹp đến tận mé sông. Tôi để xe ở trạm cứu thương dưới chân đồi. Tôi đi qua chiếc cầu nổi được núi che khuất rồi đi xuyên qua đường hầm ở dưới thành phố bị tiêu huỷ, rồi lại lượn quanh theo sườn đồi. Mọi người đều ở trong hầm. Các giàn hoả tiễn dựng đứng để khi cần thì có thể bắn đi, gọi pháo binh tiếp viện hoặc là để ra hiệu lệnh nếu một khi đường dây điện thoại bị cắt đứt. Tất cả chỉ có yên tĩnh, nóng và bụi bặm. Tôi nhìn sang biên giới Áo qua đường dây điện thoại chẳng thấy ma nào cả. Tôi dùng rượu với một viên đại úy tôi quen trong hầm rồi băng qua cầu đi trở về.
Một con đường mới rộng sắp được hoàn thành. Con đường ấy sẽ ăn thông lên rồi uốn khúc lượn xuống phía cầu; khi con đường xong, cuộc tấn công sẽ bắt đầu. Con đường chạy xuống, băng qua khu rừng với những khúc quanh hiểm hóc. Theo kế hoạch thì mọi thứ sẽ đưa xuống con đường mới còn những xe bò, xe Hồng thập tự chở đầy bệnh nhân trở về theo con đường hẹp cũ. Trạm cứu thương ở sát bờ sông phía bên bọn Áo, dưới triền đồi và những người tải thương sẽ khiêng họ trở lại qua cầu nổi. Khi cuộc tấn công xảy ra thì mọi việc sẽ tiến hành như thế. Tôi thấy ở đoạn bằng phẳng của con đường mới có một chỗ ngoặt khoảng một kilômét sẽ bị bọn Áo bắn phá dữ dội. Như thế sẽ vô cùng hỗn độn. Tuy nhiên tôi đã tìm được một nơi có thể làm chỗ ẩn núp cho các chiếc xe tải thương sau khi đã đi qua được khu vực nguy hiểm này và có thể chờ các thương binh được chuyển qua cầu nổi. Tôi thích sẽ được lái xe trên con đường này, nhưng nó chưa được hoàn thành. Con đường trông rộng rãi, chắc chắn dốc vừa phải và những chỗ quành ngoạn mục trông rất kín đáo mà từ nơi đó ta có thể nhìn thấy địch qua những rặng cây và rừng bên sườn núi không nguy hiểm một chút nào, vì xe chúng tôi có phanh thép hơn nữa khi xuống dốc xe chẳng chở gì. Tôi lái xe cho chạy trở lên con đường hẹp.
Hai ngườCi lính gác chặn xe tôi lại. Một quả đạn trái phá vừa rơi trên con đường này và trong khi chờ đợi, ba quả nữa thi nhau rơi xuống đấy. Đó là những quả trọng pháo bảy mươi bảy ly. Chúng xẻ không khí bay đến, tiếp theo là một tiếng nổ chát chúa, sáng rực và khói phủ ngang con đường. Hai người lính vẫy hiệu cho chúng tôi đi. Đi ngang qua chỗ những quả trọng pháo rơi khi nãy, tôi cho xe tránh ổ gà. Tôi ngửi thấy mùi thuốc nổ nồng nặc, mùi đá, đất sét và mùi đá lửa mới bị vỡ. Tôi cho xe chạy trở lại Gorizia, đến biệt thự của chúng tôi, và như đã nói, tôi đến thăm nàng Barkley lúc đó còn đang bận việc.
Tôi ăn vội buổi chiều rồi quay đến toà biệt thự bệnh viện của người Anh. Bệnh viện thật to và đẹp, chung quanh trồng nhiều cây cối rất xinh. Cô Barkley đang ngồi trên chiếc ghế dài ngoài vườn với cô Ferguson. Thấy tôi, họ tỏ vẻ vui mừng; ngồi một lát cô Ferguson cáo lỗi xin phép đi. Cô bảo :
- Thôi anh chị ngồi chơi, không có tôi, anh chị dễ nói chuyện hơn.
- Helen, đừng đi mà - Barkley khẩn khoản.
- Thật ra mình cũng muốn ở lại, nhưng mình bận viết một vài bức thư.
- Chào cô - Tôi nói.
- Chào ông Henry.
- Đừng viết gì khiến kiểm duyệt phải ngạc nhiên nhé.
- Đừng lo. Tôi chỉ viết về cảnh đẹp nơi chúng ta đang ở và lòng dũng cảm của người Ý.
- Viết như thế sẽ chóng được huân chương đấy.
- Rất hay. Thôi chào Catherine.
- Lát nữa mình sẽ gặp lại nhau - Barkley đáp.
Cô Ferguson băng mình vào bóng đêm.
- Cô ấy trông dễ thương nhỉ - Tôi nói.
- Vâng, chị ấy dễ thương lắm. Chị ấy là một nữ y tá.
- Thế cô, cô không phải là y tá à?
- Ồ không, tôi là “phụ nữ tình nguyện”. Chúng tôi làm việc vất vả nhưng chẳng ai tin chúng tôi cả.
- Sao thế?
- Khi không có việc gì thì họ không tin chúng tôi, còn khi có nhiều việc thì họ mới tin chúng tôi.
- Việc ấy khác với việc của y tá như thế nào?
- Y tá giống như một bác sĩ. Nghề này phải học một thời gian lâu. Còn “phụ nữ tình nguyện” chỉ học một phần của y tá mà thôi.
- À ra thế!
- Người Ý không muốn có phụ nữ ở gần mặt trận. Vì thế chúng tôi sống theo một chế độ đặc biệt. Chúng tôi không ra ngoài bao giờ. Không được ra ngoài.
- Tuy vậy tôi vẫn có thể đến đây chứ?
- Ờ dĩ nhiên, chúng tôi đâu phải là những kẻ bị giam trong nhà tu kín đâu.
- Thôi, chúng ta hãy dẹp chuyện chiến tranh qua một bên đi.
- Khó lắm, biết dẹp nó ở đâu bây giờ?
- Nhưng dù sao chúng ta cũng nên dẹp nó qua một bên là hơn.
- Đồng ý.
Chúng tôi nhìn nhau trong bóng đêm. Tôi thấy nàng rất đẹp, tôi cầm lấy tay nàng. Nàng để yên cho tôi nắm. Tôi nắm lấy bàn tay nàng và choàng tay qua người nàng.
- Đừng - Nàng bảo. Nhưng tôi vẫn để yên tay ở chỗ cũ.
- Sao lại đừng?
- Không có gì cả.
- Nào, cô cho phép tôi nhé - Tôi nghiêng mình tới trước để hôn nàng trong bóng đêm, tức thì nhận được cái tát nảy lửa. Nàng đã tát thẳng vào mặt tôi. Nàng đánh vào mũi, vào mắt tôi và phản ứng tự nhiên là nước mắt chảy ra.
- Tôi rất lấy làm tiếc - Nàng nói - Tôi cảm thấy như thế có lợi cho tôi hơn...
- Cô hành động như thế rất phải.
- Tôi rất buồn khi làm như vậy. Thực ra tôi không thể chịu nổi cái cảnh giải trí buổi tối như thế đôi với một nữ y tá. Tôi không cố ý tát ông, tôi làm ông đau phải không?
Nàng nhìn tôi trong bóng tối. Tôi tức giận, tuy nhiên tôi bình tĩnh vì tôi đoán trước những gì vừa xảy ra dễ như đoán nước cờ.
- Không, cô làm như thế là phải lắm. Tôi rất mến cô.
- Tội nghiệp.
- Như cô biết, từ trước đến giờ tôi sống một cuộc đời kỳ cục, và lại không nói tiếng Anh với ai cả. Rồi vì thấy cô quá đẹp. Tôi đã bảo là tôi rất lấy làm tiếc vì hành động vừa qua. Chúng ta rất hợp nhau.
- Vâng - Nàng đáp - Và chúng ta đã dẹp chiến tranh sang một bên rồi đấy.
Nàng cười to lên. Lần đầu tiên tôi nghe nàng cười to. Tôi ngắm khuôn mặt nàng.
- Ông thật dễ mến.
- Ờ, không đâu.
- Thật mà. Trông anh thật đáng yêu. Nếu không mắc mớ gì em rất sung sướng được hôn anh.
Tôi nhìn thẳng vào mắt nàng và choàng tay qua người nàng như khi nãy rồi hôn nàng. Tôi hôn nàng đắm đuối, xiết chặt người nàng và cố mở đôi môi nàng ra. Tôi vẫn còn giận và khi tôi ôm nàng trong tay, nàng bỗng rùng mình. Tôi xiết chặt người nàng vào lòng và nghe tiếng tim đập nhanh. Đôi môi nàng hé mở, đầu nàng ngả lên tay tôi rồi bỗng nhiên nàng nức nở khóc bên vai tôi.
- Anh yêu quý, hãy hứa với em là anh sẽ tử tế với em, anh nhé.
Thật kỳ quặc! Tôi thầm nghĩ. Tôi khẽ vuốt tóc nàng và vỗ nhẹ lên vai nàng, an ủi. Nàng vẫn còn khóc.
- Hứa với em anh nhé - Nàng ngước mắt nhìn tôi - Vì chúng ta sắp bước vào một cuộc sống kỳ lạ.
Một lát sau tôi tiễn nàng về đến tận cổng biệt thự, nàng trở vào còn tôi thì về nhà. Khi về đến nhà, tôi lên gác vào phòng. Rinaldi đang nằm dài trên giường. Cậu ta nhìn tôi.
- Chuyện cô Barkley và anh tiến đến đâu rồi?
- Chúng tôi là bạn với nhau cơ mà.
- Trông cậu như một con chó trong cơn động cỡn.
Tôi không hiểu bèn hỏi lại :
- Cái gì?
Cậu ta giải thích cho tôi rõ :
- Cậu đang có cái vẻ thích thú của một con chó khi...
- Thôi, nếu không tí nữa cậu sẽ làm tớ mất lòng - Cậu ta cười to lên.
- Chào anh, tôi đi ngủ đây.
- Thôi, chào em bé.
Tôi lấy chiếc gối lật đổ ngọn nến và ngủ trong bóng tối. Rinaldi lượm cây nến thắp lên và tiếp tục đọc sách.
Chương 6
Tôi phải ở lại trạm cấp cứu hai ngày. Khi trở về thì trời đã khuya; mãi cho đến buổi chiều tối hôm sau tôi mới gặp lại nàng. Nàng không có trong vườn, và tôi phải đợi ở văn phòng. Phòng có nhiều pho tượng bán thân bằng cẩm thạch, đặt trên những trụ gỗ dọc bờ tường. Gian phòng lớn giáp với phòng giấy cũng đặt nhiều tượng như thế. Các pho tượng làm toàn bằng một thứ cẩm thạch tốt, tất cả đều trông giống nhau. Tuy không thích điêu khắc nhưng tượng bằng đồng trông còn có vẻ giống một cái gì, chứ toàn bằng đá thì trông giống như một nghĩa trang. Tuy nhiên, cũng có một nghĩa trang đẹp như nghĩa trang ở Pisa. Còn Gennoa là một nơi chỉ thấy toàn những pho tượng xấu. Tòa biệt thự này trước kia là một người giàu có người Đức và chắc là những pho tượng này rất đắt tiền. Tôi tự hỏi không biết ai đã đúc những pho tượng này và giá là bao nhiêu. Tôi cố tìm hiểu xem những pho tượng này là tượng của những người trong gia đình hay của ai. Nhưng tất cả các pho tượng đều tương tự như nhau một cách cổ điển nên tôi chịu.
Tôi ngồi xuống ghế, mũ kêpi cầm trên tay. Chúng tôi được lệnh phải đội mũ sắt ngay cả ở Gorizia, nhưng mũ ấy bất tiện và trông kịch cỡm không tự nhiên, trong một thành phố mà thường dân chưa đi tản cư. Tôi đội chiếc mũ đó khi ở mặt trận và mang theo cả chiếc mặt nạ phòng hơi ngạt của Anh. Chúng tôi vừa mới nhận được vài cái thôi. Đó là những chiếc mặt nạ thực. Chúng tôi còn được lệnh mang theo súng lục tự động ngay cả bác sĩ và nhân viên quân y. Tôi thấy súng chạm vào lưng ghế. Nếu không mang súng có thể bị bắt. Rinaldi mang một bao súng bên trong nhét toàn giấy vệ sinh, còn tôi thì mang một khẩu súng thật. Tôi thấy mình là một tay thiện xạ cho tới ngày sử dụng thật. Tôi mang khẩu Astra 7.65. Nòng súng rất ngắn và khi bóp cò, nó giật mạnh đến nỗi không ai nghĩ rằng nó sẽ bắn trúng đích. Tôi tập bắn với khẩu súng đó, nhắm dưới cái bia ghì súng thật chặt, đến mức cách hia mươi bước tôi tôi có thể bắn trúng như cách một mét. Lúc đầu khi mang súng tôi cảm thấy có vẻ lố bịch, nhưng rồi sau đó tôi quen đi và đeo tự nhiên bên hông trừ khi nào gặp một người nói tiếng Anh tôi mới cảm thấy hơi thèn thẹn mà thôi. Và giờ đây biết tôi đang ngồi trên ghế, người thư ký đứng sau bàn viết nhìn tôi khó chịu, trong lúc tôi nhìn sàn nhà bằng đá, những cây cột với các pho tượng bán thân và những bức hoạ trên tường để chờ Barkley. Các bức họa trên tường trông rất khá, nhưng chúng chỉ đẹp khi bắt đầu ngả sang tranh cổ.
Thấy Barkley đi ngoài hành lang tôi liền đứng lên. Tôi không còn thấy nàng cao nữa, khi nàng tiến về tôi, trông nàng lúc bấy giờ đáng yêu vô cùng.
- Chào anh Henry.
- Chào cô, cô vẫn mạnh chứ? - Tôi đáp.
Người thư ký đứng sau bàn lắng tai nghe.
- Cô muốn chúng ta ngồi đây hay đi ra vườn nói chuyện?
- Ta đi ra ngoài đi. Ở ngoài ấy mát hơn.
Tôi bước theo nàng ra vườn. Người thư ký nhìn theo chúng tôi. Vừa đi trên đường trải cát nàng vừa hỏi :
- Mấy bữa nay anh đi đâu?
- Anh bận đi xem xét mấy trạm cấp cứu.
- Anh không thể gởi cho em vài chữ sao?
- Không được, vì không tiện, vả lại anh nghĩ là sẽ trở về mà.
- Anh yêu, anh cần phải tin cho em biết chứ.
Chúng tôi rời con đường trải cát và đi dưới tàn cây. Tôi nắm lấy hai bàn tay nàng rồi ngừng lại hôn nàng.
- Không có chỗ nào để chúng ta có thể đi chơi được sao?
- Không anh ạ, chúng ta chỉ có thể đi bách bộ ở đây thôi. Anh vắng mặt lâu quá.
- Hôm nay là ngày thứ ba. Nhưng anh đã trở về rồi kia mà.
Nàng nhìn tôi.
- Anh yêu em thật chứ?
- Yêu.
- Anh đã nói là anh yêu em phải không?
- Phải (tôi nói dối). Anh yêu em - Thật ra, tôi chưa hề nói như thế với nàng.
- Và anh gọi em là Catherine chứ?
- Em Catherine - Chúng tôi tiếp tục đi một đoạn rồi dừng lại dưới tàn cây.
- Anh nói đi. Anh đã trở về thăm Catherine chiều nay.
- Anh đã trở về thăm Catherine chiều nay!
- Ô, anh yêu, có thật là anh đã trở về với em phải không?
- Phải.
- Em yêu anh như thế đó. Ba ngày đó thật là ghê gớm quá. Anh sẽ không đi nữa chứ?
- Không, anh sẽ trở lại luôn.
- Anh, em yêu anh quá. Anh hãy đặt tay lên đây đi anh.
- Anh vẫn để yên ở đó đấy chứ?
Tôi xoay người nàng lại để có thể thấy mặt nàng lúc hôn và mắt nàng mở to. Tôi hôn lên đôi mắt nhắm lại của nàng. Nàng có vẻ hơi dài dại.
Tôi chẳng hề quan tâm đến con đường phiêu lưu tình ái tôi đang lao vào. Tôi biết là tôi không yêu Catherine mà cũng chẳng có mảy may ý định nào yêu nàng. Tôi chỉ xem đó như một trò đùa, giống như trò chơi bài tây mà thay vì dùng con bài tây, thì ở đây mình dùng lời nói. Giống như trò chơi bài tây, bạn phải làm như bạn đang đánh ăn tiền hoặc lấy một giải thưởng nào đó. Còn trong trò chơi ái tình này, chẳng ai đả động xem giải thưởng sẽ là gì. Điều này rất hợp với tôi.
- Anh ao ước có nơi nào đó để mình có thể đi chơi - Tôi cảm thấy nỗi khó chịu của người đàn ông khi phải đứng âu yếm tình nhân của mình quá lâu.
- Không có nơi nào cả anh ạ - Nàng đáp và như sực tỉnh cơn mơ.
- Ta ngồi xuống đây một lát đi.
Chúng tôi ngồi xuống chiếc ghế đá dài. Và tôi cầm lấy tay Catherine. Nàng không để cho tôi choàng qua người nàng nữa.
- Anh có mệt lắm không? - Nàng hỏi tôi.
- Không.
Nàng nhìn xuống đám cỏ.
- Trò chơi của mình xấu quá phải không anh?
- Trò chơi nào đâu?
- Đừng giả vờ nữa anh ạ.
- Không, anh không vờ đâu.
- Anh là một chàng trai tốt và anh cố đùa cũng tài. Nhưng đùa như thế sẽ có hại.
- Thế lúc nào em cũng đoán biết được ý nghĩ của kẻ khác hết sao?
- Không phải là lúc nào cũng thế, nhưng anh nghĩ gì em biết hết. Anh đừng có giả vờ tỏ vẻ yêu thương em. Chiều nay câu chuyện đến đây kể như đã kết thúc. Anh còn gì để nói nữa không?
- Nhưng anh yêu em thật mà.
- Thôi, em xin anh. Việc gì mà phải nói dối khi không cần thiết. Anh đã diễn thật hay màn hài kịch nhỏ vừa rồi và tất cả đều tốt đẹp. Anh thấy đó, em đâu có điên dại. Chỉ thỉnh thoảng hơi hơi thôi.
Tôi xiết chặt tay nàng.
- Catherine yêu quý của anh!
- Catherine! Tiếng ấy giờ đây nghe buồn cười quá nhỉ. Anh không gọi giống ban nãy. Nhưng dù sao anh cũng rất dễ thương và rất tốt bụng.
- Đúng, cha tuyên úy cũng nói anh như thế.
- Anh tốt lắm. Anh sẽ đến thăm em nữa chứ?
- Dĩ nhiên.
- Và anh khỏi phải nói là anh yêu em. Chuyện đó kể như đã xong.
Nàng đứng lên và đưa tay cho tôi nắm.
- Chào anh.
Tôi muốn hôn nàng.
- Không, em mệt lắm.
- Hôn anh đi mà - Tôi bảo.
- Em mệt lắm, anh yêu.
- Hãy hôn anh đi.
- Anh muốn lắm hả?
- Ừ.
Chúng tôi hôn nhau. Bỗng nhiên nàng đẩy tôi ra và nói :
- Tbôi chào anh, anh yêu, xin anh hãy vui lòng.
Chúng tôi đi ra cửa. Nàng đi vào và tôi đứng nhìn nàng xa dần trong hành lang. Tôi ra về. Đêm nay trời nóng bức và trên núi chiến sự có vẻ sôi động. Tôi ngắm những làn chớp ở trên núi San Gabrielle.
Tôi dừng bước trước Villa Rossa. Các cửa kính đều đóng kín nhưng bên trong vẫn còn thức. Có ai đang hát. Tôi tiếp tục đi về nhà. Khi tôi đang thay quần áo thì Rinaldi bước vào.
- A ha! - Hắn bảo - Công việc chắc hơi trục trặc hả? Em bé có vẻ bối rối.
- Cậu ở đâu về?
- Ở Villa Rossa. Thích lắm bé ơi. Tất cả chúng tôi đều ca hát. Còn cậu khi nãy ở đâu?
- Đi thăm mấy cô ả.
- Nhờ trời tớ chẳng để mấy cô ả ấy nắm cổ đâu.
Chương 7
Chiều hôm sau, từ một tiền đồn trên núi trở về, tôi đậu xe ở một trạm cấp cứu địa phương, mà các thương binh và bệnh nhân được xếp đặt theo những tâm thẻ ghi tên các bệnh viện khác nhau. Khi nãy tôi đã lái xe và bây giờ tôi ngồi trong xe để người lái xe mang giấy tờ bệnh nhân vào. Trời nóng và bầu trời sáng chói một màu xanh, con đường trắng xóa đầy bụi. Tôi ngồi ở chỗ tay lái trong chiếc Fiat, đầu óc nghĩ ngợi mông tung. Tôi ngắm nhìn một đoàn quân đi ngang qua đường. Những người lính nóng nực, mồ hôi nhễ nhại. Có vài người đội mũ sắt nhưng đa số treo mũ lủng lẳng ở ba lô. Hầu hết những chiếc mũ quá to và chụp xuống tận mang tai của những người đội. Tất cả các sĩ quan đều đội mũ sắt và trông có vẻ vừa vặn hơn. Đó chính là nửa quân số của lữ đoàn Basilicata. Tôi nhận ra họ nhờ huy hiệu ở cổ áo có sọc đỏ và trắng. Nhiều người đi lộn xộn, lết bết ở sau đoàn quân. Đó là những người không đi theo kịp tiểu đội của mình. Người họ ướt đẫm mồ hôi, bụi bặm và trông mệt nhọc. Một số người trông rất thảm hại. Một anh lính đi sau đám người đó. Anh ta đi tập tễnh rồi ngừng lại, ngồi bệt xuống bên vệ đường. Tôi xuống xe và hỏi :
- Sao đó?
Hắn nhìn tôi và đứng thẳng dậy.
- Tôi tiếp tục đi đây.
- Anh có sao không?
- ....chiến tranh.
- Chân anh bị đau sao đó?
- Tôi không bị đau chân, tôi bị sa ruột.
- Thế tại sao anh không để xe cứu thương chở anh đi? Sao anh không vào bệnh viện?
- Họ không cho. Trung úy bảo tôi giả vờ, vì tôi đã tháo đai đỡ ra.
- Để tôi khám xem.
- Nó đã sa hoàn toàn rồi.
- Ở phía nào?
- Đây.
Tôi nắn xem và nói :
- Anh ho đi...
- Tôi sợ làm thế nó sẽ sa nhiều hơn. Bây giờ nó đã sưng to gấp đôi so với lúc sáng.
- Anh ngồi xuống đi. Khi nào lấy xong các giấy tờ cho thương binh, tôi sẽ chở anh đi và chuyển cho các thầy thuốc của anh.
- Họ sẽ bảo là tôi cố ý làm như thế.
- Họ không thể giúp gì cho anh cả vì đó không phải là một vết thương. Anh đã bị sa ruột như thế này trước chiến tranh phải không?
- Nhưng tôi đã làm mất đai đỡ rồi.
- Họ sẽ chuyển anh vào một bệnh viện.
- Tôi không thể ở đây được sao, thưa Trung uý?
- Không, tôi không có giấy tờ của anh.
Người lái xe ra với giấy tờ các thương binh trên xe của tôi.
- Bốn người đến bệnh viện 105. Hai người bệnh viện 132. Các bệnh viện ấy ở bên kia sông.
- Anh lái nhé.
Tôi dìu anh lính lên chỗ chúng tôi ngồi.
- Trung úy nói được tiếng Anh chứ? - Anh ta hỏi.
- Dĩ nhiên.
- Trung úy thấy cuộc chiến tranh chó chết này ra sao?
- Một vận đen.
- Chà, tôi tin như anh. Đó là một vận đen. Lạy Chúa! Đúng là một vận đen.
- Anh đã ở Hoa Kỳ phải không?
- Phải, tôi đã ở Pittsburg, tôi biết Trung úy là người Mỹ.
- Phải chăng tôi đã nói tiếng Ý không được khá lắm?
- Tôi đã biết rõ trước Trung úy là người Mỹ.
- Lại thêm một người Mỹ nữa - Anh lái xe nói bằng tiếng Ý và nhìn anh lính bị sa ruột.
- Thưa Trung uý, có phải trung úy cho tôi về lại trung đoàn của tôi không ạ?
- Phải.
- Vị đại úy quân y biết tôi đau ruột. Tôi đã bỏ đai đỡ để bị sưng to hơn. Tôi cho là như thế người ta sẽ không bắt tôi ra trận.
- Tôi hiểu rồi.
- Trung úy có thể đưa tôi đi nơi khác được không?
- Nếu ở gần mặt trận hơn, tôi có thể đưa anh đến một trạm cấp cứu. Nhưng ở đây, ở hậu phương, thì phải có giấy tờ mới vào bệnh viện được.
- Nếu tôi trở lại, họ sẽ bắt tôi phải mổ, rồi sẽ đẩy tôi ra tiền duyên vĩnh viễn.
- Chuyện này làm tôi nghĩ ngợi.
- Chắc trung úy không thích ra tiền duyên vĩnh viễn chứ? - Anh ta hỏi.
- Không.
- Chúa ơi! Thật là một cuộc chiến tranh khốn nạn.
- Nghe này, bây giờ anh nhoài người ngã xuống đường và làm bị thương ở đầu. Khi nào quay trở về, tôi sẽ lượm anh và chở anh vào bệnh viện. Chúng ta dừng lại ở cạnh đường này đi, Aldo.
Chúng tôi dừng lại và tôi đỡ anh ta bước xuống xe.
- Trung úy đón tôi ở đây nhé. Ở đây được rồi Trung úy ạ.
- Lát nữa - Tôi đáp.
Chúng tôi tiếp tục đi và độ một kilômét thì vượt khỏi trung đoàn rồi băng qua sông phủ mờ hơi tuyết, chạy mau qua các thành câu, chạy dài theo đường, băng qua đồng bằng để tiếp đó sau khi băng qua sông nước đục ngầu vì tuyết tan, chảy xiết giữa các trụ cầu, chúng tôi theo đường qua cánh đồng tải thương binh vào hai bệnh viện. Tôi lái xe trở về và cho xe không chạy mau để tìm người lính ở Pittsburg khi nãy. Thoạt tiên chúng tôi gặp trung đoàn, chưa bao giờ thấy họ đẫm mồ hôi và chậm chạp như thế. Tiếp theo là những người đi không hàng ngũ. Rồi chúng tôi thấy một chiếc xe cứu thương do ngựa kéo dừng ở bên đường. Hai người đang đỡ tên lính bị đau ruột lên xe. Họ đã trở lại tìm anh. Anh lắc đầu nhìn về phía tôi. Chiếc mũ của anh đã rớt và trán anh rịn máu ở dưới chân tóc. Mũi anh trầy da, bụi bặm đất cát đầy trên tóc và trên vết thương đẫm máu.
- Trung úy xem cục u này - Hắn kêu lên - Không ăn thua gì cả, họ đã trở lại tìm tôi.
Khi tôi trở về biệt thự thì đã năm giờ. Tôi ra chỗ rửa xe để tắm cho mát. Xong tôi vào phòng lập bản tường trình. Tôi ngồi viết trước cửa sổ mở rộng, mặc chiếc quần đùi và chiếc áo lót. Trong vòng hai ngày nữa cuộc tấn công sẽ bắt đầu và tôi phải đi cùng với những chiếc xe đến Plava. Từ lâu rồi tôi không viết thư về Mỹ và tôi biết là trước sau gì tôi cũng phải viết nhưng vì bỏ lâu quá không viết cho nên bây giờ hầu như khó có thể viết được nữa. Hơn nữa không có chuyện gì đáng viết cả. Tôi gởi hai tấm bưu thiếp này có tác dụng lớn rất lạ lùng và huyền bí. Vùng này cũng lạ lùng và bí hiểm. Nhưng tôi cho là nó được chỉ huy khá tốt và nguy hiểm hơn so với những trận đánh bọn Áo trước đây. Quân đội Áo được thành lập để tạo những chiến thắng chống Napoléon, bất kỳ một Napoléon nào. Tôi ao ước có được một Napoléon nhưng thay vào đó chúng tôi có tướng Cardona béo mập, và Vitterio Emmanuele, người nhỏ, cổ dài với bộ râu dê. Bên kia, ở cánh phải, thì có bá tước Aosta. Có lẽ ông ta quá trẻ để làm một đại tướng cừ khôi, nhưng dù sao ông cũng có dáng dấp một người đàn ông. Biết bao người thích ông làm vua mà không được. Ông có vẻ như một hoàng đế. Ông là chú của vua và chỉ huy đoàn quân thứ ba. Còn chúng tôi ở đoàn quân thứ hai. Trong đoàn quân thứ ba có vài khẩu trọng pháo Anh. Lúc ở Milan tôi đã được gặp hai tay súng trong đoàn quân thứ ba. Họ rất dễ thương và chúng tôi đã cùng nhau chung sống một buổi tối đầy thú vị. Họ cao lớn, e thẹn bối rối và biết nhận định thời cuộc. Tôi ao ước được sống trong đoàn quân của họ. Nếu được như thế thì chuyện đã giản dị đi nhiều, và có thể là tôi đã bị giết rồi cũng nên. Không phải vì việc tải thương này, dù rằng ngay cả nghề tải thương cũng nguy hiểm. Đôi khi những người lái xe cứu thương Anh cũng bị giết. Nhưng tôi yên chí mình sẽ không bị chết trong cuộc chiến tranh này, vì cuộc chiến tranh này đối với tôi không có nghĩa lý gì cả. Với tôi nó không nguy hiểm gì hơn trên màn ảnh. Tuy thế tôi vẫn cầu mong Thượng Đế cho nó sớm chấm dứt. Cũng có thể là nó sẽ chấm dứt trong mùa hè này. Cũng có thể là bọn Áo thua trận. Bọn chúng đã từng thua nhiều trận trước. Cuộc chiến tranh này có nghĩa lý gì? Ai cũng bảo là dân Pháp đang ở trong tình trạng kiệt quệ. Rinaldi bảo là dân Pháp đang nổi loạn và nhiều đoàn quân đang diễu hành ở Paris. Tôi hỏi hắn đã xảy ra những gì thì hắn trả lời “Ồ người ta thí đoàn quân ngăn chặn dân chúng lai.” Thời bình tôi muốn đi thắm nước Áo. Tôi muốn đến vùng Rừng Đen. Tôi muốn đến dãy núi Hartz. Tuy nhiên núi Hartz ở đâu tôi không biết. Người ta đang đánh nhau ở núi Carpathes. Tôi không muốn đến đó một tí nào. Dù sao như thế cũng không khó chịu lắm. Tôi có thể đi Tây Ban Nha nếu không có chiến tranh. Vào giờ này mặt trời đang từ từ lặn và không khí mát mẻ. Sau bữa ăn tối tôi sẽ đến thăm Catherine Barkley. Ước gì bây giờ nàng có ở đây với tôi. Ước gì tôi ở Milan cùng nàng. Tôi rất thích ngồi ăn ở Cova rồi xuống Via Manizoni vào buổi tối nóng nôi, đi qua con kênh rồi quay trở về khách sạn với Catherine Barkley. Có thể nàng sẽ nhận lời. Có thể nàng xem tôi như người tình cũ của nàng đã mất. Chúng tôi sẽ đi vào cửa chính. Người bồi khách sạn sẽ giở mũ chào, tôi sẽ dừng lại ở bàn giấy để hỏi chìa khóa và nàng đứng chờ tôi bên thang máy để hai chúng tôi cùng bước vào và chiếc thang máy sẽ từ từ và kêu lách cách khi đến mỗi tầng. Người bồi sẽ mở cửa đứng chờ ngoài đó, và nàng sẽ nhẹ nhàng bước ra theo sau là tôi. Chúng tôi sẽ đi dọc theo hành lang. Tôi sẽ cho chìa khóa vào ổ khóa và mở cửa ra, đi vào gọi dây nói bảo họ mang đến một chai rượu Capri Bianca để trong một cái xô bạc đựng đầy nước đá. Bạn có thể nghe tiếng đá va chạm vào chiếc xô dài theo hành lang. Người bồi đến gõ cửa và tôi sẽ bảo cứ để ngoài ấy vì chúng tôi không mặc quần áo ngoài bởi trời quá nóng. Cửa sổ mở rộng, những con chim én bay lượn lượn trên mái nhà. Sau đó khi đêm xuống, đi ra cửa sổ, chúng tôi sẽ nhìn thấy những con dơi nhỏ xíu đang săn mồi trên mái nhà san sát các ngọn cây. Xong chúng tôi sẽ uống rượu Capri trong phòng cửa khóa lại, vì chỉ mặc một lượt áo mỏng suốt đêm do trời nóng. Và cả hai chúng tôi sẽ yêu nhau đắm đuối suốt đêm nồng nực tại Milan. Những việc đó sẽ phải xảy ra như thế. Tôi ăn vội vàng để đến thăm Catherine Barkley ngay.
Trong bữa ăn họ nói quá nhiều. Tôi uống rượu vì nếu tối nay không uống với họ một tí, họ sẽ không còn coi thân mật như anh em nữa. Tôi nói chuyện với cha tuyên úy về đức giám mục Ireland, một người cao cả mà tôi đã cố làm ngơ trước những lời đàm tiêu về ông. Rất có thể là vô lễ khi mình chẳng hề biết gì về những bất công mà người ta đã giải thích tỉ mỉ nguyên nhân cho mình nghe những nguyên nhân mà cuối cùng mình thấy có vẻ sai lầm. Ông có một cái tên hay, tên đọc lên nghe như đảo Ireland. Nhưng không, không phải chỉ có thế thôi. Có nhiều chuyện hay hơn thế nữa. Họ rót thêm rượu cho tôi. Uống được mấy ly, tôi không còn muốn uống thêm nữa và nhớ ra là sắp sửa phải đi.
Rồi tôi nói :
- Thôi tôi phải đi đây.
- Đúng đấy. Cậu ấy phải đi vì có hẹn. Tôi biết cả - Rinaldi bảo.
- Tôi phải đi đây.
Trên bàn, những ngọn bạch lạp thắp sáng choang. Tất cả các sĩ quan đều có vẻ hân hoan. Tôi bảo :
- Thôi chào các ông.
Rinaldi đi ra ngoài với tôi. Chúng tôi đứng trên thảm cỏ và cậu ta nói :
- Anh không nên đến đó với bộ mặt say sưa như vậy.
- Tôi không say đâu, Rinaldi. Thật mà.
- Cậu nên nhai một vài hột cà phê.
- Lạ nhỉ?
- Anh sẽ lấy cho “em bé” vài hột nhé? Hãy dạo quanh đây chờ anh.
Cậu ta trở lại, tay đầy hột cà phê rang.
- Nhai đi nhé em bé, cầu xin Chúa ban phước lành cho em.
- Thánh Bacchus chứ - Tôi bảo.
- Để anh đi xuống phố với em.
- Tôi có sao đâu?
Chúng tôi đi qua thành phố. Tôi vừa đi vừa nhai hột cà phê. Tới cổng có đường chạy dài đến biệt thự bệnh viện Anh, Rinaldi từ giã tôi.
- Chào anh - Tôi đáp - Sao anh không vào?
Cậu ta lắc đầu trả lời.
- Không, tôi thích những thú vui giản dị hơn.
- Cám ơn anh đã cho tôi hột cà phê.
- Có gì đâu, em bé. Chả có gì cả.
Tôi bước theo lối đi. Hai bên đường những cây trắc bá vươn cao thẳng tắp và thanh thoát. Ngó lại phía sau, Rinaldi đứng nhìn theo, tôi bèn vẫy tay chào cậu ta.
Tôi ngồi ở phòng tiếp khách trong biệt thự để chờ Catherine Barkley. Có tiếng chân ai đi trong hành lang. Tôi vội đứng lên, nhưng không phải, không phải Catherine Barkley mà là cô Ferguson.
- A, anh mạnh giỏi? Catherine nhờ tôi xuống nói với anh rằng nàng rất lấy làm tiếc không tiếp đón anh tối nay được.
- Thật không may, tôi mong rằng nàng không bị ốm chứ?
- Nàng không được khoẻ.
- Xin cô vui lòng nói lại là tôi rất lấy làm buồn.
- Vâng, tôi sẽ nói lại.
- Theo cô, tôi có nên tìm gặp nàng ngày mai không?
- Nên lắm chứ.
- Cám ơn cô nhiều lắm, chào cô.
Tôi đi ra cửa, lòng bỗng nhiên cảm thấy trống rỗng cô đơn. Tôi đã xem quá nhẹ việc đến thăm nàng. Tôi cũng có hơi say khi nãy và quên bẵng việc đến thăm, nhưng giờ đây khi không gặp được nàng, lòng tôi sao thấy cô đơn trơ trọi.
Chương 8
Chiều hôm đó chúng tôi được tin sẽ có một cuộc tấn công ở thượng nguồn con sông, và chúng tôi phải đem bốn chiếc xe đến. Không ai biết gì về cuộc tấn công đó mặc dù ai nấy đều nói một cách chắc chắn với vẻ hiểu biết sâu rộng về chiến thuật. Tôi ngồi trong chiếc xe thứ nhất và khi chạy qua bệnh viện Anh, tôi bảo lái xe dừng lại. Mấy chiếc kia đỗ sau chúng tôi. Tôi xuống xe và bảo những người lái xe cứ tiếp tục chạy và đợi ở ngã tư Cormons nếu chúng tôi không theo kịp. Tôi theo lối vào, đến phòng khách và hỏi thăm cô Barkley.
- Cô ấy bận việc.
- Liệu tôi có thể gặp cô ấy trong một phút được không?
Họ cho người giúp việc đi báo và nàng tới.
- Anh đến hỏi thăm xem em đã mạnh chưa. Họ đã cho anh hay là em đang bận, thế là... anh xin phép được gặp mặt em.
- Em mạnh hẳn rồi - Nàng đáp - Có lẽ hôm qua trời nóng quá cho nên em khó chịu mà thôi.
- Anh phải đi ngay.
- Em sẽ tiễn anh ra đến cửa.
Khi ra tới ngoài, tôi hỏi :
- Em thật mạnh rồi chứ?
- Vâng, anh yêu. Tối nay anh có đến không?
- Không được, anh phải đi ngay vì phải có mặt ngắn ngày ở Plaza.
- Có mặt ngắn ngày à?
- Anh nghĩ không nghiêm trọng gì.
- Bao giờ anh về?
- Ngày mai.
Nàng đưa tay tháo vật gì ở cổ ra rồi đưa tôi.
- Đây là tượng ảnh thánh Anthony - Nàng bảo - Anh hãy giữ lấy và đêm mai đến thăm em.
- Em không phải tín đồ Thiên Chúa giáo chứ?
- Không, nhưng họ nói tượng ảnh thánh Anthony sẽ mang lại sự bình yên.
- Anh sẽ vì em mà giữ vật đó. Giã từ em.
- Không - Nàng bảo - Đừng nói tiếng giã từ.
- Được.
- Hãy cẩn thận và ngoan anh nhé. Không, anh không thể hôn em ở đây được đâu. Không, đừng anh.
- Thế cũng được.
Tôi nhìn lại và thấy nàng đứng trên bục cửa. Nàng giơ tay vẫy. Tôi hôn tay rồi đưa về phía nàng. Nàng lại vẫy tay, tôi đi xa dần. Tượng thánh Anthony đựng trong một cái hộp bằng kim khí. Tôi mở nắp hộp, trút tượng thánh ra tay.
Người lái xe hỏi :
- Thánh Anthony phải không?
- Vâng.
- Tôi cũng có.
Tay phải anh rời tay lái cởi khuy áo choàng và kéo tượng thánh Anthony ra dưới lớp áo sơ mi.
- Thấy không?
Tôi bỏ tượng thánh Anthony của tôi vào hộp, cả sợi dây chuyền vàng mỏng, rồi nhét vào túi áo ngực.
- Ông không đeo vào người sao?
- Không.
- Tốt hơn hết nên đeo vào người vì tượng Anthony cốt là để đeo.
- Được rồi, đeo thì đeo.
Tôi vừa nói vừa mở móc sợi dây chuyền vàng ra đeo vào cổ rồi cài móc lại. Hình tượng ảnh nằm bên ngoài bộ binh phục của tôi. Tôi mở cổ áo choàng ra, mở khuy áo sơ mi ra cho tượng ảnh vào trong đó. Tôi cảm thấy tượng ảnh nằm trong chiếc bao nhỏ chạm vào ngực tôi lúc xe chạy. Rồi tôi không nghĩ đến nó nữa. Sau này lúc bị thương, tôi không tìm thấy tượng thánh ấy đâu nữa. Có lẽ ai đó đã nhặt tượng thánh Anthony ở một trạm cứu thương nào rồi.
Chúng tôi cho xe chạy nhanh hết sức khi vượt cầu và một lát sau chúng tôi thấy đám bụi của mấy xe trước ở trên đường, đầu dốc. Con đường quanh co thành thử trông ba chiếc xe rất nhỏ. Bụi từ bánh xe tung lên và quấn quyện giữa những tàn lá. Chúng tôi đuổi kịp xe trước vượt qua mặt rồi quẹo sang đường đi lên đồi. Đi xe từng đoàn như vầy không phải là một điều khó chịu nếu ngồi ở xe đầu. Tôi dựa lưng đưa mắt ngắm nhìn khắp vùng. Chúng tôi đang ở dưới chân đồi gần sát bờ sông. Càng lên đến trên những dãy núi cao, đỉnh hãy còn đóng tuyết, hiện ra ở phía Bắc. Nhìn ra sau, tôi thấy ba chiếc xe kia đang leo núi, chiếc sau cách chiếc trước bởi lớp bụi mờ. Chúng tôi gặp một đoàn lừa dài chuyên chở đồ đạc nặng trĩu, những người dắt lừa đi hàng dài bên cạnh, đầu đội mũ đỏ. Họ là những người lính gác.
Đoàn lừa đi ngang qua con đường trống trơn. Chúng tôi cho xe leo qua những ngọn đồi và sau khi vượt qua đèo, chúng tôi xuống một thung lũng. Hai bên đường đều có trồng cây. Qua hàng cây bên phải tôi nhìn thấy con sông nước trong vắt nước chảy mau và cạn. Nước sông rút xuống, người ta trông thấy lớp cát và sỏi sạn với một đường nước hẹp. Đôi khi nước dàn ra trên sỏi thành một lớp lóng lánh. Sát bờ sông có nhiều vũng nước sâu, nước trong xanh như bầu trời. Nhiều đường đất, băng qua sông theo những chiếc cầu đã cong và chúng tôi chạy qua nhiều trại ấp xây bằng đá. Xuống phía Nam, vô số cây đào trỗi lên, giáp bờ tường, như những giá đèn và xa xa có những bức tường thấp trên cánh đồng. Con đường xuôi theo thung lũng một đoạn dài rồi quặt lên đồi. Nó dựng đứng rồi quanh co qua những rừng dẻ và cuối cùng trên cao trở lại bằng phẳng. Tôi nhìn xuống qua khu rừng dẻ thấy phía dưới xa kia con sông lấp lánh nắng ngăn cách hai bên chiến trận. Chúng tôi đi theo con đường quân sự mới, gồ ghề đỉnh đồi và thấy hai rặng núi ở phía Bắc. Núi màu xanh thẫm và đỉnh núi trắng toát rực ánh mặt trời. Theo con đường chạy lên đỉnh đồi, tôi thấy một rặng núi thứ ba phủ tuyết cao hơn. Nó trắng xóa như vôi và nứt nẻ với những mặt phẳng kỳ lạ và sau dãy núi này có những rặng núi xa tít tắp trông rất huyền ảo. Những ngọn núi đó thuộc bọn Áo. Chúng tôi chẳng có ngọn nào giống như thế cả. Ở phía trước con đường đèo rẽ sang phải và nhìn xuống có thể thấy nó lao xuống qua các hàng cây. Trên con đường này người ta thấy có những đoàn quân, những chiếc xe hơi cùng những đoàn lừa và những khẩu súng. Khi xuống đèo chúng tôi luôn luôn giữ cho xe chạy sát vào một bên, tôi có thể nhìn thấy con sông xa tít, dưới kia, những hàng tà vẹt đường xe lửa chạy dài theo sông, chiếc cầu cũ kỹ của đường sắt và xa hơn, dưới chân đồi, bên kia sông là những ngôi nhà đổ nát của thành phố bé nhỏ mà chúng tôi phải chiếm giữ.
Khi chúng tôi cho xe chạy xuống và rẽ sang con đường lớn chạy dọc theo bờ sông thì trời đã gần tối.
Chương 9
Con đường này đông nghẹt và cả hai bên lề đường có nhiều đệm và tấm che làm bằng bẹ ngô. Tất cả phủ chiếu nên trông giống như cửa vào của một gánh xiếc hoặc một bản làng. Xe chạy chậm trong hầm rơm đó rồi chui ra một vùng trống trải trước đây là ga xe lửa. Con đường ở đây nằm dưới bờ sông, suốt dọc theo lề dưới này bộ binh trú trong những hố đào vào bờ dốc. Mặt trời đã lặn, ngước mắt nhìn lên giải đất tôi thấy những quả khí cầu quan sát màu đen của bọn Áo trên những ngọn đồi thuộc phía bên kia, trong ánh chiều tà. Chúng tôi đậu xe bên sân gạch. Những bếp lò và hố sâu được biến thành trạm cứu thương.Ở đó tôi có biết ba bác sĩ. Tôi nói chuyện với thiếu tá và được lệnh cho hay là khi bắt đầu tấn công thì chúng tôi sẽ cho các thương binh lên xe và chở họ về theo con đường có ngụy trang khi nãy lên đỉnh đèo theo con đường chính. Ở trên đó có một trạm và có nhiều xe khác sẽ lo chuyên chở họ. Thiếu tá hy vọng rằng con đường sẽ không bị nghẽn tắc. Đó là một cuộc hành quân theo độc đạo. Con đường được ngụy trang vì nó nằm ngay dưới hoả lực của bọn Áo, ở bên kia sông. Ở sân gạch này, dải đất bờ sông che cho chúng tôi khỏi súng trường, súng liên thanh bắn sang. Một chiếc cầu gãy nát bắc ngang qua sông. Họ sắp bắc ngang một chiếc cầu khác khi bắt đầu dội bom và có vài đội quân phải lội ngang chỗ nước cạn phía trên khúc quanh sông. Thiếu tá vóc người nhỏ, ria vểnh lên. Trước kia ông đã từng dự trận chiến ở Lybia và mang hai vết thương. Ông bảo rằng nếu công việc tiến hành tốt ông sẽ gắn huy chương cho tôi. Tôi trả lời rằng tôi mong đợi mọi việc sẽ được tốt và ông quá tử tế. Tôi cũng hỏi xem có cái hầm nào lớn để những người lái xe chúng tôi có thể nghỉ lại. Thiếu tá gọi một người lính để dẫn tôi đi theo. Tôi theo anh ta đến một hầm rất tốt. Những người lái xe tỏ ý hài lòng và tôi để họ ở lại đấy. Thiếu tá mời tôi dùng rượu với ông và hai sĩ quan khác. Chúng tôi uống rhum và chuyện trò thân mật. Bên ngoài trời đã tối. Tôi hỏi mấy giờ sẽ tấn công thì được biết lúc nào trời tối hẳn sẽ bắt đầu. Tôi trở về chỗ những người lái xe khi nãy. Họ đang ngồi nói chuyện trong hầm, và khi tôi bước vào thì họ ngừng lại. Tôi trao cho mỗi người một gói thuốc lá Macedonias, những điếu thuốc quấn không chặt tay làm thuốc rơi ra khiến trước khi hút phải vấn hai đầu lại. Anh lái xe Manera bật lửa châm điếu của anh rồi chuyền khắp cho những người chung quanh. Chiếc bật lửa có hình dạng như cái lò sưởi điện hiệu Fiat. Tôi kể lại cho họ nghe những gì tôi đã nghe được khi nãy.
Passini hỏi :
- Tại sao không thấy trạm cứu thương lúc chúng ta trở xuống?
- Trạm ở ngay phía sau chỗ rẽ.
- Con đường này rồi sẽ hư mất - Manera nói.
- Địch sẽ nã trọng pháo phá huỷ con đường đó của chúng ta.
- Có thể lắm.
- Có gì ăn không, hở Trung uý? Khi bắt đầu cuộc tấn công chúng ta chẳng được ăn đâu nhé.
- Được, để tôi đi tìm có gì ăn được không - Tôi trả lời.
- Có thể đi dạo quanh hay phải ở lại đây ạ?
- Nên ở lại đây thì hơn.
Tôi trở lại chỗ hầm thiếu tá. Ông bảo nhà bếp đang sửa soạn bữa ăn và các người lái xe có thể đến đó lãnh phần ăn của mình. Ông sẽ cho mượn ga men nếu họ không có. Tôi đáp là chắc có mang theo. Tôi trở về bảo những người lái xe là sẽ đến báo họ khi súp tới. Manera nói anh hy vọng thức ăn sẽ đến trước khi cuộc oanh tạc bắt đầu. Rồi họ im lặng cho đến khi tôi bước ra ngoài. Họ toàn là những người thợ máy và đều oán ghét chiến tranh.
Tôi bước ra ngoài và đến bên chiếc xe để xem xét mọi việc rồi trở lại ngồi trong hầm với bốn người lái xe. Chúng tôi ngồi bệt xuống đất, lưng dựa vào tường hút thuốc. Bên ngoài trời đã gần tối hẳn. Đất trong hầm ấm và khô. Tôi dựa vai vào tường choãi người ra cho thoải mái...
...Bên ngoài những ngọn đèn pha quét các vệt sáng dài trên núi. Ở mặt trận này có nhiều chiếc đèn pha to lớn gắn trên những chiếc xe ô tô. Có đêm người ta gặp chúng trên đường sát mặt trận. Chiếc xe dừng lại cách đường một chút, một viên sĩ quan rọi đèn pha vào giữa đoàn người. Chúng tôi băng qua sân gạch rồi dừng lại ở trạm cứu thương chính. Phía trên cửa ra vào có một mái hiên nho nhỏ kết bằng lá cây xanh, và trong đêm tối từng cơn gió khuya thổi xào xạc trên đám lá khô cháy nắng. Bên trong có ánh đèn. Viên thiếu tá đang ngồi trên một cái thùng gọi điện thoại. Một đại úy quân y bảo là cuộc tấn công sẽ bắt đầu sớm hơn một tiếng đồng hồ. Ông ta đưa mời tôi một ly cô nhắc. Trên những tấm ván thùng dùng làm bàn, các dụng cụ, chậu và chai đậy nút lấp lánh sáng ngời dưới ánh đèn. Gordimi đứng ngay sau tôi. Thiếu tá đứng lên bảo :
- Cuộc tấn công bắt đầu. Người ta lùi theo giờ ban định lúc đầu.
Tôi nhìn ra ngoài. Trời tối đen và những ánh đèn pha của bon Áo đang quét trên rặng núi đằng sau chúng tôi. Tất cả vẫn còn chìm đắm trong yên lặng, phút chốc những khẩu súng ở khắp nơi nhả đạn.
- Tấn công - Thiếu tá nói.
- Thưa thiếu tá, còn vụ ăn uống thì sao? - Tôi hỏi nhưng ông ta không nghe, tôi bèn lập lại một lần nữa.
- Chưa thấy mang lên.
Một quả trọng pháo bay tới và nổ ngoài sân gạch. Một quả khác nổ tiếp theo và trong tiếng nổ đó người ta nghe cả tiếng gạch ngói, đất cát đổ rào rào.
- Có gì ăn đấy?
- Còn chút ít mì - Thiếu tá nói.
- Tôi sẽ dùng những gì thiếu ta cho.
Thiếu tá ra lệnh cho một người lính. Hắn quay lưng đi ra ngoài rồi trở lại với một cái đĩa sắt đựng mì Ý nấu chín để nguội. Tôi đưa đĩa mì cho Gordini rồi bảo :
- Thiếu tá còn pho mát không?
Thiếu tá lầu bầu gì đó với người hầu cận. Hắn lại chui xuống hầm và trở ra với một mẩu pho mát trắng.
- Cám ơn thiếu tá nhiều lắm - Tôi nói.
- Tốt hơn hết là anh đừng nên đi ra ngoài.
Bên ngoài hai người vừa đặt một vật gì đó xuống cạnh cửa. Một trong hai người nhìn vào trong nhà.
- Mang người ấy vào trong này - Thiếu tá bảo - Các anh làm gì vậy? Các anh muốn chúng tôi đi ra ngoài ấy mang hắn ta vào à?
Hai người khiêng cáng xốc nách người bị thương lên rồi khiêng anh ta vào.
- Cởi áo choàng của hắn ra.
Thiếu tá dùng kẹp gắp mấy miếng vải băng. Hai viên đại úy khi nãy cởi áo choàng ra. Thiếu tá bảo hai người khiêng cáng “Các anh đi ra ngoài đi.”
Tôi bảo Gordini :
- Nào, ta đi thôi.
- Tốt hơn anh nên chờ cho đến khi ngưng bắn đã - Thiếu tá quay lại nói.
- Họ đói ạ - Tôi nói.
- Tuỳ anh vậy.
Chúng tôi ra ngoài, chạy băng qua sân gạch. Một quả trọng pháo nổ một tiếng ngắn cạnh bờ sông. Một quả nữa bất chợt bay về phía chúng tôi đến nỗi chỉ nghe thấy tiếng đạn rít thôi. Cả hai chúng tôi nằm sấp xuống vừa thấy chớp sáng, tiếng dội, mùi thuốc nổ, tiếng mảnh đạn rít và tiếng gạch vỡ lả tả và tiếng gạch bể rơi lách tách. Gordini đứng lên chạy vào hầm trú ẩn. Tôi chạy theo sau hắn tay cầm miếng phó mát bám đầy bụi gạch. Trong hầm, ba anh lái xe đang ngồi tựa lưng vào tường hút thuốc.
- Này thức ăn đây.
Manera hỏi “Những chiếc xe của mình thế nào?”
- Không sao cả.
- Trung úy có sợ không?
- Kệ nó, có - Tôi đáp.
Tôi lấy con dao, mở lưỡi ra, liếc qua liếc lại mấy cái rồi hớt bớt lớp bụi bám trên miếng pho mát. Gordini trao cho tôi đĩa mì Ý.
- Trung úy mở màn trước đi.
- Không - Tôi bảo - Để chậu xuống đất, chúng ta cùng ăn chung với nhau vậy.
- Nhưng không có nĩa.
- Thật chó chết - Tôi nói bằng tiếng Anh.
Tôi cắt phó mát ra từng miếng rồi để lên trên mì.
- Ngồi xuống ăn đi - Tôi bảo.
Họ ngồi xuống rồi chờ tôi. Tôi bốc mì lên, nhiều sợi lại rơi trở xuống.
- Trung úy hãy giơ lên cao.
Tôi đưa tay thẳng lên cho những sợi mì rời ra. Tôi hạ chúng xuống gần mồm mút, dùng răng cắn và nhai. Xong tôi lại cắn một miếng pho mát và uống một ngụm rượu. Rượu có mùi rỉ sắt. Tôi chuyền bi đông cho Passini.
- Bẩn quá - Anh nói - Người ta để trong bi đông quá lâu. Tôi có trong xe.
Cả bọn cắm cúi ăn, cằm sát xuống chậu mì, mặt ngửa ra, mút những cọng mì. Tôi ăn một miếng nữa với pho mát và hớp một hớp rượu. Bên ngoài có vật gì rơi xuống làm rung chuyển mặt đất.
- Súng 420 ly - Gavuzzi nói.
- Không có súng 420 ly nào trên núi cả - Tôi đáp.
- Chúng có những khẩu Skoda to lớn. Tôi thấy cả nòng súng nữa cơ.
- 305 ly.
Chúng tôi tiếp tục ăn. Người ta nghe một tiếng vút, giống như tiếng đầu máy xe lửa chạy, và tiếp theo là một tiếng nổ long trời làm rung chuyển cả mặt đất. Passini bảo :
- Hầm trú ẩn này không sâu lắm.
- Trước kia nó là cái hầm lớn để chứa bích kích pháo.
- Đúng thế đấy, thưa trung úy.
Tôi ăn nốt miếng pho mát còn lại và uống vội một ngụm rượu. Qua những tiếng ồn ào, tôi nghe tiếng khạc đạn và một tiếng xi...ịt - rồi một lằn chớp lóe lên giống như cửa lò cao bất thình lình mở ra, liền theo đó là một tiếng nổ ầm chớp sáng lên, lúc đầu trắng lóa rồi đỏ rực kèm theo một luồng khí lạnh. Tôi cố thở nhưng hơi thở bị tắc nghẹn lại và cảm thấy bị ngất đi rồi bị gió cuốn, cuốn đi rất xa ra ngoài. Tôi không còn tự chủ được nữa và có cảm tưởng rằng mình đã chết, và biết rằng mình đã lầm khi nghĩ là mình đã chết mà không thấy như thế. Rồi tôi có cảm giác nổi trôi và đáng lẽ tiếp tục bay thì lại thấy rơi xuống. Tôi thở, tôi tỉnh lại. Mặt đất tung lên và trước mặt tôi một cây sà bằng gỗ bị băm nát. Trong lúc đầu óc bối rối, tôi bỗng nghe có tiếng người kêu hay đúng hơn là tiếng la hét. Tôi cố động đậy mà không sao cử động được. Tôi nghe thấy tiếng súng máy, súng trường bắn ầm ầm bờ bên kia và suốt dọc con sông. Một tiếng nổ lớn bắn người lên. Tôi thấy một quả trọng pháo nổ sáng rực như bay lên toả ra, trôi trong bầu trời. Hoả tiễn lao lên, tôi nghe thấy tiếng bom đạn cùng một lúc. Tiếp đó tôi nghe sát bên tôi có tiếng kêu “Trời ơi! Mẹ! Mẹ ơi!” Tôi bèn trườn tới, vặn mình và cuối cùng duỗi được chân ra, rồi tôi quay được người và sờ vào người ấy. Đó chính là Passini. Khi tôi chạm vào người anh thì anh hét lên. Đôi chân anh ở về phía tôi và giữa cảnh tranh sáng tranh tối, tôi thấy cả đôi chân anh đều bị trúng đạn nát đến tận đầu gối. Một chân thì đã mất hẳn, còn chân kia thì dính lại do gân và một phần của ống quần dài; khúc chân còn lại co rút và rung lên bần bật tựa hồ như nó không còn liền với nhau nữa. Passini cắn vào tay rồi rên rỉ “Trời ơi! Mẹ ơi! Mẹ ơi! Đức Mẹ hãy cứu vớt chúng con! Hãy cứu vớt chúng con! Ôi Giêsu! Hãy bắn con đi! Ôi Chúa hãy giết con đi! Ôi Mẹ ơi! Mẹ ơi! Ôi Đức Mẹ Maria đồng trinh! Hãy bắn con đi! Hãy ngừng lại đi! Ngừng đi! Ngừng đi! Ôi Giêsu! Ôi Maria! Đủ rồi! Đau quá! Ôi!” Rồi anh tức tưởi nghẹn ngào “Mẹ ơi! Mẹ ơi!” Rồi anh ta im bặt, cắn chặt vào tay mình. Khúc chân còn lại co rút lên.
“Chúa ơi! Chúa ơi!” Tôi khum tay kêu lên. Tôi tìm cách lại gần Passini hy vọng có thể đặt băng cho cầm máu vào chân anh nhưng người tôi vẫn không cử động được. Tôi lại cố một lần nữa, đôi chân tôi cử động được một tí, tôi có thể lấy đà và cố trườn tới bằng cánh tay và khuỷu tay. Lúc này Passini không còn cử động nữa. Tôi ngồi xuống cạnh anh ta, mở áo ngoài ra và cố xé một vạt áo sơ mi của tôi, không đứt, tôi ghé răng cắn vào chéo áo để xé cho dễ. Liền lúc đó tôi nhớ đến đôi xà cạp của Passini. Tôi mang bít tất bằng len và bây giờ Passini chỉ còn lại một chân. Tôi tháo chiếc xà cạp chân còn lại, và trong khi tháo, tôi thấy không cần phải buộc vải cầm máu lại nữa vì Passini đã chết hẳn rồi. Tôi tin chắc là anh đã chết. Bây giờ phải tìm cho ra ba người kia. Tôi ngồi thẳng lên. Khi ngồi dậy được, tôi cảm thấy có một cái gì chuyển động trong đầu và đập vào sau mắt. tựa hồ như ở đôi tròng mắt con búp bê. Tôi cảm thấy dưới chân ẩm ướt, bên trong đôi giầy cũng thế. Biết rằng mình đã bị thương, tôi cúi xuống và cố đặt tay lên đầu gối. Đầu gối tôi không có ở đó. Tay tôi không thấy gì và đầu gối ở dưới ống quyển. Tôi chùi tay vào áo sơ m. Một tia sáng chập chờn từ từ chiếu xuống phía tôi. Tôi nhìn xuống chân và vô cùng kinh sợ. Tôi kêu lên “Chúa ơi! Hãy mang con ra khỏi chốn này!” Tuy nhiên tôi biết còn ba người nữa. Tất cả có bốn người lái xe. Passini đã chết, giờ còn ba. Một người lấy tay tôi và một người khác giở chân tôi lên.
- Còn ba người khác - Tôi bảo - Chết mất một người rồi!
- Manera đây, thưa trung úy. Chúng tôi đi kiếm một chiếc băng ca nhưng không có. Trung úy thấy trong người như thế nào?
- Gordini và Gavuzzi đâu rồi?
- Gordini đang được băng bó ở trạm, Gavuzzi đang giữ chân trung úy. Trung úy hãy ôm cổ tôi, trung úy bị thương có nặng lắm không?
- Ở chân. Còn Gordini?
- Không sao cả. Đó là một quả đạn lớn.
- Passini chết rồi.
- Vâng, anh ấy chết rồi.
Một quả trọng pháo rơi gần đó. Cả hai đều nằm xuống và làm ngã cả tôi.
- Xin lỗi Trung úy - Manera nói - Bây giờ trung úy hãy ôm cổ tôi để đừng rớt xuống đất.
- Rồi các anh lại làm ngã tôi nữa...
- Tại vì chúng tôi sợ quá.
- Các anh không bị thương à?
- Cả hai đứa, đứa nào cũng bị chút ít.
- Liệu Gordini lái xe có nổi không?
- Chưa biết được.
Trước khi tới trạm cứu thương họ lại đánh rơi tôi xuống đất một lần nữa.
- Các anh là đồ chó chết - Tôi bảo.
- Xin lỗi trung úy - Manera nói - Chúng tôi sẽ không đánh rơi trung úy nữa đâu.
Ở trạm cứu thương, phần lớn chúng tôi nằm la liệt dưới đất trong bóng đêm. Họ mang những người bị thương vào rồi lại mang những người này ra. Khi người ta mở tấm màn để họ mang các thương binh vào, tôi có thể thấy ánh sáng từ trạm cứu thương hắt ra. Những người chết được đặt nằm riêng một bên. Các bác sĩ đang làm việc, tay áo xắn lên tận vai, và người vấy đầy máu đỏ như những tay đồ tể. Ở đây không đủ cáng. Có vài người bị thương la hét om xòm nhưng đa số đều im lặng. Gió thổi xào xạc qua cành lá trước cửa trạm cứu thương và đêm đã bắt đầu lạnh. Người ta khiêng thương binh tới liền liền. Họ đặt băng ca xuống, khiêng người bị thương ra rồi lại đi ngay. Khi tôi vừa tới trạm cứu thương thì Manera gọi một viên đội y tế để hắn băng bó cho hai chân tôi. Người này nói là đất bám vào vết thương nên máu ra ít. Họ sẽ băng bó cho tôi ngay. Anh ta trở vào trong trạm cứu thương. Lúc nãy quân Anh có đến với ba chiếc xe Hồng thập tự và mỗi xe có hai người bị thương. Gordini đang ngồi cạnh bức tường gạch. Manera và Gavuzzi đi khiêng thương binh và đã trở lại trạm. Manera nói là Gordini không thể lái xe được nữa. Vai Gordini gãy nát và đầu hắn bị thương. Lúc đầu anh không cảm thấy đau đớn nhưng giờ đây một bên vai tê cứng. Một người trong số những người lái xe đến gần tôi, có cả Gordini đi cùng. Gordini trông tái nhợt và yếu. Người lái xe nghiêng mình xuống hỏi tôi :
- Trung úy bị thương có nặng lắm không?
Anh ta người cao lớn và mang kính gọng thép.
- Ở chân.
- Tôi tin là sẽ không nặng lắm. Trung úy có muốn hút thuốc không?
- Cám ơn.
- Tôi nghe họ bảo là trung úy mất hai người lái xe.
- Vâng, một bị chết và người kia vừa dẫn anh vào đây.
- Thật rủi quá. Trung úy có muốn chúng tôi phụ trách mấy chiếc xe này không?
- Đó chính là điều tôi muốn đề nghị.
- Chúng tôi sẽ trông nom xe cẩn thận và đưa về biệt thự. Trung úy ở số 206 phải không?
- Vâng.
- Nới ấy rất xinh và nên thơ. Trước đây tôi có thấy trung úy ở đấy. Tôi nghe họ nói trung úy là người Mỹ?
- Vâng.
- Còn tôi là người Anh.
- Có đúng không?
- Vâng, tôi là người Anh. Trung úy cho rằng tôi là người Ý à? Thật ra trong đơn vị chúng tôi cũng có mấy người Ý.
- Nếu được anh giữ xe hộ cho thì tốt lắm - Tôi bảo.
- Chúng tôi sẽ trông nom xe cẩn thận - Anh ta đứng lên và nói - Tôi lấy làm ái ngại cho vết thương của anh - Anh ta vỗ vai Gordini.
Gordini nhăn nhó mỉm cười. Người Anh bật ra một tràng tiếng Anh thao thao bất tuyệt :
- Bây giờ mọi việc đã xong, tôi đã gặp trung úy của anh. Hai chiếc xe ấy để chúng tôi lo cho. Các anh đừng lo lắng gì cả.
Anh ta nói thêm.
- Tôi sẽ giúp đỡ mang anh ra khỏi chỗ này. Tôi sẽ tìm gặp các nhân viên y tế. Chúng tôi sẽ mang anh theo chúng tôi.
Anh ta tiến về phía trạm cứu thương, cẩn thận bước giữa đám thương binh. Tôi thấy tấm màn vén lên, ánh sáng ùa ra và anh ta bước vào.
- Anh ta sẽ săn sóc Trung úy - Gordini bảo.
- Franco, anh thấy trong người như thế nào?
- Không sao cả.
Gordini ngồi xuống cạnh tôi. Một lát sau tấm màn che của trạm cứu thương mở ra. Hai người tải thương đi theo người Anh cao lớn khi nãy. Anh dẫn họ lại phía tôi.
- Đây là viên trung úy người Mỹ - Anh nói bằng tiếng Ý.
- Tốt hơn để tôi đợi một tí. Có nhiều người bị thương nặng hơn tôi. Tôi không sao cả.
- Này, này, đừng có làm ra vẻ anh hùng đấy nhé - rồi anh ta nói tiếp bằng tiếng Ý - Nâng chân trung úy cẩn thận. Chân đau lắm đấy. Đó là con trai chính của tổng thống Wilson đấy.
Họ khiêng tôi lên đưa vào trạm. Người ta đang băng bó ở bàn. Viên thiếu tá nho con nhìn tôi giận dữ. Ông ta nhận ra tôi. Ông cầm cái kẹp vẫy qua vẫy lại và hỏi bằng tiếng Pháp :
- Mạnh giỏi hả?
- Mạnh giỏi - Tôi đáp lại bằng tiếng Pháp.
- Tôi đưa ông ấy vào đấy - Người Anh cao lớn nói bằng tiếng Ý - Con trai cưng bậc nhất của đại sứ Mỹ đấy. Anh ta ở lại đây cho đến khi nào ông sẵn sàng cho phép anh ta đi. Rồi tôi sẽ đưa anh ta về ngay trong chuyến xe đầu tiên.
Anh ta cúi xuống nói với tôi :
- Tôi sẽ tìm viên phụ tá của họ để lo giấy tờ cho Trung úy và mọi việc sẽ được nhanh chóng hơn.
Anh khom người để bước ra khỏi cửa và đi ra ngoài. Viên thiếu tá đang tháo kẹp ra và bỏ vào chậu. Tôi đưa mắt theo dõi tất cả cử chỉ của ông. Bây giờ ông đang băng bó. Những người tải thương khiêng thương binh ra khỏi bàn băng bó.
- Để tôi băng bó cho viên trung úy - Một viên đại úy quân y nói. Họ khiêng tôi lên bàn băng bó cứng và trơn. Nhiều mùi nồng nặc xông lên, mùi thuốc lẫn mùi máu. Họ lột quần tôi ra và viên đại úy bắt đầu đọc cho người phụ tá ghi chép trong khi ông ta xem xét “Có vô số vết thương nông bên trái và bên phải bắp đùi, nhiều vết thương sâu ở đầu gối, mặt và chân phải. Da đầu bị rách.” Ông ta sờ vào vết thương và hỏi “Đau không?” “Chúa ơi, đau lắm!” Có thể vỡ sọ. Bị thương trong lúc thừa hành nhiệm vụ. Như thế khỏi bị đưa ra tòa án quân sự vì tội tự làm mình bị thương.” Ông ta bảo rồi ông ta hỏi tôi “Anh uống tí rượu mạnh nhé? Sao anh bị thương như thế? Lúc đó anh định làm gì vậy? Tự tử à?” Rồi quay qua người phụ tá “Thêm một mũi phòng uốn ván, và đánh dấu thập lên cả đôi chân. Được rồi, cám ơn.” Rồi quay sang bảo tôi “Tôi lau rửa các vết thương rồi sẽ băng bó lại. Máu anh đông nhanh chóng cực kỳ.”
- Bị thương vì cái gì? - Người phụ tá ngẩng lên hỏi.
- Anh bị trúng đạn gì? - Viên đại úy quân y hỏi tôi.
- Đạn moochiê rơi xuống hầm - Tôi trả lời trong lúc nhắm nghiền mắt lại.
Viên đại úy chùi rửa vết thương làm tôi đau đớn vô cùng. Ông ta vừa xé vải băng vừa hỏi “Có chắc không?”
Tôi cố nằm im và cảm thấy tim đập liên hồi khi ông ta cắt thịt chỗ vết thương, tôi trả lời “Chắc vậy.”
Đại úy quân y vẫn chú ý vào công việc, nói “Anh bị trúng mảnh bích kích pháo của địch bắn sang. Để tôi dò vết thương lấy ra, nếu anh muốn, nhưng chuyện đó cũng chẳng cần gì, có nhức cũng không hại gì. Chưa đau ngay đâu. Này, mang cho anh ấy một cốc rượu. Cú sốc làm dịu đau, nhưng không sao đâu, anh đừng lo, nếu vết thương không bị nhiễm trùng và cũng ít khi bị lắm. Còn trên đầu anh cảm thấy thế nào?”
- Chúa ơi, không thấy gì cả - Tôi đáp.
- Nếu thế thì không nên uống nhiều rượu mạnh. Nếu vỡ đầu thì đừng có uống rượu mạnh. Anh cảm thấy trên đầu như thế nào?
Mồ hôi ướt đẫm cả người, tôi trả lời :
- Chúa ơi, đau lắm.
- Tôi đoán chắc, đúng là anh bị vỡ sọ. Để tôi băng đầu anh lại, nhớ đừng cử động. - Đại úy băng đầu cho tôi, đôi tay cử động lanh lẹ, băng quấn thẳng và chắc. Ông nói - Xong rồi, tốt lắm, chúc anh may mắn. Nước Pháp muôn năm!
- Anh ta là người Mỹ - Một viên đại úy nói.
- Tôi cứ ngỡ anh ta là người Pháp vì nói thạo tiếng Pháp - Đại úy quân y nói - Trước đây tôi có biết và cứ ngỡ anh ta là người Pháp. Anh ta uống nửa ly cô nhắc.
Họ chuyển thêm thương binh nặng vào và mang thuốc phòng uốn ván tới. Đại úy vẫy tay chào tôi. Họ lại khiêng tôi đi và khi ra phía ngoài, tấm màn cửa quét vào mắt tôi. Ở ngoài, người phụ tá cúi xuống gần tôi hỏi “Tên? Chữ lót? Họ? Cấp bậc? Nơi sanh trưởng? Giai cấp? Đơn vị?” và nhiều thứ nữa. Hắn nói “Tôi rất lấy làm buồn là trung úy bị thương ở đầu như thế, tôi mong trung úy cảm thấy khá hơn. Tôi sẽ gởi trung úy theo xe cứu thương Anh về bệnh viện.”
- Không sao đâu - Tôi đáp - Cám ơn anh nhiều lắm.
Cơn đau mà khi nãy viên đại úy có nói đến bắt đầu hành tôi. Và tôi không quan tâm đến chuyện gì xảy ra nữa. Một lúc sau chiếc xe cứu thương Anh đến, họ đặt tôi vào chiếc băng ca, nâng lên ngang tầm xe và đẩy mạnh vào trong. Bên cạnh tôi có một chiếc băng ca nữa đã có người nằm trên rồi. Tôi nhìn thấy chiếc mũi vàng bóng ló ra ngoài băng và thở nặng nhọc. Người ta lại cho những chiếc băng ca khác lên, đút vào những dây đai ở phía trên. Người Anh cao lớn khi nãy đi quanh xe và nhìn vào trong nói :
- Tôi sẽ cho xe chạy nhẹ nhàng, mong rằng ông cảm thấy dễ chịu hơn.
Tôi nghe thấy tiếng động cơ nổ. Anh ta leo lên chỗ ngồi và tôi nghe thấy cả tiếng đạp thắng, tiếng nhấn ga và xe chạy. Tôi nằm im để mặc cho nỗi đau nhức dâng lên theo nhịp xe.
Xe lao dốc chậm lại, vì đường đông, có lúc nó ngừng, có lúc lùi vào chỗ ngoặt. Cuối cùng xe chạy hết tốc lực. Bất chợt tôi cảm thấy có cái gì nhỏ giọt xuống người tôi. Thoạt tiên còn chậm và đều, sau rồi tuôn xuống xối xả. Tôi gọi người lái xe. Anh ngừng xe lại và nhìn vào trong xe qua cái lỗ phía sau chỗ ngồi.
- Cái gì thế?
- Người nằm phía trên tôi bị chảy máu.
- Chúng ta đang ở trên cao. Tôi không thể nào chuyển băng ca một mình được.
Anh cho xe chạy tiếp. Dòng máu vẫn tiếp tục xối xuống. Trong bóng tối tôi không thể nhìn ra nơi những giọt máu tuôn xuống ở vải của chiếc băng ca phía trên đầu tôi. Tôi cố xê người qua một bên để tránh đừng rơi xuống trúng người. Chỗ máu chảy xuống dưới áo sơ mi nóng và rít. Tôi thấy lạnh và chân đau nhức đến nỗi tôi sợ bị ngất. Một lúc sau máu ở phía trên chảy chậm đi rôi sau đó lại tuôn xối xả. Tôi nghe thấy tiếng vải phía trên tôi chuyển động khi người nằm trên đó tìm cách nằm cho thoải mái hơn.
- Hắn có hề gì không? - Người lái xe Anh hỏi lại phía sau - Chúng ta sắp đến nơi rồi.
- Có lẽ hắn đã chết rồi - Tôi đáp.
Những giọt máu rơi chậm dần giống như những giọt thạch nhũ rơi sau khi mặt trời lặn. Giữa đêm trường, trong xe lạnh lẽo trên con đường dốc. Đến trạm đầu dốc, họ khiêng chiếc băng ca khi nãy ra rồi đẩy một cái khác vào.
Chương 10
Trong gian phòng bệnh viện ở chiến trường, người ta cho tôi hay có một ông khách muốn đến thăm tôi vào buổi chiều. Ngày hôm ấy trời nóng và trong phòng có lắm ruồi. Người y tá cắt giấy thành từng mảnh dài rồi cột vào một chiếc que để làm chổi xua đuổi ruồi. Tôi nhìn những con ruồi trốn trên trần nhà. Khi người y tá ngừng tay xua ruồi và thiu thiu ngủ thì chúng vội bay xuống. Lúc đầu tôi còn xua chúng đi, sau cùng đành chịu úp hai tay lên mặt mà ngủ. Trời nóng và khi thức giấc chân tôi đau nhức khó chịu. Tôi bèn đánh thức người y tá và anh ta đổ nước khoáng lên vết thương. Giường ngủ từ đó trở nên ẩm và mát. Những người trong bọn chúng tôi không ngủ được, nói chuyện với nhau trong phòng. Buổi chiều luôn luôn yên tĩnh. Vào buổi sáng thì ba y tá và một bác sĩ lần lượt đến thăm thương binh. Họ đưa chúng tôi ra khỏi giường và mang vào phòng băng bó để người ta có thể làm giường trong lúc họ băng lại các vết thương. Việc đi đến phòng cứu thương không lý thú chút nào và sau này người ta có thể soạn giường mà không cần phải chuyển bệnh nhân. Y tá ngừng không đổ nước nữa, tôi thấy giường rất mát mẻ và nhờ anh gãi chân hộ cho đỡ ngứa. Ngay lúc ấy một bác sĩ đưa Rinaldi vào. Anh đi nhanh vào phòng và cúi xuống giường hôn tôi. Tôi thấy anh mang găng tay.
- Thế nào, em bé mạnh chứ? Cậu thấy trong người ra sao? Tớ mang cái này cho cậu đây.
Đó là chai rượu cô nhắc. Y tá kéo cho Rinaldi chiếc ghế và cậu ta ngồi xuống.
- Tớ cũng mang đến nhiều tin vui, cậu sẽ được gắn huy chương. Họ muốn tặng cậu huy chương bạc, nhưng có lẽ chỉ được huy chương đồng mà thôi.
- Vì vinh dự gì mới được chứ?
- Bởi vì cậu bị trọng thương. Hình như nếu cậu chứng tỏ được đã làm một việc anh hùng thì cậu sẽ được huy chương bạc. Bằng không thì chỉ được huy chương đồng thôi. Hãy kể lại cho tớ nghe xem chuyện gì đã xảy ra. Cậu có làm một hành động anh hùng nào không?
- Không - Tôi đáp - Chính xác mình đang ăn pho mát thì bị thổi bắn người đi.
- Đừng đùa. Chắc chắn cậu làm một việc gì đó anh hùng hoặc trước hoặc sau. Cố nhớ kỹ lại xem.
- Nhưng không mà.
- Lúc đó cậu có cõng người nào trên lưng không? Gordini bảo là cậu cõng nhiều người trên lưng nhưng thiếu tá ở trạm quân y cho chuyện đó là hoàn toàn vô lý. Ông ấy là người phải ký giấy đề nghị thăng chức.
- Tôi chẳng hề cõng ai hết. lúc ấy tôi không cử động được.
- Chuyện đó chẳng hề gì - Rinaldi bảo.
Cậu ta tháo găng tay ra nói :
- Tôi tin là chúng tôi có thể xin cho cậu huy chương bạc. Cậu có từ chối băng bó trước người khác không?
- Không chắc chắn lắm.
- Không sao. Hãy nhớ là em đã bị thương nặng. Hãy nhớ lại việc khẩn khoản dũng cảm luôn luôn xin ra tiền tuyến. Hơn nữa cuộc hành quân hôm nay đã thành công mỹ mãn.
- Ồ, đã qua sông được rồi à?
- Rất tuyệt. Bắt được gần một ngàn tù binh. Tin này được đăng trong bản tin. Cậu đã xem chưa?
- Chưa.
- Để tớ mang lại. Cuộc hành quân này rất thành công.
- Còn mọi việc ra sao?
- Tuyệt vời. Chúng ta là những người tuyệt vời, tất cả chúng tôi đều bình yên. Ai nấy đều hãnh diện vì cậu. Nào, hãy kể cho nghe xem sự việc đã xảy ra làm sao. Tôi tin chắc rằng cậu được huy chương bạc mà. Nói cho tớ nghe nhanh lên. Nói cho tớ nghe tất cả - Anh ngừng lại nghĩ ngợi rồi nói - Cũng có thể cậu sẽ được một chiếc huy chương Anh nữa, ở đây có một người Anh, để tớ kiếm hắn ta và hỏi xem hắn có gởi gấm gì cậu được không. Hắn có bổn phận và khả năng giứp được cậu. Cậu có đau lắm không? Uống tí rượu nhé? - Y tá đâu cho mượn cái mở nút chai - Ồ, ước gì cậu thấy tớ đã làm gì để tống khứ ba thước ruột non và bây giờ tớ thấy khỏe hơn bao giờ hết. Tin ấy phải được cho đăng trong tạp chí The Lancet. Cậu dịch giùm và tớ sẽ gởi cho báo The Lancet. Càng ngày tớ càng khỏe hơn. Tội nghiệp cho em bé của tôi. Cậu cảm thấy thế nào? Ủa, cái mở nút chai đâu? Cậu nằm đây can đảm và yên lặng quá khiến tớ quên rằng cậu đang đau đớn... - Anh đập đôi găng tay vào cạnh giường.
- Thưa trung úy cái mở rượu đây - Người y tá nói.
- Mở rượu ra, mang một cái ly lại đây. Này, cậu uống đi. Tội nghiệp, đầu cậu thế nào? Mình đã xem qua giấy tờ của cậu rồi. Cậu chẳng bị vỡ đầu, vỡ sọ gì cả. Tên thiếu tá ở trạm cấp cứu là một tên đồ tể. Ở tay tớ, tớ không làm cậu đau đớn gì cả. Tớ không bao giờ làm cho ai đau cả. Tớ học cách săn sóc nhẹ nhàng hơn và tốt hơn. Mình học rất tiến bộ. Hãy tha lỗi vì nói nhiều quá, em bé nhé. Nhưng tớ rất đau xót thấy cậu bị trọng thương như thế. Đây này, uống đi. Ngon lắm, rượu này giá tới mười lăm đồng “lia” một chai. Vậy thì nó phải ngon mới được. Hiệu “năm ngôi sao” mà. Rời khỏi đây, tớ sẽ đi gặp tên người Anh tớ đã nói khi nãy. Ông ta sẽ xin cho cậu một huy chương Anh.
- Họ không cho như thế đâu.
- Cậu khiêm tốn quá, để mình gọi viên sĩ quan liên lạc, hắn biết cách điều khiển bọn Anh.
- Anh có gặp cô Barkley không?
- Mình sẽ đưa nàng đến đây. Mình sẽ đi tìm nàng ngay bây giờ.
- Thôi đừng đi - Tôi bảo - Kể chuyện ở Gorizia cho mình nghe đi. Mấy cô ả thế nào?
- Chẳng có ả nào cả. Hai tuần nay họ không chịu thay người khác. Mình không đến nữa, chán ngấy. Họ không còn là những phụ nữ nữa mà là những chiến hữu cũ của ta.
- Anh không đến đó thật à?
- Tớ chỉ đến xem có gì lạ không. Tớ chỉ ghé qua thôi. Tất cả đều hỏi thăm cậu. Thật là chán, họ ở đấy lâu đến nỗi giờ họ trở thành bạn thân của ta.
- Có thể phụ nữ không thích ra mặt trận.
Rinaldi tự tay rót thêm một ly cô nhắc nữa.
- Tớ không cho rằng rượu này có hại, em bé ạ. Nào, uống đi.
Tôi uống cô nhắc và tôi cảm thấy hơi ấm từ cổ họng chảy xuống. Rinaldi lại rót thêm một ly khác. Bây giờ cậu ta đã bớt nói. Rinaldi cầm ly đưa lên và bảo :
- Uống mừng vết thương anh dũng của cậu. Uống mừng huy chương bạc. Này cậu cho biết là ở đây nằm mãi dưới trời nóng nực như thế này cậu thấy có bực không?
- Thỉnh thoảng.
- Tớ không thể tưởng tượng được nằm như thế nà. Tớ sẽ điên mất.
- Cậu đã điên rồi đấy.
- Tớ mong cậu chóng trở về. Bây giờ tớ cô độc, chẳng có ai cùng trở về phòng sau những cuộc phiêu lưu tình cảm. Không còn ai để trêu ghẹo nữa cả, không còn ai để cho tớ vay tiền, không còn ai ruột rà thân thích và không còn ai ở cùng phòng với mình. Tại sao cậu lại làm cho bị thương vậy?
- Anh có thể đùa với vị tuyên úy cho đỡ buồn.
- Cha tuyên úy ấy à? Không phải chỉ riêng tớ trêu ông ta mà còn có cả Đại úy nữa. Tớ thích ông ấy. Nếu cần phải có một linh mục thì ông này hơn. Ông có ý định đến thăm cậu đấy. Ông ấy phải làm nhiều lễ rửa tội.
- Tôi cũng thích ông ta.
- Ồ, tớ biết điều đó mà. Đôi khi tớ cảm thấy cậu và ông ta có vẻ thích nhau lắm đấy. Cậu có nhận thế không?
- Không.
- Phải, đôi khi tớ cũng thấy thế. Thích cái kiểu của một số người ở sư đoàn I của Brigate Ancona.
- Thôi đừng nói bậy nữa, đi đi.
Rinaldi đứng lên, mang găng tay vào.
- Ồ, tớ thích đùa với cậu, em bé ạ. Tôi thích đùa với em về cha tuyên úy và cô gái người Anh. Thật ra bên trong em, cũng giống như tôi.
- Không, tôi không giống anh đâu.
- Có, cậu giống tớ lắm. Cậu là một người Ý chính cống. Tất cả toang toác ngoài mồm và không để bụng cái gì cả. Cậu đúng là chỉ giả bộ làm ra vẻ người Mỹ mà thôi. Chúng ta coi nhau như anh em và thương mến nhau.
- Hãy ngoan ngoãn lúc vắng mặt mình đấy - Tôi bảo.
- Tớ sẽ bảo cô Barkley đến. Không có tôi hai người nói chuyện với nhau thích hơn. Cậu trong sạch và dịu dàng hơn tớ.
- Đừng nói nhảm thế nữa.
- Tớ sẽ gọi nàng đến. Thần tượng đáng yêu và lãnh đạm của em. Thần tượng Anh Quốc cơ mà. Chúa ơi, với một người đàn bà như thế đàn ông không thể làm gì khác hơn là tôn thờ họ như một vị nữ thần. Chả hiểu một người đàn bà Anh còn có tích sự gì khác nữa chăng?
- Anh là một tên Ý dốt nát, ăn nói sỗ sàng.
- Một tên gì chớ?
- Một tên Ý dốt nát chứ gì. Một tên vô tích sự. Một tên vô tích sự trơ trẽn.
- Anh là một thằng dốt nát lố bịch.
Tôi thấy cậu ta như bị kim châm khi nghe thấy tiếng đó, nhưng tôi vẫn tiếp :
- Không hay không biết gì cả. Không từng trải, và ngớ ngẩn lố bịch vì thiếu kinh nghiệm.
- Thực à? Được, nghe này, tớ nói cho cậu biết đôi điều về những cô tình nhân tốt của cậu, về những nữ thần của cậu. Chỉ có một sự khác biệt trong việc lấy một thiếu nữ gia giáo và một người đàn bà. Đôi với một cô gái thì có đau khổ. Tớ chỉ biết thế - Cậu ta đập mạnh găng tay vào giường và nói thêm - Hơn nữa, không bao giờ biết được điều đó có làm cô ta thích thú không.
- Thôi đừng giận mà.
- Tớ đâu có giận. Điều tớ vừa nói chỉ là để giúp ích cho cậu thôi, em bé ạ. Để cậu tránh những điều bực bội khác nữa.
- Có đúng là chỉ có sự khác biệt độc nhất trên không?
- Đúng. Nhưng có hàng triệu tên ngốc như cậu không biết điều đó.
- Anh thật đáng yêu khi nói cho tôi biết điều đó.
- Thôi chúng ta đừng cãi nhau nữa, em bé. Tớ quý cậu vô cùng. Tuy nhiên đừng có ngốc nghếch.
- Không đâu. Tôi sẽ khôn ngoan nghiêm nghị như anh.
- Đừng giận nhé, em bé. Cười cái xem nào. Uống tí rượu đi. Tôi phải đi đây, lần này đi thật đấy.
- Anh tốt quá.
- Đó, cậu thấy không. Trong thâm tâm, chúng ta đều giống nhau. Chúng ta đều là chiến hữu. Thôi hôn một cái trước khi tớ đi.
- Anh thô lỗ quá.
- Đâu phải, đúng ra tớ sướt mướt tình cảm hơn cậu.
Tôi thấy hơi thở của cậu ta gần mặt tôi. “Thôi chào tạm biệt cậu, tớ sẽ đến thăm cậu nay mai”. Hơi thở hắn xa dần. “Tớ không hôn cậu đâu, nếu cậu không thích. Tớ sẽ bảo cô bé người Anh của cậu đến. Chào em bé. Chai rượu cô nhắc để dưới gầm giường đấy. Chóng mạnh lại nhé!”
Nói xong cậu ta đi ra.
Chương 11
Cha tuyên úy đến vào lúc trời chập choạng tối. Họ đã mang xúp lên rồi sau đó dọn dẹp chén bát, và tôi đang nằm lặng ngắm từng dãy giường và đưa mắt nhìn ra cửa sổ. Những ngọn cây sẽ lay động theo làn gió chiều. Gió thổi qua cửa sổ và trời về chiều mát mẻ. Ruồi đang bám đầy ở trần nhà, trên bóng đèn rủ xuống, ở đầu dây đèn, người ta chỉ bật đèn lên khi cần mang thương binh tới hay làm việc gì khác. Điều ấy làm cho tôi thích thú mỗi khi đêm đến theo sau hoàng hôn. Cảm giác này giống như thức cảm giác được người ta mang mình vào giường sau buổi ăn tối. Y tá tiến lại những dãy giường rồi ngừng lại. Có ai đi theo sau anh ta. Đó là cha tuyên úy. Ông dừng lại, người nhỏ bé, khuôn mặt sạm nâu, cử chỉ bối rối.
- Anh có mạnh không? - Ông hỏi tôi và để mấy gói đồ xuống cạnh giường.
- Thưa cha, tôi vẫn khỏe.
Ông ngồi xuống chiếc ghế mà khi nãy Rinaldi ngồi rồi đưa mắt bối rối nhìn qua cửa sổ. Tôi nhận thấy khuôn mặt ông có vẻ mệt mỏi chán chường.
- Tôi chỉ ở lại đây được một tí thôi - Ông bảo - Muộn rồi.
- Chưa muộn đâu ạ. Họ vẫn còn trêu cha trong bữa ăn nữa không?
Ông mỉm cười.
- Tôi vẫn là đề tài cho họ đùa cợt. - Giọng nói nghe mệt mỏi làm sao - Nhờ trời họ vẫn khỏe mạnh cả. Thấy anh bình yên tôi mừng lắm. Mong rằng anh không đau đớn nhiều.
Trông ông có vẻ mệt mỏi lạ và từ trước tôi không hề trông thấy thế bao giờ. Tôi nói :
- Không, không, bây giờ tôi không thấy đau ạ.
- Trong bữa ăn, chúng tôi nhớ anh nhiều.
- Tôi mong chóng mạnh lại để còn có thể dự bữa ăn chung. Tôi luôn luôn thích được nghe cha nói chuyện.
- Tôi có mang cho anh vài món lặt vặt - Ông vừa nói vừa xách những gói đồ lên - Đây là cái màn, còn đây là chai rượu Vermouth. Anh thích chứ? Còn đây là báo chí Anh.
- Xin cha mở hộ.
Ông có vẻ rất hài lòng. Ông mở mấy gói đồ ra. Tôi cầm chiếc mùng trên tay. Ông giơ chai Vermouth lên cho tôi xem rồi đặt xuống cạnh giường. Tôi cầm lên một tập báo Anh. Tôi có thể đọc tên tờ báo khi quay ra ánh sáng nhờ nhờ ở cửa sổ. Đó là tờ Tin tức thế giới.
- Những tờ kia có hình ảnh - Ông nói.
- Còn gì sung sướng cho bằng được đọc những tờ báo này. Ở đâu mà cha có được?
- Tôi cử người về lấy ở Mestre. Tôi sẽ xin thêm nữa.
- Cha đến thăm, thật quý hóa quá. Xin mời cha một ly Vermouth nhé.
- Không, cám ơn anh. Anh nên giữ lấy để mà uống, của anh đấy.
- Không, cha uống với tôi một ly.
- Thôi được rồi. Tôi sẽ mang thêm vào cho anh.
Y tá mang ly tới và mở chai Vermouth. Anh ta làm gẫy nút chai nửa chừng cho nên phải đẩy phần nút chai còn lại vào trong chai. Tôi thấy vị linh mục không được hài lòng nhưng ông nói :
- Thôi cũng được. Chẳng sao cả.
- Xin uống mừng sức khỏe của cha.
- Cầu cho anh chóng bình phục.
Cha tuyên úy nâng ly và chúng tôi nhìn nhau. Chúng tôi đã từng đàm đạo với nhau rất tương đắc nhưng đêm nay nghe chừng khó khăn làm sao.
- Có việc gì thế cha? Trông cha mệt mỏi quá.
- Tôi mệt mỏi, nhưng thực ra tôi không có quyền làm như thế.
- Có lẽ tại trời nóng.
- Không, bây giờ mới mùa xuân. Tôi thấy buồn chán quá.
- Cha buồn vô cớ?
- Không mà, tôi ghét chiến tranh.
- Tôi cũng chẳng ưa gì - Tôi nói.
Ông lắc đầu nhìn ra cửa sổ.
- Anh đừng để ý đến chuyện đó. Anh không thấy rõ nó. Chết, xin lỗi, tôi biết là anh bị thương.
- Chẳng qua đó chỉ là một tai nạn.
- Dù cho có bị thương anh cũng không thấy rõ chiến tranh. Tôi đoán chắc thôi. Chính tôi cũng không thấy cái tai hại của nó. Nhưng tôi thấy được... đôi điều.
- Lúc trước khi tôi bị thương, chúng tôi có đề cập đến vấn đề đó. Passini có nói đến điều ấy.
Cha tuyên úy đặt ly xuống. Ông nghĩ ngợi sang chuyện khác.
- Tôi hiểu bọn họ vì tôi cũng giống như họ - Ông nói.
- Dù sao cha cũng khác họ chứ.
- Nhưng thật ra tôi cũng giống như họ mà thôi.
- Bọn sĩ quan không hiểu gì cả.
- Có một vài người thấy được. Có vài người tế nhị và cảm thấy khốn khổ hơn cả chúng ta nữa.
- Đa số không giống thế.
- Đó không phải là do giáo dục hoặc tiền bạc nhưng vì một cái gì đó khác hơn. Dù rằng họ có giáo dục và tiền bạc đi nữa thì những người như Passini đâu có ao ước trở thành một sĩ quan. Tôi cũng thế.
- Nhưng cha cũng được coi là một sĩ quan. Tôi cũng là một sĩ quan.
- Thật ra tôi không phải thế. Anh cũng không phải là một người Ý chính cống nữa. Anh là một người ngoại quốc. Nhưng tâm hồn anh gần sĩ quan hơn gần con người.
- Khác nhau ở chỗ nào?
- Tôi cũng khó diễn tả được. Có nhiều người là du kích. Trong nước này có rất nhiều người như thế. Nhiều người khác lại giống họ.
- Những người du kích sẽ bước những người khia chiến đấu.
- Đúng thế.
- Và tôi sẽ giúp họ.
- Anh là người ngoại quốc. Anh là người yêu nước.
- Còn những người chống chiến tranh? Liệu họ có thể làm cho chiến tranh ngưng lại được không?
- Tôi cũng không hiểu được.
Ông lại nhìn ra cửa sổ. Tôi ngắm khuôn mặt ông.
- Có khi nào họ đầy đủ khả năng để chận đứng chiến tranh không?
- Họ không được tổ chức ngăn chặn mọi việc, nhưng khi họ được tổ chức rồi thì những người lãnh đạo lại phản bội họ.
- Vậy thì không có hy vọng à?
- Không bao giờ lại vô hy vọng. Nhưng có nhiều khi tôi không đủ sức để hy vọng. Tôi luôn cố gắng hy vọng nhưng lại chịu thua.
- Có thể chiến tranh sẽ chấm dứt?
- Tôi hy vọng như thế.
- Vậy cha sẽ làm gì khi ấy?
- Nếu tiện thì tôi sẽ trở lại Abruzzi.
Gương mặt sạm nâu của ông bỗng trở nên rạng rỡ.
- Cha yêu vùng Abruzzi đến thế cơ à?
- Vâng,rất yêu.
- Vậy khi ấy cha nên về đó.
- Tôi sẽ hạnh phúc lắm. Tôi sẽ sống mãi ở đó để yêu kính Chúa và phụng sự Ngài.
- Và người ta sẽ kính trọng cha - Tôi nói.
- Vâng, tôi sẽ được kính nể. Tại sao không chứ?
- Không có lý do gì mà không kính nể cha cả. Cha sẽ được mọi người kính nể.
- Điều đó không thành vấn đề. Nhưng ở quê hương tôi người ta nhìn nhận rằng con người phải yêu mến Chúa. Đó không phải là một chuyện đùa.
- Tôi hiểu.
Ông nhìn tôi mỉm cười.
- Anh hiểu mà lại không yêu Chúa.
- Không.
- Anh không yêu Ngài tí nào sao? - Ông hỏi.
- Đôi khi về đêm tôi còn sợ Ngài nữa là khác.
- Anh nên yêu mến Ngài.
- Tôi không yêu nhiều lắm.
- Thực đấy - Ông nói - Anh nên yêu Chúa. Những gì anh đã kể cho tôi nghe trong những đêm qua rồi, không phải là tình yêu. Đó chỉ là đam mê và dục vọng. Khi yêu, người ta ao ước được làm một cái gì cho người mình yêu. Người ta muốn hy sinh, muốn phục vụ.
- Tôi không có tình yêu.
- Rồi anh sẽ yêu. Tôi biết rồi anh sẽ yêu và khi đó anh sẽ hạnh phúc.
- Tôi hạnh phúc, lúc nào tôi cũng hạnh phúc.
- Đó là chuyện khác. Anh không hề biết tí gì về tình yêu chỉ trừ khi nào anh có yêu.
- Được rồi - Tôi bảo - Hễ khi nào yêu, tôi sẽ báo cho cha hay.
- Tôi đã ngồi lại quá lâu và nói chuyện nhiều rồi - Ông tỏ vẻ ái ngại.
- Khoan đã. Cha đừng đi vội. Cha nghĩ thế nào về tình yêu phụ nữ? Nếu thực tôi có yêu một người đàn bà nào đó thì chuyện có xảy ra như cha nói không?
- Tôi không hề biết được chuyện đó vì tôi chưa từng yêu một người đàn bà nào cả.
- Thế còn mẹ của cha?
- Dĩ nhiên là tôi phải yêu mẹ tôi rồi.
- Có phải lúc nào cha cũng yêu Chúa không?
- Ngay từ lúc tôi còn bé đến giờ.
- Thế à? - Không biết phải nói những gì tiếp nữa,tôi bảo - Cha thật là một thanh niên tốt.
- Tôi còn là một thanh niên, thế mà anh lại gọi tôi bằng cha.
- Đó là vì lễ phép thôi.
Cha mỉm cười.
- Tôi phải đi đây, nói thật đấy. Có đúng là anh không cần gì nữa không? - Ông hỏi, mắt ánh lên chút hy vọng.
- Không, chỉ để nói chuyện thôi.
- Tôi sẽ chuyển lời chào của anh trong bữa ăn chung.
- Cám ơn cha về những tặng phẩm đẹp.
- Có gì đâu.
- Cha nhớ đến thăm tôi nhé?
- Vâng, thôi chào anh - Ông vỗ nhẹ lên tay tôi.
- Chào cha - Tôi nói bằng giọng địa phương.
- Chào anh - Ông đáp lại.
Trong phòng tối om và người y tá ngồi ở chân giường đứng lên, đi ra ngoài với cha tuyên úy. Tôi rất thích ông và mong ông được trở về Abruzzi một ngày nào đó. Ở những buổi ăn chung, người ta trêu cợt ông thế mà ông vẫn tử tế với họ. Tôi nghĩ về cuộc sống ở quê hương ông, ông đã từng kể cho tôi nghe, ở Capracotta cá lội nhởn nhơ như ở hạ lưu, suối lượn qua thành phố. Ở đó người ta cấm chơi sáo ban đêm. Người ta cấm thổi sáo. Tôi hỏi tại sao. Vì ban đêm, tiếng sáo rất nguy hiểm cho các cô thiếu nữ. Nơi đó các bác nông dân đều gọi bạn là Ngài và khi bạn gặp họ, họ kính cẩn giở mũ ra chào. Cha của vị linh mục mỗi ngày đều đi lễ và thường dừng chân tại nhà các bác nông dân dùng cơm. Đó luôn luôn là điều vinh dự đôi với họ. Ở đó đôi với người ngoại quốc, khi muốn đi săn họ phải trình chứng chỉ tỏ rằng họ chưa hề bị bắt lần nào. Ở Gran Sasso D’Italia có cả gấu nữa, nhưng rất xa. Thành phố Aquila rất đẹp. Về mùa hạ, ban đêm trời mát và mùa xuân Abruzzi đẹp nhất ở Ý. Nhưng dễ chịu nhất là mùa thu, mùa săn bắn trong rừng dẻ. Chim chóc đều ăn được vì chúng ăn toàn nho. Không bao giờ bạn phải mang bữa trưa vì các bác nông dân luôn luôn lấy làm hãnh diện nếu bạn ở lại ăn ngay ở nhà họ. Nghĩ ngợi một lát, tôi ngủ thiếp đi.
Chương 12
Gian phòng bệnh viện dài, cửa sổ nằm về phía tay phải. Cửa ra vào ở tận đầu phòng sát với phòng băng bó. Dãy giường tôi nằm trông ra cửa sổ, và dãy giường khác đôi diện với tường. Nếu nằm nghiêng về phía trái tôi có thể thấy cửa phòng băng bó. Lại còn một cửa khác ở cuối phòng mà thỉnh thoảng khách đến thăm ra vào. Nếu có người să”p chết, người ta kéo tấm màn phủ quanh giường để khỏi trông thấy người chết. Chỉ có ghệt của bác sĩ và y tá ló ra dưới chân màn. Đôi khi người ta còn nghe cả tiếng thì thầm to nhỏ. Rồi cha tuyên úy vén màn bước ra và các y tá trở vào khiêng xác người chết ra, trên mình phủ chăn kín mít, qua giữa hai dãy giường, rồi có người đến xếp tấm màn và mang đi chỗ khác.
Sáng hôm đó thiếu tá phụ trách phòng hỏi tôi xem ngày mai có thể đi xa được không. Tôi trả lời được. Ông ta nói tiếp là sẽ chuyển tôi đi vào lúc sáng sớm. Ông bảo tốt hơn tôi nên đi bây giờ trước khi trời nóng bức.
Khi họ nhấc tôi lên khỏi giường để đưa vào phòng băng bó, tôi có thể nhìn qua cửa sổ thấy những nấm mồ mới hiện lên ngoài vườn. Một người lính ngồi ở cửa vườn. Anh đang làm những cây thánh giá và khắc lên đó tên, cấp bậc, đơn vị của người được chôn trong vườn. Cũng có khi anh giúp việc vặt trong phòng và khi rỗi rãi anh làm cho tôi cái bật lửa bằng vỏ đạn của bọn Áo. Các bác sĩ rất dễ thương và có đầy đủ khả năng. Tôi được gởi đi Milan chậm, ở đấy có việc xem xét bằng quang tuyến X tốt hơn và giải phẫu xong tôi sẽ được điều trị bằng máy. Tôi cũng rất muốn đi Milan. Họ muốn đem tất cả chúng tôi càng xa càng tốt vì tất cả các giường đều rất cần cho cuộc tấn công sắp đến.
Buổi chiều trước khi tôi rời khỏi bệnh viện mặt trận, Rinaldi cùng thiếu tá ở câu lạc bộ đến thăm tôi. Họ bảo tôi sắp được đưa vào một bệnh viện Mỹ ở Milan vừa được thành lập. Có vài đơn vị cứu thương Mỹ vừa được gởi tới đó và bệnh viện sẽ phụ trách họ cùng tất cả những người Mỹ ở Ý. Ở đội Hồng thập tự có nhiều người Mỹ. Mỹ đã tuyên chiến với Đức chứ không phải Áo. Dân Ý tin chắc rằng Mỹ sẽ tuyên chiến với Áo nên họ rất quan tâm đến tất cả những người Mỹ đến đây ngay cả trong đội quân Hồng thập tự.
Rồi Rianldi bảo :
- Đừng nói to thế, em bé, ai cũng biết cậu đã từng ở mặt trận. Ồ, em bé đáng yêu ơi, chừng em đi rồi tôi sẽ làm gì?
- Chúng ta phải lên đường - Thiếu tá bảo
Rinaldi tiếp :
- Thật buồn quá. Nghe này, tớ có tin vui cho cậu, cô tình nhân người Anh của cậu mà, cậu biết không? Cô gái người Anh mà đêm nào cậu cũng đến thăm ở bệnh viện đấy. Nàng cũng đi Milan. Có đến đấy với một người nữa và ở tại bệnh viện Mỹ. Họ chưa nhận được các nữ y tá từ Mỹ qua. Hôm nay tôi có nói chuyện với đơn vị trưởng của họ. Ở tại mặt trận có nhiều đàn bà quá. Họ gởi nhiều người trở lại hậu phương. Em thấy chuyện đó thế nào, em bé? Được không? Được chứ? Em sẽ đến sống ở một thành phố lớn, và ở đó làm nũng với cô tình nhân người Anh của em. Tại sao tôi không bị thương kia chứ?
- Biết đâu rồi anh cũng bị thương - Tôi bảo.
- Ta đi thôi - Thiếu tá bảo - Chúng tôi uống rượu làm ồn và quấy rầy Federico. Khoan đừng vội đi. Chúng tôi phải đi. Tạm biệt. Chúc may mắn đủ mọi điều nhé.
- Trở lại mau em bé nhé - Rianaldi hôn tôi - Cậu sặc mùi thuốc sát trùng. Chào em bé nhé.
- Chào anh, chúc anh đủ mọi điều.
Viên thiếu tá vỗ nhẹ vào vai tôi, rồi họ rón rén bước ra. Tôi cảm thấy mình hoàn toàn say rồi lịm dần trong giấc ngủ.
Sáng hôm sau, chúng tôi rời bệnh viện đi Milan và bốn mươi tám tiếng đồng hồ sau thì tới nơi. Thật là một cuộc hành trình mệt nhọc. Chúng tôi phải tránh đường khác một lúc gân ở Mestre và trẻ con tới nhìn vào trong xe. Tôi nhờ một cậu bé đi mua hộ một chai cô nhắc nhưng cậu trở lại bảo chỉ có rượu nho thôi. Tôi đành bảo cậu cứ mua và khi cậu mang rượu ra, tôi và người bên cạnh uống say mềm rồi lăn ra ngủ cho đến khi qua Vicenza. Tôi thức dậy và nôn mửa đầy trên xe. Như thế cũng chẳng sao, vì người bên cạnh tôi đã nôn mửa nhiều lần trên xe rồi. Sau đó, tôi thấy không chịu đựng nổi cơn khát nên gọi một người lính đang đi qua lại cạnh xe lửa bảo hắn mang đến cho tôi một ly nước lạnh. Tôi đánh thức Georgetti, chàng say bên cạnh tôi, cho hắn uống một tí nước lạnh. Hắn bảo để nước lên vai cho hắn rồi tiếp tục ngủ. Người lính từ chối không nhận tiền tôi biếu và mang lại cho tôi một quả cam mềm nhũn. Tôi mút lấy nước nhả xác bã ra và nhìn người lính qua lại bên toa xe chở hàng hoá. Một lúc sau, xe lửa giật mạnh và khởi hành.
Chương 13
Chúng tôi đến Milan lúc sáng sớm, và người ta cho chúng tôi xuống ở ga hàng hoá. Một chiếc xe cứu thương đưa chúng tôi đến bệnh viện Mỹ. Đi xe nằm trên băng ca tôi không thể biết được là chúng tôi đi qua những nơi nào trong thành phố. Khi họ hạ cáng xuống, tôi thấy trước mặt mình là một cái chợ, một quán rượu mở cửa, có một cô gái đang quét dọn. Họ đang tưới nước lên mặt đường và hương dìu dịu của buổi sáng toả trong không khí. Họ đặt chiếc băng ca xuống và đi vào trong. Người thường trực đi ra với họ. Ông có bộ râu màu xám, đội mũ gác cổng và mặc sơ mi ngắn tay. Không thể mang băng ca lên thang máy được nên họ bàn với nhau xem có nên khiêng tôi ra khỏi băng ca. Cho lên thang máy hay chuyển cáng theo cầu thang. Tôi nằm lắng nghe họ bàn bạc với nhau. Sau cùng họ quyết định theo thang máy. Họ đỡ tôi ra.
- Nhẹ nhẹ tay - Tôi nói - Chú ý nhé.
Thang máy chứa nhiều người nên chật chội và đôi chân phải co lại làm tôi đau điếng.
- Hãy kéo thẳng chân tôi ra - Tôi bảo.
- Không thể được, thưa trung úy. Ở đây không phải là một gian phòng.
Người nói câu đó đang ôm quanh người tôi, còn tay tôi thì ôm cổ anh. Hơi thở anh phả vào mặt tôi, nồng nặc mùi tỏi và rượu.
- Chú ý kìa - Người kia nói.
- Cậu coi tớ là một thằng tồi hay sao?
- Tớ chỉ bảo cậu chú ý.
- Đã bảo chịu khó tí mà - Người giữ chân tôi nói lại.
Tôi thấy ông thường trực đóng cửa thang máy rồi cửa sắt. Ông bấm nút lầu tư. Trông ông ta có vẻ bận rộn. Chiếc thang máy đi lên từ từ.
- Nặng lắm hả? - Tôi hỏi người đàn ông nồng nặc mùi tỏi và rượu.
- Không sao - Anh đáp. Mặt anh đẫm mồ hôi và anh càu nhàu.
Chiếc thang máy lên thẳng rồi dừng lại. Người giữ chân tôi mở cửa thang máy bước ra. Chúng tôi đang ở trên bao lơn bệnh viện có nhiều cửa nắm khóa bằng đồng. Người giữ chân tôi ấn nút chuông. Chúng tôi nghe thấy tiếng chuông reo.Nhưng không có ai cả. Lúc đó ông thường trực mới xuất hiện ở đầu cầu thang.
- Họ đâu cả rồi? - Những người khiêng băng ca hỏi.
- Tôi không biết - Ông thường trực trả lời - Họ ngủ cả ở dưới kia.
- Ông bảo hộ ai đi.
Ông thường trực lại ấn chuông reo và gõ cửa đi vào. Khi ông trở ra thì có một bà đứng tuổi mang kính theo sau. Tóc bà cặp rối sắp sửa xổ tung ra. Bà mặc sắc phục y tá.
- Tôi không hiểu - Bà ta nói - Tôi không hiểu được tiếng Ý.
- Tôi nói được tiếng Anh - Tôi đáp - Họ muốn biết là đặt tôi ở đâu.
- Không có phòng nào sẵn cả. Người ta không chờ đón bệnh nhân nào cả - Bà ta vấn tóc lại và quan sát tôi với đôi mắt cận.
- Bất cứ phòng nào cũng được. Hãy tìm cho tôi một phòng trỗng].
- Phòng nào cũng trống cả - Ông thường trực nói - Ông là thương binh đầu tiên - Ông cầm chiếc mũ ở tay và nhìn bà y tá đứng tuổi.
- Nhân danh Chúa, xin hãy đem tôi vào một phòng nào đó.
Chân tôi co lại, đau đớn tăng lên. Ông thường trực mở cửa đi vào với bà có mái tóc ngả màu muối tiêu, rồi vội vã trở ra nói “Hãy theo tôi”. Họ khiêng tôi qua dãy hành lang dài đi vào một căn phòng có treo màn cẩn thận. Trong phòng có một chiếc giường, một cái tủ to có gương.Họ đặt tôi xuống giường.
- Tôi không thể trải nệm lên được - Bà ta nói - Vải nệm để trong tủ khóa rồi.
Tôi không thèm nói chuyện với bà ta nữa.
- Tiền trong túi tôi đây này - Tôi bảo ông thường trực - Ở túi áo khuy ấy - Ông thường trực lấy tiền ra. Hai người khiêng băng ca đến cạnh giường, mũ cầm tay. Tôi bảo ông thường trực - Đưa cho mỗi người năm đồng “lia”. Còn phần ông năm đồng. Giấy tờ của tôi ở túi bên kia, ông có thể lấy đưa cho bà y tá.
Mấy người khiêng băng ca giơ tay chào tôi và cám ơn.
- Chào các anh - Tôi đáp - Cám ơn nhiều lắm.
Họ chào tôi một lần nữa rồi đi ra.
- Giấy tờ này - Tôi bảo bà y tá - Có tất cả những chỉ dẫn về vết thương của tôi và phương hướng đã điều trị.
Bà cầm lấy giấy và đọc qua đôi kính. Có tất cả ba tờ giấy gấp lại.
- Tôi không biết phải làm gì đây - Bà ta nói - Tôi không thể đọc được tiếng Ý. Tôi không thể làm gì nếu không có lệnh của bác sĩ.
Bà ta liền khóc và cho tất cả giấy tờ vào túi áo choàng của bà.
- Phải ông là người Mỹ không? - Bà ta hỏi tôi với giọng nghẹn ngào.
- Phải. Bà làm ơn để giấy tờ trên bàn cạnh giường giùm tôi.
Gian phòng mát và tối mờ. Khi tôi đặt lưng xuống giường, tôi nhìn thấy chiếc gương to đặt cuối phòng nhưng không thấy được trong gương phản chiếu những gì. Ông thường trực đứng cạnh giường, mặt ông trông dễ thương và tử tế.
- Ông có thể đi được rồi - Tôi bảo ông rồi quay sang bà y tá - Bà cũng có thể đi được rồi. À tên bà là gì ạ.
- Walker.
- Thưa bà Walker, bà có thể đi được rồi8,có lẽ tôi sắp ngủ đây.
Còn lại một mình tôi trong phòng vắng. căn phòng mát mẻ và không có mùi nhà thương. Nệm cứng và dễ chịu, tôi nằm không động đậy, thở khó nhọc, và cảm thấy sung sướng vì đã bớt đau. Một lúc sau, tôi muốn lấy một ly nước. Tôi tìm cái dây chuông ở cạnh giường, tôi giật chuông nhưng chẳng ai vào cả. Tôi đành ngủ.
Khi thức giấc, tôi đưa mắt nhìn quanh. Ánh mặt trời xuyên qua tấm cửa chớp. Tôi thấy cái tủ lớn, những bức tường trơ trọi và hai cái ghế. Trong lớp băng bẩn, đôi chân tôi duỗi thẳng ra trên giường. Tôi khát nước và cố với bấm chuông. Có tiếng mở cửa, nhìn ra đó là một cô y tá. Trông nàng còn trẻ và đẹp.
- Chào cô - Tôi nói.
- Chào ông - Nàng vừa nói vừa tiến đến gần giường. - Chúng tôi không thể gọi bác sĩ được. Ông ấy đi vùng hồ Como. Chẳng ai biết có bệnh nhân tới cả. Ông bị sao thế?
- Tôi bị thương ở ống chân, bàn chân và đầu tôi bị sây sát.
- Tên ông là gì?
- Henry, Frederic Henry.
- Tôi sẽ lau rửa vết thương cho ông. Nhưng chúng tôi không thể động tới băng bó trước khi bác sĩ đến.
- Cô Barkley có ở đây không cô?
- Không, ở đây không có ai tên đó cả.
- Còn cái bà khóc khi tôi đến là ai?
Cô y tá bật cười.
- Đó là bà Walker. Bà trực đêm ấy, và lúc ông đến bà hãy còn ngái ngủ. Bà ấy không đợi ai cả.
Vừa nói chuyện nàng vừa thay quần áo cho tôi, nàng làm rất nhẹ nhàng, êm ái, khiến tôi cảm thấy dễ chịu. Chung quanh đầu tôi đều có băng, nhưng nàng rửa ở chung quanh rìa thôi.
- Ông bị thương ở đâu?
- Ở Tsonze, phía bắc Plava.
- Nơi đó ở đâu?
- Ở bờ sông Gorizia.
Tôi thấy nàng không biết tí gì về những nơi ấy cả.
- Ông có đau nhiều lắm không?
- Không, bây giờ thì đỡ đau nhiều.
Nàng cặp nhiệt độ vào miệng tôi.
- Người Ý cặp nhiệt độ dưới nách - Tôi nói.
- Đừng nói - Nàng bảo.
Nàng lấy cặp nhiệt độ ra đọc số rồi lắc.
- Bao nhiêu độ, cô?
- Tôi thiết tưởng ông không nên biết điều đó.
- Cứ nói cho tôi biết.
- Gần như là bình thường.
- Tôi không hề bị sốt. Chân tôi đầy những mảnh đạn.
- Ông muốn nói gì thế?
- Chân tôi đầy những mảnh đạn, đinh ốc cũ, lò xo và nhiều thứ nữa.
Nàng khẽ lắc đầu và mỉm cười.
- Nếu chân ông có vật lạ thì đã sưng và bị sốt.
- Được rồi - Tôi bảo - Hãy chờ xem ra sao.
Nàng đi ra khỏi phòng và trở vào với bà y tá già. Cả hai người soạn giường mà không phải nhắc tôi lên. Đó là một điều hoàn toàn mới mẻ và tôi rất thán phục.
- Ai đứng đầu bệnh viện này, cô?
- Cô Van Campen.
- Ở đây có bao nhiêu y tá cả thảy?
- Chỉ có hai chúng tôi.
- Liệu có thêm nữa không?
- Có, chúng tôi đang đợi.
- Khi nào họ đến đây?
- Tôi không biết. Ông hỏi nhiều quá mà đáng lẽ một người ốm như ông không nên.
- Tôi không đau ốm gì cả. Tôi chỉ bị thương thôi - Tôi bảo
Họ đã làm giường xong, và tôi nằm trên một tấm nệm sạch, êm và trên người tôi đắp một chiếc chăn khác nữa. Bà Walker đi ra ngoài rồi trở lại mang cho tôi cái áo ngủ. Bà mặc cho tôi, và tôi cảm thấy sạch sẽ tử tế.
- Bà tốt với tôi quá - Tôi bảo. Cô y tá Gage cười khúc khích - Cô cho tôi xin một ít nước được không? - Tôi hỏi.
- Được chứ và sau đó ông sẽ ăn điểm tâm.
- Tôi không muốn ăn điểm tâm. Cô vui lòng mở những cánh cửa ngoài ra giùm tôi được không?
Khi nãy gian phòng mờ tối nhưng lúc mở cửa ra thì tràn ngập ánh sáng. Tôi nhìn ra cửa sổ, thấy một chiếc bao lơn và a hơn là ống khói cùng những mái ngói. Phía trên mái ngói là những cụm mây trắng và bầu trời xanh thẫm.
- Cô không biết bao giờ những cô y tá khác đến đây à?
- Sao ông hỏi mãi thế? Chúng tôi săn sóc ông không tốt hay sao?
- Không, cô tốt lắm chứ.
- Ông có cần bô không?
- Có, tôi thử lựa xem.
Họ đỡ tôi dậy nhưng không được. Sau đó tôi nằm xuống và nhìn ra bao lơn.
- Bao giờ thì bác sĩ tới?
- Khi ông trở về. Chúng tôi đã gọi điện thoại đến hồ Como cho ông ấy.
- Còn bác sĩ nào khác nữa không?
- Ông ta là bác sĩ của bệnh viện này.
Cô Gage mang bình nước và ly vào. Tôi uống một hơi ba ly liền, xong họ rời khỏi phòng. Tôi nhìn ra cửa sổ một lúc rồi ngủ thiếp đi. Tôi ăn trưa và chiều hôm đó cô Van Campen, giám đốc bệnh viện đến thăm tôi. Cô người nhỏ, hay nghi ngờ, vượt quá cả cương vị của cô. Cô hỏi tôi rất nhiều và hình như thấy mất thể diện khi phục vụ trong quân đội Ý.
- Tôi có được uống rượu trong bữa ăn không? - Tôi hỏi.
- Chỉ khi nào bác sĩ cho phép mới được.
- Thế không thể có trước khi bác sĩ đến à?
- Tuyệt đối không.
- Cô có ý định mời bác sĩ tới không?
- Chúng tôi đã gọi điện thoại cho bác sĩ ở hồ Como rồi.
Cô ta đi ra và cô Gage trở vào.
- Sao ông ăn nói cộc tằn với cô Van Campen thế? - Cô vừa hỏi tôi vừa săn sóc tôi rất tài tình.
- Tôi không muốn thế, chính cô ấy đã gắt gỏng.
- Cô ấy bảo ông kiêu căng và ăn nói cộc tằn.
- Đâu. Nhưng một bệnh viện mà không có bác sĩ thì cô nghĩ sao?
- Bác sĩ sắp đến. Họ đã gọi điện thoại cho ông ta rồi.
- Ông ta làm gì ở đấy? Bơi lội à?
- Không, ông điều hành một bệnh viện nữa.
- Thế tại sao họ không mời bác sĩ khác?
- Thôi, nào hãy chịu khó. Bác sĩ sẽ đến đây bây giờ.
Tôi nhờ gọi ông thường trực, khi ông ta đến tôi nhờ ông mua hộ chai Cinzano và mấy tờ báo xuất bản buổi chiều. Ông đi mua rồi đem về cho tôi các thứ gói trong tờ báo. Ông mở gói giấy ra và theo lời tôi mở nút rồi để chai rượu nho, rượu Vermouth dưới gầm giường. Họ đi ra hết, tôi nằm lại một mình trên giường. Tôi đọc báo một lát với những tin tức mặt trận và danh sách những sĩ quan tử thương và huân chương họ được thưởng. Rồi tôi với chai rượu Cinzano ở gầm giường, cầm chai thẳng đứng để trên bụng, còn cái ly mát lạnh tôi để sát bụng. Tôi uống từng ngụm nhỏ, làm rớt cả rượu lên trên bụng và trong khi uống tôi vẫn cầm cái chai như cũ. Tôi ngắm bóng đêm trùn lên những mái ngói thành phố. Mấy con chim én bay lượn vòng quanh, tôi nhìn những con diều hâu bay lượn trên mái, vừa nhấp nháp rượu Cinzano. Cô Gage mang lên cho tôi một ly rượu bia có trứng gà. Khi cô bước vào tôi vội giấu chai Vermouth sang phía bên kia giường.
- Cô Van Campen đã cho một chút rượu Sherry vào trong đó - Nàng bảo - Ông không nên cộc cằn với cô ấy. Cô ấy không còn trẻ trung gì mà trách nhiệm bệnh viện này lại quá nặng đôi với cô. Bà Walker lại quá già, không giúp được việc gì cho cô ấy cả.
- Cô ấy là một người phụ nữ đặc biệt - Tôi bảo - Cô chuyển lời cám ơn của tôi đến cô ấy.
- Tôi sẽ mang bữa chiều lên ngay cho ông đó.
- Tốt lắm, nhưng tôi chưa thấy đói.
Cô bưng khay vào và để lên giường. Tôi cám ơn cô rồi ăn một ít. Bây giờ trời đã tối hẳn và tôi có thể thấy những tia đèn pha quét trên nền trời. Tôi ngắm một lát rồi đi ngủ. Tôi ngủ say, chỉ trừ có một lần tôi giật mình sợ hãi thức giấc, mồ hôi ướt như tắm, xong tôi cố ngủ lại và quên đi giấc mơ hãi hùng. Tôi thức dậy một lúc lâu trước khi trời sáng. Tôi nghe thấy tiếng gà gáy, từ đó tôi thức luôn cho đến sáng. Tôi mệt và đến lúc sáng hẳn thì tôi ngủ lại.
Chương 14
Khi tôi thức giấc, gian phòng đã tràn ngập ánh nắng. Tôi cứ ngỡ mình đã trở lại mặt trận và nằm trong giường duỗi thẳng tay chân ra. Chân tôi đau nhói. Tôi nhìn xuống đôi chân cuốn trong lần băng dơ bẩn rồi bất chợt nhận ra nơi mình đang ở. Tôi bấm nút chuông. Tiếng chuông vang lên trong hành lang. Tôi nghe thấy tiếng giày cao su. Đó là cô Gage. Trong ánh nắng chói lòa, cô trông già hơn và không còn đẹp như hôm qua.
- Chào ông, đêm hôm qua ông ngủ có ngon giấc không?
- Dạ cám ơn cô, tôi ngủ ngon giấc lắm - Tôi đáp - Tôi có thể cạo râu được không?
- Lúc nãy tôi có vào thăm ông và thấy ông ngủ với vật này bên cạnh ông đây - Nàng mở tủ cầm chai Vermouth đưa lên, rượu trong chai đã gần cạn - Tôi cũng cất luôn chai kia mà tôi đã lấy ra ở dưới gầm giường này đây - Nàng bảo - Sao ông không bảo tôi lấy cho ông một cái ly có phải hơn không?
- Tôi nghĩ có lẽ cô sẽ không cho tôi uống như thế đâu.
- Tôi sẽ để cho ông uống chút đỉnh.
- Thật cô tốt bụng quá.
- Uống lén một mình như thế không tốt. Ông không nên làm thế.
- Vâng, tôi xin nghe lời cô.
- Bạn ông, cô Barkley đã đến - Cô nói.
- Thực à?
- Vâng, nhưng tôi không thích cô ấy.
- Rồi cô sẽ thích nàng. Nàng dễ thương lắm.
Cô Gage lắc đầu.
- Tôi chắc rằng nàng phải đẹp lắm. Xin ông nhích qua đây một tí. Thế, được rồi. Tôi sẽ rửa ráy cho ông trước khi dùng điểm tâm.
Cô lấy khăn, xà phòng và nước ấm rửa cho tôi.
- Nhấc vai lên - Cô bảo - Tốt lắm.
- Tôi có thể cạo râu trước bữa điểm tâm được không?
- Để tôi cho bác thường trực đi gọi ông thợ cạo - Cô đi ra rồi trở vào nói - Bác ấy đã chạy ra ngoài gọi ông thợ cạo rồi. - Cô nhúng chiếc khăn đang cầm nơi tay vào chậu nước.
Bác thợ cạo bước vào trong phòng với ông thường trực. Ông ta khoảng tứ tuần, râu quai nón vểnh lên. Cô Gage đã xong bèn bước ra ngoài. Bác thợ cạo xoa xà phòng lên mặt tôi rồi bắt đầu cạo. Ông rất nghiêm trang và không hé một tiếng nào.
- Có gì lạ không? Bác có được tin tức gì không? - Tôi hỏi.
- Tin tức gì?
- Tin tức gì cũng được. Bất cứ tin gì xảy ra trong thành phố.
- Chúng ta sống trong thời chiến - Bác ta bảo - quân địch nghe ngóng ta khắp mọi nơi.
Tôi nhìn lên bác ta.
- Xin ông giữ yên cho - Bác vừa nói tiếp vừa cạo râu - Tôi không thể nói gì cả.
- Bác có chuyện gì thế? - Tôi hỏi.
- Tôi là dân Ý. Tôi không thể nào có quan hệ với quân địch được.
Tôi không gạn thêm nữa. Ông ta dở người và tối thiểu tôi đang ở dưới lưỡi dao của ông ta, thế là hơn. Có lúc tôi cố nhìn thẳng ông ta.
- Coi chừng đấy - Ông ta bảo - Lưỡi dao này sắc lắm đấy.
Khi cạo xong tôi trả tiền và tặng thêm một nửa đồng “lia”. Ông ta đưa trả lại cho tôi.
- Tôi không thể làm thế. Tôi không ở mặt trận nhưng tôi là dân Ý.
- Cút đi.
- Xin phép ông - Nói xong ông ta cuốn vội dao cạo vào trong tờ báo. Ông ta bước nhanh ra khỏi phòng để lại năm xu trên bàn.
Tôi bấm chuông gọi. Cô Gage bước vào. Tôi bảo cô :
- Xin cô vui lòng gọi hộ giùm ông thường trực.
- Có ngay.
Ông thường trực bước vào cố nén cười.
- Có phải bác thợ cạo điên không?
- Thưa trung úy không ạ. Ông ta lầm đấy, ông ta không hiểu rõ và ngỡ rằng trung úy là một sĩ quan Áo.
- Ồ hèn nào - Tôi nói.
- Ha! Ha! Ha! - Ông thường trực cười to lên - Bác ta trông buồn cười quá. Bác ta bảo nếu lúc nãy trung úy có một hành động nào bác ta sẽ... (Ông để ngón tay trỏ ngang bụng) Ha! Ha! Ha! (Ông cố nín cười) Khi tôi bảo cho hắn rõ trung úy không phải là người Áo. Ha! Ha! Ha!
- Ha! Ha! Ha! - Tôi chua chát bảo - Nếu hắn cắt cổ tôi thì buôn cười quá nhỉ? Ha! Ha! Ha!
- Không, thưa trung úy. Không, không. Hắn ta rất sợ người Áo. Ha! Ha! Ha!
- Ha! Ha! Ha! - Tôi bảo - Thôi đi ra đi.
Ông ta đi ra rồi mà tiếng cười còn vang dội hành lang. Tôi nghe tiếng chân tiến lại gần. Tôi nhìn ra cửa. Đó là Catherine Barkley.
Nàng vào phòng, đến bên giường tôi.
- Chào anh yêu - Trông nàng tươi trẻ và đẹp vô cùng. Tôi có cảm tưởng là chưa hê thấy người nào đẹp như thế này cả.
- Chào em.
Thấy mặt nàng bỗng nhiên tôi cảm thấy yêu nàng vô hạn. Tôi hoàn toàn bối rối. Nàng nhìn ra phía cửa không thấy ai bèn ngồi xuống cạnh giường và nghiêng mình hôn tôi. Tôi kéo sát người nàng xuống, hôn nàng và nghe rõ cả nhịp tim nàng đập.
- Em yêu quý - Tôi nói - Em đến đây thật tuyệt quá.
- Điều đó không khó. Nhưng ở lại lâu thì không được.
- Em phải ở lại đây. Ô, em thật là tuyệt.
Tôi say sưa ngây ngất vì nàng. Tôi không tin là nàng thật, tôi siết chặt nàng trong vòng tay.
- Không nên anh - Nàng nói - Anh chưa mạnh hẳn.
- Không, anh mạnh mà. Được mà.
- Đừng, anh chưa mạnh hẳn đâu.
- Không, anh mạnh rồi, anh mạnh rồi mà. Cứ ở lại đây với anh.
- Anh yêu em lắm ư?
- Ừ, anh yêu em thật đấy. Anh yêu điên cuồng. Anh xin em hãy ở lại đây với anh.
- Hãy lắng nghe đôi tim ta đập.
- Anh không biết tim tiếc gì hết. Anh cần em. Anh điên lên vì em đây này.
- Anh yêu em thực ư?
- Đừng hỏi mãi như thế. Này, anh xin, anh xin em, Catherine.
- Được rồi, nhưng một phút thôi nhé.
- Cũng được - Tôi nói - Đóng cửa lại.
- Đừng anh, anh không nên thế.
- Có... lại đây... Đừng nói nữa. Ôi, anh xin, lại đây!
Catherine ngồi xuống chiếc ghế cạnh giường. Cửa phòng mở toang. Sự bồng bột dịu xuống, tôi cảm thấy dễ chịu hơn bao giờ hết.
- Bây giờ thì anh đã tin rằng em yêu anh rồi đấy chứ? - Nàng hỏi tôi.
- Em rất duyên dáng - Tôi nói - Em phải ở lại đây. Họ không thể đuổi em đi đâu. Anh điên lên vì yêu em.
- Chúng ta phải thận trọng. Như thế là điên rồ. Chúng ta không thể làm như thế.
- Được, ban đêm?
- Chúng ta phải thận trọng. Riêng anh, anh phải dè dặt, thận trọng trước mặt mọi người.
- Anh xin hứa với em.
- Nhớ nghe anh. Anh đáng yêu lắm. Anh yêu em lắm phải không hả anh?
- Đừng nhắc lại điều đó mãi nữa. Em không biết như thế sẽ làm anh bực mình sao?
- Em sẽ chú ý. Em không muốn làm anh bực. Em phải đi đây, anh yêu, thật đấy.
- Trở lại ngay em nhé.
- Khi nào tiện em sẽ trở lại.
- Chào em.
- Chào anh yêu quý!
Nàng đã đi xa rồi. Chúa biết là trước đây tôi không muốn yêu nàng. Trước đây tôi không muốn yêu ai cả. Nhưng Chúa biết tôi đã yêu và tôi đã nằm ở gian phòng bệnh viện Milan, mọi có vẻ diễn lại trong trí tôi, tôi cảm thấy khoan khoái và nhẹ nhàng. Một lúc sau cô Gage đi vào.
- Bác sĩ sắp đến - Cô bảo - Bác sĩ vừa gọi điện thoại từ Como về.
- Khi nào thì ông ấy đến đây?
- Chiều nay.
Chương 15
Từ đó đến chiều khi bác sĩ đến không có gì xảy ra. Bác sĩ người ốm yếu, thanh mảnh, trầm tĩnh vẻ bàng hoàng vì chiến tranh. Ông gắp những mảnh đạn trong đùi tôi ra một cách khéo léo và thoáng ẩn một sự gớm ghiếc. Ông dùng một loại thuốc tê tại nơi đau gọi là “tuyết”, làm cho thớ thịt cứng lại, không đau, cho đến khi dao hay kẹp lách đến vùng thịt dưới lớp bị tê. Bệnh nhân nhận thấy rõ vùng bị tê ở đâu. Một lát sau sự tinh tế tế nhị của bác sĩ cũng cạn kiệt, và ông xét thấy phải chiếu điện.
- Những kết quả thăm dò như thế không được đầy đủ - Ông nói.
Họ chiếu điện cho tôi ở tại Ospedale Maggiore. Bác sĩ chiếu điện là người hăng hái, đắc lực và vui tính. Người ta đặt bệnh nhân nằm thẳng lưng để có thể thấy những mảnh đạn lớn qua máy chiếu điện. Họ hứa sẽ gởi cho chúng tôi phim chiếu điện. Bác sĩ yêu cầu tôi viết vào sổ tay của ông tên tôi, đơn vị và vài cảm tưởng của tôi. Ông bảo những đơn vị ngoại quốc rất xấu xa, tàn bạo và khó chịu. Bọn Áo là bọn chó má. Ông hỏi tôi đã giết được bao nhiêu tên. Thức ra tôi có giết tên nào đâu, nhưng để cho ông vừa lòng tôi đành bảo là tôi đã giết rất nhiều. Cô Gage ở trong phòng với tôi. Bác sĩ choàng tay qua người nàng và bảo nàng đẹp hơn cả nữ hoàng Cleopâtre. Không biết nàng có điều gì không. Cléopâtre là nữ hoàng thưở trước của Ai Cập. Vâng đúng, cô Gage giống Cléopâtre. Chúng tôi trở về bệnh viện nhỏ trong chiếc xe Hồng thập tự và một lúc sau tôi được mang lên thang máy và đặt trở lại giường. Phim chiếu điện đến vào buổi chiều. Bác sĩ đã bảo may ra thì chiều hôm đó ông ta có thể gởi đến và ông ta đã giữ lời hứa. Catherine Barkley đưa cho tôi xem. Người ta bọc phim trong những bao đỏ. Nàng lấy ra và cầm đưa lên đèn và cả hai đứa chúng tôi đều xem.
- Cái này cho chân phải - Nàng nói rồi cho vào bao - Còn cái này bên chân trái.
- Để đó đi em - Tôi bảo - Lại đây với anh.
- Không được đâu anh - Nàng nói - Em chỉ đến một lát để đưa cho anh xem thôi.
Nàng đi ra bỏ tôi nằm đó. Buổi chiều trời nóng bức quá. Tôi mệt vì nằm mãi trên giường. Tôi gởi ông thường trực mua báo, tất cả các số báo nếu được.
Trước khi ông ta trở lại, có ba vị bác sĩ vào phòng tôi. Tôi để ý nên biết được vị bác sĩ nào tay nghề kém thì có khuynh hướng hội chẩn và nhờ sự giúp đỡ trong việc chẩn bệnh. Bác sĩ nào mà không thể mổ được ruột thừa thì sẽ giao lại cho bác sĩ nào không đủ tài sức cắt amidan. Ba vị bác sĩ này thuộc loại đó.
- Đây chàng trai trẻ đây - Vị bác sĩ trưởng có đôi bàn tay khéo léo bảo.
- Anh thấy trong người như thế nào? - Ông bác sĩ cao gầy có râu hỏi tôi.
Vị thứ ba có mang phim chiếu điện đựng trong bao đỏ lặng lẽ không nói gì.
- Có lẽ tốt hơn nên tháo băng - Ông bác sĩ có râu nói.
- Hẳn rồi, xin cô làm ơn tháo thay băng - Ông bác sĩ trưởng bảo với cô Gage.
Cô Gage tháo băng ra. Tôi nhìn xuống đôi chân của mình. Lúc ở bệnh viện mặt trận, đôi chân tôi trông giống như khúc dồi cũ. Bây giờ nó đóng vẩy cứng và đầu gối sưng to lên, tái nhợt, còn bắp chân lún xuống nhưng không có mủ.
- Sạch lắm - Vị bác sĩ bảo - Sạch lắm, tốt lắm.
- Ồ - Vị bác sĩ để râu nói còn ông bác sĩ thứ ba thì đưa mắt nhìn ông bác sĩ trưởng.
- Cử động đầu gối xem nào? - Ông bác sĩ có râu bảo.
- Tôi không thể cử động được.
- Cố thử những khớp xuống xem - Ông bác sĩ có râu bảo. Trên tay áo ông, ngoài ba sao còn có một gạch nữa, như thế có nghĩa là ông ở vào cấp bậc đại úy.
- Hẳn là thế - Bác sĩ trưởng nói rồi hai người từ từ gập nhẹ chân phải tôi lại.
- Ông làm đau chân tôi quá - Tôi bảo.
- Được, được thêm chút nữa.
- Thôi đủ rồi, đừng kéo xa thêm nữa - Tôi nói.
- Cử động được một phần - Vị đại úy quân y nói. Ông ta đứng thẳng người lên - Bác sĩ làm ơn cho tôi xem những phim chụp. Ông bác sĩ kia đưa cho ông ta một trong những phim chụp - Không, chân trái cơ.
- Chân trái đây, thưa bác sĩ.
- Đúng, tôi đang nhìn một góc khác. - Ông trả lại bản chụp và quan sát bản kia một lúc.
- Đấy bác sĩ thấy không? - Ông ta chỉ một vật lạ có hình cầu hiện rõ trong ánh sáng. Họ cùng xem xét bức chụp đó một lúc khá lâu.
- Tôi chỉ có thể nêu lên điều này - Vị đại úy quân y có râu lên tiếng - Đây chỉ là vấn đề thời gian, có thể trong ba tháng hoặc sáu tháng.
- Dĩ nhiên là phải để cho nước ở khớp xương có thì giờ tạo nên chất mới.
- Chính thế, đây chỉ là vấn đề thời gian. Dầu tận tâm đến đâu tôi cũng không thể giải phẫu một cái đầu gối như thế trước khi chỗ mảnh đạn không bị nhiễm trùng.
- Tôi đồng ý với bác sĩ.
- Sáu tháng để làm gì? - Tôi hỏi.
- Cần sáu tháng để cho chỗ mảnh đạn không bị nhiễm trùng và để cho cuộc giải phẫu hoàn toàn an toàn.
- Tôi không tin thế - Tôi nói.
- Thế anh có muốn giữ đầu gối anh lại không?
- Không - Tôi đáp.
- Sao?
- Tôi muốn cắt bỏ nó đi - Tôi trả lời - Rồi thay thế vào đó một cái móc.
- Anh muốn nói gì? Một cái móc hử?
- Hắn đùa đấy - Ông bác sĩ trưởng bảo. Ông vỗ nhẹ vào vai tôi - Hắn ta muốn giữ đầu gối lại chứ. Đó là một chàng trai dũng cảm, anh ta đã được đề nghị gắn huy chương bạc.
- Xin thành thật khen ngợi anh - Vị đại úy quân y nói. Ông ta bắt tay tôi - Tôi có thể nói nếu để mổ có kết quả tốt thì nên đợi sáu tháng trước khi mổ đầu gối. Bây giờ thì tuỳ anh, muốn có ý kiến khác cũng được.
- Cám ơn bác sĩ nhiều lắm. Tôi luôn luôn tán thành ý kiến của bác sĩ.
Vị đại úy quân y nhìn đồng hồ tay rồi bảo :
- Chúng tôi phải đi thôi. Chúc anh may mắn.
- Tạm biệt và rất cám ơn - Tôi bắt tay vị bác sĩ thứ ba rồi cả ba ra khỏi phòng
- Cô Gage - Tôi gọi cô y tá. Cô Gage đi vào phòng.
- Xin cô làm ơn cho mời bác sĩ trưởng trở lại đây một lát - Tôi nói.
Bác sĩ vào phòng, mũ cầm tay đứng cạnh giường tôi và hỏi :
- Anh muốn nói với tôi à?
- Vâng, thưa bác sĩ, tôi không thể đợi trong sáu tháng để chờ giải phẫu. Trời ơi, thưa bác sĩ, bác sĩ đã có bao giờ nằm trên giường suốt sáu tháng chưa?
- Không phải lúc nào anh cũng nằm trên giường. Thoạt tiên người ta cho anh ra tắm nắng, rồi sau đó anh có thể đi đứng với đôi nạng.
- Như thế trong suốt sáu tháng rồi mới giải phẫu phải không?
- Đó là cách chắc chắn nhất. Phải để cho các vật lạ không bị nhiễm trùng và dịch ở đầu gối được tái tạo. Có như thế thì khi mổ mới an toàn được.
- Chính bác sĩ cũng tin chắc rằng tôi phải chờ một thời gian như thế à?
- Đó là cách chắc chắn nhất.
- Ở đây ai lo việc đó?
- Một chuyên viên giải phẫu tài ba nhất Milan.
- Ông ấy là đại úy quân y bậc nhì phải không?
- Phải, nhưng ông ấy là một nhà giải phẫu đại tài.
- Tôi không muốn để cho một bác sĩ quân y hạng nhì mổ xẻ tôi. Nếu ông ta tài giỏi, ông ta đã lên hạng nhất rồi. Thưa bác sĩ, tôi biết thế nào là một bác sĩ quân y hạng nhì mà!
- Ông ấy là một nhà giải phẫu đại tài. Tôi thích ý kiến của ông ấy hơn ý kiến của những nhà giải phẫu khác mà tôi biết.
- Tôi có thể gặp một bác sĩ giải phẫu nào khác được không?
- Dĩ nhiên là được, nếu anh muốn. Còn tôi thì tôi luôn luôn theo ý kiến của bác sĩ Varella.
- Ông có thể mời một bác sĩ giải phẫu khác đến xem chân cho tôi không?
- Để tôi gọi Valentini.
- Ai thế?
- Ông là bác sĩ giải phẫu của Ospedale Maggiore.
- Thế thì tốt lắm. Tôi sẽ không quên ơn ông đâu. Xin bác sĩ hiểu giùm cho, tôi không thể nằm trên giường này suốt sáu tháng.
- Nhưng anh đâu phải nằm trên giường mãi. Thoạt tiên người ta cho anh tắm nắng rồi sau đó anh tập vài cử động cho đến khi nào không nhiễm trùng thì người ta giải phẫu cho anh.
- Nhưng tôi không thể chờ đợi sáu tháng.
Vị bác sĩ duỗi thẳng những ngón tay thon trên chiếc mũ rồi mỉm cười.
- Anh nóng lòng trở lại chiến trường đến thế cơ à?
- Tại sao không cơ chứ?
- Thế thì tốt lắm, anh thật là người có tâm hồn cao đẹp - Ông cúi xuống hôn nhẹ vào trán tôi - Tôi sẽ cho người mời Valentini. Đừng nóng nảy và tự giày vò mình nữa. Hãy bình tĩnh.
- Xin mời ông uống một tí rượu với tôi nhé.
- Không, cám ơn. Tôi không uống rượu bao giờ.
- Chỉ uống một ly thôi mà.
Tôi bấm chuông gọi ông thường trực mang đến hai ly.
- Không, không. Tôi đi đây, họ đang chờ tôi.
- Chào bác sĩ.
- Chào anh.
Hai tiếng đồng hồ sau, bác sĩ Valentini bước vào phòng. Trông ông có vẻ vội vã, ria vểnh lên. Ông mang cấp hiệu thiếu tá, gương mặt sạm nâu và ông luôn luôn tươi cười.
- Anh làm sao mà bị thương khổ sở như thế này? - Ông hỏi tôi - Đưa tôi xem phim chụp nào. Ừ ừ, phải rồi. Đúng thế. Trông anh khỏe mạnh như một con trăn. Cô gái đẹp này là ai thê? Người yêu của anh phải không? Cuộc chiến tranh này đáng ghét quá phải không? Anh có cảm giác gì không? Anh thật là con người can đảm. Tôi sẽ làm cho anh khỏe lại. Như thế này đau à? Anh bảo làm như thế này đau à? Coi bộ mấy ông bác sĩ kia thích làm anh đau lắm hử? Từ đó đến nay họ đã điều trị cho anh những gì nào. Cô gái đó nói được tiếng Ý không? Nàng phải học nói mới được. Thật là một cô gái đẹp. Tôi có thể dạy nàng học. Tôi cũng muốn thành một bệnh nhân nằm đây. Không, nhưng tôi sẽ đỡ không công cho. Liệu nàng có hiểu thế không? Nàng sẽ sanh cho anh một thằng bé con xinh xinh hoặc một con bé tóc hung hung như nàng. Được rồi, tốt lắm, được lắm. Thật là một cô gái đáng yêu! Anh hỏi xem liệu nàng có muốn dùng cơm tối với tôi không. Không, không, tôi không cướp nàng của anh đâu. Cám ơn, cám ơn cô nhiều lắm. Chỉ có thế thôi, tôi chỉ muốn biết có thế thôi - Ông ta vỗ vai tôi - Đừng có băng bó nữa.
- Ông dùng với tôi một ly rượu nhé?
- Một ly à? Được rồi. Mười ly cũng còn được. Thế rượu đâu?
- Trong tủ. Cô Barkley sẽ đi lấy rượu.
- Chúc anh mạnh khỏe. Chúc cô mạnh khoẻ. Người đâu mà đẹp thế. Tôi sẽ mang cho anh một chai cô nhắc ngon hơn thứ này. - Ông lấy tay chùi ria mép.
- Ông nghĩ xem đến bao giờ thì giải phẫu chân tôi được?
- Sáng mai. Không thể sớm hơn được. Anh phải không ăn gì cả. Đừng ăn gì hết. Người ta phải tắm sạch sẽ cho anh. Tôi sẽ căn dặn vài điều cần thiết với bà y tá già ở dưới lầu. Thôi chào anh. Sáng mai tôi sẽ gặp lại anh. Tôi sẽ mang cho anh thứ rượu cô nhắc ngon hơn loại này. Ở đây thật đầy đủ tiện nghi. Chào anh. Sáng mai sẽ gặp lại.
Ra đến cửa ông còn vẫy tay chào, bộ ria vểnh hẳn lên. Nét tươi cười hiện lên trên khuôn mặt sạm nâu của ông. Trên tay áo của ông có gắn một ngôi sao nằm trong hình vuông vì ông là thiếu tá.
Chương 16
Đêm đó một con dơi bay vào phòng qua cửa sổ thấp, phía bao lơn mà ở đó chúng tôi có thể ngắm đêm về trên những mái nhà trong thành phố. Trong phòng tối đen, chỉ trừ một tia sáng yếu ớt của đêm trên thành phố. Con dơi không sợ gì cả, bay tìm mồi trong phòng giống như ngoài trời. Chúng tôi nằm nhìn theo nó, tôi chắc rằng nó không trông thấy chúng tôi vì chúng tôi yên lặng. Khi nó bay ra ngoài trời rồi, chúng tôi thấy một tia đèn pha chiếu lên trời rồi tắt mất và đâu đấy lại chìm vào trong bóng tối mênh mông. Gió đêm nhẹ thổi và chúng tôi nghe những người lính phòng không trò chuyện trên mái nhà lân cận. Trời mát nên họ phải khoác áo choàng. Tôi lo ban đêm có thể có người lên phòng, nhưng Catherine bảo ai nấy đã yên giấc. Có lúc chúng tôi ngủ thiếp đi. Khi thức dậy tôi không thấy nàng ở trong phòng. Tôi nghe tiếng chân nàng đi dọc hành lang rồi tiếng mở cửa. Nàng lại gần giường và nói mọi việc đều tốt đẹp. nàng đi xuống nhà và thấy ai nấy đều yên giấc. Nàng có đứng ở ngoài cửa phòng cô Van Campen và nghe hơi thở đều đều của cô qua giấc ngủ. Nàng mang bịch bánh bích quy lên, tôi vừa ăn bánh vừa uống Vermouth. Chúng tôi rất đói nhưng nàng bảo tôi phải giải quyết những thứ này trong vòng mấy tiếng thôi. Tôi lại ngủ thiếp đi cho tới sáng. Lúc tôi tỉnh giấc nàng đã đi ra từ bao giờ. Rồi nàng quay trở lại, xinh tươi, đáng yêu và ngồi xuống giường. Mặt trời đã mọc trong lúc tôi ngậm ống cặp nhiệt trong mồm. Hơi sương trên các mái nhà thoang thoảng cùng với mùi cà phê các anh pháo thủ uống trên mái nhà gần đó.
- Ước gì chúng ta được đi dạo - Catherine bảo. - Nếu có được chiếc xe đẩy, em sẽ đẩy anh đi.
- Làm sao người ta có thể đặt anh vào chiếc xe ấy được?
- Ồ, cũng có cách chứ.
- Chúng ta sẽ đi đến công viên và dùng điểm tâm ngoài trời. - Tôi đưa mắt nhìn ra cửa.
- Vâng - Nàng bảo - Nhưng bây giờ em phải sửa soạn cho anh để bác sĩ Valentini khám cho anh chứ.
- Anh thấy ông ta có vẻ xuất sắc.
- Em không thích ông ta bằng anh thích. Nhưng em cho rằng ông ta cũng tài giỏi.
- Em đi ngủ lại đi, Catherine, đi đi em - Tôi nói.
- Không được, chúng ta chẳng phải đã qua một đêm đẹp đẽ rồi đó sao?
- Liệu đêm nay em có thể còn phải trực không?
- Có lẽ có. Nhưng anh đâu có cần em.
- Có, anh cần em lắm.
- Ồ không, anh chưa mổ bao giờ, anh đâu có biết lúc ấy anh sẽ ra sao.
- Anh sẽ khỏe như thường.
- Anh sẽ yếu, và em thì chẳng giúp được gì cho anh.
- Thế thì trở lại bây giờ.
- Không được - Nàng bảo - Em còn phải làm bảng ghi nhiệt độ cho anh, rồi sửa soạn cho anh đi mổ.
- Em không yêu anh, nếu em thật tình yêu anh, em sẽ trở lại.
- Không ai kỳ cục bằng anh - Nàng hôn tôi - Bảng ghi nhiệt độ của anh tuyệt lắm. Nhiệt độ của anh bình thường như những người khác.
- Còn em thì cái gì cũng tuyệt cả.
- Ồ không. Nhiệt độ của anh tuyệt thật mà. Em rất hài lòng.
- Biết đâu con cái chúng ta cũng có nhiệt độ tuyệt như vậy.
- Có thể con cái chúng ta lại có nhiệt độ rất tồi.
- Em sẽ làm gì cho anh để bác sĩ Valentini khám?
- Không nhiều lắm nhưng hơi khó chịu
- Anh không muốn em làm việc đó.
- Em không làm thì ai? Em không muốn ai khác mó vào người anh. Buồn cười quá phải không anh? Nhưng điều đó làm em tức giận khi một ai khác mó vào người anh.
- Cả cô Ferguson, cô Gage và bà y tá kia nữa. À tên bà ta là gỉ nhỉ?
- Bà Walker.
- Đúng rồi. Ở đây có nhiều nữ y tá quá. Cần phải có thêm thương binh nếu không họ sẽ mời chúng em đi nơi khác. Hiện giờ ở đây có bốn y tá.
- Có lẽ sẽ có thêm thương binh. Người ta cần dùng tất cả các y tá vì bệnh viện này khá lớn. Em mong sẽ có thương binh đến. Nếu họ gởi trả em về thì em biết làm gì? Chỉ trừ có thêm thương binh, không thì họ sẽ sa thải em.
- Anh sẽ đi với em.
- Đừng có nói dại. Anh chưa thể đi lại được. Nhưng ráng mau bình phục đi anh yêu, rồi chúng mình sẽ đi đến một nơi nào đó.
- Rồi sau đó ra sao?
- Sau đó chiến tranh có thể sẽ chấm dứt. Nó không thể kéo dài mãi được.
- Anh sẽ bình phục. Valentini sẽ chữa cho anh khỏi.
- Chắc chắn là như thế rồi. Với bộ râu như thế ông ta sẽ chữa khỏi cho anh. Này anh yêu, khi người ta cho anh ngửi thuốc mê thì anh hãy nghĩ tới việc gì khác, chứ đừng nghĩ đến chuyện chúng mình nhé, khi bị thuốc mê người ta hay mê sảng.
- Thế thì anh phải nghĩ gì bây giờ?
- Gì cũng được miễn đừng nghĩ đến chúng mình thì thôi. Hãy nghĩ về bố mẹ anh hay cô nào khác cũng được.
- Không được.
- Vậy thì lúc ấy anh hãy cầu nguyện, chúng sẽ gây cho anh một ấn tượng lớn.
- Nhưng có thể anh sẽ không nói gì cả.
- Đúng đấy. Thường thường người ta không nói gì hết.
- Anh sẽ không nói gì cả.
- Đừng khoe tài, anh yêu. Em xin anh đấy. Đừng có khoe tài. Anh đáng yêu lắm rồi, không cần phải khoe khoang gì hết.
- Anh sẽ không nói tiếng nào cả.
- Anh yêu, bây giờ anh khoe tài với em. Anh biết là anh không cần phải khoe gì hết. Khi người ta bảo anh thở mạnh, anh hãy đọc kinh cầu nguyện hoặc vài câu thơ hay gì đó. Như thế dễ thương hơn và em sẽ được hãnh diện vì anh. Nhiệt độ anh bình thường và anh ngủ như một đứa trẻ con, tay choàng qua một chiếc gối mà anh nghĩ đó là em, hay là một cô gái nào khác, một cô gái Ý xinh đẹp chẳng hạn.
- Không, chính là em mà.
- Dĩ nhiên là em. Ỗ, em yêu anh vô ngần. Rồi đây Valentini sẽ chữa lại cho chân anh lành hẳn. Em rất hài lòng là em không dự cuộc giải phẫu này.
- Đêm nay em có phiên gác à?
- Vâng, nhưng tới lúc đó anh đâu cần đến em?
- Hãy chờ xem.
- Xong rồi anh yêu. Bây giờ anh đã sạch sẽ từ trong ra ngoài. Này, anh hãy nói cho em nghe đi, anh đã yêu bao nhiêu người rồi?
- Chưa có ai cả.
- Cũng chưa yêu cả em luôn à?
- Không, em thì khác.
- Còn bao nhiêu người trước nưã?
- Không có ai cả.
- Với mấy người anh đã... nói thế nào nhỉ? Anh đã... đi lại rồi?
- Không có ai cả.
- Anh dối em.
- Phải.
- Được, không sao. Hãy dối em luôn đi, em muốn anh nói dối với em như thế. Các cô kia có đẹp không?
- Anh chưa hề đi lại với ai cả mà.
- Biết rồi. Nhưng các cô ấy có hấp dẫn không?
- Anh không biết tí gì về việc ấy cả.
- Anh chỉ thuộc một mình em thôi. Thật thế. Anh chưa hề thuộc về một người nào khác cả. Hơn nữa cũng chẳng sao nếu điều đó không thật. Em không sợ họ đâu. Nhưng đừng nhắc họ với em. Này anh, khi một người đàn ông đi lại với một phụ nữ thì đến khi nào họ cho biết giá cả?
- Anh không biết.
- Không biết thật à? Thế họ có bảo là họ yêu người đàn ông không? Kể cho em nghe đi, em muốn biết điều ấy lắm.
- Có chứ. Nếu người đàn ông muốn cô gái nói thế.
- Thế còn anh ta? Anh ta có bảo là anh ta yêu cô gái đó không? Trả lời đi anh, rất quan trọng đây.
- Anh ta cũng nói thế nếu anh ta thích.
- Nhưng còn anh, chẳng bao giờ anh nói thế chứ, phải không anh?
- Không.
- Thật chứ? Anh hãy nói thật với em đi.
- Không mà. (Tôi đã nói dối nàng).
- Em đã biết chắc rằng anh không bao giờ nói thế cả.
Bên ngoài mặt trời đã lên đến mái ngói và tôi có thể nhìn thấy nó lấp lánh trên đỉnh tháp nhà thờ. Tôi hoàn toàn sạch sẽ từ trong ra ngoài. Tôi chỉ còn đợi bác sĩ đến.
- Này, anh như thế đó hả? - Catherine tiếp tục hỏi - Cô gái chỉ nói những gì người đàn ông muốn, phải không anh?
- Không hẳn luôn luôn như thế.
- Còn em thì em sẽ làm thế. Em sẽ nói điều anh muốn và làm tất cả những gì anh muốn. Như thế anh sẽ không bao giờ cần đến những cô gái khác, phải không anh? - Nàng sung sướng nhìn tôi - Em sẽ làm những điều anh muốn, em sẽ nói những gì anh muốn, và như thế em sẽ hoàn toàn thành công, phải không anh?
- Phải.
- Thế bây giờ anh muốn em làm gì nào?
- Lại đây nằm với anh.
- Được, em sẽ đến đây.
- Ỗ, em yêu, em yêu, em yêu quý của anh.
- Anh thấy chưa, em làm bất cứ việc gì anh muốn.
- Em đáng yêu quá.
- Em sợ rằng em không biết thật rõ...
- Em đáng yêu lắm.
- Em muốn những gì anh muốn. Em không tồn tại nữa, chỉ có những điều anh muốn...
- Em yêu của anh.
- Em dễ thương. Có đúng là em dễ thương không? Này, anh không muốn cô nào khác đấy chứ?
- Không.
- Em đã hoàn toàn chiều theo ý của anh đó, anh thấy chưa?
- Anh thấy chứ. Em dễ thương, em làm tất cả những điều mà anh muốn.
Sau cuộc giải phẫu, khi tỉnh dậy, tôi biết rằng mình chưa chết. Mình không chết được. Người ta chỉ là mình ngạt thở thôi. Điều đó không có gì giống cái chết cả. Đó chỉ là phương pháp hóa học làm cho ta mê đi để cuối cùng không còn cảm giác gì nữa. Sau đó ta có cảm tưởng giống như say rượu nhưng chỉ khác một điều là lúc nôn mửa thì chẳng có gì tháo ra ngoài trừ mật xanh, và vẫn không thấy dễ chịu gì hơn.
Một lát sau tôi nhận ra Gage và cô hỏi :
- Bây giờ anh cảm thấy như thế nào?
- Tốt hơn - Tôi đáp.
- Bác sĩ đã làm một công việc kỳ diệu trên đầu gối của anh.
- Lâu không?
- Hai tiếng rưỡi đồng hồ.
- Tôi có nói sảng không?
- Anh không có nói gì cả. Đừng nói chuyện nữa. Nằm yên đi.
Tôi thấy khó chịu trong người và Catherine có lý, tôi chẳng chú ý gì đến cô y tá đêm hôm đó cả.
Giờ đây bệnh viện đã có thêm ba thương binh nữa. Một cậu ở Georgia thuộc Hồng thập tự, gầy yếu, bị sốt rét. Một cậu ở New York trông bảnh trai nhưng cũng gầy ốm bị mắc bệnh sốt rét vàng da. Còn cậu thứ ba là một cậu bé can đảm tìm cách tháo hạt nổ trên một quả đạn pháo để làm kỷ niệm. Đó là loại đạn mà bọn Áo sử dụng trong vùng núi non - sau khi đạn nổ, tên lửa bay đi và nổ tung khi chạm phải một vật gì.
Mấy cô y tá kia rất mến Catherine Barkley, nàng luôn luôn nhận trực đêm. Đôi với các bệnh nhân sốt rét, nàng không phải làm gì nhiều, còn cậu bé đã tháo đầu đạn tên lửa là bạn của chúng tôi, không khi nào cậu ta bấm chuông ban đêm, trừ khi có việc cần kíp lắm. Nhờ thế chúng tôi được gần gũi nhau trong những lúc nàng rỗi. Tôi yêu nàng tha thiết và nàng cũng say đắm yêu tôi. Ban ngày tôi ngủ và khi thức giấc chúng tôi viết thư cho nhau nhờ tay cô Ferfuson chuyển giao. Cô Ferguson thật tử tế. Tôi không biết gì về cô ngoài trừ cô có một người em ở sư đoàn 52 và một người nữa ở Mesopotamia. Cô đối xử rất tốt với Catherine. Có một lần tôi hỏi nàng :
- Sau này cô có đến dự đám cưới chúng tôi không, cô Ferguson?
- Biết bao giờ anh mới lấy vợ.
- Biết đâu đấy!
- Chẳng bao giờ anh cưới vợ cả.
- Tại sao không?
- Hai người sẽ giận dỗi nhau trước khi lấy nhau.
- Không, chúng tôi không làm thế đâu.
- Thời gian còn dài mà.
- Chúng tôi không giận dỗi với nhau đâu.
- Vậy thì anh sẽ chết. Người ta sẽ giận nhau hoặc là chết. Luôn luôn thế, không bao giờ cưới nhau được cả.
Tôi nắm tay cô Ferguson.
- Đừng chạm vào tôi - Cô bảo - Tôi không khóc đâu. Biết đâu hai người sẽ được toại nguyện. Nhưng hãy coi chừng, anh đừng làm khổ nàng đấy nhé. Nếu anh làm khổ nàng, tôi sẽ giết anh đấy.
- Tôi sẽ không làm khổ nàng đâu.
- Được rồi, nhưng coi chừng đấy. Tôi mong mọi việc đều êm đẹp. Anh hạnh phúc đấy chứ?
- Vâng, chúng tôi hoàn toàn hạnh phúc.
- Đừng cãi nhau, và đừng làm khổ nàng nhé.
- Không đâu.
- Nhưng nhớ coi chừng giữ gìn cẩn thận đấy. Tôi không muốn thấy nàng có con trong thời loạn ly này đâu nhé.
- Cô Fergy, cô tốt bụng quá.
- Đâu có gì. Thôi đừng nịnh. Chân anh thế nào?
- Rất tốt.
- Còn đầu anh? - Cô xoa nhẹ mấy đầu ngón tay trên đầu tôi. Tôi có cảm giác như kiến bò ở chân ấy.
- Không đau gì cả.
- Một vết như thế này có thể làm cho anh điên được. Thế anh không cảm thấy đau đớn gì cả à?
- Không.
- Anh may thật. Viết thư xong chưa? Tôi còn phải xuống đây.
- Đây rồi - Tôi bảo.
- Anh nên bảo nàng nghỉ gác đêm một thời gian. Nàng đã quá mệt nhọc rồi đó.
- Được rồi, tôi sẽ bảo nàng.
- Tôi muốn gác đêm thay nàng, nhưng nàng không chịu. Mấy cô kia thì thích để cho nàng gác như vậy lắm. Anh nên để cho nàng nghỉ ngơi một thời gian đi.
- Được rồi.
- A, cô Van Campen có nói bóng gió về việc anh ngủ quá trưa.
- Mặc cô ta chứ!
- Tốt hơn anh nên để nàng nghỉ gác đêm một thời gian.
- Tôi cũng muốn thế.
- Không, anh không muốn thế đâu. Nhưng nếu anh làm được việc đó, tôi sẽ phục anh nhiều hơn.
- Được rồi, tôi sẽ bảo nàng nghỉ.
- Tôi không tin đâu.
Ferguson lấy bức thư rồi đi ra ngoài. Tôi bấm chuông. Một lát sau cô Gage bước vào hỏi :
- Có chuyện gì thế?
- Tôi muốn nói chuyện với cô chứ không có gì. Cô nghĩ xem cô Barkley có nên nghỉ gác đêm một thời gian không? Trông cô ấy có vẻ mệt kinh khủng. Sao cô ấy lại phải gác đêm mãi thế?
Cô Gage nhìn tôi bảo :
- Tôi là bạn anh mà. Anh khỏi phải nói với tôi như thế.
- Cô muốn nói gì, tôi không hiểu.
- Đừng làm bộ ngớ ngẩn. Bộ không phải anh muốn như thế hay sao?
- Cô dùng một ly Vermouth nhé?
- Được rồi, nhưng tôi phải đi ngay đấy.
Cô Gage lấy trong tủ ra một cái ly và chai rượu.
- Cô uống ly đi. Tôi uống bằng chai cũng được.
- Chúc sức khỏe anh - Cô Gage nói.
- Thế cô Van Campen đã nói gì về việc tôi ngủ trưa?
- Cô ta chỉ càu nhàu thôi. Cô ta gọi anh là bệnh nhân ưu tiên.
- Quỷ tha cô ấy đi!
- Cô ấy không xấu bụng đâu. Cô ấy lớn tuổi và hay gắt gỏng thôi. Cô ấy không thích anh đâu.
- Tôi biết.
- Còn tôi thì trái lại đấy nhé. Tôi luôn luôn là bạn của anh. Đừng nên quên điều ấy.
- Cô rất dễ thương.
- Thôi đi, tôi biết anh thấy ai là dễ thương rồi. Nhưng dù sao tôi cũng vẫn là bạn anh. Anh thấy chân thế nào?
- Đỡ lắm.
- Để tôi lấy nước khóang rưới lên đó. Chắc là ngứa lắm vì bên ngoài nóng bức.
- Cô tử tế quá.
- Có ngứa lắm không?
- Không, dễ chịu lắm.
- Để tôi sửa những bao cát này lại - Cô vừa cúi xuống vừa bảo. - Lúc nào tôi cũng là bạn anh.
- Tôi biết.
- Không, anh không biết đâu. Nhưng rồi một ngày kia anh sẽ biết.
Catherine Barkley nghỉ gác ba đêm. Khi gặp lại nàng, chúng tôi mừng rỡ tựa hồ như đã cách xa lâu lắm.
Chương 18
Mùa hè thật kỳ diệu. Khi tôi đi được, chúng tôi cùng đi dạo bằng xe ngựa trong công viên. Tôi còn nhớ rõ cỗ xe ngựa đi chậm chạp, phía trước là lưng người đánh xe với chiếc mũ cao bóng loáng và bên cạnh tôi là Catherine. Nếu tay chúng tôi có chạm vào nhau thì chỉ cần mấy đầu ngón tay tôi chạm vào nàng cũng đủ làm cho chúng tôi ngây ngất. Sau đó, lúc tôi có thể dùng nạng để đi lại, chúng tôi dều dùng cơm ở Biffi hay ở Gran Italia và ngồi ở dãy bàn phía ngoài trên bao lơn. Những người hầu bàn tiến lại ra vào. Người qua lại tấp nập. Trên bàn, những ngọn bạch lạp cháy có chụp đèn. Về sau, chúng tôi ăn hẳn ở Gran Italia và George, chủ tiệm ăn dành cho chúng tôi một bàn riêng. Anh là một người dễ thương và chúng tôi để mặc anh lựa món ăn trong khi chúng tôi nhìn thiên hạ, nhìn dãy hành lang dài chìm trong bóng hoàng hôn và nhìn nhau. Chúng tôi uống rượu Capri ướp lạnh cùng nhiều thứ rượu khác. Ở đây họ không có bồi rượu vì lý do chiến tranh và George mỉm cười bối rối mỗi khi chúng tôi hỏi những thứ rượu thuộc loại Fresa.
- Ông thử nghĩ xem một xứ sản xuât rượu gì mà chỉ có mùi như mùi dâu! - Ông bảo chúng tôi.
- Không được sao? - Catherine hỏi - Như thế hẳn là tuyệt lắm chứ.
- Xin bà cứ nếm thử nếu bà thấy thích. Nhưng hãy để cho tôi mang một chai Margaux cho trung úy.
- Để tôi nếm thử xem đã, anh George.
- Thưa trung uý, tôi không bảo đảm thứ rượu đó. Vì nó không có mùi gì, ngay cả mùi dâu cũng không.
- Biết đâu đấy - Catherine bảo - Nếu có mùi dâu thì tuyệt.
- Tôi sẽ đem lại - George bảo - Và khi bà nếm thử xong tôi sẽ cất đi ngay.
Thứ rượu đó không ngon như George bảo, nó cũng không gíống mùi dâu nữa. Chúng tôi đành uống lại Capri. Một buổi tối tôi hụt tiền, George cho tôi vay một trăm đồng “lia”. - Trung úy đừng bận tâm. Tôi rất thông cảm. Nếu trung úy hoặc bà cần tiền, tôi bao giờ cũng sẵn sàng.
Sau bữa cơm, chúng tôi đi bộ qua hành lang, qua những nhà hàng và những tiệm khác đã đóng cửa. Chúng tôi ngừng lại một tiệm nhỏ bán bánh mì thịt, lẫn cá thu và rau cải thái nhỏ và dài bằng ngón tay. Chúng tôi mua về để phòng khi đêm đói sẽ ăn. Chúng tôi gọi một cỗ xe ở ngoài hành lang, trước nhà thờ, rồi trở về bệnh viện. Đến cửa bệnh viện, ông thường trực đến đỡ tôi và cặp nạng xuống. Tôi trả tiền xe, và chúng tôi cùng lên thang máy. Catherine dừng lại ở tầng một nơi các y tá ở, còn tôi đi lên trên rồi chống nạng về phòng. Đôi khi tôi thay quần áo đi ngủ, đôi khi tôi ngồi ở bao lơn, chân gác lên ghế nhìn đàn chim én lượn trên mái nhà, để chờ Catherine đến. Khi nàng đến, tôi có cảm tưởng như nàng mới đi xa về. Tôi chống nạng theo nàng. Tôi mang hộ các dụng cụ và đứng ngoài cửa chờ nàng hoặc vào cùng phòng với nàng. Điều đó tuỳ bệnh nhân có là bạn quen hay không. Khi nàng xong việc, chúng tôi trở ra ngồi ở bao lơn trước phòng. Sau đó, tôi vào giường nằm. Khi ai nấy đều ngủ và tin rằng sẽ không còn ai gọi nàng nữa, thì nàng đến phòng tôi. Tôi thích xổ tung tóc nàng ra. Nàng ngồi trên giường không cử động chỉ trừ lúc bất thình lình cuối xuống hôn tôi, trong khi tôi xổ tóc nàng. Tôi tháo mấy cây kẹp tóc để trên giường, tóc nàng xoã ra và tôi ngắm nàng ngồi yên ở mép giường. Tôi liền tháo nốt hai chiếc kẹp cuối cùng và tóc nàng hoàn toàn xoã ra. Và khi nàng cúi đầu thì cả hai chúng tôi nằm kín dưới mái tóc nàng, làm tôi có cảm giác nằm dưới căn lều hoặc một thác nước.
Tóc nàng đẹp vô cùng. Có đôi khi tôi nằm ngắm nàng vấn tóc trong ánh sáng mờ ảo của cánh cửa sổ mở rộng. Dù là trong bóng đêm tóc nàng vẫn ngời sáng như nước lóng lánh trước bình minh. Khuôn mặt và thân hình nàng rất đáng yêu, và cả làn da mịn màng của nàng cũng vậy. Nằm cạnh nàng, tôi mơn man khắp má, trán, cằm và cổ nàng rồi bảo “Da em mịn như phím dương cầm”. Nàng xoa vào căm tôi rồi đùa “Nhẵn như giâ”y nhám và cứng như phím đàn”.
- Nhám lắm hả em?
- Không anh ạ, đùa đấy thôi.
Đêm thật tuyệt diệu. Chúng tôi chỉ cần nằm bên nhau như thế cũng đủ hạnh phúc rồi. Ngoài những lúc như thế, chúng tôi không ở bên nhau, chúng tôi cố đoán xem người kia đang nghĩ gì. Đôi khi chúng tôi đoán đúng vì có lẽ cả hai cùng lúc nghĩ đến một chuyện.
Chúng tôi thích tưởng tượng đã lấy nhau từ ngày nàng đến bệnh viện và chúng tôi tính từng ngày kể từ ngày cưới ấy. Thực ra, tôi muốn cưới nàng nhưng Catherine bảo nếu chúng tôi làm lễ cưới, họ sẽ đổi nàng đi nơi khác và chỉ một việc thi hành thủ tục cũng đủ làm cho họ để ý đến nàng ngay và điều đó sẽ làm đảo lộn cuộc sống. Chúng tôi phải làm lễ cưới theo luật pháp nước Ý và thủ tục sẽ rất phiền toái. Tôi muốn như đã cưới nhau rồi vì mỗi lần nghĩ đến việc này, tôi sợ có con, nhưng chúng tôi giả vờ như đã cưới nhau và không thèm quan tâm đến chuyện đó nữa. Thật ra, trong lòng tôi lại sung sướng vì chưa cưới nhau. Có một đêm chúng tôi bàn về chuyện đó thì Catherine bảo :
- Nhưng anh ơi, người ta sẽ đuổi em đi.
- Không chắc đâu.
- Ỗ, chắc vậy! Người ta sẽ đuổi em về nhà và lúc bấy giờ chúng ta sẽ xa nhau mãi mãi cho đến khi hết chiến tranh.
- Anh sẽ xin nghỉ phép.
- Anh không có đủ thì giờ đi Ireland rồi trở về trong thời gian nghỉ phép. Tuy nhiên em không xa anh đâu. Bây giờ chúng ta làm lễ cưới thì có lợi lộc gì đâu? Chúng ta đã cưới nhau thật rồi đấy. Thế này còn hơn là cưới nhau thật vậy.
- Anh muốn làm lễ cưới là chỉ vì em mà thôi.
- Bây giờ không còn có em nữa. Em là anh. Đừng có tách rời em ra như thế.
- Anh tưởng rằng các thiếu nữ luôn mơ ước được lấy chồng.
- Đúng rồi. Nhưng còn em, anh yêu ạ, em đã có chồng rồi. Em đã lấy anh rồi cơ mà. Em không phải là vợ ngoan sao?
- Em là người vợ rất đáng yêu.
- Anh biết không, anh yêu, đã có lần em chờ đợi ngày cưới.
- Anh không muốn em nhắc đến chuyện đó nữa.
- Anh biết chắc là em chỉ yêu có một mình anh thôi. Có nghĩa lý gì nếu có một người khác yêu em trước anh?
- Quan trọng lắm chứ.
- Không nên ghen với một kẻ đã chết, trong khi anh đã được tất cả.
- Đúng thế, nhưng anh không muốn nghe những chuyện đó nữa.
- Anh ngốc ơi! Còn em, em biết, chắc anh có hàng tá phụ nữ vậy mà em có kể gì đâu?
- Liệu chúng ta có thể làm lễ cưới riêng bằng cách này hay cách khác không? Như thế phòng khi có chuyện gì xảy ra cho anh hoặc phòng khi em có con...
- Không có cách nào khác ngoài cách làm lễ cưới theo tôn giáo hoặc theo luật pháp. Chúng ta đã làm lễ cưới riêng với nhau rồi. Anh biết không, anh yêu, nếu em có đạo thì chuyện đó sẽ là một vấn đề quan trọng với em, nhưng em không theo đạo nào cả.
- Thế sao em đã cho anh tượng thánh Anthony?
- Vì tượng đó đem lại may mắn. Người ta đã cho em.
- Vậy là em chẳng lo buồn gì cả phải không?
- Chỉ trừ khả năng phải xa anh thôi. Anh là lý tưởng của em. Đời em chỉ có một mình anh thôi.
- Được rồi. Nhưng anh sẽ cưới em ngày nào em muốn.
- Đừng làm như là anh biến đổi em thành một phụ nữ đức hạnh, anh yêu ạ. Em vẫn là người đàn bà đoan chính. Không vì lẽ gì lại hổ thẹn khi người ta hạnh phúc và tự hào. Anh thấy có hạnh phúc không?
- Nhưng em đừng phụ anh nhé?
- Không đâu, anh yêu. Em sẽ không bao giờ phụ anh. Cứ cho là nhiều điều khủng khiếp sẽ đến với chúng ta, em đã nghĩ đến tất cả những gian nguy đang chờ chúng ta. Nhưng chuyện phụ anh, anh không phải lo.
- Anh chẳng lo gì cả. Anh yêu em tha thiết, nhưng anh chỉ là kẻ đến sau.
- Thế người đến trước ra sao?
- Người ấy chết rồi.
- Đúng. Nếu anh ấy không chết thì em đâu có gặp anh. Em không phản bội anh đâu, anh yêu. Em có nhiều khuyết điểm nhưng em rất thuỷ chung. Anh sẽ chóng chán vì sự thuỷ chung của em cho mà xem.
- Sớm muộn gì anh cũng sẽ trở lại mặt trận.
- Đừng nghĩ đến chuyện ấy trước. Anh thấy không, anh yêu, em rất hạnh phúc và chúng ta đã sống những giờ phút thần tiên. Lâu lắm rồi em không biết đến hạnh phúc và khi em thấy nó, em gần như điên lên. Có lẽ em đã điên thật. Nhưng bây giờ chúng ta hạnh phúc và chúng ta yêu nhau. Chúng ta hãy tận hưởng hạnh phúc đã. Anh có cảm thấy hạnh phúc không? Em phải làm gì để vừa ý anh bây giờ. Anh có thích em xoã tóc không? Anh có muốn chúng ta đùa không?
- Ừ, em đi ngủ đi.
- Được rồi, nhưng em còn phải đi thăm các bệnh nhân đã.
Chương 19
Mùa hè cứ vậy trôi đi. Tôi không nhớ rõ lắm nhưng chỉ biết đó là những ngày oi bức và báo chí chỉ nói toàn chiến thắng. Tôi rất khỏe và hai chân hồi phục nhanh chóng cho nên ít lâu sau tôi có thể dùng gậy thay thế cho nạng, và đâu gối được uốn nắn ở Ospedale, bằng máy móc và tia tử ngoại trong một căn phòng đầy gương. Tôi đến bệnh viện mỗi tuần ba buổi chiều, và trên đường về tôi thường ghé lại quán giải khát để uống và đọc báo. Tôi không la cà trong thành phố mà chỉ ước ao trở về bệnh viện lúc ở quán ra. Tôi chỉ muốn một điều là gặp Catherine. Ngoài ra tôi tìm cách giết thì giờ. Tôi thường ngủ vào buổi sáng và b buổi trưa. Đôi khi tôi đi bộ và buổi chiều đến điều trị bằng máy. Đôi lúc tôi ghé câu lạc bộ Anh - Mỹ. Tôi ngồi vào chiếc ghế tựa lớn bọc da gần cửa sổ và đọc các tạp chí. Từ ngày tôi bỏ nạng, người ta không để Catherine đi chung với tôi nữa, vì nữ y tá đi cạnh thương binh mà bệnh trạng không cần phải có người trông nom thì khó coi. Bởi thế vào buổi chiều chúng tôi không được ở gần nhau lâu. Tuy nhiên, đôi khi chúng tôi cũng có thể cùng đi ăn nếu có cô Ferguson đi chung. Cuối cùng cô Van Campen nhận chúng tôi là bạn thân, vì Catherine giúp cô được vô số việc. Cô cho rằng Catherine xuất thân từ một gia đình tốt và điều này ảnh hưởng đến sự ưu ái của cô. Cô coi trọng vấn đề gia đình. Chính cô cũng xuất thân từ một gia đình rất nề nếp. Hơn nữa bệnh viện luôn luôn bận rộn làm cho cô không có thì giờ rảnh. Mùa hè oi bức quá. Ở Milan này tôi quen biết nhiều người nhưng tôi luôn luôn muốn trở về bệnh viện lúc chiều tàn. Ở mặt trận, chúng tôi đã tiến dọc theo Carso, chiêm được Kuk ở phía bên kia Plava và bắt đầu đánh chiếm các cao nguyên Bainsizza. Tình hình mặt trận phía Tây không được khả quan. Chiến tranh có vẻ kéo dài. Bấy giờ Mỹ vừa tham chiến nhưng tôi nghĩ phải mất cả năm mới huấn luyện đủ quân số thiện chiến. Năm tới cũng có thể tốt mà cũng có thể xấu. Ý dùng một số quân đáng kể. Tôi không thấy tình trạng này làm sao có thể tiêp tục được. Dù cho họ có chiếm được cao nguyên Bainsizza và đỉnh San-Grabrielle thì bọn Áo cũng còn bao nhiêu là dãy núi phía sau. Tôi đã có dịp thấy những dãy núi đó. Những đỉnh cao nhất đều ở phía sau. Chúng tôi đã chiếm xong Carso nhưng hãy còn nhiều đầm lầy ở cạnh bờ biển. Napoléon đã đuổi bọn Áo về phía đồng bằng và chắc chắn không tấn công chúng trên núi. Napoléon sẽ để cho chúng xuống đồng bằng rồi tấn công ở gần Vérona. Nhưng ở mặt trận phía Tây chưa có đánh nhau thật sự. Có lẽ bây giờ không thể thắng trận được nữa. Chiến tranh có thể kéo dài mãi mãi. Có thể đây là một cuộc chiến tranh trăm năm mới. Tôi để tờ báo lên quầy rồi rời khỏi câu lạc bộ. Tôi cẩn thận bước từng bước một xuống bậc thềm rồi đi dọc lên đường Manzoni. Trước khách sạn Gran Hotel, tôi gặp vợ chồng lão Meyers vừa ở trên xe ngựa bước xuống. Họ vừa đi xem đua ngựa về. Bà vợ to béo mặc toàn sa tanh đen. Riêng ông, đó là một ông già nhỏ bé râu bạc, chống gậy đi khệnh khạng.
- Xin chào, xin chào - Bà bắt tay tôi.
- Chào bạn - Ông Meyers nói.
- Đua ngựa thế nào?
- Tuyệt, thật tuyệt. Tôi trúng được ba con về nhất.
- Còn ông? - Tôi hỏi ông Meyers.
- Cũng khá, tôi trúng được một.
- Tôi chả bao giờ biết nhà tôi đang làm gì. Ông ấy không bao giờ nói gì với tôi cả - Bà Meyers xen vào.
- Tốt, tốt lắm - Ông Meyers nói. Ông trở nên thân mật - Anh phải đến đấy. - Khi ông ta nói chuyện với bạn, bạn có cảm tưởng như là ông ấy không nhìn thấy bạn hoặc giả lầm bạn với một người nào khác.
- Vâng - Tôi đáp.
- Tôi sẽ đến bệnh viện thăm anh - Bà Meyers nói - Tôi có một vài món quà dành cho các con. Các anh đều là con tôi cả đấy. Phải, đúng, các anh là những đứa con thân yêu của tôi.
- Họ sẽ vui mừng được bà đến thăm.
- Ỗ,các con yêu quý. Anh cũng thế, anh cũng là một trong những đứa con của tôi.
- Tôi xin kiếu từ ông bà.
- Bảo tôi có lời hỏi thăm các cậu con trai yêu quý của tôi nhé. Tôi sẽ mang đến cho họ nhiều quà. Tôi có kẹo ngon và bánh ngọt.
- Xin chào ông bà. Họ sẽ vui mừng vô hạn khi thấy bà.
- Chào anh - Ông Meyers nói - Anh hãy đến tửu quán Galleria chơi. Anh biết bàn của chúng tôi chứ? Các buổi chiều chúng tôi đều có mặt tại đó.
Tôi trở ra đường cái. Tôi muốn mua một món gì ở Cova cho Catherine. Vào đến Cova, tôi mua một hộp kẹo sô cô la, trong khi cô bán hàng gói hộp kẹo, tôi vào quán rượu. Ở đó có hai người Anh và vài viên phi công. Tôi uống một ly Martini, trả tiền rồi đến quầy hàng lấy hộp kẹo xong tiếp tục đi về hướng bệnh viện. Trước quán rượu nhỏ bên đường đi Scala, có vài người tôi quen, viên phó lãnh sự, hai người học ca nhạc và Ettore Moretti, một người Ý ở San Francisco hiện đang phục vụ trong quân đội Ý. Tôi chạm ly với họ. Một trong hai ca sĩ là Ralph Simmons, mang biệt hiệu Enrico Delcrédo. Tôi không biết anh hát hay dở ra sao, nhưng anh luôn luôn có vẻ trịnh trọng, như sắp có một biến cố khủng khiếp xảy ra. Anh đã từng hát trong vở Tosca và thành công mỹ mãn.
- Có lẽ anh chưa bao giờ nghe tôi hát cả - Anh bảo.
- Bao giờ anh sẽ hát ở đây?
- Mùa thu này tôi sẽ trình diễn tại Scala.
- Tôi đoán chắc họ sẽ ném ghế vào người anh - Ettore nói - Anh có nghe người ta kể chuyện hắn bị ném ghế ở Modena như thế nào chưa?
- Láo toét!
- Tôi nghe nói anh sắp được huy chương loại nào?
- Tôi không biết. Tôi cũng không biết là tôi sắp được huy chương.
- Anh sắp được rồi. Này các cô gái ở Cova phục anh sát đất đấy. Họ nghĩ anh đã giết hai trăm tên Áo và một mình anh chiếm được căn hầm. Tôi cam đoan với anh là tôi cũng phải hành động mới được ân thưởng.
- Thế anh được bao nhiêu huy chương rồi Ettore? - Viên phó lãnh sự hỏi.
- Hắn có đủ loại - Simmons nói - Chính vì hắn mà người ta gây chiến đấy.
- Tôi đã được huy chương đồng hai lần và ba huy chương bạc - Ettore nói - Nhưng tôi chỉ được giấy chứng nhận có một cái thôi.
- Thế còn những cái kia? - Simmons hỏi.
- Bởi cuộc hành quân thất bại, - Ettore nói - Khi hành quân thất bại thì họ giữ lại tất cả các huy chương.
- Thế anh đã bị thương bao nhiêu lần rồi, Ettore?
- Ba lần bị thương nặng. Tôi bị ba vết thương. Đây thấy không? - hắn kéo tay áo lên. Nhưng vết thương là những cấp hiệu bằng bạc nằm song song với nhau trên nền đen, may đính vào vải ở tay áo dưới vai độ hai tấc.
- Anh cũng có một rồi - Ettore bảo tôi - Trông oai lắm, tôi thích đeo cấp hiệu hơn huy chương. Anh cứ tin tôi đi, ông bạn già ạ, ba cái cũng đủ nói lên điều gì đấy. Người ta chỉ cho mình thêm một cái vì một vết thương khiến mình nằm bệnh viện mất ba tháng.
- Anh bị thương ở đâu hả Ettore? - Viên phó lãnh sự hỏi.
Ettore lật tay áo lên.
- Đây này (hắn chỉ một vết sẹo đỏ nâu và bóng). Ở chân tôi đây, tôi không thể chỉ có các anh được vì tôi đang mang bít tất và ở bàn chân nũa.
- Thế anh bị trúng gì? - Simmons hỏi.
- Loại lựu đạn cầm tay. Ông biết thứ lựu đạn ấy chứ? - hắn quay sang hỏi tôi.
- Biết.
- Tôi biết bọn chó Áo ném - Ettore nói - Nó quật tôi ngã ra và tôi tưởng rằng mình đã chết ngay lúc đó, nhưng không việc gì. Tôi bắn tên chó đó một phát chết ngay tức khắc. Tôi luôn luôn mang súng trường để họ không biết tôi là sĩ quan.
- Khi anh bắn, trông thằng ấy như thế nào? - Simmons hỏi.
- Tôi chẳng biết, - Ettore đáp - Tôi bắn vào bụng nó, vì sợ nếu bắn vào đầu thì trật mất.
- Anh ở cấp sĩ quan đã lâu chưa? - Tôi hỏi.
- Hai năm. Tôi sắp lên đại úy. Còn anh ở cấp trung úy đã bao lâu rồi?
- Độ ba năm.
- Anh không lên đại úy được vì anh không biết tiếng Ý rành rọt - Ettore nói - Anh nói được nhưng đọc và viết không rành. Anh cần phải học tiếng Ý để có thể lên đại úy. Thế sao anh không gia nhập quân đội Mỹ?
- Để xem.
- Cầu trời tôi được lên đại úy. Này, Marc, lương đại úy được bao nhiêu thế?
- Không biết chắc. Vào khoảng hai trăm rưởi đô la.
- Chúa ơi, với hai trăm rưởi đô la đó tôi giải quyết được biết bao là việc. Này Fred, anh cần phải gia nhập quân đội Mỹ mới được, rồi anh tìm cách đưa tôi vào nhé?
- Được rồi.
- Tôi có thể chỉ huy một đại đội bằng tiếng Ý. Tôi cũng có thể chỉ huy bằng tiếng Anh dễ dàng.
- Rồi anh sẽ được thăng đại tướng - Simmons nói.
- Không, tôi không đủ tài sức để làm đại tướng. Một đại tướng cần phải biết nhiều chuyện. Các anh là những kẻ hay chế nhạo người khác. Các anh tưởng rằng chuyện chiến tranh là chơi sao. Đầu óc các anh không được làm đến chức cai hạng bét nữa.
- Cám ơn Chúa, tôi không làm chức cai - Simmons nói.
- Có thể một ngày kia các anh cũng phải làm nếu họ phạt tất cả các dân làm biếng như anh. Này, tôi muốn hai anh gia nhập vào trung đội của tôi. Marc nữa nhé, tôi sẽ cho anh làm lính hậu cần của tôi.
Marc nói :
- Này Ettore, anh có lòng tốt lắm, nhưng tôi e rằng anh là một tay quân phiệt.
- Tôi muốn lên đến chức đại tá trước khi chiến tranh chấm dứt - Ettore bảo.
- Nghĩa là nếu anh không chết trước.
- Tôi không bị chết đâu - Hắn đưa tay sờ mấy ngôi sao đính ở cổ áo - Thấy tôi làm gì đây không? Chúng tôi thường sờ những ngôi sao này nếu có ai nói đến chết chóc.
- Ta đi thôi Sim - Saunders vừa nói vừa đứng lên.
- Ừ thì đi.
- Chào các anh - Tôi bảo - Tôi cũng phải đi đây. Sáu giờ kém mười lăm rồi. Chào Ettore.
- Chào Fred - Ettore nói - Anh nhận được huy chương bạc thì tuyệt lắm.
- Vẫn chưa tiến hành.
- Được mà Fred, tôi nghe bảo anh sẽ nhận được chẳng khó khăn gì.
- Thôi chào anh - Tôi bảo - Hãy giữ mình cẩn thận Ettore nhé.
- Ô đừng lo cho tôi. Tôi không uống rượu và cũng không chạy quanh quẩn. Tôi không thích rượu cũng không thích gái. Tôi chọn cái gì tôi thích.
- Chào anh - Tôi bảo - Tôi rất vui khi anh lên đại úy.
- Không phải tôi ngồi không để được lên chức. Tôi sẽ lập chiến công để xứng đáng được lên chức đại úy. Anh biết không, ba sao cùng với hai lưỡi gươm chéo nhau và hình vương miện chính là của tôi đó.
- Chúc anh may mắn
- Chúc anh cũng vậy. Bao giờ anh trở lại mặt trận?
- Sắp rồi.
- Thế thì mình sẽ gặp nhau ở đấy.
- Chào anh.
- Chào anh. Nên tránh những việc không may nhé.
Tôi theo phố nhỏ dẫn ra một lối tắt về bệnh viện. Ettore hai mươi ba tuổi. Thưở bé anh ta được một người cậu ở San Francisco nuôi dưỡng. Khi chiến tranh bùng nổ thì anh ta đang thăm cha mẹ mình ở Torino. Anh có một người em gái cũng được gởi sang Mỹ sống chung với cậu anh. Năm nay cô ấy sắp tốt nghiệp trường sư phạm.
Ettore thuộc loại người hùng và đánh gục bất cứ ai khi anh ta tiếp xúc. Catherine không chịu nổi hắn ta.
- Chúng ta cũng biết nhiều tay anh hùng - Nàng bảo - Nhưng thường thường họ điềm đạm hơn, anh nhỉ.
- Anh không để ý đến hắn ta.
- Em cũng chẳng cần để ý đến hắn ta làm gì, nếu hắn ta không quá tự phụ và không hiếu thắng. Ô, hiếu thắng đến một mức nào thôi.
- Hắn ta cũng quấy rầy anh vậy.
- Anh nói thế nghe đáng yêu lắm. Nhưng chuyện đó xá kể gì. Anh có thể hình dung hắn lúc ở mặt trận, nơi mà hắn có ích, nhưng đối với em, hắn tiêu biểu cho một hạng người mà em ghét nhất.
- Anh hiểu.
- Anh hiểu thê? Thật đáng yêu. Em đã cố hết sức để có chút tình cảm với hắn, nhưng đúng là một anh chàng đáng ghét, đáng ghét thật sự.
- Hồi chiều này hắn bảo với bọn anh hắn sẽ lên chức đại úy.
- Thế à? - Catherine bảo - Được vậy chắc hắn ta khoái lắm.
- Thế em có thích anh được lên chức cao hơn không?
- Không, anh yêu à. Em chỉ muốn anh có được một chức vừa đủ để được vào ăn ở những chỗ sang trọng mà thôi.
- Thì đúng là cấp bậc của anh đó.
- Câp bậc của anh như thế là tuyệt rồi. Em không cần anh phải lên chức cao. Điều đó có thể làm cho anh bốc lên. Này anh yêu, em vô cùng hài lòng vì anh không tự phụ. Cho dù anh có tự phụ, em cũng lấy anh, nhưng có một người chồng không tự phụ bao giờ cũng dễ thở hơn.
Chúng tôi thì thầm cạnh nhau bên ngoài bao lơn. Trăng đáng lẽ đã lên rồi nhưng sương mù bao trùm thành phố nên không thấy được trăng. Chúng tôi đi vào trong nhà. Bên ngoài sương mù đã chuyển sang mưa. Mưa bắt đầu rơi nặng hạt trên mái nhà. Tôi trổi dậy xem cửa sổ thấp có bị mưa tạt vào không. Nhưng mưa không hắt vào nên tôi vẫn để cửa sổ mở.
- Thế ban chiều anh còn gặp những ai nữa?
- Ông bà Meyers.
- Toàn những người kỳ lạ.
- Đúng ra thì ông ta đang phải ngồi tù tại quê nhà ông ấy. Nhưng người ta lại thả ông ta ra để cho ông chết ở ngoài.
- Và từ đó ông ta sống sung sướng tại Milan.
- Sung sướng à? Anh không hiểu đến mức nào.
- Nhưng em nghĩ phải sung sướng hơn trong tù chứ.
- Bà Meyers sắp mang quà đến đây.
- Bà ta thường mang đến những món quà rất đẹp. Thế bà ta có gọi anh là con yêu của bà không?
- Một trong những người con yêu của bà.
- Các anh là những người con yêu của bà. Bà ta rất thích những cậu con yêu đó. Lắng nghe mưa rơi kìa.
- Mưa nặng hạt quá.
- Và anh sẽ yêu em mãi mãi phải không anh?
- Phải, đúng thế.
- Và mưa rơi nặng hạt cũng không đáng ngại gì phải không?
- Phải, đúng thế.
- Vậy thì tốt lắm, bởi vì em sợ mưa.
- Tại sao?
Tôi buồn ngủ. Bên ngoài trời mưa to.
- Em cũng không biết nữa, anh yêu ạ. Khi nào em cũng sợ trời mưa.
- Còn anh thì thích mưa.
- Em thích đi dạo dưới cơn mưa. Nhưng mưa có hại cho tình yêu.
- Nhưng anh mãi mãi yêu em mà.
- Còn em, em yêu anh, dù mưa, dù tuyết, dù bão, dù gì gì đi nữa.
- Vậy à? Anh buồn ngủ quá.
- Ngủ đi, anh yêu. Dù thế nào đi nữa, em vẫn yêu anh.
- Thế thật tình em không sợ mưa chứ?
- Không, nếu có anh bên em.
- Sao em lại sợ mưa?
- Em không biết nữa.
- Nói cho anh nghe đi nào.
- Đừng bắt em phải nói.
- Nói cho anh nghe đi mà.
- Không, đừng gặng hỏi em.
- Nói cho anh nghe đi.
- Thôi được, vì anh thích. Em sợ trời mưa vì đôi khi em thấy em chết trong mưa.
- Không có đâu.
- Và đôi khi em thấy chính anh cũng chết trong mưa.
- Như thế họa may đúng hơn.
- Không, không đúng, anh yêu. Anh không bao giờ chết cả, vì em biết em có thể che chở cho anh được yên ổn. Em biết là em có khả năng. Nhưng không có ai tự che chở cho mình được.
- Thôi xin em, như thế đủ rồi. Anh không muốn nghe em nói chuyện huyễn hoặc và như một người điên đêm nay đâu. Chúng ta sẽ chẳng còn gần nhau được bao nhiêu lâu nữa.
- Đúng thế, em huyễn hoặc và điên rồ thật. Mà thôi, em không nói chuyện dại dột nữa đâu.
- Ừ, đúng là chuyện dại dột.
- Chỉ toàn là chuyện vô lý nhảm nhí. Thôi, em không sợ mưa nữa đâu. Nhất định không sợ nữa. Trời ơi, ước ao sao đừng sợ mưa nữa.
Nàng khóc nức nở. Tôi dỗ mãi nàng mới nín, nhưng bên ngoài trời vẫn mưa rả rích.
Chương 20
Một buổi chiều chúng tôi đi xem đua ngựa, Ferguson và Crowell Rodgers cùng đi. Rodgers là anh chàng bị thương ở mắt bởi đầu đạn trái phá. Ferguson và Catherine trang điểm sau bữa ăn. Còn tôi và Crowell ngồi ở giường trong phòng đọc các tạp chí đăng tin về những cuộc đua ngựa tuần qua cùng những lời bình luận. Đầu Crowell bị băng nên anh ta không để ý lắm vào những cuộc đua này. Nhưng để giết thì giờ anh ta cứ cầm tờ tạp chí đua ngựa đọc và biết về bước đua của ngựa. Anh ta bảo ngựa chẳng có nghĩa lý gì cả.
Bốn đứa chúng tôi đến San Siro bằng xe ngựa để mui trần. Trời hôm nay thật đẹp. Xe chúng tôi chạy ngang công viên, theo đường xe điện va1 sau khi ra khỏi thành phố, vào một con đường đầy bụi bặm. Nơi đây có nhiều biệt thự rào song sắt, những khu vườn rậm rạp rộng lớn cùng những hào nước chảy và vườn rau phủ đầy bụi. Trên cánh đồng chúng tôi có thể nhìn thấy nhiều nhà cửa và trang trại trù phú xanh tươi với những mương nước tưới tiêu. Những ngọn núi trồi lên ở phía Bắc. Nhiều xe chạy vào trường đua và những người gác cổng để chúng tôi vào tự nhiên không xét hỏi giấy tờ vì chúng tôi mặc quân phục. Chúng tôi xuống xem mua chương trình rồi đi qua sân cỏ vào trong trường đua. Trên sân cỏ một toán lính đứng dài theo hàng rào. Người ta dang cho ngựa quần dưới những tán cây đàng sau khán đài. Chúng tôi thấy nhiều người quen và sau khi kiếm được ghế ngồi cho Catherine và Ferguson, chúng tôi xem xét đàn ngựa.
Những con ngựa đi vòng, con sau nối đuôi con trước, đầu cúi xuống. Một trong mấy con có lông sắc tím đen, Crowell quả quyết là họ sơn nó. Nó ra đúng lúc chuông rung báo giờ lên yên. Chúng tôi kiểm trên chương trình theo số mà người nài ngựa đeo ỏ trên tay. Người ta ghi trong đó là ngựa ô thiến tên Japalac. Độ đua này dành cho những con ngựa ô từng thắng cuộc với giá hơn một ngàn đồng “lia”. Catherine bảo chắc người ta đã đổi màu lông của nó. Ferguson chịu không biết được. Tôi thì nghĩ con ngựa đó có vẻ khả nghi. Chúng tôi đều đồng ý đánh cá nó và đặt một trăm đồng lia. Trên thể lệ ghi gía tiền, nó là con ngựa duy nhất với giá một ăn ba mươi lăm. Crowell đi mua giấy cá ngựa trong lúc chúng tôi theo dõi các kỵ mã vòng lại rồi cho ngựa chậm rãi đến chỗ xuất phát.
Chúng tôi lên ngồi trên khán đài để theo dõi cuộc đua. Ở San Siro người ta không còn dùng dây để ngăn nữa. Người ta đóng những con ngựa trông có vẻ nhỏ đứng xếp hàng. Đằng xa phía cuối sân đua, người ta khoa chiếc roi ra lệnh khởi hành. Những con ngựa chạy qua trước chúng tôi. Con ngựa ô dẫn đầu và đến chỗ ngoặt nó bỏ cách xa những con khác. Nó tiếp tục sải đều như thế cho đến khi cuộc đua chấm dứt.
- Tuyệt quá phải không? - Catherine bảo - Thế thì chúng ta được cả thảy là ba ngàn đồng lia. Thật là một con ngựa hay.
- Tôi mong nó đừng đổi màu trước khi người ta trả tiền cho mình - Crowell bảo.
- Ông có trúng không? - Tôi hỏi lớn về phía Meyers. Lão ta gật đầu.
- Còn tôi không trúng gì cả - Bà Meyers nói - Còn các con, các con đánh cá con nào?
- Japalac.
- Thế à. Đánh con đó một trúng được ba mươi lăm đấy.
- Chúng tôi thích màu lông của nó.
- Tôi không thích. Trông nó xơ xác quá. Người ta khuyên tôi đừng đánh nó.
- Con ngựa đó không trúng được nhiều - Meyers nói.
- Người ta ghi nó giá một ăn ba mươi lăm - Tôi bảo.
- Đánh nó không trúng nhiều - Vào giờ chót Meyers khuyên - Họ đổ nhiều tiền vào nó đấy.
- Ai?
- Kempton và nhiều người khác. Để rồi các anh thấy. Họ không đổi hai lấy một đâu.
- Thế chúng tôi mất ba ngàn đồng lia à? - Catherine nói - Tôi không thích những cuộc đua ngựa gian lận như thế.
- Chúng tôi trúng được hai trăm đồng lia.
- Không đáng kể. Hai trăm bạc chẳng thay đổi được gì. Tôi tưởng là đã trúng được ba ngàn đồng lia.
- Gian lận chán quá - Ferguson bảo.
- Dĩ nhiên - Catherine nói - Nếu họ không gian lận, mình không bao giờ đánh con ngựa đó cả. Tuy nhiên tôi thích được ba ngàn đồng lia kia.
- Thôi chúng ta xuống uống cái gì đã rồi xem họ trả mình ra sao - Crowell bảo.
Chúng tôi đi qua chỗ họ dán bảng kết quả số ngựa trúng. Chuông rung báo hiệu họ phát tiền ngựa trúng. Con ngựa Japalac được ghi trúng 18,50 đồng lia, thế có nghĩa là tiền trúng không bằng giá vé.
Chúng tôi đến quán giải khát dưới khán đài để uống một ly whisky-soda. Chúng tôi gặp đôi vợ chồng người Ý tôi quen và ông Mc Adams, viên phó lãnh sự. Khi chúng tôi trở lại kiếm Catherine và Ferguson thì họ cũng lên theo với chúng tôi. Hai người Ý trông rất nhã nhặn và Mc Adams ở lại tiếp chuyện với Catherine khi chúng tôi quay trở xuống tiếp tục đánh cá nữa. Ông Meyers đang đứng cạnh cửa phòng bán vé cặp.
- Hỏi xem ông ta đánh cá con nào - Tôi bảo Crowell.
- Ông định đánh cá con nào thế, ông Meyers? - Crowell hỏi.
Meyers rút tờ chương trình ra và lấy bút chì chỉ vào số 5.
- Chúng tôi cùng đánh số đó có phiền gì ông không? - Crowell hỏi tiếp.
- Được chứ, đánh đi. Nhưng nhớ đừng có bảo vợ tôi là tôi chỉ cho anh đấy nhé.
- Ông uống gì không? - Tôi hỏi.
- Không, cám ơn. Tôi không hề uống rượu.
Chúng tôi đánh con số 5 một trăm đồng lia, rồi chúng tôi trở lại uống thêm một ly whisky-soda nữa. Tôi thấy khoan khoái trong người. Chúng tôi gặp hai người Ý khác. Họ uống rượu với chúng tôi xong chúng tôi trở lại chỗ Catherine và Ferguson. Hai người Ý mới này lại càng kiểu cách hơn nữa, họ rất hợp với hai người Ý trước. Ai cũng nôn nao không muốn ngồi một chỗ. Tôi đưa vé cho Catherine :
- Con ngựa nào đây?
- Anh không biết. Ông Meyers chọn đấy.
- Anh không biết cả tên của nó nữa à?
- Không, em tìm trên tờ chương trình xem. Số 5 thì phải.
- Anh dễ tin người quá - Nàng bảo - Số 5 thắng nhưng không trúng nhiều. Ông Meyers tức lắm.
- Phải bỏ ra hai trăm đồng lia để được hai chục. - Ông ta nói - Mười hai được mười. Nhưng không sao cả. Vợ tôi thua hai chục lia.
- Để em xuống theo anh - Catherine bảo tôi.
Mấy người Y’ cùng đứng lên, chúng tôi bước xuống khán đài đi ra sân đua.
- Anh thích nơi này không? - Catherine hỏi.
- Có lẽ thích.
- Cứ cho là vui đi - Nàng nói - Nhưng em, anh yêu ạ, em không thể chịu nổi những chỗ đông người như thế này.
- Chúng ta không gặp mấy ai quen ở đây.
- Vâng, nhưng hai vợ chồng Meyers này, rồi người làm ở ngân hàng với vợ của ông ta này...
- Hắn thường trả phiếu chi của anh - Tôi bảo.
- Vâng, nhưng người khác cũng làm việc đó được vậy chứ. Còn bọn người Ý anh dẫn lạt thật kinh khủng.
- Chúng ta có thể đứng sau hàng rào này để xem cuộc đua.
- Được rồi, nhưng anh phải nghe em đây. Chúng ta đánh con ngựa nào chưa hề được nghe nói đến và ông Meyers cũng không cá nó nữa.
- Cũng được.
Chúng tôi đánh con “Light for me”. Con này về nhất bốn kỳ trong năm độ đua. Chúng tôi dựa vào hàng rào nhìn những con ngựa đua chạy lóc cóc trước mặt. Xa xa là những rặng núi sừng sững, phía bên kia là những cánh đồng, thành phố Milan chạy dài sau những rặng cây.
- Em cảm thấy khoan khoái lạ - Catherine bảo.
Mấy con ngựa đang trở về. Chúng vượt rào, mồ hôi nhễ nhại, mấy kỵ mã vuốt ve chúng và đến rặng cây thì nhảy xuống.
- Anh có khát không? Chúng ta có thể uống tại đây và xem đua cũng được.
- Để anh đi gọi - Tôi nói.
- Để bồi mang đến cho - Catherine khuyên.
Nàng đưa tay lên gọi người bồi ở quán Pagoda cạnh chuồng ngựa. Chúng tôi ngồi trên một chiếc ghế sắt.
- Anh có thấy hạnh phúc hơn khi chỉ có hai đứa mình?
- Nhất định rồi - Tôi đáp.
- Em cảm thấy rất lạc lõng giữa những người này.
- Ở đây mình thoải mái hơn - Tôi nói.
- Vâng, cuộc đua ngựa này thật thích thú.
- Ừ, tuyệt.
- Anh yêu, em không muốn làm mất cuộc vui của anh. Khi nào anh muốn, em sẽ trở lại.
- Không, chúng ta cứ ngồi yên ở đây uống rồi sẽ đi xuống bờ sông để xem hồi đua ngựa nhảy rào.
- Anh tốt với em quá - Nàng bảo.
Hai đứa ngồi cạnh nhau một lúc rồi vui vẻ gặp lại những người khác. Đó là một ngày đẹp.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro