eragon9
Trứng tan tành - tổ tơi tả
- Eragon, tập trung vào mà học chứ.
Nghe sư phụ sẵng giọng, Eragon chớp mắt cố tập trung vào những hàng chữ cổ:
- Con xin lỗi.
Nhưng một nỗi lo lắng như trói chặt chân tay nó. Nhìn những con chữ ngoằn nghèo, Eragon cố nâng bút lông bắt đầu viết.
Qua khung cửa sổ sau lưng Oromis, mặt trời đang lặn, vạch những bóng đen lên màu xanh trên đỉnh vực Tel'naéir. Xa xa, những dải mây nhẹ nhàng trôi trên bầu trời.
Một cơn nhói đau từ chân dội lên, làm tay Eragon giật mạnh, mực từ đầu bút lông văng khắp mặt giấy. Bên kia bàn, sư phụ nó cũng giật mình, nắm vội cánh tay phải.
- Saphira!
Eragon bật kêu lên. Nó bỗng hốt hoảng vì không thể liên lạc đựơc với Saphira. Cô em rồng đã tạo rào cản chung quanh. Eragon cảm thấy như đang cố nắm bắt một quả cầu bằng đá phủ đầy dầu mỡ. Nó nhìn sư phụ:
- Có chuyện gì xảy ra rồi, phải không ạ?
- Ta không rõ. Glaedr đang trở về, nhưng nó không chịu nói gì với ta cả.
Với tay lấy thanh kiếm Naegling trên tường, ông bước vội ra ngoài, đứng bên bờ vực, ngẩng cao đầu ngóng đợi rồng vàng.
Đứng bên ông, Eragon lo lắng nghĩ về tất cả những gì có thể xảy ra cho Saphira.
Trưa nay, hai con rồng đã cùng bay về hướng bắc, tới một nơi có tên là Trụ đá trứng vỡ. Ngày xưa, nơi đây từng là hang ổ của những con rồng hoang dại.Eragon thầm nhủ: "Đường tới đó có gì nguy hiểm đâu? Chắc chắn không có Urgal, thần tiên cũng chẳng đến đó làm gì".
Sau cùng, Glaedr xuất hiện trên bầu trời mây xám. Khi rồng vàng hạ cánh, Eragon thấy trên lưng chân trước - bên phải - của Glaedr có một vết thương lớn bằng bàn tay, máu đỏ thấm ướt lớp vảy chung quanh.
Oromis bước lại gần, nhưng nghe tiếng rồng vàng gầm gừ, ông ngừng lại, kiên nhẫn đứng chờ. Glaedr tập tễnh bước lại bìa rừng, cuộn mình dưới tán cây. Quay lưng lại Eragon, rồng vàng bắt đầu liếm vết thương.
Oromis lại gần hơn, nhưng vẫn giữ một khoảng cách, quỳ gối chờ đợi. Eragon bồn chồn với từng giây phút trôi qua. Cuối cùng Glaedr cũng để cho Oromis tiến lại, quan sát vết thương trên chân. Dấy hiệu gedwey ignasia trên bàn tay sáng lên màu bạc khi ông đặt vào vết rách trên da Glaedr.
Thấy sư phụ vừa rụt tay về, Eragon hỏi ngay:
- Nặng không, thưa thầy?
- Trông đáng sợ vậy thôi, nhưng với thân hình to lớn của Glaedr thì chỉ như một vết trầy.
- Còn Saphira? Con vẫn không thể liên lạc được với nó.
- Con phải tới chỗ nó ngay. Nó bị thương. Glaedr không nói nhliều về chuyện gì đã xảy ra, nhưng thầy đoán là nghiêm trọng đó. Con mau đi thooi.
Eragon nhìn quanh, rên lên khổ sở vì không biết sẽ đi bằng phương tiện gì đây.
- Đường xa, không có lối mòn, làm sao con tới đó được?
- Bình tĩnh, Eragon. Con vật nào đã đưa con từ Sílthrim tới đây?
Phải mất một lúc Eragon mới nhớ ra:
- Folkvír.
- Vậy hãy dùng phép thuật mà gọi nó. Kêu đúng tên nó và cho nó biết con cần gì.
Vận dụng phép thuật vào giọng nói, Eragon gào lên, gửi lời năn nỉ của nó vang vọng qua núi rừng, tới tận Ellesméra
Oromis gật gù, khen ngợi:
- Khá lắm.
Mười hai phút sau, Folkvír xuất hiện từ bóng tối giữa rừng cây như một bóng ma màu bạc. Eragon vắt một chân lên lưng con "tuấn mã" nhỏ bé của thần tiên, nói vội với sư phụ:
- Con sẽ cố về ngay.
- Cứ lo việc của con đi
Thúc chân vào hai bên sườn Folkvír, Eragon la lớn:
- Chạy, chạy mau Folkvír.
Folkvír phóng vọt lên, khéo léo vù vù vượt qua những cành thông rậm rạp. Với những hình ảnh trong trí, Eragon hướng dẫn nó tới chỗ Saphira.
Xuyên rừng già, không đường mòn như thế này, một con ngựa chiến cỡ Hoả Tuyết phải mất hai ba giờ mới tới được Trụ đá trứng vỡ, nhưng Folkvír chỉ phóng mất hơn một giờ.
Tới chân khối đá dựng đứng, vượt cao khỏi cây rừng cả trăm mét, như một cột trụ bằng đá vân xanh, Eragon lên tiếng: "Ngưng lại.
Bước xuống đất, Eragon nhìn lên đỉnh khối đá cao vòi vọi. Saphira đang ở trên đó.
Nó bước quanh, tìm đường nhưng vô vọng. Không một kẽ hở, không mọt cái hốc gần mặt đất để có thể bám vào, leo lên.
Eragon dặn dò Folkvír: "Ở lại đây. Nếu thích thì gặm cỏ, nhưng đừng đi đâu. Được chứ?".
Con vật nhìn lại Eragon với đôi mắt thông minh, hiểu biết: "Được. Khá lắm, chàng trai
Chăm chsu nhìn lên đỉnh khối đá, Eragon vận nội công, nói bằng cổ ngữ.
- Lên!
Sau đó Eragon mới nhận ra, nếu không quen bay cùng Saphira, nó đã không thể kiểm soát nổi thần chú và đã lộn cổ xuống chết rồi. Mặt đất vù vù trôi ngược dưới chân, cây cối đan ken vào nhau khi bay vút lên bầu trời chiều trên đầu. Cành cây như những ngón tay vươn ra vồ chụp mặt và hai vai nó. Không như những lần nhào lộn cùng Saphira, Eragon phải giữ ý thức về trọng lượng, như vẫn đang đứng trên mặt đất dưới kia.
Lên khỏi đỉnh Trụ đá trứng vỡ, Eragon từ từ hạ xuống một mắt phẳng phủ rêu. Lún mình dưới lớp rêu, nó mệt nhoài chờ đợi phản ứng của vết thương trên lưng vì sự ráng sức vừa qua, rồi thở dài nhẹ lòng khi không cảm thấy đau đớn gì.
Trên đỉnh cao này, những tháp canh mấp mô tách khỏi nhau bởi những đường nứt toang hoác, lưa thưa hoa dại mọc. Trên vách loáng thoáng hang hốc tối tăm, có cái tự nhiên có cái do những móng vuốt to dùng đào bới. Nền hang phủ đầy những lớp xương chồng chất, tàn tích của những con rồng bị giết từ thuở xa xưa. Chim chóc làm tổ nơi đã có lần là chỗ cư trú của loài rồng. Những con chim ưng, diều hâu, dại bàng hau háu nhìn Eragon, sẵn sáng tấn công để bảo vệ ổ trứng.
Eragon thận trọng lách mình qua vùng cấm địa bầy chim hung dữ, khép hai cánh tay, để không làm rớt một viên đá nhỏ; cũng không dám đi quá gần mé vực. Nếu chỉ sơ sẩy, nó sẽ rơi tõm xuống khoảng không thăm thẳm. Nhiều lần phải bò qua triền dốc cao, nhiều lần phải bay bổng lên bằng phép thuật, Eragon thấy bằng chứng cư dân loài rồng rải rác khắp nơi: từ những vết cào sâu hoắm tới những đống đá bị nung đến rã rời; những chiếc vảy xỉn màu cong queo lẫn trong đống xương vụn. Thậm chí Eragon còn đạp lên một vật sắc bén, khi nhặt lên quan sát, mới phát hiện ra đó là một mảnh vỏ trứng rồng màu xanh.
Pháo đài cao nhất nằm chính giữa, quay về hướng đông là hang động to rộng nhất. Và chính tại dây, Eragon đứng nhìn Saphira nằm co quắp trong một hốc vách, mặt hướng ra cửa hang. Các vách hang đầy những vết cháy sém còn mới, từng đống xương vụn tung toé khắp nơi, như mới có một cuộc chiến tại đây.
- Saphira.
Eragon lớn tiếng gọi vì con rồng cái vẫn khép kín tâm tưởng. Nó ngẩng đầu nhìn Eragon như nhìn một người xa lạ. Hai con ngươi cô ả mảnh như hai kẽ hở màu đen vì chói ánh mặt trời đang lặn sau lăng Eragon. Gầm gừ như một con chó hoang, ả nâng cánh, trở mình qua hướng khác, để lộ một vết cắt dài và sâu trên đùi. Tim Eragon thót lại.
Biết Saphira không để nó lại gần, Eragon bắt chước cách sư phụ cư xử với rồng vàng. Nó quỳ gối giữa đống xương vụn, chờ đợi.
Eragon qùy như vậy cho đến khi chân tê dại và hai tay cóng lại vì giá lạnh. Không thốt một lời hay có một cử chỉ nôn nóng, bực bội, vì nó vui lòng làm tất cả nếu có thể cứu được Saphira.
Mãi sau, Saphira mới truyền ý tưởng cho Eragon: "Em là một con ngốc.
"Đôi khi tất cả chúng ta đều tỏ ra ngốc nghếch".
"Nhưng khi biết mình ngốc, thật chẳng dễ chịu chút nào".
"Anh cũng đoán vậy".
"Em luôn biết mình phải làm gì. Khi cậu Garrow mất, em biết việc truy lùng Ra'zac là đúng. Khi ông Brom chết, em biết chúng ta nên tới Gil'ead, để từ đó đến với Varden. Và khi thủ lãnh Ajihad tử trận, em biết anh cần phải tuyên thệ cùng Nasuada. Em nhìn mọi chuyện một cách sáng suốt, nhưng lần này...chỉ riêng lần này, em đã lạc đường".
"Chuyện gì vậy, Saphira ?"
Thay vì trả lời, Saphira đổi đề tài, hỏi: "Anh có biết vì sao nơi này được gọi là Trụ đá trứng vỡ không?"
"Không".
"Vì trong chiến tranh giữa rồng và thần tiên, thần tiên đã lần theo dấu vết rồng tới đây, mở cuộc tàn sát trong khi rồng say ngủ. Họ phá huỷ hang ổ và trứng rồng tan nát thành từng mảnh bằng phép thuật. Ngày hôm đó, máu đổ như mưa xuống những khu rừng dưới kia. từ đó không còn một con rồng nào sống tại nơi này nữa".
Eragon im lặng. Lúc này, đó không phải là điều nó quan tâm. Nó chờ đợi Saphira cho biết tình trạng của cô ả hiện giờ. Nhưng Saphira lại chỉ bảo: "Anh nói gì đi chứ".
"Để anh chữa vết thương cho em nhé".
"Không cần đâu".
"Vậy thì anh sẽ im lìm như tượng cho đến khi rã thành cát bụi, vì từ em, anh cũng có sự kiên nhẫn của loài rồng".
Giọng Saphira cay đắng, tự mỉa mai mình: "Em thật xấu hổ khi phải thú thật điều này: lần đầu tiên thấy Glaedr, em đã vui mừng biết bao, vì ngoài Shruikan, dòng giốgn em vẫn còn một con rồng nữa. Trước kia em chưa từng thấy một con rồng nào khác, chỉ toàn từ những chuyện kể của ông Brom. Rồi em tưởng...em tưởng Glaedr cũng vui mừng vì sự tồn tại của em, như em mừng vì thấy anh ta".
"Nhưng...Glaedr cũng vui mừng mà".
"Anh không hiểu đâu. Em ngỡ anh ta sẽ kết bạn cùng em, để cùng nhau gầy dựng lại giống nòi..."
Một ngọn lửa sáng rực ào ra từ mũi Saphira khi nó hậm hực tiếp: "Em lầm. Anh ta không ưa em".
Eragon lựa lời an ủi: "Có thể vì Glaedr biết duyên số em đã gắn bó với một kẻ khác; có thể là một trong hai trứng còn lại. Vả lại, Glaedr cũng không thể kết đôi bạn với em một khih đã là sư phụ của em".
"Hoặc chỉ vì anh ta thấy em không đẹp".
"Saphira, không con rồng nào xấu xí cả. Em là một cô rồng xinh đẹp nhất".
"Em là một cô rồng ngu ngốc nhất thì cố".
Tuy nói vậy, nhưng cô ả nâng cánh, cho phép Eragon chăm sóc vết thương.
Eragon lê đôi chân tê dại đến bên Saphira. Nhìn vết thương đỏ au, nó mừng vì đã được đọc nhiều tài liệu về giải phẫu học của sư phụ.
Cú đánh - không biết bằng răng hay móng vuốt - xé toạc cơ đùi dưới lớp da, nhưng chưa đến nỗi để lộ xương ra ngoài. Khép bề mặt vết thương như Eragon đã nhiều lần làm trước đây không đủ, mà phải khâu thịt liền lại với nhau.
Những câu thần chú Eragon sử dụng dài dòng và phức tạp, thậm chí nó không thông hiểu hết, vì nó chỉ nhớ lại phần hướng dẫn bằng cổ ngữ: "Bùa chú này chỉ làm lành những vết thương nhẹ, xương không bị gãy, nội tạng còn nguyên". Mấy câu thần chú vừa thốt lên, Eragon sững sờ khi bắp thịt Saphira chuyển động dưới bàn tay nó: mạch máu, dây thần kinh, thớ thịt kết nối vào nahu, rồi nguyên lành như cũ. Nhưng vì vết thương hơi lớn, và trong tình trạng sác khoẻ lúc này, Eragon không dám dốc toàn nội lực, nó dựa thêm vào sức của Saphira.
Khi Eragon hoàn tất, cô em rồng lên tiếng: "Ngứa quá".
Dựa lưng vào vách đá lởm chởm, Eragon thở dài nhìn cảnh hoàng hôn bên ngoài: "Anh mệt tới không còn cử động nổi. Chắc em phải cõng anh xuống khỏi trụ đá này".
Saphira cựa mình, đặt đầu lên đống xương, nhỏ nhẹ: "Từ khi tới Ellesméra, em đã cư xử không phải với anh. Đáng lẽ lắng nghe, em đã làm ngơ những gì anh khuyên nhủ. Chính anh đã cảnh giác em về chuyện Glaedr, nhưng em kiêu ngại tới nỗi không nhận ra sự thật trong những lời nói của anh. Em đã làm anh thất vọng, không xứng dáng là một con rồng, và đã làm ô danh kỵ sĩ của anh".
"Không đâu, Saphira. Em chưa bao giờ làm anh thất vọng trong bổn phận. Có thể em đã phạm sai lầm, nhưng là một sai lầm chân thật, một sai lầm mà ai cũng có thể phạm phải, nếu đứng vào địa vị của em".
"Điều đó cũng chẳng thể bào chữa cho thái độ của em đã đối với anh".
Eragon cố nhìn vào mắt nó, nhưng Saphira nhìn đi chỗ khác cho đến khi Eragon vuốt cổ cô em rồng, ân cần nói: "Saphira này, thành viên trong một gia đình luôn phải tha thứ cho nhau, kể cả khi không hiểu nguyên nhân hành động của nhau...Cũng như anh Roran, em là gia đình anh. Không điều gì em làm có thể đổi thay được điều đó".
Saphira vẫn nín thinh. Eragon ngoáy tai cô ả: "Ê, nghe anh nói gì không?"
Ả húng hắng ho, gượng vui: "Mặt mũi nào em gặp lại Glaedr đây? Anh ta giận như điên...Trụ đá khổng lồ này còn phát run lên đừng nói gì em".
"Dù sao, em chỉ cần xin lỗi Glaedr là êm chuyện."
"Xin lỗi?"
"Ờ, thì đến gặp và bảo là em rất tiếc, là em mong được tiếp tục khoá huấn luyện, và là...chuyện kia sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Làm xong điều đó em sẽ thấy thoải mái hơn nhiều. Anh có kinh nghiệm rồi mà".
Eragon cười cười nhắc khéo vụ Saphira khuyên nó xin lỗi Arya.
Cô ả ậm ừ, tiến ra cửa hang, nhìn xuống rừng già bên dưới: "về thôi, sắp tối rồi".
Nghiến răng, Eragon phải ráng hai lần mới leo lên được cổ rồng.
"Eragon, cám ơn anh đã tới. Em biết, với cái lưng đau đó, anh đã phải liều mình lắm mới lên được tới đây".
Eragon vỗ vỗ lên vai Saphira: "Chúng ta lại là một chứ?"
"Chúng ta là một".
Quà tặng của rồng
Những ngày gần tới hội Huyết thệ là thời gian vừa tuyệt vời vừa khốn khổ nhất của Eragon. Vết thương sau lưng hành hạ nó hơn bao giờ hết, rút cạn sinh lực và sức chịu đựng , làm đầu óc nó mất cả tỉnh táo. Nhưng, bù lại, nó và Saphira chưa bao giờ gắn bó với nhau đến thế. Tâm tưởng chúng gắn kết, hoà hợp cùng nhau. Thỉnh thoảng Arya ghé thăm và cả ba cùng nhau đi dạo trong hoàng cung. Tuy nhiên cô không đến một mình, luôn có ông lùn Orik hoặc mèo ma Maud đi cùng.
Trong những buổi dạo chơi đó, Arya đã giới thiệu chàng kỵ sĩ và cô em rồng với những thần tiên xuất chúng: những chiến binh lừng lẫy nhất, những thi sĩ và hoạ sĩ danh tiếng...Cô cũng đưa chúng tới dự những buổi hoà nhạc trong rừng thông, thăm những kỳ quan tuyệt vời được giữ kín của Ellesméra.
Eragon tìm mọi dịp để chuyện trò cùng Arya. Nó kể cho cô nghe về những ngày lớn lên trong thung lũng Palancar, về anh Roran, cậu Garrow và mợ Marian, những chuyện về lão Sloan và bà vợ Ethlbert, về dân làng, và về tình yêu của nó đối với những rặng núi bao quanh Carvahall, những ánh lửa bập bùng trong những đêm đông. Nó kể về chuyện, có lần một ả cáo loạng quạng té vào thùng thuốc thuộc da của Gedric; người ta phải với nó lên bằng vợt. Kể về niềm vui trong canh tác, chăm lo tưới bón, và ngắm nhìn những mầm xanh nhú trên mặt đất...
Thỉnh thoảng Eragon cũng cóp nhặt một vài tâm tư thầm kín của Arya: tuổi thơ của cô, bạn bè, và những gì đã trải qua khi sống cùng quân cách mạng Varden. Điều này cô kể một cách thoải mái nhất, tả lại từng vụ đột kích, từng cuộc chiến đã tham gia, những tiếp tay xử lý trong những buổi hoà giải, những cuộc tranh luận cùng người lùn. Những sự kiện quan trọng trong thời gian cô lãnh trách nhiệm của một sứ thần.
Ở gần cô và Saphira, Eragon cảm thấy tâm hồn hoàn toàn thư thái, nếu không có một gợn nhỏ làm nó bận tâm đó là thời gian. Vì Arya đã quyết định rời Du Weldenvarden sau Lễ hội Huyết thệ, cho nên Eragon vừa sung sướng vì những thời khắc bên nhau, vừa lo sợ ngày lễ đã gần kề.
Cả kinh thành rộn ràng với những hoạt động thần tiên sửa soạn cho ngày lễ. Eragon chưa bao giờ thấy họ sôi nổi như vậy. Rừng cây được trang trí bằng cờ phướn và đèn lồng lộng lẫy màu sắc, nhất là chung quanh cây Menoa: Chỉ riêng Menoa, đèn lồng chi chít từ ngọn tới cành long lanh như những hạt mưa. Muôn hoa khoe hương sắc - với hàng loạt loài hoa mới rực rỡ tốt tươi. Trong những đêm khuya lơ khuya lắc, Eragon còn nghe tiếng thần tiên ca hát cho cây nghe.
Từ những thành phố rải rác trong rừng, mỗi ngày hàng trăm thần tiên kéo về Ellesméra, vì không vị nào muốn lỡ dịp dự lễ hội tuân thủ hiệp ước với rồng, trăm năm mới tổ chức một lần. Eragon đoán đa số họ đến để được gặp Saphira. Nó tự nhủ: "Dường như mình chẳng là cái thá gì, ngoài việc cúi đầu đáp lễ họ".
Những thần tiên vắng mặt vì nhiệm vụ, sẽ tham dự từ xa bằng những tấm gương đã được yểm phép.
Một tuần trước ngày lễ, Eragon và Saphira sửa soạn về, sư phục Oromis lên tiếng:
- Hai con phải tính toán sẽ đem gì tới dự lễ. Thầy đề nghị, tránh sử dụng phép thuật. Không ai tôn trọng một sản phẩm tạo bằng phép thuật, không tự tay các con làm ra. Thầy cũng đề nghị mỗi đứa phải làm một quà riêng. Đó là phong tục.
Trên chuyến bay về, Eragon hỏi Saphira: "Em có ý kiến gì không?"
"Có thể. Nhưng em muốn thử xem, nếu thành công sẽ cho anh biết"
Tước khi cô ả phong toả hình ảnh trong trí, Eragon thoáng bắt gặp hình ảnh một phiến đá trong lòng đất. Nó cười hỏi: "Không tiết lộ được chút xíu sao?"
"Lửa. Rất nhiều lửa".
Về tới gian nhà trên cây, Eragon lục lọi trong trí tất cả tài năng của nó có được, rồi ngẫm nghĩ: "Ngoài chuyện làm ruộng, mình có biết gì khác nữa đâu? Làm sao ganh đua với thần tiên bằng những đồ thủ công vớ vẩn của mình được. Tài năng của họ vượt trội, hơn hẳn cả những nghệ nhân tài năng nhất đế quốc Alagaesia"
"Nhưng anh có một gía trị không thần tiên nào có được".
"Ồ, lại thế nữa"
"Chứ sao. Tiểu sử, việc làm, hoàn cảnh của anh. Hãy sử dụng tất cả những điều đó mà tạo nên một tác phẩm, một tác phẩm độc đáo, lấy căn bản từ điều nào mà anh cho là quan trọng nhất, mang ý nghĩa sâu sắc nhất đối với anh".
Eragon trợn mắt, ngạc nhiên: "Anh không ngờ em rành nghệ thuật dữ vậy".
"Rành gì. Anh quên là buổi chiều anh bay vói Glaedr, em ngồi xem sư phụ vẽ và nghe giảng rất nhiều về nghệ thuật sao"
"A, hiểu rồi. Vậy mà anh quên".
Sau khi Saphira tách ra để tìm đề tài, Eragon đi quanh phòng ngủ, suy nghĩ về những gì cô ả mới nói. "Điều gì là quan trọng đối với mình? Saphira? Arya? Và tất nhêin là trở thành một Kỵ sĩ có tài. Nhưng làm sao mình có thể nói về những vấn đề mơ hồ như vậy được? Mình yêu cảnh đẹp của thiên nhiên, nhưng đề tài này thần tiên đã khai thác, đủ mọi góc cạnh rồi".
Eragon tự soi rọi vào tâm khảm, điều gì làm nó thương yêu, giận ghét sôi nổi nhất.
Ba điều hiện ra rõ ràng: vết thương gây ra bởi bàn tay Tà thần, nỗi lo sợ một ngày sẽ đụng độ với bạo chúa Galbatorix, và những bài ca của thần tiên làm nó u mê.
Niềm hân hoan chợt loé lên trong trí Eragon, khi những sự kiện kết nối thành một câu chuyện. Chân nhẹ hẫng, nó chạy hai bậc một lên thang, nào vào thư phòng. Ngồi trước bàn, Eragon lấy giấy bút, run rẩy viết:
Trong vương quốc bên bờ biển
Trong dãy núi phủ màu xanh...
Những dòng chữ tuôn tràn từ ngọn bút, làm Eragon cảm thấy dường như không phải nó đang sáng tác một câu chuyện, mà chỉ hành động như một máng dẫn, chuyển một câu chuyện đã hoàn tất vào đời. Eragon rùng mình xúc động trong cuộc phiêu lưu mới này, vì chưa bao giờ nó ngờ rằng có ngày nó có thể làm một nhà thơ.
Say mê viết, không ngưng nghỉ để ăn uống, Eragon xăn cả hai tay áo, tránh bị đầu bút lông thoăn thoát trên mặt giấy làm văng mực. Chăm chú tới nỗi, nó không còn nghe gì ngoài nhịp đập của những vần thơ; Không thấy gì ngoài mặt giấy, không nghĩ gì ngoài câu cú kết thành hàng rực lửa trong đầu.
Một tiếng rưỡi sau, Eragon buông cây bút khỏi bàn tay rã rời đẩy ghế đứng dậy. Trước mắt nó là mười bốn trang giấy trên bàn. Chưa bao giờ, trong một lần, nó viết nhiều đến thế. Biết rằng bài thơ này không thể nào so sánh với những bài của người lun hay thầ tiên, nhưng Eragon hy vọng bài thơ đủ chân thật để họ không chê cười sự cố gắng của nó.
Sau khi nghe ông anh ngâm nga, ả rồng gật gù: "Ôim Eragon anh thay đổi quá nhiều từ khi chúng ta rời khỏi thung lũng Palancar. Không còn có thể nhận ra cậu bé ngờ nghệch lần đầu tiên nhào vào cuộc trả thù được nữa. Cậu Eragon đó lmfa sao viết được một câu thơ theo kiểu thần tiên thế này. Em chờ xem anh sẽ trở thành một con người ra sao trong năm mươi hay một trăm năm nữa".
Eragon tủm tỉm: "Nếu anh sống dai đến thế".
- Không trau chuốt những chân thật
Oromis nói sau khi nghe Eragon đọc bài thơ. Eragon e dè hỏi:
- Vậy là ...thầy thích ạ?
- Đó là một chân dung xác thực về tinh thần con vào lúc này. Nghe được nhưng chưa phải là một tác phẩm. Tuy nhiên ta ngạc nhiên vì con có thể đọc thành lời bằng ngôn ngữ này. Không có rào cản nào trong việc viết tiểu thuyết bằng cổ ngữ. Cái khó là khi người ta đọc hay nói ra những điều đó - vì đòi hỏi người ta phải nói về những điều không thật, tưởng tượng, hư cấu - một vấn đề cấm kỵ trong cổ ngữ.
- Con đọc thành lời được vì con tin đó là sự thật
- Và cũng vì niềm tin đó, nên con viết có lực hơn, bài thơ đã làm thầy xúc động, Eragon thiếu hiệp ạ. Nó xứng đáng góp phần vào ngày hội Huyết thệ.
Lấy từ trong áo choàng ra cuộn giấy buộc băng, ông bảo:
- Trong này có viết rõ chín thế thủ. Những lễ hội của thần tiên gây áp lực mạnh mẽ lên những người thể trạng yếu hơn chúng ta. Nếu không thủ thế đề phòng con rất dễ bị cuốn vào mạng lưới phép thuật một cách nguy hiểm. Thầy đã từng chứng kiến điều này xảy ra. Cho dù đã phòng xa như vậy, con vẫn phải thận trọng đừng bị chao đảo vì những làn gió đầy mê hoặc. Hãy giữ mình, vì trong thời gian lễ hội, thần tiên chúng ta gần như hoá điên - một sư say cuồng tuyệt vời, tráng lệ - nhưng dù sao cũng vãn là ... điên.
***
Đêm khai mạc Agaetí Blodhren - hội Huýet thệ kéo dài trong ba ngày - , Eragon, Saphira và Orik đi cùng Arya tới Menoa.
Từng đoàn thần tiên đã tụ tập quanh cây, những mái tóc đen, tóc màu trắng bạc lung linh trong ánh sáng toả ra từ những ngọn đèn lồng. Dưới gốc cây, nữ hoàng Islanzadí đứng trên một cái rễ cao to như thân cây phong du. Trên vai bà là con quạ Blagden và lấp ló sau lưng là ma mèo Maud. Vị lão tiên Oromis trong bộ áo hai màu đỏ và đen, hiện diện cùng rồng và Glaedr. Eragon nhận ra những thần tiên ừng quen biết như Lifaen, Narí và cả...gã tiên trẻ tuổi đáng ghét Vanir.
Bầu trời mượt như nhung vô vàn những ngôi sao lấp lánh.
- Chờ đây nhé.
Arya nói, rồi len lỏi qua đám đông. Khi trở lại, cô dẫn theo bà thợ rèn Rhunnon. Bà ta lảng tránh người chung quanh như một con cú mèo, gật đầu đáp lễ Eragon và Saphira, rồi lên tiếng:
- Rất hân hạnh, chào Vảy Sáng và Eragon Khắc Tinh của Tà Thần.
Thấy Orik, bà chào hỏi bằng ngôn ngữ của người lùn, Orik hớn hở, sôi nổi chuyện trò bằng tiếng của mình. Eragon khom mình hỏi ông lùn:
- Bà Rhunnon nói gì vậy?
- Bà ấy mời tôi tới nhà để xem công việc của bà và thoả luận về nghệ thuật kim khí.
Mặt thoáng e sợ, ông lùn thì thầm:
- Eragon, chính Futhark truyền nghề cho ba ta bước đầu đó. Ông là một tổ nghiệp huyền thoại trong nghề rèn của chúng tôi. Ước gì tôi có thể gặp được ông.
Tất cả đều chờ đợi cho đến khi tiếng chuông báo nửa đêm vang lên và nữ hoàng Islanzadí đưa cánh tay trần, như ngọn giáo bằng cẩm thạch, chỉ lên mặt trăng thượng tuần. Ánh sáng, toả xuống từ những ngọn đèn lồng trên cây Menoa, tạo thành một hình cầu trắng dịu trên bàn tay bà. Bà bắt đầu đi dọc theo chiều dài của rễ, tiến tới thân cây khổng lồ, đặt quả cầu vào một cái hốc trên cành. QUả cầu tiếp tục toả sáng.
Eragon quay hỏi Arya:
- Lễ hội bắt đầu?
- Bắt đầu rồi đó. Và sẽ kết thúc khi ánh sáng ma trơi kia tự sát.
Thần tiên tản ra những lán tại tạm thời trong rừng, dành khoảng trống quanh gốc Menoa. Rồi thình lình họ xuất hiện cùng những chiếc bàn chất đầu những đĩa đồ ăn màu sắc rực rỡ. Đó là những tác phẩm, kết quả của những pháp sư đầu bếp, thể hiện theo ngoại hình phi phàm của họ.
Các thần tiên bắt đầu trỗi giọng trong veo như tiếng sáo, cất lên những bài ca du dương, say đắm dưới trời đêm huyền hoặc. Giọng hát kích thích những cảm giác, khơi dậy những tâm tư thầm kín và làm cháy bỏng những khát khao bằng một ma thuật lạ kỳ. Lời ca nhắc nhớ những chiến công hiển hách bằng ngựa, bằng thuyền trên những vùng đất đã bị quên lãng, những tiếc nuối vẻ đẹp đã không còn nữa. Tiếng ca hát như bảo phủ Eragon, làm nó chỉ còn một khao khát, miên man nhảy múa mãi mãi giữa các thần tiên. Bên cạnh nó, Saphira lim dim mắt, ư ử hát theo điệu nhạc
Những gì xảy ra sau đó Eragon không thể nào nhớ rành mạch nổi. Cứ như nó đã lên cơn sốt, mê rồi tỉnh, tỉnh rồi mê. Nó có thể nhớ rõ vài chi tiết, nhưng không thể nào sắp đặt theo thứ tự. Nó lẫn lộn ngày với đêm, vì bất kỳ giờ khắc nào, rừng cây vẫn âm u. Nó cũng không thể nhớ mình đã lơ mơ hay ngủ gục trong thời gian lễ hội...
Nó nhớ đã nối vòng, tay trong tay một tiên nữ có đôi môi mọng như đào chín, giọng nói ngọt ngào như mật ong và không khí thơm nồng hương tầm xuân...
Nó nhớ nhiều thần tiên vắt vẻo trên cành Menoa như bầy chim sáo. Họ gẩy những cây thụ cầm bằng vàng, ra những câu đố cho Glaedr trên mặt đất, thỉnh thoảng lại chỉ một ngón tay lên bầu trời, tạo ra những đốm lửa muôn màu kết thành những hình dạng khác nhau trước khi tàn lụi...
Nó nhớ đã ngồi ở một thung lũng tràn ngập cỏ xanh dựa vào Saphira, ngắm nhìn nàng tiên đã nắm tay nó, đứng hát trước những khán giả đầy say mê ngưỡng mộ:
Bay đi, hãy bay đi
Qua đồng cỏ núi non
Tới vùng đất xa xôi đá
Bay đi cứ bay đi
Đừng bao giờ trở lại cùng em nữa
Đi đi! Anh đang xa em
Chẳng bao giờ ta còn gặp lại
Đi đi! Anh đã xa em...
Riêng em...mãi mãi ngóng trông ngày anh trở về.
Nó nhớ những bài thơ dài vô tận, bài buồn thảm, bài tươi vui. Nó cũng được nghe trọn vẹn bài thơ của Arya. Nó thấy bài thơ của nàng thật sự hay. Bài thơ xuất sắc của nữ hoàng thì dài hơn. Tất cả thần tiên vây quanh lắng nghe...
Nó nhớ các thần tiên đã đem tới buổi lễ những vật thật diệu kỳ, nhiều thứ Eragon tưởng như không thể nào có được, dù là có sự hỗ trợ của phép thuật. Những món đồ chơi, tác phẩm nghệ thụat, vũ khí...Một thần tiên đem đến một quả cầu thuỷ tinh, chỉ vài giây, trong lòng quả cầu lại nở một bông hoa khác. Một thần tiên khác, từng chu du khắp Du Weldenvarden, đã diễn một màn tuyệt đẹp từ cuống họng ông nở ra một trăm đoá hoa cúc trắng.
Bà Rhunnon góp một chiếc khiên không bao giờ đập vỡ, một đôi găng tay dệt bằng sợi thép (cho phép người đeo cầm chì nóng chảy mà không làm bàn tay bị tổn thương), và một món điêu khắc rất tinh xảo, tượng con hồng tước đang bay bằng một khối sắt và được phủ một lớp sớn, khéo léo tới nỗi trông bức tượng y như một con chim sống.
Ông lùn Orik đem tới một kim tự tháp nhiều tầng, kết nối bằng năm mươi tám mảnh gỗ. Thần tiên thích thú nhìn ông thoăn thoắt tháo rời, rồi ráp lại kim tự tháp. Họ lầm rầm tán tụng: "Ông râu dài quả là bậc thầy. Tay xảo diệu chứng tỏ chí sáng suốt".
Nó nhớ sư phụ Oromis kéo nó ra khỏi đám đông, ấn nó ngồi xuống một thân cây và bảo:
- Con hãy ngồi đây một lúc cho bình tâm lại.
- Con có sao đâu, không cần phải nghỉ.
- Lúc này con không đủ bình tĩnh để phán đoán điều gì. Ngồi đây, cho đến khi nhớ lại những câu thần chú có thể làm con ổn định lại, lúc đó hãy tham gia cùng chúng ta.
Nó nhớ những sinh vật lạ lùng, thấp thoáng trong rừng sâu. Đa số là những loài thú đã bị thay hình đổi dạng vì thấm nhuần bùa chú trong Du Weldenvarden và bây giờ lân la ra tìm lương thực. Dường như chúng tìm nguồn dinh dưỡng từ phép thuật cuả thần tiên. Những đôi mắt rực sáng của chúng loang loáng ngoài vùng sáng của đèn lồng. Chỉ một con vật lộ nguyên hình, đó là con sói cái trong lốt người đàn bà áo trắng, mà Eragon đã có lần trông thấy. Nó lẩn lút sau bụi cây, nhe hàng răng trắng nhởn ra cười, mắt láo liêng nhìn khắp phía.
Nhưng những sinh vật đó không hoàn toàn là thú. Có cả những thần tiên thay hình đổi dạng vì nhiệm vụ hoặc vì mục đích làm đẹp một cách khác thường. Một vị, thân phủ toàn lông lốm đốm nâu, nhảy vọt qua đầu Eragon, rồi hí hởn nhảy nhót chung quanh. Đầu vị tiên này vừa hẹp vừa dài, hai tai như tai mèo, hai tay thõng tới gối vầhi tay có những đốm chai sần.
Sau đó, hai tiên nữ giống hệt nhau tự giới thiệu mình với Saphira. Khi họ yểu điệu đặt tay lên môi chào theo đúng phong tục, Eragon thấy mấy ngón tay của cả hai dính vào nhau bằng những màng mỏng. Trong lúc họ thì thầm "Chúng tôi từ xa tới", ba hàng mang hai bên cái cổ mảnh khảnh phập phồng, để lộ ra lớp thịt hồng bên dưới. Da họ loang loáng như bôi một lớp dầu và mái tóc phủ qua đôi vai hẹp.
Eragon gặp một thần tiên có lớp vảy như vảy rồng, trên đầu là một chỏm xương, một hàng gai dọc sống lưng và hai lỗ mũi liên tục loé ra những tia lửa.
Có những thần tiên khó lòng nhận dạng, nhìn họ thấp thoáng rung rinh như qua một màn nước; có vị khi bất động, khó có thể phân biệt với cây cối chung quanh; có những thần tiên cao lớn, mắt chỉ toàn một màu đen làm Eragon phát khiếp và khi giao tiếp với vật gì, họ xuyên qua vật đó như một chiếc bóng.
Thí dụ điển hình nhất cho hiện tượng này là cây Menoa - tiền thân là tiên nữ Linnea. Cây Menoa dường như cũng hối hả theo nhịp sống sôi động chung quanh. Dù không chút gió, cành lá luôn rung động, nhiều khi tiếng cây kẽo kẹt hoà nhịp cùng tiếng hát ca, một làn hơi dịu dàng khoan dung, nhân ái toả ra từ cây, bao phủ khắp vùng...
Và Eragon cũng nhớ cả hai lần khốn khổ vì cái lưng lên cơn đau tới nỗi làm nó phải kêu gào, rên rẩm trong bóng tối trong khi các thần tiên vẫn chìm đắm trong lễ hội chung quanh, chỉ có Saphira tới sát bên nó để canh chừng...
Ngày thứ ba của lễ hội, Eragon trình bày bài thơ của nó trước quần tiên với mấy lời mở đầu:
- Tôi không phải thợ rèn, cũng không có tài điêu khắc, nặn gốm, hội hoạ hoặc bất cứ tài năng nghệ thuật nào. Tôi cũng không thể thi thố phép thuật trước tài năng của quí vị. Vì vậy tôi chỉ còn có thể xin kể một câu chuyện với kinh nghiệm của chính mình, mặc dù tôi cũng không phải là một thi nhân.
Rồi với phong cách như ông Brom đã thường biểu diễn tại làng Carvahall, Eragon ngâm nga:
Trong vương quốc bên bờ biển
Trong rặng núi phủ màu xanh
Trong ngày cuối đông lạnh gía
Một con người được sinh ra
Chỉ để hoàn thành một việc:
Giết kẻ thù tại Durza
Trong vùng đất tối tăm hắc ám.
Nuôi dưỡng bằng tình thương
Lớn lên bằng mưu trí
Dưới những cây sồi già
Chàng đã chạy cùng nai
Đánh nhau cùng với gấu
Và học hỏi kinh nghiệm từ những người già
Giết kẻ thù tại Durza
Trong vùng đất tối tăm hắc ám
Áo quần rách nát
Chỉ với đá, khúc cây và xương
Chàng chiến đầu với quỉ ma hung ác
Giết kẻ thù tại Durza
Trong vùng đất tối tăm hắc ám
Năm tháng vụt qua
Chàng đã lớn
Toàn thân ngùn ngụt lửa căm hờn
Rồi...
Chàng tuổi trẻ gặp một vì tiên nữ
Thanh cao, rắn rỏi, khôn ngoan
Trong đôi mắt như hồ đêm thăm thẳm
Tương lai chàng rực rỡ hiện ra
Sát cánh bên nhau
Đôi bạn không còn lo sợ
Không ngại ngùng kẻ thù tại Durza
Trong vùng đất tối tăm hắc ám.
Eragon kể tiếp về hành trình của chàng tuổi trẻ tới vùng đất Durza, tìm gặp và chiến đấu với kẻ thù. Nhưng khi chiến thắng, chàng đã không tung ra lưỡi gươm chí mạng, vì kẻ thù đã bị đánh bại, chàng không còn lo sợ định mệnh khắt khe dẫn đến cái chết và không cần phải giết kẻ hung ác tại Durza nữa. Rồi trong một đêm hè, chàng trở về, rửa tay gác kiếm, thành hôn với người yêu. Cùng nàng, chàng đã sống những ngày hạnh phúc cho đến thuở bạc đầu. Nhưng:
Trong bóng tối trước bình minh
Người đàn ông đang yên ngủ
Kẻ thù lén lút mơ hồ xuất hiện
Đối thủ dũng mãnh của hắn
Giờ đã lực kiệt sức tàn
Người đàn ông cất đầu khỏi gối
Nhìn lên khuôn mặt tử thần
Lạnh lẽo trống không
Khuôn mặt của chúa tể đêm đen vô tận
Trái tim già nua từ lâu tĩnh lặng
Người đàn ông không hãi sợ Tử thần
Nhẹ như gió thoảng
Tử thần cúi đầu
Đón nhận linh hồn ngời sáng
Rồi...cải hai êm ả về cõi vĩnh hằng
Mãi mãi trong Durza
Trong vùng đất âm u tăm tối.
Eragon im lặng, cảm thấy những ánh mắt đang dồn về phía nó. Eragon vội vàng cúi đầu, tìm chỗ ngồi. Nó bối rối vì đã hé lộ quá nhiều về chính mình.
Dathdr, vị đại thần của thần tiên lên tiếng:
- Khắc tinh của Tà thần, kỵ sĩ đánh giá mình hơi thấp đó. Bài thơ hình như đã đủ chứng minh một tài năng nữa ở kỵ sĩ rồi đấy.
Nữ hoàng đưa tay lên, nói:
- Eragon công tử, tác phẩm của công tử sẽ được lưu giữ trong thư viện Cung Tialdarí để ai muốn cũng có thể thưởng thức được. Dù bài thơ như một chuyện ngụ ngôn, nhưng cũng giúp chúng ta hiểu rỡhn những khó khăn, vất vả từ khi trứng của Saphira xuất hiện, điều đó có một phần trách nhiệm của chúng ta. Xin hãy đọc lại lần nữa, đểchúng ta tìm hiểu sâu xa hơn.
Eragon đành phải làm theo lệnh. Sau đó tới lượt Saphira giới thiệu tác phẩm của nó với thần tiên. Nó bay vút vào bóng đêm rồi trở lại với tảng đá đen, lớn gấp ba một người lớn, quắp chặt trong móng. Hạ xuống đất bằng hai chân sau, Saphira đặt tảng đá dựng đứng trên thảm cỏ trước mắt đám đông. Tảng đá bóng láng đã được nung chảy, tạo thành những đường cong cuốn lấy nhau, như những dợn sóng. Những nếp nhăn trên đá uốn vặn thành những kiểu mẫu đầy phức tạp, mắt nhìn khó có thể theo dõi đường nối từ đỉnh tới chân, chỉ thấy nét uyển chuyển từ vòng này sang vòng khác.
Cũng như thần tiên, lần đầu tiên Eragon được thấy tác phẩm nào của cô em rồng. Nó ngẩn ngơ hỏi: "Em làm cách nào vậy?'
"Liếm láp tảng đá nung". Mắt long lanh thích thú, cô ả nghiêng mình phun ngọn lửa dài, phủ một trụ màu vàng ánh lên tảng đá, những khía mỏng như giấy trên tác phẩm điêu khắc của nó sáng rực màu đỏ tía, và từ những khe, hốc bập bùng những ngọn lửa nho nhỏ. Gần đá dường như chuyển động dưới sức thôi miên của ánh sáng.
Thần tiên kinh ngạc vừa vỗ tay, nhảy vòng quanh tảng đá đầy thích thú, vừa rầm rầm la lớn:
- Tuyệt vời, Vảy-sáng ơi!
Eragon thì thầm:
- Đẹp quá, Saphira
- Đa tạ, tiểu huynh.
Tiếp theo là Glaedr. Rồng vàng đem ra một phiến gỗ sồi đỏ, khắc với chỉ một mòng, hình ảnh hoàng cung Ellesméra nhìn từ trên không. Đóng góp của lão tiên Oromis là cuộn giấy Eragon vẫn thường thấy sư phụ hí hoáy vẽ viết trong thời gian dạy nó. Nửa phần trên là bản chép bằng chữ cổ Cái chết của nhà hàng hải Vestarí, nửa phần dưới là bức hoạ toàn cảnh của một vùng đất thần tiên, mang hơi thở của một nghệ sĩ tài năng trong từng chi tiết.
Rồi Arya nắm tay Eragon dìu tới gâầ cây Menoa nói:
- Hãy nhìn lửa ma chơi đang lụi dần. Chúng ta chỉ còn vài tiếng nữa trước bình mình, để rồi lại trở về với một thế giới đầy những lý lẽ lạnh lùng.
Các thần tiên tụ tập quanh cây, mắt sáng ngời chờ đợi
Nữ hoàng Islanzadí đường bệ bước dọc theo một rễ cây rộng lớn như một con đường, rồi đứng trên một khối u của cay, bà nhìn xuống thần dân đang ngóng đợi:
- Theo phong tục và theo thoả hiệp sau chiến tranh , với sự đồng ý giữa nữ hoàng Tarmunora cùng vị kỵ sĩ Eragon đầu tiên và rồng trắng của ông - đại diện cho loài rồng, vì tên rồng trắng không thể nói ra bằng bất kỳ ngôn ngữ nào, nên chúng ta không thể nêu ra đây được. Ta lập lại, sau chiến tranh, khi số mệnh của thần tiên và loài rồng gắn kết cùng nhau, chúng ta có lệ quây quần để vinh danh ngày huyết thệ với những bài cam điệu múa, hoa trái...Nhiều năm trước, lần cuối cùng lễ hội này đã diễn ra trong tình trạng tuyệt vọng của chúng ta. Kể từ đó, kết quả có phần nào tiến triển khả quan hơn, là nhờ nỗ lực của chúng ta, người lùn và quân cách mạng Varden. Nhưng...đất nước Alagaesia thì vẫn sống dưới bóng tối của Wyrdfell (phản đồ), và chúng ta vẫn còn đang sống trong nỗi hổ thẹn vì chưa làm tròn nhiệm vụ với loài rồng. Trong số các kỵ sĩ tiền bối,c hỉ còn lại lão tiền bối Oromis và Glaedr. Brom và các vị khác đã vào cõi vĩnh hằng. Tuy nhiên,chúng ta được phép đón mừng niềm hy vọng mới trong hình hài của Eragon và Saphira. Đó là lý do chính đáng và hợp lý để họ hiện diện tại đây thời điểm này, để chúng ta xác nhận lại lời thề giữa ba loài: thần tiên, rồng và loài người.
Theo một hiệu lệnh của nữ hoàng, thần tiên dọn một khoảng trống rộng dưới gốc Menoa. Chung quanh chu vi đó, họ cắm một vòng những cái gậy có gắn đèn lồng, đồng thời các nhạc công sửa soạn trống kèn đàn sáo.
Arya hướng dẫn Eragon tới ngồi giữa nàng và sư phụ Oromis. Saphira và Glaedr ngồi hai bên như hai bức tượng bằng đá quý.
Quay qua Eragon và Saphira, Oromis căn dặn:
- Hai con phải thận trọng, vì đây là thời khắc quan trọng nhất để trở thành kỵ sĩ thừa kế.
Khi các thần tiên đã ổn định chỗ ngồi, hai tiên nữ tiến ra giữa, đứng quay lưng vào nhau. Họ đều tuyệt đẹp và giống hệt nhau, chỉ từ mái tóc: một tóc đen thắt bím, một tóc sáng ngời màu bạc.
Oromis thì thầm:
- Hai tư thế, Iduna và Neya.
Con quạ trắng Blagden trên vai nữ hoàng the thé kêu lên: "Wyrda!".
Cùng một lúc, hai tiên nữ tư tế đưa tay lên, mở khuy áo cổ. Hai áo choàng trắng rơi trên mặt cỏ. Dù không một mảnh vải trên người, hưng toàn thân họ được phủ kín bằng một hình rồng xăm lóng lánh. Hình xăm bắt đầu từ đuôi rồng, cuốn quanh mắt cá chân trái Iduna, tiếp tục lên đùi, tới khắp thân mình, rồi vết xăm lấn qua lưng Neya, chấm dứt bằng đầu rồng trên ngực của cô. Mỗi chiếc vảy rồng là một màu khác nhau; màu sắc biến ảo làm hình xăm trông như một cầu vồng.
Bàn tay, cánh tay hai tiên nữ cuốn lấy nhau, làm thân hình con rồng, uốn lượn từ thân này qua thân kia, không hề ngắt đoạn. Cả hai nâng một chân trần, đạp mạnh xuống đất, vang lên một tiếng "thịch".
Sau tiếng "thịch" thứ ba, tiếng trống dạo dầu, rồi sau tiếng "thịch" thứ tư, tiếng thụ cầm vang lên hoà cùng tiếng sáo du dương.
Lúc đầu khoan thai, rồi rộn ràng theo tiêng nhạc, Iduna và Neya bắt đầu nhảy múa, giữ nhịp bằng đôi chân nện lên mặt đất sôi nổi đến nỗi, dường như không phải họ, mà chính là con rồng trên thân họ đang chuyển động. Họ xoay vòng xoay vòng và con rồng liên tục bay lượn trên làn da họ.
Rồi cả hai cất giọng cao vút, mạnh mẽ hơn cả tiếng trống đàn. Những ca từ của mộ lời thần chú phức tạp, Eragon không thể nào hiểu nổi. Rồi như trận gió báo trước cơn giông, các thần tiên hoà giọng vào khúc ca bùa chú. Họ hát cùng một ngôn ngữ, cùng một ý chí, cùng một tâm niệm. Eragon không hiểu, nhưng chợt thấy nó cũng đang nhép miệng hát theo. Nghe giọng Glaedr và Saphira ư ử hoà vào nhau, một mối xúc động làm run rẩy thấu xương, và Eragon thấy bầu trời thêm lung linh huyền ảo.
Càng lúc càng nhanh hơn, Iduna và Neya xoắn tít lấy nhau cho đên khi hai đôi chân của họ chỉ còn là những bóng mờ loáng thoáng, tóc bay phất phới và toàn thân bóng nhẫy mồ hôi. Tiếng nhạc vút cao tột đỉnh, hai tiên nữ quay cuồng với một tốc độ phi phàm. Rồi một ngọn lửa chạy dọc chiều dài, từ đầu tới đuôi, trên hình ảnh rồng xăm. Lúc đầu Eragon tưởng bị ảo giác dánh lừa, nhưng rõ ràng...con rồng đang chớp mắt, vỗ cánh và xiết mạnh những cái móng.
Một tia lửa phun ra từ mõm con rồng, trong khi nó phóng mình, tách ra khỏi làn da của hai tiên nữ, rồi vút bay cao, bay lượn. Những chóp đuôi con rồng, như một cuống rốn kéo dài, vẫn gắn trên thân mình Induna và Neya dưới mặt đất. Con quái khổng lồ hướng lên mặt trăng đen ngòm, rống lên tiếng kêu hoang dã của quá khứ xa xăm ngàn ngàn năm trước, rồi quay xuống nhìn các thần tiên đang quần tụ bên dưới.
Khi tia nhìn hung hãn của con rồng hướng về nó, Eragon biết ngay đây không phải ma quỷ hiện hình, mà là một vật có tri giác đã được phép thuật ràng buộc và trợ lực. Tiếng ư ử của Glaedr và Saphira lên cao mãi, cho đến khi Eragon không còn nghe được âm thanh nào khác nữa. Trong khi đó, bóng ma của nòi giống chúng bay vòng trên đầu thần tiên, lướt qua họ bằng đôi cánh ảo. Thình lình con rồng ngừng trước Eragon, như muốn nhận chìm nó xuống bằng đôi mắt đảo vòng liên tục. Theo bản năng, Eragon vội đưa cao tay phải, bàn tay nó rần rần như kiến bò. Trong trí nó vang lên một giọng nói của lửa: "Quà tặng của chúng ta, để mi hoàn tất những việc phải làm".
Con rồng cúi đầu, chạm mõm vào giữa dấu hiệu gedway ignasia trên bàn tay Eragon. Một tia lửa nhảy nhót giữa người và rồng. Toàn thân Eragon rắn lại khi một nguồn hơi nóng ráng sức tuôn trào vào cơ thể nó. Mắt nó tràn ngập hai màu đen và đỏ, và vết thẹo trên lưng bỏng rát như bị đóng dấu bằng sắt nung. Để được an toàn, Eragon chìm sâu vào nội tâm, nhưng chỉ thấy bóng tối mịt mùng xiết chặt mà nó thì không còn đủ sức chống lại nữa.
Sau cùng, nó lại nghe tiếng lửa nói: "Quà chúng ta tặng mi"
Dưới bầu trời đầy sao
Eragon thức dậy một mình trong ngôi nhà cây. Nó mở mắt nhìn mái trần chạm khắc. bên ngoài trời đêm vẫn tối đen và những âm thanh của thần tiên vui chơi ca hát vẫn mơ hồ vọng lại.
Chưa kịp nghĩ ngợi gì thêm, Saphira bỗng chuyển vào tâm tưởng nó hình ảnh cô ả đang đứng bên nữ hoàng Islanzadí dưới cây Menoa. Giọng Saphira đầy lo lắng: "Anh sao rồi?".
"Anh...khoẻ. Lâu lắm rồi anh mới cảm thấy khá như thế này. Anh bị thế này..."
"Chỉ khoảng một giờ thôi. Đáng lẽ em ở bên anh, nhưng họ cần có sư phụ, Glaedr và cả em nữa, để hoàn tất buổi lễ. Anh mà thấy phản ứng của thần tiên khi anh bị ngất mới biết họ hốt hoảng đến thế nào. Vì chưa bao giờ xảy ra chuyện tương tự như thế trong lễ hội".
"Em là nguyên nhân phải không, Saphira ?".
"Đó không phải việc riêng em hay Glaedr. Đó là quá khứ của nòi giống em được tạo nên bởi phép thuật của thần tiên, để ban phép cho anh được có những tài năng của loài rồng. Vì anh là niêm hy vọng duy nhất có thể tránh cho dòng giống chúng em khỏi bị tiêu diệt".
"Anh không hiểu."
"Nhìn vào gương đi, rồi nghỉ ngơi cho khoẻ. Em sẽ về gặp anh khi trời sáng".
Eragon đứng dậy vươn vai, kinh ngạc vì cảm thấy toàn thân hầu như hoàn toàn mạnh khoẻ. Vào phòng tắm, nó lấy cái gương vẫn dùng dao cạo mặt, đến gần nguồn sáng của ngọn đèn lồng.
Nó đờ người sửng sốt.
Dường như một số thay đổi thể xác, qua thời gian gắn bó với Saphira, mà nó từng biết, giờ đã hoàn toàn trọn vẹn biến nó thành một kỵ sĩ trong lúc nó mê man. Mặt nhẵn nhụi và có góc cạnh như mặt thần tiên, tai nhọn, mắt xếch, da trắng như thạch cao và dường như toả sáng.
"Trông mình cứ như một ông hoàng con". Chưa bao giờ Eragon cho mình là một con người bảnh bao, nhưng lúc này chỉ một từ chính xác để tả dung mạo nó: "Đẹp". Tuy nhiên nó vẫn chưa hoàn toàn là một thần tiên. Cằm nó mạnh mẽ hơn, lông mày rậm hơn, mặt lớn hơn. Trông nó bảnh trai hơn bất kỳ người bình thường nào, nhưng lại thô kệch hơn bất kỳ thần tiên nào.
Với những ngón tay run rẩy, Eragon vòng tay ra sau lần mò tìm vết thương. Không có gì.
Eragon lột áo, quay mình trước gương, nhìn lưng. Lưng nó nhẵn nhụi như trước trận chiến tại Farthen Dur. Eragon vuốt bàn tay lên chỗ lưng từng mang thương tích của Tà-Thần mà nước mắt ứa ra. Nó biết từ nay vết thương không bao giờ còn hành hạ nó được nữa.
Không chỉ dấu vết tàn bạo đó, mà tất cả những vết trầy vết sẹo trên da thịt nó đều biến hết. Toàn thân nó không một tì vết, như một đứa trẻ sơ sinh. Eragon tìm kiếm trên cườm tay, nơi nó cắt phạm khi mài lưỡi hái cho cậu Garrow, những vết trầy trên háng vì lần đầu bay cùng Saphira...Tất cả đều không còn lại gì. Trong một thoáng, Eragon thấy nhớ những vết tích đó như những kỷ niệm trong đời, nhưng rồi nó nhận ra, từ nay tất cả những gì làm nó đau khổ, dù nhỏ tới đâu, đều được chữa lành.
"Mình đã trở thành con người mình mong muốn". Vừa nghĩ Eragon vừa ngây ngất hít mạnh một hơi.
Ném cái gương lên giường, Eragon lấy bộ đồ đẹp nhất: Áo màu tía may chỉ vàng, thắt lưng đính ngọc trắng, đôi ủng của thần tiên tặng, hai tấm cuốn cánh tay bằng da, quà tặng của người lùn.
Xuống khỏi cây, Eragon lang thang dưới bóng tối của Ellesméra , quan sát các thần tiên đang say sưa chè chén trong không khí háo hức của trời đêm. Không ai nhận ra nó, dù vẫn chào hỏi như một trong những đồng loại và mời nó chung vui cùng họ.
Eragon như bồng bềnh trong trạng thái tinh thần phấn khích. Giác quan như hoàn toàn mới mẻ: Âm thanh, mùi vị, hình ảnh, cảm giác ào ạt xâm nhập vào nó cùng một lúc. Nó có thể nhìn xuyên qua bóng tối; chỉ chạm vào chiếc lá, nó có thể đếm từng sợi tơ đang mọc; một mùi thoảng qua nó có thể nhận ra hơi hướm của một con rồng hay một con chồn. Nó cũng có thể nghe tiếng chuột nhắt di chuyển dưới bụi cây, tiếng một mảnh vỏ cây rơi xuống đất. Tiếng tim đập trong lòng ngực, Eragon nghe lớn như tiếng trống.
Vơ vẩn đi qua cây Menoa, nó ngừng lại nhìn Saphira giữa lễ hội, nhưng không để ai trong vành đai đó nhìn thấy.
Saphira hỏi: "Đi đâu vậy, tiểu huynh?".
Thấy Arya đứng dậy, đi qua đám đông thần tiên, rồi như một nữ thần của núi rừng, cô lướt nhẹ dưới những tàn cây, Eragon vừa bước theo Arya vừa trả lời Saphira: "Anh đi giữa ánh sáng và bóng tối".
Eragon theo dấu Arya bằng hương thơm từ mùi lá thông cô toả ra, bằng bước chân êm nhẹ như lông hồng trên mặt đất và bằng sự xao xuyến trong không khí trên lối cô lướt qua.
Eragon gặp cô đang đứng sát bìa rừng, ngước mặt nìn sao. Khi nó tiến lại gần, Arya quay lại. Eragon cảm tưởng ánh mắt cô như mới gặp nó lần đầu. Mắt cô mở lớn khi thì thầm hỏi:
- Chàng đó ư, Eragon?
- Tôi đây.
- Họ đã làm gì chàng vậy?
- Tôi không biết.
Cùng nhau, họ tiến vào khu rừng rậm, loáng thoáng vọng lại tiếng đàn giọng hát từ lễ hội.
Sự thay đổi thể xác lẫn tinh thần, Eragon có thể nhận thức từ tiếng thì thầm của vải vóc trên da thịt Arya, đến lớp dầu phủ nhẹ trên mi mắt làm chúng cong vút và long lanh như những cánh hoa đem ướt nước mưa.
Cả hai ngừng lại bên bờ con suối nhỏ, nước trong vắt, mơ hồ ẩn hiện trong vùng ánh sáng nhạt nhoà. Chỉ có dòng nước rì rào chảy qua những tảng đá chứng kiến sự hiện diện của họ lúc này. Chung quanh họ, thông mọc san sát, cành lá đan nhau, tạo thành một hang động biệt lập với thế giới bên ngoài. Nơi đây dường như một cõi bất diệt, được che chở bởi phép màu, thoát khỏi hơi thở khắc nghiệt của thời gian.
Trong chốn tách biệt bí ẩn này, Eragon chợt cảm thấy gần gũi với Arya, tất cả nỗi niềm say đắm đam mê cuồn cuộn trong lòng. Nó ngây ngất với nguồn sinh lực dồi dào trong huyết quản - như nguồn phép thuật bất kham tràn ngập khu rừng - không còn e dè, Eragon lên tiếng:
- Cây cao vời vợi, trăng sáng long lanh và ...nàng, ôi công nương Arya, nàng đẹp tuyệt vời.
Nếu trong một tình huống bình thường khác, Eragon đã cho hành động của nó là điên rồ, nhưng trong cái đêm kỳ lạ này, thái độ của nó dường như lại hoàn toàn tỉnh táo.
- Eragon ...
- Arya, tôi sẽ làm bất cứ điều gì để được nắm bàn tay nàng. Tôi sẽ theo nàng tới cùng trời cuối đất. Tôi sẽ xây dựng lâu đài dâng nàng chỉ với hai bàn tay trần này. Tôi sẽ...
- Xin chàng đừng theo đuổi tôi nữa. Hãy hứa đi, Eragon, không thể được đâu. Ta già rồi, chàng còn trẻ. Điều đó chẳng thể nào có thể đổi thay.
- Nàng không có chút cảm tình nào với tôi sao?
- Cảm tình ta dành cho chàng, không gì khác hơn là tình bằng hữu. Ta cám ơn chàng đã giải thoát ta ra khỏi Gil'ead và rất vui được là bạn của chàng. Tất cả chỉ có vậy thôi....hãy cố quên tình cảm đặc biệt chàng dành cho ta, chuyện đó chỉ làm chàng thêm đau lòng mà thôi. Hãy tìm người cùng trang lứa để kết đôi bạn trăm năm.
Hai mắt ứa lệ, Eragon hỏi:
- Sao nàng có thể tàn nhẫn với tôi đến thế?
- Tôi không tàn nhẫn mà chỉ mong điều tốt cho chàng. Chúng ta sinh ra không để dành cho nhau.
- Hãy cho tôi quá khứ của nàng, tôi sẽ có đủ kinh nghiệm và sự hiểu biết giống như nàng vậy.
Arya ngẩng cao đầu. mặt cô cứng rắn, uy nghi và sáng lên dưới ánh trăng.
- Nghe cho kỹ, Eragon. Điều này không thể, không bao giờ có thể xảy ra. Nếu chàng không tự chủ, tình bạn của chúng ta sẽ không còn. Vì sự xúc động của chàng không có lợi gì, chỉ làm cản trở nhiệm vụ của chúng ta. Tạm biệt, Khắc-Tinh của Tà-Thần.
Cô cúi chào rồi đi khuất vào Du Weldenvarden.
Nước mắt Eragon lã chã tuôn rơi xuống mặt rêu, như những hạt ngọc long lanh trên tấm chăn bằng nhung xanh. Ngồi trên một thân cây, Eragon như tê dại, hai tay ôm mặt khóc. Khóc vì mối tình với Arya đã chết, khóc vì đã làm cho cô xa cách nó hơn. Eragon ngồi như thế cho đến khi Saphira mon men lại gần: "Ôi, tiểu huynh, sao anh tự làm khổ mình như vậy? Anh đã biết trước chuyện gì xảy ra, nếu anh ngỏ lời với cô ta rồi mà".
"Nhưng anh không ngăn mình được"
Nó choàng tay ôm Saphira, đu đưa mình trên thân cây, cố kìm tiếng nức nở. Phủ cái cành ấm áp lên Eragon, Saphira kéo ông anh sát mình nó, như chim ưng mẹ ủ chim con. Eragon dựa vào cô em rồng, co mình nằm im cho tới khi trời hừng sáng và Lễ-hội Huyết-thệ dần tan.
Ghé bờ
Roran đứng trên boong Trăn đỏ, khoanh tay trước ngực, hai chân dang rộng, giữ thăng bằng trên chiếc xà lan chao đảo. Gió biển lồng lộng thổi râu tóc anh rối bù.
Đứng bên anh, Clovis đang điều khiển bánh lái. Người thủy thủ dạn dày nắng gió chỉ tay về phía bờ, bóng những con hải âu phủ đầy đỉnh đá trên ngọn đồi thoai thoải đổ xuống biển.
- Teirm ở ngay đằng sau đỉnh đá đó.
Eragon nheo mắt trước ánh ngắng chiều hắt lên từ mặt nước:
- Vậy thì chúng tan phải ngừng lại đây.
- Anh chưa muốn vào thẳng thành phố sao?
- Chúng tôi sẽ không đi tất cả một lần. Bảo Torson và Flint cho xà lan ghé vào bờ kia. Trông có vẻ cắm trại được dấy.
Clovis nhăn mặt:
- Hy vọng tối nay có chút đồ ăn nóng.
Roran thông cảm với ông ta: đồ ăn tươi đem theo từ Narda đã hết từ lâu, chỉ còn toàn thịt, rau, cá muối.Thỉnh thoảng dân làng làm thịt một con vật hiếm hoi còn sống lại, hay săn được khi ghé đất liền.
Giọng ồ ề của Clovis vang vang trên mặt nước, gào sang thuyền trưởng của ahi xà lan kia. Khi lại gần nhau, ông ta ra lệnh ghé bờ. Tiếng phàn nàn rầm rầm nổi lên, vì từ thuyền trưởng tới thuỷ thủ đều mong sớm đến Teirm trong ngày, tiêu xài cho đã số lương mới lãnh trong thành phố sầm uất rực rỡ đó.
Sau khi ba xà lan cặp bãi, Roran len lỏi trong đám đông giúp dân làng dựng lều bạt, chuyển đồ, lấy nước từ con suối nhỏ...Khi tất cả ổn định, anh tới nói mấy lời đồng viên Morn và Tara, vì thấy họ có vẻ chán nản thất vọng. từ khi rời thung lũng Palancar, vợ chồng ông chủ quán rượu này dường như né tránh Roran. Còn hầu hết dân làng tình trạng đều khá hơn khi mới tới Narda rồi bị nhồi nhét lên mấy chiếc xà lan này. Nhưng những lo âu và hoàn cảnh khắc nghiệt làm họ chưa thể hoàn toàn hồi phục tốt như Roran mong muốn.
Thane tiến lại Roran hỏi:
- Cây-búa, mời anh dùng bữa tối với chúng tôi, được chứ?
Roran vui vẻ nhận lời. Anh vừa quay đi, đụng đầu ngay với Felda Chị là vợ của Byra, người đã bị lão Sloan ám sát.
Felda hấp tấp cúi đầu chào, rồi nói:
- Tôi nói chuyện với cậu được không, Roran?
- Chị biết là tôi luôn sẵn sàng mà.
Mấy ngón tay vê vê những sợi rua khăn choàng, lén nhìn về căn lều của mình, Felda ngập ngừng:
- Cám ơn cậu. Tôi muốn nhờ cậu một việc. Đó là...chuyện thằng Mendel nhà tôi...
Mandel là con trai lớn của Felda, Roran đã chọn nó cùng đi trong chuyến đi định mệnh - lần anh đã phải giết hai người lính gác tại Narda. Thằng nhỏ tỏ ra rất dễ thương, cũng như trong suốt mấy tuần lễ trên chiếc Edeline, nó đã học hỏi về cách điều khiển xà lan.
Felda tiếp:
- Càng ngày nó càng thân thiết với đám thuỷ thủ, lại còn đổ đốn bài bạc nữa. Nó đánh xúc xắc với cái đám vô kỷ luật đó. Không chơi bằng tiền đâu, vì chúng tôi làm gì có tiền, nhưng bằng những đồ lặt vặt. Toàn những thứ cần thiết.
- Chị cấm nó chưa?
- Từ khi cha nó chết nó chẳng coi tôi ra gì, không như trước kia đâu. Càng ngày nó càng cứng đầu cứng cổ, liều lĩnh...
"Tất cả chúng ta đều liều lĩnh mát rồi". Roran thầm nghĩ, nhẹ nhàng hỏi:
- Chị muốn tôi làm gì?
- Cậu luôn tốt với Mandel, nó rất quý cậu. Nếu cậu nói, chắc nó sẽ nghe.
- Được, tôi sẽ thử bảo nó xem sao. Nó đã thua những gì rồi?
- Toàn là thực phẩm. Nhưng...có lần nó liều đến nỗi đổi cả sợi dây chuyền của bà ngoại, lấy một con thỏ để đặt cửa xúc xắc
- Cứ yên tâm đi, chị Felda. Tôi sẽ thu xếp sớm chuyện này.
- Cám ơn cậu nhiều lắm.
Felda cúi chào, rồi len lỏi qua mấy cái lều, để Roran đứng lại ngẫm nghĩ những lời chị vừa nói.
Lơ đãng gãi bộ râu rậm rì, Roran vừa bước đi vừa suy tính. Phải tách rời thằng Mandel khỏi đám thuỷ thủ. Anh còn quan tâm đến một điều: suốt chuyến đi, một thuỷ thủ trên tàu Torson là Frewin tỏ ra rất thân thiết với Odele- bạn của Katrina. Những khi mình không ở gần Clovis, rất có thể ông ta và đám thuỷ thủ dò la chuyện từ Odele.
Không muốn để mọi người chú ý, Roran lẳng lặng bảo những người tin cẩn nhất, theo anh tới lều của chú Horst.
Trước mặt họ, anh lên tiếng:
- Năm ngượi đã đwojc chọn sẽ lên đường ngay, khong chần chừ thêm được nữa. Chú Horst sẽ thay tôi, khi tôi vắng mặt. Phải nhớ, việc quan trọng nhất của các vị là bảo đảm sao Clovis không bỏ đi với mấy xà lan hoặc làm hư hỏng chúng. Đó là phương tiện duy nhất để chúng ta đến được Surda.
Orval góp ý:
- Ngoài ra, phải thật thận trọng, đừng để chúng ta bị phát hiện
- Chính xác. Nếu không một ai trong chúng tôi trở lại, coi như chúng tôi đã bị bắt. Hãy lên xà lan, giong buồm tới thẳng Surda. Không được ngừng lại Kuasta mua bán gì hết; rất có thể quân triều đình phục kích chúng ta tại đó.
Khi mọi người sửa soạn, Roran lên Trăn đỏ, vào buồng của Clovis, cho ông ta biết kế hoạch. Nghe Roran nói xong, Clovis hỏi:
- Chỉ có năm người đi thôi sao?
Roran trừng trừng nhìn cho đến khi làm ông chủ tàu bối rối rồi mới trả lời:
- Đúng vậy. và tôi mong, khi trở lại, tôi còn thấy nguyên vẹn ba chiếc xà lan và các người của ông tại đây.
- Sau khi thương lượng với nhau, anh còn nghi ngờ bụng dạ tôi sao?
- Tôi không nghi ngờ gì hết, chỉ cho ông biết tôi muốn gì thôi. Tiền thưởng quá lớn, nhưng nếu ông phản bộ chúng tôi, là đồng nghĩa với việc ông đã đẩy tất cả dân làng vào chỗ chết.
- Tôi biết điều đó mà
Clovis lẩm bẩm, tránh ánh mắt Roran
- Trong khi tôi vắng mặt, người của tôi sẽ tự bảo vệ họ. Còn một hơi thở, họ vẫn không để bị bắt, bị lừa hay bị bỏ rơi đâu. Nếu chẳng may, điều bất hạnh đổ xuống đầu họ, tôi sẽ báo thù, dù phải lội bộ hàng ngàn dặm để chiến ddaasu với chính Galbatorix. Hãy lưu ý đến lời tôi, ông Clovis, vì tôi chỉ nói bằng sự thật.
- Chúng tôi không quá tha thiết với Galbatorix như các anh tưởng đâu.
Roran vui vẻ cười:
- Con người ta ai cũng tìm mọi cách để bảo vệ vợ con gia đình mình, phải không ông Clovis
Roran vui vẻ cười:
- Con người ta ai cũng tìm mọi cách để bảo vệ vợ con gia đình mình, phải không ông Clovis
Roran vừa nâng chốt cửa, Clovis bỗng hỏi:
- Khi tới được Surda rồi anh sẽ làm gì?
- Chúng tôi sẽ...
- Không pảhi chúng tôi. Anh kìa, anh sẽ làm gì, Roran? Tôi đã nghe về anh. Dường như anh cũng là người đàng hoàng, tôi không quan tâm đến những gì anh đã đối xử với tôi đâu. Nhưng tôi vẫn băn khoăn, chẳng lẽ tới Surda, anh sẽ buông cây búa để cầm lại tay cày?
Bàn tay Roran nắm mạnh chốt cửa đến trắng nhợt:
- Sau khi đưa dân làng an toàn đến Surda, tôi sẽ...đi săn...
- A ha! Đi săn lùng người đẹp tóc đỏ của anh? Tôi đã nghe loáng thoáng chuyện này. Nhưng...
Roran bước ra, sạp mạnh cửa. Để cơn giận bùng lên trong thoáng chốc - và anh cảm thấy thích thú cảm giác đó - rồi dằn xuốgn, bước tới lều cảu Felda.
Mandel đang phóng con dao săn vào một thân cây. "Felda nói ddungs, phải có người kèm cặp ông nhóc này", Roran nghĩ rồi lên tiếng:
- em chỉ tốn thì giờ vô ích thôi, Mandel
Chú nhóc giật mình quay lại:
- Vì sao?
- Vì trong tác chiến thật sự, thay vì làm kẻ thù bị thương, không chừng em bị lòi con mắ. Phải nắm chính xác khoảng cách từ mình tới mục tiêu chứ...
Roran nhún vai tiếp:
- Tốt hơn là nên tập bằng sỏi trước.
Chú nhóc bướng bỉnh cãi:
- Gunnar kể với em , một tay ở Cithrí, có thể phóng dao hạ ngon ơ một con quạ đang bay. Mười lần trúng tam.
- Còn hai lần kia để giết em. Trong chiến trận, không ai ngu đến nỗi phóng vũ khí của mình đi, nếu không thật sự cần thiết. Thôi ây giờ thu dọn đồ đạc của em, mười lăm phút nữa đến gặp tôi trên đồi, bên kia con suối. Tôi đã quyết định cho em đi cùng tới Teirm.
- Tuân lệnh.
Mandel toét miệng cười, hí hởn chạy vội đi thu xếp hành lý. Roran vừa quay ra, gặp Felda bế đứa con gái út bước vào. Chị nhìn Roran, nhìn Mandel đang rối rít trong lều, nói nhỏ:
- Trông nom nó giùm tôi, Cây-búa.
Đặt con gái xuống đất, chị chạy vào lều, phụ với Mandel.
Roran là người dầu tiên lên đồi. Ngồi trên tảng đá, nhìn xuống biển, anh tính toán những việc trước mắt phải làm. Khi Loring, Gertrude, Birgit và câu con trai Nolfavrell tới nơi, Roran nhảy xuống khỏi tảng đá, bảo:
- Còn chờ Mandel nữa, nó cũng đi với chúng mình.
Loring hỏi ngay:
- Để làm gì?
Birgit cũng nhăn nhó:
- Đã quyết định chỉ có năm người rồi. Nhất là Mandel đã bị biết mặt ở Narda. Cậu và Gertrude đã đủ nguy hiểm, thêm thằng Mandel chỉ tổ làm cho người ta dễ phát hiện thôi.
Roran nhìn từng người:
- Tôi đành liều vậy, vì nó cần phải đi.
Sau khi nghe anh cắt nghĩa, mọi người đều đồng ý và thêm Mandel, sau người tiến hướng nam để tới thành Teirm
Thành Teirm
Bãi biển này tạo thành bởi những đồi thấp thoai thoải, phủ đầy cỏ xanh, lác đác hồng dại, dương liễu, bạch dương. Đất bùn mềm nhũn rất khó đi. Bên phải họ, mặt biển lấp lánh; bên trái lồ lộ núi Spine tím ngắt. Những đỉnh núi phủ tuyết trắng nối kết nhau bằng những dải mây và lớp sương mù dày đặc.
Qua những nông trại, sáu người trong nhóm Roran cố tránh không để bị phát hiện. Ra tới con lộ nối Narda và Teirm, họ chạy băng qua đường, rồi tiếp tục đi sâu thêm về hướng đông, tiến tới rặng núi, phải vượt thêm mấy dặm nữa, vòng qua thành phố, mới lại quay về hướng nam.
Khi còn trên Trăn đỏ, Roran đã suy tính, chính quyền Narda chắc phải suy ra kẻ giết hai tên lính gác nằm trong đoàn người ra đi bằng mấy cái xà lan của Clovis. Nếu đúng vậy, quân lính tại Teirm chắc chắn đã được lệnh tìm kiếm trong đám dân làng, kẻ nào giống với hình ảnh đang bị truy nã. Hơn nữa, nếu Ra'zac đã tới Narda, hẳn nhiên binh sĩ tại đó cũng đã biết rằng, chúng không chỉ truy lùng vài tên sát nhân vô danh tiểu tốt, mà là Roran Cây-búa Dũng-mãnh và nhiều kẻ đào tẩu khỏi làng Carvahall. Chắc chắn thành Teirm đã giăng sẵn một cái bẫy khổng lồ. Biết thế, nhưng không thể không ghé vào thành, vì dân làng cần lương thực và phương tiện vận tải để đi tiếp.
Roran quyết định, cách đề phòng tốt nhất là ai đã bị biết mặt tại Narda sẽ không được vào Teirm, trừ anh và bà Gertrude. Vì chỉ có bà thông thạo tên thuốc, còn anh - dù dễ bị nhận diện nhất - nhưng anh không tin người nào đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Như trong vụ giết hai tên lính gác, trong khi mọi người phân vân, anh đã kịp thời ra tay hành động. Mấy người trong chuyến đi này đều đã được sàng lọc rất kỹ: Ông Loring tuy già nhưng khôn ngoan và mạnh mẽ, còn Nolfavrel, con trai của chị, tuy còn nhỏ cũng hạ được một tên lính trong chiến trận. Hy vọng cả nhóm xuất hiện như một đại gia đình cùng đi buôn bán. Roran tự nhủ: "Miễn sao thằng Mandel không gây ra chuyện gì".
Chính Roran đưa ra ý kiến, từ phía nam tiến vào thành, làm như không phải từ Narda tới.
Xế chiều, họ đã thấy thành Teirm, một màu trắng ẩn hiện dưới hoàng hôn. Roran ngừng quan sát: thành phố bao bọc bằng những bức tường, đứng một mình trên bờ biển rộng. Ánh đuốc bập bùng giữa những lỗ châu mai, lính canh nắm cung tên liên tục rảo tới lui. Vượt khỏi những bức tường là một đài hải đăng, đang quét những tia sáng trên mặt nước biển đen ngòm.
Nolfavrell tấm tắc:
- Thành này lớn quá.
Mắt không rời Teirm, ông già Loring gật gù:
- Lớn thật.
Nhưng Roran lại chú ý đến một con tàu neo bên kè đá nhô ra từ thành phố. Chiếc tàu ba cột buồm lớn hơn tất cả nhưng con tàu Roran từng thấy Narda với thân trước cao, hai hàng mái chèo, mười hai cái máy bắn đá lắp đặt hai bên sàn. Con tàu tráng lệ thích hợp cho cả việc thương mại và phục vụ chiến tranh. Nhưng quan trọng nhất, Roran nghĩ, nó có thể chứa toàn bộ dân làng.
Chỉ tay về phía con tàu, anh bảo mọi người:
- Đó mới là cái chúng ta cần
Birgit mỉa mai:
- Chúng ta phải bán mình làm nô lệ ráo, may ra mới bước chân được lên đó.
Vì Clovis đã cho biết, cổng thầnh sẽ hạ xuống khi mặt trời lặn, nên tất cả vội vàng rảo bước.
Khi tới gần tường thành, con đường càng lúc càng tấp nập, người vào ra. Roran không ngờ có đông đúc người qua lại đến thế, nên nhận ra ngay lợi điểm dễ lẩn tránh trong đám người này. Anh dặn dò Mandel:
- Đi lùi lại phía sau, theo người khác qua cổng, để tụi lính gác không biết em đi cùng chúng ta. Nếu chúng hỏi, cứ bảo vào thành xin một chân đi biển. Chúng ta đợi em bên kia cổng.
- Tuân lệnh.
Mandel lùi lại sau. Roran hạ thấp một bên vai, bước đi tập tễnh như một người tàn tật, thầm nhẩm "kịch bản" do ông già Loring sáng tác để cắt nghĩa sự hiện diện của cả nhóm tại thành Teirm. Anh cúi đầu, bước vội tránh đường một anh chàng lùa hai con bò chở gỗ đi qua, mừng thầm vì bóng tối che kín mặt.
Đứng dưới ánh đuốc vàng bập bùng hai bên lối vào cổng là hai tên lính với phù hiệu ngọn đuốc của Galbatorix trên ngực áo màu choàng đỏ thắm. Cả hai chỉ liếc qua nhóm của Roran khi họ trà trộn cùng người khác qua cổng, tiến qua đoạn đường hầm ngắn.
Roran thở phào cùng cả nhóm tụ tập bên một căn nhà. Loring thì thầm:
- Đi nữa đi. Càng xa càng tốt.
Khi gặp lại Mandel, cả nhóm đi tìm một nhà trọ rẻ tiền để qua đêm. Vừa đi Roran vừa quan sát những ngôi nhà kiên cố, càng gần pháo đài chúng càng cao hơn. Từ pháo đài những ngôi nhà nằm phía bắc, toả ra phía nam như một chùm sao, những nhà từ đông sang tây uốn thành đường cong, chằng chịt như lưới nhện, tạo ra nhiều khoảng có rào bảo vệ những đồn quân.
Roran ngẫm nghĩ: "Nếu làng Carvahall được xây dựng như thế này, không kẻ nào có thể hạ nổi, trừ khi đích thân Galbatorix xuất quân".
Chập tối, họ mới tìm được chỗ trọ tại Hạt Dẻ Xanh, với rượu mơ và những cái giường đầy rệp. Hà tiện từng đồng bạc quý giá, cả nhóm đi ngủ với cái bụng đói meo, nằm co quắp gần nhau, phòng xa bị những khách trọ xấu tính móc mất tiền.
Hôm sau cả nhóm Roran rời Hạt Dẻ Xanh từ sáng sớm, đi tìm mua lương thực và dò hỏi phương tiện vận chuyển.
Bà Gertrude bảo:
- Nghe nói tại đây có một bà lang danh tiếng, trị được rất nhiều bệnh. Thậm chí chỉ cần vuốt một cái bằng phép thuật bệnh tật nặng mấy cũng khỏi. Tôi phải đi tìm gặp bà ta bằng được.
Roran góp ý:
- Bà không nên đi một mình. Mandel, em theo bà Gertrude giúp bà mang xách hàng và nếu bị tấn công, bằng mọi cách phải bảo vệ cho bà. Đừng gây ra chuyện gì có thể làm hại tới bạn bè, gia đình em.
Mandel ngoan ngoãn gật đầu, theo bà Gertrude rẽ phải, xuống một ngã tư đường. Sau đó, Roran và mấy người còn lại kiên nhẫn tìm kiếm suốt từ sáng tới chiều, nhưng vẫn không tìm ra một chiếc tàu có thể chở họ tới Surda. Họ được biết con tàu mới xuất xưởng và sắp được hạ thuỷ để ra khơi lần đầu của công ty vận chuyển Đồng-Cỏ-Đen. Phải đổ ra cả đống vàng chưa chắc đã thuê được con tàu tráng lệ này, huống hồ toàn thể dân làng góp lại cũng không đủ tiền mướn một chiếc thuyền tã nhất. Mấy xà lan của Clovis cũng không giải quyết được vấn đề, vì lấy gì ăn trong suốt chuyến đi.
Birgit thở than:
- Lính tráng đầy rẫy nhà cửa thì san sát thế này, mà cổng ra vào lúc nào cũng được canh gác nghiêm ngặt, làm sao lấy trộm thực phẩm được? Căng quá.
Roran đồng ý:
- Căng thật.
Trước đó, Roran đã bàn với chú Horst, nếu bắt buôc phải chuồn khỏi Teirm với quá ít lương thực còn lại, họ đành phải cướp đồ ăn cho dân làng. Nhưng hành động đó có khác gì với những hành động của lũ dã man mà anh từng căm ghét. Chiến đấu và chém giét những kẻ phục vụ bạo chúa Galbatorix - hoặc lấy trộm xà lan của Clovis, vì ông ta vẫn còn những chiếc khác để sinh sống - lại là một nhẽ. Nhưng cướp tài sản của những nông dân vô tội, đổ mồ hôi kiếm sống như dân làng Carvahall, chẳng khác nào tội sát nhân.
Khó khăn chồng chất lên vai Roran nặng nề như đá. Biết bao hãi hùng, tuyệt vọng, lạc quan, rồi thất vọng trong suốt chuyến đi. Lúc này đây, anh chỉ sợ mình đã đưa dẩy dân làng vào vòng tù tội của kẻ thù. "Mình có thể trốn đi một mình để tìm kiếm Katrina, nhưng thành công đó sẽ là gì, nếu bỏ lại dân làng trở thành nô lệ? Dù định mệnh đẩy đưa tới đâu, mình phải gắn bó với những con người đã tin tưởng vào mình mà bỏ lại nhà cửa ruộng vườn".
Để đỡ đói, họ ngừng lại một cửa hàng bánh, mua một ổ bánh mì và một bình mật ong nhỏ. Khi trả tiền, ông Loring bảo người bán hàng là đang cần tìm một con tàu, lương thực và một ít dụng cụ.
Một cái vỗ nhẹ lên vai làm Roran quay lại. Một người dàn ông đầu tóc rối bù lên tiếng:
- Xin lỗi vì đã trộm nghe chuyện các ông. Nhưng nếu các ông đang cần tàu và thực phẩm giá cả phải chăng, tôi nghĩ các ông nên đến dự buổi bán đấu giá...
- Đấu giá gì vậy?
- A, đó là một chuyện buồn, nhưng thời buổi này cũng là chuyện thường xảy ra. Một nhà buôn thành phố chúng tôi, ông Jeod - chúng tôi thường nghe gọi là Jeod Chân dài, gặp vận hạn chẳng ra gì. Chưa đầy một năm, ông ta mất đến bốn con tàu. Khi chuyển hàng trên đất liên thì lại bị cướp sạch và hủy hoại hết đoàn xe. Những nhà đầu tư đã ép ông ta phải tuyên bố phá sản. Bây giờ họ sắp bán tài sản của ông ta để thu hồi vốn đã mất. Lương thực thì tôi không biết sao, nhưng các ông có thể mua nhiều thứ cần thiết trong cuộc bán đấu giá đó.
Roran khấp khởi hy vọng:
- Bao giờ buổi đấu giá được tổ chức?
- Ủa, các ông không biét sao? Dán đầy trên mấy bảng thông tin khắp thành phố mà. Ngày mốt, chắc chắn đó.
Làm sao biết được, vì nhóm của Roran đâu dám mon men gần mấy bảng thông cáo, sợ có người nhận ra Roran trong tấm hình vẽ cùng số tiền thưởng kếch sù.
- Cám ơn ông nhiều. Có lẽ chúng tôi đỡ phải đi mò mẫm hỏi han thêm nữa.
- Không có chi, rất vui giúp được các ông.
Ra khỏi cửa hàng, Roran hỏi cả nhóm:
- Mình có nên tới đó không?
Ông Loring lầm bầm:
- Cũng thử đến xem sao.
- Chị Birgit ?
- Cậu không cần phải hỏi. Rõ ràng là chúng ta không thể chờ tới ngày mốt được.
- Không. Ý tôi là tới gặp cái ông Jeod đó, thử điều đình trước ngày đấu giá. Tất cả đồng ý không?
Tất cả đồng ý. Sau khi hỏi thăm đường, họ tìm đến nhà Jeod. Ngôi nhà - một cơ ngơi rộng lớn thì đúng hơn - toạ lạc trong khu tây của thành phố, gần pháo đài, giữa những ngôi nhà sang trọng với mái vòm, cửa sắt uốn, tượng đá, suối phun nước. Roran ngẩn trước sự giàu sang đến thế, khác hẳn với đời sống của quê anh.
Nhà của Jeod ngay kế bên một cửa hàng bỏ phế. Roran gõ cửa, mấy phút sau, một tên bồi tròn quay, mở hé một cánh, nhe hàm răng trắng bóng, hỏi:
- Các ông bà cần gì?
- Chúng tôi muốn được thưa chuyện cùng ông Jeod?
- Các ông bà có hẹn trước không?
- Chúng tôi chỉ ở lại thành phố này thời gian ngắn, không thu xếp trước được buổi hẹn chính thức.
- A, vậy thì tôi rất tiếc phải nói rằng, các ông bà nên dành thời gian của mình tìm tới một nơi khác nhé. Chủ nhân tôi có rất nhiều vấn đề giải quyết. Ông không có thời gian dành cho những kẻ rách rưới lang thang đến đập cửa thình thình để xin bố thí đâu.
Gã bồi vừa nói vừa toe toét cười khoe hàm răng trắng nhởn. Gã ta vừa quay lưng, Roran kêu lên:
- Khoan. Chúng tôi không xin xỏ gì hết. Chúng tôi có một đề nghị làm ăn với ông Jeod.
Gã bồi nhướng mắt:
- Lại thế nữa?
- Thật mà. Xin hỏi giúp, ông Jeod có đồng ý tiếp chúng tôi không? Chúng tôi từ rất xa tới, có chuyện cấp bách cần gặp ông Jeod ngay hôm nay.
- Tôi có được phép hỏi là chuyện gì mà cấp bách quá vậy không?
- Chuyện riêng.
- Được, nhưng tôi báo để các ông bà biết, ông Jeod hiện thời rất bận, không muốn ai quấy rầy. Tôi phải cho chủ nhân biết qúy vị tên gì đây?
- Cứ gọi tôi là Cây-búa.
Gã bồi thích thú chúm miệng như làm hề khi nghe Roran xưng tên, rồi quay vào, khép cửa
Birgit lèm bèm:
- Cầu mong sao chủ tớ đừng giống nhau.
Một phút sau, gã bồi xuất hiện lại, giọng mềm mỏng hơn:
- Ông chủ đồng ý tiếp các vị trong phòng làm việc. Xin theo tôi.
Họ theo hắn qua một lối đi xa hoa lộng lẫy, xuống một hành lang lát gỗ bóng lộn, tới một cánh cửa, hắn mở rồi hướng dẫn nhóm của Roran bước vào
Joed chân dài
Nếu biết đọc hẳn Roran còn bàng hoàng hơn vì kho sách quý xếp hàng trên khắp các bức tường. Nhưng anh chỉ chăm chú đến người đàn ông cao lớn, tóc bạc, đang đứng sau bàn viết. Ông ta - Roran đoán là Jeod - mệt mỏi nhìn quanh. Những nếp nhăn hằn sâu trên mặt đầy u buồn, và khi ông ta quay lại nhìn nhóm của Roran, tất cả đều nhìn thấy một vết thẹo xấu xí kéo dài từ chân tóc xuống thái dương bên trái. Khi ông ta cất tiếng nói, Roran nhận xét người đàn ông này rất cứng rắn.
- Mời ngồi. Dùng chút bánh ngọt và rượu mơ nhé? Tôi không có nhiều thời gian đâu, nhưng nhìn các vị như vừa trải qua mấy tuần lễ vất vả trên đường, tôi lại nhớ những chuyến đi khát khô cả cổ của mình.
Lão Loring cười cười:
- Vâng, một chút rượu là qúy lắm rồi. Ngài hào phóng quá.
Birgit bảo:
- Xin cho thằng con tôi một ly sữa thôi.
Jeod rung chuông gọi bồi, dặn dò xong, ông ngả người trên ghế, nói:
- Chắc các vị đã biết tôi là ai, nhưng tôi chưa được biết tên các vị.
Roran:
- Tên tôi là Cây-búa Dũng-mãnh, mong được ngài giúp đỡ.
Lần lượt mọi người xưng tên giả. Birgit là Mardra, Nolfavrell là Kell, ông lão Loring là Wally.
Jeod chậm rãi nói:
- Rolf cho tôi biết các vị muốn gặp tôi để bàn chuyện làm ăn. Tôi thẳng thắn trình bày, hiện nay ở địa vị mình, tôi không còn có thể mua hay bán hàng hoá gì nữa. Không tiền gom hàng, không tàu bè trên biển. Vậy thì tôi có thể làm gì được cho các vị đây?
Roran chống tay lên gối, mấy ngón tay xoắn vào nhau, suy tính: "Chỉ lỡ một lời là hỏng chuyện hết". Anh thận trọng lên tiếng:
- Thưa ngài, tôi xin nói ngắn gọn, chúng tôi là đại diện cho một số người, vì một lý do không thể tới đây. Chúng tôi cần mua một lượng hàng lớn, với...một số tiền nhỏ nhoi. Tôi được biết ngày mốt người ta đấu giá tài sản của ngài, để trang trải công nợ, vì vậy chúng tôi đề nghị xin mua một số hàng chúng tôi đang cần. Vì áp lực công việc, chúng tôi không thể chờ tới ngày đấu giá. Nếu chúng ta thoả thuận, chúng tôi sẽ lên đường đêm nay, trễ nhất là sáng mai.
- Các vị cần những mặt hàng gì?
- Lương thực và tất cả những gì cần thiết cho một chuyến đi biển dài ngày.
Mặt Jeod thoáng vẻ quan tâm:
- Các vị đã nhắm một tàu nào chưa? Tôi biết tất cả tàu bè hoạt động trên vùng biển này suốt hai mươi năm nay.
- Chưa...Chúng tôi chưa quyết định được chuyện này.
- Giờ thì tôi hiểu lý do các vị tìm đến tôi rồi, nhưng tôi e rằng các vị đã tốn công vô ích...
Chỉ tay quanh phòng, ông tiếp:
- Tất cả những gì các vị thấy đây là của chủ nợ, không thuộc về tôi nữa. Nếu tôi bán mà không được phép của họ, tôi sẽ bị tống vào tù vì tội lừa đảo.
Jeod ngừng nói khi thấy Rolf vào phòng với khay bánh ngọt, mấy ly pha lê, một cốc sữa và một bình rượu. Hắn dặt cái khay lên kỷ rồi rót rượu cho từng người. Roran đón ly rượu, vừa nhấp chút rượu ngọt dịu vừa tự hỏi, theo phép lịch sự lúc này cáo lui để đi lo tiếp công việc được chưa.
Khi Rolf lui ra, Jeod uống cạn cốc rượu rồi nói:
- Có thể tôi chẳng giúp gì được, nhưng tôi biết có một số đồng nghiệp, họ có thể ...giúp các vị. Nếu cho tôi biết thêm chút chi tiết vê những món hàng các vị cần mua, tôi mới có thể giới thiệu đúng người đúng việc được.
Roran thấy chuyện này không có gì đáng ngại, nên kể ra một danh sách những thứ dân làng cần, những thứ thật sự cần thiết và cả những thứ cả đời họ mơ không thấy. Ông Loring và Birgit nhắc thêm những thứ Roran quên, chẳng hạn như đèn dầu. Jeod nhìn khắp lượt rồi ánh mắt chăm chú vào Roran. Hình như ông thương gia này biết, hay nghi ngờ, anh đang che dấu điều gì.
- Tôi thấy dường như đây là số dự trữ đủ để cung cấp cho mấy trăm người tới tận Feinster hoặc Aroughs...hoặc còn xa hơn nữa. Thú thật, mấy tuần nay tôi rất bận, nhưng tôi không nghe nói có khách hàng nào từ những nơi đó tới thành phố này.
Roran cố bình thản, lặng thinh trước ánh mắt dò hỏi của Jeod. Anh tự trách mình đã tiết lộ quá nhiều để ông ta có thể đi đến kết luận như thế.
Nhưng Jeod chỉ nhún vai nói:
- Tuy nhiên đó là việc riêng của các vị. Tôi đề nghị các vị hãy tới gặp Galton trên Phố Chợ để mua thực phẩm những thứ khác thì đến gặp lão Hamilton ở ngoài bến cảng. Hai người này rất đàng hoàng, hàng hoá bảo đảm, giá cả lại rẻ.
Với tay lấy một cái bánh, ông quay qua hỏi Nolfavrell:
- Sao, cậu bé Kell, thích thành phố Teirm không?
- Dạ thích. Cháu chưa thấy nơi nào rộng lớn như ở đây.
- Thật không?
- Dạ thật
Cảm thấy sẽ bất lợi nếu cứ để Nolfavrell bô bô mãi với ông nhà buôn này, Roran ngắt ngang:
- Thưa ngài, tôi hơi tò mò, vì sao giữa những ngôi nhà nguy nga này, kế bên nhà ngài lại có một cửa hàng khiêm tốn vậy?
Lần đầu tiên Jeod thoáng cười, nụ cười làm ông tươi tỉnh và như trẻ lại hàng chục tuổi:
- Chủ cửa hàng đó là một bà hơi tàng tàng. Đó là bà lang Angela, một thầy thuốc giỏi nhất mà tôi được biết. bà ta mở phòng thuốc này từ hơn hai mươi năm nay. Mấy tháng trước bà ta bỗng bỏ đi đâu không biết. Cũng đáng tiếc vì bà Angela là một người hàng xóm thú vị lắm.
Thằng Nolfavrell nhìn mẹ, bật hỏi:
- Đó là người mà bà Gertrude muốn gặp, phải không mẹ?
Roran cố nén một tiếng quát, lừ mắt nhìn Nolfavrell làm cu cậu rúm mình trên ghế. Tên bà Gertrude không có nghĩ gì với Jeod, nhưng nếu thằng Nolfavrell không giữ miệng, nó sẽ phun ra nhiều điều nguy hiểm khác. Roran tự nhủ: "Đi khỏi đây thôi". Anh đặt ly rượu xuống bàn.
Nhưng ngay lúc đó, Roran cảm thấy tên bà Gertrude đã gợi cho người thương gia một điều gì. Mắt ông mở lớn đầy kinh ngạc, hai tay nắm chặt thành ghế, trừng trừng cố nhìn mặt thật của Roran qua bộ râu rậm rạp.
Jeod thều thào:
- Roran ...Roran Garrowson
Một đồng minh bất ngờ
Roran đã nhổm mình khỏi ghế, sẵn sàng rút cây búa từ thắt lưng khi nghe đến tên cha. Chỉ một điều ngăn anh nhảy tới đánh cho Jeod bất tỉnh: đó là "Vì sao ông ta biết Garrow".
Loring và Birgit cũng đứng bật dậy, rút dao từ tay áo ra. Cả thằng Nolfavrell cũng lăm lăm lưỡi dao găm.
Jeod không hề nao núng trước những con người đằng sát khí, chỉ lặng lẽ hỏi:
- Cháu là Roran, phải không?
- Sao ông biết?
- Vì Brom đã đưa Eragon tới đây và vì cháu rất giống người em họ. Khi ta thấy hình cháu và Eragon, ta biết là triều đình đang truy lùng cháu và chắc chắn cháu phải chạy trốn. Nhưng...
Nhìn ba người kia, ông lắc đầu:
- Nhưng dù có giàu tưởng tượng đến đâu, ta cũng không thể ngờ cháu đem theo toàn bộ dân làng Carvahall.
Sững sờ, Roran buông mình lại xuống ghế, cây búa đặt ngang đùi:
- Eragon đã tới đây?
- Phải, cả Saphira nữa.
- Saphira?
Một lần nữa, Jeod tỏ ra kinh ngạc:
- Vậy là cháu không biết sao?
- Biết gì?
Đắn đo một lúc lâu, Jeod nói:
- Ta nghĩ đã đến lúc chúng ta đừng đóng kịch nữa, Roran Garrowson ạ. Hãy trò chuyện cởi mở, đừng e dè gì. Ta sẽ trả lời tất cả những câu hỏi cháu cần biết, như vì sao triều đình truy lùng cháu, nhưng đáp lại ta cần được biết vì nguyên nào cháu tới thành Teirm... ta cần biết nguyên nhân thật sự.
Lão Loring lên tiếng hỏi:
- Nhưng vì sao chúng tôi phải tin ông, ông Jeod? Biết đâu ông chính là người của Galbatorix ?
- Tôi là bạn của Brom hơn hai mươi năm, từ trước khi ông ta trở thành người kể chuyện trong làng Carvahall. Khi ông ta và Eragon sống dưới mái nhà này, tôi đã cố gắng giúp bằng mọi cách. Nhưng vì lúc này không có mặt hai người đó ở đây để làm chứng cho lời nói của tôi, tôi đặt mạng sống của mình trong tay các người, muốn làm gì cũng được. Tôi đã không kêu cứu, cũng sẽ không chống trả. Tôi chỉ yêu cầu một điều, hãy kể tôi nghe mọi chuyện và lắng nghe những gì tôi kể, rồi các người tự quyết định việc phải làm. Chúng ta nói chuyện đàng hoàng thì có hại gì đâu.
Birgit nhìn Roran:
- Có thể ông ta cố gắng bảo toàn tính mạng thôi.
- Có thể, nhưng chúng ta cần phải tìm hiểu ông ta biết những gì.
Kéo ghế tới sát cửa, Roran ngồi chặn bất kỳ kẻ nào có thể vào thình lình.
- Được. Ông muốn nói chuyện, vậy tôi và ông bắt đầu.
- Tốt nhất là cháu nói trước đi.
- Nếu tôi nói trước, những câu trả lời của ông không đúng, chúng tôi sẽ phải giết ông.
Jeod khoanh tay trước ngực:
- Đồng ý.
Roran bị xúc động bởi vẻ dũng cảm của người thương gia, dường như ông ta không quan tâm số mạng rủi ro có thể xảy ra.
Thường ôn lại những sự kiện từ khi Ra'zac xuất hiện trong làng, nhưng chưa bao giờ Roran tả lại từng chi tiết về chúng cho người khác nghe. Bây giờ ngồi kể, anh bàng hoàng nhận ra biết bao chuyện đã xảy ra với anh và dân làng trong một thời gian ngắn như thế và chỉ trong thời gian ngắn đó triều đình đã huỷ hoại đời sống của họ trong thung lũng Palancar một cách quá dễ dàng. Sống lại những giây phút khủng khiếp đó làm Roran đau thắt ruột, nhưng cũng có chút hả hê vì Jeod tỏ ra kinh ngạc đến sững sờ khi nghe chuyện nông dân đuổi đánh lính triều đình và Ra'zac bật ra khỏi trại của chúng, vụ làng bị bao vây, vụ phản bội của lão Sloan, vụ Katrina bị bắt cóc, chuyện Roran thuyết phục dân làng ra đi và những gian khổ suốt hành trình tới thành Teirm.
Jeod kêu lên:
- Trời đất! Nói có anh linh các đấng tiên vương, chưa bao giờ ta nghe một chuyện lạ lùng đến thế. Thật phi thường. Thử nghĩ sau khi chọc giận Galbatorix đến phát điên, bây giờ toàn thể dân làng lại đang lẩn trốn ngay bên ngoài một thành phố lớn nhất của triều đình mà bạo chúa không hề hay biết. Qủa là một chuyện phi thường!
Ông lắc đầu đầy khâm phục. Lão Loring lên tiếng:
- Hoàn cảnh đẩy đưa chúng tôi phải liều mạng vậy thôi...
- Gặp hoàn cảnh đó, tôi...
Jeod ngưng bặt khi tiếng nắm cửa rọt rẹt sau lưng Roran. Tiếp theo là những tiến đập cửa thình thình và tiếng đàn bà the thé:
- Jeod, mở cửa ra. Không trốn trong cái hang đó mãi được đâu.
Jeod thì thầm hỏi:
- Tôi mở được không?
Roran búng tay về phía Nolfavrell, thằng nhóc ném ngay con dao găm cho anh. Roran nhón gót vòng qua bàn viết, kề dao ngay cổ Jeod.
- Bảo bà ta đi đi.
Jeod cao giọng nói:
- Lúc này không nói chuyện được. Anh đang họp.
- Đồ giả dối. Anh không bận gì hết. Anh bị phá sản rồi. ra gặp tôi ngay, đồ hèn. Anh có còn là một thằng đàn ông không, mà không dám nhìn thẳng vào mắt vợ.
Im lặng một lúc, vẫn không nghe tiếng trả lời, âm thanh tăng thêm độ:
- Đồ hèn! Đồ chuột thiến, đồ chấy rận. Anh không đủ tài đứng một quầy thịt, nói chỉ tới một công ty tàu biển. Nếu biết trước, cha tôi đâu đến nỗi mất hết tiền bạc như thế chứ.
Những tiếng chửi rủa sa sả làm Roran nhăn mặt nghĩ: "Chắc mình không kìm giữ nổi Jeod, nếu mụ ta cứ tiếp tục mãi."
Jeod quát lên:
- Bà im đi. Tình hình đã không đến nỗi này nếu mồm miệng bà không chửi rủa suốt ngày như một mụ bán cá thế.
Giọng mụ lạnh tanh:
- Chồng yêu quý, tôi sẽ đợi anh trong phòng ăn, nhưng nếu anh có ý định cắt nghĩa mọi chuyện trong bữa ăn tối, tôi sẽ đi khỏi cái nhà đáng nguyền rủa này ngay, và sẽ không bao giờ trở lại.
Tiếng chân của người vợ Jeod xa dần. Roran thu lưỡi dao trên cổ ông ta lại, ném trả Nolfavrell, rồi trở lại ghế ngồi chặn sau cánh cửa.
Jeod xoa xoa cổ, nhăn mặt nói:
- Nếu chúng ta không đi đến thông cảm nhau, thà các anh giết tôi đi, còn hơn tôi lại phải cắt nghĩa cho Helen vì sao đã la lối bà ấy một cách vô lý như thế.
Lão Loring nói:
- Tôi thông cảm với ông, ông Jeod.
- Thật tình...không phải lỗi bà ấy đâu. Chỉ vì bà ấy không thể hiểu nổi vì sao mà quá nhiều tai ương đổ lên đầu chúng tôi đến thế...
Jeod thở dài lẩm bẩm:
- Có lẽ lỗi tại tôi...vì tôi đã không dám nói cho bà ấy biết...
Thằng Nolfavrell buột miệng hỏi:
- Biết gì ạ?
- ...rằng ta là gián điệp của Varden. Roran, có lẽ ta phải trở lại từ đầu. Mấy tháng nay cháu có nghe đồn về một tân kỵ sĩ rồng đối đầu với Galbatorix không?
- Có nghe loáng thoáng, nhưng tôi không tin.
Jeod ngập ngừng:
- Ta không thể nói khác được, Roran ạ. Chuyện đó có thật và ... kỵ sĩ đó chính là Eragon, em họ của cháu. Hòn đá nó nhặt được trong núi Spine, thật ra là một trứng rồng mà ta đã giúp Varden lấy trộm từ Galbatorix nhiều năm trước. Con rồng đã nở ra cho Eragon và nó đã đặt tên là Saphira. Đó là nguyên nhân vì sao lần đầu tiên Ra'zac tới thung lũng Palancar. Và vì sao Eragon trở thành kẻ thù khủng khiếp nhất của triều đình, Galbatorix phái Ra'zac trở lại, hy vọng nếu chúng bắt cháu, sẽ ép được Eragon xuát đầu lộ diện.
Roran ngửa cổ ha hả cười đến chảy nước mắt, đau thắt bụng. Anh bất cần những cái nhìn đầy hốt hoảng của ông già Loring, Birgit và Nolfavrell. Anh không thể nín cười vì những tiết lộ lố bịch của Jeod, cười vì những lời nói của ông ta, biết đâu, lại rất có thể là sự thật.
Vừa thở dồn dập vừa cố bình tĩnh lại, Roran quệt nước mắt bằng tay áo, nhìn Jeod, cười cười, nói:
- Có thể câu chuyện của ông cũng có vẻ hợp lý, nhưng tôi còn có thể nghĩ ra hàng chục kiểu cắt nghĩa khác nữa...
Birgit lên tiếng:
- Nếu hòn đá của Eragon là một trứng rồng, vậy thì nó từ đâu tới?
- A, chuyện này thì tôi rất rõ...
Ngồi thoải mái trong ghế, Roran lắng nghe với vẻ nghi ngờ khi Jeod kể câu chuyện huyền hoặc về Brom - ông lão luôn cộc cằn gắt gỏng - đã có thời là một kỵ sĩ rồng như thế nào, đã giúp thành lập Varden ra sao. Còn Jeod đã phát hiện ra con đường bí mật dẫn vào Uru'baen bằng cách nào. Vì sao Varden tổ chức vụ trộm ba trứng rồng còn lại của Galbatorix, nhưng chỉ giải thoát được một, sau khi Brom chiến đấu và giết chết phản đồ Morzan. Phi lý đến thế nhưng vẫn chưa đủ, Jeod còn nói về một bản cam kết giữa Varden, người lùn và thần tiên: trứng rồng được luân chuyển giữa Du Weldenvarden và dãy núi của Beor, và đó là lý do vì sao trứng rồng và những tuỳ tùng tới sát rừng già và bị lọt ổ phục kích của Tà thần.
"Ha ha, lại còn có cả một Tà Thần nữa!" Roran thầm nhủ.
Vốn tính đa nghi, sự chú tâm của Roran tăng gấp đôi khi Jeod bắt dầu kể về vụ Eragon bất ngờ gặp quả trứng nuôi con rồng Saphira lớn lên trong khu rừng gần trang trại Garrow. Tuy thời gian đó Roran đang bận rộn sửa soạn tới làm việc tại nhà máy xay của Dempton ở Therinsford, nhưng anh còn nhớ Eragon đã ngơ ngẩn như mất hồn, luôn tìm cách ra khỏi nhà, làm gì không ai biết...
Khi Jeod cắt nghĩa nguyên nhân cái chết của cha anh, Roran càng thêm căm hận Eragon đã cả gan lén lút giữ con rồng, gây ra biết bao hiểm hoạ cho mọi người. "Chính vì nó mà cha mình đã chết". Roran bật lên tiếng hỏi:
- Nó nghĩ sao mà lại làm như vậy?
Ánh mắt cảm thông của Jeod khi trả lời càng làm anh khó chịu.
- Ta tin Eragon đã biết rằng, các kỵ sĩ và những con rồng của họ vô cùng gắn bó, không thể tách rời. Eragon thà chặt đứt một chân nó, chứ không thể để Saphira bị đau đớn.
- Tại sao không. Chính vì nó mà tôi phải làm rất nhiều điều đau đớn, vì vậy tôi biết...nó cũng có thể...phải làm được.
- Cháu có quyền nghĩ vậy, nhưng đừng quên lý do Eragon rời khỏi thung lũng Palancar chính là để bảo vệ cháu và những người ở đó. Quyết định đó chẳng dễ dàng dâu. Theo quan điểm của nó, nó đã tự hy sinh để bảo đảm an toàn cho anh và để báo thù cho cậu. Dù chưa chắc ra đi đã đạt được những điều như mong ước, nhưng nếu Eragon ở lại mọi chuyện sẽ còn tệ hại hơn.
Roran lẳng lặng nghe, cho đến khi Jeod nói về lý do ông Brom và Eragon tới thành Teirm là để thử tìm kiếm tung tích Ra'zac trong đống hồ sơ vận chuyển hàng của thành phố, anh mới bật khỏi ghế, kêu lên:
- Có tìm thấy gì không?
- Quả nhiên là chúng tôi đã tìm ra.
- Ôi, vậy thì hiện nay chúng ở đâu? Hãy rủ lòng nhân từ mà nói ngay đi, ông biết điều này đối với tôi quan trọng đến thế nào mà.
- Ngoài thông tin rất rõ trong hồ sơ, sau đó tôi còn nhận được tin từ Varden, Eragon xác định lại là: hang ổ của Ra'zac trong vùng núi đá Helgrind gần Dras-Leona.
Roran hồi hộp nắm chặt cán búa, suy tính: "Đường tới Dras-Leona rất xa, nhưng thành Teirm chỉ có một đường độc đạo từ đây tới tận cùng phía nam của núi Spine. Nếu mình có thể đưa mọi người an toàn xuống bến bãi, sau đó mình sẽ tới Helgrind để cứu Katrina, nếu nàng bị giam tại đó, rồi sẽ theo dòng sông Kiet xuôi tới Surda sau".
Dường như những tính toán của Roran đều lộ ra trên mặt, nên Jeod lên tiếng:
- Không được đâu, Roran.
- Sao?
- Không ai có thể lên tới ngọn Helgrind. Đó là một núi đá đen trơ trụi, thẳng đứng, không leo lên được. Cứ ngẫm lại hai con "chiến mã" gớm ghiếc của Ra'zac, chắc chắn chúng phải làm tổ tuốt trên đỉnh Helgrind cho được an toàn. Làm cách nào cháu lên được tới đó? Cho dù lên được, cháu có thật sự tin mình đương đầu nổi với hai con quỷ biết bay kia? Ta không nghi ngờ cháu là một chiến binh dũng cảm- dù sao cháu và Eragon phần nào cũng chung dòng máu - nhưng những kẻ thù này nguy hiểm hơn bất cứ một người bình thường nào.
Roran lắc đầu:
- Tôi không thể bỏ mặc Katrina. Có thể viển vông, nhưng tôi phải cố gắng cứu cô ấy, dù phải trả giá bằng mạng sống.
- Nếu cháu bị giết cũng có giúp gì được cho Katrina dâu. Nếu có thế, tôi xin được khuyên cháu: cố gắng tới Surda như dự định. Ở đó, ta tin chắc, cháu sẽ có thêm Eragon giúp đỡ. Kể cả Ra'zac cũng không thể sánh bằng một kỵ sĩ và một con rồng khi công khai đụng độ.
Trong trí Roran hiện lên hình ảnh hai con "chiến mã" khổng lồ, da đen nhẫy của Ra'zac. Dù muốn dù không anh phải công nhận, việc hạ hai con quái đó là vượt quá khả năng của mình. Roran hậm hực nghĩ: "Eragon! Bằng máu tao đã đổ ra, tao thề trước vong linh cha, tao sẽ bắt mày chuộc những tội do mày gây ra, bằng việc phải cùng ta tấn công ngọn Helgrind. Chính mày tạo ra đống rác rưởi này, tao sẽ bắt mày dọn sạch".
Roran nhắc Jeod:
- Xin ông nói tiếp đi.
Jeod kể về cái chết của ông Brom, của Murtagh (con trai phản đồ Morzan), vụ bị bắt và tẩu thoát tại Gil'ead, chuyến bay tuyệt vọng để cứu một nàng tiên, trận đại chiến giữa Urgals và người lùn trong địa đạo Farthen Dur, và chính nơi đây Eragon đã hạ gục một Tà-thần. Jeod cũng kể lại bằng cách nào Varden đã chuyển quân từ núi Beor để tới Surda và chuyện hiện nay Eragon đang ở sâu trong lãnh địa Du Weldenvarden để học những bí kíp về phép thuật và chiến lược của thần tiên, nhưng cũng sắp trở về.
Khi ông thương gia im lặng, Roran tới hội ý cùng Loring và mẹ con Birgit. Lão Loring hạ giọng:
- Tôi không thể nói ông ta nói thật hay bịa đặt, nhưng bấy kỳ con người nào trước mũi dao, mà còn bình tĩnh thêu dệt được một chuyện như thế, đều đáng sống. Một kỵ sĩ mới! Hừ, mà lại chính là Eragon !
- Còn chị, Birgit ?
- Tôi cũng không biết sao. Lạ lùng quá! Nhưng ...những rất có thể là sự thật. Vì chỉ có một tân kỵ sĩ mới làm triều đình truy lùng chúng ta ráo riết vậy.
Mắt lão Loring long lanh sáng:
- Đúng vậy. Chúng ta đang sống trong những sự kiện nghiêm trọng hơn chúng ta tưởng. Thử nghĩ, có một tân kỵ sĩ, chế độ này sẽ bị dẹp sạch. Roran, bác nói thật, cháu đã hành động rất đúng.
- Còn em, Nolfavrell?
Được hỏi ý kiến, cậu chàng ra vẻ nghiêm túc, cắn môi đắn đo rồi mới nói:
- Em thấy ông Jeod có vẻ thành thật. Emm nghĩ là...chúng ta có thể tin ông.
Roran trở lại với Jeod, chống tay lên bàn nói:
- Thưa ông, đây là hai câu hỏi cuối cùng của chúng tôi: Ông Brom và Eragon trông ra sao? Và vì sao khi nghe đến tên bà Gertrude, ông lại biết là ai?
- Tôi biết Gertrude vì Brom có nhắc đến chuyện ông ta đã để lại một lá thư nhờ bà ta trao cho cháu. Brom thấp hơn tôi một chút, râu rậm, mũi khoằm, luôn mang theo một cây gậy chạm trổ. Và...nhiều khi ông ta tỏ ra rất khó tính. Eragon thì... còn nhỏ. Tóc nâu, mắt nâu và nó có một cái thẹo trên cổ tay, luôn miệng hỏi hết chuyện này qua chuyện khác.
Roran gật gù nghĩ: "Đúng là ông Brom và thằng em mình. Anh giắt cây búa vào thắt lưng. Loring và mẹ con Birgit cũng tra dao vào vỏ. Rồi cả bốn người trở lại ghế ngồi như những người khách bình thường. Roran hỏi:
- Giờ thì sao, ông Jeod? Ông có thể giúp chúng tôi không? Tôi biết ông đang gặp khó khăn nhưng chúng tôi...chúng tôi đang trong tình trạng rất tuyệt vọng, không biết trông cậy vào ai. Là một điệp viên của Varden, ông có thể bảo đảm cho chúng tôi được Varden giúp đỡ không? Chúng tôi rất nhiệt tình phục vụ quân cách mạng, nếu họ che chở chúng tôi khỏi cơn cuồng nộ của Galbatorix.
- Varden sẽ rất vui mừng, còn hơn cả vui mừng nữa, nếu các người gia nhập tổ chức họ. Điều này hẳn cháu đã đoán biết rồi. Còn chuyện ta giúp...
Vuốt tay lên mặt, Jeod nhìn kệ sách sau lưng Loring, chậm rãi tiếp:
- Gần một năm nay, ta biết mình - cũng như một số nhà buôn tại đây và những nơi khác, những người đã từng tiếp tay với Varden - đã bị lộ. Đó là lý do ta không dám chạy tới Surda. Với sự theo dõi của triều đình, ta sẽ bị bắt ngay nếu có dấu hiệu bỏ trốn. ta chỉ còn đành ngồi đây mà nhìn tài sản tiêu tan, không thể chống đối, cũng không thể trốn thoát khỏi nơi này. Nhưng điều tệ hại hơn là: không thể chuyển bất cứ thứ gì cho quân cách mạng nữa. Họ cũng không dám gửi đoàn xe nào tới chúng ta để nhận hàng. Ta e rằng, khi ta không còn có ích gì cho triều đình nữa, quan trấn thủ Risthart sẽ còng tay ta mà tống vào tù. từ khi tuyên bố phá sản, ta chờ đợi điều đó hàng ngày.
Birgit đoán:
- Có lẽ chúng mong ông bỏ trốn để có thể tóm gọn luôn những ai chạy theo ông.
- Cũng có thể là vậy. Nhưng bây giờ có các người đây, ta có một phương tiện rời khỏi nơi này mà không bao giờ chúng ngờ tới.
Lão Loring hỏi:
- Vậy là ông đã có kế hoạch?
Jeod tươi tỉnh nói:
- Ồ, đúng thế. Bốn người có nhìn thấy con tàu Cánh Rồng neo ngoài cảng không?
- Có.
- Cánh Rồng là của Công ty Vận tải Blackmoor, một công ty phục vụ quân sự cho triều đình, cung cấp đồ tiếp tế cho quân đội. Gần đây chúng hoạt động tới mức báo động tuyển trai tráng vào lính, xung công trâu bò dê ngựa. Chưa biết chắc đây là dấu hiệu gì, nhưng rất có thể Galbatorix có ý định tiến quân vào Surda. Tuy nhiên, trong vòng một tuần nữa, Cánh Rồng sẽ giong buồm tới Feinster. Đó là con tàu hoàn hảo nhất từ xưa tới nay, do nhà thiết kế tàu bậc thầy Kinnel vẽ kiểu.
Lão Loring cười khùng khục:
- Hy vọng ông biết lái tàu. Đám chúng tôi chưa bao giờ rờ tay vào một thứ gì lớn hơn một chiếc xà lan đâu.
- Mấy người trong thủy thủ đoàn trên tàu của tôi vẫn còn tại thành Teirm này. Họ cũng cùng hoàn cảnh như tôi, không thể chạy trốn hay chiến đấu được. Tôi tin họ sẽ vui mừng nhảy lên mà chộp lấy dịp may này để tới Surda. Họ sẽ hướng dẫn các người khi ở trên Cánh Rồng. Không dễ, nhưng đâu còn chọn lựa nào khác nữa.
Roran nhoẻn cười. Kế hoạch đó rất trúng ý anh: tốc hành, dứt khoát và bất ngờ
Birgit nói:
- Ông bảo, cả năm qua không một chiếc tàu nào của ông - cũng như của các nhà buôn khác ủng hộ Varden tới đích được. Vậy thì làm sao chuyến này có thể thành công?
- Vì sự bất ngờ là lợi điểm của chúng ta. Luật đòi hỏi tàu buôn phải xin lộ trình và được quan chức cảng chấp thuận ít nhất là hai tuần, trước khi rời bến. Nếu chúng ta ra đi thình lình, một tuần hoặc hơn nữa, Galbatorix mới có thể cho tàu rượt theo. Nếu may mắn, chúng ta sẽ không gặp nhiều cột buồm của những kẻ truy lùng chúng ta đâu. Vì vậy...nếu các vị hăng hái tham gia thử thách táo bạo này, thì đây là những việc chúng ta cần phải làm...
Chạy trốn
Sau khi cân nhắc mọi khía cạnh kế hoạch của Jeod và đồng ý thi hành - với một vài sửa đổi - Roran bảo Nolfavrell tới quán trọ Hạt Dẻ Xanh đón bà Gertrude và Mandel, vì Jeod mời cả nhóm về nhà ông nghỉ.
Jeod đứng dậy nói:
- Bây giờ tôi xin phép cáo lui để đi trình diện bà ấy, và cũng để xem bà ấy có đồng ý cùng đi tới Surda không. Các vị có thể nghỉ ngơi trong mấy phòng trên lầu hai. Bữa ăn dọn xong Rolf sẽ vào mời các vị.
Ông ra khỏi phòng, lão Loring nói nhỏ:
- Này, để ông ta đi hỏi ý bà chằn tinh đó, có là điều khôn ngoan không vậy?
Roran nhún vai:
- Khôn hay dại thì chúng ta cũng không thể ngăn ông ta được. Cháu thấy ông ta không làm vậy thì cũng chẳng được yên thân.
Thay vì vào phòng ngay, Roran đi vơ vẩn trong nhà vừa để suy nghĩ về những điều ông Jeod nói vừa tránh gặp mấy tay phục vụ. Anh đến bên cửa sổ trông xuống tàu ngựa cuối vườn, hít đầy lồng ngực không khí quen nồng mùi khói cỏ và phân chuồng.
- Cậu có ghét nó không?
Giật mình quay lại, Roran thấy Birgit đứng ngay bực cửa. Chị ta vừa cuốn lại khăn choàng trên vai, vừa bước lại gần. Dù biết rất rõ câu hỏi của chị, Roran vẫn hỏi:
- Ghét ai?
- Eragon. Cậu ghét nó không?
Nhìn lên bầu trời đang tối dần, Roran trầm ngâm nói:
- Tôi không biết. Tôi ghét nó vì đã gây nên cái chết của cha tôi, nhưng nghĩ nó vẫn là người trong gia đình, tôi lại thương nó...Chắc tôi sẽ chẳng muốn gặp lại Eragon, nếu không vì cần nó để cứu Katrina.
- Cũng như tôi cần và ghét cậu vậy, Cây-búa.
- A, vậy thì chúng ta phải đoàn kết với nhau, đúng không? Chị giúp tôi tìm Eragon, để mượn tay nó giết Ra'zac trả thù cho anh Quimby...
- Đúng. Sau đó chính tay tôi sẽ tính sổ cậu.
Roran nhìn thẳng đôi mắt không hề chớp trong một lúc của Birgit, nhận ra sự ràng buộc giữa hai người. Anh cảm thấy phấn chấn vì hai người cùng chia sẻ một mục đích, một ngọn lửa chăm hờn như nhau; điều đó thôi thúc hai người hành động, trong khi người khác còn e ngại ngập ngừng. Dường như, trên phương diện tinh thần, chị ta mang cùng dòng máu với Roran.
Trở vào, khi qua phòng ăn, Roran nghe tiếng ông Jeod. Anh tò mò nhìn qua khe cửa: Jeod đang đứng trước một người đàn bà nhỏ bé, tóc vàng - Roran đoán là bà Helen.
- Anh tưởng tôi tin đó là chuyện thật sao?
- Không. Anh biết em không tin.
- Vậy mà anh vẫn rủ tôi đi trốn cùng anh?
- Đã có lần em bảo muốn rời xa gia đình, đi khắp nơi cùng anh. Em đã năn nỉ anh đưa em đi ngay khỏi thành Teirm này.
- Phải. Đã có lần, nhưng khi đó vết thẹo và thanh gươm của anh làm tôi lầm tưởng anh là một con người đầy hào khí...
- Anh vẫn là con người đó. Anh biết đã có lỗi với em, Helen. Nhưng anh vẫn yêu em và chỉ mong em được an toàn. Ở lại đây, anh không còn chút tương lai nào, chỉ đem lại những bất hạnh đến gia đình em. Em có thể trở về với cha hay ra đi cùng anh. Điều nào làm em hạnh phúc hơn thì cứ làm. Tuy nhiên, anh xin em cho anh một cơ hội thứ hai, để có can đảm rời khỏi nơi này và bỏ lại tất cả những kỷ niệm cay đắng của chúng ta lại phía sau. Chúng ta sẽ bắt đầu lại từ đầu tại Surda.
Im lặng một lúc, Helen hỏi:
- Cậu bé ở đây trước kia là kỵ sĩ rồng thật sao?
- Thật. Gió đang đổi chiều rồi, Helen. Varden sắp mở cuộc tấn công, người lùn đang tập kết lại, thần tiên đang xôn xao chờ đợi giờ hành động trong các nơi ẩn cư của họ. Chiến tranh đã cận kề và nếu chúng ta may mắn, bạo chúa Galbatorix đã đến ngày tàn.
- Anh có phải là một nhân vật trong tổ chức Varden không?
- Anh đã có công phần nào trong việc thu hồi trứng của Saphira.
- Vậy thì anh cũng là người có địa vị tại Surda chứ?
- Anh...đoán thế.
Jeod đặt tay lên vai vợ. Helen để yên, thì thầm:
- Jeod, đừng ép em. Lúc này em chưa thể quyết định được gì đâu.
- Em sẽ nghĩ lại chứ?
Helen rùng mình:
- Ồ, có chứ, em sẽ suy nghĩ kỹ chuyện này.
Roran quay gót, tim nhói đau, nghĩ tới Katrina.
Trong bữa ăn tối, Roran thấy đối mắt Helen luôn hướng về anh. Roran tin chắc, bà ta đang quan sát, đánh giá và so sánh anh với Eragon.
Sau bữa ăn, Roran ngoắc Mandel ra sân sau nhà:
- Ta muốn nói chuyện riêng với em.
- Chuyện gì ạ?
Roran vuốt ve lưỡi búa, cảm thấy mình giống hệt cha mỗi khi ông giảng dạy về trách nhiệm của một con người; thậm chí Roran còn thấy mình bật ra những lời nói giống như ông. Anh thầm nghĩ: "Vậy là thế hệ này đã chuyển tiếp qua thế hệ khác".
- Mandel, gần đây em tỏ ra quá thân mật với các thủy thủ trên tàu...
Mandel cãi lại ngay:
- Họ đâu phải là kẻ thù của chúng ta?
- Lúc này ai cũng có thể là kẻ thù. Clovis và người của ông ta có thể phản chúng ta bất kỳ khi nào. Tuy nhiên đó không phải là vấn đề, nếu chuyện thân mật của em với họ không làm em xao lãng bổn phận...
Mandel cứng người, hai má đỏ bừng nhưng không chối tội. Mừng thầm, Roran hỏi:
- Điều quan trọng nhất chúng ta phải làm lúc này là gì, Mandel?
- Bảo vệ gia đình mình.
- À, còn gì khác không?
Mandel ngập ngừng rồi thú thật:
- Em không biết.
- Giúp đỡ người khác. Đó là cách duy nhất để chúng ta sống còn. Ta thật sự thất vọng, khi nghe em đánh bạc với thủy thủ bằng lương thực. Điều đó làm tất cả dân làng càng khốn khổ hơn. Thời gian bài bạc, tập phóng dao đó, đáng lẽ em nên sử dụng vào việc săn bắn kiếm miếng ăn thêm cho mọi người. Cha mất rồi, em phải lo săn sóc cho mẹ và các em. Em hiểu chứ?
Mandel nghẹn ngào:
- Em hiểu rồi.
- Những chuyện kia có gì xảy ra nữa không?
- Không bao giờ.
- Tốt. Nào, anh không gọi em ra đây để khiển trách, mà để trao cho em một công việc. Một vịêc anh không tin bấy kỳ ai, ngoài bản thân anh. Em sẵn sàng chưa?
- Sẵn sàng.
- Sáng mai anh cần em trở lại trại, chuyển một tin cho ông Horst. Ông Jeod tin rằng triều đình đã rải gián điệp rình mò quanh nhà này. Bằng mọi cách em đừng để bị theo dõi. Ra khỏi thành phố đánh lạc hướng kẻ nào dám theo em. Nếu cần thiết, em phải giết hắn. Gặp Horst hãy nói với ông ấy là...
Khi Roran dặn dò, anh thấy mặt chú nhóc chuyển từ ngạc nhiên sang căng thẳng tới kinh hoàng. Nghe xong, Mandel hỏi:
- Lỡ...ông Clovis phản đối thì sao?
- Đêm đó bánh lái xà lan sẽ bị bẻ gãy. Một trò không đàng hoàng, nhưng không làm vậy, có thể Clovis hay người của ông ta sẽ tới Teirm trước em và dân làng. Đó mới thật sự là tai họa.
- Em sẽ không để chuyện đó xảy ra đâu.
- Tốt.
Roran mỉm cười, khoan khoái vì đã giải quyết xong vấn đề Mandel và tin rằng cậu bé sẽ làm mọi cách để báo tin kịp thời cho chú Horst. Trở vào nhà, Roran chúc chủ nhân ngủ ngon, rồi bước về phòng ngủ.
Suốt ngày hôm sau, vắng mặt Mandel, nhóm còn lại của Roran lợi dụng thời gian chờ đợi để nghỉ ngơi, mài dũa vũ khí, ôn lại chiến lược.
Từ sáng tới chiều, họ chỉ vài lần thấy nữ chủ nhân lăng xăng từ phòng này qua phòng khác, gã bồi Rolf, với hàm răng trắng bóng như ngọc trai, xuất hiện nhiều hơn. Tuyệt đối không thấy ông Jeod.
Hôm đó Jeod ra khỏi nhà đi dạo trong thành phố - rồi làm như tình cờ - ông thương gia đầu bạc gặp gỡ mấy người quen cũ mà ông từng tin cẩn trong những chuyến hải hành trước kia.
Khi trở lại nhà, ông nói với Roran:
- Chúng ta có thêm năm sau tay nữa. Hy vọng là đủ rồi.
Suốt buổi tối, Jeod ở trong thư phòng, hý hoáy tạo những giấy tờ hợp pháp cho chuyến đi.
Ba giờ trước khi trời sáng, Roran, Loring và mẹ con Birgit ra khỏi giường, cố chống lại những cái ngáp dài trong khi tụ tập trên lối vào nhà. Tất cả trùm kín mặt trong những chiếc áo choàng dài. Jeod xuất hiện với một thanh kiếm nhỏ bên hông. Thanh kiếm mảnh mai rất thích hợp với dáng người cao thon và như nhắc nhở Jeod thật sự ông là ai.
Jeod châm cây đèn dầu, nâng cao trước mọi người, hỏi:
- Sẵn sàng chưa?
Tất cả gật đầu. Ông nâng then cửa, mọi người bước ra con đường lát đá vắng hoe. Phía sau, Jeod còn chần chừ nhìn lại cầu thang bên phải, nhưng không thấy Helen. Ông nhún vai, ra khỏi nhà, đóng cửa.
Roran đặt tay lên vai ông:
- Điều cần làm đã làm rồi. Ông đã cố gắng hết sức...
- Ta hiểu.
Tất cả lúp xúp chạy qua thành phố tối đen, chỉ chậm bước lại, quay vội mắt qua hướng khác, khi gặp vài người gác-dan, hoặc mấy tên trộm đêm. Mỗi lần nghe tiếng bước chân tren những mái nhà gần đó, Jeod lại lèm bèm:
- Kiểu thiết kế thành phố này chỉ có lợi cho tụi đạo chích, thoải mái leo từ nhà này sang nhà khác.
Họ đi chầm chậm khi tới gần cổng đông thành phố. Cổng này mở ra cảng, nên mỗi đêm chỉ đóng bốn tiếng, giới hạn tối đa sự cản trở việc buôn bán. Vì vậy, mới giờ khắc này đã có nhiều người đang di chuyển qua cổng.
Dù Jeod đã báo cho mọi người biết trước những gì có thể xảy ra, Roran cảm thấy lo sợ khi mấy tên lính gác hỏi nghề nghiệp của cả nhóm. Cổ khô khốc, Roran nuốt nước bọt, trong khi tên lính gác thứ hai kiểm tra cuộn giấy ông Jeod vừa trình ra.
Sau cả phút dài đằng đẵng, hắn trao lại giấy tờ cho Jeod, nói:
- Qua đi.
Ra tới cầu cảng, Jeod nói ngay:
- May quá, gặp ngay thằng mù chữ.
Sáu người đứng chờ trên sàn gỗ ướt lép nhép cho đến khi lần lượt từng người của ông Jeod xuất hiện từ trong đám sương mù dày đặc. Đám này đều lặng lẽ, mặt mày dữ tợn, tóc thắt bím dài tới lưng, tay và mặt chằng chịt những vết thẹo. Nhìn mấy người mới tới, Roran vừa nể vừa thích và anh đoán họ cũng nể và mến mình. Tuy nhiên họ không ưa Birgit.
Một anh chàng cao lớn cộ cằn nhất bọn, hất ngón tay về phía Birgit hỏi ông Jeod:
- Sao ông không nói trong cuộc chiến này có đàn bà. Làm sao tôi có thể tập trung khi có mấy mụ vô dụng lù lù chắn lối chứ?
Nolfavrell nghiến răng nói:
- Không được phép nói về bà bằng giọng đó.
- A, lại còn tha theo một thằng nhóc nữa chứ.
Ông Jeod trầm tĩnh lên tiếng:
- Chị Birgit này đã từng choảng nhau với Ra'zac. Còn chú "nhóc" con trai chị đã giết một trong những tên lính ưu tú nhất của Galbatorix đấy. Uthar, anh đã làm được thế chưa?
Một tay khác càu nhàu:
- Không được. Tôi không cảm thấy yên tâm khi có đàn bà quanh quẩn gần bên. Họ chỉ đem lại xúi quẩy. Một người đàn bà không thể...
Hắn chưa dứt lời, Birgit tung đòn chẳng giống một phụ nữ chút nào. Cú đá như chớp trúng giữa hai đùi và lưỡi dao kề sát cổ Uthar. Chi giữ nguyên vị thế cho mọi người đều thấy rõ, rồi mới buông hắn ra. Uthar lăn trên sàn, ôm chỗ đau, bật ra hàng tràng câu chửi thề.
- Còn ai phản đối nữa không?
Birgit hỏi. Nolfavrell trợn mắt, há mồm nhìn mẹ.
Roran kéo mũ trùm đầu xuống, giấu nụ cười, nghĩ: "May là họ không để ý tới bà Gertrude"
Khi không còn ai lên tiếng thắc mắc về Birgit, ông Jeod hỏi nhóm thủy thủ mới tới:
- Các anh đem đủ những gì tôi yêu cầu chứ?
Mỗi thuỷ thủ lấy từ trong áo ra một cây gậy nặng chịch và mấy cuộn dây thừng. Suốt thời gian cả nhóm lần mò xuống bến, ông Jeod đóng kín ngọn đèn. Tới gần bến, họ núp sau một nhà kho, nhìn ngọn đèn của lính gác chập chờn quanh con tàu. Cầu tàu đã được rút lên.
Ông Jeod thì thầm:
- Nhớ kỹ, điều quan trọng nhất là phải cảnh giác, tránh gây tiếng động cho tới khi chúng ta sẵn sàng lên đường.
Roran hỏi:
- Hai tên ở trên, hai tên ở dưới, đúng không?
- Thường là như vậy.
Uthar trả lời, rồi cùng Roran buộc dây quanh bụng - Roran để cây búa lại. Cả hai chạy xuống bến, tránh tầm nhìn của lính gác, rồi hụp xuống làn nước lạnh ngắt. Uthar lẩm bẩm:
- Ghét nhất phải làm chuyện này.
- Trước đây anh đã làm bao giờ chưa?
- Bốn lần rồi. Đừng ngừng cử động, chết cóng đó.
Bấm mấy cây cọc nhỏ, họ trườn ngược về nơi đã xuất phát, cho tới khi đụng kè đá dẫn tới tàu Cánh Rồng, rồi quay sang phải. Uthar ghé sát tai Roran:
- Tôi lo mỏ neo bên phải.
Roran gật. Cả hai lặn xuống dòng nước đen, rồi tách riêng hai ngả. Uthar bơi như một con nhái dưới mũi tàu, trong khi Roran nắm theo sợi dây neo tiến thẳng tới mỏ neo sát bờ. Rút cây gậy khỏi thắt lưng, anh cắn giữa hai hàm răng - vừa để răng khỏi va nhau lộp cộp vừa rảnh hai tay nắm chặt cây neo bằng thép, rồi lặng im chờ. Dây thép lạnh làm hai tay anh tê dại như nước đá.
Chưa đầy ba phút sau, Roran nghe tiếng đế ủng của Birgit trên đầu, khi chị ta tiến tới cuối kè đá, đối diện với con tàu. Rồi có tiếng Birgit nhỏ nhẹ gợi chuyện với mấy tay lính gác. Mong sao chúng mải chuyện mà không quan tâm tới phía mũi tàu.
Bát đầu!
Roran nắm chặt dây thép, kéo mình trườn dần. Anh ép chặt bàn tay lên vai phải, nơi bị Ra'zac cắn, đau buốt.
Từ lỗ hổng dẫn dây neo lên tàu, Roran leo lên cái bệ đỡ một hình tường đầu rồng, nhảy qua lan can xuống sàn tàu. Uthar đã có mặt tại đó, ướt sũng, thở hồng hộc.
Tay cầm gậy, hai người mon men xuống đuôi tàu. Họ đứng khựng lại khi thấy cách chừng mười mét, hai tên gác đang cúi mình qua lan can khoác lác với Birgit.
Nhanh như chớp, Roran và Uthar nhảy tới đập gậy lên đầu hai lính gác, trong khi chúng chưa kịp trở tay. Bên dưới, Birgit ngoắt tay gọi cả nhóm. Tất cả nhanh nhẹn đẩy cây cầu gỗ lên tàu. Uthar đón đầu, buộc chặt lên lan can.
Thấy Nolfavrell, Roran ném cho nó một cuộn dây, bảo:
- Trói chân tay, bịt miệng hai gã này lại.
Sau đó, trừ bà Gertrude, tất cả đều xuống hầm tàu truy lùng hai tên lính gác còn lại. Nhưng không chỉ hai, họ phát hiện thêm bốn tên nữa: chỉ huy thủy thủ đoàn, thủ kho, bếp trưởng và bếp phó. Tất cả đều bị lôi ra khỏi giường, đập cho ngất nếu chống cự, rồi trói thành một bó. Vụ này, Birgit càng chứng tỏ chị chẳng "vô dụng" chút nào. Một mình Birgit tóm gọn hai tên.
Jeod ra lệnh chuyển tất cả tù nhân lên boong để dễ kiểm soát, rồi tuyên bố:
- Chúng ta còn rất nhiều việc phải làm mà thời gian chẳng có bao nhiêu đâu. Roran, Uthar sẽ chỉ huy tàu. Cháu và mọi người phải theo lệnh anh ta.
Suốt hai tiếng sau, tất cả đều tất bật. Toán thủy thủ lo trang thiết bị và cánh buồm. Roran và mấy người dân Carvahall dọn dẹp những hàng hoá không cần thiết trong chuyến đi, chẳng hạn như những kiện len. Họ nhẹ nhàng thả tất cả xuống nước, tránh gây tiếng động. Nếu toàn thể dân làng đều lên tàu, thì càng nhiều khoảng trống càng tốt.
Đang phụ cùng mọi người, bỗng nghe một tiếng kêu hốt hoảng:
- Có người đang tới!
Trừ Uthar và ông Jeod, mọi người trên boong đều vơ vũ khí, nằm rạp xuống. Jeod và Uthar thản nhiên đi lại như hai lính gác. Roran nằm bất động, tim đập thình lình, tự hỏi chuyện gì xảy ra đây. Anh nín thở khi thấy Jeod nói với kẻ lạ...rồi tiếng chân bước trên cầu gỗ vang lên.
Đó là Helen.
Mặc bộ đồ đơn giản, tóc gói gọn trong một cái khăn, vai khoác một túi căng phồng, Helen không nói một lời, đem hành lý vào thẳng ca bin chính, rồi trở ra đứng bên Jeod. Roran chưa bao giờ thấy một người đàn ông nào hạnh phúc hơn ông.
Bầu trời trên rặng núi Spine xa xa mới chỉ bắt đầu hừng sáng, một thuỷ thủ trong phòng lái - tay chỉ hướng bắc, miệng huýt sáo - ra dấu anh ta đã nhìn thấy dân làng.
Roran chạy vội lên boong, nhìn hàng người đang đổ xuống bờ biển. Phần này được dự trù trong kế hoạch là dựa vào một điều: Không giống những thành phố duyên hải khác, vòng tường ngoài của Teirm không mở ra biển, mà bao bọc lấy toàn thành phố, để tránh những vụ tấn công thường xuyên của hải tặc. Còn những nhà quanh cảng lại nằm ngoài tường rào, vì vậy dân làng có thể đi thẳng tới tàu Cánh Rồng.
Jeod luôn miệng hối thúc:
- Mau lên, mau lên nào!
Theo lệnh Uthar, thủy thủ khiêng ra những bó lao và mấy thùng nồng nặc mùi nhựa đường. Họ xúm lại, phết nhựa đường lên nửa thân những cây lao. Sau đó họ chuyển tới những bộ máy bắn đá trên sàn tàu. Phải cần tới hai người đàn ông mới kéo được sợi dây vào đúng khớp máy.
Dân làng vượt được hai phần ba đường tới con tàu thì bị lính tuần tra trong thành phát hiện. Tiếng trống báo động rộn rã vang lên. Nhưng cùng tiếng trống đầu tiên là tiếng gào của Uthar:
- Châm lửa! Bắn!
Chụp cây đèn dầu của Jeod, Nolfavrell chạy từ máy bắn đá này tới bộ máy khác, cầm lửa châm cho những ngọn lao tẩm nhựa đường bùng cháy. Những người đàn ông buông dây gân. Mười hai ngọn lao lửa từ Cánh Rồng phóng vút về phía những thuyền bè và nhà cửa trên bãi biển, như sao sa đỏ rực từ trời đổ xuống.
Uthar lại gào lên:
- Kéo dây! Nạp đạn!
Tiếng gỗ rên lên kẽo kẹt khi những người đàn ông kéo căng sợi dây gân. Một lần nữa Nolfavrell chạy tới lui châm lửa. Roran có thể nghe rõ tiếng chân nó luýnh quýnh khi cỗ máy trước mặt anh phóng vút đi một cây lao chưa kịp bắt lửa.
Ngọn lửa mau chóng lan toả trên bến tàu, tạo thành một rào cản đám lính phóng ra từ cửa đông, tiến đến tàu Cánh Rồng. Roran đã hy vọng những cột khói mịt mùng có thể che khuất tầm nhắm của các xạ thủ bắn tên lên tàu. Nhưng mục tiêu hơi gần, một loạt tên đã rào rào vào buồng lái và một mũi tên trúng mặt sàn, ngay kế bên là Gertrude, trước khi những tên lính trong thành bị khói chắn mắt con tàu.
Từ mũi tàu, Uthar ra lệnh:
- Tỉnh táo nhắm mục tiêu.
Lúc này dân làng đang nháo nhác chạy xuống bãi. Tới cuối cầu tàu, một số bị tên lạc của đám lính bắn trúng, lảo đảo gục xuống. Đám trẻ con gào lên khiếp đảm. Rồi khỏi lửa dọc theo kè đá, chạy rầm rầm trên cầu gỗ. Đám người hốc hác, tơi tả chen lấn lên tàu.
Birgit và bà Gertrude hướng dẫn dòng người tản ra hai phía đầu và đuôi tàu. Chỉ trong vòng mấy phút, các tầng trên tàu đã chật cứng, kể cả từ hầm chứa hàng tới cabin của thuyền trưởng. Một số người phải co ro sau mấy cái khiên trên boong tàu.
Khi Roran kêu gọi những người đã được Mandel chuyển tin của anh, trai tráng khỏe mạnh tụ tập quanh cột buồm chính, chờ chỉ thị. Chú nhóc Mandel đứng cùng họ, hãnh diện đưa tay chào Roran theo kiểu nhà binh.
Uthar chỉ một thuỷ thủ, cộc cằn nói:
- Tới đằng kia, Bonden. Đem theo người của anh, kéo neo lên, rồi xuống giữ mái chèo. Khẩn trương lên.
Với những người bên những cỗ máy bắn đá, anh ta ra lệnh:
- Chia phân nửa người của các anh sang cỗ máy bên trái tàu. Dẹp hết những gì cản trở.
Roran là một trong số người chạy sang trái. Khi anh đang phụ sửa soạn cỗ máy, thì mấy người còn lọt lại phía sau, đã vượt qua làn khói mù mịt loạng choạng leo lên tàu. Vợ chồng ông Jeod kéo sáu tù nhân bị trói lên cầu gỗ, rồi lăn họ xuống kè đá.
Mỏ neo và cầu gỗ đèu được rút lên. Dưới chân Roran, vang lên những tiếng gõ làm nhịp cho những tay cầm mái chèo. Rất từ từ, Cánh Rồng bẻ lái sang phải, hướng ra biển cả, rồi tăng tốc, con tàu rời bến.
Roran cùng ông Jeod lên phòng chỉ huy, nhìn về phía ngọn lửa tàn khốc đang thiêu hủy tất cả những gì có thể cháy giữa thành Teirm và mặt biển. Qua màn khói, mặt trời đỏ như máu, kiêu hãnh vượt lên trên thành phố.
Roran thầm hỏi: "Đến lúc này mình đã giết bao nhiêu mạng rồi".
Ý nghĩ của anh vang thành lời nói của ông Jeod:
- Nhiều người vô tội khốn khổ vì vụ này.
Mặc cảm tội lỗi làm Roran hung hăng đến bất ngờ:
- Ông muốn được vào nhà tù của tổng trấn Ristthart hơn sao? Tôi tin là nhiều người chỉ bị thương vì đám cháy, chứ họ không phải đối diện với cái chết như chúng ta, nếu chúng ta bị bắt.
- Ta rất hiểu điều đó, cháu không cần phải giảng giải nữa. Chúng ta làm việc phải làm thật, nhưng đừng yêu cầu ta vui mừng trước đau khổ do chính mình gây ra cho người khác, để mình được an toàn.
Tới trưa, những mái chèo được xếp lại. Gió thuận chiều từ phương bắc đẩy Cánh Rồng đi.
Con tàu chật như nêm, nhưng Roran tin, khéo thu xếp, họ sẽ tới Surda chỉ với một vài trục trặc không đáng kể. Điều đáng lo nhất là khẩu phần lương thực, phải rất dẻ xẻn, mới không bị xảy ra nạn chết đói. Và với lượng người quá đông như thế này rất dễ xảy ra bệnh tật.
Sau khi nghe Uthar dặn dò về sự thận trọng của kỷ luật trên tàu, dân làng tự động bắt tay ngay vào những việc cần thiết, như săn sóc các vết thương, thu dọn hành lý, xếp đặt chỗ ngủ cho ngăn nắp. Họ cũng chọn ra những người trám vào những vị trí còn thiếu trên tàu: ai nấu ăn, ai được người của Uthar huấn luyện thành thủy thủ...
Roran đang mắc võng dùm thím Elain thì bị lôi kéo vào vụ bàn cãi sôi nổi của Odele, gia đình cô và Frewin (anh chàng này đã tách khỏi nhóm của Torson để tò mò theo sát Odele). Hai anh chị muốn lấy nhau, nhưng cha mẹ Odele quyết liệt phản đối - vì lý do anh chàng thuỷ thủ trẻ tuổi này không cha mẹ, nghề nghiệp thấp kém, chẳng có gì bảo đảm tối thiểu cho cuộc sống của con gái họ. Roran cho rằng hai người đã mê tít nhau rồi, chấp nhận cho xong - làm sao ngăn cách nổi khi chúng cứ bám riết lấy nhau trên con tàu chật ních này. Cha mẹ Odele gạt phăng lý lẽ của Roran.
Anh bực mình hỏi:
- Vậy chú thím định làm gì nào? Trói cô ta lại à? Cháu tin là Frewin càng thêm...
- Ra'zac.
Có tiếng hốt hoảng kêu lên. Roran rút ngay cây búa khỏi thắt lưng, vừa leo lên thang, chui vội qua cửa hầm tàu vừa quay sang bên la lớn. Chạy như bay tới toán người đang tụ tập trong phòng lái, Roran ngừng lại bên cạnh chú Horst, nhìn theo tay ông chỉ.
Một trong hai con "chiến mã" khủng khiếp của Ra'zac đang chập chờn bay lượn như một cái bóng tả tơi trên bờ biển, với một tên Ra'zac trên lưng. Nhìn chúng giữa ban ngày mà sự hãi hùng trong Roran không hề giảm. Anh rùng mình khi con quái có cánh rú lên tiếng kêu khiếp đảm, tiếp ngay sau là giọng tên Ra'zac rỉ rả như tiếng côn trùng bập bềnh trên mặt nước, yếu ớt nhưng rõ ràng dứt khoát.
- Các người không thoát nổi đâu.
Roran quay nhìn cỗ máy bắn đá. Không thể quay mũi máy hướng về hai con quái được. Anh hỏi lớn:
- Ai có nỏ không?
- Tôi có.
Baldor lên tiếng, rồi quỳ gối mắc dây vào nỏ:
- Đừng để nó thấy tôi.
Mọi người quây thành một vòng kín quanh Baldor. Chú Horst lẩm bẩm:
- Sao chúng không tấn công?
Roran bối rối tìm không ra nguyên nhân, chính ông Jeod lên tiếng:
- Có lẽ vì trới quá sáng. Ra'zac chỉ đi săn về đêm. Theo tôi biết, chúng rất ngại đi xa tổ khi mặt trời chưa lặn.
Bà Gertrude bảo:
- Không chỉ có vậy. Tôi nghĩ chúng sợ biển.
- Sợ biển?
- Nhìn đi. Từ lúc chúng xuất hiện, chưa hề bay xa bờ tới một mét.
- Bà nói phải.
Roran bảo bà Gertrude và thầm nhủ: "Ít ra mình có thể lợi dụng yếu điểm này của chúng".
Mấy giây sau, Baldor bảo:
- Sẵn sàng.
Mọi người nhảy tránh sang một bên. Baldor đứng bật dậy, kéo căng dây nỏ, buông tay.
Một phát bắn đang mặt anh hùng! Hai con quái ở quá xa tầm bắn - xa hơn bất cứ điểm nào của Roran từng thấy bắn bằng cung tên - vậy mà Baldor đã nhắm trúng đích. Mũi tên của anh trúng ngay sườn phải con quái đang bay. Tiếng rú của quái vật bị thương làm cửa kính trên tàu vỡ vụn, đá trên bờ biển tan ra từng mảng. Roran vội vàng bịt chặt hai tai. Tiểng rú vẫn lanh lảnh kéo dài khi con quái đổi hướng, quay vào bờ, chìm khuất sau dãy đồi mịt mù sương.
Ông Jeod mặt nhợt nhạt, hỏi Baldor:
- Cháu giết chết nó rồi à?
- Cháu e là không. Chắc nó chỉ bị thương thôi.
Loring vừa ra tới, vẻ hài lòng, nhận xét:
- A, nhưng ít ra cháu cũng đã làm nó đau. Ta cá là chúng phải đắn đo dữ lắm, nếu muốn làm phiền chúng ta lần nữa.
Nhưng Roran lại rầu rĩ nói:
- Ông Loring ơi đừng vội mừng...
Chú Horst thắc mắc:
- Vì sao?
- Vì...bây giờ thì triều đình đã biết chính xác chúng ta đang ở đâu.
Cả phòng lái chìm vào im lặng. Tất cả thấm thía lời Roran vừa nói
Trò trẻ
Trianna nói:
- Đây là mẫu sau cùng chúng tôi vừa làm ra.
Nasuada tóm tấm vẳi đen từ tay côn gái phù thuỷ. Chất lượng thật tuyệt vời. Không bàn tay con người nào có thể dệt được dải đai đẹp như thế này. Vẻ hài lòng, nhìn dãy hộp đựng nhiều đai mẫukhác do Con-đường Lãng-du sản xuất, Nasuada nói với Trianna:
- Tuyệt lăm. Hoàn hảo hơn cả mong ước của ta. Chuyển lời tới các pháp sư của cô là ta rất vui lòng. Việc làm này của Con-đường Lãng-du rất có ý nghĩa với Varden.
- Tôi sẽ chuyển lời khen tới họ, thưa công nương.
- Họ đã...
Tiếng động ngoài cửa làm Nasuada im bặt. Cô nghe tiếng rủa của mấy người lính gác, rồi tiếng kêu la đau đớn, tiếng sắtthép choang choảng chạm nhau ngoài hành lang. Nasuada vội tránh xa cửa, rút lưỡi dao găm ra khỏi vỏ.
- Chạy mau, công nương. Thoát ra theo lối cửa của người hầu.
Cô gái phù thuỷ la lên, vừa đứng che chắn cho Nasuada vừa xắn cao tay áo, để lộ cánh tay trắng nõn, sẵn sàng sử dụngphép thuật.
Nasuada chưa kịp cất bước, cánh cửa bật mở, một người nhỏ bé nhào vào ôm hai chân và xô cô ngã xuống sàn. Ngay khi Nasuada ngã xuống, một vật sáng như bạc bay vèo qua chỗ cô vừa đứng, cắm phập và bức tường cuối phòng.
Lúc đó bốn tên lính gác chạy vào, hốt hoảng cảm thấy như chính chúng vừa tấn công, làm cô bị ngã. Khi đứng dậy được, Nasuada thấy Elva đang vùng vẫy khỏi tay mấy tên lính gác. Cô cau mày hỏi:
- Chuyện này là thế nào?
Con nhỏ tóc đen cúi gập mình, nôn khan lên tấm thảm, rồi ngước cặp mắt màu tím nhìn Nasuada, cất giọng nói khủng khiếp, lọc lõi hỏi:
- Ôi, ái nữ của thủ lãnh Ajihad đã ra lệnh cho pháp sư kiểm tra bức tường kia chứ? Thử xem tôi có chu toàn lời hứa với công nương không?
Nasuada gật đầu với Trianna. Cô phù thuỷ tiến lại cái lỗ mới thủng trên tường, lẩm bẩm thần chú. Khi quay lại, cô ta trao cho Nasuada một vật nhọn bằng kim loại:
- Thanh sắt này đã cắm sâu vào tường.
Nasuada hoang mang hỏi:
- Nhưng nó từ đâu tới chứ?
Trianna chỉ tay lên cửa sổ mở xuống phố đường Aberon:
- Chắc từ ngoài kia, tôi đoán vậy.
Nasuada quay lại Elva:
- Em biết những chuyện này?
Miệng cười khiếp đảm của con bé càng rộng hơn:
- Đó là một tên thích khác
- Kẻ nào phái nó tới đây?
- Một tên thích khách do chín Galbatorix huấn luyện bằng tà thuật...
Mi mắt sụp xuống, lơ mơ như bị hôn mê, Elva thì thầm:
- Gã đó căm ghét công nương. Nếu tôi không ngăn cản kip thời, công nương đã bị nó giết chết rồi...
Nó lại vươn cổ ói mửa, phun ra cả đống đồ ăn chua lè lên sàn, rồi nói tiếp:
- Nhưng...nó sắp phải chịu đau đớn cùng cực đến nơi rồi...
- Vì sao?
- Vì tôi sắp cho công nương biết nó đang ở trong nhà trọ trên đường Fane, lầu thượng, phòng cuối cùng. Phải mau mau đi bắt nó ngay, nếu không nó sẽ trốn đi xa, rất xa...
Elva ôm bụng rên rỉ như con thú bị thương:
- Đi gấp đi. Đi trước khi thần chú của Eragon lại bắt tôi ngăn cản các gnười làm gã đó đau đớn. Lúc đó công nương sẽ hối không kịp đâu.
Trước khi Trianna đi, Nasuada dặn thêm:
- Báo cho ông Jormundur biết chuyện gì đã xảy ra, rồi đem theo những pháp sư cao tay nhất của cô, truy lùng bằng được tên thích khách đó. Giết chết, nếu không bắt sống được.
Cô gái phù thuỷ đi khỏi, Nasuada qua lại nhìn mấy người lính của cô và những đôi chân đầy vết cắt nhỏ, máu chảy ròng ròng
- Đi tìm thầy thuốc trị vêt thương đi.
Mấy người lính đều lắc đầu. Viên đại uý bảo:
- Không, thưa công nương. Chúng tôi ở lại cho đến khi thấy thật sự an toàn.
- Tùy đại úy.
Đám lính đóng chốt, ngăn chặn các cửa sổ - làm không khí càng thêm nóng bức ngột ngạt - rồi họ chia nhau vào các phòng để bảo vệ chặt chẽ hơn.
Nasuada bước quanh phòng, tim đập thình thình, ngẫm nghĩ đến việc cô vừa thoát chết trong đường tơ kẽ tóc: "Tổ chức Varden sẽ ra sao nếu mình bị giết? Ai sẽ là người kế vị mình?". Cô chưa dự trù gì cho Varden trong trường hợp cô chết. Đó là một thiếu sót quá to lớn. "ta không thể để Varden tan rã vì đã không tính toán trước những sự kiện như thế này có thể xảy ra".
Đừng bước, cô nói với Elva:
- Ta mắc nợ em rồi đó, elava
- Bây giờ và mãi mãi.
Nasuada ngỡ ngàng. Cô luôn bị bất ngờ vì những câu trả lời của con bé này.
- Ta xin lỗi vì đã không ra lệnh cho lính gác, để em có thể vào đây bất cứ lúc nào. Đáng lẽ ta đã phải dự kiến những chuyện như thế này.
- Đúng vậy.
Giọng con bé đầy giễu cợt.
Vuốt tà áo trước cho thẳng thớm, Nasuada lại bước quanh, chủ yếu là để tránh bối rối khi phải nhìn khuôn mặt trắng bệch như đá, với dấu ấn rồng trên trán của Elva.
- Bằng cách nào em trốn ra khỏi phòng vậy?
- Em kể đủ thứ chuyện cho bà vú Greta nghe.
- Chỉ có vậy thôi sao?
- Bà ấy khoái nghe kể chuyện lắm
- Còn Angela?
- Sáng nay bà ta ra ngoài có việc.
- Đáp lại ơn cứu mạng, em cần gì cứ nói. Ta sẵn sàng làm trong quyền hạn của mình.
Elva nhìn quanh căn phòng lộng lẫy, rồi bảo:
- Công nương có gì ăn không? Em đói
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro