Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Eragon - Ke thua - Chuong 1-7

Shaphira gầm lên, khiến cho mấy tên lính đứng trước run rẩy.

“Theo ta!” Eragon hét lên. Eragon nâng thanh Brisingr quá đầu, giữ kiếm trên cao cho tất cả đều nhìn thấy. Thanh kiếm xanh loé sáng rực rỡ, tương phản hoàn toàn với bức tường mây đen phía tây. “Vì Varden !”

Một mũi tên rít qua, Eragon không thèm chú ý.

Đám lính tập trung tại chân dốc đá vụn mà Eragon và Saphira đang đứng đồng thanh đáp trả bằng tiếng rống hùng hậu bằng cả cuống họng: “Varden!”. Họ khua vũ khí và tiến về phía trước, tràn lên các tảng đá lộn xộn.

Eragon quay lưng lại đám lính. Ở phía bên kia của gò đất là một khoảng sân rộng. Tầm hai trăm tên lính Đế quốc đứng lộn xộn ở đó. Đằng sau là một cái tháp canh âm u vươn lên cao với nhiều đường rạch chằng chịt để làm khe cửa và vô số pháo đài hình tứ diện; cái cao nhất có treo một chiếc đèn lồng chiếu sáng. Eragon biết rằng đâu đó trong cái tháp canh này chính là Lãnh chúa Bradburn, kẻ cai trị Belatona – thành phố mà Varden đã tấn công được vài tiếng đồng hồ.

Gầm lên một tiếng, Eragon rời ụ đá vụn, lao về phía đám lính. Chúng giật lùi lại phía sau, mặc cho tay vẫn giữ lấy thương và giáo nhắm vào cái lỗ toang hoác mà Saphira đã xé tan trên bức tường bên ngoài của toà lâu đài.

Cổ chân phải của Eragon bị trẹo khi chạm mặt đất. Nó ngã xuống bằng đầu gối và làm cho tay cầm kiếm chống xuống đất.

Một tên trong đám lính nắm lấy cơ hội, phóng ra khỏi đội hình, đâm ngọn giáo vào cái cổ để lộ ra của Eragon.

Eragon gạt nhát đâm bằng một cú lắc nhẹ cổ tay, vung thanh Brisingr nhanh hơn bất cứ người hay tiên nào có thể làm. Mặt tên lính lộ vẻ sợ hãi khi hắn nhận ra sai lầm của mình. Hắn cố gắng chạy trốn, nhưng trước khi hắn bước được một vài cen-ti-met, Eragon đã đâm thẳng vào bụng hắn.

Saphira phun ra một cột lửa vàng xanh, cô nàng nhảy lên sân ngay sau Eragon. Rùn thân xuống và duỗi chân ra khi cô ả hạ xuống nền đất lát đá. Sự va chạm làm rung chuyển cả cái sân. Rất nhiều mảnh vỡ thuỷ tinh từ những bức hình trang trí lớn và sặc sỡ trên tường tháp canh bật ra và xoay tròn như những đồng xu nảy trên một cái trống. Từ trên cao, hai cánh cửa chớp trên cửa sổ của toà tháp đóng mở ầm ầm.

Nàng tiên Arya theo sau Saphira. Mái tóc dài đen bồng bềnh trong gió cuốn quanh khuôn mặt góc cạnh của nàng khi nàng nhảy xuống đống đá vụn. Trên cổ và cánh tay của nàng lốm đốm những vệt máu bắn vào, lưỡi kiếm của nàng cũng đã uống máu. Nàng hạ xuống nhẹ nhàng trên nền đá.

Sự xuất hiện của nàng là sự cổ vũ cho Eragon. Nàng, không ngoài ai khác, chính là người mà nó và Saphira muốn chiến đấu kề bên. Eragon nghĩ rằng nàng chính là một người bạn chiến đấu hoàn hảo.

Nó nở nhanh một nụ cười hướng về phía nàng, và Arya cười đáp lại, một cách mạnh mẽ và vui sướng. Trong chiến đấu, thái độ kín đáo của nàng đã tan biến, thay vào đó là một sự cởi mở mà hiếm khi nàng thể hiện ở bất cứ nơi nào khác.

Eragon cúi xuống nấp sau tấm khiên khi một làn lửa xanh phụt ra giữa họ. Từ dưới vành của mũ bảo vệ, nó theo dõi Saphira tưới một cột lửa lên người đám lính đang co rúm lại vì sợ; tuy nhiên cột lửa chỉ chảy quanh chúng mà không tạo ra một thương tổn nào.

Hàng cung thủ trên tường thành bắn một loạt tên vào Saphira. Nhiệt độ bên trên cô rồng quá cao khiến một nhúm tên bốc cháy giữa trời và vỡ vụn thành tro trong khi chùm tên còn lại bị các vòng bảo vệ bằng pháp thuật mà Eragon đặt quanh Saphira phá giải. Một mũi tên lạc bắn ngược lại vào khiên của Eragon, tạo ra một tiếng ầm vang vọng, và hằn một vết lõm sâu trên khiên.

Chùm lửa đột nhiên cuốn lấy ba tên lính, kết liễu chúng nhanh chóng đến nỗi chúng thậm chí không có thời gian kịp kêu lên một tiếng. Những tên lính khác co cụm lại tại trung tâm vòng tròn lửa, mũi thương và giáo của chúng ánh lên sắc xanh của ngọn lửa.

Dù cố gắng đến mấy, cô rồng cũng không thể làm tổn hại đến những kẻ còn lại. Cuối cùng cô nàng đành bỏ cuộc và đóng miệng lại một cách dứt khoát. Ngọn lửa biến mất để lại khoảng sân yên lặng như tờ.

Cũng như vài lần trước đó, Eragon nghĩ rằng kẻ mà đã phù phép bảo vệ cho đám lính ắt hẳn là một pháp sư lão luyện và mạnh mẽ. Liệu có phải là Murtagh không nhỉ? Eragon tự hỏi. Nếu đúng như vậy, vì sao anh ta và Thorn không ở đây để bảo vệ Belatona? Không phải Galbatorix muốn kiểm soát những thành phố của lão ư?

Eragon xông lên phía trước, và chỉ với một nhát kiếm đã chém bay cả tá mũi giáo, dễ dàng như việc nó nhổ hạt lúa mạch khi còn bé vậy. Eragon chém ngang ngực tên lính gần nhất, xuyên qua lớp áo giáp như thể nó chỉ là một thứ vải mỏng manh nhất. Một tia suối máu phun lên. Rồi nó đâm tên lính tiếp theo và dùng khiên hất vào tên lính phía bên trái, khiến bay hắn về phía ba tên lính khác, khiến bọn chúng ngã lăn lông lốc.

Phản ứng của đám lính có vẻ khá chậm chạp và vụng về so với Eragon, nên nó thậm chí chẳng hề nhận chút thương tổn nào khi xuyên qua đội ngũ và hạ gục chúng.

Saphira tấn công kịch liệt vào đám lính bên trái Eragon, hất tung những tên lính lên trời với cặp móng vuốt đồ sộ, quất chúng bằng cái đuôi đầy gai và cắn giết chúng chỉ với một cú lắc đầu. Trong khi đó, tại phía bên phải, Arya di chuyển nhanh đến nỗi chỉ để lại bóng mờ, mỗi lần kiếm của nàng vung lên lại là một lần báo hiệu cái chết đến cho một tên nô bộc của Đế quốc. Khi Eragon đang xoay tròn để gạt đi hai mũi thương, Eragon nhận thấy Blödhgarm - tiên tộc phủ đầy lông - đang đứng gần đó cùng với mười một vị tiên tộc khác – những người có nhiệm vụ bảo vệ hắn và Saphira.

Xa hơn ở phía sau, các thành viên Varden tràn vào sân từ những lỗ hổng trên tường thành. Nhưng họ chưa dám tấn công vì chiến đầu gần Saphira rất nguy hiểm. Và chẳng ai trong số Saphira, Eragon và các thần tiên cần đến sự trợ giúp để xử lý đám lính này.

Trận chiến nhanh chóng chia cắt Eragon và Saphira, đưa họ tới hai đầu sân. Tuy vậy, Eragon không lo. Dù không có lá chắn phép thuật, Saphira vẫn thừa khả năng một mình hạ gục một nhóm lớn hai mươi ba mươi tên lính.

Một ngọn giáo phóng thẳng vào khiên của Eragon, làm bầm vai nó. Quay mặt về phía kẻ vừa phóng giáo – một gã mặt sẹo to lớn và thiếu mất mấy cái răng cửa dưới – Eragon lao về phía hắn. Gã cố gắng rút thanh chuỳ thủ đeo ở thắt lưng để chống cự. Vào thời khắc cuối cùng, Eragon xoay người, kéo căng cánh tay và ngực, dùng phần vai đang bị đau nện thẳng vào xương ức của gã mặt sẹo.

Lực lượng của vụ va chạm lớn đến nỗi khiến cho tên lính phải giật lùi lại phía sau vài mét, ngã quỵ xuống và lấy tay ôm ngực mà chết.

Sau đó, một cơn mưa tên đen ngòm bay xuống, giết hoặc làm bị thương vô số tên lính. Eragon né khỏi đám tên và dùng khiên che kín người, dù cho nó có tự tin rằng sẽ được phép thuật bảo vệ. Cẩn tắc vô áy náy, vì Eragon chẳng bao giờ biết được liệu có một tên pháp sư phe địch nào đó sẽ bắn một mũi tên ma thuật đủ sức mạnh xuyên thủng vòng bảo vệ pháp thuật.

Một nụ cười cay đắng hiện trên môi Eragon. Đám cung thủ phía trên kia đã nhận ra rằng hy vọng chiến thắng duy nhất của chúng là bằng cách nào đó phải giết chết Eragon và tiên tộc, bất chấp việc chúng phải hi sinh bao nhiêu người đi chăng nữa.

Quá chậm rồi, Eragon thích thú nghĩ thầm. Bọn mi đáng nhẽ ra phải rời bỏ Đế quốc khi còn có cơ hội chứ.

Trận mưa tên dữ dội đã cho Eragon thời gian nghỉ ngơi, một điều mong còn không được. Chiến dịch tấn công thành phố bắt đầu từ lúc bình mình, và kể từ lúc đó đến giờ nó cùng Saphira đã chiến đấu ở tiền tuyến.

Ngay khi các mũi tên ngưng lại, Eragon chuyển thanh Brisingrsang tay trái, cầm lấy ngọn giáo của một tên lính và phóng về phía đám cung thủ ở trên cao 12m. Eragon nhận ra rằng rất khó để ném ngọn giáo một cách chính xác nếu không có sự luyện tập chăm chỉ. Ném hụt tên lính mà Eragon nhắm tới cũng không có gì nhưng nó rất ngạc nhiên khi không phi trúng bất cứ tay cung nào trên tường thành. Ngọn giáo bay qua đầu đám cung thủ và vỡ vụn khi đập vào tường thành phía trên. Đám cung thủ cười lăn lộn chế nhạo Eragon.

Một chuyển động nhanh vụt qua khiến Eragon chú ý. Nó chỉ kịp nhìn thấy Arya phi ngọn giáo về phía đám cung thủ, xuyên qua hai tên đang đứng gần nhau. Sau đó, Arya dùng thanh kiếm chỉ vào đám cung thủ và thét: “Brisingr!” và ngọn giáo bùng lên ngọn lửa màu xanh ngọc.

Đám cung thủ lùi lại tránh xa những cái xác cháy đen. Chúng chạy trốn khỏi tường thành, chen chúc nhau chạy qua những cánh cửa dẫn đến những tầng cao hơn của lâu đài.

“Không công bằng,” Eragon nói. “Tôi không thể sử dụng câu chú đó mà không khiến kiếm của tôi bốc cháy như lửa trại.”

Arya nhìn nó một cách hứng thú.

Trận chiến kéo dài thêm vài phút nữa, cho đến khi những tên lính cuối cùng hoặc đầu hàng hoặc cố gắng tháo chạy.

Eragon mặc cho năm tên lính phía trước bỏ chạy, vì biết rằng chúng cũng chẳng đi được xa. Sau khi kiểm tra nhanh những cái xác nằm ngổn ngang xung quanh xem chúng đã thực sự chết chưa, nó quay lại nhìn qua sân. Một vài thành viên Varden đã mở được cổng thành ngoài và đang vác một súc gỗ công phá cổng thành đi qua con phố dẫn tới lâu đài. Một số người khác đang tập trung thành những hàng ngũ rời rạc ở ngay cạnh cổng vào, chuẩn bị sẵn sàng để tiến vào lâu đài và đối đầu với đám lính phía trong. Trong số đó, Roran – anh họ của Eragon - đang làm vài động tác với cây búa thân thiết của mình trong khi đang chỉ huy đám lính dưới quyền. Ở phía cuối sân, Saphira cúi người bước qua những xác chết đã bị giết dưới tay nó, khu vực xung quanh cô nàng trông chả khác gì lò sát sinh. Máu bám lên những chiếc vảy ngọc, những chấm máu đỏ hoàn toàn tương phản với màu xanh ngọc đẹp đẽ trên cơ thể rồng. Saphira quay đầu gầm chiến thắng, nhấn chìm tiếng la hét trong thành phố bằng tiếng gầm đầy dữ tợn của mình.

Sau đó, từ trong lâu đài, Eragon nghe thấy tiếng va chạm giữa xích và bánh răng vang lên, theo sau là những tiếng kéo mở kẽo kẹt của những thanh xà làm bằng gỗ nặng. Âm thanh đó khiến mọi người nhìn chằm chằm về phía cánh cửa tháp canh.

Với một tiếng nổ khô khốc, cánh cửa mở ra. Một làn khói dày đặc cuồn cuộn bốc ra ngoài từ những bó đuốc bên trong, khiến những thành viên Varden đứng gần nhất ho sặc sụa và phải che đi khuôn mặt. Từ một nơi nào đó trong đám khói mờ mịt, vang lên tiếng móng ngựa bọc sắt gõ lên đá lát đường; sau đó là một ngựa một người phi nước đại xông ra từ giữa đám khói. Ở tay trái, tên kị sĩ cầm một thứ mà lúc đầu Eragon nghĩ là một cây thương bình thường, nhưng rất nhanh sau đó nó nhận ra rằng cây thương đó làm bằng một vật liệu kì lạ màu xanh lá cây, lưỡi thương có ngạnh và hình dáng lạ lùng. Thứ ánh sáng mờ mờ và không bình thường toả ra ở trên đầu ngọn thương đã chứng tỏ sự hiện diện của pháp thuật.

Tên kỵ sĩ giật mạnh dây cương ngựa, chạy về phía Saphira. Cô ả đứng lên bằng hai chân sau, chuẩn bị tung một cú chém kinh hoàng, huỷ diệt bằng bộ vuốt phải của mình.

Lo lắng luẩn quẩn trong đầu Eragon. Tên kỵ sĩ quá tự tin vào bản thân, cây thương đó cũng quá khác thường, quá kỳ quái. Dù cho lá chắn pháp thuật sẽ bảo vệ cô rồng, nhưng Eragon chắc chắn một điều rằng Saphira đang bị nguy hiểm trí mạng.

Mình sẽ không thể tới kịp để giúp nó, Eragon nhận ra. Nó xâm nhập vào trí óc gã kỵ sĩ, nhưng tên kị sĩ quá tập trung vào nhiệm vụ của mình đến nỗi chẳng thèm để ý đến sự hiện diện của Eragon, và chính sự tập trung cao độ đó đã ngăn chặn việc Eragon xâm nhập được vào ý thức của hắn. Rút ý thức trở lại, Eragon nhớ lại 6 từ trong ngôn ngữ cổ xưa, niệm thành một câu thần chú đơn giản để chặn lại con ngựa chiến đang phi nước đại kia. Eragon biết rằng sẽ là vô vọng thôi – vì gã kỵ sĩ kia nếu không phải là một pháp sư thì hắn chắc chắn cũng đã có sự chuẩn bị từ trước nhằm chống lại sự tấn công bằng pháp thuật – nhưng Eragon không định đứng yên trong khi tính mạng của Saphira đang bị đe doạ.

Eragon hít một hơi thật sâu. Nó nhắc mình nhớ lại cách phát âm chính xác của một vài âm khó trong cổ ngữ. Rồi nó mở miệng đọc câu thần chú.

Dù Eragon đã nhanh, nhưng các thần tiên còn nhanh hơn. Trước khi Eragon kịp thốt ra một từ, những tiếng niệm chú trầm thấp vang lên phía sau, những giọng nói rì rầm tạo nên một âm điệu chói tai và gây hoang mang.

“Mäe-” Eragon cố gắng thốt lên, và rồi phép thuật của những thần tiên cũng có hiệu quả.

Khung cảnh phía trước con ngựa xoay tròn và biến đổi, những mảnh nhỏ thuỷ tinh chảy như nước. Một vết nứt dài xuất hiện trên mặt đất, để lộ ra một kẽ hở toang hoác sâu thăm thẳm. Hí vang lên một tiếng, con ngựa lao thẳng xuống cái cái hố khiến cho hai cái chân trước của nó vỡ vụn.

Khi người và ngựa ngã xuống, gã kỵ sĩ trên lưng ngựa vẫn cố nhấc tay về phía sau và ném cây thương đang rực sáng về phía Saphira.

Saphira không thể chạy. Cô nàng cũng không thể tránh. Cô rồng đành vung chiếc móng lên, cố gạt đi cây thương đang lao đến. Nhưng cô nàng đã đỡ trượt – chỉ trượt có vài cen-ti-met thôi – và trong kinh hoàng Eragon nhìn chăm chăm cây thương cắm ngập hẳn một mét vào ngực Saphira, ngay bên dưới xương đòn.

Một cơn thịnh nộ bao trùm lấy tâm trí Eragon. Nó cố dùng hết tất cả số năng lượng dự trữ có thể điều động từ cơ thể, từ trong viên ngọc ở chuôi Hoả kiếm, từ trong mười hai viên kim cương được giấu trong Đai lưng của Beloth Thông Thái đang đeo quanh eo, từ lượng dự trữ khổng lồ trong chiếc nhẫn Aren của tiên tộc đeo trên bàn tay phải – nhằm chuẩn bị tiêu diệt gã kỵ sĩ, bất chấp mọi nguy hiểm.

Tuy nhiên, Eragon đã phải dừng lại khi Blödhgarm xuất hiện, leo qua cái chân trước bên trái của Saphira. Blödhgarm lao vào tên kị sĩ như thể một con báo đang vồ lấy một con nai. Bằng một cú vặt cổ hung tợn, hắn xé toang cổ họng gã kị sĩ bằng những chiếc răng dài trắng hếu.

Một tiếng thét tuyệt vọng đến tột cùng phát ra từ một cánh cửa sổ phía trên lối vào pháo đài, tiếp theo đó là một vụ nổ lớn làm bắn tung những những khối đá trong lâu đài, rơi vào ngay giữa chỗ các thành viên Varden đang tập hợp, nghiền nát tay chân và thân thể họ như thể nghiền nát những cành cây khô.

Eragon mặc kệ trận mưa đá đang trút xuống chiến trường mà chạy về phía Saphira, cũng chẳng để ý tới Arya và những hộ vệ đang chạy theo sau. Những tiên tộc khác ở gần Saphira hơn, đã bao quanh nó, xem xét cây thương đang nhô ra từ ngực cô rồng.

“Vết thương nghiêm trọng thế nào – Liệu Saphira – ” Eragon nói. Nó lo lắng đến nỗi không thể nói hết câu và nóng lòng được trò chuyện bằng ý thức với Saphira, nhưng một khi mà mấy tên pháp sư địch còn có thể ẩn nấp quanh đây thì nó không dám liên lạc bằng ý thức với Saphira, vì lo sợ rằng chúng sẽ xâm nhập vào được ý thức của Saphira để do thám ý nghĩ hoặc thậm chí kiểm soát thân thể con rồng.

Sau những giây phút chờ đợi tưởng như vô tận, Wydren, một trong số các tiên tộc lên tiếng: “Ngài nên cảm ơn số phận, thưa Khắc tinh của Tà thần. Mũi thương không đâm vào các tĩnh mạch và động mạch chính trên cổ Saphira. Nó chỉ gây tổn thương lên các cơ, mà cơ thì chúng tôi có thể chữa trị được.”

“Các ngài rút mũi thương ra được không? Liệu nó có bị phù phép để...”

“Chúng tôi sẽ chú ý tới việc này, thưa Khắc tinh của Tà thần.”

Trang nghiêm như các linh mục đứng trước bàn thờ Chúa, tất cả các thần tiên, trừ Blödhgarm, đặt các ngón tay lên ngực Saphira và cất tiếng hát, như lời thì thầm của gió phiêu du qua rặng liễu. Họ hát về sự ấm áp và sinh sôi, họ hát về cơ bắp, gân và dòng máu nóng và hát về nhiều điều bí ẩn khác. Có lẽ phải bằng một nghị lực ghê gớm lắm Saphira mới có thể duy trì một tư thế trong suốt quá trình niệm chú, dù cho mỗi giây trôi qua cơ thể cô rồng lại run lên bần bật. Một dòng máu chảy dài xuống ngực Saphira từ nơi ngọn thương cắm vào.

Khi Blödhgarm tiến về chỗ Eragon, nó liếc nhìn ông ta. Máu khô làm lớp lông trên cằm và cổ ông bết lại, khiến bộ lông đổi màu từ xanh đen sang màu đen thẫm.

“Cái gì kia?” Eragon hỏi, chỉ vào ngọn lửa vẫn còn đang nhảy múa trên cửa sổ phía trên.

Trước khi trả lời, Blödhgarm liếm môi, để lộ ra những cái răng nanh giống loài mèo. “Ngay trước khi hắn chết, tôi đã xâm nhập vào trí óc tên lính, và qua đó, là trí óc của tên pháp sư đã giúp đỡ hắn.”

“Ông đã giết tên pháp sư đó?”

“Nói đúng ra là tôi buộc hắn tự vẫn. Thông thường, tôi không hay hành động quá khích như vậy, nhưng tôi... giận quá.”

Eragon tiến lên phía trước, tự mình kiểm tra vết thương khi Saphira thốt ra một tiếng rên rỉ dài, trầm thấp trong lúc mũi thương bắt đầu trượt khỏi ngực cô rồng mà không cần ai động tay vào. Mí mắt cô rồng run rẩy, và cô thở dốc liên tục trong khi đoạn thương cuối cùng dài mười lăm cen-time được rút ra khỏi cơ thể. Cái mũi thương đầy gai tỏa ra quầng sáng xanh ngọc, rơi xuống mặt đất và nẩy lên trên nền đá lát, nghe như thể nó làm bằng gốm chứ không phải kim loại.

Khi các thần tiên ngừng hát và nhấc tay khỏi Saphira, Eragon chạy vội đến cô rồng và sờ vào cổ cô nàng. Eragon đã muốn an ủi cô nàng, muốn kể cho Saphira biết nó đã sợ như thế nào, muốn liên hệ bằng ý thức với cô. Nhưng thay vào đó, Eragon chỉ nhìn vào đôi mắt sáng xanh kia và hỏi, “Em có ổn không?” Những từ ngữ mà dường như chẳng đáng kể nếu so với những cảm xúc mãnh liệt của nó.

Saphira đáp lại bằng một cái chớp mắt, rồi cúi đầu xuống và mơn trớn khuôn mặt Eragon bằng một một hơi thở nhẹ nhàng ấm áp từ hai lỗ mũi.

Eragon mỉm cười, rồi quay về phía các vị tiên tộc và nói, “Eka elrun ono, älfya, wiol förn thornessa,” cảm ơn sự giúp đỡ của họ bằng cổ ngữ. Các tiên tộc tham gia việc chữa trị, kể cả Arya, cúi đầu, uốn éo tay phải của họ trước ngực – một cử chỉ thể hiện sự tôn trọng của tiên tộc. Eragon nhận ra rằng hơn nửa số tiên tộc được giao trọng trách bảo vệ đều trở nên xanh xao, yếu ớt, đứng không vững.

“Hãy lui về và nghỉ ngơi đi,” Eragon nói với họ. “Nếu ở lại các ngài sẽ chỉ khiến chính mình bị giết thôi. Đi thôi, đây là mệnh lệnh!”

Dù Eragon biết chắc rằng họ không muốn đi, nhưng bảy tiên tộc đã trả lời nó, “Như mong ước của Ngài, thưa Khắc tinh của Tà thần,” và rời khỏi sân, sải chân bước qua những xác chết và đống gạch vụn. Ở họ luôn thấy được sự quý phái và hãnh diện, kể cả khi sức cùng lực kiệt.

Sau đó, Eragon tiến về phía Arya và Blödhgarm, bọn họ đang nghiên cứu cây thương với cùng một sự biểu cảm kì lạ trên hai khuôn mặt, cứ như thể hai người không chắc phải phản ứng ra sao. Eragon ngồi xuống cạnh hai người, thật cẩn thận và không để bất kì bộ phận nào của cơ thể chạm vào cây thương. Eragon nhìn chằm chằm vào đường chạm khắc tinh tế xung quanh phía dưới của mũi thương. Mặc dù không chắc là tại sao, nhưng Eragon cảm thấy những đường chạm khắc này rất quen thuộc. Nửa phần màu xanh của ngọn thương được làm bằng một loại vật liệu không phải gỗ mà cũng chẳng phải kim loại; và một lần nữa cái thứ ánh sáng dịu nhẹ ấy nhắc Eragon nhớ tới những chiếc đèn không có lửa mà tiên tộc và người lùn sử dụng để thắp sáng các lối đi.

“Hai người có nghĩ đây là sản phẩm của Galbatorix không?” Eragon hỏi. “Có thể lão quyết định rằng nên giết Saphira và tôi hơn là bắt sống. Có lẽ lão tin rằng chúng tôi đã thực sự trở thành một mối đe dọa đối với hắn.”

Blödhgarm cười không hề thoải mái. “Tôi sẽ không tự lựa dối mình bằng những ảo tưởng như vậy, thưa Khắc tinh của Tà thần. Chúng ta chỉ là một mối bận tâm nhỏ đối với Galbatorix không hơn không kém. Nếu lão thật sự muốn hai người hoặc bất kỳ ai trong chúng ta chết, hắn chỉ cần bay tới từ Urubaen và trực tiếp giao chiến với chúng ta và chúng ta sẽ ngã xuống trước mặt hắn như lá rụng trươc cơn bão mùa đông. Bản thân có sức mạnh của những con rồng, không ai có thể chống cự lại lão. Hơn nữa, Galbatorix không dễ dàng thay đổi cách hành xử của mình. Có thể lão ta nổi giận, nhưng vốn xảo quyệt, và trên hết, là quả quyết. Nếu lão ta muốn sự phục dịch của 2 người, thì lão sẽ cố gắng làm cho bằng được, đến cái mức mà có thể coi như là sự ám ảnh, và không gì có thể ngăn lão lại, ngoại trừ bản năng tự bảo vệ của lão”.

“Trong bất kì hoàn cảnh nào,” Arya nói, “ cũng có thể khẳng định rằng thứ này không phải sản phẩm của Galbatorix. Nó là do chúng ta tạo ra.”

Eragon nhíu mày. “Chúng ta? Varden không làm ra thứ này.”

“Không phải Varden mà là thần tiên.”

“Nhưng...” nó dừng lại, cố tìm ra một cách diễn đạt thích hợp. “Nhưng không có tiên tộc nào đồng ý hợp tác với Galbatorix. Họ thà chết còn hơn...”

“Galbatorix chắc chắn không làm ra thứ này, mà kể cả có, lão cũng không bao giờ giao một thứ vũ khí hiếm và mạnh mẽ như thế này vào tay một kẻ thậm chí không thể giữ nó. Trong tất cả các thứ vũ khí chiến tranh trên khắp Alagaesia này, đây chính là thứ Galbatorix không muốn rơi vào tay chúng ta nhất.”

“Vì sao?”

Với một tiếng rên nhỏ trầm thấp, Blödhgarm nói, “Bởi lẽ, thưa Eragon Khắc tinh của Tà thân, đây là một Dauthdaert.”

“Và tên của nó là Niernen, Hoa phong lan,” Arya nói. Cô chỉ vào những đường chạm khắc trên lưỡi thương, những đường khắc mà Eragon sau đó đã nhận ra thực chất chỉ là những nét chạm khắc được cách điệu hoá từ hệ thống chữ viết của tiên tộc– những hình thù uốn lượn, quyện vào nhau và kết thúc bằng những cái dấu chấm dài, có hình như sợi gai.

“Một Dauthdaert?” Khi cả Arya và Blödhgarm đều nhìn một cách hoài nghi, Eragon nhún vai, xấu hổ vì sự thiếu sót của mình. Điều làm nó nản lòng chính là trong khi tiên tộc được học hỏi tri thức với những học giả uyên bác nhất của nòi giống họ từ thập kỉ này sang thập kỉ khác trong quá trình trưởng thành, thì ông cậu Garrow của nó thậm chí không dạy cho nó biết viết tên của mình, vì coi đó là việc chẳng có gì quan trọng. “Tôi chỉ mới đọc được một vài quyển sách tại Ellesméra thôi. Đó là cái gì vậy? Có phải nó được rèn trong giai đoạn Sự suy tàn của các kị sĩ không, và được dùng để chống lại Galbatorix và Những kẻ phản đồ?”

Blödhgarm lắc đầu. “Niernen đã xuất hiện từ rất rất lâu trước đó.”

“Dauthdaertya,” Arya nói. “được sinh ra từ nỗi sợ hãi và sự thù hận, đánh dấu những năm tháng cuối cùng của cuộc chiến giữa tiên tộc và loài rồng. Những thợ rèn và pháp sư tài giỏi nhất của chúng tôi đã tự tạo ra chúng từ những nguyên liệu mà đến giờ chúng tôi đã không còn hiểu được, phù phép chúng bằng những câu chú mà câu chữ của chúng đến nay chúng tôi không còn nhớ, và đặt tên chúng, tất cả 12 trong số chúng, theo những cái tên của những loài hoa đẹp đẽ nhất – một sự kết hợp vô cùng xấu xí – bởi vì chúng tôi tạo ra chúng không nhằm mục đích gì khác ngoại trừ một mục đích duy nhất: chúng dùng để giết chết những con rồng.”

Nỗi khiếp sợ bất ngờ bao trùm lấy Eragon khi nó nhìn chằm chằm vào cây thương đang phát sáng. “Chúng có làm được việc đó không?”

“Những người chứng kiến kể rằng máu rồng trút xuống từ trên trời cao như mưa rào mùa hạ.”

Saphira rít lên, lớn tiếng và sắc bén.

Eragon nhìn lại cô rồng trong chốc lát và nhìn thấy từ trong mắt cô những thành viên Varden vẫn đang giữ vững vị trí của họ trước tháp canh, chờ đợi cả hai tiếp tục dẫn đầu đợt tiến công.

“Chúng tôi đã nghĩ rằng tất cả Dauthdaertya đều đã bị tiêu hủy hoặc hỏng hóc đến mức không thể phục hồi được,” Blödhgarm nói. “Nhưng rõ ràng là chúng tôi đã lầm. Niernen bằng cách nào đó đã tới tay gia đình Waldgrave và họ đã giấu nó tại đây, trong thành Belatona này. Tôi đoán có thể khi chúng ta vượt qua tường thành, Lãnh chúa Bradburn đã mất hết can đảm, và hắn đã ra lệnh dùng thanh Niernen từ trong kho vũ khí nhằm chặn lại Ngài và Saphira. Chắc chắn Galbatorix sẽ giận dữ tột độ nếu biết rằng Bradburn đã cố ý giết hai người.”

Mặc dù hiểu được tình hình đang rất gấp rút, nhưng sự tò mò không cho phép Eragon rời đi ngay lúc này. “Dù đó có phải là Dauthdaetya hay không, thì hai người vẫn chưa giải thích tại sao Galbatorix không muốn chúng ta có thứ này.” Nó chỉ vào ngọn thương. “Điều gì khiến Niernen còn nguy hiểm hơn đống giáo mác đằng kia, hoặc thậm chí Bris...” nó ngậm miệng kịp thời trước khi thốt ra toàn bộ cái tên. “hoặc thanh kiếm của tôi?”

Arya trả lời nó. “Như cậu đã thấy đấy, nó không thể bị phá hỏng bằng những cách thức thông thường, không thể bị lửa xâm phạm, và hầu như hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của phép thuật. Dauthdaetya được thiết kế để không bị ảnh hưởng bởi bất cứ phép thuật nào mà loài rồng có thể sử dụng và cũng được dùng để bảo vệ người sử dụng nó khỏi viễn cảnh kinh hoàng trước thứ phép thuật mạnh mẽ, phức tạp, và không đoán trước được của loài rồng mang lại. Galbatorix có thể tạo nên nhiều vòng bảo vệ phép thuật cho Shruikan và chính lão, nhiều hơn bất cứ ai ở đại lục Alagaësia này, nhưng Niernen vẫn có thể xuyên thủng những sự phòng ngự đó cứ như thể chúng thậm chí còn không tồn tại.”

Eragon hiểu và nó thấy phấn chấn. “Chúng ta phải...”

Một tiếng thét ngắt lời nó.

Đó là một thứ âm thanh đột ngột, sắc lẻm, run rẩy, như thể kim loại cà vào đá. Âm thanh đó làm cho răng của Eragon run cầm cập và nó phải dùng tay che cả hai tai lại, nó nhăn mặt và xoay xung quanh để cố tìm được ra nơi phát ra âm thanh đó. Saphira ngẩng đầu dậy, và thậm chí trong tiếng ầm ĩ đó, Eragon vẫn nghe thấy tiếng cô rên rỉ vì đau đớn.

Eragon nhìn lướt qua cái sân hai lần trước khi nhìn thấy một đám bụi nhỏ bốc lên từ bức tường tháp canh từ một lỗ hổng rộng bằng một bàn chân bên dưới phần cửa sổ tối đen đã bị hủy hoại một phần khi Blöhgarm giết tên thuật sĩ. Tiếng rít càng lúc càng lớn, Eragon đành phải mạo hiểm bỏ một tay che tai để chỉ về phía lỗ hổng.

“Nhìn kìa!” nó hét lên với Arya, nàng gật đầu tỏ ý đã biết. Nó lại áp tay lên tai.

Không hề báo trước, âm thanh đột nhiên ngừng lại.

Eragon đợi một lúc, rồi từ từ hạ tay xuống. Lần đầu tiên Eragon mong sao thính giác của nó không nhạy cảm đến thế.

Đúng lúc đó, lỗ hổng mở rộng ra – kéo dài đến vài mét – chạy dọc xuống bức tường của tháp canh. Như một tia chớp, lỗ hổng bất chợt vỡ ra và phá tan đá đỉnh vòm phía trên những cánh cửa của toà tháp, làm một trận mưa đá đổ xuống dưới sàn. Toàn bộ lâu đài đổ ầm ầm, và từ cái cửa sổ bị phá huỷ đến chỗ viên đá đỉnh vòm bị vỡ, mặt trước của toà tháp canh bắt đầu sụp xuống, nghiêng nghiêng về phía ngoài.

“Chạy!” Eragon hét về phía các thành viên Varden, mặc dù những người lính đã bỏ chạy tán loạn đến phía bên kia của cái sân, cố gắng trong tuyệt vọng nhằm thoát khỏi bức tường thành đang sụp đổ. Eragon bước một bước lên phía trước, mọi cơ bắp trên người nó căng cứng khi nó cố tìm kiếm bóng dáng Roran ở một nơi nào đó trong đám lính kia.

Cuối cùng, Eragon cũng nhìn thấy anh, bị kẹt phía sau nhóm lính cuối cùng rời khỏi cánh cổng, anh đang rống lên điên cuồng về phía đám lính, tiếng nói của anh bị nhấn chìm trong cơn hỗn loạn. Rồi bức tường đổ sụp xuống dưới vài mét – cách xa hơn phần còn lại của toà tháp – trút đá loạn xạ xuống Roran, làm anh lảo đảo mất thăng bằng, và khiến anh ngã ngược về phía sau, phía dưới cánh cửa đang đổ xuống.

Khi Roran đứng thẳng dậy, anh thấy Eragon, và từ cái nhìn đó Eragon cảm thấy được sự sợ hãi, vô vọng, rất nhanh sau đó là sự cam chịu, như thể Roran biết rằng, dù anh có chạy nhanh thế nào đi chăng nữa, anh cũng không thể kịp thời đến được nơi an toàn.

Roran nở một nụ cười nhăn nhúm.

Và bức tường sập xuống.

“Không!” Eragon hét lên khi bức tường tháp canh ầm ầm đổ xuống, chôn vùi Roran và năm người khác dưới đống gạch đá cao sáu mét, và phủ một lớp bụi đen ngòm lên sân.

Tiếng hét của Eragon lớn đến nỗi khiến cho giọng cậu vỡ ra và một dòng máu tanh nồng như mùi đồng trào lên trong cuống họng. Eragon hít một hơi, rồi một hơi nữa, ho hắng.

“Vaetna,” Eragon hổn hển nói và vẫy tay. Màn bụi xám dày đặc tản ra mang theo tiếng động như tiếng lụa sột soạt, khiến cho cảnh vật ở giữa sân lại trở nên rõ ràng. Quá lo lắng cho Roran, Eragon không hề để ý tới việc câu thần chú đã lấy đi bao nhiêu sức mạnh từ cậu.

“Không, không, không, không,” Eragon thều thào. Anh ấy không thể chết. Anh ấy không thể, không thể, không thể ... Như thể nếu cứ lặp đi lặp lại như vậy sẽ khiến điều ấy thành sự thật, Eragon cứ tiếp tục lẩm nhẩm cụm từ đó trong đầu. Nhưng cứ với mỗi lần lặp lại, lời thì thầm này như một lời cầu nguyện hơn là một lời tuyên bố hay hy vọng.

Đằng trước cậu, Arya và các chiến binh Varden khác đứng ho sặc sụa và dùng tay chùi mắt. Nhiều người cúi gập xuống, như thể đang chờ đợi một vụ nổ; còn những người khác thì nhìn chằm chằm vào mặt trước của cái tháp canh đã bị tàn phá. Những viên đá vỡ ra từ toà tháp trút xuống khoảng giữa của sân, làm cảnh vật tối sầm lại. Hai căn phòng rưỡi ở tầng hai tháp canh và một căn phòng ở tầng ba – căn phòng nơi tên pháp sư đã bị kết liễu bằng một cách thức quá tàn nhẫn – lộ ra ngoài. Những căn phòng và đồ đạc bên trong dường như bẩn thỉu và có vẻ tồi tàn hơn dưới ánh nắng mặt trời. Bên trong, nửa tá lính được trang bị với những cái nỏ tiễn đang cố bò lại phía sau khi chỗ đứng bị sụp xuống. Chúng xô đẩy nhau chạy nhanh qua các cánh cửa ở đầu kia của những căn phòng và biến mất trong tháp canh.

Eragon cố ước tính trọng lượng của một khối đá trong cái đống đá vụn kia; chắc khoảng vài trăm cân. Nếu cậu, Saphira và các tiên tộc cùng hợp tác, chắc chắn rằng họ có thể dùng pháp thuật để di chuyển những tảng đá này, nhưng việc đó sẽ khiến họ kiệt sức và dễ gặp nguy hiểm. Hơn nữa, để làm được điều đó cũng tốn rất nhiều thời gian. Trong chốc lát, Eragon nghĩ tới Glaedr – một con hoàng kim long có thừa sức mạnh để nâng toàn bộ đống đá kia cùng một lúc – nhưng hoàn cảnh thì quá gấp rút và Eldunari của Glaedr phải tốn quá nhiều thời gian mới có thể khôi phục lại sức mạnh. Eragon biết rằng trong bất kỳ trường hợp nào cũng không thể thuyết phục Glaedr nói chuyện chứ đừng nhắc đến việc nhờ cậu đi cứu sống Roran và những chiến binh khác.

Và rồi Eragon hình dung lại lúc Roran xuất hiện ngay trước khi thân ảnh của anh bị trận mưa đá và bụi khủng khiếp che khuất đi, lúc đó anh đang đứng ngay dưới mái hiên của cổng tháp canh. Chợt giật mình, Eragon nhận ra cậu cần phải làm gì.

“Saphira, giúp họ!” Eragon hét lên khi cậu quẳng khiên đi và nhảy bổ về phía trước.

Ở phía sau, cậu nghe thấy tiếng Arya nói gì đó bằng cổ ngữ – một câu ngắn, hình như là “Giấu nó đi!”. Rồi sau đó cô chạy theo hướng Eragon, lăm lăm thanh kiếm trong tay ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

Khi tới chân đống đá vụn, Eragon nhảy lên cao hết mức có thể. Bằng một chân, cậu hạ xuống mặt nghiêng của một tảng đá rồi lại nhảy lên từ chỗ này sang chỗ khác, như một con dê núi đang nhảy nhót trên vách núi. Cậu ghét phải mạo hiểm động đến các khối đá, nhưng trèo lên đó là cách nhanh nhất để đến nơi cần đến.

Với một cú nhảy cuối cùng, Eragon đã lên được tầng 2, tiếp tục băng ngang qua căn phòng. Cánh cửa trước mặt bị hất tung ra với một lực mạnh tới nỗi làm bay cả chốt cửa và bản lề, và khiến cảnh cửa bay đập vào bức tường hành lang phía dưới, và khiến cho những mảnh gỗ sồi của tấm cửa vỡ tung toé.

Eragon chạy nhanh dọc hành lang. Cậu thậm chí không thể nghe rõ những tiếng bước chân và tiếng hít thở của mình , như thể tai cậu chứa đầy nước.

Cậu chạy chậm lại khi gần cánh cửa mở. Qua đó, cậu nhìn thấy một căn phòng trong đó có 5 người có vũ trang đang chỉ trỏ vào một tấm bản đồ và cãi vã. Chẳng ai trong số chúng phát hiện thấy Eragon.

Eragon tiếp tục chạy.

Cậu tăng nhanh tốc độ ở một khúc ngoặt đến nỗi va phải một tên lính đang đi theo hướng ngược lại. Eragon nổ đom đóm mắt khi trán đập vào rìa khiên của tên lính. Cậu lao dính vào tên lính, hai người quần thảo tới lui dọc theo hành lang như thể hai vũ công say rượu.

Tên lính thốt lên một câu chửi thề khi hắn đang cố lấy lại thăng bằng. “Mày có vấn đề gì vậy hả thằng trời đánh thánh vật này...” hắn nói, và sau đó khi nhìn thấy khuôn mặt của Eragon, đôi mắt hắn mở to ra. “Mày!”

Eragon nắm bàn tay phải lại và đấm thẳng vào phần bụng ngay dưới xương sườn hắn. Cú đấm khiến hắn bay lên, đập thẳng vào trần nhà. “Đúng là tao,” Eragon đáp lời khi tên lính ngã rầm xuống nền nhà, bất động.

Eragon tiếp tục chạy dọc hành lang. Từ lúc bước vào tháp canh, nhịp tim vốn đã nhanh của cậu dường như còn dồn dập thêm gấp đôi, như thể trái tim cậu như đang muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.

Nó ở đâu nhỉ? Eragon thầm nghĩ, phát cuồng lên khi liếc nhìn qua một cảnh cửa khác mà vẫn chỉ thấy một căn phòng trống không.

Cuối cùng, tại phía cuối của một lối đi bên cạnh dơ dáy, cậu nhìn thấy một cầu thang uốn lượn. Nhảy năm bậc thang một lúc và không quan tâm tới sự an toàn của bản thân Eragon cứ thế phóng thẳng xuống tầng một, và chỉ dừng lại để đẩy một tên cung thủ đang sững người vì giật mình sang một bên.

Những bậc thang kết thúc, và cậu bước vào một căn phòng vòm cao mang dáng dấp của nhà thờ ở Dras-Leona. Cậu quay người nhìn quanh và nhanh chóng thu thập ấn tượng: khiên, vũ khí và cờ hiệu đỏ treo trên 4 bức tường; những ô cửa sổ hẹp nằm sát trần nhà; những ngọn đuốc được treo trên những giá đỡ bằng sắt; những lò sưởi trống vắng, những chiếc bàn dài tối màu để dọc hai bên căn phòng; một cái bục ở đầu phòng, tại đó một người đàn ông râu dài, trùm áo choàng đang đứng trước một chiếc ghế tựa. Eragon đang ở trong sảnh chính của toà lâu đài. Phía bên phải, giữa cậu và những cánh cửa dẫn tới lối vào tháp canh, là một đội quân khoảng năm mươi tên lính hoặc nhiều hơn. Sợi chỉ vàng trên quân phục chúng tỏa sáng lấp lánh khi chúng quay người nhìn cậu với vẻ ngạc nhiên.

“Giết hắn!” người đàn ông mặc áo choàng ra lệnh, giọng có vẻ run sợ hơn là kiêu ngạo. “Ai giết được hắn sẽ được một phần ba gia tài của ta! Ta hứa!”

Một nỗi thất vọng tràn trề lại dâng lên trong lòng Eragon lại một lần nữa bị chặn lại. Cậu rút Hoả kiếm khỏi vỏ, giơ cao lên quá đầu và hét lên: “Brisingr!”

Một trận gió thổi tới, ngọn lửa xanh ma mị bao bọc quanh lưỡi kiếm như một cái kén, chạy dọc lên mũi kiếm. Nhiệt lượng phát ra từ ngọn lửa làm ấm bàn tay, cánh tay và một bên mặt Eragon.

Sau đó Eragon hạ mắt nhìn những tên lính. “Tránh ra,” cậu gầm lên.

Những tên lính chần chừ trong thoáng chốc rồi lập tức xoay người bỏ chạy.

Eragon lao về phía trước, không quan tâm tới những kẻ đang hoảng loạn tụt lại phía sau một khoảng bằng chiều dài thanh kiếm. Một kẻ trượt chân và ngã trước mặt nó, Eragon nhảy hẳn qua người tên lính, thậm chí không hề chạm đến những cái tua trang trí trên mũ bảo vệ của hắn.

Những cơn gió tạo ra khi Eragon di chuyển đã kéo dài ngọn lửa trên mũi kiếm về phía sau, trông giống như bờm của một con ngựa đang phi nước đại.

Gập vai lại, Eragon húc tung cánh cửa đôi dẫn tới hành lang chính. Cậu lao qua một khuôn viên dài và rộng lớn, mà trong các góc của căn phòng đứng đầy quân lính – ngoài ra còn có đầy bánh răng, ròng rọc, và những thứ khí cụ khác dùng để nâng hạ các cánh cổng của toà tháp canh – và sau đó chạy hết tốc lực tới khung lưới sắt đang chặn đường tới nơi Roran đã đứng khi bức tường tháp canh sụp đổ.

Cái lưới sắt cong lại khi Eragon nện thẳng vào nó, nhưng như thế là chưa đủ để phá tan những thanh sắt này.

Cậu lùi lại một bước.

Một lần nữa Eragon lại tập trung năng lượng được cất giữ trong những viên kim cương trên thắt lưng – thắt lưng của Beloth Thông Thái – vào thanh Brisingr, dùng hết toàn bộ nguồn năng lượng dự trữ quý giá trong trong viên đá ở chuôi kiếm để tạo nên một ngọn lửa mạnh kinh người trên thân kiến. Hét lên một tiếng, Eragon đưa tay về phía sau lấy đà và chém thắng kiếm xuống khung lưới sắt.

Những tia lửa đỏ và cam bắn tung toé quanh người, làm thủng găng tay và áo ngoài, làm cho phần da thịt lộ ra của Eragon đau nhói. Một giọt sắt nóng chảy rơi xuống mũi giày, cậu phải lắc mạnh cổ chân để nó rớt xuống.

Với ba nhát chém một phần của khung lưới sắt rộng đủ cho một người chui lọt đổ xuống. Những đầu bị cắt xuống của cái lưới sắt toả sáng nóng rực, chiếu sáng một khoảng không gian bằng thứ ánh sáng dịu nhé của chúng.

Eragon để cho ngọn lửa từ thanh Hoả kiếm lụi dần khi cậu bước qua lỗ hổng vừa tạo ra.

Đầu tiên rẽ trái, rồi rẽ phải, và rồi lại rẽ trái, cậu chạy và thay đổi hướng đi liên tục được thiết kế để làm chậm bước tiến của quân địch trong trường hợp chúng muốn tiến vào tháp canh.

Khi rẽ vào khúc cua cuối cùng, Eragon nhìn thấy đích đến của mình: cái tiền sảnh chất đầy đá vụn. Kể cả với tầm nhìn xa của tiên tộc, cậu chỉ có thể nhìn thấy được những hình dạng lớn nhất trong bóng tối, vì những viên đá rơi xuống đã làm tắt hết đuốc trên tường. Cậu nghe tiếng thấy tiếng thở hổn hển và tiếng vật lộn kì quái, cứ như thể một con quái vật vụng về nào đó đang cố ngoi lên từ đống đá vụn.

“Naina,” Eragon lên tiếng.

Một đốm sáng xanh xuất hiện chiếu sáng xung quanh. Và đằng kia, phía trước cậu là Roran, người phủ đầy bụi, máu và mồ hôi, răng nhe ra gầm gừ một cách đáng sợ, lúc này đang vật lộn với một tên lính bên cạnh xác chết của hai tên khác.

Tên lính nheo mắt vì bị chói bất ngờ và Roran nhân cơ hội tên lính mất tập trung, vặn và đẩy người hắn xuống dưới đầu gối, và cướp lấy con dao ở thắt lưng hắn và chém xuống ngay dưới hàm tên lính.

Tên lính giãy lên đá hai nhát rồi sau đó nằm im.

Thở hổn hển, Roran đứng dậy khỏi xác tên lính, máu nhỏ từng giọt từ những ngón tay anh. Anh quay qua nhìn Eragon một cách đờ đẫn pha chút ngạc nhiên.

“Sao bây giờ em mới ...” anh nói, rồi nhắm mắt lại, ngã xuống bất tỉnh nhân sự.

Để bắt kịp Roran trước khi anh ngã xuống sàn, Eragon đành phải ngập ngừng buông thanh Brisingr. Thế rồi, chàng nhanh chóng nới rộng tay ra ôm trọn Roran, cùng lúc với tiếng vang khô khốc của thanh kiếm khi chạm vào đá.

“Cậu ấy bị thương nặng không?” Arya hỏi.

Thoáng ngạc nhiên khi nhận ra rằng nàng và Blödhgarm đã đứng đấy tự khi nào, Eragon lưỡng lự trả lời: “Tôi không nghĩ vậy.”

Chàng vỗ vào má Roran liên hồi để làm phai những vết bẩn trên mặt anh đi. Trong ánh xanh nhàn nhạt từ câu thần chú của Eragon, Roran lộ rõ vẻ hốc hác, đôi mắt của anh thâm quầng, còn đôi môi thì mang một mầu tím đậm, như thể chúng vừa được nhúng vào nước quả mọng vậy.

“Nào nào, dậy đi.”

Một vài giây sau, mí mắt của Roran khẽ giật giật; anh mở mắt ra và hoang mang nhìn Eragon. Cảm giác nhẹ nhõm trào dâng trong lòng Eragon, mãnh liệt đến nỗi chàng như có thể nếm được chúng. “Anh đã ngất đi được một lúc rồi,” chàng giải thích.

“À.”

Anh ấy còn sống! Eragon reo lên với Saphira, mạo hiểm tiếp xúc với cô nàng trong thoáng chốc.

Vẻ hân hoan của cô nàng cũng hiện lên rõ rệt. Tốt. Em sẽ nán lại đây và giúp các tiên khác dịch chuyển mấy tảng đá ra xa khỏi tòa kiến trúc. Nếu anh cần thì cứ thét lớn lên, em sẽ tìm cách tiếp cận.

Bộ giáp của Roran vang lên loảng xoảng khi Eragon giúp anh đứng dậy. “Những người khác thì sao?” Eragon hỏi, và ra dấu hướng về đống đổ nát.

Roran lặng lẽ lắc đầu.

“Anh chắc chứ?”

“Không một ai có thể sống sót dưới đó. Sở dĩ anh có thể trốn thoát là vì … là vì anh được cái mái hiên che bớt một phần.”

“Còn anh? Anh có sao không?” Eragon tiếp tục hỏi.

“Gì cơ?” Roran nhíu mày, có vẻ hơi tư lự, như thể dòng suy nghĩ còn chưa xuất hiện trong đầu anh. “Anh ổn … Có thể cổ tay đã đi tong rồi. Cũng không tệ lắm.”

Eragon liếc mắt đầy ẩn ý với Blödhgarm. Trên mặt gã tiên này phớt qua vẻ không hài lòng, nhưng gã cũng đến gần Roran và nhẹ giọng nói, “Nếu tôi được phép …” Gã vươn tay về phía cánh tay bị thương của Roran.

Trong khi Blödhgarm chữa trị cho Roran, Eragon nhặt thanh Brisingr lên rồi đứng phòng thủ cùng Arya tại lối vào, phòng trường hợp có tay lính cứng đầu nào đó thử tấn công.

“Xong cả rồi đấy.” Blödhgarm nói rồi quay đi. Roran thì đứng đó xoay cổ tay một vòng để thử các khớp nối.

Roran hài lòng rồi hạ tay xuống, cảm ơn Blödhgarm và lục lọi trong đống gạch vụn cho đến khi tìm được chiếc rìu chiến của mình. Anh sửa sang lại bộ giáp trên người và nhìn về hướng ra vào.

“Anh suýt khử được lãnh chúa Bradbum,” anh cố ra vẻ trầm ổn. “Anh nghĩ lão đã giữ chức vị này quá lâu rồi, và cần phải gác lại trách nhiệm thôi. Cô đồng ý không, Arya?”

“Tôi đồng ý,” nàng trả lời.

“Tốt lắm, thế ta hãy tìm cho ra tên già bụng phệ ấy; anh sẽ tặng cho lão vài nhát búa để tưởng niệm những người đã hy sinh hôm nay.”

“Lão đã ở trong đại sảnh vài phút trước,” Eragon nói, “nhưng em không nghĩ lão sẽ ở đấy để chờ ta đâu.”

Roran gật đầu. “Thế ta bắt đầu cuộc săn nào.” Dứt lời, anh lao về phía trước.

Eragon tay nắm chặt thanh Brisingr trong tư thế sẵn sàng, hủy chú thắp sáng và vội nối gót ông anh họ. Arya và Blödhgarm theo sát chàng hết mức mà cái hành lang ngoằn nghoèo này có thể cho phép.

Hành lang dẫn tới căn buồng ngủ đã bị bỏ hoang, cũng tương tự như phần đại sảnh trong lâu đài, nơi này từng có hàng tá binh lính và quan lại nhan nhản khắp chốn, nay chỉ còn sót lại mỗi cái mũ sắt lăn lóc trên sàn.

Eragon và Roran lướt qua bệ cẩm thạch, Eragon phải giảm tốc độ lại để Roran có thể bắt kịp. Họ đá bay cánh cửa phía bên trái và phóng thẳng lên cầu thang.

Tại mỗi tầng, họ dừng lại một lúc để Blödhgarm có thể dùng tinh thần lực truy tìm tung tích của Lãnh chúa Bradburn cùng tùy tùng, nhưng không tìm thấy gì cả.

Khi họ lên đến tầng thứ ba, Eragon chợt bắt được tiếng chân chạy loạn và thấy một chùm thương thình lình thọc mạnh ra từ phía cổng vòm, vào thẳng Roran. Những mũi thương xé toạt gò má và bắp đùi phải, cắt sượt qua đầu gối đầy những máu và máu của anh. Roran gầm vang lên như một con dã thú bị thương và dùng khiên húc thẳng vào đống thương ấy, cố dùng sức càn lên những bậc cuối cùng của cầu thang. Tiếng người thét lên liên hồi.

Phía sau anh, Eragon chuyển thanh Brisingr sang tay nghịch, đi vòng qua người anh họ, chộp lấy một cán thương và giật mạnh nó ra khỏi tay của tên đang giữ. Chàng xoay đầu thương lại, ném mạnh nó vào giữa đám lính lúc nhúc đứng tại cổng vòm. Một trong số chúng gào lên, và một lỗ hổng hiện ra giữa bức tường người ấy. Eragon tiếp tục lặp lại quá trình ấy cho đến khi số lượng chốt hôi cản đường giảm xuống rõ rệt, và Roran từng bước một đẩy lui chúng về phía sau.

Ngay khi Roran thành công dọn sạch cầu thang, mười hai tên lính còn lại liền tản ra theo chiều ngang của căn phòng có nhiều bao lơn, mỗi tên đều tìm chỗ thuận lợi để có thể vung vũ khí mà không bị cản trở. Roran lại gầm lên và bổ vào tên gần nhất. Anh gạt phăng thanh kiếm của tên lính đi, lui về sau thủ thế và phang một cú như trời giáng vào cái mũ của hắn, tiếng vang lớn như anh vừa đánh vào một cái bình sắt vậy.

Eragon lao ngang qua căn phòng và chặn hai tên lính đang đứng gần nhau lại. Chàng húc ngã chúng và phân thây hai tên chỉ với một cú chém bằng Brinsingr. Một chiếc rìu xoay tròn bay thẳng đến chàng, Eragon tránh được và đẩy văng một tên lính khỏi bao lơn trước khi hai tên khác kịp thời dùng lao đâm xuyên bụng chàng.

Còn Arya và Blödhgarm lại yên lặng di chuyển giữa đám đông một cách chết người. Vẻ uyển chuyển cố hữu của giống tiên khiến cảnh tượng đâm chém hiện tại trông như một vũ đài hơn là một tràng thảm sát.

Trong tiếng kim loại va nhau, tiếng xương gẫy lìa và tứ chi bay tứ tung, bốn người họ tiếp tục tiêu diệt số lính còn lại. Như thường lệ, trận chiến khiến Eragon phấn khởi hơn, cảm giác cứ như là bị tạt một xô nước lạnh vào người, và rồi những gì còn sót lại là sự thanh tỉnh không gì so sánh được.

Roran quỵ xuống và chống tay lên đầu gối, thở lấy thở để như vừa hoàn tất một cuộc đua.

“Được chứ?” Eragon hỏi, đồng thời đưa tay chạm vào những vết cắt trên mặt và đùi của Roran.

Roran thử dồn sức vào các vết thương ở chân một vài lần. “Anh cố được. Tìm lão Bradburn trước đã.”

Eragon dẫn đầu nhóm khi họ trở ra cầu thang và tiếp tục tiến lên tầng trên. Cuối cùng, sau năm phút tìm kiếm, họ phát hiện Lãnh chúa Bradbrum đang cố thủ tại tầng cao nhất trong một tòa pháo đài xa tít ở hướng Đông. Với một tràng thần chú, Eragon, Arya và Blödhgarm đã phá giải cánh cửa và toàn bộ các các món đồ trang trí đàng sau bức tường kia. Khi họ tiến vào trong, lũ tùy tùng cùng lính hộ vệ đã đứng chắn đông nghịt trước mặt lão Bradburn, vài tên trong bọn chúng đã bắt đầu run lẩy bẩy. Eragon khẽ thở phào nhẹ nhõm vì chỉ phải giết ba tên lính trước khi số còn lại buông vũ khí và khiên xuống đầu hàng.

Arya ung dung tiến đến trước mặt Lãnh chúa Bradbum, người vẫn một mực im lặng cho đến giờ, và nói, “Giờ thì, liệu ngài có ra lệnh cho binh lính của ngài giải giáp không? Tuy chỉ còn một số ít nhưng ngài vẫn có thể cứu mạng họ.”

“Ta sẽ không chấp nhận ngay cả khi có thể.” Giọng Bradbrum đầy sự căm thù cùng nhạo báng khiến Eragon suýt cho lão ăn một kiếm. “Ngươi sẽ không hưởng được gì từ ta, giống tiên. Ta sẽ không trao người của ta cho thứ hạ đẳng bẩn thỉu bất thường như ngươi. Cái chết sẽ là lựa chọn sáng suốt nhất. Và ngươi đừng nghĩ rằng ta sẽ nghe theo những lời mật ngọt kia. Ta thừa biết chúng bây đã liên kết với lũ Urgal, và ta thà tin vào con rắn kia hơn là thứ ăn nằm cùng bọn quái vật.”

Arya gật đầu và đặt tay lên mặt của Bradburn. Nàng khép mắt lại, và trong khoảng thời gian ấy, nàng và Bradbum trở nên bất động. Eragon liền xuất thần và cảm nhận được trận đấu giữa hai ý chí của họ khi Arya cố xuyên qua bức tường phòng thủ của Bradbum và xâm nhập vào tâm trí lão. Một phút sau, nàng thành công điều khiển lão, và rồi bắt đầu tra xét ký ức cho đến khi tìm được bản chất của lão.

Nàng thốt lên cổ ngữ và hạ một chú ngữ phức tạp để phá vỡ những bản chất ấy và khiến Bradbum ngủ say. Sau khi hoàn tất, đôi mắt của lão dần đóng lại và, với một tiếng thở hắt ra, lão ngã vào vòng tay của nàng.

“Ả đã giết ngài ấy!” Ai đó thét lên, và những tiếng nhốn nháo đầy sợ hãi bắt đầu lan tỏa khắp nhóm lính.

Ngay khi Eragon định trấn an bọn họ, chàng bỗng nghe tiếng kèn báo hiệu của quân Varden vang lên từ phía xa xa. Một lúc sau, tiếng kèn lại vang lên, gần hơn nhiều, vang lên lần nữa, và chàng có thể thề chắc rằng những tiếng động mờ nhạt ấy không phải là tiếng vui mừng chiến thắng vang vọng từ phần sân dưới kia.

Chàng bối rồi nhìn Arya. Rồi họ xoay người lại nhìn qua cửa sổ trên bức tường của căn phòng.

Tại hướng Tây và Nam là Belatona. Đó là một thành phố lớn và thịnh vượng, thành thị sầm uất nhất của Đế quốc. Gần lâu đài là những tòa kiến trúc được dựng lên bằng đá, với mái dốc cùng các cửa sổ nhô ra ngoài, trong khi xa hơn nữa là những dãy nhà có chất liệu từ gỗ và trát vữa. Nhiều ngôi nhà đang được cất dở bốc cháy ngùn ngụt vì lửa chiến tranh. Khói đen tỏa ra dày đặc trong không khí đủ để khiến mắt người ta cay xè và khan giọng.

Ở hướng Tây Nam, khoảng một dặm cách từ thành phố là trại dã chiến của quân Varden: những dãy lều xám được bện từ lông nối liền nhau được bao quanh bởi các dãy hào, một số nhà lều lớn cùng ngọn cờ hiệu chót vót trên đỉnh, và nối dài trên đất liền là hàng trăm người bị thương. Lều cứu thương vốn đã quá sức chứa từ lâu rồi.

Nhìn theo hướng Bắc, vượt qua các cảng và nhà kho là hồ Leona, một nơi rộng mênh mông và chứa đầy nước, thường lăn tăn những dãy sóng bạc.

Trên bầu trời là bức tường mây đen kịt từ phía Tây đang bao trùm cả thành phố, sẵn sàng bao bọc nó trong làn mưa nặng hạt bất cứ khi nào. Những ánh sáng xanh lóe lên và tắt lịm đây đó trong tâm bão, và tiếng trời gầm nổi lên như một con hung thú đang lồng lộn.

Nhưng Eragon lại không thể tìm thấy nới phát tiếng động thu hút chàng.

Chàng và Arya chạy vội đến cửa sổ hướng thẳng về phía hoa viên. Saphia, con người và các tiên vừa hoàn tất việc dọn dẹp những tảng đá cản đường. Eragon huýt sáo, và khi Saphira nhìn lên, chàng bắt đầu vẫy tay ra dấu. Cặp hàm dài của cô nàng nở một nụ cười đầy răng lởm chởm, và khịt một làn khói về phía chàng.

“Này! Có gì mới không?” Eragon hỏi lớn.

Một binh sĩ Varden đứng gần vách lâu đài giơ tay lên và chỉ về hướng Đông. “Hỡi Khắc tinh của Tà Thần! Hãy nhìn đi! Người mèo đang đến! Người mèo đang đến!”

Một cơn ớn lạnh bỗng chạy dọc sống lưng của Eragon. Chàng nhìn theo hướng chỉ của người lính và lần này chàng có thể thấy những bóng đen nhỏ đang tiến tới gần trên mảnh đất cách đây vài dặm, từ bờ bên kia của sông Jiet. Một số chạy bằng bốn chân và một số khác chỉ dùng hai chân, nhưng chúng ở quá xa để có thể xác định đó là người mèo.

“Có thể nào chăng?” Arya hỏi, ngỡ ngàng.

“Tôi không biết … Nhưng bất kể chúng là gì, ta sẽ được biết sớm thôi.”

Eragon đứng trên bục ở sảnh chính của tháp canh, ngay phía bên phải ngai vàng của Lãnh chúa Bradburn, tay trái cậu đặt ở núm tròn phía cuối chuôi thanh kiếm Brisingr vốn đã được bọc lại. Ở phía bên kia ngai vàng, là Jörmundur – tổng chỉ huy lão luyện của quân Varden – đang kẹp cái mũ giáp ở khuỷu tay. Mái tóc màu nâu của ông được bện ra sau, phần tóc mai đã điểm vài sợi bạc. Trên khuôn mặt khắc khổ hiện ra nét lãnh đạm và cẩn trọng của một người có rất nhiều trải nghiệm trong việc chờ đợi người khác. Eragon để ý thấy một đường máu nhỏ màu đỏ chạy dọc theo mặt dưới chiếc bao cổ tay bên phải của Jörmundur, nhưng Jörmundur không hề để ý đến nó.

Đang ngồi giữa là thủ lĩnh của họ, Nasuada, nàng thật lộng lẫy trong bộ váy màu vàng và xanh vừa mới thay chỉ ít phút trước đó. Nàng đã phải cởi bộ chiến y ra để thay vào một loại y phục khác cho phù hợp với phong thái của một nhà lãnh đạo. Dải băng đang quấn quanh bàn tay trái cho thấy nàng cũng đã bị thương khi chiến đấu,

Nasuada nói thì thầm chỉ đủ để cho Eragon và Jörmundur nghe thấy: “Nếu chúng ta có thể được họ trợ giúp...”

“Nhưng bọn họ sẽ muốn được báo đáp gì đây chứ?” Jörmundur hỏi. “Ngân sách của chúng ta sắp cạn, còn tương lai thì mù mịt.”

“Có thể họ không muốn gì hơn ở chúng ta ngoài cơ hội chống lại Galbatorix.” Nasuada nói mà gần như không hé môi. Rồi nàng dừng lại. “Nếu không thì chúng ta sẽ phải tìm những thứ khác ngoài vàng để thuyết phục họ gia nhập hàng ngũ chúng ta.”

“Tiểu thư có thể cho họ vài thùng mỡ(1).” Eragon nói, khiến Jörmundur cười phá lên và Nasuada cũng khẽ cười.

Cuộc trò chuyện thì thầm của họ kết thúc khi ba tiếng kèn trumpet vang lên từ bên ngoài sảnh chính. Một tiểu đồng tóc màu hoe mặc áo choàng dài có khâu phù hiệu của Varden – một con rồng trắng cầm một bông bồng bên trên một thanh kiếm đang chỉ xuống phía dưới một cánh đồng màu tía – bước những bước đều qua cánh cửa mở phía cuối của sảnh, gõ xuống sàn nhà với cái gậy nghi lễ của cậu. Bằng một giọng nói nhỏ nhẹ và trong trẻo, cậu thông báo: “Hoàng thân cao quý, Grimrr Halfpaw, Vua của ma mèo, Chúa tể của Lãnh địa Cô độc, Kẻ thống trị màn đêm, và Kẻ cô độc xin cầu kiến.”

Một danh hiệu thật kì quái: Kẻ cô độc, Eragon nói nhận xét của cậu với Saphira.

Nhưng cũng ổn đấy chứ, em nghĩ thế, cô nàng trả lời. Cậu có thể cảm nhận được sự thích thú của cô nàng, ngay cả khi cậu không nhìn thấy vì cô ả đang nằm cuộn lại một chỗ trong toà tháp canh.

Tiểu đồng bước sang một bên và Grimrr Halfpaw - trong hình dạng một con người - sải chân bước qua cánh cửa, ngay sát phía sau là bốn ma mèo đang bước đi nhẹ nhàng với những cái chân to và bờm xờm. Bốn ma mèo trông tương tự như Solembum, con ma mèo mà Eragon đã từng được thấy trước đó trong hình dáng động vật: vai to lớn và chân dài, một lớp lông màu đen ngắn trên cổ và vai, tai đầy lông, đuôi có đầu màu đen, phe phẩy một cách duyên dáng từ bên này sang bên khác.

Tuy nhiên, Grimrr Halfpaw lại trông không giống bất cứ người hay loài nào Eragon từng thấy. Cao khoảng 1m2, ông ta cao bằng một người lùn, nhưng không ai có thể nhầm lẫn ông ta với người lùn hay thậm chí một con người. Ông ta có một cái cằm nhọn, xương gò má rộng, và, bên dưới hàng lông mày dựng ngược là một cặp mắt xếch màu lục và hàng mi cong. Mái tóc đen bù xù che trước trán, trong khi ở hai bên và phía đằng sau, những sợi tóc bóng mượt thả dài xuống tận vai, khá giống với những cái bờm của mấy ma mèo tùy tùng.

Eragon không thể đoán nổi tuổi của vị vua mèo này.

Thứ đồ duy nhất mà Grimrr đang mặc là một cái áo không tay làm bằng da thô và một cái khố làm bằng da thỏ. Xương sọ của cả tá loài vật – chim, chuột và những con thú nhỏ khác – được treo đầy trên mặt trước áo, và chúng va vào nhau mỗi khi ông ta chuyển động. Một thanh chuỳ thủ đã được bọc lại thò ra từ một góc thắt lưng của cái khổ. Vô số những vết sẹo, mảnh và trắng, làm nổi bật lên làn da màu nâu hạt dẻ của ông, trông chúng như những vết xước trên mặt bàn gỗ đã qua nhiều lần sử dụng. Đúng như tên gọi(2), ông ta thiếu mất hai ngón tay trái, trông như thể chúng đã bị cắn đứt.

Dù diện mạo có nhiều nét thanh tú, nhưng có thể khẳng định chắc chắn rằng Grimrr là giống đực khi nhìn vào những khối cơ bắp rắn chắc, gân guốc ở ngực và cánh tay, chiếc hông thon và những cái sải chân mạnh mẽ khi ông ta thong dong đi dọc căn sảnh, tiến về phía Nasuada.

Dường như chẳng ai trong đám ma mèo nhận thấy ánh mắt của những người đang xếp thành hàng hai bên đường đi của chúng cho đến tận khi Grimrr đi ngang qua bà lang Angela, đang đứng cạnh Roran và tay đang đan một chiếc tất sọc bằng sáu cái kim.

Đôi mắt Grimrr nhíu lại khi nhìn thấy bà lang, và tóc ông ta dựng ngược lên giống như như bốn kẻ tùy tùng. Ông ta nhếch môi lên, để lộ ra cặp răng nanh trắng ởn và sắc nhọn. Và điều thật sự làm Eragon ngạc nhiên là ông ta lại rít lên giận dữ.

Angela ngước lên rời khỏi cái tất bà đang đan, nói một cách uể oải và xấc xược: “Chíp Chíp”.

Trong một thoáng Eragon tưởng lão ma mèo sẽ tấn công bà. Đám lông trên cổ và mặt Grimrr dựng đứng lên, lỗ mũi ông ta phập phồng và ông ta gầm gừ với bà mà không phát ra tiếng động. Những con ma mèo khác cúi thấp người, tai ép sát vào đầu, chuẩn bị nhảy xổ vào bà.

Eragon nghe thấy những tiếng lưỡi kiếm được rút ra khỏi vỏ vang vọng khắp sảnh đường.

Grimrr rít lên một lần nữa rồi quay người đi tiếp. Khi con ma mèo cuối cùng đi lướt qua Angela, nó giơ móng vuốt lên len lén vờn lấy sợi chỉ buông ra từ những cái kim đan của bà Angela, giống hệt cái cách mà một chú mèo nhà ham chơi vẫn thường làm.

Cả Saphira và Eragon đều bối rối. Chíp chíp là cái gì? Cô nàng hỏi.

Cậu nhún vai, quên mất là cô nàng không thể nhìn thấy cậu. Ai mà biết Angela đã làm hay nói cái gì cơ chứ?

Cuối cùng, Grimrr đến trước mặt Nasuada. Ông ta hơi cúi đầu, thể hiện sự tự tin vô cùng, thậm chí có phần ngạo mạn – một tính cách khá đặc trưng chỉ dành cho loài mèo, loài rồng và một vài phụ nữ thân phận cao quý.

“Tiểu thư Nasuada,” ông ta nói. Giọng nói của ông ta trầm thấp một cách đáng kinh ngạc, nghe na ná như tiếng gầm khẽ của một con mèo hoang hơn là giọng nói trong trẻo của một chú bé – hình hài mà hiện giờ ông ta đang có.

Nasuada cũng cúi đầu đáp lễ. “Vua Halfpaw. Varden chào đón ngài và những tộc nhân của ngài. Tôi phải xin lỗi ngài vì sự vắng mặt của đồng minh của chúng ta, Vua Orrin của Surda; mặc dù rất muốn nhưng ngài ấy không thể có mặt tại đây để tiếp đãi ngài được, bởi lẽ ngài ấy và binh lính của mình hiện giờ đang bận bảo vệ sườn phía tây quân ta khỏi sự tấn công của quân đội Galbatorix.”

“Tất nhiên rồi, thưa tiểu thư Nasuada,” Grimrr nói. Những chiếc răng sắc nhọn lóe lên khi ông ta lên tiếng. “Chúng ta không bao giờ được đưa lưng về phía kẻ thù.”

“Dù vậy...và vì nguyên nhân gì mà chúng tôi lại hân hạnh được đón tiếp cuộc viếng thăm đột ngột này của Ngài vậy, thưa Đức vua? Theo như tôi được biết, ma mèo thường được biết đến bởi sự bí ẩn và đơn độc, và bởi qua bao nhiêu năm ma mèo luôn đứng ngoài những cuộc xung đột, đặc biệt là kể từ sự suy tàn của các Kỵ sĩ. Thậm chí, trong suốt thế kỉ qua, có người còn nói rằng giống loài của Ngài đã trở thành một câu chuyện thần thoại hơn là một sự thực. Vậy thì, tôi xin mạn phép hỏi ngài vì lí do gì mà Ngài lại chọn thời điểm này để xuất hiện?”

Grimrr nâng cánh tay phải lên và chỉ vào Eragon bằng một ngón tay cong queo với cái móng tay trông như móng vuốt của loài mèo.

“Vì cậu ấy,” ma mèo gầm lên. “Một thợ săn sẽ không tấn công một thợ săn khác cho đến khi kẻ đó để lộ hết những điểm yếu của hắn, và giờ đây Galbatorix đã để lộ điểm yếu của hắn: hắn sẽ không thể giết Eragon Khắc tinh của Tà thần hay Saphira Bjartskular. Chúng tôi đã chờ đợi cơ hội này rất quá lâu rồi và giờ là lúc nắm chắc lấy điều này. Galbatorix rồi sẽ học được cách sợ hãi và căm ghét chúng tôi, và đến lúc cuối cùng, hắn sẽ nhận ra rằng hắn đã sai lầm nhường nào và biết rằng chúng tôi là chính là những người phá huỷ cuộc đời hẳn. Và hương vị của sự trả thù mới ngọt ngào làm sao, ngọt ngào như miếng thịt lợn đực non mềm. “

“Thời đại của chúng ta đến rồi, hỡi loài người, tất cả các chủng tộc, gồm cả Ma Mèo, đã đến lúc chúng ta sát cánh cùng nhau để chứng tỏ cho Galbatorix thấy hắn không thể tiêu diệt ý chí chiến đấu của chúng ta. Bọn ta tự nguyện gia nhập liên minh của quý vị, thưa Tiểu thư Nasuada, và sẽ giúp quý vị đạt được ước nguyện này.”

Eragon không biết Nasuada đang nghĩ gì nhưng cậu và Saphira bị ấn tượng mạnh với bài phát biểu của lão ma mèo.

Sau một khoảng im lặng ngắn ngủi, Nasuada nói, “Những lời Ngài đã nói quả thật nghe rất lọt tai, thưa Đức vua. Nhưng trước khi tôi đồng ý với đề nghị đó, có một câu trả lời mà tôi mong muốn có được từ ngài, nếu như ngài sẵn lòng”.

Bằng một sự lãnh đạm khó đổi, Grimmr vẫy tay ra hiệu. “Ta đồng ý.”

“Tộc ma mèo của Ngài quá khó hiểu và bí ẩn. Có điều tôi phải thú nhận rằng, cho tới tận ngày hôm nay, tôi chưa từng được nghe nhắc tới Đức ngài. Sự thực là tôi thậm chí còn không biết rằng tộc của ngài có một vị vua thống trị”.

“Ta là một vị vua không giống như vua của các người,” Grimrr nói. “Ma mèo vốn thích sống cô độc, nhưng kể cả vậy thì chúng ta cũng cần phải chọn ra một vị thủ lĩnh khi tham gia chiến tranh.”

“Tôi đã hiểu. Vậy, Ngài có đại diện cho toàn bộ tộc của Ngài, hay chỉ cho những người đi cùng ngài?”

Ngực Grimrr căng ra, và bộ mặt của lão thậm chí trông còn tự mãn hơn như thế, nếu có thể!

“Ta đại diện cho toàn bộ mèo ma, thưa Tiểu thư Nasuada,” ông ta gầm gừ nho nhỏ. “Tất cả những mèo ma khoẻ mạnh trên đất Alagaësia này đã đến đây gia nhập vòng chiến, ngoại trừ những bé mèo còn đang bú sữa. Mặc dù số lượng không nhiều, nhưng không có kẻ nào so sánh được với sự đáng sợ của chúng ta trên chiến trường. Và ta cũng có thể ra lệnh cho những ma mèo Nhất dạng, dù ta không đại diện cho chúng, vì chúng chỉ tầm thường như lũ súc vật khác. Tuy nhiên, chúng vẫn sẽ làm theo những gì mà chúng ta yêu cầu.”

“Nhất dạng?” Nasuada thắc mắc.

“Những kẻ mà được biết đến như những con mèo. Những kẻ không thể biến đổi hình dạng như chúng ta.”

“Và Ngài có được sự trung thành của chúng?”

“Đúng. Chúng ngưỡng mộ chúng ta... một điều cũng tự nhiên thôi .”

Nếu những điều ông ta nói là sự thật, Eragon nói với Saphira, thì vai trò của đám mèo ma này sẽ trở nên vô cùng lớn đó.

Rồi Nasuada nói. “Vậy để đổi lại sự giúp đỡ từ phía Ngài, Ngài mong muốn điều gì từ phía chúng tôi vậy, thưa Vua Halfpaw?” Cô liếc nhìn Eragon cười, rồi nói tiếp, “Chúng tôi có thể cho các ngài bao nhiêu mỡ cũng được, nhưng nếu yêu cầu của ngài hơn thế thì xin thứ lỗi vì tài nguyên của chúng tôi có hạn. Nếu các chiến binh của ngài mong muốn được trả công, thì tôi sợ là họ sẽ chỉ thất vọng thôi.”

“Mỡ chỉ dành cho mèo con và vàng thì chẳng là gì đối với chúng tôi,” Grimrr nói. Khi ông ta nói, ông ta giơ tay phải lên và mắt thì lim dim ngắm nhìn bộ vuốt. “Điều kiện của chúng ta chỉ là như sau: Với những ai chưa có vũ khí, thì chỉ cần được trang bị một chuỳ thủ để chiến đấu. Mỗi người trong chúng ta phải được trang bị hai bộ giáp vừa vặn, một bộ cho lúc chúng ta đứng bằng hai chân(3) và một bộ cho lúc chúng ta đứng bằng bốn chân(4). Ngoài những thứ đó ra thì chúng ta không cần gì cả – không lều trại, không chăn mền, không đĩa chén, không thìa muỗng. Hàng ngày, mỗi người chúng ta phải được ăn một con vịt, hoặc gà gô, hoặc gà hoặc một loại chim nhỏ, và cứ hai ngày thì chúng ta phải được ăn một bát gan tươi sống. Thậm chí nếu chúng ta không chọn thì những thức ăn đấy vẫn phải được cung cấp. Ngoài ra, nếu như các người chiến thắng cuộc chiến này, thì dù ai trở thành vua hoặc nữ hoàng kế tiếp – và cả những người kế vị tiếp sau đó – phải cũng phải đặt một chiếc đệm bông cạnh ngai vàng, và để một tộc nhân trong số chúng ta ngồi tại đó nhằm mục đích tôn vinh. Và đó là tất cả những gì chúng ta yêu cầu”.

“Ngài mặc cả cứ như một nhà lập pháp của tộc người lùn vậy” Nasuada nói bằng giọng khô khốc. Cô nghiêng người về phía Jörmundur, và Eragon nghe thấy tiếng cô thì thầm, “Chúng ta có đủ gan để nuôi họ không?”

“Thần nghĩ là đủ,” Jörmundur trả lời cũng bằng một giọng khô khan. “Nhưng điều đó còn phụ thuộc vào kích cỡ của bát.”

Nasuada ngồi thẳng lưng. “Hai bộ giáp là quá nhiều, thưa Đức vua Halfpaw. Các chiến binh của Ngài phải tự quyết dịnh xem họ muốn chiến đấu trong hình dạng loài mèo hay hình dạng con người và phải tuân thủ theo quyết định đó. Tôi không thể đáp ứng cho họ cả hai bộ giáp”

Nếu mà Grimmr có đuôi, Eragon đoán chắc rằng lão sẽ phe phẩy liên tục. Hầu như không động đậy, lão mèo trả lời “Rất tốt, thưa Tiểu thư Nasuada.”

“Còn một điều nữa. Galbatorix đã cài gián điệp và sát thủ khắp mọi nơi. Vì thế, như một điều kiện để gia nhập Varden, các người phải chấp nhận cho một pháp sư của chúng tôi kiểm tra tư tưởng, có như vậy chúng tôi mới đảm bảo được rằng Galbatorix không kiểm soát các ngài.”

Grimrr khụt khịt. “Nếu mà không làm vậy thì Người quá xuẩn ngốc rồi. Nếu có ai đủ cam đảm để đọc tư tưởng của chúng tôi thì cứ kệ họ. Nhưng không phải bà ta” – và ông ta chỉ vào Angela. “Không bao giờ là bà ta.”

Nasuada chần chừ, và Eragon có thể thấy cô muốn hỏi lí do nhưng cô đã tự kìm nén lại được. “Cũng được. Tôi sẽ gửi các pháp sư tới ngay lập tức và chúng ta sẽ giải quyết vấn đề này một cách nhanh gọn. Tuỳ thuộc vào điều họ tìm thấy – và tôi đảm bảo là chắc chắn sẽ không có điều gì không may xảy ra –tôi rất vinh dự là người đã thúc đẩy quan hệ đồng minh giữa tộc mèo ma của Ngài và Varden, thưa Đức Vua Halfpaw”.

Sau lời cô nói, tất cả mọi người trong đại sảnh vỡ oà vì sung sướng và họ bắt đầu vỗ tay, bao gồm cả Angela. Ngay cả các vị tiên cũng tỏ ý vui mừng.

Tuy nhiên, đám ma mèo lại chẳng có phản ứng gì, ngoại trừ việc cố ép tai lại vì tiếng ồn làm chúng khó chịu.

Eragon rên rỉ và tựa lưng vào Saphira. Vòng tay quanh đầu gối, cậu trượt xuống qua lớp vảy gồ ghề của cô rồng cho tới khi ngồi xuống dưới đất, rồi cậu duỗi thẳng chân về phía trước.

“Anh đói quá!” Cậu la toáng lên.

Cậu và Saphira đang ngồi ở khoảng sân trong của lâu đài, cách xa đoàn người đang dọn dẹp những đống đá vụn và những cái xác chết rồi chất chúng lên xe ngựa, và dòng người đang ra vào toà lâu đài tan hoang. Nhiều người trong số họ đã từng chứng kiến cuộc gặp mặt giữa Nasuada và Vua Halfpaw và giờ họ đang tản ra để chấp hành những nhiệm vụ khác. Blödhgarm và bốn vị tiên đứng gần họ để đề phòng nguy hiểm.

“Ối!” một ai đó kêu lên.

Eragon ngước nhìn Roran đang đi từ tháp canh tiến về phía cậu. Angela theo sau đó vài bước, những sợi chỉ đan áo bay phấp phới trong khi bà lang nửa đi nửa chạy nhằm cố bắt kịp những sải chân dài của anh.

“Anh đang định đi đâu đây?” Eragon hỏi khi Roran dừng lại trước mặt cậu.

“Đi giúp canh phòng thành phố và sắp xếp đám tù nhân.”

“À...” Eragon đảo mắt qua khoảng sân nhộn nhịp trước khi nhìn vào khuôn mặt bầm tím của Roran. “Anh chiến đấu cừ lắm.”

“Em cũng thế.”

Eragon chuyển sự chú ý qua Angela. Bà lang vẫn còn đang bận đan, ngón tay bà di chuyển nhanh đến nỗi làm cậu không thể nhìn rõ bà đang làm gì. “Chíp chíp?” cậu hỏi.

Nét tinh quái hiện lên trên khuôn mặt Angela, bà lắc đầu làm mớ tóc xoăn tít lùng nhùng trên đầu nảy lên nảy xuống. “Để lúc khác ta sẽ kể cho cậu nghe.”

Eragon chấp nhận sự lảng tránh của bà mà không hề phàn nàn; cậu không hy vọng bà tự mình giải thích. Mà bà cũng hiếm khi làm như vậy.

“Còn em,” Roran nói. “Em định đi đâu?”

Bọn em định đi kiếm chút gì để ăn, Saphira nói, và dùng mõm đẩy nhẹ Eragon. Hơi thở cô nàng phả ra làm ấm cả người cậu.

Roran gật đầu. “Nghe hay đấy. Thế thì tối nay anh sẽ gặp lại bọn em ở doanh trại.” Trước khi quay người bỏ đi, anh nói thêm, “Nói với Katrina là anh yêu cô ấy nhé.”

Angela nhét cái áo đang đan của mình vào trong một cái túi mềm đeo trên thắt lưng. “Ta nghĩ mình cũng nên đi rồi. Ta cần phải đi xem lại thứ thuốc đang đun dở trong lều của mình, và ta cũng cần phải đi tìm một con ma mèo.”

“Grimrr ư?”

“Không, không – người bạn già của ta cơ: mẹ của Solembum, đương nhiên là nếu bà ấy vẫn còn sống. Và ta mong là vậy.” Bà đưa tay đặt lên lông mày, ngón cái và ngón trỏ chụm lại thành một vòng tròn, và bà nói bằng giọng vô cùng vui vẻ “Gặp lại cậu sau nhé!”, rồi bỏ đi.

Nhảy lên lưng em đi, Saphira nói, cô ả đứng dậy, để mặc Eragon tự leo lên.

Cậu trèo lên yên ở trên cổ cô rồng, và Saphira sải rộng đôi cánh, làm vang lên một thứ âm thanh xoàn xoạt êm ái như tiếng da chà nhẹ vào nhau. Cử động đó vô thanh vô tức tạo ra một cơn gió mạnh lan ra như sóng trên mặt hồ. Mọi người trong sân đều ngừng lại ngắm nhìn cô nàng.

Khi Saphira nâng cánh lên quá đầu, Eragon có thể nhìn thấy bên trong đó những mạch máu màu tía đang nảy lên từng hồi. Mỗi khi trái tim rồng mạnh mẽ của cô nàng truyền từng dòng máu đi khắp cơ thể, chúng trông như những con giun đang bò. Rồi với một cái lắc mình, cả thế giới quay cuồng quanh Eragon khi Saphira nhảy từ khoảng sân lên đầu tường lâu đài, chỉ dừng lại một chút để lấy thăng bằng trên lỗ châu mai. Cả đống đá nứt ra dưới móng vuốt của cô nàng. Cậu nắm chắc cái gai trên cổ Saphira để ngồi cho vững.

Mọi thứ chao đảo khi Saphira phóng mình khỏi bức tường thành. Lúc Saphira bay xuyên qua đám khói mù mịt lơ lửng phía trên Belatona như một lớp màn của sự đau khổ và tức giận, Eragon ngửi thấy một thứ mùi vị cay xè, làm cho mắt cậu đau buốt.

Saphira vỗ cánh hai cái thật mạnh, rồi cả hai bay thẳng ra khỏi đám khói, tắm mình trong ánh mặt trời và bay lượn phía trên những con đường lốm đốm lửa. Giữ nguyên hai cánh giang rộng, Saphira lượn một vòng, để cho đám khí nóng bên dưới nâng cô nàng lên cao hơn.

Dù rất mệt, nhưng Eragon vẫn ngắm nhìn cảnh vật tráng lệ trước mắt: cơn bão chuẩn bị nuốt gọn cả Belatona lúc này như đang gầm gừ, và rạng lên thứ ánh sáng bàng bạc và rực rỡ, trong khi đó ở phía xa là những đám mây đen như mực chẳng để lộ ra cái gì bên trong ngoại trừ những tia chớp vạch xuyên qua. Ở một hướng khác, một cái hồ sáng bóng và hàng trăm thuở ruộng nhỏ xanh mướt trải rộng khắp nơi cũng thu hút sự chú ý của Eragon, nhưng không thể làm cậu ấn tượng bằng núi mây trước mắt.

Như mọi khi, Eragon cảm thấy mình đươc quá may mắn mới được chiêm ngưỡng thế giới từ độ cao này, vì cậu biết rằng chỉ có rất ít người mới có cơ hội bay với một con rồng.

Khẽ vỗ nhẹ đôi cánh, Saphira bắt đầu lượn xuống dưới khu lều bạt màu xám trong doanh trại của quân Varden.

Một cơn gió mạnh thổi tới từ phía tây, báo hiệu cơn bão đang tới. Eragon cúi người, bám chặt tay hơn vào cái gai trên cổ cô rồng. Cậu nhìn thấy những gợn sóng bóng loáng chạy dọc trên những cánh đồng tạo thành từ các thân cây đang rạp mình xuống trước sức mạnh của cơn bão đang đến. Những ngọn cỏ phất phơ làm cậu liên tưởng tới bộ lông trên mình một con quái vật xanh to lớn. Một con ngựa hí lên khi Saphira bay sát nóc lều tới một khoảng trống dành riêng cho nó. Eragon nửa ngồi nửa đứng trên yên khi Saphira xòe cánh và giảm tốc độ từ từ, khiến cho đám đất dưới chân bị cày nát. Vụ va chạm khi cô nàng chạm đất hất tung Eragon về phía trước.

Xin lỗi, cô nàng nói. Em cố hạ cánh nhẹ nhàng hết mức có thể rồi.

Anh biết.

Ngay khi hạ xuống, Eragon nhìn thấy Katrina đang chạy hớt hải về phía cậu. Mái tóc màu nâu vàng ôm lấy khuôn mặt cô khi cô chạy qua bãi đất trống và sức ép của gió làm lộ ra vùng bụng đang lớn dần của cô qua lớp váy.

“Có gì mới không?” cô hỏi, vẻ lo lắng hiện lên rõ lên trên khuôn mặt cô.

“Chị đã nghe nói về chuyện ma mèo chưa...?”

Cô gật đầu.

“Không có tin gì mới hơn tin đó đâu. Roran vẫn ổn; anh ấy nói anh ấy yêu chị.”

Mặt cô nhẹ nhõm hẳn đi, nhưng cô vẫn chưa hoàn toàn hết lo lắng. “Thế anh ấy có ổn không?” Cô vân vê chiếc nhẫn trên bàn tay trái, một trong hai chiếc nhẫn mà Eragon đã phù phép cho cô và Roran để cho họ biết nếu người kia gặp nguy hiểm. “Chị nghĩ chị đã cảm nhận thấy điều gì đó, khoảng một tiếng trước, và chị đã sợ rằng...”

Eragon lắc đầu. “Roran có thể kể chuyện đó với chị. Anh ấy bị trầy xước và bầm tím đôi chỗ. Nhưng nói chung là ổn dù anh ấy đã doạ em sợ gần chết.”

Vẻ lo lắng trên mặt Katrina tăng lên. Sau đó, cô gượng cười: “Ít nhất là cả hai người vẫn an toàn.”

Sau khi họ chia tay, Eragon và Saphira đi tới một trong những cái lều bừa bộn gần khu nấu ăn của Varden. Ở đó, hai đứa nhét vào bụng những miếng thịt và rượu mật ong. Lúc này, gió đang rít gào và cơn mưa nặng hạt đang trút túi bụi xuống lều đồm độp.

Khi Eragon đang ngoạm một miếng thịt quay lớn thì Saphira hỏi, Có ngon không? Chắc là ngon tuyệt nhỉ?

“Ừm,” Eragon trả lời, nước mỡ chạy dọc xuống cằm cậu.

“Galbatorix là một kẻ điên nên không thể nói trước được gì, nhưng hắn cũng có những sơ hở trong cách suy luận mà người thường không nghĩ đến. Nếu con có thể tìm ra chúng, Eragon, thì có thể con và Saphira sẽ đánh bại hắn.”

Brom hạ cái tẩu xuống, mặt ông lộ vẻ từ tốn. ”Ta mong là con thành công. Mơ ước lớn nhất của ta, Eragon à, là được thấy con và Saphira sống hạnh phúc bền lâu, không chịu sự đe dọa từ Galbatorix và Đế quốc nữa. Ước gì ta có thể che chở con trước những hiểm nguy đang rình rập kia, nhưng hỡi ơi, điều ấy hoàn toàn vượt quá khả năng của ta. Tất cả những gì ta có thể làm là khuyên nhủ và dạy dỗ con khi ta còn đây … Con trai ta. Bất kể chuyện gì sẽ xảy ra, hãy nhớ rằng ta luôn yêu con, và mẹ con cũng thế. Chúc những vì sao sẽ luôn soi sáng cho con, Eragon Bromsson."

Eragon mở mắt ra khi ký ức ấy nhòa đi. Bên trên cậu là mái lều bị võng xuống, dãn ra như miếng da khô bị thấm nước*, sau khi được gột rửa bằng trận bão vừa qua. Một giọt nước từ khe hở xuống đùi phải, thấm xuyên qua lớp quần khiến làn da cậu trở nên lạnh ngắt. Cậu biết rằng cậu cần phải ra ngoài thắt chặt lại dây buộc lều, nhưng lại lưỡng lự khi phải rời giường.

Brom chưa từng đề cập với em về Murtagh? Ông chưa từng kể với em rằng Murtagh và anh là anh em cùng mẹ khác cha?

Saphia, đang co mình bên ngoài lều, nói, Dù anh có hỏi lại thì câu trả lời của em vẫn không thay đổi đâu

Vì sao thế nhỉ? Vì sao? Ông chắc chắn biết về Murtagh. Ông không thể nào không biết được.

Saphira chậm rãi hồi đáp, Nguyên do vì sao thì chỉ có Brom mới biết được, nhưng nếu em phải đoán, thì ắt hẳn ông từng nghĩ việc nói với anh rằng ông thương yêu anh đến nhường nào là trên hết, và cho anh những lời khuyên càng nhiều càng tốt, hơn là chừa chút thời gian còn lại để nói về Murtagh.

Ông đã có thể cảnh báo cho anh! Chỉ cần một vài từ thôi là đủ rồi.

Em không thể nói được điều gì đã khiến ông ấy làm vậy, anh Eragon à. Anh phải chấp nhận rằng sẽ có những câu hỏi về Brom mà anh không bao giờ lý giải được. Cứ tin vào tình thương của ông dành cho anh, và đừng để những điều khác quấy rầy anh.

Eragon gục mặt xuống và nhìn chằm chằm vào hai ngón tay cái. Cậu đặt chúng cạnh nhau để có thể so sánh dễ hơn. Ngón bên trái có nhiều nếp nhăn tại đốt thứ hai hơn ngón bên phải, trong khi ngón bên phải có một vết sẹo nhỏ và sần sùi mà cậu không tài nào nhớ ra đã có nó từ khi nào; mặc dù nó chỉ có thể xuất hiện vào khoảng thời gian tại buổi Huyết Lễ Agaetí Blödhren.

Cảm ơn em, cậu nói với Saphira. Qua cô nàng, cậu đã xem lại những lời nhắn nhủ của Brom ba lần kể từ khi thành Feinster sụp đổ, và mỗi lần cậu đều có thể nhận ra một vài chi tiết tiết trong đoạn hội thoại của Brom hay một số cử động của ông đã thất thoát. Những cảm nhận này khiến cậu cảm thấy thoải mái và thỏa mãn, vì nó đã toàn thành nguyện ước của đời cậu: biết được tên của cha ruột cậu và biết được rằng ông đã quan tâm đến cậu biết bao.

Saphira chấp nhận lời cảm ơn của cậu bằng cách phà ra một hơi ấm đầy trìu mến.

Mặc dù Eragon đã ăn và nghỉ được khoảng một tiếng đồng hồ, cảm giác mệt mỏi vẫn chưa hoàn toàn hết. Cậu cũng chẳng trông mong gì nhiều. Từ những gì đã từng trải, cậu hiểu rằng cậu sẽ phải tốn nhiều tuần để có thể hồi phục hoàn toàn sau một trận chiến được kéo dài, rất dài. Khi quân Varden tiếp cận Urû’baen, cậu và mọi thành viên trong quân đoàn của Nasuada sẽ càng lúc càng có ít thời gian để nghỉ ngơi trước khi cuộc đụng độ mới bùng lên. Chiến tranh sẽ vắt kiệt sức họ cho đến khi người họ nhuộm đầy máu, rã rời và miễn cưỡng tiếp tục chiến đấu, và khi ấy họ vẫn phải đối mặt với Galbatorix, kẻ đang chờ họ nạp mạng với sự ung dung và nhàn nhã của lão.

Cậu cố tránh nghĩ nhiều về những điều ấy.

Một giọt nước mưa nữa nhỏ xuống chân cậu, rét buốt. Cậu phát cáu lên, vung chân ra khỏi giường, bật thẳng người dậy, rồi đi một mạch đến mảnh vá đầy đất tại góc lều và quỳ xuống cạnh nó.

“Deloi sharjalví!” cậu niệm một tràng cổ ngữ cần thiết để phá giải các bẫy mà bản thân đã đặt hôm trước.

Miếng đất bắt đầu sủi bọt lên như nước gần sôi, trồi khỏi ụ đầy đá, côn trùng và dòi bọ, làm lộ ra một chiếc rương sắt dài hơn bốn mươi cen-ti-mét. Eragon cẩn thận vươn lấy nó và giải phép. Mặt đất liền trở lại bình thường một lần nữa.

Cậu đặt rương lên nền đất cứng. “Ládrin,” cậu thì thầm, và phất tay qua cái khóa không lồ đang ghịt chặt bản lề. Nó kêu “tách” và bật ra.

Ánh sáng vàng nhạt tỏa khắp căn lều khi cậu đẩy nắp rương lên.

Nằm gọn bên trong lớp vải nhung là Eldunarí của Glaedr, phần tinh túy nhất trong tim của một con rồng. Nó lớn như một viên đá quý phát quang ảm đạm, như một nhúm tro tàn đang lay lắt cháy. Eragon chụm tay lại và nâng mảnh Eldunarí đầy góc cạnh nhưng đủ để làm ấm lòng bàn tay của cậu lên, và chăm chú nhìn vào phần lõi đang phập phồng. Một dòng sao li ti cuộn tròn tại tâm mảnh đá, mặc dầu chuyển động của chúng có vẻ chậm hơn và số lượng các ngôi sao đã giảm đi rõ rệt so với lần đầu Eragon chạm vào nó tại Ellesméra, khi Glaedr tống nó ra ngoài và trao cho Eragon và Saphira.

Như thường lệ, Eragon bị cảnh tượng này mê hoặc, cậu có thể ngồi hàng ngày liền chỉ để ngắm dòng sao lưu chuyển bất tận.

Ta nên thử lần nữa, Saphira bảo, và cậu đồng tình.

Cả hai cùng tập trung tinh thần để vươn đến những nguồn sáng xa diệu vợi kia, chạm đến biển sao biểu trưng cho ý thức của Glaedr. Cái lạnh và bóng tối, rồi sự bùng cháy cùng nỗi tuyệt vòng và lòng thờ ơ mênh mang, chúng bào mòn ý chí của họ cho đến khi họ ngừng lại và khóc òa lên.

Glaedr … Elda, họ nức nở, nhưng lại không nhận được sự hồi đáp nào, sự thờ ơ ấy không mảy may thay đổi.

Cuối cùng, cặp người-rồng đành rút lui, không thể chịu đựng gánh nặng từ nỗi niềm của Glaedr thêm phút nào nữa.

Khi vừa trở lại chân thể, Eragon chợt phát hiện tiếng ai đó đang gõ vào cột chống lều, và rồi giọng Arya vang lên: “Eragon? Tôi vào được chứ?”

Cậu hít một hơi đầy và chớp chớp mắt để nhìn rõ hơn. “Tất nhiên.”

Ánh sáng xám lờ mờ từ bầu trời đầy mây hắt vào cậu khi Arya đẩy tấm bạt lều ra. Cơn đau nhói bỗng trào dâng khi mắt hai người chạm nhau – xanh lá, đầy kiên định và không thể nhìn thấu – và sự bức bối đầy thèm khát bao trùm lấy cậu.

“Có điều chi thay đổi chăng?” nàng hỏi, và từ từ khuỵu gối xuống cạnh cậu. Thay vì bộ chiến giáp, hiện nàng khoác bộ áo lông đen, quần dài và mang đôi giày đế mỏng, hệt như ngày cậu đã giải cứu nàng tại Gil’ead. Mái tóc nàng vẫn còn ẩm sau khi đã được gội và hiện đang xõa ra sau lưng cùng những lọn tóc bện dày và nặng. Hương lá thông phảng phất quanh nàng như thường lệ, khiến Eragon tự hỏi đấy là do nàng dùng phép hay là hương thơm tự nhiên. Cậu rất muốn hỏi, song lại không dám.

Để trả lời câu hỏi của nàng, cậu lắc đầu.

“Tôi thử được chứ?” Nàng ra dấu về phần tinh túy nhất trong quả tim của Glaedr.

Cậu bèn nhích sang một bên. “Cứ tự nhiên.”

Arya đặt đôi tay nàng lên Eldunarí và khép mắt lại. Trong lúc ấy, cậu bèn chớp lấy cơ hội được nhìn rõ nàng một cách lộ liễu và đầy chăm chú đến mức dễ gây phản cảm nếu trong trường hợp khác. Trong mọi khía cạnh, nàng là một người đẹp điển hình mặc dù cậu biết rằng những người khác sẽ bảo mũi nàng quá dài, hay mặt nàng quá góc cạnh, hay tai nàng quá nhọn hoặc tay nàng quá cơ bắp.

Với một tiếng hít vào đanh gọn, Arya rút tay ra khỏi Eldunarí như thể nó vừa làm bỏng tay nàng. Đoạn nàng cúi đầu xuống, Eragon có thể thấy chiếc cằm của nàng đang run lên nhè nhẹ. “Ông là sinh vật thống khổ nhất mà tôi từng biết … Ước gì ta có thể đưa tay ra giúp. Tôi không nghĩ ông ấy có thể tự giải thoát bản thân khỏi bóng tối đâu.

“Liệu nàng có nghĩ …” Eragon ngập ngừng, không muốn nêu lên nghi vấn của cậu, rồi tiếp tục: “Liệu nàng có nghĩ ông ấy sẽ phát điên không?”

“Có thể ông đã điên rồi. Nếu không thì có lẽ ông cũng đang bên bến bờ cuồng loạn.”

Nỗi u sầu nhấn chìm Eragon khi cả hai cùng nhìn vào mảnh đá ánh vàng ấy.

Khi cậu có thể trấn tĩnh bản thân, cậu bèn hỏi, “Dauthdaert đâu rồi?”

“Được giấu tại lều của tôi, tương tự như chàng đang giấu Eldunarí của Glaedr. Tôi có thể mang nó đến đây, nếu chàng muốn, hoặc tôi có thể trông chừng cho đến khi chàng cần đến nó.”

“Cứ giữ. Tôi không thể để nó bên người được, hoặc là Galbatorix sẽ phát giác ra sự tồn tại của nó. Hơn nữa, cứ giữ khư khư nhiều báu vật cùng lúc thì không được thông minh cho lắm.”

Nàng gật đầu.

Cơn bức bối trong người Eragon đã lên đến đỉnh điểm. “Arya, tôi–” Cậu chợt im bặt ngay khi Saphira trông thấy bóng của cậu con trai của thợ rèn Horst – Albriech, cậu nghĩ, mặc dầu cậu có chút khó khăn để có thể phân biệt được đứa bé với người anh của nó, Baldor, vì tầm nhìn không được chính xác mấy của Saphira – đang chạy về phía lều. Sự quấy nhiễu này khiến Eragon nhẹ lòng hơn, vì cậu cũng chẳng biết cậu sẽ nói những gì.

“Có người đến” cậu thông báo và che tấm bạt lều lại.

Tiếng chân bì bõm vang lên giữa dãy bùn bên ngoài. Và rồi Albriech, đúng là Albriech, nó hét lớn: “Anh Eragon! Anh Eragon!”

“Gì cơ?”

“Mẹ em sắp sinh! Cha bảo em đến đây để nhờ anh đến chờ cùng ông, trong trường hợp xảy ra biến cố thì sẽ cần đến pháp thuật của anh. Làm ơn, nếu anh có thể…”

Những lời còn lại của đứa bé đều bị Eragon bỏ ngoài tai vì bận khóa và giấu chiếc rương. Đoạn, cậu phủ chiếc áo khoác lên vai và có hơi lóng ngóng khi Arya chạm vào cánh tay cậu và nói: “Tôi có thể đi cùng chàng chăng? Tôi có một ít kinh nghiệm về việc này. Nếu người của chàng cho phép, tôi có thể khiến lần sinh nở này dễ dàng hơn cho bà ấy.”

Eragon không hề ngập ngừng khi đưa ra quyết định. Cậu nhanh chóng mở cửa lều ra. “Mời nàng.”

Bùn đất dính lên đôi ủng làm chậm đi bước chân của Roran, khiến cho đôi chân vốn đã mệt mỏi như bị thiêu đốt mỗi khi anh cố bước đi. Anh có cảm giác dường như cái nền đất lầy lội kia đang cố kéo tuột đôi giày của anh. Không những dày, đống bùn lại còn rất trơn. Lớp bùn thật sâu, chúng trở nên lầy lội dưới gót chân, khiến anh không thể đứng vững được. Dòng người, súc vật và xe cộ đi lại không ngớt, đã khiến cho lớp đất trên bề mặt dày mười lăm centimet gần như biến thành một đầm lầy không ai vượt qua được. Dọc hai bên con đường đi tới doanh trại của Varden, vẫn còn sót lại một vài nhúm cỏ dập nát. Nhưng Roran cho rằng chúng cũng sẽ sớm biến mất khi người ta buộc phải đi vòng qua để tránh bãi lầy lội ở giữa con đường.

Roran chẳng buồn tránh đống đất bẩn nữa, anh không còn bận tâm xem liệu quần áo còn sạch hay không. Anh đã quá kiệt sức rồi. Cứ tiếp bước theo một phương hướng vẫn dễ dàng hơn là phải lo lắng tìm một lối đi từ cụm cỏ này sang cụm cỏ khác để tránh đống đất bẩn.

Roran bước loạng choạng về phía trước, anh đang nghĩ tới Belatona. Từ sau khi Nasuada tiếp kiến ma mèo, anh đã được trao cho một vị trí chỉ huy ở khu Tây Bắc thành phố và anh đang phải cố gắng hết sức để kiểm soát khu vực này bằng cách cử lính đi dập hỏa hoạn, xây hàng rào chắn trên các con đường, tìm nhà ở cho binh lính và tịch thu vũ khí. Đó là một nhiệm vụ khổng lồ, và những việc cần hoàn thành làm anh cảm thấy tuyệt vọng, và lo sợ rằng những cuộc chiến sẽ lại một lần nữa bùng nổ trong thành phố. Mình hy vọng những tên ngu ngốc kia sẽ sống sót qua đêm nay.

Nửa người bên trái của Ronan chợt buốt nhói lên, anh đau đến mức nhe răng nhếch miệng và thở hổn hển.

Tên hèn nhát trời đánh thánh vật.

Kẻ nào đó đã bắn anh bằng một mũi tên từ trên nóc của một ngôi nhà. Và may mắn đã cứu anh thoát chết; ngay khoảng khắc tên hung thủ bắn mũi tên, Mortenson - một người lính dưới quyền anh - đã bước lên phía trước anh. Mũi tên bay xuyên từ lưng qua bụng Mortenson và vẫn còn đủ lực gây ra cho Roran một vết tím bầm đáng sợ. Mortenson chết ngay tại chỗ còn tên cung thủ thì đã trốn thoát.

Năm phút sau, một vụ nổ vang lên, dường như là do pháp thuật gây ra. Có thêm hai người lính nữa dưới quyền anh bị giết khi họ tiến vào một cái chuồng ngựa vì nghe thấy trong đó phát ra tiếng động lạ.

Từ những gì Roran biết được, những vụ tấn công kiểu này đã trở thành một chuyện bình thường khắp thành phố. Không nghi ngờ gì nữa, tay chân của Galbatorix chính là những kẻ đằng sau những vụ tấn công này, nhưng người dân Belatona cũng có phần trách nhiệm – những người đàn ông và phụ nữ không chịu đứng im khi một đội quân chiếm đóng, kiểm soát quê hương mình, dù cho ý định của quân Varden có cao cả thế nào đi chăng nữa. Roran có thể thông cảm được với những người cảm thấy họ phải bảo vệ gia đình mình, nhưng đồng thời, anh cũng nguyền rủa vì họ quá cố chấp mà không nhận ra rằng Varden đang cố giúp chứ không hại họ.

Anh gãi râu khi đợi một người lùn đẩy một con ngựa chất đầy hàng hóa đi qua, và sau đó tiếp tục cắm cúi tiến về phía trước .

Khi về tới gần lều, anh nhìn thấy Katrina đang đứng cạnh một chậu nước xà phòng nóng, giặt sạch một cái băng gạc dính máu bằng ván giặt(1). Tay áo của cô được xắn tới tận khuỷu tay, tóc cô được buộc lại thành một đống bù xù, và má cô đỏ hồng lên vì làm việc, nhưng với anh cô chưa bao giờ trông xinh đẹp đến vậy. Cô là niềm an ủi của anh – niềm an ủi và nơi nương tựa của anh – và chỉ cần nhìn thấy cô là bao nỗi mệt nhọc bao trùm người của anh sẽ biến đi mất.

Khi nhận thấy anh, Katrina liền lập tức bỏ việc giặt giũ lại, chạy về phía anh, lau khô đôi bàn tay hồng hào của cô lên mặt trước váy. Roran vòng tay lại ôm cô khi cô nhảy vào lòng anh, quấn hai tay quanh ngực anh. Nửa người anh buốt lên đau đớn, và anh bật thốt lên một tiếng rên ri.

Katrina nới lỏng tay và nghiêng người nhìn, nhíu mày. “Ôi! Em làm anh đau à?”

“Không... không. Anh chỉ hơi nhức thôi.”

Cô không hỏi thêm mà chỉ ôm anh lần nữa, nhẹ nhàng hơn, và ngước nhìn anh, mắt cô lóng lánh nước mắt. Ôm eo cô, anh cúi xuống và hôn cô, cảm thấy biết ơn khôn xiết vì cô đã hiện diện trong cuộc đời anh.

Katrina đặt tay trái của anh lên vai cô, và anh để cô dìu anh đi về lều. Thở dài một tiếng, Roran ngồi lên một gốc cây mà họ dùng làm ghế. Gốc cây này được Katrina đặt cạnh một một đống lửa nhỏ mà cô đốt để làm nóng chậu nước và bên cạnh đó là một nồi thịt hầm đang sôi.

Katrina múc đầy một bát thịt hầm và đưa cho anh. Cô mang từ trong căn lều ra cho anh một vại bia và một cái đĩa với nửa ổ bánh mì và một miếng pho mát. “Anh có cần gì nữa không?” cô hỏi với giọng khàn không bình thường.

Roran không trả lời mà ôm má cô, dùng ngón tay cái vuốt ve hai lần. Cô nở nụ cười bẻn lẽn và đặt tay lên tay anh, rồi quay lại giặt giũ một cách hăng say cứ như thế cô vừa được tiếp thêm năng lượng vậy.

Roran nhìn chăm chăm vào đống đồ ăn một lúc lâu trước khi cắn miếng đầu tiên; anh vẫn còn quá căng thẳng và anh nghi ngờ việc mình có thể nuốt hết đống thức ăn này vào bụng hay không. Tuy nhiên, sau vài miếng bánh mì, anh đã cảm thấy ngon miệng, và ăn ngấu nghiến bát thịt hầm.

Ăn xong, anh đặt đống đĩa xuống đất và ngồi sưởi ấm bàn tay trên nhóm lửa trong khi uống những hớp bia cuối cùng.

“Bọn em nghe thấy tiếng nổ khi những cánh cổng rơi xuống.” Katrina nói, trong khi tay đang vắt khô cái băng gạc. “Họ không trụ được lâu nhỉ.”

“Không.. Vì quân ta có một con rồng cơ mà.”

Roran nhìn vào bụng cô khi cô treo cái băng gạc lên dây phơi tạm thời chạy từ đỉnh lều của họ sang một cái bên cạnh. Mỗi lần nghĩ tới đứa con cô đang mang, đứa con mà hai người đã cùng nhau tạo ra, anh lại cảm thấy tự hào vô cùng, nhưng xen lẫn chút lo lắng vì anh không biết làm thế nào để đảm bảo cho đứa con của hai người một mái ấm an toàn. Hơn nữa, đến lúc Katrina sinh em bé mà chiến tranh còn chưa kết thúc, thì cô sẽ rời khỏi anh để đến Surda, nơi cô sẽ nuôi dạy đứa con của hai người trong cảnh tương đối an toàn hơn.

Mình không thể để mất cô ấy, không một lần nào nữa.

Katrina lại nhúng một tấm băng gạc khác vào chậu nước. “Còn trận chiến trong thành phố?” cô hỏi trong khi tay đang khuấy nước. “Nó diễn ra như thế nào?”

“Bọn anh phải chiến đấu để giành từng mẩu đất. Ngay cả Eragon cũng gặp khó khăn đấy.”

“Những thương binh có nhắc đến những máy bắn đá được lắp gắn bánh xe”

“Ừ”. Roran uống một ngụm bia làm ướt giọng, rồi sau đó tả lại ngắn gọn cách quân Varden tiến quân qua Belatona và những khó khăn mà họ đã gặp phải trong suốt cuộc hành trình. “Hôm nay bọn anh đã mất rất nhiều người, nhưng mọi chuyện đáng lẽ có thể tệ hơn. Tệ hơn rất nhiều. Rất may là Ngài Jörmundur và Đại tá Martland lên kế hoạch tiến công rất chu toàn.”

“Kế hoạch của họ sẽ không thành công nếu như không có anh và Eragon. Hai người là những người dũng cảm nhất đó.”

Roran cười khan một tiếng. “Ha! Và em biết vì sao không? Anh sẽ nói cho em nghe. Trong mười người thì không có lấy một người thực sự muốn tấn công địch nhân. Eragon không thấy điều đó vì lúc nào nó cũng ở tiền tuyến, lao vào chiến đấu với những tên lính trước mặt nó. Nhưng anh lại thấy. Hầu hết binh lính đứng lùi lại và không chiến đấu trừ khi họ bị dồn đến đường cùng. Hoặc họ chỉ khua khoắng vũ khí và cố tạo nên thật nhiều tiếng ầm ĩ nhưng thực chất lại chẳng hề chiến đấu gì cả.”

Katrina kinh hãi. “Làm sao lại có thể như thế được? Chúng là những kẻ hèn nhất như vậy à?”

“Anh không biết nữa. Anh nghĩ … anh nghĩ rằng, có lẽ, họ chỉ không thể nhìn vào mặt một người rồi giết người đó, mặc dù họ thấy dễ dàng để cắt đầu một tên lính quay lưng về phía họ. Vì thế họ đợi những người khác thực hiện việc họ không thể làm nổi. Họ đợi những người như anh.”

“Anh có nghĩ thủ hạ của Galbatorix cũng miễn cưỡng như vậy không?

Roran nhún vai. “Có thể Nhưng sau đó, họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải phục tùng Galbatorix. Nếu lão ra lệnh cho họ chiến đấu, họ sẽ chiến đấu.”

“Nasuada cũng có thể làm thế. Cô ấy có thể sai đám pháp sư niệm chú để đảm bảo chắc chắn sẽ không một ai đào ngũ.”

“Thế thì, cô ta và Galbatorix còn gì khác gì nhau nữa chứ? Trong bất kỳ trường hợp nào, Varden cũng không chịu cho chuyện đó xảy ra đâu.”

Để lại đống băng gạc đang giặt, Katrina tiến lại và hôn lên trán anh. “Em mừng vì anh có thể làm điều anh đã làm,” cô thì thầm. Rồi cô lại quay lại chậu giặt và bắt đầu giặt một bộ quần áo bẩn. “Lúc trước em đã cảm giác gì đó, từ chiếc nhẫn... và em đã nghĩ rằng có thể chuyện gì xấu đã xảy ra với anh. ”

“Anh đang ở giữa một trận chiến mà. Sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả nếu như cứ vài phút là em lại thấy bồn chồn ấy chứ”

Cô dừng lại, tay vẫn đặt trong nước. “Nhưng trước kia em chưa từng bị như thế bao giờ.”

Anh uống cạn vại bia và cố tìm cách trì hoãn nói cho cô biết. Anh đã từng mong muốn chia sẻ với cô từng chi tiết về tai nạn của anh lúc ở trong pháo đài, nhưng rõ ràng là chừng nào mà còn chưa biết được sự thật thì cô ấy sẽ chẳng chịu đi nghỉ. Cố thuyết phục cô rằng không có chuyện gì thì chỉ khiến cô tưởng tượng ra những tai hoạ còn kinh khủng hơn điều thật sự xảy ra. Hơn nữa, sẽ là vô nghĩa nếu anh cứ giấu giếm vì đằng nào tin tức về vụ việc ấy sớm muộn cũng sẽ được truyền khắp Varden. Vì thế, anh kể lại cho cô. Anh kể ngắn gọn và cố biến vụ sụp tường thành nghe giống như một sự bất tiện nho nhỏ hơn là một tai hoạ khủng khiếp suýt chút nữa đã giết chết anh. Tuy nhiên, anh vẫn cảm thấy khó khăn khi miêu tả lại sự việc, và anh cứ ngắc ngứ nói, tìm kiếm những ngôn từ thích hợp. Khi anh kết thúc, anh im lặng như vẫn còn chìm trong ký ức.

“Ít ra anh cũng không bị thương phải không,” Katrina nói.

Anh lấy tay cạy vết nứt ở miệng vại bia và trả lời “Không.”

Tiếng nước bì bõm chợt dừng lại, và anh có thể cảm thấy đôi mắt của cô đang săm soi trên người anh.

“Trước đây anh đã từng đối diện với nhiều chuyện còn nguy hiểm hơn nhiều mà.”

“Ừ, anh cho là vậy.”

Giọng cô nhẹ đi. “Thế thì có chuyện gì xảy ra vậy?” Khi thấy anh không trả lời, cô nói. “Không có chuyện gì kinh khủng đến nỗi mà anh không thể nói với em, Roran. Anh biết điều đó mà.”

Móng tay cái của anh bị gãy khi anh lại cạy vại bia lần nữa và anh lại vân vê miếng vại bia bằng ngón tay trỏ không biết bao nhiêu lần. “Anh đã nghĩ rằng anh sắp chết khi bức tường sụp xuống.”

“Ai mà chẳng phải chết.”

“Đúng. Nhưng vấn đề là, anh đã không thèm để ý.” Roran đau khổ nhìn cô. “Em không hiểu sao? Anh đã từ bỏ. Khi anh nhận ra mình không thể thoát được, anh đã ngoan ngoãn chấp nhận nó như một chú cừu non rơi vào tay gã đồ tể, và anh...”. Không thể tiếp tục nói, anh hạ cốc bia xuống và úp mặt vào tay. Cổ họng bị sưng lên làm anh khó thở. Sau đó anh cảm thấy những ngón tay của Katrina đang đặt nhẹ trên vai anh. “Anh đã từ bỏ,” anh gầm lên, tức giận và phẫn nộ với chính bản thân mình. “Anh đã từ bỏ tranh đấu... Vì em... Vì con chúng ta...” Anh nghẹn ngào nói.

“Suỵt,” cô thì thầm.

“Trước đây anh chưa bao giờ từ bỏ. Chưa một lần nào... Kể cả khi tụi Ra’zac bắt em đi.”

“Em biết là anh không mà.”

“Cuộc chiến này phải kết thúc. Nó không thể cứ tiếp tục mãi thế này được... Anh không thể... Anh ...” Anh ngẩng đầu lên và sợ hãi khi thấy cô cũng sắp sửa nghẹn ngào khóc. Anh đứng dậy, vòng tay quanh người cô và ôm cô thật chặt. “Anh xin lỗi,” anh thì thầm. “Anh xin lỗi. Anh xin lỗi. Anh xin lỗi. Điều đó sẽ không bao giờ xảy ra nữa đâu. Không bao giờ nữa. Anh hứa đó.”

“Em không quan tâm tới chuyện đó,” cô nói, giọng cô nghẹn ngào trên vai anh.

Câu trả lời của cô khiến anh day dứt. “Anh biết anh đã yếu mềm, nhưng em phải tin lời anh chứ.”

“Em không có ý đó!” cô kêu lên và lùi lại nhìn anh với vẻ cáo buộc. “Đôi lúc anh là một tên ngốc, Roran ạ.”

Anh cười nhẹ. “Anh biết.”

Cô vòng tay ôm cổ anh. “Em sẽ không nghĩ xấu về anh, bất kể anh đã cảm thấy thế nào khi bức tường sụp xuống. Điều quan trọng duy nhất chính là anh còn sống... Anh chẳng thể làm được gì khi bức tường sụp, phải không nào?”

Anh lắc đầu.

“Thế thì anh chẳng có gì mà phải xấu hổ cả. Nếu anh có thể ngăn cho bức tường khỏi đổ, hoặc nếu anh có thể chạy trốn nhưng anh không làm, thì lúc đó em mới khinh thường anh. Nhưng anh đã làm hết những gì có thể, và khi anh không thể làm gì hơn, anh mới chịu chấp nhận số phận mà không hề oán thán. Đó là khôn ngoan chứ không phải yếu đuối.”

Anh cúi xuống và hôn lên lông mày cô. “Cám ơn em.”

“Và theo như những gì em được biết, thì anh chính là người đàn ông dũng cảm nhất, khoẻ mạnh nhất, và tốt bụng nhất mảnh đất Alagaësia này.”

Lần nay anh hôn lên môi cô. Sau đó, cô cười, xua đi những căng thẳng trong lòng, và cả hai đứng lên đu đưa, như thể đang khiêu vũ theo một giai điệu mà chỉ có hai người nghe thấy.

Rồi Katrina đẩy anh ra và tiếp tục giặt giũ, còn anh ngồi xuống gốc cây, và lần đầu tiên kể từ sau trận chiến cảm thấy toại nguyện, dù cho anh đang phải chịu cả đống đau đớn và thương tích.

Roran quan sát đám người, ngựa và thỉnh thoảng là vài người lùn hay đám Urgal cắm cúi đi qua căn lều của hai người, và anh để ý đến những vết thương và tình trạng vũ khí và khôi giáp của họ. Anh cố đánh giá sĩ khí của quân Varden; và kết luận duy nhất mà anh có thể đưa ra là mọi người đều cần một giấc ngủ say và một bữa ăn đầy đủ, ngoại trừ đám Urgal. Và mọi người, kể cả đám Urgal – mà không, đặc biệt là đám Urgal – cần phải được cọ rửa sạch sẽ từ đầu đến chân bằng một bản chải lông lợn và những cái sô đầy nước xà phòng.

Anh cũng ngắm nhìn Katrina, và anh thấy được khi cô làm việc, vẻ phấn khởi ban đầu trên khuôn mặt cô nhạt dần đi và cô trở nên cáu kỉnh hơn bao giờ hết. Cô cứ vò đi vò lại vài vết bẩn mà chẳng thể vò sạch được chúng . Mặt cô đen lại vì tức giận, và cô bắt đầu cáu gắt vài tiếng nhỏ.

Cuối cùng, khi cô ném mớ vải lên tấm ván giặt, làm bắn tung toé bọt xà phòng lên cao cả thước trong không khí, và cúi người về phía chậu giặt, môi mím chặt lại, thì Roran hết chịu nổi và đứng dậy đến bên cô.

“Nào, để anh,” anh nói.

“Thế không được đâu,” cô lẩm bẩm.

“Vớ vẩn. Ngồi xuống đi, để anh làm nốt cho ... Đi đi nào.”

Cô lắc đầu. “Không. Anh mới cần nghỉ chứ không phải em. Hơn nữa, đây không phải việc của đàn ông.”

Anh khịt mũi chế nhạo. “Quy định của ai thế? Đàn ông hay đàn bà thì cũng đều phải làm những việc cần phải làm. Nào, em ngồi xuống đi; em sẽ cảm thấy khá hơn khi ngồi xuống đấy”

“Roran, em ổn mà.”

“Đừng ngốc thế.” Anh nhẹ nhàng cố đẩy cô tránh xa khỏi chậu giặt, nhưng cô chẳng thèm nhúc nhích.

“Như vậy là không đúng,” cô kháng nghị. “Mọi người sẽ nghĩ thế nào chứ?” Cô chỉ về phía đám đàn ông đang vội vã trên con đường lầy lội bùn đất bên cạnh lều của hai người.

“Họ nghĩ gì kệ họ. Anh cưới em chứ không phải là họ. Nếu họ tin rằng vì giúp em khiến anh không còn là đàn ông nữa, thì họ là một lũ ngu.”

“Nhưng...”

“Không nhưng nhị gì hết. Đi đi. Xùy. Đi khỏi đây đi.”

“Nhưng...”

“Anh không định tranh cãi với em đâu đấy. Nếu em mà còn không ngồi xuống, anh sẽ bế em ra đằng kia và trói em vào gốc cây đó.”

Nét mặt cô đang từ cau có biến thành sửng sốt. “Thật thế à ?”

“Ừ. Giờ thì đi đi nào.” Khi cô miễn cưỡng rời bỏ vị trí chậu giặt đồ, anh nói mỉa cô.

“Em rất cứng đầu đấy nhỉ?”

“Có mà anh mới cứng đầu ấy. Anh có thể dạy một con la một vài trò đấy.”

“Không phải anh. Anh không cứng đầu.”. Cởi thắt lưng ra, anh cởi bộ áo giáp và treo lên cột lều, rồi cởi găng tay và xắn tay áo lên. Anh cảm thấy lành lạnh và đống băng gạc thậm chí còn lạnh hơn – chúng lạnh hơn khi được đặt quá lâu trên tấm ván giặt – nhưng anh không quan tâm, vì nước còn ấm và đống vải này rồi cũng nhanh ấm thôi. Những đống bọt bong bóng óng ánh dính trên cổ tay anh khi anh đưa đẩy quần áo dọc theo chiều dài của tấm ván giặt.

Anh liếc qua và hài lòng khi thấy Katrina đã đang ngồi nghỉ ngơi trên cái gốc cây, chí ít cũng nghỉ ngơi hết mức có thể như bất cứ ai khi ngồi trên một gốc cây xù xì như vậy.

“Anh có muốn uống một chút trà hoa cúc không?” cô hỏi. “Bà Gertrude cho em một ít sáng nay đấy. Em có thể pha một ấm cho hai chúng ta”

“Được đó.”

Bầu không khí ấm cúng lan toả giữa hai người khi Roran tiếp tục giặt đống quần áo còn lại. Công việc này làm cho tâm trạng anh trở nên thoải mái; anh thích dùng đôi tay của mình làm một việc gì khác hơn là vung búa lên chiến đấu, và được ở gần Katrina khiến anh cảm thấy thoải mái tột cùng.

Trong khi anh đang vắt khô miếng băng gạc cuối cùng, và tách trà mới pha kia đang nằm anh chờ ngay bên cạnh Katrina, thì anh nghe thấy tiếng ai đó đang réo gọi tên hai người từ bên kia của con đường tấp nập. Phải mất một lúc Roran mới nhận ra đó là Baldor đang chạy xuyên qua lớp bùn đất, xuyên qua giữa dòng người và ngựa, để tiến về phía họ. Cậu ta đeo một chiếc tạp dề thủng lỗ chỗ và một chiếc găng tay nặng nề dài tới khuỷu tay dính đầy nhọ, và cũ kĩ tới mức phần da ở các ngón tay cứng, nhẵn và sáng bóng như mai rùa. Một mẩu da rách nát buộc lại mái tóc đen, và xù xì của cậu, còn trán thì đầy nếp nhăn. Baldor thấp hơn cha cậu, chú Horst, và cả anh trai cậu, Albriech, nhưng cậu ta lại to con với những cơ bắp cuồn cuộn, đó là kết quả của việc cậu dành cả thời thơ ấu phụ giúp cha cậu trong xưởng rèn của ông. Cả ba cha con họ đều không tham gia trận chiến ngày hôm nay – vì thông thường thì những thợ rèn lão luyện quá quí giá để có thể để họ mạo hiểm trên chiến trường – mặc dù Roran ước gì Nasuada để họ chiến đấu, vì họ là những chiến binh có tài và Roran biết anh có thể trông cậy vào họ kể cả trong những hoàn cảnh khốc liệt nhất.

Roran đặt đống đồ giặt xuống và lau khô hai tay, phân vân xem có chuyện gì không ổn. Đứng dậy khỏi gốc cây, Katrina tiến lại gần anh cạnh chậu giặt.

Khi Baldor tới nơi, hai người phải đợi cậu vài giây đồng hồ để thở. Rồi sau đó, một cách vội vàng, cậu ta nói, “Đi nhanh nào. Mẹ em đang lâm bồn, và...”

“Dì ấy đâu?” Katrina bình tĩnh hỏi.

“Trong lều của nhà em.”

Cô gật đầu. “Anh chị sẽ đến đó nhanh nhất có thể.”

Khuôn mặt lộ ra vẻ cảm ơn, Baldor quay người và chạy nhanh về.

Khi Katrina chui vào lều, Roran dội chậu nước vào đống lửa, làm nó tắt ngấm. Khi chậu nước đổ xuống, những thanh củi đang cháy kêu lên xèo xèo, một đám hơi nước bốc hơi lên cao từ đống lửa thay vì khói, khiến không khí tràn ngập một thứ mùi khó chịu.

Sự sợ hãi và hưng phấn làm cho Roran vội vàng hẳn lên. Mình hy vọng dì không sao, anh nghĩ, khi nhớ lại cuộc trò chuyện của đám phụ nữ mà anh nghe được về tuổi tác của dì và việc mang bầu hơi lâu hơn so với bình thường của dì. Dì Elain luôn luôn đối tốt với anh và Eragon, và anh cũng rất quý dì.

“Anh chuẩn bị xong chưa?” Katrina hỏi khi cô bước ra khỏi lều, quấn thêm một chiếc khăn quàng màu xanh quanh đầu và cổ.

Anh chộp lấy thắt lưng và búa khỏi móc treo rồi nói: “Được rồi. Chúng ta đi nào.”

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #ntdpro