Multinationales
LỜI MỞ ĐẦU
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã trải qua nhiều giai đoạn. Trong giai đoạn độc quyền chủ nghĩa, một biểu hiện quan trọng của chủ nghĩa tư bản là sự ra đời của các tổ chức độc quyền. Khi các tổ chức này bành trướng các hoạt động của mình ra khỏi phạm vi biên giới một quốc gia, chúng trở thành các tổ chức độc quyền quốc tế, hay tổ chức độc quyền xuyên quốc gia.
Ngày nay, các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia tồn tại dưới hình thức mới, các công ty xuyên quốc gia. Các công ty này có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế thế giới và ngày càng trở thành lực lượng cơ bản vận hành nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy các công ty xuyên quốc gia đã trở thành chủ đề thu hút sự quan tâm của không chỉ các học giả, mà cả các doanh nhân và giới chính khách của hầu hết các quốc gia.
Các công ty xuyên quốc gia của chủ nghĩa tư bản hiện đại được xem như là một hình thức vận động mới của độc quyền tư bản chủ nghĩa. Việc nghiên cứu các công ty xuyên quốc gia nhằm hiểu rõ thêm đặc điểm của chủ nghĩa tư bản ngày nay.
Xét ở góc độ rộng hơn các công ty xuyên quốc gia chính là hình thức vận động của quan hệ sản xuất quốc tế. Việc nghiên cứu các công ty xuyên quỗc gia sẽ giúp ta hiểu rõ sự tác động của chúng tới nền kinh tế Việt Nam và qua đó có các giải pháp đúng đắn để phát triển nền kinh tế nước ta. Chính vì vậy, trong phạm vi một bài đề án kinh tế chính trị, đề tài " Bản chất và vai trò của các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia" nhằm có được cái nhìn đúng đắn hơn về các công ty xuyên quốc gia.
NỘI DUNG
1. Bản chất và quá trình phát triển của các công ty xuyên quốc gia
1.1. Khái niệm, quá trình hình thành và phát triển
a.Khái niệm
Có nhiều quan niệm khác nhau về các công ty xuyên quốc gia đồng thời cũng tồn tại nhiều tên gọi khác nhau để chỉ các công ty hoạt động sản xuất kinh doanh quốc tế . Song có thể hiểu các công ty xuyên quốc gia có những đặc điểm cơ bản sau:
- Về mặt xuất xứ là các công ty tư bản độc quyền
- Hầu hết chúng có tầm cỡ quốc tế
- Có chi nhánh nước ngoài
- Hình thành từ các công ty quốc gia ( tức mang một quốc tịch nếu xem xét ở công ty mẹ )
- Có cơ cấu hai bộ phận chủ yếu : công ty mẹ và công ty chi nhánh
Như vậy có thể định nghĩa các công ty xuyên quốc gia của chủ nghĩa tư bản hiện đại như sau : " Các công ty xuyên quốc gia, về xuất xứ, là những công ty tư bản độc quyền của một quốc gia, thực hiện việc bành trướng quốc tế bằng hình thức thiết lập một hệ thống chi nhánh ở nước ngoài nhằm phân chia thị trường thế giới và tìm kiếm lợi nhuận độc quyền".
Ngày nay xuyên quốc gia hoá trong sản xuất kinh doanh trở thành xu hướng chung của thời đại. Vì vậy không chỉ những nước tư bản phát triển mới có các công ty xuyên quốc gia mà hầu hết các quốc gia đều có công ty xuyên quốc gia. Vì vậy có thể đưa ra định nghĩa chung như sau: " Các công ty xuyên quốc gia hiện đại là những công ty của một quốc gia thực hiện việc sản xuất kinh doanh quốc tế thông qua việc thiết lập hệ thống chi nhánh ở nước ngoài nhằm thực hiện việc mở rộng thị trường và nguồn thu lợi nhuận".
b. Một số nét chung về các công ty xuyên quốc gia trên thế giới
Cho đến nay, toàn thế giới có khoảng 60 nghìn công ty xuyên quốc gia mẹ và trên 500 nghìn công ty con (chi nhánh của các công ty mẹ). Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc cho thấy trong số 53.607 công ty xuyên quốc gia mẹ trên thế giới các nền kinh tế phát triển có 43.442 công ty tức là chiếm hơn 4/5 tổng số công ty xuyên quốc gia mẹ trên thế giới. Trong số 500 công ty lớn nhất thế giới, các nước G7 chiếm phần lớn số công ty này. Mỹ là nước có nhiều công ty nhất trong danh sách này với 175 công ty đồng thời tổng thu nhập và lợi nhuận của các công ty Mỹ cũng là lớn nhất.
c. Quá trình hình thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia
Xét cả về logic và lịch sử, sự ra đời của các công ty xuyên quốc gia trên thế giới gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Về thực chất chúng là sự phát triển cao của chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, là sự vận động mở rộng và sâu sắc hơn của các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi các mối quan hệ kinh tế vượt dần ra khỏi phạm vi quốc gia và gia nhập vào guồng máy sản xuất kinh doanh quốc tế ngày càng phát triển.
Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C.Mác và P. Ăngghen đã dự đoán rằng; tích tụ và tập trung tư bản thông qua hiệp tác giản đơn và công trường thủ công, cùng với sự phân công lao động ngày một hoàn thiện tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời những xí nghiệp tư bản chủ nghĩa có quy mô lớn và sự cạnh tranh của những xí nghiệp này ngày càng trở nên gay gắt. Sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp tất yếu sẽ đưa đến kết quả là các xí nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản hoặc sáp nhập với nhau để thành những xí nghiệp lớn hơn và theo đó, quá trình tập trung tư bản được đẩy mạnh hơn một bước.
Hình thức hiệp tác giản đơn và công trường thủ công là những hình thức tổ chức sản xuất đầu tiên của chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa. Những người thợ thủ công được tổ chức, sắp xếp vào dây chuyền sản xuất bằng hai cách: liên kết theo chiều ngang và liên kết theo chiều dọc qua đó thực hiện chuyên môn hoá sản xuất và thực hiện phân công lao động. Việc quản lý trong công trường thủ công do người sở hữu xí nghiệp gánh vác. Tuy tính chất và quy mô của loại xí nghiệp như vậy còn hết sức đơn giản và nguyên thủy nhưng nó đã trở thành cơ sở để công trường thủ công thay thế cho cơ chế trao đổi của thị trường. Chế độ công trường thủ công là hình thức phôi thai tế bào của xí nghiệp hiện đại và đi cùng với nó, quá trình tích tụ và tập trung sản xuất dưới tác động của quy luật thị trường cũng diễn ra ngay thời kì đầu xuất hiện của các hình thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Chế độ xí nghiệp là chế độ điển hình sinh ra trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Cùng với chế độ tự do cạnh tranh của thị trường phát triển lên đã điều tiết sự phân công và trao đổi của xã hội, xí nghiệp nhà máy cũng nhanh chóng trở thành hình thức tổ chức sản xuất điển hình để tổ chức sự phân công lao động xã hội. Đồng thời, nhờ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất chế độ xí nghiệp nhà máy đã mở rộng phạm vi lĩnh vực phân công xã hội từ nội bộ quốc gia sang địa bàn quốc tế. Và do vậy, phân công lao động và trao đổi quốc tế giữa các nước ngày càng phát triển. Như vậy, cạnh tranh tự do không chỉ làm cho quá trình tích tụ và tập trung sản xuất tăng lên, mà còn là nguyên nhân cho sự ra đời của nền sản xuất dựa trên máy móc và theo đó, chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa xuất hiện và ngày càng hoàn thiện. Đến lượt nó, chế độ xí nghiệp ra đời lại thúc đẩy phân công lao động mở rộng từ nội bộ quốc gia sang địa bàn quốc tế đồng thời làm cho tích tụ và tập trung tư bản, sản xuất tăng lên cao độ và theo đó các tổ chức độc quyền bắt đầu xuất hiện.
Một đặc trưng nổi bật trong giai đoạn độc quyền là sự cùng tồn tại đan xen nhau giữa độc quyền quốc gia và quốc tế. Cùng với sự phát triển quan hệ buôn bán quốc tế làm cho các công ty tư bản ở các nước liên minh với nhau sản xuất và phân phối hàng hóa trên thị trường thế giới, đã hình thành nên các công ty độc quyền quốc tế. Các tổ chức độc quyền quốc tế trong thời đại đế quốc chủ nghĩa có một đặc trưng cơ bản là sự đấu tranh để phân chia thế giới về mặt kinh tế. Vì vậy khi nghiên cứu sự hình thành và phát triển của các tổ chức độc quyền quốc tế nói chung và các tổ chức độc quyền quốc tế xuyên quốc gia nói riêng phải xuất phát từ sự tích tụ và tập trung sản xuất. Tích tụ và tập trung sản xuất đạt đến một độ nhất định làm cho các nhà độc quyền quốc gia vươn ra khỏi biên giới quốc gia hoạt động trên phạm vi quốc tế, thực hiện phân chia thế giới về mặt thị trường.
Xí nghiệp hiện đại là hình thức phát triển tiếp theo của các xí nghiệp truyền thống. Các xí nghiệp hiện đại được hình thành bởi sự kết hợp giữa quá trình sản xuất quy mô lớn và quá trình phân phối quy mô quốc tế vào trong một công ty đơn nhất, nghĩa là trong xí nghiệp bao gồm cả các hoạt động sản xuất công nghiệp, lẫn thương mại, dịch vụ, tài chính và chúng được gọi là xí nghiệp công thương hiện đại. Xí nghiệp công thương hiện đại đã từng bước thay thế cho tổ chức xí nghiệp đơn nhất truyền thống và trở thành hình thức điển hình, thích ứng với sự phát triển kĩ thuật hiện đại và đặc điểm thị trường được quốc tế hóa ngày càng mở rộng. Đến những thập kỉ 50, 60 một loạt các xí nghiệp hiện đại khổng lồ đã khống chế các ngành kinh tế then chốt và trở thành các tập đoàn độc quyền quốc gia. Chúng trở thành lực lượng chủ yếu chi phối nền kinh tế rhế giới.
Các xí nghiệp công thương hiện đại có quy mô, mức độ phức tạp trong quản lý và phạm vi phân công trong nội bộ cực kì lớn mà không có bất kì một xí nghiệp nào trước đây có thể sánh kịp. Mức tiêu thụ hàng năm của một xí nghiệp công thương hiện đại thậm chí còn vượt tổng giá trị thu nhập quốc dân của một số nước vừa và nhỏ. Phạm vi phân công lao động của nó ngày càng mở rộng. Và đến khi phạm vi địa lý của sự phân công nội bộ xí nghiệp công thương hiện đại vượt quá biên giới quốc gia thì các công ty xuyên quốc gia hình thành. Có thể nói, các công ty xuyên quốc gia là tổ chức độc quyền quốc tế kiểu mới, là hình thức độc quyền quốc tế chủ yếu ngày nay.
Ngày nay các công ty xuyên quốc gia xuất hiện ở mọi lĩnh vực trong đời sống con người. Chúng ta có thể bắt gặp những thương hiệu của các công ty xuyên quốc gia ở mọi nơi như Microsoft, Coca-Cola, hay Honda...Chúng đã thâm nhập mạnh mẽ vào đời sống kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới và có những ảnh hưởng nhất định. Chúng đã trở thành một nhân tố quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới.
1.2. Bản chất và đặc trưng của các công ty xuyên quốc gia
a. Bản chất của công ty độc quyền xuyên quốc gia
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, tư bản ở các nước tư bản phát triển đã dẫn đến những biến đổi quan trọng về lượng và chất trong các mặt quan hệ sản xuất, mà khâu quan trọng nhất là các quan hệ sở hữu. Vì vậy khi nghiên cứu bản chất các công ty xuyên quốc gia trên thế giới cần xuất phát từ những vấn đề này.
Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, tư bản đã dẫn đến sự ra đời của các xí nghiệp khổng lồ có khả năng thâu tóm nhiều ngành công nghiệp khác nhau, từ đó ra đời các tổ chức độc quyền, các tổ chức này sử dụng cơ chế độc quyền, tức là cơ chế vận động dựa trên giá cả độc quyền, thay cho cơ chế tự do cạnh tranh dựa trên giá cả thị trường để thu lợi nhuận độc quyền cao. Do vậy có thể coi các tổ chức độc quyền là hình thức mà trong đó quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động và tồn tại dưới dạng sở hữu độc quyền. Khi các tổ chức độc quyền quốc gia mở rộng phạm vi hoạt động ra khỏi biên giới một quốc gia đồng thời dưới sự thúc đẩy của quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trên quy mô quốc tế thì các hình thức siêu độc quyền, tức là công ty xuyên quốc gia xuất hiện. Khi đó nền sản xuất sẽ đòi hỏi những nguồn lực khổng lồ đặc biệt là vốn và công nghệ làm cho khả năng tài chính của một số công ty không thể đáp ứng được. Đồng thời quá trình cổ phần hóa mở rộng và sự gia tăng quá trình huy động vốn thông qua thị trường tài chính làm cho số lượng các chủ đồng sở hữu trong các công ty xuyên quốc gia tăng lên. Và như vậy sở hữu tư bản cổ điển truyền thống nảy sinh và phát triển trong cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và thứ hai mất dần vai trò điều tiết trong cơ cấu của công ty xuyên quốc gia. Đối tượng tham gia góp vốn ngày càng được mở rộng tuy nhiên không ai trong số họ có đủ số vốn để kiểm soát hay can thiệp nhiều vào hoạt động quản lý của công ty. Kết quả là tài sản đã trở thành vốn đầu tư. Đồng thời do sự cạnh tranh với các công ty khác, công ty xuyên quốc gia không có sự lựa chọn nào khác trong việc dùng các vốn đầu tư đó vào đảm bảo tối đa hoạt động đổi mới, hoàn thiện kĩ thuật, công nghệ, tổ chức sản xuất với tư cách người chủ theo những phương thức, hành vi kinh tế khác nhau tùy thuộc vào thành phần ban quản lý của chúng. Trong quá trình đó, người công nhân hiện đại, từ đối tượng bị bóc lột trở thành chủ thể sở hữu kinh tế đầy tiềm năng do họ đã có trong tay phương tiện sản xuất mới- đó là tri thức và các kĩ năng có chuyên môn riêng cao của họ, và họ ngày càng được thu hút với tư cách đồng sở hữu.
Như vậy, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, bản chất của các công ty xuyên quốc gia đựoc thể hiện qua hai thay đổi lớn trong các quan hệ sở hữu:
Một là, sở hữu độc quyền siêu quốc gia là hình thức sở hữu hỗn hợp đã được quốc tế hóa. Đây là một hình thức sở hữu mang tính khách quan tạo nên bởi quá trình tích tụ, tập trung hóa và xã hội hóa sản xuất trên quy mô quốc tế của chủ nghĩa tư bản dưới sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và của các quy luật cạnh tranh, quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Tồn tại dưới hình thức các tổ hợp đa ngành khác nhau như concern và conglomerate, hiện nay có tới trên 70% các xí nghiệp chi nhánh của chúng là các xí nghiệp liên doanh với số lượng các chủ đồng sở hữu từ 2 tới 4 nước hoặc nhiều hơn nữa với những tỉ lệ góp vốn khác nhau. Điều này phản ánh tính chất đa dạng phức tạp và tính chất hỗn hợp của loại hình sở hữu xuyên quốc gia.
Hai là, sở hữu hỗn hợp, được tạo ra do sự thay đổi về căn bản địa vị, vai trò của người công nhân, trí thức, những người làm việc trực tiếp trong các ngành nghề khác nhau, nhất là những ngành có hàm lượng khoa học và công nghệ cao, là những người quyết định chất lượng của lao động và sản xuất. Loại hình này diễn ra theo hướng tăng đáng kể số người có cổ phần trong công ty nhưng tỉ trọng sở hữu cổ phần trong tổng số vốn kinh doanh không lớn.
Như vậy, sự biến đổi của hình thức sở hữu trong công ty xuyên quốc gia là thay đổi rất căn bản đặc trưng của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong chủ nghĩa tư bản hiện đại. Có thể thấy rằng, các công ty xuyên quốc gia không còn là sở hữu của một người hay một nước nữa, mà là sở hữu hỗn hợp quốc tế nhưng vẫn có một quốc tịch nhất định.
Về thực chất, việc xuất hiện các loại hình sở hữu trên là kết quả của sự biến đổi dưới sự tác động của quy luật về sự phù hợp giữa sự phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mà C.Mác đã vạch ra ở thế kỉ trước. Tuy người công nhân đã trở thành một chủ sở hữu kinh tế trong các công ty xuyên quốc gia nhưng sở hữu của các nhà tư bản vẫn giữ vị trí trọng yếu, còn sở hữu của người lao động chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ, không đáng kể và còn được các nhà tư bản sử dụng như là một biên pháp trong quản lý để thu hút sự quan tâm của người lao động. Dù " hệ thống tham dự mới về sở hữu" có cả sự tham gia của các công nhân làm thuê, nhưng đây chỉ là sự biến đổi trong cách thức tổ chức quản lý doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu suất của tư bản do tác động của quá trình xã hội hóa quy định, chứ không có nghĩa là người công nhân đã thực sự trở thành chủ sở hữu về tư liệu sản xuất hay chủ sở hữu tư bản bởi vì tổng giá trị cổ phiếu mà họ sở hữu thấp hơn nhiều so với số cổ phiếu mà các nhà tư bản nắm giữ.
Về mặt quản lý, việc tổ chức hoạt động quản lý sản xuất và các hoạt động kinh tế đã dịch chuyển từ kiểu đại trà, được tiêu chuẩn hóa theo hàng loạt lớn sang kiểu sản xuất loạt nhỏ và linh hoạt theo đơn đặt hàng, cũng như dịch chuyển từ các tổ chức có quy mô lớn được liên kết theo chiều dọc sang phi liên kết kiểu mạng lưới theo chiều ngang giữa các đơn vị kinh tế trong nước và ngoài nước. Sự dịch chuyển này trong điều kiện đổi mới công nghệ như vũ bão đã làm nổi bật vai trò năng động của các doanh nghiệp, xí nghiệp có quy mô nhỏ và vừa so với các tập đoàn lớn mang nặng tính chất quan liêu hóa, buộc công ty xuyên quốc gia phải tự tách mình ra thành các nhân tố của cạnh tranh nhằm tạo ra sự năng động và linh hoạt trong sản xuất kinh doanh. Điều đó dẫn đến sự xuất hiện liên kết công ty xuyên quốc gia kiểu mới, kiểu các công ty vệ tinh hoạt động xoay quanh một công ty mẹ tạo nên một mạng lưới phủ lên thị trường các nước. Đây là sự chuyển hóa về mặt tổ chức quản lý của mọi hoạt động kinh tế để tăng cường tính linh hoạt và khả năng thích ứng với thị trường đang được đa dạng hóa và biến đổi từng ngày, từng giờ. Nhờ các đột phá của công nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa, phương thức tổ chức quản lý sản xuất vật chất của xã hội hiện đại bắt đầu thay đổi ngược lại với phương thức tổ chức quản lý sản xuất trong xã hội công nghiệp theo xu thế:
- Phi hàng loạt hóa và đa dạng hóa các sản phẩm : có nghĩa là việc tổ chức quản lý sản xuất các sản phẩm được tiến hành theo loạt nhỏ hay đơn chiếc theo đúng yêu cầu và thị hiếu đa dạng của khách hàng.
- Phi chuyên môn hóa : tức là việc sản xuất sản phẩm được tổ chức quản lý theo phương thức chế tạo tổ hợp các khối cấu kiện, phụ kiện, chứ không từ hàng trăm hàng ngàn cấu kiện, phụ kiện được sản xuất chuyên môn hóa như trước.
- Phi tập trung hóa : là quá trình sản xuất được phân bố và tổ chức quản lý trên diện rộng trong các chi nhánh đơn vị sản xuất vừa và nhỏ, với các nguồn nhân lực, vật lực và tài lực phân tán trên quy mô quốc gia và quốc tế. Với mục tiêu không chỉ sản xuất ra các sản phẩm với giá thành thấp trong phạm vi một nước mà với giá thành thấp trên phạm vi toàn cầu, các công ty xuyên quốc gia đã tiến hành tổ chức và quản lý việc phân công lao động và sản xuất vượt qua các đường biên giới giữa các quốc gia.
- Tổ chức quản lý từ xa: là việc tổ chức quản lý đồng thời và rộng rãi cùng ở một nơi nhiều loại hình sản xuất và dịch vụ khác nhau. Hoạt động từ xa sẽ được tăng cường mạnh mẽ và những cản trở của hàng rào không gian và khoảng cách giữa nơi làm việc và nơi ở, thời gian làm việc và giải trí đang và sẽ được phá bỏ hoàn toàn.
- Quốc tế hóa và toàn cầu hóa hoạt động tổ chức quản lý: trong nền kinh tế mới mang tính chất toàn cầu, tất cả các yếu tố như vốn tư bản, các thị trường, lao động, thông tin và công nghệ đều được tổ chức quản lý xuyên qua các đường biên giới quốc gia. Cái mới không phải chỉ ở chỗ thương mại quốc tế là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế một nước, mà là ở chỗ nền kinh tế đó bắt đầu hoạt động với tư cách thực sự là một đơn vị ở cấp toàn cầu. Việc tổ chức và quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại và dịch vụ không những đã được quốc tế hóa, mà còn đang được toàn cầu hóa trong quá trình thâm nhập qua lại giữa các hoạt động kinh tế và nền kinh tế của các quốc gia trên quy mô thế giới. Trong đó, các công ty xuyên quốc gia có vai trò và lợi thế to lớn, do chúng có nhiều ưu thế về nguồn lực và các tri thức, thông tin cần thiết đối với việc tổ chức quản lý sản xuất và tiêu thụ các hàng hóa và dịch vụ trên quy mô quốc tế.
Như vậy quan hệ sở hữu hỗn hợp, phức tạp và được quốc tế hóa thể hiện bản chất sâu xa của hình thức tổ chức sản xuất xã hội quốc tế phát triển nhất hiện nay, đó là công ty xuyên quốc gia.
b. Các đặc trưng cơ bản của công ty xuyên quốc gia
Một đặc trưng cơ bản mà bất kì một công ty xuyên quốc gia nào cũng phải có là đặc trưng cắm nhánh nước ngoài. Để thực hiện cắm nhánh, các công ty xuyên quốc gia thường sử dụng nhiều hình thức khác nhau, song chủ yếu là các hình thức sau:
- Hình thức đầu tư 100% vốn : Đây là hình thức đã có ngay từ thời kì đầu tiên khi các công ty xuyên quốc gia thâm nhập vào nền kinh tế các nước. Đây là hình thức cắm nhánh cổ truyền, trong đó công ty xuyên quốc gia được hoàn toàn tự chủ trong kinh doanh theo luật đầu tư của nước chủ nhà mà không sợ thất thoát về bí quyết công nghệ và quản lý hoặc chia sẻ bạn hàng. Tuy nhiên các công ty xuyên quốc gia phải chịu sự kiểm soát của nước chủ nhà, sự kiểm soát đó cũng theo những phương thức và mức độ khác nhau, đồng thời cũng đưa lại những hậu quả không giống nhau. Mặt khác với xí nghiệp 100% vốn của mình, các công ty xuyên quốc gia không tránh khỏi những khó khăn trong việc khai thông các mối quan hệ với các cơ quan quản lý, cũng như việc tìm hiểu thị trường nước chủ nhà. Ngoài ra một số công ty còn gặp khó khăn trong việc tuyển dụng công nhân. Chính vì một số khó khăn này nên một số công ty đã lựa chọn hình thức liên doanh.
- Hình thức liên doanh : Đây là một trong những hình thức phổ biến trong giai đoạn hiện nay mà các công ty xuyên quốc gia đã và đang sử dụng. Để thực hiện liên doanh, các công ty xuyên quốc gia thường sử dụng một số biện pháp như tham gia cổ phần đối với xí nghiệp mới xây dựng, lập ra xí nghiệp mới có sự tham gia của đối tác nước chủ nhà, mà công ty mẹ nắm giữ số cổ phần khống chế, hoặc mua cổ phiếu của công ty đang hoạt động. Có thể lấy một ví dụ : trường hợp liên doanh giữa công ty GMC (Mỹ) với công ty Isuzu (Nhật Bản) vào thập kỉ 80 : Isuzu bán 34% cổ phần của mình cho GMC, vì đang gặp khó khăn trong việc chuyển từ sản xuất xe tải, xe buýt sang xe con. Còn với GMC nếu mua được cổ phần của Isuzu sẽ giúp cho việc thâm nhập vào thị trường Nhật Bản, củng cố được mặt hàng của mình. Hiện nay hình thức liên doanh thường chiếm tỷ trọng lớn (60-70%, thậm chí có trường hợp 85% tổng số dự án đầu tư nước ngoài), vì hình thức này có nhiều nhân tố làm tăng hiệu suất của tư bản.
Ngoài hai hình thức chủ yếu trên, các công ty xuyên quốc gia còn thực hiện các hình thức khác, như thông qua các hợp đồng gia công để chuyển giao một số công đoạn sản xuất ra nước ngoài nhằm thực hiện chuyên môn hóa sản phẩm, tận dụng các lợi thế như giá lao động, giá nguyên vật liệu rẻ, tiết kiệm chi phí vận chuyển, khắc phục khó khăn về thuế quan...Hiện nay hầu hết các công ty xuyên quốc gia đều thực hiện cách này. Ví dụ như công ty Ford Motor có tới 25.000 đơn vị sản xuất gia công ở khắp các nước trên thế giới.
Để thực hiện cắm nhánh ngoại quốc các công ty xuyên quốc gia thường sử dụng một số hình thức nêu trên đồng thời với chiến lược hết sức linh hoạt, mà đáng chú ý là một số chiến lược sau:
- Chiến lược đối với khu vực địa lý : Nhìn chung các công ty xuyên quốc gia tập trung vào các nước tư bản phát triển nhiều hơn so với các nước đang phát triển. Sở dĩ có xu hướng như vậy là vì trong điều kiện tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã xuất hiện nhiều ngành mới, trong khi đó các nước đang phát triển (trừ các nước công nghiệp mới) do trình độ lạc hậu nên không đủ điều kiện tiếp nhận đầu tư. Hầu hết các ngành được chuyển dịch sang các nước đang phát triển là các ngành đã hao mòn vô hình, giá trị thấp cũng góp phần làm cho tỉ trọng vốn giảm đi. Mặt khác, trong điều kiện hiện nay lĩnh vực cạnh tranh là những ngành hiện đại, trong khi đó các nước đang phát triển không phải là đối thủ cạnh tranh, hơn nữa mức thu nhập thấp làm cho mức tiêu thụ sản phẩm cao cấp còn hạn chế. Điều đó đã làm thay đổi hướng đầu tư của các công ty xuyên quốc gia.
- Chiến lược đối với các ngành kinh doanh : Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay việc đầu tư cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia đã có sự thay đổi. Đó là tỉ trọng vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp khai khoáng có xu hướng giảm. Thay vào đó là các ngành sản xuất hàng hóa công nghệ cao như sản xuất ôtô, hàng điện tử... và đặc biệt là các ngành dịch vụ. Chính xu hướng đầu tư cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia đối với các ngành trên đã góp phần thúc đẩy sự biến đổi cơ cấu ngành của nền kinh tế thế giới trong những thập kỉ gần đây.
- Chiến lược thôn tính và sáp nhập của các công ty xuyên quốc gia : Cùng với xu hướng trên, các công ty xuyên quốc gia đã thực hiện chiến lược sáp nhập và thôn tính lẫn nhau. Hiện nay các vụ sáp nhập có đặc điểm là quy mô rất lớn. Ví dụ như số vụ trị giá trên 1 tỉ USD tăng từ 35 vụ năm 1995 lên 45 vụ năm 1996 và 58 vụ năm 1997 với giá trị lần lượt là 59 tỷ, 86 tỷ và 161 tỷ USD và diễn ra ở tất cả các ngành. Trong ngành sản xuất ôtô năm 1999 đã diễn ra sự sáp nhập của 9 tập đoàn hàng đầu thế giới gồm Ford, GMC, BMW, Volswagen, Daimler Benz, Chrysler, Volvo, Mazda, Toyota hình thành một liên minh khổng lồ. Chính sự thôn tính và sáp nhập của các công ty xuyên quốc gia đã tạo ra những công ty có quy mô khổng lồ. Theo thống kê quốc tế, vào cuối thập kỉ 90, số công ty có vốn trên 60 tỷ USD là 50 công ty, trong đó có 14 công ty có số vốn trên 100 tỷ USD. Đồng thời bằng sự sáp nhập, thôn tính như vậy, cạnh tranh sẽ diễn ra một cách gay gắt hơn, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoa sản xuất và chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa càng gay gắt và mang tính toàn cầu.
Ngoài ra mỗi công ty xuyên quốc gia còn có chiến lược riêng của mình. Chẳng hạn một số công ty xuyên quốc gia có xu hướng đầu tư cắm nhánh tại vùng trung tâm của mỗi quốc gia chủ nhà. Song lại có công ty thực hiện chiến lược cắm nhánh ở những vùng biên giới giữa các nước vì từ đó có thể mở rộng hoạt động đối với các quốc gia lân cận. Về chiến lược thị trường, sản phẩm cũng vậy, có công ty thực hiện chiếm lĩnh thị trường ngách với sản phẩm độc đáo trong khi hầu hết các công ty có xu hướng đa dạng hóa sản phẩm, thực hiện chuyên môn hóa.
Ngoài đặc trưng cắm nhánh kể trên, do trình độ phát triển sản xuất kinh doanh tư bản chủ nghĩa, nhất là trình độ quản lýkinh doanh và một số đặc điểm riêng, như văn hóa, tập quán và truyền thống... mà các công ty xuyên quốc gia của các nước có những nét đặc trưng khác nhau nhất định. Thực ra, sự khác nhau này trong hệ thống quản lý, hay cơ chế quản lý của các công ty xuyên quốc gia của các nước là có tính tương đối.
Mỗi nước khác nhau thì cơ chế hoạt động và quản lý của các công ty xuyên quốc gia ở những nước này cũng có những nét khác nhau nhất định do sự khác biệt về truyền thống, văn hóa...Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã đưa ra một số đặc trưng chủ yếu về quản lý của các công ty xuyên quốc gia phương Đông và phương Tây như sau :
- Các công ty phương Tây :
+ Không có xu hướng sử dụng lao động dài hạn.
+ Sự thăng tiến của người lao động chủ yếu dựa trên cơ sở khả năng của cá nhân.
+ Nhấn mạnh vai trò của cá nhân, cá nhân ra quyết định là chủ yếu
+ Chú trọng đến lợi nhuận ngắn hạn, trên cơ sở chiến lược phát triển dài hạn.
+ Cởi mở hơn, sẵn lòng đương đầu với khó khăn.
- Các công ty phương Đông:
+ Có xu hướng sử dụng lao động dài hạn thậm chí cả cuộc đời làm việc gắn với một công ty.
+ Sự thăng tiến của người lao động chủ yếu dựa trên thâm niên công tác.
+ Nhấn mạnh vai trò trách nhiệm tập thể và phương thức ra quyết định quản lý chủ yếu là tập thể.
+ Có xu hướng chú trọng đến khối lượng hơn là chất lượng.
+ Coi trọng kinh nghiệm, mối quan hệ và liên hệ gia đình.
2. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia
Với khoảng 60.000 công ty mẹ và 500.000 công ty chi nhánh, các công ty xuyên quốc gia đóng vai trò quan trong trong nền kinh tế thế giới. Hiện nay chúng đang kiểm soát 40% sản lượng công nghiệp, 60% ngoại thương, 80% kĩ thuật mới của thế giới tư bản chủ nghĩa. Có thể nói các công ty xuyên quốc gia là lực lượng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Chúng tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế - xã hội của thế giới. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia thể hiện trên các mặt cơ bản sau :
2.1. Vai trò thúc đẩy thương mại thế giới
Ngày nay, với mạng lưới chi nhánh dày đặc, các công ty xuyên quốc gia đã khai thác được mọi nguồn hàng tiềm tàng của thế giới và có thể nói mọi sản phẩm của thế giới được chúng cuốn vào thị trường và cùng với việc phân công chuyên môn hóa, các công ty xuyên quốc gia đã khai thác được thị trường tại chỗ, giảm chi phí vậ chuyển, hạ giá thành. Cùng với những sản phẩm hàng hóa thông thường mang tính truyền thống, thế giới hàng hóa được bổ sung hàng loạt các mặt hàng mới dưới tác động của các công ty xuyên quốc gia. Ngay cả tri thức con người được thể hiện trong những phát minh sáng chế cũng được trao đổi dưới hình thức hàng hóa. Có thể nói các công ty xuyên quốc gia thực hiện " hàng hóa hóa" mọi sản phẩm, tạo ra sự đa dạng trong trao đổi trên phạm vi quốc tế. Bằng cách đó chúng đã phá bỏ những hàng rào biên giới quốc gia vốn đã từng kìm hãm quá trình quốc tế hóa lưu thông. Điều đó còn góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và nâng cao trình độ xã hội hóa.
Tổng giá trị thương mại của các công ty xuyên quốc gia trên thế giới ngày càng tăng. Ví dụ như năm 1995 tổng giá trị thương mại của 100 công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới đã đạt tới 2000 tỷ USD tăng 26% so với năm 1993. Điều này chứng tỏ các công ty xuyên quốc gia đã đóng vai trò rất to lớn đối với thúc đẩy thương mại thế giới. Hay như ở Việt Nam, mức độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp nội địa. Nếu như năm 1992, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mới xuất khẩu được 52 triệu USD thì đến năm 1995, con số này đã lên tới 352 triệu USD và năm 1997 là 1500 triệu USD. Trong 10 tháng đầu năm 1998, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã xuất khẩu được 1625 triệu USD, chiếm gần 22% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Tuy có một số đóng góp đáng kể đối với việc thúc đẩy thương mại thế giới nhưng các công ty xuyên quốc gia cũng có những mặt trái không thể tránh khỏi. Đó là do quá chạy theo mục đích lợi nhuận, các công ty xuyên quốc gia đã làm biến dạng mối quan hệ hàng hóa tiền tệ, gây ra những hiện tượng tiêu cực với quy mô thế giới. Cụ thể là dựa vào tiềm lực kinh tế to lớn, với hàng trăm tỷ đôla trong tay, với những nguồn nguyên liệu, nhiên liệu dồi dào đặt dưới sự kiểm soát của mình, các công ty xuyên quốc gia đã thực hiện những hoạt động đầu cơ, nâng giá, trao đổi nội bộ giữa các chi nhánh mà khối lượng trao đổi này thường rất lớn, có khi chiếm tới 60% tổng khối lượng hàng hóa luân chuyển của các công ty xuyên quốc gia. Điều đó gây nên tình hình mất ổn định trong lưu thông hàng hóa, cũng như nền tài chính - tiền tệ của thế giới. Người ta có thể thấy là các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, như khủng hoảng thị trường chứng khoán, cũng như sự bùng nổ về nợ nần của thế giới thứ ba... đều có nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp từ sự lũng đoạn của các công ty xuyên quốc gia. Đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, việc tự do đầu tư vào thị trường cổ phiếu, một mặt giúp cho các nước chủ nhà có thêm nguồn vốn đầu tư lớn, song cũng có thể khiến cho các nước này bị một số công ty xuyên quốc gia sử dụng các hành vi mờ ám để kiếm lời. Chính vì vậy không chỉ những nước đang phát triển mà ngay cả các nước tư bản phát triển đều hết sức quan tâm đến việc đưa ra những luật lệ ngăn cấm sự lộng hành của các công ty xuyên quốc gia, trong đó lĩnh vực lưu thông hàng hóa và tiền tệ được nhấn mạnh nhiều nhất.
Như vậy, vai trò của các công ty xuyên quốc gia đối với thương mại thế giới có thể tóm tắt như sau:
- Tỷ trọng trao đổi của các công ty xuyên quốc gia ngày càng lớn trong tổng giá trị thương mại thế giới. Sản phẩm trao đổi của công ty xuyên quốc gia phần lớn là hàng chế tạo và hướng vào xuất khẩu do các công ty xuyên quốc gia có tiềm lực to lớn về vốn, công nghệ, khoa học, nên chúng đã tập trung vào lĩnh vực này là chính. Vì vậy đối với các nước đang phát triển nên chú trọng thu hút các công ty xuyên quốc gia vào các ngành công nghiệp chế tạo và hướng sản phẩm của họ vào xuất khẩu. Điều này vừa có lợi cho các công ty xuyên quốc gia lại vừa có lợi đối với quá trình công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển.
- Cần tăng cường kiểm soát để hạn chế các công ty xuyên quốc gia sử dụng các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh như giá chuyển giao và giá độc quyền.Thực tế cho thấy, phần lớn các nguyên liệu sử dụng trong các chi nhánh của công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển là nhập khẩu từ các chi nhánh của họ ở nước ngoài (trao đổi nội bộ trong công ty xuyên quốc gia), vì thế khả năng các công ty xuyên quốc gia áp dụng giá chuyển giao là khó tránh khỏi. Điều này đồng nghĩa với việc cần có luật chống độc quyền, luật cạnh tranh, chống bán phá giá... đặc biệt là ở Việt Nam để chống lại những tiêu cực mà các công ty xuyên quốc gia đem lại.
- Cần gắn các khuyến khích đầu tư và phát triển dịch vụ trong thu hút các công ty xuyên quốc gia. Trong thực tế, phần lớn các hoạt động thương mại đều gắn với các hoạt động đầu tư và cung cấp dịch vụ. Bởi vậy, nếu áp dụng chính sách bảo hộ đầu tư và các dịch vụ sản xuất chất lượng thấp thì khó khuyến khích được các công ty xuyên quốc gia đầu tư hướng vào xuất khẩu. Trong trường hợp này, các công ty xuyên quốc gia thường hướng vào thị trường nội địa, vì thế ít khai thác được vai trò thúc đẩy thương mại của các công ty xuyên quốc gia.
2.2. Vai trò thúc đẩy đầu tư quốc tế
Trên thực tế, hầu hết các hoạt động đầu tư nước ngoài đều thực hiện thông qua các công ty xuyên quốc gia. Với lợi thế của mình về vốn, kĩ thuật hiện đại, quản lý tiên tiến và mạng lưới thị trường rộng lớn, các công ty xuyên quốc gia luôn tích cực đầu tư ra nước ngoài nhằm tối đa hóa lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Năm 1999 các chi nhánh công ty xuyên quốc gia trên thế giới đã đầu tư ra nước ngoài lượng FDI là 644 tỷ USD trên phạm vi rộng hơn 100 nước.
Các công ty xuyên quốc gia là lực lượng cơ bản trong việc thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hiện nay chúng chiếm tới 90% lượng vốn FDI, mặc dù tỷ lệ đầu tư trực tiếp trong tổng vốn đầu tư của từng nước chủ nhà không cao (khoảng 5%). Song đây là nguồn vốn quan trọng và khó có thể thay thế vì nó tạo ra những kết quả phát sinh khác, như chuyển giao công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển dịch vụ và các nguồn thu phụ thêm (thuế các loại, sản phẩm được phân chia theo hợp đồng, và các khoản thu khác). Tuy nhiên cũng phải thấy tính chất hai mặt của đầu tư trực tiếp mà các công ty xuyên quốc gia thực hiện. Một mặt, tăng thêm nguồn vốn cho nước chủ nhà và các hệ quả lợi ích khác, song mặt khác nếu không quản lý giỏi thì sẽ để lại nhiều hậu quả không mong muốn.
Các công ty xuyên quốc gia thúc đẩy nhanh tiến trình tự do hóa đầu tư nước ngoài thông qua tham gia sâu rộng vào quá trình quốc tế hóa sản xuất. Việc tháo bỏ những cản trở về đẩy mạnh tự do hóa đầu tư đã được nhiều quốc gia hưởng ứng và ngày càng trở thành hiện thực. Chính nhờ những chính sách tự do hóa FDI này nên trong hơn thập kỉ trở lại đây, luồng FDI trên thế giới đã tăng lên nhanh chóng.
Các công ty xuyên quốc gia ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với việc thúc đẩy dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển. Nếu như trước đây, các nước đang phát triển không phải là nơi thuận lợi cho việc đầu tư trực tiếp do nền kinh tế kém phát triển, công nghệ và phương thức quản lý lạc hậu, thì giờ đây, các nước đang phát triển lại là thị trường đầy tiềm năng do giá nguyên vật liệu, giá nhân công rẻ đồng thời lại có các chính sách ưu tiên mà chính phủ các nước này dành cho các công ty xuyên quốc gia. Ngày nay có thể thấy các công ty xuyên quốc gia lớn trên thế giới đều có chi nhánh của mình ở các nước đang phát triển, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc. Các công ty xuyên quốc gia đã có đóng góp đáng kể đối với nền kinh tế các nước đang phát triển trong thời gian qua.
Cơ cấu dòng vốn đầu tư nước ngoài đã thay đổi lớn do sự điều chỉnh chiến lược kinh doanh của các công ty xuyên quốc gia. Vào những năm sau chiến tranh thế giới thứ II, hầu hết các công ty xuyên quốc gia trên thế giới hoạt động có tính chuyên doanh cao, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp khai thác và chế tạo. Do vậy, hình thức FDI chiếm ưu thế trong tổng dòng lưu chuyển vốn quốc tế. Trong những thập kỉ gần đây, các công ty xuyên quốc gia đã chuyển sang hoạt động ở phạm vi rất rộng cả về tính chất kinh doanh và khu vực lãnh thổ. Thêm vào đó, cùng với sự phát triển mạnh của thị trường tài chính quốc tế, hình thức đầu tư gián tiếp ngày càng gia tăng. Những ngành chế tạo với công nghệ hiện đại, các ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm rất được chú ý phát triển.
Nhìn chung, xu hướng đầu tư có sự biến đổi như sau : đầu tư vào các ngành dịch vụ tăng lên tương đối và tuyệt đối, đầu tư vào công nghiệp chế biến tăng lên tuyệt đối và có chiều hướng giảm nhẹ về tương đối, còn đầu tư vào nông nghiệp tăng tuyệt đối nhưng giảm đi tương đối. Việc biến đổi đó đã dẫn đến làm biến đổi tỷ trọng và giá trị của các ngành trong nền kinh tế của nước chủ nhà. Đồng thời sự tập trung cao vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến đã tác động dây chuyền đến các ngành khác theo mối quan hệ liên ngành, làm tăng tỷ trọng của xuất khẩu và làm cơ cấu nhập khẩu thay đổi theo.
Cùng với sự biến đổi cơ cấu ngành, cơ cấu lao động, cơ cấu vùng cũng có sự thay đổi, trong đó có việc hình thành các trung tâm thương mại, công nghiệp kĩ thuật cao, đồng thời đội ngũ lao động và cơ cấu nghề nghiệp cũng biến đổi theo. Sự biến đổi cơ cấu kinh tế có tác động lớn đối với quá trình tăng trưởng của các nước chủ nhà và nếu các nước này có chiến lược đúng đắn sử dụng được lợi thế của mình sẽ có thể thúc đẩy sự phát triển cơ cấu theo hướng tiến bộ mà cuộc cách mạng khoa học công nghệ tạo ra.
Ở Việt Nam, vốn đầu tư nước ngoài là một nguồn lực quan trọng để tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong 10 năm thực hiện luật FDI, vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 28,5% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 2004 này, dự đoán luồng FDI đầu tư vào Việt Nam vào khoảng 4 tỉ USD chiếm tỉ trọng cao trong tổng nguồn vốn đầu tư xã hội. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách để thu hút nguồn vốn này và luật đầu tư nước ngoài đang ngày càng được hoàn thiện. Tuy nhiên, mức độ tác động tích cực của các công ty xuyên quốc gia đối với thúc đẩy dòng FDI vào các nước đang phát triển phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và môi trường thu hút các công ty xuyên quốc gia của nước chủ nhà. Đây là đặc điểm đáng lưu ý trong xây dựng chính sách thu hút FDI ở nước ta.
2.3. Vai trò phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm
Việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn kĩ thuật nghiệp vụ hay là tay nghề là vấn đề tất yếu đối với mọi doanh nghiệp, vì người lao động là một yếu tố cần thiết của quá trình sản xuất. Thiếu yếu tố đó hoặc có nhưng chất lượng kém thì hoặc là không có quá trình sản xuất diễn ra, hoặc là sản phẩm sẽ có chất lượng kém và không có sức cạnh tranh. Do vậy các công ty xuyên quốc gia luôn luôn quan tâm đến tay nghề của người lao động thông qua các hình thức đào tạo dài hạn, ngắn hạn, chính quy hoặc tại chức.
Các công ty xuyên quốc gia tác động đến phát triển nguồn lực lao động theo hai cách trực tiếp và gián tiếp. Cách trực tiếp là thông qua các dự án đầu tư. Các công ty xuyên quốc gia đào tạo lực lượng lao động địa phương để phục vụ cho nhu cầu hoạt động của dự án. Trong khi đó, cách gián tiếp là tạo ra các cơ hội (thông qua các liên kết kinh tế, cung cấp dịch vụ...), động lực (cạnh tranh) cho sự phát triển của lực lượng lao động theo đuổi mục tiêu thu nhập cao. Ở các nước đang phát triển, các tác động này có vai trò rất lớn đối với phát triển nguồn lực lao động, đặc biệt là đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật và quản lý. Đây chính là tiền đề quan trọng để nâng cao năng suất lao động ở các nước này.
Các công ty xuyên quốc gia thường có các hoạt động trợ giúp tài chính cho các chương trình nghiên cứu và đào tạo nghề, quản lý. Đồng thời, các công ty xuyên quốc gia còn cung cấp các thiết bị khoa học cho các trường đại học, viện nghiên cứu. Chẳng hạn, các công ty xuyên quốc gia của Anh và Mỹ thường trợ giúp đào tạo các nhà quản lý chuyên nghiệp trong các hoạt động kinh doanh quốc tế. Các công ty xuyên quốc gia Nestle và Alcan đã xây dựng các trung tâm đào tạo quản lý lớn như IMEDE và IMI ở châu Âu. Các trung tâm đào tạo của các công ty xuyên quốc gia còn phát triển hình thức đào tạo từ xa trên tất cả các châu lục. Ví dụ, trung tâm đào tạo quản lý Henley đã có nhiều chương trình liên kết đào tạo với các trung tâm đào tạo quản lý ở châu Âu và các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Một vai trò khác cũng phải nói tới là các công ty xuyên quốc gia tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho lực lượng lao động phụ nữ ở các nước đang phát triển. Việc xây dựng các xí nghiệp mới trong các ngành dệt may, chế biến thực phẩm... đã thu hút được nhiều lao động phụ nữ ở các nước đang phát triển như Malaixia, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam... Hơn nữa, tiền lương và điều kiện lao động ở các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia thường cao hơn tiền lương và điều kiện làm việc ở các công ty nội địa.
Theo các số liệu cho thấy, các công ty xuyên quốc gia đã tạo được khoảng 45 triệu lao động vào giữa những năm 70 và 10 năm sau đạt được gần 65 triệu lao động. Con số này tăng lên 70 triệu lao động vào thập kỉ 90, trong đó khoảng 2/3 số việc làm được tạo ra ở các nước phát triển. Tuy số việc làm do các công ty xuyên quốc gia tạo ra không ngừng được tăng lên song cũng có những quan điểm cho rằng các công ty xuyên quốc gia làm gia tăng tình trạng thất nghiệp do áp dụng kĩ thuật hiện đại và cạnh tranh độc quyền làm nhiều doanh nghiệp nội địa bị phá sản.
Tuy các công ty xuyên quốc gia gia tăng hoạt động đào tạo tay nghề cho người lao động nhưng trong việc đào tạo tay nghề cũng như phân bổ, bồi dưỡng cán bộ quản lý thường tồn tại các xu hướng mâu thuẫn. Một mặt không đào tạo và bồi dưỡng có nghĩa là không thể tồn tại, song mặt khác đào tạo, bồi dưỡng cũng có nghĩa là góp phần tạo ra đối thủ cạnh tranh cho chính mình. Do vậy, các công ty xuyên quốc gia luôn luôn có sự lựa chọn phương án thích hợp. Thông thường, đào tạo chủ yếu là để giải quyết công việc ngày hôm nay, còn việc đào tạo dài hạn phải hết sức cân nhắc và có những biện pháp bảo vệ để tránh thất thoát. Đối với cán bộ quản lý, việc lựa chọn cũng được thực hiện nghiêm ngặt, đặc biệt là những cán bộ chủ chốt thường không để người có quốc tịch của nước chủ nhà đảm nhận và việc đào tạo, bồi dưỡng bao giờ cũng gắn liền với việc quản lý, tránh tình trạng chuyển sang các công ty của nước chủ nhà.
Nhìn chung, các công ty xuyên quốc gia thường tạo việc làm ở các ngành công nghiệp và dịch vụ hơn là trong ngành nông nghiệp và các ngành khác. Tỷ lệ lao động trong các ngành công nghiệp ước tính chiếm khoảng 4/5 tổng số lao động được tạo ra bởi các công ty xuyên quốc gia. Điều này phản ánh đặc điểm của công ty xuyên quốc gia chủ yếu đầu tư trong các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Mặt khác, nhiều việc làm còn được tạo ra một cách gián tiếp thông qua các liên kết kinh tế, cung cấp dịch vụ của các công ty nội địa. Theo ước tính, số lượng việc làm này chiếm khoảng một nửa tổng số việc làm được tạo ra bởi các chi nhánh công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển.
Cho đến nay, các công ty xuyên quốc gia đã tạo ra một khối lượng việc làm tương đối lớn. Tỷ lệ việc làm mà các công ty xuyên quốc gia tạo ra khá lớn, đặc biệt là ở một số nước đang phát triển, chẳng hạn như năm 1999 : ở Malaixia là 5,9%, Philippin là 8,67% và Xingapo là 54,6%. Phần lớn số việc làm mà các công ty xuyên quốc gia tạo ra làm việc trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đây là đội ngũ lao động quan trọng để phát triển nguồn lực lao động của nền kinh tế thế giới, nhất là các nước đang phát triển. Tầm quan trọng của các công ty xuyên quốc gia đối với việc tạo việc làm luôn gắn liền với động thái dòng vốn FDI trên thế giới. Tuy nhiên, trong hơn thập kỉ qua, tốc độ tăng việc làm chậm hơn so với tốc độ tăng của dòng vốn FDI. Nguyên nhân quan trọng là do hình thức đầu tư sáp nhập và mua lại ngày càng lớn và các công ty xuyên quốc gia có xu hướng sử dụng công nghệ cao và ít lao động.
Như vậy các công ty xuyên quốc gia có một vai trò quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm trên thế giới. Vì vậy việc thu hút các công ty xuyên quốc gia không chỉ mang lại một nguồn vốn đầu tư to lớn mà còn giúp phát triển nguồn lao động và tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên cũng cần phải có chính sách hợp lý trong việc nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực và tạo việc làm của các doanh nghiệp trong nước để có thể cạnh tranh được với các công ty nước ngoài, nếu không sẽ gánh phải những thiệt hại to lớn về lâu dài.
2.4. Vai trò thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ
a. Hoạt động nghiên cứu và phát triển của các công ty xuyên quốc gia
Trong chiến lược phát triển của mình, các công ty xuyên quốc gia luôn đặt vấn đề công nghệ lên hàng đầu. Đi đầu trong công nghệ cũng có nghĩa là tiến trước đối thủ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường. Chính vì vậy, sự phát triển công nghệ đối với mỗi một công ty xuyên quốc gia là một yếu tố sống còn và hoạt động nghiên cứu và phát triển (R & D) luôn là hướng ưu tiên của các công ty xuyên quốc gia trên thế giới.
R&D luôn mang lại cho các công ty xuyên quốc gia sức mạnh cạnh tranh mang tính độc quyền cao. Trước đây, các công ty xuyên quốc gia thường đầu tư lớn cho các phòng thí nghiệm, các viện nghiên cứu để cho ra đời các phát minh, sáng chế. Các phát minh, sáng chế này sẽ được "chuyển giao" từ công ty mẹ đến các công ty chi nhánh trên khắp thế giới. Nhưng ngày nay, trong các công ty xuyên quốc gia đang diễn ra quá trình quốc tế hóa mạnh mẽ khâu R&D. Công nghệ mới ra đời không chỉ từ các phòng thí nghiệm, các viện nghiên cứu mà còn từ các trường đại học và ngay tại các xí nghiệp, các cơ sở của công ty xuyên quốc gia. Nếu như trước kia, các công ty xuyên quốc gia đều đưa ra các quyết định chiến lược tại trụ sở công ty mẹ, thì hiện nay cách tiến hành mang tính tập trung hóa như vậy đã không còn thích hợp nữa. Ngày nay, các hoạt động R&D ngày càng được tiến hành nhiều ở nước ngoài.
Các hoạt động FDI và R&D được thu hút vào các khu vực mà chúng có các nguồn tri thức đặc biệt. Hầu hết các hoạt động này được tập trung ở các nền kinh tế phát triển và đây là nơi mà hầu hết các R&D vẫn hoạt động. Hiện nay, nhiều nước đang phát triển đã xây dựng các cơ sở đào tạo chuyên sâu, các trung tâm nghiên cứu hoặc các khu công nghệ và khoa học và chúng đã trở thành những nước nhận đầu tư vào các ngành sử dụng các đầu vào công nghệ cao.
Để đảm bảo nâng cao hiệu quả R&D, ngày nay, các công ty xuyên quốc gia đã tiến hành liên kết hợp tác trong lĩnh vực R&D. Các liên kết R&D bao gồm các thỏa thuận trong đó 2 hay nhiều hãng sẽ cung cấp một mức độ nào đó các hợp tác kĩ thuật hoặc một phần các hoạt động R&D.
Có hai cách liên kết R&D giữa các công ty :
+ Liên kết theo chiều ngang giữa các đối thủ cạnh tranh, nhằm cam kết với nhau về một loại thị trường hàng hóa nào đó, hoặc cùng nghiên cứu chung, nhằm tránh việc tăng cường khả năng cạnh tranh của đối thủ, khi họ có ý định nâng cao hơn chi phí R&D cho sản phẩm đó.
+ Liên kết theo chiều dọc giữa các công ty có hoạt động và sản phẩm tương ứng, hoạt động R&D chung sẽ làm tăng cường đổi mới của các công ty và tránh được cạnh tranh.
Tuy nhiên, phát triển và liên kết thực hiện R&D của các công ty để tạo ra và nắm giữ công nghệ không thôi chưa đủ, các công ty xuyên quốc gia luôn biết cách sử dụng công nghệ của mình một cách hữu hiệu nhất nhằm duy trì tính độc quyền cao, bành trướng ảnh hưởng của mình ra khắp toàn cầu nhằm phục vụ mục tiêu phát triển ổn định và lâu dài. Chính vì vậy các công ty xuyên quốc gia đã thực hiện chính sách chuyển giao công nghệ.
b. Chính sách chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia
Phương thức chuyển giao của các công ty xuyên quốc gia thường phân làm hai cấp độ :
Thứ nhất, chuyển giao các quy trình công nghệ hiện đại, kĩ thuật mới... trong nội bộ công ty, từ công ty mẹ tới các công ty chi nhánh hoặc từ chi nhánh này sang chi nhánh khác trong nội bộ công ty, để có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế đồng thời thực hiện sự kiểm soát công nghệ, tránh rò rỉ hay rơi vào tay các đối thủ cạnh tranh.
Thứ hai, chuyển giao các công nghệ lạc hậu hơn cho các xí nghiệp liên doanh, hoặc từ các chi nhánh của mình tới các công ty địa phương, xí nghiệp nhà nước của nước chủ nhà. Điều này cho phép các công ty xuyên quốc gia khai thác triệt để thế mạnh vốn có mà vẫn kiểm soát được công nghệ của mình bằng cách giữ lại những khâu then chốt để giữ các công ty tiếp nhận công nghệ ở vị trí phụ thuộc và nằm dưới sự khống chế của mình. Với phương thức này, các công ty xuyên quốc gia luôn có khả năng duy trì được khoảng cách an toàn và bành trướng ảnh hưởng của mình trên quy mô toàn cầu.
Các công ty xuyên quốc gia thực hiện hai hướng chuyển giao khá rõ với các nước có trình độ phát triển khác nhau. Đối với các nước công nghiệp phát triển, các công ty xuyên quốc gia thường chuyển giao công nghệ cao bằng phương thức "bán đứt" kèm theo các điều kiện có lợi cho các công ty này và thậm chí là các nước có các công ty này. Trong khi đó, đối với các nước đang phát triển, các công ty xuyên quốc gia lại thường chuyển giao các công nghệ lạc hậu hơn. Điều này do một số lý do :
+ Chuyển giao công nghệ lạc hậu sang các nước đang phát triển là để di chuyển các ngành công nghiệp đã lạc hậu, những ngành sử dụng nhiều lao động và những ngành gây ô nhiễm môi trường ra khỏi cơ cấu nội tại của chúng. Đồng thời việc này cũng giúp cho các công ty xuyên quốc gia tiết kiệm được tư bản do tiếp tục sử dụng các tư bản dưới dạng máy móc thiết bị đã bị hao mòn vô hình cũng như những quy trình công nghệ lạc hậu mà sản phẩm làm ra không còn sức cạnh tranh trên thị trường.
+ Các công ty xuyên quốc gia ngày nay không dễ gì chuyển giao công nghệ hiện đại cũng như vứt bỏ độc quyền về kĩ thuật, nhất là các bí quyết kĩ thuật, quản lý, marketing... để các quốc gia chủ nhà, các công ty hay chi nhánh các công ty xuyên quốc gia khác ở quốc gia đó tiếp thu và trở thành đối thủ cạnh tranh của chính mình.
+ Đối với các ngành có công nghệ lạc hậu thì thường phải sử dụng nhiều nhân công và không yêu cầu trình độ tay nghề cao. Chính vì vậy việc chuyển giao các công nghệ này cho các nước đang phát triển nhằm khai thác được nguồn nhân công giá rẻ ở các nước này.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, các công ty xuyên quốc gia sẽ buộc phải chuyển giao công nghệ hiện đại và từng bước nâng lên nếu muốn cạnh tranh trên thị trường thế giới. Điều này do ba nguyên nhân : thứ nhất, bản thân nền kinh tế thị trường đòi hỏi các công ty xuyên quốc gia phải cải tiến kĩ thuật và nâng dần mặt bằng công nghệ trong hệ thống chi nhánh của mình nếu nó muốn tồn tại. Thứ hai, xu hướng đa phương hóa quan hệ kinh tế sẽ cho phép các quốc gia đang phát triển có cơ hội tiếp cận với nhiều luồng công nghệ tiên tiến và theo đó, công ty nào muốn giữ độc quyền quá lâu một loại công nghệ sẽ mất dần vị thế độc quyền và không còn giữ được sự khống chế của mình trong một số ngành vì các nước có thể tìm kiếm công nghệ từ các công ty khác. Thứ ba, ngày nay các nước đang phát triển đang từng bước trang bị hệ thống cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng để có đủ điều kiện tiếp nhận công nghệ cao.
Xu hướng này cho thấy sự kìm hãm việc chuyển giao công nghệ tiên tiến cũng chỉ mang tính tương đối trong chính sách chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia. Tuy nhiên, việc xóa bỏ được sự kìm hãm này phụ thuộc rất lớn vào nỗ lực chủ quan của từng quốc gia chủ nhà.
Ngày nay, có ba con đường chủ yếu mà các công ty xuyên quốc gia sử dụng để chuyển giao công nghệ :
+ Thông qua các hợp đồng mua bán công nghệ trên thị trường : thường được sử dụng đối với bạn hàng ở các nước phát triển. Với kênh chuyển giao này, chỉ có các nước công nghiệp phát triển mới có đủ năng lực công nghệ để lựa chọn, tiếp nhận, triển khai và ứng dụng các công nghệ được chuyển giao.
+ Thông qua hình thức trao đổi thông tin, đào tạo và huấn luyện cán bộ khoa học, nhân viên kĩ thuật, công nhân lành nghề : thường được áp dụng đối với các nước đang phát triển.
+ Công nghệ sẽ được chuyển giao thông qua các hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ( FDI ) : đây là kênh chuyển giao hết sức quan trọng và hiệu quả, bởi vì FDI cho phép các công ty xuyên quốc gia sử dụng và chuyển giao công nghệ của mình ở mọi cấp độ một cách hiệu quả nhất mà đồng thời vẫn kiểm soát được chúng.
* Tác động của chính sách chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia :
Các chính sách và các phương thức chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia một mặt đã giúp các công ty xuyên quốc gia thực hiện được chiến lược độc quyền cao về mặt công nghệ, từ đó duy trì ảnh hưởng và bám rễ sâu vào từng khu vực thị trường trên toàn cầu, mặt khác, chính các chính sách và phương thức này đã tác động mạnh mẽ tới các nước tiếp cận công nghệ, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á.
Ngày nay, với các chính sách chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia, mặt bằng trình độ công nghệ được nâng lên một cách đáng kể ở các nước mà nó có mặt. Đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á, các chính sách chuyển giao công nghệ này đã đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho nền kinh tế, đồng thời cung cấp phương pháp quản lý tiên tiến, kĩ thuật marketing hiện đại. Các quốc gia Đông Nam Á ngày nay với nền kinh tế năng động bậc nhất thế giới là một thị trường đầy tiềm năng đối với các công ty xuyên quốc gia nhờ các nhân tố về điều kiện địa lý thuận lợi, nguồn tài nguyên phong phú, nguồn lao động rẻ với trình độ văn hóa và tay nghề tương đối cao. Và đặc biệt, đa số các quốc gia này đều theo đuổi chiến lược công nghiệp hóa "hướng ngoại" Những điều này đã trở thành các yếu tố hấp dẫn cơ bản, tạo dựng môi trường đầu tư lành mạnh thu hút các công ty xuyên quốc gia vào hoạt động.
Tác động rõ rệt và quan trọng nhất của các công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế các quốc gia Đông Nam Á thông qua chính sách chuyển giao công nghệ là việc tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật mang tính cách mạng hóa cao, giúp các nền kinh tế này có được cơ sở vật chất để phát triển nền kinh tế. Cùng với sự xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia tại khu vực này, nền kinh tế các quốc gia Đông Nam Á đã diễn ra sự dịch chuyển cơ bản cơ cấu kinh tế biểu hiện ở việc một loạt các ngành công nghiệp như khai khoáng, điện tử, ôtô đã ra đời và nhanh chóng vươn lên có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Bên cạnh những tác động tích cực, cái giá mà các quốc gia tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ phải trả cũng rất đáng kể. Các nền kinh tế này đã bộc lộ tính lệ thuộc ngày càng chặt chẽ, nhất là về lĩnh vực công nghệ vào các công ty xuyên quốc gia. Ngoài ra, việc chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia bao giờ cũng gắn liền với các điều kiện kèm theo hết sức khắt khe để có lợi cho các công ty ấy và thậm chí là các quốc gia có công ty ấy. Vì vậy, các nước đang phát triển khi thực hiện tiếp nhận công nghệ chuyển giao cần phải hết sức thận trọng để vừa khai thác được tối đa lợi ích của việc tiếp nhận công nghệ chuyển giao đồng thời tránh bị lệ thuộc và vẫn đảm bảo tình hình an ninh, chính trị của quốc gia. Đây là một điểm cần lưu ý đối với Việt Nam trong giai đoạn mở cửa và hội nhập nền kinh tế hiện nay.
3. Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam
Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam chỉ bắt đầu kể từ khi nước ta ban hành luật đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tháng 12-1987. Qua hơn 15 năm, các công ty xuyên quốc gia đã có đóng góp đáng kể vào sự phát triển nền kinh tế nước ta. Có thể nói các công ty xuyên quốc gia là một nhân tố quan trọng trong quá trình mở cửa, hội nhập nền kinh tế nước ta trong thời gian qua.
3.1. Đặc điểm hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam
- Các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam có nguồn gốc chủ yếu từ các nước châu Á.
Có thể nhận biết nguồn gốc các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào Việt Nam thông qua nguồn vốn FDI. Theo số liệu năm 2002, cả nước có 669 dự án FDI được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng kí 1,333 tỉ USD. Số dự án và vốn nhiều nhất thuộc về khu vực Đông Á ( 0,94 tỉ USD ), sau đó đến châu Âu ( 0,2 tỉ USD ) và Mỹ ( 0,14 tỉ USD ). Như vậy có thể thấy vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam có nguồn gốc chủ yếu từ các nền kinh tế châu Á.
Các công ty xuyên quốc gia châu Á thường có đặc điểm là thuộc các nước đang phát triển hoặc không phải xuất phát từ công ty mẹ mà là các công ty thuộc thế hệ thứ hai, nghĩa là từ các công ty chi nhánh ở nước thứ hai đầu tư vào nước thư ba.
Việc các công ty xuyên quốc gia hoạt động ở Việt Nam phần lớn đến từ các quốc gia châu Á đã tạo ra một số thuận lợi do sự gần gũi về mặt văn hóa, chính trị và địa kinh tế. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có một số khó khăn trong việc xử lý các quan hệ lợi ích khi cả đôi bên đều rất hiểu nhau.
- Các công ty xuyên quốc gia hoạt động ở Việt Nam phần lớn đều thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ
Xét trên các chỉ tiêu về quy mô vốn, trình độ công nghệ, phạm vi ảnh hưởng trên thị trường thế giới... thì ở Việt Nam hiện nay số công ty xuyên quốc gia lớn vẫn còn ít so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Phần lớn các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào Việt Nam là vào các ngành điện tử, dệt may, nông lâm hải sản chế biến, dịch vụ du lịch và khách sạn...Điều này do một số nguyên nhân :
+ Lợi thế của Việt Nam chủ yếu là lao động rẻ, giá nguyên vật liệu rẻ và thị trường rộng lớn thích hợp với các ngành vừa kể trên.
+ Do các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào Việt Nam chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia châu Á với nguồn vốn và công nghệ còn thấp ( trừ các công ty Nhật Bản).
+ Do hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn yếu kém chưa đủ điều kiện để tiếp nhận công nghệ cao. Đồng thời hệ thống chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập.
+ Việt Nam mới đang ở những bước đầu tiên của tiến trình hội nhập quốc tế vì vậy sự ưu tiên chủ yếu vẫn dành cho các công ty xuyên quốc gia trong khu vực.
- Các lĩnh vực đầu tư của các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam ngày càng được mở rộng.
Với sự gia tăng các công ty xuyên quốc gia tham gia hoạt động tại Việt Nam, các lĩnh vực đầu tư của các công ty này ngày càng được mở rộng.
Trong ngành công nghiệp khai thác dầu khí, Việt Nam đã thu hút được các công ty hàng đầu thế giới như Shell (Anh- Hà Lan), Mobil Oil (Mỹ), Total (Pháp), Petronas (Malaysia) với các dự án đầu tư lên đến hàng tỉ đôla.
Lĩnh vực khách sạn và du lịch cũng là một đối tượng hấp dẫn các công ty xuyên quốc gia khi ngành khách sạn và du lịch của Việt Nam ngày càng khởi sắc sau khi thực hiện mở cửa nền kinh tế. Đây được coi là một ngành mũi nhọn của Việt Nam trong thời điểm hiện nay.
Ngành bưu chính, viễn thông là ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất ở Việt Nam hiện nay. Đây cũng là điều dễ hiểu vì đây đang là lĩnh vực phát triển nhất trên thế giới. Với sự tham gia của các công ty xuyên quốc gia khổng lồ như Motorola (Mỹ), Nokia (Phần Lan), Telstra ( úc), Samsung (Hàn Quốc)... thị trường công nghệ thông tin của Việt Nam đang ngày một lớn mạnh. Các công ty này đang là những nhà cung cấp dịch vụ viễn thông chủ yếu trên thị trường Việt Nam. Đồng thời với các công nghệ hiện đại mà các công ty này đem lại, ngành bưu chính, viễn thông của Việt Nam đang cố gắng bắt kịp các nước trong khu vực và trên thế giới.
Ngoài các ngành trên một số ngành khác cũng có sự đóng góp không nhỏ của các công ty xuyên quốc gia. Đó là các ngành điện tử, công nghiệp ôtô, xe máy, công nghiệp chế biến, dệt may, giày dép... Các ngành này ngoài việc đem lại đóng góp đáng kể vào GDP còn giải quyết được vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động.
Tuy nhiên, một lĩnh vực quan trọng là tài chính- tiền tệ- ngân hàng vẫn còn chưa thu hút được các công ty xuyên quốc gia lớn trên thế giới. Điều này do một số chính sách của nước ta chưa phù hợp với sự phát triển của ngành này do một số e ngại của các công ty xuyên quốc gia.
- Các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam tồn tại chủ yếu dưới hình thức liên doanh và đối tác liên doanh chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước.
Trong 10 năm 1988-1998 hình thức liên doanh đã chiếm 61% số dự án và 70% tổng số vốn cam kết đầu tư. Hình thức này có ưu điểm là các công ty xuyên quốc gia sẽ bớt được chi phí cho quyền sử dụng đất và một số nhà xưởng. Phía nước ngoài đóng góp bằng tiền mặt và các trang thiết bị nhập khẩu. Do vậy, sự hoạt động của liên doanh gần như do phía nước ngoài quyết định.
Hình thức này có một số thuận lợi như việc chuyển giao công nghệ, giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động, giúp các doanh nghiệp trong nước học hỏi kinh ngiệm quản lý của người nước ngoài. Tuy nhiên nó vẫn còn những hạn chế như những bất đồng trong ban lãnh đạo công ty, những bất đồng về chiến lược giữa doanh nghiệp trong nước và công ty nước ngoài, hiệu quả kinh doanh vẫn còn kém, nhiều doanh nghiệp thua lỗ, giải thể... Chính vì vậy, hiện nay đang có một xu hướng là các công ty nước ngoài thành lập hẳn những xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. Thực tế cũng cho thấy xu hướng này hiệu quả hơn và có lợi cho cả hai bên.
- Việt Nam đang từng bước tạo dựng môi trường đầu tư nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài bằng việc mở rộng mạnh mẽ các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao.
Cùng với việc mở rộng các chính sách khuyến khích các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào Việt Nam, nước ta còn đang từng bước xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao để khắc phục những yếu kém về cơ sở hạ tầng và tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các công ty nước ngoài. Các khu công nghiệp Nam Thăng Long, Biên Hòa hay khu kinh tế mở Chu Lai... đang ngày càng được hiện đại hóa để không chỉ đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn hướng ra xuất khẩu. Các khu công nghiệp này ra đời đã giúp cho việc chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia trở nên thuận lợi hơn đồng thời cũng giúp nước ta tiếp cận với các công nghệ hiện đại của thế giới một cách dễ dàng hơn.
- Các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam đang từng bước tạo dựng hình ảnh và tăng cường sự hiểu biết thị trường Việt Nam thông qua các hoạt động hỗ trợ văn hóa và phát triển khoa học.
Với tiềm năng tài chính của mình, các công ty xuyên quốc gia đã không ngừng có những hoạt động ngoài kinh doanh với cai trò như các tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam. Có rất nhiều các hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường đại học, các viện khoa học, các học bổng đào tạo ở nước ngoài được tài trợ bởi các công ty xuyên quốc gia. Ngoài ra các hoạt động giao lưu văn hóa, các hoạt động xã hội mang tính nhân văn cũng có đóng góp không nhỏ của các công ty xuyên quốc gia. Chính động thái này đã làm thay đổi cách nhìn của người Việt Nam đối với các công ty nước ngoài. Các hoạt động này tất nhiên để phục vụ cho lợi ích của các công ty này nhưng nó cũng đem lại lợi ích đáng kể cho Việt Nam.
3.2. Tác động của các công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế Việt Nam
a. Những tác động tích cực
Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia ngày càng có tác động tích cực đối với sự nghiệp cải cách và công cuộc đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam. Điều này thể hiện qua những điểm sau :
- Các công ty xuyên quốc gia cung cấp nguồn vốn quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước.
Nguồn vốn của các công ty xuyên quốc gia là một nguồn lực quan trọng trong việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế nước ta. Nhưng điều quan trọng hơn của nguồn vốn này lại ở chỗ khác. Nhờ có nó, nhiều nguồn lực trong nước ngày càng giữ vai trò quan trọng trong tổng đầu tư xã hội : vốn đầu tư nước ngoài, vốn của các doanh nghiệp trong nước và nhàn rỗi của dân cư theo hiệu ứng dây chuyền có thể khơi dậy để đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa, hoặc để phát triển các lĩnh vực sản xuất- dịch vụ đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp có vốn nước ngoài hoặc của người tiêu dùng nước ngoài. Nhờ nguồn vốn này, nhiều ngành mới đã được hình thành và phát triển đồng thời nguồn vốn công nghệ cũng đã giúp chúng ta tiếp cận được với một số lĩnh vực hiện đại.
- Các công ty xuyên quốc gia đóng góp tích cực trong việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sự tiến bộ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta trong thời gian qua có đóng góp không nhỏ của các công ty xuyên quốc gia. Cho đến nay khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra gần 35% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp. Rõ ràng, các công ty xuyên quốc gia đã chiếm một tỉ trọng cao trong nhiều ngành sản xuất công nghiệp. Đồng thời, các công ty xuyên quốc gia đã góp phần tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới mà trước kia Việt Nam chưa có. Cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp, các ngành sản xuất và cung cấp dịch vụ cũng được phát triển theo. Có thể nói, các công ty xuyên quốc gia không chỉ góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam tham gia vào sự phân công lao động quốc tế mới mà còn giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam thích ứng cao nhất với các đòi hỏi của nền kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập quốc tế.
- Các công ty xuyên quốc gia tham gia tích cực vào việc duy trì nhịp độ tăng trưởng cao và ổn định cho nền kinh tế, mở rộng xuất khẩu, tăng doanh thu ngân sách.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới mọi hình thức đều có tốc độ tăng trưởng cao kể cả thời kì Việt Nam chịu sự tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ khu vực. Chúng đã đóng góp đáng kể vào tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định và làm cho Việt Nam trở thành một trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực châu Á- Thái Bình Dương trong thời gian qua.
Đối với kim ngạch xuất khẩu, các công ty xuyên quốc gia có đóng góp ngày càng tăng. Nếu năm 1991 mức độ đóng góp chỉ là 52 triệu USD thì đến năm 1999, con số này đã là 2200 triệu USD và chiếm 21,6% kim ngạch xuất khẩu.
Đối với nguồn thu ngân sách cũng vậy.Nếu như năm 1994 đóng góp của khu vực này ( không kể dầu khí ) chỉ là 28 triệu USD thì đến năm1998 là 316 triệu USD, chiếm khoảng 6-7% nguồn thu ngân sách hàng năm.
- Các công ty xuyên quốc gia góp phần giải quyết việc làm, tham gia phát triển nguồn nhân lực cho đất nước.
Tính đến cuối năm 1999 đã có gần 30 vạn người lao động Việt Nam làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đa số họ là những công nhân, cán bộ quản lý có tay nghề, có kĩ năng và kỉ luật cao. Họ sẽ được đào tạo nâng cao tay nghề, nắm được công nghệ, thậm chí còn học được bí quyết về kĩ thuật và kinh doanh khi tham gia lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây chính là một nguồn nhân lực đầy tiềm năng để phát triển nền kinh tế đất nước.
Ngoài ra, với sự có mặt của các công ty xuyên quốc gia, thu nhập của người lao động cũng được cải thiện đáng kể. Mức thu nhập trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường cao hơn so với các doanh nghiệp trong nước đã thu hút những người lao động trong các doanh nghiệp trong nước. Điều này cũng khiến cho các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực trong việc thực hiện chính sách sử dụng và đãi ngộ đối với người lao động. Mặt khác, sự cạnh tranh này cũng khiến cho thị trường lao động phát triển và có khả năng thích nghi cao nhất đối với mọi biến động của tình hình kinh doanh ở trong và ngoài nước.
- Các công ty xuyên quốc gia là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự nghiệp chuyển đổi sang kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập kinh tế của Việt Nam.
Việc các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc xác lập và tăng cường quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các quốc gia, lãnh thổ có các công ty này. Xuất phát từ lợi ích của các công ty xuyên quốc gia nước mình, chính phủ các nước đã kí nhiều hiệp định về đầu tư, hiệp định tránh đánh thuế hai lần... nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất cho các hoạt động của các công ty xuyên quốc gia. Do đó, quan hệ hợp tác kinh tế song phương giữa Việt Nam các nước được xúc tiến và mở rộng hơn.
Ngoài ra, một nước nào đó muốn thu hút được vốn và công nghệ từ các công ty xuyên quốc gia thì nhất thiết nền kinh tế của họ phải là nền kinh tế hội nhập thực sự vào thị trường khu vực và thế giới. Vì vậy, sự có mặt của các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam ngoài ý nghĩa khẳng định sự chuyển đổi tích cực sang kinh tế thị trường nhằm thích ứng với toàn cầu hóa, khu vực hóa của nền kinh tế Việt Nam, còn là điều kiện tạo thế và lực cho nền kinh tế Việt Nam mở rộng các quan hệ chính trị và kinh tế đối ngoại, cho sự hội nhập của Việt Nam vào ASEAN, APEC, AFTA và tiến tới vào WTO.
b. Một số nhược điểm và tác động tiêu cực của các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam
- Mục tiêu của các công ty xuyên quốc gia thường xuyên mâu thuẫn với mục tiêu, chiến lược chung về phát triển kinh tế, xã hội của nhà nước ta.
Mục tiêu của các công ty xuyên quốc gia là lợi nhuận, thị phần, doanh số, ưu thế cạnh tranh và phát triển ổn định. Nó thường xuyên mâu thuẫn với mục tiêu chiến lược chung về phát triển kinh tế- xã hội của nhà nước ta là tăng trưởng đồng đều, cao và bền vững.
Do mục đích của mình là tìm kiếm lợi nhuận cao nhất, các công ty xuyên quốc gia thường đầu tư vào các thành phố, trung tâm lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng... Điều này mâu thuẫn với chính sách phát triển đồng đều giữa các địa phương của nhà nước ta. Nhà nước ta cũng đã có những chính sách khắc phục nhược điểm này bằng cách xây dựng mới nhiều khu công nghiệp cùng với những chính sách ưu đãi.
Các công ty xuyên quốc gia thường tập trung đầu tư vào các ngành như khai thác dầu khí, công nghiệp điện tử, dệt may, giày dép... Điều này góp phần làm chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế nước ta nhưng đồng thời cũng gây ra sự phát triển mất cân đối giữa các ngành. Vì vậy nước ta cần có những biện pháp khuyến khích đầu tư vào các ngành yêu cầu vốn đầu tư dài hạn, chuyển vốn chậm, lãi suất thấp.
- Các công ty xuyên quốc gia lớn, nhất là các công ty đến từ châu Âu và châu Mỹ, còn dè dặt trong việc đầu tư vào Việt Nam
Các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào Việt Nam chủ yếu là đến từ các quốc gia châu Á. Thị trường Việt Nam vẫn chưa thu thút được các công ty xuyên quốc gia lớn đến từ Mỹ và châu Âu. Điều này do một số lý do :
+ Việt Nam mới chuyển sang nền kinh tế thị trường còn chưa lâu nên vẫn còn bỡ ngỡ với môi trường đầu tư nước ngoài. Vì vậy vẫn chưa hấp dẫn đối với các công ty xuyên quốc gia lớn của Mỹ và châu Âu so với các thị trường truyền thống của các công ty này.
+ Việt Nam chưa kí kết được với nhiều nước châu Âu và đặc biệt với Mỹ hiệp định thương mại song phương.
+ Hệ thống luật pháp của Việt Nam vẫn còn chưa chặt chẽ làm cho các công ty này nghi ngờ về môi trường và tính khả thi của những dự án đầu tư đã kí kết.
- Một số công ty xuyên quốc gia lạm dụng các ưu thế về vốn, công nghệ để thao túng và gây hậu quả xấu cho liên doanh, thậm chí gây sức ép với cơ quan quản lý nhà nước
Trong một số liên doanh, các công ty xuyên quốc gia nước ngoài đã sử dụng các ưu thế của mình để chèn ép các doanh nghiệp trong nước, hướng tới độc quyền trong nền kinh tế tự do hóa hiện nay. Vì vậy Việt Nam cần phải cảnh giác với sự liên kết của các công ty xuyên quốc gia với các doanh nghiệp nhà nước, tránh để xảy ra những tiêu cực.
- Một số yếu kém trong hoạt động của các công ty xuyên quốc gia còn do công tác chuẩn bị và vai trò hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước.
Trong một số lĩnh vực, công tác quản lý của chúng ta còn kém đã gây ra một số tiêu cực như cạnh tranh không lành mạnh, tình trạng độc quyền ..., đồng thời vẫn chưa phát huy được tối đa hiệu quả của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu không sửa chữa được những yếu kém này, Việt Nam sẽ dễ bị rơi xuống hàng những quốc gia có môi trường đầu tư kém hấp dẫn nhất trong khu vực.
3.3. Những vấn đề đặt ra hiện nay đối với hoạt động và thu hút các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam
- Sự cần thiết phải thống nhất quan điểm đối với các doanh nghiệp có vốn nước ngoài và các công ty xuyên quốc gia
Cần phải có những cái nhìn mới đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các công ty xuyên quốc gia và phải thẳng thắn nhìn nhận những mặt tích cực và tiêu cực của chúng. Các công ty xuyên quốc gia cũng là sự hiện thân của lợi ích một quốc gia nào đó. Cho nên, trong mối quan hệ với các công ty xuyên quốc gia, Việt Nam cũng cần tính đến những quốc gia có các công ty đó.
- Công tác hoạch định chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn chậm, chưa rõ ràng và chất lượng chưa cao
Thiếu một quy hoạch tổng thể về thu hút vốn đầu tư nước ngoài là biểu hiện bao trùm trong bức tranh chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam. Vì thế, một số ngành đã không thu hút được các dự án đầu tư đáng kể trong khi rất nhiều ngành đã đầu tư quá mức, vượt quá nhu cầu trong nước và khó tìm được thị trường xuất khẩu.
Ngoài ra, đối với một số dự án chúng ta còn quá dễ dãi, chấp nhận một cách tràn lan nên số lượng các dự án không có tính khả thi còn nhiều, vừa gây mất thời gian, vừa tiêu tốn nhiều chi phí xem xét, thẩm định và phê duyệt dự án. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải nâng cao hiệu quả của công tác hoạch định chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn thấp
Trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, số doanh nghiệp có lãi chưa nhiều. Bên cạnh những doanh nghiệp thua lỗ vì rủi ro trong kinh doanh, vẫn còn khá nhiều các công ty xuyên quốc gia thực hiện bán phá giá sản phẩm, nâng chi phí quảng cáo, tiếp thị và quản lý vượt quá mức cho phép nhằm mục tiêu chiếm lĩnh thị trường hoặc để loại bỏ các đối tác Việt Nam trong liên doanh. Vì vậy, nhà nước cần hoàn thiện hệ thống luật kinh tế để loại bỏ những biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh của các công ty này
- Hệ thống luật pháp, chính sách thiếu đồng bộ, chưa đảm bảo tính rõ ràng và khả năng dự đoán được cho các nhà đầu tư
Nước ta chưa có một hệ thống pháp luật đồng bộ, toàn diện nên việc bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp cả trong và ngoài nước, cũng như quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của họ chưa được xác định nhất quán.
Tính ổn định của luật pháp, chính sách chưa cao. Trong nhiều trường hợp, luật pháp và chính sách thay đổi đột ngột đã làm đảo lộn các phương án kinh doanh của các nhà đầu tư.
Việc vận dụng luật pháp, chính sách trong một số trường hợp còn tùy tiện và không thống nhất giữa các cấp.
- Công tác quản lý của nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài còn chưa có tác động thúc đẩy hứng khởi đầu tư của các công ty xuyên quốc gia
Việc cấp giấy phép trong những năm đầu ban hành luật đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thiên về các dự án thay thế nhập khẩu để đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của thị trường.
Công tác thẩm định và phê duyệt dự án này có phân cấp, nhưng vẫn còn nhiều bất cập.
Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước còn chưa chặt chẽ. Hành vi sách nhiễu của một số cán bộ thừa hành đã làm biến dạng chính sách, chủ trương của Nhà nước, làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài.
- Vấn đề đội ngũ cán bộ quản lý, công chức và công nhân kĩ thuật chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Một số cán bộ quản lý, công chức và công nhân kĩ thuật trong các liên doanh còn yếu về trình độ chuyên môn, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập quốc tế.
Một số cán bộ trong các liên doanh chỉ chú ý đến thu nhập và lợi ích cá nhân mà làm thiệt hại đến lợi ích của tập thể và đất nước.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro