Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

eragon phần 4! nguồn tangthuvien.com

Eragon Quyển 4 - Kế Thừa

Hầm mộ của những linh hồn

Tác giả: Christopher Paolini

Họa sĩ vẽ bìa: John Jude Palencar

Chương 01 - Tiến vào lỗ thủng

Dịch: cbkhanh

Biên dịch: tobano

Nguồn: www.tangthuvien.com

Chào cả nhà, hiện nay trong quá trình dịch anh em trong nhóm vẫn còn đang băn khoăn về vấn đề cách xưng hô của nhân vật chính. Người thì đề xuất gọi Eragon là "nó" vì đây là cách dùng của NXB ở những tập trước, người thì đề xuất dùng "cậu" hoặc "chàng" cho thêm thân mật. Chính vì vậy, bọn mình đã quyết định sẽ post mấy chương tới với những cách xưng hô khác nhau và dành sự quyết định cho quần chúng nhân dân (của dân, do dân và vì dân mà ). Mọi người đọc và cho ý kiến xem nên chọn kiểu nào nhé 

Xưng hô - "Nó"

Shaphira gầm lên, khiến cho mấy tên lính đứng trước run rẩy. 

“Theo ta!” Eragon hét lên. Eragon nâng thanh Brisingr quá đầu, giữ kiếm trên cao cho tất cả đều nhìn thấy. Thanh kiếm xanh loé sáng rực rỡ, tương phản hoàn toàn với bức tường mây đen phía tây. “Vì Varden !”

Một mũi tên rít qua, Eragon không thèm chú ý. 

Đám lính tập trung tại chân dốc đá vụn mà Eragon và Saphira đang đứng đồng thanh đáp trả bằng tiếng rống hùng hậu bằng cả cuống họng: “Varden!”. Họ khua vũ khí và tiến về phía trước, tràn lên các tảng đá lộn xộn. 

Eragon quay lưng lại đám lính. Ở phía bên kia của gò đất là một khoảng sân rộng. Tầm hai trăm tên lính Đế quốc đứng lộn xộn ở đó. Đằng sau là một cái tháp canh âm u vươn lên cao với nhiều đường rạch chằng chịt để làm khe cửa và vô số pháo đài hình tứ diện; cái cao nhất có treo một chiếc đèn lồng chiếu sáng. Eragon biết rằng đâu đó trong cái tháp canh này chính là Lãnh chúa Bradburn, kẻ cai trị Belatona – thành phố mà Varden đã tấn công được vài tiếng đồng hồ. 

Gầm lên một tiếng, Eragon rời ụ đá vụn, lao về phía đám lính. Chúng giật lùi lại phía sau, mặc cho tay vẫn giữ lấy thương và giáo nhắm vào cái lỗ toang hoác mà Saphira đã xé tan trên bức tường bên ngoài của toà lâu đài. 

Cổ chân phải của Eragon bị trẹo khi chạm mặt đất. Nó ngã xuống bằng đầu gối và làm cho tay cầm kiếm chống xuống đất. 

Một tên trong đám lính nắm lấy cơ hội, phóng ra khỏi đội hình, đâm ngọn giáo vào cái cổ để lộ ra của Eragon. 

Eragon gạt nhát đâm bằng một cú lắc nhẹ cổ tay, vung thanh Brisingr nhanh hơn bất cứ người hay tiên nào có thể làm. Mặt tên lính lộ vẻ sợ hãi khi hắn nhận ra sai lầm của mình. Hắn cố gắng chạy trốn, nhưng trước khi hắn bước được một vài cen-ti-met, Eragon đã đâm thẳng vào bụng hắn. 

Saphira phun ra một cột lửa vàng xanh, cô nàng nhảy lên sân ngay sau Eragon. Rùn thân xuống và duỗi chân ra khi cô ả hạ xuống nền đất lát đá. Sự va chạm làm rung chuyển cả cái sân. Rất nhiều mảnh vỡ thuỷ tinh từ những bức hình trang trí lớn và sặc sỡ trên tường tháp canh bật ra và xoay tròn như những đồng xu nảy trên một cái trống. Từ trên cao, hai cánh cửa chớp trên cửa sổ của toà tháp đóng mở ầm ầm. 

Nàng tiên Arya theo sau Saphira. Mái tóc dài đen bồng bềnh trong gió cuốn quanh khuôn mặt góc cạnh của nàng khi nàng nhảy xuống đống đá vụn. Trên cổ và cánh tay của nàng lốm đốm những vệt máu bắn vào, lưỡi kiếm của nàng cũng đã uống máu. Nàng hạ xuống nhẹ nhàng trên nền đá. 

Sự xuất hiện của nàng là sự cổ vũ cho Eragon. Nàng, không ngoài ai khác, chính là người mà nó và Saphira muốn chiến đấu kề bên. Eragon nghĩ rằng nàng chính là một người bạn chiến đấu hoàn hảo. 

Nó nở nhanh một nụ cười hướng về phía nàng, và Arya cười đáp lại, một cách mạnh mẽ và vui sướng. Trong chiến đấu, thái độ kín đáo của nàng đã tan biến, thay vào đó là một sự cởi mở mà hiếm khi nàng thể hiện ở bất cứ nơi nào khác. 

Eragon cúi xuống nấp sau tấm khiên khi một làn lửa xanh phụt ra giữa họ. Từ dưới vành của mũ bảo vệ, nó theo dõi Saphira tưới một cột lửa lên người đám lính đang co rúm lại vì sợ; tuy nhiên cột lửa chỉ chảy quanh chúng mà không tạo ra một thương tổn nào. 

Hàng cung thủ trên tường thành bắn một loạt tên vào Saphira. Nhiệt độ bên trên cô rồng quá cao khiến một nhúm tên bốc cháy giữa trời và vỡ vụn thành tro trong khi chùm tên còn lại bị các vòng bảo vệ bằng pháp thuật mà Eragon đặt quanh Saphira phá giải. Một mũi tên lạc bắn ngược lại vào khiên của Eragon, tạo ra một tiếng ầm vang vọng, và hằn một vết lõm sâu trên khiên. 

Chùm lửa đột nhiên cuốn lấy ba tên lính, kết liễu chúng nhanh chóng đến nỗi chúng thậm chí không có thời gian kịp kêu lên một tiếng. Những tên lính khác co cụm lại tại trung tâm vòng tròn lửa, mũi thương và giáo của chúng ánh lên sắc xanh của ngọn lửa. 

Dù cố gắng đến mấy, cô rồng cũng không thể làm tổn hại đến những kẻ còn lại. Cuối cùng cô nàng đành bỏ cuộc và đóng miệng lại một cách dứt khoát. Ngọn lửa biến mất để lại khoảng sân yên lặng như tờ.

Cũng như vài lần trước đó, Eragon nghĩ rằng kẻ mà đã phù phép bảo vệ cho đám lính ắt hẳn là một pháp sư lão luyện và mạnh mẽ. Liệu có phải là Murtagh không nhỉ? Eragon tự hỏi. Nếu đúng như vậy, vì sao anh ta và Thorn không ở đây để bảo vệ Belatona? Không phải Galbatorix muốn kiểm soát những thành phố của lão ư?

Eragon xông lên phía trước, và chỉ với một nhát kiếm đã chém bay cả tá mũi giáo, dễ dàng như việc nó nhổ hạt lúa mạch khi còn bé vậy. Eragon chém ngang ngực tên lính gần nhất, xuyên qua lớp áo giáp như thể nó chỉ là một thứ vải mỏng manh nhất. Một tia suối máu phun lên. Rồi nó đâm tên lính tiếp theo và dùng khiên hất vào tên lính phía bên trái, khiến bay hắn về phía ba tên lính khác, khiến bọn chúng ngã lăn lông lốc.

Phản ứng của đám lính có vẻ khá chậm chạp và vụng về so với Eragon, nên nó thậm chí chẳng hề nhận chút thương tổn nào khi xuyên qua đội ngũ và hạ gục chúng.

Saphira tấn công kịch liệt vào đám lính bên trái Eragon, hất tung những tên lính lên trời với cặp móng vuốt đồ sộ, quất chúng bằng cái đuôi đầy gai và cắn giết chúng chỉ với một cú lắc đầu. Trong khi đó, tại phía bên phải, Arya di chuyển nhanh đến nỗi chỉ để lại bóng mờ, mỗi lần kiếm của nàng vung lên lại là một lần báo hiệu cái chết đến cho một tên nô bộc của Đế quốc. Khi Eragon đang xoay tròn để gạt đi hai mũi thương, Eragon nhận thấy Blödhgarm - tiên tộc phủ đầy lông - đang đứng gần đó cùng với mười một vị tiên tộc khác – những người có nhiệm vụ bảo vệ hắn và Saphira.

Xa hơn ở phía sau, các thành viên Varden tràn vào sân từ những lỗ hổng trên tường thành. Nhưng họ chưa dám tấn công vì chiến đầu gần Saphira rất nguy hiểm. Và chẳng ai trong số Saphira, Eragon và các thần tiên cần đến sự trợ giúp để xử lý đám lính này. 

Trận chiến nhanh chóng chia cắt Eragon và Saphira, đưa họ tới hai đầu sân. Tuy vậy, Eragon không lo. Dù không có lá chắn phép thuật, Saphira vẫn thừa khả năng một mình hạ gục một nhóm lớn hai mươi ba mươi tên lính. 

Một ngọn giáo phóng thẳng vào khiên của Eragon, làm bầm vai nó. Quay mặt về phía kẻ vừa phóng giáo – một gã mặt sẹo to lớn và thiếu mất mấy cái răng cửa dưới – Eragon lao về phía hắn. Gã cố gắng rút thanh chuỳ thủ đeo ở thắt lưng để chống cự. Vào thời khắc cuối cùng, Eragon xoay người, kéo căng cánh tay và ngực, dùng phần vai đang bị đau nện thẳng vào xương ức của gã mặt sẹo. 

Lực lượng của vụ va chạm lớn đến nỗi khiến cho tên lính phải giật lùi lại phía sau vài mét, ngã quỵ xuống và lấy tay ôm ngực mà chết.

Sau đó, một cơn mưa tên đen ngòm bay xuống, giết hoặc làm bị thương vô số tên lính. Eragon né khỏi đám tên và dùng khiên che kín người, dù cho nó có tự tin rằng sẽ được phép thuật bảo vệ. Cẩn tắc vô áy náy, vì Eragon chẳng bao giờ biết được liệu có một tên pháp sư phe địch nào đó sẽ bắn một mũi tên ma thuật đủ sức mạnh xuyên thủng vòng bảo vệ pháp thuật. 

Một nụ cười cay đắng hiện trên môi Eragon. Đám cung thủ phía trên kia đã nhận ra rằng hy vọng chiến thắng duy nhất của chúng là bằng cách nào đó phải giết chết Eragon và tiên tộc, bất chấp việc chúng phải hi sinh bao nhiêu người đi chăng nữa. 

Quá chậm rồi, Eragon thích thú nghĩ thầm. Bọn mi đáng nhẽ ra phải rời bỏ Đế quốc khi còn có cơ hội chứ. 

Trận mưa tên dữ dội đã cho Eragon thời gian nghỉ ngơi, một điều mong còn không được. Chiến dịch tấn công thành phố bắt đầu từ lúc bình mình, và kể từ lúc đó đến giờ nó cùng Saphira đã chiến đấu ở tiền tuyến.

Ngay khi các mũi tên ngưng lại, Eragon chuyển thanh Brisingrsang tay trái, cầm lấy ngọn giáo của một tên lính và phóng về phía đám cung thủ ở trên cao 12m. Eragon nhận ra rằng rất khó để ném ngọn giáo một cách chính xác nếu không có sự luyện tập chăm chỉ. Ném hụt tên lính mà Eragon nhắm tới cũng không có gì nhưng nó rất ngạc nhiên khi không phi trúng bất cứ tay cung nào trên tường thành. Ngọn giáo bay qua đầu đám cung thủ và vỡ vụn khi đập vào tường thành phía trên. Đám cung thủ cười lăn lộn chế nhạo Eragon. 

Một chuyển động nhanh vụt qua khiến Eragon chú ý. Nó chỉ kịp nhìn thấy Arya phi ngọn giáo về phía đám cung thủ, xuyên qua hai tên đang đứng gần nhau. Sau đó, Arya dùng thanh kiếm chỉ vào đám cung thủ và thét: “Brisingr!” và ngọn giáo bùng lên ngọn lửa màu xanh ngọc.

Đám cung thủ lùi lại tránh xa những cái xác cháy đen. Chúng chạy trốn khỏi tường thành, chen chúc nhau chạy qua những cánh cửa dẫn đến những tầng cao hơn của lâu đài. 

“Không công bằng,” Eragon nói. “Tôi không thể sử dụng câu chú đó mà không khiến kiếm của tôi bốc cháy như lửa trại.”

Arya nhìn nó một cách hứng thú.

Trận chiến kéo dài thêm vài phút nữa, cho đến khi những tên lính cuối cùng hoặc đầu hàng hoặc cố gắng tháo chạy.

Eragon mặc cho năm tên lính phía trước bỏ chạy, vì biết rằng chúng cũng chẳng đi được xa. Sau khi kiểm tra nhanh những cái xác nằm ngổn ngang xung quanh xem chúng đã thực sự chết chưa, nó quay lại nhìn qua sân. Một vài thành viên Varden đã mở được cổng thành ngoài và đang vác một súc gỗ công phá cổng thành đi qua con phố dẫn tới lâu đài. Một số người khác đang tập trung thành những hàng ngũ rời rạc ở ngay cạnh cổng vào, chuẩn bị sẵn sàng để tiến vào lâu đài và đối đầu với đám lính phía trong. Trong số đó, Roran – anh họ của Eragon - đang làm vài động tác với cây búa thân thiết của mình trong khi đang chỉ huy đám lính dưới quyền. Ở phía cuối sân, Saphira cúi người bước qua những xác chết đã bị giết dưới tay nó, khu vực xung quanh cô nàng trông chả khác gì lò sát sinh. Máu bám lên những chiếc vảy ngọc, những chấm máu đỏ hoàn toàn tương phản với màu xanh ngọc đẹp đẽ trên cơ thể rồng. Saphira quay đầu gầm chiến thắng, nhấn chìm tiếng la hét trong thành phố bằng tiếng gầm đầy dữ tợn của mình.

Sau đó, từ trong lâu đài, Eragon nghe thấy tiếng va chạm giữa xích và bánh răng vang lên, theo sau là những tiếng kéo mở kẽo kẹt của những thanh xà làm bằng gỗ nặng. Âm thanh đó khiến mọi người nhìn chằm chằm về phía cánh cửa tháp canh. 

Với một tiếng nổ khô khốc, cánh cửa mở ra. Một làn khói dày đặc cuồn cuộn bốc ra ngoài từ những bó đuốc bên trong, khiến những thành viên Varden đứng gần nhất ho sặc sụa và phải che đi khuôn mặt. Từ một nơi nào đó trong đám khói mờ mịt, vang lên tiếng móng ngựa bọc sắt gõ lên đá lát đường; sau đó là một ngựa một người phi nước đại xông ra từ giữa đám khói. Ở tay trái, tên kị sĩ cầm một thứ mà lúc đầu Eragon nghĩ là một cây thương bình thường, nhưng rất nhanh sau đó nó nhận ra rằng cây thương đó làm bằng một vật liệu kì lạ màu xanh lá cây, lưỡi thương có ngạnh và hình dáng lạ lùng. Thứ ánh sáng mờ mờ và không bình thường toả ra ở trên đầu ngọn thương đã chứng tỏ sự hiện diện của pháp thuật.

Tên kỵ sĩ giật mạnh dây cương ngựa, chạy về phía Saphira. Cô ả đứng lên bằng hai chân sau, chuẩn bị tung một cú chém kinh hoàng, huỷ diệt bằng bộ vuốt phải của mình. 

Lo lắng luẩn quẩn trong đầu Eragon. Tên kỵ sĩ quá tự tin vào bản thân, cây thương đó cũng quá khác thường, quá kỳ quái. Dù cho lá chắn pháp thuật sẽ bảo vệ cô rồng, nhưng Eragon chắc chắn một điều rằng Saphira đang bị nguy hiểm trí mạng. 

Mình sẽ không thể tới kịp để giúp nó, Eragon nhận ra. Nó xâm nhập vào trí óc gã kỵ sĩ, nhưng tên kị sĩ quá tập trung vào nhiệm vụ của mình đến nỗi chẳng thèm để ý đến sự hiện diện của Eragon, và chính sự tập trung cao độ đó đã ngăn chặn việc Eragon xâm nhập được vào ý thức của hắn. Rút ý thức trở lại, Eragon nhớ lại 6 từ trong ngôn ngữ cổ xưa, niệm thành một câu thần chú đơn giản để chặn lại con ngựa chiến đang phi nước đại kia. Eragon biết rằng sẽ là vô vọng thôi – vì gã kỵ sĩ kia nếu không phải là một pháp sư thì hắn chắc chắn cũng đã có sự chuẩn bị từ trước nhằm chống lại sự tấn công bằng pháp thuật – nhưng Eragon không định đứng yên trong khi tính mạng của Saphira đang bị đe doạ.

Eragon hít một hơi thật sâu. Nó nhắc mình nhớ lại cách phát âm chính xác của một vài âm khó trong cổ ngữ. Rồi nó mở miệng đọc câu thần chú.

Dù Eragon đã nhanh, nhưng các thần tiên còn nhanh hơn. Trước khi Eragon kịp thốt ra một từ, những tiếng niệm chú trầm thấp vang lên phía sau, những giọng nói rì rầm tạo nên một âm điệu chói tai và gây hoang mang. 

“Mäe-” Eragon cố gắng thốt lên, và rồi phép thuật của những thần tiên cũng có hiệu quả.

Khung cảnh phía trước con ngựa xoay tròn và biến đổi, những mảnh nhỏ thuỷ tinh chảy như nước. Một vết nứt dài xuất hiện trên mặt đất, để lộ ra một kẽ hở toang hoác sâu thăm thẳm. Hí vang lên một tiếng, con ngựa lao thẳng xuống cái cái hố khiến cho hai cái chân trước của nó vỡ vụn. 

Khi người và ngựa ngã xuống, gã kỵ sĩ trên lưng ngựa vẫn cố nhấc tay về phía sau và ném cây thương đang rực sáng về phía Saphira. 

Saphira không thể chạy. Cô nàng cũng không thể tránh. Cô rồng đành vung chiếc móng lên, cố gạt đi cây thương đang lao đến. Nhưng cô nàng đã đỡ trượt – chỉ trượt có vài cen-ti-met thôi – và trong kinh hoàng Eragon nhìn chăm chăm cây thương cắm ngập hẳn một mét vào ngực Saphira, ngay bên dưới xương đòn. 

Một cơn thịnh nộ bao trùm lấy tâm trí Eragon. Nó cố dùng hết tất cả số năng lượng dự trữ có thể điều động từ cơ thể, từ trong viên ngọc ở chuôi Hoả kiếm, từ trong mười hai viên kim cương được giấu trong Đai lưng của Beloth Thông Thái đang đeo quanh eo, từ lượng dự trữ khổng lồ trong chiếc nhẫn Aren của tiên tộc đeo trên bàn tay phải – nhằm chuẩn bị tiêu diệt gã kỵ sĩ, bất chấp mọi nguy hiểm. 

Tuy nhiên, Eragon đã phải dừng lại khi Blödhgarm xuất hiện, leo qua cái chân trước bên trái của Saphira. Blödhgarm lao vào tên kị sĩ như thể một con báo đang vồ lấy một con nai. Bằng một cú vặt cổ hung tợn, hắn xé toang cổ họng gã kị sĩ bằng những chiếc răng dài trắng hếu. 

Một tiếng thét tuyệt vọng đến tột cùng phát ra từ một cánh cửa sổ phía trên lối vào pháo đài, tiếp theo đó là một vụ nổ lớn làm bắn tung những những khối đá trong lâu đài, rơi vào ngay giữa chỗ các thành viên Varden đang tập hợp, nghiền nát tay chân và thân thể họ như thể nghiền nát những cành cây khô.

Eragon mặc kệ trận mưa đá đang trút xuống chiến trường mà chạy về phía Saphira, cũng chẳng để ý tới Arya và những hộ vệ đang chạy theo sau. Những tiên tộc khác ở gần Saphira hơn, đã bao quanh nó, xem xét cây thương đang nhô ra từ ngực cô rồng.

“Vết thương nghiêm trọng thế nào – Liệu Saphira – ” Eragon nói. Nó lo lắng đến nỗi không thể nói hết câu và nóng lòng được trò chuyện bằng ý thức với Saphira, nhưng một khi mà mấy tên pháp sư địch còn có thể ẩn nấp quanh đây thì nó không dám liên lạc bằng ý thức với Saphira, vì lo sợ rằng chúng sẽ xâm nhập vào được ý thức của Saphira để do thám ý nghĩ hoặc thậm chí kiểm soát thân thể con rồng. 

Sau những giây phút chờ đợi tưởng như vô tận, Wydren, một trong số các tiên tộc lên tiếng: “Ngài nên cảm ơn số phận, thưa Khắc tinh của Tà thần. Mũi thương không đâm vào các tĩnh mạch và động mạch chính trên cổ Saphira. Nó chỉ gây tổn thương lên các cơ, mà cơ thì chúng tôi có thể chữa trị được.”

“Các ngài rút mũi thương ra được không? Liệu nó có bị phù phép để...”

“Chúng tôi sẽ chú ý tới việc này, thưa Khắc tinh của Tà thần.”

Trang nghiêm như các linh mục đứng trước bàn thờ Chúa, tất cả các thần tiên, trừ Blödhgarm, đặt các ngón tay lên ngực Saphira và cất tiếng hát, như lời thì thầm của gió phiêu du qua rặng liễu. Họ hát về sự ấm áp và sinh sôi, họ hát về cơ bắp, gân và dòng máu nóng và hát về nhiều điều bí ẩn khác. Có lẽ phải bằng một nghị lực ghê gớm lắm Saphira mới có thể duy trì một tư thế trong suốt quá trình niệm chú, dù cho mỗi giây trôi qua cơ thể cô rồng lại run lên bần bật. Một dòng máu chảy dài xuống ngực Saphira từ nơi ngọn thương cắm vào. 

Khi Blödhgarm tiến về chỗ Eragon, nó liếc nhìn ông ta. Máu khô làm lớp lông trên cằm và cổ ông bết lại, khiến bộ lông đổi màu từ xanh đen sang màu đen thẫm. 

“Cái gì kia?” Eragon hỏi, chỉ vào ngọn lửa vẫn còn đang nhảy múa trên cửa sổ phía trên. 

Trước khi trả lời, Blödhgarm liếm môi, để lộ ra những cái răng nanh giống loài mèo. “Ngay trước khi hắn chết, tôi đã xâm nhập vào trí óc tên lính, và qua đó, là trí óc của tên pháp sư đã giúp đỡ hắn.”

“Ông đã giết tên pháp sư đó?”

“Nói đúng ra là tôi buộc hắn tự vẫn. Thông thường, tôi không hay hành động quá khích như vậy, nhưng tôi... giận quá.”

Eragon tiến lên phía trước, tự mình kiểm tra vết thương khi Saphira thốt ra một tiếng rên rỉ dài, trầm thấp trong lúc mũi thương bắt đầu trượt khỏi ngực cô rồng mà không cần ai động tay vào. Mí mắt cô rồng run rẩy, và cô thở dốc liên tục trong khi đoạn thương cuối cùng dài mười lăm cen-time được rút ra khỏi cơ thể. Cái mũi thương đầy gai tỏa ra quầng sáng xanh ngọc, rơi xuống mặt đất và nẩy lên trên nền đá lát, nghe như thể nó làm bằng gốm chứ không phải kim loại. 

Khi các thần tiên ngừng hát và nhấc tay khỏi Saphira, Eragon chạy vội đến cô rồng và sờ vào cổ cô nàng. Eragon đã muốn an ủi cô nàng, muốn kể cho Saphira biết nó đã sợ như thế nào, muốn liên hệ bằng ý thức với cô. Nhưng thay vào đó, Eragon chỉ nhìn vào đôi mắt sáng xanh kia và hỏi, “Em có ổn không?” Những từ ngữ mà dường như chẳng đáng kể nếu so với những cảm xúc mãnh liệt của nó. 

Saphira đáp lại bằng một cái chớp mắt, rồi cúi đầu xuống và mơn trớn khuôn mặt Eragon bằng một một hơi thở nhẹ nhàng ấm áp từ hai lỗ mũi. 

Eragon mỉm cười, rồi quay về phía các vị tiên tộc và nói, “Eka elrun ono, älfya, wiol förn thornessa,” cảm ơn sự giúp đỡ của họ bằng cổ ngữ. Các tiên tộc tham gia việc chữa trị, kể cả Arya, cúi đầu, uốn éo tay phải của họ trước ngực – một cử chỉ thể hiện sự tôn trọng của tiên tộc. Eragon nhận ra rằng hơn nửa số tiên tộc được giao trọng trách bảo vệ đều trở nên xanh xao, yếu ớt, đứng không vững. 

“Hãy lui về và nghỉ ngơi đi,” Eragon nói với họ. “Nếu ở lại các ngài sẽ chỉ khiến chính mình bị giết thôi. Đi thôi, đây là mệnh lệnh!”

Dù Eragon biết chắc rằng họ không muốn đi, nhưng bảy tiên tộc đã trả lời nó, “Như mong ước của Ngài, thưa Khắc tinh của Tà thần,” và rời khỏi sân, sải chân bước qua những xác chết và đống gạch vụn. Ở họ luôn thấy được sự quý phái và hãnh diện, kể cả khi sức cùng lực kiệt.

Sau đó, Eragon tiến về phía Arya và Blödhgarm, bọn họ đang nghiên cứu cây thương với cùng một sự biểu cảm kì lạ trên hai khuôn mặt, cứ như thể hai người không chắc phải phản ứng ra sao. Eragon ngồi xuống cạnh hai người, thật cẩn thận và không để bất kì bộ phận nào của cơ thể chạm vào cây thương. Eragon nhìn chằm chằm vào đường chạm khắc tinh tế xung quanh phía dưới của mũi thương. Mặc dù không chắc là tại sao, nhưng Eragon cảm thấy những đường chạm khắc này rất quen thuộc. Nửa phần màu xanh của ngọn thương được làm bằng một loại vật liệu không phải gỗ mà cũng chẳng phải kim loại; và một lần nữa cái thứ ánh sáng dịu nhẹ ấy nhắc Eragon nhớ tới những chiếc đèn không có lửa mà tiên tộc và người lùn sử dụng để thắp sáng các lối đi.

“Hai người có nghĩ đây là sản phẩm của Galbatorix không?” Eragon hỏi. “Có thể lão quyết định rằng nên giết Saphira và tôi hơn là bắt sống. Có lẽ lão tin rằng chúng tôi đã thực sự trở thành một mối đe dọa đối với hắn.”

Blödhgarm cười không hề thoải mái. “Tôi sẽ không tự lựa dối mình bằng những ảo tưởng như vậy, thưa Khắc tinh của Tà thần. Chúng ta chỉ là một mối bận tâm nhỏ đối với Galbatorix không hơn không kém. Nếu lão thật sự muốn hai người hoặc bất kỳ ai trong chúng ta chết, hắn chỉ cần bay tới từ Urubaen và trực tiếp giao chiến với chúng ta và chúng ta sẽ ngã xuống trước mặt hắn như lá rụng trươc cơn bão mùa đông. Bản thân có sức mạnh của những con rồng, không ai có thể chống cự lại lão. Hơn nữa, Galbatorix không dễ dàng thay đổi cách hành xử của mình. Có thể lão ta nổi giận, nhưng vốn xảo quyệt, và trên hết, là quả quyết. Nếu lão ta muốn sự phục dịch của 2 người, thì lão sẽ cố gắng làm cho bằng được, đến cái mức mà có thể coi như là sự ám ảnh, và không gì có thể ngăn lão lại, ngoại trừ bản năng tự bảo vệ của lão”. 

“Trong bất kì hoàn cảnh nào,” Arya nói, “ cũng có thể khẳng định rằng thứ này không phải sản phẩm của Galbatorix. Nó là do chúng ta tạo ra.”

Eragon nhíu mày. “Chúng ta? Varden không làm ra thứ này.”

“Không phải Varden mà là thần tiên.”

“Nhưng...” nó dừng lại, cố tìm ra một cách diễn đạt thích hợp. “Nhưng không có tiên tộc nào đồng ý hợp tác với Galbatorix. Họ thà chết còn hơn...”

“Galbatorix chắc chắn không làm ra thứ này, mà kể cả có, lão cũng không bao giờ giao một thứ vũ khí hiếm và mạnh mẽ như thế này vào tay một kẻ thậm chí không thể giữ nó. Trong tất cả các thứ vũ khí chiến tranh trên khắp Alagaesia này, đây chính là thứ Galbatorix không muốn rơi vào tay chúng ta nhất.”

“Vì sao?”

Với một tiếng rên nhỏ trầm thấp, Blödhgarm nói, “Bởi lẽ, thưa Eragon Khắc tinh của Tà thân, đây là một Dauthdaert.”

“Và tên của nó là Niernen, Hoa phong lan,” Arya nói. Cô chỉ vào những đường chạm khắc trên lưỡi thương, những đường khắc mà Eragon sau đó đã nhận ra thực chất chỉ là những nét chạm khắc được cách điệu hoá từ hệ thống chữ viết của tiên tộc– những hình thù uốn lượn, quyện vào nhau và kết thúc bằng những cái dấu chấm dài, có hình như sợi gai.

“Một Dauthdaert?” Khi cả Arya và Blödhgarm đều nhìn một cách hoài nghi, Eragon nhún vai, xấu hổ vì sự thiếu sót của mình. Điều làm nó nản lòng chính là trong khi tiên tộc được học hỏi tri thức với những học giả uyên bác nhất của nòi giống họ từ thập kỉ này sang thập kỉ khác trong quá trình trưởng thành, thì ông cậu Garrow của nó thậm chí không dạy cho nó biết viết tên của mình, vì coi đó là việc chẳng có gì quan trọng. “Tôi chỉ mới đọc được một vài quyển sách tại Ellesméra thôi. Đó là cái gì vậy? Có phải nó được rèn trong giai đoạn Sự suy tàn của các kị sĩ không, và được dùng để chống lại Galbatorix và Những kẻ phản đồ?”

Blödhgarm lắc đầu. “Niernen đã xuất hiện từ rất rất lâu trước đó.”

“Dauthdaertya,” Arya nói. “được sinh ra từ nỗi sợ hãi và sự thù hận, đánh dấu những năm tháng cuối cùng của cuộc chiến giữa tiên tộc và loài rồng. Những thợ rèn và pháp sư tài giỏi nhất của chúng tôi đã tự tạo ra chúng từ những nguyên liệu mà đến giờ chúng tôi đã không còn hiểu được, phù phép chúng bằng những câu chú mà câu chữ của chúng đến nay chúng tôi không còn nhớ, và đặt tên chúng, tất cả 12 trong số chúng, theo những cái tên của những loài hoa đẹp đẽ nhất – một sự kết hợp vô cùng xấu xí – bởi vì chúng tôi tạo ra chúng không nhằm mục đích gì khác ngoại trừ một mục đích duy nhất: chúng dùng để giết chết những con rồng.”

Nỗi khiếp sợ bất ngờ bao trùm lấy Eragon khi nó nhìn chằm chằm vào cây thương đang phát sáng. “Chúng có làm được việc đó không?”

“Những người chứng kiến kể rằng máu rồng trút xuống từ trên trời cao như mưa rào mùa hạ.”

Saphira rít lên, lớn tiếng và sắc bén. 

Eragon nhìn lại cô rồng trong chốc lát và nhìn thấy từ trong mắt cô những thành viên Varden vẫn đang giữ vững vị trí của họ trước tháp canh, chờ đợi cả hai tiếp tục dẫn đầu đợt tiến công. 

“Chúng tôi đã nghĩ rằng tất cả Dauthdaertya đều đã bị tiêu hủy hoặc hỏng hóc đến mức không thể phục hồi được,” Blödhgarm nói. “Nhưng rõ ràng là chúng tôi đã lầm. Niernen bằng cách nào đó đã tới tay gia đình Waldgrave và họ đã giấu nó tại đây, trong thành Belatona này. Tôi đoán có thể khi chúng ta vượt qua tường thành, Lãnh chúa Bradburn đã mất hết can đảm, và hắn đã ra lệnh dùng thanh Niernen từ trong kho vũ khí nhằm chặn lại Ngài và Saphira. Chắc chắn Galbatorix sẽ giận dữ tột độ nếu biết rằng Bradburn đã cố ý giết hai người.”

Mặc dù hiểu được tình hình đang rất gấp rút, nhưng sự tò mò không cho phép Eragon rời đi ngay lúc này. “Dù đó có phải là Dauthdaetya hay không, thì hai người vẫn chưa giải thích tại sao Galbatorix không muốn chúng ta có thứ này.” Nó chỉ vào ngọn thương. “Điều gì khiến Niernen còn nguy hiểm hơn đống giáo mác đằng kia, hoặc thậm chí Bris...” nó ngậm miệng kịp thời trước khi thốt ra toàn bộ cái tên. “hoặc thanh kiếm của tôi?”

Arya trả lời nó. “Như cậu đã thấy đấy, nó không thể bị phá hỏng bằng những cách thức thông thường, không thể bị lửa xâm phạm, và hầu như hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của phép thuật. Dauthdaetya được thiết kế để không bị ảnh hưởng bởi bất cứ phép thuật nào mà loài rồng có thể sử dụng và cũng được dùng để bảo vệ người sử dụng nó khỏi viễn cảnh kinh hoàng trước thứ phép thuật mạnh mẽ, phức tạp, và không đoán trước được của loài rồng mang lại. Galbatorix có thể tạo nên nhiều vòng bảo vệ phép thuật cho Shruikan và chính lão, nhiều hơn bất cứ ai ở đại lục Alagaësia này, nhưng Niernen vẫn có thể xuyên thủng những sự phòng ngự đó cứ như thể chúng thậm chí còn không tồn tại.”

Eragon hiểu và nó thấy phấn chấn. “Chúng ta phải...”

Một tiếng thét ngắt lời nó.

Đó là một thứ âm thanh đột ngột, sắc lẻm, run rẩy, như thể kim loại cà vào đá. Âm thanh đó làm cho răng của Eragon run cầm cập và nó phải dùng tay che cả hai tai lại, nó nhăn mặt và xoay xung quanh để cố tìm được ra nơi phát ra âm thanh đó. Saphira ngẩng đầu dậy, và thậm chí trong tiếng ầm ĩ đó, Eragon vẫn nghe thấy tiếng cô rên rỉ vì đau đớn. 

Eragon nhìn lướt qua cái sân hai lần trước khi nhìn thấy một đám bụi nhỏ bốc lên từ bức tường tháp canh từ một lỗ hổng rộng bằng một bàn chân bên dưới phần cửa sổ tối đen đã bị hủy hoại một phần khi Blöhgarm giết tên thuật sĩ. Tiếng rít càng lúc càng lớn, Eragon đành phải mạo hiểm bỏ một tay che tai để chỉ về phía lỗ hổng. 

“Nhìn kìa!” nó hét lên với Arya, nàng gật đầu tỏ ý đã biết. Nó lại áp tay lên tai.

Không hề báo trước, âm thanh đột nhiên ngừng lại.

Eragon đợi một lúc, rồi từ từ hạ tay xuống. Lần đầu tiên Eragon mong sao thính giác của nó không nhạy cảm đến thế.

Đúng lúc đó, lỗ hổng mở rộng ra – kéo dài đến vài mét – chạy dọc xuống bức tường của tháp canh. Như một tia chớp, lỗ hổng bất chợt vỡ ra và phá tan đá đỉnh vòm phía trên những cánh cửa của toà tháp, làm một trận mưa đá đổ xuống dưới sàn. Toàn bộ lâu đài đổ ầm ầm, và từ cái cửa sổ bị phá huỷ đến chỗ viên đá đỉnh vòm bị vỡ, mặt trước của toà tháp canh bắt đầu sụp xuống, nghiêng nghiêng về phía ngoài. 

“Chạy!” Eragon hét về phía các thành viên Varden, mặc dù những người lính đã bỏ chạy tán loạn đến phía bên kia của cái sân, cố gắng trong tuyệt vọng nhằm thoát khỏi bức tường thành đang sụp đổ. Eragon bước một bước lên phía trước, mọi cơ bắp trên người nó căng cứng khi nó cố tìm kiếm bóng dáng Roran ở một nơi nào đó trong đám lính kia.

Cuối cùng, Eragon cũng nhìn thấy anh, bị kẹt phía sau nhóm lính cuối cùng rời khỏi cánh cổng, anh đang rống lên điên cuồng về phía đám lính, tiếng nói của anh bị nhấn chìm trong cơn hỗn loạn. Rồi bức tường đổ sụp xuống dưới vài mét – cách xa hơn phần còn lại của toà tháp – trút đá loạn xạ xuống Roran, làm anh lảo đảo mất thăng bằng, và khiến anh ngã ngược về phía sau, phía dưới cánh cửa đang đổ xuống. 

Khi Roran đứng thẳng dậy, anh thấy Eragon, và từ cái nhìn đó Eragon cảm thấy được sự sợ hãi, vô vọng, rất nhanh sau đó là sự cam chịu, như thể Roran biết rằng, dù anh có chạy nhanh thế nào đi chăng nữa, anh cũng không thể kịp thời đến được nơi an toàn.

Roran nở một nụ cười nhăn nhúm.

Và bức tường sập xuống.

Không!” Eragon hét lên khi bức tường tháp canh ầm ầm đổ xuống, chôn vùi Roran và năm người khác dưới đống gạch đá cao sáu mét, và phủ một lớp bụi đen ngòm lên sân.

Tiếng hét của Eragon lớn đến nỗi khiến cho giọng cậu vỡ ra và một dòng máu tanh nồng như mùi đồng trào lên trong cuống họng. Eragon hít một hơi, rồi một hơi nữa, ho hắng.

“Vaetna,” Eragon hổn hển nói và vẫy tay. Màn bụi xám dày đặc tản ra mang theo tiếng động như tiếng lụa sột soạt, khiến cho cảnh vật ở giữa sân lại trở nên rõ ràng. Quá lo lắng cho Roran, Eragon không hề để ý tới việc câu thần chú đã lấy đi bao nhiêu sức mạnh từ cậu.

“Không, không, không, không,” Eragon thều thào. Anh ấy không thể chết. Anh ấy không thể, không thể, không thể ... Như thể nếu cứ lặp đi lặp lại như vậy sẽ khiến điều ấy thành sự thật, Eragon cứ tiếp tục lẩm nhẩm cụm từ đó trong đầu. Nhưng cứ với mỗi lần lặp lại, lời thì thầm này như một lời cầu nguyện hơn là một lời tuyên bố hay hy vọng. 

Đằng trước cậu, Arya và các chiến binh Varden khác đứng ho sặc sụa và dùng tay chùi mắt. Nhiều người cúi gập xuống, như thể đang chờ đợi một vụ nổ; còn những người khác thì nhìn chằm chằm vào mặt trước của cái tháp canh đã bị tàn phá. Những viên đá vỡ ra từ toà tháp trút xuống khoảng giữa của sân, làm cảnh vật tối sầm lại. Hai căn phòng rưỡi ở tầng hai tháp canh và một căn phòng ở tầng ba – căn phòng nơi tên pháp sư đã bị kết liễu bằng một cách thức quá tàn nhẫn – lộ ra ngoài. Những căn phòng và đồ đạc bên trong dường như bẩn thỉu và có vẻ tồi tàn hơn dưới ánh nắng mặt trời. Bên trong, nửa tá lính được trang bị với những cái nỏ tiễn đang cố bò lại phía sau khi chỗ đứng bị sụp xuống. Chúng xô đẩy nhau chạy nhanh qua các cánh cửa ở đầu kia của những căn phòng và biến mất trong tháp canh. 

Eragon cố ước tính trọng lượng của một khối đá trong cái đống đá vụn kia; chắc khoảng vài trăm cân. Nếu cậu, Saphira và các tiên tộc cùng hợp tác, chắc chắn rằng họ có thể dùng pháp thuật để di chuyển những tảng đá này, nhưng việc đó sẽ khiến họ kiệt sức và dễ gặp nguy hiểm. Hơn nữa, để làm được điều đó cũng tốn rất nhiều thời gian. Trong chốc lát, Eragon nghĩ tới Glaedr – một con hoàng kim long có thừa sức mạnh để nâng toàn bộ đống đá kia cùng một lúc – nhưng hoàn cảnh thì quá gấp rút và Eldunari của Glaedr phải tốn quá nhiều thời gian mới có thể khôi phục lại sức mạnh. Eragon biết rằng trong bất kỳ trường hợp nào cũng không thể thuyết phục Glaedr nói chuyện chứ đừng nhắc đến việc nhờ cậu đi cứu sống Roran và những chiến binh khác. 

Và rồi Eragon hình dung lại lúc Roran xuất hiện ngay trước khi thân ảnh của anh bị trận mưa đá và bụi khủng khiếp che khuất đi, lúc đó anh đang đứng ngay dưới mái hiên của cổng tháp canh. Chợt giật mình, Eragon nhận ra cậu cần phải làm gì.

“Saphira, giúp họ!” Eragon hét lên khi cậu quẳng khiên đi và nhảy bổ về phía trước.

Ở phía sau, cậu nghe thấy tiếng Arya nói gì đó bằng cổ ngữ – một câu ngắn, hình như là “Giấu nó đi!”. Rồi sau đó cô chạy theo hướng Eragon, lăm lăm thanh kiếm trong tay ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu. 

Khi tới chân đống đá vụn, Eragon nhảy lên cao hết mức có thể. Bằng một chân, cậu hạ xuống mặt nghiêng của một tảng đá rồi lại nhảy lên từ chỗ này sang chỗ khác, như một con dê núi đang nhảy nhót trên vách núi. Cậu ghét phải mạo hiểm động đến các khối đá, nhưng trèo lên đó là cách nhanh nhất để đến nơi cần đến.

Với một cú nhảy cuối cùng, Eragon đã lên được tầng 2, tiếp tục băng ngang qua căn phòng. Cánh cửa trước mặt bị hất tung ra với một lực mạnh tới nỗi làm bay cả chốt cửa và bản lề, và khiến cảnh cửa bay đập vào bức tường hành lang phía dưới, và khiến cho những mảnh gỗ sồi của tấm cửa vỡ tung toé.

Eragon chạy nhanh dọc hành lang. Cậu thậm chí không thể nghe rõ những tiếng bước chân và tiếng hít thở của mình , như thể tai cậu chứa đầy nước.

Cậu chạy chậm lại khi gần cánh cửa mở. Qua đó, cậu nhìn thấy một căn phòng trong đó có 5 người có vũ trang đang chỉ trỏ vào một tấm bản đồ và cãi vã. Chẳng ai trong số chúng phát hiện thấy Eragon.

Eragon tiếp tục chạy.

Cậu tăng nhanh tốc độ ở một khúc ngoặt đến nỗi va phải một tên lính đang đi theo hướng ngược lại. Eragon nổ đom đóm mắt khi trán đập vào rìa khiên của tên lính. Cậu lao dính vào tên lính, hai người quần thảo tới lui dọc theo hành lang như thể hai vũ công say rượu.

Tên lính thốt lên một câu chửi thề khi hắn đang cố lấy lại thăng bằng. “Mày có vấn đề gì vậy hả thằng trời đánh thánh vật này...” hắn nói, và sau đó khi nhìn thấy khuôn mặt của Eragon, đôi mắt hắn mở to ra. “Mày!”

Eragon nắm bàn tay phải lại và đấm thẳng vào phần bụng ngay dưới xương sườn hắn. Cú đấm khiến hắn bay lên, đập thẳng vào trần nhà. “Đúng là tao,” Eragon đáp lời khi tên lính ngã rầm xuống nền nhà, bất động. 

Eragon tiếp tục chạy dọc hành lang. Từ lúc bước vào tháp canh, nhịp tim vốn đã nhanh của cậu dường như còn dồn dập thêm gấp đôi, như thể trái tim cậu như đang muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.

Nó ở đâu nhỉ? Eragon thầm nghĩ, phát cuồng lên khi liếc nhìn qua một cảnh cửa khác mà vẫn chỉ thấy một căn phòng trống không. 

Cuối cùng, tại phía cuối của một lối đi bên cạnh dơ dáy, cậu nhìn thấy một cầu thang uốn lượn. Nhảy năm bậc thang một lúc và không quan tâm tới sự an toàn của bản thân Eragon cứ thế phóng thẳng xuống tầng một, và chỉ dừng lại để đẩy một tên cung thủ đang sững người vì giật mình sang một bên. 

Những bậc thang kết thúc, và cậu bước vào một căn phòng vòm cao mang dáng dấp của nhà thờ ở Dras-Leona. Cậu quay người nhìn quanh và nhanh chóng thu thập ấn tượng: khiên, vũ khí và cờ hiệu đỏ treo trên 4 bức tường; những ô cửa sổ hẹp nằm sát trần nhà; những ngọn đuốc được treo trên những giá đỡ bằng sắt; những lò sưởi trống vắng, những chiếc bàn dài tối màu để dọc hai bên căn phòng; một cái bục ở đầu phòng, tại đó một người đàn ông râu dài, trùm áo choàng đang đứng trước một chiếc ghế tựa. Eragon đang ở trong sảnh chính của toà lâu đài. Phía bên phải, giữa cậu và những cánh cửa dẫn tới lối vào tháp canh, là một đội quân khoảng năm mươi tên lính hoặc nhiều hơn. Sợi chỉ vàng trên quân phục chúng tỏa sáng lấp lánh khi chúng quay người nhìn cậu với vẻ ngạc nhiên.

“Giết hắn!” người đàn ông mặc áo choàng ra lệnh, giọng có vẻ run sợ hơn là kiêu ngạo. “Ai giết được hắn sẽ được một phần ba gia tài của ta! Ta hứa!”

Một nỗi thất vọng tràn trề lại dâng lên trong lòng Eragon lại một lần nữa bị chặn lại. Cậu rút Hoả kiếm khỏi vỏ, giơ cao lên quá đầu và hét lên: “Brisingr!”

Một trận gió thổi tới, ngọn lửa xanh ma mị bao bọc quanh lưỡi kiếm như một cái kén, chạy dọc lên mũi kiếm. Nhiệt lượng phát ra từ ngọn lửa làm ấm bàn tay, cánh tay và một bên mặt Eragon.

Sau đó Eragon hạ mắt nhìn những tên lính. “Tránh ra,” cậu gầm lên.

Những tên lính chần chừ trong thoáng chốc rồi lập tức xoay người bỏ chạy.

Eragon lao về phía trước, không quan tâm tới những kẻ đang hoảng loạn tụt lại phía sau một khoảng bằng chiều dài thanh kiếm. Một kẻ trượt chân và ngã trước mặt nó, Eragon nhảy hẳn qua người tên lính, thậm chí không hề chạm đến những cái tua trang trí trên mũ bảo vệ của hắn.

Những cơn gió tạo ra khi Eragon di chuyển đã kéo dài ngọn lửa trên mũi kiếm về phía sau, trông giống như bờm của một con ngựa đang phi nước đại.

Gập vai lại, Eragon húc tung cánh cửa đôi dẫn tới hành lang chính. Cậu lao qua một khuôn viên dài và rộng lớn, mà trong các góc của căn phòng đứng đầy quân lính – ngoài ra còn có đầy bánh răng, ròng rọc, và những thứ khí cụ khác dùng để nâng hạ các cánh cổng của toà tháp canh – và sau đó chạy hết tốc lực tới khung lưới sắt đang chặn đường tới nơi Roran đã đứng khi bức tường tháp canh sụp đổ.

Cái lưới sắt cong lại khi Eragon nện thẳng vào nó, nhưng như thế là chưa đủ để phá tan những thanh sắt này. 

Cậu lùi lại một bước.

Một lần nữa Eragon lại tập trung năng lượng được cất giữ trong những viên kim cương trên thắt lưng – thắt lưng của Beloth Thông Thái – vào thanh Brisingr, dùng hết toàn bộ nguồn năng lượng dự trữ quý giá trong trong viên đá ở chuôi kiếm để tạo nên một ngọn lửa mạnh kinh người trên thân kiến. Hét lên một tiếng, Eragon đưa tay về phía sau lấy đà và chém thắng kiếm xuống khung lưới sắt.

Những tia lửa đỏ và cam bắn tung toé quanh người, làm thủng găng tay và áo ngoài, làm cho phần da thịt lộ ra của Eragon đau nhói. Một giọt sắt nóng chảy rơi xuống mũi giày, cậu phải lắc mạnh cổ chân để nó rớt xuống. 

Với ba nhát chém một phần của khung lưới sắt rộng đủ cho một người chui lọt đổ xuống. Những đầu bị cắt xuống của cái lưới sắt toả sáng nóng rực, chiếu sáng một khoảng không gian bằng thứ ánh sáng dịu nhé của chúng. 

Eragon để cho ngọn lửa từ thanh Hoả kiếm lụi dần khi cậu bước qua lỗ hổng vừa tạo ra. 

Đầu tiên rẽ trái, rồi rẽ phải, và rồi lại rẽ trái, cậu chạy và thay đổi hướng đi liên tục được thiết kế để làm chậm bước tiến của quân địch trong trường hợp chúng muốn tiến vào tháp canh.

Khi rẽ vào khúc cua cuối cùng, Eragon nhìn thấy đích đến của mình: cái tiền sảnh chất đầy đá vụn. Kể cả với tầm nhìn xa của tiên tộc, cậu chỉ có thể nhìn thấy được những hình dạng lớn nhất trong bóng tối, vì những viên đá rơi xuống đã làm tắt hết đuốc trên tường. Cậu nghe tiếng thấy tiếng thở hổn hển và tiếng vật lộn kì quái, cứ như thể một con quái vật vụng về nào đó đang cố ngoi lên từ đống đá vụn. 

“Naina,” Eragon lên tiếng.

Một đốm sáng xanh xuất hiện chiếu sáng xung quanh. Và đằng kia, phía trước cậu là Roran, người phủ đầy bụi, máu và mồ hôi, răng nhe ra gầm gừ một cách đáng sợ, lúc này đang vật lộn với một tên lính bên cạnh xác chết của hai tên khác.

Tên lính nheo mắt vì bị chói bất ngờ và Roran nhân cơ hội tên lính mất tập trung, vặn và đẩy người hắn xuống dưới đầu gối, và cướp lấy con dao ở thắt lưng hắn và chém xuống ngay dưới hàm tên lính. 

Tên lính giãy lên đá hai nhát rồi sau đó nằm im.

Thở hổn hển, Roran đứng dậy khỏi xác tên lính, máu nhỏ từng giọt từ những ngón tay anh. Anh quay qua nhìn Eragon một cách đờ đẫn pha chút ngạc nhiên.

“Sao bây giờ em mới ...” anh nói, rồi nhắm mắt lại, ngã xuống bất tỉnh nhân sự.

Để bắt kịp Roran trước khi anh ngã xuống sàn, Eragon đành phải ngập ngừng buông thanh Brisingr. Thế rồi, chàng nhanh chóng nới rộng tay ra ôm trọn Roran, cùng lúc với tiếng vang khô khốc của thanh kiếm khi chạm vào đá. 

“Cậu ấy bị thương nặng không?” Arya hỏi.

Thoáng ngạc nhiên khi nhận ra rằng nàng và Blödhgarm đã đứng đấy tự khi nào, Eragon lưỡng lự trả lời: “Tôi không nghĩ vậy.” 

Chàng vỗ vào má Roran liên hồi để làm phai những vết bẩn trên mặt anh đi. Trong ánh xanh nhàn nhạt từ câu thần chú của Eragon, Roran lộ rõ vẻ hốc hác, đôi mắt của anh thâm quầng, còn đôi môi thì mang một mầu tím đậm, như thể chúng vừa được nhúng vào nước quả mọng vậy. 

“Nào nào, dậy đi.”

Một vài giây sau, mí mắt của Roran khẽ giật giật; anh mở mắt ra và hoang mang nhìn Eragon. Cảm giác nhẹ nhõm trào dâng trong lòng Eragon, mãnh liệt đến nỗi chàng như có thể nếm được chúng. “Anh đã ngất đi được một lúc rồi,” chàng giải thích.

“À.”

Anh ấy còn sống! Eragon reo lên với Saphira, mạo hiểm tiếp xúc với cô nàng trong thoáng chốc.

Vẻ hân hoan của cô nàng cũng hiện lên rõ rệt. Tốt. Em sẽ nán lại đây và giúp các tiên khác dịch chuyển mấy tảng đá ra xa khỏi tòa kiến trúc. Nếu anh cần thì cứ thét lớn lên, em sẽ tìm cách tiếp cận.

Bộ giáp của Roran vang lên loảng xoảng khi Eragon giúp anh đứng dậy. “Những người khác thì sao?” Eragon hỏi, và ra dấu hướng về đống đổ nát.

Roran lặng lẽ lắc đầu.

“Anh chắc chứ?”

“Không một ai có thể sống sót dưới đó. Sở dĩ anh có thể trốn thoát là vì … là vì anh được cái mái hiên che bớt một phần.”

“Còn anh? Anh có sao không?” Eragon tiếp tục hỏi.

“Gì cơ?” Roran nhíu mày, có vẻ hơi tư lự, như thể dòng suy nghĩ còn chưa xuất hiện trong đầu anh. “Anh ổn … Có thể cổ tay đã đi tong rồi. Cũng không tệ lắm.”

Eragon liếc mắt đầy ẩn ý với Blödhgarm. Trên mặt gã tiên này phớt qua vẻ không hài lòng, nhưng gã cũng đến gần Roran và nhẹ giọng nói, “Nếu tôi được phép …” Gã vươn tay về phía cánh tay bị thương của Roran.

Trong khi Blödhgarm chữa trị cho Roran, Eragon nhặt thanh Brisingr lên rồi đứng phòng thủ cùng Arya tại lối vào, phòng trường hợp có tay lính cứng đầu nào đó thử tấn công.

“Xong cả rồi đấy.” Blödhgarm nói rồi quay đi. Roran thì đứng đó xoay cổ tay một vòng để thử các khớp nối.

Roran hài lòng rồi hạ tay xuống, cảm ơn Blödhgarm và lục lọi trong đống gạch vụn cho đến khi tìm được chiếc rìu chiến của mình. Anh sửa sang lại bộ giáp trên người và nhìn về hướng ra vào. 

“Anh suýt khử được lãnh chúa Bradbum,” anh cố ra vẻ trầm ổn. “Anh nghĩ lão đã giữ chức vị này quá lâu rồi, và cần phải gác lại trách nhiệm thôi. Cô đồng ý không, Arya?”

“Tôi đồng ý,” nàng trả lời.

“Tốt lắm, thế ta hãy tìm cho ra tên già bụng phệ ấy; anh sẽ tặng cho lão vài nhát búa để tưởng niệm những người đã hy sinh hôm nay.”

“Lão đã ở trong đại sảnh vài phút trước,” Eragon nói, “nhưng em không nghĩ lão sẽ ở đấy để chờ ta đâu.”

Roran gật đầu. “Thế ta bắt đầu cuộc săn nào.” Dứt lời, anh lao về phía trước. 

Eragon tay nắm chặt thanh Brisingr trong tư thế sẵn sàng, hủy chú thắp sáng và vội nối gót ông anh họ. Arya và Blödhgarm theo sát chàng hết mức mà cái hành lang ngoằn nghoèo này có thể cho phép. 

Hành lang dẫn tới căn buồng ngủ đã bị bỏ hoang, cũng tương tự như phần đại sảnh trong lâu đài, nơi này từng có hàng tá binh lính và quan lại nhan nhản khắp chốn, nay chỉ còn sót lại mỗi cái mũ sắt lăn lóc trên sàn. 

Eragon và Roran lướt qua bệ cẩm thạch, Eragon phải giảm tốc độ lại để Roran có thể bắt kịp. Họ đá bay cánh cửa phía bên trái và phóng thẳng lên cầu thang. 

Tại mỗi tầng, họ dừng lại một lúc để Blödhgarm có thể dùng tinh thần lực truy tìm tung tích của Lãnh chúa Bradburn cùng tùy tùng, nhưng không tìm thấy gì cả. 

Khi họ lên đến tầng thứ ba, Eragon chợt bắt được tiếng chân chạy loạn và thấy một chùm thương thình lình thọc mạnh ra từ phía cổng vòm, vào thẳng Roran. Những mũi thương xé toạt gò má và bắp đùi phải, cắt sượt qua đầu gối đầy những máu và máu của anh. Roran gầm vang lên như một con dã thú bị thương và dùng khiên húc thẳng vào đống thương ấy, cố dùng sức càn lên những bậc cuối cùng của cầu thang. Tiếng người thét lên liên hồi. 

Phía sau anh, Eragon chuyển thanh Brisingr sang tay nghịch, đi vòng qua người anh họ, chộp lấy một cán thương và giật mạnh nó ra khỏi tay của tên đang giữ. Chàng xoay đầu thương lại, ném mạnh nó vào giữa đám lính lúc nhúc đứng tại cổng vòm. Một trong số chúng gào lên, và một lỗ hổng hiện ra giữa bức tường người ấy. Eragon tiếp tục lặp lại quá trình ấy cho đến khi số lượng chốt hôi cản đường giảm xuống rõ rệt, và Roran từng bước một đẩy lui chúng về phía sau. 

Ngay khi Roran thành công dọn sạch cầu thang, mười hai tên lính còn lại liền tản ra theo chiều ngang của căn phòng có nhiều bao lơn, mỗi tên đều tìm chỗ thuận lợi để có thể vung vũ khí mà không bị cản trở. Roran lại gầm lên và bổ vào tên gần nhất. Anh gạt phăng thanh kiếm của tên lính đi, lui về sau thủ thế và phang một cú như trời giáng vào cái mũ của hắn, tiếng vang lớn như anh vừa đánh vào một cái bình sắt vậy.

Eragon lao ngang qua căn phòng và chặn hai tên lính đang đứng gần nhau lại. Chàng húc ngã chúng và phân thây hai tên chỉ với một cú chém bằng Brinsingr. Một chiếc rìu xoay tròn bay thẳng đến chàng, Eragon tránh được và đẩy văng một tên lính khỏi bao lơn trước khi hai tên khác kịp thời dùng lao đâm xuyên bụng chàng.

Còn Arya và Blödhgarm lại yên lặng di chuyển giữa đám đông một cách chết người. Vẻ uyển chuyển cố hữu của giống tiên khiến cảnh tượng đâm chém hiện tại trông như một vũ đài hơn là một tràng thảm sát. 

Trong tiếng kim loại va nhau, tiếng xương gẫy lìa và tứ chi bay tứ tung, bốn người họ tiếp tục tiêu diệt số lính còn lại. Như thường lệ, trận chiến khiến Eragon phấn khởi hơn, cảm giác cứ như là bị tạt một xô nước lạnh vào người, và rồi những gì còn sót lại là sự thanh tỉnh không gì so sánh được.

Roran quỵ xuống và chống tay lên đầu gối, thở lấy thở để như vừa hoàn tất một cuộc đua.

“Được chứ?” Eragon hỏi, đồng thời đưa tay chạm vào những vết cắt trên mặt và đùi của Roran.

Roran thử dồn sức vào các vết thương ở chân một vài lần. “Anh cố được. Tìm lão Bradburn trước đã.”

Eragon dẫn đầu nhóm khi họ trở ra cầu thang và tiếp tục tiến lên tầng trên. Cuối cùng, sau năm phút tìm kiếm, họ phát hiện Lãnh chúa Bradbrum đang cố thủ tại tầng cao nhất trong một tòa pháo đài xa tít ở hướng Đông. Với một tràng thần chú, Eragon, Arya và Blödhgarm đã phá giải cánh cửa và toàn bộ các các món đồ trang trí đàng sau bức tường kia. Khi họ tiến vào trong, lũ tùy tùng cùng lính hộ vệ đã đứng chắn đông nghịt trước mặt lão Bradburn, vài tên trong bọn chúng đã bắt đầu run lẩy bẩy. Eragon khẽ thở phào nhẹ nhõm vì chỉ phải giết ba tên lính trước khi số còn lại buông vũ khí và khiên xuống đầu hàng. 

Arya ung dung tiến đến trước mặt Lãnh chúa Bradbum, người vẫn một mực im lặng cho đến giờ, và nói, “Giờ thì, liệu ngài có ra lệnh cho binh lính của ngài giải giáp không? Tuy chỉ còn một số ít nhưng ngài vẫn có thể cứu mạng họ.”

“Ta sẽ không chấp nhận ngay cả khi có thể.” Giọng Bradbrum đầy sự căm thù cùng nhạo báng khiến Eragon suýt cho lão ăn một kiếm. “Ngươi sẽ không hưởng được gì từ ta, giống tiên. Ta sẽ không trao người của ta cho thứ hạ đẳng bẩn thỉu bất thường như ngươi. Cái chết sẽ là lựa chọn sáng suốt nhất. Và ngươi đừng nghĩ rằng ta sẽ nghe theo những lời mật ngọt kia. Ta thừa biết chúng bây đã liên kết với lũ Urgal, và ta thà tin vào con rắn kia hơn là thứ ăn nằm cùng bọn quái vật.”

Arya gật đầu và đặt tay lên mặt của Bradburn. Nàng khép mắt lại, và trong khoảng thời gian ấy, nàng và Bradbum trở nên bất động. Eragon liền xuất thần và cảm nhận được trận đấu giữa hai ý chí của họ khi Arya cố xuyên qua bức tường phòng thủ của Bradbum và xâm nhập vào tâm trí lão. Một phút sau, nàng thành công điều khiển lão, và rồi bắt đầu tra xét ký ức cho đến khi tìm được bản chất của lão.

Nàng thốt lên cổ ngữ và hạ một chú ngữ phức tạp để phá vỡ những bản chất ấy và khiến Bradbum ngủ say. Sau khi hoàn tất, đôi mắt của lão dần đóng lại và, với một tiếng thở hắt ra, lão ngã vào vòng tay của nàng.

“Ả đã giết ngài ấy!” Ai đó thét lên, và những tiếng nhốn nháo đầy sợ hãi bắt đầu lan tỏa khắp nhóm lính.

Ngay khi Eragon định trấn an bọn họ, chàng bỗng nghe tiếng kèn báo hiệu của quân Varden vang lên từ phía xa xa. Một lúc sau, tiếng kèn lại vang lên, gần hơn nhiều, vang lên lần nữa, và chàng có thể thề chắc rằng những tiếng động mờ nhạt ấy không phải là tiếng vui mừng chiến thắng vang vọng từ phần sân dưới kia.

Chàng bối rồi nhìn Arya. Rồi họ xoay người lại nhìn qua cửa sổ trên bức tường của căn phòng.

Tại hướng Tây và Nam là Belatona. Đó là một thành phố lớn và thịnh vượng, thành thị sầm uất nhất của Đế quốc. Gần lâu đài là những tòa kiến trúc được dựng lên bằng đá, với mái dốc cùng các cửa sổ nhô ra ngoài, trong khi xa hơn nữa là những dãy nhà có chất liệu từ gỗ và trát vữa. Nhiều ngôi nhà đang được cất dở bốc cháy ngùn ngụt vì lửa chiến tranh. Khói đen tỏa ra dày đặc trong không khí đủ để khiến mắt người ta cay xè và khan giọng.

Ở hướng Tây Nam, khoảng một dặm cách từ thành phố là trại dã chiến của quân Varden: những dãy lều xám được bện từ lông nối liền nhau được bao quanh bởi các dãy hào, một số nhà lều lớn cùng ngọn cờ hiệu chót vót trên đỉnh, và nối dài trên đất liền là hàng trăm người bị thương. Lều cứu thương vốn đã quá sức chứa từ lâu rồi.

Nhìn theo hướng Bắc, vượt qua các cảng và nhà kho là hồ Leona, một nơi rộng mênh mông và chứa đầy nước, thường lăn tăn những dãy sóng bạc.

Trên bầu trời là bức tường mây đen kịt từ phía Tây đang bao trùm cả thành phố, sẵn sàng bao bọc nó trong làn mưa nặng hạt bất cứ khi nào. Những ánh sáng xanh lóe lên và tắt lịm đây đó trong tâm bão, và tiếng trời gầm nổi lên như một con hung thú đang lồng lộn.

Nhưng Eragon lại không thể tìm thấy nới phát tiếng động thu hút chàng.

Chàng và Arya chạy vội đến cửa sổ hướng thẳng về phía hoa viên. Saphia, con người và các tiên vừa hoàn tất việc dọn dẹp những tảng đá cản đường. Eragon huýt sáo, và khi Saphira nhìn lên, chàng bắt đầu vẫy tay ra dấu. Cặp hàm dài của cô nàng nở một nụ cười đầy răng lởm chởm, và khịt một làn khói về phía chàng. 

“Này! Có gì mới không?” Eragon hỏi lớn.

Một binh sĩ Varden đứng gần vách lâu đài giơ tay lên và chỉ về hướng Đông. “Hỡi Khắc tinh của Tà Thần! Hãy nhìn đi! Người mèo đang đến! Người mèo đang đến!”

Một cơn ớn lạnh bỗng chạy dọc sống lưng của Eragon. Chàng nhìn theo hướng chỉ của người lính và lần này chàng có thể thấy những bóng đen nhỏ đang tiến tới gần trên mảnh đất cách đây vài dặm, từ bờ bên kia của sông Jiet. Một số chạy bằng bốn chân và một số khác chỉ dùng hai chân, nhưng chúng ở quá xa để có thể xác định đó là người mèo.

“Có thể nào chăng?” Arya hỏi, ngỡ ngàng.

“Tôi không biết … Nhưng bất kể chúng là gì, ta sẽ được biết sớm thôi.”

Eragon đứng trên bục ở sảnh chính của tháp canh, ngay phía bên phải ngai vàng của Lãnh chúa Bradburn, tay trái cậu đặt ở núm tròn phía cuối chuôi thanh kiếm Brisingr vốn đã được bọc lại. Ở phía bên kia ngai vàng, là Jörmundur – tổng chỉ huy lão luyện của quân Varden – đang kẹp cái mũ giáp ở khuỷu tay. Mái tóc màu nâu của ông được bện ra sau, phần tóc mai đã điểm vài sợi bạc. Trên khuôn mặt khắc khổ hiện ra nét lãnh đạm và cẩn trọng của một người có rất nhiều trải nghiệm trong việc chờ đợi người khác. Eragon để ý thấy một đường máu nhỏ màu đỏ chạy dọc theo mặt dưới chiếc bao cổ tay bên phải của Jörmundur, nhưng Jörmundur không hề để ý đến nó.

Đang ngồi giữa là thủ lĩnh của họ, Nasuada, nàng thật lộng lẫy trong bộ váy màu vàng và xanh vừa mới thay chỉ ít phút trước đó. Nàng đã phải cởi bộ chiến y ra để thay vào một loại y phục khác cho phù hợp với phong thái của một nhà lãnh đạo. Dải băng đang quấn quanh bàn tay trái cho thấy nàng cũng đã bị thương khi chiến đấu,

Nasuada nói thì thầm chỉ đủ để cho Eragon và Jörmundur nghe thấy: “Nếu chúng ta có thể được họ trợ giúp...”

“Nhưng bọn họ sẽ muốn được báo đáp gì đây chứ?” Jörmundur hỏi. “Ngân sách của chúng ta sắp cạn, còn tương lai thì mù mịt.”

“Có thể họ không muốn gì hơn ở chúng ta ngoài cơ hội chống lại Galbatorix.” Nasuada nói mà gần như không hé môi. Rồi nàng dừng lại. “Nếu không thì chúng ta sẽ phải tìm những thứ khác ngoài vàng để thuyết phục họ gia nhập hàng ngũ chúng ta.”

“Tiểu thư có thể cho họ vài thùng mỡ(1).” Eragon nói, khiến Jörmundur cười phá lên và Nasuada cũng khẽ cười.

Cuộc trò chuyện thì thầm của họ kết thúc khi ba tiếng kèn trumpet vang lên từ bên ngoài sảnh chính. Một tiểu đồng tóc màu hoe mặc áo choàng dài có khâu phù hiệu của Varden – một con rồng trắng cầm một bông bồng bên trên một thanh kiếm đang chỉ xuống phía dưới một cánh đồng màu tía – bước những bước đều qua cánh cửa mở phía cuối của sảnh, gõ xuống sàn nhà với cái gậy nghi lễ của cậu. Bằng một giọng nói nhỏ nhẹ và trong trẻo, cậu thông báo: “Hoàng thân cao quý, Grimrr Halfpaw, Vua của ma mèo, Chúa tể của Lãnh địa Cô độc, Kẻ thống trị màn đêm, và Kẻ cô độc xin cầu kiến.”

Một danh hiệu thật kì quái: Kẻ cô độc, Eragon nói nhận xét của cậu với Saphira.

Nhưng cũng ổn đấy chứ, em nghĩ thế, cô nàng trả lời. Cậu có thể cảm nhận được sự thích thú của cô nàng, ngay cả khi cậu không nhìn thấy vì cô ả đang nằm cuộn lại một chỗ trong toà tháp canh. 

Tiểu đồng bước sang một bên và Grimrr Halfpaw - trong hình dạng một con người - sải chân bước qua cánh cửa, ngay sát phía sau là bốn ma mèo đang bước đi nhẹ nhàng với những cái chân to và bờm xờm. Bốn ma mèo trông tương tự như Solembum, con ma mèo mà Eragon đã từng được thấy trước đó trong hình dáng động vật: vai to lớn và chân dài, một lớp lông màu đen ngắn trên cổ và vai, tai đầy lông, đuôi có đầu màu đen, phe phẩy một cách duyên dáng từ bên này sang bên khác.

Tuy nhiên, Grimrr Halfpaw lại trông không giống bất cứ người hay loài nào Eragon từng thấy. Cao khoảng 1m2, ông ta cao bằng một người lùn, nhưng không ai có thể nhầm lẫn ông ta với người lùn hay thậm chí một con người. Ông ta có một cái cằm nhọn, xương gò má rộng, và, bên dưới hàng lông mày dựng ngược là một cặp mắt xếch màu lục và hàng mi cong. Mái tóc đen bù xù che trước trán, trong khi ở hai bên và phía đằng sau, những sợi tóc bóng mượt thả dài xuống tận vai, khá giống với những cái bờm của mấy ma mèo tùy tùng. 

Eragon không thể đoán nổi tuổi của vị vua mèo này.

Thứ đồ duy nhất mà Grimrr đang mặc là một cái áo không tay làm bằng da thô và một cái khố làm bằng da thỏ. Xương sọ của cả tá loài vật – chim, chuột và những con thú nhỏ khác – được treo đầy trên mặt trước áo, và chúng va vào nhau mỗi khi ông ta chuyển động. Một thanh chuỳ thủ đã được bọc lại thò ra từ một góc thắt lưng của cái khổ. Vô số những vết sẹo, mảnh và trắng, làm nổi bật lên làn da màu nâu hạt dẻ của ông, trông chúng như những vết xước trên mặt bàn gỗ đã qua nhiều lần sử dụng. Đúng như tên gọi(2), ông ta thiếu mất hai ngón tay trái, trông như thể chúng đã bị cắn đứt. 

Dù diện mạo có nhiều nét thanh tú, nhưng có thể khẳng định chắc chắn rằng Grimrr là giống đực khi nhìn vào những khối cơ bắp rắn chắc, gân guốc ở ngực và cánh tay, chiếc hông thon và những cái sải chân mạnh mẽ khi ông ta thong dong đi dọc căn sảnh, tiến về phía Nasuada.

Dường như chẳng ai trong đám ma mèo nhận thấy ánh mắt của những người đang xếp thành hàng hai bên đường đi của chúng cho đến tận khi Grimrr đi ngang qua bà lang Angela, đang đứng cạnh Roran và tay đang đan một chiếc tất sọc bằng sáu cái kim. 

Đôi mắt Grimrr nhíu lại khi nhìn thấy bà lang, và tóc ông ta dựng ngược lên giống như như bốn kẻ tùy tùng. Ông ta nhếch môi lên, để lộ ra cặp răng nanh trắng ởn và sắc nhọn. Và điều thật sự làm Eragon ngạc nhiên là ông ta lại rít lên giận dữ.

Angela ngước lên rời khỏi cái tất bà đang đan, nói một cách uể oải và xấc xược: “Chíp Chíp”. 

Trong một thoáng Eragon tưởng lão ma mèo sẽ tấn công bà. Đám lông trên cổ và mặt Grimrr dựng đứng lên, lỗ mũi ông ta phập phồng và ông ta gầm gừ với bà mà không phát ra tiếng động. Những con ma mèo khác cúi thấp người, tai ép sát vào đầu, chuẩn bị nhảy xổ vào bà. 

Eragon nghe thấy những tiếng lưỡi kiếm được rút ra khỏi vỏ vang vọng khắp sảnh đường. 

Grimrr rít lên một lần nữa rồi quay người đi tiếp. Khi con ma mèo cuối cùng đi lướt qua Angela, nó giơ móng vuốt lên len lén vờn lấy sợi chỉ buông ra từ những cái kim đan của bà Angela, giống hệt cái cách mà một chú mèo nhà ham chơi vẫn thường làm.

Cả Saphira và Eragon đều bối rối. Chíp chíp là cái gì? Cô nàng hỏi.

Cậu nhún vai, quên mất là cô nàng không thể nhìn thấy cậu. Ai mà biết Angela đã làm hay nói cái gì cơ chứ?

Cuối cùng, Grimrr đến trước mặt Nasuada. Ông ta hơi cúi đầu, thể hiện sự tự tin vô cùng, thậm chí có phần ngạo mạn – một tính cách khá đặc trưng chỉ dành cho loài mèo, loài rồng và một vài phụ nữ thân phận cao quý.

“Tiểu thư Nasuada,” ông ta nói. Giọng nói của ông ta trầm thấp một cách đáng kinh ngạc, nghe na ná như tiếng gầm khẽ của một con mèo hoang hơn là giọng nói trong trẻo của một chú bé – hình hài mà hiện giờ ông ta đang có. 

Nasuada cũng cúi đầu đáp lễ. “Vua Halfpaw. Varden chào đón ngài và những tộc nhân của ngài. Tôi phải xin lỗi ngài vì sự vắng mặt của đồng minh của chúng ta, Vua Orrin của Surda; mặc dù rất muốn nhưng ngài ấy không thể có mặt tại đây để tiếp đãi ngài được, bởi lẽ ngài ấy và binh lính của mình hiện giờ đang bận bảo vệ sườn phía tây quân ta khỏi sự tấn công của quân đội Galbatorix.”

“Tất nhiên rồi, thưa tiểu thư Nasuada,” Grimrr nói. Những chiếc răng sắc nhọn lóe lên khi ông ta lên tiếng. “Chúng ta không bao giờ được đưa lưng về phía kẻ thù.” 

“Dù vậy...và vì nguyên nhân gì mà chúng tôi lại hân hạnh được đón tiếp cuộc viếng thăm đột ngột này của Ngài vậy, thưa Đức vua? Theo như tôi được biết, ma mèo thường được biết đến bởi sự bí ẩn và đơn độc, và bởi qua bao nhiêu năm ma mèo luôn đứng ngoài những cuộc xung đột, đặc biệt là kể từ sự suy tàn của các Kỵ sĩ. Thậm chí, trong suốt thế kỉ qua, có người còn nói rằng giống loài của Ngài đã trở thành một câu chuyện thần thoại hơn là một sự thực. Vậy thì, tôi xin mạn phép hỏi ngài vì lí do gì mà Ngài lại chọn thời điểm này để xuất hiện?”

Grimrr nâng cánh tay phải lên và chỉ vào Eragon bằng một ngón tay cong queo với cái móng tay trông như móng vuốt của loài mèo.

“Vì cậu ấy,” ma mèo gầm lên. “Một thợ săn sẽ không tấn công một thợ săn khác cho đến khi kẻ đó để lộ hết những điểm yếu của hắn, và giờ đây Galbatorix đã để lộ điểm yếu của hắn: hắn sẽ không thể giết Eragon Khắc tinh của Tà thần hay Saphira Bjartskular. Chúng tôi đã chờ đợi cơ hội này rất quá lâu rồi và giờ là lúc nắm chắc lấy điều này. Galbatorix rồi sẽ học được cách sợ hãi và căm ghét chúng tôi, và đến lúc cuối cùng, hắn sẽ nhận ra rằng hắn đã sai lầm nhường nào và biết rằng chúng tôi là chính là những người phá huỷ cuộc đời hẳn. Và hương vị của sự trả thù mới ngọt ngào làm sao, ngọt ngào như miếng thịt lợn đực non mềm. “

“Thời đại của chúng ta đến rồi, hỡi loài người, tất cả các chủng tộc, gồm cả Ma Mèo, đã đến lúc chúng ta sát cánh cùng nhau để chứng tỏ cho Galbatorix thấy hắn không thể tiêu diệt ý chí chiến đấu của chúng ta. Bọn ta tự nguyện gia nhập liên minh của quý vị, thưa Tiểu thư Nasuada, và sẽ giúp quý vị đạt được ước nguyện này.”

Eragon không biết Nasuada đang nghĩ gì nhưng cậu và Saphira bị ấn tượng mạnh với bài phát biểu của lão ma mèo.

Sau một khoảng im lặng ngắn ngủi, Nasuada nói, “Những lời Ngài đã nói quả thật nghe rất lọt tai, thưa Đức vua. Nhưng trước khi tôi đồng ý với đề nghị đó, có một câu trả lời mà tôi mong muốn có được từ ngài, nếu như ngài sẵn lòng”.

Bằng một sự lãnh đạm khó đổi, Grimmr vẫy tay ra hiệu. “Ta đồng ý.”

“Tộc ma mèo của Ngài quá khó hiểu và bí ẩn. Có điều tôi phải thú nhận rằng, cho tới tận ngày hôm nay, tôi chưa từng được nghe nhắc tới Đức ngài. Sự thực là tôi thậm chí còn không biết rằng tộc của ngài có một vị vua thống trị”.

“Ta là một vị vua không giống như vua của các người,” Grimrr nói. “Ma mèo vốn thích sống cô độc, nhưng kể cả vậy thì chúng ta cũng cần phải chọn ra một vị thủ lĩnh khi tham gia chiến tranh.”

“Tôi đã hiểu. Vậy, Ngài có đại diện cho toàn bộ tộc của Ngài, hay chỉ cho những người đi cùng ngài?”

Ngực Grimrr căng ra, và bộ mặt của lão thậm chí trông còn tự mãn hơn như thế, nếu có thể!

“Ta đại diện cho toàn bộ mèo ma, thưa Tiểu thư Nasuada,” ông ta gầm gừ nho nhỏ. “Tất cả những mèo ma khoẻ mạnh trên đất Alagaësia này đã đến đây gia nhập vòng chiến, ngoại trừ những bé mèo còn đang bú sữa. Mặc dù số lượng không nhiều, nhưng không có kẻ nào so sánh được với sự đáng sợ của chúng ta trên chiến trường. Và ta cũng có thể ra lệnh cho những ma mèo Nhất dạng, dù ta không đại diện cho chúng, vì chúng chỉ tầm thường như lũ súc vật khác. Tuy nhiên, chúng vẫn sẽ làm theo những gì mà chúng ta yêu cầu.” 

“Nhất dạng?” Nasuada thắc mắc.

“Những kẻ mà được biết đến như những con mèo. Những kẻ không thể biến đổi hình dạng như chúng ta.”

“Và Ngài có được sự trung thành của chúng?”

“Đúng. Chúng ngưỡng mộ chúng ta... một điều cũng tự nhiên thôi .”

Nếu những điều ông ta nói là sự thật, Eragon nói với Saphira, thì vai trò của đám mèo ma này sẽ trở nên vô cùng lớn đó. 

Rồi Nasuada nói. “Vậy để đổi lại sự giúp đỡ từ phía Ngài, Ngài mong muốn điều gì từ phía chúng tôi vậy, thưa Vua Halfpaw?” Cô liếc nhìn Eragon cười, rồi nói tiếp, “Chúng tôi có thể cho các ngài bao nhiêu mỡ cũng được, nhưng nếu yêu cầu của ngài hơn thế thì xin thứ lỗi vì tài nguyên của chúng tôi có hạn. Nếu các chiến binh của ngài mong muốn được trả công, thì tôi sợ là họ sẽ chỉ thất vọng thôi.”

“Mỡ chỉ dành cho mèo con và vàng thì chẳng là gì đối với chúng tôi,” Grimrr nói. Khi ông ta nói, ông ta giơ tay phải lên và mắt thì lim dim ngắm nhìn bộ vuốt. “Điều kiện của chúng ta chỉ là như sau: Với những ai chưa có vũ khí, thì chỉ cần được trang bị một chuỳ thủ để chiến đấu. Mỗi người trong chúng ta phải được trang bị hai bộ giáp vừa vặn, một bộ cho lúc chúng ta đứng bằng hai chân(3) và một bộ cho lúc chúng ta đứng bằng bốn chân(4). Ngoài những thứ đó ra thì chúng ta không cần gì cả – không lều trại, không chăn mền, không đĩa chén, không thìa muỗng. Hàng ngày, mỗi người chúng ta phải được ăn một con vịt, hoặc gà gô, hoặc gà hoặc một loại chim nhỏ, và cứ hai ngày thì chúng ta phải được ăn một bát gan tươi sống. Thậm chí nếu chúng ta không chọn thì những thức ăn đấy vẫn phải được cung cấp. Ngoài ra, nếu như các người chiến thắng cuộc chiến này, thì dù ai trở thành vua hoặc nữ hoàng kế tiếp – và cả những người kế vị tiếp sau đó – phải cũng phải đặt một chiếc đệm bông cạnh ngai vàng, và để một tộc nhân trong số chúng ta ngồi tại đó nhằm mục đích tôn vinh. Và đó là tất cả những gì chúng ta yêu cầu”.

“Ngài mặc cả cứ như một nhà lập pháp của tộc người lùn vậy” Nasuada nói bằng giọng khô khốc. Cô nghiêng người về phía Jörmundur, và Eragon nghe thấy tiếng cô thì thầm, “Chúng ta có đủ gan để nuôi họ không?”

“Thần nghĩ là đủ,” Jörmundur trả lời cũng bằng một giọng khô khan. “Nhưng điều đó còn phụ thuộc vào kích cỡ của bát.”

Nasuada ngồi thẳng lưng. “Hai bộ giáp là quá nhiều, thưa Đức vua Halfpaw. Các chiến binh của Ngài phải tự quyết dịnh xem họ muốn chiến đấu trong hình dạng loài mèo hay hình dạng con người và phải tuân thủ theo quyết định đó. Tôi không thể đáp ứng cho họ cả hai bộ giáp”

Nếu mà Grimmr có đuôi, Eragon đoán chắc rằng lão sẽ phe phẩy liên tục. Hầu như không động đậy, lão mèo trả lời “Rất tốt, thưa Tiểu thư Nasuada.”

“Còn một điều nữa. Galbatorix đã cài gián điệp và sát thủ khắp mọi nơi. Vì thế, như một điều kiện để gia nhập Varden, các người phải chấp nhận cho một pháp sư của chúng tôi kiểm tra tư tưởng, có như vậy chúng tôi mới đảm bảo được rằng Galbatorix không kiểm soát các ngài.”

Grimrr khụt khịt. “Nếu mà không làm vậy thì Người quá xuẩn ngốc rồi. Nếu có ai đủ cam đảm để đọc tư tưởng của chúng tôi thì cứ kệ họ. Nhưng không phải bà ta” – và ông ta chỉ vào Angela. “Không bao giờ là bà ta.”

Nasuada chần chừ, và Eragon có thể thấy cô muốn hỏi lí do nhưng cô đã tự kìm nén lại được. “Cũng được. Tôi sẽ gửi các pháp sư tới ngay lập tức và chúng ta sẽ giải quyết vấn đề này một cách nhanh gọn. Tuỳ thuộc vào điều họ tìm thấy – và tôi đảm bảo là chắc chắn sẽ không có điều gì không may xảy ra –tôi rất vinh dự là người đã thúc đẩy quan hệ đồng minh giữa tộc mèo ma của Ngài và Varden, thưa Đức Vua Halfpaw”.

Sau lời cô nói, tất cả mọi người trong đại sảnh vỡ oà vì sung sướng và họ bắt đầu vỗ tay, bao gồm cả Angela. Ngay cả các vị tiên cũng tỏ ý vui mừng.

Tuy nhiên, đám ma mèo lại chẳng có phản ứng gì, ngoại trừ việc cố ép tai lại vì tiếng ồn làm chúng khó chịu.

(1) Eragon chơi chữ. "Cream" còn có nghĩa là tinh túy, phần tốt nhất. Câu trên có thể hiểu theo nghĩa khác là dành cho ma mèo những ưu đãi tốt nhất.

(2) Halfpaw: Nửa bộ móng vuốt.

(3) và (4): Đây là hai kiểu giáp phù hợp với hai dạng hình thể biến hóa của ma mèo - dạng đ“Galbatorix là một kẻ điên nên không thể nói trước được gì, nhưng hắn cũng có những sơ hở trong cách suy luận mà người thường không nghĩ đến. Nếu con có thể tìm ra chúng, Eragon, thì có thể con và Saphira sẽ đánh bại hắn.”

Brom hạ cái tẩu xuống, mặt ông lộ vẻ từ tốn. ”Ta mong là con thành công. Mơ ước lớn nhất của ta, Eragon à, là được thấy con và Saphira sống hạnh phúc bền lâu, không chịu sự đe dọa từ Galbatorix và Đế quốc nữa. Ước gì ta có thể che chở con trước những hiểm nguy đang rình rập kia, nhưng hỡi ơi, điều ấy hoàn toàn vượt quá khả năng của ta. Tất cả những gì ta có thể làm là khuyên nhủ và dạy dỗ con khi ta còn đây … Con trai ta. Bất kể chuyện gì sẽ xảy ra, hãy nhớ rằng ta luôn yêu con, và mẹ con cũng thế. Chúc những vì sao sẽ luôn soi sáng cho con, Eragon Bromsson." 

Eragon mở mắt ra khi ký ức ấy nhòa đi. Bên trên cậu là mái lều bị võng xuống, dãn ra như miếng da khô bị thấm nước*, sau khi được gột rửa bằng trận bão vừa qua. Một giọt nước từ khe hở xuống đùi phải, thấm xuyên qua lớp quần khiến làn da cậu trở nên lạnh ngắt. Cậu biết rằng cậu cần phải ra ngoài thắt chặt lại dây buộc lều, nhưng lại lưỡng lự khi phải rời giường.

Brom chưa từng đề cập với em về Murtagh? Ông chưa từng kể với em rằng Murtagh và anh là anh em cùng mẹ khác cha? 

Saphia, đang co mình bên ngoài lều, nói, Dù anh có hỏi lại thì câu trả lời của em vẫn không thay đổi đâu

Vì sao thế nhỉ? Vì sao? Ông chắc chắn biết về Murtagh. Ông không thể nào không biết được.

Saphira chậm rãi hồi đáp, Nguyên do vì sao thì chỉ có Brom mới biết được, nhưng nếu em phải đoán, thì ắt hẳn ông từng nghĩ việc nói với anh rằng ông thương yêu anh đến nhường nào là trên hết, và cho anh những lời khuyên càng nhiều càng tốt, hơn là chừa chút thời gian còn lại để nói về Murtagh.

Ông đã có thể cảnh báo cho anh! Chỉ cần một vài từ thôi là đủ rồi. 

Em không thể nói được điều gì đã khiến ông ấy làm vậy, anh Eragon à. Anh phải chấp nhận rằng sẽ có những câu hỏi về Brom mà anh không bao giờ lý giải được. Cứ tin vào tình thương của ông dành cho anh, và đừng để những điều khác quấy rầy anh.

Eragon gục mặt xuống và nhìn chằm chằm vào hai ngón tay cái. Cậu đặt chúng cạnh nhau để có thể so sánh dễ hơn. Ngón bên trái có nhiều nếp nhăn tại đốt thứ hai hơn ngón bên phải, trong khi ngón bên phải có một vết sẹo nhỏ và sần sùi mà cậu không tài nào nhớ ra đã có nó từ khi nào; mặc dù nó chỉ có thể xuất hiện vào khoảng thời gian tại buổi Huyết Lễ Agaetí Blödhren.

Cảm ơn em, cậu nói với Saphira. Qua cô nàng, cậu đã xem lại những lời nhắn nhủ của Brom ba lần kể từ khi thành Feinster sụp đổ, và mỗi lần cậu đều có thể nhận ra một vài chi tiết tiết trong đoạn hội thoại của Brom hay một số cử động của ông đã thất thoát. Những cảm nhận này khiến cậu cảm thấy thoải mái và thỏa mãn, vì nó đã toàn thành nguyện ước của đời cậu: biết được tên của cha ruột cậu và biết được rằng ông đã quan tâm đến cậu biết bao.

Saphira chấp nhận lời cảm ơn của cậu bằng cách phà ra một hơi ấm đầy trìu mến.

Mặc dù Eragon đã ăn và nghỉ được khoảng một tiếng đồng hồ, cảm giác mệt mỏi vẫn chưa hoàn toàn hết. Cậu cũng chẳng trông mong gì nhiều. Từ những gì đã từng trải, cậu hiểu rằng cậu sẽ phải tốn nhiều tuần để có thể hồi phục hoàn toàn sau một trận chiến được kéo dài, rất dài. Khi quân Varden tiếp cận Urû’baen, cậu và mọi thành viên trong quân đoàn của Nasuada sẽ càng lúc càng có ít thời gian để nghỉ ngơi trước khi cuộc đụng độ mới bùng lên. Chiến tranh sẽ vắt kiệt sức họ cho đến khi người họ nhuộm đầy máu, rã rời và miễn cưỡng tiếp tục chiến đấu, và khi ấy họ vẫn phải đối mặt với Galbatorix, kẻ đang chờ họ nạp mạng với sự ung dung và nhàn nhã của lão.

Cậu cố tránh nghĩ nhiều về những điều ấy.

Một giọt nước mưa nữa nhỏ xuống chân cậu, rét buốt. Cậu phát cáu lên, vung chân ra khỏi giường, bật thẳng người dậy, rồi đi một mạch đến mảnh vá đầy đất tại góc lều và quỳ xuống cạnh nó. 

“Deloi sharjalví!” cậu niệm một tràng cổ ngữ cần thiết để phá giải các bẫy mà bản thân đã đặt hôm trước.

Miếng đất bắt đầu sủi bọt lên như nước gần sôi, trồi khỏi ụ đầy đá, côn trùng và dòi bọ, làm lộ ra một chiếc rương sắt dài hơn bốn mươi cen-ti-mét. Eragon cẩn thận vươn lấy nó và giải phép. Mặt đất liền trở lại bình thường một lần nữa.

Cậu đặt rương lên nền đất cứng. “Ládrin,” cậu thì thầm, và phất tay qua cái khóa không lồ đang ghịt chặt bản lề. Nó kêu “tách” và bật ra.

Ánh sáng vàng nhạt tỏa khắp căn lều khi cậu đẩy nắp rương lên.

Nằm gọn bên trong lớp vải nhung là Eldunarí của Glaedr, phần tinh túy nhất trong tim của một con rồng. Nó lớn như một viên đá quý phát quang ảm đạm, như một nhúm tro tàn đang lay lắt cháy. Eragon chụm tay lại và nâng mảnh Eldunarí đầy góc cạnh nhưng đủ để làm ấm lòng bàn tay của cậu lên, và chăm chú nhìn vào phần lõi đang phập phồng. Một dòng sao li ti cuộn tròn tại tâm mảnh đá, mặc dầu chuyển động của chúng có vẻ chậm hơn và số lượng các ngôi sao đã giảm đi rõ rệt so với lần đầu Eragon chạm vào nó tại Ellesméra, khi Glaedr tống nó ra ngoài và trao cho Eragon và Saphira.

Như thường lệ, Eragon bị cảnh tượng này mê hoặc, cậu có thể ngồi hàng ngày liền chỉ để ngắm dòng sao lưu chuyển bất tận.

Ta nên thử lần nữa, Saphira bảo, và cậu đồng tình.

Cả hai cùng tập trung tinh thần để vươn đến những nguồn sáng xa diệu vợi kia, chạm đến biển sao biểu trưng cho ý thức của Glaedr. Cái lạnh và bóng tối, rồi sự bùng cháy cùng nỗi tuyệt vòng và lòng thờ ơ mênh mang, chúng bào mòn ý chí của họ cho đến khi họ ngừng lại và khóc òa lên. 

Glaedr … Elda, họ nức nở, nhưng lại không nhận được sự hồi đáp nào, sự thờ ơ ấy không mảy may thay đổi.

Cuối cùng, cặp người-rồng đành rút lui, không thể chịu đựng gánh nặng từ nỗi niềm của Glaedr thêm phút nào nữa.

Khi vừa trở lại chân thể, Eragon chợt phát hiện tiếng ai đó đang gõ vào cột chống lều, và rồi giọng Arya vang lên: “Eragon? Tôi vào được chứ?”

Cậu hít một hơi đầy và chớp chớp mắt để nhìn rõ hơn. “Tất nhiên.”

Ánh sáng xám lờ mờ từ bầu trời đầy mây hắt vào cậu khi Arya đẩy tấm bạt lều ra. Cơn đau nhói bỗng trào dâng khi mắt hai người chạm nhau – xanh lá, đầy kiên định và không thể nhìn thấu – và sự bức bối đầy thèm khát bao trùm lấy cậu.

“Có điều chi thay đổi chăng?” nàng hỏi, và từ từ khuỵu gối xuống cạnh cậu. Thay vì bộ chiến giáp, hiện nàng khoác bộ áo lông đen, quần dài và mang đôi giày đế mỏng, hệt như ngày cậu đã giải cứu nàng tại Gil’ead. Mái tóc nàng vẫn còn ẩm sau khi đã được gội và hiện đang xõa ra sau lưng cùng những lọn tóc bện dày và nặng. Hương lá thông phảng phất quanh nàng như thường lệ, khiến Eragon tự hỏi đấy là do nàng dùng phép hay là hương thơm tự nhiên. Cậu rất muốn hỏi, song lại không dám.

Để trả lời câu hỏi của nàng, cậu lắc đầu.

“Tôi thử được chứ?” Nàng ra dấu về phần tinh túy nhất trong quả tim của Glaedr.

Cậu bèn nhích sang một bên. “Cứ tự nhiên.”

Arya đặt đôi tay nàng lên Eldunarí và khép mắt lại. Trong lúc ấy, cậu bèn chớp lấy cơ hội được nhìn rõ nàng một cách lộ liễu và đầy chăm chú đến mức dễ gây phản cảm nếu trong trường hợp khác. Trong mọi khía cạnh, nàng là một người đẹp điển hình mặc dù cậu biết rằng những người khác sẽ bảo mũi nàng quá dài, hay mặt nàng quá góc cạnh, hay tai nàng quá nhọn hoặc tay nàng quá cơ bắp. 

Với một tiếng hít vào đanh gọn, Arya rút tay ra khỏi Eldunarí như thể nó vừa làm bỏng tay nàng. Đoạn nàng cúi đầu xuống, Eragon có thể thấy chiếc cằm của nàng đang run lên nhè nhẹ. “Ông là sinh vật thống khổ nhất mà tôi từng biết … Ước gì ta có thể đưa tay ra giúp. Tôi không nghĩ ông ấy có thể tự giải thoát bản thân khỏi bóng tối đâu. 

“Liệu nàng có nghĩ …” Eragon ngập ngừng, không muốn nêu lên nghi vấn của cậu, rồi tiếp tục: “Liệu nàng có nghĩ ông ấy sẽ phát điên không?”

“Có thể ông đã điên rồi. Nếu không thì có lẽ ông cũng đang bên bến bờ cuồng loạn.”

Nỗi u sầu nhấn chìm Eragon khi cả hai cùng nhìn vào mảnh đá ánh vàng ấy.

Khi cậu có thể trấn tĩnh bản thân, cậu bèn hỏi, “Dauthdaert đâu rồi?”

“Được giấu tại lều của tôi, tương tự như chàng đang giấu Eldunarí của Glaedr. Tôi có thể mang nó đến đây, nếu chàng muốn, hoặc tôi có thể trông chừng cho đến khi chàng cần đến nó.”

“Cứ giữ. Tôi không thể để nó bên người được, hoặc là Galbatorix sẽ phát giác ra sự tồn tại của nó. Hơn nữa, cứ giữ khư khư nhiều báu vật cùng lúc thì không được thông minh cho lắm.” 

Nàng gật đầu.

Cơn bức bối trong người Eragon đã lên đến đỉnh điểm. “Arya, tôi–” Cậu chợt im bặt ngay khi Saphira trông thấy bóng của cậu con trai của thợ rèn Horst – Albriech, cậu nghĩ, mặc dầu cậu có chút khó khăn để có thể phân biệt được đứa bé với người anh của nó, Baldor, vì tầm nhìn không được chính xác mấy của Saphira – đang chạy về phía lều. Sự quấy nhiễu này khiến Eragon nhẹ lòng hơn, vì cậu cũng chẳng biết cậu sẽ nói những gì.

“Có người đến” cậu thông báo và che tấm bạt lều lại.

Tiếng chân bì bõm vang lên giữa dãy bùn bên ngoài. Và rồi Albriech, đúng là Albriech, nó hét lớn: “Anh Eragon! Anh Eragon!”

“Gì cơ?”

“Mẹ em sắp sinh! Cha bảo em đến đây để nhờ anh đến chờ cùng ông, trong trường hợp xảy ra biến cố thì sẽ cần đến pháp thuật của anh. Làm ơn, nếu anh có thể…”

Những lời còn lại của đứa bé đều bị Eragon bỏ ngoài tai vì bận khóa và giấu chiếc rương. Đoạn, cậu phủ chiếc áo khoác lên vai và có hơi lóng ngóng khi Arya chạm vào cánh tay cậu và nói: “Tôi có thể đi cùng chàng chăng? Tôi có một ít kinh nghiệm về việc này. Nếu người của chàng cho phép, tôi có thể khiến lần sinh nở này dễ dàng hơn cho bà ấy.”

Eragon không hề ngập ngừng khi đưa ra quyết định. Cậu nhanh chóng mở cửa lều ra. “Mời nàng.”

Bùn đất dính lên đôi ủng làm chậm đi bước chân của Roran, khiến cho đôi chân vốn đã mệt mỏi như bị thiêu đốt mỗi khi anh cố bước đi. Anh có cảm giác dường như cái nền đất lầy lội kia đang cố kéo tuột đôi giày của anh. Không những dày, đống bùn lại còn rất trơn. Lớp bùn thật sâu, chúng trở nên lầy lội dưới gót chân, khiến anh không thể đứng vững được. Dòng người, súc vật và xe cộ đi lại không ngớt, đã khiến cho lớp đất trên bề mặt dày mười lăm centimet gần như biến thành một đầm lầy không ai vượt qua được. Dọc hai bên con đường đi tới doanh trại của Varden, vẫn còn sót lại một vài nhúm cỏ dập nát. Nhưng Roran cho rằng chúng cũng sẽ sớm biến mất khi người ta buộc phải đi vòng qua để tránh bãi lầy lội ở giữa con đường. 

Roran chẳng buồn tránh đống đất bẩn nữa, anh không còn bận tâm xem liệu quần áo còn sạch hay không. Anh đã quá kiệt sức rồi. Cứ tiếp bước theo một phương hướng vẫn dễ dàng hơn là phải lo lắng tìm một lối đi từ cụm cỏ này sang cụm cỏ khác để tránh đống đất bẩn. 

Roran bước loạng choạng về phía trước, anh đang nghĩ tới Belatona. Từ sau khi Nasuada tiếp kiến ma mèo, anh đã được trao cho một vị trí chỉ huy ở khu Tây Bắc thành phố và anh đang phải cố gắng hết sức để kiểm soát khu vực này bằng cách cử lính đi dập hỏa hoạn, xây hàng rào chắn trên các con đường, tìm nhà ở cho binh lính và tịch thu vũ khí. Đó là một nhiệm vụ khổng lồ, và những việc cần hoàn thành làm anh cảm thấy tuyệt vọng, và lo sợ rằng những cuộc chiến sẽ lại một lần nữa bùng nổ trong thành phố. Mình hy vọng những tên ngu ngốc kia sẽ sống sót qua đêm nay.

Nửa người bên trái của Ronan chợt buốt nhói lên, anh đau đến mức nhe răng nhếch miệng và thở hổn hển. 

Tên hèn nhát trời đánh thánh vật.

Kẻ nào đó đã bắn anh bằng một mũi tên từ trên nóc của một ngôi nhà. Và may mắn đã cứu anh thoát chết; ngay khoảng khắc tên hung thủ bắn mũi tên, Mortenson - một người lính dưới quyền anh - đã bước lên phía trước anh. Mũi tên bay xuyên từ lưng qua bụng Mortenson và vẫn còn đủ lực gây ra cho Roran một vết tím bầm đáng sợ. Mortenson chết ngay tại chỗ còn tên cung thủ thì đã trốn thoát.

Năm phút sau, một vụ nổ vang lên, dường như là do pháp thuật gây ra. Có thêm hai người lính nữa dưới quyền anh bị giết khi họ tiến vào một cái chuồng ngựa vì nghe thấy trong đó phát ra tiếng động lạ.

Từ những gì Roran biết được, những vụ tấn công kiểu này đã trở thành một chuyện bình thường khắp thành phố. Không nghi ngờ gì nữa, tay chân của Galbatorix chính là những kẻ đằng sau những vụ tấn công này, nhưng người dân Belatona cũng có phần trách nhiệm – những người đàn ông và phụ nữ không chịu đứng im khi một đội quân chiếm đóng, kiểm soát quê hương mình, dù cho ý định của quân Varden có cao cả thế nào đi chăng nữa. Roran có thể thông cảm được với những người cảm thấy họ phải bảo vệ gia đình mình, nhưng đồng thời, anh cũng nguyền rủa vì họ quá cố chấp mà không nhận ra rằng Varden đang cố giúp chứ không hại họ.

Anh gãi râu khi đợi một người lùn đẩy một con ngựa chất đầy hàng hóa đi qua, và sau đó tiếp tục cắm cúi tiến về phía trước .

Khi về tới gần lều, anh nhìn thấy Katrina đang đứng cạnh một chậu nước xà phòng nóng, giặt sạch một cái băng gạc dính máu bằng ván giặt(1). Tay áo của cô được xắn tới tận khuỷu tay, tóc cô được buộc lại thành một đống bù xù, và má cô đỏ hồng lên vì làm việc, nhưng với anh cô chưa bao giờ trông xinh đẹp đến vậy. Cô là niềm an ủi của anh – niềm an ủi và nơi nương tựa của anh – và chỉ cần nhìn thấy cô là bao nỗi mệt nhọc bao trùm người của anh sẽ biến đi mất.

Khi nhận thấy anh, Katrina liền lập tức bỏ việc giặt giũ lại, chạy về phía anh, lau khô đôi bàn tay hồng hào của cô lên mặt trước váy. Roran vòng tay lại ôm cô khi cô nhảy vào lòng anh, quấn hai tay quanh ngực anh. Nửa người anh buốt lên đau đớn, và anh bật thốt lên một tiếng rên ri.

Katrina nới lỏng tay và nghiêng người nhìn, nhíu mày. “Ôi! Em làm anh đau à?”

“Không... không. Anh chỉ hơi nhức thôi.”

Cô không hỏi thêm mà chỉ ôm anh lần nữa, nhẹ nhàng hơn, và ngước nhìn anh, mắt cô lóng lánh nước mắt. Ôm eo cô, anh cúi xuống và hôn cô, cảm thấy biết ơn khôn xiết vì cô đã hiện diện trong cuộc đời anh.

Katrina đặt tay trái của anh lên vai cô, và anh để cô dìu anh đi về lều. Thở dài một tiếng, Roran ngồi lên một gốc cây mà họ dùng làm ghế. Gốc cây này được Katrina đặt cạnh một một đống lửa nhỏ mà cô đốt để làm nóng chậu nước và bên cạnh đó là một nồi thịt hầm đang sôi. 

Katrina múc đầy một bát thịt hầm và đưa cho anh. Cô mang từ trong căn lều ra cho anh một vại bia và một cái đĩa với nửa ổ bánh mì và một miếng pho mát. “Anh có cần gì nữa không?” cô hỏi với giọng khàn không bình thường.

Roran không trả lời mà ôm má cô, dùng ngón tay cái vuốt ve hai lần. Cô nở nụ cười bẻn lẽn và đặt tay lên tay anh, rồi quay lại giặt giũ một cách hăng say cứ như thế cô vừa được tiếp thêm năng lượng vậy.

Roran nhìn chăm chăm vào đống đồ ăn một lúc lâu trước khi cắn miếng đầu tiên; anh vẫn còn quá căng thẳng và anh nghi ngờ việc mình có thể nuốt hết đống thức ăn này vào bụng hay không. Tuy nhiên, sau vài miếng bánh mì, anh đã cảm thấy ngon miệng, và ăn ngấu nghiến bát thịt hầm. 

Ăn xong, anh đặt đống đĩa xuống đất và ngồi sưởi ấm bàn tay trên nhóm lửa trong khi uống những hớp bia cuối cùng.

“Bọn em nghe thấy tiếng nổ khi những cánh cổng rơi xuống.” Katrina nói, trong khi tay đang vắt khô cái băng gạc. “Họ không trụ được lâu nhỉ.”

“Không.. Vì quân ta có một con rồng cơ mà.”

Roran nhìn vào bụng cô khi cô treo cái băng gạc lên dây phơi tạm thời chạy từ đỉnh lều của họ sang một cái bên cạnh. Mỗi lần nghĩ tới đứa con cô đang mang, đứa con mà hai người đã cùng nhau tạo ra, anh lại cảm thấy tự hào vô cùng, nhưng xen lẫn chút lo lắng vì anh không biết làm thế nào để đảm bảo cho đứa con của hai người một mái ấm an toàn. Hơn nữa, đến lúc Katrina sinh em bé mà chiến tranh còn chưa kết thúc, thì cô sẽ rời khỏi anh để đến Surda, nơi cô sẽ nuôi dạy đứa con của hai người trong cảnh tương đối an toàn hơn. 

Mình không thể để mất cô ấy, không một lần nào nữa.

Katrina lại nhúng một tấm băng gạc khác vào chậu nước. “Còn trận chiến trong thành phố?” cô hỏi trong khi tay đang khuấy nước. “Nó diễn ra như thế nào?”

“Bọn anh phải chiến đấu để giành từng mẩu đất. Ngay cả Eragon cũng gặp khó khăn đấy.”

“Những thương binh có nhắc đến những máy bắn đá được lắp gắn bánh xe”

“Ừ”. Roran uống một ngụm bia làm ướt giọng, rồi sau đó tả lại ngắn gọn cách quân Varden tiến quân qua Belatona và những khó khăn mà họ đã gặp phải trong suốt cuộc hành trình. “Hôm nay bọn anh đã mất rất nhiều người, nhưng mọi chuyện đáng lẽ có thể tệ hơn. Tệ hơn rất nhiều. Rất may là Ngài Jörmundur và Đại tá Martland lên kế hoạch tiến công rất chu toàn.”

“Kế hoạch của họ sẽ không thành công nếu như không có anh và Eragon. Hai người là những người dũng cảm nhất đó.”

Roran cười khan một tiếng. “Ha! Và em biết vì sao không? Anh sẽ nói cho em nghe. Trong mười người thì không có lấy một người thực sự muốn tấn công địch nhân. Eragon không thấy điều đó vì lúc nào nó cũng ở tiền tuyến, lao vào chiến đấu với những tên lính trước mặt nó. Nhưng anh lại thấy. Hầu hết binh lính đứng lùi lại và không chiến đấu trừ khi họ bị dồn đến đường cùng. Hoặc họ chỉ khua khoắng vũ khí và cố tạo nên thật nhiều tiếng ầm ĩ nhưng thực chất lại chẳng hề chiến đấu gì cả.”

Katrina kinh hãi. “Làm sao lại có thể như thế được? Chúng là những kẻ hèn nhất như vậy à?”

“Anh không biết nữa. Anh nghĩ … anh nghĩ rằng, có lẽ, họ chỉ không thể nhìn vào mặt một người rồi giết người đó, mặc dù họ thấy dễ dàng để cắt đầu một tên lính quay lưng về phía họ. Vì thế họ đợi những người khác thực hiện việc họ không thể làm nổi. Họ đợi những người như anh.”

“Anh có nghĩ thủ hạ của Galbatorix cũng miễn cưỡng như vậy không?

Roran nhún vai. “Có thể Nhưng sau đó, họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải phục tùng Galbatorix. Nếu lão ra lệnh cho họ chiến đấu, họ sẽ chiến đấu.”

“Nasuada cũng có thể làm thế. Cô ấy có thể sai đám pháp sư niệm chú để đảm bảo chắc chắn sẽ không một ai đào ngũ.”

“Thế thì, cô ta và Galbatorix còn gì khác gì nhau nữa chứ? Trong bất kỳ trường hợp nào, Varden cũng không chịu cho chuyện đó xảy ra đâu.”

Để lại đống băng gạc đang giặt, Katrina tiến lại và hôn lên trán anh. “Em mừng vì anh có thể làm điều anh đã làm,” cô thì thầm. Rồi cô lại quay lại chậu giặt và bắt đầu giặt một bộ quần áo bẩn. “Lúc trước em đã cảm giác gì đó, từ chiếc nhẫn... và em đã nghĩ rằng có thể chuyện gì xấu đã xảy ra với anh. ”

“Anh đang ở giữa một trận chiến mà. Sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả nếu như cứ vài phút là em lại thấy bồn chồn ấy chứ”

Cô dừng lại, tay vẫn đặt trong nước. “Nhưng trước kia em chưa từng bị như thế bao giờ.”

Anh uống cạn vại bia và cố tìm cách trì hoãn nói cho cô biết. Anh đã từng mong muốn chia sẻ với cô từng chi tiết về tai nạn của anh lúc ở trong pháo đài, nhưng rõ ràng là chừng nào mà còn chưa biết được sự thật thì cô ấy sẽ chẳng chịu đi nghỉ. Cố thuyết phục cô rằng không có chuyện gì thì chỉ khiến cô tưởng tượng ra những tai hoạ còn kinh khủng hơn điều thật sự xảy ra. Hơn nữa, sẽ là vô nghĩa nếu anh cứ giấu giếm vì đằng nào tin tức về vụ việc ấy sớm muộn cũng sẽ được truyền khắp Varden. Vì thế, anh kể lại cho cô. Anh kể ngắn gọn và cố biến vụ sụp tường thành nghe giống như một sự bất tiện nho nhỏ hơn là một tai hoạ khủng khiếp suýt chút nữa đã giết chết anh. Tuy nhiên, anh vẫn cảm thấy khó khăn khi miêu tả lại sự việc, và anh cứ ngắc ngứ nói, tìm kiếm những ngôn từ thích hợp. Khi anh kết thúc, anh im lặng như vẫn còn chìm trong ký ức.

“Ít ra anh cũng không bị thương phải không,” Katrina nói.

Anh lấy tay cạy vết nứt ở miệng vại bia và trả lời “Không.”

Tiếng nước bì bõm chợt dừng lại, và anh có thể cảm thấy đôi mắt của cô đang săm soi trên người anh. 

“Trước đây anh đã từng đối diện với nhiều chuyện còn nguy hiểm hơn nhiều mà.”

“Ừ, anh cho là vậy.”

Giọng cô nhẹ đi. “Thế thì có chuyện gì xảy ra vậy?” Khi thấy anh không trả lời, cô nói. “Không có chuyện gì kinh khủng đến nỗi mà anh không thể nói với em, Roran. Anh biết điều đó mà.”

Móng tay cái của anh bị gãy khi anh lại cạy vại bia lần nữa và anh lại vân vê miếng vại bia bằng ngón tay trỏ không biết bao nhiêu lần. “Anh đã nghĩ rằng anh sắp chết khi bức tường sụp xuống.”

“Ai mà chẳng phải chết.”

“Đúng. Nhưng vấn đề là, anh đã không thèm để ý.” Roran đau khổ nhìn cô. “Em không hiểu sao? Anh đã từ bỏ. Khi anh nhận ra mình không thể thoát được, anh đã ngoan ngoãn chấp nhận nó như một chú cừu non rơi vào tay gã đồ tể, và anh...”. Không thể tiếp tục nói, anh hạ cốc bia xuống và úp mặt vào tay. Cổ họng bị sưng lên làm anh khó thở. Sau đó anh cảm thấy những ngón tay của Katrina đang đặt nhẹ trên vai anh. “Anh đã từ bỏ,” anh gầm lên, tức giận và phẫn nộ với chính bản thân mình. “Anh đã từ bỏ tranh đấu... Vì em... Vì con chúng ta...” Anh nghẹn ngào nói. 

“Suỵt,” cô thì thầm.

“Trước đây anh chưa bao giờ từ bỏ. Chưa một lần nào... Kể cả khi tụi Ra’zac bắt em đi.”

“Em biết là anh không mà.”

“Cuộc chiến này phải kết thúc. Nó không thể cứ tiếp tục mãi thế này được... Anh không thể... Anh ...” Anh ngẩng đầu lên và sợ hãi khi thấy cô cũng sắp sửa nghẹn ngào khóc. Anh đứng dậy, vòng tay quanh người cô và ôm cô thật chặt. “Anh xin lỗi,” anh thì thầm. “Anh xin lỗi. Anh xin lỗi. Anh xin lỗi. Điều đó sẽ không bao giờ xảy ra nữa đâu. Không bao giờ nữa. Anh hứa đó.”

“Em không quan tâm tới chuyện đó,” cô nói, giọng cô nghẹn ngào trên vai anh.

Câu trả lời của cô khiến anh day dứt. “Anh biết anh đã yếu mềm, nhưng em phải tin lời anh chứ.”

“Em không có ý đó!” cô kêu lên và lùi lại nhìn anh với vẻ cáo buộc. “Đôi lúc anh là một tên ngốc, Roran ạ.”

Anh cười nhẹ. “Anh biết.”

Cô vòng tay ôm cổ anh. “Em sẽ không nghĩ xấu về anh, bất kể anh đã cảm thấy thế nào khi bức tường sụp xuống. Điều quan trọng duy nhất chính là anh còn sống... Anh chẳng thể làm được gì khi bức tường sụp, phải không nào?”

Anh lắc đầu.

“Thế thì anh chẳng có gì mà phải xấu hổ cả. Nếu anh có thể ngăn cho bức tường khỏi đổ, hoặc nếu anh có thể chạy trốn nhưng anh không làm, thì lúc đó em mới khinh thường anh. Nhưng anh đã làm hết những gì có thể, và khi anh không thể làm gì hơn, anh mới chịu chấp nhận số phận mà không hề oán thán. Đó là khôn ngoan chứ không phải yếu đuối.”

Anh cúi xuống và hôn lên lông mày cô. “Cám ơn em.”

“Và theo như những gì em được biết, thì anh chính là người đàn ông dũng cảm nhất, khoẻ mạnh nhất, và tốt bụng nhất mảnh đất Alagaësia này.”

Lần nay anh hôn lên môi cô. Sau đó, cô cười, xua đi những căng thẳng trong lòng, và cả hai đứng lên đu đưa, như thể đang khiêu vũ theo một giai điệu mà chỉ có hai người nghe thấy. 

Rồi Katrina đẩy anh ra và tiếp tục giặt giũ, còn anh ngồi xuống gốc cây, và lần đầu tiên kể từ sau trận chiến cảm thấy toại nguyện, dù cho anh đang phải chịu cả đống đau đớn và thương tích.

Roran quan sát đám người, ngựa và thỉnh thoảng là vài người lùn hay đám Urgal cắm cúi đi qua căn lều của hai người, và anh để ý đến những vết thương và tình trạng vũ khí và khôi giáp của họ. Anh cố đánh giá sĩ khí của quân Varden; và kết luận duy nhất mà anh có thể đưa ra là mọi người đều cần một giấc ngủ say và một bữa ăn đầy đủ, ngoại trừ đám Urgal. Và mọi người, kể cả đám Urgal – mà không, đặc biệt là đám Urgal – cần phải được cọ rửa sạch sẽ từ đầu đến chân bằng một bản chải lông lợn và những cái sô đầy nước xà phòng.

Anh cũng ngắm nhìn Katrina, và anh thấy được khi cô làm việc, vẻ phấn khởi ban đầu trên khuôn mặt cô nhạt dần đi và cô trở nên cáu kỉnh hơn bao giờ hết. Cô cứ vò đi vò lại vài vết bẩn mà chẳng thể vò sạch được chúng . Mặt cô đen lại vì tức giận, và cô bắt đầu cáu gắt vài tiếng nhỏ.

Cuối cùng, khi cô ném mớ vải lên tấm ván giặt, làm bắn tung toé bọt xà phòng lên cao cả thước trong không khí, và cúi người về phía chậu giặt, môi mím chặt lại, thì Roran hết chịu nổi và đứng dậy đến bên cô.

“Nào, để anh,” anh nói.

“Thế không được đâu,” cô lẩm bẩm. 

“Vớ vẩn. Ngồi xuống đi, để anh làm nốt cho ... Đi đi nào.”

Cô lắc đầu. “Không. Anh mới cần nghỉ chứ không phải em. Hơn nữa, đây không phải việc của đàn ông.”

Anh khịt mũi chế nhạo. “Quy định của ai thế? Đàn ông hay đàn bà thì cũng đều phải làm những việc cần phải làm. Nào, em ngồi xuống đi; em sẽ cảm thấy khá hơn khi ngồi xuống đấy”

“Roran, em ổn mà.”

“Đừng ngốc thế.” Anh nhẹ nhàng cố đẩy cô tránh xa khỏi chậu giặt, nhưng cô chẳng thèm nhúc nhích.

“Như vậy là không đúng,” cô kháng nghị. “Mọi người sẽ nghĩ thế nào chứ?” Cô chỉ về phía đám đàn ông đang vội vã trên con đường lầy lội bùn đất bên cạnh lều của hai người.

“Họ nghĩ gì kệ họ. Anh cưới em chứ không phải là họ. Nếu họ tin rằng vì giúp em khiến anh không còn là đàn ông nữa, thì họ là một lũ ngu.”

“Nhưng...”

“Không nhưng nhị gì hết. Đi đi. Xùy. Đi khỏi đây đi.”

“Nhưng...” 

“Anh không định tranh cãi với em đâu đấy. Nếu em mà còn không ngồi xuống, anh sẽ bế em ra đằng kia và trói em vào gốc cây đó.”

Nét mặt cô đang từ cau có biến thành sửng sốt. “Thật thế à ?”

“Ừ. Giờ thì đi đi nào.” Khi cô miễn cưỡng rời bỏ vị trí chậu giặt đồ, anh nói mỉa cô. 

“Em rất cứng đầu đấy nhỉ?”

“Có mà anh mới cứng đầu ấy. Anh có thể dạy một con la một vài trò đấy.”

“Không phải anh. Anh không cứng đầu.”. Cởi thắt lưng ra, anh cởi bộ áo giáp và treo lên cột lều, rồi cởi găng tay và xắn tay áo lên. Anh cảm thấy lành lạnh và đống băng gạc thậm chí còn lạnh hơn – chúng lạnh hơn khi được đặt quá lâu trên tấm ván giặt – nhưng anh không quan tâm, vì nước còn ấm và đống vải này rồi cũng nhanh ấm thôi. Những đống bọt bong bóng óng ánh dính trên cổ tay anh khi anh đưa đẩy quần áo dọc theo chiều dài của tấm ván giặt. 

Anh liếc qua và hài lòng khi thấy Katrina đã đang ngồi nghỉ ngơi trên cái gốc cây, chí ít cũng nghỉ ngơi hết mức có thể như bất cứ ai khi ngồi trên một gốc cây xù xì như vậy. 

“Anh có muốn uống một chút trà hoa cúc không?” cô hỏi. “Bà Gertrude cho em một ít sáng nay đấy. Em có thể pha một ấm cho hai chúng ta”

“Được đó.”

Bầu không khí ấm cúng lan toả giữa hai người khi Roran tiếp tục giặt đống quần áo còn lại. Công việc này làm cho tâm trạng anh trở nên thoải mái; anh thích dùng đôi tay của mình làm một việc gì khác hơn là vung búa lên chiến đấu, và được ở gần Katrina khiến anh cảm thấy thoải mái tột cùng.

Trong khi anh đang vắt khô miếng băng gạc cuối cùng, và tách trà mới pha kia đang nằm anh chờ ngay bên cạnh Katrina, thì anh nghe thấy tiếng ai đó đang réo gọi tên hai người từ bên kia của con đường tấp nập. Phải mất một lúc Roran mới nhận ra đó là Baldor đang chạy xuyên qua lớp bùn đất, xuyên qua giữa dòng người và ngựa, để tiến về phía họ. Cậu ta đeo một chiếc tạp dề thủng lỗ chỗ và một chiếc găng tay nặng nề dài tới khuỷu tay dính đầy nhọ, và cũ kĩ tới mức phần da ở các ngón tay cứng, nhẵn và sáng bóng như mai rùa. Một mẩu da rách nát buộc lại mái tóc đen, và xù xì của cậu, còn trán thì đầy nếp nhăn. Baldor thấp hơn cha cậu, chú Horst, và cả anh trai cậu, Albriech, nhưng cậu ta lại to con với những cơ bắp cuồn cuộn, đó là kết quả của việc cậu dành cả thời thơ ấu phụ giúp cha cậu trong xưởng rèn của ông. Cả ba cha con họ đều không tham gia trận chiến ngày hôm nay – vì thông thường thì những thợ rèn lão luyện quá quí giá để có thể để họ mạo hiểm trên chiến trường – mặc dù Roran ước gì Nasuada để họ chiến đấu, vì họ là những chiến binh có tài và Roran biết anh có thể trông cậy vào họ kể cả trong những hoàn cảnh khốc liệt nhất.

Roran đặt đống đồ giặt xuống và lau khô hai tay, phân vân xem có chuyện gì không ổn. Đứng dậy khỏi gốc cây, Katrina tiến lại gần anh cạnh chậu giặt.

Khi Baldor tới nơi, hai người phải đợi cậu vài giây đồng hồ để thở. Rồi sau đó, một cách vội vàng, cậu ta nói, “Đi nhanh nào. Mẹ em đang lâm bồn, và...”

“Dì ấy đâu?” Katrina bình tĩnh hỏi.

“Trong lều của nhà em.”

Cô gật đầu. “Anh chị sẽ đến đó nhanh nhất có thể.”

Khuôn mặt lộ ra vẻ cảm ơn, Baldor quay người và chạy nhanh về.

Khi Katrina chui vào lều, Roran dội chậu nước vào đống lửa, làm nó tắt ngấm. Khi chậu nước đổ xuống, những thanh củi đang cháy kêu lên xèo xèo, một đám hơi nước bốc hơi lên cao từ đống lửa thay vì khói, khiến không khí tràn ngập một thứ mùi khó chịu. 

Sự sợ hãi và hưng phấn làm cho Roran vội vàng hẳn lên. Mình hy vọng dì không sao, anh nghĩ, khi nhớ lại cuộc trò chuyện của đám phụ nữ mà anh nghe được về tuổi tác của dì và việc mang bầu hơi lâu hơn so với bình thường của dì. Dì Elain luôn luôn đối tốt với anh và Eragon, và anh cũng rất quý dì.

“Anh chuẩn bị xong chưa?” Katrina hỏi khi cô bước ra khỏi lều, quấn thêm một chiếc khăn quàng màu xanh quanh đầu và cổ.

Anh chộp lấy thắt lưng và búa khỏi móc treo rồi nói: “Được rồi. Chúng ta đi nào.”

“Nào nào, tiểu thư. Người không cần những thứ này nữa. Một sự giải thoát đấy, tôi nghĩ thế.”

Với tiếng sột soạt nho nhỏ, mảnh vải lanh cuối cùng tuột khỏi bắp tay của Nasuada khi cô hầu gái của nàng, Farica, tháo bỏ lớp băng bó đi. Nasuada đã mang thứ này kể từ ngày nàng và chiến tướng Fadawar dò xét lòng can đảm của nhau qua cuộc Sát hạch Trường kích.

Nasuada đứng nhìn chăm chú vào tấm thảm thêu dài rách rưới với đầy những lỗ thủng trong lúc Farica phục vụ nàng. Rồi nàng lấy can đảm và từ từ nhìn xuống phía dưới. Kể từ ngày chiến thắng trong cuộc sát hạch, nàng đã không muốn nhìn vào những vết thương của mình; chúng quá kinh khủng khi vừa xuất hiện, nàng không thể chịu nổi cảnh tượng ấy cho đến lúc chúng gần lành lặn hẳn.

Những vết sẹo nằm ngổn ngang: sáu vết sẹo lồi dọc theo cánh tay trái, ba vết tại tay phải của nàng. Mỗi vết sẹo dài khoảng mười – mười hai cen-ti-mét và thẳng đuột, không tính đến vệt cuối cùng phía bên phải, nơi nàng đã mất tự chủ và bị một con dao chém vào, để lại một đường dài ngoằn ngoèo gấp đôi số còn lại. Lớp da non xung quanh những vết sẹo có màu hồng và hơi nhăn nhúm, nhưng bản thân vết sẹo lại chỉ nhạt hơn phần còn lại trên cơ thể nàng một chút, và điều này khiến nàng hài lòng. Nasuada từng sợ rằng chúng sẽ trở nên trắng sáng và bóng loáng, khiến chúng dễ gây chú ý hơn. Những vết sẹo lồi lên trên mặt cánh tay tầm nửa cen-ti-met, tạo thành những đường cơ thịt rắn chắc hệt như những cuộn dây thừng được bện vào bên dưới lớp da của nàng.

Nasuada cảm thấy hơi mâu thuẫn về những dấu tích này. Cha từng dạy nàng về những tục lệ của tộc khi nàng còn bé, nhưng nàng đã sống cả đời cùng quân Varden và tộc người lùn. Nàng chỉ được chứng kiến những nghi lễ của các bộ tộc du mục, và chỉ khi có việc bất thường, nàng mới liên hệ đến tôn giáo của họ. Nàng chưa từng mơ tưởng đến việc thuần thục Vũ điệu Trống, cũng như việc tham dự vào lễ Xưng Danh đầy khó khăn, hoặc – đặc biệt là việc này – tham gia vào cuộc Sát hạch Trường kích. Và nàng giờ đây, vẫn còn trẻ đẹp, đã mang chín vết sẹo lớn trên đôi tay. Nàng có thể ra lệnh cho một trong những thầy phù thủy tại Varden xóa chúng đi, đương nhiên, nhưng nếu nàng xóa bỏ những vết sẹo chứng minh nàng chiến thắng trong cuộc Sát hạch Trường kích, thì nàng phải trả giá bằng việc các dân tộc du mục không thừa nhận sự lãnh đạo từ nàng

Nàng vừa hối hận vì đôi tay mình đã không còn mịn màng và tròn trịa và sẽ không bao giờ thu hút ánh nhìn ngưỡng mộ từ cánh đàn ông nữa, vừa tự hào về chúng. Những vết sẹo là một minh chứng cho lòng dũng cảm và sự cống hiến thiết thực của nàng cho quân kháng chiến Varden. Bất kì ai nhìn nàng đều sẽ nhận khí chất ấy, và nàng đã quyết định rằng việc đó hữu ích hơn là bảo tồn vẻ bề ngoài của nàng.

“Chàng nghĩ sao?” nàng hỏi, và đưa tay về hướng vua Orrin, người đứng cạnh khung cửa sổ đang mở tại thư phòng, ông nhìn xuống thành phố với vẻ nghiên cứu.

Orrin xoay người và chau mày lại, đôi mắt ông đen láy bên dưới hàng lông mày hẹp màu nâu. Ông đã đổi từ bộ chiến giáp sang chiếc áo chùng dày màu đỏ và áo choàng bằng lông chồn trắng. “Ta cảm thấy không hài lòng khi nhìn vào chúng.” Ông nói, và tiếp tục nhìn chăm chú xuống thành phố. “Hãy che chúng lại, nó không hợp với phép lịch sự xã hội.”

Nasuada quan sát đôi tay nàng một lúc lâu. “Không, em sẽ không làm thế.” Nàng kéo mạnh dãy đăng ten đính liền một phần với ống tay áo cho thẳng thớm, rồi lệnh Farica lui ra. Nàng sải bước qua tấm thảm lộng lẫy ở giữa căn phòng do người lùn dệt để đến bên cạnh Orrin và cùng ông kiểm tra thành phố bị tàn phá bởi chiến tranh, điều khiến nàng hài lòng hơn hết đó là một trong hai đám cháy dọc theo bức tường phía Tây đã được dập tắt. Nàng chuyển ánh nhìn sang đức vua. 

Trong một khoảng thời gian ngắn kể từ khi quân Varden và Surdan bắt đầu phát động tấn công Đế quốc, Nasuada thấy Orrin đã trở nên nghiêm nghị hơn rất nhiều, lòng nhiệt tình và tính cách lập dị vốn có của ông đã bị chôn vùi bởi vẻ ngoài đầy cứng rắn. Thoạt đầu, nàng vui mừng vì sự thay đổi này, vì nàng có thể cảm nhận được sự trưởng thành từ ông, nhưng khi chiến tranh kéo dài, nàng lại nhớ cái cách mà ông hào hứng tranh luận về các vấn đề khoa học tự nhiên, cũng như những tính cách khác của ông. Theo dòng hồi tưởng, nàng chợt nhận ra rằng đó là những tháng ngày tươi đẹp, ngay cả khi đôi lúc nàng cảm thấy chúng làm nàng phiền lòng. Hơn nữa, sự thay đổi này đã biến ông thành một đối thủ nguy hiểm; với tính cách hiện nay của ông, nàng có thể dễ dàng hình dung việc ông đang ngầm thay thế vai trò thủ lĩnh quân Varden của nàng.

Liệu ta có hạnh phúc khi lấy ông ấy? nàng tự hỏi. Orrin trông cũng không đến nỗi tệ. Mũi ông cao và nhỏ nhắn, song cằm ông lại bạnh và miệng ông sắc nét và đầy biểu cảm. Nhiều năm luyện tập võ thuật khiến ông có một thân hình cân đối. Chắc chắn rằng không ai có thể hoài nghi về tài trí của ông, và nhân cách của ông có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, nếu ông không có biểu hiện đe dọa đến vị trí của nàng và nền độc lập của Varden, nàng biết rằng nàng sẽ chẳng bao giờ có ý định đối đầu với ông.Liệu người ấy sẽ là một người cha tốt? 

Orrin đặt tay ông lên thành đá hẹp và tựa người vào nó. Không nhìn nàng, ông nói: “Nàng phải phá vỡ hiệp ước với tộc Urgal.”

Lời tuyên bố này khiến nàng sửng sốt: “Và tại sao phải thế?”

“Bởi vì chúng đang gây bất lợi cho chúng ta. Những người lẽ ra gia nhập quân kháng chiến nay lại nguyền rủa chúng ta vì hành động liên minh với lũ quái vật và họ từ chối buông vũ khí khi cánh quân đến quê nhà họ. Sự chống cự của Galbatorix dường như hợp lý hơn vì chúng ta liên minh với Urgals. Dân thường không thể hiểu tại sao ta lại hợp tác với chúng. Họ không biết rằng Galbatorix dùng Urgals để tư lợi, cũng như việc lão lừa họ nhằm tấn công Tronjheim bằng lệnh từ Tà Thần. Nàng sẽ không thể khiến một nông dân hiểu được những điều tinh tế này. Họ chỉ biết rằng các sinh vật khiến họ vừa ghét vừa sợ đang trên đường tiến công đến nhà họ , dẫn đầu là một con rồng khổng lồ và một Kỵ sĩ trông giống tiên hơn là giống người.”

“Chúng ta cần sự ủng hộ của tộc Urgal,” Nasuada tiếp tục. “Quân ta đã giảm đi quá nhiều so với lúc ban đầu.”

“Ta không cần bọn chúng đến độ như thế. Nàng đã biết những gì ta vừa nói là đúng; vì sao nàng lại ngăn Urgals tham gia lần công thành Belatona? Vì sao nàng lại ra lệnh cho chúng không được vào thành? Chỉ cách ly chúng khỏi chiến trường thì chưa đủ đâu, Nasuada à. Những lời bàn tán về chúng vẫn sẽ lan ra khắp lục địa. Điều duy nhất nàng có thể làm để cải thiện tình hình là cắt bỏ điều bất hạnh này trước khi chúng gây thêm thiệt hại cho ta.”

“Em không thể.”

Orrin tiến sát nàng, sự giận dữ làm méo mó khuôn mặt ông. “Binh lính ta đang chết vì nàng đã chấp thuận trợ giúp từ Garzhvog. Người của ta, người của nàng, những người tại Đế quốc … chết vàbị chôn. Liên minh này không xứng với sự hy sinh của họ, và đối với tính mạng của ta, ta không thể hiểu tại sao nàng lại bảo vệ mối liên hệ này.”

Nàng không thể trụ vững trước ánh mắt của ông; chúng khiến nàng nhớ đến những mặc cảm tội lỗi cùng những lời cáo buộc nặng nề xuất hiện thường xuyên mỗi khi nàng cố thiếp đi. Thay vào đó, nàng vờ như chăm chú nhìn vào cột khói đen đang bốc lên từ một tòa tháp phía cuối thành phố. Chậm rãi mở lời, nàng nói, “Em bảo vệ điều ấy vì em mong rằng việc gìn giữ mối quan hệ với tộc Urgal sẽ cứu được nhiều mạng người hơn… Nếu chúng ta muốn đánh bại Galbatorix–”

Orrin “hừ” một tiếng đầy hoài nghi.

“Điều này không mang lại kết quả cao,” nàng nói, “Em biết. Nhưng chúng ta phải tính đến mọi trường hợp. Nếu chúng ta đánh bại lão, chúng ta sẽ gánh lấy việc khôi phục dân tộc từ lần nội chiến này và gầy dựng một cường quốc mới từ đống tro tàn của Đế quốc. Và quá trình ấy sẽ đảm bảo rằng, sau bao năm chiến trận, hòa bình đã đến. Em sẽ không lật đổ Galbatorix và để tộc Urgal phá bĩnh ngay tại thời điểm chúng ta suy yếu.”

“Có lẽ chúng sẽ làm thế. Trước đây chúng luôn như vậy.”

“Vậy thì, chúng ta có thể làm gì khác hơn?” nàng phản bác, tức giận. “Chúng ta phải cố gắng chế ngự chúng, khiến chúng phụ thuộc vào chúng ta, để chúng không có cơ hội phản bội chúng ta.”

“Ta sẽ nói cho nàng biết phải làm gì,” ông gầm lên. “Trục xuất chúng. Hủy thỏa thuận giữa nàng và Nar Garzhong và đày hắn cùng bầy đàn của hắn biệt xứ. Nếu chúng ta thắng trận này, thì chúng ta sẽ đàm phán về một hiệp ước mới, vì chúng ta đã ở thế muốn gì được nấy. Hoặc tốt hơn là cử Eragon và Saphira đến dãy Spine với một đạo quân để quét sạch chúng một lần và mãi mãi, là điều mà các Kỵ sĩ nên làm từ hàng thế kỷ trước rồi.”

Nasuada nhìn ông với vẻ bất mãn. “Nếu em cắt đứt thỏa thuận với tộc Urgal, họ sẽ nổi giận và tấn công chúng ta, chúng ta không thể chống chọi với họ và quân Đế quốc cùng lúc được. Để lâm vào tình cảnh ấy là một hành động hết sức điên rồ. Nếu, với trí thông minh của họ, tộc tiên, tộc rồng và các Kỵ sĩ cùng quyết rằng nên chừa cho tộc Urgal một con đường sống – mặc dầu những tộc ấy có thể hủy diệt họ trong chớp mắt – thì ta cũng noi theo gương ấy mà làm. Những tộc ấy hiểu rằng tận diệt tộc Urgal là sai, và chàng cũng nên hiểu là thế.”

“Với trí thông minh của chúng – Hừ ! Cứ y như rằng trí thông minh của chúng có ích lắm! Tốt thôi, chừa vài tên Urgal ra và giết số còn lại, khiến chúng không dám rời ổ trong vòng vài trăm năm nữa.”

Giọng nói đầy đau đớn và những vẻ gượng ép trên mặt ông khiến Nasuada bối rối. Nàng quan sát ông kỹ lưỡng hơn, cố xác định nguồn gốc của phản ứng kịch liệt này. Một vài phút sau, câu trả lời tự hiện ra, như phản ảnh, như tự minh bạch.

“Chàng đã mất ai?” Nàng hỏi.

Nắm tay Orrin vo tròn lại và từ từ, ngập ngừng đặt lên ngưỡng cửa sổ, như thể ông muốn nện một cú cật lực song lại không dám. Ông đánh vào thành cửa hai lần, và nói, “Một người bạn lớn lên cùng ta tại lâu đài Borromeo. Ta không nghĩ nàng đã gặp cậu ta lần nào. Cậu ta là một trong những trung úy tại kỵ đoàn của ta.”

“Anh ấy chết như thế nào?”

“Như nàng dự đoán thôi. Lúc mọi người vừa đến dãy chuồng ngựa ở cổng thành phía Tây và đang canh chừng không cho chúng quấy phá khi đó một tên trong số chúng lao ra từ cửa ngăn chuồng gần đó và đâm xuyên qua người cậu ấy bằng một cây chĩa. Khi tên đó bị dồn vào góc, hắn thét lên những lời vớ vẩn và vô nghĩa về lũ Urgal và về việc bọn hắn không bao giờ chịu sự chi phối… Điều đó chẳng thể giúp ích được cho hắn ngay cả khi thực sự có. Ta đã kết liễu hắn bằng chính đôi tay này.”

“Em rất tiếc,” Nasuada nói. 

Những viên ngọc quý trên vương miện chiếu sáng lấp lánh khi ông gật đầu. 

“Dù có đau đớn cách mấy, chàng vẫn không thể để sự đau buồn chi phối quyết định của chàng … Việc ấy rất khó, em biết – em biết chứ - nhưng chàng phải trở nên mạnh mẽ hơn bản thân, vì lợi ích của thần dân.”

“Trở nên mạnh mẽ hơn chính bản thân,” ông nhại lại bằng chất giọng đầy chua chát.

“Vâng. Thần dân đòi hỏi ở chúng ta nhiều hơn những người khác; vì vậy chúng ta phải phấn đấu hết sức để chứng tỏ rằng chúng ta xứng đáng với trọng trách ấy… Tộc Urgal đã giết cha em, chàng nên nhớ điều đó, nhưng em vẫn nén mình để chúng trở thành đồng minh với Varden đấy thôi. Em sẽ không cho phép bất cứ điều gì gây cản trở cho việc họ và quân đội của chúng ta trở thành một thể thống nhất, bất chấp việc ấy có gây đau khổ đến đâu.” Nàng nâng đôi tay lên, bày những vết sẹo ra trước mặt ông lần nữa.

“Thế, đó chính là câu trả lời của nàng? Nàng sẽ không cắt đứt với lũ Urgal?”

“Không.”

Orrin chấp nhận việc này với thái độ bình tĩnh đến mức nó khiến nàng lo lắng. Rồi ông ghịt chặt mảnh nhung bằng cả hai tay và tiếp tục quan sát thành phố. Trên các ngón tay của ông là bốn chiếc nhẫn, một trong số đó là chiếc ấn hoàng gia của Surda được khắc trên mặt thạch anh tím: một con nai có gạc sừng với những nhánh tầm gửi đâm vào chân tạo thành nhiều vết thương nó đứng trên một chiếc đàn hạc và đối diện là hình ảnh một pháo đài vững chắc.

“Chí ít,” Nasuada nói, “quân chúng ta vẫn chưa đụng độ những đội lính vô cảm.” 

“Ý nàng là lũ xác sống biết cười,” Orrin lầm bầm, sử dụng thuật ngữ khá thông dụng trong quân Varden. “À, và Murtagh hay Thorn, những người này làm ta băn khoăn.”

Sau một khoảng trầm mặc, nàng nói, “Thí nghiệm lúc tối qua của chàng ra sao? Có thành công không?”

“Ta quá mệt mỏi để có thể xem xét nó. Thay vào đó, ta đã ngủ thiếp đi.”

“À.”

Vài phút sau, bằng một sự đồng ý ngầm, họ cùng tiến đến bàn làm việc được dựng sát vách lâu đài. Hàng núi giấy cứng, thẻ gỗ và cuộn giấy da chất đầy cả mặt bàn. Nasuada quan sát tổng quát khung cảnh dễ làm nản lòng này và thở dài. Chỉ nửa tiếng trước, nơi này không có gì, nó đã từng được cô hầu của nàng dọn dẹp sạch sẽ.

Nàng tập trung lên đoạn báo cáo quá-ư-là-quen-thuộc, một danh sách ước lượng số tù binh mà quân Varden bắt sống trong đợt công thành Belatona, với những cái tên của các nhân vật quan trọng được gạch dưới bằng mực đỏ. Nàng và Orrin đã thảo luận về việc ấy từ khi Farica trở lại để tháo dải băng cho nàng.

“Em chẳng thể nghĩ được cách thoát khỏi mớ bòng bong này,” nàng thừa nhận.

“Ta có thể tuyển thêm lính gác từ những người này. Như thế, ta sẽ không cần phải lưu lại quá nhiều binh chính quy.”

Nàng chọn ra một bản báo cáo. “Có thể, nhưng sẽ rất khó để ta tuyển được người phù hợp, và các thầy phù thủy đang trong nguy cơ làm việc quá sức …”

“Du Vrangr Gata đã tìm ra phương thức phá vỡ lời tuyên thệ bằng cổ ngữ chưa?” Ngay khi Nasuada đưa ra đáp án tiêu cực, ông tiếp tục hỏi, “Họ đã thật sự bắt tay tìm kiếm chưa?”

“Không có tin tức thiết thực. Em cũng đã hỏi tộc tiên, nhưng họ cũng chẳng gặp may suốt bao năm qua hơn chúng ta trong vài ngày vừa rồi đâu.”

“Nếu vấn đề này không được giải quyết sớm, ta có thể phải trả giá bằng chiến tranh”, Orrin nói, “Chính vấn đề này, ngay tại đây.”

Nàng day day hai bên thái dương. “Em biết”. Trước khi rời khỏi sự bảo hộ của tộc người lùn tại Farthen Dûr và Tronjheim, nàng đã cố lường trước mọi thách thức mà Varden sẽ đối mặt khi giành thế chủ động. Tuy nhiên, yếu tố đang đe dọa họ lại khiến nàng hoàn toàn ngạc nhiên.

Vấn đề đầu tiên đã sáng tỏ trận chiến trên Cánh đồng Cháy kết thúc, khi họ nhận ra rằng toàn bộ các tướng lĩnh trong quân đoàn của Galbatorix, và phần lớn các binh lính của lão đều bị ép phải thề nguyền sự trung thành của họ với Galbatorix và Đế quốc. Nàng và Orrin nhanh chóng nhận ra rằng hai người không thể tin vào số người này một khi tên bạo chúa cùng Đế quốc của hắn còn tồn tại, và có lẽ ngay cả khi cả hai điều kiện này biến mất. Hệ quả là những người trong số ấy không được phép gia nhập quân đội Varden, dù họ có muốn cách mấy đi chăng nữa vì phần đông đều e ngại sự chi phối của lời thề.

Nasuada chưa toàn tâm chú ý đến tình hình vào thời điểm ấy. Tù binh là minh chứng cho chiến tranh, và nàng đã cùng vua Orrin định sẵn sẽ đưa họ về Surda giam giữ, nơi các binh lính bị bắt sẽ phải tham gia xây dựng đường sá, khai thác đá, đào lũy và các công việc nặng nhọc khác. 

Mãi cho đến khi quân Varden nắm quyền tại thành phố Feinster, nàng mới có thể nhìn thấu toàn bộ sự tình. 

Gián điệp của Galbatorix không chỉ ép buộc các binh sĩ phải thề nguyền lời thề trung thành, mà còn cho những nhà quý tộc, cho những quan chức hiện đang phục vụ cho phe đồng minh, cho những cá nhân riêng lẻ nằm rải rác trong thành phố - với số lượng người bị tình nghi nhiều đến nỗi nàng chắc rằng quân Varden không thể nhận biết hết được. 

Có nhiều người mà họ đã nhận ra, tuy vậy, vẫn phải cố gắng giữ nguyên và không dám truy ra, vì sợ rằng những người đó sẽ cố gắng lật đổ Varden.

Tìm những người đáng tin cậy, rồi đến những người muốn gia nhập quân kháng chiến khó khăn hơn Nasuada dự đoán rất nhiều.

Bởi vì cần phải lưu giữ toàn bộ những người cần thiết, nàng không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc để lại gấp đôi số lính chính quy tại Feinster so với dự tính ban đầu. Và, với số lượng tù binh quá đông, thành phố ngày càng tê liệt, ép nàng phải hướng nguồn cung cấp từ căn cứ chính của Varden đến đó nhằm tránh nạn đói hoành hành. Họ không thể duy trì trạng thái này được lâu, và tình huống càng tệ hơn khi họ cũng đang khống chế thành Belatona. 

“Thật đáng tiếc vì tộc người lùn chưa trở về,” Orrin nói, “Chúng ta có thể trông cậy vào họ.”

Nasuada đồng tình. Hiện nay chỉ có vài trăm người lùn trong quân ngũ của Varden; phần lớn trong số họ đã trở về Farthen Dûr để dự lễ chôn cất vị vua quá cố Hrothgar, và đợi tộc trưởng của các bộ lạc chọn ra người kế vị, việc mà nàng đã nguyền rủa không biết bao nhiêu lần. Nàng đã cố thuyết phục phía người lùn hãy bổ nhiệm một người đại diện tại thời buổi chiến tranh, nhưng họ lại cứng đầu như đá và khăng khăng quyết rằng sẽ tiếp tục các nghi lễ cổ truyền, mặc dầu việc ấy đồng nghĩa với việc bỏ rơi các chiến dịch còn dang dở của quân Varden. Trong loạt sự kiện ấy, tộc người lùn cuối cùng đã chọn ra được vị vua mới – cháu trai của Hrothgar, Orik – và đã xuất chinh từ dãy núi Beor xa xôi để tái nhập với quân Varden. Ngay tại thời điểm này, họ đang hành quân xuôi theo những cánh đồng rộng thênh thang tại phía Bắc Surda, đâu đó ở giữa hồ Tüdosten và sông Jiet.

Nasuada tự hỏi rằng liệu họ có thể chiến đấu cho đến khi những người lùn đến đây không. Như một luật bất thành văn, tộc người lùn vốn khỏe mạnh hơn loài người, nhưng họ đã bỏ ra hai tháng để cuốc bộ, và việc ấy có thể gây mệt mỏi cho cả những giống sinh vật khỏe mạnh nhất. Ắt hẳn họ đã phát ngấy vì phải trông thấy cùng một khung cảnh trong khoảng thời gian dài, nàng nghĩ thế.

“Chúng ta đã có quá nhiều tù binh rồi. Và một khi ta chiếm cứ Dras-Leona …” nàng lắc đầu.

Một ý nghĩa bất ngờ xuất hiện, Orrin nói, “Nếu chúng ta bỏ qua Dras-Leona thì sao?” Ông mày mò trong chồng giấy da trên bàn cho đến khi tìm được một bản đồ vẽ tay to tướng về Alagaësia của người lùn, trải dài nó trên các bản báo cáo về vấn đề hành chính. Địa hình nhấp nhô khiến cả vùng đất có hơi bất thường: một vài đỉnh nhọn nhô lên tại phía Tây rừng Du Weldenvarden; vết trũng xuống tại dãy núi Beor; những hẻm núi và khe núi xuyên suốt sa mạc Hadarac; những dãy đá chảy dài xuyên suốt từ phần xa nhất ở hướng Bắc của dãy Spine, tạo ra nhiều gợn lăn tăn bên dưới. “Nhìn này.” Với ngón giữa, ông vạch ra một đường từ Belatona đến thủ đô của Đế quốc, Urû’baen. “Nếu chúng ta đánh thẳng vào đây, chúng ta sẽ chẳng cần phải đến gần Dras-Leona. Sẽ có chút khó khăn khi phải vượt một quãng dài như vậy, nhưng chúng ta sẽ làm được.”

Nasuada không cần phải cân nhắc lời đề nghị của ông; nàng đã tính đến đến khả năng này từ lâu. “Rủi ro quá lớn. Galbatorix vẫn có thể tấn công chúng ta bằng số binh lính đang phòng thủ tại Dras-Leona với số lượng không nhỏ, nếu gián điệp của ta đủ độ tín nhiệm thì ta sẽ bị kẹt vào thế gọng kìm từ hai phía. Em không biết cách nào để thua nhanh hơn như thế trong một trận chiến, hay một chiến trường. Không, chúng ta bắt buộc phải chiếm Dras-Leona.”

Orrin thừa nhận điểm này bằng cách hơi nghiêng đầu xuống. “Thế thì chúng ta cần triệu binh từ Aroughs. Chúng ta cần tất cả các chiến binh nếu muốn tiếp tục.”

“Em biết. Em đã dự trù để chắc rằng cuộc vây hãm sẽ hoàn tất trước khi hết tuần.”

“Không phái Eragon đến đó, ta mong là thế.”

“Không, em có kế hoạch khác.”

“Tốt. Và trong khoảng thời gian này? Chúng ta sẽ làm gì với số tù nhân?”

“Như chúng ta đã làm khi trước: canh phòng, tập trung tụ điểm và tuần tra. Có lẽ ta nên yểm chú hạn chế cử động để không cần phải trông chừng chúng từng li từng tí. Em không nghĩ ra hướng giải quyết khác, trừ việc xử tử hàng loạt, và em thà –” Nàng cố mường tượng những điều nàng sẽ không thực hiện chỉ để đánh bại Galbatorix. “Em thà không cần dùng cách thức tàn nhẫn như thế.”

“Tốt.” Orrin cúi xuống bản đồ, co vai lại như một con kền kền khi ông nhìn chăm chú vào những nét chữ nguệch ngoạc đã mờ đi khi nối ba đỉnh Belatona, Dras-Leona và Urû’baen với nhau.

Và ông giữ nguyên tư thế ấy cho đến khi Nasuada lên tiếng, “Còn việc gì khác mà chúng ta phải duyệt nữa không? Jörmundur đang chờ lệnh và Hội đồng Bô lão gửi thỉnh cầu để được yết kiến em.”

“Ta lo.”

“Về chuyện gì?”

Orrin đặt một tay lên bản đồ. “Rằng việc này đã vượt quá tưởng tượng từ lúc bắt đầu… Rằng lực lượng của ta và của các đồng minh đã bị phân tán đến mức đáng sợ, và nếu Galbatorix đích thân tham dự cuộc chiến này, lão có thể tiêu diệt chúng ta dễ như khi Eragon và Saphira giết một bầy dê. Toàn bộ các chiến lược của chúng ta đều phụ thuộc vào việc xoay sở sao cho Eragon, Saphira cùng các phù thủy phe chúng ta cùng lúc đối mặt với Galbatorix. Hiện trong quân chúng ta chỉ có một số lượng nhỏ các phù thủy có thể huy động, và chúng ta sẽ không thể tập hợp tất cả bọn họ cho đến khi chúng ta đến được Urû’baen và hợp lực với nữ hoàng Islanzadí và quân đội của bà. Cho đến lúc ấy, chúng ta vẫn dễ bị tập kích đến mức đáng thương. Chúng ta vẫn đang mạo hiểm để đánh cược rằng sự khinh người của Galbatorix sẽ khiến lão ở thế bị động, tới lúc cái bẫy của chúng ta ập xuống đầu lão.”

Nasuada thấu hiểu mối lo của ông. Tuy nhiên, vực dậy lòng tự tin của Orrin quan trọng hơn là tỏ ra lo ngại cùng với ông, vì nếu ông trở nên bạc nhược, điều ấy sẽ làm ảnh hưởng đến trách nhiệm của ông và làm giảm sĩ khí của binh lính. “Chúng ta hoàn toàn không thể phòng thủ,” nàng nói, “Không làm gì nữa. Dauthaert hiện nằm trong tay ta, và với thứ vũ khí ấy, em nghĩ chúng ta có thể hạ gục Galbatorix và Shruikan, khi chúng có thể gia nhập trận trấn thành Urû’baen.”

“Có lẽ thế.”

“Hơn nữa, lo lắng suông chẳng giúp ích được gì. Chúng ta không thể thúc giục người lùn đi nhanh hơn, hay đẩy mạnh quá trình tiến tới Urû’baen, hay cúp đuôi bỏ chạy. Vì vậy em sẽ không để tình huống hiện tại ảnh hưởng quá đáng đến chàng đâu. Tất cả những gì chúng ta cần làm là phấn đấu để đối mặt với số phận, dù bất cứ điều gì đang chờ chúng ta đi chăng nữa. Nói cách khác là em sẽ không cho phép những hành động của Galbatorix làm bấn loạn tâm trí. Em không chấp nhận việc bị quyền lực của lão chi phối như thế.”

Một tiếng thét chói tai, lớn và cao kỳ lạ vang lên. 

Eragon cứng người như thể có ai đâm cậu bằng một mũi kim vậy. Mặc dù đã dành hầu hết cả ngày cho việc chứng kiến cảnh binh sĩ tàn sát nhau - ngay cậu cũng giết được vài người - nhưng cậu vẫn không thể không lo lắng khi nghe tiếng la đau đớn của dì Elain. Thanh âm của dì khó nghe đến mức cậu bắt đầu tự hỏi liệu dì có thể sống sót nổi qua lần sinh này không. 

Bên cạnh cái thùng gỗ Eragon đang ngồi, Albriech và Baldor đang ngồi chồm hổm ngắt mấy cọng cỏ dưới chân. Những ngón tay thô dày của hai người mò mẫm rà soát rất kỹ qua từng luống cỏ bằng một phương pháp nhất định trước khi nghiền nát chúng. Trán của họ đẫm mồ hôi, hai cặp mắt ánh lên vẻ giận dữ và tuyệt vọng. Thi thoảng cả hai lại trao đổi ánh nhìn hay nhìn tới túp lều của dì Elain, ngoài ra hai anh em chỉ biết cúi nhìn xuống đất và phớt lờ mọi thứ xung quanh. 

Cách đó vài thước, Roran cũng đang ngồi trên một chiếc thùng như Eragon, chỉ có điều do nằm ngang nên mỗi khi anh cử động, cái thùng cũng chuyển động theo. Một vài người khác từ làng Carvahall cũng tụ tập dọc theo con đừơng đầy bùn đất, đa phần là đám đàn ông có quen biết với chú Horst và hai người con của chú ấy , hoặc có vợ đang phụ giúp cho bà lang Gertrude chăm sóc cho dì Elain. Sừng sững đằng sau họ là Saphira. Chiếc cổ của cô ả cong vòng như cánh cung được kéo căng, trong khi phần chóp đuôi của nó cứ ngoe nguẩy như lúc đi săn. Ả rồng liên lục le chiếc lưỡi đỏ thẫm của mình giống như đang "nếm" trong không khí mùi vị của dì Elain và đứa con chưa chào đời của dì ấy vậy. 

Eragon xoa bóp phần cơ bị nhức mỏi trên cánh tay trái. Họ đã chờ được vài tiếng rồi, trời cũng đã bắt đầu nhá nhem tối. Những cái bóng đen sẫm được kéo dài ra từ mọi vật, hướng về phía đông tựa như đang cố với lấy chính đường chân trời. Không khí đã dịu mát xuống bớt, đám ruồi muỗi từ dòng sông Jiet gần đó đang lượn lờ vo ve chung quanh họ. 

Một tiếng thét nữa phá tan bầu im lặng. 

Đám đàn ông đứng ngồi không yên. Họ làm các cử chỉ giống như đang xua đuổi đi những rủi ro không thể ngờ tới và thì thầm với nhau những lời, mặc dù rất nhỏ, Eragon vẫn nghe rõ mồn một. Họ đang bàn tán về cái thai của dì Elain; một số còn nghiêm trọng hóa rằng nếu bà ấy không sinh đứa bé ra sớm, cả hai rất có thể bị nguy hiểm đến tính mạng. Vài người khác thì nói rằng "Thật khổ cho một thằng đàn ông nếu vợ mất vào thời bình, nhưng ngặt nỗi lại vào ngay lúc này, ngay lúc này đây," hoặc "Thật bất hạnh..." Một số khác thì đổ lỗi cho những rắc rối giữa dì và đám Ra'zac hay những sự kiện diễn ra trong thời gian cả làng du hành đến căn cứ quân Varden. Cũng có khá nhiều người nghi ngờ về sự giúp đỡ của Arya cho buổi sinh nở này. "Cô ta thuộc về Tiên tộc, chứ không phải Con Người," lão thợ mộc Fisk nói. "Đáng lẽ cô ta chỉ nên lo lắng chuyện trong tộc, chứ không phải dí mũi vào chỗ không phải của mình. Ai mà biết được mục đích thực sự của cô ta chứ?" 

Eragon còn nghe được nhiều thứ khác, nhưng cậu quyết định giữ im lặng vì cậu chẳng muốn làm dân làng khó chịu hơn khi biết thính giác của mình giờ đã phát trểin vượt bậc. 

Chiếc thùng phía dưới Roran phát ra vài tiếng cót két khi anh rướn người về phía trước. "Cậu nghĩ chúng ta có nên..."

"Không cần," Albriech trả lời.

Eragon siết chiếc áo choàng vào sát người hơn. Cái lạnh đã bắt đầu ngấm vào xương tủy của cậu. Nhưng cậu quyết định sẽ không rời đi cho đến khi dì Elain hoàn tất việc sinh nở. 

"Nhìn kìa," Roran reo lên đầy hưng phấn. 

Albriech và Baldor đồng thời ngẩng đầy lên. 

Từ bên kia, Katrina bước ra khỏi lều, xách theo một đống giẻ dơ bẩn. Trong một khoảnh khắc trước khi cửa lều đóng lại, Eragon nhìn thoáng được bóng của chú Horst và một người đàn bà khác từ làng Carvahall - cậu không chắc là ai - đứng ở chân giường nơi dì Elain đang nằm. 

Khẽ liếc sang đám người đang nhìn, Katrina nửa đi nửa chạy tới chỗ bà Isold, vợ của Fisk, đang đun sôi những chiếc giẻ để tái sử dụng. 

Chiếc thùng kêu cót két khi Roran chuyển thế ngồi. Eragon có phần hi vọng Roran sẽ đuổi theo chị Katrina, nhưng anh ta vẫn ngồi nguyên tại chỗ giống như Albriech và Baldor. Họ và cả đám dân làng Carvahall đều theo sát từ động tác của Katrina đến mức không chớp mắt. 

Eragon cau mày khi tiếng thét của dì Elain một lần nữa xé toang bầu không khí, lần này nghe cũng chẳng khá hơn lần trước. 

Cửa lều lại được vén lên lần nữa, tiếp đó là Arya xông mạnh ra ngoài, cùng với mái tóc rối bời và hai cánh tay áo đã bị xăn lên. Tóc của nàng lòa xòa trước mặt khi nàng bước nhanh đến phía dưới một mái hiên gần đó, chỗ ba cận vệ Tiên tộc của Eragon đang đứng. Trong vài khắc, nàng trao đổi vài lời cấp bách với một vị tiên nữ có khuôn mặt gầy gò tên Invidia, rồi nàng mau chóng quay ngược lại căn lều. 

Eragon bắt kịp Arya trước khi nàng phóng đi thêm được vài mét. "Thế nào rồi?" cậu hỏi. 

"Tệ lắm." 

"Làm gì mà lâu dữ vậy? Em không thể làm dì ấy sinh đứa bé ra nhanh hơn được à?"

Biểu hiện của Arya, vốn đã căng thẳng, giờ lại còn trở nên nghiêm trọng hơn. "Em có thể hát cho đứa bé chào đời nhanh hơn, nhưng Gertrude và mấy người phụ nữ khác chỉ cho phép em được dùng những thần chú đơn giản nhất." 

"Vớ vẩn! Tại sao thế?"

"Vì pháp thuật khiến họ sợ hãi, và chính em cũng làm cho họ sợ."

"Vậy nói với họ rằng em không hề có ý định gì nguy hiểm. Dùng cổ ngữ ấy, và họ sẽ bắt buộc phải tin tưởng em thôi."

Arya lắc đầu. "Điều đó chỉ khiến mọi việc tồi tệ hơn mà thôi. Họ sẽ nghĩ em đang cố ếm bùa họ và sẽ đuổi em ra ngoài mất." 

"Nhưng chắc Katrina..."

"Cô ấy là nguyên nhân em còn có thể thực hiện chút phép thuật đấy."

Dì Elain lại la lên một lần nữa. 

"Ít ra họ cũng phải cho em giảm con đau của dì ấy chứ?"

"Em chỉ làm được đến đó thôi." 

Eragon xoay mình về phía căn lều. "Thật vậy sao," cậu gầm khẽ, hàm răng nghiến chặt lại. 

Một bàn tay ôm lấy cánh tay trái của Eragon và níu cậu lại. Đầy thắc mắc, cậu quay nhìn Arya để tìm một lời giải thích. Cô ta lắc đầu. "Đừng," nàng nói. "Có những phong tục còn cổ xưa hơn cả dòng thời gian. Nếu đi ngược lại nó, cậu sẽ làm xấu mặt bà Gertrude và khiến tất cả phụ nữ trong làng chống lại cậu đấy."

"Anh không quan tâm!"

"Em biết, nhưng tin em đi: điều thông minh nhất anh nên làm ngay bây giờ là ngồi chờ như những người khác." Như muốn nhấn mạnh quan điểm của mình, nàng buông tay Eragon ra. 

"Anh đâu thể đứng yên để dì Elain đau đớn như thế!" 

"Nghe lời em đi. Sẽ tốt hơn nếu anh đừng dính vào. Em hứa sẽ giúp bà Elain bằng mọi cách có thể, nhưng cậu tuyệt đối không được bước vào căn lều đó. Sự có mặt của anh chỉ tạo ra thêm những xích mích không cần thiết mà thôi... Làm ơn đi."

Eragon lưỡng lự, cằn nhằn với nỗi kinh tởm và vung tay lên trời khi dì Elain lại phát ra một tiếng thét khác. "Được rồi," cậu nói, vươn người tới gần Arya, "nhưng cho dù có bất cứ điều gì, không được để dì ấy hoặc đứa trẻ phải chết. Anh không quan tâm em làm thế nào, chỉ đừng để họ phải chết."

Arya nhìn cậu với vẻ nghiêm trọng tột bậc. "Em sẽ không bao giờ để một đứa bé lâm vào cảnh hiểm nguy," nàng trả lời và quay bước về phía cửa lều. 

Sau khi nàng đã biến mất vào ngôi lều, Eragon mới trở về chỗ đám Roran, Albriech và Baldor đang tụ tập và ngồi xuống lại chỗ cũ.

“Sao rồi?” Roran hỏi.

Eragon nhún vai. “Họ làm tất cả những gì đáng làm. Chúng ta phải kiên nhẫn … Đó là tất cả.”

“Dường như là cô ta có chút chuyện gì đó nên nói ra hơn,” Baldor nói. “Kể cả hiểu ngầm cũng giống như vậy.”

Ánh mặt trời đã chuyển màu trở thành màu da cam và đỏ vang tại đường cuối chân trời. Vài đám mây lác đác còn sót lại trên bầu trời hướng Tây có được màu sắc giống như dấu tích của cơn bão vừa thổi qua gần đây. Phía cao trên đầu, bầy chim hoàng yến chuyên bắt đám sâu bướm, ruồi và sâu bọ khác đang đi tìm ổ mới cho bữa ăn chiều của chúng.

Dần dần, tiếng la khóc của Elain giảm dần cường độ, nhẹ hơn so với những lần trước đó, những cơn hét kinh hoàng, những tiếng rên kinh dị làm dựng tóc gáy Eragon. Hơn bao giờ hết, cậu muốn giải thoát dì khỏi nỗi đau khổ nhưng cậu không thể quên lời khuyên của Arya. Do đó, cậu ở lại tại chỗ, bồn chồn đứng ngồi không yên, cắn bầm móng tay và bận rộn trao đổi với Saphira bằng những câu ngắn gọn và vô nghĩa.

Khi mặt trời xuống chạm vào đất, nó trải dài tận chân trời giống như lòng đỏ trứng gà vĩ đại phun ra từ cái vỏ của nó. Bầy dơi bắt đầu xuất hiện chen lẫn vào đám chim hoàng yến, tiếng đập từ đôi cánh da của chúng yếu ớt và điên cuồng, tiếng rít cao độ của chúng gần như làm điếc tai Eragon.

Rồi sau đó, Elain thốt ra một tiếng thét nhấn chìm tất cả những tiếng động xung quanh, loại tiếng thét như thế này Eragon hy vọng rằng cậu sẽ không bao giờ nghe thấy nữa.

Tiếp nối là một khoảnh im lặng ngắn ngủi và sâu thẳm.

Nó chấm dứt bằng tiếng khóc lớn, ngắt quãng của một đứa bé sơ sinh vang lên từ trong lều- tiếng kèn lệnh của nhân loại thông báo một sinh mạng vừa chào đời. 

Ngay khi nghe tiếng khóc, Albriech và Baldor chợt toét miệng cười, Eragon Roran và những người đàn ông chờ đợi bên ngoài cũng vậy.

Niềm hân hoan ngắn ngủi và sống động. Ngay khi sự cổ vũ ngưng lại, những phụ nữ trong lều bắt đầu than van ai oán, thứ âm thanh thảm thiết phiền não làm Eragon lạnh người kinh hãi. Cậu biết sự than khóc của họ có ý nghĩa gì, cái mà họ luôn nghĩ tới: một thảm cảnh đã xảy ra.

“Ồ không,” cậu nói, không tin vào điều đó lúc cậu nhảy xuống từ cái thùng. Đứa bé không thể chết, không thể … Arya đã hứa.

Tựa như đang trả lời ý nghĩ của cậu. Arya mở màn che lều và chạy về hướng cậu, nhảy vọt qua con đường với những cú sải chân không tưởng tưởng nổi.

“Chuyện gì đã xảy ra?” Baldor hỏi khi cô dừng lại.

Arya lờ cậu ta đi và nói, “Eragon, đi nào”

“Chuyện gì đã xảy ra?” Baldor thét lên giận dữ, cậu vươn tay tới vai của Arya. Trong một thoáng dường như một hành động tức khắc, cô tóm lấy cổ tay cậu, bẻ cánh tay cậu ra sau lưng làm cậu đứng khom người xuống giống như người què cẳng. Gương mặt cậu nhăn lên vì đau.

“Nếu như anh muốn em gái cậu sống thì đứng sang một bên và đừng can thiệp!” Cô thả cậu ra với một cái đẩy làm cậu bò loạng choạng đến tay Albriech, rồi cô xoay mình bước ngược về lều của Horst.

“Chuyện gì đã xảy ra trước đó?” Eragon hỏi sau khi nhập bọn với cô.

Arya quay lại đối diện với cậu, đôi mắt sáng lên. “Đứa bé khỏe mạnh nhưng nó sinh ra bị sứt môi.”

Nào bây giờ Eragon hiểu lý do những người phụ nữ thốt lên lời than vãn. Trẻ con bị nguyền rủa bởi cái môi sứt hiếm khi được phép sống còn; rất khó để nuôi chúng ngay cả khi cha mẹ chúng có thể nuôi chúng lớn, những đứa trẻ này thường bị đau khổ rất nhiều: xã hội từ chối, mọi người chọc ghẹo và chúng không thể tìm được người phối ngẫu tương xứng. Trong nhiều trường hợp, nếu như đứa trẻ chưa được sinh ra thì tốt hơn cho tất cả mọi người.

“Anh phải chữa lành cho nó, Eragon,” Arya nói.

“Anh? Nhưng anh chưa bao giờ … Tại sao không phải là em? Em biết rành về việc đó hơn anh.”

“Nếu như em thay đổi gương mặt đứa bé, mọi người sẽ nói em đã bắt cóc nó và tráo người khác. Em biết quá rõ về những câu chuyện nhân loại kể về tiên tộc, Eragon – rất rõ ràng. Em sẽ làm nếu như không có cách khác nhưng đứa bé sẽ chịu khổ về vần đề này mãi mãi. Anh là người duy nhất có thể giúp nó thoát khỏi cảnh khổ này.”

Sự hoảng sợ dâng lên trong lòng cậu. Cậu đã không muốn nhận lấy trách nhiệm về mạng sống cho một người khác nữa, cậu đã nhận quá nhiều rồi.

“Anh phải chữa lành cho đứa bé,” Arya nói, với giọng bắt buộc. Eragon nhắc nhở bản thân những tiên tộc đáng mến này quý trọng trẻ con của bọn họ như thế nào cũng như tất cả những đứa trẻ tộc khác.

“Em sẽ phụ anh khi anh cần chứ?.

“Đương nhiên rồi.”

Em cũng vậy, Saphira nói. Anh cần phải hỏi sao?

“Được rồi,” Eragon nói và xiết chặt lấy cán thanh Brisingr, cậu quyết định. “Tôi sẽ làm vậy.”

Với Arya đi gần đằng sau, cậu thẳng bước tới cái lều, vạch tầm màn chắn cửa bằng len nặng nề lên và chui vào. Khói đèn cầy làm cay mắt cậu. Năm người phụ nữ đến từ Carvahall đứng tụm vào với nhau cạnh vách lều. Tiếng than oán của họ làm tê liệt cậu giống như một cú đấm thật sự. Họ lắc lư, uốn éo thân mình như lên đồng, họ vừa nắm tóc, xé rách quần áo vừa gào khóc. Ông Horst đứng ở cuối cái giường xếp đang thở hổn hển, kiệt lực tranh cãi đỏ mặt với Gertrude. Về phần bà ta, bà lang mập mạp đang ôm trong ngực một gói vải mà Eragon nhận thức rằng trong đó có đứa bé, cho dù cậu không thấy mặt nó bởi vì nó đang ngoe nguẩy và tạo thêm tiếng ồn trong lều bằng tiếng khóc thét của nó. Hai má tròn trĩnh của bà ta bóng nhẫy mồ hôi, và tóc của bà dính bệt vào da. Nhiều dòng chất lỏng khác nhau chảy dọc xuống từ hai cánh tay trần của bà . Ở đầu giường xếp, Katrina quỳ gối trên một cái nệm hình tròn và đang lau trán của Elain bằng một cái khăn ướt.

Eragon không nhận ra Elain, gương mặt bà nhăn nhó và bà có vòng tròn màu đen chung quanh đôi mắt thất thần dường như không có khả năng nhận thức nữa. Một dòng nước mắt kéo dài từ đuôi con mắt chảy qua thái dương và biến mất dưới đám tóc rối beng của bà. Miệng bà há ra rồi ngậm lại, bà rên rỉ những từ vô nghĩa. Một tấm vải dính máu che phần thân thể của bà.

Cả hai Horst và Gertrude không nhận ra Eragon cho đến khi cậu đến gần hai người. Eragon đã lớn nhanh kể từ khi rời Carvahall nhưng ông Horst vẫn đứng cao hơn cậu một cái đầu. Khi cả hai người nhìn thấy cậu, một ánh hy vọng chợt sáng lên trong nét mặt ông thợ rèn.

“Eragon!” Ông vỗ mạnh lên vai cậu, cúi người dựa vào cậu và nói “Cháu đã nghe?” tựa như những sự cố này cậu hiểu chút ít. Đó không phải là câu hỏi nhưng Eragon vẫn gật đầu. Ông Horst liếc nhìn Gertrude thật nhanh sau đó bộ râu rậm rạp như cái xẻng của ông ta di chuyển qua lại khi cái hàm ông động đậy, ông ta lè lưỡi liếm môi. “Cháu nghĩ cháu có thể … có thể làm bất kể điều gì cho con bé phải không?”

“Vâng, có lẽ thế,” Eragon nói. “Cháu sẽ cố gắng.”

Cậu đưa hai tay ra. Sau một thoáng ngập ngừng, Gertrude đặt cái gói ấm vào tay cậu rồi bà lùi lại thái độ bối rối.

Nằm lẫn trong đống vải vóc là một con bé tí xíu, khuôn mặt nhăn lại. Da con bé đỏ đậm, đôi mắt khép kín sưng vù làm cho con bé có vẻ nhăn mặt giống như nó đang giận dữ đối với cách đối xử tệ bạc vừa rồi, đó là câu trả lời mà Eragon nghĩ rằng nó hoàn toàn có lý. Nét đặc trưng nổi bật nhất của con bé đó là một vết hở khá rộng chạy dài từ lỗ mũi bên trái đến giữa môi trên của nó. Xuyên qua đó, có thể thấy rõ cái lưỡi nhỏ xíu màu hồng của con bé, nằm dài ướt nhẹp như con ốc sên thỉnh thoảng lại cựa quậy nhúc nhích.

“Làm ơn,” Horst nói. “Có cách nào cháu có thể …”

Eragon co rúm người lại trước một tiếng than van đặc biệt lanh lãnh điếc tai, cậu nói. “Cháu không thể làm việc ở đây.”

Lúc cậu xoay người rời đi, Gertrude nói với cậu từ phía sau, “Tôi sẽ đi với cậu. Một người trong chúng ta ai biết chăm sóc đứa bé cần phải ở lại với nó.”

Eragon không muốn Gertrude dòm ngó cậu trong khi cậu chữa cho gương mặt đứa bé, khi cậu định nói với bà như thế, cậu nhớ lại những gì Araya nói về việc tráo người. Ai đó từ Carvahall, người mà toàn thể dân làng có thể tin tưởng, cần phải làm chứng cho sự chuyển đổi hình dạng của đứa bé để họ có thể tin rằng đứa bé vẫn là cùng một đứa trước đây.

“Như bà mong muốn,” cậu nói và tự dừng lại sự phản đối của mình.

Đứa bé oằn oại trong tay cậu và thốt ra một tiếng khóc não nùng ngay khi cậu rời khỏi lều. Đối diện bên đường, dân làng đứng và bàn tán, Albriech và Baldor bắt đầu hướng về cậu. Eragon lắc đầu, họ ngừng lại tại đó và theo dõi cậu với nét mặt bất lực.

Arya và Gertrude cùng chiếm lấy vị trí bên cạnh khi cậu bước xuyên qua căn trại đến lều của mình, mặt đất rung lên dưới những bước chân của Saphira đang theo sau họ. Những chiến binh vội vàng mở ra lối đi cho họ đi qua.

Eragon cố gắng sải chân đều bước để tránh chấn động đứa bé. Một mùi hương đậm đà cũ kỹ như đang quyện lấy cô bé như mùi của khu rừng trong ngày hè ấm áp.

Họ gần như tiến đến đích thì Eragon thấy được cô bé phù thủy Elva, đứng giữa hai dãy lều cạnh con đường, cô bé chăm chú nghiêm trang nhìn cậu với đôi mắt tròn màu tím. Cô bé mặc một cái váy màu đen và tím, một cái khăn dài bằng chỉ gấp qua đầu cô, để lộ ra một dấu óng ánh màu bạc hình ngôi sao trên trán cô giống như dấu hiệu Bàn Tay Bạc của cậu.

Không hề nói một chữ, cô cũng không ra vẻ định chận hoặc làm chậm cậu lại. Tuy vậy, Eragon đã hiểu sự cảnh cáo của cô bởi vì sự hiện diện của cô chính là điều khiển trách đối với cậu. Một lần trước đó cậu đã làm xáo trộn số mệnh của đứa bé sơ sinh với hậu quả thảm khốc. Cậu không thể cho phép cậu lập lại cái lỗi ấy nữa, không chỉ riêng bởi vì sự nguy hại nó gây ra mà còn bởi vì nếu như cậu làm nữa, Elva sẽ trở thành kẻ thù truyền kiếp của cậu. Cho dù cậu có đủ pháp lực, cậu vẫn sợ hãi Elva. Khả năng nhìn thấu tâm hồn người khác, thần thánh hóa nỗi đau và phiền muộn của họ và sự tiên đoán mọi sự việc sắp làm hại họ của cô, đã làm cô trở thành người nguy hiểm nhất Alagaesia.

Mặc kệ chuyện gì xảy ra. Eragon suy nghĩ khi cậu đi vào lều, Mình không muốn hại đứa bé này. Rồi cậu cảm thấy lại sự kiên quyết để tạo ra cơ hội cho nó sống một cuộc đời mà không bị xua đuổi bởi hoàn cảnh.

Tia nắng yếu ớt của mặt trời cuối ngày thẩm thấu xuyên qua lều của Eragon. Tất cả đồ vật trở nên xám xịt như được tạc ra từ đá cẩm thạch. Với khả năng nhìn của tiên tộc, Eragon có thể thấy mọi vật dễ dàng hơn nhưng cậu biết rằng Gertrude sẽ có vấn đề cho nên để giúp bà ấy cậu đọc một câu chú ngữ: “Naina hvitr un bollr …”. Một đốm sáng nhỏ lập lòe trôi nổi trong không khí trên đỉnh của cái lều. Đốm tròn trắng mềm mại không tỏa ra nhiệt lượng đáng kể nhưng lại tỏa sáng như một ngọn đèn lồng. Cậu kịp ngưng lại câu chú ngữ từ Brisingr để tránh việc thanh kiếm nổi lửa lên.

Cậu cảm thấy Gertrude dừng lại sau cậu, cậu quay lại để thấy bà ta nhìn chằm chằm vào đốm sáng, tay xiết chặt cái giỏ đang mang theo. Khuôn mặt quen thuộc của bà làm cậu nhớ lại căn nhà và Carvahall, nỗi nhớ nhà bỗng dưng gợn dậy trong lòng cậu.

Bà ta từ từ chuyển ánh mắt vào cậu và nói. “Cậu đã thay đổi rồi, tôi nghĩ chú bé ngày xưa tôi ngồi xem chiến đấu vật vã với cơn sốt đã không còn”.

“Bà biết là cháu vẫn thế mà” cậu trả lời.

“Không, tôi không cho là như vậy.”

Câu nói của bà ta làm cậu băn khoăn. Nhưng cậu không thể quan tâm nhiều đến điều đó, cho nên cậu để ngoài tai và đi về giường xếp của mình. Cậu chuyển đứa bé sơ sinh từ tay cậu sang một cái mền một cách nhẹ nhàng vô cùng, tựa như cô bé làm bằng thủy tinh vậy. Cô bé quơ nắm tay trước mặt cậu. Cậu mỉm cười, dùng đầu ngón tay giữa chạm nhẹ vào và đứa bé phì phèo nhỏ một tiếng.

“Cậu định làm gì?” Gertrude hỏi khi bà ta ngồi xuống cái ghế riêng lẻ gần thành lều. “Cậu làm thế nào để chữa lành đứa bé?”.

“Cháu cũng không biết nữa.”

Liền sau đó, Eragon nhận ra rằng Arya không đi theo họ vào trong lều. Cậu gọi tên cô, một lúc sau, cô ấy trả lời từ bên ngoài, giọng cô như bị nghẹn lại bởi lớp vải dày. “Em ở đây,” cô nói. “Em chờ ở đây, nếu anh cần em, anh hãy truyền ý nghĩ của anh về hướng em và em sẽ tới.”

Eragon nhăn mặt một ít. Cậu định dựa vào cô đang ở gần để giúp cậu trong lúc làm thủ tục ở những phần cậu không biết hoặc chỉ điểm cậu nếu như cậu làm sai. Thôi, mặc kệ. Ta vẫn có thể hỏi cô ấy nếu ta muốn. Chỉ còn duy nhất một cách, Gertrude sẽ không có lý do để nghi ngờ rằng Arya làm bất cứ điều gì với đứa bé. Cậu ngạc nhiên với biện pháp phòng ngừa của Arya để tránh khỏi nghi ngờ rằng đứa bé gái sẽ bị tráo đổi bởi tiên tộc và cậu tự hỏi có phải cô ấy đã từng bị kết án bắt cóc trẻ em không.

Khung giường xếp kêu cọt kẹt khi cậu chậm rãi hạ người xuống đối diện với đứa bé. Cậu cau mày sâu hơn. Cậu cảm thấy Shapira đang chăm chú vào đứa bé thông qua cậu. Bây giờ đứa bé đang nằm ngủ say sưa trên cái mền tựa như chưa từng xuất hiện trên thế giới này. Cái lưỡi nó thấp thoáng thấy được trong cái môi trên đã bị sứt.

Em nghĩ sao? Cậu hỏi.

Làm từ từ thôi để anh không gặp tai nạn cắn phải cái đuôi của mình.

Cậu đồng ý với cô nàng, tiếp theo giống như gặp ma, cậu hỏi. Em đã làm chuyện đó trước đây không? Cắn cái đuôi của mình?

Cô im lặng một hồi. Tuy nhiên, cậu cũng bắt gặp một thoáng cảm giác ngắn ngủi: một đống lộn xộn hình ảnh của cây cỏ, mặt trời, dãy núi Spine và kể cả hương vị hoa phong lan đỏ tràn ngập trời, một cơn đau đột ngột, cảm giác bị giữ lại giống như cánh cửa sập đóng lại trên cái đuôi của cô.

Eragon tự cười thầm sau đó tập trung vào sáng tạo chú ngữ cậu nghĩ cậu cần phải có để chữa lành cho đứa bé. Một hồi thật lâu, khoảng nửa tiếng. Cậu và Saphira tốn nhiều thời gian nghiên cứu bí quyết của câu chú ngữ vô số lần, kiểm tra rồi lại thảo luận từng từ từng ngữ và ngay cả giọng phát âm của cậu để bảo đảm rằng câu chú ngữ này sẽ làm đúng điều cậu muốn mà thôi.

Giữa lúc trao đổi thầm lặng, Gertrude cựa động thân mình trên cái ghế ngồi và nói, “Cô bé nhìn chẳng có gì thay đổi. Thất bại rồi phải không? Eragon, không cần phải che dấu sự thật đối với tôi, tôi đã từng gặp nhiều việc còn tệ hơn nữa trong đời.”

Eragon nhướng đôi chân mày và nói với một giọng hòa hoãn. “Cháu chưa làm gì cả.”

Gertrude yên lặng ngồi lại. Bà lấy từ trong túi ra một cuộn chỉ đan màu vàng, cái áo len đã hoàn thành phân nửa và đôi kim đan trơn tru bằng gỗ phong. Ngón tay bà di chuyển với tốc độ nhanh nhẹ khéo léo khi bà bắt đầu đan viền quanh cái áo. Sự va chạm đều đều của đôi kim đan làm Eragon thích thú, tiếng động này cậu đã nghe thường xuyên khi còn bé, cậu liên tưởng đến một buổi chiều mùa thu lành lạnh ngồi xung quanh lò sưởi, nghe người lớn kể chuyện trong khi họ hút ống điếu hoặc nhấm nháp một ly bia nâu sau bữa ăn tối.

Cuối cùng, khi cậu và Saphira thỏa mãn với câu chú ngữ an toàn, Eragon tự tin rằng lưỡi của cậu sẽ không bị vấp bởi những thanh âm lạ của ngôn ngữ cổ, cậu dồn hết sức mạnh của cả hai và chuẩn bị đọc câu thần chú đầu tiên.

Nhưng cậu lại ngần ngại.

Khi tiên tộc dùng phép thuật uốn nắn một cái cây hay một cành hoa theo dạng họ muốn, họ thay đổi cành cây đó bằng một sinh vật khác, đó là điều cậu hiểu biết, họ luôn luôn dấu câu chú ngữ dưới dạng của bài hát. Cậu nên làm như vậy vì điều đó cũng phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Nhưng cậu chỉ biết một vài bài ca tiên tộc và không có bài nào trong đó đủ yêu cầu hoặc phù hợp để tạo ra một giai điệu tuyệt mỹ và phức tạp.

Do đó, thay vì vậy cậu chọn một bài hát nằm sâu trong trí nhớ của cậu, một bài hát mà dì Marian đã hát cho cậu nghe thời cậu còn bé tí trước khi bệnh tật đã giết mất dì ấy. Bài hát mà tất cả phụ nữ ở Carvahall đều hát thì thầm cho trẻ em từ thuở xa xưa khi đắp mền cho chúng vào giấc ngủ ban đêm, bài hát ru em. Cậu hy vọng rằng với âm điệu đơn giản, dễ nhớ và có tác động nhẹ nhàng sẽ giúp trẻ em trở nên trấn tĩnh hơn.

Cậu bắt đầu với giọng thấp, nhẹ nhàng, những lời hát tuôn ra chậm rãi, tiếng hát của cậu vang vọng khắp lều tựa như hơi ấm từ lò sưởi. Trước khi dùng phép thuật, cậu nói với đứa bé gái trong ngôn ngữ cổ rằng cậu là bạn của nó, cậu muốn đem hạnh phúc lại cho nó và rằng cậu là người đáng tin cậy.

Cô bé cựa quậy trong giấc ngủ giống như một câu trả lời, nét mặt cau có của cô đã trở nên mềm mại hơn.

Tiếp theo, Eragon nhấn mạnh câu chú ngữ đầu tiên: một câu bùa chú đơn giản bao gồm hai phần mà cậu ngâm nga đi đi lại lại nhiều lần như lời cầu nguyện. Vết hở màu hồng nằm giữa môi trên của cô bé run rẩy và nhúc nhích tựa như một sinh vật đang ngủ chợt bị khuấy động.

Cái mà cậu định làm không dễ dàng như vậy. Xương của trẻ em sơ sinh vốn mềm dẻo khác với xương của người trưởng thành nên chúng rất khác biệt với các loại xương mà cậu thường nối lại trong thời gian ở với quân kháng chiến Varden. Cậu phải cẩn thận để không lấp vết hở trên môi cô bé bằng xương, thịt và da của người lớn, nếu không vùng này sẽ không phát triển thuận lợi với phần cơ thể còn lại của cô bé. Cũng vậy, khi cậu nối khoảng trống trong vòm miệng và nướu răng của cô bé, cậu phải di chuyển làm thẳng và làm cho chúng cân đối xương tủy của hai cái răng cửa, đây là việc mà cậu chưa bao giờ làm trước đó. Sự phức tạp của tiến trình còn khó hơn nữa chính là điều cậu chưa bao giờ thấy cô bé ở hình dạng hoàn hảo, do đó cậu không chắc chắn môi miệng của cô bé sẽ trở nên như thế nào. Cô bé giống như đứa bé khác cậu thường thấy, tròn trĩnh mập mạp không đường nét rõ ràng. Cậu lo lắng sợ rằng cậu sẽ tạo cho nó một khuôn mặt thích hợp với thời điểm này nhưng sẽ thay đổi khác thường thiếu hấp dẫn sau này khi lớn lên.

Nên cậu tiến hành thận trọng, mỗi lần chỉ thay đổi từng phần nhỏ và dừng lại để kiểm tra kết quả. Cậu bắt đầu từ sâu bên trong của miệng cô bé với xương và vòm miệng, cậu chậm rãi làm việc từ trong ra ngoài và không ngừng hát.

Tại một thời điểm nào đó Saphira cũng cùng hát nhẩm theo cậu từ nơi nó nằm, giọng hát trầm thấp của nó làm rung động không khí. Ngọn đèn pháp thuật chợt tối chợt sáng tùy theo giọng hát lớn nhỏ của cô rồng, một hiện tượng kỳ lạ làm Eragon hết sức tò mò. Tí nữa cậu sẽ hỏi Saphira về chuyện ấy.

Từng chữ, từng câu chú ngữ, từng giờ trôi qua, màn đêm biến dần mặc dù Eragon không để ý lắm đến thời gian. Khi cô bé khóc vì đói, cậu đút cho cô bé một giọt năng lượng. Cậu và Saphira cố gắng tránh việc liên hệ ý thức với cô bé bởi vì họ không biết sự liên hệ này có thể ảnh hưởng đến ý thức non nớt của cô bé nhưng thỉnh thoảng họ cũng động nhẹ vào nó; cậu cảm thấy ý thức của cô bé mơ hồ không rõ ràng, một vùng biển động của hỗn loạn cảm xúc được giảm nhẹ thành một thế giới không rõ ràng.

Bên cạnh cậu, đôi kim đan của Gertrude không ngừng va chạm, nó chỉ dừng lại khi bà ấy không nhớ được bao nhiêu mũi đan hoặc bà ta phải gỡ bỏ nhiều mũi đan để sửa chữa lỗi lầm.

Chậm rãi và chậm hơn bao giờ hết, kẽ hở giữa vòm miệng và nướu răng của cô bé đã dính liền thành một, cái môi sứt đã liền lạc, và da của cô bé trơn tru trông như nước, môi trên của cô bé đã được tạo thành một vòng cung màu hồng không còn thấy thịt tươi nữa.

Eragon run rẩy vặn vẹo thân mình lo lắng nhìn vào hình dạng cái môi của cô bé một thời gian thật lâu cho đến khi Saphira nói, Xong rồi, Bỏ đi, và cậu bắt buộc phải tự nhận rằng cậu không thể làm gì tốt hơn cho hình dạng cô bé và chỉ làm xấu thêm mà thôi.

Sau đó cậu để bài hát ru em chìm dần vào trong im lặng. Cậu cảm thấy lưỡi khô cổ họng rát. Cậu đẩy người rời cái giường xếp và đứng dậy nửa người còn cong vòng cứng ngắc chưa đứng thẳng được.

Ngoài sự tỏa sáng của ngọn lửa phép thuật còn có tia sáng yếu ớt chiếu xuyên qua lều giống như lúc cậu vừa bước vào lều. Lúc đầu cậu còn lẫn lộn, chắc là mặt trời đã tắt! Nhưng rồi cậu nhận ra rằng tia sáng đến từ hướng Đông không phải hướng Tây và bây giờ cậu đã hiểu ra. Không cần hỏi tại sao mình quá mỏi mệt. Mình đã ngồi ở đây suốt đêm!

Còn em thì sao? Saphira nói. Xương của em cũng nhức mỏi như anh. Câu thú nhận của cô làm cậu ngạc nhiên; hiếm khi thấy cô biểu hiện sự bực bội ngay cả khi đó là điều khó chịu đến tột cùng. Chắc là cuộc chiến đấu đã lấy đi nhiều sức lực của cô hơn là cái biểu hiện bề ngoài. Ngay khi cậu tìm ra được kết luận, Saphira biết được điều ấy, cô nhẹ nhàng cản cậu lại và nói, Dù mệt hay không, em vẫn có thể đập tan bọn lính mà Galbatox gởi đến chống lại chúng ta.

Anh biết mà.

Cất đồ đan vào trong túi, Gertrude đứng dậy và chồm qua cái giường xếp. “Từ trước tới giờ tôi chưa từng thấy qua chuyện này”, bà nói. “Ít nhất là từ cả hai, Eragon Bromsson.” Bà nhìn lăm lăm vào cậu và hỏi. “Brom có phải là cha cháu không?”

Cậu gật đầu càu nhàu, “Vâng, thưa bà.”

“Dường như đúng là như vậy một cách nào đó.”

Eragon không muốn bàn luận vấn đề xa hơn nữa nên cậu hầm hừ tắt ngọn đèn pháp thuật với một cái liếc và một ý nghĩ. Liền lập tức, tất cả chìm vào trong bóng tối, chỉ còn chút ánh sáng bình minh lập lòe. Cậu điều chỉnh tầm nhìn nhanh hơn Gertrude. Bà chớp mắt, cau mày, lắc đầu qua lại giống như bà không chắc chắn nơi mình đứng. 

Bế cô bé lên, cô bé có vẻ nặng và ấm áp trong tay Eragon. Cậu không chắc là có phải cơn mệt mỏi đến từ việc xử dụng phép thuật quá mức hoặc đơn giản chỉ là làm việc quá lâu gây ra.

Cậu nhìn xuống cô bé, đột nhiên cậu cảm thấy cần phải bảo vệ đứa bé này, cậu thì thầm, “Se ono waise ilia.” Chúc cô bé luôn hạnh phúc. Đó không phải là câu bùa chú chúc phúc nhưng cậu hy vọng rằng điều này sẽ giúp cô tránh được vài điều khốn khổ thường ảnh hưởng đến nhiều người. Dù không được như vậy, cậu cũng hy vọng điều này sẽ làm cô bé cười lên.

Thực tế điều này đã được chứng thực. Từ khuôn mặt bé tí của cô, một nụ cười đang rộng mở đầy nhiệt tình, cô bé thốt ra tiếng, “Gahh!”

Eragon cũng cười theo rồi cậu quay lại bước ra ngoài.

Ngay khi miếng bạt che lều mở ra, cậu thấy một đám đông nho nhỏ đang tụ họp thành nửa vòng tròn chung quanh cái lều, kẻ đứng người ngồi vài người khác ngồi chồm hổm. Cậu nhận ra hầu hết tất cả đều là người Carvahall, Arya và các tiên tộc cũng ở đó nhưng lại đứng riêng biệt cách một đoạn với đám đông cũng giống như nhiều chiến binh của Varden mà cậu không biết tên. Cậu tìm thấy Elva đang núp đằng sau một cái lều gần đó, cái khăn đen đã buông xuống che mặt cô.

Mình có thể làm tốt hơn nữa, cậu tự nói.

Trước đám đông, Horst và con trai dáng vẻ bồn chồn lo lắng. Cặp lông mày ông ta nhăn tít lại khi nhìn thấy một túm đồ trên tay Eragon, ông ta mở miệng dường như muốn nói điều gì nhưng không có âm thanh nào phát ra.

Không một hành động dư thừa, Eragon bước đến ông thợ rèn và xoay đứa bé để ông có thể nhìn thấy mặt nó. Horst không động đậy một lúc lâu, sau đó đôi mắt ông ta tỏa sáng và nét mặt ông thay đổi sang vui mừng và giải thoát một cách sâu sắc, điều này có thể bị xem lầm như thất bại.

Khi trao cô bé cho Horst, Eragon nói, “Tay tôi đã quá vấy máu cho công việc này nhưng tôi lấy làm hài lòng rằng tôi có khả năng giúp đỡ.”

Horst sờ vào môi trên của cô bé với đầu ngón giữa của ông ta, sau đó lắc đầu nói. “ Không thể … tôi không thể nào tin được.” Ông nhìn sang Eragon. “Elain và tôi sẽ nợ cậu suốt đời. Nếu …”

Eragon nhẹ nhàng nói, “Không nợ gì cả. Cháu chỉ làm việc mà tất cả mọi người có khả năng đều phải làm.”

“Nhưng cậu là người chữa lành nó và chính cậu là người tôi phải chịu ơn.”

Eragon bối rối sau đó cậu gật đầu nhận lời cảm ơn của ông ta. “Chú sẽ đặt tên cô bé là gì?”

Người thợ rèn nhìn chằm chằm vào cô con gái. “Nếu như Elain đồng ý, chúng tôi sẽ đặt tên nó là Hy Vọng.”

“Hy Vọng … Một cái tên thật hay.” Không phải chúng ta đang cần hy vọng sao? “Và cô Elain thì sao rồi?”

“Mệt mỏi nhưng bình an.”

Rồi thì Albriech và Baldor dồn lại chung quanh ông ta, nhìn chòng chọc vào cô em gái mới, cùng với Gertrude cũng từ lều đi ra sau Eragon. Sau khi vẻ ngượng ngùng tan dần, những người dân làng cũng gia nhập vào với họ. Ngay cả đám chiến binh tò mò cũng ráng chen vào gần Horst, rướn cổ lên để nhìn thấy bóng dáng của cô bé.

Sau một lúc, những tiên tộc cũng buông tay tiến gần đến. Thấy họ, mọi người lùi ra tránh đường. Ông thợ rèn cứng người, hàm rớt ra như con chó hả miệng, từng người một, họ cúi xuống xem xét cô bé, đôi khi thì thầm với cô bé một hay hai từ bằng ngôn ngữ cổ. Họ dường như không quan tâm đến sự nghi ngờ của dân làng đang nhìn về phía họ.

Khi chỉ còn ba tiên tộc đứng xếp hàng, Elva phóng ra từ đằng sau cái lều nơi cô tự trốn và tham dự vào cuối hàng. Cô không phải chờ lâu trước khi đến phiên cô đứng trước Horst. Mặc dù hơi miễn cưỡng, người thợ rèn vẫn hạ tay và rùn đầu gối xuống nhưng ông ta quá cao so với Elva, cô ta phải nhón chân để nhìn đứa bé. Eragon chờ mong thời điểm cô nhìn chằm chằm vào đứa bé trước đây khiếm khuyết nhưng không thể nào đoán được thái độ của cô qua tấm khăn che mặt.

Sau vài giây, Elva đứng xuống. Với bước chân thong thả, cô đi trở lại con đường đi ngang qua lều của Eragon. Cách xa khoảng mười tám mét, cô dừng và quay lại về hướng cậu.

Cậu nghiêng đầu và cau mày.

Cô bé gật đầu ngắn gọn rồi tiếp tục rời đi. 

Lúc cậu đang nhìn cô bé rời đi, Arya ngượng ngập bước tới cạnh cậu. “Anh nên hãnh diện với việc vừa hoàn thành.” Cô thì thào. “Đứa bé bình yên. Ngay cả những thầy bùa lão luyện nhất của bọn em cũng không thể làm tốt hơn pháp thuật của anh. Điều tuyệt vời nhất đó là anh đã cho cô bé này một khuôn mặt và tương lai, cô bé sẽ không quên điều này, em chắc chắn là như vậy … Không một ai có thể quên.”

Eragon thấy rằng cô ấy và những vị tiên khác đang nhìn về phía cậu với ánh mắt đầy sự kính trọng nhưng sự ngưỡng mộ và xác nhận của Arya là quan trọng nhất đối với cậu. “Anh đã có một cô giáo tốt nhất,” cậu trả lời với một giọng đều đều trầm thấp. Arya không muốn thảo luận với anh về điều này. Cả hai chăm chú nhìn dân làng xoay quanh Horst và cô con gái ồn ào trao đổi. Mắt không rời bọn họ, Eragon nghiêng về phía Arya và nói, “Cảm ơn em đã giúp dì Elain.”

“Không có chi. Em sẽ trở nên nhu nhược nếu không làm như vậy.”

Horst quay đi và định mang đứa bé vào trong lều cho Elain xem cô gái sơ sinh nhưng cả đám người không ai chịu tránh đi. Khi Eragon chán ngấy với việc bắt tay và trả lời câu hỏi, cậu nói tạm biệt với Arya sau đó lẻn vào trong lều, cột chặt mảnh vải che lối vào sau lưng cậu.

Trừ khi bị tấn công, anh không muốn thấy người nào trong vòng mười tiếng nữa, ngay cả Nasuada cũng vậy, cậu nói với Saphira lúc cậu ném mình xuống cái giường xếp. Xin em vui lòng nói với Blodhgarm được không?Đương nhiên là được, cô trả lời. Ngủ đi, cậu bé, em cũng vậy.

Eragon thở dài và để cánh tay lên mặt che tia nắng của buổi sáng. Hơi thở cậu chậm dần, ý thức cậu bắt đầu miên man và liền sau đó cảnh vật kỳ quái và âm thanh của giấc mơ sống dậy bao trùm lấy cậu, thực tế hay ảo tưởng; sống động hay mơ hồ dường như cậu nhìn thấy tất cả đều được làm bằng thủy tinh nhiều màu sắc và có lúc cậu có thể quên hết mọi trách nhiệm cũng như biến cố bi thảm của quá khứ. Xuyên qua giấc mơ này, bài hát ru em giống như lời thì thầm của gió, nửa nghe được nửa quên đã ru ngủ cậu đưa cậu về ký ức của một đứa trẻ bình yên ở nhà.

Hai người lùn, hai người đàn ông, hai Urgals thuộc đội cận vệ của Nasuada-đội Nighthawk canh giữ bên ngoài căn phòng trong lâu đài, nơi Nasuada dùng làm tổng hành dinh của nàng.

Họ nhìn chăm chăm Roran với ánh mắt vô hồn. Anh cũng giữ vẻ mặt vô cảm khi nhìn chằm chằm lại.

Đấy là một trò chơi họ đã chơi trước đó.

Mặc dù Nighthawks không biểu lộ ra nhưng anh hiểu họ đang tìm cách nhanh nhất, hiệu quả nhất để giết anh. Anh biết, vì anh đã từnglàm như vậy với họ, luôn luôn như thế.

Mình sẽ phải rút lui sao cho nhanh nhất có thể…. Bỏ xa họ một đoạn, anh quyết định. Người đàn ông sẽ tóm được mình trước, họ nhanh hơn những người lùn và cản trở những Urgals đang ở phía sau. Phải đoạt được những chiếc kích của họ. Sẽ rất rắc rối nhưng mình sẽ giành được … ít nhất là của một trong số họ. Có lẽ phải ném chiếc búa này đi. Một khi đã chiếm được chiếc kích thì mình có thể bỏ xa những người còn lại. Khi ấy, người lùn không có nhiều cơ hội, nhưng mình sẽ gặp phiền hà với hai tên Urgal. Những kẻ cục súc xấu xí… Nếu dùng cây cột kia làm nơi ẩn nấp, mình có thể trốn được.

Cánh cửa bọc thép giữa hai hàng vệ binh phát tiếng kêu cọt kẹt khi mở ra. Một chú bé áo trắng chừng mười hay mười hai tuổi bước vào cao giọng truyền lệnh “Qúy bà Nasuada truyền gọi anh!”

Vài vệ binh co rúm người lại, lộ rỏ vẻ nao núng trong giây lát. Roran mỉm cười khi lướt qua họ, bước vào căn phòng phía bên kia, anh biết quyền lợi của họ vốn có cũng như không, tạo cơ hội cho anh giết được ít nhất hai người trước khi họ trả thù. Cứ để lần sau, anh nghĩ.

Căn phòng hình chữ nhật rộng, bài trí đơn giản: một tấm thảm nhỏ xíu trải trên sàn, một lối đi hẹp, tấm thảm trang trí đã bị nhậy (Một loài sâu) ăn treo trên tường bên trái, một cửa sổ đơn vòm nhọn phía bên phải. Ngoài ra căn phòng không có đồ trang trí nào khác. Kê trong góc là chiếc bàn gỗ dài với chồng sách cao, những cuộn da lừa và những tờ giấy lẻ. Một vài chiếc ghế lớn được bọc nệm da có hàng đinh đồng đã hoen rỉ đứng rải rác cạnh bàn. Cả Nasuada lẫn những người hầu cận của nàng đều không đoái hoài tới chúng. Jörmundur không có ở đây nhưng Roran đã quen thuộc với những chiến binh đang có mặt: anh từng là thuộc cấp của một vài người, anh đã thấy vài người khác trong trận đánh hoặc nghe kể lại từ những đồng đội.

“…Và tôi không quan tâm nếu nó làm anh ta tức nghẹn họng!” Nàng lên giọng, đập mạnh tay phải xuống bàn.” Nếu chúng ta không có những móng ngựa đó, và hơn thế nữa, có lẽ chúng ta cũng sẽ tự ăn ngựa của mình vì những điều tốt đẹp mà họ sẽ làm cho chúng ta. Mọi người rõ chứ?”

Mọi người cùng đồng thanh trả lời “Có “. Có vẻ họ đang bị đe dọa, thậm chí có phần bối rối. Roran thấy vừa lạ vừa ấn tượng với Nasuada, một người phụ nữ được nhận sự tôn trọng từ những chiến binh của nàng và từ chính anh. nàng là một trong những người quả quyết và thông minh nhất mà anh từng biết, anh tin chắc rằng nàng sẽ thành công dù ở bất cứ nơi đâu.

“Giờ thì lui ra“ Nasuada nói, tám người xếp thành hàng cùng đi ra ngoài, nàng ra hiệu cho Roran tiến lại gần. Anh kiên nhẫn đợi nàng chấm bút lông vào lọ mực và viết nguệch ngoạc nhiều dòng trên cuộn giấy nhỏ, sau đó đưa cho một trong các chú bé và nói “Đưa cho người lùn Narheim. Lần này hãy chắc chắn rằng ngươi sẽ lấy được thư hồi âm trước khi trở về, nếu không ta sẽ gửi ngươi đến tộc Urgal để làm trò mua vui và lau chùi cho họ.”

“Vâng, thưa quý bà!” cậu bé trả lời rồi chạy thục mạng ra ngoài, trong lòng có phần khiếp đảm.

Nasuada bắt đầu dở từ đầu đến cuối một chồng giấy đặt ngay trước mặt nàng. Không nhìn lên, nàng hỏi “Anh đã nghỉ ngơi tốt chứ, Roran?”

Anh băn khoăn không rõ lý do nào làm nàng thích thú đến vậy. “Không tốt lắm.”

“Thật không may. Anh đã phải thức suốt đêm?”

“Một chút thôi. Vợ bác thợ rèn mới sinh hôm qua, nhưng..”

“Tôi đã được thông báo. Tôi đoán là anh không đứng canh cho tới khi Evergon chữa lành cho đứa trẻ.”

“Không, tôi đã quá mệt.“

“Ít ra anh đã có trách nhiệm.” Với tay qua bàn, nàng cầm một tờ giấy khác lên , xem xét kỹ lưỡng trước khi xếp nó vào chồng. Giữ nguyên giọng như trước, nàng nói “Tôi có một nhiệm vụ cho anh, Stronghammer. Lực lượng của chúng ta tại Aroughs đã gặp phải sự kháng cự quyết liệt–mạnh hơn so với dự đoán chúng ta. Thủ lĩnh Brigman đã thất bại trong việc giải quyết tình thế và chúng ta cần họ rút lui ngay bây giờ. Vì vậy, tôi sẽ phái anh tới Aroughs để thay thế Brigman. Ngựa đang đợi sẵn ở cổng phía Nam. Anh hãy đi nhanh nhất có thể để đến Feinster, sau đó từ Feinster đi tới Aroughs. Cứ mười dặm từ đây tới Feinster sẽ có ngựa thay thế cho anh và anh phải tự tìm lấy chúng. Tôi nghĩ rằng anh sẽ tới Aroughs trong vòng bốn ngày. Một khi đã nghỉ ngơi đầy đủ, anh sẽ có khoảng … ba ngày để giải vây.” Nàng liếc nhìn anh. “Một tuần sau hôm nay, tôi muốn lá cờ của chúng ta tung bay trên đất Aroughs. Tôi không quan tâm anh làm cách nào, Stronghammer. Tôi chỉ muốn nó được thực hiện. Nếu anh thất bại, tôi sẽ không có sự lựa chọn nào ngoài việc phái Eragon và Saphira tới Aroughs, để lại lực lượng vừa đủ đề phòng Murtagh hoặc Galbatorix tấn công.”

Và Katrina sẽ gặp nguy hiểm. Roran nghĩ. Một cảm giác khó chịu xâm chiếm lòng anh. Cưỡi ngựa tới Aroughs trong bốn ngày là một thử thách khắc nghịêt, nhất là cơ thể đang đau đớn, bầm dập. Hơn nữa việc phải chiếm được thành phố trong thời gian rất ngắn sẽ là tổng hợp của khốn khổ với điên rồ. Tóm lại, nhiệm vụ này hấp dẫn như thể đấu vật với gấu cùng hai cánh tay bị cột lại phía sau.

Anh gãi má. “Tôi không có một chút kinh nghiệm về đánh kiểu vây đồn,” anh nói. “Chí ít cũng không phải như thế này. Phải có ai khác ở Vaden phù hợp với nhiệm vụ này hơn. Martland Redbeard thì sao?”

Nasuada phất tay, ra vẻ tùy tiện.”Anh ta không thể phi nước đại chỉ với một tay. Anh phải tự tin vào bản thân, Stronghammer. Có những người khác ở Vaden biết rõ hơn về binh pháp, nói đúng hơn, họ đã tham gia chiến đấu lâu hơn, những người được thừa hưởng những kinh nghiệm quý báu nhất từ lớp đàn anh. Nhưng khi chiến tranh nổ ra và anh phải tham chiến thì kiến thức hay kinh nghiệm không phải là thứ quan trọng nhất mà là khả năng để giành được chiến thắng, mưu mẹo này xem chừng anh đã nắm rõ. Hơn thế, anh còn may mắn nữa.”

Nàng sắp xếp những tờ giấy trên cùng và tựa người lên tay. “Anh đã chứng minh được khả năng chiến đấu và khả năng thực thi quân lệnh …khi cần thiết”. Anh so vai khi nhớ lại trận đòn cay đắng, vết thương bỏng giãy của chiếc roi da cắt trên lưng anh khi anh bị kỷ luật vì thách thức mệnh lệnh của thuyền trưởng Edric. “Anh đã chứng minh được khả năng chỉ huy biệt đội đột kích. Vì vậy, StrongHammer hãy cho chúng tôi thấy những khả năng khác của anh, được không?”

Anh nuốt khan. “Vâng, thưa quý bà.”

“Tốt. Tôi sẽ thăng cấp cho anh làm thủ lĩnh trong thời gian tới. Nếu anh chiến thắng trong trận Aroghs, anh sẽ được xem xét để phong tước hiệu, ít nhất cho tới khi anh chứng minh được anh đáng được thăng cấp hay giáng cấp.” Nàng quay lại nhìn chằm chằm xuống bàn, lục tìm trong đống giấy lộn, có vật gì đó ẩn bên dưới.

“Cảm ơn.”

Nasuada đáp lại với giọng uể oải.

“Có bao nhiêu người sẽ dưới quyền chỉ huy của tôi ở Aroughs, thưa bà?” Roran hỏi.

“Tôi đã giao cho Brighman một ngàn chiến binh để tiến hành chiếm thành phố. Tất nhiên, hiện giờ trong số ấy có không quá tám trăm người trong quân chế.”

Roran suýt nữa thì hét lớn. Quá ít.

Dường như nghe được lời của anh ta, nàng nói bằng giọng tỉnh bơ “Chúng tôi tin rằng việc phòng thủ ở Aruoghs dễ dàng hơn là tiếp tục tấn công trong hoàn cảnh như hiện nay.”

“Tôi hiểu. Tôi có thể mang theo ba người từ Carvahall không? Bà đã từng nói bà sẽ cho phép chúng tôi cùng phục vụ nếu có dịp.”

“Được, được” nàng khoát tay “Tôi biết tôi từng nói những gì.” Nàng mím môi, cân nhắc. “Rất tốt, anh hãy mang theo bất cứ ai mà anh muốn, miễn là anh sẽ lên đường trong một tiếng tới. Hãy báo cho tôi biết có bao nhiêu người đi cùng với anh, để tôi chuẩn bị số ngựa thay thế dọc đường cho thích hợp”.

“Tôi có thể mang theo Carn ?” anh hỏi, và gọi tên nhà pháp sư mà anh đã cùng chiến đấu trong nhiều dịp.

Nàng dừng lại, nhìn chằm chằm lên tường trong chốc lát, ánh mắt vô định. Ngay sau đó, nàng gật đầu rồi lại tiếp tục tìm kiếm trong đống giấy nháp “À, chúng đây rồi.” Nàng rút ra một ống giấy da được buộc bằng dây da. Tấm bản đồ của Aroughs và các vùng lân cận, giống y với tấm bản đồ đã phóng lớn của tỉnh Fenmark.” Tôi đề nghị anh nghiên cứu cả 2 bản một cách cẩn thận nhất.”

Nasuada trao cho anh, anh cẩn thận nhét gọn nó vào trong chiếc áo chẽn. ”Và đây” nàng đưa cho anh ta một phong thư bọc giấy da hình chữ nhật đã được áp triện bằng sáp đỏ “Nó là nhiệm vụ của anh, và…” một phong thư thứ hai, dày hơn cái trước, “Nó là thư ủy thác của anh. Hãy trình lên Brighman nhưng không để ông ta giữ chúng. Nếu tôi nhớ chính xác, anh chưa bao giờ học chữ phải không?”

Anh ta nhún vai “Để làm gì? Tôi có thể tính toán và đếm số như bất kỳ người đàn ông nào. Cha tôi nói rằng việc dạy chúng tôi đọc có ý nghĩa không hơn việc dạy con chó đi bằng hai chân sau của chúng: vui, nhưng hầu như không đáng phải nỗ lực.”

“Lúc trước thì đúng như vậy, nhưng giờ thì không”. nàng chỉ về phía những phong thư mà anh đang cầm “Như anh đã biết, một trong số chúng là tờ lệnh để bổ nhiệm anh. Anh có những hạn chế như thế này nên tôi không thể trọng dụng anh. Tôi không thể gửi thư cho anh mà không có người đọc giúp, nếu anh cần báo cáo với tôi, anh cũng không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc dùng thuộc hạ thân tín ghi chép lại chính xác những lời anh nói. Điều đó dễ làm anh bị điều khiển, và bị thất tín. Nếu anh hi vọng được thăng tiến ở Varden, tôi đề nghị anh tìm ai đó dạy cho anh. Bây giờ hãy lên đường, có rất nhiều việc khác đang đợi tôi.”

Nàng búng tay, một trong những tờ giấy bay về phía nàng , nàng đặt tay lên vai cậu bé, cúi nhìn gương mặt của cậu rồi nói, “Tôi muốn cậu đưa Jörmundur về thẳng đây cho tôi, cậu hãy tìm anh ấy dọc theo phố chợ, nơi có ba căn nhà…” Trong lúc đang hướng dẫn, nàng dừng lại và nhướn mày khi thấy Roran vẫn chưa nhúc nhích. “Có việc gì nữa không, Stronghammer?” Nàng hỏi.

“Vâng, trước khi đi, tôi muốn gặp Eragon.”

“Vì sao vậy?”

“Phần lớn số bùa hộ mệnh cậu ấy đưa tôi trước trận đấu giờ đã hết”.

Nasuada cau mày, sau đó nói với cậu bé “Tại phố chợ, nơi có ba ngôi nhà bị cháy. Cậu biết nơi đó chứ? Nào, bây giờ hãy đi đi “. Nàng vỗ nhẹ vào lưng cậu bé, đứng thẳng người nhìn theo cho đến khi nó đi khuất. “Sẽ tốt hơn nếu anh không gặp “.

Câu nói của nàng làm Roran bối rối, nhưng anh giữ im lặng chờ đợi lời giải thích. Nàng biết, nhưng lại trả lời vòng vo “Anh có biết Eragon mệt mỏi thế nào trong cuộc hội kiến với ma mèo không ?”

“Cậu ấy không đủ sức đứng vững nữa.”

“Đúng vậy. Cậu ấy đã quá gầy ốm, Roran. Anh ấy không thể bảo vệ anh, tôi, Saphira, Arya, ai biết còn ai khác nữa,và cậu ấy vẫn phải làm. Cậu ấy cần phải giữ sức cho trận đánh sắp tới với Murtagh và Galbatorix. Và gần hơn nữa là trận đánh với Urû’baen, quan trọng hơn là cậu ta sẵn sàng đối đầu với chúng bất cứ lúc nào, ngày hay đêm. Tôi không thể để cho những lo lắng, phiền nhiễu làm nhụt chí khí của cậu ấy. Điều đáng quý là cậu ấy đã chữa khỏi tật hở hàm ếch cho đứa trẻ, nhưng những việc làm đó có thể gây tổn thất cho cuộc chiến của chúng ta!”

“Anh đã từng không dựa dẫm vào lá bùa khi Ra’zac tấn công ngôi làng của anh ở Spine. Nếu anh quan tâm tới những người em họ của anh và tới mục đích đánh bại Galbatorix, anh phải học cách chiến đấu mà không có chúng thêm một lần nữa.”

Khi nàng vừa dứt lời, Roran cúi đầu chào kính cẩn. Nàng nói đúng .“ Tôi sẽ khởi hành ngay lập tức.”

“ Tôi đánh giá cao điều đó.”

“Xin phép bà.”

Quay lưng, Roran sải bước về phía cửa. Khi anh vừa bước qua ngưỡng cửa, Nasuada gọi lớn “À, còn nữa Stronghammer.”

Anh quay lại, tò mò.

“Cố gắng không thiêu hủy thành phố, được không? Sẽ khá khó khăn để xây dựng lại.” 

Eragon nhịp gót chân vào thành bên của mỏm đá mà cậu đang ngồi, buồn chán và thiếu kiên nhẫn đã làm cậu kiệt sức.

Cậu, Saphira và Arya cùng với Blödhgarm và các vị tiên khác đi lang thang trên lề con đường chạy từ thành phố Belatona về phía đông xuyên qua các cánh đồng chín, các đồng cỏ xanh tươi; qua một cây cầu đá rộng cao vút băng qua sông Jiet, và sau đó vòng lên điểm cực nam của hồ Leona. Nơi đó con đường chia thành 2 nhánh, một ngã rẽ sang phải, hướng tới Cánh Đồng cháy và Surda, một nhánh khác rẽ về phía bắc, về phía Dras-Leona và cuối cùng đến Urû'baen.

Hàng ngàn người, người lùn, và Urgals hỗn loạn trước cửa ngõ phía đông của Belatona, cũng như trong thành phố, tranh luận và la hét khi quân Varden cố gắng tổ chức họ thành một đơn vị liên kết. Ngoài các binh đoàn lộn xộn còn có kỵ binh của vua Orrin - một đoàn ngựa ưỡn ngực, thở phì phò. Phía sau các đơn vị chiến đấu của quân đội là đoàn quân hậu cần nối thành một chuỗi dài bao gồm: một dặm rưỡi dài xe đẩy, xe kéo, và xe cút-kít, kèm hai bên bởi những đàn gia súc có sừng đông đảo mà Varden đã mang đến từ Surda, cộng thêm những súc vật được trưng thu từ những nông dân dọc theo đường. Trong đoàn súc vật và xe kéo tiếp tế có cả những con bò lùn, những con la và lừa kêu réo, những con ngỗng kêu oạp oạp, và những con ngựa kéo hí vang.

Điều này là đủ để làm cho Eragon muốn bít kín tai của mình lại.

Em nghĩ xem lần này sẽ ổn hơn chứ, nếu xét đến những lần chúng ta đã thực hiện nó trước đây, cậu nói nhận xét với Saphira khi cậu nhảy xuống khỏi mỏm đá.

Cô rồng hít vào. Họ nên để em phụ trách, em có thể dọa chúng vào vị trí trong vòng chưa đầy một giờ đồng hồ, và sau đó chúng ta sẽ không phải lãng phí quá nhiều thời gian chờ đợi.

Ý nghĩ đó làm cậu thích thú. Anh chắc chắn rằng em có thể ... Tuy vậy hãy cẩn thận những gì em nói, có thể Nasuada bắt em làm điều đó đấy.

Sau đó, tâm trí của Eragon đặt hết lên Roran, người mà cậu đã không nhìn thấy kể từ cái đêm cậu chữa lành cho con của Horst và Elain. Cậu tự hỏi người anh em họ đang như thế nào và lo lắng về việc đã bỏ rơi anh ấy lại phía sau.

"Thật quá ngốc khi làm điều đó", Eragon thì thầm, nhớ lại cách Roran đã không cho phép cậu làm mới những bùa hộ mệnh.

Anh ấy là một thợ săn có kinh nghiệm, Saphira chỉ ra. Anh ấy sẽ không ngu ngốc để cho con mồi của mình bám lấy.

Anh biết, nhưng đôi khi không thể ngăn lại được ... Anh ấy tốt nhất hãy cẩn thận, đó là tất cả. Anh không muốn anh ấy trở lại thành người tàn tật, hoặc tệ hơn, bọc trong một tấm vải liệm.

Một tâm trạng tồi tệ trùm lên Eragon. Sau đó, cậu vặn mình và đứng lên ngồi xuống vài lần, cậu bồn chồn và mong muốn làm một cái gì đó cho nóng người trước khi tốn vài giờ ngồi trên Saphira. Cậu hân hoan cơ hội khi bay với cô ấy, nhưng cậu không thích cái viễn cảnh bị bó buộc bay cả ngày chỉ trong mười hai dặm, vòng quanh như con kền kền phía trên đội quân di chuyển chậm chạp. Bằng cách của riêng mình, cậu và Saphira có thể tới Dras-Leona vào buổi chiều muộn.

Cậu vù chạy từ con đường đến một lùm cỏ tương đối bằng phẳng. Ở đó, bỏ qua cái nhìn của Arya và những vị tiên còn lại, cậu rút thanh Brisingr và làm thành tư thế cảnh giác Brom lần đầu tiên dạy cậu cách đây rất lâu. Cậu hít vào từ từ và dừng lại ở một tư thế thấp, cảm giác kết cấu của mặt đất thông qua đế bàn chân.

Với một tiếng kêu ngắn, khô khan, cậu quét thanh kiếm xung quanh đầu và chém nó xuống một góc nghiêng, chiêu thức này có thể cắt đi một nửa bất kỳ ai, mà không cần biết đến lớp áo giáp. Cậu dừng thanh kiếm lại cách mặt đất vài phân và giữ nó ở đó, lưỡi kiếm hơi hơi run rẩy trong tay nắm của cậu. Nổi bật trên nền cỏ, màu xanh lam từ thanh kiếm hiện ra sống động, gần như không có thực.

Eragon hít một lần nữa và lao về phía trước, đâm vào không khí như thể nó là một kẻ tử thù. Một chiêu lại một chiêu, cậu thực hành những bước cơ bản của chiến đấu bằng gươm, không tập trung nhiều vào tốc độ hay sức mạnh, mà vào độ chính xác.

Khi đang khoan khoái làm nóng người từ việc rèn luyện kỹ năng, cậu liếc nhìn quanh những ngươi bảo vệ mình, họ đứng thành một vòng bán nguyệt tại một khoảng cách xa xa. "Có ai muốn so kiếm với tôi một vài phút không?", cậu hỏi, tăng cao tiếng nói.

Các vị tiên nhìn nhau, biểu hiện của họ rất khó hiểu, sau đó tiên Wyrden bước về phía trước. "Tôi muốn, thưa ngài Khắc Tinh của Tà Thần, nếu điều này làm ngài vui. Tuy nhiên, tôi yêu cầu ngài mang mũ sắt trong khi chúng ta tỉ thí. "

"Đồng ý."

Eragon đút Brisingr về lại trong vỏ, sau đó chạy tới gần Saphira và leo lên từ bên cạnh cô, ngón tay cái bên trái bị cắt một đường bởi một trong những cái vảy khi leo. Cậu mặc áo lưới dài, mang giáp ống chân và giáp tay nữa, nhưng chiếc mũ sắt lại được cất vào trong một trong các bao treo quanh bộ yên trên lưng Saphira, do đó nó sẽ không lăn khỏi Saphira và mất trong bãi cỏ.

Khi cậu lục tìm chiếc mũ, cậu nhìn thấy chiếc hộp cốt chứa trái tim của Glaedr được bọc trong tấm vải và nằm ở dưới cùng của bao yên ngựa. Cậu cúi xuống và chạm vào cái gói thắt nút, âm thầm bày tỏ lòng kính trọng cho những gì còn sót lại của con rồng vàng vĩ đại, sau đó đóng bao yên ngựa và đu xuống từ lưng Saphira.

Eragon mang chiếc mũ vải bên trong và mũ sắt bên ngoài khi cậu sải bước trở lại thảm cỏ. Cậu liếm máu ngón tay cái, sau đó kéo lên găng tay của mình, hy vọng rằng vết cắt sẽ không chảy máu quá nhiều trong găng tay. Sử dụng những bản khác nhau của cùng câu thần chú, cậu và Wyrden tạo những lớp kết giới mỏng -vô hình, để bảo vệ những người khác tránh khỏi bị thương bởi những gợn sóng biến dạng họ gây ra trong từ kiếm khí của họ. Bản thân họ cũng đem bùa hộ mệnh ra để tránh khỏi nguy hiểm bị đả thương trên người.

Sau đó, cậu và Wyrden bước đến vị trí đối diện nhau, cúi chào, và nâng lưỡi gươm lên. Eragon nhìn chằm chằm vào đôi mắt đen của vị tiên, nó không hề nhấp nháy, ngay cả khi Wyrden nhìn chằm chằm vào cậu. Giữ cái nhìn cố định lên đối thủ, Eragon nhích về phía trước và thử hơi dịch về phía bên phải của Wyrden, nơi mà các vị tiên thuận tay phải sẽ gặp khó khăn trong việc phòng thủ.

Vị tiên từ từ quay lại, nghiền nát cỏ dưới gót chân luôn giữ đối mặt với Eragon.

Sau một vài bước nữa, Eragon dừng lại. Wyrden quá tỉnh táo và kinh nghiệm để cho Eragon tấn công bên hông, cậu sẽ không bao giờ làm ông ta mất thăng bằng được. Trừ khi, tất nhiên rồi, mình có thể đánh lạc hướng ông ta.

Nhưng trước khi cậu có thể quyết định làm thế nào để tiến hành, Wyrden tung chiêu nhử về phía chân phải của Eragon, như thể xiên vào đầu gối cậu, nhưng nửa đường thay đổi phương hướng, vặn cổ tay và cánh tay chém về ngực và cổ của Eragon.

Tiên tộc vốn rất nhanh, Eragon vẫn còn nhanh hơn. Khi cậu phát hiện sự thay đổi trong tư thế Wyrden phản bội lại ý định của ông ta, Eragon bước lui nửa bước trong khi uốn cong khuỷu tay và quất thanh kiếm ngang qua khuôn mặt của mình.

"Ha!" Eragon hét lên khi va chạm thanh kiếm của Wyrden bằng Brisingr. Hai lưỡi gươm tạo ra một tiếng “clang” khi chúng va chạm.

Với một nỗ lực, Eragon đẩy Wyrden trở lại, sau đó phóng tới, đánh ông ta với một loạt chiêu thức kịch liệt.

Trong vài phút, họ đã chiến đấu trên bãi cỏ. Eragon đánh trúng phát đầu tiên – một vết đánh nhẹ lên hông của Wyrden - và phát thứ hai nữa, nhưng sau đó, trận đấu của dần thành cân bằng, khi ông ta nắm được tiết tấu của cậu và bắt đầu dự đoán các cách tấn công và phòng thủ. Eragon hiếm khi có cơ hội kiểm tra bản thân chống lại bất cứ ai nhanh hay mạnh mẽ như Wyrden, vì vậy cậu rất thích thú cuộc tỉ thí với ông ta.

Tuy nhiên, sự hào hứng của cậu biến mất khi Wyrden đánh trúng bốn phát liên tiếp nhanh chóng: một vào vai phải của Eragon, hai vào xương sườn, và một nhát chém nguy hiểm ngang qua bụng. Vết thương đau đớn, nhưng niềm kiêu ngạo của Eragon tổn thương thậm chí còn nhiều hơn. Điều cậu ta lo lắng chính là vị tiên có thể vượt qua lớp phòng thủ của cậu dễ dàng. Nếu họ chiến đấu một cách nghiêm túc, Eragon biết rằng cậu có được có thể đánh bại Wyrden

trong vài lượt đầu tiên, nhưng ý nghĩ đó chỉ làm cậu thoải mái chút ít mà thôi.

Anh không nên để cho ông ta đánh anh quá nhiều, Saphira quan sát.

Ừ, anh biết rồi, cậu gầm gừ.

Anh có muốn em hạ gục anh ta cho anh?

Không ... không phải ngày hôm nay.

Tâm trạng của cậu trầm xuống, Eragon hạ lưỡi kiếm và cảm ơn Wyrden cho cuộc đấu. Vị tiên cúi đầu và nói, "Cậu luôn được chào đón, Khắc Tinh Tà Thần", sau đó trở về vị trí giữa các đồng đội của mình.

Eragon cắm Brisingr trên mặt đất giữa hai chân - điều mà cậu sẽ không bao giờ làm với một thanh kiếm làm bằng thép thông thường- và thả lỏng tay trên viên ngọc ở chuôi gươm khi cậu xem dòng người và súc vật xô đẩy nhau trong lòng con đường được lát bằng các tảng đá lớn của thành phố. Sự bất ổn giữa các nhóm đã giảm đáng kể, và cậu đoán rằng nó sẽ không kéo dài trước khi tiếng kèn báo hiệu cho Varden tiến lên.

Trong khi đó, cậu vẫn không ngừng nghỉ.

Cậu nhìn qua Arya, nơi cô đứng bên cạnh Saphira, và một nụ cười dần dần lan rộng trên khuôn mặt của cậu.

Đặt thanh Brisingr trên vai, cậu thơ thẩn và di chuyển về phía thanh kiếm của cô. "Arya, em thì sao? Chúng mình đã đấu với nhau chỉ có một lần ở Farthen Dûr. "Nụ cười của cậu mở rộng, và cậu nâng Brisingr lên. "Anh đã tiến bộ một chút kể từ đó."

"Uh, anh có."

"Thế em nói gì đây?"

Cô ném một cái nhìn nghiêm túc về phía Varden, sau đó nhún vai. "Tại sao không nhỉ?"

Khi họ đi đến đồng cỏ phẳng, cậu nói, "Em sẽ không có khả năng đánh bại anh khá dễ dàng như trước đây đâu. "

"Em chắc chắn anh đúng mà."

Arya chuẩn bị thanh kiếm của mình, sau đó họ đối mặt với nhau, khoảng mười thước. Cảm thấy tự tin, Eragon tiến lên nhanh chóng, như đã biết nơi cậu sẽ tấn công: ở vai trái của cô.

Arya giữ chặt khoảng đất của cô và không cố gắng để né tránh cậu. Khi cậu đến gần hơn bốn yard, cô mỉm cười với cậu, một nụ cười ấm áp, rực rỡ nâng cao vẻ đẹp của cô, Eragon chùn bước, suy nghĩ tán loạn lộn xộn.

Một đường thép lóe lên về phía cậu.

Cậu không kịp thời nâng Brisingr để làm chệch hướng tấn công. Một cú tê người chạy dọc cánh tay khi mũi kiếm đi lệch vào một cái gì đó cứng rắn- cán gươm, lưỡi gươm, hoặc da thịt, cậu không rõ, nhưng bất cứ điều gì, cậu biết rằng cậu đã đánh giá sai khoảng cách và phản ứng của cậu đã tạo ra cơ hội cho người khác tấn công.

Trước khi cậu có thể làm nhiều hơn là chậm lại đà lao về phía trước, một tác động khác đụng vào tay cầm kiếm của cậu làm dạt nó sang một bên, sau đó một cơn đau hình thành giữa người khi cậu bị Arya đâm, làm cậu té văng trên mặt đất.

Eragon càu nhàu khi cậu rơi xuống bằng lưng và cậu thở ra gấp gáp. Cậu há miệng hướng lên trời và cố gắng hít vào, nhưng bụng của cậu như bị kẹp lại và cứng như đá, cậu không thể hít không khí vào phổi. Một chòm sao màu đỏ thẫm xuất hiện trước mắt cậu, và trong một vài giây khó chịu, cậu sợ cậu sẽ bất tỉnh. Sau đó, cơ bắp thả lỏng, với một tiếng kêu lớn, cậu lại tiếp tục thở.

Khi mà cậu tỉnh táo lại, cậu chầm chậm đứng lên, chống thanh Brisingr xuống đất để hỗ trợ. Cậu dựa vào thanh kiếm, đứng gập người như một ông già chờ đợi cơn đau trong dạ dày giảm dần.

"Em ăn gian" cậu nghiến răng nói.

“Không, em khai thác điểm yếu của đối thủ. Có một sự khác biệt ".

"Em nghĩ rằng ... đó là điểm yếu?"

"Uh, khi chúng ta chiến đấu. Anh có muốn tiếp tục không? "

Cậu trả lời bằng cách giật Brisingr khỏi thảm cỏ, đi qua trở lại nơi cậu đã bắt đầu, và nâng cao thanh kiếm.

"Tốt," Arya. Cô lập lại tư thế của cậu.

Lần này Eragon cảnh giác nhiều hơn khi gần cô, và Arya không đứng tại một vị trí cũ.

Với các bước cẩn thận, cô tiến lên, đôi mắt màu xanh lá cây trong suốt không bao giờ rời khỏi cậu.

Cô giật giật, và Eragon rùng mình.

Cậu nhận ra rằng cậu đã nín thở và tự ép mình thư giãn.

Thêm một bước nữa về phía trước, sau đó, cậu xoay người với tất cả tốc độ và sức mạnh.

Cô chặn lại nhát chém ngang sườn và trả lời với một cái đâm về phía nách hở ra. Phần mòn của thanh kiếm trượt ngang qua mặt sau bàn tay không cầm kiếm của cậu, cào rách phần giáp khâu vào găng tay khi cậu đưa lưỡi gươm ra xa. Vào lúc đó, thân mình Arya để hở ra, nhưng họ quá gần nhau cho Eragon chém hoặc đâm một cách hiệu quả.

Thay vào đó, cậu lao về phía trước và đánh vào xương ức của cô bằng cán chuôi kiếm của mình, hy vọng sẽ hạ cô đo đất, như cô đã làm với cậu.

Cô xoay người khỏi quỹ đạo, và cán kiếm đi qua chỗ mà cô vừa ở khi Eragon loạng choạng lao về phía trước.

Cậu không biết chuyện đã xảy ra như thế nào, cậu thấy mình đứng bất động với một cánh tay của Arya quấn quanh cổ và, bề mặt trơn mát của lưỡi kiếm được thần chú bao bọc áp lên một bên quai hàm.

Từ phía sau, Arya thì thầm vào tai phải của cậu, "Em có thể cắt đầu của anh một cách dễ dàng như bứt một quả táo từ trên cây. "

Sau đó, cô thả ra và đẩy cậu đi. Tức giận, cậu xoay phắt người lại và thấy cô đang đợi cậu với thanh kiếm sẵn sàng và nét mặt kiên quyết.

Thay vào sự tức giận của mình, Eragon phóng tới cô.

Họ trao đổi bốn chiêu, mỗi lần càng kinh khiếp hơn so với trước. Trước tiên, Arya chém vào chân cậu. Cậu trả miếng bằng cách chém ngang thắt lưng của cô, nhưng cô đã tránh ra ngoài tầm với của thanh Brisingr lấp lánh, phản chiếu ánh mặt trời. Không cho cô một cơ hội để trả đũa, cậu tiếp ngay với chiêu xoay vòng ám muội, chiêu này bị cô chặn một cách dễ dàng như biết trước. Sau đó cô bước về phía trước nhẹ nhàng như một cái đập cánh của con chim ruồi, cô rút kiếm chém ngang bụng cậu.

Arya giữ vững vị trí vào lúc kết thúc trận đánh, mặt cô chỉ cách mặt cậu vài phân. Trán lấm tấm mồ hôi, gò má đỏ ửng.

Quá mức ái ngại, họ vứt bỏ cuộc đấu.

Eragon vuốt thẳng áo của mình, sau đó ngồi xổm bên cạnh Arya. Cơn nộ chiến của cậu đã tự biến mất và làm cậu chăm chú hơn, nếu không hoàn toàn thoải mái.

"Anh không hiểu", cậu lặng lẽ nói.

"Anh đã quá quen với việc chiến đấu với binh sĩ của Galbatorix. Chúng không hy vọng làm đối thủ của anh, vì vậy anh mất cơ hội chứng thực rằng mình đang suy bại. Các đòn tấn công của anh quá rõ ràng - anh không nên dựa vào sức mạnh thuần túy - và sự phòng thủ của anh thì lỏng lẻo hơn. "

"Em giúp anh chứ?" Cậu hỏi. "Em sẽ luyện tập với anh khi có thể?"

Cô gật đầu. "Tất nhiên. Nhưng nếu em không thể, hãy tìm Blödhgarm để được hướng dẫn, cậu ấy có năng lực sử dụng gươm như em vậy. Thực chiến là biện pháp khắc phục duy nhất anh cần, hơn nữa anh nên thực chiến với các đối thủ thích hợp. "

Eragon vừa mở miệng cảm ơn thì cậu cảm thấy sự hiện diện của một ý thức khác không phải là Saphira, đang đè ép tâm trí cậu, ý thức này mênh mông, đáng sợ và tràn đầy sâu thẳm sầu muộn nhất:

Một nỗi buồn trầm lắng, cổ họng của Eragon thắt chặt và màu sắc của thế giới dường như mất đi vẻ đẹp rực rỡ của nó. Bằng một giọng nói chậm, trầm thấp, như thể nói là một sự gắng sức gần như không thể chịu nổi, rồng vàng Glaedr nói:

Cậu phải học ... để nhận ra những gì cậu đang quan tâm.

Sau đó, sự hiện diện biến mất, bỏ lại sau lưng một khoảng trống đen ngòm.

Eragon nhìn Arya. Cô nhìn cũng bị ảnh hưởng như cậu; cô cũng đã nghe lời của Glaedr. Ngoài cô, Blödhgarm và những vị tiên khác đang náo động và thì thầm, trong khi ở bên lề đường, Saphira cong cổ của cô lại cố gắng nhìn vào các túi treo trên lưng cô.

Eragon nhận ra rằng tất cả họ đều nghe được.

Cậu cùng Arya đứng dậy và phóng hết tốc lực về Saphira, cô rồng nói, Ngài sẽ không trả lời tôi, dù ngài ở bất cứ nơi nào, ngài sẽ trở lại, và ngài sẽ không lắng nghe bất cứ điều gì, trừ nỗi buồn của mình. Ở đây, thấy không....

Eragon hòa tâm trí với cô rồng, và với Arya, và ba người họ cùng hướng suy nghĩ của mình về phía trái tim của Glaedr, nơi mà nó nằm ẩn trong những túi treo xung quanh cái yên. Cậu cảm thấy rõ ràng hơn phần còn sót lại của con rồng so với trước, nhưng tâm trí của nó vẫn còn chưa mở ra để giao tiếp với bên ngoài, tâm trạng của nó thờ ơ và lạnh nhạt, vì nó đã như thế từ khi Galbatorix giết người bạn kỵ sĩ của nó, Oromis.

Eragon, Saphira và Arya cố gắng đánh thức con rồng khỏi trạng thái mơ màng. Tuy nhiên, Glaedr kiên định bỏ qua họ, không nhận thức họ nữa như thể một con gấu ngủ trong hang động chịu đựng những con ruồi bay vo ve xung quanh đầu.

Còn nữa Eragon không thể giúp gì nhưng nghĩ rằng sự thờ ơ của Glaedr không hoàn thiện như nó vốn phải có, đây là lời bình luận của cậu.

Cuối cùng ba người họ thừa nhận thất bại và rút lui về thân thể họ. Khi Eragon trở lại, Arya cho biết, "Có lẽ nếu như chúng ta chạm vào Eldunarí của nó ...?"

Eragon tra lại Brisingr vào vỏ, sau đó nhảy lên chân trước bên phải của Saphira và kéo mình vào yên nằm trên vai của Saphira. Cậu xoay quanh chỗ ngồi và bắt đầu làm việc gỡ khóa của các cái túi.

Cậu vừa tháo được một trong các cái khóa và đang chọn lựa cái khác thì tiếng kèn đồng , mang hiệu lệnh tiến tới vang lên từ thủ lĩnh của Varden. Môt dòng đông đảo người và súc vật nhấp nhổm tiến về phía trước sau khi nghe hiệu lệnh, chuyển động của chúng do dự lúc đầu, nhưng trở nên thông suốt và tự tin hơn qua từng bước.

Eragon nhìn xuống Arya, đang rơm rớm nước mắt. Cô ấy giải quyết tình thế tiến thoái lưỡng nan bằng cách vẫy tay và nói, "Tối nay, chúng mình sẽ nói chuyện tối nay. Đi đi! Bay cao lên đi! "

Anh nhanh chóng đóng lại bao yên ngựa, sau đó trượt chân thông qua các hàng dây đai ở hai bên của cái yên và xiết chặt lại để cậu sẽ không ngã xuống giữa không trung.

Sau đó, Saphira rùn thấp người, với một tiếng gầm thích thú, cô phóng vượt qua đường. Những người phía dưới cô cúi ngồi xuống và co rúm lại, bầy ngựa chạy trốn khi cô giương đôi cánh khổng lồ và đập xuống, cất mình từ mặt đất cứng, khó chịu, bay vào bầu trời mịn màng rộng mở.

Eragon nhắm mắt lại và nghiêng khuôn mặt của mình, vui mừng khi cuối cùng đã rời Belatona. Sau một tuần trong thành phố không có gì để làm, ngoài ăn uống và nghỉ ngơi - điều mà Nasuada cố nài - cậu hăng hái tiếp tục hành trình của họ hướng tới Urû'baen.

Khi Saphira giữ vững lại độ cao, hàng trăm mét trên các đỉnh núi và tháp của thành phố, cậu nói,em có nghĩ rằng ngài Glaedr sẽ phục hồi?

Ngài ấy sẽ không bao giờ được như xưa.

Không hẳn thế, nhưng anh hy vọng rằng ngài sẽ tìm thấy một cách để vượt qua nỗi đau của mình. Anh cần sự giúp đỡ ngài ấy, Saphira. Hiện có rất nhiều điều anh vẫn không biết. Nếu không có ngài ấy, anh không có ai khác để hỏi.

Cô im lặng một lúc, âm thanh duy nhất là từ đôi cánh. Chúng ta không thể thúc giục ngài, cô nói.Ngài đã bị tổn thương bằng cách tồi tệ nhất mà một con rồng hoặc Kỵ sĩ rồng có thể bị. Trước khi ngài có thể giúp anh, em, hay bất cứ ai khác, ngài phải quyết định rằng ngài muốn tiếp tục sống. Cho đến khi ngài muốn, lời nói của chúng ta không thể với tới ngài ấy được.

Tiếng khua động của bầy chó săn đằng sau họ ngày càng lớn hơn, chúng tru vang khát máu.

Roran thắt chặt tay nắm của mình trên dây cương và cúi thấp ôm cổ con ngựa đang phi nước đại. Những con ngựa lướt qua bên cạnh cậu như sấm.

Cậu cùng năm người nữa - Carn, Mandel, Baldor, Delwin, và Hamund - đã đánh cắp những con ngựa khỏe mạnh từ chuồng của một trang viên cách đó nửa dặm. Những người chăn ngựa sẽ không chào đón những tên trộm. Nhưng một dàn kiếm đủ để đánh gục sự phản kháng của bọn họ. Tuy vậy, bọn họ cũng đã kịp báo động các lính gác ngay khi Roran và các bạn của mình rời đi. Và đang có mười tên lính gác đuổi theo ngay sau họ, cùng với đàn chó săn dẫn đầu.

"Hướng đó!" Cậu hét lên, và chỉ hướng tới một dải hẹp những cây bạch dương, mọc ra từ giữa hai ngọn đồi gần đó, chắc hẳn là sẽ dẫn ra một dòng suối.

Theo lời cậu, đám người kéo ngựa ra khỏi đường mòn và đi dọc theo hướng dãy cây. Mặt đất gồ ghề buộc họ phải giảm tốc độ xuống trong giây lát. Vì nếu không, rất có thể những con ngựa sẽ bước hụt vào hố và gãy chân hoặc hất người cưỡi văng xuống. Như thế sẽ càng nguy hiểm hơn, vì trong tình huống nguy hiểm đó, những con chó săn sẽ bắt được họ.

Roran thúc gót chân vào hai bên hông ngựa và hét lên "Yah!" cậu hét to lên như có thể thông qua cổ họng đầy bụi, tắc nghẽn. Con ngựa nhảy tới trước, và sải từng bước dài, bắt đầu bắt kịp Carn.

Roran biết rằng dù cậu có thúc như thế nào hay vụt thật mạnh bằng dây cương thì con ngựa cũng sắp không thể phi nước đại được nữa. Cậu ghét phải tàn nhẫn, cũng không muốn cưỡi nó cho đến chết, nhưng cậu sẽ không tiếc con ngựa nếu điều đó đồng nghĩa là nhiệm vụ của họ sẽ thất bại.

Khi cậu chạy ngang hàng với Carn, Roran hét lên, "Cậu có thể ẩn đi dấu vết của chúng ta với câu thần chú nào đó không?"

"Không biết cách!" Carn trả lời. Giọng của cậu loáng thoáng lẫn trong tiếng gió gào thét và âm thanh của ngựa phi nước đại. "Nó quá phức tạp!"

Roran chửi thề và liếc nhìn ra sau. Bầy chó săn đang ở khúc cua cuối con đường. Chúng dường như bay trên mặt đất, thân mình dài và cân đối của chúng duỗi ra co vào với một tốc độ mạnh mẽ. Ngay cả ở khoảng cách đó, Roran có thể nhận ra màu lưỡi đỏ của chúng, và dường như cậu còn nhìn thấy một tia sáng trắng của răng nanh.

Khi họ tới lùm cây, Roran quẹo và bắt đầu leo ngược lên đồi, anh cỡi ngưa đi sát vào những cây phong mà không va vào các nhánh cây thấp hoặc những khúc gỗ rớt ra. Những người khác cũng làm tương tự như vậy, họ la hét và thúc ngựa của họ để chúng chạy nhanh khi lên dốc.

Bên phải cậu, Roran thoáng thấy Mandel gập người trên con ngựa đốm, trên khuôn mặt hiện lên nét cau có dữ tợn. Chàng trai trẻ đã gây ấn tượng với Roran bằng sức chịu đựng và sự dũng cảm của mình trong ba ngày qua. Kể từ khi cha của Katrina – Sloan - phản bội dân làng Carvahall và giết chết cha của Mandel – Byrd - Mandel dường như tuyệt vọng để chứng minh bản thân ngang bằng bất kì người đàn ông nào trong làng, cậu đã tự chứng tỏ danh dự trong hai trận chiến vừa qua giữa Varden và Đế quốc. 

Một nhánh cây to quất về phía đầu Roran. Cậu cúi xuống và cảm nhận đầu nhánh cây chạm vào chiếc nón sắt. Một chiếc lá nát úa rơi xuống khuôn mặt của cậu và che mắt phải trong một tích tắc, sau đó bị gió thổi đi.

Tiếng ngựa thở ngày càng trở nên gắng sức khi họ theo con đường hẹp đi sâu vào ngọn đồi. Roran cúi nhìn qua cánh tay mình và thấy rằng bầy chó săn chỉ còn cách họ không tới một phần tư dặm. Chỉ vài phút nữa thôi bọn chúng chắc chắn sẽ bắt kịp những con ngựa.

Chết tiệt, cậu nghĩ. Cậu ngoảnh nhìn xuyên qua khắp các lùm cây rậm rạp phía bên trái và đồi cỏ bên phải của mình, tìm kiếm một cái gì đó, bất cứ điều gì mà có thể giúp họ cắt sự đeo bám của chúng.

Choáng váng đầu óc vì mệt mỏi, cậu gần như không để ý thấy nó.

Khoảng hai mươi thước phía trước cậu, có một đường mòn quanh co chạy xuống đồi, cắt ngang đường của cậu, sau đó lẩn khuất vào trong lùm cây.

"Whoa! ... Whoa "Roran hét lên, dựa lưng vào bàn đạp ở yên ngựa và kéo dây cương thúc giục. Con ngựa ngẩng cao đầu, khịt mũi, nhe răng ráng sức cắn một cái phản đối làm chậm lại nhịp phi nước đại.

"Ồ đừng có thế chứ", Roran gầm gừ, và giật mạnh dây cương hơn.

"Nhanh lên!", cậu gọi đồng bọn khi cậu chuyển hướng con ngựa của mình và chui vào lùm cây. Bầu không khí dưới cây mát lạnh, gần như rét buốt, đây thật sự là một điều cứu trợ đáng giá trong khi cậu nóng nực vì vận động. Cậu chỉ có một chút thời gian để hưởng thụ cảm giác đó trước khi con ngựa lao về phía trước và bắt đầu trợt chân xuống lề của dải đất hướng tới dòng suối dưới kia. Lá rụng lạo xạo dưới móng sắt. Để không văng qua đầu ngựa, Roran gần như phải nằm ngửa trên lưng con ngựa, hai chân duỗi thẳng trước mặt, đầu gối khóa lại.

Khi họ đến dưới hẻm núi, con ngựa gõ móng băng qua con suối nhỏ nhiều đá, làm nước bắn tung tóe cao đến đầu gối Roran. Roran dừng lại ở xa xa bờ bên kia để xem liệu những người khác vẫn còn đi với cậu hay không. Họ đang theo bước cậu, từng con ngựa một nối đuôi nhau đi xuống dưới, xuyên qua rừng cây.

Cậu có thể nghe tiếng sủa vang của bầy chó phía trên lùm cây mà họ đã đi qua.

Chúng ta sẽ phải quay lại, và chiến đấu, cậu tự nói.

Cậu chửi thề một lần nữa và thúc ngựa rời dòng suối, leo lên đồi đất mềm, đầy rêu phủ và tiếp tục chạy dọc theo con đường mòn mờ mờ.

Không xa dòng suối là một dãy dương xỉ, và xa hơn có một lỗ hổng. Roran phát hiện một thân cây đổ mà cậu nghĩ rằng có thể làm như một rào cản tạm thời nếu có thể kéo nó vào lỗ hổng đó.

Hy vọng chúng không có cung, cậu nghĩ.

Cậu vẫy đồng đội. "Ở đây!"

Cậu kéo dây cương lái ngựa băng qua các cây dương xỉ rồi tiến vào lỗ trống đó. Sau đó cậu nhảy xuống, nhưng tay vẫn giữ chặt lấy yên. Khi chạm xuống mặt đất, chân cậu khụy xuống, và nếu không gắng gượng thì cậu đã suýt ngã. Cậu nhăn nhó và áp trán vào vai con ngựa, thở hổn hển chờ cho chấn động ở chân giảm dần.

Phần còn lại là của những người xung quanh cậu. Không gian tràn đầy mùi mồ hôi và tiếng loảng xoảng của những bộ giáp sắt. Những con ngựa run rẩy, ngực phập phồng, và bọt màu vàng nhỏ giọt từ khóe miệng.

"Hãy giúp tớ", cậu nói với Baldor, và hướng về cái cây đổ. Họ luồn bàn tay dưới khúc gỗ dày và nhấc nó lên khỏi mặt đất. Roran nghiến răng hét lên vì cơn đau từ lưng và bắp đùi. Cưỡi ngựa phi nước đại trong ba ngày kết hợp với chưa đến ba giờ ngủ cho mỗi mười hai tiếng trên yên ngựa đã làm cậu suy nhược một cách khủng khiếp.

Cứ coi như mình đang tham gia vào một trận đấu rượu, say, và mất một nửa giác quan đi, Roran nhận ra điều đó khi cậu thả cây gỗ xuống và đứng thẳng lên. Suy nghĩ khiến cậu khó chịu.

Sáu người đàn ông đứng trước những con ngựa, đối diện với bức tường dương xỉ, và rút ra vũ khí của họ. Bên ngoài lỗ hổng, tiếng khịt khịt của những con chó săn dường như to hơn bao giờ hết, tiếng ẳng ẳng háo hức dội lại từ rừng cây cùng tiếng khò khè vang vọng.

Roran căng thẳng và nâng búa cao hơn. Sau đó, lẫn trong tiếng sủa của chó, cậu nghe thấy giai điệu kỳ bí, du dương của ngôn ngữ cổ đại phát ra từ Carn, và sức mạnh trong câu chú ngữ làm Roran rợn mình nổi da gà. Cậu mau chóng thốt ra các chuỗi một cách, không ngưng nghỉ, những từ kết hợp với nhau thành một mớ hỗn loạn tối nghĩa. Ngay khi kết thúc, cậu ra hiệu Roran và những người khác trong một tiếng thì thầm căng thẳng, "Hụp xuống!"

Không hỏi gì, Roran ngồi thụp xuống đùi của mình. Đây không phải lần đầu tiên cậu nguyền rủa sự thực là cậu không thể tự sử dụng phép thuật. Trong tất cả các kỹ năng một chiến binh có thể có được, không có gì hữu ích hơn là phép thuật. Sự thiếu hụt đó khiến trong lòng cậu cay đắng như người có thể thay đổi thế giới nhưng không có gì ngoài mộng tưởng và lời nói.

Các cây dương xỉ ở phía trước xào xạc và lắc lư, sau đó một con chó săn rúc mõm đen của nó qua những chiếc lá và chăm chú nhìn vào lỗ trống, mũi giật giật. Delwin rít lên và nâng thanh kiếm của mình, như thể để chặt đầu con chó, nhưng Carn vội hừ một tiếng khẩn cấp trong cổ họng và khoát tay với mọi người cho đến khi anh hạ lưỡi kiếm xuống.

Con chó nhăn nhăn cái trán của nó, cảm thấy bối rối. Nó ngửi ngủi không khí một lần nữa, sau đó liếm mõm với cái lưỡi đỏ tía, căng mịn và rút lui.

Khi những chiếc lá trở lại như cũ lấp mặt của con chó, Roran từ từ thở ra một hơi mà cậu kìm nén. Cậu nhìn về Carn và nhướn mày, hy vọng cho một lời giải thích, nhưng Carn chỉ lắc đầu và đặt ngón tay trên môi.

Vài giây sau, hai con chó nữa ngọ nguậy theo cách của chúng thông qua bụi rậm để kiểm tra khoảng trống; sau đó, cũng như con đầu tiên, chúng lùi lại một lúc. Ngay sau đó chúng bắt đầu rên rỉ, kêu ẳng ẳng khi chúng tản ra chung quanh, cố gắng tìm hiểu xem con mồi của chúng đã đi nơi nào.

Khi cậu ngồi chờ đợi, Roran nhận thấy rằng quần của mình lốm đốm nhiều vết đen dọc theo bên trong đùi của mình. Cậu chạm vào một trong những chỗ bị đổi màu, và ngón tay lấy ra một lớp da non đẫm máu. Mỗi đốm đánh dấu vị trí của một vết phồng. Không chỉ những chỗ đó, cậu có thể cảm thấy vết phồng trên tay - nơi mà dây cương chà xát lớp da giữa ngón tay cái và ngón trỏ - và cả gót chân, cũng như những nơi khác, kín đáo hơn.

Với vẻ mặt khó chịu, cậu lau những ngón tay của mình trên mặt đất. Cậu nhìn mọi người, cách mà họ cúi và quỳ xuống, cậu thấy rõ sự khó chịu trên khuôn mặt của họ bất cứ khi nào họ di chuyển và xoay nhẹ tay nắm lấy vũ khí của họ. Họ cũng không khá gì hơn cậu.

Roran đã quyết định rằng khi họ dừng lại để ngủ, cậu sẻ nhờ Carn chữa lành các vết loét. Tuy nhiên, nếu pháp sư đã quá mệt mỏi, Roran sẽ không yêu cầu chữa trị. Cậu thà chịu đựng sự đau đớn hơn là để Carn sử dụng tất cả sức mạnh của mình trước khi họ đến Aroughs, vì Roran cho rằng các kỹ năng của Carn sẽ rất hữu ích cho việc chiếm lấy thành phố.

Những suy nghĩ về Aroughs và sự trăn trở mà phương pháp để giành chiến thắng khiến Roran lấy tay chạm vào ngực của mình để kiểm tra xem cái gói có chứa các mệnh lệnh mà cậu không thể đọc cũng như nhiệm vụ mà cậu được giao vẫn an toàn giấu kín trong áo không. Chúng vẫn còn.

Sau nhiều phút dài căng thẳng, một trong những con chó săn bắt đầu sủa hào hứng ở một nơi nào đó trong rừng ở phía thượng nguồn. Những con chó khác vụt chạy theo hướng đó và tiếp tục sủa rộn ràng, điều đó có nghĩa là chúng đã đuổi gần đến con mồi.

Khi tiếng ồn ào đã rút đi, Roran từ từ đứng lên và quét ánh mắt về phía trên cây và bụi cây. "Tất cả đi rồi", cậu nói, giữ giọng mình nén lại.

Khi những người khác đã đứng dậy, Hamund - cao, mái tóc thô xù và có những nếp sâu cạnh miệng, mặc dù anh chỉ là lớn hơn Roran một tuổi - xoay về Carn, cau có, và nói, "Tại sao cậu không làm điều đó lúc trước, thay vì để cho chúng ta cưỡi ngựa như điên qua vùng nông thôn và gần như gãy cổ khi xuống đồi " Anh hướng trở lại dòng suối.

Carn trả lời với một giọng điệu giận dữ như thế: "Bởi vì tôi không nghĩ đến nó, đó là lý do tại sao. Nhớ rằng tôi vừa cứu anh khỏi việc có một đống lỗ mũi chòng chọc sau lưng, tôi nghĩ rằng anh nên biểu hiện một chút biết ơn."

"Vậy à? Đúng rồi, tôi nghĩ rằng cậu nên dành nhiều thời gian học thêm chú ngữ trước khi chúng ta bị đuổi nửa đường đến nơi - mà - ai – đó - biết và… "

Lo sợ rằng cuộc tranh cãi có thể trở nên tồi tệ, Roran bước ra giữa họ. "Đủ rồi," cậu nói. Sau đó, cậu hỏi Carn, "Cậu có thể hay không hóa phép tàng hình chúng ta khỏi bọn lính canh?"

Carn lắc đầu. "Người thì khó đánh lừa hơn chó." Cậu ném một cái nhìn chê bai lại Hamund. “Tôi tối thiểu cũng có thể gạt hầu hết bọn chúng. Chúng ta có thể ẩn đi, nhưng không thể che các dấu vết để lại", cậu ám chỉ những cây dương xỉ nghiền nát và bị hỏng, cũng như dấu chân lún trên nền đất ẩm ướt. "Chúng sẽ biết chúng ta ở đây. Nếu chúng ta rời trước khi chúng nhìn thấy chúng ta, những con chó sẽ dắt chúng đi xa và chúng ta sẽ… "

"Lên ngựa" Roran ra lệnh.

Họ leo lên lại chiến mã trộn lẫn với lời lẩm bẩm nguyền rủa và rên rỉ,. Roran nhìn qua lỗ hổng một lần cuối để đảm bảo rằng họ không quên thứ gì, sau đó dẫn ngựa của mình lên vị trí đầu của nhóm và thúc ngựa bằng chiếc móc sắt ở chân.

Cùng nhau họ phi nước đại từ dưới những bóng cây và đi xa khỏi các khe núi, họ tiếp tục cuộc hành trình dường như không bao giờ kết thúc đến Aroughs. Cậu sẽ làm gì ở đó, Roran không có tí ý nghĩ gì.

Eragon xoa xoa đôi vai khi cậu sài bước qua doạnh trại quân Varden, cố gắng nắn lại cái cổ bị vẹo sau một buổi tập dợt với Arya và Blodhgarm vào buổi trưa. 

Cậu dừng lại trên một ngọn đồi nhỏ, nơi giống như một hòn đảo đơn độc giữa biển lều. Cậu đưa tay chống nạnh và phóng tầm mắt về cảnh vật chung quanh. Trước mặt cậu là hồ Leona đen óng ánh trong buổi hoàng hôn với từng đợt sóng phản chiếu từng ánh đuốc màu vàng cam từ phía doanh trại. Con dường quân Varden dùng để hành quân nằm giữa doanh trại và bờ hồ. Chú Jeod đã từng nói rằng con đường làm từ đá và vữa này đã được xây từ rất lâu rồi, trước cả khi Galbatorix lật đổ các kỵ sĩ. Khoảng một phần tư dặm về hướng Bắc là một làng chài nhỏ nằm rất gần bờ hồ; Eragon biểt tỏng rằng dân làng ở đó chẳng vui vẻ gì mấy khi có cả một đội quân khổng lồ đóng ở gần đó.

Ngươi phải học... để thật sự nhìn thấu những thứ mình đang quan sát. 

Từ ngày rời Belatona, Eragon đã dành hàng giờ nghiền ngẫm lời khuyên của Glaedr. Cậu không nắm chắc được ngụ ý thực sự của Glaedr là gì bời Glaedr từ chối nói thêm bất kỳ điều gì sau khi đưa ra lời khuyên huyền hoặc đó, nên Eragon đành phải tiếp thu nó theo nghĩa đen mà thôi. Cậu đang cố gắng xem xét kỹ lưỡng mọi thứ đang xảy ra chung quanh, bất kể tầm vóc quan trọng của thứ đó ra sao, và tìm hiểu ý nghĩa thật sự của những điều mình trông thấy. 

Và mặc dù đã cố gắng hết sức, cậu vẫn cảm thấy như mình đã thất bại thê thảm. Ở bất cứ thứ gì cậu cũng ghi nhận được hằng hà sa số các chi tiết, nhưng cậu lại còn đinh ninh rằng vẫn còn nhiều thứ mình chưa đủ mẫn cảm để phát hiện ra. Tệ hơn thế, hiếm khi nào cậu có thể hiểu cho tường tận những điều đã quan sát được, tỉ như việc tại sao không có khói bốc lên từ những ống khói trong làng chài. 

Mặc dù cảm thấy có vẻ hơi phủ phiếm, nhưng ít ra sự cố gắng của Eragon cũng có ích cho một thứ, đó là Arya không còn đánh bại cậu mỗi lần hai người luyện kiếm nữa. Cậu quan sát nàng với một sự chú ý tột bậc - giống như lúc cậu đang rình săn bầy nai vậy - và kết quả là cậu đã chiến thắng trong vài trận đấu với Arya. Nhưng dĩ nhiên cậu vẫn chưa lên tới cấp độ của Arya được, và cậu không biết phải luyện cái gì hoặc luyện từ ai mới có thể đạt được kiếm thuật như Arya. 

Có lẽ Arya đã đúng, kinh nghiệm là người thầy duy nhất của mình vào lúc này. Eragon nghĩ. Nhưng kinh nghiệm đòi hỏi thời gian, thứ mà ta có rất ít. Quân ta sẽ đánh tới Dras-Leona rất nhanh, và sẽ tới Uru'baen. Chậm nhất là vài tháng tới, chúng ta phải đối đầu trực tiếp với Galbatorix và Shruikan. 

Cậu thở dài và đưa tay vuốt mặt, cố gắng nghĩ tới điều gì đó ít rắc rối hơn. Và như mọi khi, cậu liền trở về với những điều hoài nghi và lo lắng của mình, giống như một con chó với khúc xương của nó vậy, lúc nào cũng lo lắng và cảnh giác cho với cục xương. 

Vừa trầm ngâm suy nghĩ, Eragon tiếp tục sải bước xuống đồi. Cậu lang thang quanh các ngọn lều, ngầm hướng về căn lều của mình, nhưng cậu cũng chẳng để ý đến lộ trình của mình lắm. Và như mọi lần, việc tản bộ giúp cậu bình tĩnh lại. Những người lính thuờng tránh sang để nhường đường cho cậu, kèm theo những nắm tay được đưa lên trước ngực cùng với lời chào "Khắc Tinh của Tà Thần." Eragon đáp lại bằng một cái gật đầu lịch sự. 

Eragon đã lang thang được chừng mười lăm phút, vẫn đang chìm đắm trong suy nghĩ của mình, khi tiếng nói the thé của một người đàn bà đang kể chuyện một cách say sưa kéo cậu ra khỏi chốn u mê. Cảm thấy tò mò, Eragon lần theo giọng nói tới một túp lều nằm khá xa doanh trại, gần gốc của một cây liễu duy nhất mà quân lính vẫn chưa chặt xuống để nhóm lửa.

Và rồi, dưới một tàn cây, Eragon thấy được một cảnh tượng kỳ dị nhất mà cậu từng biết được. 

Mười hai tên Urgals, gồm cả thủ lĩnh Nar Garzhvog của chúng, ngồi quây quần thành một nửa vòng tròn chung quanh ngọn lửa. Ánh lửa vẽ nên những chiếc bóng dữ tợn múa may trên khuôn mặt của lũ Urgals, làm nổi bật cặp lông mày rậm, gò má gồ ghề, quai hàm khổng lồ, và mũi nhọn của những chiếc sừng mọc ra từ trên trán được uốn cong ngược về đằng sau của chúng. Bọn Urgals hoàn toàn cởi trần, trừ cho những chiếc vòng bằng da đeo trên cánh tay và một đai da vắt xéo trên ngừời. Ngoài Garshvog ra, ba tên Kull khác cũng có mặt. Kích thước đồ sộ của chúng khiến đám Urgals còn lại - không một tên trong số này cao dưới hai thước - trông như đám con nít. 

Rải rác chung quanh bọn Urgals là vài tá con ma mèo. Khá nhiều con ma mèo đang ngồi yên cạnh ngọn lửa, ngay cả chiếc đuôi cũng không động đậy, đôi tai hướng về phía trước. Một số khác nằm uờn trên mặt đất, hoặc trên đùi hay trong vòng tay của một tên Urgals nào đó. Và để làm Eragon ngạc nhiên hơn, một con ma mèo cái với bộ lông trắng tóat đang nằm vắt vẻo trên đầu một tên Kull và gác một chân vào giữa cặp lông mày của hắn. Mặc dầu trông khá nhỏ bé so với bọn Urgals, đám ma mèo chẳng kém cạnh về mặt hung tợn chút nào, và Eragon chắc chắn rằng mình thà đối đầu với một tên Urgals, đối thủ mà cậu hiểu rõ, trên chiến trường còn hơn là một con ma mèo với đầy sự bí hiểm. 

Bên kia đống lửa, bà phù thủy Angela đang ngồi xếp bằng phía trước căn lều của mình. Bà đang dùng một trục xoay để kéo từng sợi nhỏ ra khỏi một cuộn len đặt gần đó. Cả bọn Urgals lẫn đám ma mèo đều đang chăm chú quan sát bà trong lúc bà đang kể:

"... nhưng lão ta quá chậm chạp, và con thỏ mắt đỏ hung tợn đã chồm lên xé toang cổ họng của lão Hord, giết chết lão ngay lập tức. Sau đó con thỏ chạy vào trong rừng và biến mất khỏi lịch sử. Mặc dù vậy" bà Angela chồm tới trước, thấp giọng nói "nếu có đi qua khu vực này, như ta đã từng, thỉnh thoảng các người vẫn thấy được mấy cái xác nai giống như bị con gì đó gặm nhấm dần. Chung quanh đó, các người sẽ thấy được dấu chân của một loài thỏ khổng lồ. Cứ lâu lâu, một chiến sĩ từ Kvôth lại mất tích, và vài ngày sau xác của anh ta được tìm thấy với cổ họng bị gặm nát."

Trở về kiểu ngồi cũ, bà nói tiếp: "Vua Orrin đã vô cùng giận dữ khi hay tin bạn mình mất tích, và ông ta muốn đi săn lòai thỏ này, nhưng ngặt nỗi người lùn vẫn cần sự giúp đỡ của ông ta. Ông ta đành trở về pháo đài, và trong ba ngày ba đêm kế tiếp họ cố gắng giữ thành cho đến khi lương thực cạn kiệt và mình mẩy đầy vết thương.

"Cuối cùng, vào buổi sáng của ngày thứ tư, khi mọi thứ đã trở nên tuyệt vọng, những đám mây tản mác phía chân trời, Terrin đã bất ngờ khi thấy Mimring bay về phía pháo đài, dẫn đầu cả một bầy rồng. Sự hiện diện của loài rồng khiến những kẻ tấn công khiến hãi đến mức chúng vứt hết vũ khí để vắt giò lên cổ mà chạy tán loạn." Bà Angela cười châm biếm. "Hẳn các người cũng tưởng tượng được điều này khiến người lùn ỡ Kvôth vui mừng thế nào, mọi người bắt đầu reo hò mừng rỡ.

"Khi Mimring hạ cánh, Terrin ngỡ ngàng khi thấy vảy của con rồng đã trở nên óng ánh như kim cương, kết quả của việc bay quá gần mặt trời - để kịp kéo theo các con rồng khác, Mimring đã phải bay trên cả các đỉnh núi của rặng Beor, cao hơn tất cả những con rồng đã từng biết bay từ trước đến nay. Cũng từ đó, Terrin trở nên nổi tiếng như một anh hùng của trận vây pháo đài Kvôth, và con rồng của ông ta được gọi là Mimring Vảy Sáng vì bộ vảy của nó, và rồi họ sống hạnh phúc mãi mãi. Thực sự rằng lúc về già, Terrin vẫn còn ám ảnh nỗi sợ về loài thỏ khổng lồ. Và đó là điều đã thực sự xảy ra ở Kvôth."

Khi câu chuyện đã kết thúc, đám ma mèo liền rên lên ử ử, còn bọn Urgals gầm khẽ biểu hiện sự tán thành.

"Bà kể chuyện rất hay, Ulthurek," Garzhvog nói, giọng gã trầm đục như tiếng đá rơi. 

"Cảm ơn." 

"Nhưng không giống như tôi đã được nghe," Eragon cất lời khi cậu bước lại gần đống lửa. 

Mặt của Angela sáng hẳn lên. "Chậc, cháu đừng mong người lùn thú nhận rằng họ phải mang ơn một con thỏ. Nãy giờ cháu đứng nghe trộm ở đâu đó à?" 

"Chỉ mới có một chút thôi," cậu trả lời. 

"Thế thì cháu đã lỡ mất phần hay nhất của câu chuyện rồi, và ta không có hứng để kể lại đâu. Nãy giờ nói nhiều quá nên cổ họng ta khô ran rồi." 

Eragon cảm thấy mặt đất rung lên khi đám Kull và Urgals lần lượt đứng dậy, làm cho lũ ma mèo đang nằm trên người chúng kêu lên mấy tiếng khó chịu khi bị hất xuống đất.

Lướt qua những bộ mặt có sừng dữ tợn đó, Eragon phải rất cố gắng mới kiềm chế để không phải rút kiếm ra. Cho dù đã từng chiến đấu, du hành, và đi săn cùng bọn Urgals, cũng như kiểm tra tri thức cúa một số ít, sự hiện diện của bọn chúng vẫn khiến cậu phải cảnh giác cao. Eragon biết rõ rằng Urgals hiện là đồng minh của mình, nhưng trong xương tủy cậu vẫn không thể quên được sự kinh hãi bọn chúng mang lại mỗi khi cậu phải đối đầu với chúng trên chiến trường. 

Garzhvog lấy ra một vật gì đó từ cái bao da hắn đeo trên dây lưng. Hắn vươn tay qua ngọn lửa và đưa vật đó cho Angela, khiến bà phù thủy phải đặt cái trục xoay xuống và nhận lấy vật đó bằng cả hai tay. Thứ đó giống như một quả cầu màu xanh biển, lấp lánh như băng tuyết. Bà Angela cất nó vào trong tay áo, và lại tiếp tục việc kéo len. 

Garshvog nói, "Bà phải đến doanh trại của chúng tôi mới được, Ulthurek à, và người của tôi sẽ kể cho bà nghe vô vàn các câu chuyện của dân tộc tôi. Tộc chúng tôi có một người biết ca hát rất khá. Anh ta sẽ kể cho bà nghe câu chuyện về chiến thắng của Nar Tulkhqa ở Stavarosk. Máu huyết của bà sẽ sôi sục và ý muốn được khóa sừng dưới ánh trăng với kẻ thù mạnh nhất của bà sẽ trở nên rất mãnh liệt."

"Còn phụ thuộc vào chuyện tôi có sừng hay không," Angela đáp. "Thật vinh dự khi có dịp ngồi trao đổi chuyện trò với các anh. Vậy tối mai có được không?"

Gã khổng lồ Kull đồng ý, rồi Eragon hỏi, “Stavarosk ở đâu? Tôi chưa bao giờ biết về nó trước đây.”

Gã Urgals nhúc nhích thân mình một cách khó chịu còn Garzhvog cúi đầu xuống khịt mũi gầm gừ như con trâu rừng. “Trò bịp bợm gì đây hả, Hỏa Kiếm?”, gã gặng hỏi. “Anh bạn tìm kiếm thử sức với tớ bằng cách làm nhục bọn tớ như vậy sao?” Gã xòe và nắm chặt bàn tay với mục đích đe dọa rõ rệt.

Nhận biết chuyện xảy ra, Eragon nói, “Tôi không có ý xấu, Nar Gahvog. Đó là một câu hỏi thành thực, tôi chưa bao giờ nghe nói về cái tên của Stavarosk trước đây.”

Tiếng xì xầm ngạc nhiên nổi lên giữa những người Urgals. “Làm sao lại như vậy?” Garzhvog nói. “Không phải tất cả nhân tộc đều biết đến Stavarosk sao? Nó không được hát trong khắp vùng hoang vu phía Bắc cho đến dãy núi Beor như là chiến công vang dội nhất của bọn tớ sao? Nếu không phải thì chắc chắn quân Varden phải nói đến.”

Angela thở dài và không cần nhìn cuộn chỉ đan bà nói, “Tốt nhất là anh bạn nên kể ra.”

Trong tiềm thức của cậu, Eragon cảm nhận Saphira đang dòm ngó cuộc đối thoại này và cậu biết rằng cô sẽ sẵn sàng bay đến bên cậu từ căn lều của họ nếu như một cuộc ấu đả trở thành việc không thể tránh được.

Cậu chọn từ cẩn thận và nói: “Không ai đề cập đến nó với tôi, với lại tôi ở với quân Varden chưa được lâu lắm và ….”

“Đồ khốn kiếp” Garzhvog văng tục. “Tên phản bội không sừng, ngay cả can đảm chấp nhận sự thất bại cũng không có. Hắn ta là kẻ hèn nhát và nói láo!”

“Ai vậy? Galbatorix?” Eragon cẩn trọng hỏi.

Một số mèo ma rít lên khi nhắc đến tên của kẻ thống trị.

Garzhvog gật đầu. “Đúng vậy. Khi hắn ta cầm quyền hắn luôn tìm cách tiêu diệt chủng tộc bọn tớ. Hắn đưa đông đảo quân đội tới vùng Spine. Lính của hắn tàn phá xóm làng, thiêu hủy dân chúng, chỉ để lại mảnh đất trơ trụi đầy cay đắng sau lưng chúng. Đầu tiên bọn tớ chiến đấu với niềm tin nhưng sau cùng là tuyệt vọng. Tuy vậy, bọn tớ vẫn tiếp tục chiến đấu. Đó chỉ là chuyện duy nhất bọn tớ có thể làm. Bọn tớ không có chỗ để chạy trốn không có nơi để ẩn náu. Ai sẽ bảo vệ Urgralgra khi ngay cả những Kỵ sĩ cũng phải quỳ gối trước mặt họ?

“Nhưng bọn tớ cũng may mắn. Nar Tulkhqa là một thủ lĩnh tuyệt vời đã dẫn dắt bọn tớ. Ông ta có lần bị bắt bởi nhân tộc và ông ta đã chiến đấu với họ nhiều năm do đó ông ấy biết các cậu suy nghĩ gì. Vì lý do đó, ông ta có thể tập hợp nhiều bộ lạc dưới quyền. Sau đó ông ta dẫn dụ quân đội Galbatorix đi vào một con lộ hẹp và sâu giữa những dãy núi, chúng tớ phục kích từ hai bên sườn núi. Đó là một cuộc tàn sát, Hỏa Kiếm ạ. Mặt đất tràn đầy máu tươi, xác người chất cao hơn đầu tớ. Cho đến ngày hôm nay nếu như bạn đến Stavarosk, bạn có thể nghe thấy tiếng xương bị gãy dưới chân mình, bạn có thể tìm thấy những đồng xu, những thanh kiếm và mảnh vỡ của áo giáp dưới từng lớp cỏ.”

“Vậy thì ra đúng là các bạn!” Eragon thốt lên. “Suốt cả đời tôi nghe đồn rằng Galbatorix có lần mất cả nửa đội quân trong dãy Spine nhưng không ai kể cho tôi biết như thế nào và lý do tại sao.”

“Nhiều hơn nửa đội quân của hắn, Hỏa Kiếm.” Garzhvog vươn vai và làm ra tiếng động từ sâu trong cổ họng. “Và bây giờ tớ thấy là chúng ta cần phải lan truyền chuyện này cho tất cả mọi người biết sự chiến thắng của chúng ta. Chúng tớ sẽ tìm ra những ca sĩ, thi hào của nhân tộc và sẽ dạy họ những bài ca liên quan đến Nar Tulkhqa, và chúng tớ sẽ chắc chắn rằng họ sẽ nhớ và lập đi lập lại thường xuyên và lớn tiếng.” Gã gật đầu một lần như thể đã quyết định – một cử động đầy ấn tượng từ cái đầu to quá khổ của gã rồi nói. “Tạm biệt Hỏa Kiếm. Tạm biệt Uluthrek.” Sau đó, gã và đồng bọn biến mất trong bóng đêm.

Angela cười khúc khích làm Eragon giật mình.

“Chuyện gì thế ạ?” cậu quay lại hỏi bà.

Bà mỉm cười. “Tôi đang tưởng tượng nét mặt dáng thương của người thổi sáo trong vài phút như thế nào, khi anh ta nhìn ra ngoài lều và thấy mười hai người Urgals, bốn người Kull khổng lồ trong đám người họ, đang đứng ngoài cửa lều mong muốn dạy anh ta về văn hóa của Urgal. Tôi sẽ rất lấy làm ngạc nhiên nếu chúng ta không nghe thấy anh ta thét lên.” Bà lại cười khúc khích lần nữa.

Cảm thấy vui giống như bà, cậu ngồi xuống đất cầm lấy cành cây khuấy mấy cục than. Một vật gì đó nặng và ấm áp nằm lên đùi cậu, cậu ngó xuống và thấy một con mèo ma màu trắng đang cuộn mình nằm. Cậu dơ tay lên định vuốt ve nó nhưng rồi cậu nghĩ tốt hơn là hỏi nó, “Tôi có thể không?”

Con mèo ma vẫy đuôi nhưng lờ cậu đi.

Hy vọng rằng không làm gì sai trái, Eragon bắt đầu gãi nhẹ vào cổ nó. Một lúc sau, không gian tràn đầy tiếng mèo kêu rừ rừ rộn ràng lớn tiếng.

“Nó thích cậu,” Angela quan sát.

Vì lý do nào đó, Eragon cảm thấy rất hài lòng. “Nó là ai? Ý của tôi là bạn là ai? Bạn tên gì?” Cậu liếc nhìn con mèo ma, lo lắng là cậu đã làm nó phiền lòng.

Angela cười nho nhỏ. “Tên nó là Shadowhunter. Nói cách khác, đó là ý nghĩa tên của nó trong ngôn ngữ của mèo ma. Thật ra, tên nó là ….” Bà lang thốt ra một tràng âm thanh kỳ quái nửa như ho nửa như gầm gừ làm cho Eragon dựng tóc gáy. “Shadowhunter là bạn đời của Grimrr Haftpaw, do đó người ta có thể nói nó là Hoàng hậu của mèo ma.”

Tiếng mèo kêu rừ rừ tăng mạnh.

“Được rồi.” Eragon nhìn những con mèo ma chung quanh. “Solemburn ở đâu?”

“Bận rộn theo đuổi một con mèo ma cái có bộ lông dài chỉ bằng nửa tuổi của nó. Nó xử sự điên cuồng như một con mèo ma trẻ con … nhưng mà tất cả mọi người thỉnh thoảng đều muốn có một chút buông thả điên rồ.” Tay trái bà giữ con suố dừng lại và quấn sợi chỉ mới tạo thành vào phần bệ của trục quay bằng gỗ. Sau đó bà vặn con suốt để nó chuyển động lại và tiếp tục kéo chỉ đan trong tay bà. “Dường như cậu có quá nhiều thắc mắc để hỏi, Khắc tinh Tà Thần.”

“Mỗi khi cháu gặp bà, cháu luôn cảm thấy mơ hồ lẫn lộn hơn trước.”

“Luôn như vậy? Cậu hơi cường độ hóa vấn đề. Vậy thì tôi sẽ cố gắng cung cấp nhiều tin tức hơn. Cậu cứ hỏi.”

Hoài nghi trước vẻ rộng rãi của bà, Eragon suy nghĩ xem cái gì cậu muốn biết. Cuối cùng cậu hỏi: “Cơn sấm rồng? Cái gì …”

“Đó là thuật ngữ thích hợp cho một bầy rồng. Nếu như cậu có cơ hội nghe thấy, cậu sẽ hiểu. Khi mà mười, mười hai hoặc nhiều hơn rồng bay ngang qua đầu, không khí xáo động chung quanh cậu tựa như cậu ngồi trên một cái trống khổng lồ. Hơn nữa, cậu còn thể gọi tên một nhóm rồng là gì? Cậu có sát thủ quạ, triệu tập ưng, bầy ngỗng, bè vịt, băng chim giẻ cùi, nghị viện cú, vân vân và vân vân … Vậy những con rồng thì sao? Nhóm rồng đói? Điều này không đúng. Nó không liên quan đến sự bộc phát hoặc sự khủng khiếp cho dù tôi thích từ khủng khiếp, tất cả những từ ngữ đều được xem xét: bầy rồng khủng khiếp … Nhưng không, một nhóm rồng được gọi là cơn sấm rồng. Điều này cậu nên biết nếu như học vấn của cậu không chỉ có học đánh kiếm và chia vài động từ trong ngôn ngữ cổ.”

“Cháu chắc là bà đúng.” cậu nói chiều lòng bà. Xuyên qua sự liên lạc không ngừng với Saphira, cậu nhận ra sự chấp thuận của cô về cách gọi “cơn sấm rồng” mà cậu chia sẻ với cô đó là sự mô tả phù hợp.

Cậu suy nghĩ một hồi lâu rồi hỏi, “Tại sao Garzhvog gọi bà là Uluthrek?”

“Đó là danh hiệu mà những người Urgals tặng cho tôi lâu lắm rồi khi tôi lịch lãm ở chỗ họ.”

“Nó có ý nghĩa gì?”

“Ăn mặt trăng.” 

“Ăn mặt trăng? Một cái tên kỳ quái. Làm sao bà lại có vậy?”

“Lẽ đương nhiên là tôi ăn mặt trăng. Còn chuyện khác nữa sao?”

Eragon cau mày và tập trung vào việc vỗ về con mèo ma vài phút rồi hỏi: “Tại sao Garzhvog đưa cho bà viên đá đó?”

“Bởi vì tôi đã kể cho gã một câu chuyện. Tôi nghĩ rằng điều đó quá rõ ràng.”

“Nhưng đó là cái gì?”

“Cậu không thấy sao? Một mảnh đá mà thôi.” Bà phản đối như gà cục tác. “Đúng ra, cậu cần phải để ý vào những việc đang xảy ra chung quanh cậu. Nếu không, sẽ có kẻ đâm cậu một dao khi cậu lơ đễnh. Và rồi ai sẽ là người trao đổi với tôi những nhận xét bí hiểm?” Bà vuốt tóc.

“Tiếp tục đi, hỏi tôi câu hỏi khác. Tôi thật thích cái trò chơi này.”

Cậu nhướng một chân mày về hướng bà ta, mặc dù cậu chắc chắn rằng điều này là vô nghĩa, cậu nói: “Chíp chíp?”

Bà lang cười ré lên, vài con mèo ma mở miệng ra trông giống như nhe răng cười. Tuy vậy, Shadowhunter có vẻ phật ý bởi vì nó cắm vuốt vào chân Eragon làm cậu co rúm lại vì đau.

“Được rồi,” Angela vừa nói vừa cười, “ nếu như cậu muốn có câu trả lời, đây cũng là một câu chuyện hay giống như những chuyện khác. Để tôi nhớ lại … Nhiều năm về trước, khi tôi lịch lãm dọc theo rìa khu Du Weldenvarde, rất xa về hướng Tây, cách xóm làng, thị trấn hoặc thành phố nhiều dặm đường, tôi tình cờ gặp Grimrr. Vào lúc đó, hắn chỉ là thủ lãnh của một bộ tộc mèo ma nhỏ và hắn vẫn còn đầy đủ bộ móng vuốt. Đại khái, tôi thấy hắn đang đùa với một con chim non cổ đỏ bị té ra khỏi ổ từ một cái cây gần đó. Tôi chẳng lấy làm lạ nếu như hắn giết con chim và ăn nó, rốt cuộc đó là việc mà mèo phải làm. Nhưng đằng này hắn ta hành hạ con chim đáng thương: kéo cánh nó, gậm nhấm cái đuôi nó, để nó nhảy nhót ra xa rồi đẩy nó ngã.” Angela nhăn mũi lại ghê tởm. “Tôi bảo hắn phải ngừng lại nhưng hắn gầm gừ và phớt lờ tôi.” Bà nhìn Eragon với cặp mắt nghiêm nghị. “Tôi không thích điều này khi người ta phớt lờ tôi. Do đó, tôi bắt lấy con chim từ hắn ta và ngoắc ngón tay, miệng đọc một câu bùa chú, trong vòng một tuần lễ mỗi lần hắn mở miệng hắn kêu chíp chíp như chim sơn ca.”

“Ông ta kêu chíp chíp?”

Angela gật đầu, như xác nhận với nụ cười kiềm chế. “Tôi chưa bao giờ cười quá đã trong đời mình. Không có con mèo ma nào dám lại gần hắn cả tuần lễ.”

“Không cần hỏi cũng biết hắn thù ghét bà.”

“Chuyện đó chẳng là gì cả? Nếu như cậu thỉnh thoảng không gây ra vài kẻ thù thì cậu là người hèn nhát hoặc tệ hơn. Hơn nữa, để được xem phản ứng của hắn ta, điều này cũng đáng giá. Oh, hắn rất giận dữ!”

Shadowhunter thốt ra một tiếng gừ nhỏ, cảnh báo và xiết chặt vuốt của nó lần nữa.

Nhăn mặt, Eragon nói, “Có lẽ tốt nhất là nên thay đổi đề tài?”

“Mmm.”

Trước khi cậu đề nghị một chủ đề mới, một tiếng thét thật lớn vang lên đâu đó giữa trại. Tiếng thét vang vọng ba lần qua những dãy lều trước khi nhỏ dần vào trong im lặng.

Eragon nhìn Angela, bà nhìn cậu, rồi cả hai cùng bắt đầu cười to.

Trễ rồi đó, Saphira nói khi Eragon thơ thẩn hướng về phía lều của cậu, bên cạnh là cô rồng đang nằm cuộn tròn, tỏa sáng như một gò than xanh trong ánh sáng mập mờ của những ngọn đuốc. Cô ngó cậu với một mắt đóng chặt.

Cậu cúi đầu, ôm lấy cái hàm đầy gai của cô, và day trán của mình vào Saphira trong một hồi lâu.Thì ra là vậy, cuối cùng cậu thốt ra. Và em cần nghỉ ngơi sau khi bay trong gió cả ngày. Ngủ đi, anh sẽ gặp em vào buổi sáng.

Cô chớp mắt một lần như để thừa nhận.

Bên trong lều của mình, Eragon thắp sáng một ngọn nến cho thoải mái hơn. Cậu tháo giầy ra và ngồi xếp bằng trên giường xếp. Cậu thở chậm lại và để cho tâm trí của cậu mở và trải rộng ra ngoài tiếp xúc với tất cả các sinh vật chung quanh cậu, từ những con sâu, côn trùng trong đất đến Saphira và những người chiến binh của Varden, ngay cả vài cái cây có năng lượng hết sức mỏng manh gần đó, rất khó để phân biệt chúng, cho dù là với năng lượng tỏa ra của các loài động vật nhỏ nhất.

Cậu ngồi đó một lúc lâu, đầu óc óc trống rỗng, cảm nhận hàng ngàn cảm xúc từ mờ nhạt cho đến sắc nét, chẳng hề lưu tâm đến điều gì, cậu chỉ giữ cho hơi thở ra vào đều đều trong lồng ngực.

Từ xa, cậu nghe được những người lính gác đứng nói chuyện xung quanh một đống lửa. Không khí ban đêm đã đem giọng nói của họ đi xa hơn họ nghĩ, xa đến nỗi đôi tai thính của cậu có thể nghe được. Nếu muốn, cậu có thể cảm nhận được tâm trí họ và đọc được ý nghĩ của họ. Nhưng cậu lại lựa chọn việc tôn trọng sự riêng tư thầm kín của họ và chỉ lắng nghe mà thôi.

Một người trầm tiếng nói, "Họ nhìn cậu khinh khỉnh giống như cậu là kẻ thấp hèn nhất trong đám tiện dân. Suốt một nửa thời gian, họ thậm chí không thèm nói chuyện với cậu khi cậu đặt một câu hỏi thân thiện. Họ chỉ lắc vai và bỏ đi. "

"Aye," một người đàn ông khác nói. " Và những người phụ nữ bọn họ thì đẹp như những bức tượng điêu khắc và nửa như mời gọi."

"Đó là bởi vì cậu là một tên khốn xấu trai, Svern, nguyên nhân là thế."

“Không phải lỗi của tớ, ông già tớ có thói quen quyến rũ mấy cô bán sữa bất kỳ nơi nào ông ấy đến. Hơn nữa, cậu cũng chẳng ra gì để mà chê tớ, con nít sẽ gặp phải ác mộng khi thấy mặt cậu.”

Người chiến binh với giọng nói trầm thấp hầm hừ, rồi ai đó ho và khạc nhổ, Eragon còn nghe thấy tiếng xì xèo bốc hơi khi nó rớt vào mảnh gỗ đang cháy.

Một giọng thứ ba xen vào cuộc trò chuyện: "Tớ cũng không thích mấy người tiên tộc như các cậu nhưng chúng ta cần họ để chiến thắng cuộc chiến tranh này.”

“Điều gì sẽ xảy ra nếu như họ quay lại chống chúng ta sau đó, hử? " Người giọng trầm lên tiếng hỏi.

“Nghe rồi, nghe rồi,” Svern thêm vào. “Hãy nhìn vào những gì xảy ra ở Ceunon và Gil’ead. Galbatorix với cả quân lính và sức mạnh của hắn cũng không thể chống lại bọn họ tràn qua những bức tường.”

"Có lẽ hắn đã không cố gắng hết sức," người thứ ba giả dụ.

Tiếp theo là một hồi im lặng khá lâu.

Sau đó, người đàn ông trầm tiếng nói, "Bây giờ, chỉ có một ý nghĩ khó chịu ... Tuy nhiên, cho dù hắn cố gắng hay là không, tôi không hiểu làm thế nào chúng ta có thể ngăn tiên tộc nếu họ quyết định đòi lại các vùng lãnh thổ cũ. Họ nhanh hơn và mạnh hơn chúng ta, và không giống như chúng ta, không ai trong số họ không biết sử dụng phép thuật. "

“Ah, nhưng chúng ta có Eragon,” Svern chống chế. “Một mình cậu ta có thể xua đuổi bọn họ trở về rừng, nếu như cậu ta muốn.”

“Cậu ấy ư? Cậu ta giống như tiên tộc hơn là đồng loại. Tớ chẳng tin vào lòng trung thành của cậu ta nhiều hơn bọn Urgals là mấy.”

Người đàn ông thứ ba nói một lần nữa: "Mấy cậu có thấy không, cậu ta luôn luôn mặt mày nhẵn nhụi, dù là bất cứ khi nào chúng ta nhổ trại sớm? "

"Cậu ta hẳn là sử dụng phép thuật như là chiếc dao cạo."

“Đi ngược lại thứ tự của thiên nhiên, chuyện thường thôi. Chuyện đó và tất cả những câu chú ngữ khác đang được xử dụng hàng ngày quanh chúng ta. Làm cho người ta muốn trốn trong hang động nào đó để những pháp sư giết lẫn nhau mà không có bất kỳ sự can thiệp từ chúng ta.”

“Tớ dường như không nhớ ra là cậu phàn nàn khi những người pháp sư xử dụng một câu thần chú thay vì dùng cái kẹp để nhổ mũi tên ra từ vai cậu.”

“Có lẽ thế nhưng cái mũi tên đó sẽ chẳng bao giờ cắm vào vai tớ nếu như nó không dành cho Galbatorix. Chính hắn và pháp thuật của hắn đã tạo ra cái tình trạng rối rắm như thế này.”

Ai đó khịt mũi. ”Đúng là thế, nhưng tớ cá hết đồng xu cuối cùng rằng dù có Galbatorix hay không, cuối cùng các cậu vẫn bị tên xuyên qua người. Các cậu quá hung tàn không thể làm gì khác ngoài chiến đấu.”

"Eragon đã cứu mạng tôi ở Feinster, cậu biết đấy", Svern.

" Lại nữa rồi, nếu như cậu còn quấy rầy bọn tớ với câu chuyện đó một lần nữa, tớ sẽ bắt cậu chà nồi trong một tuần."

"Ừ thì, cậu ấy đã ..."

Một thoáng im lặng lại bị phá vỡ bởi người chiến binh có giọng trầm thấp, thở dài. “Chúng ta cần một phương cách để tự bảo vệ mình. Đó là cả vấn đề. Chúng ta đang nương tựa vào lòng thương xót của tiên tộc, pháp sư - chúng ta, bọn họ và tất cả các sinh vật kỳ quái khác đang sống lang thang trên mảnh đất này. Đối với những người giống như Eragon thì tốt và chính đáng cho họ nhưng những người như chúng ta thì không được tốt số như vậy. Cái chúng ta cần là ….”

"Những gì chúng ta cần", Svern cho biết, "các Kỵ sĩ rồng. Họ đặt thế giới trong trật tự. "

"Wt.... Với con rồng nào đây? Cậu không thể có Kỵ sĩ rồng mà không có rồng. Hơn nữa, chúng ta không thể tự bảo vệ mình, chính điều này làm phiền tớ. Tớ không phải là trẻ con núp sau váy mẹ nhưng nếu bọn hắc ám tà thần xuất hiện giữa ban đêm, chúng ta không hề có khả năng làm gì để chống lại chúng khỏi chặt đầu chúng ta.”

“Chuyện này làm tớ nhớ lại, các bạn có nghe chuyện ngài Barst?” người thứ ba hỏi.

Svern thốt ra một âm thanh đồng tình. “ Tớ nghe nói rằng cuối cùng ông ta cũng ăn trái tim ông ấy.”

“Bây giờ thì sao?” người có giọng trầm thấp hỏi.

“Barst ..”

“Barst nào?”

“Bạn biết đấy, ông bá tước có lãnh địa ở phía trên Gil’ead ---“

“Có phải ông ta là người đã dẫn đám lính tiến vào vùng Ramr chỉ để gây ra thù hằn …”

“Đúng rồi, chính là ông ta. Dầu thế nào đi nữa, ông ta tiến vào thôn làng và ra lệnh cho thanh niên trai tráng phải gia nhập quân đội Galbatorix. Luôn luôn là cùng một câu chuyện như mọi khi. Bọn trai làng từ chối và tấn công Barst cùng với đám lính của ông ta.”

“Dũng cảm lắm,” người có giọng nói trầm thấp lên tiếng. “Ngu ngốc nhưng dũng cảm.”

"Tuy nhiên Barst quá sức khôn ngoan so với đám dân làng, ông ta đã bố trí cung thủ chung quanh làng trước khi tiến vào. . Tụi lính giết chết một nửa những người đàn ông và đánh những người còn lại sống dở chết dở. Không có gì bất ngờ ở đó cả. Sau đó, Barst bắt lấy thủ lãnh người gây ra cuộc bạo động, ông tóm lấy cổ người này và chỉ với đôi bàn tay trần, ông ta bứt cái đầu hắn ra”.

"Không"

“Giống như bẻ đầu gà. Và còn tệ hơn nữa, ông ta ra lệnh thiêu sống gia đình người này.”

Barst hẳn là mạnh như một Urgal để có thể bứt đầu người ta ra ", Svern nói.

"Có thể có một thủ thuật nào đó".

“Có thể là phép thuật không?” người có giọng nói trầm thấp hỏi.

“Nói trắng ra là ông ta quá sức cương mãnh, rất mạnh mẽ và khôn ngoan. Khi ông ta còn trẻ, ông ta kể rằng ông ta đã từng giết chết một con trâu rừng bị thương với chỉ một cú đấm mà thôi.”

“Đối với tớ vẫn giống như là phép thuật.”

“Đó là vì cậu nhìn thấy những thuật sĩ hắc ám đang rình rập khắp nơi trong bóng tối, cậu luôn như vậy.”

Người chiến binh có giọng nói trầm thấp hầm hừ nhưng không nói gì thêm.

Sau đó, những người lính tản ra để đi canh tuần phòng, Eragon không nghe gì cả từ bọn họ. Có đôi lúc cuộc nói chuyện của bọn họ quấy rầy cậu nhưng bởi vì cậu đang thiền định, cậu vẫn giữ sự thiền định suốt cả buổi cho dù cậu cố gắng nhớ lại những gì họ nói để sau này cậu sẽ quan tâm đến việc đó thích hợp hơn.

Khi những ý nghĩ của cậu được sắp xếp lại, cậu cảm thấy bình yên và thư giãn, Eragon ngừng thiền, mở mắt ra, từ từ duỗi chân ra và vận động các bắp cơ căng cứng.

Chuyển động của ngọn nến đập vào mắt của cậu, và cậu nhìn chằm chằm vào nó cả phút, say mê vào nhịp nhảy múa của ngọn lửa.

Rồi cậu đi đến chỗ cậu để những túi đeo bên yên của Saphira trước đó và lấy ra cây bút lông, cây cọ, bình mực và những cuộn giấy da dê mà cậu kèo nài Jeod nhiều ngày trước đây kể cả cuốn sách chép lại của Domia abr Wyrda mà nhà học giả già đã đưa cho cậu.

Quay trở lại giường, Eragon đặt cuốn sách dày ra xa để giảm thiểu nguy cơ đổ mực lên nó. Cậu đặt lá chắn trên đùi như một cái khay và trải cuộn giấy da dê lên trên. Mùi mưc nồng nặc xông lên mũi cậu ngay khi cậu mở bình ra và nhúng cây viết lông vào trong bình đặc sệt mực làm từ gỗ cây sồi.

Cậu phết phần lông dính mực vào miệng cái bình để mực dư thừa chảy xuống, rồi cậu cẩn thận viết nét đầu tiên. Cây viết lông tạo ra âm thanh cọ sát nhè nhẹ khi cậu viết ra những chữ cổ xưa của ngôn ngữ mẹ đẻ. Khi viết xong, cậu so sánh với sự cố gắng của ngày hôm trước để thấy rằng chữ viết của cậu có tiến bộ hay không, chỉ có một ít mà thôi, đồng thời cậu cũng so sánh với những từ cổ trong cuốn sách Domia abr Wyrda mà cậu dùng nó như bài mẫu.

Cậu nghiền ngẫm bảng chữ cái ba lần nữa, chú ý đặc biệt vào hình dạng của những từ mà cậu thấy khó khăn để tạo hình. Rồi cậu viết xuống những suy nghĩ và quan sát của mình liên quan đến các sự kiện trong ngày. Bài luyện tập này rất có ích, nó không những giúp cậu tập viết mà còn giúp cậu hiểu rõ hơn nữa những gì cậu thấy và thực hiện suốt cả ngày.

Cực nhọc như vậy, nhưng cậu rất thích viết bởi vì cậu tìm thấy những thách thức mà nó đưa ra rất kích thích. Ngoài ra, nó nhắc cậu nhớ về Brom, về cách mà người kể chuyện già đã dạy cho cậu ý nghĩa của từng từ cổ, điều này làm cho Eragon cảm giác gần gũi với cha của mình hơn thay vì lảng tránh ông.

Sau khi cậu viết ra tất cả những gì cậu muốn nói, cậu rửa sạch bút lông, sau đó thay nó bằng bàn chải và lựa chọn một tờ giấy da dê đã viết được một nửa bởi những hàng kí tự của ngôn ngữ cổ đại.

Loại chữ của tiên tộc, Kvaedhí Liduen, thì khó khăn hơn để viết lại hơn ngôn ngữ của tộc cậu, bởi vì sự phức tạp của các kí tự và cách tạo hình. Tuy nhiên, cậu tiếp tục vì hai lý do: Cậu cần duy trì sự quen thuộc của mình với chữ viết, và nếu cậu viết bất cứ điều gì bằng ngôn ngữ cổ, cậu nghĩ rằng sẽ khôn ngoan hơn khi viết nó theo dạng mà hầu hết mọi người không thể hiểu được.

Eragon có một trí nhớ tốt, nhưng ngay cả như vậy, cậu thấy rằng cậu đã bắt đầu quên nhiều phép thuật Brom và Oromis đã dạy cậu. Vì vậy, cậu quyết định biên soạn một quyển từ điển của mỗi phép cậu biết bằng ngôn ngữ cổ đại. Mặc dù còn là một ý tưởng ban đầu, cậu đã không đánh giá cao giá trị của việc tóm tắt cho đến gần đây.

Cậu soạn quyển từ điển trong vài giờ nữa, sau việc đó cậu để lại những dụng cụ viết văn bản vào lại trong túi và lấy ra chiếc rương chứa trái tim của Glaedr trong những trái tim. Cậu cố gắng đáng thức con rồng khỏi trạng thái ngủ mê, như cậu đã làm rất nhiều lần trước đây, và như mọi khi, cậu thất bại. Tuy vậy Eragon quyết không bỏ cuộc. Ngồi bên cạnh chiếc rương đang mở, cậu đọc to cho Glaedr nghe từ cuốn sách Domia abr Wyrda về nhiều nghi thức và nghi lễ của người lùn, mà một vài điều trong số đó Eragon quen thuộc -cho đến tận khi màn đêm trở nên lạnh nhất, tối đen nhất.

Sau đó, Eragon đặt cuốn sách sang một bên, dập tắt ngọn nến, và nằm xuống trên giường xếp nghỉ ngơi. Cậu lang thang xuyên qua cái nhìn tuyệt vời của những giấc mơ nối tiếp cho một lúc ngắn, khi mà dấu hiệu đầu tiên của ánh sáng xuất hiện ở phía Đông, cậu ngồi dậy để bắt đầu lại toàn bộ quá trình một lần nữa.

Vào khoảng giữa sáng, tốp bọn Roran đã tới được cụm lều trại ven đường. Sự mệt mỏi khiến doanh trại trông thật lờ mờ và ảm đạm trong mắt Roran. Cách về phía nam khoảng một dặm là thành Aroughs, nhưng Roran chỉ nhận diện được vài đặc điểm chung chung của tòa thành bao gồm dãy tường trắng toát, những cánh cổng đóng chặt, và vô số tòa tháp đá vững chắc. 

Roran níu chặt lấy phần trước của yên ngựa khi đoàn người cho ngựa, lúc này đã mệt lã, phi nước kiệu vào doanh trại. Lúc này, một cậu bé gầy nhom chạy tới, tóm lấy cương ngựa của Roran, và ghìm xuống cho đến khi con ngựa dừng hẳn. 

Roran liếc nhìn đứa bé, không chắc chuyện gì vừa xảy ra. Một hồi lâu sau, anh mới thốt lên: "Cho ta gặp Brigman." Không nói lấy một lời, cậu bé lìền chạy mất hút vào doanh trại, với đôi chân trần đá bùn đất văng tung tóe. 

Roran cảm giác như anh đã ngồi chờ hơn một tiếng đồng hồ rồi. Tiếng thở hồng hộc của con chiến mã hòa chung với các mạch máu đang chạy rần rần trong lỗ tai anh. Nhìn xuống phía dưới, anh thấy mặt đất như một đường hầm đang dịch chuyển về một điểm xa bất tận. Ở đâu đó, tiếng đinh thúc ngực vang lên leng keng. Ở gần đó, khoảng chừng một tá binh sĩ đang đứng tựa lên khiên giáo của họ, trên mặt lộ rõ vẻ hiếu kỳ. 

Từ trong dãy lều trại, một người đàn ông vai rộng, người khoác một chiếc áo choàng màu xanh dương, dùng một thanh giáo làm gậy khập khiễng bước về phía Roran. Ông ta có một bộ râu khá dày và rậm rạp, có điều phần ria được cạo sạch sẽ, lộ ra vùng môi trên bóng lên nhờ lớp mồ hôi, Roran chỉ không biết do thời tiết nóng bức hay do cơn đau nào đó mà thôi. 

"Cậu là Cây Búa Dũng Mãnh?" ông ta hỏi. 

Roran lầm bầm xác nhận. Anh buông tay nắm khỏi yên ngựa, rút cuộc giấy da mang mệnh lệnh của Nasuada trong túi áo choàng ra và đưa cho Brigman. 

Brigman xé bỏ lớp niêm phong với móng tay cái. Ông xem kỹ phong thư, rồi hạ nó xuống và nhìn Roran với một ánh mắt tẻ nhạt. 

"Chúng tôi đang chờ cậu," ông ta nói. "Một pháp sư thân tín của Nasuada đã liên hệ với ta khoảng bốn ngày trước, nói rằng anh đã lên đường, nhưng ta không ngờ rằng anh lại tới sớm đến thế."

"Chuyến đi cũng chẳng dễ dàng chút nào," Roran đáp. 

Vành môi trên của Brigman cong lên. "Tôi cũng chắc thế... thưa ngài." Ông ta trả lại phong thư. "Binh lính ở đây từ giờ do cậu chỉ huy, Cây Búa Dũng Mãnh. Chúng tôi đang sắp phát động một cuộc tấn công vào cổng phía tây. Có lẽ cậu sẽ dẫn đầu cuộc công kích này chứ?" Câu hỏi thật sắc bén như lưỡi dao găm. 

Cả thế giới như đang nghiêng ngả trong mắt Roran khiến anh nắm chặt yên cương hơn. Hiện giờ anh quá mệt mỏi lời qua tiếng lại với bất kỳ ai, và anh biết rõ điều đó. 

"Ra lệnh cho họ tạm hoãn lại một ngày," Roran nói.

"Cậu có mất trí không vậy? Cậu có muốn chúng ta chiếm được thành hay không? Chúng tôi mất cả buổi sáng để lên kế họach tấn công, và ta sẽ không ngồi xoa tay chờ cậu ngủ bù đâu. Nasuada muốn cuộc vây thành phải hoàn tất trong vài ngày nữa, và vì thần Angvard ta sẽ làm cho bằng được."

Với một giọng trầm đến mức chỉ có Brigman nghe được, Roran gầm khẽ, "Ông ra lệnh cho mọi người tạm dừng, hoặc ta phải treo ngược ông lên và cho ông vài roi vì tội cãi lệnh. Ta không chấp thuận bất cứ cuộc công kích nào cho đến khi ta được nghỉ ngơi để xem xét kỹ tình hình."

"Mày là một thằng ngu. Như vậy sẽ..."

"Nếu ông không thể ngậm mồm và tuân theo mệnh lệnh, ta sẽ cho ông nhừ dòn ngay tức khắc." 

Cánh mũi Brigman phình ra. "Với trạng thái hiện giờ của mày? Còn lâu."

"Ông nhầm rồi," Roran nói, và anh khẳng định thế. Anh không chắc sẽ đánh bại Brigman bằng cách nào ngay lúc này, nhưng trong từng thớ gân, anh tin mình có thể làm được. 

Brigman hình như đang vật lộn với chính mình. "Thôi được," ông ta xẵng giọng. "Cũng chẳng ích lợi gì khi binh lính thấy cậu và ta bò ngổn ngang trên bùn đất cả. Chúng ta sẽ giữ nguyên vị trí nếu cậu muốn như thế, nhưng ta sẽ không chịu trách nhiệm về việc lãng phí thời gian. Chuyện ai làm người nấy chịu."

"Luôn luôn là vậy," Roran đáp. Cơn đau thắt chặt cổ họng anh khi anh bước xuống ngựa. "Cũng như ông phải lãnh trách nhiệm về mớ lộn xộn ông đã làm trong cuộc vây thành."

Lông mày Brigman sậm lại, và Roran cảm giác được sự khó ưa của lão đối với anh đã được nâng lên thành sự căm ghét. Anh mong rằng mình đã chọn một cách trả lời khôn ngoan hơn. 

"Lều của cậu ở đằng này." 

*****

Trời vẫn còn sáng khi Roran thức dậy. 

Ánh mặt trời dịu dàng len qua khe lều, khiến tinh thần Roran phấn chấn hơn. Trong một khắc, Roran tưởng mình chỉ vừa chợp mắt được vài phút, nhưng anh cảm thấy quá nhanh nhẹn và tỉnh táo, điều mà vài phút nghỉ ngơi không thể làm được. 

Roran thầm rủa chính mình, tự trách rằng mình đã cả bỏ phí cả buổi sáng quý giá. 

Một tấm chăn mỏng được phủ lên người anh, một thứ hầu như không cần thiết bởi khí hậu êm dịu phía nam, đặc biệt khi anh vẫn còn mặc quần áo và mang ủng. Anh liền cởi đôi ủng ra rồi cố ngồi thẳng dậy. 

Roran rên khẽ khi toàn bộ cơ thể của anh như bị kéo giãn và nứt toát ra. Anh ngã vật xuống thở hổn hển trên tấm chắn. Cú sốc vừa rồi nhanh chóng dịu đi, nhưng nối tiếp nó là một tràng các cơn đau nhói, có những đợt còn buốt hơn đợt khác.

Roran mất vài phút mới lấy lại được thể lực. Với một cố gắng ghê gớm, Roran lăn đến bên mép giường và vung chân xuống đất. Anh tạm ngừng lại đế lấy hơi trước khi đứng dậy, một việc hầu như bất khả thi vào lúc này.

Khi đã đứng trên hai chân, Roran cười chua xót. Hôm nay chắc chắn sẽ là một ngày thú vị đây.

Mọi người khác đều đã thức dậy và đang chờ Roran ra khỏi lều. Họ trông thật mệt mỏi và phờ phạc, mọi cử động của họ đều cứng nhắc hệt như Roran vậy. Sau khi buông vài lời xã giao, Roran mới chuyển sang cánh tay đang được băng bó của Delwin, chỗ đã bị một tên chủ quán rượu cắt bởi một con dao bếp.

"Có bớt đau chút nào không?" Roran hỏi.

Delwin liền nhún vai. "Cũng không đến nỗi nào, nếu cần, tôi sẽ sẵn sàng chiến đấu." 

"Tốt"

"Anh tính làm việc gì trước?" Carn hỏi. 

Roran ngẩng nhìn mặt trời mọc, nhẩm tính còn khoảng mấy tiếng nữa mới đến trưa. "Đi dạo đã," Roran nói.

Từ giữa doanh trại, Roran và một số người thân cận đi kiểm tra tình trạng của đám lính cũng nhưng quân bị của họ ở từng dãy lều. Anh thường xuyên hỏi han một vài người lính trước khi đi sang dãy lều khác. Đám binh sĩ hầu hết đều mệt và bị xuống tinh thần, mặc dù vậy, Roran cảm giác được họ có vẻ phấn chấn hơn khi nhìn thấy anh. 

Chuyến đi dạo của Roran kết thúc ở rìa phía nam của doanh trại, như anh đã tính toán trước. Ở đó, anh và tốp người theo sau dừng lại để quan sát tòa thành Arough hùng vĩ và to lớn. 

Toàn thành phố được chia làm hai tầng. Tầng dưới trải rộng ra bốn phía và bao gồm đa số các toà nhà trong thành, trong khi tầng trên nhỏ hơn và được xây dựng trên một gò cao thoai thoải, điểm cao nhất trong vòng vài dặm trở lại đây. Mỗi tầng đều được bao bọc bởi một dãy tường thành. Năm cánh cổng lớn được xây ở dãy tường ngoài cùng, hai trong số đó được đặt trên hai con đường chính dẫn vào thành, một từ phía bắc và cái còn lại từ phía đông; trong khi ba cánh cổng còn lại chắc trên những con kênh dẫn nước về phía nam vào trong thành. Phía bên kia của Aroughs là đại dương bao la, nơi có lẽ tất cả những nhánh kênh đổ vào. 

Ít ra họ không xây hào, Roran thầm nhủ. 

Cánh cổng ở mặt phía Bắc mang nhiều vết trầy xước do dùi phá cổng gây nên, Roran cũng nhận ra mặt đất quanh đó bị giày xéo bởi vô số các chiến cụ dùng cho cuộc công thành. Ba máy bắn đá, bốn chiếc ballista - loại mà Roran đã thấy trên chiếc tàu Cánh Rồng - và hai tháp vây thành xiêu vẹo được bố trí ngay bên ngoài thành. Một số binh sĩ quây quần xung quanh những thứ vũ khí đồ sộ này, vừa hút ống điếu vừa chơi đổ xúc xắc trên mấy tấm da. Những cỗ máy chiến tranh trông chẳng tương xứng chút nào khi đem so với kết cấu bằng đá khổng lồ của tòa thành. 

Vùng đất thấp bao quanh Aroughs dốc thoai thoải xuôi về phía biển. Hàng trăm nông trại lớn nhỏ nằm rải rác trên vùng đồng bằng xanh rì, được phân cách bởi những hàng rào gỗ và đều có ít nhất một túp lều tranh. Ở đây đó cũng xuất hiện vài tòa điền trang bằng đá xa hoa, đa phần đều được bảo vệ bởi những bức tường cao và binh lính của các địa chủ. Không nghi ngờ gì, tất cả những trang viên này thuộc về tầng lớp quý tộc của Aroughs hoặc một vài phú thương giàu có. 

"Anh nghĩ thế nào?" Roran hỏi Carn.

Tay pháp sư liền lắc đầu, cặp mắt ũ rũ của gã trông còn sầu thảm hơn lúc bình thường. "Thà vây công một quả núi còn dễ hơn." 

"Thật vậy," Brigman đang quan sát gần đó cũng lên tiếng. 

Roran đành giữ im lặng, anh không muốn người khác biết những thứ anh quan sát được làm anh chán nản đến mức nào. Nasuada thật điên khùng khi nghĩ ta có thể chiếm thành Arough chỉ với tám trăm binh lính. Nếu ta có tận tám ngàn quân, cộng thêm Eragon và Saphira thì ta còn nắm chắc được phần nào. Đằng này thì... 

Nhưng Roran bằng mọi giá phải nghĩ ra cách lấy thành, tất cả đều vì Katrina. 

Không thèm nhìn sang, Roran nói với Brigman, "Hãy cho tôi biết thêm về Aroughs."

Brigman vặn vẹo cây thương của mình vài lần, ấn cán thương thật sâu xuống đất, rồi mới trả lời: "Galbatorix đã đoán trước được việc vây thành nên đã vận chuyển lương thực đến đây trước khi quân ta có thể cắt đứt đường giao thông giữa Arough và toàn bộ đế quốc. Cho dù chúng ta chuyển hướng toàn bộ kênh đào của chúng, toàn thành vẫn có đủ nước nhờ các giếng nước ngầm bên trong thành. Chúng chắc chắn có thể cầm cự đến mùa đông, hoặc có thể còn lâu hơn, nhưng tôi dám cược rằng bọn chúng sẽ phát ngán với chuyện ăn củ cải trước cả khi mọi chuyện ngã ngũ. Galbatorix còn bố trí một lượng lớn binh lính tại đây, ít nhất cũng gấp đôi quân ta, cộng thêm với quân sĩ vốn có trong thành."

"Làm sao ông biết được mấy thông tin này thế?" 

"Chúng ta có nội gián trong thành. Tiếc rằng hắn ta chẳng có tí kinh nghiệm nảo trong việc dụng binh, hắn còn quá tự tin trong việc đánh giá các yếu điểm của Arough."

"À"

"Hắn còn hứa với chúng ta rằng sẽ dẫn một số nhỏ binh sĩ vào trong thành nhân dịp trời tối."

"Và rồi?"

"Bên ta cố chờ, nhưng hắn chẳng bao giờ xuất hiện. Ngày hôm sau chúng ta phát hiện cái đầu của tên đó bị treo lủng lẳng trên tường thành ở cánh cổng phía đông, hiện giờ nó còn nằm nguyên đó đấy."

"Ra là thế. Vậy có còn lối vào nào khác ngoài năm cánh cổng này không?"

"Có chứ, còn ba chỗ nữa. Gần bến cảng, có một cổng dẫn nước đủ rộng để cả ba dòng nước nhập làm một, bên cạnh đó cũng có một cánh cổng khác cho binh lính và ngựa. Cánh cổng còn lại nằm ở đằng kia"-ông ta chỉ về mặt tây của tòa thành-"cũng giống như mấy cái khác." 

"Có cổng nào dễ công phá không?" 

"Không thể làm nhanh được. Nếu ở bờ biển thì quân ta không có đủ chỗ để di chuyển ngoài tầm bắn của đá và tên. Vậy chúng ta chỉ hi vọng vào mấy cánh cổng này thôi, cộng thêm cái ở mặt tây. Địa hình khá giống nhau xung quanh thành, ngoại trừ bờ biển, nên tôi quyết định tập trung tấn công vào cánh cổng gần nhất."

"Chúng được làm bởi chất liệu gì?" 

"Sắt và gỗ sồi. Những cánh cổng này có độ bền lên tới vài trăm năm trừ phi chúng ta phá hủy nó."

"Chúng có được ếm bùa bảo vệ không?" 

"Tôi không biết, chỉ biết Nasuada không điều bất kỳ pháp sư nào đến với chúng tôi. Halstead có..."

"Halstead là ai?" 

"Halstead, lãnh chúa thành Aroughs. Cậu hẳn phải nghe về ông ta rồi."

"Chưa hề."

Một khoảng lặng nối tiếp đó, và Roran cảm nhận được sự khinh rẻ của Brigman đối với anh trở nên mãnh liệt hơn. Rồi ông ta tiếp tục, "Halstead có một pháp sư cho riêng mình, một kẻ trông tà ác với làn da tái mét. Chúng tôi thuờng thấy hắn đứng trên tường thành và cố tấn công quân ta với những bùa phép của hắn. Nhưng xem ra hắn cũng chẳng ghê gớm mấy vì hắn chưa làm gì được phe ta cả, ngoại trừ khiến hai người lính của tôi bị bốc lửa." 

Roran trao đổi ánh mắt với Carn, tay pháp sư trông còn có vẻ lo lắng hơn lúc trước, nhưng anh quyết định sẽ thảo luận riêng với gã về vấn đề này. 

"Liệu có dễ hơn không nếu chúng ta công vào từ những cổng dẫn nước?" anh hỏi. 

"Thế thì cậu sẽ đứng ở đâu? Thấy mấy cái cổng đó nằm sâu trong bức tường thế nào không,(without a step for purchase). Đã vậy còn có vô số các khe rãnh và cửa sập trên trần của lối vào để quân địch có thể dễ dàng đổ dầu sôi, thả tạ sắt, hay dùng cung nỏ bắn xuống bất kỳ ai đủ ngu ngốc để đến gần."

"Cánh cổng không thể nào đặc ruột từ trên xuống dưới được nếu nó không muốn ngăn dòng nước lại."

"Cậu nói đúng. Bên dưới bề mặt là một hệ thống dạng lưới tạo nên bởi sắt và gỗ với những lỗ hổng đủ lớn để dòng nước có thể dễ dàng chảy qua."

"Ra là thế. Vậy những cánh cổng này lúc nào cũng được đóng dưới mặt nước, ngay cả lúc thành Arough không bị vây công phải không?" 

"Tôi tin chỉ có buổi tối mà thôi, còn vào buổi sáng thì chúng đều được kéo lên."

"Ừm, vậy tường thành thì thế nào?" 

Brigman chuyển kiểu ngồi. "Làm bằng đá granit, được mài nhẵn bóng và khớp rất sát với nhau, đến mức cậu đừng mong chèn được lưỡi dao vào giữa các phiến đá. Xây dựng bởi Người Lùn, tôi đoán thế, trước cả lúc sụp đổ của các Kỵ Sĩ. Tôi cũng đoán rằng bức tường còn được gia cố thêm ở bên trong bởi đá cuội chèn sát vào nhau, nhưng đó chỉ là phỏng đoán vì ta vẫn chưa phá vỡ được phần bên ngoài. Tường thành còn kéo dài xuống hơn ba mét rưỡi dưới lòng đất, nghĩa là chúng ta đừng hòng đào đường hầm hay gài nội gián vào bên trong." 

Bước lên một bước, Brigman chỉ về những điền trang nằm ở phía bắc và phía tây. "Đa phần giới quý tộc đã rút vào trong thành, nhưng họ cũng để lại vài binh lính để bảo vệ tài sản của họ. Điều này cũng khiến phe ta gặp chút khó khăn, nào là tấn công quân trinh sát, trộm ngựa và những thứ đại loại thế. Chúng ta cũng đã chiếm được hai trang viên trong số đó" - ông chỉ về hai điền trang với phần ngoài đã cháy thành than cách đó khoảng vài dặm - "nhưng việc canh giữ chúng còn rắc rối hơn nhiều nên chúng tôi đã quyết định thiêu trụi cả hai căn. Tiếc rằng chúng ta không có đủ quân lực để chiếm được hết mấy trang viên còn lại."

Lúc này Baldor mới nói: "Tại sao tất cả các con kênh đều đổ vào Arough? Hình như chúng không được dùng cho việc tưới tiêu trồng trọt thì phải."

"Không cần nước ở khu vực này đâu cậu trai à, cũng giống như người phương Bắc sợ không có tuyết vậy. Việc giữ cho khô ráo ở miền này sợ còn là một vấn đề nan giải ấy chứ."

"Nếu vậy các con kênh được dùng để làm gì?" Roran hỏi tới. "Và những con kênh này bắt nguồn từ đâu? Đừng mong tôi tin rằng nước được dẫn từ sông Jiet cách đây hàng ngàn dặm đấy nhé."

"Không phải," Brigman cười khẩy. "Có những hồ nước lớn trong vùng đầm lầy ở phía bắc của chúng ta. Thứ nước này có vị mằn mặn và chẳng hợp vệ sinh chút nào, nhưng đám dân vùng này đã quen như thế rồi. Một con kênh dẫn nước từ đầm lầy cho đến một điểm cách đây khoảng ba dặm. Ở đó con kênh lớn được chia thành ba dòng kênh nhỏ hơn như cậu thấy ở đây, rồi chúng chạy qua một chuỗi thác nhỏ để vận hành mấy cái cối xay bột mì cho thành phố. Cứ vào mùa gặt là đám nông dân lại chở thóc đến cối xay, rồi chất từng bao bột mì lên các thuyền nhỏ trôi xuôi về Arough. Cách này cũng tiện để vận chuyển những thứ hàng hóa khác như gỗ hay rượu từ các điền trang vào nội thành." 

Roran gãi gãi sau gáy khi anh tiếp tục quan sát Arough một cách tỉ mỉ. Điều Brigman vừa nói đã gợi cho Roran một sáng kiến, nhưng anh chưa chắc nó sẽ có ích hay không. "Còn có đặc điểm nổi bật nào ở vùng phụ cận hay không?" anh hỏi. 

"Còn có một mỏ khai thác đá phiến ở dọc bờ biển xa hơn về phía nam thôi."

Roran lầm bầm gì đó, trong đầu vẫn nghĩ ngợi. "Tôi muốn đến xem qua khu mỏ," anh nói. "Nhưng trước tiên tôi phải nghe báo cáo tường tận về những gì đã xảy ra ở đây và tình trạng quân bị của phe ta, tất thảy từ cây giáo cho đến cái bánh bích quy."

"Phiền cậu đi theo tôi... Cây Búa Dũng Mãnh."

*****

Roran dành một tiếng sau để thảo luận với Brigman và hai phụ tá của ông ta, lắng nghe và tra hỏi khi họ kể lại tất cả những đợt vây thành đã được phát động, cũng như về danh sách những quân bị còn sót lại cho binh lính nay đã dưới quyền của anh.

Chí ít chúng ta cũng không thiếu hụt vũ khí. Roran chợt nghĩ sau khi bíết được số lượng thương vong bên phe mình. Và mặc dù Nasuada không giới hạn thời gian cho nhiệm vụ của anh, binh sĩ và bầy ngựa chiến cũng không có đủ thức ăn để tiến hành vây thành hơn một tuần nữa. 

Hầu hết những chi tiết Brigman và đám người thân cận nhắc đến được viết trong những cuộn giấy da. Roran phải rất cố gắng mới che giấu được chuyện anh không thể giải mã được những dòng ký tự loằn ngoằn bằng việc khăng khăng bắt đám người kia phải đọc cho anh nghe, mặc dù vậy, Roran vẫn cảm thấy khá áy náy khi phải nhờ vả người khác. Nasuada nói đúng, anh thầm nhủ. Ta bắt buộc phải học viết chữ, bằng không ta sẽ chẳng thể phân biệt được kẻ nào đang nói dối ta khi hắn có thể tùy tiện thay đổi nội dung của bất cứ cuộc giấy nào... Có lẽ Carn sẽ dạy ta chữ viết trên đường trở về Varden. 

Biết càng nhiều về Arough, Roran càng cảm thông với cảnh ngộ của Brigman trước đó; chuyện chiếm được Arough là một sứ mệnh vô cùng khó khăn mà chẳng có một kế sách rõ ràng. Mặc dù Roran cũng chẳng ưa gì ông ta, nhưng anh phải công nhận rằng ông ta đã chỉ huy một cách tốt nhất trong hoàn cảnh này. Brigman thất bại, Roran nghĩ rằng, không phải vì ông ta là một viên tướng tồi, chỉ do ông ta thiếu hai yếu tố đã giúp Roran chiến thắng hết lần này đến lần khác: sự liều lĩnh và tính sáng tạo. 

Sau khi đã xem xét xong, Roran và năm người khác cưỡi ngựa cùng với Brigman tới gần thành Arough nhằm quan sát kỹ hơn, nhưng họ vẫn cố gắng giữ khoảng cách an toàn. Việc phải cưỡi ngựa khiến Roran cảm thấy hết sức đau đớn, nhưng anh vẫn cố cắn răng chịu đựng mà không hề phàn nàn lấy một tiếng. 

Khi đoàn ngựa đang đi trên con đường lát đá cạnh doanh trại, Roran chú ý nghe thấy tiếng vó ngựa thỉnh thoảng tạo nên một âm thanh rất đặc biệt khi chúng nện xuống mặt đường. Anh liền nhớ rằng đã từng bị một âm thanh tương tự thế này làm phiền trong những ngày cuối cùng của chuyến hành trình. 

Nhìn xuống phía duới, Roran nhận ra những lát đá cấu tạo nên mặt đường giống như được đặt trong một thứ bạc xỉn màu, với những đường vân tạo thành một mạng lưới trông thật kỳ dị. 

Roran hỏi Brigman về vấn đề này, ông ta liền la lên, "Đất nơi đây khiến vữa hồ không được tốt, nên thay vào đó họ dùng than chì để cố định các viên đá!" 

Roran thọat đầu tỏ vẻ nghi ngờ, nhưng Brigman trông khá thành thật. Anh ngạc nhiên khi biết thứ kim loại này nhiều đến mức người dân có thể phung phí nó cho việc xây dựng đường xá. 

Bọn họ thúc ngựa phi nước kiệu về phía thành Argoush tráng lệ phía xa xa.

Họ nghiên cứu hệ thống phòng thủ của Arough một cách kỹ càng. Nhưng ngay cả ở cự ly gần, họ cũng không phát hiện ra điều gì mới, ngoại trừ việc củng cố cái tư tưởng rằng toà thành này không thể phá được. 

Roran thúc ngựa đến cạnh Carn. Tay pháp sư đang ngắm nhìn Arough với khuôn mặt đờ đẫn, miệng gã đang lẩm bẩm như tự nói chuyện với chính mình. Roran im lặng cho đến khi tay pháp sư ngừng hẳn mới khẽ hỏi, "Cánh cổng có được ếm bùa chú nào không?" 

"Tôi nghĩ thế," Carn nhỏ giọng đáp, "nhưng tôi không chắc tổng số bao nhiêu hay mục đích của chúng là gì. Tôi phải cần nhiều thời gian hơn để tìm ra câu trả lời."

"Tại sao lại khó khăn vậy?" 

"Thật ra cũng không có gì khó. Đa số mấy thứ pháp thuật đó đều rất dễ phát hiện, ngoại trừ có kẻ nào cố ý giấu chúng đi, và cho dù có thế chăng nữa, pháp thuật thường để lại những dấu vết nhỏ nếu anh biết mình cần tìm cái gì. Cái tôi quan tâm chính là có một hoặc nhiều thứ pháp thuật được dùng để ngăn cản người khác động vào lớp bùa chú trên cánh cổng. Nếu tôi thăm dò trực tíếp thì chắc chắn những pháp chú này sẽ bị kích họat, và có trời mới biết chuyện gì sẽ xảy ra. Rất có thể tôi sẽ bị rã ra như tương ngay trước mặt anh, và nếu được lựa chọn, tôi muốn né cái số phận ấy càng xa càng tốt."

"Anh có muốn ở lại đây trong khi chúng tôi tiếp tục lên đường không?" 

Carn lắc đầu, "Tôi nghĩ sẽ không hay nếu không có ai theo bảo vệ anh trong khi chúng ta ở quá xa doanh trại. Tôi sẽ quay về sau hoàng hôn và sẽ đưa ra quyết định. Nếu tôi có thể tới được gần cánh cống thì mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn, ngặt nỗi tôi chả dám khi bọn lính canh thấy tôi rõ mồn một."

"Nếu anh muốn vậy."

Khi Roran đã vừa lòng với việc tìm hiểu về thành Aroughs bằng mọi khả năng vốn có, anh mới nhờ Brigman dẫn bọn họ tới cụm cối xay gần đó nhất. 

Chúng cũng tương tự như những gì Brigman đề cập tới. Dòng nước trong kênh đào chảy liên tiếp qua ba đoạn thác với chiều cao khoảng sáu thước. Ở mỗi chân thác có một bánh xe nước với vài chiếc xô nước lớn gắn ở ngoài viền. Nước kênh đổ vào từng cái xô khiến cho bánh xe nước quay vòng vòng. Các bánh xe nước được nối liền với ba toà nhà giống hệt nhau bằng những ống trục lớn. Mỗi toà nhà được xây dọc trên một ụ đất cao và chứa trong đó mấy bánh xe đá khổng lồ dùng trong việc sản xuất bột mì cho thành Arough. Và mặc dù các bánh xe nước vẫn còn họat động, nhưng Roran nhận ra rằng khớp nối giữa chúng và mấy toà nhà đã bị tháo rời vì anh không còn nghe được tiếng ồn của mấy bánh xe đá. 

Roran xuống ngựa ở gần cái cối xay thấp nhất và bước dần lên để quan sát mấy cánh cổng dùng cho việc điều chỉnh lưu lượng nước trên từng đoạn thác. Mặc dù tất cả vần đang được mở, nhưng phía dưới từng chiếc bánh xe nước vẫn có một hồ nước khá sâu. 

Roran tạm dừng ở lưng chừng đọan đồi và chôn chân vào lớp đất mềm phủ đầy cỏ rồi khoanh tay lại, cằm tựa vào ngực trong lúc anh đang vắt óc nghĩ cách chiếm thành Aroughs. Anh đinh ninh rằng phải có một chiến lược khiến đập tan bức tường thanh như một trái bầu chín, nhưng anh vẫn còn mù tịt về một giải pháp cụ thể. 

Roran suy nghĩ đến mức anh chẳng có thể nghĩ ngợi gì được nữa, anh thả mình vào tràng âm thanh cót két phát ra từ những thanh trục xoay và tiếng dòng nước đang bắn tung tóe. 

Mặc dù đắm chìm trong dòng âm thanh dễ chịu đó, Roran vẫn cảm thấy khó chịu như bị gai đâm bởi thứ âm thanh kia gợi lại cho anh về cái cối xay nhà Dempton tại Therinsford, nơi anh đang làm việc trong thời gian ngôi nhà của anh bị bọn Ra'zac đối trụi và cha anh bị chúng tra tấn đến chết. 

Roran cố lờ đi những kỷ niệm xấu đó nhưng chúng cứ lởn vởn trong đầu anh. 

Nếu mình chỉ hõan chuyến đi lại chừng vài tiếng, có lẽ mình đã cúu đuợc cha rồi. Nhưng phần lý lẽ trong Roran phản bác lại: Ừ, và bọn Ra'zac cũng có thể kết liễu mình nhanh đến mức mình không kịp nhấc tay. Nếu không nhờ Eragon bảo vệ chắc mình cũng vô dụng như đứa bé sơ sinh thôi. 

Baldor bước khẽ đến ngồi cạnh Roran trên rìa của con kênh, rồi nói: "Bọn họ đang tự hỏi anh đã quyết định được kế họach nào chưa?" 

"Tôi có khá nhiều ý tưởng, nhưng chưa có dự định gì cả. Còn anh nghĩ thế nào?"

Baldor cũng khoanh tay lại. "Chúng ta có thể chờ Nasuada phái Eragon và Saphira tới trợ giúp chúng ta." 

"Chậc."

Hai người lặng thinh ngắm dòng kênh đang chảy không ngừng kia trong vài phút. Sau đó Baldor mới cất tiếng, "Sao anh không thử dụ chúng đầu hàng? Dám lắm chỉ cần nghe tên anh thôi là chúng đã phải mở rộng cửa đón chào, rồi quỳ rạp dưới chân anh để cầu xin lòng vị tha." 

Roran cười khẽ. "Tôi không tin tiếng tăm của mình đã được đồn đến tận Aroughs. Nhưng dù sao..." Anh đưa tay vuốt râu. "Cách này cũng đáng thử đấy chứ, ít nhất cũng sẽ khiến chúng lo lắng bất an." 

"Cho dù chúng ta vào được thành chăng nữa, liệu ta có thể giữ nổi nó với quân lực quá mỏng thế này không?" 

"Có thể có, cũng có thể không."

Hai người lặng đi một chốc, rồi Baldor mới nói, "Chúng ta hành trình được bao xa rồi?" 

"Không rõ lắm."

Một lần nữa, chỉ có tiếng nước chảy với âm thanh cót két của cối xay nối tiếp hai nguời. Cuối cùng, Baldor mới lên tiếng, "Tuyết tan ở vùng này chắc chắn không nhiều như ở quê nhà. Bằng không mấy cái bánh xe này sẽ ngập hết một nửa dưới nuớc vào mùa xuân."

Roran lắc đầu. "Không quan trọng chuyện mưa hay tuyết nhiều. Mấy cổng thoát nước đều có thể giới hạn lưu lượng dòng chảy dùng để vận hành bánh xe nước để ngăn việc chúng đừng xoay quá nhanh."

"Vậy nếu nước dâng đến tận đỉnh của mấy cánh cổng thì thế nào?"

"Hi vọng là lúc đó cối xay đã hoàn tất công việc trong ngày. Trong bất kỳ trường hợp nào, anh đều có thể tháo rời các bộ phận, nâng cổng thóat nước lên vào..." Roran đi lòng vòng khi một chuỗi các hình ảnh vụt qua trong đầu khiến toàn thân anh chợt cảm thấy ấm áp, giống như anh vừa nốc sạch cả vại rượu mật ong trong một hơi liền vậy. 

Mình có thể chăng? Roran nghĩ. Liệu nó có thành công không, hay là... Cũng không quan trọng, chúng ta cò còn cách nữa đâu? Đành phải thử thôi. 

Anh với chân tới bờ đê rào xung quanh hồ nước nằm ở chính giữa và tóm lấy cái cần gắn trên một thanh đẩy dài bằng gỗ dùng để điều chỉnh cánh cổng thoát nước. Thanh đẩy khá cứng và rất khó để dịch chuyển cho dù Roran kê vai và dùng hết sức lực để đẩy nó. 

"Giúp tôi một tay," anh gọi Baldor, hiện vẫn còn đang đứng tại chỗ cũ dương cặp mắt tò mò nhìn Roran. 

Baron thận trọng dò bước đến chỗ Roran rồi hợp sức để đóng cánh cổng dẫn nước lại. Rồi, chẳng giải thích lấy một lời, Roran yêu cầu cả hai đều làm như vậy với các cánh cổng còn lại. 

Khi chúng đã được đóng chặt, Roran mới quay lại ra hiệu cho Carn, Brigman, và cả đám người xúông ngựa để tụ tập lại chung quanh anh. Roran vỗ vỗ đầu búa trong thời gian chờ đợi, cảm thấy vô cùng sốt ruột. 

"Thế nào?" Brigman hỏi ngay khi mọi người đã đến đông đủ. 

Roran nhìn thẳng vào mắt của từng người để chiếm lấy sự tập trung của họ, rồi anh cất tiếng, "Đây là những gì chúng ta sẽ làm..." Anh bắt đầu nói, rất nhanh và nghiêm túc, trong vòng nửa tiếng kế tiếp để giải thích mọi thứ đã xảy ra với anh trong một tích tắc đó. Trong khi anh nói, Mandel bắt đầu cười toe toét, và mặc dù họ cố tỏ ra nghiêm chỉnh, nhưng Baldor, Delwin, và Hamund cũng bắt đầu ra vẻ phấn khởi về tính táo bạo của cái kế họach này. 

Sự hưởng ứng của họ làm Roran rất hài lòng. Anh đã cố gắng rất nhiều để lấy được lòng tin của họ, và anh rất vui khi biết được anh vẫn nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ phía họ. Điều Roran sợ nhất chỉ là phải làm phụ lòng họ; và trong mọi hoàn cảnh có thể tưởng tượng ra, duy chỉ có chuyện đánh mất Katrina là đáng sợ hơn với anh mà thôi. 

Carn, mặt khác, lại tỏ vẻ nghi ngờ. Roran đã lường trước được khoản này, nhưng sự nghi ngờ của tay pháp sư so ra vẫn còn ít hơn vẻ ngờ vực của lão Brigman. 

"Cậu điên rồi!" ông ta la lên khi Roran vừa nói xong. "Kế họach này sẽ không bao giờ thành công."

"Ông liệu mà thu mấy lời đó lại!" Mandel nói, nhảy đến phía trước với nắm đấm siết chặt. "Tại sao ư? Số trận chiến Roran đã đánh thắng e còn nhiều hơn cái số mà ông đã từng tham gia đấy và anh ta đã thắng mà chẳng có lấy mống quân nào dưới quyền như ông đâu!"

Brigman gầm lớn, vành môi của ông ta cong lên như một con rắn "Thằng nhãi mất dạy! Tao sẽ cho mày một bài học nhớ đời về lòng tôn trọng."

Roran đẩy Mandel về phía sau trước khi anh ta có thể tấn công Brigman. "Ngừng tay!" Roran rống lên. "Trật tự lại nào." Lườm gay gắt, Mandel đã chịu thôi chống cự, nhưng anh ta vẫn tiếp tục nhìn trừng trừng về phía Brigman. Ông ta cũng không ngừng buông những lời nhạo báng về Mandel. 

"Đó chắc chắn là một kế họach táo bạo," Delwin nói, "nhưng tất cả những kế họach mạo hiểm lúc trước của chúng ta đều thành công mỹ mãn." Mấy người đi theo Carvahall cũng lên tiếng tán thành. 

Carn gật đầu và nói, "Nó có thể thành công, cũng có thể thất bại, tôi không biết được. Nhưng chắc chắn một điều rằng nó sẽ làm kẻ địch bất ngờ, và tôi phải thú thật rằng tôi tò mò muốn biết điều gì sẽ xảy ra. Rõ ràng chúng ta chưa hề kinh qua kỉểu chiến lược này bao giờ." 

Roran cười nhẹ. Quay sang Brigman, anh nói, "Chúng ta mới thật điên khùng nếu vẫn tiếp tục như cũ. Chỉ còn hai ngày rưỡi nữa là hết hạn chiếm thành, và rõ ràng mấy thứ chiến lược thông thường không có tác dụng, vậy chúng ta đành phải thử điều gì đó phi thường thôi." 

"Cũng có thể," Brigman lẩm bẩm, "nhưng việc mạo hiểm ngu ngốc này sẽ khiến rất nhiều binh tốt phải chết, và chẳng cho mục đích gì ngoại trừ phô trương cái trí tưởng tượng của cậu." 

Nở cụ cười rộng, Roran càng bước gần đến Brigman, cho đến khi cả hai chỉ còn cách nhau vài centimét. "Ông không phải đồng ý với tôi, Brigman à; ông chỉ phải làm theo mệnh lệnh mà thôi. Và bây giờ ông có nghe lệnh của tôi hay không?"

Làn không khí giữa bọn họ ấm dần lên do hai luồng hơi thở và năng lượng tỏa ra từ cơ thể của họ. Brigman nghiến răng và xoắn cây giáo của mình ngày càng chặt hơn, nhưng rồi ánh mắt của ông ta toát ra sự núng thế, và ông lùi lại phía sau. "Ta nguyền rủa cậu," ông ta nói. "Tạm thời ta sẽ làm tay sai cho cậu, Cây Búa Dũng Mãnh à, sẽ có người tính sổ với cậu sớm thôi, và liệu hồn, đến lúc đó cậu sẽ phải chịu trách nhiệm cho mọi thứ." 

Chỉ cần ta chiếm được Aroughs, Roran thầm nhủ, còn lại ta mặc kệ. "Lên ngựa!" anh ra lệnh. "Chúng ta có việc phải làm, và chẳng có lắm thời gian để hoàn tất đâu. Nhanh lên, nhanh lên nào!"

Mặt trời đã lên cao, cũng giống như Saphira vậy, từ trên lưng của cô, Eragon nhận ra Helgrind ở ngoài rìa của đường chân trời phía Bắc. Cậu cảm thấy choáng ngợp ngay khi mục kích đỉnh nhọn của núi đá, chúng mọc lên từ những vùng đất giống như một hàm răng lởm chởm. Có quá nhiều ký ức không tốt đẹp gắn với Helgrind, cậu ước muốn cậu có thể tiêu diệt nó và có thể thấy những ngọn tháp trần trụi xám xịt đổ sập xuống đất. Saphira rất hờ hững đối với cái tháp đá âm u, nhưng cậu dám chắc rằng cô cũng không thích ở gần nó.

Khi màn đêm tới, Helgrind đã nằm sau lưng họ còn Dras-Leona đang trải dài trước mặt họ, bên cạnh hồ Leona nơi có hàng chục những tàu thuyền nhấp nhô quanh cái neo. Thành phố thấp và rộng được xây dựng chen chúc khắc nghiệt giống như trong trí nhớ của Eragon, với những con đường chật hẹp khúc khuỷu, những ngôi nhà bẩn thỉu chen chúc nhau được bao quanh bởi bức tường bằng bùn đất màu vàng làm thành một vòng tròn chung quanh thành phố. Phía sau bức tường, là bóng dáng ngọn tháp của ngôi thánh đường màu đen rộng lớn mênh mông quấn đầy thép gai, nơi mà những tu sĩ của Helgrind đang tiến hành những nghi lễ ghê tởm.

Dòng người tị nạn kéo dài dọc theo con đường về hướng Bắc, dân chúng bỏ chạy cái thành phố sắp bị chiếm đóng này để tới Teirm hoặc Uru’baen nơi mà họ có thể tìm thấy chút an toàn tạm bợ trước sự tiến công không ngừng của quân Varden.

Đối với Eragon, Dras-Leona dường như chính là sự thô bỉ và tội lỗi. Ngay lần đầu viếng thăm mà nó đã làm cho cậu có ước muốn hủy diệt, không giống như cảm giác cậu có được ở Feinster hoặc Belatona. Cậu muốn tàn phá nơi này với lửa và gươm, đập tan nó với tất cả sức lực khủng khiếp nghịch thiên mà cậu có được, thỏa mãn tất cả nhu cầu man dại và để lại sau lưng cậu chẳng còn gì ngoài khói lửa và tro tàn đẫm máu. Cậu vẫn còn có thiện ý đối với những người nghèo, tàn tật và nô lệ đang sống giam cầm trong Dras-Leona. Nhưng cậu tin chắc thập phần với sự tham nhũng mục nát của thành phố thì điều tốt nhất là đốt bỏ nó đi và xây nó lại mà không có một chút liên hệ đồi trụy nào của tôn giáo Helgrind đã nhiễm lên nó.

Cậu thả trí tưởng tượng về việc kéo sập ngôi giáo đường với sự giúp đỡ của Saphira, chuyện này làm cậu tự hỏi tôn giáo mà những tu sĩ đang thực hành hành xác mình có một cái tên hay không. Học vấn của cậu về ngôn ngữ cổ đã dạy cậu chú ý đến tầm quan trọng của những cái tên, tên là sức mạnh, tên được thấu hiểu, cho tới khi cậu biết cái tên của tôn giáo, cậu sẽ không thể nào hiểu trọn vẹn ý nghĩa thực sự của nó.

Trong ánh sáng lờ mờ, quân Varden đặt doanh trại trên những trang điền ở phía Nam Dras-Leona nơi mà mặt đất hướng lên cao tạo thành một cao nguyên, điều này tạo cho họ chút ít che chở nếu như bị kẻ thù tấn công. Đám lính đã mệt mỏi do cuộc viễn chinh nhưng Nasuada vẫn buộc họ củng cố doanh trại cũng như lắp ráp những chiến xa to lớn mà họ đang mang theo từ Surda.

Eragon lao mình vào công việc với một niềm tin. Đầu tiên, cậu tham gia vào một nhóm người đang làm bằng phẳng những cánh đồng lúa mì và lúa mạch bằng cách sử dụng những tấm ván được cột chặt với những thắt gút dây thừng dài. Để gặt hái những hạt lúa nhanh hơn họ có thể dùng lưỡi gặt thép hoặc pháp thuật nhưng những gốc rạ còn lại có thể gây nguy hiểm và không thoải mái khi bước lên chứ đừng nói tới ngủ trên đó. Những bó lúa được ép chặt tạo thành một mặt phẳng mềm mại và đàn hồi rất tốt giống như bất cứ tấm nệm nào và nó được thưởng thức và tốt hơn hẳn mặt đất trần trụi mà họ thường nằm.

Eragon lao động cùng với một nhóm người khác khoảng một giờ, vào thời điểm đó họ đã dọn dẹp một khoảng trống đủ để dựng lều cho quân Varden.

Sau đó, cậu giúp đỡ việc xây dựng tháp canh. Với sức mạnh vượt qua người bình thường rất nhiều đã cho phép cậu nhấc những thanh xà ngang mà ít ra cũng phải cần nhiều chiến binh để di chuyển, mà cậu vẫn còn có thể tăng tốc độ làm việc. Vài người lùn vẫn còn ở lại với quân Varden để giám sát việc dựng tháp canh bởi vì những cái động cơ là do họ thiết kế.

Saphira cũng làm việc như cậu. Với răng và vuốt của mình, cô khoét những rãnh sâu trên mặt đất và chất đống đất được đào làm tường thành xung quanh doanh trại và hoàn thành công việc nhiều hơn trong vòng vài phút so với hàng trăm người có thể làm suốt ngày. Với khả năng phun lửa và sức mạnh tuyệt vời của cái đuôi, cô quét sạch làm bằng phẳng những cây cối, hàng rào, tường, nhà và tất cả mọi thứ chung quanh Varden mà có thể giúp kẻ thù ẩn nấp. Tóm lại, cô hiện thân cho hình ảnh của sự tàn phá đáng sợ đủ để tạo ra cảm hứng làm lung lay ngay cả những kẻ can đảm nhất.

Cuối cùng, khi quân Varden chấm dứt việc chuẩn bị thì trời đã tối hẳn, Nasuada ra lệnh cho tất cả chiến binh, người lùn, người Urgals đi ngủ.

Mệt mỏi trở về lều, Eragon thiền định cho đến khi ý thức của cậu thanh tĩnh và điều này đã trở thành thói quen của cậu. Thay vì thực tập viết chữ sau đó, cậu xem xét lại những câu chú ngữ cậu nghĩ cậu có thể cần cho ngày hôm sau cũng như sáng tạo ra những câu mới để giải quyết những thử thách riêng biệt mà Dras-Leona đang đối đầu.

Khi cậu cảm thấy sẵn sàng cho cuộc chiến sắp tới, cậu từ bỏ chính cậu đi vào giấc mơ thức tỉnh thường biến động và đầy năng lượng hơn bình thường mặc kệ việc thiền định của cậu, viễn cảnh sắp được hành động làm sôi sục máu cậu và điều này không cho phép cậu thư giãn. Như thường lệ, việc chờ đợi và lưỡng lự là điều khó khăn cho cậu chịu đựng và cậu mong rằng cậu sẵn sàng giữa cuộc xung đột lúc mà cậu không hề có thời gian để lo lắng cho chuyện gì sẽ xảy ra.

Tương tự, Saphira cũng chẳng hề nghỉ ngơi. Cậu bắt được vài giấc mơ từ cô mà nó liên quan đến việc cắn xé và cậu có thể nói rằng cô đang mong đợi một cuộc chiến khốc liệt và hả hê. Trạng thái của cô ảnh hưởng một phần nào đó đến cậu nhưng chưa đủ để làm cậu hoàn toàn bỏ quên sự nhập định của cậu.

Thật nhanh, buổi sáng lại đến, quân Varden tập hợp trước khi lộ diện ở vành đai Dras-Leona. Quân đội là một cảnh quan hùng vĩ nhưng sự thán phục đó lại bị chững lại khi cậu nhìn thấy những thanh kiếm bị chẻ hình chữ V của những chiến binh, những mũ giáp méo mó, những lá chắn tả tơi cũng như những miếng chấp vá tồi tàn trên áo giáp chẽn và áo giáp dài. Nếu họ thành công chiếm đóng Dras-Leona, họ có thể thay đổi những trang bị giống như họ đã làm ở Belatona và trước đó Feinster, nhưng họ không có cách nào thay đổi những người đang chán nản.

Việc này càng kéo dài thì càng khiến cho Galbatorix dễ dàng đánh bại chúng ta khi chúng ta đến Uru’baen, cậu nói với Saphira.

Thế nên chúng ta không được trì hoãn nữa, cô trả lời.

Eragon ngồi lên lưng cô rồng, bên cạnh là Nasuada đang mặc đầy đủ áo giáp ngồi trên lưng con ngựa màu đen hung hãn, Battle-Storm. Bao chung quanh họ là mười hai thân vệ, đồng thời cũng có cùng một số trong đội thân vệ Hắc Ưng của Nasuada, họ đã được tăng so với sáu người ban đầu cho cuộc chiến. Tiên tộc đi bộ bởi vì họ từ chối cỡi bất kỳ con ngựa nào mà họ không nuôi và huấn luyện, trong khi Hắc Ưng đã lên ngựa kể cả người Urgals. Phía bên phải cách khoảng chín mét là vua Orin và đoàn tùy tùng cận vệ, mỗi người bọn họ đều có một cái lông màu sặc sỡ gắn trên đỉnh mũ giáp. Narheim, tổng chỉ huy quân đoàn người lùn và Garzhvog cả hai đều có quân đội của mình.

Sau khi trao đổi những cái gật đầu, Nasuada và vua Orrin thúc ngựa thẳng tới và phóng ra xa khỏi đoàn quân Varden hướng về phía thành phố. Với bàn tay bên trái, Eragon nắm chặt lấy cái gai cổ trước mặt cậu khi Saphira tiếp bước.

Nasuada và vua Orrin dừng lại trước khi họ đi qua những căn nhà đổ nát. Trước hiệu lệnh của họ, hai người đưa tin, một mang tin tiêu chuẩn của Varden, người khác của Surda, phóng ngựa thẳng tới còn đường chật hẹp chạy xuyên qua mê cung của những căn nhà tồi tàn đến cổng phía Nam của Dras-Leona.

Eragon cau mày dõi theo hai người sứ giả đang tiến tới. Thành phố có vẻ trống vắng và im lặng một cách giả tạo. Không một người được nhìn thấy trong toàn Dras-Leona, ngay cả ở gần bức tường thành dày cộm màu vàng nơi mà hàng trăm tên lính Galbatorix cần phải trấn thủ.

Có chút bất thường, Saphira nói, và cô mãi gầm gừ nhè nhẹ để thu hút sự chú ý của Nasuada.

Ngay tại chân tường thành, Varden sứ giả lên tiếng với một cái giọng mà nó được vọng ngược lại tới tận Eragon và Saphira: “Xin chào! Đại diện cho Công nương Nasuada của Varden, vua Orrin của Surda và tất cả những người tự do của Alagaesia đại lục, chúng tôi yêu cầu mở cổng để chúng tôi có thể đưa tin quan trọng đến ngài Marcus Tabos. Từ đó, ông ta cũng như tất cả những người đàn ông, đàn bà và trẻ em ở trong Dras-Leona có thể hy vọng nhận được nhiều lợi ích.”

Từ sau bức tường, một người không thể thấy mặt trả lời: “Những cánh cổng này sẽ không mở ra. Hãy báo tin ở chỗ đó đi.”

“Ngươi đại diện cho ngài Tabos?”

“Chính tao.”

“Chúng tôi muốn anh nhắc nhở ông ấy rằng thảo luận công việc quản lý chính quyền nên được thực hiện một cách riêng tư trong phòng thích hợp hơn là ở chỗ công khai nơi mà mọi người đều nghe thấy.”

“Mày không được ra lệnh cho tao, tên đầy tớ kia! Nhắn tin của mày đi, và làm nhanh lên! Nếu tao mất kiên nhẫn thì tao sẽ cắm đầy tên lên người mày.”

Eragon rất ngạc nhiên, người sứ giả không hề có vẻ bối rối hoặc tỏ ra hèn nhát trước sự đe dọa và tiếp tục không ngần ngại. “Như anh muốn. Những vị lãnh đạo của chúng tôi đề nghị hòa bình và hữu nghị đến ngài Tabor và tất cả mọi người ở Dras-Leona. Chúng tôi không có tranh đấu với bạn, chỉ có Galbatorix mà thôi và chúng tôi sẽ không chiến đấu với bạn nếu như chúng tôi có thể. Phải chăng chúng ta có chung mục tiêu? Nhiều người chúng tôi đã từng sống trong Đế quốc và chúng tôi đã rời bỏ đi chỉ vì sự thống trị tàn ác của Galbatorix đã xua đuổi chúng tôi ra khỏi mảnh đất quê hương. Chúng ta là anh em, trong máu và trong tâm hồn. Hợp lực với chúng tôi, và chúng ta có thể tự giải phóng mình khỏi kẻ chiếm đoạt bây giờ đang ngự trị ở Uru’baen.”

“Nếu như quý vị chấp nhận lời đề nghị, các vị thủ lĩnh của chúng tôi sẽ bảo đảm sự an toàn của ngài Tabor và gia đình cũng như bất kỳ ai đã từng phục vụ cho Đế quốc. Mặc dù không ai được phép giữ nguyên chức vụ, nhưng nếu như họ tuyên thệ lời thề không thể phản bội. Và nếu như lời thề của quý vị không cho phép quý vị giúp chúng tôi thì tối thiểu quý vị cũng không cản trở chúng tôi. Kéo cổng lên và hạ gươm xuống, chúng tôi hứa với quý vị rằng quý vị sẽ không bị hại. Nhưng cố gắng chống cự lại chúng tôi, chúng tôi sẽ quét sạch quý vị sang một bên giống như vỏ trấu, bởi vì không ai có thể chống đỡ sự hùng mạnh của quân đội chúng tôi, đừng nói tới Khắc tinh của Tà thần, Eragon và rồng Saphira.”

Nghe thấy tên của mình, Saphira nhấc cao cổ và gầm lên một tiếng đáng sợ. Eragon thấy một bóng dáng cao khoác áo choàng từ trên cổng đang leo lên đầu tường thành và đứng trong lỗ châu mai giữa hai đỉnh tường thành, nhìn qua người sứ giả về hướng Saphira. Eragon nheo mắt lại nhưng cậu không thể nhận ra gương mặt cuả người đó. Bốn người mặc áo dài màu đen tiến lại gần người này và Eragon nhận biết đó là những người thầy tu ở Helgrind bởi bộ đồng phục bị cắt xén: một người mất cả một cánh tay, hai người mất một cái chân và đồng bọn cuối cùng của họ là người bị mất một tay và cả hai chân, được đồng bọn khiêng tới trên một cái kiệu nhỏ. Người đàn ông mặc áo choàng ngẩng đầu và thốt ra một tràng cười ầm ầm vang dội như sấm sét. Phía bên dưới, người sứ giả luống cuống giữ chặt dây cương bởi vì con ngựa lùi lại và muốn nhảy dựng lên.

Lòng Eragon trùng xuống, và cậu nắm chặt lấy thanh Brisingr, sẵn sàng rút nó ra trong thời gian ngắn nhất.

“Không ai có thể chống lại sức mạnh của bọn mày?” Người đàn ông nói, giọng hắn âm vang khắp các toà nhà. “Tao nghĩ mày đã tự đánh giá mình quá cao.” Với một tiếng gầm vang trời, một khối đỏ lấp loáng nhỏm dậy từ con đường bên dưới chồm lên nóc của một căn nhà, xé nát mái nhà dưới móng vuốt của nó, đó là Thorn. Con rồng xòe đôi cánh rộng lớn bén nhọn, mở miệng lởm chởm răng, quét ngang bầu trời với một luồng lửa nhấp nháy.

Với một giọng nói chế nhạo, Murtagh – Eragon nhận ra đó là Murtagh - nói thêm “Đâm đầu vào tường như mày muốn đi, mày sẽ không bao giờ chiếm được Dras-Leona nhanh chóng khi còn Thorn và tao ở đây để bảo vệ nó. Đem những chiến binh tốt và pháp sư tài giỏi của bọn mày đến đây để đấu với chúng tao, bọn họ sẽ bị giết chết từng người một. Tao hứa với mày đó. Không ai trong bọn mày tốt hơn chúng tao. Ngay cả mày … Người anh em. Chạy về và trốn vào nơi nào đó trước khi quá trễ và cầu nguyện sao cho Galbatorix không lang thang tới đây để tự giải quyết mày. Nếu không, tử thần và đau thương sẽ chỉ là phần thưởng cho mày.”

“Thưa ngài! Cánh cổng đã mở!”

Roran ngước lên khỏi tấm bản đồ đang nghiên cứu dở khi một người lính trinh sát mặt mũi đỏ bừng và thở hồng hộc xông vào lều.

“Cánh cổng nào?” Roran hỏi, một sự bình tĩnh đến đáng sợ làm nguội dần người lính. “Nói chính xác đi.” Cậu đặt cây sào cậu dùng để đo những khoảng cách sang một bên.

“Cánh cổng gần chúng ta nhất, thưa ngài … cái ở trên đường, không phải cái nằm ở con kênh.”

Tháo cái búa ra từ dây thắt lưng ra, Roran rời lều và chạy xuyên qua doanh trại tới rìa phía Nam. Khi đến đó, cậu quét mắt nhìn về Aroughs. Cậu chán nản khi nhìn thấy hàng trăm kỵ sĩ xông ra từ thành phố, những cờ hiệu màu sắc sặc sỡ phất phới bay trong gió khi bọn họ tập hợp thành một nhóm lớn trước vùng đất bầu diều của cánh cổng đang mở.

Bọn chúng sẽ băm nhỏ chúng ta mất, Roran tuyệt vọng nghĩ. Chỉ có khoảng hơn một trăm năm mươi lính của cậu còn lại trong doanh trại và rất nhiều người còn bị thương và không có khả năng chiến đấu. Tất cả những người khác ở tại nhà máy xay lúa mà cậu vừa thăm viếng mấy ngày trước đây hoặc ở tại mỏ đá xa xuống dưới vùng biển hay ở khu đê phía cực Tây con kênh để tìm kiếm những xà lan cần thiết nếu như kế hoạch của cậu thành công. Không có người chiến binh nào có thể trở về đúng lúc để chống lại bọn kỵ sĩ.

Khi cậu đưa họ đi làm nhiệm vụ, Roran biết rằng cậu đã làm doanh trại trở nên yếu ớt trước các vụ tấn công. Thế nhưng cậu lại hy vọng đám lính thành phố vẫn còn khiếp nhược bởi cuộc tấn công gần đây trên tường thành. Cậu táo bạo lên kế hoạch làm cho những kẻ quan sát từ xa tin rằng đội quân chủ lực của cậu vẫn còn đóng ở trong doanh trại chỉ với những người chiến binh cậu giữ bên người.

Giả thuyết đầu tiên có vẻ là một điều hoàn toàn sai lầm. Cậu không khẳng định được rằng bọn lính bảo vệ thành Aroughs có biết mưu đồ của cậu hay không, nhưng nhìn vào số lượng kỵ sĩ đang tập trung trước thành phố cậu biết rằng điều đó rất có khả năng xảy ra. Cậu chỉ hy vọng rằng nếu bọn lính hoặc chỉ huy của chúng định toàn lực đối dấu với đội quân Roran thì bọn chúng sẽ tập hợp gấp đôi đội quân. Trong bất kỳ trường hợp nào, cậu vẫn phải tìm ra phương cách ngăn chặn cuộc tấn công và giải nguy cho quân của mình khỏi bị tàn sát.

Baldor, Carn và Brigman chạy đến với vũ khí trên tay. Trong khi Carn đang vội vàng mặc áo giáp, Baldor nói, “Chúng ta làm gì?”

“Chẳng có gì cho chúng ta làm cả,” Brigman nói. “Cậu đã phán xét tử vong cho cuộc phiêu lưu này với sự ngu ngốc của mình, Stronghammer. Chúng ta phải chạy trốn ngay bây giờ trước khi bọn kỵ sĩ đáng ghét này bao vây chúng ta.”

Roran dậm chân xuống đất. “Rút lui? Chúng ta sẽ không rút lui. Quân ta không thể chạy trốn chỉ bằng chạy bộ được, mà kể cả thế, tôi sẽ không bỏ rơi những thương binh của chúng ta.”

“Cậu có hiểu không? Chúng ta đã thất bại ở đây. Nếu ở lại, chúng ta sẽ bị giết hoặc tệ hơn nữa là bị giam cầm!”

“Quên chuyện đó đi Brigman! Tôi sẽ không quay lưng chạy trốn!”

“Tại sao không? Như vậy cậu không phải thú nhận cậu đã thất bại sao? Bởi vì cậu hy vọng cứu vớt được chút ít danh dự trong trận đấu cuối cùng vô vọng này phải không? Có đúng không? Cậu không thể thấy rằng chính cậu đã gây nên tổn thương thảm trọng cho quân Varden sao?”

Tại căn cứ thành phố, những kỵ sĩ giơ cao thanh gươm và ngọn giáo qua đầu, với một tiếng thét vang trời có thể nghe từ xa, họ thúc ngựa và bắt đầu băng xuống cánh đồng dốc hướng về doanh trại quân Varden như dông bão. 

Brigman tiếp tục cơn phẫn nộ: “Tôi sẽ không để cho cậu bóp chết cuộc sống của chúng tôi chỉ là để làm tăng thêm sự anh dũng của cậu. Cứ ở lại nếu cậu muốn, nhưng …”

“Im lặng!” Roran gào lên. “Câm mõm lại, nếu không tôi sẽ làm cậu câm miệng lại! Baldor, trông chừng cậu ta. Nếu cậu ta làm những gì cậu không thích thì làm cho cậu ta thưởng thức mũi nhọn thanh kiếm cậu.” Brigman phùng mang lên giận dữ nhưng cậu ngậm miệng lại khi Baldor giơ thanh kiếm chĩa vào ngực Brigman.

Roran đoán rằng cậu có thể có năm phút để quyết định phải làm gì sắp tới. Năm phút, trong khi có rất nhiều thứ vẫn còn nằm trong cán cân vô định.

Cậu cố gắng suy nghĩ xem làm cách nào có thể giết hoặc xua đuổi bọn kỵ sĩ ra xa, nhưng lại ngay lập tức gạt bỏ khả năng này. Thực tế là không có nơi nào cho quân của cậu có lợi thế để ngăn cản bọn kỵ sĩ xông tới. Mặt đất quá bằng phẳng, quá trống trải cho bất kỳ hành động nào. 

Chúng ta không thể thắng nếu chiến đấu, cho nên … Nếu như chúng ta hù dọa chúng thì sao? Nhưng làm thế nào? Dùng lửa? Lửa có thể đốt cả quân ta lẫn kẻ địch. Hơn nữa, đám cỏ ướt chỉ bốc khói mà thôi. Khói à? Không được, nó chẳng giúp được gì.

Cậu liếc nhìn về phía Carn. “Cậu có thể phù phép hình ảnh của Saphira với tiếng gầm và phun lửa giống như là cô rồng thật sự ở đây không?”

Hai má của gã phù thủy trắng bệt. Cậu lắc đầu, vẻ mặt xao động. “Có thể, tôi không biết, tôi chưa bao giờ thử trước đây. Tôi chế tạo ra hình dáng của nó từ trong trí nhớ. Nó có thể không giống như một sinh vật sống động.” Cậu gật đầu hướng về phía bọn kỵ sĩ đang phóng tới. “Bọn chúng biết có cái gì đó không đúng.”

Roran nắm chặt bàn tay làm móng tay đâm vào lòng bàn tay. Chỉ còn bốn phút mà thôi, nếu đó là sự thật.

“Đáng để thử một lần,” cậu lẩm bẩm. “Chúng ta cần làm phân tâm và xáo trộn bọn chúng …” Cậu liếc nhìn bầu trời, hy vọng thấy một cơn mưa đang quét về doanh trại nhưng hỡi ôi chỉ tồn tại một vài cụm mây mỏng manh đang bay trên trời cao. Nhầm lẫn, lưỡng lự, nghi ngờ … Cái gì làm người ta sợ hãi? Thứ họ không biết, những vật họ không hiểu, đúng rồi là thứ đó.

Trong chốc lát, Roran nghĩ tới nửa tá đề án phá hoại lòng tự tin của kẻ địch, những phương án này cái sau vượt xa cái trước, cho đến khi cậu tìm thấy một ý tưởng thật đơn giản và hết sức táo bạo, có vẻ hoàn hảo nhất. Hơn nữa, không giống như những thứ khác, nó làm động lòng bản thân cậu bởi vì nó đòi hỏi sự tham gia chỉ có một người: Carn. 

“Ra lệnh cho quân lính ẩn mình trong lều!” cậu vừa bắt đầu di động vừa thét lên. “Nhớ bảo chúng giữ im lặng. Tôi không muốn nghe ngay cả tiếng chép miệng của bọn họ trừ khi chúng ta bị tấn công!”

Chạy tới một cái lều gần nhất mà nó trống rỗng, Roran nhét cây búa vào trong thắt lưng, chụp lấy một cái mền len dơ dáy từ một đống bộ đồ giường dưới đất. Rồi cậu chạy tới bếp lửa, chộp lấy một khúc rễ cây lớn mà những chiến binh thường dùng làm ghế ngồi.

Một tay ôm lấy khúc gỗ và vắt cái mền lên vai kia, Roran phóng mình ra khỏi doanh trại hướng về ụ đất nhỏ trước những căn lều cách khoảng ba mươi mét. Cậu la lên, “Ai đó lấy cho tôi một bộ trò chơi Knucklebones (một loại trò chơi cổ với 5 đồ vật nhỏ được ném lên rồi bắt lấy bằng nhiều cách khác nhau giống như ném xúc xắc) và một sừng đựng rượu mật ong! Đưa tôi cái bàn mà tôi để bản đồ trên đó. Nhanh lên nào!”

Sau lưng, cậu nghe tiếng ồn ào cuả những bước chân và trang bị đập vào nhau khi bọn lính nhanh chóng ẩn mình trong lều. Sự yên lặng ma quái bao trùm cả doanh trại trong vài giây, chỉ còn lại tiếng động của những người lính đang thu thập những món đồ mà cậu đòi hỏi.

Roran không thèm quay lưng lại nhìn. Cậu đặt khúc gỗ phần gốc xuống ở đỉnh ụ đất và xoay qua xoay lại nhiều lần để chắc rằng nó không khập khiễng khi cậu ngồi lên. Cậu hài lòng khi nó đã vững chắc, cậu ngồi lên nó và nhìn ra cánh đồng dốc hướng về phía bọn kỵ sĩ xông lên.

Ba hoặc bốn phút nữa thôi là bọn chúng đến. Xuyên qua cánh rừng phía dưới, cậu có thể cảm nhận tiếng móng ngựa gõ như nhịp trống, cái cảm giác này càng trở nên rõ ràng hơn từng giây một.

“Trò chơi và rượu mật ong đâu?” Cậu hét lên, mắt không rời bọn kỵ sĩ.

Cậu dùng tay vuốt hàm râu mình thật nhanh và nhét nó vào áo chẽn. Sợ hãi làm cậu ước muốn được mặc áo giáp dài nhưng một phần lý trí vô tình và quỷ quyệt của cậu đã làm cậu rõ rằng điều này sẽ làm cho kẻ địch thấu hiểu hơn khi thấy cậu ngồi đó không giáp sắt có vẻ như cậu hoàn toàn thoải mái thả lỏng. Một phần khác của lý trí cũng thuyết phục cậu nhét cây búa trong thắt lưng, nó sẽ làm cho cậu cảm thấy an toàn hơn khi đối diện với bọn lính.

“Xin lỗi,” Carn nín thở nói, vừa chạy đến chỗ Roran cùng với một người lính đang mang theo cái bàn xếp từ lều của Roran. Họ đặt bàn trước mặt cậu và trải cái mền lên, Carn đưa Roran một cái sừng chứa phân nửa rượu mật ong và một cái chén bằng da trong đó có năm món đồ chơi knucklebones.

“Nhanh trốn khỏi chỗ này,” cậu nói. Carn quay người bỏ đi nhưng Roran nắm cánh tay giữ cậu ta lại. “Cậu có thể làm cho không khí bên cạnh tớ mờ mờ lung linh giống như không khí ở trên lò sưởi vào một ngày đông giá rét không?"

Hai mắt Carn nheo lại. “Có thể, nhưng làm điều đó …”

“Cứ làm đi nếu cậu làm được. Bây giờ đi đi, tự mình ẩn trốn!”

Ngay lúc người phù thủy cao gầy phóng mình trở lại doanh trại, Roran lắc những hạt knuclebones trong cái chén sau đó đổ nó ra trên cái bàn và bắt đầu tự chơi, ném những hạt xương lên cao, bắt đầu bằng một hạt, rồi hai, ba, cứ thế tiếp tục … và bắt chúng lại bằng lưng bàn tay. Cha của cậu, ông Garrow, thường hay tự thích thú giống như cậu vừa bập ống điếu và ngồi trên một cái ghế cũ ọp ẹp ngoài mái hiên trước nhà trong suốt những buổi tối mùa hè ở thung lũng Palancar. Thỉnh thoảng Roran cũng chơi với ông, mỗi lần chơi ông đều thua nhưng ông Garrow thích tự tranh đua với chính mình hơn.

Mặc cho trái tim đang đánh trống ngực và lòng bàn tay đã ướt đẫm mồ hôi, Roran vẫn cố gắng giữ thái độ điềm tĩnh. Nếu như sự mở đầu kế hoạch của cậu có một ít cơ hội thành công, thì cậu phải cố ép bản thân bỏ qua cảm xúc chân thật của mình để thể hiện một thái độ tự tin kiên quyết. 

Cậu chăm chú nhìn vào những hạt knucklebones và chẳng buồn nhìn lên ngay cả khi bọn kỵ sĩ đang tới càng lúc càng gần hơn. Tiếng vó ngựa dồn dập khiến cho cậu ngỡ rằng chúng đang chạy ngang qua cậu.

Đây là một cách chết kỳ lạ, cậu nghĩ như vâỵ và cười một cách dứt khoát. Nghĩ tới Katrina và đứa con chưa sinh, cậu yên lòng biết rằng nếu cậu chết mầm giống của cậu vẫn tiếp tục. Đó không phải là sự bất tử giống như Eragon nắm giữ nhưng đó cũng là một loại trường sinh bất tử khác và điều này đối với cậu là đủ rồi.

Vào thời điểm cuối cùng khi bọn kỵ sĩ chỉ còn cách cái bàn vài thước, ai đó la lên, “Whoa! Whoa! Ghì cương ngựa lại. Tôi ra lệnh, ghì cương ngựa lại!” Với tiếng va chạm hàm thiếc và tiếng dây cương kẽo kẹt, những con ngựa tức tối miễn cưỡng chậm lại rồi dừng hẳn.

Roran vẫn đang chăm chú nhìn xuống.

Cậu uống một ngụm nhỏ rượu mật ong rồi lại ném những hạt xương lên, chặn chúng lại được hai viên bằng lưng bàn tay nơi mà chúng nằm trên đỉnh những sợi gân.

Mùi đất mới vừa bị cầy xới ấm áp và dìu dịu bao trùm cậu, xen lẫn một chút mùi mồ hôi ngựa khen khét.

“Này anh bạn thân mến!” người vừa ra lệnh bọn lính dừng lại nói. “Này anh bạn! Nhìn tôi này. Anh bạn là ai? Ngồi ở đây vào buổi sáng tuyệt vời như hôm nay, nhâm nhi rượu và thưởng thức một trò chơi đỏ đen vui vẻ như thể không hề quan tâm đến thế giới chung quanh? Không phải chúng tôi không xứng đáng để đối diện với những thanh gươm tuốt trần chứ? Tôi hỏi, anh bạn là ai?”

Roran chậm rãi ngước mắt từ cái bàn lên như thể không coi trọng bọn lính này chút nào và chỉ vừa nhận ra sự hiện diện của chúng. Cậu nhìn thâý một gã râu ria nhỏ con với chùm lông chim rực rỡ trên mũ sắt, gã ngồi trên một con ngựa chiến to lớn thở hỗn hển như bò rống.

"Tôi không phải bạn thân mến của ai cả và nhất là không phải của ông,” Roran nói với vẻ khó chịu ra mặt khi bị xưng hô thân mật như thế. “Tôi có thể biếti ông là ai không? Sao lại làm phiền tôi chơi một cách thô lỗ như vậy chứ?”

Sợi lông chim dài vằn vện ở trên đỉnh chóp mũ sắt của gã kia dập dờn khi gã chăm chú nhìn Roran giống như một sinh vật kỳ lạ gã gặp trong khi săn. “Tên tôi là Tharos the Quick, đội trưởng đội bảo vệ. Chính anh mới là người thô lỗ, tôi phải nói cho anh biết, tôi thật sự đau lòng khi giết một người dũng cảm như anh mà không biết tên là gì.” Để nhấn mạnh câu nói, Tharos hạ mũi giáo đang cầm xuống cho đến khi nó chỉa thẳng vào Roran.

Ba hàng kỵ sĩ chen chúc sau lưng Tharos. Trong đám đó, Roran phát hiện một người đàn ông gầy mũi cong với gương mặt hốc hác và cánh tay gầy gò trần trụi tới vai, làm Roran liên tưởng tới những pháp sư trong quân Varden. Đột nhiên, cậu tự nhận ra mình đang hy vọng Carn đã thành công trong việc làm cho không khí mờ ảo lung linh. Tuy vậy, cậu cũng không dám quay đầu nhìn lại.

“Tên tôi là Stronghammer,” cậu trả lời. Với một động tác tay khéo léo, cậu gom những viên knucklebones, ném chúng lên trời và chặn được ba viên trên lưng bàn tay. “Roran Stronghammer, Eragon Khắc Tinh Tà Thần là anh em họ với tôi.”

Một tiếng động lào xào bứt rức tỏa ra trong đám kỵ sĩ, Roran nghĩ cậu thấy đôi mắt của Tharos chợt mở to trong giây lát. “ Một bằng chứng đáng giá nhưng làm sao chúng tôi có thể chắc chắn tính xác thực của nó? Bất kỳ ai cũng có thể nói họ là người khác nếu đó là mục đích của họ.”

Roran rút cái búa ra và đập nó xuống bàn vang lên tiếng “bụp” trầm nghẹn ngào. Sau đó, không thèm để ý đến bọn lính cậu tiếp tục cuộc chơi của mình. Cậu thốt ra một âm thanh phẫn nộ khi hai viên xương rớt xuống từ lưng bàn tay làm cậu thua cuộc này.

“Ah,” Tharos nói, ho nhỏ thông cổ họng. “Anh có thanh danh rực rỡ nhất, Stronghammer, mặc dù có vài tranh luận cho rằng điều này đã được phóng đại quá mức vượt qua tất cả những lý lẽ thông thường. Không thật sự rằng chỉ một mình cậu đã đánh ngã ba trăm người trong một làng ở Deldarad vùng Surda?”

“Tôi chưa bao giờ biết cái vùng đó gọi là gì nhưng nếu nó là Deldarad thì cũng tốt thôi, tôi giết rất nhiều binh lính ở đó. Chỉ có một trăm chín mươi ba người mà thôi, hơn nữa chung quanh tôi có rất nhiều bảo vệ khi chiến đấu.”

“Chỉ có một trăm chín mươi ba người?” Tharos hỏi với giọng ngạc nhiên. “Anh bạn quá khiêm nhường, Stronghammer. Với cuộc chiến đấu như vậy, người ta xứng đáng được đặt trong nhiều bài hát và câu chuyện.”

Roran nhún vai và nhắc sừng rượu đưa vào miệng giả vờ động tác nuốt, bởi vì cậu không thể để trí óc của mình bị dược lực trong loại rượu của người lùn chế này làm cho mất tỉnh táo được. “Tôi chiến đấu để thắng chứ không phải để thua … Để tôi tặng ông một ngụm rựơu như là một chiến binh đối với một chiến binh,” cậu vừa nói vừa đưa tay nắm sừng rượu hướng về phía Tharos.

Gã chiến binh thấp lùn lưỡng lự, ánh mắt gã liếc nhanh về phía gã phù thủy sau lưng. Sau đó gã liếm môi nói, “Có lẽ, tôi nên đến đó.” Rời lưng ngựa, Tharos đưa ngọn giáo cho một người lính, tháo găng tay và bước hướng về cái bàn nơi mà gã thận trọng nhận lấy sừng rượu từ Roran.

Đưa lên mũi ngửi mùi rượu mật ong, Tharos uống một ngụm lớn. Những cái lông trên nón sắt của gã lung lay khi gã nhăn mặt.

“Nó không phải là thứ ông thích phải không?” Roran thích thú hỏi.

“Tôi thừa nhận, cái thứ rượu miền núi này quá nặng cho cái lưỡi của tôi,” Tharos vừa nói vừa trả lại Roran cái sừng rượu. “Tôi thích thứ rượu ở vùng này hơn, nó êm dịu, ngọt ngào và không đốt cháy cảm giác người uống.”

“Thứ rượu này đối với tôi ngọt như sữa mẹ,” Roran nói dối. “Tôi uống nó tối ngày.”

Mang găng lại, Tharos trở về bên con ngựa, leo lên yên và lấy lại ngọn giáo từ người lính đã cầm cho gã. Gã liếc nhìn sau lưng một lần nữa gã phù thủy có cái mũi khoằm mà Roran nhận thấy vẻ mặt của gã tỏa ra sát ý ngắn gọn kể từ khi Tharos đặt chân xuống đất. Tharos chắc đã nhận ra sự đổi thay của gã phù thủy do đó vẻ mặt của gã cũng bị ảnh hưởng.

“Cảm ơn sự hiếu khách của anh, Roran Stronghammer,” gã nói, lên giọng thật cao cho cả đoàn quân nghe. “Có lẽ tôi sẽ nhanh chóng có vinh dự được chiêu đãi anh bên trong thành Arough. Nếu như vậy, tôi hứa sẽ phục vụ anh loại rượu tốt nhất trong hầm rượu gia đình tôi và với nó tôi có thể làm cho anh từ bỏ thứ sữa thô bạo anh đang có. Tôi nghĩ là anh sẽ thấy rượu của chúng tôi xứng đáng được ca ngợi. Chúng tôi ngâm chúng trong thùng gỗ sồi hàng tháng có khi vài năm. Thật là khốn khổ nếu như tất cả công sức bị lãng phí, những thùng gỗ bị lật đổ và rượu bị chảy tràn ra, nhuộm đỏ đường phố .”

“Điều đó thật sự là xấu hổ,” Roran trả lời, “nhưng đôi khi ông không thể tránh được rượu trào ra một chút khi lau bàn.” Cầm sừng rượu đưa sang một bên, cậu nghiêng sừng rượu đổ phần rượu mật ong còn lại xuống cổ.

Tharos đứng lặng đi một lát, ngay cả chùm lông trên mũ cũng đứng yên theo, sau đó với gã gầm giận dữ, giật cương ngựa quay lại và hò hét bọn kỵ sĩ, “Tập hợp! Tập hợp, tôi ra lệnh ….Yah!” Rồi với tiếng thét cuối cùng, gã phóng ngựa rời xa Roran, bọn lính chạy theo, giục đám ngựa phóng nước đại khi quay về Aroughs.

Roran cố giữ nét kiêu ngạo và hững hờ cho đến khi bọn lính rời xa, cậu chậm rãi thở ra và cuối xuống đặt cùi chỏ lên đầu gối. Hai tay cậu run rẩy từng cơn nhỏ.

Thành công rồi, cậu ngạc nhiên.

Cậu nghe thấy những bước chân từ trong doanh trại chạy về hướng cậu, cậu quay lại liếc nhìn thấy Baldor và Carn đang tiến gần tới, đi theo bọn họ ít nhất là năm mươi người lính ẩn mình trong lều.

“Cậu đã làm được rồi!” Baldor la lên khi tiến lại gần. “Cậu đã làm được rồi! Tôi không thể nào tin được!” Gã cười khanh khách, vỗ vai Roran khá mạnh làm cậu té xuống bàn.

Những người khác quây quần chung quanh cậu cười nói, vỗ mông ngựa cậu bằng những lời ca tụng có cánh chẳng hạn như là dưới sự lãnh đạo của cậu họ sẽ chiếm được Aroughs mà không chết người nào và chê bai sự chí khí, danh dự của dân chúng trong thành. Một người nào đó nhét vào trong tay cậu một túi da chứa rượu ấm áp chỉ còn một nửa, cậu nhìn chăm chú vào cái vật ghê tởm bất ngờ này rồi chuyển sang người đứng bên tay trái.

“Cậu có phù phép nào không?” cậu hỏi Carn, tiếng nói của cậu bị che lấp gần như hoàn toàn bởi cơn náo động ăn mừng.

“Cái gì?” Carn ghé sát người lại, Roran lập lại câu hỏi, sau đó gã phù thủy mỉm cười và gật đầu dứt khoát. “Có chứ. Tôi đã cố gắng làm cho không khí lung linh mờ ảo như cậu muốn.”

“Cậu có tấn công gã pháp sư kia không? Khi bọn chúng rời đi, hắn dường như sắp bị ngất đi.”

Carn mở rộng nụ cười. “Đó là chính hắn tự làm. Hắn cố gắng phá vỡ ảo ảnh mà hắn nghĩ tôi đã tạo ra để có thể thấy rõ cái gì nằm đằng sau cái màn không khí mờ ảo đó. Nhưng ở đó không có gì để phá vỡ hay nhìn thấu, nên hắn đã tiêu hao hết pháp lực một cách đáng thương.”

Roran cười khúch khích, rồi tiếng cười trở thành một tràng cười dài gập người vang lên át cả tiếng ồn va chạm cuả những giáp sắt và ngân xa tất cả các vùng hướng về Aroughs.

Cậu tự cho phép mình ngập chìm trong sự thán phục của binh lính mình một lúc khá lâu cho đến khi cậu nghe thấy tiếng la một người lính canh phòng ngoài bìa doanh trại.

“Tránh đường! Để tôi xem nào!” Roran vừa nói vừa phóng đi. Người chiến binh vâng lời và cậu nhìn thấy một người ở phía Tây mà cậu nhận ra đó là một trong những người được cử đi về cồn đất phía Tây của con kênh, gã đang cưỡi ngựa chạy qua cánh đồng hướng về doanh trại. “Bảo hắn đến đây,” Roran ra lệnh, gã kiếm sĩ tóc đỏ gầy gò chạy đi tiếp đón kẻ đang tới.

Trong khi chờ đợi hắn tới, Roran nhặt những hột knuckebones và bỏ chúng từng viên một vào trong cái chén bằng da. Những viên xương chạm đáy vang lên âm hưởng thỏa mãn.

Ngay khi người chiến binh tới gần khoảng cách có thể nghe được, Roran la to: “Ê đằng ấy! Mọi việc tốt đẹp chứ? Có bị tấn công không?”

Hắn ta giữ nguyên im lặng làm Roran khó chịu cho đến khi chỉ còn vài mét, từ đó hắn xuống ngựa và đến trước Roran, đứng im thẳng băng như một cây thông thiếu nắng, miệng hét to, “Thưa ngài, Đội trưởng!” Khi nhìn kỹ lại, Roran nhận ra hắn chính là một đứa con trai, chính xác hơn hắn vẫn là thằng bé trai ốm yếu chụp lấy dây cương khi cậu lần đầu tiên cưỡi ngựa vào doanh trại. Sự nhận thức này chẳng làm gì cho thấy rõ sự thất vọng đối với lòng hiếu kỳ của Roran. “Được rồi, chuyện gì? Tôi không có cả ngày để nghe đâu.”

“Thưa ngài! Hamund gởi tôi tới để nói với ngài rằng chúng tôi đã tìm thấy tất cả những xà làn chúng ta cần và ông ấy đang làm những xe trượt để chuyển chúng sang bờ bên kia con kênh.”

Roran gật đầu nhận thức. “Tốt. Anh ta cần giúp đỡ gì không để đem chúng đến đúng thời gian?”

“Thưa ngài, không!”

“Đó là tất cả điều cậu muốn nói?”

“Thưa ngài, vâng ạ!”

“Cậu không cần phải gọi tôi là ngài hoài như vậy. Một lần là đủ rồi. Hiểu không?”

“Thưa ngài vâng – Ơ.. vâng ..ngài – Ơ tôi nghĩ là lẽ dĩ nhiên.”

Roran nín cười. “Cậu đã làm tốt lắm. Kiếm cái gì ăn đi rồi quay ra vùng mỏ và đem tin về cho tôi. Tôi muốn biết họ đã hoàn thành đến đâu rồi.”

“Vâng thưa ngà..i – Xin lỗi ngài – Đó là, tôi không … Tôi đi ngay, Đội trưởng.” Hai má cậu bé đỏ hồng lên khi nói lắp. Cậu cúi đầu chào rồi nhanh nhẹn leo lên lưng ngựa phóng đi hướng về những ngôi lều.

Cuộc viếng thăm làm Roran trở nên trầm tư hơn, bởi vì nó nhắc cậu rằng họ đã rất may mắn thoát khỏi bản án tử hình dưới lưỡi gươm bọn lính kia. Nhưng họ vẫn còn nhiều thứ phải làm và bất kỳ nhiệm vụ nào đối với họ cũng rất quan trọng bởi vì họ sẽ thất bại cuộc chiếm đóng nếu như không cẩn thận.

Hướng về những chiến binh xa xa, cậu ra lệnh, “Mọi người quay trở về doanh trại! Tôi muốn thấy hai đường hào đào chung quanh lều trước khi trời tối. Đám lính áo vàng kia có thể thay đổi ý định và quyết định tấn công bằng mọi cách, tôi muốn tất cả chuẩn bị.” Vài người càu nhàu về việc đào chiến hào nhưng phần còn lại nhận lấy mệnh lệnh với tâm trạng vui vẻ.

Hạ thấp giọng Carn nói, “Cậu không nên làm họ mệt mỏi quá nhiều trước ngày mai.”

“Tôi biết,” Roran trả lời nhẹ nhàng. ”Nhưng doanh trại cần phải được củng cố và điều này sẽ giúp bọn họ tránh khỏi tâm trạng ủ ê. Hơn nữa, bất kể bọn họ mệt mỏi như thế nào ngày mai, cuộc chiến đấu sẽ cho họ sức mạnh mới. Lúc nào cũng vậy.”

Thời gian trôi qua thật mau khi Roran tập trung vào suy nghĩ vài vấn đề cần kíp hoặc hăng say luyện tập thể lực và chậm lại khi đầu óc cậu đã thoát ra khỏi những hoàn cảnh đó. Những người lính của cậu làm việc hăng say bởi vì cậu đã giúp họ thoát chết từ bọn kỵ sĩ. Cậu đã giành được sự trung thành và tận tụy của họ một cách đặc biệt, không thể dùng lời để diễn đạt. Tuy vậy, rõ ràng là mặc dù họ cố gắng hết sức cũng không thể hoàn thành việc chuẩn bị trong thời gian ngắn ngủi còn lại.

Suốt từ buổi sáng qua buổi trưa lẫn buổi chiều tối, cảm giác yếu ớt, tuyệt vọng đang lớn nhanh trong lòng Roran, cậu tự nguyền rủa mình đã quyết định một kế hoạch quá tham vọng và đầy phức tạp như vậy.

Mình nên biết từ đầu là chúng ta không có thời gian cho việc này, cậu nghĩ, nhưng đã quá trễ để thử một cách khác. Lựa chọn duy nhất bây giờ là cố gắng hết sức và hy vọng rằng bằng cách nào đó đủ để cướp lấy chiến thắng từ cái lỗi bất lực của cậu.

Khi hoàng hôn buông xuống, vài ý nghĩ nhỏ nhặt lạc quan đã thay đổi sự tiêu cực của cậu. Bỗng nhiên việc chuẩn bị bắt đầu ăn khớp với nhau với tốc độ không ngờ. Vài giờ sau khi tất cả chìm trong bóng tối, khi những vì sao lấp lánh trên cao, cậu thấy mình đứng gần nhà máy xay lúa với gần bảy trăm người lính, tất cả những chuẩn bị cần thiết đã được hoàn tất nếu như họ chiếm lấy Aroughs trước buổi tối ngày mai.

Roran thốt ra tiếng cười ngắn đầy giải thoát, tự hào và hoài nghi khi nhìn đăm đăm vào mục đích của công việc cực nhọc của họ.

Sau đó cậu chúc mừng những chiến binh chung quanh cậu ra lệnh cho họ trở về lều. “Nghỉ ngơi nào khi các cậu có thể. Chúng ta sẽ tấn công lúc bình minh!”

Mọi người hô to hân hoan dù đang mệt mỏi vô cùng.

Đêm đó, giấc ngủ của Roran mãi chập chờn không yên. Thật không dễ dàng để anh hoàn toàn thả lỏng, khi biết tầm quan trọng của cuộc chiến sắp tới và rằng anh rất có khả năng bị thương trong khi tham chiến, chuyện vẫn thường như vậy trước đây. Hai ý nghĩ ấy như sợi đàn hồi dẫn sóng căng ra giữa đầu óc và trụ xương sống của anh, sợi dây kéo anh ra khỏi những giấc mơ khó hiểu, đen tối cắt quãng đều đều.

Chính bởi thế, anh tỉnh giấc dễ dàng ngay khi nghe thấy một tiếng thịch yếu ớt, mờ mịt vang lên bên ngoài chiếc lều của mình

Anh mở mắt và nhìn chằm chằm lên tấm màn phía trên đầu. Bên trong căn lều hầu như không thể nhìn thấy gì rõ ràng, và có chăng chỉ bởi dải sáng nhợt nhạt duy nhất từ ánh đuốc màu cam xuyên qua khe hổng giữa hai vạt lều ở lối vào. Không khí lạnh lẽo làm tê dại da anh, như thể anh bị chôn vùi trong một cái hang sâu thẳm dưới lòng đất. Dù có là mấy giờ, lúc này cũng đã muộn, rất muộn. Ngay cả những con thú săn đêm cũng hẳn đã trở lại hang trú ẩn của chúng và chìm vào giấc ngủ. Không ai phải thức đến giờ này, trừ những người lính canh, nhưng bọn họ không có điểm gác nào gần lều của anh.

Roran giữ hơi thở chậm và từ tốn hết mức có thể trong khi lắng nghe xem có bất cứ âm thanh nào khác không. Tiếng động to nhất anh nghe thấy là tiếng đập của chính trái tim anh, mỗi lúc một mạnh và nhanh hơn khi sợi dây căng thẳng trong anh rung liên tục như gảy dây đàn luýt*.(Loại đàn tương tự mandoline, tham khảo xem hình http://en.wikipedia.org/wiki/Lute)

Một phút trôi qua.

Lại thêm một phút nữa.

Và rồi, ngay khi anh bắt đầu nghĩ chẳng có lý do gì để báo động và nhịp đập dồn dập trong mạch máu anh bắt đầu chậm dần, thì một chiếc bóng đổ xuống phía trước căn lều, chặn nguồn sáng từ những ngọn đuốc hắt lại từ xa.

Mạch Roran đập nhanh gấp ba lần, trái tim dộng mạnh như thể anh đang chạy lên sườn núi. Dù có là ai ngoài đó cũng không phải đến đánh thức anh trước cuộc tấn công Aroughs, cũng không phải mang cho anh chút tin tình báo, bởi họ sẽ không do dự gọi to tên anh và lao thẳng vào trong.

Một bàn tay đeo găng đen – chỉ sẫm hơn màu bóng tối đang vây xung quanh – trượt vào giữa hai vạt lều ở lối vào và dò dẫm tìm dây buộc để giữ chúng khép lại.

Roran định hét lên báo động, rồi đổi ý. Thật ngu ngốc khi đi lãng phí lợi thế của sự bất ngờ. Bên cạnh đó, nếu tên đột nhập này biết hắn đã bị lộ, hắn có thể sợ hãi, và nỗi sợ hãi có thể khiến hắn thậm chí còn trở nên nguy hiểm hơn nữa.

Với bàn tay phải, Roran cẩn thận rút con dao găm từ dưới chiếc áo choàng cuộn tròn dùng thay gối lên và giấu vũ khí đó cạnh đầu gối, bên dưới nếp gấp trong tấm mền. Cùng lúc, anh túm lấy viền những tấm mền với tay kia.

Một quầng sáng vàng phác lên hình dạng của kẻ xâm nhập khi hắn luồn vào trong. Roran nhìn thấy gã đàn ông đang mặc một chiếc áo chẽn da thuộc độn bông, nhưng không có khiên hoặc áo giáp. Rồi vạt lều buông xuống, và bóng tối phủ lên bọn họ lần nữa.

Kẻ vô danh kia trườn về chỗ Roran nằm.

Roran cảm giác như thể anh sắp ngất xỉu vì thiếu dưỡng khi tiếp tục hạn chế hơi thở để có vẻ như anh vẫn đang ngủ.

Khi kẻ xâm nhập bò được nửa đường đến chiếc giường nhỏ, Roran giật mạnh những tấm mền khỏi người, quăng chúng lên gã đàn ông, và, với một tiếng thét hoang dại, nhảy bổ về phía hắn, giơ con dao lên để đâm thẳng vào bụng hắn.

“Đợi đã!” gã đàn ông thét lên. Bất ngờ, tay Roran bất động, và cả hai ngã sập xuống mặt đất cùng nhau. “Bạn! Tôi là bạn!”

Nửa giây tiếp theo, Roran thở dốc khi anh cảm thấy hai cú đấm táng vào thận trái. Cơn đau gần như tước ngã anh, nhưng anh ép bản thân lăn xa khỏi gã đàn ông, cố gắng giãn khoảng cách giữa bọn họ.

Roran chống người đứng dậy, rồi lần nữa lao vào kẻ tấn công anh, kẻ vẫn đang vật lộn để giải thoát bản thân khỏi tấm mền.

“Đợi đã, tôi là bạn anh!” gã đàn ông hét lên, nhưng Roran không định tin hắn lần thứ hai. Thật may là anh đã không tin, bởi khi anh đánh kẻ xâm nhập, gã đàn ông tóm lấy tay phải của Roran và găm nó lại với một vòng quấn từ tấm mền, rồi chém Roran với con dao hắn rút ra từ áo chẽn. Chút xáo động giật mạnh qua lồng ngực Roran, nhưng bởi nó quá mờ nhạt, anh không quan tâm đến nó.

Roran gầm lên và giật tấm mền hết sức có thể, lôi gã đàn ông lên khỏi mặt đất và ném hắn về phía bên kia căn lều mà nó đã đổ sụp lên người bọn họ, làm bọn họ kẹt cứng dưới lớp len nặng. Roran giũ đoạn mền xoắn ra khỏi cánh tay, rồi trườn về phía gã đàn ông, cảm nhận lối đi qua bóng tối.

Đế cứng của một chiếc giày ống đập vào bàn tay trái Roran, và những đầu ngón tay của anh tê liệt.

Phóng mình tới, Roran tóm lấy mắt cá chân của hắn khi hắn cố gắng lật lại để tấn công trực diện anh. Hắn đá loạn như thỏ và thoát khỏi tay nắm của Roran, nhưng Roran chộp lấy mắt cá chân hắn lần nữa và bóp chặt nó qua lớp da thuộc mỏng, bấu những ngón tay vào đường gân ở lưng gót chân hắn cho đến khi gã đàn ông rống lên vì đau.

Trước khi hắn có thể phục hồi, Roran vồ lên người hắn và ghim bàn tay cầm dao của hắn xuống mặt đất. Roran gắng hướng con dao găm của anh vào sườn gã đàn ông, nhưng anh quá chậm; kẻ thù tìm thấy cổ tay anh và kẹp lấy nó với cái siết như sắt.

“Mày là ai?” Roran gầm lên.

“Tôi là bạn anh,” gã đàn ông nói, hơi thở âm ấm của hắn phà lên gương mặt Roran. Nó có mùi như rượu vang và rượu táo được pha chế. Rồi hắn thúc gối vào mạng sườn Roran ba cái liên hồi.

Roran dùng trán đập vào sống mũi hắn, làm gẫy mũi với một tiếng rắc thật to. Hắn gầm gừ và loạn động dưới người anh nhưng Roran dứt khoát không thả ra.

“Mày… không phải bạn của tao,” Roran nói, lầm bầm khi anh đánh quỵ bàn tay phải của hắn và chầm chậm đâm con dao vào mạng sườn gã đàn ông. Khi họ vật lộn với nhau, Roran lơ đãng nhận ra mọi người đang hò hét bên ngoài chiếc lều sập.

Cuối cùng cánh tay của gã đàn ông bị bẻ ngoặt, và với sự nhẹ nhõm bất chợt dâng lên, con dao lao qua chiếc áo da thuộc của hắn và đâm vào lớp thịt mềm căng tràn sức sống. Gã đàn ông rúm ró. Nhanh hết sức có thể, Roran đâm hắn thêm vài nhát nữa, rồi vùi con dao găm vào lồng ngực hắn.

Qua cán dao, Roran cảm nhận được những cái run rẩy như chim non vỗ cánh của trái tim gã đàn ông khi nó bị cứa ra từng mảnh nhỏ trên chiếc lưỡi sắc như dao cạo. Gã đàn ông rùng mình lần thứ hai và giật mạnh, rồi ngừng bặt chống cự, đơn giản chỉ nằm đó, hổn hển.

Roran tiếp tục giữ lấy hắn khi sự sống rút dần ra khỏi hắn, vòng ôm của bọn họ cũng thân mật như bất cứ đôi tình nhân nào. Dù gã đàn ông đã cố giết anh, và dù Roran không biết gì về hắn bên cạnh sự thật đó, anh không thể làm gì ngoại trừ cảm nhận cái cảm giác kinh hãi gần gũi với gã. Đây là con người – một sinh vật sống động biết suy nghĩ – mà đời sống đã kết thúc bởi những gì hắn đã làm.

“Mày là ai?” anh thì thào. “Ai gửi mày đến?”

“Tao… tao gần như đã giết được mày,” gã đàn ông nói, nghe thỏa mãn một cách ngoan cố. Rồi hắn trút một hơi thở dài và trống trải, cả cơ thể mềm rũ, và rồi không còn tồn tại.

Roran để đầu gục xuống ngực gã đàn ông và hớp lấy từng ngụm khí, run rẩy từ đầu đến chân khi cơn sốc của cuộc tấn công hành hạ khắp chân tay anh.

Mọi người bắt đầu lôi tấm vải phủ lên người anh. “Kéo nó ra khỏi tôi!” Roran thét lên, và đập mạnh với cánh tay trái, không tài nào chịu đựng sức nặng ngột ngạt của lớp len lâu thêm nữa, cùng với bóng tối, cùng với không gian tù túng, và bầu không khí muốn nghẹt thở.

Một vết rách xuất hiện trên tấm vải trên đầu anh khi ai đó cắt qua lớp len. Ánh đuốc bập bùng, ấm áp tràn qua khe hở.

Điên cuồng trốn thoát khỏi nơi giam hãm mình, Roran loạng choạng đứng dậy, chộp lấy mép vết cắt, và lê người ra khỏi chiếc lều đổ rạp. Anh lảo đảo hướng về phía nguồn sáng, không mặc gì ngoại trừ chiếc quần ống túm, và hỗn loạn nhìn quanh.

Baldor đang đứng đây, giống như Carn, Delwi, Mandel, và mười chiến binh khác, tất cả đều cầm kiếm và rìu sẵn sàng trong tay. Không một ai mặc đầy đủ quần áo, ngoại trừ hai người, Roran nhận ra là hai lính canh được cắt cử tuần tra đêm.

“Thánh thần ơi,” ai đó la lên, và Roran quay lại nhìn thấy một trong các chiến binh đang kéo ra phần bên của chiếc lều bị phá hủy, phơi bày xác chết của tên sát thủ.

Kẻ đã chết này có kích thước không lấy gì làm hùng vĩ, với mái tóc dài, bờm xờm buộc túm đuôi ngựa và một mảnh da bịt con mắt trái. Mũi hắn vặn vẹo và dẹp lép – bị đập gãy bởi Roran – và cả một mảng máu loang lổ khắp phần dưới gương mặt nhẵn nhụi của hắn. Còn nhiều máu hơn vón lại trên ngực, sườn và mặt đất bên dưới hắn. Có vẻ gần như hơi quá nhiều máu tuôn ra từ mỗi một người thế này.

“Roran,” Baldor gọi. Roran tiếp tục nhìn chăm chăm vào tên sát thủ, không thể dứt ánh mắt khỏi hắn. “Roran à,” Baldor gọi lại, lần này to hơn. “Roran, nghe tôi này. Cậu có bị thương không? Chuyện gì xảy ra vậy?... Roran!”

Vẻ lo ngại trong giọng của Baldor cuối cùng đã níu được sự chú ý nơi Roran. “Sao cơ?” anh hỏi.

“Roran, cậu có bị thương không?”

Sao cậu ta lại nghĩ thế? Bối rối, Roran nhìn xuống người mình. Lông ngực anh bê bết máu đông từ trên xuống dưới, trong khi những vệt máu vằn vệt hai cánh tay và làm biến màu phần trên chiếc quần ống túm của anh.

“Tôi không sao,” anh nói, dù anh khó khăn lắm mới định hình được từng câu chữ. “Có ai khác bị tấn công không?”

Đáp lại, Delwin và Hamund di chuyển sang hai bên, để lộ một cơ thể ngã sấp xuống. Đó là chàng trai trẻ đã mang thư từ cho anh lúc sớm.

“A!” Roran rên rỉ, và đau đớn bao trùm anh. “Cậu ta lang thang quanh đây làm gì?”

Một trong những chiến binh tiến lên trước. “Tôi chung lều với cậu ta, thưa thủ lĩnh. Cậu ta luôn phải ra ngoài để giải quyết mỗi đêm, vì uống quá nhiều trà trước khi đi ngủ. Mẹ cậu ta bảo trà đó sẽ giúp cậu ta khỏi ngã bệnh… Cậu ta là người tốt, thưa thủ lĩnh. Cậu ta không đáng bị đâm chết từ sau lưng bởi kẻ hèn hạ lén lút nào đó.”

“Không, không đáng,” Roran lẩm bẩm. Nếu cậu ta không ở đó, lúc này kẻ bị giết là mình. Anh chỉ về phía tên sát thủ. “Còn tên sát thủ nào lảng vảng quanh đây không?”

Những người lính xôn xao, liếc nhìn nhau; rồi Baldor nói, “Tôi không nghĩ thế.”

“Đã kiểm tra chưa?”

“Chưa.”

“Vậy thì kiểm tra đi! Nhưng cố đừng đánh thức những người khác; họ cần ngủ. Và điều người canh gác trước lều của tất cả các chỉ huy ngay từ bây giờ.” … Đáng nhẽ phải được nghĩ ra từ trước.

Roran đứng yên tại chỗ, cảm giác trì trệ và ngu ngốc khi Baldor đưa ra một loạt các lệnh nhanh chóng, và tất cả mọi người trừ Carn, Delwin, và Hamund phân tán. Bốn chiến binh nâng lên thi hài rũ rượi của cậu bé rồi mang cậu ta đi chôn, trong khi phần còn lại tản ra để lục soát khắp trại đóng quân.

Đi về phía tên sát thủ, Hanmund thúc vào con dao của gã đàn ông với đầu mũi giày. “Anh hẳn đã dọa các chiến binh hoảng sợ hơn những gì chúng tôi nghĩ sáng nay.”

“Hẳn vậy.”

Roran rùng mình. Anh thấy lạnh toàn thân, đặc biệt ở đôi tay và chân, nơi có cảm giác như đóng đá. Carn nhận thấy và đưa cho anh một tấm mền. “Đây,” Carn nói, và trùm nó quanh vai Roran. “Lại ngồi cạnh một trong những đống lửa canh đi. Tôi sẽ lấy chút nước nóng để anh lau chùi. Được chứ?”

Roran gật đầu, không tin lưỡi anh có thể hoạt động.

Carn bắt đầu đỡ anh đi, nhưng trước khi họ đi xa hơn vài bước chân, vị pháp sư đột ngột ngừng lại, buộc Roran cũng phải ngừng theo. “Delwin, Hamund,” Carn gọi, “mang cho tôi một cái giường nhỏ, thứ gì đó để ngồi, một bình mật ong, và vài đoạn băng nhanh nhất có thể. Ngay lập tức, nếu các anh vui lòng.”

Giật mình, hai người đàn ông vọt đi.

“Tại sao?” Roran hỏi, mơ hồ. “Có chuyện gì không ổn à?”

Vẻ mặt dữ dội, Carn chỉ thẳng vào ngực Roran. “Nếu anh không bị thương, vậy nó là gì, van anh cho tôi biết?”

Roran hướng mắt theo nơi Carn chỉ và nhìn, ẩn giữa lớp lông và máu đông trên ngực anh, một vết cắt sâu và dài bắt đầu từ giữa cơ ngực phải, chạy dọc xương ức, và kết thúc ngay bên dưới đầu ngực trái. Ở nơi rộng nhất, vết thương ngoác mở gần 1 centimét, và không giống gì hơn một chiếc miệng không có môi há hết cỡ thành một miệng cười xếch vĩ đại và kinh khủng. Nét đáng lo nhất của vết cắt, dù sao đi nữa, là hoàn toàn thiếu sự hiện diện của máu; không nhiều đến lấy một giọt rỉ ra từ đường rạch. Roran có thể nhìn thấy rõ ràng lớp mỡ vàng mỏng bên dưới làn da, và bên dưới nó, mảng cơ đỏ sẫm của ngực anh, thứ có màu hệt như một miếng thịt hươu sống.

Đã thành thói quen khi anh bị những tổn thương nghiêm trọng do kiếm, giáo và những vũ khí khác có thể gây ra trên thịt và xương, Roran vẫn thấy cảnh tượng này đáng sợ. Anh đã chịu không biết bao nhiêu vết thương suốt quá trình chiến đấu chống lại bọn Đế quốc – đáng kể nhất là khi một tên Ra’zac cắn lên vai phải của anh trong lần chúng bắt giữ Katrina ở Carvahall – nhưng chưa bao giờ trước đây anh lại nhận một vết thương lớn hay kì quặc thế này.

“Có đau không?” Carn hỏi.

Roran lắc đầu mà không nhìn lên. “Không.” Cổ họng anh tắc nghẹn, và trái tim anh – thứ vẫn như đua hết tốc lực từ cuộc đấu – đập nhanh gấp hai lần, nện quá nhanh đến mức mỗi nhịp không thể phân biệt được với nhịp tiếp theo. Con dao có được tẩm độc không? Anh tự hỏi.

“Roran, anh phải thả lỏng,” Carn nói. “Tôi nghĩ tôi có thể làm lành vết thương cho anh, nhưng anh chỉ càng khiến nó khó khăn hơn nếu anh bất tỉnh.” Đỡ lấy vai anh, cậu ta đưa Roran trở lại chiếc giường Hamund đã kéo ra từ một chiếc lều, và Roran ngoan ngoãn ngồi xuống.

“Làm sao để tôi có thể thả lỏng?” anh hỏi với tiếng cười ngắn và giòn tan.

“Hít sâu và tưởng tượng anh đang chìm xuống mặt đất mỗi lần anh thở ra. Tin tôi đi; nó sẽ hiệu quả.”

Roran làm theo lời anh ta, nhưng giây phút anh trút hơi thở thứ ba, múi cơ của anh bắt đầu nới lỏng và máu phụt ra khỏi vết cắt, bắn tung tóe lên mặt Carn. Vị pháp sư bật lùi và thốt một tiếng chửi thề. Máu tươi trào xuống bụng Roran, nóng rẫy trên làn da trần của anh.

“Giờ thì đau rồi,” anh nói, nghiến chặt răng.

“Ê!” Carn hét, và vẫy tay về phía Delwin, người đang chạy lại phía họ, hai tay lỉnh kỉnh băng gạc và những thứ khác. Bởi dân làng đã nhét những thứ linh tinh vào cuối mỗi chiếc giường, Carn chộp lấy một miếng nùi bằng vải xơ và ấn nó vào vết thương của Roran, ngăn máu chảy trong chốc lát. “Nằm xuống,” anh ta yêu cầu

Roran tuân theo, và Hamund mang lại một chiếc ghế đẩu cho Carn, người tự mình ngồi xuống, tiếp tục ép chặt miếng nùi trong suốt thời gian đó. Duỗi bàn tay còn lại, Carn búng ngón tay và nói, “Mở bình rượu mật ong và đưa nó cho tôi.”

Ngay khi Delwin đưa cho anh ta chiếc bình, Carn nhìn thẳng vào Roran và nói, “Tôi phải rửa bên ngoài vết cắt trước khi tôi có thể làm lành nó với phép thuật. Anh hiểu chứ?”

Roran gật đầu. “Đưa cho tôi thứ gì để cắn.”

Anh nghe thấy âm thanh của khóa và những chiếc dây lưng được tháo ra, rồi Delwin hay Hamund đã đưa thắt lưng đeo kiếm dày vào giữa hàm răng anh, anh cắn chặt xuống nó với tất cả sức lực. “Làm đi!” anh nói rõ nhất có thể qua vật cản trong miệng anh.

Trước khi Roran có thời gian phản ứng, Carn giật miếng nùi khỏi ngực anh và, trong cùng cử động, rót rượu mật ong dọc theo vết thương, rửa sạch lớp lông, máu, và những cáu bẩn khác bám bên ngoài đường cắt. Khi mật ong dội xuống, Roran thốt một tiếng rên tắc nghẽn và oằn lưng, cào tay vào hai bên cạnh giường.

“Rồi, đã xong,” Carn nói, và đặt chiếc bình sang một bên.

Roran nhìn đăm đăm lên những vì sao, mỗi múi cơ trên cơ thể anh đều đang run rẩy, và cố gắng lờ đi cơn đau khi Carn đặt hai bàn tay lên vết thương và bắt đầu lẩm nhẩm những câu thần chú bằng ngôn ngữ cổ xưa.

Sau vài giây, mặc cho có vẻ giống vài phút với Roran hơn, anh cảm thấy cơn ngứa gần như không chịu nổi sâu trong ngực anh khi Carn phục hồi tổn hại mà con dao của tên sát thủ gây ra. Cơn ngứa lúc nhúc trườn lên, hướng đến bề mặt làn da anh, và nơi nào nó đi qua, đau đớn tan biến. Tuy vậy, cảm giác vẫn quá sức khó chịu, nó khiến anh muốn cào cấu bản thân cho đến khi xé rách da thịt anh ra.

Khi nó chấm dứt, Carn thở dài và sụp xuống, vùi đầu trong hai lòng bàn tay.

Ép chân tay đang muốn nổi loạn của anh làm theo ý mình, Roran vắt hai chân qua mép giường và ngồi dậy. Anh chạy bàn tay qua ngực. Trừ lớp lông ra, nó hoàn toàn nhẵn thín. Nguyên vẹn. Không một tổn thương. Chính xác như lúc trước khi gã đàn ông chột mắt lẻn vào lều của anh.

Phép thuật

Ở một bên, Delwin và Hamund đứng nhìn trân trân. Bọn họ có vẻ đã tròn mắt một chút, mặc dù anh nghi ngờ chuyện có ai đó khác sẽ chú ý.

“Các anh quay trở lại giường đi,” anh nói, và phất tay. “Chúng ta sẽ đi trong vài giờ nữa, và tôi cần các anh tỉnh táo.”

“Anh chắc là anh sẽ ổn chứ?” Delwin hỏi.

“Ừ, ừ,” anh nói dối. “Cảm ơn mọi người vì đã giúp đỡ, nhưng giờ thì đi nào. Làm sao tôi có thể nghỉ với hai người các anh cứ lượn lờ quanh tôi như gà mái mẹ thế được?”

Sau khi bọn họ đi, Roran xoa mặt và rồi ngồi nhìn vào đôi tay run rẩy, vấy đầy máu của anh. Anh có cảm giác khô kiệt. Trống rỗng. Như thể anh đã làm lượng công việc của cả một tuần chỉ trong vài phút ít ỏi vậy.

“Anh vẫn có thể chiến đấu chứ?” anh hỏi Carn.

Vị pháp sư nhún vai. “Không được ổn như trước… Đấy là cái giá phải trả, dù sao đi nữa. Chúng tôi không thể đi qua trận chiến mà không có anh dẫn dắt chúng tôi.”

Roran không buồn tranh cãi. “Anh nên đi nghỉ chút đi. Bình minh sẽ không còn xa nữa đâu.”

“Còn anh?”

“Tôi sẽ đi rửa ráy, tìm một chiếc áo, rồi kiểm tra với Baldor và xem xem ông ấy có tìm ra thêm tên sát thủ nào của Galbatorix nữa không.”

“Anh không định nằm nghỉ à?”

“Không.” Không hề chủ ý, anh gãi ngực. Anh ngừng bản thân khi nhận ra anh đang làm gì. “Trước đó tôi đã không thể ngủ, và giờ…”

“Tôi hiểu.” Carn chậm rãi đứng dậy khỏi chiếc ghế. “Tôi ở trong lều của tôi nếu anh cần tôi.”

Roran nhìn anh ta va vấp từng bước nặng nề vào trong màn đêm. Khi anh ta không còn trong tầm mắt, Roran nhắm mắt và nghĩ về Katrina, trong cố gắng làm dịu lại bản thân. Triệu tập chút gì còn sót lại từ sức mạnh của anh, anh đi về phía chiếc lều bị sụp và đào bới trong đó cho đến khi tìm được quần áo, vũ khí, áo giáp, và túi đựng nước. Trong suốt khoảng thời gian đó, anh cố tình tránh nhìn vào xác của tên sát thủ, dù đôi khi anh thoáng lướt qua lúc anh dọn dẹp đống quần áo lộn xộn của anh.

Cuối cùng, Roran quỳ xuống và, với đôi mắt quay đi, giật mạnh con dao găm của anh ra khỏi xác chết. Lưỡi dao được thoát ra với âm thanh của kim loại cọ xát vào xương. Anh giũ mạnh con dao, để hắt đi dòng máu lưu lại trên lưỡi, và nghe thấy tiếng lộp bộp của vài giọt máu rớt trên nền đất.

Trong sự im lặng lạnh lẽo của màn đêm, Roran chậm rãi chuẩn bị bản thân cho cuộc chiến. Rồi anh tìm Baldor – người quả quyết với anh rằng không còn ai khác vượt qua được những người lính canh – và đi lại trong chu vi của trại đóng quân, xem xét lại từng hướng của cuộc tấn công Aroughs sắp tới của bọn họ. Sau đấy, anh tìm thấy nửa con gà đông lạnh chưa ăn bỏ lại từ bữa tối, ngồi gặm nó và chăm chú nhìn những vì sao.

Tuy vậy, dù cho anh có làm gì, tâm trí anh vẫn quay trở lại và trở lại mãi với cảnh tượng gã trai trẻ nằm chết bên ngoài lều của anh. Ai là người quyết định một người nên sống và người kia nên chết? Cuộc đời tôi không đáng giá hơn cuộc đời của cậu ta, nhưng cậu ta là người bị chôn, trong khi tôi được tận hưởng thêm vài giờ ít ỏi trên mặt đất. Đó là sự tình cờ, ngẫu nhiên và nghiệt ngã, hay đó là chủ đích hoặc kiểu mẫu cho tất cả chuyện này, có thế nào đi chăng nữa cũng nằm ngoài phạm vi hiểu biết của tất cả chúng ta?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: