gap lai
Truyen ngan
Gặp Lại
Phần II của Nếu em không phải một giấc mơ
Dịch giả : Lê Ngọc Mai
Giới thiệu
Nếu cuộc đời có khi nào mang lại cho Arthur và Lauren một cơ may thứ hai để gặp lại, liệu họ có bất chấp mọi hiểm nguy để nắm bắt lấy nó? Marc Levy đã trở lại với những nhân vật trong tiểu thuyết đầu tay "Nếu em không phải một giấc mơ"... trong một Gặp lại hài hước và lãng mạn, dẫn dắt độc giả vào một chuyến phiêu lưu chưa từng có, thấm đẫm cảm xúc, bằng một giọng điệu hóm hỉnh và vô số những tình tiết bất ngờ nối tiếp...
"Độc giả đông đảo của Marc Levy, những người đang nóng lòng đón đọc phần tiếp theo của câu chuyện tình "Nếu em không phải một giấc mơ..." sẽ được thỏa nguyện với phần hai dưới nhan đề Gặp lại - cuốn sách đang thống trị trên các bảng xếp hạng best-seller của nước Pháp".
(Theo Le Figaro)
"... với những tình tiết xâu chuỗi chặt chẽ được nhào nặn từ dòng cảm xúc tuôn trào".
(Theo Lire)
"Gặp lại một lần nữa cho thấy phong cách trữ tình của tác giả... Đơn giản là một cuốn sách tuyệt vời, mang lại cho ta niềm sảng khoái!".
(Theo Le Courrier Picard)
° ° °
Tặng con trai Louis của tôi.
"Dù sao cũng không thể quy trách nhiệm cho lực hút về việc người ta bị ai đó hút hồn ."
Albert Einstein
Arthur thanh toán tiền ở quầy tiếp tân của khách sạn. Anh hãy còn thời gian để đi dạo loanh quanh trong khu phố. Người trông coi hành lý đưa cho anh một tấm tích kê gửi đồ, anh nhét đại nó vào trong túi áo vét. Anh đi ngang qua sân rồi ra phố Beaux-Arts. Những vỉa hè, đã được rửa sạch bằng vòi phun nước lớn, đang khô dần dưới các tia nắng đầu tiên. Ở phố Bonaparte, một vài cửa hiệu đã mở hàng. Arthur do dự trước quầy kính của một cửa tiệm bánh ngọt rồi lại đi tiếp. Phía trên cao một chút, gác chuông màu trắng của nhà thờ Saint-Germain-des-Prés nổi bật lên giữa những màu sắc của một ngày mới rạng. Anh đi ra đến quảng trường Fürstenberg hãy còn vắng ngắt. Một tấm cửa cuốn đang được kéo lên. Arthur chào cô gái bán hoa mặc chiếc áo blouse trắng - chiếc áo khiến cho cô có dáng vẻ như một nhà hoá học xinh tươi. Những bó nhiều thứ hoa mà cô hay chọn cùng anh vẫn thường nở rộ trong căn hộ nhỏ ba phòng mà Arthur ở cho đến hai ngày trước đây.
Cô gái bán hoa chào đáp anh mà chẳng hề biết rằng cô sẽ không gặp lại anh nữa.
Trao chìa khoá cho bà gác cổng trước kỳ nghỉ cuối tuần, anh đã chấm dứt nhiều tháng sống ở nước ngoài, chấm dứt đồ án kiến trúc hoành tráng nhất mà anh từng thực hiện : một trung tâm văn hoá Pháp - Mỹ.
Có thể một ngày nào đó anh sẽ trở lại đây cùng với người phụ nữ vẫn ám ảnh tâm trí anh. Anh sẽ đưa cô đi xem những đường phố nhỏ hẹp của khu phố mà anh rất yêu này, họ sẽ cùng nhau bước dọc bờ sông Seine, nơi mà anh đã đâm ra nghiện cái thú đi dạo ngay cả vào những ngày mưa thường có ở thủ đô.
Anh ngồi xuống một băng ghế để thảo bức thư mà anh vẫn ấp ủ trong lòng. Khi thư gần xong, anh khép chiếc phong bì làm bằng loại giấy Rives lại, nhưng không dán mép, rồi cho vào túi áo. Anh nhìn đồng hồ rồi đi về khách sạn.
Taxi chắc sắp đến, ba tiếng nữa máy bay của anh sẽ cất cánh.
Tối nay, sau một thời gian dài vắng mặt do chính anh tự đặt ra cho mình, anh sẽ trở về thành phố của anh.
1.
Khoảng trời phía trên vịnh San Francisco rực đỏ. Bên ngoài cửa sổ máy bay, cầu Golden Gate nhô ra từ một đám mây mù. Máy bay chúc thấp đầu về phía Tiburon, hạ dần độ cao, hướng về phía nam rồi ngoặt lại, bay vòng phía trên cầu San Mateo. Ngồi trong máy bay, có cảm giác như nó đang tự trượt dần về phía những cánh đồng muối hắt lên hàng ngàn tia sáng.
° ° °
Chiếc Saab mui trần luồn lách giữa hai chiếc xe tải, vượt chéo qua ba làn xe, lờ đi những cú nháy đèn pha cảnh báo của một vài tài xế bất bình. Xe rời đường cao tốc 101 và vừa kịp để rẽ ngay vào làn đường dẫn ra sân bay quốc tế San Francisco. Đến chân dốc, Paul đi chậm lại để xem bảng chỉ dẫn đường. Anh thở hắt ra khi thấy mình bị nhầm đường rồi cho xe lùi lại hơn trăm mét để đến được lối vào bãi đậu xe.
° ° °
Trong buồng máy, máy tính trên bảng điều khiển thông báo đang ở độ cao bảy trăm mét. Khung cảnh tiếp tục thay đổi. Vô số toà nhà chọc trời, cái này hiện đại hơn cái khác, nổi bật lên trong ánh hoàng hôn. Những cánh trập của máy bay xoè ra, mở rộng bề mặt của máy bay và giúp nó giảm thêm tốc độ. Tiếng ồn khô khốc từ càng hạ cánh sắp sửa phát ra.
° ° °
Bên trong sân bay, trên bảng chỉ dẫn đã hiện lên thông báo chuyến bay AF 007 vừa hạ cánh. Paul hồng hộc chạy xuống từ cầu thang cuốn và lao vội ra lối đi. Sàn đá hoa trơn bóng, anh trượt chân ở chổ rẽ, túm ngay được tay áo của một viên lái trưởng đang đi ngược chiều, vội vã xin lỗi rồi lại chạy đi như điên.
° ° °
Máy bay Airbus A 340 của hãng Air France tiến từ từ trên đường băng, cái đầu ngộ nghĩnh của nó áp sát lại gần bức tường kính của sân bay một cách đầy ấn tượng. Tiếng ồn của động cơ máy bay bị một tiếng rít dài làm át đi, và đường ống nối máy bay với sân bay được kéo ra áp sát tận thân máy bay.
° ° °
Phía sau tấm vách ngăn ở lối ra của hành khách xuống từ các chuyến bay quốc tế, Paul gập người, tay chống vào đầu gối, thở lấy hơi. Cửa mở, và dòng hành khách đầu tiên bắt đầu ùa ra.
Từ xa, tay vẫy rối rít giữa đám đông, Paul len lỏi lách đến chỗ bạn thân nhất của mình.
- Cậu ôm tớ hơi chặt quá đấy - Arthur nói với Paul khi bạn ôm hôn anh.
Cô bán hàng ở một quầy gần đó nhìn họ, cảm động.
- Thôi đi, trông bắt đầu chướng rồi đấy - Arthur lại nói.
- Thì tớ nhớ cậu mà, cậu biết đấy - Paul vửa nói vừa kéo bạn về phía thang máy dẫn xuống bãi đậu xe; Arthur nhìn anh, vẻ giễu cợt :
- Chiếc áo Hawais này là cái trò gì vậy, cậu tưởng cậu là Magnum 1 à ?
Paul nhìn vào gương ở buồng thang máy, vừa bĩu môi vừa cài cúc áo lại.
- Tớ đã đến mở cửa cái nhà mới của cậu ở Delahaye Moving rồi - Paul nói. - Hôm kia hãng dịch vụ dọn nhà đã chuyển các hòm đồ của cậu đến. Tớ đã dọn dẹp một tí trong khả năng của tớ. Cậu đã mua hết cả Paris hay vẫn để lại vài ba thứ trong các cửa hàng của họ ?
- Cảm ơn cậu đã giúp; nhà trông có được không ?
- Rồi cậu sẽ thấy, tớ nghĩ là cậu sẽ thích, hơn nữa nó lại không xa nơi làm việc.
Từ khi Arthur kết thúc việc xây dựng trung tâm văn hoá đồ sộ, Paul đã ra sức thuyết phục bạn trở về sống ở San Francisco. Sự ra đi của người được Paul quý như anh em ruột thịt đã tạo nên một khoảng trống không gì bù đắp nổi trong cuộc đời anh.
- Thành phố chẳng thay đổi mấy nhỉ - Arthur nói.
- Bọn mình đã xây hai toà nhà cao tầng ở giữa phố 14 và phố 17, một khách sạn và mấy văn phòng, vậy mà cậu lại cho rằng thành phố không thay đổi hả ?
- Công ty của bọn mình thế nào ?
- Nếu không tính đến những vấn đề gặp phải với các khách hàng Paris của cậu thì mọi việc cũng không đến nỗi. Hai tuần nữa Maureen sẽ đi nghỉ về, cô ấy có để lại cho cậu vài chữ ở phòng làm việc đấy, cô ấy rất nóng ruột mong gặp lại cậu.
Trong thời gian thực hiện công trình ở Paris, Arthur và cô trợ lý ngày nào cũng nói chuyện điện thoại với nhau nhiều lần, cô giải quyết cho anh tất cả những việc đang làm dở.
Suýt nữa thì Paul bỏ lỡ mất lối ra khỏi đường cao tốc, anh lại lái xe xuyên chéo để rẽ vào nhánh đường dẫn đến phố số 3. Một dàn hợp xướng những tiếng còi xe vang lên để đáp lại cái thao tác nguy hiểm đó.
- Tôi rất tiếc - anh vừa nhìn vào gương chiếu hậu vừa nói.
- Ồ, cậu đừng lo, cậu mà biết quảng trường Étoile thì cậu chẳng còn sợ gì nữa hết.
- Đó là cái gì vậy ?
- Bãi chơi trò ôtô húc nhau lớn nhất thế giới, mà lại không mất tiền !
Arthur tranh thủ lúc xe dừng lại ở ngã tư tại đại lộ Van Ness để ấn nút điện mở mui xe. Mui xe gập lại với một tiếng ken két ghê tai.
- Tớ không thể từ bỏ cái xe này được, - Paul nói - nó hơi bị thấp khớp một tí nhưng vẫn vững vàng đấy.
Arthur hạ cửa kính xuống và hít không khí từ biển thổi vào.
- Sao, Paris thế nào ? - Paul hỏi vẻ đầy nhiệt tình.
- Có nhiều người Paris !
- Thế các cô gái Paris ra sao ?
- Lúc nào cũng thanh lịch !
- Thế cậu với các cô gái Paris thì thế nào ? Cậu có cuộc tình nào không ?
Arthur im lặng một lúc rồi mới trả lời.
- Tớ không phát nguyện làm thầy tu đâu, nếu tớ hiểu đúng ý cậu hỏi.
- Tớ nói về những mối quan hệ nghiêm túc cơ. Cậu có yêu ai không ?
- Còn cậu ? - Arthur hỏi lại.
- Độc thân !
Chiếc Saab rẽ sang Pacific Street, đi lên phía bắc thành phố. Đến ngã tư Filmore, Paul đỗ xe lại sát vỉa hè.
- Chúng mình đang ở trước home sweet home mới của cậu đây; tớ hy vọng là cậu sẽ thích, nếu cậu không thấy thoải mái ở đây thì mình vẫn có thể thu xếp với hãng bất động sản. Chọn nhà cho người khác không phải dễ...
Arthur ngắt lời bạn, anh sẽ thích nơi này, anh đã tin chắc là như vậy.
Họ vác hành lý đi ngang qua lối vào của toà nhà nhỏ. Thang máy đưa họ lên tầng ba. Khi đi dọc hành lang đến trước căn hộ số 3B, Paul thông báo với Arthur rằng anh đã gặp hàng xóm của Arthur, "một người đẹp", anh vừa thì thào như vậy vừa mở khoá cánh cửa trước mặt.
Từ phòng khách nhìn ra là những mái nhà của Pacific Heights. Đêm đầy sao tràn vào căn phòng. Các nhân viên dọn nhà thuê đã đặt rải rác chỗ này chỗ khác những món đồ gỗ gửi từ Pháp sang và đã dựng lên chiếc bàn vẽ đặt đối diện với cửa sổ. Những thùng sách đã được dỡ ra và sách đã được bày chật trên các giá.
Arthur lập tức dịch chuyển đồ đạc, xoay chiếc đi văng ra đối diện cửa kính, đẩy lại một chiếc bành về phía lò sưởi nhỏ.
- Tớ thấy là cậu vẫn chưa bỏ được cái thói gàn dở của cậu.
- Như thế này hay hơn chứ ?
- Hay lắm - Paul trả lời. - Bây giờ cậu đã thấy thích chưa ?
- Tớ có cảm giác đúng là ở nhà mình !
- Vậy là cậu đã trở lại thành phố của cậu, khu phố của cậu, và nếu có thêm đôi chút may mắn thì còn là trở lại với cuộc đời cậu nữa đấy !
Paul dẫn bạn đi xem những căn phòng khác, phòng ngủ khá rộng rãi, đã kê sẵn một cái giường to, hai cái bàn nhỏ đầu giường và một chiếc bàn chân quỳ. Một vệt trăng lọt qua khe cửa sổ nhỏ của buồng tắm ở kế bên, Arthur lập tức mở cửa số ra, khung cảnh nhìn thật đẹp.
Paul khổ sở vì phải bỏ rơi bạn ngay buổi tối Arthur vừa mới trở lại, nhưng anh phải đi dự buổi chiêu đãi để bàn chuyện làm ăn : công ty anh đang tranh thầu một dự án quan trọng.
- Giá mà tớ đi cùng với cậu được - Arthur nói.
- Với cái đầu hãy còn bị lệch múi giờ của cậu, cậu ở lại nhà thì tớ thích hơn ! Mai tớ sẽ ghé qua đón cậu và sẽ dẫn cậu đi ăn trưa.
Paul ôm vai Arthur rồi nhắc lại rằng anh rất vui vì Arthur đã trở về. Bước ra khỏi buồng tắm, anh quay lại, chỉ tay vào bức tường trong đó :
- À ! Có một điều rất tuyệt trong căn hộ này mà cậu còn chưa nhận ra.
- Cái gì vậy ? - Arthur hỏi.
- Không hề có một cái tủ tường nào cả !
° ° °
Giữa San Francisco, một chiếc Triumph màu xanh lá cây bóng nhoáng lao vun vút ở đại lộ Pottrero. John Mackenzie, trưởng ban bảo vệ bãi đậu xe của bệnh viện Memorial San Francisco, đặt tờ báo xuống. Ông đã nhận ra tiếng máy nổ rất đặc biệt phát ra từ chiếc ôtô của cô bác sĩ trẻ ngay khi cô vừa mới vượt qua chỗ cắt với phố 22. Lốp xe nghiến kin kít trước chòi gác của ông, Mackenzie rời khỏi ghế và nhìn về phía cái mui xe đã thò vào dưới thanh chắn đến tận tấm kính trước cửa xe.
- Cô phải đi mổ khẩn cấp cho ông trưởng khoa, hay cô làm như thế chỉ đề chọc tức tôi thôi - Ông bảo vệ vừa lắc đầu vừa hỏi.
- Bớt đi một tí ađrênalin 2 thì không có hại gì cho tim của bác đâu, bác phải cảm ơn tôi chứ, bác John. Bác làm ơn cho tôi vào với ?
- Cô không có ca trực đêm nay, tôi không dành chỗ cho cô.
- Tôi để quên cuốn giáo trình phẩu thuật thần kinh ở trong tủ của tôi, tôi chỉ vào một chút thôi.
- Với công việc của cô và cái xe phóng như điên này, rồi cô sẽ tự giết mình thôi, bác sĩ ạ. Ô số 27, hàng cuối cùng bên phải, còn trống đấy.
Lauren cảm ơn ông bảo vệ bằng một nụ cười, thanh chắn được nâng lên và cô đạp ngay vào chân ga; lốp xe lại kêu kin kít. Gió thổi bật lên vài món tóc trước trán cô, để lộ ra vết sẹo trên trán, dấu tích của một vết thương cũ.
° ° °
Một mình ngồi giữa phòng khách, Arthur làm quen với cái nhà mới. Paul đã đặt một dàn hifi nhỏ trên một giá sách.
Anh bật đài lên và xăng xái mở những thùng đồ còn lại đang xếp chồng trong một góc. Tiếng chuông cửa vang lên, Arthur ra mở cửa. Một bà cụ đẹp lão đưa tay về phía anh.
- Tôi là Rose Morrison, hàng xóm của anh.
Arthur mời bà vào, nhà nhưng bà từ chối.
- Tôi cũng muốn trò chuyện với anh lắm, - bà nói - nhưng tối nay tôi rất bận. Thế này nhé, chúng ta hãy thống nhất với nhau, không có nhạc rap, không có nhạc techno, R&B thì có thể được nhưng chỉ loại chất lượng thôi, còn đối với hip hop thì để xem đã. Nếu anh cần gì thì cứ bấm chuông cửa nhà tôi, bấm mạnh lên một tí, tôi điếc đặc đấy !
Bà Morrison quay đi ngay lập tức. Thú vị, Arthur còn đứng lại vài giây ở ngưỡng cửa rồi mới quay vào tiếp tục công việc.
Một giờ sau, cái dạ dày cồn cào nhắc anh nhớ rằng anh chưa ăn gì sau bữa ăn trên máy bay. Anh mở tủ lạnh ra tuy chẳng hy vọng gì mấy và ngạc nhiên nhìn thấy một chai sữa, một tảng bơ, một gói bánh mì cắt lát để nướng, một bịch mì sợi tươi và vài dòng chữ của Paul chúc anh ăn ngon miệng.
° ° °
Gian đại sảnh của khoa cấp cứu đầy ứ. Băng ca, ghế lăn, ghế bành, ghế dài, chỗ nào cũng có người. Sau tấm kính nơi cửa tiếp đón, Lauren xem danh sách nhập viện. Tên của các bệnh nhân đã được khám chữa bệnh vừa mới được xoá khỏi tấm bảng to màu trắng là đã có ngay tên khác thay vào.
- Tôi đã bỏ lỡ mất một trận động đất à ? - Cô hỏi người trực ban bằng giọng đùa cợt.
- May mà chị đến, mọi người đang ngập đầu ngập cổ đây.
- Tôi thấy rồi ! Xảy ra chuyện gì vậy ?
- Một cái xe kéo bị tuột ra khỏi xe tải, đâm sầm vào quầy kính của siêu thị. Hai mươi ba người bị thương, trong đó mười người bị thương nặng. Bảy người đang ở trong dãy phòng sau lưng tôi, ba người được đưa đi chụp scan, tôi đã gọi lên tầng hồi sức để họ gửi người đến chi viện cho chúng ta - Betty vừa nói vừa chìa cho Lauren một chồng hồ sơ.
- Thế là bắt đầu một buổi tối rõ đẹp ! - Lauren vừa nói vừa khoác áo blouse vào người.
Cô bước vào phòng khám thứ nhất.
Người phụ nữ trẻ đang nằm thiêm thiếp trên giường chắc khoảng ba mươi tuổi. Lauren xem nhanh phiếu nhập viện của cô ta. Một tia máu chảy ra từ tai trái. Cô bác sĩ nội trú dày kinh nghiệm bèn lôi ra cái đèn pin nhỏ cài ở túi áo blouse ra và vạch mi mắt nạn nhân, nhưng đồng tử không có phản ứng gì khi ánh sáng rọi vào. Cô xem xét những đầu ngón tay thâm tím rồi nhẹ nhàng đặt bàn tay bệnh nhân xuống. Để yêm tâm, cô dùng ống nghe khám phần dưới cổ bệnh nhân rồi mới kéo vải che kín đầu cô gái. Lauren nhìn lên đồng hồ treo tường, ghi vào bìa hồ sơ rồi đi ra để sang phòng khám bên cạnh. Trên tờ giấy mà cô để lại trên giường, cô ghi giờ chết là 20h21, giờ chết cũng cần chính xác như giờ sinh.
° ° °
Arthur lục lọi mọi xó xỉnh trong bếp, anh mở từng ngăn kéo ra xem rồi đành tắt cái bếp đang đun nồi nước sôi đi. Anh ra khỏi nhà, đi ngang qua hành lang, đến bấm chuông cửa nhà hàng xóm. Không thấy trả lời, anh đã định quay đi thì cánh cửa mở ra.
- Thế này mà gọi là "bấm mạnh"à ? - bà Morrison nói.
- Tôi không muốn làm phiền bà, bà có muối không ạ ?
Bà Morrison nhìn anh, vẻ kinh ngạc :
- Thật khó mà tin rằng đàn ông vẫn còn sử dụng những mánh khoé thô thiển như vậy để ve vãn !
Một ánh lo ngại hiện lên trong mắt Arthur. Bà già cười phá lên.
- Nhìn cái mặt anh kìa ! Anh vào nhà đi, các loại mắm muối để ở cái giỏ to cạnh bồn rửa bát ấy - bà vừa nói vừa chỉ vào căn bếp nhỏ cạnh phòng khách. Anh cần gì thì cứ lấy nhé, tôi để tự anh lo đấy, tôi đang rất bận.
Và bà vội vã trở lại chỗ ngồi của mình trong chiếc ghế bành to, đối diện với tivi. Arthur đi qua phía sau tủ bar, tò mò nhìn mái đầu bạc trắng của bà lắc lư sau lưng ghế bành.
- Này, anh bạn, anh đi hay ở gì cũng được, tuỳ ý anh, nhưng đừng làm ồn nhé. Một phút nữa, Bruce Lee sẽ đi một đường Kata cực siêu và sẽ giáng một chưởng ra trò cho cái gã trưởng băng đang khiến tôi điên tiết này.
Bà già ra hiệu mời anh ngồi xuống chiếc ghế bành bên cạnh, và phải yên lặng !
- Hết cảnh này thì anh ra tủ lạnh mà lấy đĩa thịt nguội rồi lại đây xem nốt phim với tôi, anh sẽ không phải tiếc đâu ! Thêm nữa, ăn hai người bao giờ cũng vui hơn là ăn một mình !
° ° °
Người đàn ông đang nằm, thân mình bị buộc vào bàn khám, đau đớn vì nhiều chỗ gãy xương chân; nhìn vẻ mặt nhợt đi của ông ta, "đau đớn" là một từ diễn tả chính xác.
Lauren mở tủ thuốc ra lấy một ống thuốc nhỏ và một ống tiêm.
- Tôi không chịu được tiêm đâu - người bệnh rên rỉ.
- Ông bị gãy hai chân mà lại đi sợ một cái kim tiêm à ? Giới đàn ông bao giờ cũng khiến tôi ngạc nhiên !
- Chị tiêm cho tôi cái gì thế ?
- Loại thuốc chống đau lâu đời nhất.
- Có độc không ?
- Cơn đau gây ra stress, làm tim đập nhanh, tăng huyết áp và để lại những hậu quả về bộ nhớ không thể khắc phục được... Ông cứ tin tôi đi, nó còn độc hơn là vài miligram morphin đấy.
- Bộ nhớ à ?
- Ông làm nghề gì vậy, ông Kowack ?
- Thợ sửa ôtô !
- Vậy thì tôi đề nghị với ông thế này, ông cứ tin tưởng tôi về chuyện sức khoẻ của ông đi, rồi khi nào tôi mang cái xe Triumph của tôi đến chỗ ông, tôi sẽ để cho ông muốn làm gì nó thì làm.
Lauren lắp kim vào ống tiêm và ấn bơm tiêm. Truyền chất ancalôít 3 vào máu bệnh nhân, cô sẽ giải thoát cho Francis Kowack khỏi cơn đau đang giày vò ông ta. Thuốc phiện đi vào tĩnh mạch nền, vừa lên đến sọ não, nó lập tức ức chế cảm giác đau. Lauren ngồi xuống chiếc ghế đẩu nhỏ có bánh xe và lau trán cho bệnh nhân, theo dõi nhịp thở của ông ta. Người bệnh dịu dần.
- Thứ thuốc này được gọi là morphine vì lấy tên của thần Morphée 4 đấy, vì vậy, bây giờ ông hãy ngủ đi ! Ông may mắn lắm đấy.
Kowack ngước mắt lên.
- Tôi đang đi chợ một cách yên lành - người đàn ông lẩm bẩm. - Tôi bị một chiếc xe tải đâm vào khi đang ở quầy đông lạnh, chân tôi gãy vụn ra, vậy cái định nghĩa may mắn trong nghề của chị chính xác là như thế nào ?
- Là ông không nằm ở phòng bên cạnh !
Tấm rèm ở phòng khám bị kéo ra. Giáo sư Fernstein vẻ mặt không lấy gì làm dễ chịu.
- Tôi lại cứ tin là cô nghỉ mấy ngày cuối tuần này chứ ? - Fernstein nói.
- Lòng tin là một vấn đề thuộc về lĩnh vực tôn giáo ! - Lauren trả lời chan chát. - Em chỉ rẽ qua đây thôi, nhưng thầy cũng thấy đấy, chả thiếu gì việc cả - cô vừa nói thêm vừa tiếp tục khám bệnh.
- Ở khoa cấp cứu thì có mấy khi thiếu việc. Cô coi thường sức khoẻ của cô thì cũng là coi thường sức khoẻ của bệnh nhân. Tuần này cô đã trực bao nhiêu giờ rồi ? Tôi chẳng hiểu sao tôi lại hỏi cô câu này nữa, rồi cô lại bảo là khi người ta yêu thì người ta không đếm cho mà xem - Fernstein vừa nói vừa bực bội đi ra khỏi phòng.
- Thì đúng vậy mà - Lauren vừa lầm bầm vừa đặt ống nghe lên ngực ông thợ sửa ôtô, ông này nhìn cô, hốt hoảng. - Ông đừng ngại, tôi vẫn khoẻ lắm, còn cái ông ấy thì lúc nào chả làu bàu như thế.
Đến lượt Betty bước vào.
- Để ông này chị lo cho - cô nói với Lauren - phòng bên cạnh đang cần em đấy, đúng là quá tải thật rồi.
Lauren đứng dậy và yêu cầu nữ y tá gọi điện cho mẹ cô. Cô sẽ ở lại đây đêm nên cần có người chăm sóc con chó Kali của cô.
° ° °
Bà Morrison đang rửa bát, Arthur thiu thiu ngủ trên chiếc đi văng.
- Tôi nghĩ đã đến lúc anh phải đi ngủ ngay thôi.
- Cháu cũng nghĩ vậy - Arthur vừa nói vừa vươn vai, - Cảm ơn bác về buổi tối hôm nay.
- Mừng anh dọn đến ở nhà số 212 phố Pacific. Tính tôi bình thường rất dè dặt, nhưng nếu anh cần gì thì cứ bấm chuông cửa nhà tôi.
Khi ra về, Arthur nhìn thấy một con chó màu đen trắng nằm dưới gầm bàn.
- Đây là con Paolo, nhìn nó thế cứ tưởng như nó chết rồi, nhưng nó ngủ thôi, đó là hoạt động yêu thích nhất của nó. Ngoài ra thỉnh thoảng tôi cũng đánh thức nó dậy để đi dạo.
- Bác có muốn cháu giúp bác làm việc đó không ?
- Tốt hơn là anh đi ngủ đi, trong tình trạng anh bây giờ, tôi sợ là sáng mai lại thấy cả anh lẫn chó nằm ngáy dưới một góc cây.
Arthur chào bà cụ và về nhà. Anh còn muốn dọn dẹp thêm chút nữa nhưng cơn mệt mỏi đã thắng sự hăm hở của anh.
Nằm trên giường, đầu gối lên tay, anh nhìn qua cánh cửa phòng hé mở. Những thùng đồ xếp đống trong phòng khách gợi lại kỷ niệm một đêm của một thời đã qua, khi anh dọn đến ở tầng trên cùng của ngôi nhà kiểu Victoria cách nơi này không xa.
° ° °
Đã quá hai giờ sáng, nữ y tá trưởng đi tìm Lauren. Gian đại sảnh của khoa cấp cứu cuối cùng đã vợi hết người. Tranh thủ lúc yên ắng này, Betty quyết định đi bổ sung thuốc men cho tủ thuốc của các phòng khám. Cô đi dọc hành lang và kéo rèm cửa ở phòng cuối cùng. Nằm còng queo trên giường, Lauren đang ngủ say sưa. Betty kéo rèm lại và vừa bỏ đi vừa lắc đầu.
2.
Arthur tỉnh dậy vào khoảng giữa trưa. Mặt trời đứng bóng ấm áp toả vào qua cửa sổ phòng khách. Anh tự làm cho mình một bữa sáng qua loa rồi gọi vào máy điện thoại di động của Paul.
- Chào Baloo , - bạn anh nhấc máy nói - tớ thấy là cậu đã ngủ hết một vòng đồng hồ rồi đấy.
Paul rủ anh đi ăn trưa, nhưng Arthur đã có một dự định khác trong đầu.
- Tóm lại, - Paul bảo - tớ được chọn giữa việc để cậu đi bộ đến Carmel và việc chở cậu đến đó à ?
- Không phải thế ! Tớ muốn rẽ qua xưởng của ông bố dượng cậu để lấy lại chiếc xe Ford rồi bọn mình cùng đi đến đó luôn.
- Ôtô của cậu đã không chạy từ đời nảo đời nào rồi, cậu muốn ngày nghỉ cuối tuần phải ở trên đường cao tốc để đợi xe cứu trợ đến kéo đi hay sao ?
Nhưng Arthur nhắc bạn nhớ rằng chiếc ôtô này đã từng có những giấc ngủ dài hơn, thêm nữa, anh biết là bố dượng Paul vốn rất say mê xe cổ, thể nào ông ấy cũng đã sửa sang lại cái xe này rồi.
- Cái xe Ford cũ kỹ đời 60 của tớ còn khoẻ mạnh hơn cái mui trần thời tiền sử của cậu đấy.
Paul nhìn đồng hồ, anh còn vài phút để gọi điện thoại đến xưởng sửa chữa. Trừ phi có điều gì phản đối, Arthur cứ việc đến thẳng chỗ đó gặp anh.
Ba giờ chiều, hai người bạn gặp nhau trước cửa xưởng, Paul tra chìa khoá vào ổ vặn rồi đi vào xưởng. Giữa những chiếc xe cảnh sát đang sửa chữa, Arthur như nhận ra một chiếc xe cấp cứu cũ kỹ đang nằm im lìm dưới tấm vải bạt. Anh tiến lại gần để lật một góc bạt lên. Cái mũi xe có một vẻ gì gợi nhớ. Arthur đi vòng quanh chiếc xe, ngập ngừng rồi cuối cùng bèn mở cửa sau của xe ra. Phía trong khoang sau, dưới lớp bụi dày, có một chiếc cáng khơi dậy biết bao kỉ niệm, khiến cho Paul phải cao giọng để kéo Arthur ra khỏi những mộng mơ :
- Quên cỗ xe bí đỏ ấy đi, Lọ Lem, ra đây, phải đẩy ba cái xe ra mới lấy được con Ford của cậu. Đi Carmel thì đi, nhưng không nên đến sau lúc mặt trời lặn !
Arthur đậy lại tấm bạt, anh xoa nhẹ lên mui xe và thì thầm : "Tạm biệt Daisy".
Bốn cú nhấn chân ga, vừa mới khọt khẹt ba tiếng là động cơ của chiếc Ford bắt đầu kêu rù rù. Sau vài thao tác của Arthur và chừng ấy câu chửi thề của Paul, chiếc xe break rời xưởng và đi lên phía bắc thành phố để ra con đường số 1 chạy dọc Thái Bình Dương.
- Cậu vẫn nghĩ đến cô ta à ? - Paul hỏi.
Thay cho mọi câu trả lời, Arthur mở cửa sổ; một luồng gió ấm tràn vào buồng lái.
Paul vỗ vỗ vào gương chiếu hậu, làm ra vẻ như đang thử micro.
- Một, hai, một hai ba, a, được đấy chứ, thử lại lần nữa xem nào... Cậu vẫn nghĩ đến cô ta à ?
- Cũng có lúc - Arthur trả lời.
- Có thường xuyên không ?
- Một chút buổi sáng, một chút buổi trưa, một chút buổi tối, một chút ban đêm.
- Cậu đi Pháp để quên cô ta là rất phải, cậu có vẻ khỏi hẳn rồi đấy ! Thế ngày nghỉ cuối tuần cậu cũng nghĩ đến cô ta à ?
- Tớ có bảo cậu là tớ tự bắt mình không được sống đâu, cậu muốn biết tớ có còn nghĩ đến cô ấy không, tớ đã trả lời cậu, vậy thôi. Tớ có vài cuộc dan díu, nếu như điều đó có thể làm cậu yên tâm ; mà thôi đổi đề tài đi, tớ không muốn nói đến chuyện đó.
Ôtô chạy về hướng vịnh Monterry, Paul nhìn những bãi biển Thái Bình Dương lướt qua ngoài cửa sổ ; chặng đường tiếp theo trôi qua hết sức yên lặng.
- Tớ hy vọng là cậu không định tìm cách gặp lại cô ta chứ ? - Paul hỏi.
Arthur không nói một lời và sự yên lặng lại ngự trị trong xe.
Phong cảnh thay đổi luân phiên giữa những bãi biển và những đầm lầy với điền viền là con đường rải nhựa. Paul tắt cái đèn cứ kêu rèng rẹc mỗi khi xe ngang giữa hai quả đồi.
- Tăng tốc lên, mặt trời sắp lặn mất rồi !
- Mình còn những hai tiếng cơ mà, cậu có tâm hồn yêu thiên nhiên từ bao giờ thế ?
- Tớ cần quái gì ngắm cảnh hoàng hôn ! Cái mà tớ quan tâm là các em gái trên bãi biển ấy chứ !
° ° °
Mặt trời đã bắt đầu xế bóng, ánh nắng lọt qua các tầng của giá sách nhỏ che khuất cửa sổ ở một góc phòng khách. Lauren đã ngủ một giấc dài buổi chiều. Cô nhìn đồng hồ rồi đi vào buồng tắm. Cô rửa mặt, mở tủ và đứng lưỡng lự trước một chiếc quần thể thao. Cô chẳng có mấy thời gian để ra chạy ở khu Marin nếu muốn đến ca trực đêm của mình đúng giờ, nhưng cô cần hít thở không khí ngoài trời.
Cô mặc quần áo vào, thôi kệ bữa ăn tối, giờ giấc của cô chẳng ra làm sao cả, cô sẽ ăn tạm cái gì đó dọc đường vậy. Cô ấn nút trả lời tự động của máy điện thoại. Có tin nhắn của anh bạn trai nhắc cô tối nay hai người sẽ phải đến dự buổi chiếu bộ phim tài liệu mới nhất của anh ta. Cô xoá tin nhắn khi còn chưa kịp nghe đến đoạn Robert hẹn giờ.
° ° °
Chiếc Ford rời đường số 1 đã được một lúc. Hàng rào của các khu biệt thự đã hiện lên xa xa trên đồi, Arthur rẽ sang hướng đi Carmel.
- Còn khối thòi gian, dừng lại nghĩ tí đã - Paul nói.
Nhưng Arthur không chịu vòng xe lại, anh đã có dự định khác trong đầu.
- Lẽ ra tớ phải mua lấy bộ quần áo - Paul nói tiếp - Thử tưởng tượng là chúng mình lách vào được giữa đám mạng nhện, thì trong nhà cũng hơi bốc mùi ẩm mốc nhỉ ?
- Có những lúc tớ cứ tự hỏi chẳng biết có khi nào cậu lớn lên được không. Cái nhà ấy được lau dọn thường xuyên, có cả vải trải giường sạch trong giường đấy. Ở Pháp người ta có điện thoại, cậu biết đấy, có cả máy tính, Internet và tivi nữa. Chỉ có ở căng tin của Nhà Trắng người ta mới còn tưởng rằng dân Pháp không có nước máy thôi !
Anh rẽ vào con đường dẫn lên đỉnh một quả đồi, phía trước họ hiện ra hàng rào sắt của khu nghĩa địa.
Arthur vừa xuống xe, Paul đã chui luôn vào ngồi sau tay lái.
- Này, trong ngôi nhà kỳ diệu được lau dọn khi cậu vắng mặt ấy, bếp và tủ lạnh tuy thế cũng vẫn không đồng ý làm bữa tối cho chúng mình ăn phải không ?
- Không, việc này chưa được lo liệu trước.
- Được, thế thì phải đi mua vài thứ trước khi hàng quán đóng cửa hết. Tớ sẽ quay lại sau, - Paul nói bằng một giọng vui vẻ - với lại tớ muốn để cho cậu có vài phút riêng tư với mẹ cậu.
Có một cửa hàng thực phẩm cách đó hai cây số, Paul hứa sẽ về thật nhanh. Arthur nhìn chiếc xe đi xa dần, một làn bụi bốc lên sau bánh xe. Anh quay lại và bước về phía cổng. Ánh trời dìu dịu, linh hồn Lili dường như lẩn quất xung quanh anh, như điều vẫn thường xảy ra sau khi bà mất. Đi đến cuối con đường, anh nhìn thấy phiến đá trên mộ trắng lên dưới ánh mặt trời. Arthur nhắm mắt lại, hương bạc hà dại thoang thoảng trong vườn. Anh bắt đầu nói khẽ...
Con nhớ một hôm trong vườn hồng. Con ngồi chơi trên đất, lúc ấy con sáu tuổi, cũng có thể là bảy. Đó là thời kì ngay trước năm cuối cùng của mẹ con mình. Mẹ từ trong bếp đi ra ngồi dưới mái hiên. Lúc ấy con chưa nhìn thấy mẹ. Bác Antoine đã ra bờ biển, con bèn lợi dụng lúc bác ấy vắng mặt để chơi một trò bị cấm. Con xén hoa hồng bằng cái kéo của bác ấy, to quá cỡ đối với tay con. Mẹ đã rời khỏi chiếc ghế xích đu và bước xuống bậc thềm để ngăn cho con khỏi bị đau.
Khi con nghe thấy những tiếng bước chân mẹ, con cứ tưởng mẹ sẽ hét lên, vì con đã phụ lòng tin mà mẹ đã dễ dàng dành cho con, mẹ sẽ tước cái kéo khỏi tay con như tước tấm huân chương từ kẻ không còn xứng đáng. Nhưng hoàn toàn không phải thế, mẹ ngồi xuống cạnh con và mẹ nhìn con. Rồi mẹ cầm tay con đưa dọc theo cành hoa. Bằng một giọng nói đã được nụ cười làm dịu đi, mẹ dặn con bao giờ cũng phải cắt phía trên mắt cây để khỏi làm hoa bị đau ; rằng người ta không bao giờ nên làm đau một bông hoa hồng, phải thế không ? Nhưng có ai nghĩ đến cái làm cho con người đau ?
Mắt mẹ con mình bắt gặp nhau. Mẹ lấy ngón tay nâng cằm con rồi hỏi con có cảm thấy cô đơn không ? Con lắc đầu để nói là không, với tất cả sức lực cần phải có để xua đi một sự dối trá. Không phải bao giờ mẹ cũng đến được với con trong cái khoảng cách tuổi tác giữa mẹ con mình như con tự sắp xếp theo cách của con. Mẹ ơi, mẹ có tin vào một định mệnh thúc đẩy con người ta lặp lại đúng những cách hành xử của cha mẹ họ không ?
Con nhớ những lời của mẹ trong bức thư cuối cùng mà mẹ để lại cho con. Con cũng thế, con đã bỏ cuộc, mẹ ạ.
Con không thể tưởng tượng được là con có thể yêu như đã yêu nàng. Con tin nàng như tin vào một giấc mơ. Khi giấc mơ tàn, con cũng biến mất theo. Con đã nghĩ rằng mình hành động một cách dũng cảm, một cách hy sinh, nhưng lẽ ra con có thể không chịu nghe theo tất cả những người đã ra lệnh cho con không được gặp nàng. Tỉnh dậy sau một cơn hôn mê dài cũng giống như sống lại. Lauren cần có gia đình của nàng ở bên. Và gia đình duy nhất của Lauren là mẹ nàng và anh bạn trai mà nàng đã nối lại quan hệ. Con là ai đối với nàng nếu không phải là một người xa lạ ? Dù thế nào đi nữa, con cũng không phải là người sẽ cho nàng biết rằng tất cả những người xung quanh nàng đã đồng ý để cho nàng chết ! Con không có quyền phá vỡ sự cân bằng bấp bênh mà nàng đang rất cần.
Mẹ nàng đã van xin con đừng nói với nàng rằng bà ấy cũng đã bỏ cuộc. Bác sĩ phẫu thuật thần kinh khẳng định với con rằng điều đó sẽ gây ra một cơn sốc khiến cho nàng không thể hồi phục được. Bạn trai của nàng, người đã trở lại trong đời nàng, là rào cản cuối cùng dựng lên giữa nàng và con.
Con biết mẹ nghĩ gì. Sự thật không phải là ở đó, nỗi sợ có rất nhiều. Con cần phải có thời gian để tự thừa nhận rằng con đã sợ không đưa được nàng đến tận cùng giấc mơ, sợ không xứng đáng với những giấc mơ ấy, sợ không thể thực hiện được chúng, sợ rốt cuộc chẳng phải là người đàn ông mà nàng chờ đợi, sợ phải tự thừa nhận rằng nàng đã quên con.
Con đã nghĩ ngàn lần là sẽ tìm lại nàng, nhưng giờ đây con lại sợ rằng nàng sẽ không tin con, sợ không biết cách tái tạo tiếng cười chung cho hai người, sợ nàng không còn là người mà con đã từng yêu, và nhất là sợ lại mất nàng thêm lần nữa, điều đó, con sẽ không chịu đựng nổi. Con bỏ đi sống ở nước ngoài để tránh xa nàng. Nhưng chẳng có khoảng cách nào là đủ xa khi người ta yêu. Chỉ cần có một phụ nữ trên đường hao hao giống nàng là con lại nhìn thấy nàng đang bước đi, là tay con lại nguệch ngoạc viết tên nàng lên một mảnh giấy để làm nàng xuất hiện, là con lại nhắm mắt lại để nhìn thấy mắt nàng, là con lại thu mình trong im lặng để nghe giọng nói của nàng. Và trong lúc đó, con đã làm hỏng một cái đồ án đẹp nhất trong sự nghiệp của con. Con đã xây một trung tâm văn hoá có mặt tiền ốp toàn gạch vuông, trông như một bệnh viện !
Khi bỏ đi đến nơi ấy, con cũng đã trốn chạy sự hèn nhát của mình. Con đã bỏ cuộc, mẹ ơi, mẹ có biết con giận bản thân mình đến thế nào không. Con sống trong sự mâu thuẫn của niềm hy vọng rằng cuộc đời sẽ lại đưa con và nàng đến bên nhau, mà chẳng biết rằng liệu con có dám nói với nàng không. Giờ đây, con phải tiến lên, con biết là mẹ sẽ hiểu con đang định làm gì với ngôi nhà của mẹ và mẹ sẽ không giận con. Nhưng mẹ đừng lo, mẹ ạ, con sẽ không quên rằng sự cô độc là một mảnh vườn chẳng có gì đâm chồi trong đó. Dù rằng hôm nay con sống không có nàng, con cũng sẽ không bao giờ đơn độc, bởi vẫn có nàng ở một nơi nào đó.
Arthur vuốt nhẹ phiến đá cẩm thạch trắng rồi ngồi xuống mép đá còn ấm ánh nắng ban ngày. Dọc bức tường cạnh mộ Lili có mọc một cây nho. Mỗi mùa hè cây đơm được vài chùm quả cho những chú chim của Carmel đến mổ.
Arthur nghe thấy tiếng bước chân lạo xạo trên sỏi, anh quay lại và thấy Paul ngồi xuống trước một tấm bia cách anh vài mét. Anh bạn của Arthur cũng cất tiếng nói bằng một giọng tâm tình :
- Tình hình không lấy gì làm tốt, bà Tarmachov nhỉ. Mộ bà ở trong tình trạng thế này thì thật đáng hổ thẹn ! Cũng đã lâu lắm rồi, nhưng tôi chẳng có lỗi gì trong chuyện này đâu, bà biết đấy. Vì một cái cô mà hắn ta chỉ nhìn thấy phần hồn, cái thằng u mê kia đã quyết định bỏ rơi bạn thân nhất của hắn. Thôi được, đây nhé, muộn còn hơn không, tôi đã mang đến mọi thứ cần thiết đây.
Paul lấy từ cái túi mua hàng ra bàn chải, xà phòng dạng nước, một chai nước và bắt đầu hùng hục cọ phiến đá.
- Tớ có thể biết cậu đang làm cái gì không ? - Arthur hỏi. - Cậu quen cái bà Tarmachov này à ?
- Bà ấy chết từ năm 1906 !
- Paul, cậu không muốn thôi những trò ngu ngốc của cậu đi mấy giây sao ? Dù sao thì đây cũng là nơi mặc tưởng !
- Thì tớ đang mặc tưởng, trong lúc lau chùi !
- Trước mộ một người không quen ?
- Nào có phải là một người không quen đâu, ông bạn - Paul vừa nói vừa đứng dậy. - Sau bao nhiêu lần cậu bắt tớ đi với cậu đến nghĩa trang để thăm mẹ cậu, chẳng lẽ cậu lại còn định giở trò ghen tuông ra với tớ vì tớ đã làm thân đôi chút với hàng xóm của mẹ cậu hay sao !
Paul giội nước rửa phiến đá đã trắng lại và ngắm nghía công trình cũng mình, vẻ tự bằng lòng. Arthur sửng sốt nhìn bạn rồi cũng đứng dậy theo.
- Đưa tớ chìa khoá xe !
- Tạm biệt bà Tarmachov, - Paul nói - bà đừng lo, hắn ta rời khỏi đây với cái vẻ thế này thì từ nay đến Noel ít ra ta còn gặp lại nhau hai lần nữa. Đằng nào thì chỗ bà cũng còn sạch được cho đến mùa thu.
Arthur khoác tay bạn.
- Tớ có những việc quan trọng muốn nói với bà ấy.
Paul kéo bạn đi ra phía cổng lớn bằng sắt của nghĩa địa.
- Nào, đi thôi, tớ đã mua một miếng sườn bò mà cậu sẽ phải nắc nỏm khen ngon cho mà xem !
Ở phía dãy mộ nơi Lili yên nghỉ, thấp thoáng bóng ông già làm vườn đang cào sỏi. Arthur và Paul bước đến bên chiếc ôtô đậu ở phía dưới. Paul nhìn đồng hồ. Mặt trời sắp lặn xuống sau đường chân trời.
- Cậu lái hay tớ lái ? - Paul hỏi.
- Lái cái xe Ford cũ của mẹ tớ ấy à ? Cậu lại đùa rồi, lúc nãy là ngoại lệ thôi !
Ôtô đi xa dần trên con đường dọc quả đồi.
- Tớ cần quái gì phải lái cái xe Ford cũ rích của cậu.
- Thế sao lần nào cậu cũng cứ hỏi tớ ?
- Cậu làm tớ ngứa tiết !
- Cậu có muốn tối nay nướng miếng sườn bò của cậu trong lò sưởi không ?
- Không, tớ thích nấu ở trong phòng sách hơn !
- Hay là sau khi từ bãi biển về, mình ra bến cảng chén tôm hùm nhỉ ? - Arthur đề nghị.
Chân trời đã biến thành một vạt lụa màu hồng nhạt kết từ những dải ruy băng dài nối bầu trời với đại dương.
° ° °
Lauren chạy đến hụt hơi. Cô dừng lại nghỉ lấy sức, ngồi xuống chiếc ghế băng đối diện với một bến cảng du thuyền nhỏ, ăn miếng xăng đuých. Những cột thuyền buồm đong đưa dưới làn gió nhẹ. Robert hiện ra trên lối đi, tay đút túi quần.
- Anh đã biết trước là sẽ tìm thấy em ở đây mà.
- Anh có tài nhìn xuyên suốt hay anh thuê người theo dõi em đấy ?
- Chẳng cần phải là thầy bói mới biết - Robert vửa nói vừa ngồi xuống ghế băng. - Anh biết em mà, khi em không ở bệnh viện hay ở trên giường, thì là em đang chạy.
- Em phải giải toả !
- Em giải toả cả anh nữa hả ? Em không trả lời điện thoại của anh.
- Robert, em không muốn nói lại chuyện này tí nào cả. Vào năm học mới, thời kỳ bác sĩ nội trú của em sẽ chấm dứt, em còn có bao nhiêu việc phải làm nếu em muốn có cơ hội được tuyển vào biên chế.
- Em chỉ có mỗi tham vọng nghề nghiệp thôi. Từ khi em bị tai nạn, mọi sự đã thay đổi.
Lauren ném mẩu bánh xăng đuých còn thừa vào một thùng rác bằng giấy, cô nhỏm dậy buộc lại dây giày thể thao của mình.
- Em cần xả hơi, anh không giận nếu em tiếp tục chạy chứ ?
- Đi nào - Robert giữ tay cô lại, nói.
- Đi đâu ?
- Thì cứ nghe theo anh một lần cũng tốt chứ sao ?
Anh rời chiếc ghế băng và khoác vai cô vẻ che chở, kéo cô ra chỗ đậu xe. Một lát sau, ôtô đi xa dần về phía Pacific Heights.
° ° °
Hai chiến hữu chiếm chỗ ở cuối đoạn đê chắn sóng. Những con sóng như loang loáng vệt dầu, bầu trời đã trở thành màu lửa.
- Tớ không muốn xen vào những việc không liên quan đến tớ, nhưng phòng nhỡ cậu không nhận ra, thì mặt trời lặn ở phía kia cơ - Arthur nói với Paul khi anh chàng đang quay mặt nhìn lên trên bờ biển.
- Cậu xen vào như thế là rất phải ! Mặt trời của cậu có nhiều khà năng sẽ xuất hiện ở đây sáng mai, nhưng còn hai em gái kia thì không chắc là như vậy đâu.
Arthur ngắm nhìn hai phụ nữ trẻ ngồi trên cát, họ đang cười.
Gió thổi tung mái tóc một cô, cô kia đang dụi mắt vì bị cát bay vào.
- Cái ý đi chén tôm hùm hay đấy - Paul vỗ vỗ vào đầu gối của Arthur, nói - Tớ ăn nhiều thịt quá, ăn một chút cá sẽ rất có lợi.
Những ngôi sao đầu tiên đã mọc trên vòm trời của vịnh Monterrey. Trên bãi biển, có vài đôi còn tận hưởng khoảnh khắc yên tĩnh.
- Tôm hùm là loài thân giáp chứ - Arthur vừa nói vừa rời con đê.
- Cái bọn tôm hùm này điêu thật ! Thế mà chúng nó lại nói với tớ khác hẳn cơ ! Này, em gái bên trái đúng là kiểu cậu thích đấy, em ấy trông hơi giống tiểu thư Casper, còn về phần tớ, tớ sẽ tiếp cận em bên phải - Paul vừa nói vừa bước đi.
° ° °
- Em có chìa khoá không ? - Robert lục túi quần và hỏi. - Anh để quên chìa khoá ở phòng làm việc rồi.
Cô bước vào nhà trước. Cô chỉ muốn tráng qua người cho mát, để mặc Robert ở phòng khách. Vừa ngồi xuống đi văng, anh đã nghe thấy tiếng nước chảy trong buồng tắm.
Robert khẽ đẩy cửa phòng ngủ. Anh vứt lần lượt từng cái quần áo lên giường rồi rón rén đi sang buồng tắm. Chiếc gương phủ đầy hơi nước. Anh kéo rèm và bước vào khoang tắm hoa sen.
- Em có muốn anh cọ lưng cho em không ?
Lauren không trả lời, cô áp sát người vào vách đá hoa. Một cảm giác dễ chịu lan trên bụng cô. Robert đặt tay lên gáy cô và xoa bóp vai cô rồi ôm cô thật dịu dàng. Cô cúi đầu xuống và thả mình theo những cái vuốt ve của anh.
° ° °
Người trưởng nhóm phục vụ xếp cho họ ngồi đối diện với khoang cửa kính. Onega cười khi nghe Paul kể chuyện. Thời thơ ấu trải qua cùng với Arthur trong trường nột trú, những năm đại học, buổi ban đầu của công ty kiến trúc mà họ cùng nhau tạo lập... Câu chuyện đủ để Paul mua vui cho các vị khách của mình đến hết bữa ăn. Arthur ngồi lặng lẽ, cặp mắt mơ màng hướng ra biển. Khi người phục vụ mang những con tôm hùm to kềnh càng đến, Paul lấy chân đá một cú dưới gầm bàn vào Arthur :
- Anh có vẻ đang để đầu óc ở chổ nào ấy nhỉ - Mathilde, cô gái ngồi cạnh Arthur, thì thầm, để khỏi ngắt lời Paul.
- Cô cứ nói to hơn cũng được, cậu ấy không nghe thấy chúng ta nói gì đâu ! Tôi rất tiếc, quả là tôi có hơi đãng trí, nhưng tôi vừa mới đi xa về, với lại tôi thuộc lòng cái câu chuyện ấy rồi, tôi là nhân vật trong đó mà !
- Thế lần nào các anh mời phụ nữ ăn tối bạn anh cũng kể chuyện này à ? - Mathilde thú vị hỏi.
- Đúng vậy, với đôi chút thay đổi và thường là bằng cách tô vẽ thêm cho tôi - Arthur trả lời.
Mathilde nhìn anh chăm chú hồi lâu.
- Anh nhớ ai đó phải không ? Điều này được viết bằng chữ cỡ to trong mắt anh - cô nói.
- Chẳng qua chỉ vì nơi này có gì đó gợi lại một vài kỉ niệm thôi.
- Tôi đã phải mất sáu tuần dài mới hồi phục được sau cuộc đoạn tuyệt gần đây nhất. Nghe nói để dứt hẳn khỏi một cuộc tình, phải mất một quãng thời gian bằng nửa thời gian mà cuộc tình đó diễn ra. Thế rồi một buổi sáng tỉnh dậy, gánh nặng của quá khứ sẽ biến mất như có phép màu. Anh không tưởng tượng được là lúc đó sẽ thấy nhẹ nhõm đến mức nào đâu. Về phần tôi thì bây giờ tôi tự do như khí trời vậy.
Arthur lật bàn tay của Mathilde ra như để xem bói đường chỉ tay.
- Cô may mắn lắm - anh nói.
- Thế còn anh, thời kỳ hồi phục kéo dài bao lâu rồi ?
- Vài năm !
- Anh và cô ấy yêu nhau lâu đến thế kia à ? - Cô gái hỏi bằng một giọng cảm động.
- Bốn tháng !
Mathilde Berkane nhìn xuống và hùng hục cắt tôm hùm.
° ° °
Robert nằm dài trên giường, anh vươn người với cái quần jean.
- Anh tìm cái gì thế ? - Lauren vừa dùng khăn tắm lau tóc vừa hỏi.
- Cái gói của anh !
- Anh không định hút thuốc lá ở đây chứ ?
- Kẹo cao su đấy ! - Robert vừa đáp vừa hãnh diện giơ lên cái gói nhỏ lấy từ túi quần dài của mình ra.
- Anh làm ơn lấy giấy gói lại trước khi vứt nó đi nhé, người khác nhìn thấy trông ghê lắm.
Cô mặc vào mình quần dài và một cái áo sơ mi màu xanh lơ, có kí hiệu của bệnh viện Memorial San Francisco.
- Cũng buồn cười nhỉ - Robert lại nói, tay kê dưới đầu. - Em thấy toàn những thứ kinh khủng ở bệnh viện của em, vậy mà mấy cái kẹo cao su của anh lại làm cho em ghê được.
Lauren khoác áo blouse vào và đứng trước gương sửa sang cổ áo. Nghĩ đến chuyện sắp được làm việc và trở về với không khí thân thuộc ở khoa cấp cứu, tâm trạng cô vui hẳn lại. Cô vớ lấy chùm chìa khoá trên bàn và bước ra khỏi phòng; cô dừng giữa phòng khách rồi bước trở lại. Cô nhìn Robert nằm khoả thân trên giường.
- Đừng làm cái điệu bộ chó cụp tai ấy nữa, thực chất anh chỉ cần có một cô gái để khoác tay đến dự buổi chiếu ra mắt bộ phim của anh tối nay thôi. Anh đúng là chỉ biết nghĩ đến mình... còn em, em phải đi trực chứ !
Cô đóng cửa rồi đi xuống chỗ đậu xe. Vài phút sau, cô lên đường trong trời đêm ấm áp, sau tay lái của chiếc xe Triumph. Những cây đèn đường lần lượt sáng lên trên phố Green, dường như chào đón khi cô đi qua. Ý nghĩ đó khiến cô mỉm cười.
3.
Chiếc Ford cũ kỹ bò lên dốc dưới vầng trăng úa đang toả khắp vịnh Monterrey. Paul không nói một lời kể từ lúc họ tiễn hai cô gái về khách sạn nhỏ nơi hai cô ở. Arthur tắt đài và đưa xe đậu vào dải đường dành để đỗ xe sát vách đá. Anh tắt động cơ rồi chống cằm vào đôi tay dựa trên chiếc vô lăng nhựa. Ngôi nhà in bóng rõ mồn một xuống vạt đường phía dưới. Anh hạ cửa kính, để tràn vào buồng lái mùi hương toả ra từ những bụi bạc hà dại mọc đầy trên đồi.
- Tại sao cậu xị mặt ra thế ? - Arthur hỏi.
- Cậu coi tớ là thằng ngu hả ?
Paul đập vào bàn lái.
- Thế còn cái ôtô này, cậu cũng định tống đi chắc ? Cậu sẽ rũ bỏ hết kỉ niệm của cậu phải không ?
- Cậu nói chuyện gì vậy ?
- Tớ vừa mới hiểu ra thủ đoạn của cậu, "đầu tiên bọn mình qua nghĩa trang, sau đó ra bãi biển, rồi đi chén tôm hùm...". Cậu tưởng là khi trời tối rồi thì tớ sẽ không nhìn thấy tấm biển bán nhà treo ở hàng rào à ? Cậu có quyết định này từ lúc nào ?
- Từ vài tuần nay, nhưng chưa ai trả được giá.
- Tớ bảo cậu quên đi một cô gái chứ có bảo cậu đốt cháy cả quá khứ của cậu đâu. Nếu cậu bán đi ngôi nhà của mẹ cậu, cậu sẽ phải hối tiếc. Một ngày nào đó, cậu trở lại bước dọc hàng rào này, cậu bấm chuông cổng, những người xa lạ sẽ cho cậu xem ngôi nhà của chính cậu, và khi họ tiễn cậu ra ngưỡng cửa của cái nơi đã từng là tuổi thơ của cậu, cậu sẽ cảm thấy cô độc, rất cô độc.
Arthur nổ máy chiếc Ford, động cơ rồ lên ngay lập tức. Cánh cổng màu xanh lá cây của khu nhà đã mở, chiếc xe break chuẩn bị dừng lại dưới những tấm liếp lợp mái nhà xe.
- Cậu thật cứng đầu cứng cổ hơn cả lừa ! - Paul vừa làu bàu vừa chui ra khỏi xe.
- Cậu quen nhiều lừa lắm à ?
Bầu trời không một bóng mây. Dưới ánh trăng, Arthur ngắm nhìn khung cảnh xung quanh anh. Họ đi lên chiếc cầu thang nhỏ bằng đá chạy dọc theo con đường. Đến nửa đường, Arthur ngắm nhìn những dấu tích còn lại của vườn hồng phía bên phải. Khu vườn bị bỏ hoang nhưng vô số mùi hương quyện vào nhau đã làm thức dậy ở mỗi bước chân anh vũ điệu farandole 1 của những kỉ niệm toả hương.
Ngôi nhà nằm im lìm đúng như khi anh rời bỏ nó, vào buổi sáng cuối cùng mà anh sống với Lauren ở đây. Phía mặt ngoài với những cánh cửa sổ đóng kín trông còn cũ kỹ thêm, nhưng ngói trên mái nhà thì vẫn nguyên vẹn.
Paul tiến đến bên thềm, bước lên vài bậc rồi đứng dưới mái hiên gọi Arthur.
- Cậu có chìa khoá chứ ?
- Chìa khoá để ở hãng. Đợi đấy nhé, tớ còn một chùm nữa ở trong nhà.
- Cậu định đi xuyên qua tường để lấy chìa khoá à ?
Arthur không trả lời. Anh đi ra cửa sổ ở phía góc nhà và không do dự rút ra một miếng chêm chèn dưới cánh cửa chớp đang đong đưa trên bản lề. Rồi anh nhẹ nhàng nâng chốt cửa kính lên và đẩy cửa theo rãnh trượt. Không còn gì ngăn cản anh trườn vào trong nhà nữa.
Phòng làm việc nhỏ chìm trong bóng tối, Arthur chẳng hề cần ánh sáng để đi vào trong đó. Trí nhớ trẻ thơ của anh vẫn vẹn nguyên và anh biết từng góc nhỏ ở đây. Tránh quay người lại để khỏi nhìn thấy chiếc giường, anh đến bên tủ tường, mở cửa tủ và quỳ xuống. Chỉ cần đưa tay ra là anh cảm thấy ngay dưới tay mình lớp da của chiếc vali nhỏ màu đen trong đó giấu kín mãi mãi những kỉ niệm của Lili. Anh bật hai chốt khoá và từ từ mở nắp. Tinh chất của hai loại hương thơm mà Lili trộn lẫn trong chiếc lọ pha lê màu vàng có nút bằng bạc mờ vẫn lọt ra ngoài. Nhưng không phải chỉ có những kỷ niệm của mẹ anh là tràn ngập tim anh.
Arthur lấy chiếc chìa khoá dài nằm ở chổ mà anh đã đặt nó ngày anh khép cửa căn nhà này lần cuối cùng. Đó là ngay sau khi viên thanh tra cảnh sát chở Lauren về lại căn phòng bệnh viện, nơi Arthur và Paul đã đánh cắp cơ thể cô để cứu cô khỏi một cái chết đã được lên kế hoạch trước.
Arthur rời căn phòng làm việc nhỏ. Ra đến hành lang, anh bật điện. Sàn gỗ kêu cọt kẹt dưới bước chân anh, anh tra chìa vào ổ khoá và vặn ngược. Paul bước vào nhà.
- Cậu có nhận thấy không ? Magnum và Mac Gyver dưới cùng một mái nhà !
Hai người vừa vào bếp, Arthur bèn mở ngay bình ga đặt phía dưới bồn rửa bát rồi ngồi xuống bên chiếc bàn gỗ to. Nghiêng người trên bếp ga, Paul trông chiếc bình pha cà phê kiểu Ý đang sôi lăn tăn. Mùi thơm ngọt ngào đã lan toả trong phòng. Paul lấy hai chiếc cốc to từ trên giá gỗ màu nâu xuống và đến ngồi trước mặt bạn.
- Giữ những bức tường này lại và đưa cô gái kia ra khỏi đầu cậu đi, cô ta đã gây ra quá đủ thiệt hại rồi.
- Bọn mình sẽ không nói lại chuyện này chứ ?
- Không phải tớ là người có bộ mặt đưa đám khi ngồi ăn tối cùng với hai nàng xinh như mộng đâu nhé - Paul vừa rót cà phê nóng bỏng vừa nói tiếp.
- Mộng của cậu, đâu phải của tớ !
Paul sửng cồ :
- Đã đến lúc lập lại một chút trật tự trong đời cậu rồi đấy. Cậu có một căn hộ mới, một nghề mà cậu say mê, một người liên doanh thiên tài và mấy em gái mà tớ chài thì nhìn tớ nhưng lại cầu trời khẩn Phật để được cậu gọi điện thoại cho.
- Cậu nói về cái cô cứ nhìn cậu như muốn ăn sống nuốt tươi ấy à ?
- Tớ không nói về Onega mà về cô kia cơ ! Đã đến lúc cậu nên vui chơi !
- Thì tớ vẫn vui đấy chứ Paul, có lẽ không giống cậu, nhưng tớ vẫn vui. Lauren không còn trong đời tớ nữa, nhưng cô ấy là một phần của tớ. Thêm nữa tớ đã nói với cậu rồi, tớ đâu có bắt mình không được sống. Đây là buổi tối đầu tiên của bọn mình từ khi tớ trở về, nhưng chúng mình có ăn tối riêng đâu, theo như tớ biết.
Paul quấy không ngừng chiếc thìa nhỏ trong cốc cà phê của mình.
- Cậu đâu có cho đường vào cà phê của cậu... - Arthur đặt tay mình lên tay bạn, nhắc.
Giữa đêm trăng sáng, trong căn bếp ấm cúng của ngôi nhà cũ bên bờ biển, hai chiến hữu nhìn nhau yên lặng.
- Cứ nghĩ đến câu chuyện phi lý mà bọn mình đã trải qua, tớ chỉ muốn táng cho cậu vào cái tát để cậu tỉnh hẳn lại - Paul nói. - Thế nếu như cậu cứ điên rồ thử tìm cách gặp lại cô ta, cậu sẽ nói với cô ta cái gì nào ? Hồi cậu kể cho tớ nghe những chuyện xảy ra với cậu, tớ đã bắt cậu đi xét nghiệm bằng máy scanner...Vậy mà tớ là bạn thân nhất của cậu đấy ! Cô ta lại là bác sĩ, nếu cậu nói sự thật với cô ta, cậu nghĩ cô ta có chụp lên người cậu một cái áo cho bệnh nhân tâm thần, loại không có mũ hoặc là loại bịt kín đầu kiểu Hannibal Lecter, hay không ? Cậu đã làm việc cậu phải làm, và tớ ngưỡng mộ cậu về điều đó. Cậu đã dũng cảm bảo vệ cô ấy đến cùng.
- Tớ nghĩ tốt nhất là tớ đi ngủ, tớ mệt rồi - Arthur nói và đứng dậy.
Arthur đã ra đến hành lang thì Paul gọi anh lại, anh bèn thò đầu qua cửa.
- Tớ là bạn của cậu, cậu biết chứ ? - Paul nói.
- Ừ !
Arthur ra khỏi nhà bằng cửa sau và đi vòng quanh ngôi nhà. Anh chạm nhẹ vào bộ khung gỉ của chiếc ghế xích đu rồi nhìn quanh. Những mảnh ghép sàn dưới mái hiên đã bị long ra, những miếng ốp mặt tiền đã tróc sơn bởi cái nắng thiêu đốt mùa hè và sương muối mùa đông, khu vườn bỏ hoang toát lên vẻ buồn thảm. Một cơn gió thổi làm Arthur rùng mình. Anh lấy từ trong áo khoác ra chiếc phong bì có chứa bức thư mà anh đã bắt đầu viết ở Paris, trên một chiếc ghế băng ở quảng trường Fürstenberg, anh viết nốt trang cuối cùng rồi lại nhét vào túi áo.
° ° °
Sương mù trên biển Thái Bình Dương kéo tấm khăn choàng đêm ra đến tận thành phố. Bên quầy bar vắng ngắt của quán Parisian Coffee, đối diện với cửa ra vào khoa cấp cứu, Lauren đọc thực đơn trong ngày.
- Cô còn có thể làm việc gì nữa vào cái giờ này buổi đêm, một mình, ở quán của tôi ? - Ông chủ quán mang đến cho cô một cốc nước giải khát và hỏi.
- Nghĩ giữa giờ chẳng hạn.
- Nhìn xe cấp cứu chạy rầm rập thì xem ra tối nay cũng nhiều việc ra phết ! - ông chủ quán vừa lau cốc vừa nói tiếp. - Cứu toàn thế giới là điều tốt, nhưng cô có nghĩ đến chuyện mình cũng phải sống không ?
Lauren nghiêng người về phía ông chủ quán như để thổ lộ một điều bí mật.
- Bác nói cho tôi yên tâm đi, tôi là chủ đề của mọi cuộc nói chuyện, hay là tối nay ông Fernstein có đến ăn ở đây ?
- Ông ấy ngồi ở chỗ kia kìa - chủ quán chỉ về phía cuối phòng, thừa nhận.
Lauren rời chiếc ghế đang ngồi và đi đến chỗ giáo sư.
- Nếu thầy cứ tiếp tục có vẻ mặt thế này thì em lại trở về ngồi ăn một mình ở quầy bar vậy - Lauren nói và đặt cốc của mình xuống bàn.
- Cô ngồi xuống đi chứ đừng nói vớ vẩn nữa.
- Hôm qua, thầy không nhất thiết phải khiển trách em trước mặt bệnh nhân của em. Đôi khi thầy đối xử với em cứ như thể em là đứa con gái nhỏ của thầy vậy.
- Còn hơn thế nữa chứ, cô là sản phẩm sáng tạo của tôi ! Sau khi cô bị tai nạn, tôi đã khâu vá lại hoàn toàn...
- Cảm ơn thầy đã tháo đinh ốc ra khỏi sọ em.
- Tôi làm vụ này thành công hơn Frankenstein 2, có lẽ chỉ trừ phần tính cách thôi. Cô có muốn cùng ăn đĩa bánh xèo với một thầy lang già và uống xi rô không ?
- Nếu vậy thì có ạ.
- Chúng ta đã xử lý bao nhiêu bệnh nhân đêm nay nhỉ ? - Ông Fernstein đẩy đĩa bánh về phía Lauren, hỏi.
- Khoảng một trăm người - cô trả lời và lấy một miếng bánh khá to. - Thế thầy còn làm gì ở đây vậy, chắc thầy không cần trực ngoài giờ để kiếm thêm tiền chứ ?
- Kỷ lục đẹp đối với một ngày thứ Bảy đấy - ông Fernstein đồng tình nói, miệng đầy bánh.
Sau tấm kính của một quán ăn không tuổi, ông giáo sư già và cô học trò ngồi ăn, đồng cảm, cả hai cùng thưởng thức khoảnh khắc nghỉ ngơi mà phần cuối của đêm dành tặng họ.
Ở hè đường đối diện, khoa cấp cứu sẽ không biết đến sự vắng mặt của họ trong vài giờ nữa. Trên đường phố vắng, ánh sáng của một ngọn đèn chập chờn rồi tắt hẳn. Một ban mai với bầu trời nhợt nhạt vừa thức dậy.
° ° °
Arthur thiu thiu ngủ trên ghế xích đu. Ngày mới rạng phủ lên cảnh vật một không khí dìu dịu. Anh mở mắt và nhìn ngôi nhà dường như đang ngủ yên lành. Phía dưới kia, biển liếm vào bãi cát, kết thúc công việc từ đêm của nó. Bãi biển mặc lại bộ tranh phục nhẵn mịn, không tì vết. Anh đứng dậy và hít thật sâu hương vị trong lành của buổi sáng. Anh rảo bước về phía bậc thềm, đi qua hành lang rồi hối hả leo lên cầu thang. Lên trên gác, Arthur gõ cửa rồi thở hổn hển bước vào phòng Paul.
- Cậu ngủ đấy à ?
Paul giật nảy mình và ngồi bật dậy trên giường. Anh tìm kiếm xung quanh rồi nhận thấy Arthur đang đứng ở chỗ cánh cửa hé mở.
- Cậu đi ngủ lại ngay đi ! Cậu sẽ quên sự tồn tại của tớ cho đến khi kim ngắn của cái đồng hồ báo thức này chỉ vào một con số hợp lý, chẳng hạn số mười một. Khi ấy, và chỉ đến khi ấy, cậu mới được hỏi lại tớ cái câu hỏi ngu ngốc của cậu.
Paul quay lưng và đầu anh lún vào cái gối to đùng. Arthur ra khỏi phòng, đến giữa hành lang, anh lại quay người, bước trở lại :
- Cậu có muốn tớ đi mua cái bánh mì ăn sáng không ?
- Cút đi ! - Paul rống lên.
° ° °
Lauren bấm điều khiển từ xa để mở cửa nhà xe và tắt máy ngay khi vừa đỗ xe xong. Con Kali ghét chiếc xe Triumph này, hễ nghe thấy tiếng máy nổ là nó sủa ầm ngay. Đi vào qua hành lang bên trong, Lauren nhảy bốn bậc một ở cầu thang chính rồi bước vào căn hộ của mình.
Những con số ở chiếc đồng hồ quả lắc đặt trên lò sưởi chỉ sáu giờ rưỡi sáng. Kali rời chiếc đi văng để chạy ra chào mừng cô chủ, Lauren bế nó lên. Sau khi được vuốt ve, con chó đi ngủ tiếp trên chiếc thảm dừa trải giữa phòng khách, còn Lauren ra sau tủ bar để pha một cốc trà thảo mộc. Một mẩu thư ngắn của mẹ cô, dính trên cánh cửa tủ lạnh bằng cục nam châm hình con ếch, thông báo rằng Kali đã được ăn tối và đi dạo. Cô mặc vào mình một chiếc áo ngủ rộng quá cỡ rồi chui vào chăn. Cô ngủ thiếp đi ngay tức khắc.
4.
Paul đi xuống cầu thang, hành lý cầm tay. Anh xách đống hành lý của Arthur đặt ở hành lang và nói với bạn là anh đợi ở ngoài. Anh ngồi vào chiếc xe Ford ở vị trí cạnh người lái, nhìn ngó xung quanh rồi bỗng bật lên một tiếng huýt sáo. Anh khẽ khàng nhích người qua cái cần tốc độ rồi luồn vào sau tay lái.
Arthur khoá cửa vào nhà từ bên trong. Anh vào phòng làm việc của mẹ, mở tủ tường và nhìn chiếc vali da màu đen nằm trên giá. Anh chạm ngón tay vào mấy cái khoá bằng đồng và đặt chiếc phong bì giấu trong túi áo vào vali, rồi để chìa khoá lại chỗ cũ.
Anh đi ra bằng lối cửa sổ. Khi đặt lại miếng chêm để chèn cánh cửa, anh như nghe thấy tiếng mẹ càu nhàu mỗi lần hai mẹ con vào thành phố đi mua sắm, bởi vì bác Antoine vẫn chưa sửa lại cái cánh cửa thổ tả này. Và anh nhìn thấy mẹ trong vườn, nhún vai và bảo nói cho cùng thì các ngôi nhà cũng có quyền được có nếp nhăn. Mẩu gỗ nhỏ chống vào tường đá này là vật chứng về một thời sẽ không bao giờ mất hẳn.
- Xê ra - anh mở cửa xe và nói với Paul.
Anh vào xe và nhăn mũi.
- Có mùi gì lạ hay sao ấy ?
Arthur nổ máy. Đi được một đoạn, cửa kính phía Paul hạ xuống. Tay anh thò ra, đầu ngón tay giữ một cái túi nylon co in mác của một cửa hàng thịt, anh quẳng túi vào một thùng rác ở lối ra của khu nhà. Họ lên đường trước giờ ăn trưa khá sớm, và như vậy sẽ tránh được nạn tắc đường do những dòng xe trở về sau kỳ nghỉ cuối tuần. Vào đầu buổi chiều, họ sẽ có mặt ở San Francisco.
° ° °
Lauren vươn cao tay. Cô ra khỏi giường và phòng ngủ với vẻ tiếc rẻ. Như thường lệ, cô bắt đầu bằng việc chuẩn bị bữa sáng cho con chó trong một chiếc bát tô to nặng bằng đất nung, rồi sau đó thì sắp xếp khay đồ ăn của mình. Cô đến ngồi ở cái ngách nhỏ trong phòng khách, phía được mặt trời buổi sáng rọi vào qua cửa sổ. Từ chỗ này, cô có thể ngắm nhìn cầu Golden Gate kéo dài như một vạch nối giữa hai bờ vịnh, những ngôi nhà nhỏ trên các triền đồi của Sausalito và cả Tiburon với bến cảng cá nhỏ của nó nữa. Chỉ có tiếng còi ù u của những chiếc tàu to chở hàng đang rời cảng hoà với tiếng kêu của lũ hải âu là đệm nhịp cho không khí mơ màng uể oải của buổi sáng Chủ nhật này.
Sau khi đã ngấu nghiến phần lớn bữa sáng ngồn ngộn đồ ăn, cô đặt chiếc khay vào bồn rửa bát và vào buồng tắm. Những tia nước xối mạnh ra từ vòi hoa sen, dù rằng chẳng bao giờ xoá được những vết sẹo trên da thịt cô, cũng đã làm cho cô tỉnh ngủ hẳn.
- Kali, đừng có lẩn quẩn như thế, rồi tao sẽ cho mày đi dạo.
Lauren quấn một chiếc khăn tắm quanh người, để hở ngực. Không trang điểm gì, cô mở tủ, xỏ vào người chiếc quần jean và cái áo phông polo, cô cởi áo polo ra, mặc một chiếc sơmi, rồi cởi sơmi ra và mặc áo polo lại. Cô nhìn đồng hồ, một tiếng nữa mẹ cô mới ra tìm cô ở khu Marina, Kali thì đã ngủ thiếp đi trên chiếc đi văng màu trắng đục. Lauren bèn ngồi xuống cạnh con chó, vớ lấy cuốn giáo trình phẫu thuật thần kinh dày cộp nằm giữa đống giấy tờ lộn xộn trên bàn, rồi mải miết đọc, miệng gặm đuôi bút chì.
° ° °
Chiếc Ford đỗ lại trước nhà số 27, đại lộ Cervantes. Paul lấy túi của mình ở hàng ghế sau rồi xuống ôtô.
- Cậu có muốn đi xem phim tối nay không ? - Anh nghiêng người vào cửa xe phía Arthur, hỏi.
- Không được, tối nay tớ đã hẹn với một người rồi.
- Một người hay một cô ? - Paul hớn hở thốt lên.
- Bữa tối riêng hai người, cùng ăn và cùng xem tivi.
- Thật là một tin tốt lành, cậu hẹn ai vậy nếu như tớ không tò mò quá ?
- Có đấy !
- Có gì cơ ?
- Cậu có tò mò.
Ôtô đi xa dần vào phố Fillmore. Tới chỗ cắt với phố Union, Arthur dừng lại trước vạch sơn để nhường đường cho một chiếc xe tải đã đến ngã tư trước anh. Một chiếc Triumph mui trần khuất đằng sau xe tải đã lợi dụng lúc đó để phóng vọt qua, không dừng lại trước vạch, chiếc xe màu xanh lá cây ấy đi về phía Marina. Một con chó được buộc thắt lưng an toàn ngồi trên ghế cạnh người láo, sủa ầm ĩ. Xe tải vượt qua ngã tư và xe Ford đi lên đồi Pacific Heights.
° ° °
Cái đuôi ngoe nguẩy liên hồi chứng tỏ Kali rất vui sướng. Nó hít hít thảm cỏ với vẻ rất quan trọng, tìm xem con vật nào lại có thể giẫm lên cỏ trước nó được. Chốc chốc, nó ngẩng đầu lên rồi chạy lại với gia đình mình. Sau khi lượn vài hình chữ chi giữa chân Lauren và chân bà Kline, nó lại đi mở đường, khám xét một vạt cỏ khác ; mỗi khi nó tỏ ra quá tình cảm với một cặp đang đi dạo hay với con cái họ, mẹ của Lauren lại gọi nó trở về khuôn phép.
- Mẹ có thấy cái hông của nó có vẻ bị đau không ? - Lauren nói khi nhìn Kali đi ra xa.
- Nó đang già đi đấy ! Cả chúng ta cũng vậy, nếu như con không nhận ra.
- Mẹ có tâm trạng vui vẻ nhỉ, mẹ chơi bài bridge bị thua à ?
- Con cứ đùa, mẹ đánh bại tất cả các bà gái già ấy đấy chứ ! Mẹ chỉ lo cho con thôi.
- Nếu vậy thì không cần thiết, con khoẻ mạnh, con làm một nghề mà con thích, con hầu như không bị đau đầu nữa và con hạnh phúc.
- Ừ, con nói phải, mẹ nên nhìn mọi việc ở khía cạnh tốt, đây là một tuần lễ tốt đẹp, con đã dành được hai tiếng đồng hồ để tự chăm sóc mình, thế là tốt !
Lauren chỉ vào một người đàn ông và một phụ nữ bước trước cô trên con đê chắn sóng ở bến cảng nhỏ :
- Anh ta hơi giống thế này phải không ạ ? - cô hỏi mẹ.
- Ai cơ ?
- Con không biết tại sao, nhưng từ hôm qua con lại nghĩ đến anh ta. Mà mẹ đừng lảng đi mỗi lần con nhắc đến đề tài này nữa.
Bà Kline thở dài.
- Mẹ chẳng có gì để nói với con cả, con yêu. Mẹ không biết cái anh chàng đã đến thăm con ở bệnh viện là ai. Anh ta tử tế, rất lịch sự, hẳn là một bệnh nhân không có việc gì làm nên thích đến đó.
- Các bệnh nhân không mặc áo vét vải tuýt dạo chơi trong hành lang bệnh viện như vậy. Thêm nữa con đã kiểm tra lại danh sách tất cả những người nằm viện ở phía bên này của toà nhà, không có ai giống như thế cả.
- Con đã kiểm tra một việc như thế à ? Sao con lại ngang bướng đến thế ! Nói rõ ra thì con muốn tìm cái gì nào ?
- Tìm cái mà mẹ đã giấu con khi coi con là một con ngốc. Con muốn biết anh ta là ai, tại sao ngày nào anh ta cũng đến đó.
- Để làm gì cơ chứ ! Tất cả những chuyện đó đều đã thuộc về quá khứ rồi.
Lauren gọi con Kali đang đi hơi xa quay lại. Con chó quay nhìn cô chủ rồi chạy lại với cô.
- Khi con tỉnh lại sau cơn hôn mê, anh ta ở đó; lần đầu tiên tay con cử động được, anh ta cầm tay con để cho con yên tâm; mỗi lúc con giật mình tỉnh dậy vào nửa đêm, anh ta vẫn ở đó... Một buổi sáng, anh ta hứa sẽ kể cho con nghe một câu chuyện không thể tin được, thế rồi anh ta biến mất.
- Anh chàng này là một cái cớ để con quên đi cái phần đời đàn bà của con và chỉ nghĩ đến công việc thôi. Con biến anh ta thành một kiểu hoàng tử quyến rũ. Thật là dễ khi yêu một người mà ta không thể với tới được, ta sẽ chẳng phải mạo hiểm gì cả.
- Thế nhưng đó chính là điều mà mẹ đã làm được trong suốt hai mươi năm sống bên bố đấy.
- Nếu con không phải là con của mẹ thì mẹ đã cho con một cái tát rồi, con đáng bị ăn tát.
- Mẹ lạ thật đấy mẹ ạ. Mẹ đã không bao giờ nghi ngờ chuyện con đủ sức để tự mình thoát khỏi cơn hôn mê, vậy mà tại sao bây giờ con đã sống lại rồi thì mẹ lại có ít lòng tin đối với con như vậy ? Thế nếu như có một lần con thôi không nghe theo lý trí và sự tỉnh táo của mình nữa, để nghe cái tiếng nói rất khẽ từ đáy lòng con đang nói với con ? Tại sao tim con cứ đập loạn lên mỗi lần con tưởng như nhận ra anh ta ? Điều đó không đáng để đặt câu hỏi sao ? Con rất tiếc là bố đã bỏ đi, con tiếc là bố đã lừa dối mẹ, nhưng đó đâu phải là một căn bệnh di truyền. Không phải người đàn ông nào cũng là bố con !
Bà Kline cười phá lên. Bà đặt tay lên vai con gái và nhìn cô với vẻ coi thường :
- Con muốn dạy mẹ à, con, một đứa con gái chỉ toàn chơi với lũ con trai giỏi giang chuyên nhìn con như nhìn Đức Mẹ Đồng Trinh, như một điều kỳ diệu trong đời chúng ! Kể cũng yên tâm nhỉ, khi biết rằng dù mình có làm gì chăng nữa thì người kia cũng không thể rời bỏ được mình, phải không ? Mẹ, ít ra mẹ cũng đã yêu !
- Nếu mẹ không phải là mẹ của con thì bây giờ chính con sẽ là người tát đấy.
Bà Kline bước tiếp. Bà mở túi xách tay, lấy ra một gói kẹo và mời con gái một cái nhưng cô từ chối.
- Cái duy nhất làm mẹ xúc động trong những điều mà con nói, là mẹ nhận thấy rằng bất chấp lối sống của con, ở con vẫn còn loé lên một tia lãng mạn nhỏ xíu, nhưng cái mà mẹ tiếc là con đang uổng phí điều đó bằng một sự ngây thơ quá mức. Con đợi cái gì ? Nếu anh chàng kia quả thật là người đàn ông của đời con, anh ta đã đến tìm con rồi, con gái tội nghiệp của mẹ ! Chẳng ai đuổi anh ta cả, anh ta đã tự biến mất. Vậy nên con hãy ngừng oán giận cả thế gian và nhất là mẹ con đi, con làm như chính mẹ là người có lỗi ấy.
- Có lẽ anh ta có những lý do nào đó ?
- Chẳng hạn như một người phụ nữ khác hoặc là những đứa con ? - bà Kline nói tiếp bằng một giọng độc địa.
Có vẻ như Kali đã chán ngấy không khí căng thẳng giữa hai mẹ con. Nó ngoạm một cái que mang đến đặt dưới chân Lauren và sủa ầm lên. Lauren chộp lấy cái đồ chơi ngẫu hứng đó và ném ra xa.
- Mẹ vẫn không hề kém đi chút nào trong cái nghệ thuật ăn miếng trả miếng của mẹ. Con không kề cà ở đây nữa đâu, con phải đọc một hồ sơ cho ngày mai - Lauren nói.
- Đến tuổi này rồi mà con vẫn có bài tập phải làm ngày Chủ nhật ? Mẹ tự hỏi không biết đến bao giờ con mới chán việc rượt đuổi công danh ! Có lẽ con buồn đến chết đi được với cậu bạn trai của con nhỉ, mà không, sao mẹ lại ngốc thế cơ chứ, con có buồn chán bao giờ đâu, vì chủ nhật con còn phải ngủ hay làm bài tập cơ mà !
Lauren đứng sững trước mặt mẹ với ước muốn không cưỡng lại được là chặn họng bà.
- Người đàn ông của đời con sẽ tự hào vì con yêu công việc của mình, và anh ấy sẽ không đo đếm thời gian của con !
Cơn tức giận phải kìm nén làm những mạch máu trên thái dương của cô nổi lên.
- Sáng mai, bọn con sẽ thử cắt bỏ khối u trong não một bé gái - Lauren nói tiếp. - Nói thế thôi thì xem ra chẳng có gì quan trọng cả, nhưng mẹ cứ thử hình dung là khối u này đang làm cho cô bé bị mù. Thế mà trước ngày tiến hành ca mổ, con lại phân vân không biết nên đi xem một bộ phim hay và cùng Robert vừa hôn hít vừa nhai bỏng ngô, hay là xem kỹ lại quy trình cho ngày mai !
Lauren huýt sáo gọi con chó. Cô rời con đường đi dạo dọc bến cảng và ra chỗ đậu xe.
Con chó ngồi vào chỗ của nó ở ghế phía trước bên phải, Lauren cài dây thắt lưng an toàn cho nó và chiếc Triumph rời đại lộ Marina trong những tiếng sủa rầm rĩ. Cô rẽ vào Cervantes rồi đi lên Fillmore. Đến chỗ cắt với Greenwich, Lauren đi chậm lại, lưỡng lự không biết có nên dừng lại để thuê một bộ phim không. Cô vẫn mơ ước được xem lại Cary Grant và Deborah Kerr trong phimChàng và nàng, thế rồi nghĩ đến buổi sáng hôm sau, cô bèn chuyển nấc số hai và tăng tốc, vượt trước một chiếc Ford cũ kỹ đời 1961 đang đỗ trước cửa hiệu video.
° ° °
Arthur xem xét từng tên phim một trong mục "Võ thuật".
- Tôi muốn gây bất ngờ cho một người bạn gái tối nay, anh có thể khuyên tôi gì không ? - anh hỏi nhân viên cửa hàng.
Người bán hàng biến mất khỏi quầy rồi hân hoan trở lại với một cái hộp nhỏ trong tay. Anh ta dùng dao rọc giấy rạch một đường để mở hộp và giới thiệu bộ phim với Arthur.
- Cơn thịnh nộ của rồng, bản dành cho người sưu tầm ! Có ba cảnh đấm đá mới xuất hiện lần đầu ! Phim vừa về hôm qua, anh sẽ làm cho cô bạn thích điên lên được với cái này đấy !
- Anh nghĩ thế à ?
- Bruce Lee là một giá trị đảm bảo, cô bạn này hẳn phải là fan cuồng nhiệt.
Gương mặt Arthur rạng rỡ lên :
- Tôi lấy phim này !
- Không biết cô bạn của anh tình cờ có em gái không ?
Anh bước ra khỏi cửa hiệu video, vui sướng. Buổi tối xem ra sẽ rất được. Dọc đường, anh dừng lại một chút ở tiệm bán đồ ăn sẵn, chọn món khai vị và món chính, toàn là những đồ ăn hấp dẫn, rồi nhẹ nhõm trở về nhà. Anh đậu chiếc Ford trước toà nhà nhỏ ở ngã tư Pacific - Fillmore.
Vừa khép cửa căn hộ lại, anh đặt ngay gói hàng mới mua lên tủ bar ở bếp, bật dàn hifi, cho một đĩa nhạc Frank Sinatra vào rồi xoa tay.
Căn phòng ngập trong thứ ánh sáng màu đỏ của buổi tối mùa hè ấy. Vừa hát rống lên một giai điệu trong Strangers in the Night, Arthur vừa bày những bộ đồ ăn thật lịch sự cho hai người trên chiếc bàn thấp ở phòng khách. Anh mở một chai rượu vang đỏ năm 1999, đặt nóng lại món gratin de lasagne và xếp những món khai vị kiểu Ý lên hai cái đĩa sứ trắng. Xong xuôi, anh đi qua phòng khách ra ngoài, để cửa căn hộ khép hờ và đi ngang qua hành lang. Anh đập như gõ trống vào cửa và nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng của bà hàng xóm tiến lại gần.
- Tôi điếc thật nhưng đâu đến nỗi thế ! - Bà cụ đón anh với nụ cười rất tươi.
- Bác không quên buổi tối của chúng ta chứ ? - Arthur hỏi.
- Anh cứ đùa !
- Bác không mang con chó của bác theo à ?
- Con Paolo đang ngủ say như chết, nó cũng già như tôi mà, anh biết đấy.
- Bác không già lắm đâu, bác Morrison ạ.
- Có, có chứ, anh cứ tin tôi đi ! - Bà nói và khoác tay kéo anh đi ra hành lang.
Arthur sắp xếp cho bà Morrison ngồi thật thoải mái rồi rót một ly rượu cho bà.
- Cháu có một điều bất ngờ dành cho bác ! - Anh vừa nói vừa giơ cái bao đựng phim ra. Gương mặt yêu kiều của bà Morrison sáng bừng lên.
- Cái cảnh đấm đá ở bến cảng là một cảnh kinh điển đấy !
- Bác đã xem rồi à ?
- Một số lần !
- Và bác vẫn chưa chán ?
- Anh đã xem Bruce Lee ở trần bao giờ chưa ?
° ° °
Kali chồm dậy, nó ngoạm sợi dây dắt của nó vào mồm rồi bắt đầu đi loanh quanh trong phòng, đuôi ve vẩy.
Lauren nằm cuộn tròn trên đi văng, khoác chiếc áo choàng vải bông mặc nhà, chân đi tất len dày cộp. Cô ngừng đọc để thích thú dõi nhìn con Kali tập thể dục, rồi cô gập cuốn chuyên luận về phẫu thuật thần kinh lại và âu yếm hôn lên đầu con chó. "Tao thay quần áo rồi chúng mình đi nhé."
Vài phút sau Kali đã nhảy nhót ở phố Green ; xa xa một chút, trên vỉa hè phố Fillmore, một cây dương non có vẻ như toả ra mùi hương thật dễ chịu, Kali bèn kéo cô chủ ra đó. Lauren tư lự, làn gió buổi tối thổi đến khiến cô rùng mình.
Ca phẫu thuật ngày mai làm cô lo lắng, cô linh cảm rằng ông Fernstein sẽ đặt cô vào vị trí điều khiển. Từ khi ông quyết định đến cuối năm sẽ nghỉ hưu, ông yêu cầu cô mỗi lúc một cao hơn, như thể ông muốn đẩy nhanh việc đào tạo cô. Lát nữa trở về nhà, dưới ánh sáng của ngọn đèn đầu giường, cô sẽ đọc lại tài liệu, thêm và thêm nữa.
Bà Morrison rất hoan hỉ về buổi tối này. Đứng trong bếp, bà lau khô những bát đĩa Arthur đã rửa.
- Tôi có thể hỏi anh một câu được không ?
- Bác hỏi gì cũng được ạ.
- Anh không thích karate, và đừng có bảo là một chàng trai như anh chỉ tìm được một bà già tám mươi tuổi để cùng tiêu thời gian buổi tối Chủ nhật nhé.
- Không có câu hỏi nào trong những điều bác vừa nói cả, bác Morrison ạ.
Bà cụ đặt tay mình lên tay Arthur và bĩu môi :
- Ồ, có chứ, có một câu hỏi đấy ! Một câu hỏi ngầm và anh hiểu rất rõ. Mà thôi đừng có "bác Morrison ạ" nữa, cứ gọi tôi là Rose thôi.
- Cháu rất thích ngồi với bác cả tối Chủ nhật này để trả lời câu hỏi ngầm của bác.
- Anh bạn ạ, anh có vẻ mặt của một người đang ẩn náu trong sự cô đơn !
Arthur chăm chú nhìn bà Morrison.
- Bác có muốn cháu dẫn con chó của bác đi dạo không ?
- Đây là một lời đe doạ hay một câu hỏi vậy ?
- Cả hai ạ !
Bà Morrison đánh thức Paolo dậy và tròng dây vào cổ nó.
- Vì sao bác lại đặt cho con chó cái tên này vậy ? - Arthur hỏi khi đứng trên ngưỡng cửa.
Bà cụ ghé vào tai anh để thổ lộ với anh rằng đó là tên người tình đáng nhớ nhất của bà.
- ... Hồi ấy tôi ba mươi tám tuổi, anh ta kém tôi năm tuổi, hay có lẽ là mười nhỉ ? Ở tuổi tôi bây giờ trí nhớ đâm ra lẫn lộn theo chiều hướng có lợi. Đó là một chàng trai Cuba tuyệt vời. Anh ta khiêu vũ như thần vậy và anh ta linh lợi hơn con chó giống jack russellnày nhiều, anh cứ tin lời tôi đi !
- Cháu sẵn lòng tin bác - Arthur vừa nói vừa kéo dây dắt chó, con chó dùng cả bốn chân để bám lại ở hành lang.
- Ôi, La Habana ! - bà Morrison thở dài và đóng cửa nhà lại.
Arthur và Paolo đi xuống phố Fillmore. Con chó dừng lại dưới gốc một cây dương. Vì một lý do mà Arthur hoàn toàn không hiểu nổi, cái cây bỗng nhiên gợi lên sự thích thú mãnh liệt ở con chó. Arthur cho tay vào túi quần và đứng dựa vào bức tường nhỏ, để cho Paolo tận hưởng khoảnh khắc hứng khởi hiếm hoi đó. Điện thoại di động của anh rung lên trong túi quần, anh bật máy.
- Cậu có một buổi tối vui chứ ? - Paul hỏi.
- Cực kỳ.
- Thế bây giờ cậu đang làm gì vậy ?
- Paul, theo cậu thì một con chó có thể dừng lại dưới gốc cây để hít hà trong bao lâu ?
- Tớ dập máy đây, - Paul nói vẻ hoang mang - tớ sẽ đi ngủ ngay trước khi cậu hỏi tớ thêm một câu khác nữa !
° ° °
Ở cách đó hai khối nhà, trên tầng hai của một ngôi nhà xây theo kiểu Victoria quay về phía phố Green, ánh đèn trong phòng ngủ của một nữ bác sĩ phẫu thuật thần kinh trẻ tuổi vừa tắt.
5.
Đồng hồ báo thức đặt trên chiếc bàn đầu giường kéo Lauren ra khỏi một giấc ngủ say sưa đến mức cô thấy thật khổ sở khi phải mở mắt ra. Có những buổi sáng, sự mệt mỏi tích tụ suốt năm khiến cô chìm vào tâm trạng u ám ngay từ những giờ đầu tiên trong ngày. Chưa đến bảy giờ sáng, cô đã đỗ chiếc Triumph của mình ở bãi đậu xe của bệnh viện. Mười phút sau, khoác trên người chiếc áo blouse, cô rời tầng trệt của khoa cấp cứu và đi lên phòng số 307. Con khỉ nhỏ nằm nghỉ ngơi bên cái cổ che chở của một con hươu cao cổ. Cách đó một quãng, một con gấu trắng trông nom hai con thú kia. Những con vật của Marcia hãy còn ngủ trên bệ cửa sổ. Lauren nhìn những bức tranh đính trên tường, vẽ một cách thật thành thạo đối với hoàn cảnh của một đứa trẻ từ mấy tháng nay chỉ còn nhìn được theo trí nhớ.
Lauren ngồi xuống giường và xoa trán Marcia, cô bé thức dậy.
- Chào cháu, hôm nay là một ngày quan trọng đấy.
- Chưa đâu ạ - Marcia trả lời và mở mắt. - Bây giờ vẫn là đêm.
- Không còn lâu nữa đâu, bé yêu ạ, không lâu nữa đâu. Chỉ tí tẹo nữa thôi là sẽ có người đến đón cháu đi để chuẩn bị cho cháu.
- Cô ở lại với cháu chứ ? - Marcia lo lắng hỏi.
- Cô cũng phải đi chuẩn bị, cô sẽ gặp lại cháu ở trước cửa phòng mổ.
- Chính cô sẽ mổ cho cháu à ?
- Cô sẽ phụ mổ cho giáo sư Fernstein, cái ông có giọng rất trầm như cháu đã nói ấy.
- Cô có sợ không ? - cô bé hỏi.
- Cháu nhanh hơn cô rồi, chính cô đang định hỏi cháu câu ấy.
Đứa bé nói rằng nó không sợ, vì nó tin tưởng.
- Cô đi lên trên kia nhé, chỉ tí nữa là cô gặp lại cháu thôi.
- Tối nay cháu sẽ thắng cuộc.
- Cháu cuộc cái gì vậy ?
- Cháu đoán màu mắt của cô, cháu viết ra một tờ giấy gập lại để trong ngăn kéo cái bàn đầu giường của cháu ấy, hai chúng mình sẽ mở ra sau ca mổ nhé.
- Cô hứa với cháu như vậy - Lauren nói rồi đi.
Marcia cúi người, hoàn toàn không biết đến sự hiện diện của Lauren : cô đã trở lại ngưỡng cửa, lặng lẽ nhìn đứa trẻ. Em bé chui xuống gầm giường.
- Tớ biết là cậu trốn ở đâu đó mà, nhưng cậu không việc gì phải sợ cả - cô bé nói.
Tay cô bé sờ soạng sàn nhà, tìm một con thú nhồi bông. Những ngón tay em chạm vào lông của con cú, em bèn đặt nó trước mặt mình.
- Cậu phải ra khỏi chỗ này thôi, cậu hoàn toàn chẳng có gì phải sợ ánh sáng cả - cô bé nói. - Nếu cậu tin tớ thì tớ sẽ chỉ cho cậu xem các màu sắc; cậu tin tớ chứ, phải không ? Giờ thì người nào có chuyện của người ấy, về phần tớ, cậu tưởng là tớ không sợ bóng tối à ? Cậu biết không rất khó tả cho cậu ban ngày là như thế nào, chỉ nói là đẹp được thôi. Tớ thích nhất là màu xanh lá cây, nhưng tớ cũng thích cả màu đỏ nữa, các màu sắc cũng có mùi hương đấy, vì thế người ta mới nhận ra nó, đợi đấy, đừng nhúc nhích nhé, tớ sẽ chỉ cho cậu xem.
Cô bé ra khỏi nơi ẩn nấp và cố gắng đi về phía chiếc bàn đầu giường. Em lấy một cái bát nhỏ và một cái cốc mà em đặt ở đó. Khi đã chui lại vào dưới gầm giường, em hãnh diện đưa cho con cú của em xem một quả dâu và nói bằng giọng chắc chắn "đây là màu đỏ", "còn đây, đây là màu xanh", em đưa cốc trà bạc hà ra và nói. "Cậu thấy chưa, màu sắc có mùi thơm đấy chứ ! Nếu cậu muốn, cậu có thể nếm thử, tớ thì không được nếm đâu, tại vì có ca mổ, tớ phải để bụng rỗng mà."
Lauren tiến lại gần bên giường.
- Cháu nói với ai vậy ? - cô hỏi Marcia.
- Cháu đã biết là cô ở đây mà. Cháu nói với bạn của cháu, nhưng cháu không thể cho cô xem nó được đâu, nó cứ trốn suốt ấy, vì nó sợ ánh sáng và vì nó sợ mọi người nữa.
- Nó tên là gì ?
- Emilio. Nhưng cô không nghe nó nói được đâu.
- Tại sao thế ?
- Cô không hiểu được.
Lauren quỳ xuống.
- Cô có thể chui vào gầm giường với cháu được không ?
- Nếu cô không sợ bóng tối.
Cô bé tránh ra để Lauren chui vào dưới gầm giường.
- Cháu có thể mang nó theo cháu lên đó được không ?
- Không được, đó là một quy định cũ ngớ ngẩn, các con thú không được phép vào phòng mổ, nhưng cháu đừng lo, có ngày tất cả những điều đó sẽ thay đổi.
° ° °
Ngày mới báo hiệu sẽ rực nắng, Arthur thích đi bộ đến công ty kiến trúc của anh ở phố Jackson. Paul đợi anh ngoài phố.
- Thế nào ? - Paul hỏi bạn khi vừa thò bộ mặt hớn hở vào qua cánh cửa hé mở.
- Thế nào cái gì ? - Arthur hỏi lại và ấn nút máy pha cà phê.
- Con chó mất bao nhiêu thời gian ?
- Hai mươi phút !
- Tớ ghen tị với những buổi tối của cậu, ông bạn ạ ! Tớ nhận được điện thoại từ hai cô bạn gái của bọn mình ở Carmel, các cô ấy đã về và khá sẵn sàng cho một bữa ăn bốn người tối nay, nếu cậu sợ sẽ buồn chán thì mang theo cún con đi.
Paul vỗ vào mặt đồng hồ đeo tay, đã đến lúc phải đi. Hai người có cuộc hẹn gặp với một khách hàng quan trọng của công ty.
° ° °
Lauren bước vào khoang khử trùng. Cánh ray duỗi ra, cô khoác vào người chiếc áo blouse mà một y tá đưa cho cô. Xỏ tay áo xong, cô thắt dây lưng lại phía sau và bước đến bên chiếc bồn bằng thép. Bụng bồn chồn lo sợ, cô bác sĩ phẫu thuật thần kinh trẻ bắt đầu rửa tay một cách kỹ lưỡng. Sau khi Lauren đã sấy khô tay, cô y tá rắc bột tan lên lòng bàn tay cô rồi mở ra một đôi găng tay tiệt trùng, Lauren xỏ ngay vào. Chiếc mũ màu xanh nhạt chụp trên đầu, khẩu trang trên miệng, cô hít một hơi thật sau rồi bước vào phòng mổ.
Ngồi sau bàn điều khiển của mình, Adam Peterson, chuyên gia về chụp ảnh thần kinh chức năng, đang kiểm tra lại hoạt động của hệ thống siêu âm tiền phẫu. Những bản âm IRM 1 chụp bộ não của Marcia đã có ở trong máy. So sánh những hình ảnh này với những hình ảnh sẽ hiện ra tại chỗ trong lúc siêu âm, máy tính có thể thiết lập một cách chính xác phần não bị cắt bỏ trong quá trình phẫu thuật.
° ° °
Theo dòng diễn tiến, hệ thống chụp ảnh, đáp ứng yêu cầu của Adam, sẽ đưa ra những hình ảnh mới đã được chỉnh sửa về bộ não của cô bé.
Vài phút sau, giáo sư Fernstein bước vào, cùng đi có đồng nghiệp của ông, bác sĩ Richard Lalonde từ Montreal đến.
Bác sĩ Lalonde chào kíp mổ rồi ngồi vào sau máy neuronavigator và nắm hai tay cầm. Được bác sĩ phẫu thuật điều khiển một cách khéo léo, những cánh tay máy nối với máy tính trung tâm sẽ cắt khối u chính xác đến từng milimét một. Trong suốt cuộc phẫu thuật, độ chính xác của việc cắt mổ sẽ có tính chất quyết định. Một sự chệch hướng rất nhỏ cũng có thể làm cho Marcia mất khả năng nói hoặc khả năng đi, và ngược lại, một sự thận trọng quá đáng sẽ khiến ca mổ trở thành vô ích. Lặng lẽ và tập trung, Lauren rà soát lại trong đầu từng chi tiết của ca mổ sắp sửa bắt đầu mà vì nó cô đã chuẩn bị không ngơi nghỉ từ nhiều tuần nay.
Đã được sửa soạn sẵn sàng ở phòng bên cạnh, cuối cùng thì Marcia cũng tiến vào phòng mổ trên một chiếc giường băng ca. Các y tá đặt cô bé một cách rất thận trọng lên bàn mổ. Túi dịch truyền nối với tay em được treo trên chiếc cọc sào.
Norma, nữ y tá trưởng của bệnh viện, kể với Marcia là bà vừa nhận nuôi một chú gấu trúc con.
- Thế bác mang nó về bằng cách nào ? Bác được quyền mang nó về à ?
- Không, - Norma cười nói - nó vẫn ở lại nhà nó, ở Trung Quốc ấy, nhưng bác sẽ gửi tiền để chăm nom nó cho đến khi nó có thể cai sữa được.
Norma nói thêm là bà vẫn chưa nghĩ ra tên cho con thú ; cần phải đặt tên cho gấu trúc thế nào nhỉ ?
Trong khi cô bé suy nghĩ về câu hỏi, Norma nối những núm nhỏ dính trên ngực em với máy điện tim và bác sĩ gây mê cắm một cái kim nhỏ xíu vào ngón tay trỏ của em.
Cái que dò này sẽ giúp bác sĩ kiểm soát liên tục độ bão hoà khí máu của bệnh nhân. Bác sĩ bơm một mũi tiêm vào túi truyền dịch và cam đoan với Marcia là em có thể nghĩ tên cho con gấu trúc sau ca mổ, còn bây giờ thì phải đếm cùng bác sĩ cho đến mười. Thuốc gây mê chảy vào ống dẫn rồi thấm vào ven. Marcia ngủ thiếp đi khi đang đếm từ số hai đến số ba. Bác sĩ hồi sức lập tức kiểm tra các hằng số sống trên những máy khác nhau. Norma đóng lại cái đai trên trán Marcia để ngăn đầu em khỏi cử động.
Như nhạc trưởng của một dàn nhạc hàn lâm, giáo sư Fernstein điểm lại một vòng tình hình kíp mổ. Từ vị trí của mình, từng thành viên một trả lời là họ đã sẵn sàng. Fernstein ra hiệu cho bác sĩ Lalonde và ông này ấn vào hai càng máy neuronavigator, dưới cái nhìn chăm chú của Lauren.
Đường rạch đầu tiên được thực hiện vào lúc chín giờ hai mươi bảy phút, một cuộc du hành mười hai tiếng đồng hồ vào những vùng sâu thẳm nhất trong bộ não của một đứa trẻ vừa mới bắt đầu.
° ° °
Đồ án mà Paul và Arthur giới thiệu có vẻ làm các khách hàng của họ thích thú. Các giám đốc của Hiệp hội doanh nghiệp, nơi đưa ra đấu thầu việc thiết kế trụ sở mới của hội, tập hợp xung quanh cái bàn gỗ gụ rộng mênh mông trong phòng hội đồng. Sau khi Arthur mô tả chi tiết suốt cả buổi sáng về diện mạo khu tiền sảnh tương lai, những không gian dành cho việc hội họp và những phần sử dụng chung, Paul thay Arthur trình bày tiếp từ buổi trưa. Paul dẫn giải những bản vẽ và những bức tranh được chiếu lên một màn hình sau lưng anh. Khi chiếc đồng hồ quả lắc treo trên tường trong phòng chỉ bốn giờ chiều, ông chủ tịch phiên họp cảm ơn hai kiến trúc về công việc mà học đã thực hiện. Những thành viên của ban lãnh đạo sẽ họp lại vào khoảng thời gian từ nay cho đến cuối tuần, để quyết định xem trong hai đồ án vào chung kết, đồ án nào sẽ được nhận thầu.
Arthur và Paul đứng dậy chào các chủ nhà rồi ra về. Trong thang máy, Paul ngáp một cái rõ dài.
- Tớ nghĩ bọn mình xoay xở khá đấy chứ nhỉ ?
- Chắc thế - Arthur trả lời hạ giọng.
- Cậu đang lo nghĩ chuyện gì à ?
- Theo cậu thì ở Macy's có bán dây dắt chó loại co giãn không ?
Paul giơ tay và ngửa mặt lên trời. Tiếng chuông reo lên và cửa thang máy mở ra ở tầng hầm thứ ba của khu nhà xe.
Trước khi ngồi vào sau tay lái, Paul vặn người vài cái.
- Tớ kiệt sức rồi - anh nói. - Những ngày như thế này thật là hết cả hơi.
Arthur ngồi vào ôtô không bình luận lời nào.
° ° °
Nhịp tim của Marcia ổn định. Fernstein yêu cầu tăng dần thuốc gây mê. Đợt siêu âm thứ hai xác nhận rằng ca phẫu thuật đang tiến triển bình thường. Từng milimét một, những cánh tay điện tử do bác sĩ Lalonde điều khiển cắt khối u nằm trong thuỳ chẩm bộ não của Marcia và nâng dần phạm vi cắt lên phía bề mặt. Đến giờ thứ tư, bác sĩ ngẩng đầu lên.
- Đổi phiên ! - nhà phẫu thuật đề nghị, mắt ông thể hiện sự mệt mỏi đã đến giới hạn.
Fernstein ra hiệu cho Lauren ngồi vào trước máy. Cô do dự giây lát rồi lấy được sức lực mà cô còn thiếu trong cái nhìn trấn an của giáo sư. Hàng ngàn lần cô đã ôn luyện những thao tác này trong những giờ diễn tập, nhưng hôm nay có một cuộc đời phụ thuộc vào năng lực của cô.
Cô vừa ngồi vào vị trí điều khiển, nỗi sợ tan biến ngay. Mặt Lauren ngời sáng. Ở phía đầu của hai chiếc kẹp, cô đang chạm tới một giấc mơ.
Cô điều khiển thật tuyệt vời, sự khéo léo của cô thể hiện rõ. Cả êkíp nhìn cô làm việc và Norma đọc thấy trong mắt giáo sư niềm tự hào về cô học trò của ông.
Lauren mổ một mạch không nghỉ cho đến giờ thứ bảy. Khi cô muốn được thay phiên, máy tính cho thấy việc cắt bỏ khối u đã thực hiện được bảy mươi sáu phần trăm. Lalonde ngồi lại vào vị trí. Bằng một cái nháy mắt ra hiệu, ông chúc mừng cô đồng nghiệp trẻ tuổi của mình về năng lực của cô.
° ° °
- Tớ thả cậu xuống ở công ty rồi tớ vù về nhà - Paul bảo.
- Để tớ xuống ở Union Square, tớ phải đi mua một thứ.
- Tớ có thể biết tại sao cậu lại muốn mua dây dắt chó trong khi cậu chẳng hề có chó không ?
- Để cho một người bạn gái !
- Nói cho tớ an tâm đi, cô ta ít ra cũng có một con chó chứ ?
- Bà ấy bảy mươi chín tuổi, nếu điều đó có thể làm cậu yên lòng.
- Chưa chắc. - Paul thở dài và đỗ xe sát vỉa hè trước cửa hàng lớn Macy's.
- Bọn mình gặp nhau ở đâu để ăn tối ? - Arthur xuống xe và hỏi.
- Ở Cliff House, vào lúc tám giờ tối, và cố gắng lên một tí, không thể nói rằng lần trước cậu nổi bật lên vì vẻ lịch thiệp được. Cậu có cơ hội thứ hai để gây một ấn tượng tốt, cố đừng làm lỡ dịp !
Arthur nhìn chiếc xe mui trần đi xa dần, anh đưa mắt lướt qua quầy kính và bước vào cửa hàng qua cánh cửa quay.
° ° °
Bác sĩ gây mê nhận thấy sự chuyển hướng của đồ thị hiện ra trên máy. Ông lập tức kiểm tra độ bão hoà của máu. Sự thay đổi vừa hiện ra trên nét mặt của bác sĩ đã khiến kíp mổ phải lưu tâm. Trực giác của ông vừa nhắc ông phải cảnh giác.
- Có chỗ nào chảy máu không ? - ông hỏi.
- Hiện tại thì chưa thấy báo hiệu gì trên màn hình cả - Fernstein nghiêng người nhìn vào máy của bác sĩ Peterson và nói.
- Có cái gì đó không ổn ! - bác sĩ gây mê khẳng định.
- Tôi sẽ làm lại siêu âm - bác sĩ phụ trách soi chụp hình nói.
Không khí bình tĩnh đang ngự trị trong phòng mổ vụt biến mất.
- Cô bé đang xỉu đi ! - Bác sĩ Cobbler nói cụt lủn và tăng lưu lượng oxy lên.
Lauren cảm thấy bất lực. Cô dán mắt vào ông Fernstein và qua ánh mắt của ông, cô hiểu rằng tình hình đang chuyển thành nguy cấp.
- Cầm lấy tay cô bé đi, - giáo sư nói khẽ vào tai cô.
- Làm gì bây giờ ? - Lalonde hỏi Fernstein.
- Cứ tiếp tục ! Adam, siêu âm cho thấy gì ?
- Hiện tại thì chưa có gì đáng kể - bác sĩ siêu âm trả lời.
- Tôi thấy đã bắt đầu có loạn nhịp tim - Norma nhìn máy điện tim đang nhấp nháy và thông báo.
Richard Lalonde giận dữ đập tay xuống bàn.
- Rách động mạch não sau ! - ông nói cộc lốc.
Tất cả các thành viên của kíp mổ nhìn nhau. Lauren nín thở và nhắm mắt lại.
Lúc đó là mười bảy giờ hai mươi hai phút. Chỉ trong vòng một phút, phần vách bị hư tổn của động mạch cung cấp máu cho phần não sau của Marcia đã bị rách ra hai centimet. Dưới sức ép của dòng máu đang xối vọt ra, vết rách lại kéo dài thêm. Luồng máu ồ ạt tuôn từ vết rách ra tràn vào sọ não. Mặc dù giáo sư Fernstein đã lập tức cắm ngay một ống thông vào, lượng máu vẫn không ngừng dâng lên trong sọ não, nhấn chìm bộ não với tốc độ chóng mặt.
Vào lúc mười bảy giờ hai mươi bảy phút, trước những cặp mắt bất lực của các bác sĩ và y tá, Marcia vĩnh viễn ngừng thở. Bàn tay của cô bé, mà Lauren đang nắm trong tay cô, mở ra, như để giải phóng hơi thở cuối cùng của cuộc sống mà em đã cất giấu sâu trong lòng bàn tay mình.
Lặng lẽ, êkíp rời phòng mổ và tản đi trong hành lang. Chẳng ai có thể làm gì được cả. Khối u quái ác che lấp đã khiến cho ngay cả những máy móc tinh vi nhất của y học hiện đại cũng không phát hiện ra được chỗ phình mạch ở một động mạch nhỏ trong bộ não của Marcia.
Lauren ở lại một mình, cầm thêm một lúc nữa những ngón tay bất động của cô bé. Norma bước lại gần và tách những ngón tay đó ra khỏi bàn tay của nữ bác sĩ phẫu thuật trẻ tuổi.
- Đi thôi.
- Tôi đã hứa - Lauren thì thào nói.
- Đó là sai lầm duy nhất mà cô đã phạm phải ngày hôm nay.
- Giáo sư Fernstein đâu rồi ?
- Ông ấy phải đi gặp bố mẹ của cô bé.
- Giá mà tôi cũng có thể tự đi gặp họ được, tự tôi.
- Tôi nghĩ cô đã quá đủ xúc động ngày hôm nay rồi. Nếu tôi được phép cho cô một lời khuyên, thì trước khi về nhà, cô nên đi dạo ở một cửa hàng lớn.
- Để làm gì ?
- Để nhìn cuộc đời, vô số cuộc đời !
Lauren xoa trán Marcia rồi phủ lại tấm vải màu xanh lên mắt em; cô rời phòng mổ.
Norma nhìn cô đi xa dần trong hành lang. Bà lắc đầu và tắt ngọn đèn treo phía trên bàn mổ, căn phòng chìm vào bóng tối.
° ° °
Arthur đã tìm được cái mình cần ở tầng ba của cửa hàng : sợi dây dắt chó tự cuộn sẽ làm cho bà Morrison vui sướng. Vào những ngày xấu trời, bà có thể ngồi dưới mái che của toà nhà để tránh mưa, trong khi Paolo đi sục sạo thoả thích cái rãnh ven đường.
Thanh toán tiền xong, anh rời quầy thu ngân ; trên đường đi, một thiếu phụ đang chọn pyjama đàn ông nhìn anh mỉm cười, Arthur cười đáp lại rồi đi ra thang cuốn.
Trên thang cuốn, một bàn tay mảnh dẻ đặt lên vai anh. Arthur quay lại và thiếu phụ bước xuống một bậc thang để đến gần anh.
Trong tất cả các cuộc tình của mình, chỉ có một cuộc tình là anh hối tiếc vì đã trải qua...
- Chẳng lẽ anh không nhận ra em à ? - Carol-Ann hỏi.
- Xin lỗi, tâm trí anh còn để ở nơi khác.
- Em biết, em đã nghe tin anh sang sống ở Pháp. Anh khoẻ hơn rồi chứ ? - cô bồ cũ của Arthur hỏi, vẻ thông cảm.
- Ừ, sao em lại hỏi vậy ?
- Em cũng nghe tin là cái cô mà anh bỏ em để chạy theo... tóm lại, em biết là anh đã goá vợ, thật là buồn...
- Em nói về chuyện gì thế ? - Arthur bối rối hỏi.
- Em gặp Paul trong một buổi Cocktail hồi tháng trước. Em thật lòng rất buồn.
- Anh rất vui được gặp em, nhưng anh hơi bị muộn - Arthur nói.
Anh muốn bước xuống vài bậc, nhưng Carol-Ann níu lấy cánh tay anh và tự hào giơ cho anh xem chiếc nhẫn lóng lánh ở ngón tay cô ta.
- Tuần sau bọn em sẽ kỷ niệm một năm ngày cưới. Anh có nhớ Martin không ?
- Không nhớ rõ lắm - Arthur trả lời và đi vòng theo tay vịn để chuyển sang chiếc thang cuốn dẫn xuống tầng một.
- Anh không thể quên Martin được ! Đội trưởng đội khúc côn cầu ! - Carol-Ann trách móc Arthur với vẻ rất hãnh diện.
- À, đúng rồi, cái cậu cao to tóc vàng !
- Tóc nâu sẫm.
- Tóc nâu, nhưng cao to phải không ?
- Rất cao.
- Vậy đúng rồi đấy - Arthur nói và nhìn xuống mũi giầy.
- Thế anh vẫn chưa làm lại đời anh à ? - Carol-Ann hỏi, đầy vẻ thông cảm.
- Có chứ ! Làm rồi và lại phá rồi, đời mà ! - Arthur nói, mỗi lúc một thêm bực bội.
- Anh không định nói với em rằng một chàng trai như anh mà vẫn độc thân chứ ?
- Không, anh chẳng định nói với em đâu, vì chắc mười phút sau em sẽ quên ngay và điều đó chẳng có gì quan trọng cả - Arthur lẩm bẩm.
Sang một đoạn cầu thang mới, lại một hy vọng mới là Carol-Ann sẽ cần phải mua sắm gì ở tầng này, nhưng cô ta đi theo anh xuống tầng trệt.
- Em có vô số bạn gái độc thân ! Nếu anh đến dự bữa tiệc kỷ niệm ngày cưới của bọn em, em sẽ giới thiệu cho anh người đàn bà tương lai của đời anh. Em là một bà mối cực kỳ mát tay, em có tài đoán biết ai hợp với ai. Anh vẫn thích phụ nữ chứ ?
- Anh thích một người trong giới nữ ! Cảm ơn em, rất vui được gặp em và gửi lời thăm Martin nhé.
Anh chào Carol-Ann và chuồn thật nhanh. Khi anh đi ngang qua dãy hàng bày bán đồ mỹ phẩm của một hãng Pháp, một kỷ niệm bỗng trỗi dậy, ngọt ngào như mùi nước hoa thoát ra từ cái lọ nhỏ mà cô bán hàng đang giới thiệu với khách. Anh nhắm mắt lại, nhớ đến cái ngày anh bước trên lối đi này, mạnh mẽ vì một tình yêu vô hình và vững chắc. Vào khoảnh khắc ấy, anh cảm thấy hạnh phúc như chưa bao giờ được vậy trong đời. Anh bước vào chiếc cửa quay.
Vòng quay của chiếc cửa đưa anh ra vỉa hè của Union Square. Ma-nơ-canh trong quầy kính mặc một chiếc váy dạ hội trang nhã có chiết eo. Bàn tay gỗ thanh tú giơ một ngón hờ hững chỉ vào người qua lại trên đường phố. Trong ánh mặt trời màu da cam, chiếc giày có vẻ nhẹ bỗng. Anh đứng bất động, lơ đãng. Anh không nghe thấy tiếng một chiếc môtô ba bánh đang lao đến sau lưng anh. Người lái đã không làm chủ được tay lái ở chỗ rẽ của phố Polk, một trong bốn con phố đâm ra quảng trường lớn này. Chiếc môtô cố tránh một người đàn bà qua đường, nó nghiêng ngả, lượn những đường dích dắc, động cơ rú lên. Trên đường phố, mọi người hoảng loạn; một người đàn ông mặc com lê lao người nằm bẹp xuống đất để tránh chiếc xe, một người khác lùi lại, vấp ở phía sau, một phụ nữ kêu thét lên và nấp sau buồng điện thoại công cộng. Chiếc môtô tiếp tục hành trình điên loạn của nó. Khoang xe chồm lên vỉa hè, giật tung một tấm biển, nhưng nó húc phải chiếc máy đo thời gian đậu xe được chôn chặt xuống nền đường; bằng một nhát cắt ngọt, chiếc máy này đã tách thùng xe ra khỏi môtô. Không còn gì kìm giữ nó lại nữa, với hình thù của một trái phá và tốc độ cũng gần như vậy, nó lao thẳng về phía trước. Khi chạm vào chân Arthur, nó nâng anh lên và hất tung lên cao. Thời gian dường như chùng xuống và đột ngột giãn ra như một sự im lặng kéo dài. Phần trước có hình thoi của khoang xe đâm vào cửa kính. Cái quầy kính rộng mênh mông vỡ tung ra hằng hà sa số mảnh vụn. Arthur lăn dưới nền nhà đến chỗ cánh tay của ma-nơ-canh giờ đây đang nằm trên tấm thảm thuỷ tinh. Một bức màn mỏng lên mắt anh, ánh sáng có màu mờ đục, miệng anh có vị tanh của máu. Cơ thể tê liệt, anh muốn nói với mọi người rằng đây chỉ là một tai nạn ngớ ngẩn. Những lời nói tắc lại trong họng anh.
Anh muốn đứng dậy nhưng hãy còn quá sớm. Đầu gối anh hơi loạng choạng, và có một giọng nói thét lên rất to là cứ nằm yên. Cấp cứu sắp tới.
Paul sẽ cáu nếu anh đến muộn. Phải dắt con chó của bà Morrison đi dạo, hôm nay có phải là chủ nhật không ? Không, có lẽ là thứ Hai. Anh phải ghé qua hãng để ký các đồ án. Vé gửi xe đâu rồi nhỉ ? Túi áo của anh chắc bị xé rách rồi. Lúc trước anh để tay trong túi áo, bây giờ tay lại đặt dưới lưng anh và làm anh hơi bị đau. Không nên ngọ nguậy đầu, những mảnh thuỷ tinh vỡ này sắc lắm. Ánh sáng chói mắt, nhưng những âm thanh thì dần dần nghe rõ hơn. Bớt loá rồi. Mở mắt ra. Đó là gương mặt của Carol-Ann. Vậy là cô ta sẽ không buông tha anh, anh không muốn được người khác giới thiệu cho người đàn bà của đời anh đâu, anh đã biết cô ấy rồi cơ mà, giời ạ ! Có lẽ anh sẽ phải đeo một cái nhẫn đính hôn thì mới yên thân được. Tí nữa anh sẽ quay lại cửa hàng mua một cái. Paul sẽ ghét chuyện này đây, nhưng anh thì sẽ được giải trí vui ra trò.
Phía xa có tiếng còi xe cấp cứu, nhất định phải đứng dậy trước khi xe đến, không nên để mọi người lo lắng vô ích, anh không đau chỗ nào cả, có lẽ chỉ hơi đau một chút trong miệng thôi, anh đã tự cắn phải má mình. Ở má thì không quan trọng, vết lở sẽ gây khó chịu, nhưng hoàn toàn không đáng ngại. Thật là ngớ ngẩn, cái áo vét của anh chắc là hỏng hẳn rồi, Arthur thích cái áo vải tuýt này lắm. Sarah cho là vải tuýt trông già, nhưng anh chẳng quan tâm đến điều mà Sarah nghĩ, cô ấy đi những đôi giày cao gót thô thiển nhất trần đời, với mũi nhọn hoắt. May mà anh đã nói với Sarah cái đêm ở cùng nhau ấy chỉ là một tai nạn, họ không hợp nhau, đó chẳng phải là lỗi của ai cả. Người lái môtô có bị sao không nhỉ ? Hẳn là cái ông đội mũ an toàn kia. Xem ra ông ta chẳng hề hấn gì với cái vẻ mặt ăn năn ấy.
"Mình sẽ chìa tay cho Carol-Ann, cô ta sẽ đi kể cho tất cả đám bạn gái là cô ta đã cứu sống mình, vì chính cô ta đã giúp mình đứng dậy."
- Arthur ?
- Carol-Ann ?
- Em đã biết chắc là thế nào cũng có anh trong cái thảm hoạ khủng khiếp này mà - thiếu phụ trẻ hốt hoảng nói.
Anh bình tĩnh phủi vai áo vét, giật đi mảnh túi áo treo lủng lẳng một cách thảm hại, lắc đầu để rũ bỏ những mảnh vỡ thuỷ tinh.
- Sợ quá đi mất ! Anh may mắn lắm đấy - Carol-Ann nói tiếp bằng một giọng cao chói tai.
Arthur chăm chú nhìn Carol-Ann, vẻ nghiêm trọng.
- Mọi sự đều tương đối, Carol-Ann ạ. Áo vét của anh rách tơi tả, người anh đầy vết xước và anh liên tục có những cuộc gặp gỡ tai hại, ngay cả khi anh chỉ đi mua có mỗi một cái dây dắt chó cho bà hàng xóm thôi.
- Dây dắt chó cho bà hàng xóm... Anh may mắn lắm vì đã thoát được khỏi cái tai nạn này mà người vẫn gần như nguyên vẹn đấy ! - Carol-Ann phẫn nộ.
Arthur nhìn cô ta, anh lấy vẻ ngẫm nghĩ, cố gắng hết mức có thể để giữ thái độ lịch sự. Không chỉ giọng nói của Carol-Ann làm cho anh bực tức, mà tất cả mọi thứ thuộc về cô ta đối với anh đều không chịu đựng nổi. Anh thử lấy lại đôi chút thăng bằng rồi nói bằng một giọng cả quyết và bình thản.
- Em có lý, anh không hẳn là đúng lắm. Anh thật may mắn vì đã rời bỏ em, rồi gặp được người đàn bà của đời mình, nhưng lúc đó cô ấy lại đang hôn mê ! Mẹ đẻ cô ấy muốn người ta làm euthanasie cô ấy, nhưng anh may mắn kinh khủng vì cậu bạn thân nhất của anh đã vui lòng giúp một tay để đi bắt cóc cô ấy ở bệnh viện.
Lo ngại, Carol-Ann lùi lại một bước, Arthur tiến lên một bước.
- Anh nói "đi bắt cóc cô ấy" có nghĩa là thế nào ? - cô hỏi bằng một giọng rụt rè và ôm chặt cái túi vào sát ngực.
- Bọn anh đã đánh cắp cơ thể cô ấy! Chính Paul đã xoáy cái xe cứu thương đấy, chính vì điều này nên hắn tự thấy bắt buộc phải đi kể cho tất cả mọi người là anh goá vợ; nhưng thực ra, Carol-Ann ạ, anh chỉ goá có một nửa thôi ! Đây là một loại rất đặc biệt !
Đôi chân Arthur không còn sức lực, anh hơi lảo đảo. Carol-Ann muốn đỡ anh, nhưng Arthur đã tự đứng thẳng lại.
- Không, cái may thực sự là Lauren đã có thể giúp anh duy trì sự sống cho cô ấy. Là bác sĩ dù sao cũng có lợi thật đấy, khi cơ thể và linh hồn của mình bị tách rời nhau. Mình có thể tự chăm sóc chính mình !
Miệng Carol-Ann há hốc ra để tìm kiếm chút không khí. Arthur hoàn toàn chẳng cần thở lấy hơi, anh chỉ cần lấy lại thăng bằng một chút. Anh bám vào tay áo Carol-Ann, cô ta giật nảy mình và rú ngay lên một tiếng.
- Thế rồi cô ấy tỉnh dậy, rút cuộc, điều đó cũng là một may mắn kỳ diệu ! Thế đấy, Carol-Ann ạ, em thấy đấy, cái may mắn thực sự, đó chẳng phải là sự đoạn tuyệt giữa chúng ta, chẳng phải là cái viện bảo tàng ở Paris ấy, chẳng phải là cái môtô ba bánh kia, mà là cô ấy, cơ may thực sự của đời anh ! - Anh nói, kiệt sức và ngồi xuống bộ khung của cỗ xe.
Chiếc xe cứu thương mới bóng nhoáng của bệnh viện vừa đỗ lại bên lề đường. Trưởng nhóm cấp cứu đi vội về phía Arthur giữa lúc Carol-Ann đang ngớ người ra, nhìn anh chòng chọc.
- Chào anh, ổn chứ ?
- Không ổn tí nào ! - Carol-Ann khẳng định.
Nhân viên cấp cứu khoác tay anh và định đưa anh ra xe cứu thương.
- Ổn cả mà, tôi đảm bảo với anh như vậy - Arthur nói và tự gỡ mình ra.
- Phải khâu vết thương trên trán anh - Nhân viên cấp cứu dứt khoát yêu cầu trong khi Carol-Ann ra sức ra hiệu cho ông ta là phải đưa Arthur đi càng nhanh càng tốt.
- Tôi chẳng hề đau chỗ nào cả, tôi cảm thấy khoẻ lắm, làm ơn để cho tôi đi về nhà.
- Với cái đống thuỷ tinh tung toé này, rất có khả năng là anh đã bị những mảnh vỡ cực nhỏ rơi vào mắt. Tôi phải đưa anh đi thôi.
Mệt mỏi, Arthur buông xuôi. Nhân viên cấp cứu đặt anh nằm lên cáng. Ông ta phủ lên mắt anh hai miếng gạc khử trùng, trong khi mắt anh còn chưa được rửa, cần phải tránh những cử động có thể làm rách giác mạc. Vòng băng cuộn quanh đầu Arthur lúc này nhấn anh chìm vào một màn tối bất tiện.
Xe cứu thương hú còi đi lên phố Sutter, rẽ sang đại lộ Van Ness và đi về hướng bệnh viện Memorial San Francisco.
6.
Một hồi chuông vang lên. Cửa thang máy mở ra ở tầng ba. Hàng chữ ghi trên tấm biển gắn trên tường chỉ lối vào khoa thần kinh. Lauren ra khỏi thang máy mà không chào các đồng nghiệp đang đi xuống những tầng dưới. Những chiếc đèn nêông gắn trên trần nhà ở dãy hành lang dài hắt ánh phản chiếu xuống nền nhà bóng nhoáng. Đôi giày của cô kêu kèn kẹt trên lớp vải lót sàn theo mỗi bước chân đi. Cô giơ tay cào khẽ vào cửa phòng số 307, nhưng cánh tay cô rơi xuôi, nặng nhọc. Cô bước vào.
Không còn cả vải trải giường lẫn gối ở đầu giường. Cái cọc để mắc dịch truyền đứng trơ trụi, thẳng đơ như một bộ xương, bị dẹp vào một góc cạnh tấm riđô ngăn với buồng tắm. Chiếc rađiô đặt trên bàn đầu giường câm lặng, những con thú nhồi bông, sáng nay còn tươi cười trên bệ cửa sổ, đã đi làm nhiệm vụ ở các phòng bệnh khác. Ở mảng tường lúc trước có treo những bức tranh trẻ con, giờ chỉ còn lại vài mẩu băng dính.
Bé Marcia đã lịm đi vào buổi chiều, một số người sẽ nói như vậy, một số khác sẽ nói đơn giản là em đã chết, nhưng đối với tất cả những ai làm việc ở tầng này, căn phòng ấy sẽ vẫn là phòng của em thêm vài giờ nữa. Lauren ngồi xuống đệm, vuốt nhẹ tấm vải bọc. Cánh tay run rẩy của cô vươn đến chiếc bàn đầu giường và mở ngăn kéo ra. Cô lấy tờ giấy gập tư và đợi một chút rồi mới đọc bí mật viết trong đó. Cô bé ra đi với cặp mắt mù đã nhìn chính xác. Màu mắt của Lauren mờ đi dưới hàng lệ. Cô cúi gập người để ngăn một cơn co thắt.
Cánh cửa hé mở, nhưng Lauren không nghe thấy tiếng thở của một người đàn ông có hai thái dương bạc trắng đang nhìn cô khóc.
Trang nghiêm và lịch lãm trong bộ comlê đen, bộ râu màu muối tiêu cạo sát đến má, Santiago bước nhẹ đến ngồi bên cạnh cô, anh đặt tay lên vai cô.
- Các anh chị không có lỗi gì cả - anh thì thầm bằng một giọng pha ngữ điệu Achentina. - Các anh chị chỉ là bác sĩ, đâu phải thánh thần.
- Còn anh, anh là ai ? - Lauren thì thào giữa những tiếng nức nở.
- Bố cháu, tôi đến lấy những đồ đạc còn lại của cháu, mẹ cháu không còn sức nữa. Chị phải trấn tĩnh lại. Có những đứa trẻ khác ở đây cần đến chị.
- Lẽ ra là phải ngược lại - Lauren vừa nói vừa khóc nức lên.
- Ngược lại ? - Người đàn ông bối rối hỏi.
- Lẽ ra tôi là người phải an ủi anh - cô càng khóc to hơn.
Bị bản tính dè dặt kìm giữ, người đàn ôn do dự trong chốc lát; rồi anh vòng tay ôm Lauren và siết chặt cô vào người mình. Đôi mắt màu xanh da trời bên khoé đầy nếp nhăn cũng bắt đầu nhoà lệ; vậy là, như thể vì lịch sự, để không bỏ mặc Lauren, rốt cuộc anh đã chấp nhận cho nỗi đau của mình được tự do bộc lộ.
° ° °
Xe cứu thương dừng lại dưới mái che của khoa cấp cứu. Người lái xe và nhân viên cấp cứu dắt Arthur đến tận ô cửa kính của phòng tiếp đón bệnh nhân.
- Anh đã đến nơi - nhân viên cấp cứu nói.
- Anh không muốn tháo cái băng này cho tôi à ? Tôi đảm bảo với anh là tôi không sao cả, tôi chỉ muốn về nhà thôi.
- Tốt lắm ! - Betty tiếp lời bằng một giọng đầy uy quyền và xem phiếu sơ cứu mà nhân viên cấp cứu vừa trao cho chị. - Tôi cũng thế, tôi cũng muốn anh về nhà anh, - chị tiếp tục - tôi muốn tất cả những người đang đợi trong tiền sảnh này về nhà họ, và để kết thúc, cả tôi nữa, tôi cũng sẽ vui sướng được về nhà tôi. Nhưng trong khi chờ đợi Chúa Trời thực hiện điều ước của chúng ta, chúng tôi sẽ phải khám bệnh cho anh và cho cả những người kia nữa. Sẽ có người đến đưa anh đi khám.
- Trong bao lâu nữa ? - Arthur hỏi bằng một giọng gần như rụt rè.
Betty nhìn lên trần nhà, chị giơ tay lên trời và thốt lên :
- Có Trời mới biết được ! Đưa anh ta vào phòng đợi - chị nói với các nhân viên cấp cứu rồi bỏ đi.
° ° °
Bố của Marcia đứng dậy và mở tủ. Anh lấy ra hộp các tông nhỏ đựng đồ đạc của cô bé.
- Cháu nó yêu chị lắm - anh nói không quay người lại.
Lauren cúi đầu.
- Thực ra, đó không phải là điều mà tôi muốn nói - người đàn ông lại nói.
Và do Lauren vẫn lặng yên, anh bèn đặt cho cô một câu hỏi khác :
- Dù tôi nói gì ở đây, theo nguyên tắc của ngành y tế thì chị cũng không tiết lộ, phải không ?
Lauren trả lời rằng cô hứa với anh như vậy, Santiago bèn tiến đến sát giường, anh ngồi xuống cạnh cô và nói khẽ :
- Tôi muốn cảm ơn chị đã cho phép tôi được khóc.
Và cả hai người ngồi lại đó, gần như bất động.
- Thỉnh thoảng anh vẫn kể chuyện cho Marcia nghe phải không ? - Lauren hạ giọng hỏi.
- Tôi sống xa con gái tôi, tôi về đây vì ca mổ này thôi. Nhưng tối tối, tôi gọi điện cho cháu từ Buenos Aires, cháu đặt ống nghe gối và tôi kể cho cháu nghe câu chuyện về một đám muông thú và cây cỏ sống giữa một khu rừng, ở một vạt rừng thoáng đãng chưa bao giờ được con người biết đến. Và câu chuyện cổ tích này kéo dài hơn ba năm. Với con thỏ có phép tiên, những con nai, những cái cây có tên riêng, con đại bàng cứ bay lòng vòng vì cánh này của nó ngắn hơn cánh khác, thỉnh thoảng tôi lại bị nhầm lẫn trong câu chuyện của mình, nhưng hễ nhầm một tí là Marcia nhắc tôi ngay. Không thể có chuyện gặp lại quả cà chua thông thái, hay quả dưa chuột cười sằng sặc như điên, ở một chỗ nào khác ngoài nơi mà hôm trước bố con tôi đã để chúng lại.
- Có một con cú trong vạt rừng đó không ?
Santiago mỉm cười.
- Cái con này là một nhân vật ngộ lắm ! Emilio là người gác đêm. Trong khi tất cả các con thú khác ngủ, nó thức để bảo vệ những con kia. Thực ra, công việc này chỉ là một cái cớ thôi, chú cú này là một anh chàng cực kỳ nhát gan. Bình minh lên là chú ta bay cuống cuồng đến một cái hang. Chú ta trốn ở đó vì chú ta sợ ánh sáng. Con thỏ thì lúc nào cũng tốt, nó biết chuyện của cú và nó không bao giờ tiết lộ bí mật này ra. Marcia thường ngủ thiếp đi trước khi câu chuyện kết thúc, tôi nghe tiếng cháu thở vài phút trước khi mẹ cháu dập máy. Tiếng thở của cháu nghe như một điệu nhạc tuyệt đẹp, những nốt nhạc ấy đi theo tôi vào giấc ngủ.
Người cha của cô bé im bặt. Anh đứng dậy, bước đến cửa ra vào.
- Chị biết không, ở bên đó, ở Achentina ấy, tôi xây những cái đập, những công trình lớn, nhưng niềm tự hào của tôi là cháu !
- Khoan đã ! - Lauren nói bằng một giọng nhẹ nhàng.
Cô cúi xuống và nhìn vào gầm giường. Trong bóng tối dưới gầm giường một con cú trắng đang chờ đợi, hai cánh xếp chéo. Cô lấy con vật nhồi bông ra và đưa cho Santiago. Người đàn ông bước lại về phía cô, anh đón nhận con chim và khẽ khàng vuốt bộ lông của nó.
- Chị cầm lấy đi - anh nói với Lauren và đưa lại cho cô con cú trắng. - Hãy chữa lại đôi mắt cho chú ta, chị là bác sĩ, hẳn là chị có thể làm được điều này. Hãy cho chú ta tự do, làm sao để chú ta không bao giờ sợ nữa.
Anh chào cô và ra khỏi phòng. Khi chỉ còn lại một mình trong hành lang, anh áp chặt vào người mình cái hộp các tông nhỏ.
° ° °
Máy nhắn tin của Lauren rung lên, bộ phận đón tiếp của khoa cấp cứu đang tìm cô. Cô vào phòng dành cho các y tá ở tầng này và nhấc máy điện thoại. Betty nói ơn giời là Lauren vẫn còn ở đây, khoa cấp cứu vẫn đầy ắp bệnh nhân, cần có tăng viện ngay tức khắc.
- Em xuống ngay đây - Lauren nói và dập máy.
Trước khi ra khỏi phòng, cô nhét vào túi áo blouse của mình chú cú ngộ nghĩnh; con vật bé nhỏ rất cần hơi ấm con người, chiều nay, nó vừa mất người bạn thân nhất của nó.
° ° °
Arthur không thể đợi được nữa, anh tìm điện thoại di động của mình trong túi bên phải áo vét, nhưng không còn túi phải ở áo vét của anh nữa.
Mắt bị băng kín, anh cố đoán bây giờ là mấy giờ. Paul sẽ cáu lắm đây, anh nhớ hôm nay anh đã nghĩ rằng Paul sẽ cáu, nhưng anh quên mất là vì sao. Anh đứng dậy và mò mẫm tiến về phía bàn đón tiếp. Betty vội chạy ra đón anh.
- Anh thật quá thể !
- Tôi sợ các bệnh viện lắm.
- Thôi được, anh đã ra đây rồi thì ta tranh thủ điền tờ khai nhập viện. Anh đã đến đây bao giờ chưa ?
- Sao chị lại hỏi vậy ? - Arthur đứng bên quầy tiếp đón, lo ngại trả lời.
- Vì nếu các số liệu của anh đã có trong máy tính thì sẽ nhanh hơn.
Arthur trả lời bằng một câu phủ nhận. Betty nhớ mặt người khá tốt, và mặc dù người đàn ông này bị băng kín mắt, những đường nét của anh ta trông có vẻ quen quen. Có lẽ cô đã gặp anh ta ở chỗ khác ? Mà rốt cuộc thì điều đó cũng chẳng quan trọng mấy, lúc này cô có quá nhiều việc để làm hơn là nghĩ về chuyện này.
Arthur muốn về nhà, thời gian chờ đợi quá dài và anh muốn tháo băng ra.
- Các chị đang quá tải, mà tôi thì cảm thấy khoẻ thật đấy, - anh nói - tôi đi về nhà đây.
Betty giữ chặt tay anh lại không nể nang :
- Cứ thử xem !
- Thử thì sao nào ? - Arthur hỏi với vẻ gần như thích thú.
- Trong vòng sáu đến mười hai tháng tới, nếu anh bị bất cứ thứ bệnh vớ vẩn gì và cần chữa chạy, anh có thể vĩnh biệt bảo hiểm y tế của anh ! Nếu anh bước qua ngưỡng cửa của căn phòng này, dù chỉ để ra ngoài hút thuốc lá thôi, tôi sẽ gửi trả tờ khai của anh với ghi chú rằng anh không chịu khám sức khoẻ. Thế là ngay cả khi anh chỉ bị đau răng một tí, hãng bảo hiểm của anh cũng sẽ tống cổ anh đi !
- Tôi không hút thuốc ! - Arthur nói và đặt tay lên quầy tiếp tân.
- Tôi biết, thật đáng sợ khi phải ở trong bóng tối, nhưng anh hãy kiên nhẫn, bác sĩ đây rồi này, cô ấy vừa ra khỏi thang máy phía sau lưng anh.
Lauren đến gần quầy đón tiếp. Từ khi rời phòng Marcia, cô không thể thốt lên được một lời. Cô nhận hồ sơ từ tay cô y tá và chăm chú đọc tờ trình của nhân viên cấp cứu, đồng thời dắt tay dẫn Arthur vào phòng khám số 4. Cô kéo rèm cửa lại và giúp anh nằm lên giường. Khi anh đã nằm xuống, cô bèn bắt đầu tháo băng ra.
- Tạm thời anh cứ để mắt nhắm lại nhé - cô nói.
Vài câu nói mà cô vừa thốt ra, tuy bằng một giọng dịu dàng, cũng đủ làm cho tim Arthur thót lại. Cô lấy hai miếng gạc và vạch mi mắt anh ra, nhỏ nước cất vào ngập mắt.
- Anh có đau không ?
- Không.
- Anh có cảm giác đã bị một mãnh vỡ rơi vào không ?
- Hoàn toàn không, cái băng này là do ông cấp cứu nghĩ ra, tôi chẳng bị sao cả.
- Ông ta làm đúng đấy. Bây giờ anh có thể mở mắt ra đươc rồi !
Một vài giây cần thiết để nước cất chảy hết. Khi Arthur đã nhìn rõ lại được, tim anh bắt đầu đập mạnh hơn. Ước nguyện mà anh bày tỏ bên mộ mẹ vừa được thực hiện.
- Anh không sao cả chứ ? - Nhìn thấy vẻ nhợt nhạt trên mặt người bệnh, Lauren hỏi.
- Không sao - anh đáp, họng se lại.
- Anh hãy thư giãn đi !
Lauren cúi xuống người anh để dùng kính lúp xem xét hai giác mạc. Trong khi cô khám mắt cho anh, khuôn mặt của họ kề sát nhau đến mức môi họ gần như chạm vào nhau.
- Mắt anh hoàn toàn không sao cả, anh may mắn lắm đấy !
Arthur không bình luận một lời.
- Anh không bị ngất chứ ?
- Không, chưa đâu !
- Anh đùa đấy à ?
- Tôi chỉ mới thử một chút.
- Anh có đau đầu không ?
- Không.
Lauren luồn tay xuống dưới lưng Arthur và nắn cột sống.
- Có đau gì không ?
- Hoàn toàn không.
- Anh có một vết bầm máu rõ đẹp ở môi. Há miệng ra nào !
- Nhất thiết phải làm như vậy sao ?
- Thì tôi vừa yêu cầu anh thế mà lại.
Arthur thực hiện. Lauren cầm lấy chiếc đèn pin.
- Ồ, xem này, ít nhất là phải khâu năm mũi.
- Đến thế cơ à ?
- Tôi cũng đùa đấy ! Súc miệng bằng nước sát trùng trong bốn ngày là đủ lắm rồi.
Cô sát trùng vết thương ở trán anh và dùng một loại kem bôi dính để khép miệng vết thương lại. Sau đó cô mở ngăn kéo, xé gói giấy bọc một miếng băng dính rồi dán miếng băng ấy lên trên vết thương.
- Tôi dán băng hơi bị lấn vào lông mày, anh sẽ khó chịu một chút khi tháo miếng băng này ra. Những chỗ sây sát khác thì không đáng kể, nó sẽ tự liền sẹo. Tôi sẽ kê đơn cho anh dùng vài ngày một loại kháng sinh phổ rộng, chỉ để phòng ngừa thôi mà.
Arthur cài cúc cổ tay áo và đứng dậy, anh cảm ơn Lauren.
- Đừng có vội thế - cô nói và đẩy anh lại vào giường khám bệnh. - Tôi còn phải đo huyết áp của anh nữa.
Cô nhấc máy đo huyết áp ra khỏi giá đặt của nó gắn trên tường và lồng vào cánh tay Arthur. Huyết áp kế đo tự động. Tấm băng tay phồng lên và xẹp đi theo nhưng khoảng thời gian đều đặn. Một vài giây đủ để những con số hiện lên trên màn hình gắn ở đầu giường.
- Anh mắc chứng tim đập nhanh à ? - Lauren hỏi.
- Không - Arthur trả lời, hết sức bối rối.
- Thế nhưng anh lại có một con tim đập nhanh đáo để, tim anh đập hơn 120 lần trong một phút và huyết áp của anh lên đến 180, quá cao đối với một người ở tuổi anh.
Arthur nhìn Lauren, anh tìm một lý do để biện hộ cho quả tim của mình.
- Tôi hơi bị chứng bệnh ám, cứ vào bệnh viện là tôi hết hồn.
- Bạn trai cũ của tôi chỉ cần nhìn thấy cái áo blouse của tôi là muốn xỉu rồi.
- Bạn trai cũ của cô ?
- Có gì quan trọng đâu.
- Thế bạn trai hiện tại của cô, anh ấy có chịu đựng được cái ống nghe của bác sĩ không ?
- Dù sao tôi cũng muốn anh đến chỗ bác sĩ tim mạch khám thì hơn, tôi có thể nhắn tin cho một bác sĩ như vậy, nếu anh muốn.
- Không cần thiết đâu - Arthur nói bằng một giọng run run. - Đây không phải là lần đầu tiên tôi bị như vậy; à không, ở bệnh viện thì đây là lần đầu tiên; khi tôi tham dự các kỳ thi, ngực tôi cũng hơi đập thình thịch, tôi hay bị hồi hộp.
- Anh làm nghề gì mà còn dự thi ? - Lauren thích thú hỏi trong lúc thảo đơn thuốc.
Arthur ngập ngừng chưa trả lời ngay. Anh thừa lúc cô tập trung vào tờ giấy đang viết để nhìn cô, lặng lẽ và chăm chú. Lauren không thay đổi, có lẽ trừ kiểu tóc. Cái sẹo nhỏ trên trán mà anh rất yêu gần như đã biến mất hẳn. Và vẫn cái nhìn khó tả và tự tin ấy. Anh nhận ra từng nét biểu hiện của gương mặt cô, chẳng hạn như chuyển động của đường vòng cung dưới mũi cô khi cô nói. Nụ cười xinh đẹp của cô đưa anh về với những kỉ niệm hạnh phúc. Người ta có thể cảm thấy thiếu vắng ai đó đến mức này không ? Tấm băng tay lập tức phồng lên và những con số mới hiện lên. Lauren ngẩng đầu lên để xem.
- Tôi là kiến trúc sư.
- Thế anh cũng làm việc vào ngày nghỉ cuối tuần chứ ?
- Đôi khi cả ban đêm nữa, chúng tôi luôn phải làm việc như trâu ấy.
- Tôi hiểu ý anh mà.
Arthur ngồi dựng dậy trên giường.
- Cô đã từng quen một kiến trúc sư à ? - anh hỏi bằng một giọng run rẩy.
- Theo tôi nhớ thì không, nhưng tôi nói về nghề của tôi cơ, chúng ta giống nhau ở chỗ đó, làm việc không kể giờ giấc.
- Thế anh bạn của cô làm nghề gì ?
- Đã hai lần anh hỏi tôi có còn độc thân hay không rồi đấy... Tim anh đập nhanh quá, tôi muốn để một đồng nghiệp của tôi khám cho anh.
Arthur tháo tấm băng tay đo huyết áp ra và đứng dậy.
- Lúc này, chính cô mới là người hay lo lắng đấy !
Arthur muốn về nghỉ ngơi. Ngày mai mọi thứ sẽ tốt đẹp. Anh hứa sẽ đi kiểm tra lại huyết áp trong vài ngày tới, và nếu có cái gì đó bất bình thường, anh sẽ đi khám ngay lập tức.
- Anh hứa chứ ? - Lauren nhất định yêu cầu.
Arthur lạy trời để cô đừng nhìn anh như vậy nữa. Nếu tim anh không nổ tung ra trong chốc lát, anh sẽ ôm cô vào vòng tay mình để nói với cô rằng anh đã yêu cô như điên như dại, rằng thật khó khi lại về sống ở chính thành phố này và không được trò chuyện cùng nhau. Anh sẽ kể hết cho cô nghe, nếu như anh có thời gian để kể trước khi cô gọi bảo vệ đến và nhốt anh lại. Anh cầm lấy áo vét của mình, nói đúng hơn là phần còn lại của cái áo vét, tránh không mặc áo vào trước mặt cô và nói cảm ơn cô. Anh rời khỏi căn phòng thì nghe thấy tiếng cô gọi phía sau lưng.
- Arthur ?
Lần này, anh cảm thấy tim mình nhảy vọt lên đến tận đầu. Anh quay người lại.
- Tên anh như vậy phải không ?
- Vâng - anh thốt ra, miệng đã cạn khô nước bọt.
- Đơn thuốc của anh này ! - Lauren nói và đưa cho anh tờ giấy màu hồng.
- Cảm ơn cô - Arthur cầm tờ giấy và trả lời.
- Anh đã cảm ơn tôi rồi. Anh mặc áo vét vào đi. Giờ này buổi tối thường lạnh đấy, và cơ thể anh hôm nay đã mệt đủ rồi.
Arthur vụng về xỏ một tay áo vào, lúc vừa định bước chân đi, anh quay người lại và nhìn Lauren hồi lâu.
- Có chuyện gì vậy ? - cô hỏi.
- Cô có một con cú trong túi áo - anh nói với nụ cười buồn trên môi.
Và Arthur rời phòng khám.
Lúc anh đi ngang qua tiền sảnh, Betty gọi anh từ sau ô kính. Anh bước lại chỗ chị, vẻ ngơ ngẩn.
- Anh ký vào rồi đi đâu thì đi - chị nói và chìa cho anh một quyển sổ to màu đen.
Arthur ký vào sổ của khoa cấp cứu.
- Anh có chắc là anh khoẻ mạnh không ? - nữ y tá trưởng lo ngại. - Trông anh có vẻ như bị choáng.
- Rất có thể - Arthur trả lời rồi bước đi.
Arthur đợi taxi trước cửa khoa cấp cứu, và từ quầy đón tiếp, nơi Betty đang phân loại các phiếu nhập viện, Lauren nhìn theo anh mà anh không nhận ra.
- Chị có thấy anh chàng này trông hơi giống anh ta không ?
- Chị chẳng biết em nói về ai cả - nữ y tá trả lời, đầu vùi vào đống hồ sơ. - Đôi khi, chị cứ tự hỏi không biết mình làm việc trong một bệnh viện hay một cơ quan hành chính.
- Cả hai, em nghĩ thế. Chị nhìn anh chàng nhanh lên và nói cho em biết chị thấy anh ta thế nào. Trông cũng không đến nỗi, phải không ?
Betty nâng cặp kính lên, đưa mắt nhìn qua một cái rồi lại vùi đầu vào đống giấy tờ của mình. Một chiếc xe của hãng Yellow Cab vừa đỗ lại, Arthur trèo vào xe và chiếc xe đi xa dần.
- Chẳng giống tí nào ! - Betty nói.
- Chị nhìn anh ta có hai giây !
- Ừ, nhưng đây là lần thứ một trăm em hỏi chị điều này, cho nên chị được luyện quen rồi, thêm nữa chị đã nói với em là chị có tài nhớ mặt mà lại. Nếu đó là anh chàng của em thì chị đã nhận ra ngay rồi, hồi ấy chị có bị hôn mê đâu.
Lauren cầm một chồng giấy và giúp nữ y tá phân loại.
- Lúc nãy, khi em khám cho anh ta, em đã thấy nghi ghê lắm.
- Thế sao em không hỏi anh ta ?
- Em đã thử hình dung rất rõ mình nói với một bệnh nhân như thế này : 'Trong thời gian tôi vừa tỉnh lại sau cơn hôn mê, chẳng hay anh có hoàn toàn tình cờ ngồi mười lăm ngày ở bên giường tôi không ?'
Betty cười rộ lên.
- Hình như đêm vừa rồi em lại mơ thấy anh chàng ấy. Nhưng đến khi tỉnh dậy, em chẳng bao giờ nhớ nổi nét mặt anh ta.
- Nếu đó là anh ta, anh ta sẽ phải nhận ra em. Em có hai chục "khách hàng" đang đợi em kìa, em phải gạt những ý nghĩ ấy ra khỏi đầu và đi làm việc đi. Và rồi lật sang trang mới thôi, em có một anh bạn nào đó cơ mà, phải không ?
- Nhưng chị có chắc đó không phải là anh ta không ? - Lauren hạ giọng nài nỉ.
- Hoàn toàn chắc !
- Nói thêm về anh ta cho em đi.
Betty rời chồng hồ sơ và quay người trên chiếc ghế xoay,
- Em muốn chị nói cái gì cơ chứ !
- Dù sao cũng khó tin thật đấy - Lauren nổi đoá. - Cả khoa trạm chán người đàn ông ấy suốt hai tuần lễ liền, thế mà mình không tài nào tìm nổi dù chỉ một người biết điều gì đó về anh ta.
- Chắc là vì anh ta bản tính kín đáo ! - Betty vừa lẩm bẩm vừa kẹp lại một tập giấy màu hồng.
- Thế không ai tự hỏi anh ta làm gì ở đây à ?
- Một khi mẹ em đã chấp nhận sự có mặt của anh ta, mọi người chẳng có lý do gì mà can thiệp vào nữa. Ở đây tất cả đều nghĩ rằng đó là một người bạn của em, thậm chí là bồ của em cũng nên ! Em làm các cô cùng tầng phát ghen. Khối người có thể cuỗm anh chàng ấy của em đấy.
- Mẹ em nghĩ đó là một người bệnh, ông Fernstein cho đó là một người họ hàng, còn chị thì tưởng đó là bồ của em. Rõ ràng là không ai có thể đi đến chỗ nhất trí với người khác được.
Betty hùng hắng ho rồi đứng dậy để lấy một tập giấy. Chị để tuột mắt kính xuống mũi và nhìn Lauren với vẻ nghiêm trang :
- Thì lúc ấy em cũng ở đó mà !
- Mọi người tìm cách giấu tôi điều gì vậy, tất cả mọi người ?
Che giấu sự bối rối của mình, nữ y tá lại vùi đầu vào đống giấy tờ.
- Chẳng giấu gì cả ! Chị biết rằng chuyện đó có vẻ kỳ lạ, nhưng điều khó tin duy nhất là em đã tai qua nạn khỏi mà không bị một di chứng nào, em phải cảm ơn trời chứ đừng khăng khăng tự bịa ra cho mình những chuyện huyền bí nữa.
Betty đập vào chiếc chuông con ở trước mặt và gọi bệnh nhân số 125. Chị đặt một hồ sơ vào tay Lauren và ra hiệu cho Lauren trở lại vị trí làm việc.
- Điên thật, mình mới là bác sĩ phụ trách ở đây chứ - Lauren vừa càu nhàu vừa đi vào phòng khám số 4.
7.
Taxi thả Arthur xuống ở chân toà nhà của anh. Tìm chìa khoá của mình nhưng không thấy, anh do dự không biết có nên ấn nútinterphone nhà bà Morrison không, có khi bà ấy sẽ chẳng nghe thấy. Một tia nước giọt xuống từ ban công, anh ngẩng đầu lên và nhận thấy bà hàng xóm của mình đang tưới cây. Anh vẫy tay ra hiệu cho bà. Bà Morrison lo lắng khi nhìn thấy anh trong tình trạng thảm hại này. Chốt cửa bật tách một cái.
Bà Morrison đợi anh ngoài hành lang. Bà đưa tay chống nạnh và nhìn anh thận trọng.
- Anh tán tỉnh một nữ võ sĩ quyền Anh à ?
- Không, đó là một cái môtô ba bánh đem lòng mê cháu đấy - Arthur trả lời.
- Anh bị tai nạn khi đi môtô ?
- Khi đi bộ ạ ! Và để thêm phần hấp dẫn, thậm chí không phải là cháu đang qua đường nữa, mà cháu bị đâm ngay trước cửa hàng Macy's.
- Anh làm gì ở đấy ?
Vì cuộn dây dắt chó đã bị vùi trong đống kính vụn, Arthur không muốn nói gì về chuyện này với bà hàng xóm. Bà Morrison nhìn chiếc áo khoác bị rách từ phía này sang phía khác.
- Tôi e nếu mạng lại thì nhìn cũng lộ lắm ! Anh không còn túi áo à ?
- Không ạ - Arthur nói và mỉm cười, nhưng cơn đau đã nhói lên trên cặp môi sưng vều của anh.
- Lần sau, nếu anh định âu yếm cô bạn gái của anh thì nhớ đeo găng cho cô ấy nhé, hoặc cắt móng tay cô ấy đi, dù sao như vậy cũng cẩn trọng hơn.
- Đừng làm cháu cười, bác Rose, khi cười cháu bị đau ghê gớm !
- Nếu tôi biết trước rằng chỉ cần một cái môtô đâm vào anh là cuối cùng anh sẽ gọi tôi bằng tên riêng, thì tôi đã nhờ đến một trong mấy ông bạn cũ của tôi ở Hell's Angel rồi. À, chiều nay con Paolo nó sủa đấy, tôi cứ tưởng nó sắp chết, nhưng không phải, nó chỉ sủa thôi.
- Thôi chào bác nhé, cháu đi nằm đây.
- Tôi sẽ mang cho anh một cốc trà thảo mộc, ngoài ra có lẽ tôi còn cồn thuốc kim sa để ở đâu đó nữa.
Arthur cảm ơn bà Morrison và bước đi, nhưng anh vừa đi được vài bước thì bà hàng xóm lại gọi anh. Bà giơ ra một chùm chìa khoá.
- Tôi nghĩ chắc anh không định tìm chìa khoá của anh ở trong thang máy chứ ? Đây là chùm mà anh đã gởi tôi, anh sẽ cần đến nó nếu anh muốn vào nhà.
Anh mở cửa rồi đưa lại chùm chìa khoá cho bà hàng xóm ; anh còn một chùm nữa để ở nơi làm việc nên muốn gửi lại bà chùm này. Anh bước vào căn hộ của mình, bật cây đèn huỳnh quang trong phòng khách rồi lập tức tắt ngay, người choáng váng vì một cơn đau đầu dữ dội. Anh vào buồng tắm và lấy hai gói thuốc bột aspirine ở trong tủ thuốc. Cần phải tăng gấp đôi liều thuốc để làm dịu đi cơn bão vừa nổi lên trong đầu anh. Anh dốc bột thuốc vào dưới lưỡi để thuốc ngấm trực tiếp vào máu và tác động nhanh hơn. Bốn tháng chung sống với một nữ sinh viên y khoa đã cho phép anh học được một vài "ngón nghề" nhỏ. Vị đắng làm anh rùng mình. Anh nghiêng người xuống vòi nước để uống. Tất cả bắt đầu quay cuồng xung quanh anh và anh phải dựa vào bồn rửa mặt. Arthur cảm thấy người yếu ớt. Điều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả, từ sáng đến giờ anh đã nuốt cái gì vào bụng đâu. Dù bắt đầu cảm thấy buồn nôn, anh vẫn phải cố ăn một cái gì đó. Dạ dày rỗng thì đi liền với tim đau. Anh ném chiếc áo vét xuống đi văng và đi vào bếp. Khi mở cánh cửa tủ lạnh ra, toàn thân anh run lẩy bẩy. Arthur lấy cái đĩa nhỏ có một mẩu pho mát và vớ lấy một gói bánh mì cắt lát trên ngăn tủ lạnh. Anh sắp xếp các thứ thành một cái xăng đuých lồng phồng, nhưng vừa ngoạm miếng đầu tiên, anh bỏ luôn không ăn nữa.
Tốt hơn là không cố vật lộn nữa, anh đã bị đo ván rồi. Anh vào phòng ngủ, tiến đến chiếc bàn đầu giường, lần theo sợi dây điện của chiếc đèn đầu giường và bấm công tắc. Anh quay đầu ra cửa, có lẽ một cái cầu chì đã bị nổ, phòng khách chìm trong bóng tối.
Arthur không hiểu điều gì đang diễn ra, ở phía bên trái anh, ngọn đèn đầu giường có vẻ như gần tắt, nó toả ra một thứ ánh sáng lờ mờ và nhợt nhạt, hơi có màu da cam, nhưng khi anh nhìn thẳng vào đèn thì mọi thứ trở lại bình thường. Cơn buồn nôn tăng lên, anh chỉ muốn đi thật nhanh vào buồng tắm, nhưng chân anh nhủn ra bên dưới và anh ngã xuống đất.
Nằm sóng soài dưới chân giường, không sao đứng dậy được, anh cố lê người đến chỗ điện thoại. Trong ngực anh, quả tim đập như muốn vỡ ra, mỗi nhịp đập nhói lên một cảm giác đau đớn khó tả. Anh tìm kiếm không khí mà anh đang thiếu và nghe thấy tiếng chuông cửa, ngay trước khi ngất đi.
° ° °
Paul nhìn đồng hồ, điên tiết. Anh ra hiệu cho người trưởng nhóm phục vụ và yêu cầu tính tiền. Một lát sau, lúc đi ngang qua bãi đậu xe của tiệm ăn, anh vẫn còn xin lỗi hai vị khách mời của mình. Không phải lỗi tại anh nếu như anh liên doanh với một gã thô lỗ.
Onega bênh vực Arthur : vào cái thời mà việc ràng buộc với nhau vì tình dường như là tàn tích của quá khứ, một người muốn cưới cô bạn gái của mình sau bốn tháng yêu về bản chất không thể nào xấu được.
- Hai người ấy cũng không hẳn là đã cưới - Paul làu bàu và mở cửa ôtô cho Onega.
° ° °
Arthur chắc là đã đi nằm rồi, nhưng bà Morrison không yên tâm, lúc trước anh chàng có vẻ mặt thật kỳ cục. Bà đóng cửa nhà mình lại, đặt ống cồn kim sa lên chiếc bàn trong bếp rồi trở ra phòng khách. Paolo đang ngủ yên lành trong giỏ của nó. Bà bế nó lên tay và ngồi vững chãi trong chiếc ghế bành to trước tivi. Thính giác của bà không còn tốt lắm nhưng mắt bà chẳng hề kém tinh nhanh, và bà đã nhận thấy rõ lúc nãy Arthur có vẻ nhợt nhạt đến thế nào.
° ° °
- Em làm ca đêm à ? - Betty hỏi.
- Em trực đến hai giờ sáng thì xong - Lauren trả lời.
- Tối thứ Hai, trời không một giọt mưa, còn lâu mới đến ngày rằm, rồi em xem, đêm nay sẽ yên tĩnh đấy.
- Cầu trời là như vậy - Lauren vừa nói vừa buộc túm tóc lại.
Betty định tranh thủ lúc yên tĩnh này để sắp xếp lại các tủ thuốc. Lauren đề nghị Betty để cô giúp nhưng máy nhắn tin đã reo lên trong túi áo blouse của cô. Cô nhận ra con số hiện trên máy, một phòng bệnh ở tầng hai cần cô.
° ° °
Paul và Onega đưa Mathilde về rồi đi dạo một vòng ban đêm ở Pier 39. Chính Onega đã chọn nơi này, trước sự ngạc nhiên hết sức của Paul. Những hoạt động kinh doanh du lịch, những nhà hàng ồn ào và những trò vui chơi giải trí nối tiếp nhau suốt dọc cái đập lớn bằng gỗ nhô ra trên biển. Ở cuối con đập nổi, trên cái bãi bị bụi nước bắn tun mờ mịt, có một bộ ống nhòm với chân chống, nếu bỏ vào đó hai mươi lăm xu thì sẽ được nhìn thật gần cảnh nhà tù Alcatraz trên cái đảo nhỏ giữa vịnh. Phía trước ống kính, có mấy tấm biển đồng gắn vào lan can nhắc người xem nhớ rằng những luồng chảy và lũ cá mập tung hoành trong vịnh chưa bao giờ để cho một tù nhân nào bơi vượt ngục được, "trừ Clint Eastwood" , lời chỉ dẫn mở ngoặc nêu rõ như vậy.
Paul ôm Onega ngang lưng. Cô quay lại nhìn thẳng vào mắt anh.
- Tại sao em muốn đến đây ? - anh hỏi.
- Em thích nơi này. Dân di tản nước em thường kể chuyện họ đến New York bằng thuyền và niềm hạnh phúc dâng lên trong lòng họ khi ngồi chen chúc trên boong tàu, cuối cùng đã được nhìn thấy Manhattan hiện ra trong màn sương. Em thì đến đây bằng máy bay qua Châu Á. Cái đầu tiên mà em nhìn thấy từ cửa sổ máy bay, khi bay xuyên qua một lớp mây dày, là nhà tù Alcatraz. Em nhìn đó như một dấu hiệu mà cuộc sống gửi cho em. Những người nhìn thấy tự do ở New York thì thường không chú ý giữ gìn nó hoặc làm mất nó, em thì mọi thứ đều phải tự giành lấy !
- Em từ Nga đến à ? - Paul xúc động hỏi.
- Từ Ucraina, anh chàng tội nghiệp ! - Onega nói, uốn lưỡi phát âm chữ r một cách rất gợi cảm. - Đừng bao giờ nói với dân nước em rằng họ là người Nga nhé ! Vì một sự thiếu hiểu biết như vậy, anh không xứng đáng được em hôn nữa, ít nhất là trong vài tiếng đồng hồ - cô dịu giọng nói thêm.
- Khi đến đây em mấy tuổi ? - Paul hỏi, vẻ như đã mê hoặc hoàn toàn.
Onega đi về phía cuối đập. Cô cười phá lên.
- Em sinh ở Sausalito, anh ngốc ạ ! Em học ở Berkeley và em làm về luật ở toà thị chính. Nếu anh hỏi em nhiều hơn một chút, thay vào việc cứ nói liên tục, thì anh đã biết rồi.
Paul tự cảm thấy mình tức cười, anh dựa vào hàng lan can và nhìn ra biển. Onega lại gần và áp sát vào người anh.
- Em xin lỗi nhé, nhưng anh dễ thương đến nỗi em không thể kìm lòng để không trêu anh được. Với lại, đó cũng không phải là chuyện bịa hoàn toàn đâu; đối với thế hệ trước thì chuyện này là có thật đấy, nó đã xảy ra với mẹ em. Anh đưa em về chứ ? Ngày mai em phải làm việc sớm - cô nói rồi đặt đôi môi mình lên môi của Paul.
° ° °
Tivi đã tắt. Lẽ ra bà Morrison định xem phim, nhưng tối nay bà không còn lòng dạ nào. Bà đặt Paolo xuống dưới chân và lấy chùm chìa khoá của anh hàng xóm.
Bà tìm thấy Arthur nằm bất tỉnh dưới chân đi văng. Bà cúi xuống người anh và vỗ vỗ vào má anh. Anh mở mắt ra. Bà muốn làm vẻ mặt bình tĩnh để trấn an anh, nhưng sự thể hoàn toàn ngược lại. Anh nghe thấy giọng bà xa xôi nhưng không nhìn thấy bà. Anh cố thốt lên vài lời nhưng không được, cất tiếng lên là một việc thật khó khăn đối với anh. Miệng anh khô lại. Bà Morrison đi lấy một cốc nước và thấm ướt môi anh.
- Cứ nằm yên, tôi sẽ gọi cấp cứu ngay đây - bà vuốt trán anh và nói.
Bà đi ra bàn làm việc tìm điện thoại. Arthur đã dùng tay phải cầm được cốc nước, tay trái của anh thì không thể điều khiển nổi. Nước lạnh chảy vào họng anh, anh nuốt. Anh muốn đứng dậy nhưng đôi chân cứ đờ ra. Bà cụ quay lại để theo dõi anh, thấy mặt anh đã hồng lại đôi chút. Bà vừa định nhấc máy gọi thì chuông điện thoại reo lên.
- Cậu chẳng coi tớ ra cái chó gì cả ! - Paul rống lên.
- Tôi có hân hạnh được ai mắng mỏ đây ? - bà Morrison hỏi.
- Đây không phải là nhà Arthur ạ ?
° ° °
Khoảnh khắc nghỉ ngơi thật ngắn ngủi. Betty chạy xộc vào căn phòng nơi Lauren đang nằm ngủ.
- Nhanh lên, phòng điều phối vừa báo là mười xe cấp cứu sắp đến đây. Có ẩu đả trong một quán bar.
- Các phòng khám đều trống cả chứ ? - Lauren chồm dậy hỏi.
- Chỉ có một bệnh nhân, không có gì trầm trọng.
- Thế thì đưa bệnh nhân đó ra chỗ khác và gọi tăng cường, mười xe cấp cứu có thể đem tới cho chúng ta đến tận hai mươi người bị thương đấy.
° ° °
Paul nghe thấy tiếng còi xe cấp cứu rú lên xa xa, anh đưa mắt nhìn vào gương chiếu hậu. Chốc chốc, anh có thể nhìn thấy trong gương ánh đèn nhấp nháy của xe cấp cứu đang đến gần anh. Anh tăng tốc, lo lắng đập tay vào vôlăng. Cuối cùng, ôtô của anh cũng đỗ lại trước toà nhà nhỏ nơi Arthur sống. Cửa vào toà nhà đã mở, anh vội vã đi ra phía cầu thang, nhảy lên các bậc thang và thở hổn hển đi vào căn hộ của Arthur.
Arthur nằm dưới chân đi văng, bà Morrison cầm tay anh.
- Cậu ấy làm chúng ta sợ một phen hết hồn, - bà nói với Paul - nhưng tôi nghĩ đã khá hơn rồi. Tôi đã gọi xe cấp cứu.
- Xe đang đến - Paul nói và lại gần Arthur. - Cậu thấy trong người thế nào ? - Anh hỏi bạn bằng một giọng che giấu vụng về nỗi lo lắng của mình.
Arthur quay đầu về phía Paul và Paul hiểu ngay rằng có cái gì đó không ổn.
- Tớ không nhìn thấy cậu - Arthur thì thào.
8.
Nhân viên cấp cứu kiểm tra lại xem chiếc cáng đã được đặt chắc chắn chưa rồi khoá thắt lưng an toàn lại. Anh ta gõ vào tấm kính ngăn cách với buồng lái, và xe lên đường. Nghiêng người trên ban công nhà Arthur, bà Morrison nhìn theo chiếc xe cấp cứu rẽ ở ngã tư rồi biến mất, còi rú ầm ĩ. Bà khép cửa sổ, tắt đèn rồi trở về nhà mình. Paul đã hứa sẽ gọi điện cho bà ngay khi biết thêm được một chút tin tức. Bà ngồi ở ghế bành, chờ đợi tiếng chuông điện thoại vang lên trong yên lặng.
Paul ngồi cạnh nhân viên cấp cứu, anh này theo dõi huyết áp của Arthur. Arthur ra hiệu cho Paul đến gần.
- Đừng để họ đưa chúng mình đến bệnh viện Memorial - Arthur thì thầm vào tai bạn. - tớ vừa ở đó lúc nãy.
- Thế thì càng phải quay lại đó và cho bọn nó một bê bối. Để cậu ra viện trong tình trạng như thế này là phạm vào lỗi nghề nghiệp.
Paul ngừng nói, nhìn Arthur vẻ thận trọng:
- Cậu có gặp cô ta không ?
- Chính cô ấy khám cho tớ.
- Tớ không tin cậu !
Arthur quau đầu đi, không trả lời.
- Thì ra là vì vậy mà cậu bị một cơn xây xẩm thế này đây, ông bạn của tớ; cậu mắc hội chứng trái tim tan nát, cậu đau khổ lâu quá rồi.
Paul mở ô cửa nhỏ trên tấm kính ngăn với buồng lái và hỏi tài xế đang đi đến bệnh viện nào.
- Mission San Perdo - người lái xe trả lời.
- Tốt lắm - Paul càu nhàu và khéo ô kính lại.
- Cậu biết không, lúc chiều tớ đã gặp Carol-Ann đấy - Arthur thì thào.
Paul nhìn bạn, lần này với vẻ ái ngại:
- Không sao đâu, thư giãn đi, cậu hơi mê sảng một tí nên cậu tưởng gặp lại tất cả các cô bồ cũ của cậu, nhưng rồi chuyện này sẽ qua thôi.
Mười phút sau, xe cấp cứu đến nơi đã định. Khi những người khiêng cáng bước vào đại sảnh vắng ngắt của bệnh viện Mission San Perdo, Paul lập tức hiểu rằng mình đã làm điều ngu ngốc khi để cho họ đến đây. Nữ y tá Cybile rời cuốn sách và quầy trực để dẫn các nhân viên cấp cứu vào một phòng khám. Họ đặt Arthur lên giường rồi rút lui.
Trong lúc đó, Paul điền vào tờ trình về tai nạn ở quầy đón tiếp. Đã hơn nửa đêm khi Cybile trở lại chỗ anh; chị đã nhắn tin cho bác sĩ trực và thề rằng ông ta sắp đến. Bác sĩ Brisson đang kết thúc vòng đi thăm bệnh nhân trên tầng. Trong phòng khám, Arthur không còn đau nữa, anh chìm dần vào trạng thái mơ màng của một giấc ngủ sâu. Cơn đau đầu cuối cùng đã ngừng lại như có phép màu. Và từ khi cảm giác đau đớn biến mất, Arthur, sung sướng, lại nhìn thấy được...
Vườn hồng đẹp lộng lẫy, nở rộ những bông hồng hàng ngàn sắc màu. Một bông Cardinale màu trắng, có kích thước mà anh chưa từng thấy bao giờ, nở ra trước mặt anh. Bà Morrison đi đến, miệng khe khẽ hát. Bà cẩn thận cắt một bông hoa, lựa vào đoạn phía trên mắt cây, và mang bông hoa vào dưới mái hiên. Bà ung dung ngồi vào ghế xích đu, Paolo ngủ dưới chân bà. Bà tách từng cánh hoa ra và bắt tay vào khâu chúng một cách cực kỳ tinh tế lên chiếc áo vét bằng vải tuýt. Thật là một ý hay khi dùng những cánh hoa để thay vào chỗ túi áo bị mất. Cánh cửa nhà mở ra, mẹ anh bước xuống bậc thềm. Bà mang trên chiếc khay đan bằng cành liễu một tách cà phê và vài chiếc bánh bích quy cho con chó. Bà nghiêng người về phía con chó để cho nó ăn.
- Cái này là cho mày đấy, Kali - bà nói.
Tại sao bà Morrison không nói thật với Lili ? Con chó này tên là Paolo, thật lạ lùng khi gọi nó là Kali.
Nhưng Lili cứ nói đi nói lại không ngừng mỗi lúc một to hơn "Kali, Kali, Kali", và bà Morrison vừa đu mỗi lúc một cao hơn vừa cười và lặp lại theo: "Kali, Kali, Kali". Hai người đàn bà quay về phía Arthur và ra hiệu, bằng một ngón tay đầy vẻ độc đoán đặt trên môi, rằng anh phải im lặng. Arthur tức điên lên. Sự thông đồng bất ngờ này làm cho anh cáu kỉnh tột độ. Anh đứng dậy và gió cũng nổi lên.
Cơn giông từ ngoài biển ập vào với tốc độ lớn. Những giọt nước to nặng nhảy nhót trên mái nhà. Những đám mây sũng nước bao phủ bầu trời Carmel đã vỡ tung ra không kiểu cách trên vườn hồng. Mưa xói làm thành hàng chục hốc nhỏ trên mặt đất, xung quanh anh. Bà Morrison bỏ lại chiếc áo vét trên ghế xích đu và đi vào trong nhà để trú mưa. Paolo đi theo bà ngay tức khắc, đuôi cụp lại sợ hãi, nhưng khi đến ngưỡng cửa, con vật bỗng quay ngoắt lại, sủa ầm lên như để báo hiệu về một mối nguy hiểm. Arthur gọi mẹ, anh gọi bằng toàn bộ sức lực để chống chọi với cơn gió đang đẩy lùi những lời nói vào lại cổ họng anh. Lili quay người, bà nhìn con trai, gương mặt bà có vẻ thật đau buồn, rồi bà biến đi, mất hút trong bóng tối của hành lang. Cánh cửa chớp ở cửa sổ phòng làm việc đập thình thịch vào mặt tường, bản lề kêu kèn kẹt. Paolo tiến đến bậc thềm đầu tiên, nó rống lên như bị chọc tiết.
Phía dưới ngôi nhà, biển thịnh nộ nổi sóng. Arthur nghĩ rằng không có cách nào đến được cái hang dưới chân vách đá kia. Thế nhưng đó lại là nơi lý tưởng để trú ẩn. Anh nhìn ra xa, về phía vịnh, một đợt sóng lừng dâng cao gây cho anh cảm giác nôn nao dữ dội.
Cơn buồn nôn quặn lên, anh cúi gập người về phía trước.
- Tôi không chắc là tôi còn chịu được tình trạng này lâu hơn nữa - Paul nói, cái chậu nhỏ để nôn cầm trong tay.
Nữ y tá Cybile giữ vai Arthur để anh không ngã từ bàn khám xuống khi toàn thân nghiêng ngả vì những cơn co thắt.
- Cái lão bác sĩ đần độn kia đã sắp đến chưa, hay là tôi phải vác cái gậy bóng chày đi tìm lão ? - Paul gầm lên.
° ° °
Ở tầng trên cùng của bệnh viện Mission San Perdo, ngồi trên chiếc ghế trong bóng tối tại căn phòng của một người bệnh, bác sĩ nội trú Brisson đang nói chuyện điện thoại với cô bạn gái của mình. Cô này đã quyết định bỏ anh ta và gọi điện từ nhà anh, liệt kê một danh sách những điều không phù hợp khiến cho họ không còn cách nào khác ngoài chia tay nhau. Anh bác sĩ trẻ tuổi Brisson không muốn nghe nói là anh ta ích kỷ và hãnh tiến, còn Véra Zlicker thì không muốn thú nhận với anh ta rằng anh bồ cũ của cô đang đợi cô dưới nhà, trong một chiếc ôtô, khi cô đang sắp xếp vali. Thêm nữa, cuộc nói chuyện này không thể tiếp tục từ một phòng bệnh được, đến cả cái việc chia tay nhau mà cũng không thể kín đáo riêng tư được một tí, cô ta kết luận. Brisson áp điện thoại di động của mình vào máy đo tim mạch để cho Véra nghe thấy những tiếng bíp bíp yếu ớt và đều đặn từ tim người bệnh của anh ta. Bằng một giọng lạnh lùng, anh ta nói rõ rằng với tình trạng hiện giờ thì người bệnh sẽ không làm phiền gì họ cả.
Tự hỏi rằng không biết cái áo phông mà cô đang gập có đúng là của cô không, Véra im lặng một chút. Cô rất khó tập trung được cùng một lúc vào hai chủ đề. Brisson cứ tưởng là cuối cùng cô đã lưỡng lự, nhưng rồi Véra lại hỏi liệu có thiếu thận trọng không nếu cứ tiếp tục cuộc nói chuyện này, cô vẫn thường nghe nói rằng điện thoại di động làm rối loạn hoạt động của các máy móc y tế. Anh chàng bác sĩ nội trú gào lên rằng vào chính lúc này đây thì anh ta cóc quan tâm đến chuyện đó, và anh ta ra lệnh cho người mà bây giờ đã là bồ cũ của mình rằng ít ra cũng phải giữ phép lịch sự để đợi đến sáng mai, lúc anh ta đi trực về đã. Tức giận, Brisson tắt luôn chiếc máy nhắn tin đang reo lên lần thứ ba trong túi áo anh ta; ở đầu dây bên kia, Véra vừa dập máy.
° ° °
Tĩnh mạch con nằm phía sau bộ não đã bị tổn hại ở thời điểm xảy ra cú va đập và quầy kính. Trong ba tiếng đồng hồ đầu tiên sau khi xảy ra tai nạn, chỉ có một lượng máu không đáng kể rỉ ra từ mạch máu bị hư hại, nhưng đến đầu buổi tối, sự xuất huyết đã đủ để gây ra những rối loạn đầu tiên về thăng bằng và thị giác. Một nghìn miligramme aspirine ngấm vào qua đường dưới lưỡi đã biến đổi hẳn tình hình. Mười phút là đủ cho những phân tử acide acétylsalicylique làm máu tan lỏng ra ở những nơi mà thuốc đã ngầm vào. Qua vết rách, dòng máu trào ra xung quanh bộ não, giống như một con sông tràn bờ. Lúc Arthur đang trên đường đến bệnh viện, lượng máu chảy ra không còn chỗ dưới vòm sọ để tràn vào, nó bắt đầu chèn ép màng não.
Trong ba màng bao bọc bộ não, màng đầu tiên lập tức phản ứng. Tưởng rằng đây là một dạng nhiễm trùng, nó bèn thực hiện vai trò đã được giao cho nó. Vào lúc tám giờ mười phút tối, nó tấy lên để cố kìm giữ kẻ xâm nhập. Trong một vài giờ nữa, khối máu đang hình thành sẽ chèn ép bộ não tới mức đủ để gây ra sự ngừng các chức năng sống. Arthur rơi vào trạng thái bất tỉnh. Paul quay ra tìm nữ y tá; chị yêu cầu anh vui lòng ngồi đợi ở một chiếc ghế bành, bác sĩ trực là người rất nguyên tắc trong việc tuân thủ nội quy. Paul không có quyền đứng ở phía bên này cửa kính.
Brisson cáu kỉnh ấn nút thang máy xuống tầng trệt.
° ° °
Cách đó không xa, cánh cửa thang máy mở ra ở đại sảnh khoa cấp cứu của một bệnh viện khác. Lauren đi ra quầy đón tiếp và nhận một hồ sơ mới từ tay Betty.
Người đàn ông bốn mươi lăm tuổi đến đây với một vết thương sâu ở bụng, kết quả của một cú dao đâm tai hại. Ngay sau khi anh ta nhập viện, độ bão hoà máu đã tụt xuống quá ngưỡng nguy hiểm, báo hiệu một sự xuất huyết quan trọng. Tim anh ta có những dấu hiệu cho thấy sắp xảy ra một cơn rung thất và Lauren quyết định phải can thiệp bằng phẫu thuật trước khi quá muộn. Cô đã rạch một đường thẳng để kẹp lại mạch máu đang tuôn ra ào ạt; nhưng cú dao đâm lúc trước, khi rút ra, còn gây ra những hư hại khác. Huyết áp của người bị thương vừa tăng lên, lập tức có nhiều đường rách khác hình thành ở phía dưới vết thương ban đầu.
Lauren buộc phải thọc tay vào bụng người đàn ông; bằng ngón cái và ngón trỏ, cô kẹp chặt lại hẳn một phần ruột non để ngăn chặn những chổ chảy máu quan trọng. Thao tác được thực hiện khéo léo và huyết áp lại tăng lên. Betty đã có thể đặt hai tay cầm của máy sốc điện mà lúc trước chị nắm chắc trong tay xuống, tăng thêm lưu lượng dịch truyền. Lauren ở vào một tư thế khá bất tiện, từ lúc này cô không thể rút tay ra đường, sức ép mà cô đang duy trì có tầm quan trọng sống còn.
Năm phút sau, khi êkíp phẫu thuật đến, Lauren phải đi theo họ đến tận phòng mổ, tay vẫn để trong bụng bệnh nhân.
Hai mươi phút sau, bác sĩ phẫu thuật chịu trách nhiệm về ca mổ ra hiệu cho cô có thể rút tay ra và để kíp mổ giải quyết nốt, sự xuất huyết đã được cầm lại. Bàn tay cứng đờ, Lauren lại đi xuống đại sảnh khoa cấp cứu, ở đó lượng người bị thương chen chúc còn lâu mới được giải toả hết.
° ° °
Brisson bước vào phòng khám. Anh ta xem hồ sơ và ghi lại những hằng số sống của Arthur, chúng đều ổn định. Do vậy, chỉ có trạng thái mê man là có thể đáng lo. Không tuân theo những chỉ thị của nữ y tá, Paul chất vấn bác sĩ ngay khi anh ta vừa ra khỏi phòng khám.
Bác sĩ trực lập tức yêu cầu Paul ra đợi trong khu vực dành cho người ngoài. Paul đập lại rằng trong cái bệnh viện vắng ngắt này, những bức tường sẽ không tức giận đâu nếu anh bước quá đi vài mét khỏi cái đường kẻ màu vàng vạch trên cái nền nhà khá là cũ kỹ ấy. Brisson ưỡn ngực và giơ một ngón tay đầy vẻ áp đặt để chỉ rằng nếu cần phải nói chuyện thì cuộc nói chuyện sẽ diễn ra ở bên kia đường kẻ. Lưỡng lự không biết nên bóp cổ gã bác sĩ nội trú ngay lập tức hay là đợi đến khi biết được anh ta chẩn đoán thế nào, Paul đành tuân lệnh. Hài lòng, anh chàng bác sĩ trẻ bảo rằng hiện giờ anh ta không nói trước điều gì được. Anh ta sẽ gửi Arthur đi chụp X-quang ngay khi có thể. Paul nhắc đến máy scanner, nhưng bệnh viện không có máy này. Brisson ra sức trấn an Paul, bảo rằng nếu phim chụp X-quang cho thấy bất cứ thứ vấn đề gì thì anh ta sẽ cho chuyển Arthur đến một trung tâm chẩn đoán hình ảnh ngay ngày mai.
Paul hỏi tại sao không chuyển Arthur ngay bây giờ, nhưng gã bác sĩ trẻ từ chối. Từ lúc Arthur vào bệnh viện Mission San Perdo, anh ta là người duy nhất chịu trách nhiệm về Arthur. Đến lúc này thì Paul bèn nghĩ không biết anh có thể giấu xác của gã bác sĩ nội trú ở đâu sau khi bóp cổ gã.
Brisson quay trở lại và đi lên gác. Anh ta đi kiếm một chiếc máy chụp X-quang xách tay. Anh ta vừa biến đi, Paul đi ngay vào phòng khám và lay Arthur :
- Đừng có ngủ, cậu không được buông xuôi, cậu có nghe tớ nói không ?
Arthur mở mắt, ánh mắt lờ đờ, anh sờ soạng tìm tay bạn.
- Paul, cậu có nhớ thời niên thiếu của bọn mình chấm dứt chính xác vào ngày nào không ?
- Chuyện ấy có khó gì lắm đâu, thì vừa mới lúc nãy thôi mà !... Cậu có vẻ khá hơn rồi đấy, bây giờ cậu phải nghỉ ngơi.
- Khi bọn mình từ trường nội trú trở về, mọi thứ không còn ở chỗ của nó trước đây, cậu bảo "Sẽ có ngày, nơi mình lớn lên không còn là nhà mình nữa". Tớ cứ muốn đi ngược trở lại, nhưng cậu thì không.
- Giữ sức đi, bọn mình sẽ có thời gian để nói về tất cả những chuyện đó sau.
Paul nhìn Arthur, anh lấy một cái khăn và ra vặn vòi nước ở bồn rửa mặt. Anh vắt khăn rồi đặt lên trán bạn. Arthur có vẻ dễ chịu hơn.
- Hôm nay tớ đã nói chuyện với cô ấy. Suốt thời gian vừa qua, có một cái gì đó tự đáy lòng tớ nói với tớ rằng có lẽ mình đã duy trì một ảo ảnh. Rằng cô ấy là một nơi trú ẩn, một cách để tự yên lòng, bởi vì chẳng có gì nguy hiểm khi muốn đạt đến cái không thể với tới được.
- Chính tớ đã nói với cậu như thế cuối tuần vừa rồi, đồ ngốc, giờ thì quên cái mớ triết lý ngu xuẩn của tớ đi, chỉ vì lúc ấy tớ đang bực tức thôi.
- Vì sao cậu bực tức ?
- Vì bọn mình không làm sao có thể hạnh phúc cùng một lúc được nữa. Đối với tớ, như thế tức là già đi.
- Già đi là một điều hay cậu ạ, một sự may mắn kỳ lạ đấy. Tớ phải thổ lộ với cậu một bí mật. Khi tớ nhìn những người già, tớ thường ghen với họ.
- Ghen vì tuổi già của họ ấy à ?
- Ghen vì họ đã đến được tuổi già, đã sống được đến tận đó !
Paul nhìn huyết áp kế. Huyết áp vẫn hạ xuống thêm, anh nắm chặt tay lại, tin chắc rằng cần phải hành động. Gã lang băm này sắp giết chết thứ quý nhất trên đời của anh, người bạn có ý nghĩa như cả một gia đình đối với anh.
- Ngay cả khi tớ không qua khỏi thì cũng đừng nói gì với Lauren nhé.
- Cậu tiết kiệm lời đi còn hơn là nói những chuyện ngớ ngẩn như vậy.
Arthur lại xỉu đi, đầu ngoẹo sang một bên. Lúc đó là một giờ năm mươi hai phút theo đồng hồ treo tường trong phòng khám, chiếc kim giây không ngớt phát ra những tiếng tích tắc vờ vĩnh. Paul đứng dậy và bắt Arthur phải mở mắt ra.
- Cậu sẽ còn được già đi nhiều, đồ ngốc, việc này tớ sẽ lo, và đến khi cậu toàn thân thấp khớp, không giơ nổi cái gậy chống lên để đập tớ nữa, tớ sẽ nói cho cậu hay rằng vì tớ mà cậu khổ như vậy đấy, rằng vào một trong những buổi tối tồi tệ nhất đời tớ, lẽ ra tớ có thể tránh cho cậu tất cả những chuyện này. Nhưng lẽ ra cậu đừng nên bắt đầu như thế.
- Tớ đã bắt đầu cái gì ? - Arthur thì thào.
- Bắt đầu không vui với những niềm vui giống tớ, bắt đầu hạnh phúc theo cái kiểu mà tớ không hiểu nổi, bắt đầu buộc tớ cũng phải già đi nữa.
Brisson bước vào phòng khám, cùng đi là nữ y tá, đẩy theo chiếc xe chở máy chụp X-quang.
- Anh kia, ra ngoài ngay lập tức ! - Anh ta quát Paul bằng một giọng tức giận.
Paul nhìn anh ta từ đầu đến chân rồi đưa mắt về phía chiếc máy mà nữ y tá Cybile đang đặt vào vị trí ở đầu giường và quay sang nói với chị bằng một giọng điềm tĩnh :
- Cái máy này nặng cỡ bao nhiêu vậy ?
- Nặng đến mức khi phải đẩy cái của đáng ghét ấy đi tôi đau hết cả lưng.
Paul bất thình lình quay người lại và túm lấy cổ áo Brisson. Anh giải thích cặn kẽ một cách khá cương quyết cho gã bác sĩ về những sửa đổi trong nội quy của bệnh viện Mission San Perdo, sẽ có hiệu lực kể từ phút anh thả gã ra.
- Giờ thì anh đã hiểu những điều tôi nói chưa ? - Paul nói thêm trước cặp mắt thích thú của nữ y tá Cybile.
Được thả, Brisson rặn ra một tràng ho nhưng vội ngừng bặt ngay khi Paul vừa khẽ nhíu mày.
- Tôi thấy không có gì đáng phải lo ngại cả - mười phút sau, bác sĩ nội trú nói, sau khi đã xem những tấm phim gắn trên chiếc bảng được rọi sáng.
- Nhưng liệu một bác sĩ khác có thể thấy điều này đáng lo ngại không ? - Paul hỏi.
- Tất cả những chuyện này có thể đợi đến sáng mai - Brisson trả lời khô khan. - Ông bạn của anh chỉ bị choáng thôi.
Brisson ra lệnh cho nữ y tá đem cỗ máy trở lại phòng X-quang, nhưng Paul đã can thiệp.
- Bệnh viện chắc chẳng phải là nơi cuối cùng còn giữ được tính galăng, nhưng ta cứ thử một cái xem sao nhé ! - anh nói.
Che giấu một cách khó khăn cơn tức giận của mình, Brisson thừa hành, lấy lại chiếc xe đẩy từ tay Cybile. Anh ta vừa mất hút trong thang máy, nữ y tá bèn đập tay vào tấm kính ở quầy đón tiếp và ra hiệu cho Paul đến gặp chị.
- Cậu ấy đang ở trong tình trạng nguy hiểm phải không ? - Paul hỏi, mỗi lúc một thêm lo lắng.
- Tôi chỉ là y tá thôi, ý kiến của tôi có thực là quan trọng không ?
- Quan trọng hơn ý kiến của một số lang băm đấy - Paul nói để nữ y tá yên lòng.
- Thế thì anh nghe kỹ tôi nói đây - Cybile thì thầm. - Tôi cần công việc này, nếu có ngày anh kiện cái gã đần độn ấy ra toà thì tôi không thể ra làm chứng được đâu. Bọn họ cũng bao che cho nhau như giới cảnh sát vậy; trong trường hợp có sự cố, người nào nói ra thì sau đó có thể đi kiếm việc làm cả đời. Sẽ không có bệnh viện nào nhận họ hết. Chỉ có chỗ cho những người bênh vực lẫn nhau khi gặp rắc rối thôi. Cái bọn quan liêu ấy quên rằng ở chỗ chúng tôi, những chuyện rắc rối đều liên quan đến mạng người cả. Tóm lại, hai anh hãy chuồn khỏi đây đi, trước khi Brisson kịp giết chết bạn anh.
- Tôi không biết làm cách nào đây, chị bảo chúng tôi nên đi đâu ?
- Tôi rất muốn nói với anh rằng chỉ có kết quả mới là cái quan trọng, nhưng anh hãy tin theo linh cảm của tôi, trong trường hợp của bạn anh, thời gian cũng quan trọng lắm.
Paul đi đi lại lại cả trăm bước, tức giận với chính mình. Ngay khi họ vừa bước vào bệnh viện này, anh đã biết đó là sai lầm rồi. Anh cố lấy lại bình tĩnh, nỗi sợ đã khiến cho anh không tìm ra được giải pháp.
- Lauren ?
Paul vội vã đi đến bên chiếc giường, Arthur đang rên rỉ. Anh mở to mắt và cái nhìn của anh dường như hướng vào một thế giới khác.
- Rất tiếc, đó chỉ là tớ thôi - Paul nói và cầm tay bạn.
Giọng nói của Arthur đứt đoạn.
- Hãy lấy đầu tớ ra... để thề rằng... cậu sẽ không bao giờ nói cho cô ấy biết sự thật.
- Vào lúc này thì tớ thích lấy đầu tớ ra để thề hơn - Paul nói.
- Bởi vì cậu sẽ giữ lời hứa !
Đó là những lời nói cuối cùng của Arthur. Sự xuất huyết giờ đây đã nhấn chìm toàn bộ phần phía sau bộ não của anh. Để bảo vệ những trung khu thần kinh cốt tử chưa bị tổn hại, cỗ máy tuyệt vời đã quyết định ngừng hoạt động tất cả các trạm cuối của hệ thần kinh ngoại biên. Các trung khu thần kinh thị giác, lời nói, thính giác và vận động thôi không vận hành nữa. Lúc đó là hai giờ hai mươi phút theo đồng hồ treo tường ở phòng khám. Từ lúc này, Arthur chìm vào hôn mê.
9.
Paul đi đi lại lại trong đại sảnh. Anh lấy điện thoại di động của mình ở túi quần ra, nhưng ngay lập tức Cybile đã làm cho anh hiểu rằng không được sử dụng điện thoại ở bên trong toà nhà.
- Có cỗ máy khoa học nào mà bị rối loạn ở đây được, ngoài cái máy tự động bán đồ uống kia ? - anh kêu lên.
Cybile lắc đầu để nhắc lại lệnh cấm và chỉ cho Paul ra ngoài bãi đậu xe của khoa cấp cứu.
- Theo điều 2 của nội quy mới, - Paul nài nỉ - điện thoại của tôi được phép sử dụng trong đại sảnh.
- Cái nội quy ấy của anh chỉ có tác dụng với Brisson thôi, anh ra ngoài mà gọi điện đi. Nếu bảo vệ đi qua đây thì tôi sẽ bị đuổi việc đấy.
Paul càu nhàu rồi bước ra ngoài cánh cửa trượt.
Trong nhiều phút, Paul tiếp tục đi đi lại lại ở bãi đậu xe cấp cứu, nhìn vào danh mục điện thoại đang lần lượt hiện ra trên màn hình máy di động của anh.
- Mẹ kiếp - anh hạ giọng lẩm bẩm - đây là trường hợp bất đắc dĩ !
Anh ấn vào một nút và điện thoại lập tức nối đến một số máy đã được lưu lại từ trước.
- Bệnh viện Memorial đây, quý vị cần gì ? - nhân viên tổng đài hỏi.
Paul đòi được nói chuyện với khoa cấp cứu. Anh chờ đợi vài phút. Betty nhận máy. Có một chiếc xe cấp cứu, Paul giải thích cho nữ y tá, lúc chiều tối qua đã đưa đến chỗ các vị một người đàn ông trẻ bị xe môtô ba bánh đâm ở Union Square.
Betty lập tức hỏi người đối thoại rằng anh có phải là người nhà của nạn nhân không. Paul trả lời rằng anh là anh trai của nạn nhân, anh chẳng nói sai sự thật là bao. Nữ y tá nhớ rất rõ hồ sơ này. Bệnh nhân đã rời bệnh viện bằng phương tiện riêng, vào lúc chín giờ tối. Tình trạng sức khoẻ của anh ta lúc đó tốt.
- Không hẳn thế đâu, - Paul tiếp lời - chị có thể chuyển cho tôi nói chuyện với bác sĩ đã khám cho cậu ấy không ? Hình như đó là một phụ nữ. Đây là việc khẩn cấp - anh nói thêm.
Betty hiểu rằng có một vấn đề, hay đúng hơn là bệnh viện có nguy cơ gặp phải một vấn đề. Mười phần trăm bệnh nhân được tiếp nhận vào khoa cấp cứu phải trở lại bệnh viện trong vòng hai mươi tư giờ sau đó, do một sai lầm hoặc một sự đánh giá không đúng mức khi chẩn đoán bệnh. Chắc phải đợi đến lúc việc theo đuổi các vụ kiện gây tốn kém tiền bạc nhiều hơn là số tiền tiết kiệm được do giảm biên chế, ban lãnh đạo mới đành phải thi hành những biện pháp mà tập thể nhân viên y tế vẫn đòi hỏi không ngừng. Nữ y tá chúi đầu vào đống giấy tờ của mình, tìm bản lưu lại của Arthur.
Betty không phát hiện ra bất cứ thiếu sót nào trong biên bản khám bệnh của Arthur; yên tâm, chị gõ vào tấm kính, Lauren đang đi trong hành lang. Betty ra hiệu cho cô đến gặp chị, có một cú điện thoại gọi cô.
- Nếu đó là mẹ em thì chị nói là em không có thời giờ nhé. Lẽ ra em đã được về cách đây nửa tiếng rồi, vậy mà em vẫn còn hai bệnh nhân nữa phải khám.
- Nếu mẹ em mà gọi điện vào lúc hai giờ rưỡi sáng thế này thì chị sẽ chuyển máy cho em ngay cả khi em đang ở trong phòng mổ. Cầm lấy điện thoại đi, có vẻ quan trọng đấy.
Bối rối, Lauren đưa ống nghe lên tai.
- Tối qua, cô đã khám cho một người đàn ông bị môtô ba bánh đâm vào, cô có nhớ không ? - giọng trong máy hỏi.
- Vâng, tôi nhớ rất rõ - Lauren trả lời - anh ở bên cảnh sát à ?
- Không, tôi là bạn thân nhất của cậu ấy. Khi về nhà, bệnh nhân của cô bị choáng. Cậu ấy bất tỉnh.
Lauren cảm thấy tim mình đập nhanh hơn trong lồng ngực.
- Anh hãy gọi ngay số máy 911 và đưa anh ấy đến đây cho tôi ngay lập tức, tôi sẽ đợi anh ấy !
- Cậu ấy đã nằm viện rồi. Chúng tôi đang ở bệnh viện Mission San Perdo và tình hình hoàn toàn không ổn chút nào.
- Tôi không thể làm gì cho bạn của anh cả, nếu như anh ấy đã vào một bệnh viện khác - Lauren trả lời. - Các đồng nghiệp của tôi sẽ chăm sóc anh ấy rất tốt, tôi tin chắc là như vậy. Tôi có thể nói chuyện với họ nếu anh muốn, nhưng ngoài việc thông báo về hiện tượng tim đập nhanh dạnh nhẹ, tôi không có gì đặc biệt để nói cho họ cả, mọi thứ đều bình thường khi anh ấy ra khỏi đây.
Paul mô tả hoàn cảnh của Arthur; bác sĩ chịu trách nhiệm khẳng định rằng không có gì nguy hiểm nếu đợi đến sáng, nhưng Paul hoàn toàn không đồng ý với ý kiến này, phải là một con lừa mới không thấy rằng người bạn thân của anh đang ở trong tình trạng rất xấu.
- Tôi khó mà phản bác đồng nghiệp được nếu không thể làm điều tối thiểu là đích thân xem những tấm phim chụp X-quang. Kết quả chụp bằng máy scanner thế nào ?
- Không có máy scanner !
- Bác sĩ trực tên là gì ? - Lauren hỏi.
- Một gã bác sĩ Brisson nào đó - Paul nói.
- Patrick Brisson ?
- Trên tấm biển gã ta đeo có ghi chữ "Pat", có lẽ đúng vậy, cô có biết gã không ?
- Tôi biết anh ta hồi học năm thứ tư trường Y, đó quả thật là một con lừa.
- Tôi phải làm gì đây ? - Paul van vỉ.
- Tôi tuyệt đối không có quyền can thiệp, nhưng tôi có thể thử nói chuyện điện thoại với anh ta. Nếu Brisson đồng ý, chúng tôi có thể tổ chức chuyển viện cho bạn anh và đưa anh ấy đi scan. Máy chỗ chúng tôi làm việc hai mươi tư trên hai mươi tư giờ. Tại sao các anh không đến đây ngay từ đầu ?
- Chuyện này dài dòng lắm, mà chúng ta lại có ít thời gian.
Paul nhận thấy gã bác sĩ nội trú đi vào quầy trực của Cybile; anh đề nghị Lauren giữ máy và chạy vào trong đại sảnh. Anh thở hổn hển chạy đến trước mặt Brisson và ấn máy di động của anh vào tai anh ta.
- Có điện thoại gọi cho anh - Paul nói.
Brisson sửng sốt nhìn Paul và nhận máy.
Việc trao đổi quan điểm giữa hai bác sĩ diễn ra ngắn gọn. Brisson nghe Lauren và cảm ơn về sự giúp đỡ mà anh ta không đề nghị. Tình trạng bệnh nhân của anh ta ở trong tầm kiểm soát, khác hẳn tình trạng của cái người theo bệnh nhân này đến đây; gã đàn ông đã quấy rầy Lauren một cách vô ích ấy là một kẻ hơi có xu hướng loạn tâm. Để rảnh nợ với gã này, suýt nữa anh ta đã phải gọi cảnh sát. Bây giờ Lauren đã yêm tâm rồi thì anh ta sẽ dập máy, rất vui vì sau nhiều năm lại được biết tin cô, và hy vọng được gặp lại cô, để cùng đi uống cà phê hay biết đâu lại cùng ăn tối nữa. Anh ta tắt điện thoại và nhét máy vào túi áo của mình.
- Thế nào ? - Paul hỏi, chân đã lấn quá đường kẻ vàng.
- Tôi sẽ trả lại điện thoại cho anh khi anh đi khỏi đây ! - Brisson nói với vẻ kiêu kỳ. - Việc sử dụng điện thoại di động bên trong toà nhà bị cấm. Cybile hẳn là đã truyền đạt điều này với anh.
Paul đứng sừng sững trước mặt gã bác sĩ và chặn đường anh ta.
- Thôi, được rồi, tôi trả anh máy, nhưng anh hứa với tôi là sẽ đi ra bãi đậu xe nếu còn định gọi điện thoại nữa chứ ? - Brisson nói tiếp một cách bớt kiêu ngạo đi nhiều.
- Đồng nghiệp của anh nói gì ? - Paul vừa hỏi vừa giật máy di động của mình từ tay gã bác sĩ.
- Nói là cô ấy tin tưởng tôi, điều mà rõ ràng không phải ai cũng vậy.
Brisson dùng ngón tay chỉ hàng chữ xác định giới hạn của khu vực dành riêng cho nhân viên y tế.
- Nếu anh còn vượt sang phía bên này vạch một lần nữa, dù chỉ để đi mười centimet vào cái hành lang này thôi, Cybile sẽ gọi cảnh sát và tôi sẽ cho tống cổ anh đi. Tôi hy vọng là tôi đã nói khá rõ rồi đấy.
° ° °
Lauren vừa cho người bị thương cuối cùng trong cuộc ẩu đả ở quán bar vào nằm viện.
Một nữ y tá thực tập đề nghị cô khám cho bệnh nhân của cô ta. Lauren nổi đoá : chỉ cần nhìn bảng giờ là đủ biết rằng ca trực của cô kết thúc vào hai giờ sáng. Vậy thì vào lúc đã gần ba giờ, người mà cô y tá trẻ yêu cầu không thể vẫn còn là Lauren được. Emily Smith nhìn Lauren, mặt nghệt ra.
- Thôi, được rồi, bệnh nhân của cô ở phòng nào ? - Cô hỏi và nhẫn nhịn đi theo cô y tá.
Một chú bé bị sốt cao, kêu đau tai. Lauren khám và chẩn đoán là em bị viêm tai nặng. Cô kê đơn thuốc và yêu cầu Betty giúp cô thực tập trẻ chăm sóc người bệnh theo đúng như cần thiết. Người mệt lử, cuối cùng cô rời khoa cấp cứu, thậm chí không dành thời gian để cởi áo blouse ra nữa.
Đi ngang qua bãi đậu xe vắng ngắt, Lauren mơ được ngâm mình trong bồn tắm, mơ một cái chăn và một cái gối to đùng. Cô nhìn đồng hồ, mười sáu tiếng nữa bắt đầu ca trực sau của cô, lẽ ra cô phải ngủ gấp đôi để còn đứng vững được cho đến cuối tuần.
Cô ngồi vào sau tay lái và cài thắt lưng an toàn. Ôtô đi vào Đại lộ Potrero và rẽ sang phố 23.
Lauren thích lái xe đi ở San Francisco vào lúc nửa đêm, khi thành phố yên tĩnh phô bày trước mắt cô. Con đường rải nhựa trải ra dưới bánh xe của cô. Cô bật đài và chuyển sang tốc độ ba. Chiếc Triumph lướt đi dưới vòm trời sao mùa hè lộng lẫy.
Các cơ quan duy tu của thành phố đang sửa hệ thống thoát nước ở ngã tư phố MC Allister. Người phụ trách công trường nghiêng người vào cửa chiếc Triumph, nói rằng bọn họ chỉ làm vài phút nữa là xong. Phố này đường một chiều, Lauren đã nghĩ đến chuyện đi lùi lại, nhưng sự xuất hiện của một chiếc ôtô cảnh sát đến chắn lại khu vực mà công nhân đang làm việc đã khiến cho Lauren phải từ bỏ ý định này. Bệnh viện Mission San Perdo hiện lên trong gương chiếu hậu của cô, bệnh viện này nằm ở phía sau lưng cô, cách hai khối nhà.
Người lái chiếc xe tải của thành phố khép lại tấm bạt xe rồi trèo lên buồng lái. Trên một phía thành xe có quảng cáo về an toàn giao thông, nhắc nhở các công dân phải cảnh giác đề phòng. "Chỉ cần một giây sơ ý..."
Viên cảnh sát ra hiệu cho Lauren là cô có thể đi qua. Cô lái xe len vào giữa những cỗ máy của công trường giờ đã được dẹp khỏi khu vực giữa đường để xếp lại dọc vỉa hè. Nhưng đến ngã tư, cô bèn thay đổi hướng đi. Trong trí nhớ của một bác sĩ nội trú, cô chưa từng biết đến một sinh viên nào tự yêu mình hơn Brisson.
Dựa vào tấm cửa kính trông ra bãi đậu xe vắng ngắt, Paul suy nghĩ. Một chiếc xe cấp cứu mang nhãn hiệu của bệnh viện tắt đèn xoay đỗ ở khu vực dành cho xe cấp cứu. Người lái xe bước xuống, khoá cửa xe và đi vào đại sảnh của bệnh viện. Sau khi chào nữ y tá trực, anh ta treo chùm chìa khoá của mình vào một cái đinh nhỏ đóng trên tường ở quầy trực. Cybile trao cho anh ta chìa khoá một phòng khám, anh cảm ơn cô và vào ngủ trong một phòng trống.
Qua ô cửa kính, Paul ngắm nghía chiếc xe cứu thương. Một chiếc Triumph màu xanh lá cây đến đỗ ngay cạnh đó.
Anh lập tức nhận ra người phụ nữ đang đi những bước dứt khoát về phía cánh cửa tự động của khoa cấp cứu. Đến giữa bãi đậu xe, cô quay ngược lại, cởi áo blouse ra và cuộn tròn ném vào thùng xe ôtô của cô. Một lát sau, cô bước vào đại sảnh. Paul ra gặp cô.
- Bác sĩ Kline, phải không ạ ?
- Anh là người đã gọi điện thoại cho tôi à ?
- Vâng, sao cô biết ?
- Trong cái đại sảnh này chỉ có mỗi mình anh. Thế còn anh, làm sao mà anh nhận ra tôi ?
Lúng túng, Paul dán mắt vào mũi giầy.
- Suốt hai tiếng đồng hồ rồi, tôi đã cầu khấn tất cả thánh thần trên đời đến giúp tôi, cô là vị chúa cứu thế đầu tiên xuất hiện... tôi đã nhìn thấy cô cởi áo blouse ở ngoài bãi đậu xe.
- Brisson có ở quanh đây không ?
- Không xa lắm, ở trên gác.
- Thế còn anh bạn của anh ?
Paul chỉ phòng đầu tiên phía sau quầy trực của y tá.
- Đi thôi ! - Lauren nói và kéo anh đi.
Nhưng Paul lưỡng lự, anh vừa cãi cọ chút xíu với Brisson và gã này đã cấm anh không được vượt qua đường kẻ vàng ở lối vào hành lang, nếu không thì sẽ gọi cảnh sát đến trục xuất anh khỏi đây. Anh tự hỏi nếu anh vi phạm, không biết Cybile có thực hiện quyết định đó không, Lauren thở dài, cái cung cách hống hách tiểu nhân này rất phù hợp với gã sinh viên y nội trú mà cô quen biết hồi học năm thứ tư. Cô đề nghị Paul thôi không cần làm tình hình phức tạp thêm nữa, cô sẽ đi tìm một mình và sẽ tự giới thiệu là bạn gái của bệnh nhân.
- Họ sẽ cho tôi vào đấy - cô nói để anh yên tâm.
- Cô cứ thử gọi cậu ấy bằng tên riêng thì tốt hơn, gọi là "bệnh nhân" có thể gây nghi ngờ.
Paul sợ rằng Brisson sẽ không bị lừa bởi trò gian lận này.
- Chúng tôi đã không gặp nhau từ nhiều năm nay rồi, và cứ nhìn vào việc anh ta bỏ ra bao nhiêu thời gian để tự ngắm mình, tôi ngờ rằng anh ta chẳng nhận ra được mặt của mẹ đẻ anh ta ấy chứ.
Lauren ra trình diện ở quầy trực của Cybile. Nữ y tá trực đặt cuốn sách xuống và rời cái buồng kính của mình. Khu vực phía sau chị chỉ có nhân viên y tế mới được vào. Nhưng sau hai mươi năm trong nghề, chị có được một sự nhạy bén chắc chắn : cô gái trẻ mà chị đang dẫn ra phòng khám có là bạn gái của bệnh nhân hay không thì cũng không quan trọng lắm, cô ấy trước hết là bác sĩ. Brisson không thể mắng mỏ gì chị được.
Lauren bước vào căn phòng mà Arthur đang nằm. Cô xem xét những chuyển động của lồng ngực anh. Nhịp thở chậm và đều, màu da bình thường. Lấy cớ muốn cầm tay bạn trai của mình, cô bắt mạch của anh. Tim anh có vẻ đập chậm hơn so với lần khám trước, dù rằng mạch đập cũng đã tăng lên dưới những ngón tay cô. Nếu cô kéo được anh ra được khỏi tình trạng khó khăn này, cô sẽ yêu cầu anh phải đi kiểm tra điện tâm đồ, dù muốn hay không.
Cô đến gần tấm bảng được rọi sáng, trên có treo những tấm phim chụp X-quang sọ não. Cô hỏi Cybile rằng có phải "những tấm ảnh" chụp bộ não chồng chưa cưới của cô treo ở trên tường đó không.
Cybile nhìn Lauren hoài nghi rồi ngước mắt nhìn trời.
- Tôi để chị ở lại đây với "chồng chưa cưới" của chị; chị cần được riêng tư.
Lauren nồng nhiệt cảm ơn nữ y tá,
Bước đến cửa, nữ y tá quay người lại và nhìn Lauren lần nữa.
- Chị có thể xem xét những tấm phim chụp gần hơn nữa, bác sĩ ạ, điều duy nhất mà tôi khuyên chị là hãy kết thúc việc đánh giá tình trạng chung của bệnh nhân trước khi Brisson xuống đây. Tôi không muốn gặp phiền phức. Nói vậy, tôi hy vọng chị là một bác sĩ giỏi chứ không dở như khi chị làm kịch sĩ.
Lauren nghe tiếng bước chân xa dần trong hành lang. Cô đến gần chiếc bảng để nghiên cứu kỹ lưỡng những tấm phim chụp X-quang. Brisson hoá ra còn bất tài hơn là cô tưởng. Một sinh viên y nội trú loại khá sẽ nghi ngờ có sự tràn máu ở phía sau sọ não. Người đàn ông nằm trên chiếc giường này phải được phẫu thuật càng sớm càng tốt, cô sợ rằng não của anh đã bị tổn hại vì quãng thời gian bỏ phí. Để khẳng định chẩn đoán của cô, cần phải khẩn cấp đưa anh ta đi chụp bằng máy scanner.
Tay nhét túi áo blouse, Brisson bước vào quầy trực của Cybile.
- Anh ta vẫn còn ở đây à ? - Brisson ngạc nhiên chỉ vào Paul đang ngồi trên một chiếc ghế ở góc bên kia của đại sảnh.
- Vâng, và bạn của anh ta vẫn ở trong phòng, thưa bác sĩ.
- Anh ta có tỉnh dậy không ?
- Không, nhưng anh ta thở rất tốt và các hằng số của anh ta ổn định, tôi vừa lấy xong.
- Chị nghĩ liệu có nguy cơ có khối máu bên trong sọ não không, theo chị ? - Brisson hỏi bằng một giọng khẽ khàng.
Cybile chúi đầu vào đống giấy tờ để tránh cái nhìn của gã bác sĩ, niềm tin của chị vào con người đang đến sát giới hạn chịu đựng được.
- Tôi chỉ là y tá thôi, anh đã lưu ý tôi về điều này khá nhiều rồi kể từ khi anh đến bệnh viện này, thưa bác sĩ.
Brisson lập tức chuyển ngay sang thái độ tự tin hơn.
- Chị đừng có hỗn ! Nếu tôi muốn, tôi có thể làm cho chị phải chuyển đi nơi khác ! Anh chàng kia chỉ bị choáng thôi, anh ta sẽ hồi phục. Đến sáng, để phòng ngừa, chúng ta sẽ cho anh ta đi chụp bằng máy scanner. Chị điền cho tôi một cái phiếu di chuyển bệnh nhân và tìm cho tôi một cái máy scanner còn trống chỗ ở một bệnh viện quanh đây hay tại một trung tâm chụp hình y khoa. Nói rõ là đích thân bác sĩ Brisson muốn việc xét nghiệm này được thực hiện trong buổi sáng.
- Tôi sẽ không quên đâu - Cybile lẩm bẩm.
Đi sâu vào hành lang, Brisson nghe nữ y tá kêu to lên rằng chị đã cho phép một phụ nữ, người nhà của bệnh nhân, vào thăm bệnh nhân trong phòng khám.
- Vợ anh ta đang ở đây à ? - Brisson quay lại hỏi.
- Bạn gái của anh ta !
- Đừng có hét lên thế, Cybile, chúng ta đang ở trong một bệnh viện !
- Ở đây chỉ có chúng ta thôi, thưa bác sĩ - Cybile nói. - Thế mới may chứ - chị lẩm bẩm khi Brisson đã đi xa.
Nữ y tá quay lại quầy trực. Paul nhìn chị, chị nhún vai. Anh nghe thấy tiếng cửa phòng khám khép lại theo bước chân gã bác sĩ. Do dự vài giây, anh đứng lên và quả quyết bước vượt qua cái đường kẻ vàng đáng ngại đấy.
Brisson đến chào thiếu phụ trẻ đang ngồi trên chiếc ghế đẩu cạnh chồng chưa cưới của mình.
- Chào Lauren. Đã lâu lắm rồi nhỉ.
- Cậu không thay đổi - cô trả lời.
- Cô cũng thế.
- Cậu làm trò gì với bệnh nhân này vậy ?
- Chuyện này thì có thể ảnh hưởng gì đến cô được ? Cô thiếu bệnh nhân ở bên Memorial à ?
- Tôi đến đây vì người này là bệnh nhân của tôi lúc chiều tối qua, tôi biết điều đó đối với cậu có thể xem ra khó hiểu, nhưng trong chúng ta có một số người làm cái nghề này vì yêu ngành y.
- Ý cô là : có những người sợ gặp rầy rà vì đã đánh giá không đúng mức bệnh trạng của một người bị thường trước khi để anh ta ra viện chứ gì.
Giọng Lauren cao lên một bậc và vang lên trong hành lang.
- Cậu nhầm rồi, nhưng rõ ràng đó không phải là lầm lẫn nghiêm trọng nhất của cậu ngày hôm nay. Tôi đến đây vì anh bạn của người này gọi điện thoại cầu cứu tôi, và chỉ cần qua điện thoại thôi tôi cũng có thể hiểu rằng cậu vẫn cứ chẩn đoán nhầm.
- Có lẽ cô định xin tôi điều gì hay sao mà lại nhã nhặn thế ?
- Xin cậu ấy à, làm gì có chuyện, tôi khuyên cậu đấy ! Tôi sẽ gọi điện sang bên Memorial và yêu cầu người ta gửi cho tôi một chiếc xe cấp cứu để đưa người này về lại đó, chắc sẽ phải tiến hành chọc hút nội sọ cho anh ta càng sớm càng tốt. Cậu sẽ để yên cho tôi can thiệp, và đổi lại, tôi để cho cậu sửa bản báo cáo khám bệnh của cậu. Đích thân cậu sẽ viết yêu cầu chuyển viện cho bệnh nhân và sếp của cậu sẽ khen ngợi cậu. Nghĩ mà xem, một bệnh nhân được cứu sống thì không thể làm hại công danh sự nghiệp của cậu được.
Brisson bình tĩnh chịu trận, anh ta tiến đến sát Lauren và giật những tấm phim chụp X-quang khỏi tay cô.
- Tôi đã làm điều này rồi nếu như tôi nghĩ rằng đối với tình trạng sức khoẻ của anh ta thì những chi phí đó là có cơ sở. Nhưng sự thể không phải vậy, anh ta không sao cả, sáng mai anh ta sẽ tỉnh dậy với một cơn đau đầu khó chịu thôi. Trong lúc chờ đợi, tôi cho phép cô ra khỏi bệnh viện của tôi và trở về bệnh viện của cô.
- Cái chỗ này không hơn gì một phòng khám làm phúc ! - Lauren tiếp lời.
Cô giật một tấm phim trong tay Brisson và đính lên chiếc bảng được rọi sáng. Tấm phim chụp trực diện. Cô định vị tuyết tùng vôi hoá. Cái tuyến nhỏ này lẽ ra phải nằm ngay sát đường trung tuyến phân cách hai bán cầu não, thế nhưng trên phim thì nó lại bị lệch đi. Điều đó dẫn đến phỏng đoán rằng có một sức ép không bình thường ở phía sau não.
- Cậu không có khả năng giải thích hiện tượng bất thường này à ? - cô kêu lên.
- Đó chỉ là một tì vết trên phim, máy chụp di động có chất lượng kém ! - Brisson trả lời với giọng của một cậu bé bị bắt quả tang đang thò tay vào lọ mứt.
- Tuyến tùng bị lệch khỏi đường trung tuyến, và cách giải thích duy nhất chỉ có thể là sự hình thành một khối máu vách-chẩm. Sự ngoan cố của cậu sẽ giết chết người này và tôi thề là tôi sẽ làm cho cậu phải hối tiếc về điều đó.
Brisson trấn tĩnh lại, mặt vênh lên kiêu ngạo, anh ta bước đến bên Lauren, buộc cô phải lùi ra cửa phòng.
- Trước hết, cô phải biện minh được sự xâm nhập của cô vào nơi này, sự có mặt của cô tại một phòng khám bệnh mà cô chẳng có quyền cũng không được phép vào. Trong vòng năm phút nữa tôi sẽ gọi điện thoại cho cảnh sát đến tống cổ cô đi, trừ khi cô muốn chúng ta cùng đi đâu đó uống cà phê thì hơn ? Tối nay rất yên tĩnh, tôi có thể vắng mặt một lát được.
Lauren khinh bỉ nhìn gã bác sĩ, môi cô run lên vì tức giận. Dựa người vào tường, cánh tay chểnh mảng đặt cao hơn vai cô, Brisson giơ mặt lại gần cô. Cô đẩy anh ta ra không nể nang :
- Patrick, từ hồi ở trường cậu đã lộ tính dê và thói ghen ghét rồi. Người mà cậu làm cho phải thất vọng nhất trong đời là chính cậu và cậu đã quyết định bắt người khác phải trả giá về điều đó. Nếu cậu cứ tiếp tục, người đàn ông này có qua khỏi được thì cũng phải đi xe lăn, trong trường hợp tốt nhất.
Bằng một cử chỉ hung hăng, Brisson đuổi cô ra phía cửa.
- Cút ra khỏi đây trước khi tôi gọi người đến bắt cô. Xéo đi, và chuyển lời chào của tôi đến Fernstein nhé; bảo với ông ta rằng bất chấp sự đánh giá khắt khe của ông ta, tôi vẫn xoay xở rất tốt. Còn người này - Brisson nói và chỉ vào Arthur - anh ta ở lại đây, đó là bệnh nhân của tôi !
Mạch máu của Brisson nổi phồng lên vì giận dữ. Lauren đã bình tĩnh trở lại. Cô đặt tay vẻ thương hại lên vai gã bác sĩ.
- Thề có Chúa, tôi thương cho những người thân của cậu; tôi xin cậu, nếu trong cậu vẫn còn có chút ít tình người, hãy cứ sống độc thân !
Paul đột ngột bước vào phòng, ánh mắt như phát cuồng vì xúc động.
- Tôi vừa nghe các vị nói là Arthur sẽ bị liệt, có phải không ?
Anh đang nhìn Brisson với ước muốn không cưỡng được là chẹt cổ gã này thực sự, thì đến lượt nữ y tá Cybile xuất hiện. Chị xin lỗi gã bác sĩ, chị đã làm tất cả những gì có thể để giữ Paul lại, nhưng chị không có sức mạnh thể chất cần thiết để ngăn anh ta đi vào hành lang.
- Lần này các người đã đi quá xa, cả hai người, Cybile, gọi cảnh sát ngay ! Tôi sẽ đâm đơn kiện.
Brisson khoái trá, nữ y tá tiến lại gần, rút tay ra khỏi túi áo và nhét một cái gì đó vào tay Lauren. Cô bác sĩ trẻ nhận biết được ngay tức khắc vật này và hiểu ý định của nữ y tá. Cô cảm ơn nữ y tá bằng ánh mắt đồng loã, và không chút do dự, cô cắm kim tiêm vào gáy Brisson và ấn bơm tiêm.
Gã bác sĩ nhìn cô, sững sờ, anh ta lùi lại, định rút mũi tiêm ra khỏi gáy, nhưng đã quá muộn và sàn nhà đã hụt hẫng dưới chân anh ta. Lauren bước tới một bước để giữ cho anh ta khỏi ngã.
- Valium và Hypnovel ! Anh ta sẽ du hành một chuyến rất dài - Cybile nhũn nhặn thông báo.
Được Paul giúp đỡ, Lauren đặt Brisson nằm xuống đất.
Không phải là một cái đèn nêông mắc trên trần nhà nữa, mà là một cái máy bay lắp trong vòng quay. Tại sao bố không muốn mình trèo vào khoang ? Ở trong quầy bán vé, người điều khiền vòng quay đã rung chuông, một lượt quay sắp bắt đầu. Tất cả trẻ con đều được chơi còn mình thì phải ở lại đây, chơi trên bãi cát. Bởi vì một đống cát chẳng mất tí tiền nào. Một lượt quay giá ba mươi xu, nhiều tiền đấy, giá tiền phải trả để đi đến tận những ngôi nhà là bao nhiêu ?
Lauren nhét xuống dưới đầu Brisson một cái chăn gập lại mà Cybile đã đưa cho cô.
Cô ta đẹp thật, người đàn bà trước mặt mình, với cái túm tóc đuôi ngựa, hai gò má và cặp mắt long lanh của cô ta. Cô ta chẳng nhìn đến mình mấy. Thèm muốn không phải là một tội ác. Mình muốn cô ta lên máy bay với mình. Mình sẽ để bố mẹ mình ở lại với cái sự tầm thường khiến họ yên lòng ấy. Mình ghét những kẻ xung quanh mình, những kẻ chẳng có chuyện gì cũng cười, động một tí là rửng mỡ. Tối quá.
- Anh ta ngủ à ? - Paul thì thầm.
- Có vẻ như vậy lắm - Lauren đang kiểm tra mạch của Brisson, trả lời.
- Chúng ta làm gì bây giờ ?
- Anh ta sẽ ngủ khoảng nửa tiếng, tôi muốn phi tang mọi thứ trước khi anh ta tỉnh dậy thì hơn. Anh ta sẽ cáu kỉnh lắm đấy. Các vị đi khỏi đây, cả ba người đi. Tôi sẽ ra lấy ôtô của tôi, chúng ta sẽ đặt bạn anh ở phía sau rồi phóng đến bệnh viện Memorial, không được để phí phút nào.
Cô ra khỏi phòng. Nữ y tá mở chốt bánh xe chiếc giường mà Arthur đang nằm và Paul giúp cô đẩy giường ra ngoài phòng khám, chú ý không đè lên những ngón tay của Brisson đang ngủ lơ mơ dưới đất. Bánh xe kêu kèn kẹt trên tấm vải trải sàn ở đại sảnh. Paul đột ngột bỏ ra ngoài.
Lauren đóng cửa thùng xe Triumph lại, và bất ngờ nhìn thấy Paul chạy ngang qua bãi đậu xe. Anh vượt lên ngang cô và kêu lên "tôi sẽ đến ngay" rồi tiếp tục chạy nước rút. Cô vừa xỏ áo blouse vào vừa bối rối nhìn theo anh đang xa dần :
- Paul, quả thực bây giờ không phải lúc...
Vài phút sau, một chiếc xe cấp cứu dừng lại trước mặt cô. Cánh cửa phía không có tay lái mở ra và Paul, ngồi ở vị trí người lái, tươi cười chào đón cô.
- Tôi chở cô đi nhé ?
- Anh biết lái loại xe này à ? - Cô vừa trèo lên xe vừa hỏi.
- Tôi là chuyên gia đấy !
Họ dừng lại dưới mái hiên. Cybile và Paul chuyển Arthur nằm trên cáng lên khoang sau của xe cấp cứu.
- Tôi cũng muốn đi theo các vị lắm - Cybile thở dài, nghiêng người vào cửa xe phía Paul, nói.
- Cảm ơn về tất cả - anh đáp.
- Không có gì, tôi sẽ mất việc, nhưng hiếm khi tôi được tiêu khiển đến thế. Nếu các buổi tối của anh đều thú vị như vậy thì gọi điện cho tôi nhé, tôi sẽ có thời gian rỗi.
Paul lấy chùm chìa khoá trong túi áo ra và trao lại cho nữ y tá.
- Tôi đã khoá cửa phòng khám lại, chỉ để đề phòng trường hợp anh ta dậy hơi sớm quá thôi mà !
Cybile nhận chùm chìa khoá, nụ cười trên môi. Chị đập khẽ vào cửa xe như người ta thường đập vào mông ngựa để ra lệnh cho nó lên đường.
Còn lại một mình giữa bãi đậu xe vắng ngắt, Cybile nhìn thấy chiếc xe cấp cứu rẽ ở góc phố. Chị dừng lại trước cánh cửa tự động. Dưới chân chị là tấm lưới sắt chắn cống tháo nước mưa. Chị cầm chùm chìa khoá mà Paul đã đưa lại cho chị và để nó rơi khỏi tay mình.
- Đi bằng ôtô của tôi, - Lauren nói - chúng ta sẽ được kín đáo hơn.
- Cô đã nói với tôi là chúng ta không được để phí phút nào cơ mà ! - Paul phản đối và bật loạt đèn hiệu của xe cấp cứu lên.
Họ lao vút đi, nếu mọi việc đều ổn thoả, chỉ khoảng mười lăm phút nữa, họ sẽ có mặt ở bệnh viện Memorial.
- Thật là một đêm lạ lùng ! - Lauren thốt lên.
- Theo cô, Arthur sau này có nhớ lại được cái gì không ?
- Một vài mảnh ý thức chắp vá lại với nhau. Tôi không thể đảm bảo với anh rằng tất cả những cái đó sẽ tạo thành một chuỗi liên kết.
- Có nguy hiểm không nếu gợi dậy những kỷ niệm của một người đã từng bị hôn mê kéo dài ?
- Tại sao lại nguy hiểm ? - Lauren hỏi. - Hôn mê thường đi liền theo các chấn thương sọ não. Có thể bộ não bị tổn hại, có thể không. Cũng có khi một số bệnh nhân bị hôn mê mà người ta không hiểu vì sao nữa. Y học hãy còn chưa am hiểu lắm trong những vấn đề liên quan đến bộ não.
- Cô nói về chuyện đó mà cứ như nói về bộ chế hoà khí của ôtô vậy.
Thú vị, Lauren nghĩ tới chiếc xe Triumph của cô đang phải để lại ở bãi đậu xe, và cô cầu trời để không gặp phải Brisson khi đến lấy lại nó. Gã này dám nằm ngủ trong xe của cô để đợi đến khi cô trở lại lắm.
- Vậy nếu ta thử kích thích trí nhớ của một người đã từng bị hôn mê, ta sẽ không gây bất cứ nguy hiểm gì cho họ chứ ?
- Đừng lẫn lộn chứng quên lãng với hôn mê, cái đó không liên quan gì đâu. Thường có hiện tượng là một người không thể nhớ nổi những sự kiện xảy ra trước cú sốc khiến người đó bị hôn mê. Nhưng nếu việc mất trí nhớ lan sang đến những giai đoạn rộng hơn, thì nó thuộc về một thương tổn khác mà người ta gọi là chứng quên lãng, và cái này có những nguyên nhân riêng của nó.
Trong lúc Paul suy nghĩ, Lauren quay lại quan sát Arthur.
- Anh bạn của anh còn chưa bị hôn mê đâu, anh ấy chỉ mới bất tỉnh thôi.
- Theo cô, người ta có thể nhớ lại được những chuyện xảy ra khi người ta bị hôn mê không ?
- Có lẽ nhớ được một vài tiếng động xung quanh mình ? Cái đó cũng hơi giống như khi ta ngủ, chỉ khác là ngủ sâu hơn thôi.
Paul suy nghĩ cả ngàn lần trước khi quyết định hỏi cái câu cứ chực bật ra trên môi anh.
- Thế nếu ta mắc chứng mộng du thì sao ?
Tò mò, Lauren nhìn anh. Paul là người mê tín và có một giọng nói nhỏ nhắc anh rằng anh đã thề giữ một bí mật; người bạn thân nhất của anh đang nằm trên cáng, bất tỉnh, vì vậy, anh đành chấm dứt những câu hỏi của mình một cách miễn cưỡng.
Lauren quay lại lần nữa. Nhịp thở của Arthur sâu và đều đặn. Nếu phim chụp sọ não của anh không cho thấy một dấu hiệu tồi như vậy, có thể tưởng là anh đang ngủ.
- Anh ấy trông có vẻ khá đấy ! - Lauren nói và quay trở lại vị trí cũ.
- À, đó là một gã rất khá ! Tuy rằng cũng có khi cậu ta chọc tức tôi từ sáng đến tối !
- Tôi nói về tình trạng sức khoẻ của anh ấy cơ mà ! Nhìn hai anh cạnh nhau, trông có vẻ như là một đôi đã lâu năm ấy nhỉ.
- Bọn tôi như hai anh em vậy - Paul lầm bầm.
- Anh không muốn báo tin cho bạn gái của anh ấy à, tức là tôi muốn nói đến cô bạn gái thật ấy.
- Cậu ấy độc thân, và tuyệt đối chớ có hỏi tôi là tại sao nhé !
- Tại sao ?
- Cậu ấy có cái khiếu tự đặt mình vào những tình huống phức tạp.
- Chẳng hạn như ?
Paul nhìn Lauren hồi lâu, quả thật nét cười ánh lên trong đôi mắt của cô là độc nhất vô vị.
- Thôi bỏ qua chuyện đó đi ! - anh nói và lắc đầu.
- Rẽ sang phải nhé, ở chỗ này đang có công trường - Lauren lại nói. - Tại sao anh cứ hỏi tôi bao nhiêu điều về hôn mê như vậy ?
- Tự nhiên thế thôi !
- Anh làm nghề gì ?
- Tôi là kiến trúc sư.
- Như anh bạn anh à ?
- Làm sao mà cô biết ?
- Anh ấy đã nói với tôi như vậy chiều hôm qua.
- Chúng tôi đã cùng nhau lập công ty. Cô có trí nhớ tốt đến mức nhớ được đến cả nghề nghiệp của tất cả các bệnh nhân của mình.
- Kiến trúc sư là một nghề đẹp - Lauren nói khẽ.
- Điều ấy còn tuỳ thuộc vào khách hàng.
- Đối với chúng tôi thì cũng gần như thế - cô vừa cười vừa nói.
Xe cấp cứu tiến gần đến bệnh viện. Paul để còi cấp cứu hú lên một tiếng ngắn và ra trình diện trước lối vào dành cho xe cấp cứu. Nhân viên bảo vệ ấn nút nâng thanh chắn.
- Tôi rất thích được đi cửa ưu tiên - anh hớn hở nói.
- Anh hãy dừng lại trước cổng, nghịch còi xe lần nữa đi thì các nhân viên tải thương sẽ ra đưa anh bạn vào.
- Xa xỉ thật !
- Đây chỉ là một bệnh viện thôi.
Anh dừng xe ở chỗ mà Lauren chỉ. Hai nhân viên tải thương đã ra đón họ.
- Tôi đi với họ - Lauren nói. - Anh đi đỗ xe đi, tí nữa tôi sẽ gặp lại anh ở phòng đợi nhé.
- Cảm ơn về tất cả những việc cô làm - Paul nói.
Cô mở cửa và ra khỏi xe.
- Có ai đó gần gũi với anh đã từng bị hôn mê à ?
Paul nhìn thẳng vào cô.
- Đúng là một người rất gần đấy ! - Paul trả lời.
Lauren đi theo cáng vào khoa cấp cứu.
- Dù sao thì hai anh chị cũng có cái lối giao du với nhau thật kỳ cục. Anh chị sinh ra để hợp nhau đấy ! - anh nói khẽ khi nhìn theo cô đi xa dần vào đại sảnh.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro