Chương 14: Thất Tinh Trận
Chương 14: Thất Tinh Trận
Giữa thung lũng, từ ngoài bước vào, cổng hoàng lăng đồ sộ cao vời vợi thể hiện hết sự uy quyền của Chu Kim Đế. Xung quanh bao bọc bởi các ngọn núi đủ hình dạng, nhìn giống như năm ngón tay. Trong phong thủy, người ta thường gọi là Ngũ tinh tụ tập. Thời của Chu Kim Đế từng có một vị thái y tinh thông phong thủy, đã từng bỏ mười năm tìm được long mạch đại cát, còn huy động rất nhiều người đắp các ngọn núi bao bọc nó.
Long mạch xuất phát từ hư không, cần phải có sự tích tụ, tập hợp lại mới có thể sinh khí vượng. Bên cạnh đó, Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ là năm loại hình thế của núi, phân cha ở các hướng Đông, Tây, Nam, Bắc và trung tâm, bao quanh bảo vệ cho núi chủ. Long mạch của núi chủ mà có được loại hình thế này sẽ kết huyệt đại quý.
Theo sử viết, Chu Kim Đế ngũ quan thanh thoát, diện mạo như ngọc, rất quan trọng tu đạo tránh sa vào địa ngục. Do nghiệp chướng sinh thời gây ra, ông mỗi ngày đều đọc kinh niệm phật, mong sao có thể tích công đức. Chùa miếu mọc lên như nấm, nhưng chỉ có vài cái có thể để lại cho con cháu hưởng thửơng.
Ngũ tinh tụ tập tựa như đức Phật ngồi trên cao, chúng sinh ngồi vây quanh dưới chân ngài, tụ lại thành quần tăng, cúi đầu mà nghe giảng đạo. Việc xây núi dựng hoàng lăng nhuốm không ít máu của dân chúng, nghe đâu sau khi xây xong, những người thợ cũng không trở về nữa. Bí ẩn này được chôn chung với Chu Kim Đế được thời gian phủ lên lớp bụi vàng.
Mạc Hoa ngồi trên chiếc ghế trúc xanh biếc nằm gọn trên lưng người gọi là Tiểu Ngũ. Hắn to cao gấp đôi người thường, mỗi bước đi đều in sâu dưới cát, cơ bắp cuồn cuộn, tóc chỉ để chỏm nhỏ, khuôn mặt to tròn ngô nghê nhưng đôi mắt lại tràn tràn sát khí. Người này vốn thuộc bộ tộc man di, tên thật là A Nỗ Ngạch, từ nhỏ sống sâu trong núi, được thú rừng nuôi dưỡng. Năm Kim Quốc đánh Lương Quốc, các cánh rừng gần như bị thiêu rụi, phụ thân nàng trong lúc tuần tra phát hiện ra hắn ở trong các hang núi đầy sát gấu hoang, được một con gấu lớn ôm trong lòng. Ông thương tình mới mang nó về nuôi, dựa trên chữ triện xăm trên lưng, mới biết hắn thuộc tộc Điêu Thương. Tộc người này năm xưa dựa vào sức mạnh về quân đội mà nổi loạn, bị tiên đế sát phạt không còn ai. Không ngờ, đứa trẻ con này lại trốn thoát được. Mặc dù, hắn hung dữ ít nói, chỉ thích nói chuyện bằng tay chân nhưng rất nghe lời lại ngoan ngoãn phục tùng. Trong số các huynh đệ theo nàng đến đây, Tiểu Ngũ là dễ thương nhất, rảnh rỗi luôn ra vườn trồng cây, hoặc là tìm chỗ nào khuất để ngủ, nên ít ai biết đến hắn.
“Tiểu Ngũ, lát nữa, Phùng tiên sinh nói sao thì ngươi làm vậy, không cần hỏi ý kiến của ta.”
“Oa… Biết…” A Nỗ Ngạch kêu một tiếng gật gù, tấm lưng của hắn ướt sũng, cả buổi đi dưới nắng gắt, hắn không than mệt chỉ nghịch củ khoai mình đào được. Nét mặt hồn nhiên này khiến người ta khó tin được mới ban sáng, chính bàn tay đang nâng niu thực vật đã đánh chết một con lợn rừng còn tự tay chế biến nó thành bữa trưa cho mọi người.
Triệu Tẫn lúc trước từng nghe sư thúc nói đến tộc Điêu Thương, đây là một nhánh nhỏ trong bốn nước. Theo những mảnh vải da còn sót lại, Điêu Thương – mang ý nghĩa đau thương phẫn uất – do tổ tiên tộc này là con cháu thất lạc của thái tử năm của Tẫn Quốc, sau khi lưu lạc đã quyết định dừng chân ở đây. Họ kết hôn với những người cổ quái, con cháu dần dần cũng không còn giữ được hình dạng nguyên thủy, trở thành những quái vật hoặc bán thú, điển hình là A Nỗ Ngạch, hàm răng của hắn chĩa ra như hổ răng kiếm. Móng tay lại dài như vuốt sói, tai nhọn vành như dơi, hai tay dài hơn bình thường một chút.
Nàng nhíu mày quay ngoắt lại phía sau, khi nãy có tiếng người bước đến. Đằng sau bốn phía dày đặc sương mù, nhưng mà trời vẫn còn sáng lý nào lại âm u như thế? Nàng đi đằng trước, lập tức giơ hiệu nói mọi người dừng lại, tiến về phía trước, tay nắm chặt bảo kiếm được bọc trong lớp vải màu vàng, điểm thêm vài nét chữ chu sa.
Trong lớp sương mù dày đặc, nàng nghe âm thanh thê lương “Trả mạng… trả mạng…” còn có nỗi phẫn uất, sau lưng như bị ai đó lôi kéo, nàng phi thân lên né tránh. Bầu trời như có tấm lưới ngăn nàng lên cao, dưới đất lại xuất hiện hàng vạn bàn tay lôi kéo nàng xuống đất. Bỗng chốc, xung quanh chỉ còn một màu xám tro lạnh lẽo, những người theo sau nàng biến mất không còn nghe thấy gì. La hét khản cổ cũng chẳng có ai giúp đỡ, toàn thân rét buốt, Triệu Tẫn ngã trên mặt đất, lệ từ khóe mắt trào ra. Cảm giác bất lực tận cùng, không thể cứu giúp. Bốn phía mơ hồ vang lên, tiếng kêu của ông nội: “Tẫn nhi, Tẫn nhi,… mau tỉnh lại đi~”
“Ông nội,…” trên mặt bỗng ấm áp lạ thường, nước mắt lăn dài, nàng cười như khóc: “Tẫn nhi đợi người lâu lắm…”
“Tẫn nhi, mau dậy đi, đừng yếu đuối.”
“Tẫn nhi không muốn ông nội đi… Tẫn nhi nhớ người lắm…”
“Không được, Triệu gia vẫn còn trông chờ ở con… Tẫn nhi, ta vẫn luôn ở bên con…”
“Ông nội…” Triệu Tẫn bất lực nhìn ông nội tan biến vào hư không, toàn thân không còn sức lực chống đỡ.
Trên bầu trời, mây đen dày đặc bao kín đột nhiên chuyển động như rồng bay, từng đợt sấm giòn giã vang lên, sét tựa vóng vuốt xé rách tấm lưới khi nãy, một vài vệt nắng mỏng manh xuyên qua rọi vào người đang nằm dưới đất, toàn thân gần như bị cát phủ kín. Triệu Tẫn cảm thấy tay trái nóng như lửa không ngừng tỏa nhiệt, khiến nền đất lạnh đỏ rực như lò nung. Một đạo sét đánh xuống phá tan những bàn tay trắng bệch cố lôi kéo nàng về phía chúng. Rồng trên trời lại ưỡn người, xoay vòng lớn như lốc rồi hướng xuống chỗ Triệu Tẫn, siết chặt eo nàng, phá kết giới bay lên. Nắng gắt như lò nhiệt hắt vào người nàng, khiến Triệu Tẫn giật mình tỉnh giấc. Làn sương mù lùi ra xa rồi tan vào không khí như cách nó xuất hiện, không dấu tích gì hết.
Đằng xa, tiếng người vang lên ngày một rõ hơn.
“Phùng tiên sinh! Ngươi ở đâu?!”
“Ta…” Triệu Tẫn giơ tay định ra hiệu chợt thấy bảo kiếm vốn được niêm phong đã lộ ra ngoài, lớp vải phong chú xé rách vươn vãi dưới nền đất. Bây giờ, nàng mới biết bảo kiếm mà Triệu gia đời đời giữ gìn lại đẹp lạ thường như vậy. Chuôi kiếm đính ngọc lưu ly, bao kiếm khắc vài chữ nhỏ bằng vàng nhưng lại bị bòn mòn đọc không rõ.
Không nhịn được, Triệu Tẫn quên lời dặn mà Thực Quy khi đưa kiếm đã dặn dò. Kiếm này là ông nội trước lúc chết đã giao cho, nó vốn là vật đoạt mạng trên chiến trường, ẩn chứa đầy sát khí, người dùng không cẩn thận sẽ bị oán khí làm tổn thương. Kiếm vừa rút ra một chút, ngực của Triệu Tẫn như bị ai dùng nội lực đánh vào, nàng ngã ra sau, máu từ khóe miệng trào ra.
“Phùng tiên sinh!” Thanh Thanh cách đó không xa, thấy Phùng Thích Uẩn ngã xuống còn thổ huyết, vội vã chạy tới đỡ dậy. Hai người chỉ cách nhau ba bước, bỗng một vệt sáng xoẹt ngang qua, Thanh Thanh ngả người ra sau, rút kiếm chém về hướng đối diện. Kiếm khí đánh ra như lưỡi rìu chặt đứt hai cây thông sừng sững đằng trước. Tưởng rằng có thể giết chết sát thủ không ngờ vệt sáng tỏa ra càng lúc càng nhiều, cơ hồ không thể thể né tránh.
“Kiếm…” Triệu Tẫn thấy cảnh trước mắt hơi hoảng sợ, dần dần định thần lại được, liền tra kiếm vào vỏ, dùng nội lực phong tỏa huyệt đạo tránh để sát khí ảnh hưởng, cầm mảnh vải vàng rách vài chỗ bao lấy bảo kiếm. Lúc đầu, vật bên trong không ngừng chống cự muốn thoát ra, phải mất một canh giờ nó mới chịu khuất phục nằm im.
Thanh Thanh nghi ngờ hỏi: “Tiên sinh, kiếm này vì sao lại khác thường như vậy?”
Triệu Tẫn ôm ngực hô mấy tiếng, phun hết vị tanh trong miệng ra ngoài, mệt mỏi nói: “Kiếm này là bảo vật truyền lại hơn một trăm năm, có linh tính như người, chỉ là sát khí quá mạnh khó lòng khống chế.”
“Khi nãy, ta không thấy tiên sinh, người đã đi đâu?” Thanh Thanh chợt nhớ đến khi nãy, Phùng Thích Uẩn đi lên vài bước, một đợt gió mạnh thổi tới, mọi người nhắm mắt quanh đi chỗ khác, đến khi nhìn lại hắn đã biến mất. Nàng và mọi người thấy rất kỳ lạ định đuổi theo nhưng Mạc Hoa ngăn lại bảo không được manh động. Đợi gần một tuần trà, cuối cùng nàng không chịu được mới chạy về phía Phùng Thích Uẩn biến mất, vừa đi vừa tìm người.
“Sương mù dày đặc, ta bị mất dấu các ngươi.” Triệu Tẫn nhặt kiếm lên, chùi đi vệt máu dính trên khóe miệng.
“Không thể nào! Trời quang mây tạnh mà.”
“Ngươi không thấy sương mù sao?” Triệu Tẫn kinh ngạc hỏi lại, nhưng chợt nhớ đến Thất Tinh Trận mà Mạc Hoa nhắc tới liền lo lắng, nhìn bốn hướng xung quanh, phát hiện những cây thông được trồng rất đặc biệt, trông như tám cửa bao lấy Thất Tinh Trận, chắc hẳn là Bát Trận Đồ thiên biến vạn hóa. Tên các cửa trong Bát Trận Đồ là Thiên Môn, Địa Môn, Phong Môn, Vân Môn, Long Môn, Hổ Môn, Điểu Môn và Xà Môn.Tám cửa này gồm có Hưu Môn, Sinh Môn, Thương Môn, Đỗ Môn, Cảnh Môn, Tử Môn, Kinh Môn và Khai Môn. Tám cửa này là từ tám phương vị của Bát Quái mà ra. Bát Trận Đồ này xem thì rất đơn giản, dễ dàng nhưng kỳ thực thì thiên biến vạn hóa, cao siêu thần diệu.
Khi nãy, bảo kiếm mà ông nội để lại sát khí quá lớn nên mới hóa giải được Bát Trận Đồ này. Đây chắc hẳn là lý do mà năm xưa các huynh đệ của Lão Chuột một đi không trở lại.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro