Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

eragon 4 ( ra di > hoi dong chien tranh)

RA ĐI

Đầu tiên, Eragon nhờ Garven bí mật cử một Chim Ưng đen đi thu xếp vật dụng cần thiết cho cuộc hành trình. Saphira sau khi chiếm Dras – Leona đã đi ăn nhưng cô nàng không ăn nó vì nếu không sẽ bay rất chậm và khó lòng bay cao. Vì thế giờ cô nàng ăn thêm rồi bay một mạch tới Vroengard, nhưng một khi tới đó, Eragon biết cô nangg sẽ sớm phải đi tìm thức ăn trong hoặc xung quanh hòn đảo. Nó rất lo về ván đề này.

Em luôn có thể bay về với cái bụng rỗng, cô nàng an ủi nó nhưng nó không tin.

Tiếp đó, Eragon gửi một người đưa tin tới Jörmundur vàBlödhgarm yêu cầu họ tới lều. Khi họ tới, Eragon, Arya và Saphira dành thêm một tiếng nữa nói cho họ tình hình của mình – lần này còn khó giải thích hơn – rằng chuyến đi này là cần thiết. Họ dễ dàng thuyết phục Blödhgarm nhưng Jörmundur thẳng thừng phản đối. Không phải vì ông nghi ngờ thông tin của Solembum hay vì ông nghi ngờ tính quan trọng của nó – về cả hai vấn đề này ông đều chấp nhận lời của Eragon mà không hỏi gì thêm – nhưng, ông càng lúc càng tranh cãi mạnh hơn về vấn đề này sẽ hủy hoại quân Varden khi họ tỉnh dậy và phát hiện ra không chỉ Nasuada bị bắt cóc mà Eragon và Saphira cũng đã biến đi đâu không biết.

“Hơn nữa, chúng ta không dám để Galbatorix nghĩ rằng hai người đã rời đi,” Jörmundur nói. “Nhất là khi chúng ta đã tới gần Urû’baen. Có thể lão sẽ cử Murtagh và Thorn tới chặn đường ngài. Hoặc lão sẽ lợi dụng cơ hội này để đè bẹp quân Varden một lần và mãi mãi. Chúng ta không thể liều.”

Eragon buộc phải công nhận rằng lo lắng của ông có lý.

Sau khi thảo luận một lúc lâu, cuối cùng họ đi tới giải pháp: Blödhgarm và các thần tiên khác sẽ tạo nên bản sao của Eragon và Saphira, như hồi họ đã tạo ra bản sao Eragon khi nó tới núi Beor để tham gia buổi chọn người kế vị Hrothgar.

Hình ảnh xuất hiện dần trở thành một bản sao sống biết suy nghĩ, biết thở của Eragon và Saphira, nhưng đầu óc chúng trống rỗng, và nếu ai đó tiếp cận đầu óc họ, họ sẽ biết ngay. Vì thế, bản sao của Saphira không biết nói và mặc dù các thần tiên có thể tạo giọng nói cho bản sao Eragon, nhưng cách phát âm kỳ cục sẽ khiến những người nghe phát hiện. Những nhược điểm của bản sao là mọi người chỉ nên thấy chúng từ đằng xa và những người gần gũi với họ - như vua Orrin hay Orik – sẽ mới nhận ra.

Vì thế Eragon ra lệnh cho Garven đánh thức tất cả các Chim Ưng Đêm và cho họ tới gặp nó ngay. Khi toàn bộ đội đã tập hợp trước lều nó, Eragon giải thích cho nhóm người, người lùn và Urgal biết vì sao nó và Saphira phải đi, dù nó chỉ nói mù mờ về chi tiết và giữ bí mật về chuyện nó tới đâu. Sau đó nó giải thích các thần tiên sẽ che giấu sự vắng mặt của chúng như thế nào và nó bắt những người hộ vệ kia thề giữ bí mật bằng ngôn ngữ cổ. Nó tin họ, nhưng cẩn tắc vô áy náy vì biết đâu Galbatorix có cài cắm mật thám ở đây.

Sau đó, Eragon và Arya tới gặp Orrin, Orik và Roran và cả bà phù thủy Trianna. Cũng giống như với đội Chim Ưng Đen. Họ giải thích tình hình và buộc họ thề giữ bí mật.

Đúng như Eragon đoán, vua Orrin là người khó chơi nhất. Ông tỏ ra phẫn nộ trước việc Saphira và Eragon sẽ tới Vroengard và không chấp nhận ý kiến này. Ông nghi ngờ lòng dũng cảm của Eragon, về thông tin của Solembum và đe dọa sẽ rút quân đội khỏi Varden nếu Eragon tiếp tục theo đuổi thứ ngu ngốc không rõ ràng thế. Nó mất một tiếng đe dọa, nịnh nọt ông mới đồng ý, mà cả cho tới sau đó, nó vẫn sợ ông đổi ý.

Chuyến tới thăm Orik, Roran và Trianna ngắn hơn, nhưng Eragon và Arya vẫn phải mất lúc lâu để nói chuyện với họ. Sự mất kiên nhẫn làm nó cộc cằn; nó muốn đi, và mỗi phút trôi qua chỉ làm cho nó thêm khẩn trương.

Saphira vẫn ở lại lều và những tiên nhân bao quanh, tay mở rộng và đầu ngón tay chạm vào khi họ hát. Mục đích của câu thần chú dài và phức tạp của họ là nhằm thu thập những thông tin cần thiết để tạo ra bản sao của Saphira. Tạo ra bản sao một con người hay thần tiên đã khó; một con rồng còn khó hơn, đặc biệt trong việc tạo nên những cái vảy sống động. Blödhgarm đã nói cho Eragon biết phần khó nhất của quá trình là tạo ra cho bản sao có sức nặng ảnh hưởng lên các vật xung quanh khi cất cánh hay hạ cánh như thật.

Khi Eragon và Arya cuối cùng đi thăm mọi người xong, đêm đã gần sang ngày và mắt trời đã lấp ló đằng chân trời. Dưới những tia sáng ban mai, những thiệt hại trong đêm giờ trông nặng nề hơn.

Eragon sẽ rất hạnh phúc được ra đi cùng Saphira và Glaedr, nhưng Jörmundur khăng khăng buộc nó phải ra mặt quân Varden một lần trên cương vị chỉ huy mới.

Thế là, ngay sau đó, một khi tập hợp quân đội, Eragon ngồi đằng sau một xe ngựa, nhìn vào những gương mặt đang hướng lên – người và những giống loài khác – và nó ước gì nó không ở đây.

Eragon đã hỏi xin Roran lời khuyên, và Roran trả lời. “Hãy nhớ, họ không phải kẻ thù của em. Em không phải sợ họ. Họ muốn giống em. Hãy nói rõ ràng, rành mạch, trung thực và dù em làm gì, cũng đừng để họ nghi ngờ em. Thế là em sẽ thắng được họ. Họ sẽ sợ và nản lòng nếu như em nói về Nasuada. Hãy trấn an họ và họ sẽ theo em tới bất cứ đâu ở Urû’baen.”

Dù Roran đã động viên nhưng Eragon vẫn thấy run trước bài phát biểu. Nó ít khi phát biểu trước đám đông, và chưa bao giờ nói với cả một đội quân lớn. Khi nó nhìn những người chiến binh đen sạm vì cháy nắng, bị chiến tranh làm gầy mòn, nó quyết định nó thà đánh nhau với một trăm kẻ địch còn hơn đứng trước mặt họ và lo họ sẽ không ủng hộ mình.

Tới lúc mở miệng Eragon vẫn không biết sẽ nói gì. Khi nó bắt đầu, từ ngữ như thể cứ thế trôi ra nhưng nó quá căng thẳng, không nhớ nổi những gì mình nói. Bài phát biểu trôi qua, ấn tượng còn lại của nó là nóng nực và toát mồ hôi, tiếng rên rỉ của những người lính khi biết tới số phận của Nasuada, tiếng tung hô khi nó cổ vũ họ tới chiên thắng và tiếng hét vang hòa chung vào nhau khi nó kết thúc. Nó nhẹ nhõm nhảy xuống đi tới nơi Arya và Orik đang đứng đợi cạnh Saphira.

Trong lúc đó, những lính bảo hộ của nó hình thành một vòng tròn bao quanh bốn người, tách họ khỏi đám đông và cản những người muốn nói chuyện với nó lại.

“Làm tốt lắm, Eragon!” Orik vỗ tay nói.

“Thật sao?” Eragon hoa mày chóng mặt hỏi.

“Chàng hùng biện giỏi nhất,” Arya nói.

Eragon nhún vai và xấu hổ. Nó nhớ Arya biết hầu hết các chỉ huy của Varden và nó không thể nghĩ tới Ajihad hay người tiền nhiệm của nó, Deynor. Có thể họ phát biểu còn hay hơn.

Orik kéo tay áo nó. Eragon cúi người. Bằng giọng đủ to để lấn át đám đông, Orik nói. “Ta hy vọng cậu sẽ tìm thấy thứ đáng giá trong chuyến đi này, bạn của ta. Cẩn thận đừng bị giết nhé?”

“Tôi sẽ cố.”

Eragon ngạc nhiên vì anh ta kéo tay nó và ôm lấy nó. “Gûntera sẽ bảo vệ cậu.” Khi tách ra, Orik vươn tay vỗ lên người Saphira. “Và cả cô nữa, Saphira. Thượng lộ bình an.”

Saphira rền giọng đáp lại.

Eragon nhìn Arya. Nó tự nhiên thấy lóng ngóng không biết phải nói gì. Đôi mắt đẹp của nàng vẫn dán vào nó; tầm ảnh hưởng của nàng trên nó chưa bao giờ nhạt đi.

Sau đó nàng giữ đầu nó, hôn lên lông mày nó.

Eragon nhìn nàng chăm chăm, tâm trí bay đâu mất.

“Guliä waíse medh ono, Argetlam.” Chúc chàng may mắn, Bàn tay bạc.

Khi nàng thả tay, nó nắm lấy tay nàng. “Chúng tôi sẽ không gặp gì xấu. Tôi sẽ không để nó xảy ra. Dù cho Galbatorix có đợi chúng tôi. Nếu buộc phải làm, tôi sẽ sẵn sàng dùng tay xé toang những ngọn núi, nhưng tôi hứa, chúng tôi sẽ an toàn trở về.”

Trước khi nàng đáp lại, nó thả tay nàng ra và trèo lên lưng Saphira. Đám đông lại hét vang khi nhìn thấy nó lên yên. Nó vẫy tay với họ, họ càng reo hò lớn hơn, dậm chân và dùng chuôi kiếm gõ lên khiên.

Eragon thấy Blödhgarm và các thần tiên khác tụ thành một nhóm, một nửa ở sau lều lớn gần đó. Nó gật đầu với họ và họ cũng gật đầu đáp lại. Kế hoạch rất đơn giản: nó và Saphira sẽ đi như thể họ chỉ định bay lên trời và phóng về vùng đất phía trước – như họ thường làm khi quân đội hành quân – nhưng sau khi bay lượn vài vòng, Saphira sẽ bay lẫn vào những đám mây, và Eragon sẽ niệm chú giấu cô nàng khỏi những người đang quan sát bên dưới. Sau đó, các thần tiên sẽ bóng Eragon và Saphira trong khi họ vẫn tiếp tục cuộc hành trình, trông như thể họ trồi lên từ các đám mây. Hy vọng là không ai nhận ra sự khác biệt.

Eragon ấn chặt chân trên bàn đạp và kiểm tra túi đằng sau để chắc chắn túi đã đậy nắp cẩn thận. Nó đặc biệt quan tâm tới cái túi bên trái, vì có thứ được gói trong đó – lẫn trong đống quần áo và chăn – là cái hộp viền nhung đừng trái tim quý giá của Glaedr, Eldunarí của ông.

Chúng ta đi thôi, ông rồng già nói.

Tới Vroengard! Saphira reo lên và cả thế giới rung lắc xung quanh Eragon khi cô nàng nhảy khỏi mặt đất, một trận gió tạt vào nó khi cô nàng vỗ đôi cánh to tướng trông như cánh dơi, đưa họ lên càng lúc càng cao.

Eragon nắm chặt dây cương phía trước, cúi thấp đầu để tránh hướng gió và nhìn vào bộ yên cương da bóng loáng. Nó hít một hơi sâu và cố không lo lắng về những thứ họ bỏ đằng sau cùng những điều đợi chờ họ phía trước. Họ không thể làm gì khác ngoài chờ đợi – chờ đợi và hy vọng Saphira có thể bay tới Vroengard và trở về trước khi quân Triều đình một lần nữa tấn công Varden; hy vọng Roran và Arya có thể an toàn; hy vọng rằng nó sẽ tìm ra cách cứu Nasuada; và hy vọng tới Vroengard là quyết định chính xác, vì thời gian nó phải đối mặt với Galbatorix càng lúc càng gần.

ĐAU KHỔ VÌ KHÔNG CHẮC CHẮN

Nasuada mở mắt.

Gạch lát che phủ trần nhà hình vòm tối tăm. Trên đó là họa tiết hình chữ nhật mang màu đỏ, xanh lơ và vàng kim: một ma trận phức tạp những đường kẻ khiến cô bần thần nhìn chăm chú.

Cuối cùng cô cố tập trung để nhìn đi chỗ khác.

Một ánh sáng vàng cam tỏa ra từ đâu đó đằng sau. Ánh sáng đủ mạnh để cô nhìn rõ căn phòng hình bát giác, nhưng lại quá mờ ảo để đẩy lùi bóng tối như sương mù phủ ở các góc phòng.

Cô nuốt nước bọt. Cổ họng cô khô rang.

Cô đang nằm trên mặt sàn lạnh lẽo, trơn nhẵn và cứng đến khó chịu. Cơn lạnh luồn lách trong xương và khiến cô nhận ra cổ chị mặc một chiếc váy ngủ trắng mỏng.

Mình đang ở đâu?

Ý ức tràn về cùng lúc không có cảm xúc hay thứ tự: Một loạt hình ảnh không vui vẻ gì ập vào đầu óc cô khiến đầu óc cô căng ra.

Cô thở hổn hển và cố ngồi thẳng dậy – để chạy trốn hoặc để chiến đấu nếu cô có thể - nhưng cô phát hiện mình không thể di chuyển nổi vài centimet. Cô đeo cùm ở tay và chân, một thắt lưng da ấn chặt đầu cô vào phiến đá, không cho cô ngồi lên hay trở mình.

Cô căng người lên nhưng xích quá chắc khiến cô không thể nào làm đứt nổi.

Cô thở ra và nằm im nhìn lên trần. Nhịp tim đập nện lên tai cô như tiếng trống đánh điên cuồng. Cô nóng người; má cô nóng, tay và chân có cảm giác như bị bôi mỡ.

Vậy là mình sẽ chết thế này đây.

Trong một lúc, sự tuyệt vọng và tự tiếc thương bản thân lấn át lý trí cô. Cô còn chưa đi hết đoạn đầu đời chứ n ói gì tới kết thúc, mà đặc biệt lại theo cái cách kinh tởm nhất thế này. Tệ hơn, cô không còn gì. Không còn kháng chiến, không còn tình yêu, không con cái và không có cả cuộc sống. Đứa con duy nhất của cô chỉ có chiến trận và những xác chết cùng những thứ cần thiết cho nó: quá nhiều mưu kế đến nỗi cô không nhớ nổi; những lời thế vì tình bạn và lòng trung thành giờ chẳng bằng lời hứa của diễn viên kịch câm; và đội quân quá yếu, què quặt và hay cau có được dẫn dắt bởi một Kỵ sĩ còn trẻ hơn cô. Có lẽ sẽ chẳng có nhiều người nhớ tới tên cô. Cô là người duy nhất còn lại trong dòng họ mình. Và khi cô chết, dòng họ cô sẽ tuyệt hậu.

Ý nghĩ đó làm cô đau và cô tự mắng nhiếc mình vì sao không sinh con khi có cơ hội.

“Con xin lỗi,” cô thì thầm, như nhìn thấy gương mặt cha trước mặt.

Sau đó cô phục hồi lại tinh thần và dẹp nỗi tuyệt vọng sang một bên. Cô chỉ tự kiểm soát bản thân mình mới vượt qua nổi tình hình này và cô không định buông xuôi mình gặm nhấm những sự nghi ngờ, nỗi sợ và hối hận. Miễn cô còn làm chủ đầu óc mình, cô sẽ không hoàn toàn vô vọng. Dù chỉ là chút tự do nhỏ nhoi nhất – tự do trong tư tưởng – nhưng thế là đủ, vì cô biết cô sẽ sớm không còn tự do.

Nhưng dù sao cô vẫn còn một nhiệm vụ phải làm: ngăn cản những câu hỏi của chính mình. Cô cẩn kiểm soát bản thân tới phút cuối đời. Nếu không, cô sẽ nhanh chóng bị gục ngã.

Cô thở chậm lại để bình tĩnh vượt qua các cảm xúc khác. Sau đó cô quyết định nên nghĩ về cái gì cho an toàn. Có rất nhiều vấn đề nguy hiểm – cho cô, cho Varden, cho quân đồng minh hoặc cho Eragon và Saphira. Cô không xem xét lại những vấn đề cô cần tránh, có thể sẽ đưa cho kẻ cai ngục ngoài kia thông tin hắn cần. Thay vào đó, cô nghĩ tới những hồi ức và suy tưởng vô hại – tự thuyết phục mình rằng mọi thứ mình đang có, đã có bao gồm những thứ nhỏ bé đó.

Cô cố gắng tạo nên một con người mới và đơn giản hơn để khi bị thẩm gia, cô có thể hoàn toàn tỏ ra ngu ngốc. Đây là một kỹ xảo nguy hiểm; để thành công, cô buộc phải tin cô thực sự như vậy, và nếu cô có ngày tự do, cô sẽ rất khó lấy lại tính cách thật sự của mình.

Nhưng mà cô nào có cơ hội được tự do hay giải cứu. Hy vọng của cô nằm trong tay kẻ bắt giữ cô kìa.

Gokukara, hãy cho con sức mạnh để chịu đựng hoàn cảnh trước mắt. Hãy bảo vệ con cú nhỏ bé của người, và nếu con chết, hãy mang con an toàn rời khỏi nơi này... nang con tới vùng đất của cha con.

Cô nhìn khắp căn phòng lát gạch kỹ lưỡng hơn. Cô đoán đang ở Urû’baen. Murtagh và Thorn chỉ có thể mang cô tới đây và nó giải thích cho phong cách thần tiên của căn phòng; các thần tiên đã xây dựng rất nhiều kiến trúc ở Urû’baen, thành phố họ gọi là Ilirea, hoặc trước khi xảy ra chiến tranh cùng loài rồng – từ rất, rất lâu rồi – hoặc sau khi thành phố trở thành thủ đô của Đế chế Broddring thời các Kỵ sĩ Rồng.

Hoặc như cha cô đã nói. Cô không nhớ gì về thành phố quê hương mình.

Nhưng cô cũng có thể ở một nơi hoàn toàn khác; một trong những dinh cơ riêng của Galbatorix chẳng hạn. Hoặc một căn phòng không có thật. MỘt pháp sư quyền năng có thể tạo ra cho cô mọi thứ cô đang thấy, cảm thấy, nghe thấy, ngửi thấy và làm thế giới xung quanh cô méo mó đi mà cô không hay biết.

Dù chuyên gì đang xảy ra – hoặc dường như xảy ra – cô cũng không được để bản thân bị lừa. Kể cả nếu Eragon xông vào cắt dây trói cho cô, cô cũng vẫn phải tin là trò bịp của kẻ bắt cóc. Cô không dám tin vào các giác quan.

Lúc Murtagh bắt cô khỏi doanh trại, thế giới đã trở nên dối trá và cô không thể biết bao giờ mới hết dối trá. Cô chỉ chắc chắn rằng mình còn sống. Ngoài ra tất cả đều phải nghi ngờ, kể cả suy nghĩ của cô.

Sau khi cú shock lúc đầu qua đi, khoảng thời gian chờ đợi mòn mỏi làm cô mệt mỏi. Cô không biết mấy giờ mà chỉ thấy mình đói khát. Cơn đói cứ tăng dần. Cô thử đếm số để tính giờ nhưng rồi chán và cô luôn quên mình đếm đến đâu khi đếm tới chục ngàn.

Dù cô biết ác mộng đang chờ đợi mình nhưng cô lại mong kẻ bắt cóc sẽ xuất hiện sớm. Cô hét lên mấy phút nhưng chỉ có sự im lặng trả lời cô.

Ánh sáng vàng vọt đằng sau chưa một lần xao động; cô đoán nó giống với ngọn đèn không dùng lửa của người lùn. ÁNh sáng khiến cô khó ngủ nhưng rồi sự kiệt sức chiến thắng. Cô lơ mơ thiếp đi.

Cô sọ nằm mờ. Cô dễ bị giết nhất khi đang ngủ và cô sợ đầu óc không tỉnh táo sẽ tiết lộ những thông tin cô muốn che giấu. Nhưng cô có nhiều lựa chọn đâu. Dù sớm dù muộn, cô vẫn phải ngủ và bắt mình thức chỉ khiến sức khỏe tệ hơn.

Thế là cô ngủ. Nhưng giấc ngủ không sâu và cô vẫn thấy mệt khi tỉnh dậy.

Một tiếng bùm khiến cô giật mình.

Ở đâu đó phía trên và đằng sau, cô nghe có tiếng mở then cửa và tiếng cọt kẹt của cánh cửa mở ra.

Nhịp tim của cô tăng lên. Cô đoán một ngày đã qua từ lúc tỉnh dậy. Cô khát tới khô cô, lưỡi dính lên vòm hongj và toàn bộ cơ thể đau nhừ tử vì nằm một chỗ quá lâu.

Tiếng chân đi xuống cầu thang. Tiếng bốt mềm đi trên đá. Dừng lại. Tiếng kim loại leng keng? Chìa khóa? Dao? Hay cái gì đó kinh khủng hơn?... Rồi tiếng bước chân tiếp tục. Giờ họ đang tới gần cô. Gần hơn... gần hơn.

Cô thấy một gã đàn ông béo tốt mặc áo trấn thủ len xám mang theo một đĩa thức ăn: bơ, bánh mỳ, thịt,, rượu và nước. Hắn dừng lại và đặt đĩa lên bệ tường rồi quay người tiến tới chỗ cô với sải chân ngắn, nhanh và chuẩn xác. Khá thanh lịch.

Gã ta thở khò khè dựa vào tấm ván mà nhìn cô. Đầu hắn giống hình quả bầu: phình trên phình dưới và tóp giữa. Hắn ta mày râu nhẵn nhụi tới mức gần như hói, trờ chút tóc đen, cắt ngắn. TRán gã sáng bóng, cái má nần nẫn thịt hồng hào còn môi xám như màu áo trấn thủ. Ánh mắt gã chẳng có gì đặc biệt: nâu híp.

Hắc tặc lưỡi và cô thấy răng hắn đua ra như bàn cào khiến hắn hắn hơi vổ.

Hơi thở ấm và ấm ướt của hắn hơi mùi gan và tỏi. Cô thấy buồn nôn.

Cô thừa biết mình đang trong tình trạng không một mảnh vải che thân. Cô cảm thấy mình không có sức chống cự giống như một thứ đồ chơi hay thú cưng bày ra đó. GIận dữ và mỉa mai khiến cô nóng má.

Không đợi hắn nói ra, cô cố nói, hỏi lấy nước nhưng cô họng cô khô cháy; cô chỉ có thể kêu trong họng.

Gã mặt đồ xám tặc lưỡi và tháo dây xích dưới sự ngạc nhiên của cô.

Khi vừa được thả ra, cô ngồi thẳng dậy, dùng tay phải như một lưỡi dao đánh vào cổ gã.

Hắn tóm lấy cổ tay cô dường như chẳng tốn sức mấy. Cô gầm gừ và dùng ngón tay kia chọc vào mắt gã.

Hắn lại tóm cổ tay cô. Cô giằng ra nhưng hắn nắm quá chặt ; cổ tay cô như thể bị giam trong đá.

Cô thất vọng ngả người về đằng trước và cắn vào tay hắn. Máu ngập trong mồm cô có mùi mằn mặn và mùi đồng. Cô ngưng thở nhưng vẫn cắn sâu xuống mặc cho máu chảy ra dưới môi. GIữa răng và lưỡi, cô cảm nhận được cơ bắp của gã căng ra xẹp xuống như hàng trăm con rắn đang tìm đường thoát.

Ngoài ra, hắn không phản ứng gì.

Cuối cùng, cô thả tay hắn ra và nhổ máu vào mặt hắn.

Kể cả lúc đó gã vẫn không tỏ thái độ, thậm chí chẳng chớp mắt hay tỏ ra đau hay tức giận.

Cô giằng tay ra lần nữa rồi quăng chân và hông sang đã vào bụng hắn.

Trước khi cô kịp đá trúng đích, hắn thả tay trái cô ra và tát mạnh vào mặt cô.

Cô nổ đom đóm mắt và sự bùng bổ im lặng dường như bùng phát. Mặt cô lệch sang một tên, răng nghiến ken két và cơn đau chạy dọc sống lưng lên tới sọ.

Khi nhìn rõ, cô ngồi nhìn chăm chăm gã nhưng không định tấn công thêm lần nữa. Cô hiểu mạng sống của cô nằm trong tay gã... Cô hiểu cô cần tìm thứ gì đó cắt cổ họng hắn hoặc đâm vào mắt hắn nếu muốn thắng hắn.

Hắn thả tay kia của cô ra và lấy từ trong áo ra một chiếc khăn tay trắng. Hắn lau vết máu và nước bọt trên mặt hắn. Sau đó, hắn buộc khăn tay quanh cánh tay và dùng hàm răng vổ giữ một đầu vài (bẩn)

Cô giật lùi khi hắn vươn tay ra cầm lấy chân cô bằng đôi tay thô kệch. Hắn cái còng xám ra và chân cô chạm đất. Cô như một con búp bê hắn nắm trên tay.

Hắn nhấc bổng cô lên. Lần này, chân cô chạm đất. Hắn giúp cô tới một chiếc cửa nhỏ cô không thể thấy khi nằm. Bên cạnh đó là một cầu thang ngắn dẫn tới căn phòng thứ hai rộng rãi hơn – cùng cánh cửa gã cai ngục vừa bước vào. Ở giữa phòng có một khung sắt đóng chặt nhưng đằng sau nó cô thoáng thấy một bức tranh theo treo trên bức tường đá nhẵn nhụi.

Hắn đẩy cửa mở và dẫn cô vào một căn phòng bí mật hẹp. Cô an tâm vì hắn bỏ cô một mình. Cô tìm trong căn phòng xem có gì dung được làm vũ khí hay để trốn thoát, nhưng chung quanh cô chỉ có bụi, mùn cưa và vệt máu khô.

Thế cô đành làm những gì cần làm và sau khi đi ra khỏi căn phòng, gã đồ xám bóng nhẫy mồ hôi nắm tay cô dẫn về phiến đá xích.

Khi tới gần, cô bắt đầu đấm đá giãy giụa; cô thà bị đau còn hơn để hắn xích cô lại. Nhưng cô không thể nào khiến hắn dừng lại hay chậm bước. Hắn như sắt thép dưới những cú đấm đá của cô.

Hắn xử lý cô dễ dàng như với một đứa bé, hắn nhấc cô đặt tên tấm đá, đè vai cô xuống, xích chân tay cô lại. Cuối cùng, hắn khóa thắt lung trên đầu cô để giữ cô nằm yên nhưng không bị đau.

CÔ mong hắn sẽ đi ăn trưa – hoặc tối hay gì cũng được – nhưng hắn lại mang tới cho cô và đưa cô uống cốc rượu pha nước.

Cô khó lòng uống khi nằm ngửa vì thế cô phải nuốt thật nhanh. Cảm giác rượu trôi xuống họng thật dễ chịu và mát.

Khi cốc rượu đã hết, gã đặt nó sang một bên và cắt bánh mì và bơ rồi giơ trước mặt cô.

“Cái gì…” cô nói, giọng nói cuối cùng cũng trở lại. “Tên anh là gì.”

Gã nhìn cô vô cảm. Cái trán dô của hắn sang bóng dưới ngọn đèn không dùng lửa.

Hắn đẩy bánh mỳ và pho mát trước mặt cô.

“Anh là ai?... Đây là Urû’baen sao? Anh cũng là tù nhân à? CHúng ta có thể giúp nhau. Galbatorix không thể biết tất cả. Chúng ta có thể cùng tìm cách trốn. Tôi thề là dù chuyện này có vẻ không tưởng nhưng chúng ta có thể làm được.” Cô nói nhỏ và bình tĩnh, hy vọng gã sẽ đồng cảm hay hứng thú.

Cô biết cô có khả năng thuyết phục người khác – hàng giờ đại diện của Varden thương lượng đã chứng minh năng lực của cô – nhưng dường như từ ngữ của cô chẳng ảnh hưởng gì tới gã. Ngoại trừ thở, gã như người chết rồi khi chỉ đưa đó chìa bánh mỳ pho mát ra. Cô bỗng nghĩ có khả năng hắn điếc nhưng nhanh chóng loại bỏ vì vừa rồi hắn nghe thấy cô xin nước.

Cô nói hết nước hết cái và khi dừng lại – để tìm cách nói khác – gã đặt bơ và bánh mỳ lên môi cô và giữ nguyên đó. CÔ tức giận buộc hắn bỏ đi, nhưng tay hắn không buông, gã tiếp tục nhìn vào cô bằng vẻ lãnh cảm, vô tình như cũ.

Cô dựng tóc gáy khi nhận ra gã không bị ảnh hưởng; lời nói của cô không là gì với gã. Cô sẽ hiểu nếu gã ghét cô hoặc nếu hắn thích tra tấn cô, hoặc hắn là nô lệ vâng lệnh Galbatorix, nhưng dường như đều không đúng. Hắn khác biệt, thiếu những cảm xúc nhỏ nhất. Cô không nghi ngờ gì rằng hắn sẽ giết cô nếu muốn, như khi một ngươi di chết một con kiến.

Cô thầm chửi rủa, mở miệng và để hắn đặt bánh mỳ pho mát lên đầu lưỡi, dù thực tâm cô muốn cắt đứt ngón tay hắn.

Hắn cho cô ăn. Như một đứa bé. Hắn dùng tay bón thức ăn cẩn thận như thể miệng cô là một khối cầu mỏng manh dễ vỡ.

Một cảm xúc chôn vùi sâu bên trong trào dâng. Cô là lãnh tụ tối cao của đội quân đồng minh lớn nhất trong lịch sử Alagaësia. Nhưng cô là con gái cha cô. Cô đã sống trong cái nóng, cái bụi của Surda, giữa những tiếng rao hàng của lái buôn trong những khu chợ đông đúc. Cô chỉ là thế. Coi không được phép tự kiêu, không được gục ngã.

Nhưng cô ghét gã. Cô ghét mình bị bón ăn trong khi cô tự mình ăn được. Cô ghét rằng Galbatorix, hoặc ai đang quan sát cô, đang cố hạ nhục nhân phẩm của cô. Và cô ghét rằng, ở một mức độ nào đó, họ đã thành công.

Cô quyết định rằng mình sẽ giết gã. Nếu cô còn muốn cái gì trong đời thì đó là mạng sống của gã cai ngục. Ngoài trốn thoát ra, không còn gì có thể cho cô sự hài lòng tương đương. DÙ sao mình cũng phải tìm được cách.

Cô hài lòng và ăn hết phần còn lại.

Khi cô ăn xong, gã cầm cái khay rời đi.

Cô nghe tiếng bước chân hắn tới cánh cửa, đóng cửa và cài then ra đi. Sau đó tiếng bước chân xa dần.

Một lần nữa cô lại một mình, chờ đợi và tìm cách giết người.

Cô lại mất một lúc nhìn những đường kẻ trong hoa văn xem nó kết thúc và bắt đầu từ đâu. Cô chonj đường kẻ màu xanh lơ; màu tượng trưng cho con người cô không dám nghĩ tới.

Sau đó, cô chán và với ý muốn trả thù, cô nhắm mắt lại và ngủ lơ mơ khoảng vài giờ, với những cơn ác mộng ngược đời.

Khi gã đàn ông mặc đồ xám quay lại, cô gần như mừng vì gặp gã. Cô khinh thường bản thân vì cảm xúc này, coi đó là một điểm yếu.

Cô không chắc mình đã đợi bao lâu – sao biết chắc khi không ai nói cho biết – nhưng cô biết hắn tới sớm hơn lần trước. Nhưng, chờ đợi vẫn dài dằng dặc và cô sợ rằng cô bị bỏ lại một mình – nhưng chắc chắn không phải không ai để ý. Cô ghét khi mình mừng vì gã tới thăm cô thường xuyên hơn đã nghĩ. Nằm trên một phiến đá phẳng đã đủ đau đớn rồi, đừng nói là còn không được giao tiếp với bất kỳ sinh vật sống nào – kể cả một kẻ bị thịt và đáng ghét như gã cai ngục này.

Khi gã mở khóa, cô thấy vết thương trên tay hắn đã lành, da hẵn mịn và hồng như da lợn sữa.

Cô kiềm chế không đánh gã nhưng trên đường tới phòng nhỏ, cô giả vờ bị choáng ngã, hòng tới gần đĩa thức ăn cướp con dao nhỏ dùng để cắt thức ăn. Nhưng đĩa quá xa, gã quá nặng cứ lôi cô xềnh xệch khi không biết ý định của cô. Kế hoạch thất bại và cô buộc mình phải bình tĩnh trong suốt quá trình gã chăm sóc cô; cô cần thuyết phục gã rằng cô đã từ bỏ và hắn sẽ lơi là hoặc may mắn hơn, trở nên bất cẩn.

Trong khi gã cho cô ăn, cô quan sát móng tay gã. Lúc trước cô quá tực giận không để ý, nhưng giờ khi bình tĩnh hơn, cô thấy nó khác tường.

MÓng tay hắn dày và khá cong. Chúng nằm sâu trong da và phần da thừa trên móng lớn và rộng. MÓng tay hắn không giống người hay người lùn nào cô từng gặp.

Cô gặp họ lúc nào nhỉ?... Cô không nhớ.

Hắn chăm sóc móng khá cẩn thân. Chăm sóc theo cô là một từ miêu tả đúng, vì móng tay hắn như những cây hoa hiếm được người làm vườn quan tâm hàng giờ liền. Tay hắn không hề bị xước móng rô, móng tay cắt gọn gàng – không quá dài không quá ngắn – và được giữa gọn. Phần móng tay hắn bóng như sứ, lớp da xung quanh như thể bôi dầu hoặc bơ.

Trừ các thần tiên, cô chưa thấy gã đàn ông còn trai nào chăm sóc móng kỹ càng tới mức này.

Thần tiên ư? Cô bỏ qua và phát bực với chính mình. Cô có biết thần tiên nào đâu.

Móng tay là một điều bí ẩn; một thứ tạo hóa ban tặng dễ hiệu như kỳ lạ; một bí ẩn cô muốn khám phá, dù tốn công vô ích.

Cô không biết ai chăm sóc móng. Chính hắn sao? Hắn khá khó chiều và cô không tưởng tưởng nổi có một người vợ, con gái hay người hầu nào có thể gần gũi hắn tới mức giúp hắn chăm sóc cả ngón tay. Tất nhiên, cô nhận thấy cô có thể nhầm. Rất nhiều những thương binh mang vết sẹo chiến tranh – những người lầm lì ít nói dường như tình yêu duy nhất đời chỉ là rượu, gái gú và chiến tranh – lại khiến cô ngạc nhiên vì tích cách trái ngược với vẻ ngoài: thích khắc gỗ, nhớ những bài thơ tĩnh lãng mạn hay làm mọi điều vì gia đình để giúp họ sống yên ổn khỏi phần còn lại của thế giới. Cô phải mất rất nhiều năm mới biết Jör—

Cô quên ngay đi trước khi nghĩ xa hơn.

Lúc nào cũng vậy, trong đầu cô luôn vang lên câu hỏi: vì sao? Cô muốn được biết, kể cả khi đề tài đó là móng tay.

Nếu bộ móng tay này là sản phẩm của ai đó, thì họ hoặc là vì tình yêu hoặc vì sợ hãi mà giúp. Nhưng cô vẫn thấy có gì đó sai.

Nếu, chính gã chăm sóc móng thì nghe còn có lý. Có thể chăm sóc móng là cách gã kiểm soát cuộc đời không còn của gã. Hoặc có thể gã thấy đó là phần cơ thể đẹp duy nhất. Hoặc cũng có thể do thói quen thôi.

Dù thế nào đi nữa vẫn có một sự thực rằng một ai đó đã chăm sóc, bôi dầu, bơ cho móng tay gã không hề lơ đễnh chút nào.

Cô tiếp tục ngẫm nghĩ trong khi ăn. Thi thoảng, cô ngước lên nhìn khuôn mặt nặng bì bì của gã tìm một vài dấu hiệu, nhưng không thành công.

Sau khi đã cho cô ăn xong miếng bánh mỳ cuối cùng, gã bước khỏi phiến đá, cần cái đĩa và đi ra.

Cô nhau và nuốt miếng bánh mì nhanh nhất có thể mà không cần thở; sau đó giọng cô khàn khàn cất lên vì lâu không nói, “MÓng tay anh rất đẹp. Chúng rất...bóng.”

Gã dừng bước và cái đầu to, lù đù của gã quay lại nhìn cô. Trong một chốc, cô nghĩ gã sẽ lại đánh cô nhưng rồi đôi môi xám xịt của hắn mở ra thành một nụ cười, nhe hết hai hàm răng trên và dưới.

Cô kiềm chế cơn rùng mình; gã như thể định cắn đứt đầu một con gà.

Sau đó, vẫn với cảm xúc không bình thường đó, gã đi ra khỏi tầm nhìn cuả cô, và vài giây sau, cô nghe có tiếng cửa mở ra và đóng lại.

Nụ cười nở trên môi cô. Tự hào và thích nịnh bợ là những điểm yếu cô có thể khai thác. Nếu cô chỉ giỏi một chuyện thì đó là bắt người khác phục tùng ý chí của mình. Gã đã chìa cho cô một bàn tay – dù chỉ là đầu ngón tay, hay đúng hơn bằng cái móng tay – thế là đủ. Giờ cô có thể trèo lên.

__________________

CĂN PHÒNG CỦA NHÀ TIÊN TRI

Lần thứ ba gã tới thăm, Nasuada còn đang ngủ. Tiếng cửa đập làm cô giật mình thức giấc, tim đập loạn xạ.

Cô mất vài giây mới nhận ra mình ở đâu. Lúc nhận ra, cô chớp mắt và nhíu mày để nước mắt chảy đi. Cô ước gì mình chùi nước mắt đi được.

Cô càng nhăn trán tợn khi nhìn thấy những chấm bẩn do rượu vẩy lên người trong bữa ăn.

Sao hắn quay lại sớm thế nhỉ?

Tim cô chùng xuống khi hắn bước qua với một lò than.Hắn đặt xuống cách phiến đá một quãng. Trên lò than có ba que sắt dài.

Thời khắc cô sợ hãi cuối cùng cũng tới.

Cô cố nhìn vào mắt hắn nhưng hắn không chịu nhìn cô khi lấy đá lửa và que cời lò trong túi giắt nơi thắt lưng ra và đốt bùi nhùi. ÁNh lửa lóe lên và lan tỏa như một bó dây sáng đỏ. Gã cúi xuống, chu môi thổi lửa, nhẹ nhàng như mẹ hôn con và đốm lửa lòe lên thành ngọn lửa nhỏ.

Hắn nhóm lửa trong vài phút, xếp than thành một lơp dày vài cm, khói tỏa lên trên khung sắt bên trên. Cô cứ thần người quan sát dù biết chuyện gì sắp tới. Cả cô và gã đêu không noisl như thế họ quá xấu hổ vì chuyện sắp xảy ra vì cả hai đều biết đó là chuyện gì.

Hắn nhóm lửa tiếp rồi quay lại như thể tới gần cô.

Đừng nhượng bộ, cô nói với mình.

Cô nắm tay thành quyền và nín thở khi hắn tới gần...gần hơn...gần hơn...

Cơn gió nhẹ thổi qua mặt cô khi hắn đi quá. Cô lắng nghe tiếng chân hắn đi vào in lặng khi hắn lên cầu thang rời khỏi phòng.

Cô thở hắt ra khi thư giãn một chút. Giống như bị nam châm hút,, cô nhìn chăm chăm vào những viên than sáng hồng.

Cô liếm môi và nghĩ tới giờ có chút nước uống thì tốt.

Một viên than nảy lên và nứt đôi nhưng căn phòng vẫn trỗng trải.

Khi nằm đó, không thể chiến đấu hay trốn thoát, cô cố không nghĩ. Nghĩ sẽ làm cô yếu lòng. Chuyện gì xảy ra sẽ xảy ra và dù cô có sợ hay căng thẳng thế nào cũng không thay đổi nổi.

Tiếng bước chân mới vang vọng ngoài hành lang: lần này là một nhóm người, vài người đi theo nhịp, vài người không. Họ cùng nhau tạo nên tiếng vọng vang động khiến cô không thể biết có bao nhiêu người. Tiếng chân dừng lại trước cửa. Cô nghe có tiếng người nói nho nhỏ và sau đó hai tiếng bước chân lạch cạch – cô đoán là hắn đi giày đế cứng – vào phòng.

Cánh cửa đóng sầm lại.

Từ trên cầu thang vang lên bước chân đều đặn và thận trọng. Cô thấy cánh tay ai đó đặt một chiếc ghế gỗ chạm trổ.

Một người đàn ông ngồi lên đó.

Hắn to lớn: không béo nhưng vai rộng. Ông ta khoác một chiếc áo choàng dài đen trông nặng nề như thể áo giáp. Ánh sáng tỏa ra từ than và ngọn đèn không dùng lửa mạ vàng lên vẻ ngoài ông ta nhưng các đường nét vẫn khó nhìn nhận do bóng tối. Nhưng dù sao bóng tôi không thể che đi phần đỉnh đầu nhọn trên lông mày được.

Tim cô lỡ nhịp. Sau đó, cố gắng lắm tim cô mới đập nhanh như cũ.

Người đàn ông thứ hai mặc áo choàng không tay màu nâu sẫm và quần chẽn – thêu chỉ vàng – bước tới bên lò than và đứng quay lưng với cô trong khi dùng que sắt gẫy than.

Người đàn ông trên ghế kéo từng ngón găng tay một. Sau đó, ông ta rút hẳn găng tay ra. Da ông ta mang màu đồng.

Khi ông ta nói, giọng trầm, dầy và đầy uy lực. Bất cứ một nhà thơ nào sở hữu chất giọng ngọt ngào này đều có thể được tôn vinh thành một đại thi hào. Giọng nói này khiến cô sởn gai ốc; từ ngữ dường như dòng nước ấm vỗ lên người cô, vỗ về cô, đánh lạc hướng cô và trói buộc cô. Cô nhận thấy nghe ông ta nói cũng nguy hiểm như nghe Elva nói.

“Chào mừng tới Urû’baen, Nasuada, con gái của Ajihad,” người đàn ông ngồi ghế nói. “Chào mừng tới ngôi nhà của ta, bên dưới những phiến đá lâu đời. Lâu lắm rồi nơi này mới đón chào một vi khách cao quý như cô. Tôi có nhiều nhiệm vụ phải làm nhưng từ giờ trở đi, tôi sẽ không nơi là trách nhiệm chủ nhà.” Nói tới cuối, có chút đe dọa lẩn quất trong giọng nói ông ta, giống như móng vuốt xòe khỏi đệm móng.

Cô chưa bao giờ gặp Galbatorix mà chỉ được nghe tả hay xem các bức chân dung, nhưng ảnh hưởng từ lời nói của người đàn ông này lên cô quá mạnh khiến cô thực sự nghĩ ông ta chính là lão bạo chúa.

Cả âm điệu lẫn cách phát âm của lão đều có cái gì đó của cái khác, như thể ngôn ngữ lão nói không phải ngôn ngữ mẹ đẻ. Giọng lão chỉ hơi khác chút xíu nhưng một khi đã để ý cô nhận ra ngay. Cô đoán có thể ngôn ngữ đã thay đổi trong nhiều năm kể từ khi lão ra đời. Đó dường như là cách giải thích có lý nhất, vì cách nói của lão khiến cô nhớ - Không, không, cô chẳng nhớ cái gì.

Lão nhoài người và cô thấy ánh mắt găm lên người cô.

“Cô trẻ hơn ta tưởng. Ta biết tuổi cô đã trưởng thành nhưng vẫn chỉ là một đứa trẻ mà thôi. Cô giống bất cứ đứa nhỏ nào: hiếu động, tự kiêu, ngốc nghếch không biết đâu là điều tốt nhất cho mình – những đứa nhỏ cần sự hướng dẫn của những người lớn tuổi hơn và khôn ngoan hơn.”

“Như ông?” cô nói bằng giọng khinh miệt.

Cô nghe lão cười khúc khích. “Vậy cô muốn thần tiên cai quản chúng ta ư? Tôi là người duy nhất trong giống loài chúng ta có thể khiến họ tránh xa. Với sự hiểu biết của họ, những bô lão già nhất của chúng ta cũng chỉ là những đứa nhỏ không hiểu chuyện , những người lớn không có trách nhiệm.”

“Theo như quan điểm của họ, ông cũng vậy thôi.” Cô không biết lòng dũng cảm của cô tới từ đâu nhưng cô thấy mạnh mẽ và không sợ hãi. Dù lão bạo chúa có định trừng phạt hay không, cô cũng quyết không để lộ tư tưởng.

“À, nhưng ta đã tích lũy được nhiều kiến thức hơn qua nhiều năm. Ký ức của hàng trăm người giờ là của ta. Cuộc sống chất chồng lên cuộc sống: tình yêu, thù hận, những trận chiến, chiến thắng, thất bại, những bài học, những lỗi lầm – đều năm trong đầu ta, thì thầm những điều khôn ngoan vào tai ta. Ta nhớ những thời đại. TROng toàn bộ lịch sử, không có ai như ta, kể cả trong thần tiên.”

“Sao có thể?” cô thì thầm.

Lão di chuyển trên ghế. “Đừng giả bộ với ta, Nasuada. Ta biết Glaedr trao tim cho Eragon và Saphira, và rằng ông ta ở đó cùng Varden vào thời điểm này. Cô hiểu ta đang nói tới nơi nào.”

Cô sợ. Galbatorix đang sẵn sàng nói chuyện về những thứ đó với cô – lão ta muốn, dù nó sẽ tiết lộ quyền năng của lão ta – khiến cô mất hết hy vọng nhỏ nhoi rằng lão định thả cô.

Sau đó lão dùng găng tay phẩy về căn phòng. “Trước khi bắt đầu, cô nên biết đôi chút về nơi này. Khi các thần tiên lần đầu tiên đặt chân tới miền đất này, họ thấy một khe nứt sâu trong vách núi chạy tới các đồng bằng gần đây. Họ đánh giá vách núi này như một bức tường phòng thủ trước các cuộc tấn công của loài rồng, nhưng vết nứt lại là một cái khác. Ngẫu nhiên họ biết rằng hơi nước bốc ra từ vết nứt sẽ khiến những người ngủ cạnh đó sẽ thấy một chút tương lai. Vì vậy, khoảng trăm trăm năm mươi ngàn năm trước, thần tiên đã xây dựng căn phòng này bên trên vêt nứt và cách đây khoảng vài trăm năm, một nhà tiên tri tới sống nơi đây, ngay sau khi các thần tiên rời khỏi Ilirea. Bà ta ngồi ngay chỗ cô nằm, và bà ta giành hàng thế kỷ để tiên mộng những điều đã và sẽ xảy ra.

“Tới lúc trong không khí không còn thứ hiệu lực đó nữa, nhà tiên tri và những người phục vụ rời đi. Bà ta là ai và đã đi đâu thì không ai biết. Người ta không biết tên bà mà chỉ gọi là NHà tiên tri, và có một số câu chuyện cho ta tin rằng bà ta không phải tiên, người lùn hay một dạng gì hoàn toàn. Có thể, trong thời gian bà ta sống, căn phòng này được gọi là Căn phòng của Nhà tiên tri, và giờ nó vẫn mang tên này. – chỉ có điều giờ đây cô mới là nhà tiên tri, Nasuada, con gái của Ajihad ạ.”

Galbatorix mở rộng cánh tay. “Đây là nơi sự thật được tiết lộ. Ta không tha thứ cho bất cứ kẻ nào dám nói dối trong căn phòng này, dù là lời nói dối nhỏ nhất. Ai nằm trên bàn đá kia sẽ là nhà tiên tri đương nhiệm, và dù nhiều người thấy khó lòng làm nổi nhiệm vụ này nhưng lại chưa ai từ chối nó. Cô cũng không khác.”

Chân ghế kéo lê trên mặt sàn. Sau đó cô cảm thấy hơi thở ấm nóng của Galbatorix bên tai. “Ta biết cái này sẽ làm cô bị tổn thương, Nasuada, đau hơn cô tưởng. Cô sẽ phải thay đổi bản thân trước khi lòng tự trọng của cô cho phép cô phục tùng. Dù ở đâu đi chăng nữa thì chuyện thay đổi bản thân luôn là vấn đề khó nhất. Ta hiểu, vì ta không dưới một lần thay đổi chính mình. Nhưng, ta sẽ ở đây giúp đỡ cô vượt qua lần thay đổi này. Cô nên biết ta sẽ không bao giờ nói dối cô. Không một ai trong chúng ta. Không phải trong căn phòng này. Cô có thể nghi ngờ ta nhưng dần già cô sẽ tin ta. Đối với ta nơi này rất linh thiêng và ta thà cắt đứt tay mình còn hơn báng bổ nó. Cô có thể hỏi bất cứ câu hỏi nào, và ta hứa với cô, Nasuada, con gái của Ajihad rằng ta sẽ trả lời thành thật. Với tư cách vua của vùng đất này, ta thề với cô.”

Cô cắn răng không biết nên trả lời sao. Sau đó, cô nghiến răng nói. “Tôi sẽ không bao giờ nói ông nghe điều ông muốn biết!”

Lão cười trầm vang căn phòn. “Cô hiểu nhầm rồi; ta không mang cô tới đây vì ta cần thông tin. Ta đã biết tất cả. Số lượng và cách sắp xếp quân đội; tình trạng lương thực; vị trí đoàn xe tiếp viện; cô định chiếm thành phố này như thế nào; nhiệm vụ, thói quen và khả năng của Saphira cùng Eragon; thanh Dauthdaert cô có lúc ở Belatona; kể cả quyền năng của cô nhóc – phù thủy Elva mà cô đã giữ lại bên mình tới gần đây – tất cả ta đều biết, thậm chí biết nhiều hơn. Ta có nhiều mật thám hơn cô tưởng tượng và ta còn có nhiều cách khác để thu lượm thông tin. Cô không giấu được gì khỏi mắt ta đâu, Nasuada. Vì thế cô không mở miệng cũng thế thôi.

Từ ngữ của lão như giáng búa lên người cô, nhưng cô vẫn cố không để chúng làm cô nhụt chí. :Vậy thì vì sao?”

“Vì sao ta mang cô tới đây ư? Vì, cô gái thân mến ạ, cô có tài chỉ huy, và điều này còn nguy hiểm hơn bất cứ câu thần chú nào. Eragon và cac tiên nhân không hề đe dọa được ta, nhưng cô... cô nguy hiểm theo cách khác. Không có cô, Varden giống như một con bò mù vậy, họ sẽ tức giận và sẽ nhắm mắt xông tới không quan tâm tới gì trên đường. Sau đó, vì sự ngu ngốc của chúng, ta sẽ tóm chúng và hủy diệt chúng.”

“Nhưng hủy diệt Varden không phải lý do ta mang cô tới đây. Không, cô ở đây vì cô đáng để ta chú ý. Cô dũng cảm, mạnh mẽ, tham vọng, và thông minh – những phẩm chất ta đánh giá cao nhất đối với một người hầu cận. Ta mong có cô bên canh, Nasuada, nhưng tư vấn tối coa và chỉ huy quân đội sẽ xây dựng trong bước cuối kế hoạch ta đã lập ra trong gần một thế kỷ. Trên Alagaësia sẽ có một trật tự mới và ta muốn cô nằm trong đó. Từ khi Thập Tam chết, ta đã tìm những người thay thế họ. Cho tới hiện nay, ta vẫn chưa tìm được ai. Durza là một công cụ hữu ích nhưng hắn là một Tà thần, vì thế hắn có một số hạn chế nhất định: hắn không thể duy trì duy nhất một thân xác. Trong tất cả những ứng viên, Murtagh là người đầu tiên tỏ ra có năng lực và là người đầu tiên sống sót qua những thử thách của ta. Cô sẽ là người thứ hai và Eragon là người tiếp theo.”

Nasuada kinh hoàng. Những gì hắn định làm còn kinh khủng hơn cô đoán.

Người đàn ông mặc áo choàng nâu cạnh lò than làm cô giật mình vì dùng que sắt chọc mạnh vào đống than khiến đầu qua sắt chạm vào cả đĩa đồng bên đưới.

Galbatorix tiếp tục nói. “Nếu cô sống, cô sẽ có cơ hội biến mình hoàn hảo hơn khi ở bên Varden. Hãy nghĩ đi! Phục vụ ta, cô sẽ mang lại hòa bình cho toàn bộ Alagaësia, và cô sẽ trở thành nhà xây dựng mang lại làn gió mới.”

“Ta thà để ngàn con rắn độc cắn còn hơn phục vụ ông.” Sau đó cô nhổ nước bọt.

Tiếng cười của lão vọng trong căn phòng lần nữa: âm thanh của một người không sợ gì hết, kể cả cái chết. “Chúng ta xem xem.”

Cô giật mình khi thấy một ngón tay chạm vào khuỷu tay cô. Nó từ từ vẻ một vòng tròn, rồi trượt xuống vết sẹo trên cẳng tay và dừng lại trên phần sẹo. Ngón tay vỗ ba lần trước khi lần xuống vết sẹo kế tiếp, rồi lùi lên, chạy lên chạy xuống như dùng bàn giặt quần áo.

“Cô đã đánh bại đối thủ trong Thách đấu Trường Đao,” Galbatorix nói. “với nhiều vết cắt hơn bất cứ người nào có. Điều nay có nghĩa rằng đầu óc cô cực kỳ mạnh mẽ và sức tưởng tượng phong phú - khiến bất cứ người đàn ông nào phải cúi đầu trước cô. Nhưng, giờ chúng không giúp nổi cô đâu. Ngược lại, chúng là thứ cản trở cô. Mọi người đều có một giới hạn, vấn đề là bao giờ người ta mới đạt được điểm đó. Và cô sẽ đạt được, ta hứa với cô. Sức mạnh của cô sẽ cản trở nhưng không thể xóa bỏ thời khắc đó. Lưới phòng họ cũng không bảo vệ nổi cô dưới sức mạnh của ta. Vậy, sao cô phải đau khổ vô ích chứ? Không ai dám nghi ngờ lòng dũng cảm của cô; cô đã chứng minh cho cả thế giới biết. Giờ nhượng bộ đi. Không có gì là nhục nhã khi chấp nhận điều tất nhiên sẽ tới. Tiếp tục sẽ chỉ khiến cô bị tra tấn chẳng vì lý do gì cả chỉ để dạy dỗ cô. Hãy bỏ qua nhiệm vụ của cô đi và thề trung thành với ta bằng ngôn ngữ cô và chỉ trong một giờ, cô sẽ có hàng tá kẻ hầu người hạ, những xúc lụa và vải hoa Damacus, vô số căn phòng ở và một chỗ ở bàn ăn cùng ta.”

Lão dừng lại đợi cô trả lời, nhưng cô chỉ nhìn chằm chằm vào những đường vẻ trên trần nhà mà không chịu nói.

Trên tay cô, ngón tay tiếp tục di chuyển, từ vết sẹo tới hõm trên cổ tay, nơi động mạch chính chạy qua.

“Được thôi. Cô muốn thế nhé.” Lực ấn trên cổ tay cô biến mất. “Murtagh, tới đây. Đừng bất lịch sự với khách chứ.”

Ôi trời, không phải hắn nữa chứ, cô nghĩ và đột nhiên thấy buồn vô tận.

Người đàn ông bên cạnh lò than bắt đầu quay người lại, và dù hắn đeo mặt nạ bạc che nửa trên khuôn mặt nhưng cô vẫn thấy đó chắc chắn là Murtagh. Đôi mắt hắn ẩn trong bóng tôi, miệng và quai hàm không tỏ rõ biểu hiện gì.

“Không biết sao Murtagh lưỡng lự khi bắt đầu phục vụ ta, nhưng sau đó hắn đã chứng minh mình là một học trò có năng lực nhất. HẮn có tài năng của cha hắn. Đúng không?”

“Vâng, thưa ngài,” Murtagh nói bằng giọng thô cứng.

“Hắn khiến ta ngạc nhiên vì giết chết vua Hrothgar tại Cánh Đồng Cháy. Ta không nghĩ hắn chào đón người bạn cũ nhiệt tình thế nhưng sau đó, Murtagh của chúng ta đã trở nên hoàn toàn tức giận và khát máu. Hắn có thể xé toang cổ họng một Kull bằng tay nếu ta cho hắn cơ hội, và ta đã cho hắn. Không gì sung sướng bằng giết chóc. Đúng không?”

Cơ bắp trên cổ Murtagh căng ra. “Không, thưa ngài.”

Galbatorix cười nhẹ. “Murtagh Vua Sát thủ...tên đó hay đó, sẽ tạo ra một huyền thoại nhưng cậu sẽ không có được nếu không có ta chỉ dẫn.” Sau đó nói với cô. “Từ trước tới giờ ta chưa hề dạy qua hắn nghệ thuật thuyết phục, vì thế hôm nay ta mang hắn tới đây. HẮn có kinh nghiệm với lĩnh vực này nhưng chưa bao giờ thực hành, giờ là lúc hắn cần nắm bắt nó. Vậy còn cách nào hay hơn cách ngồi đây học cùng cô? Dù sao, Murtagh cũng là người thuyết phục ta rằng cô có thể gia nhập thế hệ phụ tá mới của ta.”

Một cảm giác bị phản bội lạ lùng lan tỏa trong cô. Dù chuyện gì xảy ra cô vẫn nghĩ tốt cho Murtagh. Cô muốn hắn giải thích nhưng hắn chỉ đứng im lặng như một người lính gác.

Sau đó nhà vua chỉ lò than và nói đều đều. “Cầm que sắt lên.”

Tay Murtagh co lại thành nắm đấm nhưng không động đậy.

Một từ vang lên trong tai Nasuada như tiếng chuông. Thế giới dường như rung lên, như một người khổng lồ dùng một sợi chỉ buộc vào thế giới và đang rung nó. TROng một lúc, cô tưởng mình đang rơi, không khí trước mặt cô mờ ảo như nước. Dù từ đó mang sức mạnh khủng khiếp nhưng cô lại không thể nhớ nổi thậm chí là nó thuộc về ngôn ngữ nào, vì cô nghe tai này ra tai kia, chỉ còn nhớ nổi về sức ảnh hưởng của nó.

Murtagh rùng mình; sau đó hắn vặn người, cần một trong những que sắt lên. Tia lửa bắn lên không khí, vài vụn lửa rơi xuongs sàn nhưng hạt giống thông rơi ra khỏi quả thông.

Đầu que sắt sáng vàng, khi cô quan sát, nó ngả sang màu cam nâu. Ánh sáng từ thanh kim loại nóng phản chiếu trên chiếc mặt nạ che nửa mặt của Murtagh, dáng người cô in trên đó với đôi chân dài chạy theo những đường nét chạm khắc cong cong trên mặt na che má Murtagh.

Dù bị trói nhưng cô vẫn cố đẩy xích ra khi hắn tới gần.

“Tôi không hiểu,” cô nói với Galbatorix bằng sự bình tĩnh ngụy tạo. “Sao ông không dùng tư tưởng hạ gục tôi?” Cô không muốn lão dùng hình thức này nhưng cô thà tự mình đề phòng đòn tấn công còn hơn phải chịu đau đớn từ khối sắt nung.

“Sẽ có lúc ta dùng nếu cần,” Galbatorix nói. “Nhưng giờ ta thích xem cô dũng cảm thế nào, Nasuada, con gái của Ajihad. Hơn nữa ta không thích kiểm soát đầu óc cô và buộc cô thề trung thành với ta. Ta muốn cô tự mình quyết định.”

“Vì sao?” cô khàn giọng nói.

“Vì ta thích. GIờ, lần cuối, cô đồng ý không?”

“Không bao giờ.”

“Được thôi. Murtagh?”

Thanh sắt hạ xuống, đầu nó như một viên đá hồng ngọc to lớn tỏa sáng.

Cô không cắn được vào cái gì để kìm cơn đâu, vì thế cô hét vàcăn phòng bát giác vọng lên tiếng thét đau đớn của cô tới khi giọng của cô mất đi và bóng tôi che phủ con người cô.

__________________

TRÊN CÁNH RỒNG

Eragon ngửng đầu, hít một hơi sâu cảm thấy sự lo lắng lùi dần.

Ngồi trên lưng rồng không lấy gì làm thoải mái nhưng gần Saphira giúp cả nó và cô em bình tĩnh. Sự vui vẻ đơn giản vì được tiếp xúc cơ thể với nhau giúp chúng được ản ủi theo cách mà ít thứ làm được. Hơn nữa, những âm thanh và chuyển động đều đều của đôi cánh giúp nó bỏ qua những suy nghĩ u ám trong đầu.

Dù chuyến đi của chúng rất gấp gáp và toàn quân Varden đang rơi vào cảnh hiểm nghèo nhưng Eragon lại mừng được rời xa quân đội. Những cuộc chém giết gần đây khiến nó cảm thấy như nó không còn là chính mình.

Từ hội gia nhập Varden ở Feinster, nó đã dành hầu hết thời giand dể chiến đấu hoặc chờ đợi chiến đấu, và nó bắt đầu thấy căng thẳng, đặc biệt sau sự kiện kinh hoàng đẫm máu ở Dras – Leona. Thay mặt Varden, nó đã giết hàng trăm tên lính – vài người trong đó thậm chí còn chẳng động nổi vào sợi lông chân của nó – và dù hành động của nó mang công lý nhưng nó vẫn thấy phiền. Nó không muốn cuộc chiến nào cũng tuyệt vọng và mọi đối thủ đều ngang cơ với mình hoặc giỏi hơn, nhưng đồng thời chém giết quá dễ dàng khiến nó thấy mình giống đồ tể hơn một chiến binh. Nó dần dà tin rằng cái chết là thứ ăn mòng và nó càng gần cái chết nó càng xa rời nhân cách của mình.

Nhưng, một mình cùng Saphira – và cả Glaedr, dù rồng vàng vẫn im lặng từ lúc khởi hành – giúp Eragon trở lại trạng thái bình thường. Nó thấy yên ổn nhất khi ở một mình hoặc trong một nhóm nhỏ, và nó không hề thích ở một thành phố hay thậm chí một doanh trại như của Varden. Không giống phần đông những người khác, nó không ghét hay sợ thiên nhiên hoang dã; vì tại những vùng đất không người luôn tiềm tang sự yên bình và vẻ đẹp không một nhà nghệ thuật nào diễn tả nổi và nó thấy mình sống lại.

Vì thế nó để tiếng đập cánh của Saphira làm nó xao nhãng và trong lúc trời sang, nó quan sát cảnh vật lướt qua.

Từ doanh trại Varden tới bờ hồ Leona, Saphira bay trên làn nước, nhứm về phía tây bắc và bay cao khiên Eragon phải dùng thần chú để chống rét.

Mặt hồ chia thành những khối màu rõ rệt: những con sóng phản chiếu ánh sáng mặt trời lên người Saphira lấp lánh, nơi không có ánh sáng mang mày tối xám. Eragon chưa bao giờ chán ngắm sự thay đổi thường xuyên của ánh sáng: không gì trên thế giới này có thể sánh bằng.

Chim bói cá, sếu, ngỗng, vịt, sáo đá và những loài chim khác thường bay là là trên mặt nước. Hầu hết những con chim không để ý tới Saphira nhưng một số chim bói cá bay lượn theo cô nàng một lúc, chủ yếu vì tò mò hơn sợ hãi. Hai con thậm chí còn lượn lờ trước mặt cô nàng, chỉ cách những chiếc răng dài sắc nhọn có vài chục cm.

Những con chim săn mồi mỏ khoằm, mào vàng làm Eragon nghĩ tới Saphira. SAphira thích chí với cách nhận xét đó, dù thực ra cả về vẻ bề ngoài lẫn kỹ năng săn mồi chúng đều không bằng Saphira.

Bờ sông phía sau họ dang dần biến vào trong đường chân trời tím nhạt, sau đó hoàn toàn khuất dạng. Khoảng hơn nửa tiếng, họ chỉ nhìn thấy những con chim và những đám mây trên trời và làn nước lóng lánh che phủ bề mặt trái đất.

Rồi, phía trước và bên trái họ xuất hiện đường viền xám mờ nhạt của rặng Spine chào đón Eragon. Dù đây không phải những ngọn núi của thời tuổi thơ nó, nhưng chúng vẫn thuộc cùng một dãy, và nhìn thấy chúng làm nó thấy mình không xa nhà lắm.

Rặng núi càng lúc càng gần cho tới khi đỉnh núi đá tuyết phủ xuất hiện trước mặt họ nhưng một bức tường phòng thủ bị thời gian bào mòn. Dọc bên dưới sườn núi xanh đậm là hàng tá những dòng suối chảy róc rách, uốn lượn tới khi hòa vào một hồ lớn dưới chân núi. Sáu ngôi làng gần chân núi, nhưng dưới phép thuật của Eragon, dân làng không hề thấy Saphira khi cô nàng bay qua.

Khi nó nhìn những ngôi làng, nó mới thấy sao chúng nhỏ bé và cô độc đến thế và làng Carvahall nhỏ bé và biệt lập thế nào. So với những thành phố lớn nó từng tới, những ngôi làng trông chẳng hơn vài ngôi nhà lụp xụp, chỉ dành cho những người cùng khổ. Nó biết rất nhiều người trong số họ chưa từng đi xa nơi họ sinh ra vài dặm và sẽ sống cả đời nơi này.

Quả là một sự tồn tại hạn hẹp, nó nghĩ.

Nhưng nó lại nghĩ liệu cứ sống ở một nơi và học tất cả những gì cần thiết có hơn việc nay đây mai đó không. Liệu biết nhiều nhưng chỉ hiểu bề nổi có tốt hơn biết ít nhưng hiểu sâu không?

Nó không chắc. Nó nhớ ông Oromis từng nói với nó rằng nếu ai đó nhìn kỹ sẽ thấy cả thế giới này bắt đầu từ hạt cát nhỏ nhất.

Rặng núi Spine chỉ bằng một mảnh nhỏ so với núi Beor nhưng những đỉnh núi cao dựng đứng vươn lên trên Saphira tới 350m khi cô nàng bay lượn giữa các vách núi, đi theo những hẻm núi và thung lũng phủ bóng tối chia cắt dãy núi. Thi thoảng cô nàng phải bay cao hơn để tránh những khe núi hẹp phủ tuyết. Lúc đó, tầm nhìn của Eragon được mở rộng, nó thấy các ngọn núi rất giống những chiếc răng mọc lên từ lợi là mặt đất nâu.

Khi Saphira đánh võng trên một thung lũng sâu, nó thấy cả đáy một dòng suối chạy lững lờ qua trảng cỏ. Và dọc theo bãi cỏ, nó hình như thoáng thấy mấy ngôi nhà – hoặc có thể là lều; khó mà phân biệt được - ẩn dưới tán lá cây vân sam vẫn mọc nhiều trên núi. Một ánh lửa nhỏ chiếu xuyên qua các cành cây, như một mẩu vàng nhỏ lẫn trong những lớp kim khâu, và nó nghĩ nó thấy một bóng người đốn gỗ bên bờ suối. Trông bóng người đó đồ sộ tới lạ thường, đầu nó quá to so với người.

Anh nghĩ có Urgal.

Đâu? Saphira hỏi,và nó cảm thấy cô nàng đang tò mò.

Ở tráng trống trước mặt đằng sau chúng ta ấy. Nó cho cô nàng xem ký ức vừa qua. Anh ước chúng ta có thời gian quay lại tìm hiểu. Anh muốn xem họ sống ra sao.

Cô nàng khụt khịt. Khói nóng bốc ra từ lỗ mũi rồi bay xuống dưới cổ và sang người nó. Họ sẽ không tử tế với một con rồng và Kỵ sĩ nếu họ hạ cánh không báo trước.

Nó ho hắng và chớp mắt vì nước mặt giàn giụa. Em có phiền không?

Cô nàng không trả lời, nhưng khói bốc ra từ lỗ mũi cô nàng dừng lại, và không khí quanh nó nhanh chóng trở về trạng thái trong lành.

Không lâu sau đó, hình dáng ngọn núi bắt đầu quen thuộc với Eragon, và một khe nứt lớn hiện ra trước khi Saphira và nó nhận ra chúng đang bay ngang qua khe núi dẫn tới Teirm – cùng khe núi nó và ông Brom đã hai lần cưỡi ngựa đi qua. Con đường vẫn y như trong tâm trí nó: nhánh sông chảy về phía tây của sông Toark vẫn chảy nhanh và hung hãn về đại dương xa xôi, mặt nước cuồn cuộn sóng. Con đường gồ ghề nó và ông Brom đi vẫn là con đường mòn bụi bặm chẳng to hơn đường hươu đi là mấy. Nó nghĩ nó thấy cả rặng cây họ dừng lại nghỉ ngơi ăn uống.

Saphira bay về hướng tây và chúi xuống con sông cho tới khi không còn thấy dãy núi mà chỉ còn thấy những cánh đồng ắp nước, từ đó cô nàng đảo hướng về phía bắc. Eragon không hỏi vì sao cô em quyết định bay như vậy; cô nàng chưa bao giờ đánh mất phong thái của mình, kể cả vào những đêm không sao hay khi ở sâu trong Farthen Dûr.

Mặt trời xuống gần đường chân trời khi họ bay qua Spine. Khi hoàng hôn dần phủ lên vùng đất, Eragon tự làm cho mình bận rộn bằng cách nghĩ cách bẫy, giết hoặc lừa Galbatorix. Sau một lúc, Glaedr rời khỏi hòn đảo cô độc của mình và cùng nó tìm cách. Họ dành khoảng một giờ để thảo luận vô số sách lược, sau đó tập tấn công và phòng thủ tâm tưởng. Saphira cũng tham gia bài tập, nhưng ít khi thành công, vì bay khiến cô nàng khó tập trung vào những thứ khác.

Sau đó, Eragon nhìn lên những ngôi sao lạnh lẽo. Rồi nó hỏi Glaedr, Liệu Cổng Linh HỒn có chứa những Eldunarí mà các Kỵ sĩ đã giấu khỏi Galbatorix không?

Không,Glaedr trả lời không chút đắn đo. Không thể. Oromis và ta sẽ biết nếu Vrael lập kế hoạch này. Và nếu có bất cứ Eldunarí còn sót lại tại Vroengard, chúng ta đã tìm thấy khi quay về tìm kiếm trên hòn đảo. Không dễ để che giấu những sinh vật sống đâu.

Vì sao không?

Vì nếu một con nhím có cuộn tròn lại, thì nó cũng không thể nào biến thành vô hình, đúng không? Tư tưởng cũng chẳng có gì khác biệt. Ngươi có thể giấu suy nghĩ không cho những người khác đọc được nhưng sự tồn tại của ngươi vẫn rõ rành rành trước mắt những người rà soát khắp một vùng...

Chắc chắn thầy có thể dùng thần chú để...

Nếu một câu thần chú có thể che mờ các giác quan, chúng ta sẽ biết, vì chúng ta có lập lưới phòng hộ tránh điều đó xảy ra.

THế là, không có Eldunarí, Eragon chán nản kết luận.

Không may là không.

Họ bay trong im lặng tới khi mặt trăng khuyết xuất hiện trên đỉnh núi nham nhở của rặng Spine. Dưới ánh trăng, mặt đất trông như thể rải thiếc, và Eragon tưởng tượng ra rằng đây chính là tác phẩm của người lùn tạc khắc và cất giữ trong một hang động lớn bằng cả Alagaësia.

Eragon có thể cảm nhận sự hài lòng của Glaedr trong chuyến bay. Giống Eragon và Saphira, ông rồng già thích được rời mặt đất, dù chỉ trong một thời gian ngắn, để tự do bay lượn trên bầu trời.

Saphira là người cất tiếng trước. Giữa những tiếng đập cánh chầm chậm, từ từ, cô nói với Glaedr. Kể chuyện cho bọn con nghe đi, Ebrithil.

Con muốn nghe thể loại truyện gì?

Về làm sao người và Oromis bị THập Tam Phản đồ bắt rồi thoát được.

Lúc này, sự hứng thú của Eragon tăng lên. Nó luôn luôn tò mò vì vấn đề này nhưng chưa bao giờ đủ can đảm để hỏi Oromis.

Glaedr im lặng rồi nói, Khi Galbatorix và Morzan trở lại từ miền hoang dã và bắt đầu xử lý những người chống lại chúng, lúc đầu chúng ta không nhận ra mối nguy hiểm tiềm tàng. Tất nhiên chúng ta có lo lắng nhưng nếu biết Tà thần bước chân vào mảnh đất này thì hành động của chúng ta không chỉ dừng lại ở mức đó. Galbatorix không phải Kỵ sĩ đầu tiên điên loạn, dù hắn là người đầu tiên có môn đệ như Morzan. Vì Morzan chúng ta biết mình đang đối diện với mối nguy hiểm như thế nào, nhưng sự thực chỉ hiển hiện vào phút cuối.

Lúc đó, chúng ta không ngờ Galbatorix có thể tụ tập những kẻ đồng lõa hay hắn có ác tâm làm chuyện đó. Chúng ta luôn cho chuyện những kẻ đồng đạo có thể bị những lời đường ngọt chứa độc của Galabatorix dụ dỗ là điều vô lý. Morzan là Kỵ sĩ trẻ, hắn yếu lòng cũng dễ hiểu. Nhưng những Kỵ sĩ trưởng thành thì sao? Chúng tôi chưa bao giờ nghi ngờ lòng trung thành của họ. Chỉ tới khi họ bị dụ dỗ họ mới để lộ ra rằng họ đã bị lòng hận thù và những điểm yếu đánh gục. Vài người trong số đó muốn trả thù cũ; vài người tin rằng, vì có sức mạnh nên Kỵ sĩ và Rồng phải là đấng thống trị Alagaësia; và những kẻ khác, ta sợ phải nói rằng, đơn giản họ chỉ thích có cơ hội xe tan những gì vốn có và tự làm theo những gì mình muốn

Ông rồng già ngừng lại, và Eragon cảm thấy sự hận thù và nỗi buồn từ ngày xa xưa phủ lên tâm trí ông. Sau đó Glaedr tiếp tục: Những sự kiện tại thời điểm đó...hỗn loạn. Chúng ta biến rất ít và những báo cao chúng ta nhận được chỉ toàn là xuất phát từ những lời đồn đãi nên không có tính hữu dụng. Oromis và ta bắt đầu nghi ngờ có gì đó cực kỳ xấu đang xảy ra mà chúng ta không nhận ra. Chúng ta cố thuyết phục vài con rồng và Kỵ sĩ lớn tuổi hơn nhưng họ không đồng ý và bác bỏ mối lo ngại của chúng ta. Họ không ngu ngốc, nhưng nhiều thế kỷ hòa bình đã làm tầm nhìn của họ kém tinh anh và họ không thể thấy rõ thế giới đang biến động quanh họ.

Thất vọng vì không kiếm được thông tin, Oromis và ta rời Ilirea để tự tìm hiểu. Chúng ta đi cùng hai Kỵ sĩ trẻ hơn, cả hai đều là thần tiên và là chiến binh được tôi luyện, vừa trở về từ chuyến do thám phía bắc rặng Spine. Một phần do họ mà chúng ta đã mạo hiểm viễn chinh. Có thể các con nhận ra họ, vì họ là Kialandí và Formora.

“À,” Eragon nói, đột ngột hiểu chuyện.

Đúng. Sau một ngày rưỡi đi lại, chúng ta dừng lại ở Edur Naroch, tòa tháp canh cổ quan sát toàn bộ Cánh rừng Silverwood. Chúng ta không hề biết trước đó Kialandí và Formora đã tới tòa tháp giết chết ba yêu tinh trông giữ cánh rừng. Sau đó, họ đặt bẫy trên những tảng đá bao vòng quanh tòa tháp. Chính bẫy đó đã tóm được chúng ta khi ta đặt móng xuống đất. Đây là một câu thần chú thông minh; Galbatorix đã tự mình dạy cho họ. Chúng ta thèm phòng vệ lại, vì câu thần chú không gây hại cho chúng ta, mà chỉ giữ chân và làm chậm tiến độ của chúng ta, giống như thể chúng ta bị đổ mật lên đầu óc và thân thể. Trong khi chúng ta đừng đó gầm ghè, từng phút trôi qua như từng giây. Kialandí, Formora, và con rồng của họ bay lượn quanh chúng ta còn nhanh hơn chim ruồi; họ chỉ như những mảnh loang loáng tối.

Khi họ sẵn sàng, họ thả chúng ta ra. HỌ đã niệm hàng ta câu thần chú – để giữ chúng ta tại chỗ, khiến chúng ta mù và không cho Oromis nói làm ông ấy khó lòng niệm chú. Một lần nữa, thần chú của họ không làm hại chúng tôi và chúng tôi và vì thế chúng tôi không phòng vệ lại... Lúc có thể, bọn ta tấn công Kialandí, Formora,và con rồng của họ bằng tư tưởng. Chúng ta giằng co hàng giờ và phần thắng thuộc về chúng ta. Kỷ niệm đó....chẳng lấy gì làm vui vẻ. Họ yếu và thiếu kinh nghiệm hơn Oromis và ta, nhưng hai đấu một mà, và họ có trái tim của con rồng Agaravel – họ đã lấy từ Kỵ sĩ bị họ bức hại – và gia tăng sức mạnh. Kết quả là chúng ta phải chầy chật để bảo vệ mình. Chúng ta sau đó phát hiện ra, mục đích của họ là buộc chúng ta giúp Galbatorix và Thập Tam Phản Đồ có thể tiến vào Ilirea mà không bị để ý, sau đó họ có thể đánh úp các Kỵ sĩ và lấy những Eldunarí trong thành phố.

“Vậy sao hai người trốn được?” Eragon hỏi.

Lúc đó, rõ ràng chúng ta không thể thắng nổi họ. Vì thế, Oromis quyết định liều dùng pháp thuật để chúng ta tự do, dù ông ấy biết nó sẽ làm cho Kialandí và Formora dùng pháp thuật phản kích lại. Chúng ta làm vậy vì tuyệt vọng nhưng làm gì còn lựa chọn nào khác.

Vào một lúc, ta không biết kế hoạch của Oromis, ta đã đánh trả hai kẻ tấn công, cố làm bị thương họ. Oromis đợi thời cơ đó. Ông ấy biết Kỵ sĩ hướng dẫn Kialandí và Formora dùng pháp thuật, chính vì thế ông ta quen với cách dùng chú của họ. Vì thế, ông ấy đoán ra Kialandí và Formora sẽ dùng thần chú thế nào, và lỗ hổng trên đòn chú nằm ở đâu.

Oromis chỉ có vài giây để hành động; giây phút ông sử dụng pháp thuật, Kialandí và Formora nhận ra ông định làm gì, họ hoảng loạn bắt đầu dùng thần chú. Oromis phải mất ba lần để bẻ gẫy vòng trói của họ. Ta không thể nói chính xác ông ấy làm thế nào. Ta nghi có khi ông ấy còn chẳng hiểu nữa là. Hiểu theo cách đơn giản nhất, ông ấy di chuyểnchúng ta dịch đi một ngón tay từ chỗ chúng ta đang đứng.

Giống như cách Arya đưa quả trứng của con từ Du Weldenvarden tới Spine phải không ạ? Saphira hỏi.

Đúng và không đúng, Glaedr trả lời. Đúng, ông ấy di chuyển chúng ta từ nơi này tới nơi khác bằng dịch chuyển tức thời. Nhưng ông ấy không chỉ di chuyển vị trí mà còn thay đổi da thịt khiến chúng ta không còn là mình. Rất nhiều điểm nhỏ nhất trên cơ thể chúng ta đã thay đổi nhưng không gây ra hậu quả nghiêm trọng, và ông ấy là thế với tất cả các cơ bắp, xương và nội tạng.

Eragon nhíu mày. Câu thần chú đó đòi hỏi sự sắp xếp cao nhất, một đòn vô tiền khoáng hậu trong lịch sử. Nhưng, Eragon có ấn tượng tới đâu nó vẫn không thể đừng hỏi, “Nhưng làm thế nào ạ? Giờ ngài vẫn như cũ mà.”

Có thể như cũ, cũng có thể không. Sự khác biệt của chúng ta trước và sau rất nhỏ, nhưng đủ để làm hỏng đòn phép Kialandí và Formora ếm lên chúng ta.

Vậy họ dùng thần chú gì khi phát hiện ra điều tiền bối Oromis làm? Saphira hỏ

i.

Eragon thấy Glaedr giã cánh xuống như thể ông đã quá mệt mỏi vì đứng một tư thế quá lâu. Thần chú đầu tiên của Formora định giết chúng ta, nhưng lưới phòng vệ của chúng ta đã ngăn lại. Câu thứ hai từ Kialandí … khác. Đó là câu thần chú hắn học từ Galbatorix và lão học từ những linh hồn ác chiếm trụ Durza. Cái này ta biết, vì ta tiếp cận trí óc của Kialandí trong khi hắn đọc thần chú. Đó là một câu thần chú thông minh, xảo quyệt nhằm không cho Oromis sử dụng dòng năng lượng quanh ông ấy, như vậy chúng ta sẽ không dùng pháp thuật được.

“Kialandí có làm vậy với ông không?”

HẮn có thể nhưng hắn sợ câu thần chú sẽ giết ta hoặc ta và trái tim sẽ không còn liên hệ với nhau. Như vậy tạo ra hai bản thể của ta thì làm sao họ chống chịu được. Rồng còn phụ thuộc vào pháp thuật để tồn tại nhiều hơn thần tiên; không có nó chúng ta sẽ chết.

Eragon có thể cảm nhận sự tò mò của Saphira dâng cao. Có thể sao? Liên kết giữa rồng của Eldunarí của rồng có thể ngắt trong khi cơ thể rồng vẫn sống?

Có thể, nhưng đây là câu chuyện khác ta sẽ kể lúc khác.

Saphira im lặng nhưng Eragon thừa biết cô nàng sẽ hỏi lại cơ hội đó sớm nhất có thể.

“Nhưng câu thần chú của Kialandí không ngăn nổi sư phụ Oromis dùng phép đúng không ạ?”

Không hoàn toàn. Đáng ra câu thần chú phải làm được điều đó nhưng khi Kialandí dùng câu thần chú đó thì Oromis di chuyển chúng ta từ nơi này tới nơi khác, chính vì thế ảnh hưởng của nó giảm đi. Nhưng dù sao ông ấy chỉ có thể sử dụng một phần phép thuật nhỏ nhất. Câu thần chú đó để lại di chứng cả đời ông ấy, dù những thầy thuốc giỏi nhất đã cố gắng thế nào.

“Sao lưới phòng hộ không bảo vệ ông ấy?”

Glaedr hình như đang thở dài. Không ai biết. Không ai làm điều này trước đó, Eragon, và trong những người còn sống sót, chỉ có Galbatorix biết bí mật của nó. Phép thuật đó ếm lên tư tưởng Oromis nhưng lại không trực tiếp ảnh hưởng tới ông ấy. Thay vào đó, nó ảnh hưởng lên nguồn năng lượng và liên kết của ông với năng lượng. THần tiên đã nghiên cứu pháp thuật từ lâu nhưng họ cũng không hoàn toàn hiểu các thế giới vật chất và phi vật chất tương tác thế nào. Đó là một câu đố không bao giờ có lời giải. Tuy vậy, hình như các linh hồn hiểu về vật chất và phi vật chất rõ hơn chúng ta, vì họ là đại diện cho cái thứ hai và họ trở thành cái thứ nhất khi ở dạng Tà thần.

Dù sự thật thế nào thì chúng ta cũng biết: Oromis đọc thần chú, chúng ta tự do, nhưng ông ấy đã bị ảnh hưởng quá nặng. Cả đời ông ấy không thể nào dùng một câu thần chú quyền năng tới vậy nữa và từ đó trở đi, thân thế ông ấy rất dễ bị tổn thương. Ông ấy rất dễ bị giết. Điểm yếu này đã tồn tại khi Kialandí và Formora bắt chúng ta, nhưng khi ông ấydi chuyển chúng ta và thay đổi hình dạng cơ thể, điểm yếu này còn trở nên tệ hơn.

Oromis ngã xuống và trở nên yếu ớt như một con chim non. Lúc đó Fomora và con rồng của bà ta, một con vật màu nâu xấu xí lao tới, hai kẻ kia theo sát sau. Nếu họ biết ông ấy đã yếu, họ sẽ tận dụng thời cơ để chui vào đầu óc mà điều khiển ông ấy. Ta phải đánh lạc hướng họ cho tới khi Oromis phục hồi... Ta chưa bao giờ chiến đấu dũng mãnh như vậy trong đời. Bốn chọi một, hoặc năm nếu các trò tính cả Agaravel. Cả hai con rồng, con màu nâu và màu tím của Kialandí đều nhỏ hơn ta nhưng răng chúng sắc còn móng vuốt thì sắc nhọn. Nhưng cơn giận đã tiếp sức mạnh cho ta, ta gây ra những vết thương chí mạng cho chúng. Kialandí ngu ngốc khi tiến tới tầm đánh của ta và ta đã dùng móng vuốt tóm hắn và ném trả về. Glaedr hét lên một tiếng. Phép thuật không bảo vệ ông ấy khỏi mũi lao phóng tới từ lưng con rồng tím, và đáng ra ta đã giết chết hắn nếu như không có con rồng nâu ngáng đường.

Chúng ta chiến đấu thêm gần năm phút nữa thì Oromis kêu rút lui. Ta ném đất vào mặt kẻ thù và trở về chỗ Oromis, dùng móng phải nắm lấy ông ấy và bay đi từ Edur Naroch. Kialandí và con rồng không thể đuổi theo, nhưng Formona và con rồng nâu lại có thể.

Họ bắt kịp chúng ta khi chúng ta mới bay khỏi tòa tháp canh một dặm. Thi thoảng chúng và ta rất gần, rồi con rồng nâu bay dưới ta, ta thấy Formora định dùng kiếm đâm chân phải ta. Bà ta muốn ta đánh rơi Ormis hoặc muốn giết ông ấy. Ta vặn mình, vì thế thay vì mất chân phải, ta mất chân trái.

KÝ ức của Glaedr thảm khốc, lạnh lẽo như thể lưỡi kiếm của Formona làm bằng băng chứ không phải thép. Cảm giác đó khiến Eragon nôn nao. Nó nuốt nước bọt và nắm chặt dây cương, mừng vì Saphira được an toàn.

Không đau như các con tưởng tượng nhưng ta biết ta không thể tiếp tục chiến đấu, vì thế ta quay người bay về Ilirea nhanh nhất có thể. Formora mờ mắt vì chiến thắng, vì dù chân đâu nhưng ta vẫn cắt đuôi được con rồng nâu và trốn thoát.

Oromis có thể ngăn máu chảy nhưng ông ấy lực bất tòng tâm, còn không thể nào liên kệ với các Kỵ sĩ tiền bối để cánh báo về kế hoạch của Galbatorix. Một khi Kialandí và Formora báo cáo lại, Galbatorix sẽ tấn công Ilirea ngay lập tức. Nếu hắn chờ đợi sẽ cho chúng ta thời gian củng cố lực lượng, và dù hắn có sưc mạnh song yếu tố bất ngờ vẫn là vũ khí mạnh nhất của hắn vào hồi đó.

Khi chúng ta tới Ilirea, chúng ta đã thất vọng khi thấy vài lệnh vẫn còn đó, trong lúc chúng ta vắng mặt, có nhiều người bỏ đi tìm Galbatorix hoặc đi gặp Vrael ở Vroengard. Chúng ta thuyết phục những người còn lại là họ đang gặp nguy hiểm, và chúng tôi nhớ họ cảnh báo Vrael và những con rồng và Kỵ sĩ tiền bối. Họ không tin Galbatorix có lực lượng để tấn công Ilirea – hoặc lão dám làm chuyện đó – nhưng cuối cùng chúng tôi cũng khiến họ nhìn vào sự thật. Thế là họ quyết định tất cả các Eldunarí ở Alagaësia phải được đưa tới Vroengard để giữ an toàn.

Đó có vẻ là một biện pháp bảo đảm nhưng chúng tôi đáng ra phải đưa tới Ellesméra. Nếu không, chúng ta nên để chúng lại tại Du Weldenvarden. Ít nhất vài tim rồng có thể an toàn trước Galbatorix. Chúa ơi, nhưng không ai nghĩ rằng họ sẽ an toàn cùng các thần tiên hơn ở Vroengard.

Vrael ra lệnh cho rồng và Kỵ sĩ trong vài ngày phải tới trợ thủ cho Ilirea nhưng Oromis và ta sợ rằng họ đã quá trễ. Và chúng ta không thể nào tăng cường hàng phòng thủ cho Ilirea. Vì thế chúng ta đã tập hợp tất cả các nguồn trợ cấp cần thiết và cùng với hai học trò – Brom và con rồng giống tên con, Saphira – chúng ta rời thành phố ngay trong đêm. Ta nghĩ con đã hiểu Oromis đau khổ thế nào khi quyết định ra đi.

Eragon vô thức gật đầu khi nhớ lại thành phố với những tòa tháp tuyệt đẹp nằm trên vách núi và được ánh trăng rọi sang.

Chính vì thế chúng ta không ở Ilirea và Thập Tam Phản đồ tấn công chỉ vài giờ sau đó. Và đó là lý do vì sao chúng ta không ở Vroengard khi những tên đó đánh bại toàn bộ lực lượng và chiếm giữ Doru Araeba. TỪ Ilirea chúng ta tới Du Weldenvarden với hy vọng những thầy thuốc loài tiên có thể chữa bệnh cho Oromis và phục hồi khả năng dùng phép.Khi họ không thể, chúng ta quyết định ở lại vì ở lại sẽ an toàn hơn bay tới Vroengard trong khi cả hai đều bị thương và có thể bị tấn công trong khi bay.

Brom và Saphira không ở lại cùng chúng ta. Dù chúng ta khuyên ngăn nhưng họ vẫn tham chiến và trong cuộc chiên này, Saphira đã hy sinh... Và giờ hai con đã biết sao mà Thập Tam phản đồ bắt được chúng ta và chúng ta đã thoát ra sao.

Sau một lúc, Saphira nói, Cám ơn người đã kể chuyện, Ebrithil.

Không có gì, Bjartskular, nhưng đừng bao giờ bảo ta kể lại.

Khi trăng lên tới ngọn, Eragon thấy một chùm ánh sáng vàng cam nhạt trôi trong bóng tối. Nó mất một lúc mới nhận ra đó là ánh đuốc và đèn từ Teirm cách đó rất xa. Và, cao hơn những ánh đèn là một điểm sáng màu vàng xuất hiên trong tích tắc như một con mắt lớn liếc nhìn nó, rồi biến mất rồi xuất hiện, lóe chớp như thể đôi mắt đang chớp.

Đèn hải đăng Teirm đã lên đèn, nó nói với cả Saphira và Glaedr.

Vậy là sắp có bão, Glaedr nói.

Saphira thôi đập cánh và Eragon cảm nhận cô nàng đang lượn xuống chầm chậm trên mặt đất.

Nửa tiếng sau cô nàng đáp xuống. Lúc đó, Teirm chỉ còn là một đốm sáng mờ nhạt phía bắc và ánh sáng từ ngọn đèn hải đăng chẳng sáng hơn ánh sao là bao.

Saphira thổi lừa đốt lửa trại ở bờ biển vắng. Dưới ánh trăng, bờ biển cứng, phẳng trở nên trắng trong khi những con sóng vỗ bờ mang màu xám và đen trông giận dữ, như thể biển đang tham lam ngốn lấy đất liền.

Eragon tháo đai đeo ở chân và trượt khỏi Saphira, mừng vì được duỗi cơ bắp. Nó để ý thấy mùi nước biển khi đi dọc bãi biển tới đám lửa lớn, áo choàng phấp phới sau lưng. Sau đó, nó quay người chạy về chỗ Saphira.

Cô nàng vẫn ở nguyên chỗ cũ, nhìn xa xăm ra biển. Nó ngừng lại không biết cô nàng định nói gì đây – nhưng vì cô em nó vẫn giữ im lặng, nó quay người một lần nữa tới bên đống lửa. Cô em nó sẽ nói khi sẵn sàng.

Eragon chạy đi chạy lại cho tới khi ấm người và chân bắt đầu run.

Nhưng trong suốt thời gian đó, Eragon chỉ nhìn ra biển.

Khi Eraagon ngồi xuống cạnh cô nàng, Glaedr cất tiếng. Thử là trò ngu ngốc.

Eragon nghiêng đầu không biết con rồng già đang nói với ai.

Con biết con làm được, Saphira nói.

Con chưa bao giờ tới Vroengard, Glaedr nói. Và nếu có bão, con sẽ bay thẳng ra biển hoặc còn tệ hơn. Rất nhiều con rồng đã chết vì tự tin thái quá. Cơn gió không phải bạn của con, Saphira. Nó có thể giúp con nhưng cũng có thể giết chết con.

Con không phải con rồng con bị cơn gió điều khiển!

Không, nhưng con vẫn còn trẻ và ta không nghĩ con đã sẵn sàng.

Nếu đợi chúng ta sẽ tốn rất nhiều thời gian!

Có thể, nhưng thà an toàn tới đó còn hơn.

“Hai người nói gì vậy?” Eragon hỏi.

Cát dưới chân trước Saphira kêu lạo xạo khi cô nàng ấn móng xuống.

Chúng ta phải quyết đinh, Glaedr nói. Từ đây, Saphira hoặc có thể bay thẳng tới Vroengard hoặc theo bờ biển phía bắc tới khi tới đất liền gần nhất và sau đó – chỉ tới lúc đó – mới rẽ về hướng tây và bay qua biển.

Đường nào nhanh hơn? Eragon hỏi dù đã đoán ra câu trả lời.

Bay thẳng, SAPhira nói.

Nhưng nếu thế, cô ấy sẽ phải bay suốt không nghỉ.

Saphira chen vào vì tức giận. Nhưng chặng đường cũng chẳng xa hơn đoạn đường từ Varden tới đây. Con có nói sai không?

GIờ con mệt rồi, và nếu có bão.

Vậy thì con sẽ bay qua bão! Cô nàng nói và thở ra một ngọn lửa xanh vàng từ lỗ mũi.

Ngọn lửa biến mất ngay trước mắt Eragon chỉ để lại dư ánh sáng loáng. “Á! Giờ anh không thấy gì.” Nó dụi mắt để dư ảnh biến mất. Chẳng nhẽ bay thẳng từ đây thật sự chỉ toàn nguy hiểm?

Đúng, Glaedr gầm.

Thế nếu bay theo đường bờ biển chúng ta sẽ mất thêm bao nhiêu thời gian?

Nửa ngày hoặc hơn.

Eragon hãi cằm khi cô nàng nhìn chằm chằm vào mặt nước. Sau đó nó ngước nhìn Saphira và, bằng giọng trầm, nó nói. “Em chắc chắn mình làm được không?”

Cô nàng xoay cổ nhìn nó bằng một con mắt to tướng. Con ngươi nó mở rộng tới khi gần thành một hình tròn; nó quá đen và lớn, Eragon có cảm giác mình bị hút và sẽ biến mất trong đó.

Em chắc, cô em nó nói.

Nó gật đầu và vuốt tóc khi cân nhắc. Vậy chúng ta phải thử...Glaedr, nếu cần, người hướng dẫn em ấy nhé? Người có thể giúp em ấy đúng không?

Con rồng già im lặng một lúc lâu; sau đó ông khiến Eragon ngạc nhiên khi rên rừ rừ trong tư tưởng giống như khi Saphira rên rừ rừ vì hài lòng hay vui sướng. Rất tốt. Nếu chúng ta phải liều thì chúng ta không được phép hèn nhát. CHúng ta sẽ bay qua biển.

Vấn đề giải quyết xong, Eragon leo lên lưng Saphira và mới một cú nhảy, cô nàng để lại mảnh đất an toàn bên dưới và bay theo những con sống nối nhau không kết.

LÃO RÓT MẬT VÀO TAI NGƯƠI, LÃO CHẠM TAY VÀO NGƯỜI NGƯƠI

“Aaaaaaaaaaa!”

“Cô có thề trung thành với ta hay không?”

“Không bao giờ!”

Câu hỏi và câu trả lời của hai bên cứ liên tục lặp lại như hai đứa con nít chơi trò chơi nhưng chỉ trừ có điều cô thua ngay cả khi thắng.

Nhờ việc này mà Nasuada còn tỉnh táo. Cô vẫn nắm được thế giới của mình – co có thể chịu đừng từng thời khắc trôi qua, vì chúng cho cô cơ hội nắm một cái gì đó khi mà mọi thứ khác đang vuột khỏi tầm tay. Những suy nghĩ, hành động, nỗi đau và sự nhẹ nhõm: cô sống nhờ vào những thứ đó. Không có chúng, có lẽ cô đã thua cuộc, trở thành một con cừu không có người chăn dắt, một con chiên mất lòng tin... một Kỵ sĩ xa rời con rồng.

Nhưng không may thay, diễn biến luôn kết thúc cùng một cách: với ngọn sắt nung đỏ.

Cô hét lên và cắn phải lưỡi, máu chảy tràn ra miệng. Cô ho, cố thông cổ họng nhưng có quá nhiều máu khiến cô bị sặc. Phổi cô cháy bỏng vì thiếu ô xi, và những đường viền trên trần nhà uốn éo và trở nên mờ nhạt, sau đó, ký ức của cô bay biến chảng còn lại gì, thậm chí chẳng còn màu đen.

Sau đó, Galbatorix nói với cô trong khi nung nóng thanh sắt.

Đó cũng là một phần trong diễn biến.

Lão chữa lành lưỡi cho cô – ít nhất là cô nghĩ đó là lão chứ không phải Murtagh – và nói. “Lưỡi cô mà đứt thì sao cô nói được? Làm sao ta biết khi nào cô đồng ý phục tùng ta?”

Như trước, lão bạo chúa ngồi bên phải, cô chỉ thấy hắn là một bóng người khuất trong bóng tối, ẩn dưới lớp áo choàng dài và nặng nề.

“Cô biết rằng ta đã gặp cha cô, khi ông ấy là người quản lý tài sản của Enduriel,” Galbatorix nói. “Ông ấy nói cho cô nghe chưa?”

Cô rùng mình và nhắm mắt cảm nhận nước mắt lăn ra từ khóe mi. Cô ghét nghe lão nói. Giọng nói của lão quá quyền lực, quá quyến rũ; nó khiến cô muốn làm tất cả những gì lão sai khiến.

“Đúng,” cô thì thào.

“Lúc đó ta hầu như không để ý nhiều tới ông ta. Vì sao ư? Ông ấy chỉ là một nô bộc, không ai để ý. Enduriel cho phép ông ấy có chút tự do, để quản lý cơ nghiệp cho hắn – nhưng hóa ra lại là tự do quá đáng.” Lão bạo chúa vung tay không chủ đích, và ánh sáng chiếu vào bàn tay gầy như móng vuốt của lão. “Enduruel luôn là người dễ tính. Con rồng của hắn mới quái tính; Enduriel thường làm theo những gì con rồng bảo...Thật là trò đùa kỳ lạ của số phận. Khó lòng mà tin được một người đàn ông chỉ soi mặt lên đôi giày bóng lộn của ta lại trở thành kẻ thù khó chơi nhất chỉ sau Brom, và giờ cô, con gái của ông ta, trở lại Urû’baen và sắp sửa phục mệnh ta, như cha cô. Thật là mỉa mai, phải không nhỉ?”

“Cha tôi đã trốn thoát và ông ấy đã suýt giết Durza,” cô nói. “Tất cả các câu thần chú và lời thề của ông không thể giữ ông ấy cũng như sẽ không ràng buộc được tôi.”

Cô nghĩ Galbatorix vừa nhíu mày. “Đúng, thật không may làm sao. Lúc đó Durza đã suýt mất mạng. Gia đình dường như dễ dàng giúp một con người thay đổi bản thân và tên thật của mình, vì thế sau này ta chọn tâm phúc là những kẻ không vướng bận gia đình. Nhưng, cô đã nhầm nếu nghĩ có thể tìm ra lỗ hổng trong lời chú của ta. Cách duy nhất thoát khỏi Căn Phòng của Nhà tiên tri là thề trung thành với ta hoặc là chết.”

“Vậy ta thà chết.”

“Thật là thiển cận.” BÓng bạo chúa nhoài về phía cô. “Cô đã bao giờ nghĩ tới thế giới này sẽ hỏng nếu ta không lật đổ các Kỵ sĩ chưa?”

“Các kỵ sĩ giúp thế giới hòa bình,” cô nói. “Họ bảo vệ Alagaësia không lâm vào cảnh nồi da nấu thịt, bệnh dịch hoành hành... khỏi các Tà thần. Lúc gặp nạn dịch hạch, họ mang thức ăn cho những người chết đói. Làm sao không có họ lại làm thế giới tốt đẹp hơn chứ?”

“Vì chúng ta phải trả giá cho sự phục vụ của họ. Cô và mọi người đều biết cái gì cũng có giá của nó, hoặc là bằng vàng, thời gian hoặc bằng máu. Không có gì mà không có giá, kể cả các Kỵ sĩ. Đặc biệt là các Kỵ sĩ.

“Đúng, họ giữ hòa bình, nhưng họ đàn áp mọi giống loài trên mảnh đất này, dù là tiên, người lùn hay thậm chí là con người. Những người hát rong thường ca ngợi họ cái gì nhỉ? Rằng họ trị vì hàng ngàn năm, rằng trong suốt ‘kỷ nguyên vàng’ đó rất ít có biến cố hoàng gia nào. Ồ, ở đây có những nguy hiểm nho nhỏ: tà thần ở đây, Urgal tấn công, hai bộ lạc người lùn xung đột vì một mỏ khoáng thạch nhưng chẳng ai quan tâm. Nhưng nhìn tổng thể, trật tự mọi thứ vẫn giữ nguyên như khi các Kỵ sĩ mới nắm quyền.”

Cô nhe có tiếng kim loại leng keng khi Murtagh đảo than trong lò. Cô ước gì cô thấy được khuôn mặt hắn để xem phản ứng của hắn trước những gì Galbatorix vừa nói, nhưng hắn vẫn đứng đó cúi mặt nhìn đống than hồng. Hắn chỉ nhìn cô khi nhấn que sắt nóng lên da thịt cô. Đó là những gì hắn làm và cô nghi hắn cần nó như cô cần những lời đáp trả Galabtorix của mình.

Galbatorix vẫn ra rả nói: “Thế không phải quá tàn ác hay sao Nasuada? Đời thay đổi nhưng các Kỵ sĩ vẫn xích chặt mảnh đất này không cho nó phát triển, hay thụt lùi theo quy luật tự nhiên... không thể trở thành một thứ mới mẻ. Ta tận mắt chứng kiến những công văn tại Vroengard và ở đó, ở Ilirea, rằng những phát hiện nhỏ nhặt nhất – về phép thuật, cơ khí, và những triết lý tự nhiên – bị các Kỵ sĩ giấu kín vì họ sợ điều xảy ra nếu ai cũng biết những kiến thức đó. Các Kỵ sĩ hèn nhát muốn đi theo lối mòn trong cách sống và tư duy. Họ cố gắng duy trì nó tới hơi thở cuối cùng. Có thể sự chuyên chế của họ mang lại hòa bình nhưng sẽ duy trì thế giới theo một hình thái tới mãi mái.”

“Nhưng giết người và phản bội có thực sự là giải pháp?” cô hỏi, không quan tâm hắn sẽ trừng phạt cô thế nào.

Lão cười, dường như hứng khởi. “Đạo đức giả! Cô buộc tội ta vì bất cứ điều gì cô nghĩ ra. Nếu có thể, cô nên giết ta ngay tại đây, đừng do dự. Cứ cho ta là một con chó dại mà giết đi.”

“Ông là kẻ phản bội còn tôi thì không.”

“Ta là kẻ chiến thắng. Thế là đủ. Chúng ta không khác nhau nhiều như cô nghĩ đâu Nasuada. Cô muốn giết ta vì cô tin cái chết của ta sẽ giúp Alagaësia tiến một bước mới và vì cô – một đứa nhỏ - tin rằng cô có thể trị vì Vương QUốc tốt hơn ta. Sự ngốc nghếch của cô sẽ khiến cho kẻ khác muốn trừ khử cô. Nhưng tất nhiên không phải ta. Ta đã chống lại Kỵ sĩ vì nguyên do tương tự, ta có quyền làm vậy.”

“Vậy ông không hề có ý định trả thù?”

Cô nghĩ lão cười. “Có thể ta xuất phát từ mục đích cá nhân nhưng hận thù hay trả thù không phải động cơ thúc đẩy của ta. Ta nghĩ về Kỵ sĩ là gì và rằng chỉ khi họ bị xóa sổ chúng ta mới lớn mạnh được.”

Trong một lúc cơn đau từ vết thương quá kinh khủng khiến cô không mở miệng nổi. Sau cùng cô cũng thì thầm: “Nếu những gì ông nói là thực – và tôi không có lý gì mà tin ông, nhưng nếu đúng là thật – vậy thì ông cũng đâu hơn các Kỵ sĩ. Ông cướp lấy thư viện và thu thập kho kiến thức của họ nhưng ông cũng không chia sẻ với một ai.”

Lão tới gần cô hơn, cô cảm thấy hơi thở lão bên tai. “Vì, trong những bí mật của họ, ta đã tìm thấy một sự thực vĩ đại hơn, một sự thật có thể trả lời cho bất kỳ câu hỏi nào trong lịch sử.”

Một cơn rùng mình chạy dọc xương sống cô. “Câu hỏi... nào?”

Hắn ngả người ra ghế và cầm lấy đuôi áo choàng. “Câu hỏi làm thế nào mà một vị vua hay nữ hoàng có thể ban hành luật lệ trị vì những sinh vật sử dụng pháp thuật. Khi ta nhận ra điều đó, ta đã bỏ qua những thứ khác và tự mình lần theo sự thật đó, câu trả lời đó, vì ta biết nó cực kỳ quan trọng. Vì thế ta giữ cho mình những bí mật của Kỵ sĩ rồng; vì ta còn bận nghiên cứu. Tới khi ta tìm ra câu trả lời ta sẽ công bố những bí mật kia. Thế giới này vốn là một nơi nhiều vấn đề và tốt nhất nên để nước lặng trước khi khuấy động nó lên... Ta mất gần một thế kỷ để tìm ra thông tin mình cần, và giờ khi đã có, ta sẽ dùng nó để thay đổi Alagaësia.

Pháp thuật làm thế giới này không có công bằng. Sẽ là công bằng nếu kẻ yếu có khả năng đó – nhưng không. Thường kẻ mạnh mới có khả năng dùng phép và họ có được nhiều hơn những người khác. Cứ nhìn thần tiên thì biết. Vấn đề này không chỉ ảnh hưởng tới một cá nhân mà còn gây ảnh hưởng tới quan hệ giữa các giống loài. Thần tiên dễ dàng duy trì trật tự xã hội hơn chúng ta vì hầu hết họ có thể sử dụng pháp thuật và rất ít trong số họ phải cần người khác ban ơn. Họ may mắn nhưng chúng ta, người lùn và kể cả Urgal thì không. Chúng ta chỉ có thể sống ở Alagaësia vì thần tiên đồng ý. Nếu họ muốn, họ có thể xóa sổ chúng ta khỏi mặt đất dễ dàng như cơn lũ cuốn phăng một tổ kiến. Nhưng giờ khi ta có thể đối địch với họ thì họ không thể làm được nữa.”

“Những Kỵ sĩ sẽ không bao giờ để họ giết hoặc đuổi chúng ta đi.”

“Không, nhưng hồi các Kỵ sĩ tồn tại, chúng ta phải sống dựa vào lòng nhân ái của họ và chúng ta không nên sống phụ thuộc vào sự gia ơn của kẻ khác. Các kỵ sĩ lúc đầu là công cụ duy trì hòa bình giữa tiên và rồng, nhưng cuối cùng, mục đích chính của họ lại là duy trì luật lệ trên mảnh đất này. Nhưng họ không đủ tài cán, cũng giống như những pháp sư của ta, Bàn ta đen. Vấn đề này là vấn đề nan giải. Cuộc đời ta là bằng chứng đây. Kể cả nếu có đủ lượng pháp sư sống trên Alagaësia – đủ để can thiêp vào những trường hợp lạm dụng quyền hành nhỏ nhặt nhất – chúng ta vẫn phải nhờ cậy vào những kẻ quyền lực hơn chúng ta. Mảnh đất này lúc đó chẳng an toàn hơn hiện giờ là bao. Không, để giải quyết vấn đề này, chúng ta phải tìm hiểu tới gốc rễ vấn đề. Những người cổ đại biết và giờ ta cũng biết.”

Galbatorix dịch người trên ghế và cô thấy ánh nhìn sắc lẹm trong mắt lão, nhờ ánh đèn hắt ra trong một hang động. “Ta sẽ khiến các pháp sư không thể làm hại người khác, dù đó là người, người lùn, hay thần tiên. Không ai được dùng thần chú trừ khi ta cho phép và chỉ có phép thuật phục vụ lợi ích con người mới được dùng. Kể cả thần tiên cũng bắt buộc phải theo và họ sẽ học được cách dùng từ đúng đắn hoặc câm họng lại.”

“Ai là người cho phép?” cô hỏi. “Ai sẽ quyết định nên dùng câu thần chú nào và không dùng câu nào? Ông ư?”

“Ai đó. Ta biết cái gì cần và ta tìm ra cách và ta sẽ thi hành. Cô nghi ngờ ư? Được, hãy tự hỏi mình, Nasuada: ta có phải một quân vương tồi không? Thành thực đi. Nếu chiếu theo người tiền nhận, ta không hề quá đáng.”

“Ông độc ác.”

“Không giống nhau.... Cô dẫn dắt Vardenl cô hiểu gánh nặng của người chỉ huy. Chắc chắn cô thấy được phép thuật đe dọa các Vương quốc thế nào? Ta cho cô một ví dụ. Ta đã nhiều lần tìm câu thần chú bảo vệ lãnh thổ. Nhưng chắc chắn sẽ có kẻ tìm được cách lách luật và cũng có kẻ tìm cách lừa tiền cả quý tộc lẫn dân thường. Vậy cô nghĩ vì sao ta phải cẩn trọng hạn chế sử dụng pháp thuật trong Vương quốc?”

“Vì ông sẽ gặp nguy.”

“sai! Cô hoàn toàn sai. Không gì đe dọa được ta. Không ai và không một cái gì. Nhưng những pháp sư là những kẻ đe dọa sự bình yên cho vương quốc và ta sẽ không dung thứ cho chúng. Một khi ta buộc tất cả các pháp sư trên thế giới thực hiện luật, hòa bình và trật tự sẽ được thiết lâp. Không một con người hay người lùn nào phải e dè thần tiên. Chúng ta không cần núp dưới bóng các Kỵ sĩ. Những kẻ bình thường không còn phải tôn thờ kẻ có pháp thuật. Alagaësia sẽ thay đổi, và với sự an toàn mới thiết lập này, chúng ta sẽ xây nên một tương lai hoành tráng hơn, và cô có thể trở thành một phần trong đó.

“Phục tùng ta, Nasuada và cô sẽ có cơ hội thấy sự kiến tạo thế giới này – một thế giới con người dựa nào sức mạnh cơ bắp và ý chí chứ không phải phép thuật. Con người có thể tập luyện để khỏe mạnh và rèn luyện ý chí nhưng không phải ai sinh ra cũng có khả năng dùng phép. Như ta đã nói, phép thuật thiếu tính công bằng và vì sự tốt đẹp, ta sẽ hạn chế khả năng của các pháp sư.”

Cô nhìn những đường kẻ trên trần nhà và cố lờ lão đi.Lão nói rất nhiều thứ giống với suy nghĩ của cô. Lão đúng: pháp thuật là năng lực có sức hủy diệt thế giới này nhất, và nếu ban hành điều luật hạn chế dùng pháp thuật, Alagaësia sẽ trở nên tốt hơn. Cô ghét phải thừa nhận không có gì có thể ngăn Eragon khỏi...

Xanh. Đỏ. Những màu sắc đan xen trên thảm. Cơn đau nhói. Cô tuyệt vọng cố tập trung vào những thứ khác. Dù cô có nghĩ gì thì thứ đó cũng không tồn tại.

“Cô cho ta là quỷ dữ. Cô nguyền rủa tên ta và tìm cách hạ bệ ta. Nhưng hãy nhớ, Nasuada: ta không khơi mào chiến tranh và ta không chịu trách nhiệm cho những kẻ chết trong trận chiến ấy. Ta không phải kẻ khơi mào. Cô cơ. Ta giành thời gian nghiên cứu, nhưng Varden cứ cố lấy cắp quả trứng của Saphira khỏi kho báu của ta và cô cũng những kẻ đồng bọn của cô phải chịu trách nhiệm cho cảnh đầu rơi máu chảy. Cô là kẻ đã reo rắc tang thương trên miền đất này, chứ không phải ta. Và giờ cô lại to mồm kêu ta sai! Nếu cô vào thăm những người nông dân, họ sẽ nói cho cô hay họ sợ nhất là Varden. Họ sẽ nói cho cô nghe họ trông mong binh lính của ta bảo vệ họ thế nào và họ hy vọng Triều đình sẽ đánh bại Varden và mọi chuyện lại trở về như cũ thế nào.”

Nasuada liếm môi. DÙ cô biết sự cứng đầu của mình sẽ phải trả giá thế nào nhưng cô vẫn nói, “Tôi thấy ông phản biện quá nhiều...Nếu sự thịnh vương là mối quan tâm chính của ông, vậy ông nên đầu hàng Varden từ hàng tuần trước, thay vì để quân đội đi lại lung tung. CHỉ có khả năng ông không chắc chắn như ông đang giả bộ. Hoặc ông sợ thần tiên sẽ chiếm lại Urû’baen khi ông bỏ đi?” Như một thói qune. Cô nói về Varden như thể cô chỉ là một người bình thường nghe danh về họ thôi vậy.

Galbatorix nhúc nhích và cô biết hắn định đáp lời nhưng cô chưa nói xong.

“Và Urgal nữa chứ? Ông không thể thuyết phục tôi rằng mục đích khi xóa sổ cả một giống loài là để xoa dịu nỗi đau khi mất đi con rồng đầu tiên. Ông có câu trả lời không, kẻ Phản bội?...Giờ nói cho tôi nghe về những con rồng đi. GIải thích vì sao ông giết hại quá nhiều khiến chúng gần như lâm vào tuyệt diệt. Và cuối cùng, hãy giải thích cách ông dùng các Eldunarí một cách sai trái đi.” Trong cơn giận dữ, cô để cho mình nói ra một điều. “Ông đã buộc họ cúi mình làm theo những gì ông muốn. Ông sai, ích kỷ và thèm khát quyền lực.”

Galbatorix đánh giá co một lúc. Sau đó cô thấy hắn khoanh tay. “Ta nghĩ sắt đủ nóng rồi. Murtagh, nếu ngươi có thể...”

Cô nắm chặt tay, móng tay chọc vào da, không khống chế nổi cơ bắp đang run lên. Một trong những thanh sắt chạm vào vành lò than khi Murtagh kéo nó ra. Hắn đối mặt với cô, và cô không thể không nhìn chằm chằm vào đầu sắt nóng đỏ. Sau đó cô nhìn vào mắt Murtagh. Cô thấy sự tội lấy và đau đớn trong đó, cô cũng cảm nhận nỗi buồn đang dâng lên trong cô.

Chúng ta thật ngốc, cô nghĩ. Những kẻ ngốc đáng thương yếu đuối.

Sau đó, cô không còn sức mà nghĩ và thế là cô làm theo tiến trình cũ, bám vào đó mà sống như một người chết đuối bám láy cọc.

Khi Murtagh và Galbatorix rời đi, cô quá đau đớn chỉ còn sức nhìn mông lung lên hoa văn trên trần nhà trong khi cố không khóc. Cô đổ mồ hôi và run lẩy bẩy, như thể đang lên cơn sốt. Cô không thể tập trng vào một thứ trong vài giây. Cơn đau không hề thuyên giảm như khi cô bị cắt hay bị thâm tím; ngược lại, cơn đau tỉ lệ thuận với thời gian.

Cô nhắm mắt và tập trung thở chậm lại cho bình tĩnh.

Lần đầu tiên Galbatorix và Murtagh tới, cô rất dũng cảm. Cô chửi bới họ và làm tất cả những gì có thể để khiến họ tổn thương. Nhưng, sau những màn tra tấn của Murtagh và Galbatorix, cô đã dần dần hết hứng phản kháng ra ngoài. Sắt nóng làm cô sợ hãi; dù những ký ức về nó thôi cũng đủ khiến cô muốn cuộn tròn lại thành một quả bóng nhỏ. Trong lần thăm thứ hai gần đây nhất, cô đã nói ít nhất có thể.

Cô đã cố thử xem có thực sự Galbatorix và Murtagh không lừa cô. Cô đã hỏi họ về những công việc Triều chính, những điều gián điệp đã báo cáo cô trừ những điều Gabatorix không tin rằng cô biết. Tới giờ, Galbatorix và Murtagh vẫn nói thật, nhưng cô không tin bất cứ điều gì nhà vua nói khi cô không có bằng chứng lão nói thật.

Cô không chắc về Murtagh. Khi đi cùng nhà vua, cô không tin những gì hắn nói, nhưng khi hắn tới một mình...

Vài giờ sau cuộc gặp mặt đau đớn đầu tiên với Bạo chúa Galbatorix – khi cô đã ngủ lơ mơ một lúc lâu – Murtagh tới một mình, mắt mờ và hơi thở có mùi rượu. Hắn đứng trước khối đá cô nằm, và hắn nhìn chằm chằm cô với biệu hiện lạ lùng, khiến cô không chắc hắn định làm gì.

Cuối cùng, hắn quy người bước tới bức tường gần nhất và trượt ngồi xuống. Hắn ngồi đó, bó gối lên gần ngực, mái tóc dài nhờn bóng của hắn che gần hết khuôn mặt, máu chảy ra từ đốt ngón tay phải. Sau vài phút, hắn cho tay vào trong áo choàng nâu 0 hắn vẫn mặc nguyên bộ đồ cũ chỉ có điều không đeo mặt nạ - và lấy ra một chai đá nhỏ. Hắn uống vài ngụm rồi bắt đầu nói.

Hắn nói còn cô nghe. Cô không còn lựa chọn nhưng cô không cho phép mình tin lời hắn. Lúc đầu thì không. Theo như những gì cô biết, những gì hắn nói và làm đều nhằm chiếm lòng tin của cô.

Murtagh bắt đầu bằng việc kể cho cô nghe về một người đàn ông tên Tornac, về tai nạn và vài lời khuyên Tornac cho hắn về một người đàn ông nên sống như thế nào. Cô không thể biết Tornac là bạn, kẻ tôi bộc, người họ hàng xa hay kết hợp của mấy thứ đó. Nhưng dù ông ta là gì, rõ ràng ông ta rất quan trọng với Murtagh.

Khi hắn kể gần hết hắn nói, “Galbatorix định giết cô. Lão biết Elva không bảo vệ cô nhưng trước, vì thế hắn quyết định giờ là thời khắc hoàn hảo để ám sát cô. Tôi chỉ tình cơ biết được kế hoạch đó; tôi tình cờ ben cạnh lão khi lão ra lệnh cho Bàn tay đen.” Murtagh lắc đầu. “Đó là lỗi của tôi. Tôi thuyết phục lão đưa cô tới đây. Lão thích nó; lão biết cô sẽ khiến Eragon đâm đầu vào rọ nhanh hơn...Nhưng chỉ có cách đó tôi mới cứu được cô... Tôi xin lỗi...Tôi xin lỗi.” Và hắn vùi đầu vào cánh tay.

“Tôi thà chết còn hơn.”

“Tôi biết,” hắn nói bằng giọng khàn khàn. “Cô tha thứ cho tôi nhé?”

Cô không trả lời. Cô cảm thấy khó chịu. Vì sao hắn lại muốn cứu mạng cô, và hắn muốn cô làm gì cho hắn?

Murtagh không nói gì thêm. Sau đó, hắn kể cô nghe về lần hắn bị diễu tới trước Galbatorix, về việc lão đã không tin và ghen tị thế nào khi gặp con trai của Morzan, về những tên quý tộc muốn dùng hắn để chiếm được sự sủng ái của nhà vua, và niềm khao khát người mẹ hắn hầu như không nhớ mặt. Hai lần hắn nhắc tới Eragon và chửi cậu ta vì được định mệnh ưu ái. “Hắn sẽ không làm tốt nếu như chúng tôi đổi vị trí. Nhưng mẹ chúng tôi đã chọn hắn để đưa tới Carvahall, chứ không phải tôi.” Hắn vỗ lên sàn nhà.

Coo thấy toàn bộ màn diễn đều là tự khóc thương bản thân, là điểm yếu của hắn không có gì ngoài mong sự thương cảm từ cô cho tới khi hắn kể lại Cặp song sinh đã bắt hắn khỏi Farthen Dûr thế nào và chúng đã xử tệ với hắn thế nào trên đường tới Urû’baen, và Galbatorix đã tra tấn hắn thế nào. Hắn kể ra vài trò tra tấn còn tệ hơn của cô và, nếu thật sự có, khiến cô có chút thương cảm cho hắn.

“Tôi sống được là nhờ có Thorn...” Cuối cùng hắn thừa nhận. “Khi cu cậu nở ra vì tôi và chúng tôi kết nối....” hắn lắc đầu. “Tôi yêu nó. Sao lại không thể yêu nó chứ? Tôi yêu nó như Eragon yêu Saphira. Giây phút tôi chạm vào nó tôi đã lạc lối. Galbatorix dùng nó để chống lại tôi. Thorn mạnh hơn tôi. Nó chưa bao giờ từ bỏ. Nhưng tôi không thể trơ mắt nhìn nó chịu đau vì thế tôi đã thề trung thành với nhà vua, và sau đó...” Môi Murtagh cong lên vì kinh sợ. “Sau đó, Galbatorix đi vào trong tư tưởng tôi. Lão biết mọi thứ về tôi, sau đó hắn biết tên thật của tôi. Giờ tôi là của lão...Mãi mãi.”

Sau đó hắn dựa đầu vào tường, nhắm mắt và cô thấy nước mắt chảy ra từ khóe mắt hắn.

Sau dần hắn đứng lên, khi bước về cửa, hắn dừng lại cạnh cô và chạm vào vai cô. Cô để ý móng tay hắn sạch sẽ và hồng hào, nhưng không được chăm sóc kỹ lưỡng như gã cai ngục. Hắn nói gì đó bằng ngôn ngữ cổ và một lát sau, cơn đau của cô bay biến, dù vết thương vẫn như cũ.

Sau đó hắn rút tay thì cô nói. “Tôi không thể tha thứ...nhưng tôi hiểu.”

Nghe tới đó hắn gật đầu và đi mất, để lại cô phân vân không biết có phải mình đã tìm ra đồng minh mới không.

Cuộc nổi loạn nhỏ

.

 Khi Nasuda đặt mình lên phiến đá, run lẩy bẩy và vã mồ hôi, cơ thể cô đau ê ẩm. cô ước Murtagh quay trở lại, giải phóng cô khỏi sự đau đớn tột cùng về thể xác lẫn tinh thần này.

 cuối cùngcánh cửa dẫn tới buồng giammở ra, cô không thể ngăn cản mình nghỉ ngơi, nhưng cô đã vô cùngthất vọng khi nghe thấytiếng bước chân xáo trộn của gã cai ngụcđangđi xuốngcầu thang dẫn vào phòng

Gã đàn ông đậm người có bờ vai hẹp,lần trước khi gã xuất hiện, đã để mặc cho vết thương do cô gây ra chảy máu, rồi băng lại bằng 1 chiếc khăn tay. Khi hắntháo cùm cho cô để đưa cô đi vệ sinh, cô đã cố gắng đoạt lấy con dao trên khay thức ăn, nhưng cô nhận ra mình không còn chút sức lực nào. Thay vì hành động, cô chấp nhận rằng mình phải cám ơn sự giúp đỡ của hắn, và lần thứ hai, khen ngợi móng tay hắn. bộ móng tay ấy thậm chí còn sáng bóng hơn so với lần đầu tiên cô thấy và rõ rang là hắnmuốncô thấy, bởi hắn luôn để tay ở nơi cô k với tới đc, nhưng lại nhìn thấy được.

Sau khi hắn cho cô ăn và rời đi, cô đã cố gắng ngủ, nhưng sự đau đớn của những vết thương làmgiấc ngủ cứ chập chờn.

 Mắt cô bừng tỉnh khi nghe thấy chốt cửa phòng giam mở ra.

Không phải là 1 lần nữa chứ ! – cô nghĩ, và sợ hãi

Không phải sớm vậy chứ ! Mình không thể nào chịu đựng được nữa, mình không đủ mạnh mẽ . sau đó cô kìm chế nỗi sợ hãi và tự nhủ : không, đừng nói bất kỳ điều gì, bằng không mày sẽ bắt đầu tin họ mất.  Mặc dù cô vẫn hoàn toàn kiểm soát ý thức và cảm xúc, cô cũng không thể ngăn quả tim cô đập loạn xạ. tiếng bước chân 1 ai đó vọng lại trong căn phòng, và Murtagh xuất hiện. Anh ta không đeo mặt nạ, và trông có vẻ ủ rũ. Lần trước anh ta đã chữa lành vết thương cho cô, cảm giác khi thoát khỏi sự đau đớn, nó giống như là 1 điều hạnh phúc. Trong cuộc đời cô, chưa khi nào cô có cảm xúc mãnh liệt giống như khi mọi nỗi đau về tinh thần và thể xác được giải phóng.

Cô thở hổn hển xúc động nói : “ cảm ơn”

Murtagh gật đầu, bước qua bức tường và ngồi xuống đúng nơi lần trước anh ta ngồi.

Cô nhìn anh trong phút chốc. da ở ngón tay anh đã lành trở lại. Anh xuát hiện với dáng vẻ nghiêm trang, dù ít nói và rầu rĩ. Bộ quần áo lành lặn, giờ đây xuất hiện những vết sờn, vết rách, và những miếng vá. Cô nhận ra một vài vết cắt ở mặt bên cánh tay áo.

Cô tự hỏi, có phải anh vừa trải qua 1 trận chiến.

“ Galbatorix có biết anh ở đây?”- cô hỏi.

“ có thể, nhưng tôi không tin lắm. Ông ta còn đang bận rộn với những người đàn bà. Hoặc la Ông ấy đang ngủ, bây giờ chẳng phải là nửa đêm sao. Tôi đã đặt 1 câu thần chú để không ai có thể nghe thấy chúng ta nói gì. Ông ấy có thể phá vỡ câu thần chú ấy, nhưng khi ấy, tôi sẽ biết”

“ chẳng may ông ta tìm thấy chúng ta”

Murtagh nhún vai

 “ ông ta có thể tìm thấy chúng ta, nếu ông ta làm suy yếu sự phòng vệ của tôi “

“ đừng để ông ta làm điều đó. Anh mạnh mẽ hơn tôi, và anh không có thứ gì mà ông ta có thể uy hiếp. anh có thể chống lại ông ta, không như tôi….lực lượng Varden đang đến gần, các thần tiên cũng vậy, họ đang đến từ phương bắc. nếu anh có thể chịu đựng them 1 vài ngày, chúng ta sẽ có cơ hội….cơ hội giải phóng cho a”

“ cô không tin họ có thể làm được điều đó đúng k?”

Murtagh lại nhún vai

“…..và giúp tôi trốn thoát”

Một tràng cười lớn phát ra từ miệng Murtagh.

“ bằng cách nào? Tôi chẳng thể làm gì mà không có lệnh của Galbatorix”

“ anh có thể nới lỏng dây trói cho tôi, và khi đi ra, hãy quên khóa cửa”

Môi trên anh ta nhếch lên, vẻ cười khinh bỉ : “ có 2 người đàn ông canh gác ngoài kia, và có những sự phòng vệ được thiết lập trong căn phòng này, cảnh báo cho Galbatorix nếu có 1 tù nhân nào trốn thoát. Cũng có hang trăm binh lình từ đây cho đến cánh cổng gần nhất. Cô chắc hẳn là rất may mắn nếu đến được tiền sảnh”

“có thể, nhưng tôi muốn thử”

“cô sẽ tự giết chết bản thân mình”

“ giúp tôi, nếu a muốn, a có thể đánh lừa sự phòng vệ của lão”

“ tôi không thể. Lời thề không cho phép tôi dùng phép thuật chống lại lão”

“thế còn những người lính, hãy nghĩ đi? Nếu anh cầm chân chúng đủ lâu để tôi tới được cánh cổng, tôi có thể ẩn nấp trong thành phố, và sẽ không còn là vấn đề nữa khi Galbatorix biết…..”

“ thành phồ này là của ông ta. Ngoài ra, dù cô đi đâu, ông ấy cũng có thể tìm ra cô chỉ bằng 1 câu thần chú. Cách duy nhất cô có thể an toàn là cách xa nơi đây trước khi lão biết, nhưng cô không thể làm được điều ây, thậm chí ngay cả khi cô bay trên lưng rồng”

“ phải có cách nào đó”

“ nếu có….” Anh ta cười chua xót và nhìn xuống “thì là đừng nghĩ đến nó nữa”

Thất vọng, cô nhìn chằm chằm lên trần nhà trong giây lát. “ ít nhất, hãy cởi những cái cùm cho tôi”

Anh ta thở dài.

“ như thế tôi có thể đứng dậy” – cô nói “ tôi ghét phải nằm trên tảng đá này và ngước nhìn anh, nó làm tôi mỏi mắt”

Anh ta lưỡng lự, rồi sau đó đứng dậy, lại gần phiến đá, và bắt đầu tháo những dây trói xung quanh cổ tay và cổ chân cô : “ đừng nghĩ cô có thể giết tôi”-anh ta thì thầm “ cô không thể”

Ngay khi cô được tự do, anh ta trở lại vị trí ban đầu, ngồi trên sàn nhà, nhìn chằm chằm vào khoảng không. Cô nghĩ, đó là cách anh ta thử dành cho cô 1 chút riêng tư khi cô ngồi dậy và đung đưa chân qua 1 bên phiến đá. Quần áo cô rách tả tơi, và thật khó để che kín toàn bộ thân thể.

Sàn nhà bằng đá cẩm thạch thật lạnh lẽo dưới bàn chân cô,khi cô lại gần Murtagh và ngồi xuống bên cạnh anh. Cô vòng 2 tay ôm lấy mình, vẻ dịu dành thùy mị.

“ Tornac có phải là người bạn từ thủa thiếu thời duy nhất của anh?” – cô hỏi.

Murtagh vẫn không nhìn về phía cô. “ không, nhưng anh ấy còn thân thiết hơn cả cha tôi. anh ấy dạy dỗ rôi, dỗ dành tôi…. Mắng mỏ tôi khi tôi quá kiêu ngạo, và cứu tôi khỏi những điều ngớ ngẩn do chính tôi tạo ra, rất nhiều lần, nhiều hơn cả những gì tôi có thể nhớ được. nếu anh ấy còn sống, anh ấy hẳn sẽ đập tôi vài phát cho đến khi tôi choáng váng như 1 thàng say hôm nọ”

“ anh nói anh ấy đã chết khi anh chạy trốn khỏi Ure’bean?”

Anh ta cười hố hố: “ tôi đã nghĩ là tôi thong minh. Tôi đã hối lộ 1 tên lích gác để hắn bỏ ngỏ 1 bên cổng. chúng tôi định trốn ra khỏi thành phố trong bóng đêm, và chúng tôi tin rằng, khi Galbatorix biết được chuyện gì xảy ra, thì đã quá muộn để bắt chúng tôi lại. ông ta đã biết ngay từ đầu. nhưng bằng cách nào, tôi không rõ, tôi đoán ông ta đã bói cầu tôi mọi lúc. Khi tôi và Tornac qua khỏi cánh cổng, những người lính đã chờ chúng tôi ở đó. Họ được lệnh mang chúng tôi về, không trầy xước, nhưng chúng tôi đã chiến đẫu, và 1 trong số họ đã giết Tornac. Kiếm sĩ tài ba nhất trong vương quốc đã ngã xuống bằng 1 con dao từ sau lưng”

“ nhưng Galbatorix đã để anh thoát”

“ tôi nghĩ ông ấy cho rằng chúng tôi sẽ không chiến đấu. Ngoài ra, đêm đó, Galbatorix đã bị thu hút đến 1 nơi nào đó”

Nasuda cau mày khi nhìn thấy nụ cười  khểnh trên khuôn mặt Murtagh

“ tôi đã tính thời gian” – anh ta nói. “ đó là khi lũ Ra’zac xuất hiện tại thung lũng Palancar, tìm quả trứng của Saphira. Và cô thấy đấy, Eragon đã  mất người cha dượng của mình, gần như cùng lúc khi tôi đánh mất Tornac. Số phận thật là hài hước, cô có nghĩ vậy không?”

“ phải…..nhưng Galbatorix có thể bói cầu anh, và sao lão không theo dõi anh, và mang anh về Ure’bean sau đó?”

“ lão muốn chơi đùa với tôi, toi nghĩ vậy. tôi tới sống tại 1 trang trại của 1 người mà tôi tin là có thể tin tưởng được. và như những lần trước, tôi lại phạm sai lầm, dù tôi chỉ biết điều đó sau này, khi cặp song sinh mang tôi về. Galbatorix biết tôi ở đâu, và ông ta biết tôi vẫn còn tức giận về cái chết của Tornac,  vì thế ông ta tạm để tôi ở lại điền trang, trong khi đang săn lung Eragon và Brom…. Tôi đã làm lão ngạc nhiên, tôi rời đi, và trong khi lão đang tìm hiểu sự biến mất của tôi, tôi đã đến Dras_Leona. Đó là lý do tại sao Galbatorix đến Drax-Leona. Đó không phải là để trừng phạt bá tước Tabor vì hành động của ông ta, mặc dù lão đã làm thế- mà là để tìm tôi. Nhưng ông ta đã đến trễ. Khi ông ta đến Dras-leona, tôi đã gặp Eragon và Saphira, và trên đường đến Gil’ead”

“ tại sao anh lại rời đi?” – Nasuda hỏi

“ Eragon chưa từng kể cho cô nghe sao, bởi vì…”

“ không, không phải Dras-leona. Tại sao anh lại rời khỏi điền tranh đó? Anh an toàn ở đó, hoặc anh cũng đã cho là vậy. vậy tại sao anh lại rời đi?”

Murtagh im lặng trong giây lát. “ tôi muốn tra thù Galbatorix, và tôi muốn tạo nên tên tuối cho mình, hoàn toàn tách biệt với tên tuổi của cha tôi. Toàn bộ cuộc đời tôi, mọi người nhìn tôi với ánh mắt khác biệt, vì tôi là con trai của Morzan. Tôi muốn mọi người tôn trọng tôi vì những việc tôi làm, chứ không phải vì cha tôi” Murtagh quay lại nhìn Nasuda, một cái nhìn thoáng qua ngoài tầm mắt “ tôi cho rằng tôi có những gì tôi muốn, nhưng lại 1 lần nữa, số phận thật là nực cười”

Cô tự hỏi liệu còn ai trong số những quần thần của Galbatorix mà hắn quan tâm tới, và rồi cô quyết định, đây là 1 đề tài hết sức nguy hiểm để nói đến.

Vì thế, cô hỏi “ Galbatorix có biết nhiều về Varden?”

“ tất cả, nhiều hơn những gì tôi có thể nói. Ông ta có nhiều gián điệp hơn cô tưởng”

Cô thắt chặt vòng tay quang bụng khi bụng cô sôi lên. “ anh có biết làm thế nào giết được Galbatorix không?”. “ một con dao, 1 thanh kiếm, một mũi tên. Thuốc độc. phép thuật. tất cả những cách thông thường. vấn đề là lão có quá nhiều những câu thần chú bảo vệ, không ai hay 1 thứ gì có thể làm hại lão. Eragon may mắn hơn mọi người. Lão không muốn giết cậu ấy, và vì thế, cậu ấy có nhiều cơ hội tấn công lão hơn những người khác. Nhưng dù Eragon có tấn công lão cả trăm lần, Eragon cũng sẽ không tìm ra cách nào vượt qua được sự phòng vệ của lão”

“ mọi câu đố đều có lời đáp, và mọi con người đều có điểm yếu” Nasuda khẳng định. “ lão có yêu bất kỳ ai trong số những người đàn bà của lão”

Vẻ mặt của Murtagh trả lời cho cô tất cả. sau đó anh ta nói “ có quá tệ không nếu Galbatorix tiếp tục làm vua? Thế giới mà ông ta mong muốn là 1 thế giới tốt đẹp. nếu ông ta đánh bại Varden, toàn cõi Alagaesia sẽ hòa bình. Ông ta sẽ đặt dấu chấm hết cho sự lạm dụng phép thuật, thần tiên, người lùn và cả con người sẽ không còn lý do để căm ghét lẫn nhau. Còn gì hơn nữa, nếu Varden thất bại, tôi và Eragon sẽ ở bên nhau như anh em. Còn nếu Varden thắng, điều đó có nghĩa là tôi và Thorn phải chết. chẳng phải vậy sao”

“ ồ, thế còn tôi” – Nasuda hỏi “ nếu Galbatorix thắng, tôi sẽ thành nô lệ và phục tùng mọi mệnh lệnh mà ông ta muốn à?” Murtagh từ chối trả lời, nhưng cô thấy cơ trên cánh tay anh căng lên “ anh không thể từ bỏ, Murtagh”

“ tôi còn lựa chọn nào khác không” anh ta hét lên, âm thanh vọng khắp căn phòng.

Cô đứng dậy và nhìn chằm chằm vào anh. “ anh có thể chiến đấu. nhìn tôi đây….nhìn tôi đây”.

Anh ta miễn cưỡng nhìn lên.

“ anh có thể tìm cách chống lại hắn. đó là điều anh có thể làm. Ngay cả khi lời thề chỉ cho anh 1 sự phản kháng nhỏ nhất. 1 sự phản kháng nhỏ nhất cũng có thể trở thành sự sụp đổ của lão” cô nhắc lại câu hỏi của anh để nhấn mạnh “ anh còn sự lựa chọn nào khác không? Anh có thể trải qua cảm giác cùng cực, khốn khổ và vô dụng trong phần đời còn lại của anh. Anh có thể để Galbatorix biến anh thánh 1 con quái vật. hoặc anh có thể chiến đấu.” cô chìa rộng cánh tay cho anh thấy những vết bỏng “ anh có muốn làm tôi bị thương không?”

“ không” – anh ta la lên.

“ vậy thì hãy chiến đấu đi. Anh phải chiến đấu, hoặc anh sẽ mất tát cả mọi thứ của anh, cả Thorn”. Cô giữ nguyên vị trí, trong khi anh bật dậy trên đôi chân của mình, uyển chuyển như 1 con mèo, tiến lại phía cô đến khi chỉ còn cách vài centimet. 2 hàm răng nghiến chặt, trong khi anh nhìn trừng trừng về phía cô, thở dồn dập qua lỗ mũi. Cô nhận thấy cảm xúc của anh ta, thứ mà cô đã nhiều lần nhận thấy trước kia. Đó là dáng vẻ của 1 người đàn ông có niềm kiêu hãnh bị xúc phạm, người muốn tấn công bất ngờ kẻ đã xúc phạm anh ta. Thật là nguy hiểm khi thúc giục anh ấy, nhưng cô biết cô phải làm vậy, vì cô có thể sẽ không có cơ hội làm lại điều đó.

“ nếu tôi có thể tiếp tục chiến đấu” – cô nói “ anh cũng có thể”

“ quay lại tảng đá”- anh ta nói 1 cách gay gắt.

“ tôi biết anh không phải kẻ nhát gan. Chết vinh quang còn hơn làm 1 tên nô lệ cho 1 kẻ như Galbatorix. Ít nhất anh cũng có thể làm được vài điều tốt đẹp, và tên anh sẽ được nhắc đến như là thước đo cho long tốt và sự tử tế sau khi anh chết”

“ quay lại tảng đá” anh ta gầm lến, tóm lấy cô bằng tay và kéo lê cô về phía phiến đá.

Cô để cho anh đặt cô lên phiến đá, buộc dây trói quanh cổ tay và cổ chân cô, thít chặt dây da quanh đầu cô. Sau khi làm xong, anh đứng lại nhìn cô. Ánh mắt đen hoang dại, mọi đường nét trên cơ thể anh như sợi dây thừng được kéo căng ra.

“ anh phải quyết định rằng anh có sẵn sang mạo hiểm cả mạng sống để cứu lấy chính mình hay không? – cô nói “ cả anh và Thorn, và anh phải quyết định ngay bây giờ, khi vẫn còn thời gian. Hãy hỏi chính bản thân mình, điều gì Tornac muốn anh làm?”

Không trả lời, Murtagh đặt bàn tay phải lên ngực cô, bàn tay ấm áp chạm vào da thịt cô. Sự tiếp xúc làm cô ngừng thở trong giât lát vì bất ngờ.

Sau đó, gần như là thì thầm, anh ta bắt đầu nói bằng cổ ngữ. những từ ngữ lạ lung trôi ra từ miệng anh ta, làm cô chưa bao giờ thấy sợ hãi như vậy. anh ta nói điều gì đó trong vài phút. Và khi anh dừng lại, cô không thấy có gì khác biệt, không có điềm lành hay điềm dữ nào cả.

Không khí lạnh ùa vào ngực cô khi Murtagh bỏ bàn tay ra. Anh lùi lại, và bước qua cô về phía cửa. Nasuda lập tức gọi a để hỏi về điều mà anh vừa làm, anh dùng lại và nói “ nó sẽ bảo vệ cô khỏi mọi đau đớn, nhưng cô phải giả vờ, bằng không, Galbatorix sẽ phát hiện ra những gì tôi đã làm”

Và rồi anh bước đi.

“ cảm ơn” – cô nói thầm trong căn phòng trống. Cô dành nhiều thời gian để suy nghĩ về cuộc trò chuyện của họ. có vẻ như Galbatorix không nghe thấy những gì họ nói với nhau, cũng có thể là có. Tất cả đều có thể xảy ra. và rồi cô thấy tiếc thương cho anh, dù trong sâu thẳm tâm hồn, a có là người tốt hay xấu. Cô nghĩ về vua Hrothgar, người giống như chú cô từ khi cô còn nhỏ, và làm sao Murtagh có thể giết ông ở cánh đồng cháy. Và cô nghĩ về tuổi thơ của Murtagh, cũng như những khó khăn mà anh đã trải qua. Làm sao anh có thể để Eragon và Saphira tự do khi anh dễ dàng bắt được họ mang về Ure’bean.

Cho dù anh đã từng là 1 người chính trực và đáng tôn trọng, thì giờ đây việc anh bị ép buộc phục tùng có thể hủy hoại cuộc đời anh.

Cuối cùng, cô quyết định bỏ qua quá khứ của anh, và sẽ chỉ phán xét anh trên những hành động mà anh làm ở hiện tại. Là tốt hay xấu, hay là cái gì đó ở giữa, anh vẫn là 1 đồng minh lớn, và cô sẽ cần sự giúp đỡ của anh nếu có. Và nếu anh sai, đối với cô sẽ không thể còn điều gì tồi tệ hơn bây giờ được nữa. còn nếu anh đúng, cô có thể trốn khỏi Ure’bean, và đó là sự mạo hiểm đáng giá.

Khi không còn bị những nỗi đau hành hạ, cô ngủ ngon lành 1 giấc dài và sâu, đó là lần đầu tiên cô ngủ ngon lành từ khi bị bắt đến Ure’bean. Cô tỉnh dậy, thấy hy vọng nhiều hơn trước. và lại nằm xăm xoi những hình vẽ trên mái nhà. Đường kẻ nhỏ màu xanh mà cô dõi theo làm cô để ý thấy 1 hình vẽ màu trắng nằm ở 1 góc  của phiến đá mà trước đây cô không hề nhìn thấy. mất 1 lúc cô mới nhận ra chỗ mất màu ấy là do 1 mảnh vỡ nhỏ rơi xuống.

Khung cảnh làm cô thấy thích thú, chúng thật ngộ nghĩnh, và cô có phần thoải mái khi biết rằng căn phòng hoàn hảo của Galbatorix thực sự không phải là hoàn hảo, và dù lão có khoe khoang thế nào, lão cũng không phải là người biết hết mọi điều và không phải không bao giờ phạm sai lầm.

Cánh cửa phòng giam lại mở ra, là tên cai ngục, và cô đoán là hắn mang bữa trưa đến. cô hỏi hắn là cô có thể ăn trước khi hắn dựng cô dậy được không, vì cô đói và muốn ăn hơn bất kỳ việc gì khác, mặc dù đó không hoàn toàn là sự thật. đáp lại yêu cầu của cô, hắn đồng ý, và dù không nói lời nào, hắn cười nhe hàm răng gớm giếc như bồ cào ra, ngồi xuống bên thành của phiến đá. Khi hắn đút những thìa cháo nóng vào miệng cô, đầu óc cô đang suy nghĩ để lên kế hoạch cho 1 điều bất ngờ, mà cô biết là cô chỉ có 1 cơ hội duy nhất để thành công.

 cô thấy thật buồn nôn và khó nuốt những thứ đồ ăn nhạt nhẽo. tuy nhiên, cô kìm nén, và khi bát cháo hết, cô đã no, thì cô đã sẵn sang.

Gã này luôn luôn đặt khay thức ăn trên bệ tường phía xa, gần chỗ Murtagh ngồi, và có lẽ khoảng cách  từ cửa đến nhà vệ sinh là vài mét/

Khi được tháo cùm, cô trườn khỏi phiến đá. Gã cai ngục với tay định túm lấy tay trái cô, nhưng cô nâng tay lên, và bằng giọng  ngọt ngào nhất có thể “ tôi có thể tự đứng dậy, cảm ơn anh”

Gã cai ngục lưỡng lự, hắn lại mỉm cười và 2 hàm răng lại chạm vào nhau như thế nói: “ được thôi”

Họ tiến tới nhà vệ sinh, cô đi trước, hắn theo sau. Khi bước được 3 bước, cô cố tình xoay chân phải và giả vờ vấp ngã. Gã cai ngục la lên và cố đỡ lấy cô. Hắn quá chậm, và những ngõn tay thô kệch của gã túm lấy ngay phía trên cổ cô, cô thoát được.

Cô ngã sõng xoài trên cái khay thức ăn, làm vỡ cái bình vẫn còn 1 ít rượu, và làm cái bát bằng gỗ lăn long lóc trên sàn nhà. Như kế hoạch, cô chống tay phải xuống, và ngay khi thấy cái khay bên dưới mình, cô lần mò tìm lấy 1 cái thìa kim loại.

“ ah” – cô kêu lên vẻ đau đớn, rồi quay lại nhìn gã cai ngục, vẻ rất khó chịu “ có lẽ tôi chưa thực sự khỏe” – cô nói, và nở 1 nụ cười xin lỗi. ngón cái chạm vào cái thìa, cô túm lấy nó khi gã cai ngục kéo tay trái cô để cô đứng dậy.

Hắn nhìn cô từ trên xuống dưới, nhăn mũi vẻ khó chịu về cái váy ượt đẫm rượu vang. Trong khi đó, cô vòng tay ra sau, nhét cái thìa vào cái lỗ gần cạp quần. rồi cô đưa tay lên, như thể cô không cầm gì hết.

Gã cai ngục càu nhàu, túm lấy tay cô, đưa cô vào nhà vệ sinh. Khi đã vào phòng, cô  xoay người lại, hướng về phía cái khay, thì thầm.

Ngay sau khi đóng cửa, cô lấy cái thìa ra khỏi gẫu quần, ngáng ngang miệng khi cô giật những sợi tóc dài nhất ở phía sau đầu. nhanh hết mức có thể, cô kẹp 1 đầu búi tóc ở tay trái, và lăn trúng trên đùi bằng tay phải, bện chúng thành 1 đoạn dây.

Cô thất vọng vì nhận ra đoạn dây quá ngắn. long ngóng và vội vàng, cô bỏ 1 đầu của sợi dây ra và vất chúng trên sàn nhà.

Cô giựt 1 búi tóc khác và tết thành 1 sợi dây thứ 2, sau đó bỏ ra giống sợi đầu tiên.

 Biết rằng mình chẳng còn bao nhiêu thời gian, cô để chúng lên đầu gối và nối 2 búi tóc lại với nhau.

Sau đó cô lấy cái thìa từ trong miệng ra, buộc nó vào chân trái bằng sợi dây mỏng mảnh đó, để quàn áo che đi.

Cô phải buộc vào chân trái, vì Galbatorix luôn ngồi ở phía bên phải cô.

Cô đứng dậy, kiểm tra lại để đảm bảo đã giấu kín cái thìa, và đi thử vài bước để chắc là nó sẽ không rơi ra.

Xong việc, cô thở dài. Bây giờ cô phải trở lại phiến đá mà không để cho gã cai ngục biết được những gì cô vừa làm.

Gã cai ngục đứng chờ cô mở cửa nhà vệ sinh. Hắn cau có nhìn cô, đôi long mày thưa thớt xúm lại, tạo thành 1 đướng ngang thẳng trên mặt.

“ cái thìa” – hắn nói, ngấu nghiến từng từ như thể đó là món củ cải linh nhừ.

Cô hất cằm chỉ về phía cầu tiêu.

Hắn quắc mắt. bước vao nhà vệ sinh, kiểm tra trần, tường, sàn nhà và tất cả những thứ còn lại trước khi quay trở ra. Hắn nghiến 2 hàm răng, vò đầu bứt tai vẻ buồn rầu và đau đớn – cô nghĩ vậy – vì cô đã ném cái thìa đi. Cô nên tử tế với hắn, và cô biết 1 hành động khiêu khích nhỏ thôi cũng có thể làm hắn bối rối và tức giận.

Cô khựng lại khi gã để tay lên đầu cô, lùa ngón tay vào tóc cô, đẩy cô tiến về phía trước. khi không tìm ra cái thìa, mặt hắn dài thượt ra. Hắn túm lấy tay cô, lôi cô về chỗ phiến đa, và trói cô lại.

Sau đó hắn lấy cái khay, ra khỏi phòng vẻ rầu rĩ ủ rũ.

Cô đợi đến khi hắn đi hẳn, dùng ngón tay trái, cố gằng từng tí từng tí một, kéo cạp quần lên

Mội nụ cười rạng rỡ xuất hiện trên khuôn mặt cô khi cô chạm được ngón tay trỏ vào cái thìa. Giờ, cô đã có 1 thứ vũ khí.

Đỉnh núi của băng và tuyết.

Khi những vệt sang mờ nhạt đầu tiên ló ra, tạo thành những đường kẻ dọc theo mặt biển gợn song, chiếu sáng những con song lờ mờ, tạo nên vẻ lấp lánh như pha lê. Eragon tỉnh giấc, nhìn về phía tây bắc, tò mò nhìn những tia nắng ló ra từ những đám mây, tạo thành những hình ảnh trong không gian.

Những gì Eragon thấy khiến người ta phải bối rối. những đám mây che phủ gần nửa đường chân trời, và đám mây trắng lớn nhất nhìn cao như đỉnh của rặng Bore, quá cao để Saphira có thể bay qua. Chỉ có bầu trời rộng mở ở phía sau, và họ có thể lạc đường, khi cơn bão đến gần.

“ chúng ta phải bay xuyên qua nó” – Glaedr nói, và Eragon thấy Sahira lo lắng.

“ tại sao không cố bay vòng qua” – Saphira hỏi.

Cả Saphira và Eragon đều nhận ra là Glaedr đã kiểm tra những đám mây. Cuối cùng ông rồng vàng nói : “ đương nhiên là ta không muốn ngươi bay quá xa. Chúng ta vẫn còn quãng đường dài cần bay, và nếu ngươi trở nên yếu…”

“ và thầy có thể cho con sức mạnh để bay”

“ hmph. Kể cả vậy, thì đó vẫn là điều cẩn trọng nhất trong số những việc liều lĩnh của chúng ta. Ta đã thấy những cơn bão như vậy trước kia. Nó lớn hơn con tưởng. để đi vòng qua nó, con sẽ phải bay rất xa, về phía tây, tới phía bên kia của Vroengard, và có thể sẽ mất 1 ngày mới tới được đất liền”

‘ khoảng cách tới Vroengard không quá xa” – Saphira nói.

“ không, nhưng gió sẽ làm chậm bước chúng ta, ngoài ra, linh tính của ta mach bảo, cơn bão sẽ mở rộng tới tận hòn đảo. chỉ có 1 cách là bay xuyên qua nó. Tuy nhiên, k cần thiết phải bay qua tâm bão. Con có thấy cái khe giữa 2 cái cột mây ở phía tây kia không?”

“ Có”

“ đi tới đó, và có thể chúng ta sẽ tìm được con đường an toàn để đi qua những đám mây”

Eragon túm chặt lấy yên khi Saphira nghiêng cánh trái, rẽ về phía tây, nhắm thẳng tới cái khe mà Glaedr đã nói đến. Eragon ngáp, dụi mắt khi Saphira bay là là, sau đó anh xoay người, lục tìm 1 quả táo và vài miếng thịt bò khô trong cái bao da đeo bên người.

Đó là 1 bữa sáng đạm bạc. nhưng anh không thấy đói lắm, và ăn nhiều vào bữa sáng khi đang bay trên lưng Saphira làm anh thấy buồn nôn.

Khi ăn, anh hết nhìn ngắm những đám mây, lại nhìn chằm chằm xuống mặt biển lấp lánh. Anh thấy lo lắng khi bên dưới họ toàn là nước, và như anh ước lượng, đất liền ít nhát cũng cách họ 50 dặm. anh rung mình khi tưởng tượng cứ chìm sâu, sâu dần  vào long biển lạnh lẽo.

Anh tự hỏi, có cái gì dưới đáy biển. 1 suy nghĩ lóe lên trong đầu anh, anh có thể dùng phép thuật để du ngoạn và tìm hiểu dưới đáy biển. nhưng suy nghĩ ấy chả có gì thú vị. những vực nước quá tối và nguy hiểm, và anh cảm thấy, đây k phai là nơi anh nên khám phá. Tốt hơn là để kệ nó cho những sinh vật đã sống ở đó.

Khi trời sáng rõ, những đám mây rõ ràng là xa hơn nhiều so với những gì họ đã thấy, và như Glaedr nói, cơn bão lớn hơn nhiều những gì Eragon và Saphira tưởng tượng.

1 cơn gió nhẹ ngược chiều nổi lên làm đôi cánh Saphira trở nên nặng hơn, nhưng cô nàng vẫn tiếp tục hành trình.

Khi chỉ còn cách cơn bão 1 khoảng k xa, Saphira làm Eragon và Glaedr bất ngờ vì cô nàng lao xuống và bay là là ngay trên mặt biển.

Khi cô nàng lao xuống, Glaedr hỏi : “ Saphira, con định làm gì thế?”

“ con muốn biết” – cô ả nói – “và con muốn cho đôi cánh nghỉ ngơi chút ít trước khi bay vào những đám mây”

Cô ả bây là là mặt nước, cái bóng và hình phản chiếu dưới nước của cô nàng di chuyển cứ như 1 cặp bóng ma, 1 tối, 1 sáng. Sau đó cô nàng xoay cánh, đập mạnh 3 cái, hạ cánh ngay trên mặt nước. những con sóng ập vào cổ cô nàng khi ngực nó cày 1 đường xuống mặt biển, làm hành trăm bọt nước bắn tung tóe lên người Eragon.

Nước lạnh, nhưng sau 1 quãng thời gian dài bay trên cao, giờ không khí lại có cảm giác ấm hơn.Eragon cũng cởi bỏ áo choàng và găng tay.

Saphira gấp cánh lại, trôi bập bềnh theo những con song. Người Eragon dính đầy những đám rong tảo. chúng phân nhánh như bụi rậm, dọc theo thân là những bong bóng nhỏ cỡ bằng quả nho.

Phía xa, ở trên cao là những đàn hái âu trắng, với chấm đen ở dầu cánh, đang bay ra từ những đám mây khổng lồ.

Cảnh sắc càng làm Eragon lo lắng, những con chim biển khiến anh nhớ về cảnh tượng nhứng con sói, những con hươu chạy toán loạn trong 1 đám cháy rừng ở Spine.

“ nếu khôn ngoan, chúng ta nên quay lại” -  a nói với Saphira

“ nếu không ngoan, chúng ta nên rời Alagaesia và không bao giờ quay lại”- cô rồng đáp lại.

Uốn cong cái cổ, Saphira thọc đầu xuống nước, lắc lắc cái đầu và lưỡi thì thè ra thụt vào vài lần, như thể cô ả nếm phải cài gì ghê ghê.

Sau đó Eragon cảm nhận được sự sợ hãi trong tâm trí con rồng già, Glaedr gầm lên trong tâm trí Eragon : “bay lên, nhanh, nhanh”.

Saphira không thắc mắc. nó xòe cánh, bay lên khỏi mặt nước, tạo thành những âm thanh như tiếng sấm.

Tiến về phía trước, eragon túm chặt lấy cái yên để k bị đổ về phía sau, cú đập cánh của Saphira làm nước bắn tung tóe, tạo ra 1 màn sương mù khiến Eragon chẳng nhìn thấy gì. Chàng dùng tâm trí để xem điều gì đã làm Glaedr hoảng hốt.

Từ dưới sâu, 1 cái gì đó đang tiến về phía Saphira nhanh hơn cả Eragon có thể tin được. Một thứ gì to lớn , lạnh lẽo….. và đói khát. Anh tìm cách làm nó sợ, tìm cách đuổi nó đi, nhưng sinh vật đó xa lạ và không nhân nhượng trước những nỗ lực của a.

Hết sức lạ lung,ký ức của sinh vật đó như 1 cái hang không ánh sáng, trải qua hang nghìn năm dưới đáy biển đóng băng, vơi những chuyến đi săn và bị săn.

 Sự sợ hãi lớn dần, Eragon lần mò tìm thanh Brisingr, ngay khi Saphira bay vọt lên từ mặt nước.

“Nhanh lên, Saphira”. Anh hét lên.

Cô ả chậm chạp bay lên, đạt được vận tốc và độ cao, sau đó 1 cái vòi nước trắng xóa phun ra ngay phía dưới, và Eragon thấy 1 cặp hàm trắng xám. Cặp hàm đủ lớn để nuốt 1 con ngựa mà không cần phải nhai, với hang trăm cái răng sáng bóng.

Saphira sợ hãi khi thấy những gì Erragon thấy, cô ả vòng đột ngột sang bên, để tránh cái miệng đang há hốc, đầu cánh rẽ xuống mặt nước. ngay sau đó, Erragon cảm thấy hàm con quái vật cắn lại. những cái răng nhọn hoắt đớp hụt đuôi Saphira trong gang tấc.

Trong Khi con quái vật rơi xuống nước, 1 phần cơ thể nó trở nên rõ rang hơn. Cái đầu to và góc cạnh. 1 cái mào đầy xương mọc ra phía trên đôi mắt, và từ cái mào ấy, có những cái tua mà Eragon đoán nó phải dài hơn 6 feet. Cái cổ trông như 1 con rắn khổng lồ. thân hình nó trơn nhẵn, mạnh mẽ và nặng nề đến không tin nổi. 2 cái vây chèo 2 bên thân mình, quơ quơ trong không trung.

Con quái vật rơi xuống nước, và 1  luồng bụi nước khổng lồ bay lên. Trước khi những con song nhấn chìm con quái vật, Eragon nhìn vào đôi mắt nó, đôi mắt đen hướng về phía trước như 2 giọt nhựa đường. đôi mắt chứa đầy sự tức giận, căm ghét, và thất vọng khiến cho Eragon ước gì mình đang ở giữa sa mạc Hadarac.

Chỉ có ở đó, a mới cảm thấy an toàn trước những con quái vật già đói khát.

Tim đập thình thịch, Eragon nới lỏng thanh Brisngr, nằm thụp xuống cái yên rồng : “ cái quái gì vậy?”

Một Nidhwal – Glaedr nói.

Eragon nhăn mặt. chàng chưa từng nghe về nó trong cuốn Ellesmera. “ Nidhwal là cái gì vậy thầy?”

“ chúng hiếm khi được nhắc đến. chúng thuộc về biển cả cũng như Fanghur thuộc về bầu trời. cả 2 đều là anh em của rồng. tuy nhiên vẻ bề ngoài lại rất khác nhau, giống Nidhwal gần với loài rồng hơn là những con Fanghur. Chúng cũng có 1 thứ tương tự như “ trái tim trong trái tim Eldunari”  ở trong ngực, cho phép chúng lặn sâu dưới đáy biển trong khoảng thời gian dài”

“ chúng có thổi ra lửa không?”

“ không, nhưng giống như loài Fanghur, chúng cũng thường sử dụng sức mạnh ý trí để đánh bại con mồi, ý trí ấy mạnh hơn cả việc 1 con rồng khám phá ra sự sợ hãi của mình”

“ chúng có thể ăn thịt chính đồng loại mình” – Saphira nói.

“ đối với chúng, chúng ta không phải đồng loại” – Glaedr nói – “ tuy nhiên chúng ăn thịt chính đồng loại mình, và đó là lý do khiến chúng còn lại rất ít. Chúng không có hứng với bất kỳ việc gì xảy ra ngoài lãnh thổ của chúng, và tất cả mọi lỗ nực lien lạc với chúng đều thất bại. phải mất vài ngày bay từ đất liền, tới vùng biển sâu nhất, mới tìm thấy chúng. Và chúng có vẻ đã táo bạo và liều lĩnh hơn kể từ thời kỳ suy tàn của kỵ sĩ.”

Eragon rung mình khi nhớ lại cảm giác khi xâm nhập vào tâm trí Nidhwal. “ tại sao thầy hay Orimis chưa bao giờ chỉ cho bọn con về chúng?”

“có rất nhiều thứ ta không dạy con, Eragon. Chúng ta không có quá nhiều thời gian, và tốt nhất là dạy con làm sao chống lại được Galbatorix, chứ không phải là 1 sinh vật sống trong bóng tối ở 1 vùng đất  chưa được khám phá của Alagaesia”.

“ vậy còn có thứ gì tương tự như Nidhwal mà chúng con chưa biết không?”

“ 1 vài”

“ thầy sẽ nói cho bọn con chứ ah. Ebrithil?” – Saphira hỏi.

“ chúng ta thỏa thuận thế này nhé, Saphira và Eragon. Cho ta 1 tuần, và nếu sau 1 tuần, chúng ta vẫn sống sót và tự do, ta sẽ rất vui long dành 10 năm tiếp theo để dạy cho các con về từng giống loài 1 mà ta biết, bao gồm cả vô số những loài côn trùng. Nhưng từ giờ đến lúc đó, hãy tập trung vào nhiệm vụ trước mắt đã. Các con có đồng ý k?”

Eragon và Saphira miễn cưỡng đồng ý, và họ không còn bàn luận về chúng nữa.

Những cơn gió ngược chiều ngày càng mạnh dần khi họ tới gần cơn bão, làm Saphira chỉ bay được 1 nửa tốc độ bình thường của cô ả. Những cơn gió mạnh làm cô nàng lắc lư, và thi thoảng làm cô ả khựng lại trong phút chốc.khi những con gió giật mạnh, mặt biển cuộn sóng, như những vảy cá bạc trắng xóa.

Từ khi trời sáng, những đám mây càng lúc càng lớn và tụ lại gần. nhìn chúng thật đáng sợ. ở phía dưới, chúng có màu đen và đỏ tía, nối với 1 mặt biển bằng 1 màn mưa như thể 1 cái dây rốn.

Cao hơn phía trên, những đám mây có màu bạc sỉn, trong khi phía trên cùng là 1 màu trắng hoàn toàn trong trẻo, và vững chắc như sườn của dãy Tronjheim. Nhìn về phía bắc, qua tâm cơn bão, những đám mây tạo thành hình 1 cái đe bằng phẳng khổng lồ, hiện ra lờ mờ, như thể các vị thần đang muốn tạo ra 1 thứ dụng cụ gì đó kỳ lạ và ghê gớm.

Khi Saphira bay vọt lên, vào giữa 2 cột mây khổng lồ, nhìn cô ả không khác gì một hại bụi. mặt biển biến mất, và phía dưới họ chỉ còn 1 tấm đệm mây. Những cơn gió ngược trở nên nhẹ hơn, nhưng lại đổi hướng lien tục và xoáy tròn mà không có 1 phương hướng cụ thể nào. Eragon nghiến chặt 2 hàm răng để chúng khỏi va vào nhau, dạ dày anh muốn ói khi Saphira lao xuống 12 feet và rồi ngay tức khác bay thẳng lên trên 20 feet.

Glaedr nói : “ con đã bao giờ bay trong những cơn bão, ngoại trừ lần gặp cơn bão giữa thung thũng Palancar và Yazuac chưa?”

“ chưa” – Saphira trả lời, ngắn gọn và đầy lo lắng.

Glaedr dường như mong chờ câu trả lời đó, và không hề do dự, ông bắt đầu giảng giải cho Saphira về sự phức tạp khi định hướng những đám mây khổng lồ. “ tìm kiếm mọi sự chuyển động và ghi nhận mọi sự sắp đặt xung quanh con”- ông rồng già nói, “dựa vào chúng, con có thể tìm được nơi nào gió mạnh nhất, và hướng gió”

Những gì Glaedr nói, Saphira đều biết, nhưng khi Glaedr nói, thái độ bình tĩnh của ông làm yên long cả Saphira và Eragon. Nếu có bất kỳ sự sợ hãi nào trong tâm trí con rồng già, nó sẽ làm họ nghi ngờ chính bản thân mình, và có lẽ Glaedr nhận thức được điều đó.

1 đám mây bay lạc trước mặt Saphira. Thay vì né tránh, cô nàng lao thẳng vào như 1 mũi giáo xanh lấp lánh. Khi màn mây mù bao bọc lấy họ, gió trở nên im bặt. Eragon nheo mắt, dùng 1 tay che mặt để chúng không bay vào mắt.

Khi bay ra khỏi đám mây, hành triệu triệu những giọt nhỏ bám đầy trên cơ thể Saphira như thể kim cương trên những cái vảy rồng lấp lánh.

Saphira vẫn tiếp tục bay chuệnh choạng. đang bay cân bằng, bỗng 1 cơn gió đẩy cô ả sang 1 bên, hay nâng 1 cánh của nó lên, làm nó xoay tròn 180 độ.

Ngồi trên lưng rồng trong khi cô nàng chiến đấu với những cơn gió đổi chiều liên tục thực sự là mệt mỏi, và với Saphira, đó cũng là 1 nhiệm vụ cực khổ và khó chịu, và còn thấy khó khăn hơn khi biết rằng còn rất xa nữa mới đến đích. Nhưng cô nàng không còn sự lựa chọn nào ngoại trừ việc tiếp tục.

Sau 1 hay 2 giờ bay, họ vẫn chưa thoát ra được khỏi cơn bão. “ chúng ta phải đổi hướng” – Glaedr nói : “  chúng ta đã đi đủ xa về phía Tây. Và nếu chúng ta dám đương đầu với cơn bão, thì đó là lúc này, trước khi tát cả mọi người kiệt sức”

Không nói 1 lời, Saphira vòng về phía bắc, tiến thẳng tới bức tường mây khổng lồ, cao chót vót nằm ở trung tâm của cơn bão.

Càng lại gần cơn bão, càng thấy nó to lớn hơn bất kỳ thứ gì Eragon từng thấy, lớn hơn cả Farthen Dur. Một tia chớp xanh lẹt kéo thẳng lên trời, tới chỗ những đám mây bằng phẳng tạo thành hình như cái đe. 1 giây sau đó, 1 tiếng sấm làm rung chuyển bầu trời. Eragon bịt tai lại.

Dù anh biết những câu thần chú sẽ bảo vệ anh khỏi sấm sét, nhưng a vẫn thấy sợ hãi về việc liều mạng đến gần nhưng tia sét đầy năng lượng.

Saphira có vẻ không sợ hãi, vì anh không cảm thấy điều ấy. tất cả những gì anh ảm nhận được là sự quyết tâm của cô nàng. Cô ả đập nhanh đôi cánh, và chỉ 1 vài phút sau, bức tưởng mây khổng lồ đã hiện ra trước mặt. Họ lao qua, tiến vào trung tâm cơn bão.

Ánh sáng chập chờn xung quang họ, xám xịt và chả có gì đặc biệt. Như thể toàn bộ phần còn lại của thế giới không còn tồn tại.

Những đám mây làm Eragon không thể nào nhìn thấy đầu, đuôi và cánh của Saphira. Họ gần như là mù. Và chỉ có sức kéo của trọng lục khiến họ phân biệt được là mình đanh bay lên hay xuống.

Eragon mở rộng tâm trí, nhưng anh không cảm nhận được bất kỳ 1 sinh vật sống nào, ngoại trừ Saphira và Glaedr, thậm chí là 1 con chim lạc đàn.

May mắn là Saphira vẫn giứ được phương hướng, và nhờ đó mà họ không bị lạc. Bằng cách Tiếp tục mở rộng tâm trí tìm kiếm sự sống xung quanh, bất kỳ 1 sinh vật hay cây cỏ nào, Eragon đảm bảo rằng họ sẽ k lao thảng vào sườn của 1 vách núi.

Eragon cũng niệm 1 câu thần chú mà Oromis đã từng dạy anh. Câu thần chú sẽ cho anh và Saphira biết chính xác khi họ gần đến mặt đất hay mặt nước.

Từ lúc bay vào trong những đám mây, hơi ẩm trong không khí bám đầy trên da anh, thấm đầy vào quần áo anh, làm chúng nặng trĩu xuống. đó thực sự là 1 điều phiền phức mà anh phải lờ đi. Nhưng gió và nước, chúng sẽ nhanh chóng làm anh chết cóng.

Vì thế, a niệm 1 câu thần chú khác, loai bỏ toàn bộ những giọt nước nhỏ trong không khi xung quanh anh, và xung quanh mắt Saphira – như cô nàng yêu cầu – vì hơi ẩm ngưng tụ lại càng nhiều trên mặt, khiến cô nàng phải lien tục chớp mắt.

Những cơn gió ở tâm bão yên ả 1 cách lạ thường. Eragon bình luận 1 vài câu về điều ây, nhưng ông rồng già vẫn giữ 1 thái độ nghiêm túc như lúc đầu : “ chúng ta vẫn chưa đối mặt với điều tồi tệ nhất cảu cơn bão đâu”

Những gì Glaedr nói sớm trỏ thành hiện thực. 1 con gió dữ dội bất ngờ đẩy Saphira lên cao cả ngàn feet. Không khí quá loãng làm cho Eragon không thể thở được. và hơi nước thì đóng băng thành trăm nghìn tinh thể nhỏ, đâm vào mũi, má Eragon và cánh Saphira như những con dao sắc nhọn.

Kẹp chặt cánh vào thân mình, Saphira lao thẳng về phía trước, cố gắng thoát khỏi luồng khí đang đẩy cô lên cao. Vài giây sau, luông gió đẩy cô lên cao biến mất, nhưng thay vào đó, 1 luông gió khác xô cô ả lao thẳng xuống những con sóng phía dưới với 1 tốc độ khủng khiếp.

Những tinh thể băng tan ra, tạo thành những giọt nước lớn hơn, trôi bồng bềnh quanh Saphira như thể không có trọng lực khi họ lao xuống. chớp lóe lên gần họ. 1 thú ánh sáng xanh kỳ quái xuyên thủng tấm màn mây. Eragon hét lên đau đớn khi sấm nổ xung quanh. Tai anh rung lên. Anh xé 2 mảnh vải nhỏ từ cái áo choàng, nhét chúng vào tai, càng sâu càng tốt.

Chỉ đến khi gần xuống đến đáy của đám mây, Saphira mới kiềm chế được cơn gió. Nhưng ngay khi cô nàng làm được điều đó, 1 cơn gió khac lại ập tới, túm lấy cô nàng như 1 bàn tay khổng lồ, kéo thẳng lên trới.

Nhứng cơn gió quá mạnh và dữ dội, Saphira khoogn thể chống lại, và cô nàng cứ bay lên lại lao xuống, giống như 1 miếng bọt biển trong 1 xoáy nước vậy.

Cô nàng cố tiến về phía trước được 1 ít, 1 vài dặm hiếm hoi, với những nỗ lực phi thường và đắt giá. Nhưng mỗi khi thoát ra khỏi luông không khí này, cô ả lại ngay lập tức bị cuốn vào luông không khí khác. Eragon thấy thiếu tự tin khi nhận ra anh, Saphira và Glaedr bất lực trước cơn bão. Và dù với tất cả sức mạnh của họ, họ cũng không có hy vọng đối đầu được với sức mạnh thiên nhiên.

Lần thứ 2, 1 cơn gió lại ném Saphira lao thẳng xuống những cơn sóng phía dưới. cả 2 lần, những cơn gió đều xô Saphira xuống gần đáy cơn bão, nơi những trận mưa rào rậm rập đổ xuống mặt biển.

ở làn thứ 2, Eragon nhìn về phía vai Saphira. TRong 1 khoảng khắc, anh nghĩ là mình nhìn thấy cái bóng dài, đen của con Nidhwal đang nằm nghỉ ngơi phía trên mặt biển nhấp nhô. Nhưng khi chớp lóe lên lần nữa, cái bóng biến mất. và anh tự hỏi, đó có phải là 1 trò bịp bợm với anh.

Saphira trở nên yếu hơn. Cô không còn chống trọi với những cơn gió, để mặc cho chúng mang cô đến nơi nào chúng muốn. cô chỉ cố gắng chống lại, khi rơi xuống gần mặt biển. cô cố gắng giữ yên đôi cánh và tốn càng ít sức cành tốt. Eragon nhận thấy Glaedr truyền cho cô nàng 1 dòng năng lượng để duy trì sức lực. Nhưng ngần đó là không đủ để cô ả làm được điều gì đó, ngoại trừ việc đứng yên.

Cuối cùng thì ánh sáng cũng mờ nhạt dần. Nỗi thất vọng tràn trề trong Eragon, Họ đã dành cả ngày phung phí vì cơn bão. Và nó chưa có dấu hiệu suy giảm, như thể Saphira vẫn chỉ ở đâu đó trong vành đai bão mà thôi.

Mặt trời lặn. Eragon thậm chí còn không nhì thây được cả mũi của mình. Chả có gì là khác biệt khi anh nhắm hay mở mắt cả. như thể đó la 1 đống len đen sì được chất đống xung quanh anh và SAphira. Quả thật,bóng tối như là 1 thứ vật chất nào đó, có sức nặng, và đang tác động lên họ từ mọi phía.

Cứ 1 vài giây, 1 tia sét lại lóe lên, xé tan màn đêm. Đôi khi ẩn mình trong những đám mây, đôi khi hiện ra ngay trước mắt họ, sáng chói như ánh mặt trời và làm cho không khí có vị tanh tanh như sắt.

Sau khi ánh sáng chói lòa của những tia sét biến mất, màn đêm trở nên đen tối gấp nhiều lần. cả Eragon và Saphira hết chói mắt vì nhứng tia sét, giờ lại chả nhìn thấy gì trong màn đêm den kịt.

Những tia chớp không đánh trúng Saphira, nhưng tiếng sấm vang rền làm cả 2 thấy mệt mỏi.

Chúng sẽ kéo dài bao lâu, Eragon thực k biết.

Saphira bị cuốn vào 1 cơn gió , lớn hơn và mạnh hơn những gì mà họ đối mắt trước đó.

Ngay khi nó ập đến, SAphira cố gắng chống lại nó, cố gắng thoát ra. Nhưng cơn gió quá mạnh, và cô nàng không sao giữ được cánh mình thăng bằng.

Cuối cùng, quá thất vọng, cô nằng rống lên 1 tiếng, phun lửa ra từ cái miệng, tỏa sáng 1 vùng nhỏ xung quanh, làm những tinh thể băng sáng long lanh như đá quý.

Giúp tôi – cô ả nói với Eragon và Glaedr : “ tôi không thể làm điều đó 1 mình”

Sau đó tâm trí họ hòa trộn vào nhau, với sức mạnh do Glaedr truyền sang, Eragon hét lớn :

“ Ganga fram”

Câu thần chú đẩy Saphira tiến về phía trước, nhưng hết sức chậm chạp, vì đi ngang 90 độ so với chiều gió không khác gì bơi qua dòng Anorak khi mùa xuân về ( xuân về tuyết tan). Dù Saphira có tiến lên theo chiều ngang, cơn gió vẫn tiếp tục thối cô nàng bay lên với 1 tốc độ chóng mặt. Eragon cảm thấy khó thở, và họ vẫn còn mắc kẹt trong con gió.

“ chúng ta mất quá nhiều thời gian và sức mạnh rồi. hãy kết thúc câu thần chú đi” – Glaedr nói

“ nhưng…”

“ kết thúc câu thần chú đi.chúng ta không thể thắng được những cơn gió trước khi cả 2 con kiệt sức đâu. Chúng ta phải nương theo những cơn gió cho đến khi chúng đủ yếu để Saphira thoát ra”

“ bằng cách nào” -  Saphira hỏi trong khi Eragon làm theo chỉ dẫn của Glaedr. Sự kiệt sức và cảm giác thất bại làm rối trí cô rồng. điều đó làm Eragon thấy lo lắng cho cô.

“ Eragon, trò phải chỉnh sửa lại câu thần chú giữ ấm cho trò, và cả Saphira và ta. Trời đang lạnh dần, lạnh hơn cả mùa đông ở núi Spine. Và nếu không dùng phép thuật, chúng ta sẽ đóng băng mà chết”

“  cả thầy sao”

“ ta sẽ vỡ nát như 1 cái ly thủy tinh nóng rơi vào tuyết vậy. bây giờ hãy dùng 1 câu thần chú, gom không khí xung quanh con lại, như vậy con mới có thể thở được. nhưng phải nhớ là để những dòng khí con đã thở rồi thoát ra ngoài, nếu không con sẽ ngạt đấy. câu thần chú sẽ rất phức tạp, vì vậy con không được phép mắc lỗi. vậy, hãy nghe cho cẩn thận, nó phải như thế này….”

Khi Glaedr đọc những cụm từ cần thiết bằng ngôn ngữ cổ, Eragon đọc lại cẩn thận, cho đến khi con rồng già thấy hài long về cách phát âm của anh. Eragon niệm thần chú,chỉnh sửa câu thần chú trước của anh theo hướng dẫn của Glaedr. Cả 3 người đều được bảo vệ trước cái lạnh.

Họ chờ đợi.cho đến khi 1 cơn gió nâng họ nên. Cao nưa, cao nữa. Từng phút trôi qua, Eragon tự hỏi liệu họ có dừng lại được, hay là liệu họ có bay vút lên tận trăng sao hay không.

Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu anh, có thể đó là cách tạo ra sao băng : 1 con chim, 1 con rồng hay 1 sinh vật sống nào đó bị tung lên cao bởi những cơn gió, sao đó bay ngang qua bầu trời, tỏa sáng như 1 múi tên.

Và nếu như thế, anh đoán, Saphira và Glaedr sẽ là những ngôi sao băng sáng nhất, hung vĩ nhất trong ký ức của những người còn sống, những người chứng kiến sự ra đi của họ từ 1 vị trí rất xa bờ biển.

Tiếng gió rít dần trở nên nhẹ nhàng hơn. Không còn tiếng sấm. Eragon rút 2 miếng vải nhét trong lỗ tai ra, bất ngờ vì sự im ắng xung quanh.

Chỉ còn nghe thấy những tiếng rì rào, mờ nhạt như tiếng 1 con suối rừng.

Tiếng gầm rú của cơn bão nhỏ dần. Eragon nhận ra sự căng thẳng do những câu thần chú tạo ra đang tăng dần – không phải từ câu thần chú ngăn cản sự mất nhiệt cơ thể, mà là từ câu thần chú gom không khí lại phía trước anh và Saphira. Chúng làm cả 2 không thể thở bình thường được.

Và dù là lý do gì chăng nữa, năng lượng cần để duy trì câu thần chú đó là đang nhân lên. Nó vượt quá tỷ lệ cân xứng với câu thần chú thứ nhất. và anh cảm thấy sức mạnh đang cạn kiệt. dường như chỉ còn 1 phần rất nhỏ duy trì cho sự sống. Bàn tay anh trở nên lạnh cóng, tim đập yếu ớt, và tâm trí mất minh mẫn. đó có lẽ là điều đáng lo lắng nhất.

Con rồng vàng liền giúp anh. 1 dòng năng lượng tràn vào người Eragon. Anh cảm thấy sức nặng trên vai giảm xuống. tâm trí minh mẫn trở lại và  thể chất lại cường tráng như trước.

Họ lại tiếp tục.

Một lúc lâu sau, Saphira nhận thấy cơn gió suy yếu. và cô nàng  thoát ra khỏi đó.

Mây bắt đầu tan dần trên đầu họ. Và Eragon nhìn thấy 1 vài chấm sáng; những ngôi sao: lấp lánh hơn bất kỳ thứ gì anh đã từng thấy.

Nhìn kìa. Eragon nói. Những đám mây mở ra phía trên họ. và Sphira bay thoát ra ngoài cơn bão, lơ lửng phía trên những cơn gió.

Ngay phía dưới họ, Eragon nhìn thấy toàn bộ cơn bão, mở rộng hàng trăm dặm về mọi phía.

Trung tâm cơn bão giống như cái mũ nấm, trơn nhẵn do được tạo ra từ rất nhiều những đám mây, trải dài từ đông sang tây, và luôn đe dọa đến Saphira.

Những đám mây có máu trắng sữa, tỏa sáng như thể ánh sáng phát ra từ bên trong. Trông chúng đẹp và thực sự yên bình. Chúng gần như không biến đổi, như là không có bất kỳ 1 sự dữ dội nào ẩn chứa bên trong.

Eragon ngẩng lên nhìn trời. há hốc mồm vì kinh ngạc. bầu trời chứa hành triệu ngôi sao, nhiều hơn những gì a đã từng nghĩ. Xanh, đỏ, trắng, vàng…chúng nằm rải rác trên bầu trời như những hạt bụi. những chòm sao mà a biết nằm xen kẽ với hàng nghìn những ngôi sao khác mà đây là lần đầu tiên a nhìn thấy. chúng không chỉ sáng hơn, mà khoảng không cũng trở nên tối hơn. Như thể là trước đây, mối lần a đều nhìn bầu trời xuyên qua 1 màn sương mù, khiến a chưa từng thấy vẻ đẹp thực sự của những ngôi sao.

Anh nhìn chằm chằm lên bầu trời, kinh ngạc trước vẻ đẹp rực rỡ, lộng lẫy của tự nhiên.

Chỉ đến khi anh nhìn xuống, a mới nhận ra có gì đó không bình thường. đường chân trời có màu đỏ tía.

Bầu trời và mặt biển đúng ra phải luôn luôn gặp nhau tạo thành 1 đường thẳng, nhưng giờ đây nó lại cong cong, giống như 1 đường tròn lớn ngoài sức tưởng tượng.

Đó thực sự là 1 cảnh tượng kỳ lạ. Eragon mất 1 lúc lâu để hiểu được mình đang ngắm nhìn điều gì. “ Thế giới có hình tròn” – anh lẩm nhẩm – “ bầu trời thì rỗng, và thế giới có hình tròn”

“ nó vốn là như vậy” – Glaedr nói : “ ta đã nghe điều này từ 1 con rồng hoang dã, nhưng ta chưa bao giờ nghĩ sẽ tận mắt chứng kiến nó”

ở phía đông, 1 thứ ánh sáng vàng mờ nhạt bao phủ 1 phần đường chân trời, báo hiệu mặt trời sắp mọc. nếu Saphira giữ nguyên vị trí trong 4 hay 5 phút nữa, có le họ sẽ được ngắm mặt trời mọc,cho dù phải mất hàng giờ đồng hồ nữa, nhưng tia nắng ấm áp mới tới được mặt biển phía dưới.

Saphira đứng yên đó trong 1 lúc. Lơ lửng ở giữa những ngôi sao và trái đất, trôi bập bềnh trong ánh chạng vạng như thể bị cuốn mất linh hồn. họ chẳng thuộc về nơi nào cả, không phải thiên đường, cũng không phải trái đất. lơ lửng như 1 hạt bụi giữa khoảng không ngăn cách 2 thế giới.

Saphira tiền về phía trước, nửa bay nửa rơi. Không khí quá loãng, do đó đôi cánh không thể nâng được trọng  lượng của cô nàng,dù cô nàng cảm thấy có 1 luồng gió nổi lên.

Trong khi cô rồng đang bay xuống, Eragon nói: “ nếu chúng ta có đủ ngọc, thầy có nghĩ chúng ta có thể tích trữ năng lượng vào đó và bay tới mặt trang không?”

“ ai mà biết được”- Glaedr nói.

Khi Eragon còn nhỏ, làng Carvahall và thung lũng Palancar là tất cả những gì anh biết. anh có nghe về đế chế, nhưng nó không được thực tế, cho đến khi anh tiếp cận với nó. Khi đó, hình ảnh về thế giới trong tâm trí anh là cả những miền đất còn lại của Alagaesia, và những vùng đất khác mà a có dịp đọc về chúng.

Còn bây giờ, anh nhận ra, thế giới mà anh cho là rộng lớn đó, thực ra chỉ là 1 phần nhỏ của 1 thứ còn lớn hơn vậy nhiều. điều đó giống như là, quan điểm của anh về thế giơi, chỉ trong vài giây, đã biến đổi từ 1 con kiến thành 1 con đại bang vậy.

Bầu trời thì rỗng, và thế giới thì có hình tròn.

Điều đó làm anh xem xét, đánh giá và phân chia lại…tất cả mọi thứ. Cuộc chiến giữa Varden và đế chế dường như quá nhỏ bé khi so sánh với sự vĩ đại của cả thế giới. và anh nghĩ, những nỗi đau, mối bận tâm của con người thật quá ư nhỏ bé khi nhìn thế giới từ trên cao.

Eragon nói với  Saphira : “ nếu mọi người có thể thấy những gì chúng ta thấy, có lẽ sẽ ít chiến tranh xẩy ra hơn”

“anh không thể mong những con sói có thẻ trở thành cừu”

“không. Nhưng những con sói có lẽ không cần tàn ác với những con cừu”

Saphira nhanh chóng rơi trở lại bóng tối của những đám mây, nhưng cô nàng tránh không để bị 1 cơn gió nào đó cuốn bay lên hay rơi xuống nữa. thay vào đó, cô nàng lướt bay nhiều dặm, trươt qua đỉnh của nhứng cơn gió, lợi dụng chúng để giữ sức.

1 hoặc 2 giờ trôi qua, sương mù tan. Và họ bay ra khỏi đám mây lớn nhất ở tâm của cơn bão.

Họ quyết định hạ thấp xuống, bay là là trên những quả đồi không có thật mọc ra từ mây, thoai thoải dần tạo thành 1 vùng bằng phẳng. bao trùm lấy tất cả mọi thứ trong tầm mắt.

Khi mặt trời mọc, cả Eragon và Saphira đã không còn sức để để ý đến những gì xung quanh. Không có bất kỳ thứ gì bên dưới có thể thu hút sự quan tâm của họ.

Sau đó Glaedr nói : “ Saphira, ở đây, phía bên phải. con có thấy không?”

Eragon nhỏm đầu, liếc mắt về phía ánh sáng.

Đâu đó về phía bắc, 1 dãy núi hiện ra sau những đám mây. Đỉnh núi được bao phủ bởi băng và tuyết, trông giống như 1 chiếc mũ miện cổ xưa, nằm trên 1 lơp màn sương.

Những vách đá hướng về phía đông, tỏa sáng rực rỡ trong ánh bình minh, ngả bóng trên 1 vùng đồng bằng phía tây rộng lớn.

Eragon ngồi thẳng dậy. thật khó tin là chuyến phưu lưu của họ đã đến đích.

“ chú ý” – Glaedr nói – “ Aras Thelduin” – ngọn núi lửa nằm ở giữa trung tâm Vroengard. “ bay nhanh lên Saphira, chúng ta chỉ còn 1 đoạn đường ngắn nữa thôi”

GIÒI ĐẤT

Chúng bắt được cô khi cô tới điểm giao nhau giữa hai hành lang giống hệt nhau, đều có những cột nhà, đuốc và những lá cờ hiệu nền đỏ tươi trên là ngọn lửa vàng đang bừng cháy – biểu tượng của Galbatorix.

Nasuada không mong trốn được, nhưng cô không thể nào không thất vọng vì thất bại. Cô chỉ mong chạy trốn được xa hơn.

Cô chiến đấu suốt đoạn đường tụi lính lôi cô về căn phòng giam giữ cô. Những người đàn ông mặc áo giáp ngực và đeo miếng bảo vệ cẳng tay, nhưng cô vẫn cào được vào mặt chúng và cắn tay chúng, làm hai gã bị thương khá nặng.

Những tên lính thốt lên thất vọng khi họ bước vào Căn phòng của Nhà tiên tri và thấy cô đã làm gì với gã cai ngục. Cẩn thận không dẵm vào vũng máu, chúng mang cô tới bàn đá, trói cô xuống và nhanh chóng bỏ đi, để lại cô một mình cùng xác chết.

Cô hét lên trong xà lim và giật cùm, tức giận vì không thể làm tốt hơn. Vẫn còn tức giận, cô nhìn xuống thi thể trên nền nhà, rồi nhanh chóng rời mắt đi. Dù chết nhưng gương mặt hắn vẫn hằn lên sự buộc tội khiến cô không tài nào chịu nổi.

Sau khi ăn cắp được cái thìa, cô đã dành hàng giờ để mài tay cầm vào bàn đá. Thìa được làm bằng sắt mềm, vì thế nó rất dễ định hình.

Cô đã nghĩ Galbatorix và Murtagh sẽ tới gặp cô, nhưng thay vào đó lại là gã coi ngục mang cho cô bữa ăn tối. Hắn bắt đầu tháo cùm để đưa cô vào nhà nhỏ. Ngay khi hắn tháo cùm bên tay trái, cô dùng phần tay cầm thìa sắc nhọn đâm vào họng hắn. Gã hét chói lói khiến cô nghĩ tới lợn bị chọc tiết, rồi quay người, đập cánh tay xuống ngã xuống sàn nhà, nằm đó ngấp ngoái một lúc lâu.

Cô không muốn giết gã. Cô không nghĩ gã là người xấu – cô không chắc gã là cái gì – nhưng vì gã quá đần độn khiến cô có cảm giác mình lợi dụng gã. Nhưng cô phải làm điều cần thiết và dù cô không thích nhưng cô vẫn cho rằng hành động của mình là đúng.

Khi gã nằm bất động chết trên sàn nhà, cô tháo xích và nhảy khỏi bàn đá. Sau đó, cô lo lắng rút cái thìa ra khỏi cổ gã – giống như là vặn nút chai ra – khiến máu tuôn ra khắp chân cô, khiến cô nhảy lùi lại trong khi phun ra một tiếng chửi thề.

Hai gã lính gác ngoài Căn phòng của nhà Tiên tri rất dễ đối phó. Cô đã khiến chúng bất ngờ và giết chết tên bên phải cùng cách giết gã cai ngục. Sau đó, cô lôi con dao từ thắt lưng y và tấn công tên còn lại trong khi hắn cố đâm ngọn giáo về phía cô. Đánh gần thì giáo không thể có lợi bằng dao găm và cô đã giết chết hắn trước khi hắn kịp chạy trốn hay tri hô.

Nhưng cô không chạy được xa. DÙ vì câu thần chú của Galbatorix hay vì xui xẻo thì cô đã đụng một nhóm năm tên lính, và chúng nhanh chóng, nếu không nói là dễ dàng, tóm được cô.

Chỉ nửa tiếng sau cô nghe có tiếng chân người đi giày đế sắt đi về phía căn phòng. Sau đó Galbatorix xuất hiện cùng một vài tên lính gác.

Như thường lệ, hắn dừng lại chỉ đủ để cô liếc mắt nhìn thấy một bóng người cao, ẩn trong bóng đen với khuôn mặt vuông chữ điền. Cô thấy hắn quay đầu khi nhìn cảnh tượng trước mắt; sau đó, bằng giọng lạnh lùng, hắn nói. “Sao lại thế này?”

Một tên lính mũ trụ gắn lông chim chạy lên trước Galbatorix, quỳ xuống giơ cái thìa được mài sắc lên. “Bẩm bệ hạ, chúng thần tìm thấy cái này bên ngoài.”

Nhà vua cầm cái thìa lên và xoay nó trong tay. “Ta hiểu.” Hắn liếc nhìn cô. Hắn nắm lấy cái thìa và chẳng tốn sứ bẻ nó làm đôi. “Cô biết cô không thể trốn mà còn cố. Ta không thích cô giết những binh lính của ta để chọc giận ta. Cô không có quyền cướp đi mạng họ. Cô không có quyền làm bất cứ điều gì trừ phi ta cho phép.” Hắn ném hai mẩu kim loại xuống sàn. Sau đó hắn quay người và bước ra khỏi Căn phòng của nhà tiên tri, áo choàng nặng nề phấp phới sau lưng.

Hai tên lính lôi xác gã cai ngục đi, sau đó lau căn phòng và chửi rủa cô.

Khi họ đi và cô lại một mình, cô để cho mình thở dài và cô bớt căng cơ hơn.

Cô ước cô có cơ hội ăn uống, vì giờ khi sự phấn khích qua đi, cô quả thực rất đói. Tệ hơn, có lẽ cô phải đợi hàng giờ mới được ăn bữa tiếp, vì có vẻ Galbatorix không trừng phạt cô bằng cách bắt cô nhịn ăn.

Cô thèm bánh mì và thịt rán cùng một cốc rượu. Nhưng không bao lâu sau co nghe có tiếng g giày gõ bên ngoài xà lim. Cô giật mình, cố gắng chuẩn bị tinh thần cho bất cứ trường hợp xấu nào, vì chắc chắn nó sẽ xấu.

Cánh cửa mở ra và hai tiếng bước chân vọng trong căn phòng bát giác khi Murtagh và Galbatorix tiến vào. Murtagh đứng tại vị trí cũ nhưng không mang theo lò than. Hắn khoanh tay dựa vào tường và nhìn chằm chặp vào sàn nhà. Cái cô nhìn thấy qua cái mặt nạ bạc không an ủi cô; đường nét khuôn mặt hắn có vẻ cứng hơn, và hắn lẩm nhẩm cái gì đó khiến cô lạnh tới tận xương.

Thay vì ngồi như thường lệ, Galbatorix đứng đằng sau đầu cô, khiến cô cảm nhận được sự hiện diện của hắn rõ ràng hơn bao giờ.

Lão xòe bàn tay dài như móng vuốt trước mặt cô. Lão cầm một chiếc hộp nhỏ trang trí một chiếc kèn cong có lẽ là những con chữ tượng hình của ngôn ngữ cổ. Những tiếng kèn kẹt nho nhỏ phát ra, nhẹ nhàng như tiếng chuột cào tường, nhưng không rõ ràng.

Lão dùng ngón tay cái đẩy khóa hộp lên. Sau đó lão cho tay vào lấy ra một con giòi lớn màu ngà. Sinh vật dài khoảng 6cm, và có cái mồm nhỏ xíu, kêu kèn kẹt thể hiện sự không thích thú gì thế giới này. Nó mập và có những nếp gấp trên thân trong như con sâu bướm, nhưng nếu nó có chân thì chúng cũng quá bé nên cô không nhìn thấy.

Sinh vật uốn éo để cố thoát ra khỏi những ngón tay của Galbatorix. Nhà vua nói. “Đây là con giòi đất. Trông nó có vẻ không giống. Chúng chỉ sống tại một vùng của Alagaësia và cô khó lòng bắt được nó. Lấy nó đi, như một biểu hiện sự kính trọng ta dành cho cô, Nasuada, con gái của Ajihad. Ta sẽ sử dụng nó trên người cô.” Giọng lão hạ thấp xuống, trở nên quyến rũ hơn. “Nhưng, ta sẽ không muốn đổi chỗ cho cô đâu.”

Tiếng kèn kẹt của con giòi đất to lên khi Galbatorix thả nó xuống cánh tay phải trần trụi của cô, ở ngay dưới khuỷu tay. Cô giật mình khi sinh vật ghê tởm rơi xuống; nó nặng hơn vẻ bề ngoài và nó bám lấy cô như thể bằng hàng trăm cái móc nho nhỏ.

Con giòi đất vặn vẹo thêm một lúc nữa; sau đó nó cuộn tròn lại và nhảy vài cm lên trên cánh tay cô.

Cô vặn người, mong khiến con giòi rơi xuống, nhưng nó vẫn tiếp tục nhảy.

Tiếp tục nhảy.

Rồi dần dà lên tới vai cô, những cái móc đâm vào da cô như quả gai. Cô liếc mắt thấy con giòi đất nâng cái đầu không mắt lên và nhắm vào mặt cô, như thể ngửi không khí. Cái mồm nhỏ xíu của nó mở ra, và cô thấy hàm trên sắc nhọn đằng sau môi trên và môi dưới.

Skree-skree? Con bọ nói. Skree-skra?

“Không phải ở đó,” Galbatorix nói bằng ngôn ngữ cổ.

Con bọ nghe thấy và tránh xa đầu cô khiến cô thấy nhẹ nhõm đôi chút. Sau đó nó nhảy ngược lại cánh tay cô.

Vài thứ khiến cô sợ. Những que sắt nóng làm cô sợ. Ý nghĩ Galbatorix sẽ bị vì Urû’baen làm cô sợ. Tất nhiên cô cũng sợ chết dù không nhiều vì cô sợ sẽ để lại những thứ chưa hoàn thành.

Nhưng, dù vì lý do gì, cảnh thượng vào cảm giác về con giòi này làm cô sợ hơn mọi thứ. Mọi cơ bắp trên người cô dường như nóng lên và nhột nhạt, và cô muốn chạy, cái mồm nhỏ xíu kia làm cô nhớ miệng một đứa nhỏ. Âm thanh của nó rất kinh khủng khơi dậy những sự kinh sợ nguyên sơ trong con người cô.

Con giòi đất dừng lại ở khuỷu tay cô.

Skree-skree!

Sau đó, cơ thể mềm nhũn, béo múp của nó nhún lại, nhảy cao khoảng 4 5 inch lên không khí rồi chúi đầu xuống phần mềm ở khuỷu tay cô.

Khi nó chạm xuống, con bọ biến thành mười hai con rết xanh sáng nhỏ, bò lên tay cô trước khi mỗi con tìm một chỗ chui vào, luồn lách trong da thịt cô.

Cơn đau quá kinh khủng; cô vùng vẫy và hét lớn, nhưng không thể nào thoát nổi sự tra tấn. Nó như kéo dài mãi mãi. Que sắt nóng làm cô đau hơn nhưng cô thà để nó đốt cháy da thịt cô còn hơn, vì kim loại nóng là thứ cô có thể đoán trước. Nỗi sợ khi biết cơn đau của mình là do một sinh vật sốngnhai thịt cô rất đặc biệt, và tệ hơn, sinh vật đó nằm trong cô.

Cuối cùng, cô đánh mất lòng tự trọng và kiểm soát. Cô hét cầu xin nữ thần Gokkukara thương xót và cô bắt đầu lập bập như một đứa bé, không thể nào kiểm soát từ ngữ thoát ra.

Đằng sau cô, cô nghe tiếng cười của Galbatorix, và việc lão hưởng thụ sự đau đớn của cô làm cô ghét lão hơn bao giờ hết.

Cô chớp mắt từ từ bình tĩnh lại.

Sau một lúc, cô nhận thấy Galbatorix và Murtagh đã đi. Cô không nhớ họ đi lúc nào; chắc lúc đó cô bất tỉnh.

Cô đỡ đau hơn những vẫn cảm thấy kinh sợ. Cô liếc nhìn cơ thể và ngước mắt lên, tim đập dồn dập. Da cô sưng lên và những đường máu tụ chạy theo những đường con bọ đào xới dưới da cô, và chúng đang đau nóng lên. Như thể cô vừa bị ai dùng roi quật vào người.

Cô phân vân liệu con bọ còn trong người mình không. Có thể nó đang nằm đâu đó để tiêu hóa thức ăn. Hoặc giả nó đang làm kén, như giòi hóa ruồi hoặc chuyển thành một dạng kinh khủng hơn. Hoặc, đây là khả năng kinh tởm nhất, chúng đẻ trứng trong người cô, và sẽ có càng nhiều con nở ra và chén sạch cô.

Cô rùng mình và khóc vì sợ hãi và thất vọng.

Cơn đau làm cô không giữ nổi bình tĩnh. Mắt cô mờ đi và cô thấy mình đang sụt sùi khóc. Cô thấy ghê tởm bản thân nhưng cô không dừng lại được, dù cố đến thế nào. Để quên đi, cô nói chuyện với bản thân – hầu hết toàn chuyện vô nghĩa – về bất cứ thứ gì giúp cô tập trung vào vấn đề khác. Nó thành công, nhưng chỉ một chút.

Cô biết Galbatorix không muốn giết cô, nhưng co sợ cơn giận sẽ khiến lão đi xa hơn dự định. Cô run rẩy, toàn bộ cơ thể nóng bừng như thể cô bị hàng trăm con ong đốt. Sức mạnh ý chí có thể giúp cô chống chọi trong một thời gian dài; dù cô quyết tâm thế nào thì nó cũng chỉ có một giới hạn mà thôi. Và cô sợ cô đã vượt qua giới hạn. Cái gì đó sâu kín bên trong cô dường như đang vỡ vụn, và cô không tin mình có thể phục hồi sau vết thương.

Cánh cửa lại bật mở.

Cô cố tập trung xem ai tới.

Đó là Murtagh.

HẮn nhìn cô, môi cong lên, thở phì phò, lông mày nhíu chặt. Lúc đầu cô nghĩ hắn giận nhưng sau đó cô nhận ra thực ra hắn đang lo lắng và sợ hãi tới chết. Sự quan tâm của hắn khiến cô ngạc nhiên. Cô biết hắn thích cô – nếu không sao hắn nhọc công thuyết phục Galbatorix để cô sống? – nhưng cô không nghĩ hắn lại quan tâm tới cô nhiều.

Cô cố an ủi hắn bằng một nụ cười. Nụ cười có vẻ méo mó nên Murtagh nghiến răng như thể cố trấn tĩnh.

“Đừng cử động,” hắn nói và nâng tay lên trước người cô và bắt đầu lẩm bẩm bằng ngôn ngữ cổ.

Làm như tôi cử động được ấy, cô nghĩ.

Phép thuật có hiệu quả và dần dần, cơn đau qua đi, nhưng không biến mất hoàn toàn.

Cô nhíu mày không hiểu thì hắn nói, “Tôi xin lỗi. Tôi không thể làm gì hơn. Galbatorix sẽ biết tôi làm mất.”

“Vậy còn...còn Eldunarí của anh. Chắc chắn họ giúp được.”

Hắn lắc đầu. “Chỉ toàn rồng trẻ khi cơ thể họ chết đi. Họ biết rất ít về phép thuật và Galbatorix hầu hết dạy cho họ biết kể từ khi... tôi xin lỗi.”

“NHững thứ đó còn trong tôi không?”

“Không! Không. Galbatorix đã bắt chúng ta hết khi cô ngất đi.”

Cô an tâm hơn. “Câu thần chú của anh không làm tôi ngớt đau.” Cô cố không nói giọng buộc tội, nhưng cô không thể giấu sự tực giận trong giọng nói.

Hắn nhăn nhó. “Tôi không chắc vì sao. Dù sinh vật đó là gì, nó cũng không phải loại sinh vật bình thường.”

“Anh biết nguồn gốc của nó không?”

“Không. Hôm nay tôi mới biết khi Galbatorix mang nó tới từ phòng riêng.”

Cô nhắm mắt.

“Thả tôi ra.”

“Cô có chă...”

“Thả tôi ra.”

Hắn im lặng tháo còng cho cô. Sau đó cô ngồi dậy trong khi chờ đợi cơn đau đầu giảm đi.

“Đây,” Murtagh nói, đưa cho cô một chiếc áo choàng. Cô quấn nó quanh người, che cơ thể và giữ ấm và để cô không những thấy những vết bỏng, vết sẹo và những đường thâm tím.

Con giòi đất đã chui tới tận chân cô. Cô đi khập khiễn tới góc phòng. Cô dựa người vào tường và từ từ ngồi xuống.

Murtagh ngồi cạnh cô và cả hai nhìn chăm chăm bức tường đối diện.

Cô bắt đầu khóc.

Một lúc sau, hắn vỗ vai cô và cô giật nảy người. Cô không chịu được. Hắn đã làm cô bị thương vài ngày trước và dù cô biết hắn không muốn nhưng cô không thể quên chính hắn là người gí cây sắt nóng vào người cô.

Nhưng khi cô nhìn thấy phản ứng của hắn, cô vươn tay ra nắm lấy tay hắn. Hắn bóp nhè nhẹ những ngón tay cô, sau đó vòng tay quanh vai cô kéo coo lại gần. Cô phản kháng một lúc rồi cũng thư giãn trong vòng tay hắn và ngả đầu vào ngực hắn mà khóc. TIếng khóc vang vọng khắp phòng.

Vài phút sau, cô thấy hắn cử động và nói. “Tôi thề sẽ tìm cách thả cô ra. Đã quá muộn chô tôi và Thorn. Nhưng không phải cho cô. Miễn là cô không thề trung thành với Galbatorix, tôi sẽ có cơ hội đưa cô ra khỏi Urû’baen.”

Cô ngước mắt nhìn hắn và hiểu hắn thật lòng. “BẰng cách nào?” cô thì thào.

“Tôi không biết,” hắn thừa nhận cùng một nụ cười gượng gạo. “Nhưng tôi sẽ tìm ra cách. Dù thế nào tôi cũng tìm ra. Nhưng cô phải hứa với tôi sẽ không bỏ cuộc – cho tới khi tôi tìm ra cách chứ?”

“Tôi không nghĩ mình chịu nổi cái...vật đó thêm lần nữa. Nếu hắn cho nó vào người tôi, tôi sẽ cho hắn cái gì hắn muốn.”

“Cô sẽ không phải lam vậy; hắn không dịnh sử dụng lại con giòi đất.”

“...Vậy hắn định làm gì?”

Murtagh im lặng trong hơn một phút. “Hắn định làm méo mó những gì cô nhìn thấy, nghe thấy, cảm nhận thấy và nếm thấy. Nếu không thành công, hắn sẽ tấn công đầu óc cô. Cô không thể chống lại hắn. Không ai có thể. Nhưng tôi chắc rằng trước khi hắn ra tay, tôi sẽ cứu được cô. Tất cả những gì cô cần làm là tiếp tục chiến đấu. Chỉ vài ngày thôi.”

“Làm sao tôi chiến đấu nổi khi không tin nổi giác quan của mình?”

“Hắn không thể làm chủ một giác quan của cô.” Murtagh xoay người nhìn thẳng vào mắt cô. “Cô có thể cho tôi chạm tới tư tưởng không? Tôi sẽ không đọc suy nghĩ của cô. Tôi chỉ muốn cô biết đầu óc tôi cảm nhận cái gì, để cô có thể nhận ra – cô có thể nhận ra tôi – trong tương lai.”

Cô lưỡng lự. Cô biết đây sẽ là một bước ngoặt. Hoặc cô đồng ý tin hắn hoặc từ chối. Nếu từ chối có thể cô sẽ mất đi cơ hội cuối cùng tránh trở thành nô lệ cho Galbatorix. Nhưng cô vẫn cảnh giác với những người muốn tiếp cận đầu óc cô. Murtagh có thể lừa cô hạ thấp lưới phòng vệ để hắn dễ dàng bước vào tư tưởng của cô. Hoặc có thể hắn muốn tìm kiếm thông tin trong đó.

Sau cùng cô nghĩ, Vì sao Galbatorix lại sử dụng mánh này? BẢn thân lão tự làm cũng được. Murtagh nói đúng; mình không thể chống lại lão...Nếu mình đồng ý với Murtagh, mình toi, nhưng nếu mình từ chối, mình toi chắc. Dù cách nào Galbatorix cũng tấn công mình được. Chỉ là vấn đề thời gian thôi.

“Cứ làm gì anh muốn,” cô nói.

Murtagh gật đầu và hơi nhắm mắt.

Trong tư tưởng bình lặng, cô bắt đầu ngâm nga một đoạn thơ cô hay sử dụng để giấu những suy nghĩ và bảo vệ trí óc khỏi kẻ xâm nhập. Cô tập trung vào nó, quyết tâm phản kháng lại Murtagh nếu cần và cố không nghĩ về những bí mật cô muốn giấu.

Ở El-harim có một người đàn ông mắt vàng

Ông ấy nói với tôi, “Hãy cẩn trọng với những lời nói thầm, vì chúng thì thầm những điều dối trá.

Đừng vật lộn với những con quỷ trong bóng tối,

Nếu không chúng sẽ đóng dấu lên đầu óc con;

Đừng nghe lời bóng tối thẳm sâu

Không chúng sẽ săn lùng con khi con say giấc ngủ.”

Khi tư tưởng của Murtagh chạm vào cô, cô khụt khịt mũi và tiếp tục lẩm nhậm đoạn thơ với nhịp điệu nhanh hơn. Cô ngạc nhiên vì tư tưởng của hắn khá quen thuộc với cô. Sự tương tự giữa tư tưởng của hắn và – Không, cô không thể nói của ai, nhưng tương đồng đến đáng ngạc nhiên nhưng cũng có những điểm khác biệt. Khác nhất chính là sự giận dữ của hắn, nằm ở trong tâm tưởng hắn như một trái tim đen lạnh lẽo bị bóp chặt và nằm im với những mạch máu của sự thù hận vươn ra khắp phần còn lại của tư tưởng. Nhưng sự quan tâm của hắn dành cho cô che lấp cơn giận. Cô đã biết hắn muốn giải cứu cô là thực, vì con người khó mà giấu được nội tâm. Cô tin Murtagh không lừa cô.

Hắn giữ đúng lời tiến sâu vào trí óc cô, và sau vài giây, hắn rút ra và cô lại thấy tư tưởng mình một mình.

Murtagh mở mắt và hắn nói. “Xong rồi. Giờ cô có thể nhận ra tôi nếu tôi chạm vào tư tưởng cô không?”

Cô gật đầu.

“Tốt. Galbatorix có thể làm nhiều việc nhưng lão không thể lừa cảm giác của trí óc. Tôi sẽ cố cảnh báo cô trước khi lão bóp méo các giác quan của cô và tôi sẽ liên hệ với cô khi lão ngừng lại. Bằng cách đó, lão sẽ không thể khiến cô rối trí.”

“Cám ơn anh,” cô nói và không thể diễn đạt được sự biết ơn bằng vài câu chữ ngắn ngủi đó.

“May là chúng ta có thời gian. Varden mới hành quân được ba ngày và các thần tiên sẽ nhanh chóng tiến tới từ mạn bắc;. Galbatorix đã đi để quan sát hàng phòng ngực của Urû’baen và thảo luận binh pháp với Lãnh chúa Barst là người chỉ huy quân đội trong thành phố.”

Cô nhíu mày. Cái này báo trước điềm gở. Cô đã nghe tới Lãnh chúa Barst, hắn mang tai tiếng nhất trong những quý tộc của triều đình Galbatorix. Người ta nói hắn có đầu óc bệnh hoạn và bàn tay đẫm máu. Chỉ có ai ngu ngốc mới thích đối chọi với hắn. Những kẻ đó chỉ có chết.

“Không phải anh ư?” cô hỏi.

“Galbatorix có kế hoạch khác cho tôi nhưng lão chưa nói.”

“lão sẽ bận chuẩn bị trong bao lâu?”

“Hết ngày hôm nay và cả ngày mai.”

“Anh nghĩ có thể thả tự do cho tôi trước khi lão quay lại không?”

“Tôi không biết. Có lẽ là không.” Họ ngừng lại không nói gì. Sau đó hắn nói. “Giờ tôi có câu hỏi cho cô: vì sao cô lại giết những người đó? Cô biết cô không thể thoát cơ mà. Có phải cô chỉ muốn chọc giận Galbatorix thật?”

Cô thở dài và đẩy người khỏi lồng ngực Murtagh để ngồi thẳng dậy. Hắn lưỡng lữ rời tay khỏi vai cô. Cô sụt sịt sau đó nhìn thẳng vào mắt hắn. “Tôi không thể nằm đó chờ hắn làm gì tôi thì làm. Tôi phải chiến đấu; tôi phải cho hắn thấy hắn không bẻ gẫy nổi tôi và tôi muốn làm hắn tổn thương trong khả năng của mình.”

“Đó là chọc giận đó!”

“Đúng một phần thôi. Thế thì sao?” Cô nghĩ hắn sẽ tỏ ra kinh tởm hay ghét hành động của cô, nhưng ngược lại,, hắn nhìn cô vẻ tán thưởng và môi cong lên thành một nụ cười nhỏ vẻ hiểu biết.

“Cô làm tốt lắm,” hắn trả lời.

Sau một lúc cô cười lại với hắn.

“Hơn nữa,” cô nói. “nếu có cơ hôi là tôi sẽ trốn.”

Hắn nhăn mặt. “Lúc đó thì rồng cũng ăn cỏ.”

“Kể cả vậy tôi cũng thử.”

:Tôi hiểu. Nếu tôi có thể tôi cũng sẽ làm điều tương tự khi Cặp song sinh mang tôi tới đây.”

“Và giờ?”

“Tôi không thể, mà dù tôi có thể, tôi làm có mục đích gì?”

Cô không biết trả lời sao. Họ im lặng. Cuối cùng cô cất tiếng, “Murtafh, nếu không thể cứu tôi khỏi đây, tôi muốn anh hứa với tôi rằng anh sẽ giúp tôi thoát bằng...cách khác. Tôi sẽ không yêu cầu anh...tôi không muốn đặt gánh nặng lên vai anh, nhưng có anh thì chuyện sẽ đơn giản hơn, vì tôi không có cơ hội làm một mình.” Môi hắn mím càng lúc càng chặt khi cô nói, nhưng hắn không ngắt lời. “Dù có chuyện gì xảy ra, tôi cũng không muốn bản thân trở thành đồ chơi cho Galbatorix. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì, bất cứ điều gì để tránh định mệnh đó. Anh hiểu không?”

Hắn gật đầu.

“Anh hứa với tôi nhé?”

Hắn nhìn xuống và nắm chặt tay, hơi thở hỗn loạn. “Ừ.”

Murtagh là người ít nói nên dù cô có gợi chuyện nhưng họ cũng chỉ nói về vài vấn đề nhỏ nhặt. Murtagh nói với cô về việc hắn cải tiến chiếc yên cương Galbatorix đưa hắn như thế nào – Murtagh rất tự hào vì nó giúp hắn lên xuống nhanh hơn, chũng như rút kiếm dễ hơn. Cô nói hắn về đường phố mua sắm tại Aberon, thủ đô của Surda, và khi con bé, cô thường chạy trốn vú nuôi thế nào để tới chơi ở đó. Cô thích những lái buôn du mục. Tên ông ấy là Hadamanara-no Dachu Taganna nhưng hắn thích cô gọi ông thân mật bằng cái tên Taganna. Ông bán đao kiếm và ông thường rất thích đưa cô đi xem gian hàng của mình, dù cô chẳng bao giờ mua cái gì.

Khi cô và Murtagh tiếp tục nói chuyện, họ trò chuyện càng lúc càng thân mật và thoải mái hơn. Dù họ đang trong hoàn cảnh chẳng lấy gì làm hay ho nhưng cô thích nói chuyện với hắn. Hắn thông minh và có học thức. Cô thích cách châm chọc của hắn, đặc biệt trong hoàn cảnh của cô.

Murtagh dường như cũng thích nói chuyện với cô. Nhưng được một lúc họ nhận ra nếu tiếp tục nói chuyện sẽ làm ngu ngốc. Họ có thể bị bắt gặp. Vì thế cô quay lại bàn đá, nằm xuống và để hắn trói lại.

Khi hắn định đi, cô nói. “Murtagh.”

Hắn dừng lại nhìn cô.

Cô lưỡng lự một lúc rồi dùng hết can đảm mà nói. “Vì sao?” Cô nghĩ hắn hiểu cô muốn nói gì. Vì sao lại là cô? Vì sao lại cứu cô, và giờ vì sao lại cố giải thoát cho cô? Cô đã đoán ra câu trả lời nhưng cô vẫn muốn nghe hắn nói.

Hắn nhìn cô rất lâu, lâu nhất từ trước tới giờ rồi nói bằng giọng trầm, khó hăn. “Nàng biết vì sao mà.”

__________________

GIỮA ĐỐNG ĐỔ NÁT

Những đám mây xám xịt dày tan đi. Từ trên lưng Saphira, Eragon chiêm ngưỡng đảo Vroengard.

Trước mắt họ là một thung lũng lòng chảo bao quanh bởi những dãy núi vòng cung cao vượt những đám mây. Trong khi rừng rộng lớn là những cây gỗ vân sam, thông, linh sam che phủ sườn núi cũng như chân núi. Trông chúng như một đội quân những chiến binh đầy gai hành quân từ đỉnh núi xuống. Những cái cây lớn và rậm rạp đến mức từ trên cao Eragon cũng thấy rêu và địa y bám lên những cành cây chắc nịch. Màn sương mù trắng phủ lên sường núi, và tại một vài chỗ trong thung lũng, mưa đang giăng giăng.

Trên mặt thung lũng là những tảng đá đủ loại: những tảng đá trước là lối vào những hang động; những đá phiên thuộc về những tòa tháp đã bị thiêu trụi; đá lát đại sảnh với mái đã sập xuống; và vài tòa nhà nhỏ hơn trông có vẻ vẫn ở được.

Hơn mười hai con sông chảy từ núi xuống và uốn lượn dọc mặt đất phủ cây lá xanh tươi tới khi đổ vào một hồ nước lớn yên ả gần trung tâm thung lũng. Xung quanh hồ là phần còn lại của thành phố của các Kỵ sĩ, Doru Araeba. Những tòa nhà khổng lồ - những căn phòng lớn tới mức có thể chứa toàn bộ dân làng Carvahall. Mỗi cánh cửa đều giống như lối vào một động lớn rộng mênh mông chưa người khám phá. Mỗi cánh cửa sổ đều cao và lớn như cổng lâu đài và mỗi bức tường đều phẳng và dựng đứng.

Những cây trường xuân ken dầy trên những phiến đá. Ở những nơi không có trường xuân thì có rêu phủ khiến những tòa nhà trông giống như mọc lên từ lòng đất. Những tảng đá có vẻ từng có màu vàng đất, dù được sơn màu đỏ, nâu, hay xanh dương.

Với kiến trúc đặc trưng của thần tiên, những ngôi nhà trông duyên dáng và thon dài hơn những tòa nhà của loài người và người lùn. Nhưng ở chúng có sự rắn chắc và quyền lực mà những căn nhà cây ở Ellesméra thiếu. Eragon thấy thấp thoáng bóng dáng những căn nhà ở Thung lũng Palancar. Nó nhớ tới những kỵ sĩ rồng loài người đầu tiên đã tới vùng đất này của Alagaësia. Nhờ có ông mà ở đây kiến trúng rất đặc trưng, không hoàn toàn theo kiểu thần tiên hay loài người.

Hầu hết các tòa nhà đã bị hư hại nhưng một số còn hỏng nghiêm trọng hơn. Sự tổn thất dường như tỏa ra từ một điểm nhỏ phía bắc thành phố, nơi có một hố sâu xuống lòng đất khoảng 6m. Những cây phong mục bật rễ và những chiếc lá úa của nó lay động trong gió.

Khu vực trông trong thành phố giờ là nơi sinh sống của tảo và cây bụi. Những mảnh kính vỡ rơi đầy trên những phiến đá lát đường. Nơi những tòa nhà che chắn cho Vườn Thượng Uyển khỏi vụ nổ tàn phá thành phố, những bông qua màu xám xịt vẫn mọc theo kiểu trang trí nghệ thuaatj, hình dáng của chũng chắc chắn đã được định hình bằng những câu thần chú đã chìm vào quên lãng.

Tất cả các phần của thung lũng cùng nhau phô bày một bức tranh ảm đạm.

Hãy chứng kiến sự tan hoang của cái vốn là niềm tự hào và kiêu hãnh của chúng ta, Glaedr nói. Sau đó: Eragon, con phải đọc một câu thần chú khác. Như thế này này - Và ông đọc vài dòng bằng ngôn ngữ cổ. Đó là một câu thần chú kỳ lạ; từ ngữ tối nghĩa và quên vào nhau. Bản thân Eragon chẳng hiểu nó dùng làm gì.

Khi nó hỏi Glaedr, ông rồng già nói, Ở quanh đây có thứ thuốc độc vô hình, trong không khí con đang hít thở, ở mặt đất con bước đi và thức ăn và nước uống. Câu thần chú sẽ bảo vệ chúng ta.

Độc...gì? Saphira hỏi, ý nghĩ của cô nàng chậm như những nhịp đập cánh.

Eragon thấy từ Glaedr hình ảnh hố sâu trong lòng thành phố và ông rồng nói, Trong trận chiến với THập tam phản đồ, một trong số chúng ta, một thần tiên có tên Thuviel đã dùng phép thuật để tự sát. Dù cố tình hay hữu ý thì con cũng thấy kết quả rồi đó. Vụ nổ đã khiến nơi này không còn ai có thể sống nổi. Những người còn lại nhanh chóng bị nhiễm trùng da và rụng tóc. Sau đó nhiều người đã chết.

Eragon lo lắng đọc thần chú – cần khá ít năng lượng – trước khi nói, Làm sao một người, kể cả có là thần tiên chăng nữa lại gây thiệt hại lớn thế này? Dù có sự giúp sức của con rồng đi nữa, con không nghĩ Thuviel có khả năng gây ra chuyện này, trừ khi con rồng của ông ấy phải to cỡ quả núi.

Con rồng không giúp, Glaedr nói. Con rồng đó đã chết. Không, tự Thuviel đã gây ra đó.

Nhưng bằng cách nào?

Cách duy nhất là biến toàn bộ da thịt thành năng lượng.

Ông ấy trở thành một linh hồn ư?

Không, Năng lượng một khi không có tư tưởng và vật chứa đựng sẽ tỏa ra tới khi biến mất hết.

Con không biết một cơ thể lại chứa đựng nhiều năng lượng tới vậy.

Ít người biết, nhưng dù những vật nhỏ nhất cũng chứa một lượng năng lượng lớn. Vấn đề là thường năng lượng ở trạng thái đóng băng. Nếu con đốt nóng nó, con sẽ gây ra một cơn lũ ít người có thể chịu đựng nổi... Người ta nói là tận Teirm còn nghe thấy tiếng nổ và khói bụi bay cao bằng đỉnh núi Beor.

Đó là vụ nổ giết chết Glaerun phải không ạ? Eragon hỏi, nhớ tới một trong Thập tam phản đồ chết ở Vroengard.

Đúng. Galbatorix và những tên phản đồ còn lại đã có thời gian chuẩn bị và có thể bảo vệ bản thân. Nhưng rất nhiều đồng minh của chúng ta không có được may mắn đó và đã chết.

Khi Saphira chao cánh xuống dưới những đám mây, Glaedr hướng dẫn cô nàng cách bay tới phần tây bắc thung lũng. Glaedr đọc tên từng ngọn núi cô nàng bay qua: Ilthiaros, Fellsverd, and Nammenmast, cùng với Huildrim vàTírnadrim. Ông cũng đọc tên rất nhiều những toa fnhaf và những ngọn tháp đổ bên dưới, và ông đã dạy lịch sử cho Eragon và Saphira, dù chỉ Eragon chú ý tới lời giảng giải của ông rồng già.

Trong tâm tưởng Glaedr, Eragon cảm nhận được một nổi buồn từ lâu bị đánh thức. Nỗi buồn này không chỉ vì sự sụp đổ của Doru Araeba mà còn vì cái chết của cac Kỵ sĩ, loài rồng gần như tuyệt diệt và các giống loài đã mất đi hàng ngàn năm gom nhặt kiến thức và sự hiểu biết. Ký ức về những gì đã xảy ra – mà ông rồng từng có với những người khác – càng làm thêm sự độc bá của Glaedr. Cái đó cùng với nỗi buồn của ông rồng tạo nên một cảm giác phiền muộn khiến Eragon buồn theo.

Nó hơi rút lui khỏi tư tưởng Glaedr nhưng trông thung lung vẫn ảm đạm và thê lương như chính thung lũng đang khóc than cho ngày tàn của những Kỵ sĩ.

Saphira bay càng thấp thì các tòa nhà càng lớn. Khi kích cỡ thật của chúng lộ ra, Eragon nhận ra rằng những gì nó đọc trong Domia abr Wyrda không hề phóng đại: những đại lộ lớn khổng lồ. Saphira hoàn toàn có thể bay trong đó.

Gần thành phố bị lãng quên là những khúc xương trắng khổng lồ ngổn ngang mặt đất: đó là bộ xương rồng. Cảnh tượng khiến nó khiếp sợ nhưng nó không thể rời mắt. Nó ấn tượng về kích thước. Vài con rồng nhỏ hơn Saphira nhưng hầu hết lớn hơn rất nhiều. Bộ xương to nhát nó nhìn thấy có khi phải dài 24m, rộng 4,5m. Chỉ riêng một cái bộ xương - bị phủ địa y trong như một tảng đá sần sùi – dài hơn và cao hơn cả người Saphira. Kể cả ông Glaedr cũng chỉ nhỏ xíu so với con rồng chết đó.

Đó là Belgabad, con rồng vĩ đại nhất, khi nhận ra sự chú ý của Eragon ông rồng già giải thích.

Eragon nhớ mang máng cái tên đó từ những cuốn sách lịch sự nó đọc hồi ở Ellesméra; tác giả chỉ viết là ông rồng đó đã xuất hiện và biến mất trong trận chiến, thế thôi.

Kỵ sĩ của ông ấy là ai? Nó hỏi.

Ông ấy không có kỵ sĩ. Ông ấy là một con rồng hoang dã. Ông ấy đã sống một mình trong hàng thế kỷ ở con sông băng ở phía bắc. Nhưng khi Galbatorix và Thập tam phản đồ giết loài chúng ta, ông ấy đã tới giúp sức.

Ông ấy là con rồng lớn nhất phải không ạ?

Lớn nhất á? Không. Chỉ tính tại thời điểm đó thôi.

Sao ông ấy tìm đủ thức ăn chứ?

Khi tới độ tuổi và kích thước đó, rồng thường dùng hầu hết thời gian ngủ đông, mơ mộng về những ngôi sao, những ngọn núi nâng lên hạ xuống trong hàng thiên niên kỷ hoặc thậm chí những thứ nhỏ bé như chuyển động của cánh bướm. Lúc này ta đã cảm thấy muốn mơ nhưng ta thức vì ta còn có việc cần làm.

Người...có...biết...Belgabad? Saphira hỏi, cố nói từng từ vì mệt nhọc.

Ta đã gặp ông ấy nhưng ta không biết ông ấy. Luật là, những con rồng hoang dã không đi cùng những con rồng được gắn kết với Kỵ sĩ. Họ coi thường chúng ta vì chúng ta bị thuần hóa và hay ỉ ôi kêu ca. Còn chúng ta coi thường họ vì họ bị bản năng lấn át quá nhiều, nhưng đôi khi chúng ta tôn trọng họ vì lý do tương tự. Nhưng, con phải nhớ, họ không nói ngôn ngữ của chúng ta. Chính vì thế chúng ta và họ khác biệt nhiều hơn con nghĩ. Ngôn ngữ giúp giải thích tư tưởng theo cách khó có thể giải thích được. Những con rồng hoang dã có thể giao tiếp hiệu quả như bất cứ người lùn hay thần tiên nào, nhưng họ không biết cách chia sẻ ký ức, hình ảnh, cảm xúc bằng từ ngữ. Họ cứng đầu không chịu học.

Glaedr ngừng lại rồi nói thêm, Nếu ta nhớ đúng, Belgabad là tổ tiên xa của Hắc long Raugmar và ta chắc con nhớ, Saphira, Raugmar là cụ cố của mẹ con, Vervada.

Saphira mệt mỏi nên rất chậm chạp trong phản ứng. Mãi lúc sau, cô nàng mới ngoái cổ lại nhìn cái bộ xương to tướng đó. Ông ấy phải là một thợ săn giỏi.

Ông ấy là người giỏi nhất, Glaedr nói.

Vậy...con mừng vì mang trong mình dòng máu của ông ấy.

Những khúc xương rải rác trên mặt đất làm Eragon ấn tượng. Tới lúc này nó mới hiểu hết quy mô trận chiến và số lượng rồng từng sinh sống trên mặt đất. Cảnh tượng làm nó thêm ghét Galbatorix, và một lần nữa nó thể sẽ giết nhà vua.

Saphira bay xuống một màn xương mù, những đám mây bay bay ở đầu cánh cô nàng trông như những xoáy nước nhỏ xíu trên trời. Sau đó một bải cỏ rậm rạp chạm vào và cô nàng hạ cánh nặng nề. Chân phải cô nàng chông xuống, cô nàng đổ sang một bên, ngã đập ngực và vai xuống với một lực đủ khiến Eragon, nếu không có lưới phòng vệ đã bị lưỡi giáo phía trước đâu thủng họng.

Sau đó cô nàng năm im bất động. Sau rốt, cô nàng từ từ co chân, gấp cánh, cuộn tròn lại.

Eragon thả dây quấn chân, nhảy xuống đất. Đất ướt và mềm. Nó khuỵu một bên gối xuống vì bốt lún sâu trong đất.

“Chúng ta tới rồi,” nó thích thú nói. Nó tới chỗ đầu Saphira. Khi cô nàng cúi đầu nhìn vào mắt nó, nó đặt tay lên đầu cô nàng và đặt trán lên mũi cô nàng.

Cám ơn em, nó nói.

Nó nghe có tiếng cụp khi cô nàng khép mi mắt lại, sau đó đầu cô nàng rung lên cùng tiếng rừ rừ sâu trong lòng ngực.

Sau một lúc, Eragon thả cô em nó ra và nhìn khung cảnh xung quanh. Cánh đồng Saphira vừa đáp xuống ở ngoại ô phía bắc thành phố. Những mảnh đá lát sàn vỡ - có mảnh to gần bằng Saphira – nằm rải rác trên cỏ. Eragon nhẹ nhõm vì cô nàng tránh được chúng.

Cánh đồng dốc lên, xa khỏi thành phố, tới một chân núi gần nhất phủ kín cây. Nơi cánh đồng và ngọn đồi gặp nhau là một khoảng đất trống được lát đá bừng khẳng. Phía bên kia khoảng đất trống là những cột đá lớn kéo dài nửa dặm về phía bắc. Chắc đây từng là tòa nhà lớn nhất và được trang trí kỳ công nhất.Eragon thấy những cột đá được trang trí cũng như những cây hoa và dây leo quấn quanh đầy nghệ thuật cùng với rất nhiều bức tượng nhưng hầu hết chúng đã mất mất vài phần, như thể chính chúng cũng tham gia trận chiến.

Đây là Đại Thư Viện, Glaedr nói. Hoặc là cái còn lại sau khi bị Galbatorix đập phá.

Eragon từ từ quay người quan sát khu vực xung quanh. Ở phía nam thư việc là một con đường mòn đã mờ dấu chân người mọc đầy cỏ dại. Con đường mòn dẫn từ thư viện tới một vườn táo bị khuất khỏi tầm nhìn. Sau những cây tạo là một tảng đá lớn vươn lên cao khoảng 60m, trên đó mọc lên vài cây bách xù.

Eragon mừng rỡ. Nó chắc chắn dù vẫn hỏi, Có phải nó không sư phụ? Có phải tảng đá Kuthian đây không?

Eragon có thể nhìn thấy Glaedr đang dùng mắt nó để nhìn, rồi ông rồng già nói, Ta thấy nó rất quen nhưng ta không thể nhớ ta đã từng nhìn thấy nó khi nào...

Eragon không cần ông nói gì thêm. “Đi nào!” nó nói. Nó bước qua những cây cỏ cao tới thắt lưng tiến tới con đường mòn gần nhất.

Cỏ mọc không quá dày. Nó có thể cảm nhận những tảng đá cuội cứng dưới từng bước chân thay vì mắt đất ướt đẫm nước mưa. Với Saphira ở sát sau, nó nhanh chóng đi trên đường, và họ cùng nhau bước dưới bóng cây táo. Cả hai người đều cẩn trọng, vì những cái cây có vẻ nguy hiểm và đang quan sát chúng. Những cành cây quá lớn như thể chúng là những móng vuốt vậy.

Eragon không cố ý thở dài vì an tâm khi đi ra khỏi bóng cây.

Tảng đá Kuthian đứng sừng sững trước một vườn hoa hồng, cây kế, cây mâm xôi, và cây thủy độc cần. Đằng sau tảng đá là những cây gỗ vân sam kéo dài tới tận ngọn núi cao cao phía sau. Tiếng những con sống kêu vang trong khắp khu rừng. Nhưng họ chỉ nghe thấy tiếng chứ không hề nhìn thấy chúng.

Ba chiếc ghế đá – hình dạng của chúng nửa bị che dưới những rễ cây, dây leo và cây leo – nằm cách nhau một quãng dều đặn quanh khu đất trống. Ở một bên là những cây liễu từng là nơi cho các Kỵ sĩ ngồi dưới bóng cây mà ngắm cảnh. Nhưng đã qua hàng trăm năm và những cây đã quá lớn, cành lá ken quá dày. Không một con người, thần tiên hay người lùn có thể chui vào nổi.

Eragon dừng lại trước khoảng trốn nhìn Tảng đá Kuthian. Bên cạnh nó, Saphira nằm xuống làm rung chuyển mặt đất và khiến nó cúi chân để giữ thăng bằng. Nó vỗ vai cô em, rồi nhìn tòa tháp đá. Nó thấy lo lắng.

Eragon mở toang đầu óc tìm kiếm khu đất trống và những cái cây đằng sau xem có ai đang theo dõi chúng không. Nó chỉ cảm nhận thấy những cái cây, những con chuột chũi, chuột nhắt, côn trùng và những con rắn sọc trong những bụi rậm mà thôi.

Sau đó nó bắt đầu đọc câu thần chú cho phép nó biết có bất cứ bẫy pháp thuật nào xung quanh. Trước khi nó đọc được vài từ, Glaedr nói. Dừng lại. Con và Saphira đã quá mệt. Trước tiên hãy nghỉ ngơi; ngày mai chúng ta sẽ quay lại và tìm xem có gì không.

Nhưng...

Hai còn không thể tự bảo vệ mình nếu chúng ta buộc phải chiến đấu. Dù chúng ta cần tìm gì thì cứ để sáng mai đi.

Eragon lưỡng lự rồi buộc phải dừng câu thần chú. Nó biết Glaedr đúng, nhưng nó ghét phải chờ đợi trong khi nhiệm vụ sắp hoàn thành.

Tốt thôi, nó nói và trèo lên lưng Saphira.

Với một tiếng hốp, cô nàng đứng lên và từ từ quay người đi dưới bóng cây táo. Dưới bươc chân cô nàng, nhiều cây rụng ra, một trong số đó rơi vào lòng Eragon. Nó nhặt lá lên và định ném đi thì nhận ra lá có hình dạng kì lạ. Răng cưa nó dài hơn và rộng hơn những lá táo nó từng nhìn, những đường gân lá chạy theo đường bất kỳ chứ không theo hình mạng thông thường.

Nó nhặt thêm một chiếc lá nữa vẫn còn xanh. Giống như chiếc lá vừa rồi, chiếc lá xanh này có đường răng cưa lớn và mạch gân là lạ.

Từ sau trận chiến, mọi thứ đã không còn như nó vốn có, Glaedr nói.

Eragon nhíu mày và ném chiếc lá đi. Một lần nữa nó nghe thấy tiếng sóc kêu nhưng không nhìn thấy con nào dù tư tưởng nó cảm nhận được chúng.

Nếu anh có vảy, chắc anh dựng ngược vảy lên rồi, nó nói với Saphira.

Một cột khói nhỏ bay lên từ lỗ mũi cô nàng khi cô nàng khụt khịt vẻ thích thú.

Từ dưới tán vây, cô nàng đi về phía nam tới một dòng suối chảy xuống từ trên núi. Tới đó, Saphira quay mình và đi theo dòng suối tới một cánh đồng phía trước khi rừng xanh ngắt.

Đây, Saphira nói rồi nằm xuống.

Đây có vẻ là một nơi cắm trại tốt. Saphira không thể tìm kiếm hơn nên Eragon đồng ý và trèo xuống. Nó dừng lại để chiêm ngưỡng cảnh sắc nhìn từ thung lũng. Sau đó nó tháo yên và túi xách trên lưng Saphira xuống. Cô nàng lắc đầu, đảo vai và vặn cổ liếm chỗ ngực bị dây sít vào.

Sau cùng, cô nàng cuộn tròn trên cỏ, chuồi đầu dưới cánh và quấn đuôi quanh mình. Đừng đánh thức em trừ khi có cái gì đó định thịt chúng ta, cô nàng nói.

Eragon mỉm cười và vỗ đuôi cô nàng, sau đó nhìn thung lũng lần nữa. Nó đứng đó rất lâu, hầu như không suy nghĩ gì mà chỉ quang sát mà thôi.

Cuối cùng nó lấy túi ngủ ra nằm cạnh Saphira.

Người trông chừng cho chúng con nhé? Nó nhờ Glaedr.

Ừ, nghỉ ngơi đi và đừng lo nghĩ gì.

Eragon gật đầu dù Glaedr không nhìn thấy nó. Sau đó nó chui vào trong chăn và để mình lang thang trong những giấc mơ.

__________________

SNALGLÍ CHO HAI NGƯỜI

Chiều muộn Eragon mới mở mắt dậy. Tấm màn mây đã tan ở vài nơi, những tia sáng vang chiếu tỏ thung lũng, thắp sáng nóc vài tòa nhà hoang phế. Dù thung lũng vẫn còn lạnh lẽo, ẩm ướt và thiếu hơi người nhưng anh sáng đã mang lại một diện mạo mới. Lần đầu tiên, Eragon hiểu vì sao các Kỵ sĩ lại chọn định cư trên hòn đảo này.

Nó ngáp rồi nhìn sang Saphira, nhẹ nhàng chạm vào trí óc cô em. Cô nàng vẫn còn ngủ không mộng mị gì. Tâm trí cô nàng giống một ngọn lửa le lói trong than, dễ dàng bén lên nếu cần.

Nó không yên tâm – nó nhớ tới cái chết – vì vậy nó lùi lại và chỉ duy trì liên lạc như một đường chỉ mỏng: đủ để nó biết cô em nó an toàn.

Trong khu rừng đằng sau, một cặp sóc đang cãi nhau với những tiếng ré cao độ. Nó nhíu mày mà nghe; giọng chúng quá sắc, quá nhanh và quá líu lo. Như thể một sinh vật khác đang giả giọng chúng vậy.

Nó nghĩ mà sởn da gà.

Nó nằm đó thêm một tiếng nữa, lắng nghe những tiếng sóc kêu trong khu rừng và quan sát những tia nắng nhảy nhót trên những ngọn đồi, những cánh đồng, những ngọn núi bao quanh thung lũng lòng chảo.

Sau đó những đám mây tụ lại, trời tối dần và tuyết bắt đầu rơi xuống, phủ trắng đỉnh núi.

Eragon đứng dậy nói với Glaedr, Con sẽ đi tìm ít củi. Con sẽ về sau vài phút nữa.

Con rồng đồng ý và Eragon cẩn thận đi trên cánh đồng tới khu rừng, cố không đánh thức Saphira dậy. Khi vào rừng, nó rảo bước. Dù có rất nhiều cảnh củi khô ở bìa rừng nhưng nó muốn duỗi chân duỗi cẳng và tìm ra chỗ phát ra tiếng sóc, nếu có thể.

Bóng tôi phủ kín khu rừng. Không khí lạnh là yên tĩnh như một hang động sâu trong lòng đất. Khu rừng có mùi nấm mốc, gỗ mục và nhựa cây. Rêu và địa y bám trên những cảnh cây nhưng những mảnh vải vụn, dù đã sờn cũ nhưng vẫn mang vẻ đẹp tinh tế. Chúng chia cây thành nhiều phần làm cho Eragon khó lòng nhìn xa hơn 15m.

Eragon nghe theo tiếng suối để tìm đường đi trong rừng. GIờ khi đã tới gần nó thấy cây thường xanh nơi đây không hề giống trên rặng Spine hay Du Weldenvarden. Chúng là một cụm bảy nhánh thay vì ba nhánh. Dù trong ánh sáng mờ ảo đi nữa, Eragon vẫn cảm thấy như bóng tối đang treo trên cây như một tấm áo choàng phủ lên đó. Mọi thứ trên cái cây, từ những vết nứt trên vỏ cây đến rễ cây lồi lên hay quả cây – mọi thứ đều xương xẩu khác thường và cứng nhắc trông như thể sắp bật rễ và rơi đổ xuống thành phố bên dưới.

Eragon rùng mình và rút thanh Brisingr. Nó chưa bao giờ trong một khu rừng trong tình trạng bị đe dọa. Những cây như thể đang giận dữ và – cùng với những cây táo nó đã thấy ban nãy – chúng như muốn vươn ra xé xác nó vậy.

Nó đung mu bàn tay đẩy những cây địa y vàng để mở lối tiến lên trước.

Giờ nó vẫn chưa thấy có dấu hiệu của động vật, gấu hay sói. Nó bối rối. ở đây khá gần con suối. Đáng lý phải có vài bầy thú tới uống nước chứ.

Có thể lũ động vật tránh đoạn rừng này,nó nghĩ. Nhưng vì lý gì?

Một đoạn cây đổ chắn ngang đường. Nó bước qua, đôi giày nó lún tới tận mắt cả trong lớp rêu. Một giây sau, gedwëy ignasia trên tay nó bắt đầu ngứa ngáy. Nó nghe có tiếngskree-skree! skree-skra! Khi một tá những con sâu trắng mũm mĩm – mỗi con phải to bằng ngón tay cái – chui ra khỏi đám rêu và bắt đầu nhảy xa khỏi nó.

Một bản năng vốn có trỗi lên. Nó dừng lại như khi gặp rắn. Nó không chớp mắt. Nó thậm chí chẳng thèm thở khi quan sát những con giòi béo múp míp ghê tởm chạy đi chỗ khác. Cùng lúc đó, nó nhớ ra hồi ở Ellesméra có nghe về chúng nhưng nó không nhớ chính xác chúng là giống gì.

Glaedr! CHúng là gì vậy? Nó cho con rồng nhìn những con giòi. Tên chúng bằng ngôn ngữ cổ là gì?

Eragon thất vọng khi nghe Glaedr nói,Ta không biết. Ta chưa từng thấy hoặc chưa bao giờ nghe kể tới ấy chứ. Chúng mới có ở Vroengard và Alagaësia. Đừng để nó chạm vào con; chúng có thể nguy hiểm hơn vẻ bề ngoài.

Khi chúng ta tránh xa Eragon một đoạn, những con bọ không tên nhảy cao hơn trước và với tiếng skree-skro! Chúng chui vào đám rêu. Khi rưi xuống, chúng chia ra thành những con rết xanh, nhanh chóng biến mất trong mặt rêu rối.

TỚi lúc đó Eragon mới dám thở.

Sao có thể thế, Glaedr nói. Ông có vẻ đang lo lắng.

Eragon từ từ nhấc giày lên và trở lại sau gốc cây. Nó kiểm tra đám rêu kỹ lưỡng hơn. Lần này nó đã nhận ra thứ nó tương là một cảnh cây mục thò lên khỏi đám rêu thực ra là những cái xương và gạc nai gẫy – hay là phần còn lại của một vài con hươu.

Đắn đo một lúc, Eragon quay lại bước tiếp và lần này tránh những đám rêu bên đường, dù việc này chẳng dễ tẹo nào.

Tìm ra tiếng sóc kêu trong rừng không đáng cho nó liều mạng – đặc biệt nó nghi ngờ rằng ẩn nấp dưới tán cây kia còn có những thứ nguy hiểm hơn giòi. Tay nó vẫn ngứa ngáy. Theo kinh nghiệm, nó biết vẫn còn có cái gì đó nguy hiểm gần đây.

Khi nó nhìn thấy cánh đồng và màu xanh lơ của vảy Saphira giữa những bụi cây thường xuân, nó quay lại và bước tới dòng suối. Rêu bám trên bờ suối, thế là nó bước từ những gốc cây lên những tảng đá cho tới khi nó đứng trên một tảng đá phẳng ở giữa dòng nước.

Nó ngồi xổm, tháo găng tay, rửa tay, mặt mũi và cổ. Nước lạnh làm nó khỏe người, trong giây phút, toàn bộ cơ thể nó ấm trở lại.

Một tiếng chít chít vang lên trên dòng suối khi nó gạt những giọt nước ra khỏi cổ.

Cố cử động ít nhất có thể, nó nhìn lên ngọn cây bên bờ kia.

Trên khoảng 9m, có bốn bóng đen ngồi trên nhánh cây. Từ cái đầu đen hình ô van là những sợi lông tỏa ra mọi hướng. Hai con mắt thù hằn với đường kẻ dọc tỏa sáng giữa hình ô van và sự trống rỗng trong ánh nhìn của chúng khiến Eragon khó biết chúng đang nhìn gì. Bối rối nhất là, như mọi bóng đen, những bóng đen này không tài nào nhìn thấu. Khi đôi mắt quay đi, chúng biến mất.

Eragon không rời mắt, vươn tay nắm lấy thanh Brisingr.

Bóng đen bên trái gãi long rồi kêu ré lên tiếng kêu mà lúc trước nó tưởng là tiếng sóc. Hai bóng ma kia làm tương tự, và trong khu rừng vọng lên tiếng hét.

Eragon định thử chạm vào trí óc chúng, nhưng nhớ tới Fanghur trên đường tới Ellesméra nên nó thôi ngay ý tưởng nó.

Nó trầm giọng nói, “Eka aí fricai un Shur’tugal.” Ta là Kỵ sĩ và là bạn.

BÓng đen dường như đang nhìn thẳng vào nó. Trong một lúc, chúng im lặng, chỉ còn lại tiếng rì rầm của dòng suối. Sau đó chúng bắt đầu chít chít tiếp, mắt chúng sáng hơn cho tới khi giống như những mẩu sắt nóng trắng.

Sau khoảng vài phút, những bóng đen không hề tấn công nó nhưng cũng không định rời đi. Thế là Eragon đứng dậy và cẩn thận bước lùi một bước.

Dường như cử động đó đã đánh động những bóng ra; chúng đồng loạt kêu ré lên. Sau đó chúng rung người và ở chỗ chúng xuất hiện bốn con cú lớn. Chúng mở cái mỏ vàng ra và kêu với nó như tiếng sóc. Sau đó chúng cất cánh im lặng bay vào lùm cây và nhanh chóng biến mất trong đó.

“Barzûl,” Eragon nói. Nó nhảy ngược lại đường cũ và nhanh chóng về cánh đồng. Nó chỉ dừng lại để ôm bó củi khô về.

Ngay khi tới chỗ Saphira, nó đặt củi khô xuống, quỳ một chân, tạo lưới phép nhiều nhất có thể. Glaedr cho nó biết một câu thần chú, rồi nói. Hồi ta và oromis còn ở đây thì không có những sinh vật này. Chúng không bình thường. Phép thuật đã làm mảnh đất và những sinh vật sống trên đó biến đổi. Giờ đây trở thành nơi ma quỷ.

Những sinh vật gì? Saphira hỏi. Cô nàng mở mắt và ngáp. Eragon chia sẻ ký ức và cô nàng cất tiếng. Đáng nhẽ anh phải cho em theo. Em có thể chén lũ giòi và những con chim bóng đó. Anh sẽ chẳng việc gì phải sợ chúng.

Saphira!

Cô nàng đảo mắt. Em đói. Dù là có phép thuật không, em cũng được ăn những sinh vật kỳ dị kia chứ?

Nhưng chúng có thể ăn con, Saphira Bjartskular, Glaedr nói. Con biết quy tắc săn mồi đầu tiên là: không săn những con mồi cho tới khi con biết chắc nó là con mồi. Bằng không, con sẽ thành mồi ngon cho kẻ khác.

“Anh không thấy một con nai nào hết,” Eragon nói. “Anh nghi ở đây cũng chẳng có nhiều nai hoẵng đâu. Hơn nữa, trời đã tối. Mà kể cả chưa tối, con cũng không dám chắc chắn đây là địa điểm săn bắn an toàn.”

Cô nàng gầm nhẹ. Tốt thôi. Vậy em nên ngủ tiếp. Nhưng sáng mai, em phải đi săn dù nguy hiểm thế nào. BỤng em rỗng không và em phải ăn trước khi bay qua biển lần nữa.

Saphira nói là làm. Cô nàng nhắm mắt ngủ tiếp.

Eragon đốt một đống lửa nhỏ, sau đó ăn một bữa tối xoàng xĩnh rồi quan sát thung lũng chìm vào bóng tối. Nó và Glaedr nói về kế hoạch cho ngày mai. Glaedr nói cho nó nghe nhiều hơn về hòn đảo, từ thời trước khi các thần tiên tới Alagaësia, khi Vroengard là nơi ở chỉ của riêng loài rồng.

Trước khi ánh sáng cuối cùng của ngày biến mất khỏi bầu trời, ông rồng già nói, Con có muốn thấy Vroengard như hồi ở Kỷ nguyên của các Kỵ sĩ?

Con muốn, Eragon nói.

Vậy nhìn đi, Glaedr nói và Eragon cảm nhận ông rồng chiếm giữ trí óc nó và chuyển vào đó những hình ảnh và cảm quan. Tầm nhìn của Eragon thay đổi, từ đỉnh nó nhìn thấy hình ảnh song sinh ma mị của thung lũng. Ký ức về thung lũng trong bóng chiều chạng vạng như lúc nay. Nhưng trên trời không có lấy một đám mây và hàng ngàn ngôi sao đang chiếu sáng lấp lảnh trên vòng tròn núi lửa Aras Thelduin. Những cái cây vào thời đó dường như cao hơn, thẳng hơn, ít nguy hiểm hơn. Trong thung lũng, nhưng tòa nhà của Kỵ sĩ còn nguyên vẹn, tỏa sáng như đèn báo hiệu trong hoàng hôn với ánh sáng phát ra từ ngọn đèn không dùng nến của thần tiên. Trường xuân và rêu không phủ những phiến đá màu hoàng thổ nhiều như bây giờ. Những đại sảnh và tòa tháp dường như trông sang trọng theo cái cách khác với đống đổ nát ngày nay. Dọc theo những con đường đá cuội và cao trên đó, Eragon thấy rất nhiều bóng rồng tỏa sáng: những kẻ khổng lồ duyên dáng giấu trong hang động số kho báu của một ngàn nhà vua.

Hình ảnh cuối cùng kéo dài lâu hơn; rồi Glaedr thả trí óc của Eragon ra, thung lũng lại trở về vẻ vốn có.

Đẹp quá, Eragon nói.

Ừ, nhưng giờ nó đã không còn.

Eragon tiếp tục ngắm thung lũng, so sánh với thung lũng của thời xa xưa. Nó nhíu mày khi nhìn thấy ánh sáng – nó nghĩ là ánh đèn – trong thành phố bỏ hoang. Nó thì thầm câu thần chú tăng thị lực. Nó thấy những bóng người đội mũi mặc áo choàng đen trong đống đổ nát. Họ trông trang nghiêm thoát tục. Dường như họ đang thực hiện một nghi lễ gì đó.

Ai vậy? Nó hỏi Glaedr. Có cảm thấy như nó nhìn thấy cái gì đó không cho kẻ khác nhìn.

Ta không biết. Có lẽ là hậu duệ của những người đã chạy trốn khỏi trận chiến. Có thể họ là những con người đã tới đây định cư sau Ngày tàn của các Kỵ sĩ. Hoặc cũng có thể họ là những người thờ rồng là Kỵ sĩ như thánh thần?

Sao có thể?

Có thể. Chúng ta không cho phép, nhưng tại nhiều vùng của Alagaësia.…Ta nghĩ may mà con đã đặt lá chắn.

Eragon quan sát những người đội mũ đi trong thành phố trong khoảng một tiếng. Cho tới khi họ khuất dạng, ánh đèn biến mất dần. Eragon không còn nhìn thấy họ nữa, dù nó được pháp thuật giúp sức.

Sau đó Eragon dùng đất dập lửa và chui vào chăn nằm ngủ.

Eragon! Saphira! Dậy!

Eragon mở choàng mắt. Nó ngồi dậy nắm lấy thanh Brisingr.

Trời tối, trừ ánh sáng đỏ phát ra từ đống than bên phải và bầu trời sao phía đông. Dù ánh sáng mờ nhạt nhưng Eragon vẫn thấy hình dáng khu rừng và cánh đồng... và con sên khổng lồ dị hơm đang trườn trên cỏ.

Eragon bật dậy lùi về sau. Con ốc sen – vỏ cao mét rưỡi – đang lừng chừng, rồi trườn nhanh về phía nó với tốc độ người chạy. Tiếng rít như tiếng rắn phát ra từ cái mồm đen sì và đôi mắt đó to bằng nắm tay Eragon.

Eragon nhận ra nó không đủ thời gian đứng dậy. Đằng sau nó không đủ không gian mà rút thanh Brisingr. Nó chuẩn bị đọc thần chú nhưng trước khi đó, Đầu Saphira phóng về phía nó như một mũi tên. Cô nàng dùng hàm gặm con ốc sên. Vỏ ốc vỡ ra và sinh vật ré lên chói lói.

Saphira vặn cổ ném con ốc vào không khí, há rộng hàm đợi nuốt trọn sinh vật như chim sáo ăn giun đất vậy.

Eragon nhìn xuống. Nó thấy có bốn con ốc sên khổng lồ khác đang tiến tới. Một trong số chúng chui vào vorl nhưng con khác nhanh chóng chuồn mất.

“Đằng này!” Eragon hét.

SAPhira phóng tới. Toàn bộ cơ thể cô nàng rời mặt đất một chốc. Sau đó, cô nàng gặm ba con. Cô nàng không ăn con chui trong vỏ còn lại nhưng cô nàng dùng ngọn lửa vàng xanh đốt cháy 30 mét xung quanh.

Cô nàng duy trì ngọn lửa trong một hai giây. Sau đó cô nàng dùng hàm nhặt con ốc sên đang bốc khỏi lên – nhẹ nhàng như mèo mẹ cắp mèo con – mang tới đặt trước mặt Eragon. Nó nhìn con vật với vẻ khó tin nhưng có vẻ con vật thực sự chết rồi.

Giờ anh có bữa sáng rồi đó, Saphira nói.

Nó nhìn cô em chằm chằm, rồi bắt đầu cười – nó cứ cười tới khi gập người lại, đặt tay lên đầu gối thở phì phò.

Sao nào? Cô nàng hỏi và ngửi cái vỏ cháy đen.

Đúng, sao con cười thế Eragon? Glaedr hỏi.

Nó lắc đầu và tiếp tục cười. Cuối cùng nó nói “Vì...” Sau đó nó chuyển sang nói bằng tư tưởng để Glaedr cũng nghe được. Vì ....ốc sên và trứng! Sau đó nó lại khúc khích cười ngu ngốc. Vì, ốc sên nướng!...Đói không? Ăn thịt nướng đi! Thấy mệt không? Hăn mắt đi! Ai cần uống rượu khi ta có nhớt chứ?! Con có thể cho thịt nướng vào một cái cốc, như một bó hoa và chúng sẽ... Nó cười sặc sụa đến mức không thể cười nổi nữa. Nó quỳ một chân xuống trong khi hít thở, nước mắt tràn ra.

SAphira mở hàm nhe một nụ cười đầy răng sau đó lục cục gì đó trong cổ. Thi thoảng anh quái quái thế nào ấy, Eragon. Nó cảm thấy sự vui vẻ của nó ảnh hưởng tới cô em. Cô nàng ngửi cái vỏ lần nữa. Có chút bia uống cũng hay.

“Ít nhất là em đã có cái bỏ bụng,” nó nói bằng cả tư tưởng lẫn miệng.

Chưa đủ no để quay về Varden.

Khi dứt cười, Eragon dùng mũi giày đá con ốc sên. Đã rất lâu kể từ ngày loài rồng sống trên Vroengard. Có thể chúng không nhận ra em là ai và nghĩ anh dễ xơi...Nếu chết vì ốc sên ăn thì quả là cái chết lãng xẹt.

Nhưng đáng nhớ, Saphira nói.

Nhưng đáng nhớ, nó đồng tình, cảm nhận sự vui vẻ đang quay lại với nó.

Và ta đã nói với con gì về nguyên tắc đi săn đầu tiên, con gái? Glaedr hỏi.

Cả Eragon và Saphira đều trả lời. Đừng chén mồi trước khi con biết chắc chúng là con mồi.

Rất tốt, Glaedr nói.

Sau đó Eragon nói, Những con giòi nhảy, chim bóng ma, giờ là những con sên khổng lồ....Làm sao những câu thần chú trong trận chiến lại tạo ra chúng được?

Những Kỵ sĩ, những con rồng, và Thập tam Phản đồ đã phát tán một lượng năng lượng khổng lồ khi giao đấu. Rất nhiều năng lượng không gắn kết trong những câu thần chú. Những người còn sống đã kể lại rằng, trong một khoảng thời gian, thế giới trở nên điên loạn. Con người không thể tin vào những điều mắt thấy tai nghe. Một trong số năng lượng đó chắc chắn đã truyền vào tổ tiên loài giòi và những con chim con thấy ngày hôm nay. Nhưng con đã nhầm về những con ốc sên. Snalglí vẫn luôn sống ở Vroengard. Chúng là thức ăn ưa thích của loài rồng chúng ta. Và ta chắc vì lý do gì thì con biết.

Cô nàng rên rừ rừ và liếm mép.

Nhưng không chỉ thịt chúng mềm và thơm ngon, mà vỏ ốc cũng rất tốt cho tiêu hóa.

Nếu chúng chỉ là những động vật bình thường, vậy sao lưới phòng vệ của con không chặn chúng lại? Eragon hỏi. Ít nhất con phải biết nguy hiểm đang cận kề chứ.

Glaedr trả lời, Cái này có thể là kết quả của trận chiến. Pháp thuật không tạo ra snalglí nhưng không có nghĩa chúng không bị ảnh hưởng bởi lực tác động lên toàn bộ nơi này. Chúng ta không nên lảng vản lâu tại đây. Tốt nhất chúng ta nên đi trước khi có cái gì quyết định nếm thịt chúng ta.

VỚi sự giúp đỡ của Saphira, Eragon đập vỡ vỏ ốc và dưới ánh sáng của đèn ma, nó dọn sạch phần ruột bên trong. NHớt con sên ngập tới tận khuỷu tay nó. Sau đó Eragon và Saphira chôn đống thịt gần đống than.

Sau cùng, Saphira trở về bãi cỏ quen thuộc, cuộn người lại và ngủ. Lần này Eragon tới gần cô nàng. Nó mang chăn và túi đựng trái tim của Glaedr. Nó chui dưới cánh cô em và nằng dựa vào chỗ ấm áp giữa cổ và thân mình cô nàng. Nó giành hết buổi đêm để suy nghĩ và mơ mộng.

Ngày tiếp theo trời ảm đạm và xám xịt y như hôm trước. Ánh sáng xuyên qua tuyết phủ xuống sườn núi và chân núi. Không khí lạnh lẽo khiến Eragon phải tin rằng cuối ngay sẽ có tuyết rơi.

Saphira mệt nên không thức giấc tới khi mặt trời ngang đỉnh núi. Eragon mất bình tĩnh nhưng vẫn để cô nàng ngủ. Cô nàng hồi phục sức lực sau chuyến bay tới Vroengard còn quan trong hơn việc bắt đầu tìm kiếm.

Một khi thức dậy. Saphira giúp Eragon đào ruột ốc sên lên nấu bữa sáng cỡ bự...nó không biết gọi món này là gì: ốc sên hun khói ư? Dù tên gì thì thịt ốc sên cũng thực ngon và nó ăn nhiều hơn thường lệ. Saphira chén hết phần còn thừa. Chúng đợi thêm một giờ vì thật không khôn ngoan chút nào khi tham chiến với cái bụng đầy thức ăn.

Sau cùng, Eragon gấp chăn và đặt yên lên lưng Saphira. Cùng với Glaedr họ cũng nhau tới Tảng đá Kuthian.

__________________

TẢNG ĐÁ KUTHIAN

Con đường dưới tán cây táo dường như ngắn hơn ngày hôm trước. Những cái cây xương xẩu dường như to lớn hơn bao giờ hết. Eragon nắm chặt chuôi Brisingr trong suốt cuộc hành trình.

Nó và Saphira cũng dừng lại trướng một trảng trống trước Tảng đá Kuthian. Đàn quạ đậu trên tảng đá. Khi nhìn thấy Saphira chúng tung cánh bay lên trời – Eragon thấy đó là một điềm gở.

Trong suốt nửa tiếng, Eragon đứng đọc hết thần chú này tới thần chú khác để tránh phép thuật lại tổn hại tới nó, Saphira hay Glaedr. Trong khắp bãi trống, trên Tảng đá Kuthian – và toàn bộ hòn đảo – là hàng tá các câu bùa phép. Một trong số đó ếm sâu trong lòng đất với sức mạnh như một con sông lớn chảy dưới chân nó. Số khác nhỏ hơn chỉ đủ khả năng tác động lên một bông hoa hay cành cây. Một nửa trong số các bùa phép không hoạt động – vì không đủ năng lượng hoặc không có đích tác động tới hay đang đợi một điều kiện cụ thể. Một số lượng lớn các câu thần chú khắc chế lẫn nhau, như thể các Kỵ sĩ, hoặc bất kỳ ai đọc chúng ra, đã làm thay đổi câu thần chú ban đầu.

Eragon không thể biết hầu hết các câu thần chú để làm gì. Nó không biết về những từ ngữ mà chỉ biết tới dạng năng lượng mà các pháp sư đã qua đời từ đâu cẩn thận tạo ra. Những cấu trúc đó quá khó, nếu không muốn nói là không thể dịch ra nổi. Glaedr có giúp, vì ông ấy quay thuộc với những câu thần chú lâu đời và phức tạp hơn từ hồi còn ở Vroengard. Nhưng còn lại Eragon phải đoán. May mà dù nó không phải lúc nào cũng biết chủ đích câu thần chú nhưng nó biết câu thần chú đó có ảnh hưởng tới nó, Saphira hay Glaedr hay không. Đó là một quá trình phức tạp đòi hỏi câu thần chú phức tạp. Eragon mất cả tiếng nữa mới kiểm tra được toàn bộ.

Cái khiến nó – và cả Glaedr – lo lắng nhất là những câu thần chú họ không tài nào nhận diện. Khám phá các câu thần chú càng ngày càng khó nếu những người niệm thần chú thực sự muốn giấu.

Cuối cùng, khi Eragon tự tin không có bẫy nào xung quanh họ hay quanh Tảng đá Kuthian, nó và Saphira bước lên trảng đất trống tới chân ngọn tháp phủ đầy địa y.

Eragon ngửa cổ nhìn lên đỉnh. Quá là xa. Nó không thấy tảng đá hay Saphira có gì bất thường.

Chúng ta hãy xưng tên cho xong đi, cô nàng nói.

Eragon hỏi Glaedr và ông rồng đáp, Con bé nói đúng. Chúng ta chẳng việc gì phải chần chừ. Hãy nói tên mình, ta và Saphira cũng làm tương tự.

Eragon căng thẳng nắm chặt tay hai lần sau đó cầm khiên và thanh Brisingr.

“tên tôi,” nó nói lớn, rành mạch, “là Eragon Khắc tinh của tà thần, con trai của Brom.”

Tên tôi là Saphira Bjartskular, con gái của Vervada.

Còn tên tôi là Glaedr Eldunarí, con trai Nithring đuôi dài.

Họ chờ đợi.

Ở đằng xam bầy quạ kêu như trêu ngươi họ. Eragon không thoải mái nhưng nó không để ý. Nó không mong cánh cửa sẽ dễ dàng mở ra.

Thử lại xem, nhưng lần này nói bằng ngôn ngữ cổ, Glaedr khuyên.

Thế là Eragon nói, “Nam iet er Eragon Sundavar-Vergandí, sönr abr Brom.”

Và Saphira cũng như Glaedr nhắc lại tên và nguồn gốc bằng ngôn ngữ cổ.

Không có gì xảy ra.

Eragon càng lúc càng bất an. Nếu chuyến hành trình này vô ích... không, nó không dám nghĩ. Chưa dám nghĩ. Có thể chúng ta phải nói lớn tên lên, nó nói.

Bằng cách nào? Saphira hỏi. Chẳng nhẽ em phải hét vào tảng đá à? Còn sư phụ Glaedr thì sao?

Anh có thể nói tên hộ em, Eragon nói.

Hình như không đúng như những gì nó muốn, nhưng chúng ta cứ thử xem, Glaedr nói.

Bằng ngôn ngữ này hay ngôn ngữ cổ.

Bằng ngôn ngữ cổ. Nhưng thôi, thử cả hai cho chắc.

Hai lần Eragon đọc tên nhưng tảng đá vẫn không thay đổi. Cuối cùng, nó thất vọng nói, Có lẽ chúng ta tới sai nơi; có thể cổng vào Hầm Mộ những Linh Hồn ở bên kia tảng đá. Có thể ở trên nóc lắm.

Nếu thế, vì sao trong Domia Abr Wyrda không nhắc tới hướng? Glaedr hỏi.

Eragon hạ khiên xuống. Có bao giờ có câu đố nào dễ giải đâu?

Hay là chỉ anh cần xưng tên thôi? Saphira nói với Eragon. Không phải Solembum nói là, ...”khi ngươi sức cùng lực kiệt, hãy tới tảng đá Kuthian và xưng tên để mở cánh cửa vào Hầm mộ của Những Linh Hồn.” Tên của anh, chứ không phải của em hay sư phụ Glaedr.

Eragon nhíu mày. Có thể. Nhưng nếu chỉ cần tên anh thì có lẽ anh nên nói khi chỉ có một mình.

Với một tiếng gầm, Saphira bay lên, làm dựng đứng tóc Eragon và thổi bạt cây cỏ. Thử đi, và nhanh lên đấy nhé! Cô nàng nói khi bay về phía đông, tránh xa tảng đá.

Khi Saphira cách ¼ dặm, Eragon nhìn lên bề mặt đá và một lần nữa nâng khiên, một lần nữa xưng tên, bằng cả hai ngôn ngữ, loài người và thần tiên.

Không có cánh cửa hay lối đi nào lộ ra. Không có một vết nứt nào trên mặt đá. Không một dấu hiệu nào. Tòa tháp đá vẫn chỉ là một tảng đá hoa cương, không hở ra một bí mật nào/

Saphira! Eragon hét gọi bằng tư tưởng. Sau đó nó chửi thề và bước tới bước lui, đá bay những viên đá và cành cây trên đất.

Nó quay lại chân tảng đá khi Saphira đáp xuống bãi đất trống. Móng vuốt đâm sâu vào đất. Lá cây và lá cỏ cuốn quanh cô nàng như trong cơn cuồng phong.

Khi đã cô nàng đáp xuống trên bốn chân và gập cánh, Glaedr nói, Ta đoán là con không thành công?

Không, Eragon cục cằn đáp và nhìn chằm chằm lên ngọn tháp đá.

HÌnh như ông rồng già thở dài. Ta sợ chỉ có một khả năng...

Là Solembum nói dối chúng ta? Rằng cậu ta cho chúng ta đi chơi để Galbatorix có thể hủy diệt Varden?

Không. Rằng để mở cái...cái...

Hầm mộ của Những Linh Hồn, SAPhira nói.

Đúng, cái hầm mộ mà hắn nói với các con – để mở nó, chúng ta phải dùng tên thật ấy.

Những từ đó rơi vào họ như một tảng đá nặng trịch. Họ không nói gì. Ý nghĩ đó khiến Eragon sợ. Nó không dám vì sợ làm tình huống tệ hơn.

Nhưng nếu đây là một cái bẫy....Saphira nói.

Vậy thì đây là cái bẫy nguy hiểm nhất, Glaedr nói. Các con cần quyết định rằng: các con có tin Solembum không? Việc này không chỉ đe dọa mạng sống chúng ta mà còn cả sự tự do của chúng ta. Nếu các con tin hắn, liệu các con có thể thành thực với bản thân để tìm ra tên thật nhanh chóng không? Nhưng các con có dám sống cả đời với cái đó dù cho nó chẳng lấy gì làm thoải mái? Vì nếu không, giờ chúng ta phải bỏ đi ngay. Ta đã thay đổi từ khi Oromis chết, nhưng ta biết ta là ai. Nhưng con có biết con là ai không, Saphira? Còn con nữa, Eragon? Con có thể nói thật cho ta biết cái gì bên trong con rồng và Kỵ sĩ này không?

Eragon chán nản nhìn Tảng đá Kuthian.

Mình là ai? Nó tự hỏi.

CẢ THẾ GIỚI CHỈ LÀ GIẤC MƠ

Nasuada cười khi bầu trời đầy sao xoay xung quanh cô và cô rơi vào một ánh sáng trắng dưới đó cả dặm.

Gió lùa vào tóc cô, váy cô bay phần phật, những sợi sơ trên ống tay áo đung đưa như những sợi dây. Những con dơi đen to tướng bay tới, dùng răng tấn công vào những vết thương của cô.

Cô vẫn cười.

Ánh sáng chói lòa làm cô mù mắt trong một phút. Khi đã nhìn rõ, cô thấy mình đang đứng trong Căn phòng của Nhà tiên tri, nhìn thấy chính mình trói trên chiếc bàn đá màu khói. Cảnh thân xác cô là Galbatorix: cao, vai rộng, bóng tối che khuất khuôn mặt và vương miện đỏ như lửa trên đầu.

Hắn quay lại chỗ cô đứng và xòe bàn tay đeo găng. “Tới đây, Nasuada, con gái của Ajihad. Hãy bỏ qua lòng tự trọng và hãy thề trung thành với ta. Ta sẽ cho cô mọi thứ cô muốn.”

Cô phát ra tiếng kêu chế nhạo và dùng tay nhắm về phía lão. Trước khi cô kịp xé toang cổ họng hắn, nhà vua biến mất trong màn sương mù đen.

“Cái ta muốn là mi chết đi!” cô hét vào xà lim.

Căn phòng vang lên tiếng Galbatorix từ mọi hướng: “Vậy cô hãy ở đây tới khi nhận ra lỗi lầm.”

* * *

Nasuada mở mắt. Cô vẫn trên bàn đá, cổ tay và cô chân bị trói, những vết thương do con giòi đục xới nhói đau không ngừng.

Cô nhíu mày. Cô vừa bất tỉnh hay vừa nói chuyện với nhà vua? Cô không biết khi...

Ở góc phòng, cô thấy một dây leo dày màu xanh mọc trên những phiến đá vẽ hình, làm chúng nứt ra. Nhiều sợi dây leo xuất hiện cạnh sợi thứ nhât hơn; chúng bò khắp bức tường, trên sàn nhà như những con rắn đang bò vậy.

Nasuada cười khi quan sát chúng bò tới gần. Đây là tất cả những thứ lão có thể nghĩ ra? Mình mơ mấy thứ kỳ lạ thế này mỗi đêm.

Như để trả lời cô, bàn đá tan chảy, những sợi dây leo bò lên người cô, giữ chặt cô hơn cả những sợi xích. Những cành dây leo càng lúc càng dày đặc làm tầm nhìn của cô tối lại. Cô chỉ nghe thấy duy nhất âm thanh khi chúng bò lên nhau: khô khốc như tiếng cát chảy.

Không khí xung quanh cô ngột ngạt và nóng nực. Cô cảm thấy khó thở. Nếu cô không biết những sợi dây leo kia chỉ là ảo ảnh, cô sẽ sợ. Nhưng cô chỉ nhìn chăm chăm vào bóng tối, chửi rủa tên Galbatorix. Không phải một lần đầu. Và cô chắc không phải lần cuối cùng. Nhưng cô không thể để hắn mãn nguyện vì làm cô mất cân bằng.

Ánh sáng...Những tia nắng mặt trời vàng ruộm tưới lên những con đồi chen lẫn những cánh đồng và vườn nho. Cô đang đứng ở góc một cái sân nhỏ, dưới dàn lưới tắm những tia nắng ban mai. Những sợi dây leo gợi cho cô một sự quen thuộc không vui vẻ gì. Cô đang mặc chiếc váy màu vàng xinh đẹp. Tay phải cô cầm một cốc rượu pha lê và trên lưỡi cô có vị rượu anh đào. Một cơn gió nhẹ thổi tới từ phương tây. Không khí ấm áp, thoái mái, sảng khoái.

“À, nàng đây rồi,” có giọng nói phía sau cô. Cô quay lại t hấy Murtagh đang sải bước tới gần cô từ một dinh cơ rộng lớn. Giống như cô, hắn đang cầm một ly rượu. Hắn mặc quần bó chẽn đen và áo chẽn bằng xa tanh đỏ thẫm với những chiếc khuy vàng. Hắn đeo một con dao găm ở nạm đá quý ở thắt lung. Tóc hắn dài hơn cô nhớ. Hắn có vẻ thư thái và tự tin theo cách cô chưa từng thấy. Và ánh nắng chiếu trên mặt hắn làm cho hắn đẹp trai tới nghẹt thở - thậm chí còn thanh tao nữa.

Hắn cùng cô đứng dưới giàn lưới và đặt tay lên cánh tay trần của cô. Cử chỉ đó thật bình thường. “Cô gái tinh ranh, nàng dám bỏ ta lại với Lãnh chúa Ferros và câu chuyện dài dằng dặc của ông ấy. Tôi mất nửa tiếng mới thoát nổi đấy.” SAu đó hắn ngừng nói và nhìn cô gần hơn, trong ánh mắt có chút gì đó quan tâm. “Nàng ốm à? Da nàng xám quá.”

Cô mở miệng nhưng không nói gì. Cô không biết phải phản ứng thế nào.

Murtagh nhíu mày. “Nàng bị tấn công nữa sao?”

“Tôi…tôi không biết…Tôi không thể nhớ sao tôi lại ở đây, hay…” Cô không nói gì khi thấy nỗi đau trong mắt Murtagh. Hắn nhanh chóng giấu nó đi.

Hắn trượt tay lên lung cô khi đi ra sau lựng cô nhìn vào khung cảnh những ngọn đồi nhấp nhô. Sau đó, bằng giọng trầm trầm, hắn nói. “Tôi hiểu vì sao nàng bối rối…Đây không phải lần đầu tiên, nhưng…” Hắn hít một hơi thật sâu và nhẹ nhẹ lắc đầu. “Nàng nhớ cái gì nào? Teirm? Aberon? Cithrí? … hay món qua tôi tặng nàng vào một đêm ở Eoam?”

Cô càng lúc càng không hiểu. “Urû’baen,”, cô thì thào. “Căn phòng của Nhà tiên tri.Tôi chỉ còn nhớ thế.”

Ngay lập tức, cô cảm nhận được bàn tay run rẩy của hắn. Nhưng mặt hắn không biểu lộ gì.

“Urû’baen,” hắn khan giọng nhắc lại. Hắn nhìn cô. “Nasuada..đã tám năm kể từ khi chúng ta ở Urû’baen.”

Không, cô nghĩ. Không thể. Nhưng mọi thứ cô nhìn thấy, cảm thấy đều quá thật. Tóc Murtagh tung bay trong gió, mùi cánh đồng, chiếc váy chạm lên da cô – tất cả đều như thật. Nhưng nếu cô thực sự ở đó, vậy vì sao Murtagh không an ủi cô bằng cách chạm vào tư tưởng cô như hắn từng làm? Hay hắn đã quên? Nếu tám năm đã trôi qua, hắn có thể không nhớ lời hứa với cô ở Căn phòng của Nhà tiên tri.

“Tôi...” cô định nói rồi nghe thấy tiếng một người phụ nữ gọi:

“Tiểu thư ơi!”

Cô quay đầu nhìn một người hầu gái đẫy đà chạy tới từ căn nhà, tạp dề tung phấp phới. “Tiểu thư,” cô hầu gái nói và nhún gối chào. “Tôi xin lỗi vì làm phiền tiểu thư, nhưng những đứa trẻ mong tiểu thư cùng chúng chơi với những vị khách.”

“Con ư,” cô thì thầm. Cô nhìn Murtagh và thấy mắt hắn sáng lên vì những giọt nước mắt.

“Đúng,” hắn nói. “Con. Bốn đứa, tất cả đều khỏe mạnh và hiếu động.”

Cô rùng mình vì cảm xúc ùa tới. Cô không đừng được. Sau đó cô hơi nâng cằm. “Hãy cho tôi biết tôi quên những gì. Hay cho tôi biết vì sao tôi quên.”

Murtagh cười một nụ cười tự hào. “Tôi rất vui lòng,” hắn nói và hôn lên trán cô. Hắn cầm lấy cốc rượu của cô và đưa cả hai cho người hầu gái. Sau đó hắn nắm lấy tay cô, nhắm mắt lại, cúi đầu.

Ngay lập tức, cô cảm nhận sự hiện diện của hắn trong tư tưởng cô. Cô biết: không phải hắn. Không thể là hắn.

Cô lức giận vì bị lừa gạt và mất đi những thứ cô chưa thể nào có. Cô rút bàn tay phải khỏi tay Murtagh, nắm lấy con dao găm và đâm vào người hắn. Cô hét:

Ở El-harím, Ở El-harim có một người đàn ông mắt vàng

Ông ấy nói với tôi, “Hãy cẩn trọng với những lời nói thầm, vì chúng thì thầm những điều dối trá.

Murtagh nhìn cô với vẻ tò mò sau đó hắn biến mất. Mọi thứ xung quanh cô – hàng rào mắt cáo, sân, dinh thự, ngọn đồi với những vườn nho – biến mất. Cô thấy mình trôi trong không gian không màu sắc và âm thanh. Cô cố tiếp tục cầu nguyện nhưng cô không nói được. Cô không thể nghe nổi nhịp tim đập.

Sau đó cô cảm nhận bóng tối vặn xoắn, và...

Cô giật mình chống tay và đầu gối xuống. Những tảng đá sắc nhọn cào xước lòng bàn tay cô. Cô chớp mắt để điều chỉnh thích ứng với ánh sáng. Cô đứng lên nhìn xung quanh.

Sương mù. Những cuộn khói bay trên cánh đồng trơ trụi rất giống Cánh Đồng cháy.

Cô một lần nữa mặc bộ đồ tù rách nát. Chân trần.

Có cái gì đó đang gầm gào ở đằng sau cô. Cô quay người lại nhìn thấy một Kull cao hơn 3m đang chạy tới, cầm theo một cái chày sắt tô bằng người cô. Một tiếng gầm nữa phát ra từ bên trái. Kull thứ hai xuất hiện cùng bốn Urgal nhỏ hơn. Sau đó những bóng những kẻ gù mặc áo choàng xuất hiện trong màn xương. Chúng chạy tới chỗ cô, kêu gào và giơ những thanh kiếm mỏng như lá lúa. Dù cô chưa từng thấy chúng trước đó, nhưng cô biết chắc đó là Ra’zac.

Cô lại cười. Giờ Galbatorix định trừng trị cô.

Cô lờ tịt những kẻ thù đang tiến tới kia đi – cô biết cô không thể giết chết hay trốn thoát nổi – cô ngồi khoanh chân trên đất và bắt đầu ngâm nga một giai điệu của người lùn.

Nếu Murtagh không báo trước chắc chắn mục đích lừa gạt cô của Galbatorix đã thành công. Để giữ bí mật về sự giúp đỡ của Galbatorix, cô giả vờ ngu ngơ không biết Galbatorix đã tạo nên những không gian thực khác. Nhưng dù cô nhìn thấy hay cảm thấy cái gì, cô không thể để nhà vua khiến cô nghĩ tới những thứ không nên nghĩ tới và tệ hơn, thề trung thành với lão. Không phải lúc nào cũng dễ thoát khỏi sự khống chế của hắn. Nhưng cô vẫn duy trì cách nghĩ, cách nói. Nhờ đó, cô có thể phá ngang kế hoạch của nhà vua.

Ảo ảnh đầu tiên là một người phụ nữ khác, tên Rialla, đã tới Căn phòng của Nhà tiên tri. Cô ta là bạn tù với cô. Người phụ nữ nói cô ta bí mật kết hôn với một gián điệp của Varden ở Urû’baen. Cô ta bị bắt khi giúp anh này chuyển tin. Dường n hư một tuần sau, Rialla cố lấy lòng Nasuada, thuyết phục cô rằng kế hoạch của Varden đã tàn đời. Họ chẳng còn lý gì mà chiến đấu. Tốt nhất họ nên nghe theo Galbatorix.

Lúc đầu, Nasuada không biết Rialla là một ảo ảnh. Cô nghĩ Galbatorix đã làm méo mó từ ngữ hay nhân dạng người phụ nữ này. Hoặc giả lão can thiệp vào cảm xúc của chính cô để cô dễ bị lôi kéo vì những lời nói của Rialla.

Ngày qua ngày, Murtagh không tới thăm hay liên hệ với cô. Cô sợ rằng hắn đã bỏ mặc cô. Cô giận hơn cô muốn thừa nhận. Mỗi giây mỗi phút cô đều lo nghĩ tới nó.

Sau đó cô bắt đầu phân vân vì sao Galbatorix không tới tra tấn cô. Đột nhiên cô nghĩ, nếu thực sụ một tuần đã qua, vậy thì Varden và thần tiên đã tấn công Urû’baen rồi. Và nếuviệc này xảy ra, Galbatorix chắc chắn sẽ nhắc đến trong sự hả hê. Hơn nữa, cách xử xự của Rialla có chút không bình thường. Kết hợp với việc cô lúc nhớ lúc không, Galbatorix không tra tấn cô, Murtagh tiếp tục im lặng, – vì cô không tin hắn dám thất hứa với cô – cô biết Rialla chỉ là một bóng ma và thời gian trôi qua chưa tới một tuần.

Cô rùng mình khi nhận ra Galbatorix đã khiến cô nhầm tưởng về số ngày trôi qua. Cô bất đắc dĩ chấp nhận ý tưởng đó. Cảm giác thời gian của cô đã không còn sắc bén từ hồi bị giam cầm, nhưng cô vẫn còn ước chừng chung chung được. Nếu mất khái niệm về thời gian, cô sẽ càng phụ thuộc vào Galbatorix hơn.

Tới lúc này, cô vẫn kiên quyết chống lại sự cám dỗ của Galbatorix, dù bao lâu đã trôi qua. Nếu cô có thể chịu án một trăm năm, vậy thì cô sẽ chịu đựng trong cả trăm năm đó.

Khi cô miễn nhiễm với những lời thì thầm à ơi của Rialla – thực ra cô còn bảo người phụ nữ đó là kẻ hèn nhát và kẻ phản bội – cô ta bị giải đi. Galbatorix chơi sang trò khác.

Sau đó, trò lừa gạt của hắn càng công phu hơn. Không một cái nào vô lý hay đối nghịch với những cái hắn đã nói với cô. Nhà vua vẫn muốn cô không biết hắn đang can thiệp vào đời sống của cô.

Hắn lừa cô rằng đã đưa cô tới một ngục thất trong thành phố. Cô thấy Eragon và Saphira bị xích. Galbatorix đã dọa giết Eragon nếu cô không thề trung thành với lão. Cô từ chối, Galbatorix rất không vui – và cô nghĩ, cả ngạc nhiên nữa. Sau đó Eragon dùng một câu thần chú giúp cả ba đào tẩu. Rồi sau một màn dây dưa ngắn, Galbatorix chạy trốn– cô nghi ngờ trong đời thật còn lâu hắn mới làm – và cô, Eragon và Saphira bắt đầu mở đường máu ra khỏi thành phố.

Chuyến du hành vừa vội vã vừa phấn khích. Cô đã bị dụ dỗ xem kết quả sẽ đi tới đâu. Nhưng sau đó cô thấy chán chơi với Galbatorix. Thế là cô dựa vào sự khác biệt đầu tiên – hình dạng vảy xung quanh mắt Saphira – và dùng nó để buộc tội nhà vua tạo ra một thế giới giả.

“Ông thề không nói dối tôi trong khi tôi ở Căn phòng của Nhà tiên tri!” cô hét. “Nhưng đây là một sự dối trá, Kẻ bội ước kia?”

Galabtorix tức giận tột cùng. Cô đã nghe tiếng gầm như tiếng rồng. HẮn bỏ qua tất cả để hành hạ cô bằng những hình ảnh.

Cuối cùng, những ảo ảnh biến mất. Murtagh liên lạc cho cô biết cô có thể tin vào các giác quan rồi. Cô chưa bao giờ hạnh phúc hơn lúc đó.

Tối đó, hắn đến. Họ giành hàng giờ ngồi cạnh nhau nói chuyện. Hắn nói với cô về tiến độ hành quân của Varden – họ đã gần tới kinh thành – và về sự chuẩn bị của Triều đình. Hắn giải thích rằng hắn tin đã tìm ra cách giải thoát cho cô. Khi cô bắt hắn nói rõ, hắn không chịu mà chỉ nói, “Tôi cần thêm một hai ngày để xem có thành công không. Nhưng cócách, Nasuada. Tin tôi đi.”

Cô đã tin vào sự thành thật và sự quan tâm hắn dành cho cô. Kể cả nếu cô không thể thoát, cô cũng mừng vì mình không đơn độc.

Sau đó cô kể lại những gì Galbatorix làm, cách cô đánh bại hắn. Murtagh cười. “Cô là đối thủ đáng gờm hơn hắn tưởng. Đã rất lâu rồi hắn mới một đối thủ xứng tầm. Tôi chắc chắn...tôi hiểu có chút, nhưng tôi biết việc tạo ra những ảo ảnh như thật vô cùng khó. Bất cứ một pháp sư giỏi nào cũng có thể làm cho cô có cảm giác mình đang bay trên trời, lạnh hay nóng hoặc hoa nở trước mặt cô. Những thứ nhỏ bé phức tạp hoặc to lớn đơn giản là những thứ ai không phải ai cũng tạo ra được. Nó đòi hỏi người ta phải tập trung cao độ để duy trì ảo ảnh. Nếu cô mất tập trung, tất cả những bông hoa sẽ chỉ còn có bốn cánh thay vì mười cánh. Hoặc tất cả những bông hoa sẽ biến mất. Tạo ra những chi tiết là công đoạn khó nhất. Thiên nhiên có rất nhiều những chi tiết. Nhưng trí óc chúng ta chỉ có thể ghi nhớ một chút ít. Nếu cô không biết những gì mình đang nhìn thật là giả hay thật, cô hãy nhìn vào chi tiết của nó. Hãy nhìn những đường nối trong thế giới, nơi những pháp sư không biết hay quên rằng ở đó nên có gì, hoặc không tạo ra để đỡ tốn sức.”

“Nếu khó vậy thì sao Galbatorix làm được?”

“Lão dùng Eldunarí.”

“Tất cả?”

Murtagh gật đầu. “Họ cho hắn năng lượng và những chi tiết. Hắn điều khiển chúng theo ý hắn.”

“Vậy thì, những thứ tôi nhìn thấy dựa trên ký ức của những con rồng?” cô hỏi, có chút kính sợ.

Hắn lại gật. “Và ký ức của các Kỵ sĩ, vì chúng là những con rồng có Kỵ sĩ.”

SÁng hôm sau, Murtagh đánh thức cô dậy và nói với cô rằng Galbatorix sắp tiếp tục. Sau đó, những bóng ma và ảo ảnh thuộc mọi thể loại bao lấy cô. Nhưng một ngày trôi qua, cô để ý rằng tất cả các hình ảnh – ngoài một số cái rất đẹp, như trang viên của Murtagh và cô – đã trở nên càng lúc càng đơn giản. Hình như Galbatorix và các Eldunarí đã mệt.

Giờ cô ngồi trên cánh đồng trơ trụi, ngâm nga một giai điệu của người lùn trong khi các Kull, Urgal, Ra’zac lao về phía cô. Chúng bắt cô, đánh chém cô. Cô hét và ước cơn đau chấm dứt, nhưng cô không một lần nào muốn Galbatorix thỏa ước nguyện.

Rồi cánh đồng biến mất cùng những cơn đau. Cô nói với mình. Chỉ là tưởng tượng thôi. Mình sẽ không bỏ cuộc. Mình không phải con vật. Đầu có mình mạnh hơn xác thịt.

Hang động tối được thắp sáng bởi những cây nấm xanh xung quanh. Cô nghe thấy tiếng một sinh vật nào đó khụt khith và đi lại trong bóng tối giữa các măng đá trong vài phút. Rồi cô cảm nhận hơi thở ấm áp của nó trên gáy cô. Cô ngửi thấy mùi xác thối.

Cô lại cười. Cô tiếp tục cười khi Galbatorix bắt cô đối diện với hết kinh hoàng này tới kinh hoàng khác để làm cô vừa đau vừa sợ mà bỏ cuộc. Cô cười vì cô biết tư tưởng của cô mạnh hơn tưởng tượng của hắn. Cô cười vì cô biết cô có thể tin tưởng Murtagh sẽ giúp cô. Và với hắn là đồng minh, cô sẽ không sợ những cơn ác mộng Galbatorix mang tới. Dù chúng kinh khủng tới mức nào.

CÂU HỎI VỀ NHÂN CÁCH

Nó trượt chân vì dẫm phải bùn. Nó ngã xuống lớp cỏ ướt. Nó rên rỉ và nhăn mặt vì đau hông. Chắc chắn nó bị thâm rồi.

“Barzûl,” nó nói khi chống chân đứng dậy. Ít nhất mình không hạ cánh trúng Brisingr, nó nghĩ khi phủi bùn lạnh lẽo trên quần.

Nó ủ rũ bước tới tòa nhà đổ nát họ đã cắm trại vì họ tin tại đó sẽ an toàn hơn trong rừng.

Khi nó bước qua đám cỏ, nó giật mình khi thấy số lượng ếch bò đang nhảy đi trốn. Những con ếch bò chỉ là một trong những sinh vật lạ lùng khác chúng gặp trên đảo. Trên mắt chúng có vết lồi ra như sừng. Ở giữa trán chúng có một cái ống cong cong như cần câu. Cuối cái ống là một miếng da nhỏ sẽ phát ra ánh sáng trắng vàng vào đêm. Ánh sáng đó lừa hàng trăm những con bọ bay vào gầm tầm với của lưỡi ếch. Chúng kiếm mồi dễ nên to béo khác thường. Có vài con bằng cỡ đầu gấu, mồm và đôi mắt trố rộng bằng hai bàn tay có cộng lại.

Những con ếch làm Eragon nhớ tới Angela. Nó đột nhiên ước bà ở trên Vroengard cùng họ. Nếu ai có thể nói cho chúng ta biết tên thật, mình đoán sẽ là bà ấy. Vì lý do gì đó, Eragon luôn có cảm giác bà lang thấu hiểu nó, hiểu mọi thứ về nó. Nó không thích nhưng lúc này thì nó mong điều đó.

Nó và Solembum quyết định sẽ tin Solembum và ở lại Vroengard thêm ba ngày nữa để tìm ra tên thật. Glaedr đã cho chúng tự quyết định. Ông nói, Các con biết rõ Solembum hơn ta. Ở hay không tùy các con. Nhưng kiểu gì thì chúng ta cũng gặp nguy hiểm. Không có con đường mòn nào là an toàn cả.

Saphira là người đưa ra quyết định. Những ma mèo không bao giờ phục vụ, Galbatorix, cô nàng nói. Họ rất coi trọng tự do. Con tin họ hơn bất cứ sinh vật nào khác, kể cả thần tiên.

THế là họ ở lại.

HỌ dành phần còn lại của ngày hôm dó và hầu hết ngày hôm sau để ngồi, suy nghĩ, nói chuyện, chia sẻ ký ức, kiểm tra đầu óc kẻ khác và thử hàng tá cách kết hợp từ ngữ bằng ngôn ngữ cổ hòng tìm ra tên thật. Hoặc,nếu may mắn, họ sẽ tình cờ tìm ra nó.

Glaedr giúp nếu chúng hỏi. Nhưng phần lớn thời gian, ông im lặng và để Eragon và Saphira trò chuyện riêng tư. Eragon có nhiều điều nó xấu hổ không muốn người khác biết.Chỉ có người đó mới tìm ra tên thật của người đó, Glaedr nói. Nếu ta biết, ta sẽ nói – vì chúng ta không có thời gian mà lãng phí – nhưng tốt nhất là các con tự mình tìm lấy.

Nhưng chẳng ai thành công cả.

Kể từ khi ông Brom giải thích cho nó về tên thật của mình, Eragon đã muốn biết nó tên gì. Những kiến thức, đặc biệt là những kiến thức về bản thân, vô cùng hữu ích. Nó hy vọng tên thật của nó sẽ giúp nó làm chủ suy nghĩ và cảm xúc tốt hơn. Nhưng nó vẫn cảm thấy lo lắng vì cái nó có thể tìm ra.

Nó không chắc nó có thể biết tên mình chỉ trong nội mấy ngày sắp tới không. Nó hy vọng là mình làm được, vì nó muốn hoàn thành nhiệm vụ và không muốn Glaedr hay Saphira biết được. Nếu nó phải tìm ra một từ miêu tả chính xác con người nó, nó muốn tự mình biết, hay vì để người khác nói cho mình nghe.

Eragon thở dài khi trèo lên bốn bậc thang vỡ dẫn vào tòa nhà. Kiến trúc này từng theo kiểu nhà tổ chim. Hay theo như Glaedr nói, theo chuẩn mực của Vroengard, tỏa nhà này quá bé nhỏ. Dù vậy nhưng những bức tường vẫn cao hơn tòa nhà ba tầng, không gian bên trong đủ cho Saphira ra vào dễ dàng. Góc nhà phía đông nam đã sụp cùng một phần mái nhà, nhưng phần còn lại vẫn ngon lành.

Tiếng bước chân của Eragon vang vọng khi bước qua sàn nhà mọc cỏ vào căn phòng chính.

Saphira dừng liếm chân trước. Nó cảm thấy cô nàng có gì muốn hỏi nó. Nó lắc đầu, và cô nàng tiếp tục chải chuốt.

Eragon bỏ áo choàng, bước đến bên cạnh đống lửa gần tường. Nó trải tấm vải ướt trên sàn sau đó bỏ đôi giày dính bùn ra và để chúng gần đống lửa cho nhanh khô.

Có phải trời lại sắp mưa không? Saphira hỏi.

Có thể.

Nó ngồi xổm gần đống lửa một lức rồi ngồi lên túi ngủ và dựa vào tường. Nó quan sát Saphira dùng cái lưỡi đỏ ngầu liếm móng chân. Nó đột nhiên nghĩ ra là lẩm bẩm một cụm từ bằng ngôn ngữ cổ, nhưng chẳng cảm nhận được gì từ từ ngữ đó. Saphira cũng không có phản ứng như khi lão Sloan nghe ra Eragon nói tên thật của lão.

Eragon nhắm mắt ngửa đầu ra sau.

Nó chán nản vì tự mình không tìm ra tên thật của Saphira. Nó có thể chấp nhận rằng mình không hoàn toàn hiểu bản thân. Nhưng nó biết Saphira từ giây phút cô em nó chui khỏi vỏ trứng. Nó biết hầu hết những gì cô nàng biết. Làm sao có chuyện cô nàng có gì giấu nó được? Sao nó có thể hiểu một kẻ giết người như lão Sloan hơn là người bạn đồng hành được phép thuật – ràng buộc? Có phải vì cô nàng là rồng còn nó là người? Có phải vì Sloan đơn giản hơn Saphira?

Eragon không biết nữa.

Một trong những bài tập mà nó và Glaedr làm – theo gợi ý của sư phụ Glaedr - là nói cho nhau biết từ chi tiết họ để ý tới: về người bạn đồng hành. Một bài tập bình thường. Glaedr cũng đưa ra những nhận xét. Dù ông rồng chỉ tốt bụng muốn giúp nhưng Eragon vẫn không thể không cảm thấy tổn thương lòng tự trọng khi nghe Glaedr kể ra một loạt những khuyết điểm. Bản thân Eragon cũng biết nó cần phải biết để tìm ra tên thật.

Đối với Saphira, điều khó nhất là nhận ra tính tự phụ của mình. Cô nàng luôn phủ nhận điều này. Đối với Eragon, đó là sự ngờ nghệch, cảm giác quan tâm đối với người nó đã ra tay giết hại, và tất cả những tính nóng giận, ích kỷ và những tật xấu khác trong con người nó.

Nhưng, dù họ đã thành thật với bản thân hết sức có thể, họ vẫn không khám phá ra điều gì.

Chúng ta chỉ còn hôm nay và ngày mai. Ý nghĩ tay trắng quay về với Varden làm nó buồn. Làm sao chúng ta đánh bại được Galbatorix đây? Nó tự hỏi rất nhiều lần. Chỉ vài ngày nữa là mạng sống chúng ta sẽ không còn nằm trong tầm tay của chúng ta.Chúng ta sẽ trở thành nô lệ, giống như Murtagh và Thorn.

Nó lầm bẩm chửi rủa và lén lút đấm tay xuống sàn.

Bình tĩnh nào, Eragon, Glaedr nói. Eragon nhận ra ông rồng đã bao lấy suy nghĩ nó để Saphira không nghe được.

Sao con bình tĩnh được chứ?

Rất dễ để bĩnh tĩnh khi con không có gì để lo lắng, Eragon ạ. Nhưng, thử thách giành cho sự kiềm chế bản thân là liệu con có giữ đường bình tĩnh trong những tình huống khó khăn nhất hay không. Con không thể để sự tức giận hay nỗi thất vọng làm mờ ý chí của con. Ngay lúc này, đầu óc con cần sáng.

Người có thể luôn giữ bình tĩnh trong tình huống như thế này không?

Ông rồng già dường như đang cười. Không, ta thường gầm lên và cắn và đá đổ cây cũng như xé toang mặt đất. Ta đã có lần lật tung một đỉnh núi trên rặng Spine. Những con rồng khác giận ta lắm. Nhưng ta đã có rất nhiều năm học được rằng giận dữ chẳng giúp được gì. Ta biết con không có, nhưng hãy để kinh nghiệm của ta giúp con. Hay bỏ qua những lo lắng và tập trung vào nhiệm vụ trước mắt. Điều gì cần đến sẽ đến, và lo lắng về nó chỉ khiến nỗi sợ của con trở thành hiện thực mà thôi.

Con biết, Eragon thở dài, nhưng làm thì đâu có dễ.

Tất nhiên là không dễ. Nhưng có vài thứ cần phải như vậy. Sau đó Glaedr rời đi và để lại nó một mình trong im lặng.

Eragon kiếm cái bát trong túi, nhảy lên trên vòng tròn đá bán nguyệt rồi đi chân trần trên vũng nước bên dưới lỗ hổng trần nhà. Một trận mưa phùn nhẹ đang bắt đầu rơi,phủ lên sàn nhà một lớp nước khiến người ta dễ trượt chân. Nó ngồi chồm hổm gần vũng nước và dùng cái bát để múc nước.

Khi bát nước đã đầy, Eragon lùi lại vài bước và đặt nó lên một tảng đá nặng bằng cả một cái bàn. Sau dó nó nghĩ tới Roran và thì thầm, “Draumr kópa.”

Nước trong bát rung lên, hình ảnh Roran xuất hiện trên nền trắng tinh khiết. Anh đang đi bên cạnh chú Horst và Albriech và dắt thêm con ngựa của anh, Hỏa Tuyết. Cả ba người đều mệt mỏi và đau chân, nhưng họ vẫn mang theo vũ khí. Eragon biết vậy là Triều đình chưa bắt được họ.

Sau đó nó triệu hồi Jörmundur, rồi Solembum – lúc này đang xé một con chim sáo vừa bị giết chết – rồi tới Arya, nhưng lá chắn của Arya đã không cho nó nhìn thấy nàng. Nó chỉ thấy một màn đen.

CUối cùng Eragon dừng câu thần chú và đổ nước trở lại vũng nước. Khi nó leo lên hàng rào chắn xung quanh khu trại, Saphira vươn người và ngáp, người cô nàng cong lên như một con mèo. Cô nàng nói, Họ sao rồi?

“An toàn.”

Nó đặt cái bát vào túi rồi nằm trên túi ngủ, nhắm mắt lại và tiếp tục tìm kiếm tên thật. Cứ vài phút nó lại nghĩ ra vài khả năng, nhưng chẳng cái nào đúng cả. Nó lại tiếp tục tìm kiếm cái mới. Tất cả những cái tên đều mang theo vài điều tất yếu: nó là kỵ sĩ; sự ảnh hưởng cúa nó tới Saphira và Arya; khát vọng muốn đánh bại Galbatorix; quan hệ của nó với Roran, cậu Garrow, ông Brom và quan hệ máu mủ với Murtagh. Nhưng dù nó hết hợp những yếu tố đó thế nào, nó vẫn không tìm ra được cái tên. Rõ ràng nó đã quên mất một nét đặc thù của bản thân mình. Vì thế càng lúc nó càng tạo ra cái tên dài lê thê, hy vọng sẽ vô tình tìm ra cái nó đang tìm kiếm.

Khi những cái tên phải mất hàng phút mới đọc xong, nó nhận ra nó đang phí thời gian. Nó cần kiểm tra lại bản thân. Nó nghĩ lỗi của mình nằm ở việc bỏ qua một số khiếm khuyết, hoặc không đủ quan tâm tới những điểm yếu vốn có của bản thân. Nó biết, hầu hết mọi người thường không muốn biết về sự khiếm khuyết của bản thân. Nó cũng vậy. Bằng cách nào đó, nó phải tìm cách mở mắt cho mình. Nó không nhìn ra khiếm khuyết do nó bị che mắt bởi lòng tự trọng và tự tôn quá lớn. Nó cứ nghĩ bản thân nó là người hoàn hảo. Giờ nó không muốn tiếp tục dối lòng nữa.

Vì thế, nó cứ nghĩ và nghĩ, nhưng vẫn thất bại.

Mưa càng lúc càng nặng hạt. Eragon không thích tiếng mưa rơi trên vũng nước. Âm thanh vô thưởng vô phạt đó khiến nó khó lòng nghe thấy tiếng nếu có kẻ khác định đánh lén chúng. Từ đêm đầu tiên ở Vroengard, nó đã không thấy hay cảm nhận được những người lạ mặt đội mũ trùm nữa. Nhưng, Eragon vẫn biết tới sự hiện diện của họ. Nó có cảm giác như mình và Saphira có thể bị tấn công bất cứ lúc nào.

Những tia nắng xám xịt của một ngày dần biến mất trong hoàng hôn. Một buổi tối đen kịt, không trăng không sao bao trùm thung lũng. Eragon cho thêm nhiều củi vào đống lửa. Đó là nguồn sáng duy nhất trong căn nhà tổ chim. Ngọn lửa vangd đó giống như ngọn nến bé tí tẹo trong một không gian rộng lớn, vang vọng. Sàn nhà mọc cỏ gần đống lửa phản chiếu ánh sáng từ những que củi cháy. Nó sáng lên như phủ băng đá, những màu sắc thường làm Eragon xao lãng.

Eragon không ăn tối. Nó đói, nhưng quá căng thẳng khiến thức ăn không thể ở yên trong dạ dày.. Nó nghĩ thức ăn sẽ làm chậm suy nghĩ. Không khi nào đầu óc nó hoạt động tốt bằng khi dạ dày rỗng không.

Nó quyết định sẽ không ăn cho tới khi tìm ra tên thật, hoặc tới khi họ rời đảo.

Vài tiếng trôi qua. Họ nói rất ít, dù Eragon vẫn để ý tới những cảm xúc và suy nghĩ chung nhất của Saphira. Cô nàng cũng vậy.

Sau đó, khi Eragon định đi ngủ và mơ – để nghi ngơi và hy vọng những giấc mơ sẽ cho nó vài gợi ý – Saphira kêu yowl, duỗi móng chân phải và đặt nó xuống sàn. Vài cảnh củi trong đống lửa bật lên và rời ra, khiến vài tàn lửa bắn lên trần nhà.

Eragon giật mình đứng dậy, rút thanh Brisingr trong khi tìm kiếm trong bóng tối xem kẻ thù trốn ở đâu. Một giây sau, nó nhận ra Saphira không phải đang lo lắng hay giận dữ, mà là cảm giác chiến thắng.

Em làm được rồi! Saphira reo lên. Cô nàng ngửng cổ thở ra một ngọn lửa xanh vào lên mái nhà. Em biết tên thật của em rồi! Cô nàng nói một đoạn ngôn ngữ cổ. Bên trong đầu óc Eragon dười như rung lên như chuông. Một giây sau, những cái vảy Saphira sáng lên. Cô nàng trông như được tạo nên từ những vì sao.

Cái tên đó thật lớn lao và tráng lệ, nhưng lại nhuốm chút buồn thương, vì cô là con rồng cái cuối cùng. Trong những từ đó, Eragon nghe thấy được cả tình yêu và sự cống hiến cô nàng dành cho nó, cũng như những đặc điểm làm nên tính cách cô nàng. Nó nhận ra hầu hết; nhưng một vài thì không. Những tật xấu và những điểm tốt đều nổi bật; nhưng trên hết, đó là sự nhấn mạnh tới ngọn lửa, vẻ đẹp và sự tráng lệ.

Saphira rung lên từ mũi tới chóp đuôi. Cô nàng rung cánh.

Em đã biết em là ai, cô nàng nói.

Giỏi lắm, Bjartskular, Glaedr nói và Eragon có thể thấy được sự ấn tượng của ông rồng.Con có một cái tên đáng để tự hào. Nhưng ta sẽ không nhắc lại cái tên đó, dù nói thầm, cho tới khi chúng ta tới... tới cái ngọn tháp. Con phải cẩn trọng không được tiết lộ cái tên của mình.

Saphira chớp mắt rung cánh lần nữa. Vâng, thưa Sư phụ. Cô nàng đang vô cùng phấn khích.

Eragon bỏ Brisingr vào bao và đi tới cạnh cô em. Cô nàng cúi thấp xuống ngang tầm nó. Nó vuốt ve hàm cô nàng, rồi ấn trán lên cái mũi cứng và giữ chặt. Những cái vảy thật sắc dưới cảm nhận của nó. Những giọt nước má nóng bắt đầu chảy xuống má nó.

Sao anh khóc? Cô nàng hỏi.

Vì...anh thật may mắn khi có em.

Ôi, anh bé nhỏ.

Họ nói chuyện thêm một lúc nữa, vì Saphria rất muốn nói về những thứ cô đã biết về bản thân. Eragon vui vẻ lắng nghe, nhưng nó vẫn có chút cay đắng vì vẫn chưa tìm ra tên thật của mình.

Sau đó Saphira cuộn người lại và đi ngủ, để lại Eragon một mình dưới ánh sáng của ngọn lửa trại đang dần tàn lụi. Glaedr vẫn thức. Thi thoảng Eragon nói chuyện với ông, nhưng chủ yếu nó dành thời gian mà ngẫm nghĩ.

Hàng giờ trôi qua, Eragon càng lúc càng buồn. Nó chẳng còn bao nhiêu thời gian – theo đúng lịch trình, ngày mai nó và Saphira sẽ rời Vroengard – nhưng tới lúc này nó vẫn không thể hiểu bản thân.

Gần tới nửa đêm, mưa đã tạnh.

Eragon bồn chồn cố quyết định. Sau đó nó đứng dậy vì không thể nào ngồi lâu hơn được nữa. Con sẽ đi dạo, nó nói với Glaedr.

Nó cứ nghĩ ông rồng già sẽ phản đối. Nhưng thay vào đó, Glaedr nói, Bỏ lại vũ khí và áo giáp lại.

Vì sao ạ?

Dù con tìm thấy cái gì, con phải tự mình đối mặt. Con không thể biết con là cái gì nếu con dựa vào sự giúp đỡ của người khác hay thứ khác.

Eragon hiểu những gì Glaedr nói, nhưng nó vẫn không muốn tháo bỏ kiếm và dao găm cùng áo giáp. Nó đeo giày và mặc áo choàng ướt vào. Sau đó nó đặt túi đựng trái tim của Glaedr gần Saphira hơn.

Khi Eragon dợm bước rời khỏi vòng tròn đá, Glaedr nói, Làm cái gì con cần, nhưng phải cẩn thận.

Bên ngoài ngôi nhà tổ chim, Eragon mừng thấy những ngôi sao và ánh trăng đang chiếu qua những đám mây soi tỏ đường lối xung quanh.

Nó nhảy lên vài lần. Nó không biết đi đâu. Sau rồi nó quyết định tới trung tâm thành phố đổ nát. Sau vài giây, nó đỡ buồn hơn và tăng nhịp bước.

Khi lắng nghe tiếng thở và tiếng bước chân vang lên trên những tảng đá lát đường, nó tự hỏi mình, MÌnh là ai? Nhưng nó không có câu trả lời.

Nó chạy cho tới khi gần như không thở nổi. Nó chạy thêm một chút nữa cho tới khi không còn đủ sức. Nó dừng lại bên một đài phút nước nổi đầy rêu và dựa tay vào trong khi phục hồi hơi sức.

Chung quanh nó là những tòa nhà khổng lồ: những người khổng lồ trong bóng đêm đó trông giống như những rặng núi cổ xưa vậy. Đài phun nước nằm giữa một sân hình vuông rộng lớn, nhiều viên đá trên đó đã bị vỡ vụn.

Nó đẩy mình đứng dậy, và từ từ đi vòng quanh. Từ xa xa, nó nghe có tiếng ếch bò kêu ồm ộp. Âm thanh đó càng lớn đặc biệt khi có thêm một con nào tham gia cùng.

Một phiến đá vỡ cách đó vài mét khiến nó chú ý. Nó đi tới, bám vào cạnh đá và dùng sức nâng nó lên khỏi mặt đất. Nó đau rần tay và loạng choạng đi vào bước tới góc sân, và ném phiến đá lên lớp cỏ trên đó.

NÓ hạ cánh đánh bụp.

Nó lùi lại đài phút nước, cởi áo choàng và ném nó lên bức tượng. Sau đó nó tới cạnh một viên đá khác – một viên đá hình chữ V rơi khỏi một tảng đá lớn hơn – và đặt nó lên vai.

Trong một giờ đồng hồ, nó làm sạch toàn bộ sân. Vài tảng đá quá lớn, nó phải dùng pháp thuật để di chuyển nhưng hầu hết nó làm bằng tay. Nó làm rất có phương pháp. Nó đi đi lại lại trong sân, và với mỗi tảng đá, nó đều dừng lại và di chuyển chúng đi.

Nó toát mồ hôi. Nó muốn cởi áo, nhưng nếu thế những rìa sắc nhọn của những tảng đá sẽ làm nó bị thương. Như thường lệ, nó lĩnh vài vết bầm trên ngực và vai, tay xước không biết bao nhiêu vết.

Lao động giúp nó bình tĩnh và vì công việc không đòi hỏi nó nghĩ nhiều, nó thoát khỏi những suy nghĩ rối ren về chuyện nó đang và sẽ là ai.

Khi đang làm dở công việc, khi đang ngồi nghỉ, nó nghe có tiếng rít đầy đe dọa. Nó nhìn thấy một con snalglí – vỏ nó phải cao 1.2m – đang lao ra khỏi bóng tối với tốc độ đáng giật mình. Cái cổ không xương của sinh vật thò ra hoàn toàn, cái mồm không môi của nó trông như một hố đen, con mắt trố lố đang nhìn thẳng vào Eragon. Dưới ánh trưng, phần thịt lộ ra ngoài của snalglí cùng đường nhớt nó để lại trên mặt đất sáng lên như bạc

“Letta,” Eragon nói và đứng thẳng dậy, vẩy sạch máu từ bàn tay bị thương. ““Ono ach néiat threyja eom verrunsmal edtha, O snalglí.”

Khi nó cảnh cáo, con ốc sên chậm lại và đảo mắt một chút. Nó dừng lạ khi còn cách Eragon một đoạn. Nó lại rít lên và vòng sang bên trái.

“Ôi, đừng thế chứ,” Eragon lầm bầm và quay theo con vật. Nó liếc nhìn để chắc chắn không còn một snalglí nào lảng vảng quanh đây.

Con ốc sên khổng lồ dường như nhận ra nó không khiến Eragon bất ngờ. Nó dừng lại và rít lên và đảo tròng mắt.

“Mày kêu như ấm đun nước sôi ấy,” Eragon nói.

Đôi tròng mắt của snalglí đảo nhanh hơn rồi nhìn thẳng vào Eragon.

Eragon đợi tới phút chót rồi nhảy sang một bên và để cho snalglí lỡ trón phóng qua. Nó cười và vỗ lên vỏ sinh vật. “Mày cũng chẳng quá thông minh nhỉ?” Nó nhảy qua và bắt đầu nói chuyện với sinh vật, gọi nó bằng đủ cái tên thóa mạ nhưng chính xác.

Con ốc sên hình như đang điên lên – cổ nó phình lên, nó mở miệng nhanh hơn và bắt đầu vừa rít vừa phun phì phì.

Sinh vật hết lần này tới lần khác lao vào Eragon. Lần nào Eragon cũng nhảy tránh. Cuối cùng snalglí mệt. Nó lùi lại gần 6m và nhìn chằm chằm Eragon bằng đôi tròng mắt to bằng cả nắm tay.

“Mày tóm được mọi thứ kiểu gì khi chậm thế hả?” Eragon chế nhạo hỏi. Nó lè lưỡi trêu ngươi con ốc sên.

Con snalglí lại rít lên. Sau đó nó quay người chui vào bóng tối.

Eragon đợi vài phút cho chắc sinh vật đã bỏ đi trước khi quay lại dọn đống đá vụn. “Có lẽ mình nên lấy hiệu là Khắc tinh của Ốc sên mới đúng,” nó lầm bầm khi lăn một cột đá trên sân. “Eragon, Khắc tinh của Tà thần, Khắc tinh của Ốc sên... Mình sẽ khiến nhiều người sợ tới tim đập chân run ấy chứ.”

Đêm đã vào thời gian đen tối nhất thì nó cuối cùng cũng dọn sạch cái sân. Nó đứng đó mà thở dốc. Nó lạnh, đói và mệt. Những vết thương trên bàn tay và cổ tay cứ nhói lên.

Nó đứng tại góc đông bắc cái sân. Phía bắc là một đại sảnh lớn đã bị hủy hoại hầu hết trong chiến tranh. Nhưng gì còn lại chỉ là một bức tường đen và một cột đá bị trường xuân cuốn quanh ở nơi từng là lối vào.

Nó nhìn cột đá lâu nhất. Trên đó, là những ngôi sao – màu đỏ, xanh và trắng – chiếu sáng trên bầu trời như những viên kim cương đã được đẽo gọt. Nó cảm thấy bị cuốn hút vì một thứ gì đó kỳ quặc.

Nó vô thức bước tới chân cột – trên mặt đất lổn nhận đất đá – rồi vươn cao hết mức có thể và chạm vào bụi trường xuân mọc dày nhất. Những sợi dây leo tô bằng cẳng tay nó và có hàng ngàn rễ con.

Nó giật sợi dây leo. NÓ bám chắc, thế là Eragon nhảy khỏi mặt đất và trèo lên. Nó ước chừng cột đá cao 90 mét, nhưng khi leoo lên nó cảm thấy cột đá còn cao hơn nhiều.

Nó biết nó đang hấp tấp, nhưng sau đó, nó cảm thấy mình hấp tấp.

Được nửa chừng, những sợi tua nhỏ hơn của dây leo bắt đầu tuột khỏi đá khi nó bám vào. Sau đó, nó phải cẩn thận chỉ bám vào những cành chính và những nhánh cây dày hơn.

Nó suýt tuột tay khi gần lên tới nóc.. Chóp cột đá vẫn còn nguyên vẹn. Nó là một mặt phẳng hình vuông đủ lớn để ngồi lên mà còn thừa ra mỗi bên 0,3 m.

Eragon hơi run. Nó khoanh chân và đặt hai tay lên đầu gối, để cho không khí mơn man làn da bị thương.

Bên dưới nó là thành phố đổ nát; một mê cung những thứ đổ nát thường vọng lại những tiếng kêu thét kỳ lạ và tuyệt vọng. Ở vài nơi từng là một hồ nước, nó thấy ánh sáng mờ mờ từ đèn bắt mồi của những con ếch bò, giống như ánh đèn nhìn từ khoảng cách xa.

Những con ếch câu cá, nó đột nhiên nghĩ bằng ngôn ngữ cổ. Đó là tên chúng: ếch câu cá. Nó biết nó đúng, vì từ ngữ đó đúng như kiểu chìa khóa tra đúng ổ vậy.

Sau đó nó nhìn những ngôi sao bên đầu. Nó thở từ từ và tập tủng duy trì cách thở. LẠnh, đói, run rẩy khiến nó cảm thấy cực kỳ minh mẫn. Nó như đã thoát xác, như thể kết nổi giữa tinh thần và xác thịt đã lỏng lèo hơn. Nó đang trôi lên trên ngắm toàn bộ thành phố và hòn đảo. Nó cực kỳ nhạy cảm với từng luồng gió và từng âm thanh và mùi vị thổi qua đỉnh cột đá.

Nó ngồi đó, nghĩ đến nhiều cái tên hơn. Dù không cái nào mô tả hoàn toàn về nó, nhưng thất bại không làm nó nản lòng, vì giờ đây sự minh mẫn đang ở sâu trong con người nó.

Làm sao mình có thể miêu tả toàn bộ con người mình chỉ bằng vài từ? Nó phân vân và tiếp tục đặt những câu hỏi khi quan sát những vì sao.

Ba bóng đen biến dạng bay qua thành phố - như những vết rạn nhỏ, biết chuyển động vậy – đậu xuống mái nhà bên trái nó. Sau đó, những bóng ma cú dựng lông lên và nhìn nó bằng đôi mắt sáng như mắt quỷ. NHững bóng đen rì rào nói chuyện với nhau. Hai trong số chúng rỉa cánh bằng những móng vuốt đen sì. Con thứ ba đang dùng móng vuốt đen như gỗ mun quặp một con ếch bò.

Nó quan sát những con chim ma vài phút, chúng cũng nhìn lại nó.Sau đó chúng bay đi và biến mất ở phía động, phát ra tiếng động không to hơn tiếng lông rơi là mấy.

Gần bình minh, Eragon nhìn thấy ngôi sao mai giữa hai đỉnh núi phía đông. Nó tự hỏi. “MÌnh muốn cái gì?”

Tới lúc đó, nó chẳng cần nghĩ sâu xa hơn tới câu trả lời. Tất nhiên nó muốn hạ bệ Galbatorix. Nhưng, liệu nó và quân Varden có thành công không? Từ khi nó rời khỏi Thung lũng Palancar, nó cứ nghĩ nó và Saphira sẽ có ngày trở lại, ở ngọn núi nó yêu thích. Nhưng, giờ khi nghĩ lại, nó chẳng hứng thú gì nữa.

Nó đã lớn lên ở Thung lũng Palancar. Nó luôn coi đó là quê hương của nó. Nhưng ở đó còn gì cho nó hay Saphira thương nhớ? Làng Carvahall đã bị hủy diệt, mà kể cả nếu dân làng có dựng lại làng, ngôi làng cũng không còn như cũ nữa. Hơn nữa, bạn bè của nó và Saphira hầu hết sống ở nơi khác. Nó và Saphira có nghĩa vụ với rất nhiều nòi giống của Alagaësia. CHúng không thể lờ những trách nhiệm đó đi. Và sau tất cả những gì chúng đã làm và chứng kiến, nó không nghĩ rằng cả hai có thể sống tại một nơi tách biệt và giản dị như thế.

Vì bầu trời khum khum còn trái đất hình tròn...

Kể cả nếu chúng quay lại, chúng sẽ làm gì nào? Chăn bò và trồng lúa mì ư? Nó không muốn sống chắt bóp như đã từng sống hồi thơ bé. Nó và Saphira giờ là Kỵ sĩ và rồng. Định mệnh tới chết của chúng là bay tới tận cùng lịch sử, chứ không phải ngồi trước đống lửa tới béo ị ra.

Và còn Arya nữa. Nếu nó và Saphira sống ở Thung lũng Palancar, nó sẽ hiếm, nếu không muốn nói là không bao giờ, được gặp lại nàng.

“Không,” Eragon nói, từ ngữ vang lên trong cảnh tĩnh lặng như một tiếng búa nện. “MÌnh không muốn trở lại.”

Nó lạnh sống lưng. Nó biết nó đã thay đổi từ ngày nó, ông Brom và Saphira rời đi lần theo dấu vết Ra’zac. Nhưng nó vẫn nghĩ, sâu trong tâm khảm, nó vẫn là con người cũ. Nhưng giờ nó biết là không phải. Câu nhóc lần đầu tiên đặt chân ra khỏi thung lũng Palancar đã không còn; Eragon không giống cậu nhóc đó, không hành động như cậu nhóc đó, và nó không còn mong muốn những thứ như cậu nhóc đó.

Nó hít một hơi thật sâu và thở dài khi thấm thía sự thật đó.

“Mình không còn là mình nữa.” Nó nói lớn như để giảm bớt sức nặng.

Sau đó, khi ánh bình minh đầu tiên chiếu sáng bầu trời phía đông của Vroengard – nơi các Kỵ sĩ và rồng từng sinh sống, nó nghĩ tơi một cái tên – một cái tên nó chưa bao giờ nghĩ tới. Nhưng khi đã nghĩ ra, nó vô cùng chắc chắn.

Nó nói cái tên, thì thầm nó cho riêng mình nghe. Toàn bộ cơ thể nó như ngay lập tức run lên, như thể Saphira đang rung cây cột vậy.

Sau đó nó thở gấp và vừa cười vừa khóc – cười vì nó thành không và vì hạnh phúc vì đã hiểu bản thân; khóc vì tất cả những thiếu sót và những sai lầm của mình giờ đã trở nên rõ ràng. Giờ nó không thể lờ chúng đi để làm mình vui vẻ.

“Mình không còn là mình nữa,” nó thì thầm và bóp chặt láy một bên cột, “nhưng mình biết mình là ai.”

Cái tên, cái tên thật của nó, yếu và nhiều khiếm khuyết hơn nó thích. Nó ghét bản thân vì điều đó. Nhưng trong đó có rất nhiều điều để ngưỡng mộ. Nó càng nghĩ tới cái tên đó nhiều, nó càng chấp nhận được bản chất con người mình hơn. Nó không phải người tốt nhất trên thế giới này. Nhưng nó không phải kẻ tệ hại nhất.

“Và minh sẽ không bỏ cuộc,” nó hét lên.

Nó thấy được an ủi vì tính cách không phải cái bất biến. Nó có thể cải thiện bản thân nếu muốn. Và lúc này, nó thề với lòng sẽ làm tốt hơn trong tương lai, dù có khó khăn thế nào.

Nó vẫn vừa cười vừa mà ngửa mặt lên trời và dang rộng cánh tay. Lúc này, những giọt nước mắt và tiếng cười đã ngừng lại. Nó cảm thấy cực kỳ bình tĩnh. Dù Glaedr nhắc nhở gì, nó vẫn một lần nữa thì thầm tên thật, một lần nữa để cơ thể rung lên trước những từ ngữ.

Nó vẫn dang rộng cánh tay, đứng trên nóc cột đá, rơi cắm đầu xuống đất. Trước khi chạm mặt đất, nó nói, “Vëoht”. Nó rơi chậm lại, đảo người và đứng trên tảng đá vỡ nhẹ nhàng như vừa bước ra từ một cỗ xe ngựa.

Nó quay lại đài phun nước ở giữa sân và mặc lại áo choàng. Sau đó, khi ánh sáng chiếu tỏ thành phố đổ nát, nó rảo bước trở về nhà tổ chim, vui vẻ đánh thức Saphira và nói cho cô em nó và Glaedr về phát hiện của mình.

HẦM MỘ CỦA NHỮNG LINH HỒN

Eragon nâng kiếm và khiên. Nó vừa háo hức, vừa lo sợ.

Như lúc trước, Eragon và Saphira đứng dưới Tảng đá Kuthian trong khi trái tim Glaedr nằm ở một cái hộp nhỏ giấu trong túi trên lưng Saphira.

Giờ vẫn là sáng sớm, mặt trời chiếu sáng rạng rỡ qua những giọt mưa rơi xuống từ tấm màn mây. Eragon và Saphira muốn đi thẳng tới Tảng đá Kuthian ngay khi Eragon trở về nhà tổ chim. Nhưng Glaedr bắt Eragon ăn trước, sau đó chờ đợi cho thức ăn tiêu hóa.

GIờ khi đã đứng trước tảng đá lởm chởm. Eragon cũng như Saphira mệt mỏi phải chờ đợi.

Ngay khi chúng cho nhau biết tên thật của mình, mối liên hệ giữa họ dường như còn mạnh hơn. Co lẽ vì giờ chúng đã nghe rất nhiều thứ mà chúng quan tâm về nhau. Nó là một cái gì đó chúng luôn biết, nhưng dù sao, giờ chũng càng thân thiết hơn.

Ở nơi nào đó phương bắc, có tiếng quạ kêu.

Ta sẽ thử trước, Glaedr nói. Nếu đây là cái bẫy, ta sẽ biết trước khi nó tóm được hai con.

Eragon định rút tư tưởng khỏi Eragon. Saphira cũng làm tương tự. Chúng muốn ông rồng già nói tên thật của mình mà không bị ai nghe lỏm. Nhưng Glaedr nói, Không, các con đã nói cho ta biết tên. Giờ các con có quyền biết tên ta.

Eragon nhìn Saphira, rồi cả hai cùng nói, Cám ơn, Ebrithil.

Sau đó Glaedr nói tên. Nó nổ tung trong đầu óc Eragon như một tiếng kèn trumpet, vương giả nhưng nghịch tai, đầy màu sắc vì nỗi buồn và sự tức giận trước cái chết của ông Oromis. Tên ông dài hơn cả tên Eragon và Saphira. Nó kéo dài tới vài câu – như một bản ghi chép kéo dài hàng thế kỷ và mang cả hạnh phúc và nỗi buồn không thể kể hết. Sự thông thái của ông hiển hiện rõ trong cái tên, nhưng cũng có sự trái nghịch: phức tạp tạo khiến người ta khó nắm bắt con người ông.

Saphira và Eragon kính sợ khi nghe tên ông. Âm thanh đó khiến chúng nhận ra chúng còn non trẻ thế nào và chúng phải đi bao xa mới có thể xứng tầm hiểu biết và kinh nghiệm của Glaedr.

Không biết tên thật của Arya là gì, Eragon tự nhủ.

Họ quan sát tảng đá Kuthian, nhưng không thấy gì thay đổi.

Saphira tiếp. Cô nàng vươn cổ và móng vuốt trên mặt đất theo tư thế sắp sửa tấn công. Cô nàng tự hào nói tên thật. Dù dưới ánh sáng ban ngày, lớp vảy lại một lần nữa sáng lên.

Nghe cô em và Glaedr nói tên thật làm Eragon ít nghĩ về bản thân hơn. Tất cả đều không hoàn hảo, nhưng họ không ai đánh giá thấp kẻ khác mà ngược lại, họ hiểu nhau và tha thứ cho nhau hơn.

Một lần nữa, không có gì xảy ra.

Cuối cùng, Eragon bước lên. Trán nó rịn mồ hôi lạnh. Nó biết đây có thể là hành động cuối cùng của nó cũng như Glaedr và SAphira trong tư thế một kẻ tự do. Họ đã đồng ý rằng nó tốt nhất là không nói lớn tên, để giảm khả năng có kẻ nghe lỏm được.

Khi Eragon nghĩ chữ cuối cùng trong đầu, một đường kẻ đen mỏng xuất hiện ở chân tòa tháp.

Nó chạy lên cao 15m sau đó chia làm đôi và vòng sang hai chiều, hình thành hai cánh cửa lớn. Trên cánh cửa là từng hàng từng hàng chữ tượng hình bằng vàng: lưới bảo vệ chống lại sự tìm kiếm bình thường cũng như bằng pháp thuật.

Một khi đường nét bên ngoài đã hình thành xong, cánh cửa bật mở khỏi then chốt vô hình, thổi tung lớp bụi bẩn và cây cỏ mọc lùm xùm trước tòa tháp kể từ lần cuối cánh cửa được mở ra. Qua cánh cửa là một đường hầm dốc xuống sâu trong lòng đất.

Cánh cửa mở một nửa, khu đất trông lại chìm vào im lặng.

Eragon nhìn chăm chăm vào đường hâm đen tối, càng lúc càng thấy sợ hãi. Họ đã tìm thấy cái tìm tìm kiếm, nhưng nó vẫn không chắc liệu họ có rơi vào bẫy không.

Solembum không nói dối, Saphira nói. Lưỡi cô nàng thò thụt đánh hơi.

Ừ, nhưng cái gì sẽ chờ đợi chúng ta bên trong kia? Eragon hỏi.

Nơi này không nên tồn tại, Glaedr nói. Chúng ta và các Kỵ sĩ đã che giấu rất nhiều bí mật ở Vroengard, nhưng hòn đảo này quá nhỏ cho một đường hầm lớn như thế này được xây dựng mà không ai hay biết. Mà ta chưa nghe về nó bao giờ.

Eragon nhíu mày và liếc nhìn xung quanh. Nơi đây chỉ có mình họ; không ai định đánh úp họ cả. Liệu có khả năng nó được xây dựng trwocs khi các hiệp sĩ đến định cư trên Vroengard không?

Glaedr nghĩ một lát. Ta không biết. Nhưng cũng có thể. Đây là giải thích hợp lý duy nhất, nhưng nếu vậy thì đường hầm này quá cổ xưa.

Ba người dùng tư tưởng tìm kiếm trong đường hầm, nhưng không có sinh vật sống nào trong đó.

Được rồi, Eragon nói. Mồm nó chua mùi sợ hãi, bàn tay đeo găng nó túa mồ hôi. Dù họ sẽ tìm thấy cái gì ở cuối đường hầm, nó muốn biết luôn. Saphira cũng lo lắng, dù không bằng nó.

Chúng ta hãy đào con chuột trốn trong hang này ra, cô nàng nói.

Sau đó họ cùng nhau bước qua cánh cửa vào đường hầm.

Khi chóp đuôi Saphira lướt qua bản lề, cánh cửa đóng lại phía sau với một tiếng rầm lớn, nhốt họ trong bóng tối.

“A, không, không, không!” Eragon hét lên và lao về phía cửa. “Naina hvitr,”nó nói, và một ánh sáng trắng không biết từ đâu chiếu sáng lối vào đường hầm.

Bề mặt bên trong cánh cửa trơn nhẵn tới độ hoàn hảo. Dù nó đẩy và đấm thế nào, nó vẫn không suy xuyển. “Chết tiệt. Chúng ta phải dùng que gậy hoặc đá may ra mới nậy nó ra được,” nó rên rỉ trách cứ mình vì không nghĩ tới trước.

Nếu chúng ta buộc phải làm, chúng ta luôn có khả năng đập đổ cánh cửa này, Saphira nói.

Ta nghi ngờ lắm, Glaedr nói.

Eragon lại nắm chặt thanh Brisingr. Vậy con đoán chúng ta không còn lựa chọn nào ngoài đi tiếp.

Có khi nào chúng ta có lựa chọn nào khác ngoài đi tiếp đâu?

Eragon thay đổi câu thần chú để ngọn đèn ma tiếp tục tỏa sáng từ một điểm duy nhất gần trần hầm – nếu không nó và Saphira sẽ không biết hang sâu bao nhiêu – và sau đó, họ cùng nhau bước xuống đường hầm dốc.

Nền hang có chút mấp mô vì thế họ đi dễ dàng dù không có các bậc thang. Tường và sàn hang như hòa vào nhau tựa như đá được đun nóng chảy. Eragon nghĩ có khả năng cái hang này là tác phẩm của thần tiên.

Họ càng đi sâu hơn vào lòng đất. Eragon đoán họ đã phải tới chân đồi đằng sau Tảng đá Kuthian và chui sâu vào lòng ngọn núi đằng sau đó. Đường hầm không hề có khúc quanh hay phân nhánh. Trên tường không có một cái gì.

Cuối cùng Eragon cảm nhận được một luồng khí ấm bốc lên từ sâu trong đường hầm. Nó để ý có ánh sáng cam nhạt chiếu tới từ phía xa. “Letta,” nó lẩm bẩm, và ngọn đèn ma tắt rụi.

Không khí càng lúc càng ấm hơn khi họ đi xuống. ÁNh sáng càng lúc càng sáng. Dần dần họ đã thấy cuối đường hầm: một mái vòm đen khổng lồ khắc chi chít những con chứ tượng hình khắc nổi trông như những chiếc gai. Không khí ảm mùi lưu huỳnh. Eragon chảy nước mắt.

Họ dừng lại trước cổng vòm. Trước mắt họ chỉ là một sàn nhà xám xịt phẳng lì.

Eragon liếc nhìn lại đoạn đường họ vừa đi qua, sau đó lại nhìn mái vòm. Kiến trúc lởm chởm này khiến nó và Saphira bồn chồn lo lắng. Nó cố đọc những chữ tượng hình, như chúng quá dày và lộn xộn khiến nó không hiểu được. Nó không hề thấy có năng lượng nào dự trữ trong khối kiến trúc màu đen này. Nhưng nó không tin rằng nơi đây không bị ếm bùa. Dù ai xây đường hầm thì kẻ đó cũng đã thành công trong việc giấu cánh cửa khỏi thế giới bên ngoài. Như vậy họ hoàn toàn có thể giấu bất cứ thứ gì trong đây.

Nó liếc nhìn Saphira rồi liếm môi khi nhớ lại điều sư phụ Glaedr từng nói: Không có con đường nào an toàn.

Saphira khụt khịt và thở ra một ngọn lửa nhỏ qua hai lỗ mũi. Sau đó, cả hai sánh bước đi qua cổng vòm.

NHỮNG HỐC ĐÁ (PHẦN I)

Eragon ngay lập tức để ý tới vài điều.

Thứ nhất, họ đang đứng ở một bên căn phòng hình tròn có bán kính hơn 60 mét. Ở giữa căn phòng đặt một chiếc bình lớn. Đó chính là nguồn sáng họ nhìn thấy lúc trước. Thứ hai, trong phòng cực kỳ nóng. Thứ ba, bao quanh căn phòng là hai vòng tròn bậc thang như ghế băng – hàng sau cao hơn hàng trước – trên đó có rất nhiều những vật thể ẩn trong bóng tối. Thứ tư, bức tường đằng sau vòng bậc thang lóe sáng ở nhiều chỗ, như thể trên đó gắn pha lê màu. Nhưng nó không có cơ hội xem xét bức tường hay những vật thể tối đen kia, vì khu vực trống cạnh cái bình phát sáng có một người đàn ông đầu rồng đang đứng.

Người đàn ông này là bức tượng kim loại. Hắn tỏa sáng như làm bằng thép bóng. Ông ta chỉ đóng một cái khố, ngực và tứ chi cuồn cuộn cơ bắp như Kull.Tay trái hắn ta cầm một cái khiên, tay phải cầm một lưỡi kiếm phát ra ánh sáng ngũ sắc. Đó là thanh kiếm của Kỵ sĩ.

Đằng sau người đàn ông, sâu trong căn phòng, Eragon lờ mờ nhìn thấy một ngai vàng và một bóng người ngồi trong đó.

Người đàn ông đầu rồng bước lên. Da và cơ bắp hắn mịn màng như da người, nhưng mỗi cử động lại như cả tấn hạ xuống sàn nhà. Hắn dừng lại khi cách Eragon và Saphira 9m. Hắn nhìn chúng bằng cặp mắt như hai hòn lửa đỏ. Sau đó, hắn ngửng cái đầu đầy vẩy lên và gầm lên tiếng gầm có hơi hướm kim loại vang vọng như có cả tá sinh vật hưởng ứng theo.

Ngay khi Eragon đang phân vân có nên đánh hay không, nó cảm nhận có một tư tưởng kỳ lạ, rộng suốt chạm vào nó. Nó chưa gặp loại tư tưởng này. Dường như nó chứa rất nhiều giọng la hét, những tiếng ngân vang chói tai khiến nó liên tưởng tới tiếng gió trong cơn bão.

Trước khi nó kịp phản ứng, tư tưởng đó vượt qua lưới phòng thủ và làm chủ suy nghĩ của nó. Dù nó đã dành bao nhiêu thời gian luyện tập cùng Glaedr, Arya và Saphira, nó vẫn không thể ngăn chặn cuộc tấn công này. Thậm chí nó còn không cản bước nổi. Như thể nó dùng tay trần ngăn cả một cơn thủy triều vậy.

Một luồn ánh sáng cùng một tiếng gầm đinh tai nhức óc bao lây nó như thể vang tới từng ngóc ngách trong cơ thể nó. Sau đó, tiếng kêu đó như thể kẻ đột nhập đang xé toạc đầu óc nó ra thành nửa tá miếng nhỏ - từng mảnh vẫn biết đến nhau, nhưng chúng không thể làm điều chúng muốn – và thị giác của nó mờ đi. Nó nhìn căn phòng mà như nhìn qua một viên đá được mài giũa.

Sau ký ức khác nhau bắt đầu xâm nhập vào tư tưởng nó. Nó không chọn nhớ lại chúng. Chúng đơn giản chỉ xuất hiện, và trôi nhanh khiến nó không kịp hiểu chuyện. CÙng lúc đó, nó cúi gập người theo nhiều tư thế khác nhau. Nó giơ thanh Brisingr lên ngang tầm mắt. Nó chứng kiến cùng lúc sáu phiên bản của cùng một thanh kiếm. Kẻ xâm nhập thậm chí còn buộc nó đọc thần chú. Nó không hiểu mục đích câu thần chú là gì. Nó bị điều khiển. Nó không cảm thấy gì ngoài nỗi kinh hoàng đang nhạt dần.

Eragon cảm giác như kẻ lạ mắt kia dành hàng tiếng đồng hồ kiểm tra từng ký ức một, từ lúc nó rời nhà đi săn nai trên rặng Spine – ba ngày trước khi tìm thấy trứng của Saphira – cho tới hiện tại. Eragon có thể cảm nhận điều tương tự xảy ra cho Saphira. Nhưng dù biết nó cũng không làm được gì.

CUối cùng, rất lâu sau khi nó mất hy vọng được thả ra thì đoạn điệp khúc đó cẩn thận ghép từng mảnh tư tưởng của nó lại rồi rút lui.

Eragon lảo đảo bước lên và ngã khuỵu một chân xuống trước khi lấy lại được thăng bằng. Bên cạnh nó, Saphira lắc lư, tớp không khí.

Bằng cách nào? Nó nghĩ. Ai vậy? Để bắt được tất cả cùng một lúc, kể cả Glaedr không phải một điều dễ dàng. Nó tin kể cả Galbatorix cũng đừng hòng làm được.

Một lần nữa tư tưởng đó lại chạm tới đầu óc Eragon. Nhưng lần này nó không tấn công. Lúc này, tư tưởng đó nói. Chúng ta xin lỗi, Eragon và Saphira. Nhưng chúng tôi phải đảm bảo biết rõ mục đích của các ngươi. Chào mừng tới Hầm mộ của Những Linh Hồn. Chúng ta đã đợi hai ngươi rất lâu rồi. Và chào mừng ngươi nữa, người anh em. Chúng ta mừng là ngươi còn sống. Giờ hãy nhớ lại. Cuối cùng nhiệm vụ của ngươi cũng hoàn thành!

Một tia năng lượng lóe lên giữa Glaedr và tư tưởng đó. Một giây sau, Glaedr gầm lên khiến thái dương Eragon đau nhói. Cảm xúc của con rồng vàng rất hỗn độn: buồn có, chiến thắng có, không tin có, hối hận có, và trên hết, là cảm giác thanh thản. Eragon cười không biết vì sao. Nó cảm thấy đang tiếp xúc với tư tưởng của ông Glaedr không chỉ có một mà là vô số tư tưởng khác khác. Tất cả đều đang thì thầm to nhỏ.

“Ai đấy?” Eragon hỏi nhỏ. Trước mặt họ, người đàn ông đầu rồng không suy suyển lấy một phân.

Eragon, Saphira nói. Hãy nhìn bức tường. Nhìn đi...

Nó nhìn. Và nó thấy bức tường hình tròn không phải được trang trí bằng pha lê như nó tưởng. Trên tường có hàng tá, hàng tá lỗ đục trên tường. Trong mỗi hõm là một khối cầu phát sáng. Một số lớn, một số nhỏ, nhưng chúng đều tự mình tỏa ra ánh sáng dìu dịu, như than cháy sắp tàn.

Trái tim Eragon lỡ nhịp khi hiểu chuyện gì xảy ra.

Nó cúi xuống nhìn những vật thể đen đen trên hàng ghế bên dưới. Chúng nhẵn nhụi, hình trứng như thể mài dũa từ những viên đá màu sắc khác nhau. Cũng giống như những khối cầu, ở đây có viên lớn viên nhỏ. Nhưng dù kích cỡ thế nào, Eragon cũng nhận ra hình dạng của chúng bất cứ nơi đâu.

Một cơn gió nóng thổi bạt qua nó. Đầu gối nó bủn rủn. Không thể nào. Nó muốn tin điều mình nhìn thấy, nhưng nó sợ đây chỉ là ảo ảnh đáp ứng hy vọng của nó. Nhưng dù chỉ là khả năng thôi cũng đủ khiến nó nín thở và lảo đảo và bất ngờ tới không biết làm gì hay nói gì. Phản ứng của Saphira cũng tương tự, nếu không muốn nói là mãnh liệt hơn.

Sau đó tư tưởng kia nói: Đứa nhỏ kia, ngươi không hề lầm và đôi mắt ngươi không hề đánh lừa ngươi. Chúng ta là hy vọng bí mật của giống loài ngày. Ở đây là trái tim của chúng ta – những Eldunarí tự do cuối cùng trên mảnh đất này – cùng những quả trứng chúng ta đã canh giữ hơn một thế kỷ.

NHỮNG HỐC ĐÁ (PHẦN II)

Trong một lát, Eragon không thể cử động. Hay hít thở.

Sau đó nó thì thầm,“Những quả trứng đó, Saphira... Trứng.”

Cô nàng rùng mình như bị lạnh. Những cái vảy trên xương sống dựng đứng khỏi lớp da.

Các vị là ai? Nó hỏi tư tưởng. Sao chúng tôi biết có thể tin các vị hay không?

Họ nói thật, Eragon, Glaedr nói bằng ngôn ngữ cổ. Ta biết, vì Oromis là một trong những người đã lên kế hoạch cho nơi này.

Sư phụ Oromis...?

Trước khi Glaedr cất lời, tư tưởng kia nói, Tên ta là Umaroth. Kỵ sĩ của ta là tiên nhân Vrael, người lãnh đạo vùng đất này trước ngày tàn của chúng ta tới. Ta đại diện nhưng không ra lệnh cho những người khác, vì mặc dù một số trong chúng ta được ràng buộc với Kỵ sĩ nhưng phần đông thì không. Những trí tuệ hoang dã có quyền kiểm soát bản thân họ. Khi nói tới đây, ông rồng có chút bực bội. Nếu tất cả chúng ta đều nói cùng lúc, ngươi sẽ khó hiểu nổi. Vì thế ta sẽ nói hộ họ.

Còn ông là...? Eragon chỉ người đàn ông đầu rồng màu bạc đằng trước nó và Saphira.

Không, Umaroth trả lời. Hắn là Cuaroc, Thợ săn Nïdhwal và Khắc tinh của Urgal. Bà phù thủy Silvarí đã tạo nên cơ thể hiện giờ cho hắn, để hắn giúp chúng ta chống lại Galbatorix hoặc bất cứ kẻ thù nào xâm nhập Hầm mộ của Những Linh Hồn.

Khi Umaroth nói, người đàn ông đầu rồng dùng tay phải đặt lên một cái then ẩn, mở phần trước ngực ra như mở một cái chạn bát đĩa. Bên trong ngực Cuaroc là một trái tim rồng màu tím được bao quanh bởi hàng ngàn sợi dây bạc mỏng như sợi tóc. Sau đó Cuaroc đóng giáp ngực lại. Uraroth nói. Không, ta ở đây, rồi ông ta hướng ánh nhìn của Eragon tới một cái hõm chứa một Eldunarí trắng lớn.

Eragon chậm rãi tra Brisingr vào bao.

Trứng và Eldunarí. Eragon không thể tin nổi. Đầu óc của nó chậm chạp và trị trệ như vừa bị quai vào đầu – có khi nó lãnh đòn thật chứ chẳng chơi.

Nó bắt đầu đi về vòng tròn tới phía bên phải mái vòm đen khắc những con chữ tượng hình. Sau đó, nó dừng lại trước Cuaroc và nói, nói lớn và bằng tinh thần. “Tôi có thể chứ?”

Người đàn ông đầu rồng nghiến răng và lùi lại vài bước. Hắn đứng cạnh cái bình phát sáng ở giữa phòng. Nhưng hắn vẫn rút gươm, khiến Eragon không thể không đề phòng gã.

Eragon vừa phân vân vừa tôn kính khi tiến gần những quả trứng. Nó dựa người vào vòng tròn thấp và thở một hơi run rẩy trong khi nhìn quả trứng màu đỏ vàng cao gần 1.5m. Nó đột nhiên thấy vội vã. Nó tháo găng tay và dùng lòng bàn tay chạm vào quả trứng. Quả trứng thật ấm. Khi nó vươn đầu óc cùng bàn tay ra, nó cảm thấy được tư tưởng đang ngủ say của con rồng chưa nở.

Hơi thở nóng ấm của Saphira phả vào cổ nói khi cô nàng tới gần.

Quả trứng của em nhỏ hơn thế này, nó nói.

Vì mẹ em không quá lớn tuổi và không lớn như con rồng đã đẻ ra quả trứng này.

À. Anh chưa bao giờ nghĩ tới điều đó.

Nó nhìn lên toàn bộ những quả trứng còn lại. Cổ họng nó khô cứng. “Có quá nhiều,” nó thì thầm. Nó tì vai lên hàm Saphira và thấy cô nàng đang run. Nó biết, cô em nó không muốn gì hơn ngoài việc được ôm trong tư tưởng với đồng loại. Nhưng giống như nó, cô nàng không dám tin những gì đang chứng kiến là thực.

Cô nàng khụt khịt và nhìn vòng quanh hết phòng. Sau đó cô nàng gầm làm bụi trên trần nhà rơi lả tả. Làm thế nào? Cô nàng gầm lên bằng tư tưởng. Sao các vị có thể trốn khỏi Galbatorix? Những con rồng chúng ta không trốn chạy khi chiến đấu. Chúng ta không phải những kẻ hèn nhát trốn chạy nguy hiểm. Hãy giải thích đi!

Đừng nói lớn vậy, Bjartskular, không con sẽ làm những con rồng non trong trứng buồn đấy, Umaroth khiển trách.

Vậy nói đi, ông già, nói cho chúng tôi biết đi.

Umaroth hình như phấn khích trong chốc lát. Nhưng khi trả lời, ông nói nghe ảm đạm. Con nói đúng: chúng ta không phải kẻ hèn nhát. Chúng ta không trốn chạy khi chiến đấu. Nhưng kể cả rồng cũng phải nằm chờ thời cơ. Con có đồng ý không, Saphira?

Cô nàng khụt khịt và đập đuôi từ bên này sang bên kia.

Và chúng ta không giống lũ Fanghur hay những con rắn độc thấp kém bỏ con cái mình tự sinh tự diệt. Nếu chúng ta tham chiến ở Doru Araeba, chúng ta sẽ tuyệt diệt hết. Chiến thắng của Galbatorix là điều chắc chắn – đúng như hắn đã tin – và loài chúng ta sẽ bị xóa sổ hoàn toàn khỏi trái đất.

Ngay khi chúng ta biết rõ về sức mạnh và tham vọng của Galbatorix, Glaedr nói, và ngay khi chúng ta biết hắn và những kẻ phản bội định tấn công Vroengard, Vrael, Umaroth, Oromis và ta, cùng một số người khác đã quyết định giấu những quả trứng cùng một số Eldunarí. Chúng ta cũng dễ thuyết phục những con rồng hoang dã thôi. Galbatorix săn đuổi họ, và họ không thể chống lại pháp thuật của hắn. Họ đã tới đây, họ đưa những đứa con còn đang trong trứng cho Vrael cùng những người có thể đẻ trứng được. Chúng ta biết sự sống còn của nòi giống đang bị đe dọa. Chúng ta đã đúng.

Eragon day thái dương. “Vì sao các vị không biết từ trước? Vì sao không phải là sư phụ Oromis? Sao các vị có thể giấu tư tưởng được? Người nói với con là không thể cơ mà.”

Không thể, Glaedr trả lời, hay ít nhất không thể chỉ bằng pháp thuật. Nhưng trong trường hợp này, nơi pháp thuật không thành công, khoảng cách lại làm nên chuyện. Đó là lý do vì sao chúng ta ở sâu trong lòng đất, sâu dưới núi Erolas những một dặm. Kể cả nếu Galbatorix hay Thập Tam phản đồ nghĩ tới dùng tư tưởng tìm kiếm những nơi không ai ngờ tới, những tảng đá cản đường sẽ khiến họ chỉ cảm tháy có một nguồn năng lượng bất thường. Họ sẽ cho đó là mạch sống của trái đất. Cái đó cũng nằm rất gần chúng ta. Hơn nữa, trước Trận chiến Doru Araeba, hơn một trăm năm trước, tất cả các Eldunarí đã được đặt ở trạng thái hôm mê sâu như chết giả. Chính vì thế chúng càng khó lòng tìm ra họ. Kế hoạch của chúng ta là sẽ đánh thức họ sau khi trận chiến kết thúc. Nhưng những ai xây dựng nơi này cũng ếm câu thần chú đánh thức họ dậy sau vài tuần trăng.

Đúng như vậy, Umaroth nói. Hầm mộ của Những Linh Hồn được đặt tại đây còn vì một lý do khác. Cái bình trước mặt các con là cánh cửa mở vào một bể nham thạch nằm dưới dãy núi này kể từ ngày khai sinh lập địa. Nó cung cấp nhiệt độ cho những quả trứng và cung cấp ánh sáng cho các Eldunarí duy trì sức lực.

Eragon nói với Glaedr, Người vẫn chưa trả lời câu hỏi của con: vì sao Người và sư phụ Oromis không nhớ nơi này?

Umaroth là người trả lời: Vì tất cả những người biết về Hầm mộ của Những Linh Hồn đã đồng ý bị tẩy não và thay vào đó một ký ức giả. Kể cả Glaedr. Đây không phải một quyết định dễ dàng, đặc biệt với mẹ của những quả trứng. Nhưng chúng ta không thể ai ngoài những người trong căn phòng này biết sự thật. Ít nhật là Galbatorix. Vì thế chúng ta từ biệt bạn bè và chiến hữu. Chúng ta biết mình sẽ không bao giờ gặp lại họ và rằng, nếu những điều xấu nhất qua đi, họ sẽ nghĩ rằng chúng ta đã tan biến vào hư vô… Như ta đã nói, đây không phải một quyết định dễ. Chúng ta cũng phải xóa tên tảng đá đánh dấu cổng vào nơi thần thánh này, cũng như đã xóa tên mười ba con rồng phản bội chúng ta.

Cả trăm năm cuối đời, ta đã tin loài giống mình đã tuyệt diệt, Glaedr nói. Giờ, khi biết tất cả những đau khổ đã không còn gì...Ta rất mừng rằng sự ngu dốt của ta đã giúp ta bảo vệ họ.

Sau đó Saphira nói với Umaroth, Vì sao Galbatorix không biết người và những quả trứng đã biến mất?

Hắn nghĩ chúng ta chết trận. Chúng ta chỉ là một số lượng Eldunarí ở Vroengard. Hắn không thể nào nghi ngờ sự biến mất của chúng ta. Đối với những quả trứng, chắc chắn hắn điên lên vì chúng không còn. Nhưng hắn không đời nào nghĩ hai chuyện có liên hệ với nhau.

Ờ đúng, Glaedr buồn buồn nói. Thế nên Thuviel đồng ý tự sát: để Galbatorix không biết chúng ta chơi khăm hắn.

“Nhưng không phải chính Thuviel cũng giết chết rất nhiều chiến hữu sao?” Eragon hỏi.

Ừ, và đó là một đại họa, Umaroth nói. Nhưng dù sao chúng ta cũng đã thỏa thuận rằng ông ta sẽ không hành động nếu như chúng ta chúng ta chắc chắn chiến bại. Ông ấy đã hy sinh bản thân, hủy diệt toàn bộ những tòa nhà thường là nơi giữ trứng. Ông ấy biến hòn đảo thành một kho thuốc độc để Galabatorix không chọn đóng đô tại đây.

“Ông ấy có biết vì sao ông ấy phải tự sát không?”

Lúc đó thì không. Chỉ khi cần thiết ông ấy mới biết. Một trong Thập tam Phản đồ đã giết chết con rồng của Thuviel cách đó một tháng. Dù Thuviel không tan biến, vì chúng ta cần càng nhiều chiến binh càng tốt để chống trả Galbatorix, ông ấy đã không thiết sống nữa. Ông ấy mừng vì mình được nhận nhiệm vụ đó. Ông ấy sẽ được giải thoát mà vẫn phục vụ mục đích cao cả của chúng ta. Nhờ món quà sự sống đó, chúng ta đã bảo vệ được giống nòi và các Kỵ sĩ. Ông ấy là một người anh hùng vĩ đại dũng cảm. Rồi sẽ có một ngày, mọi ngóc ngách Alagaësia đều vang lên bài ca về ông ấy.

Vậy là sau khi trận đánh kết thúc, mọi người ở lại chờ đợi, Saphira nói.

Ừ, Umaroth đồng tình. Suy nghĩ dành hàng trăm năm sống trong môt căn phòng nằm sâu trong lòng đất khiến Eragon nao núng. Nhưng chúng ta không lười biếng. Khi chúng ta thức giấc, chúng ta bắt đầu phóng tư tưởng ra, lúc đầu chậm thôi.Sau đó với một sự tự tin hơn bao giờ hết, vì Galbatorix và Thập tam phản đồ đã bỏ đi. Khối sức mạnh của chúng ta rất lớn. Chúng ta có thể nhìn trước những chuyển biến trên mảnh đất này. Thường thì chúng ta không thể nhìn thấy rõ. Nhưng chúng ta có thể thấy những sợi năng lượng rối rắm trên toàn Alagaësia. Chúng ta có thể lắng nghe suy nghĩ của những kẻ không biết bảo vệ tư tưởng. Nhờ vậy, chúng ta nắm bắt được thông tin.

Hàng thập kỷ trôi qua, chúng ta tuyệt vọng vì không có ai có thể đánh bại Galbatorix. Chúng ta đã chuẩn bị để chờ đợi hàng thế kỷ nếu cần thiết. Nhưng ta có thể cảm nhận sức Phá- trứng đang lớn lên. Chúng ta sợ rằng chúng ta sẽ phải đợi hàng ngàn hay vì hàng trăm năm. Chúng ta đồng ý rằng, điều này là không thể chấp nhận, vì lợi ích của cả chúng ta và những con rồng con trong trứng. Chúng bị ếm phép làm chậm nở. Chúng có thể mãi là trứng trong nhiều năm. Nhưng dù gì việc ở trong trứng quá lâu cũng không tốt. Nếu vậy, tư tưởng của chúng sẽ biến động và khác thường.

Vì lo lắng, chúng ta bắt đầu can thiệp vào những sự kiện mình nhìn thấy. Lúc đầu chỉ rất nhỏ: ở đây thì thuyết phục ai đó, đằng kia thì đưa ra lời khuyên, hay cảnh bảo cho ai sắp bị hại. Không phải lúc nào chúng ta cũng thành công. Tuy nhiên chúng ta có thể giúp những người vẫn ngoan cường chống trả Galbatorix. Thời gian trôi qua, càng lúc chúng ta càng tự tin hơn vào khả năng của mình. Trong một số ít trường hợp, người ta phát hiện ra sự hiện diện của chúng ta dù không biết chúng ta là ai hay cái gì. Chúng ta ba lần sắp đặt cái chết của một trong Thập tam Phản đồ. Khi không bị cảm xúc che mờ mắt, Brom là một vũ khí hữu hiệu.

“Các người đã giúp ông Brom!” Eragon reo lên.

Đúng, và giúp nhiều người khác nữa. Khi con người tên Hefring trộm trứng của Saphira khỏi phòng báu vật của Galbatorix – vào một buổi đêm cách đây hai mươi năm – chúng ta đã giúp hắn thoát, nhưng chúng ta đã đi quá đà. Hắn phát hiện ra chúng ta và sợ hãi. Hắn tháo chạy và không gặp mặt quân Varden như dự kiến. Sau đó, sau khi Brom cứu quả trứng của con, Varden cùng thần tiên bắt đầu truyền tay nhau quả trứng của con, trước khi tìm ra cho con một người kỵ sĩ thích hợp. Chúng ta quyết định rằng mình phải chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống đó. Vì thế chúng ta đã vươn tư tưởng tới gặp ma mèo. Họ là bạn lâu năm với rồng. Chúng ta nói chuyện với họ. Họ đồng ý giúp. CHúng ta cho họ biết về Tảng đá Kuthian và thép sáng dưới rễ cây Menoa. Sau đó chúng ta tẩy tất cả những ký ức về cuộc nói chuyện khỏi trí não họ.

“Người làm tất cả ư, từ đây?” Eragon phân vân hỏi.

Và còn nhiều hơn thế. Con đã bao giờ nghĩ vì sao quả trứng của Saphira lại tình cờ xuất hiện trước mặt con khi con đang ở giữa đại ngàn Spine?

Người làm ư? SAphira cất tiếng. Cô nàng cũng choáng nặng như Eragon.

“Con cứ nghĩ vì Brom là cha con, Arya đã đưa nhầm.”

“Không, Umaroth nói. Phép thuật của thần tiên không có chỗ cho lầm lẫn. Chúng ta đã thay đổi dòng chảy pháp thuật để con và SAphira gặp nhau. Chúng ta nghĩ có thể có – dù cơ hội rất nhỏ, nhưng dù sao vẫn là cơ hội – rằng con sẽ phù hợp với cô bé này. Chúng ta đã đúng.

“Nhưng sao người không cho chúng con tới đây sớm hơn?” Eragon hỏi.

Vì con cần thời gian để tôi luyện, và chúng ta cũng sợ sẽ đánh động Galbatorix về sự hiện diện của chúng ta trước khi con và Varden sẵn sàng đối diện với hắn. Ví dụ, nếu chúng ta liên hệ với các con ngay sau Trận chiến trên Cánh đồng cháy, chúng ta sẽ được lợi gì nào, khi Varden vẫn còn cách Urû’baen quá xa?

Một phút im lặng.

Eragon từ từ nói, “Người còn làm gì cho chúng con nữa?”

Vài điều nho nhỏ, chủ yếu là cảnh báo thôi. Hình ảnh Arya ở Gil’ead, khi cô ấy cần sự giúp đỡ của con. Giúp chữa lành lưng cho con ở Agaetí Blödhren.

Glaedr không đồng ý. Anh gửi chúng tới Gil’ead, không hề được huấn luyện và không có lưới phòng hộ, trong khi các anh biết chúng phải đối mặt với một Tà thần ư?

CHúng ta nghĩ Brom sẽ ở cùng họ. Nhưng ngay khi ông ta chết, chúng ta không thể chặn hai đứa nhỏ lại, vì chúng vẫn phải tới Gil’ead để tìm quân Varden.

“Đợi đã,” Eragon nói. “Vậy sự...thay đổi của con là do mọi người?”

Một phần. Chúng ta chạm vào hình ảnh phản chiếu giống loài ta khi các thần tiên triệu hồi nó trong buổi lễ. Chúng ta đã tạo hình ảnh, còn cái đó tạo nên sức mạnh cho câu thần chú.

Eragon nhìn xuống và nắm tay thành quyền trong giây lát. Nó không giận, nhưng lại bùng lên những cảm xúc khác. Saphira, Arya, thanh kiếm của nó, vẻ ngoài của nó – nó nợ những con rồng trong căn phòng này. “Elrun ono,” nó nói. Cám ơn.

Không có gì đâu con, Khắc tinh của Tà thần.

“người cũng giúp anh Roran nữa ư?”

Anh họ con không cần chúng ta giúp. Umaroth dừng lại. Chúng ta quan sát cả hai con, Eragon và Saphira trong nhiều năm liền. Chúng ta quan sát các con lớn lên từ khi còn là đứa bé tới khi trở thành một chiến binh dũng mãnh. Chúng ta tự hào vì các con. Con, Eragon, con là tất cả những gì chúng ta hy vọng ở một Kỵ sĩ mới. Còn con, Saphira, con đã chứng minh mình xứng đáng đứng vào hàng ngũ những con rồng vĩ đại nhất.

Sự vui sướng và tự hào của Saphira tràn ngập trong eragon. Nó quỳ một chân xuống, kể cả cô nàng cũng đặt chân xuống sàn và cúi gục đầu. Eragon muốn nhảy lên, la hét và ăn mừng nhưng nó kìm lại. Nó chỉ nói, “Thanh kiếm của con là của người...”

...Cũng như răng và móng vuốt của con, Saphira nói.

“Tới ngày tận thế,” họ đồng thanh nói. “Người muốn gì ở chúng cơn, Ebrithilar?”

Umaroth hài lòng. Ông rồng trả lời, Giờ các con đã tìm thấy chúng ta, những ngày trốn chạy của chúng ta đã kết thúc. Chúng ta sẽ cùng các con tới Urû’baen và sát cánh chống lại Galbatorix. Giờ là lúc rời tổ và đối diện với kẻ đập-trứng phản bội kia một lần cho xong. Không có chúng ta, hắn có thể mở toang đầu óc con dễ như chúng ta vừa làm. Vì hắn có rất nhiều Eldunarí dưới trướng.

Con không thể mang theo tất cả mọi người, Saphira nói.

Con không cần làm thế, Umaroth nói. Năm người sẽ ở lại trông chứng cùng với Cuaroc. Nếu chúng ta thua Galbatorix, họ sẽ không còn nhiều năng lương nhưng cũng đủ để chờ đợi tới lúc an toàn trở lại để chu du trong Alagaësia. Nhưng các con đừng lo lắng; chúng ta sẽ không trở thành gánh nặng cho con. Chúng ta sẽ cho con mượn sức.

“Ở đây có bao nhiêu người ạ?” Eragon hỏi và đảo mắt nhìn quanh phòng.

Một trăm ba mươi sáu. Nhưng đừng nghĩ chúng ta có thể đánh bại những Eldunarí bị Galbatorix nô dịch. Chúng ta quá ít, những người được chọn ở lại hầm mộ này hoặc quá già không thể hy sinh trong trận chiến hoặc quá trẻ và quá ít kinh nghiệm thực chiến. Chính vì thế ta mới ở lại đây với họ. Ta là cầu nối trong nhóm, ở mốc hiểu biết thông thường nếu không có sẽ là một sự thiếu sót. Những người già thông thái và có nhiều quyền năng. Nhưng trí óc họ đi lang thang theo những con đường kỳ lạ. Khó có thể thuyết phục họ tập trung vào những điều nằm ngoài giấc mơ. Những con rồng khác trẻ hơn và kém may mắn hơn: họ đã rời bỏ thân thể quá sớm. Chính vì thế đầu óc bị hạn chế theo kích thước của Eldunarí. Họ sẽ không thể lớn hơn khi đã rời bỏ cơ thể. Hãy để đó làm bài học cho con, Saphira, đừng từ bỏ Eldunarí của con. Trừ khi con đã đạt tới một kích cỡ đáng nể hoặc đối diện với sự nguy hiểm một sống một chết.

“Vậy là chúng ta vẫn kém hơn chúng,” Eragon ảo não nói.

Đúng đó Khắc tinh của Tà thần. Nhưng giờ Galbatorix không thể bắt con khuất phục ngay khi nhìn thấy con. Chúng ta có thể không đánh bại được chúng, nhưng chúng ta có thể cầm chân Eldunarí của hắn đủ lâu để con và Saphira làm những gì phải làm. Chúng ta biết nhiều điều, nhiều bí mật về chiến tranh và pháp thuật và cách thế giới xoay vần. Chúng ta sẽ dạy cho con những gì chúng ta có thể dạy. Có thể những kiến thức đó sẽ giúp con đánh bại nhà vua.

Sau đó, Saphira hỏi về những quả trứng. Ở đây có tổng cộng hai trăm bốn mươi ba quả. Hai mươi sáu quả đã được kết nối với các kỵ sĩ; số còn lại thì chưa. Sau đó họ nói chuyện về chuyến bay tới Urû’baen. Trong khi Umaroth và Glaedr đưa ra lời khuyên về cách bay nhanh nhất tới thành phố cho Saphira, người đàn ông đầu rồng tra kiếm vào bao, hạ khiên xuống và lần lượt đưa các Eldunarí trên tường xuống. Hắn đặt từng viên đá như ngọc đó vào một túi lụa sau đó nhẹ nhàng đặt trên nền nhà cạnh cái bình phát sáng. Eldunarí lớn nhất có kích cỡ kinh khủng. Người đàn ông mình sắt đầu rồng không thể ôm trọn tay quanh nó được.

Khi Cuaroc làm việc và bọn họ nói chuyện, Eragon vẫn thấy ngờ vực. Nó không dám mơ rằng còn có những con rồng trốn tại Alagaësia. Thế mà giờ họ ở đây như một phần của những năm tháng đã mất. Như thể câu chuyện của những người già biến thành sự thực. Nó và Saphira bị lạc giữa câu chuyện.

Cảm xúc của Saphira còn phức tạp hơn. Biết nòi giống không bị đe dọa tuyệt diệt nữa đã bỏ bớt gánh nặng trong lòng cô nàng – gánh nặng đã nằm đó rất lâu – và cô nàng quá vui mừng. Niềm vui ấy dường như khiến đôi mắt và vảy cô nàng sáng hơn bình thường. Nhưng, cô nàng vẫn có chút tự vệ vì cô nàng rất tỉnh táo đối mặt với Eldunarí.

Dù bị lạc trong cảm xúc, Eragon vẫn nhận thức thấy sự thay đổi cảm xúc của Glaedr; ông không hoàn toàn quên đi nỗi buồn, nhưng đây là khoảnh khắc hạnh phúc nhất của ông kể từ ngày Oromis mất. Và khi giờ đây Glaedr không khác gì Umaroth, ông đối xử với những con rồng khác với sự kính trọng mà Eragon chưa từng thấy, kể cả khi Glaedr nói chuyện với Nữ hoàng Islanzadí.

Khi Cuaroc gần hoàn tất công việc, Eragon đi tới cạnh cái bình và nhìn vào đó. Nó thấy một cần trục hình tròn chìm sâu trong tảng đá hơn ba mươi mét, mở vào một cái động chìm một nửa trong những viên đá phát sáng. Chất lỏng màu vàng đặc sệt nổi bóng như một chậu keo sôi. Khí bốc lên từ bề mặt. Nó nghĩ nó thấy một ánh sáng, như ánh sáng của một linh hồn bay trên bề mặt biển nham thạch. Nhưng nó biến mất quá nhanh khiến Eragon không dám chắc.

TỚi đây, Eragon, Umaroth nói khi người đàn ông đầu rồng đặt những Eldunarí cuối cùng vào túi. Con phải đọc thần chú ngay bây giờ. Như thế này này...

Eragon nhíu mày lắng nghe. “Cái gì...vặn ở câu thứ hai ạ? Con phải vặn cái gì cơ, không khí ư?”

Umaroth giải thích còn làm Eragon điên đầu hơn. Umaroth thử lại, nhưng Eragon vẫn không hiểu. Những con rồng già hơn khác cùng ní chuyện, nhưng giải thích của họ còn khó hiểu hơn. Vì họ chỉ truyền cho nó xem hàng loạt những hình ảnh, những cảm giác, những sự so sánh kỳ dị khiến Eragon hoang mang rối trí.

Saphira và Glaedr cũng choáng tương tự. Vì thế Eragon cũng thoái mải phần nào. Nhưng dù sao Glaedr cũng nói, Ta nghĩ là ta hiểu, nhưng cái này giống như là bắt một con cá đang sợ vậy. Cứ khi nào ta nghĩ ta bắt được nói, nó lại chuồi khỏi miệng ta.

Cuối cùng Umaroth nói. Đây là bài học dành cho lúc khác. Con biết câu thần chú dùng để làm gì nhưng không biết làm thế nào. Thế là đủ. Hãy lấy sức mạnh từ chúng ta và đọc thần chú. Sau đó chúng ta đi.

Eragon lo lắng nghĩ lại những từ ngữ trong đầu để tránh phạm lỗi. Sau đó nó bắt đầu đọc. Nó rút năng lượng từ Eldunarí. Da thịt nó ngứa ngáy khi dòng năng lượng khổng lồ truyền vào nó, như một dòng nước vừa nóng vừa lạnh.

Không khí xung quanh bao Eldunarí rung chuyển. Sau đó cái túi tự khóa miệng lại và biến mất. Một luồng gió thổi bạt tóc Eragon. Một tiếng thịch nho nhỏ vang lên trong phòng.

Eragon kinh ngạc quan sát Saphira ngửa đầu ra sau và bổ đầu vào chỗ những Eldunarí vừa biến mất. Họ biến mất hoàn toàn như chưa bao giờ tồn tại. Nhưng nó và cô em vẫn cảm nhận được tư tưởng của của những con rồng đang rất gần.

Một khi rời khỏi hầm mộ, Umaroth nói, lối vào túi không gian này lúc nào cũng ở gần các con trong một khoảng cách nhất định, trừ khi các con ở khu vực bị hạn chế hoặc khi có một cơ thể con người đi qua. Lối vào không lớn hơn một đầu kim, nhưng nó chết người hơn bất kỳ một thanh kiếm nào. Nó có thể cắt xuyên da thịt con nếu con chạm vào.

Saphira khụt khịt. Cả mùi của người cũng biến mất.

“Ai tìm ra cách thực hiện câu thần chú này thế?” Eragon ngạc nhiên hỏi.

Một ẩn sĩ sống ở bờ biển phía bắc Alagaësia cách đây hai trăm năm, Umaroth trả lời. Đây là một đòn hay nếu con muốn giấu một thứ gì khỏi con mắt người thường. Nhưng đồng thời nó rất khó và nguy hiểm buộc con phải làm chính xác. Sau đó con rồng im lặng. Eragon có thể cảm nhận ông ta đã tập trung suy nghĩ. Sau đó Umaroth nói, Giờ còn có một điều con và Saphira cần biết. Ngay khi con đi qua cổng vòm đằng sau kia – Cánh cổng Vergathos – con sẽ quên Cuaroc và những quả trứng. Khi con tới cánh cửa cuối đường hầm, tất cả những ký ức sẽ bị xóa sạch. Kể cả chúng ta, những Eldunarí cũng quên mất những quả trứng. Nếu chúng ta giết được Galbatorix, cánh cổng sẽ trả lại ký ức cho chúng ta. Nhưng cho tới lúc đó, chúng ta sẽ không biết gì. Umaroth dường như đang gầm lên. Ta biết, chuyện này...không vui, nhưng chúng ta không thể để Galbatorix biết về những quả trứng.

Eragon không thích, nhưng nó không thể nghĩ ra phương án hợp lý hơn.

Cám ơn đã nói cho chúng con biết, Saphira nói. Eragon cũng nói lời cám ơn.

Sau đó chiến binh kim loại vĩ đại, Cuaroc nhặt khiên lên, rút gươm và đi tới cái ngai xưa cũ rồi ngồi xuống. SAU khi đặt lưỡi gươm lên đùi và đặt khiên xuống cạnh ngai, hắn đặt tay lên hông và bất động như tượng, chỉ trừ những tia lửa nhảy múa trong đôi mắt đỏ thẫm đang chăm chăm vào những quả trứng.

Eragon rùng mình quay lưng khỏi cái ngai. Có cái gì đó ám ảnh và bóng người cô đơn nơi cuối căn phòng. Khi biết Cuaroc và những Eldunarí sẽ phải ở lại trông trừng trong một trăm năm nữa – có khi hơn – khiến Eragon khó lòng rời đi.

Tạm biệt, Nó dùng tư tưởng nói.

Tạm biệt, Khắc tinh của tà thần, năm tiếng thì thầm trả lời, Tạm biệt, Vảy sáng. Chúc các con may mắn.

Sau đó Eragon mở rộng vai. Nó cùng Saphira rảo bước đi qua Cánh cổng Vergathos và rời khỏi Hầm mộ của những Linh hồn.

Trở về

Eragon đăm chiêu khi bước ra khỏi đường hầm trong ánh nắng chiều sớm trải lên Tảng Đá Kuthian.

Nó ngờ ngợ hình như đã quên chuyện gì đó rất quan trọng. Nó cố gắng lục lọi trí nhớ nhưng chẳng nghĩ ra được gì, chỉ có cảm giác trống rỗng làm nó thấy thực khó chịu. Có lẽ có liên quan tới …, không, nó vẫn không nhớ được gì hết. Shaphira, có phải em … nó buột miệng, nhưng rồi ngậm lại ngay lập tức.

Gì thế?

Không có gì. Anh chợt nghĩ … thôi bỏ đi; không thành vấn đề.

Cánh cửa vào đường hầm phía sau họ đóng lại vang lên tiếng ầm sâu thăm thẳm, những nét chạm trổ trên đó mờ dần, rồi mảnh chóp gồ ghề phủ đầy rêu trở lại thành cục đá như cũ.

Đi nào, giọng Umaroth vang lên, cùng rời khỏi đây thôi. Đã muộn rồi, và Urû’baen còn cách đây nhiều dặm nữa.

Eragon liếc nhìn lại khoảng trống, vẫn cảm thấy nó còn bỏ sót cái gì đó; nhưng nó vẫn gật đầu, leo lên yên của Saphira.

Khi nó quấn đai vòng qua chân, chợt có tiếng chim hót kì lạ vang lên từ khoảng rừng rậm phía bên phải. Nó nhìn theo, nhưng không nhìn thấy con vật đó. Nó nhăn mặt. Thực sự thì nó rất mừng khi đến Vroengard, nhưng cũng mừng không kém khi được rời khỏi đây. Hòn đảo thực là một nơi không hiếu khách cho lắm.

Đi chưa hở anh? Saphira hỏi.

Uh, lượn thôi.Nó thở phào khẽ nói.

Chỉ cần lướt cánh một cái, Saphira đã phi thẳng lên không trung, lướt qua rừng táo khoảng đối diện với khu đất trống. Cô nàng phóng vụt  qua thung lũng, trèo một vòng qua khu tàn tích Doru Araeba. Khi lên đủ cao để vượt qua rặng rúi, cô nàng lượn trái bay về lục địa, nhằm hướng Urû’baen, bỏ lại phía sau đống đổ nát của thành trì vinh quang của Kỵ sỹ Rồng.

Thành phố u ám

Mặt trời vẫn đứng bóng khi quân Varden tới sát Urû’baen.

Roran nghe thấy tiếng hò reo của những chiến binh đứng đầu đội ngũ khi họ leo lên đỉnh đồi. Anh tò mò ngóng qua gót chân một người lùn đri tước, rồi khi lên đến đỉnh đồi, anh khựng lại để ngắm nhìn, cũng như những người lính đã đi trước.

Vùng bình nguyên trải dài thoai thoải xuống vài dặm, được san phẳng thành một khu đất rộng cho những cánh đồng, cối xay gió và những toàn nhà bằng đá khối, gợi anh nhớ đến một nơi gần Aroughs. Khoảng năm dặm phía xa ra bức tường thành Urû’baen đứng sừng sững.

Không giống như Dras-Leona, tường thành của Urû’baen đủ dài để ôm gọn toàn bộ thành phố phía trong. Nó cũng cao hơn nhiều, thậm chí từ khoảng cách này Roran có thể nói tường thành ở Dras-Leona lẫn Aroughs chỉ như những chú lùn khi so với nó. Anh đoán độ cao của bức tường tầm khoảng ba trăm thước. Anh còn nhìn thấy những máy phóng tên (ballistate) và máy bắn đá (catapult) được đặt đều đặn trên những lỗ châu mai rộng hoác.

Khung cảnh này làm anh thực lo lắng. Mấy cái may này quả là rất khó hạ - chưa kể là chúng còn được bảo vệ bởi phép thuật – và từ kinh nghiệm của mình anh biết chúng nguy hiểm nhường nào.

Phía sau bức tường là đám hổ lốn những công sự do con người lẫn tiên nhân xây nên. Cao sáu bộ và trông rất thanh nhã, những tòa tháp nổi bật nhất của tiên nhân được làm bởi những phiến đá xanh lục, nằm rải rác thành một hình vòng cung bao lấy khu – anh đoán – lâu đời nhất của thành phố. Hai cái tháp bị mất ngói, và có vẻ anh còn thấy hai cái nữa bị đổ, bị chôn vùi bởi hàng dãy nhà phía dưới.

Tuy nhiên, thứ gây chú ý cho anh nhất không phải là bức tường hay mấy toà tháp, mà khu vực đó nằm dưới bóng của một phiến đá khổng lồ, rộng ít nhất nửa dặm và dày ít nhất năm trăm thước. Phần đá nhô ra trông như bên sườn đồi trải dài về phía bắc đến vài dặm. Trên bờ đá lởm chởm là một bức tường khác giống bức bao quanh thành phố, cùng với những tháp canh vững chãi. (sao Paolini không vẽ đại ra người ta còn tưởng tượng cho dễ, aizzz)

Phía sau khoảng hõm vào bên dưới tảng đá là một tòa thành vĩ đại, tô điểm bởi hàng loạt tháp canh với tường chắn. Tòa thành vươn cao lên khỏi toàn bộ thành phố, gần như chạm đến mặt dưới của phiến đá. Điều đáng hãi nhất của cổng vào đặt trước tòa thành: một hang 

động bự chảng, đủ để Saphira và Thorn bước cạnh nhau trong nó.

Ruột Roran quặn thắt. Nếu những gì trước mắt đúng như anh nghĩ, Shruikan đủ lớn để quét sạch toàn bộ đoàn quân này.

 Tốt hơn là Eragon và Saphira nhanh nhanh lên, 

anh nghĩ.

 Cả đoàn quân tiên nhân nữa. 

 Từ những gì anh đã thấy, các tiên nhân có thể cầm cự được với con hắc long của nhà vua, những cũng có khó mà giết được nó.

Cứ như vậy, Roran đứng lặng nhìn trên đỉnh đồi. Rồi anh giật cương con Hỏa Tuyết. Đằng sau anh, con bạch mã khụt khịt đi theo Roran tiếp tục hành trình mệt rã rời, thoải bước xuống sườn đồi gió thổi lồng lộng.

Anh có thể cưỡi nó – đáng lẽ như thế, với vị trí tiểu đoàn trường – những sau hành trình tới Aroughs rồi trở lại, anh trở nên ngán ngẩm ngồi trên lưng ngựa.

Vừa đi, anh vừa nghiền ngẫm cách tốt nhất để tấn công thành phố. Phiến đá bao gọn Urû’baen ngăn cản công thành từ bên sườn cũng như phía sau, cũng khiến việc tấn công từ trên xuống phiền phức hơn nhiều, đây chắc là lý do các tiên nhân chọn nó làm nơi định cư đầu tiên.

Nếu có thể phá tan phần thoải ra, ta sẽ chiếm được tòa thành và hầu hết thành phố, 

anh nhẩm tính, nhưng cũng nhận ra rằng chuyện đó thật khó xảy ra, vì vách đá quá dày.

 Dù sao,ta vẫn có thể chiếm bờ tường phía đỉnh đồi. Từ đó ta có thể thả đá và đổ dầu sôi xuống dưới. Chiến đấu ở trên đồi, và mấy bức tường… Có khi tiên nhân làm được. Hoặc Kull. Họ chắc khoái lắm.

Dòng sông Ramr chảy phía Bắc cách Urû’baen vài dặm, quá xa nên chẳng giúp được gì. Saphira có thể đào một con rạch để chuyển hướng nó, nhưng cô rồng cũng cần hàng tuần lễ để hoàn thành, mà Varden thì không có đủ ngần ấy lương thực. Quân lương chỉ còn đủ trong vài ngày. Sau đó chỉ còn đường chết đói hoặc tan rã.

Lựa chọn duy nhất bây giờ là tấn công phủ đầu quân đội Đế chế. Roran không tin Galbatorix

 sẽ 

tấn công. Từ trước tới giờ lão có vẻ thoải mái để quân Varden tới gần mình.

 Sao lão phải mạo hiểm làm chi? Lão càng chờ thì quân ta càng yếu.

Điều đó có nghĩa là cuộc tấn công trực diện – bằng cách xung phong ào ạt điên rồ tới bức tường quá dày và quá cao để có thể trèo qua hay phá vỡ, chưa kể cung thủ và máy bắn đá nã liên tục. Chỉ tưởng tượng thôi cũng khiến lông mày anh nhăn tít lại. Quân ta sẽ chết ý như súc vật vậy. Anh chửi thề.

 Chúng ta tự tìm chết, còn Galbatorix thì cười ngặt nghẽo trên ngai vàng của lão … Nếu quân ta có thể tới gần bức tường, quân địch sẽ không thể bắn hoặc nã đá được nữa, nhưng vậy lại dễ làm mồi cho dầu nóng với đá tảng rơi vào đầu.

Kể cả nếu quân Varden có phá được tưởng thành đi chăng nữa, họ vẫn phải đối mặt với cả đoàn quân của Galbatorix. Quan trọng hơn nữa, ai mà biết được tính cách và phẩm chất của những binh sĩ đó. Liệu họ có liều mạng chiến đấu đến cùng không? Họ có biết sợ không? Họ có tháo chạy khi bị quân ta ép tới không? Loại thề nguyền và thần chú nào trói buộc họ đây?

Tình báo của Varden cho biết Galbatorix đã phong một kẻ tên là Ngài Barst làm chỉ huy quân đội trong thànhUrû’baen. Roran chưa bao giờ nghe tới tên Barst trước đây, nhưng mẩu tin có vẻ làm Jörmundur phát nản, rồi lính trong tiểu đoàn của Roran cứ kể mấy câu chuyện về sự tàn độc của Barst. Hình như trước đây Barst từng là chủ của một điền trang rất lớn ở Gil’ead, rồi phải bỏ đi sau khi tiên nhân đến xâm chiếm. Các nô lệ của hắn sống trong sợ hãi thường trực, vì Barst có xu hướng giải quyết tranh cãi và trừng phải tội nhận bằng cách tàn bạo nhất có thể, và thường là đơn giải xử tử những kẻ hắn tin là có tội. Chỉ thế thôi thì có vẻ không đáng chú ý lắm; cả tá những chủ nô lệ khắp Đế chế mang tiếng hung ác. Tuy nhiên, Barst không chỉ tàn độc mà còn rất mạnh – mạnh khủng khiếp – và xảo trá vô cùng. Trong tất cả những chuyện về Barst mà Roran từng nghe, trí thông minh của hắn là rõ rồi. Barst có thể là một kẻ khốn nạn, nhưng cũng rất tài trí, và Roran hiểu rõ rằng đánh giá thấp hắn sẽ là sai lầm chết người. Galbatorix sẽ không đời nào chọn một kẻ yếu đuối, hoặc ngốc nghếch chỉ huy lính của hắn.

Và còn đó Thorn với Murtagh. Galbatorix có vẻ không thích ra khỏi thành trì của lão, nhưng con rồng đỏ và Kỵ Sỹ của nó thì chắc chắn sẽ bảo vệ tòa thành.

 Eragon và Saphira phải dụ chúng ra xa. Nếu không quân ta sẽ chẳng bao giờ vượt qua được tường thành. 

Roran cau mày. Vấn đề là ở chỗ đó. Murtagh trước đây còn mạnh hơn Eragon bây giờ. Eragon vẫn cần các tiên nhân trợ giúp để tiêu diệt hắn.

Roran lại cảm thấy cơn giận dữ và oán hận dâng lên trong lòng. Anh ghét việc phải chịu quyền sinh quyền sát của những kẻ sử dụng pháp thuật. Ít ra khi cần đến sức mạnh và khôn khéo, người ta có thể thừa cái này thiếu cái kia, nhưng chẳng có cách nào bù đắp được một người không có phải thuật cả.

Quá chán nản, anh vốc một viên sỏi lên, thầm thì “Stenr rïsa” như Eragon dạy. Viên đá vẫn trơ ra.

Viên đá

 mãi 

trơ ra như vậy.

Anh khịt mũi, ném nó qua vệ đường.

Vợ con anh đều ở Varden, mà anh thì chẳng thể làm được gì để giết Murtagh hay Galbatorix. Anh siết chặt bàn tay, tưởng tượng đã nghiền nát cái gì đó. Hầu hết là xương cốt kẻ địch.

Có khi ta nên bỏ đi. 

Lần đầu tiên ý nghĩ ấy xuất hiện trong đầu Roran. Anh biết có những miền đất nằm ngoài tầm tay của Galbatorix mãi về phía đông – những đồng bằng màu mỡ chưa có dân du mục khai phá. Nếu những dân làng khác đi với anh và Katrina, họ có thể bắt đầu một cuộc sống mới tự do ngoài Đế chế và Galbatorix. Tuy nhiên ý nghĩ này khiến anh phát bệnh. Anh sẽ bỏ rơi Eragon, lính của anh, vùng đất mà anh gọi là nhà ư.

 Không. Mình sẽ không để con của chúng ta sinh ra trong thế giới mà Galbatorix vẫn thống trị được. Sống mà sợ hãi thế thì thà chết còn hơn.

Dĩ nhiên, nghĩ ngợi thế chẳng giải quyết được cách chiếm Urû’baen. Trước đây, luôn có những điểm yếu mà anh có thể khai thác được. Ở Carvahall, bọn Ra’zac đã không hiểu dân làng có thể chiến đấu quyết liệt thế nào. Khi anh vật nhau với Urgal Yarbog, đó chính là sừng của đối thủ. Ở Aroughs, đó là con kênh thượng nguồn. Nhưng giờ đây với Urû’baen, anh không nhìn thấy điểm yếu nào, chẳng có gì giúp anh biến lợi thế của kẻ địch thành của mình cả.

Nếu ta có cung ứng, ta có thể bao vây và đợi chúng chết đói. Thế là tốt nhất. Làm khác thì thật là điên rồ. 

Tuy nhiên anh biết chiến tranh thì bao giờ cũng đầy rẫy những chuyện điên rồ như vậy.

Cách duy nhất chỉ có phép thuật, 

cuối cùng anh kết luận.

 Phép thuật và Saphira. Nếu chúng ta có thể tiêu diệt Murtagh, cô rồng hoặc các tiên nhân có thể giúp quân ta vượt qua bức tường.

Anh cau có, trong miệng thấy đắng ngắt, rồi sải bước nhanh hơn. Càng tới trại nhanh càng tốt. Bàn chân anh thấy nhức ngối vô cùng, và nếu anh phải chết trong cuộc xung phong vô nghĩa, thì ít nhất anh cũng muốn một bữa ăn nóng hổi và giấc ngủ ngon lành trước đã.

Quân Varden lập lều trại cách Urû’baen một dặm, men theo một nhánh nhỏ của sông Ramr. Loài người, người lùn, và Urgal bắt đầu lập chiến lũy, kéo dài đến tận đêm và tiếp tục lúc bình minh. Thực ra, cho đến khi nào vẫn còn ở đó, họ vẫn phải tiếp tục gia cố phòng ngự. Các chiến binh ghét cay ghét đắng lao động, nhưng việc đó khiến họ bận rộn, và có thể cứu mạng họ nữa.

Ai cũng nghĩ mệnh lệnh đến từ Eragon-giả. Roran biết Jörmundur mới là người ra lệnh. Anh dần dà thấy kính trọng người chiến binh già từ khi Nasuada bị bắt cóc và Eragon rời đi. Jörmundur đã chiến đấu chống lại Đế chế gần như suốt đời, ông hiểu sâu sắc cả chiến thuật lẫn hậu cần. Ông và Roran khá hợp nhau; họ đều chiến đấu bằng gươm giáo chứ không phải bằng phép thuật.

Rồi còn King Orrin nữa, người mà – sau vài đề phòng lúc đầu đã qua – Roran vẫn cảm thấy nhập nhằng. Orrin chưa bao giờ hết làm anh bực mình; và nếu ai đó khiếp bọn họ bị giết, hẳn đó là ông ta. Roran biết xúc phạm một vị vua chẳng hay ho gì, nhưng lão ngốc đó muốn cho một người đưa tin tới cổng thành Urû’baen để có một cuộc thách đấu công khai, như cách họ thắng được Dras-Leona và Belatona.

“Ông có

 muốn 

chọc tức Galbatorix hả?” Roran gầm lên. “Nếu chúng ta làm thế, lão ta có thể phản ứng đấy!”

“Phải, dĩ nhiên”, Vua Orrin cả giọng, ưỡn thẳng người. “Sẽ rất phù hợp nếu chúng ta phát ngôn ý định rõ ràng và cho lão cơ hội đàm phán hòa bình.”

Roran trân trối, rồi khinh bỉ quay qua phía Jörmundur, “Ngài có thể làm ông ấy biết phải trái không?”

Họ tập trung trong lều của Orrin, theo triệu tập của nhà vua.

“Thưa Đức Vua”, Jörmundur nói, “Roran nói phải. Tốt nhất là nên đợi chưa vội liên lạc với Đế chế.”

“Nhưng họ thấy ta mà,” Orrin phản đối. “Chúng ta dựng trại ngay ngoài tường thành của họ. Thật là … thô lỗ nếu không gửi sứ giả bày tỏ kiến nghị của chúng ta. Hoàng gia đòi hỏi phải có phép lịch sự tối thiểu, thậm chỉ cả trong chiến tranh.”

Ý nghĩ thôi thúc đập cho nhà vua một cái xẹt qua đầu Roran. “Ông vẫn còn ngớ ngẩn tới mức cho rằng Galbatorix sẽ xem ông như một kẻ ngang hàng à? Hmm! Với lão chúng ta chỉ là kiến cỏ thôi. Lão chả quan tâm đến phép lịch sự của ông đâu. Ông quên mất Galbatorix từng là thường dân trước khi lão lật đổ các Kỵ Sỹ rồi à. lão không hành xử như ông đâu. Không có ai như lão trên đời này hết, mà ông còn nghĩ có thể đoán trước được lão như. Ông muốn xoa dịu lão ư? Hmm!”

Khuôn mặt của Orrin đỏ lên, ông quăng cốc rượu trong tay xuống sàn. “Anh đi quá xa rồi đấy, Cây Búa Dũng Mành à. Không ai có quyền sỉ nhục tôi như thế.”

“Tôi có quyền làm bất cứ thứ gì tôi muốn,” Roran gầm lên. “Tôi không phải là thần dân của ông. Tôi không phải vâng lời ông. Tôi là người tự do, và tôi sẽ sỉ nhục bất kì ai tôi muốn, bất kì lúc nào tôi muốn, bằng cách nào tôi muốn – kể cả ông. Gửi người đưa tin đi là cực kì sai lầm, và tôi …”

Một tiếng rít vang lên khi vua Orrin rút gươm khỏi vỏ. Ông không làm Roran hoàn toàn bất ngờ được, anh luôn cầm cây búa của mình, và ngay khi nghe thấy tiếng động, anh lập tức lôi vũ khí từ thắt lưng ran gay lập tức.

Thanh gươm của nhà vua trở nên bàng bạc trong ánh sáng tù mù của căn lều. Roran thấy Orrin sẽ đâm tới , anh tránh đi. Rồi anh đập mạnh vào bề mặt lưỡi gươm, khiến nó rung lên, văng khỏi tay Orrin.

Thanh gươm nạm ngọc rơi xuống thảm, vẫn còn rung rung.

“Đức Ngài,” một lính cách hô lên. “Ngài có ổn không?”

“Tôi vừa đánh rơi khiên,” Jörmundur đáp. “Không có gì phải lo cả.”

“Vâng, thưa ngài.”

Roran nhìn đức vua trân tối; trên mặt Orrin là vẻ hoang dã của một con thú bị săn. Không rời mắt khỏi ông, Roran đeo búa vào thắt lưng. “Liên lạc với Galbatorix là ngu xuẩn và nguy hiểm. Nếu ông cố thử, tôi sẽ giết bất kì ai ông gửi đi trước khi hắn kịp tới thành phố.”

“Mày không dám đâu!” Orrin hổn hển.

“Tôi có thể, và sẽ làm. Tôi sẽ không để ông gây nguy hiểm cho tất cả chúng ta chỉ để thoải mãn niềm … kiêu hãnh hoàng gia của ông. Nếu Galbatorix muốn nói chuyện, hắn sẽ biết phải tìm chúng ta ở đâu. Nếu không,

 cứ mặc hắn

.

Roran phóng ra khỏi căn lều. Bên ngoài, anh chống tay vào hông nhìn lên trời mây u ám trong khi chờ mình bình tĩnh lại. Orrin hệt như một con la non: cố chấp, tự tin quá đáng, và sẵn sàng chọc xà beng vào lỗ tai nếu người ta cho ông cơ hội.

Và ông ta uống nhiềukinh khủng nữa, 

Roran thầm nhủ.

Anh cứ tản bộ trước căn lều cho đến khi Jörmundur bước tới. Trước khi ông kịp nói gì, anh trầm giọng, “Tôi xin lỗi.”

“Cũng như cậu đáng phải thế.” Jörmundur quẹt tay lên trán, rồi rút từ trong túi một chiếc tẩu đất sét, dúi vào một ít lá, nhồi bằng đầu ngón cái. “Nãy giờ tôi ở đó chỉ để thuyết phục ổng không gửi đặc sứ cho tỏ ra bất chấp ý kiến của cậu đấy.” Ông dừng lại trong giây lát. “Cậu có thực sẽ giết người của Orrin không đấy?”

“Tôi không dọa suông bao giờ,” Roran nói.

“Tôi cũng không nghĩ thế… Rồi, hy vọng là không đến nước đấy.” Jörmundur tản bộ dọc theo những chiếc lều, Roran đi theo. Các binh sĩ tránh đường cho họ kèm theo những cái cúi đầu tôn kính. Nhướn tẩu thuốc lên, Jörmundur khề khà, “Tôi thừa nhận mình cũng luôn muốn đáp trả Orrin thẳng thừng như thế hơn một lần.” Môi của ông dang ra thành một nụ cười nhạt. “Không may sao, lần nào tôi cũng nghĩ rồi mới làm.”

“Ổng vẫn thường … cứng đầu như vậy từ trước tới giờ à?”

“Hmm? Không đâu. Lúc còn ở Surda, ổng biết điều hơn nhiều.”

“Có chuyện gì vậy?”

“Ổng sợ, tội nghĩ vậy. Sợ hãi làm người ta xử sự kì quặc lắm.”

“Phải đấy.”

“Có vẻ hơi xúc phạm cậu một tí, nhưng mà cậu cũng ngu quá đi cơ.”

“Tôi biết. Tôi cứ nóng lên là làm tới thôi.”

“Và cậu kết oán với một vị vua.”

“Ý ông là một vị vua

 khác.

Jörmundur phì cười nhẹ. “Ờ phải, tôi cho là cậu có kẻ thù cá nhân là Galbatorix rồi, ai khác thì cũng vô hại cả. Dù sao đi nữa …” Ông dừng lại trước đống lửa, rút ra từ đó một cành cây mỏng cháy đỏ. Chấm đầu cành cây vào lòng tẩu thuốc, ông rít vài hơi, châm lửa, rồi quẳng cành cây lại vào đám lửa. “Dù sao đi nữa, tôi sẽ không bỏ qua cơn giận của Orrin đâu. Ông ta sẵn sàng giết cậu trước đây. Nếu ổng oán ai đó, tôi nghĩ là ổng sẽ trả thù bằng được. Tôi sẽ sắp lính canh ở lều của cậu trong vài ngày tới. Dù sao, sau đó …” Jörmundur so vai.

“Sau đó, chúng ta sẽ đều phải chết hoặc bị tù đày.”

Họ cùng bước đi trong im lặng thêm vài phút, còn Jörmundur cứ rít tẩu thuốc của ông suốt. Khi họ sắp tách nhau, Roran hỏi, “Khi ông thấy Orrin …”

“Gì vậy?”

“Có lẽ ông cho thể cho ông ấy biết nếu động chạm đến Katrina, tôi sẽ đánh ông ta lòi ruột trước toàn doanh trại.”

Jörmundur cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc, rồi ngẩng đầu gật gật. “Tôi nghĩ tôi có thể tìm ra cách làm chuyện đó, Cây Búa Dũng Mãnh.”

“Cảm ơn.”

“Sẵn sàng thôi. Lúc nào cũng thế, giúp cậu luôn là niềm vui độc đáo vô cùng.”

“…”

Roran tìm Katrina, thuyết phục cô mang bữa tối đến rìa phía Bắc doanh trại, nơi anh có thể cảnh giới đặc sứ của Orrin. Họ ăn bữa đặt trên tấm vải sạch trải ra trên nền đá cuội, rồi ngồi cùng nhau khi bóng chiều tà vươn ra, những ngôi sao nối đuôi nhau nhấp nháy trên bầu trời màu tím phía trên phiến đá nhô ra.

“Em rất mừng được ở đây,” cô thủ thỉ, tựa đầu vào vai anh.

“Thật không em?”

“Bầu trời thực đẹp, và em có anh ở đây với em.” Cô xiết chặt cánh tay anh.

Anh kéo cô lại gần, nhưng bóng đen trong lòng anh vẫn còn đó. Anh không thể nào quên hiểm nguy đang cận kề cô và đứa con của họ. Ý nghĩ kẻ thù lớn nhất của họ chỉ cách vài dặm cứ khiến lòng anh như lửa đốt; anh không ước gì hơn là có thể bật dậy, phi thẳng đến Urû’baen giết Galbatorix.

Nhưng chuyện đó là vô phương, nên anh mỉm cười, hoặc cười phá lên, cố giấu nỗi sợ hại, thậm chỉ khi anh biết cô cũng đang cố giấu nỗi sợ hại như vậy.

Khỉ thật, Eragon, 

anh nghĩ,

 cậu phải nhanh nhanh lên, hoặc tôi thề sẽ ám cậu sau khi chết đấy.

phan tiep hoi dong chien tranh

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: