Em ở đâu? (c5-c10e)
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Chương 5
Chiếc Boeing 727 của hang Eastern Airlines rời sân bay Tegucigalpa lúc 10 giờ sáng, trễ hai giờ so với lịch bay do thời tiết không thuận lợi. Ngồi trong máy bay, Susan lo lắng dõi mắt theo những đám mây đen đang tiến về phía họ. Khi cô tiếp viên mở cửa kính nhìn xuống đường băng, Susan nhìn theo những dòng hành khách đang di chuyển dưới mưa về phía đường băng. Máy bay đã ở vị trí sẵn sàng để cất cánh, người trưởng phi hành đoàn cho động cơ hoạt động với công suất tối đa để chống lại những cơn gió mạnh đang có nguy cơ làm máy bay lệch khỏi đường băng. Bánh máy bay rời khỏi mặt đất, đầu máy bay dựng lên, cố gắng bay lên thật nhanh để xuyên qua lớp mây. Susan ngồi tại ghế với dây an toàn thắt quanh người, cô bị lắc theo những đợt lắc lư dữ dội của máy bay; ngay cả khi lái chiếc xe hai cầu của mình chạy hết tốc độ trên đường, cô cũng không bị rung mạnh đến thế. Mũi máy bay hướng về phía đông bắc, họ bay phía trên đầu những dãy núi; và cơn bão bỗng nhiên mạnh lên gấp đôi. Một tia chớp đánh trúng thân máy bay, lúc 10giờ 23phút, chiếc hộp đen thu giọng nói của người phi công phụ thông báo cho nhóm điều khiển không lưu rằng động cơ số hai đã ngừng hoạt động, họ đang bị hạ độ cao. Ngoài cảm giác chóng mặt đang choán lấy cô, Susan cảm thấy buồn nôn khó tả, cô vòng hai tay ôm lấy phần dưới bụng, máy bay tiếp tục hạ độ cao. Phải mất ba phút thật dài, phi hành đoàn mới khởi động lại được động cơ phản lực và lấy lại độ cao. Phần còn lại của chuyến bay trôi qua trong bầu không khí im lặng thường thấy tiếp theo sau nỗi sợ hãi.
Khi quá cảnh tại sân bay Miami, cô chạy thật nhanh để khỏi lỡ chuyến bay. Đám người đi lại lộn xộn trong hành lang khiến cô di chuyển thật khó khăn, túi hành lý quá nặng, cô đột ngột cảm thấy một cơn chóng mặt mới và phải dừng lại. Cô lấy lại hơi và tiếp tục đi về hướng cửa lên máy bay, nhưng đã quá trễ. Cô đành đứng nhìn theo chiếc máy bay của mình đang cất cánh.
Philip nhìn qua cửa sổ chiếc xe bus đang đưa anh ra sân bay Newark. Anh đặt cuốn sổ gáy xoắn lên đầu gối. Cô gái trẻ bên cạnh anh ngồi quan sát anh dùng cây bút chì đen phác nên gương mặt của một người phụ nữ.
Cô lên chiếc máy bay kế tiếp, hai giờ sau đó. Bay phía trên các đám mây, cô chỉ còn cảm thấy buồn nôn; cô đẩy khay đồ ăn qua một bên và cố gắng chợp mắt.
Quán trống trải như vẫn thường thấy vào cuối giờ sáng, trừ khi có những hội nghị diễn ra hoặc thời điểm người ta đi du lịch. Anh ngồi vào bàn của mình. Sau giờ ăn trưa, quán lại trở nên vắng lặng, và người phục vụ ca chiều đến thay cho người ca sáng. Anh ta nhận ra Philip ngay lập tức và chào anh. Philip đến ngồi phía trước, vừa nghe anh ta nói chuyện vừa bắt đầu một bức vẽ mới phác hoạ quanh cảnh quán bar, bức thứ sáu trong cuốn sổ của anh, không kể bức mà anh đang treo phía trên bàn làm việc trong phòng của mình ở Manhattan. Khi bức vẽ đã xong, anh chìa cho người phục vụ xem, anh này cởi chiếc áo vest trắng ra và đưa cho anh; Philip cầm ngay lấy mặc lên người với vẻ thông đồng khoái chí. Họ đổi chỗ cho nhau, anh phục vụ đến ngồi trên chiếc ghế đẩu, khoan khoái rít điếu thuốc trong khi Philip kể cho anh ta nghe về năm vừa trôi qua.
Trong suốt thời gian này, nơi chiếc bàn nằm sát cửa kính, hai chiếc ghế được đặt quay lưng lại để không ai ngồi vào được. Susan đến bằng chuyến bay hạ cánh lúc 21giờ.
- Làm thế nào mà lần nào anh cũng có được chiếc bàn này?
- Trước hết, lần đầu tiên, em đã yêu cầu anh điều đó, và kế đến, cũng phải có một ít tài năng nữa! Anh đã ở đây đợi em từ chuyến bay trước. Tuy nhiên, cũng phải nói là thật kì lạ, chưa bao giờ anh nhìn thấy bàn này đã có người ngồi.
- Mọi người đều biết nó dành cho anh và em.
- Chúng ta sẽ nói về các vấn đề thể xác hay tinh thần trước?
- Năm nay em thay đổi nhiều đến thế à?
- Không, em có vẻ mặt của một người vừa đi một chuyến xa, thế thôi.
Người phục vụ đặt ly kem như mọi lần lên bàn, Susan mỉn cười và kín đáo đẩy nó ra xa.
- Anh thì nhìn rất tươi, kể cho em nghe về anh nào.
- Em không ăn kem à?
- Em hơi buồn nôn, chuyến bay thật tệ, và em đã rất sợ, máy bay bị hỏng mất một động cơ.
- Thế rồi sao? Anh hỏi vẻ lo lắng.
- Thì anh thấy đấy, em đã ở đây rồi, cuối cùng người ta đã khởi động lại được.
- Em có muốn ăn gì khác không?
- Không, em chẳng muốn ăn gì, em thực sự không đói. Năm vừa rồi anh không viết nhiều cho em.
- Em cũng vậy.
- Nhưng em, em có lý do của em.
- Lý do gì?
- Em không biết, anh luôn luôn nói là em tìm ra đủ thứ lý do, thỉnh thoảng em cũng phải sử dụng đến cái đống lý do đó chứ.
- Những cái cớ, từ mà anh đã dùng là những cái cớ! Có cái gì không ổn sao?Anh phải gặng hỏi từng từ nữa à?
- Chẳng gì cả, mọi cái đều ổn. Còn công việc của anh thì sao?
- Cứ theo đà này, muộn nhất là sau một năm nữa anh sẽ được vào vị trí giám đốc. Năm nay bọn anh đã thực hiện những chiến dịch quảng cáo rất tuyệt vời, và có thể anh sẽ nhận được một giải thưởng. Hiện có ba trong số những thiết kế của anh đang được đăng trên các tạp chí dành cho phụ nữ. Một hãng thời trang cao cấp của Pháp đã liên lạc với anh, họ chỉ muốn làm việc với anh, vì vậy càng ngày anh càng có uy tín tại công ty.
- Thật tuyệt, em tự hào về anh. Anh có vẻ rất hạnh phúc.
- Còn em, em có vẻ rất mệt mỏi Susan, em không bị ốm đấy chứ?
- Không, em thề với anh đấy, không có đến cả một con amip nhỏ nữa. Mà đúng rồi, anh thì hiện nay đang có một con "amip" nhỏ đúng không?
- Đừng có bắt đầu như vậy chứ! Đúng, và cô ấy tên là Mary.
- Ừ nhỉ! Đúng rồi, em quên béng mất tên của cô ấy!
- Em đừng làm vẻ mặt khinh thường người khác như vậy. Anh rất hạnh phúc với cô ấy. Bọn anh có cùng sở thích về sách, về các món ăn, về phim ảnh, bọn anh đang bắt đầu có những người bạn chung.
Susan thoáng nở một nụ cười ranh mãnh.
- Thế thì tệ quá, và hơn nữa, nó có vẻ giống với một mối quan hệ nho nhỏ được xã hội công nhận rồi, thật là hấp dẫn!
Cô nhướn lông mày và ghé mặt lại sát mặt anh, như để cho thấy cô đang đặc biệt chú ý đến những lời mình nói, và không khỏi để lộ một vẻ giễu cợt.
- Anh biết em nghĩ gì, Susan, có thể nó không giống như một tình yêu đam mê, nhưng ít ra thì nó không làm cho người ta đau đớn. Con tim anh không bị đè nặng suốt cả ngày vì sự vắng mặt của cô ấy, bởi vì anh biết rằng buổi tối anh sẽ gặp lại cô ấy. Anh không nhìn vào điện thoại suốt cả buổi chiều và tự hỏi ai trong hai người đã gọi điện lần gần nhất. Anh không phải lo lắng mình đã sai lầm khi chọn nhà hàng hay trong cách ăn mặc, hay nói điều gì đó có thể khiến cho cô ấy vĩnh viễn giữ một định kiến. Khi ngủ bên cô ấy, mỗi buổi sáng thức dậy, anh không phải lo thắt lòng bởi anh biết khi mở mắt ra, anh sẽ nhìn thấy cô ấy nằm gọn trong lòng anh. Anh không sống trong sự chờ đợi, anh sống trong thời khắc hiện tại. Cô ấy yêu anh, yêu con người như vốn có của anh. Có thể cái đang gắn kết anh và cô ấy chưa phải là một tình yêu cháy bỏng, nhưng đó là một mối quan hệ rất con người. Mary chia sẻ với anh những điều bình thường diễn ra hàng ngày trong cuộc sống của cô ấy ,và quan hệ của bọn anh được xây đắp, nó tồn tại thực sự.
- Và... pằng, ráng mà nhận lấy, cô em!
- Anh không nói những điều này để trách cứ em đâu!
- Cái ngày mà anh nhắm vào em, cho em biết trước nhé, vì chưa cần cố tình nhắm mà anh đã làm tốt đến thế, em không dám tưởng tượng trước những gì anh có thể làm nếu thêm một chút chủ ý. Anh nói thật hay về cô ấy. Thế tiếp theo sẽ là gì?
Vì đã đưa mắt nhìn xuống, Philip đã không nhìn thấy một thoáng buồn sâu thẳm trong ánh mắt của Susan khi anh tuyên bố đang dự định cưới Mary, vì anh đã đưa mắt nhìn xuống. Susan đưa mu bàn tay xoá đi nét buồn trong mắt.
- Em mừng cho anh, em hơi nhói đau trong tim vì ý nghĩ phải chia sẻ anh với người khác, nhưng em mừng cho anh một cách chân thành.
- Còn em, có gì mới trong cuộc sống của em?
- Chẳng có gì cả, chẳng có gì mới. Cuộc sống vẫn trôi đi như vậy, có vẻ hơi ngược đời. Nhìn từ thế giới này, mọi sự kiện ở nơi đó đều có vẻ đặc biệt, nhưng nhìn từ nơi em sống, tất cả đã là một phần của cuộc sống hàng ngày. Giữa một đứa trẻ được sinh ra và một người chết đi, có rất nhiều người cần phải nuôi, chỉ có vậy thôi. Em phải đi đây. Anh biết đấy, em đã bị lỡ chuyến bay mà em định đi và chuyến bay sắp khởi hành đi Washington trong nửa giờ nữa là chuyến cuối cùng, em đã đăng kí hành lý trên chuyến đó.
- Em đừng nói dối. Chẳng bao giờ em đi trên máy bay mà chỉ với chiếc túi này, em không muốn ở lại đêm nay sao?
- Không, sáng mai em có hẹn ở đó lúc 7 giờ.
Anh tính tiền. Khi đứng lên, anh nhìn kem đã chảy ra trong ly. Những màu sắc khác nhau đã trộn lẫn lộn và những lát hạnh nhân đã chìm xuống đáy ly. Anh choàng một tay qua vai cô và họ đi về phía cửa lên máy bay.
Vào lúc phải nói lời tạm biệt, anh nhìn thẳng vào mắt cô.
- Em chắc là em vẫn ổn chứ, Susan?
- Đương nhiên rồi, em chỉ kiệt sức một chút, có thể thôi, mà anh thôi đi, nếu không em sẽ mất hai giờ ngắm nghía trong gương để tìm xem có cái gì không ổn trên mặt.
- Em đã viết cho anh là em muốn nói với anh điều gì đó rất quan trọng cơ mà?
- Em không nhớ đã nói vậy, Philip, mà dù sao, chuyện đó cũng không quan trọng đến thế đâu bởi vì anh thấy đấy, bây giờ, em cũng chẳng còn nhớ chuyện đó là gì nữa.
Cô chìa vé cho người tiếp viên, quay lại để nhào vào vòng tay anh. Cô khẽ đặt đôi môi mình lên môi anh. Không nói một lời, cô đi về phía hang lang dẫn lên máy bay. Philip nhìn theo cô và hét to lên:
- Last call!
Cô đứng khựng lại, và chậm rãi quay người. Một nụ cười kiêu hãnh sáng lên trên gương mặt cô. Cô chậm rãi bước ngược trở lại về phía anh. Khi còn cách anh vài mét, cô hỏi gặng.
- Anh muốn nói gì với câu "last call" của anh?
- Em hiểu rất rõ anh muốn nói gì, Susan!
Cô khoát tay ra hiệu một cách cương quyết với cô tiếp viên vừa thoáng có chỉ định cản không cho cô bước qua cái quầy đang ngăn cách giữa họ. Cô đến bên, ghé sát vào mặt Philip và, bằng một giọng say sưa vì giận dữ, cô thì thầm nói với anh:
- Anh biết là em làm gì với cái "last call" của anh không, anh yêu! Anh là người đang nhận lấy cái rủi ro cho mình đó, không phải em đâu!
Đất nước bị khuấy động mạnh mẽ vì bạo lực leo thang ở Nicaragua nước láng giềng. Ở trong nước, người ta lo lắng vì có tin đồn cuộc nổi loạn của các nhóm vũ trang Sandiniste! Có thể tràn qua biên giới. Đất nước nghèo nhất của khu vực Trung Mỹ này khó lòng kham nổi thêm một tai họa mới. Sự hiện diện của các nhân viên Peace Corps khiến cho người dân yên tâm phần nào. Nếu có chuyện gì nghiêm trọng đang xảy ra, hẳn Washington đã phải rút họ về nước. Mùa đông ở dất nước Honduras đang đến, cùng với nhứng làn sóng huỷ diệt. Những gì còn chưa được sửa chữa hay gia cố đều biến mất dưới những trận mưa như trút nước và những cơn gió bão khinh hoàng. Susan chiến đấu chống lại sự mệt mỏi về thể chất đang choán lấy cô từng ngày. Kết quả khám sức khoẻ của cô hoàn toàn bình thường nhưng tâm hồn cô thì đầy mưa bão.
Giữa tháng Mười một, Philip đưa Mary đi nghỉ cuối tuần trên hòn đao Mrrtha's Vineyard. Họ cùng nhau thả bộ vào lúc hoàng hôn, con đường dài dẫn bước họ đến bên bờ đại dương, vào đúng lúc những con cá voi bơi ra ngoài khơi. Họ ngồi xuống trên bãi cát, ôm nhau và ngắm nhìn cảnh vật. Khi trời tối hẳn, những đám mây tụ lại trên bầu trời ngay phía trên đầu khiến cho họ quyết định nhanh chóng quay trở về phiá nhà nghỉ.
Dưới những tia chớp và những tiếng sấm xé toang bầu trời phiá trên mái nhà, Susan nằm một mình và trằn trọc mãi, giấc ngủ không chịu đến với cô nữa.
Ba tuần sau, đầu tháng Mười hai, lệnh giới nghiêm được huỷ bỏ tại nước láng giềng Nicaragua và cả đất nước Honduras thở phào.
Vào dịp Noel, Philip và Mary đi nghỉ ở Braxin. Ở độ cao 10 000 mét, anh áp sát mặt vào chiếc cửa sổ nhỏ, cố gắng tưởng tượng ra một dải bờ biển đươc vẽ nên dưới tấm màn mây. Đâu đó phía dưới cánh máy bay, trong một ngôi nhà nhỏ với mái lợp bằng tôn, Susan nằm liệt trên giường đêm Giáng sinh và suốt hai mươi ngày tiếp sau đó.
Mặt trời quay trở lại cùng với những ngày đầu tháng Hai. Và ánh nắng rạng rỡ cũng chiếu rọi đến khoảng trời trong lòng cô. Susan đã dậy khỏi giường và đi lại được từ tám ngày nay, cơ thể của cô đang dần dần lấy lại sứng sống. Má cô đã hồng hào trở lại. "Căn bệnh vì mệt mỏi" của cô, nói theo cách gọi của dân làng, cũng có mặt tốt của nó. Những người nông dân đã thay cô quản lý kho, một vài phụ nữ trong làng cũng giúp cô duy trì hoạt động của trường học và trạm xá, thanh niên trong làng thay phiên nhau lo việc đi phân phát lương thực mà hàng ngày Susan vẫn làm. Thời gian gần đây, tất cả mọi người đều có mặt bên cô và quan hệ của họ ngày càng trở nên gắn bó. Cô đang thả bộ trên con đường chính và vừa đi ngang qua trước cửa nhà trẻ, cô gặp người đưa thư. Anh ta tiến lại phía cô. Lá thư được gửi từ Manhattan ngày 30tháng Giêng, nó đã mất hai tuần để đến được tới tay cô.
Ngày 29 tháng Giêng năm 1979,
Susan,
Anh vừa trở về từ Rio và anh đã ngang qua phía trên đất nước của em hai lần. Anh đã tưởng tượng rằng bọn anh bay phía trên ngôi nhà của em và rằng anh có thể nhìn thấy em đứng trước cửa nhà. Có thể nào anh lại chưa một lần đến nơi đó thăm em? Có thể đơn giản bởi vì anh chưa bao giờ có được sự dũng cảm ấy. Dù đối với em điều đó có thể rất lạ lùng, em, người ở thật xa nhưng cũng luôn thật gần đối với anh, em là người đầu tiên (anh suýt nữa đã viết người đầu tiên trong gia đình) mà anh muốn được chia sẻ những dòng chữ này. Anh sẽ cưới Mary, buổi tối đêm Giáng sinh vừa rồi anh đã cầu hôn cô ấy.
Lễ cưới sẽ được tổ chức tại Montclair ngày 2 tháng Bảy, hãy đến nhé, anh xin em đấy. Còn sáu tháng nữa, em có đủ thời gian để thu xếp công việc, lần này không có lý do hay viện cớ thoái thác gì hết, hãy đến nhé, anh cần có em ở bên anh, em là những gì quý giá nhất mà anh có trên đời, anh trông đợi ở em đấy. Anh hôn em thật nhiều như anh vẫn yêu em.
Philip.
Cô cẩn thẩn gấp lá thư lại và bỏ nó vào trong túi áo blu. Cô ngước mặt lên trời, đôi môi cô trắng nhợt vì mím quá mạnh. Cô tiếp tục bước đi trên phố và chầm chậm bước vào nhà trẻ.
Một lần nữa cô lộn tung chiếc tủ quần áo duy nhất của mình lên để chọn bộ đồ mà cô muốn mang đến Montclair; còn chiếc nơ bướm này ít ra cũng đã là chiếc thứ hai mươi mà người bán hàng giới thiệu với Philip.
Anh đi ra, cánh cửa nhà đóng lại sau lưng, phía sau lưng anh cánh cửa tiệm may khép lại; tay bê một chiếc hộp các -tông lớn, anh mang bộ đồ chú rể của mình về nhà.
Một người dân làng chở cô ra sân bay nhỏ nơi một chiếc phi cơ đưa cô đến Tegucigalpa. Cánh máy bay có màu đỏ và trắng hay màu gì khác cũng không hề gì, bấy nhiêu nước đã chảy qua dưới những chiếc cầu Honduras kia mà; Jonathan, người đồng nghiệp mà anh chọn làm phù rể đi cùng với anh đến tiệm làm tóc.
Qua ô cửa tròn trên máy bay, cô ngắm một dòng sông đang lấp lánh đằng xa; qua cửa sổ chiếc Buick, anh nhìn những người đi đường đang rảo bước trên những con phố của Montclair.
Tại giáo đường, anh nôn nóng sải bước trên những bậc thềm trong khi chờ người đến báo cho anh biết tình hình chuẩn bị mọi việc; nơi nhà ga sân bay Tegucigalpa, máy bay sẽ khởi hành chậm bốn tiếng so với dự kiến.
Theo truyền thống, tối hôm trước ngày lễ cưới, anh không gặp Mary, Jonathan để anh xuống khách sạn Grand Hotel, nơi bố mẹ đã đặt cho anh một phòng lớn hạng sang; cô đã ngồi vào chỗ của mình và chiếc phi cơ đã bắt đầu xé gió bay đi.
Trong máy bay, cô dùng bữa tối với khay đồ ăn được mang tới; anh muốn đi ngủ sớm, anh ngồi trên giường ăn một bữa tối đơn giản.
Cô tới Miami và nằm ngả lưng trên chiếc ghế băng tại nhà ga sân bay, khu vực hãng Eastern Airlines, tay cuộn trong sợi dây đeo của chiếc túi kaki to bự; anh tắt đèn và cố gắng tìn đễn giấc ngủ. Chuyến bay chuyển tiếp cuối cùng trong ngày đã lên đường, cô ngủ thiếp đi.
Sáng sớm, cô bước vào phòng vệ sinh của nhà ga sân bay và đứng trước tấm gương lớn. Cô ghé mặt vào dưới vòi nước và cố gắng vuốt lại tóc; anh đứng trước gương đánh răng, vã nước rửa mặt và lấy tay cào cào đầu để chỉnh lại tóc cho ngay ngắn.
Cô nhìn mình một lần cuối trong gương rồi ra khỏi phòng vệ sinh với cái bĩu môi đầy vẻ hoài nghi; anh rời khỏi phòng khách sạn và bước về phía thang máy.
Cô vào một quán cà phê và gọi một ly cà phê lớn; anh gặp các bạn mình và cùng với họ dùng bữa tiệc buffet tại khách sạn.
Cô chọn một chiếc bánh bê-nhê(1); anh cũng lấy một cái bỏ vào đĩa của mình.
Vào giữa buổi sáng; anh trở lên phòng để bắt đầu chuẩn bị; Susan chìa chiếc thẻ lên máy bay của mình cho cô tiếp viên.
- Trên máy bay có phòng làm tóc không cô?
- Xin lỗi cô nói gì ạ?
- Nhìn tôi này, tôi sẽ đi thẳng đến dự môt tiệc cưới khi xuống khỏi chiếc máy bay này! Họ sẽ đưa tôi vào bằng cửa sau mất!
- Cô vui lòng bước lên trước đi, thưa cô, cô đang làm chậm cả đoàn người xếp hàng.
Cô nhún vai và bước vào đoạn hành lang hẹp dẫn lên máy bay, anh lấy chiếc móc áo ra khỏi tủ và gỡ lớp ni-lông bao bên ngoài bộ lễ phục dành cho chú rể. Từ một chiếc hộp các-tông trắng, anh lấy chiếc áo sơ-mi và mở nó ra; cô ngồi trên ghế, dán mặt vào ô cửa kính máy bay và thiu thiu ngủ.
Khi tất cả các chi tiết sử dụng cho bộ cánh chú rể của anh đã được lấy ra và bày theo đúng thứ tiự trên tấm ga phủ giường, anh bước vào phòng tắm; cô đứng dậy và đi về phía buống sau của máy bay.
Anh tìm chiếc dao cạo râu, xoa một lớp bóp lên cằm, lấy ngón tay trỏ tô theo đường cong của miệng mình và thè lưỡi ra với cái bóng phản chiếu trong gương; trong buồng toilet, cô đưa ngón tay vuốt dọc theo mí mắt, mở chiếc túi nhỏ đựng đồ cá nhân ra và bắt đầu trang điểm. Từ chiếc loa gắn trên máy bay, giọng một nam tiếp viên thông báo máy bay đang bắt đầu hạ cánh xuống NewYork, cô liếc nhìn đồng hồ, đã trễ giờ; cùng với những người làm chứng, anh bước lên chiếc limousine đen đang đợi anh trước khách sạn.
Chiếc băng tải hành lý trả cho cô cái túi xách to đã bị biến dạng, cô cầm túi đeo lên vai. Cô bước về hướng cổng; anh vừa tới sân trước nhà thờ, anh đưa tay bắt vài bàn tay đang chìa ra trong khi bước lên các bậc thang.
Cô đi ngang qua quán bar, quay đầu lại và, đôi mắt ướt đẫm, cô nhìn chăm chăm vào chiếc bàn nhỏ đặt sát ô cửa kính; anh bước qua ngưỡng cửa lớn và, đứng dưới mái vòm xây bằng đá, anh ngắm nhìn cái gian giữa của nhà thờ.
Anh bước tới với những bước chậm rãi, đưa mắt nhìn khắp xung quanh hai bên lối đi chính để tìm cô trong số những khách mời vừa đứng lên, nhưng anh không thấy cô; cô vứt chiếc túi ra băng ghế sau của một chiếc taxi vừa đậu lại bên lề đường. Sau mười lăm phút nữa, cô sẽ có mặt tại Montclair.
Khách mời dự lễ quay người lại khi những nốt nhạc đầu tiên vang lên từ dàn đàn ống. Mary xuất hiện trong ánh sáng trong suốt nơi cử chính nhà thờ, tay khoác trong tay của người cha. Cô bước về phiá dàn đồng ca, gương mặt cô không để lộ cảm xúc khi họ nhìn nhau chăm chăm, như thể có một sơi dây được chăng ra nối liền hai ánh mắt. Những cánh cửa gỗ nặng đóng lại. Khi Mary đến bên cạnh anh, anh liếc nhìn một lần cuối về phía cử tọa, tìm kiếm một gương mặt mà anh vẫn chưa thấy.
Chiếc taxi vàng vừa đậu lại trước sân nhà thờ vắng vẻ. Có chăng một uy lực huyền bí nào đó khiến cho vỉa hè quanh những chốn linh thiêng luôn vắng vẻ đến lạ kỳ trong thời gian cử hành một đán tang hay đám cưới? Bước những bước nặng nề vì sự mệt nỏi sau một chuyến đi quá dài, cô cảm thấy những bậc thang như đang hẫng ra dưới chân mình. Cô đẩy nhẹ cánh cửa bên của nhà thờ bước vào và khẽ giấu cái túi dưới chân một tượng thánh. Nhận ra hai con người đang đứng đối diện với bàn thờ Chúa, cô chầm chậm bước lên theo lối đi theo gian phải, cô dừng lại trong giây lát bên chân mỗi chiếc cột nhà thờ. Khi đến khoảng giữa nhà thờ, tiếng dàn đồng ca đột nhiên ngưng lại, nhường chỗ cho một khoảng dài im lặng tĩnh tâm. Sững sờ, cô dừng lại quan sát. Rồi vị linh mục lại tiếp tục buổi lễ, còn cô tiếp tục những bước đi tiến lên phía trước. Cô đi đến tận chiếc cột cuối cùng. Từ đó, cô có thể quan sát thấy Philip nhìn nghiêng. Còn Mary, cô chỉ thấp thoáng nhìn thấy đường cong của phần lưng chiếc đuôi váy cưới bằng lụa dài phủ đất. Đến phần nghi thức hôn phối đôi mắt Susan đẫm lệ. Lặng lẽ, cô nhẹ nhàng bước lùi về phía sau, bàn tay trái vụng về lần theo lưng các hàng ghế để dò đường. Cô cầm lại chiếc túi xách gửi dưới chân tượng thiên thần Gabriel và bước ra khỏi nhà thờ, lao xuống các bậc thềm và nhào bào một chiếc taxi. Cô mở cửa xe ra và ngắm nhìn cổng nhà thờ. Cố nén một tiếng khóc òa, cô thì thầm lặp lại theo tiếng vị linh mục đang nói: "Ai biết cuộc hôn nhân này có ngăn trở gì, xin lên tiếng ngay bây giờ, nếu không sẽ phải im lặng vĩnh viễn..."
Chiếc taxi bắt đầu lăn bánh.
Trên chuyến bay về nhà,cô nghiêng người trên chiếc bàn nhỏ gắn sau lưng ghế viết một lá thư.
Ngày 2 tháng bảy năm 1979,
Philip của em,
Em biết anh sẽ trách em rất nhiền vì đã không ở đó trong ngày cưới của anh. Lần này, chẳng có bất kì lý do nào để viện ra hết, em xin thề với anh. Em đã làm tất cả để có thể đến dự lễ cưới của anh. Bằng cả tâm trí của mình, em đã ở bên anh trong suốt thời gian diễn ra buổi lễ. Chắc chắn anh phải thật tuyệt vời trong bộ lễ phục chú rể, và em cũng tim rằng vợ anh cũng xinh đẹp rạng ngời, có cô gái nào lại không như vậy khi trở thành vợ của anh? Em đã nhắm mắt lại và dõi theo anh từng bước trong những thời khắc kì diệu ấy. Em biết rằng từ nay, anh sẽ được hạnh phúc và đâu đó, niềm hạnh phúc của anh cũng khiến cho em cảm thấy nhẹ nhõm.
Em đã quyết định nhận vị trí mà người ta đề nghị em. Thứ sáu em sẽ đi lên núi, em sẽ ở đó và xây dựng một trung tâm mới. Đừng giận em nếu như em viết thư cho anh ít hơn trong những tháng tới. Từ chỗ mới em ở, phải đi hai ngày đường mới tới được nơi ở trước đây, nơi vốn xa so với nền văn minh của chúng ta. Vì thế, từ nay, gửi lá thư đi hay nhận một lá thư đến gần như là điều không thể. Anh biết không, em cảm thấy hài lòng chấp nhận thử thách mới này, em sẽ mang theo nỗi nhớ về những người dân trong làng, nhớ ngôi nhà mà Juan xây cho em, ngôi nhà mà giờ đây đã đầy ắp kỉ niệm; gần như phải bắt đầu mọi thứ từ con số không, nhưng tìm thấy sự tin tưởng họ giành cho em lòng biết ơn trân trọng của bạn bè đồng nghiệp thân thuộc.
Hãy sống thật hạnh phúc, Philip của em, vượt lên trên tất cả những ngày tháng em đã vắng mặt, đã lỡ hẹn với anh, em vẫn luôn yêu anh một cách trung thành và sẽ yêu anh mãi mãi.
Susan.
Tái bút: Nhưng dù sao anh cũng đừng quên những điều em nói với anh ở sân bay.
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Chương 6
Nước mưa chảy dọc theo mái nhà bằng gỗ. Ngồi trong phòng làm việc ở phòng áp mái, dưới ánh sáng một ngọn đèn duy nhất, anh say sưa sửa lại những bức phác thảo mới nhất của mình. Như thường lệ, Philip tranh thủ những ngày cuối tuần. Anh đã trang trí những phòng làm việc này theo phong cách vùng Adirondacks. Dãy tủ sách có trổ lỗ hổng kê sát bức tường bên phải. Bên tay trái hai chiếc ghế bánh lớn bằng da đã sờn, ở giữa là một chiếc bàn nhỏ một chân làm bằng cây bulô và một chiêc đèn cây bằng sắt uốn cho người ta cảm giác tiện nghi, thoải mái. Ngay giữa căn phòng,bên dưới chiếc cửa sổ nhỏ trổ trên mái nhà tỏa xuống xung quanh một thứ ánh sáng đặc biệt là chiếc bàn làm việc của anh có hình dạng một khối lập phương lớn bằng gỗ trắng. Có đủ chỗ cho sáu người ngồi thỏai mái. Thỉnh thoảng, anh ngước mắt lên và nhìn về phía cánh cử sổ bằng kính đang rung lên dưới sức mạnh của gió.
Trước khi vùi đầu trở lại vào những bức vẽ, anh đưa mắt nhìn bức hình của Susan để trên kệ sách. Bao nhiêu thời gian đã trôi qua kể từ ngày đám cưới của anh. Ở chính giữa bàn có một chiếc hộp nhỏ cũ kĩ đựng tất cả những lá thư của cô. Chiếc hộp được khóa lại, nhưng chià khóa vẫn luôn được để ngay trên nắp hộp. Bao nhiêu năm đã trôi qua trong suốt khoảng thời gian họ không hề viết thư cho nhau? Bảy năm, tám năm hay cũng có thể đã chín năm? Trong góc phòng, một chiếc thang dẫn xuống tầng dưới nơi có các phòng ngủ, chúng đã tìm trong bóng tối nhập nhoạng cuối giờ chiều của một ngày không hề có ánh sáng. Chiếc cầu thang bằng gỗ trắng nằm đối diện với của ra vào phía tầng trệt thành hai không gian sống riêng biệt. Mary ngồi suốt buổi chiều bên chiếc bàn lớn trong khu bếp theo phong cách Mỹ, chầm châm lật từng trang của một cuốn tạp chí, để mặc cho suy nghĩ của cô đi tha thẩn. Qua chiếc cửa lùa, cô nhìn Thomas, cậu con trai năm tuổi của họ đang say sưa với một trò điện tử, rồi cô đưa mắt nhìn về phía đồng hồ treo từơng hình tròn ở ngay phía trên bếp ga. Đã 18 giờ, cô gấp cuốn tạp chí lại, đứng lên, đi vòng qua quầy bar và bắt đầu chuẩn bị bữa tối. Nửa giờ đồng hồ sau, cũng như những buổi tối khác, Philip đi xuống nhà và giúp cô làm nốt công việc chuẩn bị bàn ăn. Sau khi đã ôm hôn cô, hai "người đàn ông" của cô ngồi vào chỗ của mình. Thomas là người nói nhiều nhất, cậu say sưa bình luận về ván cuối cùng của game, cậu phải chiến đấu chống lại những người ngoài hành tinh đang tìm cách tràn qua màn hình ti vi.
Cuối bữa ăn, Philip một lần nữa cố gắng thử dạy Thomas chơi cờ vua, nhưng cậu bé thấy thật ngớ ngẩn khi con tượng chỉ di chuyển duy nhất theo đường chéo, và cái duy nhất "hay hay" chẳng phải là cho tất cả quân tốt tiến lên cùng lúc để tấn công pháo đài đó sao? Cuối cùng, nỗ lực dạy con chơi cờ vua của Philip kết thúc bằng một ván bài mistigri(1). Muộn hơn một chút, khi cậu bé đã được bọc kín trong chăn và câu chuyện của buổi tối hôm đó đã kể xong, Philip lại xuống nhà chúc vợ một buổi tối vui vẻ rồi quay trở lại phòng làm việc của mình. "Anh muốn làm việc thêm một chút nữa để dành thời gian ngày mai cho em và con", anh giải thích trước nụ cười của Mary. Sau đó "một lúc", anh đến bên vợ khi đã thiu thiu ngủ, để ở trong vòng tay dịu dàng của cô.
Mãi đến lúc bình minh cơn mưa mới chịu tạnh, những vỉa hè còn ướt nước mưa ánh lên trong ánh sáng nhơt nhạt của buổi sáng sớm. Thomas đã ra khỏi giường và đi xuống phòng khách. Mary nghe thấy tiếng bước chân trên cầu thang. Cô khoác lên người chiếc áo choàng bông dùng sau khi tắm vứt ở cuối giường. Khi tiếng chuông cửa reo lên, cậu bé đã đến cuối cầu thang. Cậu đặt tay lên tay nắm định mở cửa.
- Tom, mẹ đã dặn con cả trăm lần là đừng có tự mở cửa.
Nghe tiếng gọi, cậu bé quay người lại nhìn mẹ. Cô bước xuống bên con, đẩy cậu bé đứng ra phía sau mình và mở cửa. Đứng trước thềm nhà là người phụ nữ mặc bộ vest màu xanh nước biển, đứng thẳng như một cây gậy, vẻ nghiêm trang trở lên lạc lõng trong không khí của buổi sáng Chủ nhật mùa thu này.
Mary nhướn lên một bên lông mày trái, cô chăm chú thực hiện cử chi mà mọi khi vẫn khiến chồng cô mỉm cười và cậu con trai phá lên cười. Cử chỉ này đã thành một thói quen để biệu lộ sự ngạc nhiên của cô.
- Đây là nhà của ông Nolton phải không ạ? Người phụ nữ không quen biết nói thế.
- Và cũng là nhà của bà Nolton!
- Vào một buổi sáng Chủ nhật, trước cả khi người đưa sữa ghé qua, chẳng có gì có thể tự nhiên hơn nữa!
Người phụ nữ không có vẻ gì là muốn kết thúc phần giới thiệu dang dở của mình, cũng chẳng có ý đinh xin lỗi vì sự đến thăm đường đột vào lúc sáng sớm này. Chị ta nhất định muốn gặp Philip, chị cần gặp Philip ngay lập tức. Mary muốn biết vì lý do gì mà người phụ nữ này muốn đánh thức Philip dậy vào buổi sáng duy nhất trong tuần mà anh có thể nghỉ ngơi. Dưới mắt cô, "tôi cần gặp anh ấy" chưa phải là lý do đủ thuyết phục, cô lạnh lùng mời chị ta quay trở lại vào một thời điểm thích hợp hơn.
Người phụ nữ khẽ đưa mắt nhìn về phía chiếc xe hơi đậu trước nhà và lặp lại một lần nữa yêu cầu của mình.
- Tôi biết rằng bây giờ còn rất sớm đối với gia đình cô, nhưng chúng tôi đã đi suốt cả đêm qua, và máy bay của chúng tôi sẽ khởi hành trong vài giờ nữa. Chúng tôi không thể chờ được.
Lúc đấy Mary mới để ý đến chiếc xe đậu ở trước nhà cô. Một người đàn ông vạm vỡ cầm lái. Có một người phụ nữ khác ngồi đằng trước, tì trán vào kính trước của xe. Cô gái ở cách quá xa nên dù có nheo mắt lại, Mary cũng không thể nhìn rõ từng nét trên gương mặt cô. Tuy vậy, Mary có cảm giác ánh mắt của họ đang giao nhau. Vài giây lơ đãng đủ để người phụ nữ lạ mặt tìm cách xông vào nhà. Chị ta lớn tiếng gọi tên Philip, Mary lập tức đóng sập cửa trước mặt chị.
- Có chuyện gì vậy?
- Em không biết, một cô ả điên khùng đòi gặp anh, cô trả lời giọng bực tức, và tất nhiên cô ta không muốn thú nhận với em cô ta là một trong những người tình cũ của anh, trừ khi người đó chính là cô bạn gái ngồi chờ cô ta trong chiếc xe hơi đằng trước cửa nhà chúng ta!
- Anh đang không hiểu em đang nói gì. Thomas đâu rồi? anh vừa hỏi vừa bước xuống, nét mặt sa sầm.
- Ở Thượng nghị viện, nó có một bài tham luận phải đọc sáng nay!
Anh bước đến bên Mary, vừa đi vừa ngáp, hôn lên trán cô và mở cửa. Người phụ nữ ban nãy vẫn đứng đó, không nhúc nhích dù chỉ một xăngtimét.
- Tôi rất tiếc vì đã đánh thức gia đình dậy như thế này, nhưng tôi nhất định phải nói chuyện với anh.
- Tôi nghe đây, anh trả lời xẵng giọng.
- Tôi cần nói chuyện riêng! Chị ta nói thêm.
- Thì chúng ta đang nói chuyện riêng đây, trước mặt vợ tôi.
- Người ta đưa ra cho tôi những lời yêu cầu rất cụ thể.
- Về việc gì?
- "Nói chuyện riêng" là một trong những yêu cầu đó.
- Philip hướng một cái nhìn dò hỏi về phía Mary, cô đáp lại bằng một cái nhướng mày rất riêng của cô, gọi cậu con trai đến ăn sáng ngay lập tức và bỏ vào trong bếp. Anh đưa người phụ nữ mặc bộ màu xanh da trời vào phòng khách, chị ta khép lại cánh cửa lùa phía sau lưng, cởi khuy áo vest và ngồi vào chiếc ghế bành.
Philip vẫn chưa xuất hiện trở lại. Mary dọn sạch bàn ăn sáng, một mắt vẫn liếc nhìn chiếc đồng hồ trên tường đang nhích từng phút qua chậm chạp. Cô đặt chiếc tô vừa dung để ăn sáng vào bồn rửa chén và đi về phía phòng khách, quyết định sẽ chấm dứt cuộc nói chuyện có vẻ như không có hồi kết thúc. Đúng lúc cô đi ngang qua cầu thang, cánh cửa phòng khách mở ra. Philip bước ra đầu tiên, Mary dấn bước định tiến về phía anh nhưng cử chỉ ra hiệu của anh đã ngăn cô lại. Người phụ nữ gật đầu chào cô và bước ra cửa đợi anh. Anh chạy lên gác và vài giây sau quay trở xuống, mắc một chiếc quần bằng vải và một chiếc áo lên chui cổ đan những mắt lớn. Anh đi ngang qua trước mặt người vợ đang đứng ngạc nhiên sửng sốt, thậm chí cũng không đưa mắt nhìn cô. Vừa ra khỏi nhà, anh quay người lại ra hiệu cho cô đợi anh ở trong nhà. Cô chưa bao giờ thấy anh có vẻ cương quyết như lúc này.
Từ khung cửa sổ nhỏ cạnh cửa ra vào, Mary nhìn thấy anh đi theo người phụ nữ sẽ còn khuấy động cuôc sống của gia đình cô nhiều hơn là những gì đang diễn ra trong buổi sáng Chủ nhật này.
Người phụ nữ nãy giờ ngồi đợi anh phía bên tay phải của người lái xe bước ra khỏi xe hơi. Philip đứng im và nhìn cô ta thật lâu. Cô ta tránh ánh mắt của anh, mở cửa sau của xe ra và vào ngồi vào băng ghế sau. Ngay sau đó, Phlip đi vòng qua phía bên kia chiếc xe để ngồi vào cạnh cô gái. Một làn mưa mỏng như bụi bắt đầu rơi xuống. Mary không thể nhìn rõ những gì diễn ra ở phía bên trong chiếc xe, cũng không thể xua đi nỗi lo lắng đang xâm chiếm cô.
- Mà họ đang làm gì vậy chứ, quỷ tha ma bắt!
- Ai cơ ạ? Thomas trả lời, không rời mắt khỏi màn hình ti-vi.
- Bố của con, cô thì thào.
Nhưng cậu bé đang mải mê với trò chơi gần như không chú ý gì đến mẹ mình nữa. Nếu theo những cử động của cánh tay anh mà đoán, Philip đang rất xúc động. Cuộc nói chuyện bí hiểm có vẻ như không bao giờ chịu kết thúc, và Mary đang nghĩ đến chuyện đi lên gác mặc áo ấm vào để ra chỗ xe đậu thì bỗng nhiên cô lại thấy anh xuất hiện. Anh đứng bên kia xe, người anh bị che khuất một nửa. Anh đưa cánh tay ra hiệu cho cô có vẻ như muốn nói tạm biệt. Đang sẵn hoài nghi, Mary giậm chân vì sốt ruột khi thấy chồng của mình lại leo lên chiếc Chrysler.
- Tom, đi tìm cho mẹ ống nhòm của cong ngay lập tức!
Trước giọng nói căng thẳng của mẹ, Thomas hiểu không phải lúc để tranh luận. Cậu bé bấm nút "tạm dừng" trên bộ điều khiển rồi co chân chạy nhanh lên gác. Cậu nín thở chúi đầu vào trong rương đựng đò chơi của minh để tìm đôi ống nhòm, và cả những vật dụng khác không thể thiếu mà mẹ của cậu không nghĩ đến.Vài phút sau, sau khi đội lên đầu chiếc mũ sắt, khoác lên người chiếc áo chống đạn và chiếc áo lưới nguỵ trang màu xanh lá cây, quàng qua vai băng đạn và giắt vào thắt lưng đủ bộ sao bằng cao su, bi đông đựng nước, súng lục và máy bộ đàm, cậu xuất hiện phía sau Mary, đưa cánh tay trái lên chào mẹ của mình.
- Con đã sẵn sàng, cậu nói trong thế đứng nghiêm.
Không mảy may chú ý đến cách ăn mặc của cậu con trai, cô giật chiếc ống nhòm từ tay cậu bé. Với độ phóng đại quá thấp và vô số những vết xước trên mặt kính, cặp ống nhòm không giúp cô nhìn rõ hơn được là mấy. Cô chỉ lờ mờ nhìn thấy chồng của cô đang bị người phụ nữ kia che khuất. Anh đang nghiêng người về phía trước, như thể anh sắp gục mặt xuống đầu gối. Cuối cùng nỗi lo lắng đã chiến thắng sự kiên nhẫn của cô, cô bước ra thềm nhà, hai tay chống lên hông. Chiếc xe bắt đầu nổ máy và Mary cảm thấy tim mình đập nhanh hơn. Cửa xe mở ra và Philip lại xuất hiện dưới mưa; cô chỉ nhìn thấy đầu anh, cả người anh bị chiếc xe che khuất. Một lần nữa anh ngập ngừng đưa tay phải phác một cử chỉ, động thời li lại phía sau một bước, và chiếc xe từ từ rời khỏi đó. Mary qua sát Philip, anh đứng bật động giữa con phố vắng vẻ, lặng đi trong tiếng động duy nhất của những giọt mưa đập xuống mặt đường.
Cô không thể hiểu được những gì đang nhìn thấy trước mắt.
Cánh tay Philip đang dang ra, nối tới một bàn tay nhỏ bé đang nắm chặt lấy tay anh. Chiếc túi vải mà cô bé mang ở tay bên kia chắc hẳn không nặng lắm. Đó là lần đầu tiên Mary nhìn thấy cô bé với quả bóng đỏ, trong một ánh sáng mờ nhạt nơi mà thời gian dường như ngừng lại. Mái tóc đen rối bời rớt nhẹ xuống bờ vai cô bé, nước mưa chảy dài trên làn da với nước da lai ngăm đen của em. Cô bé có vẻ không thoải mái lắm trong bộ quần áo khá chật.
Dưới cơn giông bắt đầu gầm gừ, hai người đi từng bước chậm chạp về phía ngôi nhà. Khi cả hai đứng phía dưới mái che, Mary lập tức định chất vấn, nhưng anh đã cúi đầu xuống, cố giấu đi nỗi buồn trong lòng.
- Đây là Lisa, con gái của Susan.
Trước cửa ngôi nhà của họ, một cô gái chừng chín tuổi đăm đăm nhìn Mary.
- Mẹ đã chết rồi.
Chú thích:
(1) Một dạng bài gần với bài Tây
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Chương 7 (A)
Mary lùi lại nhường lối cho hai người vào nhà. Khi thấy họ đi tới, Thomas lập tức trở lại tư thế nghiêm. Mary nhìn Philip vẻ dò hỏi.
- Hẳn em đã bỏ lỡ mất một chương của câu chuyện, nhưng giờ anh sẽ tóm tắt lại cho em nghe!
Cổ họng se lại, anh không hề tìm cách cố gắng mở lời. Anh chỉ chìa tay đưa cô lá thư mà anh đang cầm trên tay, và, không chờ đợi thêm nữa, anh đi lên gác thay đồ cho cô bé. Mary nhìn họ khuất trong hành lang và tìm kiếm phần đầu của câu trả lời trong lá thư mà cô vừa mở ra.
Philip của em,
Nếu như những dòng chữ này đến tay anh thì có nghĩa là em đã đúng. Với cái tính rất xấu của em, em không thể nói ra điều đó với anh vào đúng thời điểm, nhưng cuối cùng, em đã nghe lời anh và chấp nhận có đứa con này, đứa con mà em không biết bố của nó là ai. Đừng lên án em, cuộc sống ở đây khác xa với những gì anh có thể tưởng tượng ra, vì ngày tháng trôi qua khắc nghiệt đến mức đôi khi người ta có nhu cầu đi tìm sự an ủi trong vòng tay của những người đàn ông qua đường. Để cứu mình thoát khỏi sự khủng hoảng, khỏi cảm giác bỏ rơi chính mình, khỏi nỗi sợ cái chết ám ảnh, khỏi nỗi tuyệt vọng vì cô đơn ngu xuẩn, đôi khi, em cần được cảm thấy trong mình dâng lên sự ấm áp của họ, và cũng để em nhớ ra là mình đang sống. Hằng ngày đối mặt với cái chết đồng nghĩa với việc sống với một nỗi cô đơn sâu thẳm gặm nhấm ta, một căn bệnh truyền nhiễm. Em đã lặp đi lặp lại với mình cả trăm lần rằng người ta không thể tạo ra cuộc sống ở giữa cái thế giới này, thế nhưng khi bụng em ngày càng tròn lên, em bắt đầu muốn được tin vào những gì anh nói. Mang Lisa trong bụng đối với em như thể tìm lại được không khí khi đang chìm dưới đáy nước, như một nhu cầu trở nên mãnh liệt không thể thiếu. Thế mà, như anh đã thấy đấy tự nhiên đã mạnh lơn lý trí của em. Anh có nhớ điều anh đã hứa khi ở Newark, rằng "nếu có chuyện gì xảy đến với em" anh sẽ luôn ở đó? Philip của em, nếu anh đọc được những dòng này, điều đó có nghĩa là một chuyện gì đó thực sự đã xảy đến với em! Em đã tin vào anh, và em đã chấp nhận có Lisa với niềm tin tưởng chắc chắn rằng nếu em không thể tiếp tục được nữa, anh sẽ thay thế vai trò của em. Hãy tha thứ cho em vì đã chơi cái trò xấu xa này với anh. Em chưa gặp Mary, nhưng qua những lời anh kể, em biết rằng cô ấy sẽ đủ sự rộng lượng để yêu thương nó. Lisa là một đứa trẻ hoang dại, những năm tháng đầu tiên của cuộc đời nó đã không phải là không thời gian vui sướng nhất. Hãy thuần hóa nó, hãy mang đến cho nó tình yêu mà từ nay em không thể dành cho nó được nữa, em trao nó cho anh, một ngày nào đó hãy nói với nó rằng mẹ của nó đã từng và sẽ mãi mãi tồn tại trong ký ức của anh, em hi vọng như thế, như là người bạn đồng hành cùng chia sẻ những bí mật của anh. Em đang nghĩ về hai người, em hôn anh, Philip của em. Em mang theo những ký ức đẹp nhất trong cuộc đời em, ánh mắt của Lisa và những tháng ngày niên thiếu của chúng ta.
Susan
Mary vò bức thư, cố tình nhét thật sâu cái cảm giác chối bỏ đang len lỏi trong lòng cô vào trong đám giấy bùi nhùi này. Cô nhìn sang cậu con trai vẫn đang đứng trong tư thế nghiêm. Cô cố bắt mình mỉm cười: "Nghỉ!" Thomas quay một vòng trên gót chân và chấm dứt tư thế nghiêm ngay lập tức.
Cô ngồi xuống bên chiếc bàn trong phòng bếp. Ánh mắt của cô hết nhìn lên cửa sổ lại nhìn xuống lá thư mà cô vò chặt trong tay. Philip trở xuống một mình.
- Anh đã cho con bé tắm, nó muốn đi ngủ, họ đã đi cả đêm, nó không muốn ăn gì hết, anh nghĩ có nói nữa cũng chẳng được ích gì. Anh để nó ngủ trong phòng dành cho khách.
Cô im lặng. Anh đứng dậy, mở tủ lạnh và rót cho mình một ly nước cam, hi vọng tìm lại được sự bình tĩnh qua những cử chỉ vô cùng đơn giản này. Mary không nói gì, cô đưa mắt nhìn theo chồng.
- Chúng ta không có lựa chọn nào khác, anh không thể để mặc nó cho các tổ chức cứu trợ xã hội, anh nghĩ rằng nó đã chịu đựng quá đủ sự bất công và bỏ rơi.
- Nó bị bỏ rơi à? Cô đáp lại vẻ giễu cợt.
- Mẹ của nó đã chết và nó không có bố, em có thấy một sự khác biệt trong đó không?
- Em đoán là anh muốn biến mình thành người tạo ra sự khác biệt?
- Cùng với em, Mary!
- Tại sao không? Em đã trải qua biết bao giờ, biết bao ngày, biết bao dịp cuối tuần, biết bao tối để đợi anh. Như một con ngốc, em đã đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp phóng viên của mình để chăm sóc cho ngôi nhà của anh, chăm sóc con trai của anh. Em đã trở thành người phụ nữ hoàn hảo phía sau cuộc sống của anh, tại sao em không ngừng không tiếp tục làm những điều ngu ngốc nữa chứ?
- Bởi vì em nghĩ rằng cuộc đời em chỉ toàn là hi sinh ư?
- Đó không phải là chủ đề chúng ta đang nói, cho đến thời điểm này, em vẫn còn là người chủ động chọn cuộc sống hiện tại, nhưng với những gì đang làm, anh đã tước mất của em đặc ân cuối cùng này.
- Anh chỉ mong muốn chúng ta cùng nhau sẻ chia cuộc phiêu lưu này.
- Đó là định nghĩa về sự phiêu lưu của anh ư? Còn em, đã hai năm nay em nài xin anh cùng sống với em một cuộc phiêu lưu khác: một đứa con thứ hai, còn anh, đã hai năm nay anh trả lời em rằng chưa phải lúc, rằng chúng ta chưa có đủ điều kiện, đã hai năm dài anh hoàn toàn không biết em cảm thấy như thế nào. Cái quan hệ lẽ ra phải của cả hai chúng ta này đã theo năm tháng trở thành của riêng anh. Em luôn là người phải sống với thời gian biểu của anh, với những ước muốn, những lo lắng, những giới hạn, những xúc cảm của anh, và bây giờ em phải sống với con của một người phụ nữ khác, mà ai mới được chứ!
Philip không trả lời. Anh vặn ngón tay, nhìn thẳng vào mắt vợ, anh chầm chậm lắc đầu. Các đường nét trên mặt Mary cau lại và những nếp nhăn nhỏ ở góc mắt cô (cô đã ngồi hàng giờ trước gương cố gắng che dầu chúng một cách vô vọng) báo hiệu một cơn thịnh nộ và nước mắt sắp trào ra. Ngay cả trước khi những giọt nước mắt đầu tiên xuất hiện, cô đưa mu bàn tay lên mí mắt như thể làm như vậy có thể tránh được những quầng thâm vô tích sự và tai hại vẫn xuất hiện sau khi khóc.
- Chuyện đã xảy ra như thế nào?
- Cô ấy đã chết ở trên núi, trong một trận bão.....
- Em không quan tâm đến điều đó, đó không phải là cái em muốn hỏi anh, sao anh lại có thể hứa hẹn một điều vô lý đến thế? Sao anh có thể không cho em biết về lời hứa đó? Có thiếu gì dịp nghe chuyện Susan của anh ở chỗ này, Susan của anh ở chỗ khác. Có những ngày em có cảm giác chỉ cần mở cánh cửa tủ trong phòng tắm, cô ta sẽ xuất hiện lù lù ngay trước mặt em.
Philip cố gắng nới bằng một giọng điềm tĩnh và từ tốn. Lời hứa này có từ cuộc nói chuyện cách đây mười năm. Chỉ là một câu nói "vậy thôi", để chấm dứt một cuộc tranh luận không đi đến đâu. Anh chưa bao giờ kể với em bởi vì anh đã hoàn toàn quên mất và anh không bao giờ nghĩ một tình huống như thế này lại có thể xảy ra, bởi anh không thể nghĩ được là Susan lại có thể chấp nhận có một đứa con.Và rồi những năm tháng gần đây, họ rất ít khi viết thư cho nhau, và Susan cũng chẳng bao giờ mảy may nhắc đến đứa con gái này. Nhưng điều mà anh không thể ngờ nhất, đó là chuyện cô qua đời.
- Thế em phải là gì đây? Mary hỏi.
- Với ai?
- Với những người khác, bạn bè của em ở trong thành phố?
- Em thực sự nghĩ rằng đó là điều cốt lõi của vấn đề ư?
- Đối với em, đó là một trong số tất cả những vấn đề đang đặt ra! Anh có thể không đếm xỉa gì đến quan hệ xã hội của chúng ta, nhưng em, em đã mất năm năm để xây dựng nó, và không phải nhờ vào anh đâu.
- Em có thể nói với họ là chăm chỉ đi lễ nhà thờ mỗi Chủ nhật cũng chẳng để làm gì nếu người ta không có tấm lòng vị tha đủ để đối diện với những tình huống như thế nào.
- Nhưng anh đâu có phải là người phải lo lắng đến những việc đó, anh, anh sẽ tiếp tục mỗi tối làm việc ở trên đó, còn cuộc sống của em mới bị đảo lộn hoàn toàn!
- Cũng chỉ như chúng ta có thêm một đứa khác thôi.
- Không phải là một đứa con khác, anh hiểu không, mà là con của chúng ta!
Mary đứng bật dậy.
- Em cũng đi ngủ đây! Cô vừa hét vừa bỏ đi lên cầu thang.
- Nhưng bây giờ là 9 giờ sáng mà?
- Thì sao nào? Hôm nay còn có chuyện gì có thể coi là bất thường hơn nữa sao.
Khi lên đến trên gác, cô bước đi những bước dứt khoát, dừng lại giữa hành lang, quay người lại, lưỡng lự, rồi đi về hướng căn phòng nơi Lisa đang ngủ. Cô khẽ mở hé cửa không để gây tiếng động. Đang nằm trên giường, cô bé quay đầu lại và nhìn chăm chăm vào cô không nói một lời. Mary nở một nụ cười miễn cưỡng rồi khép cửa lại. Cô vào trong phòng mình và nằm lên giường. Mắt nhìn chăm chăm lên trần nhà, cô siết chặt nắm tay để kìm lại cơn giận dữ. Philip đến bên cô, anh ngồi xuống bên cạnh và nắm lấy bàn tay cô.
- Anh xin lỗi, giá mà em biết được anh lấy làm tiếc đến chừng nào.
- Không, anh đâu có gì phải tiếc. Anh đã không thể có được người mẹ, bây giờ anh có cô con gái rồi! Em mới là người phải lấy làm tiếc, em chưa bao giờ muốn có cô ấy cũng như con của cô ấy.
- Ngày hôm nay em không co quyền nói những điều như thế.
- Ngày hôm nay em thực sự không thấy có điều gì mà em lại phải tự cấm mình không được nói, Philip. Suốt hai năm nay anh chối bỏ, anh lảng tránh vấn đề, anh tự xa cách cuộc sống vợ chồng của chúng ta với một ngàn lẻ một lý do được coi là chính đáng bởi vì đó là những lý do của anh. Susan của anh gửi đến cho anh một đứa con gái và tất cả mọi vấn đề dường như được giải quyết bằng một phép màu, chỉ trừ một chi tiết: câu chuyện này xảy tới từ cuộc đời anh, nó không liên quan gì đến cuộc đời của em.
- Susan đã chết, Mary, anh không thể làm gì khác, em có thể chẳng thèm quan tâm gì đến nỗi đau trong lòng anh, nhưng không thể gạt bỏ một đứa trẻ, em hiểu không, một đứa trẻ!
Mary ngồi dậy, không thể kìm nén cơn thịnh nộ của sự bất lực, giọng nói cô bắt đầu run lên khi cô gào lên: "Em đã chán ngấy cái cô Susan của anh rồi!" Philip nhìn chằm chằm vào bậu cửa sổ để tránh ánh mắt của vợ. "Nhìn em đi chứ, quỷ tha ma bắt! Em muốn anh ít nhất cũng phải có được sự dũng cảm đó!"
Một mình trong phòng nơi những âm thanh không rõ ràng lắm vọng tới, Lisa trùm chăn kín đầu, quay người lại vùi mặt vào gối. Cô ép mặt mình vào đó mạnh đến mức tưởng như tóc của em sắp tan ra trong lớp vỏ gối. Những tiếng la hét không lớn bằng tiếng gầm của một cơn bão, những nỗi sợ mà nó gây ra cho em thì không kém gì. Em ước gì mình có thể ngừng thở, nhưng em biết là điều đó không thể được, mọi cố gắng của em trong hai tuần trước đó đều thất bại. Lòng thắt lại, em cắn vào lưỡi của mình càng lúc càng mạnh, giống như mẹ đã dậy em làm: "Khi con cảm thấy vị của máu trong miệng mình, con biết là mình đang còn sống, và khi ở trong cơn nguy hiểm, con chỉ được quyền nghĩ đến một điều duy nhất, không được đầu hàng, không được bỏ cuộc, phải sống." Chất lỏng ấm áp đang chảy trong họng em, em tập trung toàn bộ tâm trí mình vào cảm nhận này và không nghĩ đến điều gì khác. Em nghe thấy những lời khích lệ, động viên của Philip vọng lại từ cuối hành lang, thỉnh thoảng xen kẽ với những khoảng lặng. Mỗi khi một cơn giận dữ nổi lên bên ngoài, em lại vùi đầu vào trong gối sâu hơn một chút nữa, như thể những dòng thác từ ngữ sắp sửa cuốn em đi mất, mỗi lần bão tố dâng lên, em lại nhắm mắt chặt hơn một chút nữa, đến mức đôi khi em thấy mắt hoa lên bên dưới mí.
Em nghe thấy tiếng cửa phòng bên đóng sập lại và tiếng bước chân đàn ông đi xuống cầu thang.
Philip vào phòng khác và thả người xuống chiếc ghế nệm, chống cùi chỏ lên đầu gối, hai tay ôm lấy đầu. Thomas đợi một vài phút rồi mới phá vỡ sự im lặng.
- Bố chơi một ván với con nhé?
- Không phải bây giờ, con trai của bố.
- Họ đâu rồi?
- Mỗi người ở trong phòng của mình rồi.
- Bố buồn à?
Không có một câu trả lời nào. Ngồi trên thảm, cậu bé nhún vai và quay trở lại với trò chơi của mình. Thế giới của người lớn đôi khi thật kỳ lạ. Philip ngồi xuống phía sau con trai và vòng tay ôm lấy cậu bé.
- Tất cả rồi sẽ ổn thôi, anh nói bằng một giọng thật êm nhẹ.
Anh cầm lấy một trong hai bộ điều khiển trò chơi điện tử.
- Con muốn cá gì nào?
Ở khúc quanh đầu tiên, chiếc Lamborghini của Thomas cho chiếc Toyota của bố cậu rơi xuống hố.
Vào khoảng giữa trưa Mary trở xuống. Không nói một lời, cô đi vào bếp, mở tủ lạnh ra và bắt đầu chuẩn bị bữa ăn. Cả hai người cùng ngồi ăn. Lisa đã ngủ thiếp đi, Thomas quyết định nói đầu tiên:
- Chị ấy sẽ ở lại à? Nếu chị ấy trở thành chị gái của con thì không bình thường chút nào. Con ở đây trước mà!
Mary buông rơi tô xà-lách trộn mà cô đang mang lại bàn ăn. Cô quay sang nhìn thẳng vào Philip, ánh mắt giận dữ, anh không trả lời câu hỏi của con trai mình. Thomas nhìn đống rau xà-lách đổ ra vương vãi khắp nền gạch vẻ thích thú, ngoạm từng miếng lớn vào miếng bắp luộc cầm trên tay. Cậu quay về phía mẹ:
- Điều đó có thể cũng hay! Cậu nói thêm.
Philip đứng dậy nhặt những mảnh thủy tinh văng khắp nơi trên nền nhà.
- Con thấy cái gì hay cơ? Anh hỏi con trai.
Con rất muốn có một em trai hay một em gái, nhưng không muốn giữa đêm lại bị đánh thức vì tiếng trẻ con khóc, và cả mấy cái tã nữa, mùi ghê lắm! Chị ấy đã lớn rồi, chị ấy sẽ không giành đồ chơi của con.......Và chị ấy có một nước da thật đẹp, lũ bạn con ở trường sẽ ganh tị.....
- Mẹ nghĩ rằng mọi người đã hiểu quan điểm của con rồi! Mary cắt ngang, không để cậu bé nói hết câu.
Mưa đã nặng hạt hơn, không còn hi vọng có một buổi đi chơi ngày Chủ nhật. Chẳng hề nói một lời, Mary làm một chiếc bánh sandwich. Cô lấy một lát bánh, phủ lên một lớp mayonnaise, xếp rau xà-lách lên trên, rồi thêm một lát thịt nguội, cô lưỡng lự, thay lát thịt nguội bằng thịt gà, rồi lại lưỡng lự, cô để lại lát thịt nguội lên trên lớp thịt gà và lấy một lát bánh khác đặt trùm lên. Cô đặt miếng bánh sandwich vừa hoàn thành lên một chiếc đĩa, lấy giấy bóng bảo quản đồ ăn bao lại và đặt vào tủ lạnh.
- Nếu cô bé thức dậy đói bụng, đã có một đĩa đồ ăn làm sẵn cho nó, cô nói.
- Mẹ đi đâu à? Thomas hỏi.
- Mẹ sẽ ở nhà cô Joanne bạn của mẹ suốt buổi chiều, sau đó mẹ sẽ về cho con tắm, cô trả lời.
Nói rồi cô đi lên lầu thay đồ. Khi đi ra khỏi nhà, cô ôm hôn con trai, quay sang nhìn Philip, anh đang đứng trên cầu thang. Phần còn lại của ngày trôi qua như mọi ngày Chủ nhật mùa thu khác, từng phút dài trôi qua, phút nào cũng giống phút nào, có khác chăng chỉ là ánh sáng ban ngày đang yếu dần. Cô về nhà khoảng 5 giờ chiều và chăm lo cho Thomas. Vào lúc mà họ ngồi xung quanh bàn để ăn bữa tối, Lisa vẫn ngủ.
= 0 =
Cô nán lại thật lâu trong phòng tắm, cố ý chờ Philip đi nằm rồi mới vào. Cô vừa nằm xuống vừa đưa tay tắt đèn, rồi nép sát vào một bên giường. Philip để một vài phút trôi qua, sau đó quyết định phá tan sự im lặng.
- Em đã kể hết cho Joanne hả?
- Đúng, em đã trút hết sạch những gì đang đè nặng trong lòng, nếu đó là điều anh muốn biết.
- Thế cô ấy nói gì với em?
- Anh muốn cô ấy phải nói gì với em chứ? Thật là kinh khủng!
- Từ này chính xác, thật là kinh khủng.
- Cô ấy nói về những gì đang xảy ra cho em, Philip, bây giờ hãy để cho em ngủ.
Philip để đèn hành lang để Lisa tìm được đường đi đến toilet nếu cô bé thức dậy. Ba giờ sáng, đôi mắt của cô bé mở ra giống như mắt của một con búp bê khi bị người ta dựng dậy. Em nhìn xung quanh căn phòng đang chìm trong bóng tối, cố gắng hiểu xem mình đang ở đâu. Cái cây nghiêng xuống bên khung cửa sổ đang lắc những cành lá của nó dữ dội, giống như một con người đang vẫy những cánh tay quá dài. Những chùm lá đầu cành cây đập mạnh vào cửa kính như thể muốn lau sạch những giọt mưa lớn đang chảy thành dòng trên mặt kính. Cô bé đứng dậy, đi ra hành lang và bước thật khẽ xuống cầu thang. Vào đến bếp, em mở tủ lạnh ra. Em lấy cái đĩa, nhấc một góc lớp nilon bao bên ngoài lên, ngửi chiếc sandwich, rồi lại để nó trở vào ngăn tủ lạnh.
Em vớ lấy bao đựng những lát bánh sandwich, lấy ra một lát, lấy một quả chuối trên khay trái cây, em lấy một chiếc nĩa nghiền nát nó ra và trộn vào một ít đường nâu. Em cẩn thật trát một lớp hỗn hợp chuối nghiền lên lát bánh và ăn ngấu nghiến một cách thích thú. Sau đó, em xếp mọi thứ vào chỗ cũ. Em không biết đến cái máy rửa bát nên tự rửa sạch đĩa của mình và tất cả những gì còn lại trong bồn rửa.
Khi bước ra đến cửa, em quay lại nhìn một lần cuối và phía phòng bếp và, vẫn lần đường đi trong bóng tối, em quay trở về giường của mình.
Tám ngày trôi qua. Đối với Mary, tám ngày ấy đã vẽ thành hình đường ranh giới của một cuộc sống đang chuyển sang một thế giới khác, một thế giới không còn thuộc về cô nữa. Vì ngay khi Lisa mới chào đời, em đã được đăng ký khai sinh tại lãnh sự quán Mỹ nên việc nhận quốc tịch Mỹ không gặp vấn đề gì trở ngại. Bức thư Susan viết xác nhận vĩnh viễn trao cho Philip bé Lisa, sinh ngày 29 tháng Giêng năm 1979 lúc 8 giờ 10 phút, tại thung lũng Sula, Honduras, mẹ là "Cô"[28] Susan Jensen, không biết tên người cha, cuối cùng cũng được chấp nhận sau một loạt những thủ tục hành chính vô vị. Dù rằng những người đồng nghiệp của Susan đã có một sáng kiến tuyệt vời là đưa bức thư này đến cho một vị công chúng viên tại đại sứ quán Mỹ chứng thực trước khi đưa đứa trẻ đến tận New Jersey, Philip và Lisa vẫn mất trọn cả ngày thứ Hai đi hết phòng này đến phòng khác để làm thủ tục. Họ đã phải chạy dọc các hành lang, leo lên chiếc cầu thang lớn bằng đá cẩm thạch trắng. Chiếc cầu thang lớn này dẫn đến một tiền sảnh mênh mông xung quanh tường lát bằng gỗ, hơi giống như căn tiền sảnh của ding tổng thống mà thỉnh thoảng Susan có nói đến. Thoạt đầu em hơi sợ, mẹ em chẳng phải luôn bảo các tòa dinh thự là những nơi nguy hiểm, bao giờ cũng có đầy lính và cảnh sát đó sao? Mẹ chẳng bao giờ muốn đưa em đi cùng khi mẹ có việc phải đi đến những nơi đó. Ông tổng thống ở trong cái dinh này hẳn không phải là người quan trọng lắm, bởi vì chỉ có hai người lính đứng cạnh chiếc cửa nhỏ nơi người ta phải bỏ túi xách xuống giống như ở ngoài sân bay. Để bớt buồn chán, em đã đếm những viên đá cẩm thạch lát sàn, có ít nhất là một ngàn viên, năm trăm viên màu nâu và năm trăm viên màu trắng. Em chưa hoàn tất xong bài tập đếm của mình thì người đàn ông ngồi sau quầy đã chỉ cho Philip hướng phải đi tiếp, về phía một chiếc cầu thang khác, lần này là một cầu thang phủ thảm đen và đỏ. Họ đã đi hết phòng này đến phòng nọ để nhân những tờ giấy có màu khác nhau, sau đó là đứng xếp hàng trước những quầy khác nhau. "Đây là trò chơi đi tìm kho báu, một trò chơi khổng lồ, chỉ dành cho người lớn", nhưng nhìn gương mặt buồn của họ thì có thể đoán được những tổ chức trò chơi này không có vẻ gì là thích thú chơi lắm. Khi Philip nộp lại mẩu giấy in đã được điền đầy đủ và đúng quy cách, người đàn ông hoặc đàn bà ngồi sau cửa kính đóng dấu vào và đưa cho Philip một bảng câu hỏi nữa để điền và nộp tại một phòng khác. Thế là họ lại băng qua thêm một hành lang, đôi khi thậm chí là vẫn cái hành lang đó nhưng đi ngược lại, cái hàng lang có ba mươi mốt ngọn đèn gắn trên trần cách nhau mười ô gạch đen và trắng, hành lang dài nhất và rộng nhất, họ đi qua một cái cầu thang, tìm người đàn ông to lớn, người này chỉ họ đi đến bước tiếp theo. Philip luôn nắm tay nó không rời ra, nhưng Lisa bướng bỉnh nhất định giữ khoảng cách vài bước dù là đi bên cạnh hoặc bước trước Philip. Nó rất ghét ý nghĩ đang trong vòng kiềm tỏa của ai đó, mẹ của nó chưa bao giờ làm như vậy. Khi quay trở lại xe hơi, Philip có vẻ hài lòng, chú ấy đã thắng. Họ trở về với một tờ giấy cuối cùng màu hồng trong tay, với tờ giấy này. Philip trở thành người bảo trợ hợp pháp tạm thời của Lisa. Sáu tháng nữa họ sẽ phải quay lại gặp một vị thẩm phán, người này sẽ trao quyền nhận con nuôi vĩnh viễn cho Philip, Lisa thề sẽ hỏi cho được những từ "người bảo trợ" và "nhận con nuôi" nghĩa là gì, nhưng "để ngày kia, không phải bây giờ". Ở nhà, Mary vẫn còn có vẻ căng thẳng, cô không hề nói đến tờ giấy mà họ vừa có được. "Cô ấy khó chịu như vậy bởi vì cô không thắng được cái gì cả, nhưng như thế không công bằng, bởi vì cô ấy đã không tự đến chơi với họ cơ mà."
Ngày thứ Ba dành cho việc đăng ký cho Lisa học ở trường. Nó không bao giờ tưởng tượng được lại có những ngôi trường lớn đến thế. Susan có kể cho nó nghe về trường đại học..... Nó tự hỏi không biết Philip có nhầm lẫn gì về tuổi của nó không. Sân trường lớn được phủ lên một lớp nền kỳ lạ, nó hỏi lún xuống theo bước chân. Trong một góc sân, có những chiếc thang đủ màu sắc, một trò chơi đĩa quay và hai cái cầu trượt mà nó nhìn một cách thèm muốn. Khi họ đang đi về phía cuối sân, một tiếng chuông bỗng vang lên. Hoàn toàn khác xa với tiếng chuông báo hiệu đi tìm chỗ ẩn nấp khi có bão đang đến gần. Đây chỉ là tiếng của một chiếc chuông nhỏ xíu, chẳng thấm tháp gì, nó thật ngớ ngẩn khi cố gắng gây ấn tượng cho người ta bằng cách gióng những tiếng to nhất có thể. Chỉ vô ích thôi, Lisa đã từng nghe những tiếng chuông lớn hơn nhiều. Khi tiếng chuông nhà thờ trong làng của nó vang lên báo hiệu giờ đi lễ hay lệnh tập trung ngoài quảng trường, sự trấn động truyền đến trong ngực nó, làm cho trống ngực nó kêu loạn cả lên mà nó cũng không biết tại sao. Khi mẹ mắng nó, dạy nó phải biết chế ngự nỗi sợ của mình, nó trả lời rằng đó là do cát lơ lửng trong không khí bay vào mắt, khiến nước mắt nó chảy ra. Khi tiếng chuông nhỏ dần rồi im hẳn, một đám trẻ con chạy ào ra ngoài. Cũng có thể là có một mối nguy hiểm nào đó.
Tầng trệt của tòa nhà được sử dụng làm sân nơi học sinh có thể trú trong những ngày mưa; ở làng của em, khi trời mưa, không phải ngày nào cũng có thể đến trường. Họ đi lên cầu thang giữa, ở tầng một, một hành lang dài dẫn đến những phòng học với những bộ bàn ghế giống hệt nhau. Lisa tự hỏi người ta làm thế nào mà có được nhiều bàn ghế đến thế! Em phải đợi bên ngoài một cánh cửa màu vàng trong khi Philip nói chuyện với bà hiệu trưởng tại phòng làm việc. Sau đó em được đưa đến giới thiệu với bà. Đó là một phụ nữ cao to, mái tóc bạc của bà được búi gọn sau gáy. Nụ cười rộng trên miệng không đủ để giấu được vẻ uy quyền của bà. Kết thúc buổi sáng, họ rời khỏi trường. Philip dừng lại trước hàng rào cổng trường, anh quỳ xuống ngang tầm với cô bé.
- Lisa, cháu phải trả lời khi mọi người nói chuyện với cháu. Suốt hai ngày nay, chú gần như không hề nghe giọng của cháu.
Cô bé nhún vai và còn cúi đầu xuống thấp hơn một chút nữa.
Trong quán ăn nhanh MacDonald's nơi Philip dẫn em vào ăn trưa, em bị cuốn hút hoàn toàn vào những tấm áp phích quảng cáo treo lơ lửng phía trên các quầy thu tiền và đặt món. Khi họ tiến đến gần quầy, Philip hỏi em thích ăn gì, nhưng em quay đầu đi chỗ khác, hoàn toàn không quan tâm gì đến thức ăn. Em dường như chỉ duy nhất quan tâm đến chiếc cầu trượt lớn màu đỏ ở bên ngoài nhà hàng. Philip hỏi thêm lần nữa nhưng em vẫn im lặng, ánh mắt nhìn mất hút ở phía bên kia của chiếc cửa sổ. Philip nhìn xuống và đưa ngón tay xoay cằm em về phía mình.
- Chú rất muốn cho cháu chơi, nhưng mà trời đang mưa.
- Thì có sao? Cô bé hỏi.
- Cháu sẽ ướt hết.
- Ở chỗ cháu, lúc nào trời cũng mưa, và những cơn mưa còn lớn hơn thế này nhiều. Nếu như người ta phải ngưng tất cả những gì người ta muốn lại chỉ vì người ta sợ bị ướt thì người ta sẽ chết mất. Không phải bằng cách đó mà mưa giết chết được chú đâu, chú không hiểu gì hết, chú không biết gì về mưa hết, còn cháu thì cháu biết!
Cô gái ở quầy yêu cầu họ đứng qua một bên nếu họ không gọi đồ ăn, có nhiều khách hàng đang đứng chờ. Lisa lại một lần nữa quay đầu đi chỗ khác. Em đứng nhìn cây cầu trượt như thế tù nhân đứng nhìn đăm đăm vào một đường chân trời tưởng tượng phía sau song sắt nhà tù.
- Nếu như cháu trượt trên đó, có thể khi xuống tới chân cầu, cháu sẽ lại thấy được mình đang ở nhà. Trong mơ cháu cũng thấy như vậy, cháu tin chắc là nếu cháu nghĩ đến điều đó thật nhiều với tất cả sức mình, nó có thể trở thành hiện thực!
Philip xin lỗi cô phục vụ và cầm lấy tay Lisa, cả hai đi ra khỏi nhà hàng. Mưa bây giờ còn nặng hạt gấp đôi lúc nãy, và trên sân đậu xe đã đọng từng vũng nước lớn. Philip cố tình bước thẳng vào trong mỗi vũng nước, đôi khi để mặc cho nước vào trong giầy của anh. Ở chân cầu trượt, anh bế Lisa và đặt bé lên bậc thứ ba của cầu thang.
- Chú đoán là nếu chú đặt cháu cẩn thẩn thì có lẽ thật kỳ cục, ở đó chẳng bao giờ cháu ngã mà.
- Có chứ!
Cô bé leo lên từng bậc thang, không mảy may để ý đến từng đợt gió đang thổi. Anh nhìn cô bé và đoán biết em đang hạnh phúc, em sống trong giây khắc của hiện tại mà không cần để ý đến tương lai, giống như một con thú hoang được trả về môi trường thiên nhiên của nó.
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Chương 7 (B)
Dưới chân một chiếc cầu trượt lớn màu đỏ chìm vào nền đen của bầu trời, một người đàn ông ướt sũng, đôi tay dang rộng, chờ đón một bé gái đang trượt xuống, đôi mắt em nhắm nghiền lại trong khao khát mãnh liệt mong ước mơ của mình trở thành sự thực. Và mỗi lần cô bé trượt xuống, anh đón lấy em, ôm chặt em vào lòng, rồi lại đặt em lên bậc thang thứ ba của chiếc cầu trượt.
Cô bé thử ba lần như vậy, rồi nhún vai và nắm lấy tay Philip.
- Không được chú ạ, em nói, chúng ta đi thôi!
- Cháu có muốn ăn gì không?
Em lắc đầu và kéo tay anh đi về phía chiếc xe. Trong khi leo lên ngồi ở ghế sau, em áp sát vào tai anh.
- Dù sao trượt cũng rất thích!
Cơn mưa vẫn chưa ngớt. Khi họ về đến nhà, Mary đang ngồi trong phòng khách. Cô đứng bật dậy và đứng chắn ngang cầu thang.
- Hai người không đi đâu hết trong khi đang ướt như thế này, thảm vừa được giặt tuần trước, không khéo phải giặt lại đấy, hơn nữa chắc hai người phải chà xà phòng thật nhiều vào người thì may ra mới sạch được! Hai người cời giầy và quần áo ra đi, em sẽ lên gác lấy khăn tắm cho.
Philip cởi áo ra rồi giúp Lisa cũng làm như vậy. Cô bé thấy thật là ngớ ngẩn, không biết trải thảm ra khắp nhà để làm gì nếu như không được giẫm chân lên. Ở nhà em tiện hơn nhiều, sàn nhà lát bằng gỗ và người ta muốn làm gì trên đó cũng được, chỉ cần giẻ lau một cái là sạch bong. Mary lấy khăn chà khô tóc cho Philip, anh thì lau tóc cho Lisa. Cô hỏi liệu có phải họ đưa xe đến chỗ rửa xe tự động mà quên không đóng mui xe, rồi cô ra lệnh cho họ lên gác thay đồ. Thời tiết xấu, họ không thể đi ra ngoài lần nữa, cô bé đành dùng cả buổi chiều để tham quan khắp nơi trong nhà.
* * *
Em leo lên các bậc thang đến tận phòng làm việc của Philip, em đẩy cửa ra và xuất hiện trước mặt chú. Em lẩn ra sau chiếc bàn lớn đứng xem Philip chỉnh lại đường nét của một bức vẽ phác thảo; sau đó cô bé bỏ mặc anh để đi ngắm nghĩa căn phòng kỹ hơn. Ánh mắt em dừng lại trên tấm ảnh chụp Susan, em nhìn nó thật lâu. Em chưa bao giờ nhìn thấy mẹ mình trẻ đến thế, và cũng chưa bao giờ nhận thấy những nét giống nhau ngày càng trở nên rõ rệt hơn giữa hai mẹ con.
- Chú có nghĩ rằng một ngày nào đó cháu sẽ còn già hơn mẹ không?
Philip ngẩng đầu lên khỏi bức vẽ.
- Trên hình này mẹ cháu mới có hai mươi tuổi, chú chụp mẹ cháu ngoài công viên, ngay trước ngày đi xa. Chú đã từng là bạn thân nhất của mẹ cháu, cháu biết không. Hồi ở tuổi cháu bây giờ, chính chú đã tặng mẹ cháu cái mặt dây chuyền mẹ cháu luôn mang trên cổ, nếu nhìn gân hơn cháu sẽ nhận ra nó. Giữa chú và mẹ cháu, chẳng có bí mật nào mà hai người không cho nhau biết.
Lisa nhìn anh chăm chăm và hỏi giọng kiêu ngạo.
- Chú có biết là cháu đã ra đời không?
Rồi cô bé bỏ ra khỏi phòng mà không nói gì. Philip vẫn còn nhìn mãi cái khe cửa trước khi mắt nhìn về phía chiếc hộp đựng những bức thư của Susan. Anh đặt tay lên nắp hộp, lưỡng lự rồi quyết định không mở. Anh buồn bã mỉm cười với bức hình đặt trên giá rồi quay lại tiếp tục làm việc trên bức vẽ.
Lisa đi xuống, em vào phòng tắm và mở chiếc tủ đựng đồ mỹ phẩm của Mary. Em cầm lấy lọ nước hoa, nhấn vào cái đầu xịt và ngửi mùi hương bay lên trong không khí. Em nhăn mặt, đặt cái lọ trở lại vào trong tủ rồi rời khỏi phòng. Chuyến viếng thăm tiếp theo là căn phòng của Thomas, nơi đây chẳng có gì hấp dẫn em. Cái thùng chỉ đựng toàn đồ chơi con trai. Cây súng treo trên tường làm cho em rùng mình, phải chăng ở đây cũng có thể có những tên tính đến đốt các ngôi nhà và giết những người dân sống trong đó? Trong một thành phố mà hàng rào không bị đạp nát, các bờ tường không một vết đạn, thể nằm ở đâu?
Mary sắp chuẩn bị xong bữa tối và mọi người đang ngồi ở bàn ăn trong bếp. Thomas, người được phục vụ đầu tiên, đang dùng nĩa ăn vẽ lên đĩa bột khoai tây nghiền của mình một con đường hai làn xe. Nó xếp các hạt đậu Hà lan xanh lên để tạo thành một đoàn xe đang đi vào nhà để xe tưởng tượng dưới lát giăm-bông. Lần lượt từng cái một, những chiếc xe tải màu xanh của nó đi vòng qua miếng dưa chuột bao tử dùng làm cột chống mái vòm nhà để xe, tất cả khó khăn của công việc nằm ở chỗ làm sao để tránh rừng rau cải bó xôi, nơi đầy nguy hiểm rình rập. Trên tấm giấy trải bàn ăn của mình, Philip dùng bút chì vẽ gương mặt của Mary, còn Lisa thì phác họa hình ảnh Philip đang ngồi vẽ trên tấm khăn trải bàn của em.
= 0 =
Thứ tư, Philip dẫn Lisa đi siêu thị mua đồ. Lisa chưa bao giờ biết đến cái gì tương tự như vậy. Trong tòa nhà này có nhiều lương thực hơn tất cả những gì em từng nhìn thấy trong làng của mình.
· ** *
·
Tất cả những lần đi chơi đều là dịp để cô bé khám phá những điều độc đáo của cái thế giới mà trước đây đôi khi mẹ từng miêu tả cho em nghe như là "đất nước của ngày xưa" này. Lisa háo hức, đôi khi trở nên ganh tị và hoảng sợ, tự hỏi làm sao mình có thể mang một vài mảnh nhỏ của thế giới này về cho những người dân làng nơi em ở khi em gặp lại họ, nơi những con đường đầy bụi đất mà em có thể nhớ kinh khủng. Trong khi thiếp ngủ, những hình ảnh ngày xưa lại hiện về an ủi em: cảm nhận đường nhỏ bằng đất ngăn cách giữa nhà em và khu nhà đón tiếp những người cơ nhỡ mà mẹ em đã cho xây hay ánh mắt nồng hậu của những người dân làng luôn luôn chào đón em khi em đi trên đường. Anh thợ sửa điện, người không bao giờ chịu nhận tiền của mẹ em, tên là Manuel. Em còn nhớ giọng nói của cô giáo mỗi tuần một lần đến dạy cho lớp học được tổ chức trong nhà kho chứa lương thực, cô Seňora Cazalès. Cô bao giờ cũng mang đến cho lớp của em những tấm hình của các con vật thật tuyệt vời. Em ngủ thiếp đi trong vòng tay của Enrique, người đàn ông có chiếc xe bò, người vận chuyển, như cách mà mọi người thích gọi.
·
Trong giấc mơ, em nghe thấy tiếng móng con lừa của em đập xuống nền đường đất khô, em đi theo nó đến tận trang trại, băng qua ruộng cây cải dầu với những cọng lá cao màu vàng che cho em khỏi ánh nắng mặt trời rát bỏng, và cứ như thế em đi đến tận nhà thờ. Cánh cửa nhà thờ vẫn để mở he hé từ khi một cơn mưa đã làm vẹo đi khung cửa. Em tiến về phía bệ thờ, hai phía xung quanh những dân làng đang tươi cười nhìn em. Mẹ em ngồi ở hàng ghế đầu, mẹ ôm em trong tay và siết chặt em vào lòng. Mùi hương thơm tỏa ra từ làn da mẹ, một thứ mùi trộn lẫn giữa mùi mồ hôi và mùi xà phòng tắm, lan tỏa vào cánh mũi em. Ánh sáng yếu dần, như thể mặt trời lặn xuống quá nhanh, rồi bầu trời bỗng tối sầm. Con lừa của em bước vào nhà thờ với một vầng hào quang màu sữa tỏa xung quanh, nó đưa mắt nhìn bầu đoàn quanh nó một cách oai phong, mọi người đều có vẻ hoang mang. Cơn giông đột nhiên nổ ra, những bức tường của nhà thờ vang dội những âm thanh vọng đến từ bên ngoài. Người ta nghe thấy tiếng gầm thét chói tai của dòng thác dữ đang tràn xuống từ trên núi, những người nông dân quỳ xuống, đầu cúi thấp, họ chắp tay lại để cầu nguyện to hơn. Em không thể xoay mặt lại được, như thể sức nặng của không khí đang cản lại các cử động của em. Hai cánh cửa gỗ bung ra và bị cuốn bay, dòng thác tràn vào giữa nhà thờ. Con lừa bị dòng thác nâng lên khỏi mặt đất, nó cố gắng một cách tuyệt vọng để vươn hai cánh mũi lên khỏi làn nước và kêu lên một tiếng kêu be be cuối cùng trước khi bị nhấn chìm. Khi cô bé mở mắt ra, Philip ngồi bên cạnh em, đang cầm lấy tay em. Anh khé vuốt ve mái tóc em, thì thầm với em những lời khuyên nhủ nhẹ nhàng người ta vẫn nói để khiến trẻ con im lặng, khi mà chỉ những tiếng la hét mới có thể giải phóng chúng khỏi nỗi sợ. Mà có người lớn nào còn nhớ được những nỗi sợ đó?
Cô bé ngồi bật dậy và đưa tay quệt những giọt mồ hôi còn đọng trên trán.
- Tại sao mẹ không quay trở về với cháu? Những cơn ác mộng của cháu có ích gì nếu như chúng không đánh thức cả mẹ dậy nữa?
Philip muốn ôm cô bé vào lòng, nhưng em từ chối.
- Cần phải có thời gian, anh nói, rồi cháu sẽ thấy, chỉ cần một chút thời gian rồi mọi việc sẽ ổn thôi.
Anh ngồi lại bên cô bé cho đến khi em ngủ thiếp đi. Khi quay về phòng, anh không bật đèn lên để tránh đánh thức Mary dậy. Anh lần mò đi lại giường và chui vào chăn.
- Anh vừa làm gì vậy?
- Thôi nào, Mary!
- Nhưng em đã nói gì mới được chứ?
- Đúng là không gì hết!
· * * *
Ngày thứ Bảy hôm nay cũng giống như ngày thứ Bảy của tuần trước, cơn mưa ám ảnh mọi khi quay trở về đập lên kính cửa sổ. Philip ở lỳ trong phòng làm việc. Trong phòng khách, Thomas cố gắng giết sạch những sinh vật ngoài hành tinh mang hình dạng nửa quả bí ngô đang nhảy xuống dọc theo màn hình. Ngồi trong phòng bếp, Mary lật từng trang của một cuốn tạp chí. Cô nhìn ra hướng cầu thang, những bậc thang dẫn lên gác biến mất hẳn trong bóng tối; xuyên qua cánh cửa lùa của phòng khách, cô đoán thấy mờ mờ dáng lưng của con trai mình đang nghiêng người chơi trò chơi. Cô nhìn sang Lisa đang ngồi vẽ trước mặt. Quay mặt về phía cửa sổ, cô bỗng thấy lòng mình bị choán bởi nỗi buồn của trời đất trong buổi chiều u ám và lặng lẽ này. Lisa ngẩng đầu lên và bắt gặp nỗi buồn đang chảy thành dòng trên đôi gò má của Mary. Em lặng lẽ nhìn cô như vậy trong giây lát, rồi cơn tức giận tràn tới làm biến dạng gương mặt trẻ thơ của em. Em nhảy ra khỏi chiếc ghế tựa và đi một cách cương quyết về phía cái tủ lạnh, mở tung cửa tủ ra. Em lấy ra vài quả trứng, một chai sữa rồi đóng sập cửa tủ lạnh lại. Em chụp lấy một cái tô và bắt đầu đổ thứ hỗn hợp đó của mình vào và rồi đánh nó lên với một vẻ dữ dội khiến cho Mary phải ngạc nhiên. Cũng cùng một thái độ như thế, không một giây lưỡng lự, em thêm vào đó đường, bột và lần lượt những gia vị khác mà em lấy được trên giá.
- Cháu làm gì vậy?
Cô bé nhìn thẳng vào mắt Mary, môi dưới của em run lên.
- Ở đất nước của cháu trời mưa, nhưng không phải là những cơn mưa như ở đây, những cơn mưa thực sự cơ, mưa trong nhiều ngày đến mức người ta không thể đếm hêt bao nhiêu ngày nữa. Và mưa ở chỗ cháu, nó mạnh đến mức cuối cùng, bao giờ nó cũng tìm được đường để chui vào dưới mái nhà, chảy vào bên trong nhà. Mưa rất thông minh, chính mẹ đã nói với cháu điều đó, cô thì cô không biết đâu, nhưng nó bao giờ cũng muốn đổ xuống nhiều hơn, nhiều hơn nữa.
Mỗi một từ nói ra, cơn giận dữ của cô bé lại lớn lên thêm một chút. Em bật bếp ga và đặt một chiếc chảo lên hơ nóng. Em tiếp tục nói, chỉ một lần ngừng lời khi bị giật nẩy mình vì nấc cục.
- Thế nên, nó tìm cách để đi xa hơn nữa, và nếu cô không để ý, cuối cùng nó sẽ đạt được mục đích của mình, nó sẽ len lỏi vào trong đầu cô để nhấn chìm cô, và một khi đã thành công, nó sẽ trốn ra ngoài qua mắt của cô để đi nhấn chìm một người khác. Cô đừng nói dối, cháu đã nhìn thấy mưa trong mắt cô, cô có cố gắng đến mấy để giữ nó lại trong người thì cũng đã muộn rồi, cô đã để nó chui vào trong đầu mình, cô đã thua cuộc!
Và vừa tiếp tục những lời độc thoại đầy giận dữ, cô bé vừa đổ một lớp bột vào chảo và nhìn nó vàng dần trên lửa.
- Cơn mưa đó rất đáng sợ, bởi vì nó sẽ lấy đi từng mảnh sọ não trong đầu cô, cuối cùng cô sẽ phải khuất phục và cô sẽ chết theo cách đó. Cháu biết rất rõ điều đó là sự thật, cháu từng thấy rất nhiều người trong làng cháu phải chết bởi vì họ đã để mình bị khuất phục. Sau đó, chú Enrique chở họ trên chiếc xe bò của chú ấy. Còn mẹ, để bảo vệ chúng cháu khỏi cơn mưa, để ngăn không cho nó làm hại đến chúng cháu, mẹ có một bí quyết.......
Rồi thu hết tất cả sức mạnh của mình trong một cử chỉ bất ngờ và dứt khoát, cô bé hất tung chiếc bánh xèo lên trong không khí. Nhuộm một màu vàng ươm, chiếc khí. Nhuộm một màu vàng ươm, chiếc bánh xoay một vòng, từ từ bay lên cao cho tới khi chạm dính vào trần nhà, ngay trên đầu Lisa. Cô bé chỉ thẳng vào chiếc bánh, cánh tay em căng ra như một sợi dây cung giương ra đến sắp đứt, em gào lên với Mary:
- Đây chính là bí quyết của mẹ, mẹ làm thành những mặt trời nhỏ dưới mái nhà. Cô hãy nhìn xem, em vừa nói vừa chỉ thẳng vào chiếc bánh xèo dính chặt vào trần nhà, cô nhìn xem! Cô có thấy mặt trời đó không?
Không đợi trả lời, em lật tiếp chiếc bánh xèo thứ hai và cũng hất tung lên cho nó dính chặt vào trần nhà như chiếc bánh thứ nhất, Mary không biết phải phản ứng như thế nào. Mỗi khi tung một chiếc bánh xèo lên, cô bé lại tự giơ cao ngón tay trỏ của mình lên chỉ vào và hét lên:
- Cô thấy những mặt trời nhỏ này rồi đấy, vậy nên bây giờ cô không được khóc nữa!
Ngửi thấy mùi bánh thơm, Thomas thò mũi qua khe cửa. Nó đứng im nhìn cảnh tượng đang diễn ra trước mắt, trước tiên nó nhìn Lisa, trong cơn giận dữ, nó thấy cô bé giống hệt như một nhân vật trong cuốn truyện tranh, rồi nó nhìn mẹ nó. Thất vọng, nó chẳng thấy một cái bánh xèo nào.
- Mẹ và chị không để dành cho con cái bánh nào à?
Lisa nhúng một ngón tay vào trong hỗn hợp bột, trứng, sữa, đường một cách ranh mãnh và ngoáy ngoáy ngón tay vào trong miệng. Nó liếc nhìn thật nhanh lên khoảng không phía trên đầu cậu bé.
- Em sẽ có ngay một cái bánh trong hai giây nữa thôi! Đứng yên đó!
Khi cái bánh rơi xuống, rơi trúng lên vai cậu bé, nó giật nẩy mình. Nó nhìn lên trần nhà, rồi ngay lập tức phá lên cười sặc sụa, như thể cả thế giới này đến mà cù cho nó cười vậy. Lisa cảm thấy cơn giận dữ đã nhấn chìm em đang lùi dần, em đặt chảo xuống và mỉm cười. Tiếng cười như nắc nẻ của hai đứa trẻ âm vang khắp căn phòng, chẳng mấy chốc Mary cũng bị lây cơn cười của chúng. Philip vừa bước vào phòng bếp, chứng kiếm một cảnh tượng có một không hai trên đời.
Anh ngửi thấy mùi hương ngọt ngào đang lan tỏa khắp căn phòng, đến lượt mình anh cũng đưa mắt tìm kiếm khắp xung quanh.
- Mọi người làm bánh xèo thế mà chẳng còn lại cái nào cho anh à?
- Có chứ, có chứ, Mary nói, đôi mắt cô còn ướt đẫm, anh đứng yên đấy!
Lisa đứng dựa lưng vào tủ lạnh, cô bé cười ha hả, Thomas đã bò lăn ra đất, nó thở hổn hển và rên rỉ vì cười.
Chính tiếng cười của Philip đã thu hút sự chú ý của Mary. Ánh mắt cô hết chuyển từ con trai sang anh, từ anh sang Lisa rồi ngược lại. Cô đứng ngắm cả ba người, nhìn cảnh tượng của một cuộc hội ngộ bất chợt nhưng tràn đầy hào hứng mà từ lúc nào cô đã không còn hoàn toàn thuộc về nó nữa. Cô hoàn toàn ý thức được có một giai điệu đầy niềm vui hân hoan đang tràn vào nhà cô và bắt gặp được nét dịu dàng đang nở trên đôi môi Philip khi anh nhìn Lisa. Nét mặt cô bé bao giờ giống một cách hoàn hảo với gương mặt người phụ nữ trong tấm ảnh đặt trên kệ trong phòng làm việc của Philip. Trừ nước da lai, Lisa nhìn giống mẹ như đúc. Chỉ trong giây lát ánh mắt của cô bắt gặp ánh mắt của Philip, Mary đã hiểu....
Một cô bé biết cách tạo ra những vầng mặt trời nhỏ dưới mái nhà "để xua tan cơn mưa trong đáy mắt"đã đến nhà cô, và cô không hề muốn điều đó. Nhưng cô bé ấy mang trong mình tất cả những điều có lý và phi lý thừa hưởng từ tâm hồn một người phụ nữ khác, người từ bấy lâu nay vẫn ám ảnh những cảm xúc bị chôn vùi trong lòng người đàn ông mà cô yêu.
Đến lượt Philip nhìn cô, và nụ cười của anh chuyển thành một nét trìu mến. Anh ra khỏi bếp, vào trong nhà để xe, lấy ra một chiếc thang nhỏ và trở vào phòng bếp với chiếc thang trên tay. Anh mở nó ra rồi trèo lên. Khi lên đến bậc trên cùng, anh nghiêng người gỡ một chiếc bánh xèo ra:
- Cho anh xin một cái đĩa được không? Tất cả chúng ta không thể trèo hết lên ăn bánh ở trên này được đâu, chỉ có một cái thang thôi. Anh không biết mọi người thế nào chứ anh bắt đầu đói bụng rồi đấy.
Bữa ăn tối kết thúc với những trao đổi ăn ý tuyệt vời giữa một cậu bé và một ông bố, và những câu nói không cần giấu giếm giữa Mary và Lisa.
= 0 =
Khi tập phim truyền hình Murphi Brown kết thúc, họ lên gác đi ngủ. Khi đi trên hành lang dẫn đến phòng tắm riêng của mỗi người, Mary bảo Lisa đi đánh răng. Khi nào em lên giường rồi, cô sẽ đến âu yếm em một lát. Tiếp theo đó là một giây im lặng, cô cảm thấy Lisa đứng sững lại. Từ phía sau lưng, cô nghe thấy giọng cô bé hỏi:
- Âu yếm nghĩa là gì cô?
Mary quay lại để nhìn vào mặt cô bé và cố gắng giấu đi sự bối rối của mình, nhưng giọng cô vẫn ngập ngừng.
- Sao cơ, sao lại âu yếm nghĩa là gì?
Lisa đã đứng chống hai tay lên hông.
- Thì đúng rồi, âu yếm nghĩa là gì?
- Lisa, cháu phải biết thế nghĩa là gì chứ! Cô sẽ đến bên giường của cháu và cô sẽ hôn cháu trước khi cháu ngủ thiếp đi.
- Thế nhưng tại sao cô lại hôn cháu? Hôm nay cháu có làm được việc gì tốt đâu!
Mary nhìn đứa trẻ đang đứng bất động, tư thế thẳng đuỗn khiến cho nó trở nên mạnh mẽ lại vừa yếu ớt hệt như một con thú nhỏ đang căng hết cơ thể của nó lên cố gắng khiến cho kẻ thù của mình phải nhụt chí. Cô lại gần và đi cùng với em đến tận bên bồn rửa mặt. Trong khi Lisa đánh răng, cô ngồi lên thành bồn tắm và chăm chú nhìn gương mặt của cô bé trong gương.
- Cháu đừng chải răng mạnh quá như thế, cô thấy là đêm ngủ lợi cháu bị chảy máu đấy, cô sẽ dẫn cháu đi gặp một bác sĩ nha khoa để khám xem.
- Nhưng sao lại phải đi khám bác sĩ trong khi cháu không bị bệnh?
Lisa lau xung quanh miệng một cách kỹ lưỡng rồi đặt khăn tắm lên bệ lò sưởi. Mary chìa tay cho cô bé, nó không để ý và đi thẳng ra khỏi phòng tắm. Mary đi theo cô bé vào trong phòng ngủ và đợi đến khi cô bé chui vào trong chăn mới đến ngồi bên cạnh em. Cô lùa tay vuốt mái tóc em, nghiêng người, chụm môi, đặt lên trán em một nụ hôn.
- Ngủ đi, ngày kia cháu sẽ bắt đầu đến trường, cháu phải nghỉ ngơi để có sức khỏe thật tốt.
Lisa không trả lời gì hết. Mãi thật lâu sau khi cánh cửa đã đóng lại, nó vẫn nằm mở to mắt nhìn đau đáu vào bóng tối.
Năm học đầu tiên của Lisa bắt đầu trong sự câm lặng của một con người đã trưởng thành nhưng còn bị cầm tù rất lâu trong cơ thể của một bé gái. Không ai nghe thấy tiếng em nói, thỉnh thoảng lắm căng tai ra thì một số giáo viên trong trường cũng có thể nghe thấy em trả lời khi họ đặt cho em một câu hỏi, nhưng đó cũng là chuyện hiếm, vì rất ít người trong số họ quan tâm đến em, phần lớn đều tin chắc rằng dù thế nào đi nữa em cũng sẽ ở lại lớp. Ở nhà em cũng không nói nhiều lắm, có ai hỏi em cũng chỉ lấy đầu làm hiệu hoặc đáp lại bằng một thứ âm thanh rì rầm phát ra từ cuống họng. Nếu có thể được, em muốn mình được thu nhỏ lại, nhỏ hơn cả những con kiến em nuôi trên bậu cửa sổ phòng mình. Ngày nào cũng vậy, cả buổi tối em ngồi lỳ trong phòng, và ở đó, từ nơi sâu thẳng trong tâm hồn, em chỉ làm một việc duy nhất: nhặt nhạnh từng hình ảnh ký ức về cuộc sống "ngày xưa", ghép chúng lại với nhau cho tới khi một chuỗi dài kỷ niệm trở thành một sợi chỉ hi vọng, và dọc theo sợi chỉ đó em đi dạo chơi. Từ cái thế giới này, em có thể nghe thấy tiếng đá cuội kêu lạo xạo dưới bánh xe Jeep báo hiệu Susan đã về; từ sâu thẳm ký ức bỗng trỗi dậy mùi hương ngây ngất của đất ẩm ướt trộn lẫn với lá thông và rồi, thỉnh thoảng, như có một phép lạ, em chợt nghe thấy giọng nói của mẹ từ trong tiếng xào xạc của lá cây ngoài xa.
Thường thường, mỗi buổi tối, chính Mary là người mang em xuống dưới này, trong một thế giới xa lạ, nơi để thoát khỏi thực tại, em chỉ có một cách duy nhất là hướng ánh mắt về phía chiếc đồng hồ treo tường. Dù chầm chậm nhả từng phút, cuối cùng nó cũng cho trôi hết được năm tháng.
= 0 =
Noel đã đến, những mái nhà trang trí bằng các dây đèn nổi bật trong đêm. Ngồi trong xe hơi, trên đường trở về từ New York, nơi Lisa vừa đi cùng Mary mua sắm những món đồ cuối cùng để chuẩn bị cho đêm Giáng sinh, em không thể không nói lên ý kiến của mình.
- Lẽ ra phải gửi một nửa số những cái bóng điện chẳng cần thiết này về chỗ cháu, như vậy tất cả các ngôi nhà sẽ có được ánh sáng.
- Chỗ của cháu, Mary đáp lại, chỗ của cháu là nơi chúng ta đang sống, trong một con phố nhỏ của khu Montclair nơi mà tất cả các ngôi nhà đều đã có ánh sáng rồi. Sống một cách đầy đủ không có gì là tội lỗi cả, hãy thôi đừng có lúc nào cũng nghĩ đến tất cả những sự thiếu thốn ở nơi cháu đã từng sống đó, và đừng có nói mãi rằng nhà cháu là đó nữa, cháu không phải là người Honduras, theo cô được biết thì cháu là người Mỹ, đất nước của cháu là ở đây.
- Khi cháu trưởng thành, cháu sẽ có quyền tự lựa chọn quốc tịch của mình!
- Có nhiều người đang mạo hiểm để có thể đến sống ở đất nước chúng ta, lẽ ra cháu phải cảm thấy hạnh phúc mới phải.
- Bởi vì họ không có quyền lựa chọn!
= 0 =
Những tháng sau đó, Philip hết sức cố gắng để gắn kết mọi người lại thành một gia đình mới. Càng ngày công việc càng chiếm nhiều thời gian của anh, anh tranh thủ từ phút rảnh rỗi cố gắng tạo ra những giây phút thư giãn và vui vẻ trong gia đình. Chuyến đi nghỉ nhân dịp lễ Phục sinh ở công viên Disneyworld là một trong những nỗ lực đó và, dù gần như ngày nào cũng có những cuộc tranh cãi gay gắt giữa Mary và Lisa, chuyến đi nghỉ đã mang dấu ấn của một kỷ niệm tốt đẹp đầu tiên. Tuy vậy, mỗi tuần trôi qua, anh lại càng cảm thấy rõ ràng hai cặp khác nhau đang cùng sống chung dưới một mái nhà, một bên là Lisa và anh, bên kia là vợ anh và con trai.
= 0 =
Đầu mùa hè năm 1989, anh đưa Lisa đến đầu kia của bang NewYork. Sau một đoạn đường dài khá lặng lẽ, họ được người bảo vệ khu cắm trại câu cá đưa họ đến tận căn nhà bằng gỗ nhỏ của họ. Anh đã mấy lần nháy mắt ra hiệu với Lisa nhưng cô bé giả vờ như không thấy. Phía bờ bên kia của khu hồ là lãnh thổ Canada. Đêm xuống, ánh đèn thành phố Toronto tỏa thành một quầng sáng màu cam phản chiếu lên bụng của những đám mây trên trời. Sau khi ăn bữa tối, họ ra ngồi ngoài hàng hiên nằm ngay phía trên mặt nước tĩnh lặng. Lisa cắt ngang sự yên lặng.
- Tuổi thơ có ích lợi gì?
- Tại sao cháu hỏi chú câu hỏi này?
- Tại sao người lớn lại luôn trả lời một câu hỏi bằng một câu hỏi khác mỗi khi họ không biết trả lời cho câu vừa được hỏi? Cháu đi ngủ đây!
Cô bé đứng dậy, chú nắm lấy cổ tay em, khiến em phải ngồi xuống trở lại.
- Bởi vì như vậy sẽ có thêm một ít thời gian! Nếu cháu tưởng đó là một câu hỏi dễ trả lời!
- Và đây cũng vẫn chưa phải là một câu trả lời!
- Bởi vì có rất nhiều quãng đời tuổi thơ khác nhau nên thật khó để biết phải nói với cháu thế nào, hãy cho chú thêm một chút thời gian và trong khi chờ, cháu thử nói cho chú cháu định nghĩa về tuổi thơ như thế nào.
- Cháu là người đưa ra câu hỏi cơ mà, cô bé trả lời.
- Chú đã trải qua cả quãng đời thơ ấu của mình với mẹ cháu.
- Đó không phải là điều cháu muốn hỏi.
- Cháu muốn chú kể cho cháu nghe của mẹ cháu mà! Mẹ cháu đã cảm thấy rất chật chội trong cái không gian của tuổi thơ đó, như mọi đứa trẻ khác già nhanh trước tuổi vì cuộc sống. Giống như cháu, mẹ cháu đã trở thành nạn nhân, bị trói buộc trong cái vỏ cơ thể bên ngoài của chính mình và của cái đồng hồ cát đáng ghét với những hạt cát không chịu chảy xuống nhanh hơn. Mỗi ngày trôi qua, mẹ cháu chỉ biết sống để đợi đến ngày hôm sau, với một mong muốn duy nhất là được già đi.
- Mẹ không hạnh phúc à?
- Mẹ cháu sống một cách dữ dội! Và sự nôn nóng giết chết tuổi thơ.
- Thế thì sao?
- Khi đó tuổi thơ, vì đó là câu hỏi của cháu, tuổi thơ trở thành một chặng đường quá dài ngoài sức chịu đựng giống như đối với cháu bây giờ, đúng không?
- Vậy thì tại sao người ta không thể trở thành người lớn ngay lập tức?
- Bởi vì tuổi thơ có những giá trị của nó. Nó giúp xây dựng nền tảng cho những ước mơ và cuộc sống của chúng ta. Chính trong ký ức về tuổi thơ, cháu sẽ tìm được nguồn sức mạnh cho mình, hiểu được nguyên cơ của những cơn giận dữ, nuôi dưỡng cho những đam mê, và nó cũng sẽ thường xuyên giúp cháu đẩy xa thêm ranh giới của những nỗi sợ hãi và những hạn chế của chính mình.
- Cháu không yêu tuổi thơ của mình nữa.
- Chú biết điều đó, Lisa, và chú hứa với cháu rằng chú sẽ làm tất cả để tô thêm màu rạng rỡ cho tuổi thơ của cháu, nhưng dù sao cũng vẫn sẽ có những luật lệ nhất định chỉ có màu đen và trắng.
Khi mặt trời lên, họ đã ngồi ở sát mép chiếc ụ nổi. Trong khi đã đến lần thứ tư cô bé làm rối tung cuộn dây câu, anh vẫn nài nỉ cô bé ít nhất cũng hãy giả vờ tỏ ra thích thú, anh đã tự nhủ lòng là sẽ kiên nhẫn. Anh nhắc lại cho Lisa biết chính cô bé là người muốn có một buổi đi câu trong chuyến đi chơi riêng chỉ có hai người này. Tặc lưỡi một tiếng khô khốc, cô bé thốt ra vài từ "Ở biển!" và ngay sau đó thêm vào "Không phải trên một cái hồ!" Em thả cho sợi dây câu nổi trên mặt nước và ngồi ngắm những gợn sóng nhỏ, gợn nào cũng như muốn tập trung hướng về phía những cái trụ.
- Hãy kể cho chú nghe về nơi đó! Philip nói.
- Chú muốn cháu kể cho chú nghe cái gì?
- Nói cho chú biết ở đó cháu sống như thế nào?
Cô bé im lặng một lúc trước khi nhẹ nhàng trả lời: "Với mẹ." Rồi im lặng. Philip cắn răng vào bên má. Anh đặt cần xuống, đến ngồi bên cạnh em để ôm em vào lòng.
- Câu hỏi của chú đúng là không được khôn khéo cho lắm, chú xin lỗi, Lisa.
- Có mà, bởi vì chú muốn cháu kể cho chú nghe về mẹ mà! Chú muốn biết mẹ có nhắc chú không chứ gì? Không bao giờ cả! Chưa bao giờ mẹ nói với cháu về chú!
- Tại sao cháu không dễ thương với mọi người?
- Cháu muốn về nhà cháu! Cháu không có đủ tình cảm dành cho chú và mọi người!
- Hãy cho chú và mọi người thêm một chút thời gian, chỉ thêm một chút thời gian nữa thôi.....
- Mẹ nói rằng tình yêu nếu tồn tại người ta sẽ cảm nhận thấy nó ngay tức khắc, nếu không sẽ không phải là tình yêu.
- Mẹ của cháu rất cô đơn, với những ý tưởng về cái tức khắc!
Ngày hôm sau, cô bé câu dính một con cá lớn đến mức suýt chút nữa thì nó ngã chúi về phía trước. Quá hào hứng, Philip vòng tay ôm lấy cô bé để "cho chắc ăn". Sau một hồi chiến đấu hết sức kiên trì, một búi tảo lớn được lôi lên mặt đất, Philip nhìn nó lộ rõ vẻ thất vọng, rồi anh nhận thấy đôi gò má của cô bé đang nhếch lên. Trong giây lát, cái ụ nổi đã trở nên rạng ngời nhờ một trong những điều tuyệt vời nhất của tuổi thơ: một tiếng cười phá lên.
Có những đêm cô bé gặp ác mộng. Anh ôm lấy cô bé trong tay và ru cho em ngủ; trong lúc cố làm dịu đi những đêm dài ác mộng của em, anh nghĩ đến những con người sẽ ám ảnh suốt cả cuộc sống trưởng thành của cô bé. Một số vết thương của tuổi thơ không bao giờ lành sẹo, chúng chỉ bị lãng quên, trong một khoảng thời gian để cho chúng ta lớn lên, để rồi sau đó quay trở lại dữ dội hơn.
Cuối tuần, họ quay trở về nhà. Thomas rất vui vì họ đã trở về và không chịu rời xa hai người nữa. Ngay khi Lisa lui về nhốt mình trong phòng, nó đến bên cô bé và ngồi bệt xuống ngay trên sàn, dưới bậu cửa sổ, nó đoán rằng sự kín đáo là điều kiện để nó được ở lại trong phòng. Thỉnh thoảng, cô bé hướng ánh mắt trìu mến về phía nó rồi ngay lập tức lại chìm đắm trong những suy nghĩ của mình. Khi ở trong tâm trạng vui vẻ, cô bé để cho nó đến nằm cạnh cô trên giường và kể cho nó nghe những câu chuyện về một mảnh đất khác, nơi những cơn giông có sức mạnh thật đáng sợ, nơi những trận gió cuốn lên một lớp bụi trộn lẫn với lá thông.
= 0 =
Mùa hè trôi qua, Lisa bị ở lại lớp và ngày khai giảng đánh dấu bước khởi đầu của một tuổi thiếu niên u ám. Cô bé không hoặc rất ít khi hòa mình vào đám bạn trong lớp, em thấy chúng quá trẻ con đối với mình. Gần như lúc nào cũng chìm đắm trong những cuốn sách tự chọn lấy cho mình, em không bao giờ cảm thấy cô đơn.
= 0 =
Một ngày tháng Mười hai, Thomas nghe thấy một đứa con gái trong trường gọi chị của nó là "đồ con gái nước ngoài dơ dáy", nó đạp cho đứa con gái ấy một cú khủng khiếp vào ống quyển. Tiếp theo đó là một cuộc chạy đuổi trong các hành lang, và một cú ngã sóng soài xuống nền nhà làm môi trên của nó bị rách. Máu tràn vào trong miệng nó, Lisa chạy ào đến và khi nhìn thấy nó nằm dưới đất trong tình trạng như vậy, cô bé túm mạnh lấy tóc đứa con gái đã lăng mạ mình, đẩy nó lùi dần về phía tường và đồng thời tống thẳng vào nó một nắm đấm với một sức mạnh vượt ngoài tầm kiểm soát của em. Đứa con gái kia quay một vòng và ngã sụp xuống, mũi ướt đẫm máu. Thomas đứng dậy, hoảng sợ, nó không còn nhận ra khuôn mặt thường ngày của Lisa nữa. Cô bé tuôn ra một tràng những lời đe dọa bằng tiếng Tây Ban Nha, tay bóp chặt cổ nạn nhân của nó. Thomas vội chạy tới van xin nó buông tay ra. Gương mặt run lên vì giận dữ, cuối cùng nó cũng thôi, đã cho con bé một cú cuối cùng rồi bỏ đi không hề ngoái lại. Nó bị đình chỉ học trong mười lăm ngày và bị phạt ở trong phòng. Cửa phòng của nó luôn luôn đóng kín, nó không để cho Thomas vào, ngay cả khi cậu bé mang trái cây đến cho nó. Lần đầu tiên, chính Mary là người lại bình yên trong nhà. Máu nghề nghiệp nổi lên, cô thuyết phục con trai kể hết cho cô nghe câu chuyện đã xảy ra. Ngay ngày hôm sau, cô xin gặp hiệu trưởng nhà trường, yêu cầu trường phải ngay lập tức và buộc người đã lăng mạ Lisa phải xin lỗi cô bé. Lisa không nói gì và trở lại lớp học. Chẳng ai còn dám nói xấu em nữa, còn Thomas thì kiêu hãnh đi dạo khắp trường với cái môi sưng phồng và tím bầm của nó trong nhiều ngày.
= 0 =
Cô bé kỷ niệm sinh nhật thứ mười một của mình vào cuối tháng Giêng. Chỉ có hai người bạn trong lớp đáp lại lời mời đến dự tiệc nhẹ mừng sinh nhật do Mary tổ chức. Buổi tối, cả nhà ăn tối bằng phần còn lại của bữa tiệc Buffet gần như còn nguyên. Lisa ở lì trong phòng riêng, sau khi dọn dẹp nhà bếp và gỡ các dây đèn treo trong phòng khách xuống, Mary mang đến phòng cho cô bé một đĩa đồ ăn. Ngồi ở cuối giường, Mary giải thích cho em rằng ở trường em phải chịu khó giao tiếp với mọi người nhiều hơn thì mới có bạn.
= 0 =
Những ngày đầu tiên của mùa xuân đã mang ánh nắng mặt trời tới, nhưng không khí của buổi sáng vẫn còn giá lạnh. Cuối buổi chiều, Joanne và Mary đã cùng nhau ngồi uống trà được một tiếng trong phòng khách khi Lisa trở về từ trường học. Nó đóng sập cửa lại, chào lí nhí một tiếng trong cổ họng và đi lên phòng. Giọng nói nghiêm khắc của Mary ngăn nó lại khi nó bước đến bước thứ sáu. Nó quay người lại, để lộ cái quần giây đầy vết bẩn, hoàn toàn tương xứng với đôi má bám đầy vết bùn của nó. Tình trạng đôi giầy của nó cũng chẳng đỡ hơn so với quần áo đang mặc.
- Cháu tắm trong các vũng bùn để rồi lần nào cũng về nhà trong tình trạng như thế này sao? Cô phải mua một cái máy giặt mới để cho cháu tiếp tục chơi những trò chơi của cháu chắc? Mary hỏi, không còn kiểm soát nổi cơn giận của mình.
- Cháu lên phòng thay đồ đây, Lisa trả lời giọng lộ rõ vẻ mất kiên nhẫn.
- Đây là lần cuối cùng cô nói với cháu, Mary hét lên khi Lisa đi khuất sau góc hành lang. Xong rồi cháu hãy xuống tự làm cho mình một chiếc sandwich đi, cháu cứ chẳng ăn cái gì như vậy quá đủ rồi đấy! Cháu nghe thấy cô nói không?
Một tiếng "vâng" lãnh đạm vọng đến từ cuối hành lang, tiếp theo là tiếng sập cửa. Mary bước trở lại ngồi cạnh cô bạn gái, không nén nổi một tiếng thở dài. Lộng lẫy trong bộ áo váy màu be phẳng phiu không một nếp gợn, Joanne đưa tay vuốt nhẹ lên tóc một đường tinh tế để chắc chắn là không có lọn tóc nào bị rối và mỉm cười một cách khoan dung.
- Ngày nào cũng thế này chắc không dễ dàng chút nào, thật khổ cho cậu, cô nói.
- Đúng vậy đấy, và khi xong với con bé này thì lại đến lượt thằng Thomas, nó cứ suốt ngày đi theo bắt chước con bé.
- Đặc biệt với cô bé này chắc phải phức tạp lắm.
- Tại sao vậy?
- Cậu biết rõ là mình muốn nói gì mà, ở trong thành phố tất cả bọn mình đều biết chuyện, và bọn mình rất ngưỡng mộ cậu.
- Joanne, cậu đang nói về việc gì vậy?
- Nuôi dậy một đứa con gái đến tuổi vị thành niên bao giờ cũng là một điều khó khăn cho các bà mẹ, trong khi đó Lisa lại đến từ một nước khác, nó không hoàn toàn giống với những đứa trẻ bình thường. Bỏ qua những điều khác biệt và thuần hóa cô bé như điều cậu đang làm, quả là một sự rộng lượng đáng để ngưỡng mộ, nhất là với một người không phải là mẹ ruột như cậu.
Lời nhận xét vang lên trong đầu Mary như thể có một cây búa vừa đập một cú vào đầu cô.
- Bởi vì mối quan hệ giữa tôi và Lisa là chủ đề cho các cuộc đàm tiếu trong thành phố sao?
- Tất nhiên là chúng tớ có nói chuyện với nhau về việc ấy rồi, câu chuyện của cậu dù sao cũng đâu phải là chuyện thường. May thay cho chúng tôi! Xin lỗi cậu về câu nhận xét cuối cùng này, tớ không phải chút nào. Không, điều mà tớ muốn nói, đó là mọi người cảm thông với cậu, thế thôi.
Cảm giác bực bội xuất hiện trong lòng Mary ban nãy khi nghe lời nhận xét đầu tiên của Joanne đã biến thành một cơn giận dữ không kiềm chế nổi. Cô điên lên vì tức giận. Cô ghé sát mặt mình vào gương mặt của cô ta, với một thái độ gần như đe dọa, cô cố tình nhại lại giọng của vị khách:
- Thế các cô cảm thông với tôi ở chỗ nào, cô bạn quý của tôi? Ở tiệm cắt tóc hả? Trong phòng chờ của bác sĩ phụ khoa, của mấy vị chuyên gia về chế độ ăn uống hay trên ghế đi-văng của mấy chuyên gia tâm lý của các cô? Hay trừ phi là các cô tán mấy chuyện đó trên giường mát-xa, trong khi người ta vuốt ve người các cô? Cô nói đi, tôi thực sự muốn biết, những khi nào là lúc các cô cảm thấy nhàm chán đến độ phải cảm thông cho chuyện của tôi? Tôi vẫn biết là cuộc sống của các cô vô vị đến phát chán, và rằng năm tháng trôi qua mọi chuyện chỉ càng tệ thêm, nhưng đến mức như vậy, và nhanh đến như vậy thì tôi không thể ngờ!
Joanne lùi lại, nép người sâu thêm vào chiếc ghế nệm.
- Cậu đừng tức giận như vậy, Mary, thật là kỳ cục, tớ chẳng có ý gì khi nói như vậy, cậu hiểu sai hết mọi chuyện, ngược lại thì có, tớ đang chia sẻ với cậu tình cảm mà mọi người dành cho cậu.
Mary đứng dậy và nắm lấy cánh tay Joanne, khiến cho cô ta cũng phải đứng dậy theo.
- Biết không, Joanne, tình cảm của cô làm cho tôi chán đến chết đi được; mà nhân tiện để tôi nói thật cho cô biết luôn, tất cả lũ các cô đều làm cho tôi phát chán, và nhất là cô, vị chủ tịch của cái câu lạc bộ mấy mụ già thiếu hơi đàn ông của cô. Hãy nghe tôi nói cho rõ đây, tôi sẽ dậy cho cô một bài học nhỏ về từ vựng, và nếu cô cố gắng tập trung hết khả năng của cái bộ óc nhỏ xíu của cô để nghe những gì nói, thậm chí cô sẽ đủ khả năng để lặp lại cho mấy cô bạn của cô nghe mà không nhầm lẫn. Một con vật người ta mới thuần hóa, còn một đứa trẻ người ta nuôi dạy! Đúng là khi tôi nhìn mấy đứa con của cô ngoài đường, tôi có thể thấy rõ là cô không hiểu mấy về sự khác biệt này, nhưng dù sao cũng thử mà xem, cô sẽ thấy, cô sẽ cảm thấy bớt buồn chán hơn nhiều. Bây giờ thì cô đi ra khỏi nhà tôi, bởi vì hai phút nữa, tôi sẽ đuổi cô ra bằng cách đá vào mông của cô.
- Cậu hoàn toàn mất trí rồi sao?
- Phải đấy, Mary hét lên, chính vì vậy mà tôi đã lập gia đình từ sớm đến thế, chính vì vậy mà tôi tự tay nuôi dạy hai đứa con của tôi, và tôi cảm thấy hạnh phúc vì điều đó. Đi ra ngay! Để cho tôi yên!
Cô đóng sập cánh cửa thật mạnh phía sau lưng Joanne, cô ta bỏ đi một mạch. Để lấy lại hơi thở và làm dịu đi cơn đau đầu dữ dội, cô tì trán vào tường. Chưa kịp bình tĩnh lại, cô giật nẩy mình khi nghe tiếng bước chân trên các bậc thang, cô quay người lại.
Lisa mặc một bộ đồ thể dục chạy bộ sạch sẽ, xinh xắn, bước vào trong bếp. Vài giây sau đó cô bé quay trở ra với một chiếc đĩa cầm trên tay. Em đã làm cho mình một chiếc bánh sandwich giăm-bông và thịt gà kẹp giữa bốn lát bánh mỳ phủ sốt mayonnaise. Chiếc bánh cao đến mức để giữ cho nó không bị đổ, cô bé đã phải lấy một chiếc đũa của cửa hàng đồ ăn Trung Hoa mang đến những hôm Mary không muốn nấu nướng, đam xuyên qua lớp bánh. Đến giữa cầu thang, ngay ở chỗ lúc nãy em bị gọi giật lại, Lisa quay người lại và, với một nụ cười kiều hãnh, cô bé nói:
- Bây giờ cháu đói rồi!
Rồi em quay trở lên phòng mình.
= 0 =
Tháng Bảy, cả bốn người cùng đi nghỉ tại vùng Núi Đá. Núi giúp cho Lisa tìm thấy lại phần nào cảm giác tự do đánh mất lâu nay và cũng làm cho em gần gũi với Thomas hơn. Trong bất kể việc gì, leo núi, trèo cây, rình các con thú hay bắt đủ loại côn trùng kỳ lạ mà không để cho chúng đốt, em luôn chơi hết mình, khiến cho cậu bé Thomas, người mà mỗi ngày lại càng coi em như chị gái của mình nhiều hơn, vô cùng ngưỡng mộ. Không dám thú nhận nhưng Mary cảm thấy khổ sở khi hai đứa nhỏ ngày càng thân thiết và thời gian gần gũi bên con trai ngày càng bị thu hẹp. Từ sáng sớm, Lisa đã kéo cậu bé theo em suốt một ngày phiêu lưu. Em đóng vai người phụ trách trại của đội Peace Corps còn cậu bé vào vai các nạn nhân của bão. Kể từ buổi tối hôm cậu bé đã ở bên em gần như suốt cả đêm để trấn an em trong khi cơn giông nổ ra, và đã giữ kín được bí mật về những cơn địa chấn khiến em hoảng loạn, cậu bé đã được đề bạt làm trợ lý phụ trách trại. Ngày hôm sau, vào lúc bình minh, khi mà mặt đất vẫn còn đẫm sương đêm, em lấy đất trộn với lá thông và hít thật sâu hương thơm tỏa ra. Và giờ ăn trưa, em mang nắm đất trộn đến cho Philip và, trước sự tức giận của Mary, em tuyên bố một cách tự hào rằng ở chỗ em cũng có mùi như vậy, nhưng thơm hơn.
= 0 =
Tháng Bảy trôi qua rất nhanh và khi trở về vùng ngoại ô ở New York, hai đứa trẻ đều cảm thấy tù hãm. Mùa tựu trường diễn ra trong những ngày buồn tẻ đang trôi qua. Ngày mỗi lúc mỗi ngắn lại, khi sắc đỏ của mùa thu không đủ bù lại cho một nền trời xám xịt chỉ sáng lên phần nào trong sự hứa hẹn một mùa hè sẽ trở về.
= 0 =
Vào dịp Noel, cô bé nhận được món quà là một hộp đồ vẽ gồm nhiều bút chì màu, chì than, cọ và tuýp bột màu. Ngay lập tức, trên một tấm giấy lớn ghim lên tường trong phòng ngủ của mình, cô bé bắt đầu vẽ một bức tranh khổng lồ.
Bức tranh chứng tỏ em có những khả năng nghệ thuật đặc biệt, nó thể hiện quang cảnh ngôi làng của em. Trong đó, em đã vẽ quảng trường trung tâm nơi có nhà thờ nhỏ vươn cao, con đường nhỏ dẫn đến trường học, cái nhà kho lớn với hai cánh cửa em để ngỏ, chiếc xe Jeep đậu ngay phía trước. Ở lớp cảnh thứ nhất em vẻ Manuel, Seňora Cazalès và con lừa của em ở phía trước ngôi nhà nằm bên vách núi nơi em sống trước đây. "Đây là ngôi làng trên núi của bọn cháu. Mẹ đang ở trong nhà", em nói thêm.
Mary miễn cưỡng chiêm ngưỡng "tác phẩm" và đáp trả ngay lập tức, dưới ánh mắt giận dữ của Philip: "Hay lắm, nếu may mắn một chút thì hai mươi năm nữa, cô sẽ được có mặt trong bức tranh này, sẽ khó khăn hơn đấy vì cô sẽ có thêm nếp nhăn trên mặt, nhưng cháu cũng sẽ có nhiều kinh nghiệm hơn với cây cọ vẽ. Cô tin chắc rằng khi nào cháu muốn, cháu sẽ làm được ..... Chúng ta còn nhiều thời gian."
= 0 =
Ngày 16 tháng Giêng năm 1991, 19 giờ 14 phút, trái tim của châu Mỹ bắt đầu đập theo nhịp những đợt đạn súng cối dội xuống Bagdad. Sau khi tối hậu thư được đưa ra hết hạn vào nửa đêm hôm trước, quân đội Mỹ cùng các lực lượng đồng minh châu Âu chủ chốt bắt đầu tiến hành chiến tranh với Iraq để giải phóng Koweit. Hai ngày sau, hãng Eastern Airlines đóng cửa, công ty hàng không này sẽ không còn chuyên chở hành khách đến Miami hay đến bất cứ nơi nào khác. Một trăm giờ đồng hồ sau khi chiến tranh xảy ra, các lực lượng đồng minh tạm đình chiến. Một trăm bốn mươi mốt lính Mỹ, mười tám lính Anh, mười lính Ai Cập, tám lính Tiều vương quốc các nước Arập thống nhất và hai lính Pháp đã bị thiệt mạng, cuộc chiến tranh công nghệ cũng đã giết chết một trăm ngàn binh lính và dân thường Iraq. Cuối tháng Tư, Lisa cắt một mẩu báo trong tờ New York Times mà em đọc gần như thuộc lòng và dán nó vào một cuốn album lớn. Trong mẩu báo đó, người ta có thể đọc được tin một cơn bão đã đổ bộ xuống vùng bờ biển Bangladesh, giết chết hai mươi lăm ngàn người. Cuối mùa xuân, một lần Lisa bị một xe cảnh sát thành phố áp giải về nhà, sau khi bị phát hiện đang vẽ một lá cờ trên một thân cây phía sau nhà ga. Dựa vào một cuốn từ điển, Philip đã chứng minh được với cảnh sát rằng màu sắc trên lá cờ là màu của Honduras chứ không phải cờ Iraq, nhờ thế mà tránh được, không để sự việc trình lên thẩm phán tòa án. Cô bé bị phạt ở trong phòng suốt cả hai ngày cuối tuần và bị Mary tịch thu bộ màu vẽ trong vòng một tháng.
Năm 1991 kiêu hãnh với niềm hi vọng dân chủ ra đời: ngày 17 tháng Sáu, tại Nam Phi, luật về phân biệt màu da của chủ nghĩa A-pác-thai bị xóa bỏ, ngày 15 tháng Sáu, Boris Eltsine được bầu làm tổng thống của liên bang Nga, gióng lên hồi chuông báo hiệu sự kết thúc của Liên bang Xô viết. Tháng Mười một, những cuộc chiến đầu tiên nổi ra với sự tham gia của bảy trăm chiếc xe thiết giáp của Nam Tư bao vây các thành phố Vukovar, Osijek và Vinkovci báo hiệu sự khởi đầu của cuộc chiến tranh khác, một cuộc chiến mà chẳng bao lâu sau đó sẽ gây ra bao nỗi thống khổ cho khu vực trung tâm của lục địa châu Âu già cỗi.
= 0 =
Năm 1992 chào đời trong một mùa đông giá lạnh. Vài tuần nữa, Lisa sẽ kỷ niệm sinh nhật lần thứ mười ba của mình. Từ trên đỉnh của những ngọn đồi ở Montclair, người ta có thể nhìn thấy thành phố New York bị bao phủ bởi một tấm áo choàng màu xám và trắng. Philip tắt đèn trong phòng làm việc và đến bên người vợ đang nằm ngủ trên giường. Anh nằm xuống sát bên vợ, rụt rè đưa tay xoa nhẹ lên lưng cô trước khi xoay người lại.
- Lâu rồi anh không nhìn em, cô nói trong bóng tối. (Cô dừng lại một lúc rồi quyết định nói ra hết tâm sự của mình trong buổi đêm tháng Giêng này). Em thấy rõ ánh mắt anh rạng ngời lên như thế nào khi anh nhìn Lisa. Giá như em có thể nhận được từ anh dù chỉ một phần tư cái ánh sáng ấy. Từ khi biết tin về cái chết của Susan, ánh mắt anh dành cho em đã tắt hẳn, trong con người anh có cái gì đó đã chết, và em không thể làm cho nó sống lại được.
- Không, em nhầm rồi, anh đã cố gắng hết sức, nhưng không phải bao giờ cũng dễ dàng, anh không phải là con người hoàn hảo.
- Em không thể giúp anh được, Philip ạ, bởi vì cánh cửa đã đóng kín. Quá khứ đối với anh quan trọng hơn hiện tại và tương lai đến nhường ấy sao? Thật là dễ dàng khi từ bỏ mọi thứ bằng cách vùi mình trong sự tiếc nuối, một nỗi đau thụ động mới tuyệt vời làm sao, một cái chết từ từ mới đáng ngưỡng mộ làm sao, nhưng dù sao đó vẫn là một cái chết. Những ngày đầu tiên khi chúng ta gặp nhau, anh kể cho em nghe về những ước mơ, những đam mê của anh, em đã tưởng rằng anh gọi em, em đã đến, và anh, anh, để mình bị cầm tù trong cái thế giới tưởng tượng của anh, còn em, em đã có cảm giác bị đuổi ra khỏi cuộc sống của chính em. Em không cướp mất anh của ai hết, Philip, khi em gặp anh, anh chỉ có một mình, anh nhớ không?
- Tại sao em nói những điều này?
- Bởi vì anh đang từ bỏ mọi thứ, và em không phải là nguyên nhân.
- Tại sao em từ chối không muốn gần gũi Lisa?
- Bởi vì điều đó phải đến từ hai phía, và bởi vì con bé cũng không mong muốn. Đối với anh, mọi việc quá dễ dàng, vị trí của người cha đang còn trống.
- Nhưng trong trái tim con bé còn chỗ dành cho cả thế giới.
- Anh mà nói lời đó ư? Anh, người mà dù bằng cả tình yêu của em cũng không làm nổi điều đó trong trái tim anh!
- Anh làm cho em đau khổ đến mức đó sao?
- Còn tệ hơn nhiều, Philip. Chẳng có nỗi cô đơn nào tệ hơn nỗi cô đơn người ta cảm nhận ngay cả khi sống hai người. Em đã muốn ra đi trong khi em lại yêu anh, thật trớ trêu, thật là một điều tủi hổ cho cuộc sống. Nhưng bởi vì em yêu anh, em chỉ nhìn thấy mình anh, nỗi đau của anh, sự hồ nghi của anh, những điều không chắc chắn của anh. Và anh không còn phải là một con người đáng yêu nữa, vậy mà em vẫn yêu anh.
- Em đã muốn rời bỏ anh sao?
- Em nghĩ đến điều đó mỗi buổi sáng khi em dậy khỏi giường, vào những giờ khắc đầu tiên của mỗi ngày, khi em nhìn thấy anh uống vội ly cà phê trong sự im lặng nơi anh tìm chỗ ẩn náu, khi em nhìn anh khoác lên mình nỗi cô đơn, khi anh cố rửa cho sạch làn hương của da thịt em dưới dòng nước đã chảy quá lâu, khi em biết rằng anh đang ở rất xa chúng ta khi đắm mình dưới chiếc vòi sen, khi anh chạy vội đến bên chiếc điện thoại đang reo như thể anh vừa thấy ở đó một cánh cửa sổ giúp anh có thể thoát khỏi thực tại thêm chút nữa. Còn em, em vẫn ở đó, đôi tay nặng trĩu cả một đại dương hạnh phúc, ươc mơ đôi ta có thể tắm mình trong đó.
- Anh chỉ cảm giác lạc lõng một chút thôi, anh nhẹ nhàng bào chữa.
- Anh chẳng học được một bài học nào hết, Philip ạ, em đã quan sát anh khi anh mỗi ngày một già đi, khi anh vuốt những nếp nhăn đang hình thành trên gương mặt anh. Ngay ngày đầu tiên em đã yêu hình ảnh ông già trong anh, chính như thế mà em đã biết rằng em muốn được gây dựng cuộc đời mình cùng với anh, bởi vì ý nghĩ về một tuổi tác không giới hạn ở bên anh làm cho em cảm thấy hạnh phúc, bởi vì lần đầu tiên trong đời em không còn cảm thấy sợ sự vĩnh cửu nữa, cũng chẳng thấy sợ sự cợt nhạo của thời gian, bởi vì khi anh đi vào trong em, em cảm thấy sức mạnh cũng như sự yếu đuối của anh, và em yêu sự hòa trộn dịu dàng của cả hai điều đó. Nhưng em không thể một mình tạo ra cuộc sống của chúng ta, chẳng ai có thể làm được điều đó. Người ta không tạo ra cuộc sống của mình, anh yêu ạ, người ta chỉ cần sự dũng cảm để dám sống cuộc sống ấy. Em sẽ đi xa vài ngày. Cứ buông xuôi theo anh như thế này, cuối cùng em sẽ đánh mất chính mình.
Philip cầm lấy đôi bàn tay của Mary và hôn lên tay cô.
- Tuổi thơ của anh đã chết đi cùng với cô ấy, và anh không thể nào chấp nhận được điều đó.
- Susan chỉ là một cái cớ, tuổi thơ của anh cũng vậy. Anh có thể kéo dài mãi mãi phần đời này của anh, ai cũng có thể làm được điều đó. Ta mơ về một lý tưởng, ta cầu xin nó, nài gọi nó, trông đợi nó, và rồi cái ngày mà nó xuất hiện, ta khám phá nỗi sợ hãi khi sống với cái lý tưởng đó, sợ không xứng đáng với những giấc mơ của chính mình, sợ phải gắn kết nó với một thực tế mà ta phải chịu trách nhiệm với nó. Thật quá dễ dàng khi chối từ không muốn trở thành người lớn, quá dễ dàng để quên đi những lỗi lầm của mình, khi đổ hết sai lầm cho cái gọi là định mệnh vốn vẫn che giấu sự lười biếng của chúng ta. Giá như anh có thể biết được bỗng nhiên em cảm thấy mệt mỏi đến chừng nào. Em đã từng có được sự dũng cảm đó, Philip ạ, sự dũng cảm để yêu anh với cuộc sống của anh, một cuộc sống thật phức tạp, như anh nói từ lúc đầu. Phức tạp bởi lẽ gì? Bởi những day dứt, bởi những dự định chưa hoàn thành của anh? Bởi anh tưởng rằng anh đã nắm cái độc quyền đó ư?
- Em mệt mỏi vì anh?
- Suốt khoảng thời gian vừa qua, em đã lắng nghe anh, trong khi anh chỉ nghe chính mình, những ý nghĩ làm cho anh hạnh phúc đã khiến cho em cảm thấy ngập tràn sung sướng, và em chẳng thèm để ý đến những điều không mong đợi xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Em chẳng hề sợ sẽ thấy bàn chải đánh răng trong ly của em, hay những tiếng động anh tạo ra buổi đêm trong khi ngủ, hay gương mặt nhàu nát của anh vào buổi sáng, ước mơ của em đã giúp em vượt qua tất cả những điều đó. Em cũng vậy, em đã phải học để chống đỡ lại những giờ khắc cô đơn, những giây phút bàng hoàng. Anh có biết điều đó không? Em đã cố tìm đủ mọi lý lẽ trên đời này để biện minh cho anh, để cố gắng chấp nhận rằng địa cầu của anh đôi khi quay ngược, nhưng dù anh có muốn hay không, nó cũng chỉ quay theo một hướng, và dù anh có muốn hay không, nó cũng mang anh trên nó, và anh cũng quay theo nó.
- Nhưng chuyện gì đã xảy ra để em nói với anh tất cả những lời này?
- Chẳng có gì cả, thế đấy. Em chỉ cần thấy cơ thể của anh mỗi đêm lại cách xa em thêm một chút, mở mắt ra nhìn thấy lưng của anh trong khi trước đây em thấy gương mặt anh đang ngủ, cảm thấy bàn tay anh lướt qua da em một cách hèn nhát, Chúa ơi, em ghét cái câu "cảm ơn em" của anh khi em hôn vào cổ anh đến thế. Tại sao tối nay anh không làm việc khuya hơn? Em vẫn muốn tiếp tục im lặng thêm một thời gian nữa và không nói gì với anh hết.
- Nhưng, em đang cố gắng nói với anh rằng em không còn yêu anh nữa đấy.
Mary rời khỏi giường và quay người lại để nhìn anh khi bước ra khỏi phòng. Anh nhìn thấy dáng những đường cong của cơ thể cố biến mất trong bóng tối của hành lang. Anh chờ vài phút rồi đi đến bên cô. Cô đang ngồi ở đầu cầu thang, nhìn chằm chằm vào cánh cửa ra vào ở phía dưới. Anh quỳ xuống phía sau cô và vụng về quàng tay ôm lấy cô.
- Em đang cố gắng nói với anh điều ngược lại, cô nói. Cô bước xuống các bậc thang, đi vào phòng khách và khép cửa lại.
= 0 =
Qua một đêm, khi mà những điều người ta có thể đoán được nhưng lại không muốn nghe thấy được nói ra, thật khó khăn khi phải đối diện với buổi sáng hôm sau. Thu mình trong chiếc áo khoác bằng da, Mary đứng trên bậc cửa, chống chọi với cái lạnh tê cóng của buổi sáng. Tiếng bọn trẻ con vọng từ hành lang đang tiến gần, cô hét to rằng cô sẽ đợi chúng trong xe hơi, chúng phải nhanh lên nếu không muốn bị trễ lần nữa, Philip đến bên cô, anh đặt bàn tay lên gáy cô và vuốt ve nhè nhẹ.
- Có thể là anh không bày tỏ cho em thấy theo cách mà em muốn, nhưng anh thực sự yêu em, Mary.
- Thôi nào anh, không phải bây giờ, không phải ngay cạnh bọn trẻ, còn quá sớm để thay đổi ý kiến mà.....
Anh đặt một nụ hôn lên đôi môi cô. Từ trên đầu cầu thang, Thomas bắt đầu hát vang lên nghe đinh tai nhức óc: "Đôi tình nhân, đôi tình nhân, đôi tình nhân!", Lisa lấy vai hích nó một cái, và một giọng cương quyết pha lẫn kiêu hãnh, nó nói: "Em yên tâm đi, Thomas, rồi một ngày em cũng sẽ bước qua cái ngưỡng bảy tuổi, em sẽ không cứ như thế này mãi suốt đời đâu!" Không chờ câu trả lời, cô bé bước xuống các bậc thang. Khi đi qua cửa, em thó lấy chùm chìa khóa trong tay Mary và khi ra đến giữa lối đi, em hét lên: "Cháu sẽ đợi mọi người trong xe hơi", và hạ thấp giọng, nhăn mặt nói thêm: "Đôi tình nhân!"
Mary bước xuống đi dọc lối đi, xếp chiếc vali nhỏ của cô vào thùng sau của chiếc xe hai cầu màu trắng, và ngồi vào sau tay lái.
- Mẹ đi du lịch à? Thomas hỏi.
- Mẹ sẽ đến ở với dì vài ngày ở Los Angeles, bố sẽ lo cho các con.
= 0 =
Mary đậu xe ngoài bãi và băng qua chiếc cầu vượt dẫn đến nhà ga sân bay. Công trình nâng cấp nhà ga vừa hoàn tất, màu sơn vẫn còn sáng bóng. Phải ba giờ nữa chuyến bay của cô mới khởi hành, thủ tục máy bay vẫn chưa bắt đầu. Cô bước vào quán bar và chọn một chiếc ghế ngay tại quầy. Ngồi tại đây, cô có thể ngắm nhìn các đường băng. Anh phục vụ quầy bar nói tiếng Mỹ pha giọng Tây Ban Nha mang cho cô một ly cà phê sữa. Trong sự tĩnh lặng của căn phòng vắng, cô để cho những bức tranh của quá khứ lần lượt trôi qua trước mắt: giây phút ngẫu nhiên của lần đầu gặp gỡ trong bóng tối của một phòng chiếu phim, những lời đầu tiên hoàn toàn bất ngờ thốt lên trên phố, sự vi điệu của giây phút bối rối khiến cô ngây ngất, cảm xúc lẫn lộn khi mỗi người đi tiếp đường của mình sau khi trao đổi số điện thoại với nhau. Sự chờ đợi khiêu khích niềm hi vọng, những chi tiết khiến người ta phải nhớ đến một người còn chưa quen biết, cảm xúc của cuộc gọi đầu tiên khiến cho ngày hôm sau trở nên thật khác lạ, rồi lại tiếp tục một khoảng im lặng chờ đợi, rồi thời gian như kéo dài mãi khi những ý nghĩ mà người ta không muốn định rõ là điều gì cứ thỉnh thoảng lại đến. Giữa dòng chảy hỗn độn đó, một ánh mắt đặc biệt tại Quảng trường Thời Đại tối đêm Giáng sinh, một cánh cửa chung cư mở ra vào một buổi sớm mai buốt giá trên con phố vắng vẻ tại khu SoHo, rồi lại một sự chờ đợi. Sự thân mật nảy sinh trong những buổi tối kết thúc sau khung cửa kính tại quán Fanelli's, một chiếc cầu thang cũ kỹ bằng gỗ mỗi bậc lại như cao hơn khi bóng anh đã biến mất sau góc phố, hàng giờ ngồi theo dõi chiếc điện thoại. Ở chính giữa dòng chảy là kỷ niệm của những lần đầu tiên: một bó hoa hồng đỏ bị bỏ quên ngoài cầu thang trước cửa nhà cô, sự ngượng nghịu của những cái ôm xiết làm cho những cử chỉ vụng về trở nên trang trọng, một buổi đêm mong manh khi mà người ta không ngừng giật mình tỉnh giấc vì sợ làm người kia thức giấc, và cái cơ thể không tìm lại được tư thế nào thuận tiện để ngủ nữa, hay cánh tay này mà ta chẳng biết phải đặt ở đâu.
Và khi người ta hiểu rằng tình cảm với người kia sẽ chiếm một vị trí không hề ngờ tới trong cuộc đời mình, những nỗi sợ đầu tiên ập tới: sợ người kia bỏ đi vào buổi sáng khi thức dậy, rằng người ấy không gọi lại, sợ phải đơn giản tự thú nhận với mình rằng bắt đầu yêu có nghĩa là đã trở nên phụ thuộc, ngay cả với những kẻ đứng đầu nhất. Những giây khắc đã trở thành những khoảng thời gian đầu tiên của một đôi tình nhân: những bữa ăn trưa thú vị nối tiếp nhau, những ngày cuối tuần đầu tiên, những buổi tối Chủ nhật mà người kia cũng chịu ở lại, chấp nhận thay đổi những thói quen cố hữu của cuộc đời độc thân, những cuộc nói chuyện bay bổng trên trời khi mà người ta vừa nói đến các dự định của tương lai, vừa thăm dò ánh mắt của người kia, rình một nụ cười hay một sự im lặng. Một cuộc sống chung của hai người được bắt đầu, như một sự giải thoát được chờ đợi bấy lâu nay. Cô thấy lại hình ảnh anh đứng ở cuối gian chính nhà thờ trong bộ lễ phục sang trọng tương ứng cho thời khắc đặc biệt này, tại sao họ không tổ chức lễ cưới trong bộ trang phục giản dị, thoải mái, chính họ cũng đã thề rằng sẽ đến với nhau như vậy cơ mà? Họ đã như thế khi anh dẫn cô đến Montclair thăm ngôi nhà mà hiện nay họ đang ở. Nơi đó, trong sự kín đáo của một căn phòng tắm, một thanh giấy mỏng đã đổi màu, và như thế nó cũng đã thay đổi cả màu sắc cuộc sống của họ, ánh sáng và mùi vị từ một buổi chiều dành để sơn căn phòng ngủ sắp sửa dành cho một mắt anh thỉnh thoảng lại đi lạc vào một vùng ký ức vẫn hoàn toàn đóng kín đối với cô, tình yêu mà cô muốn dành cho anh để mang anh trở về với cô. Cô giật nẩy mình khi anh phục vụ kéo cô ra khỏi dòng hồi tưởng.
- Bà có muốn một ly cà phê nữa không, thưa bà? Xin bà thứ lỗi, tôi không định làm bà sợ.
- Không, cảm ơn anh, cô trả lời, tôi chuẩn bị lên máy bay.
Cô trả tiền và rời khỏi phòng. Phía trước các quầy tiếp tân của hãng hàng không TWA, co nhìn thấy một dãy cabin điện thoại, cô bỏ một đồng hai mươi lăm xu vào khe và bấm số điện thoại của Philip. Anh nhấc máy ngay sau tiếng chuông reo đầu tiên.
- Em đang ở đâu?
- Ở sân bay.
- Chuyến bay của em khởi hành lúc mấy giờ?
Anh hỏi bằng một giọng buồn và nhẹ, cô đợi vài giây trước khi trả lời anh.
- Anh có rảnh tối nay để đi ăn tối không? Anh gọi một người trông trẻ đi và đặt cho chúng ta một bàn ăn ở quán Fanelli's, em sẽ đánh đổi một tuần dưới ánh nắng mặt trời lấy một ngày đi mua sắm quần áo. Anh hay mặc một chiếc quần Jean với chiếc áo Pull cổ tròn của anh, chiếc màu xanh da trời ấy, em thấy trong bộ quần áo đó, nhìn anh hấp dẫn nhất. Em sẽ đợi anh lúc 20 giờ, ở góc đường Mercer và Prince.
Cô đặt máy xuống. Cô băng qua chiếc cầu vượt dẫn ra khu vực đậu xe, vừa đi vừa mỉm cười.
Cô dành cả ngày để chăm sóc cho mình. Làm tóc, làm móng tay, móng chân, chăm sóc da mặt, tất cả. Cô lấy từ trong túi ra tấm vé máy bay mà cô sẽ trả để nhận lại tiền, kiểm tra giá vé và tự hứa với mình rằng sẽ không tiêu vượt quá số tiền ghi trên góc trái của tấm vé. Cô tự tặng cho mình một chiếc áo khoác, một chiếc jupe và một chiếc áo sơ mi bằng vải côt-tông và mua một chiếc áo pull cho Thomas.
Tại quán Fanelli's, cô nhất định yêu cầu được bố trí bàn tại gian phòng ngoài. Philip chăm chú lắng nghe cô trong suốt bữa ăn. Đối mặt với những cơn gió lạnh buốt, họ thả bộ trên những con phố lát đá trong khu phố trước đây của họ và hoàn toàn không có chủ ý trước, bước chân dẫn họ đến ngay dưới chân khu chung cư nơi họ từng sống. Đứng dưới cổng chung cư, anh ôm lấy cô trong vòng tay và hôn cô.
- Chúng ta phải về thôi, cô nói, đã trễ giờ của cô giữ trẻ lắm rồi.
- Anh đã thuê cô ấy hết đêm, ngày mai cô ấy sẽ đưa bọn trẻ đến trường, còn em, anh sẽ chở em đến khách sạn, anh đã đặt cho chúng ta một phòng.
Trong sự êm dịu của tấm ga trải giường nhăn nhúm và trước khi chìm vào giấc ngủ, cô cuộn mình nép sát vào Philip và vòng hai cánh tay ôm lấy anh.
- Em rất vui vì đã không đi Los Angeles.
- Anh cũng vậy, anh rất vui, anh trả lời. Mary, anh đã nghe hết những gì em nói với anh hôm qua, và anh cũng vậy, có một điều anh muốn nói với em. Anh mong em có thể cố gắng hơn nữa với Lisa.
= 0 =
Năm mùa đã trôi qua và Mary vẫn đang cố gắng. Buổi sáng, Philip đưa bọn trẻ đến trường, buổi chiều Mary đến đón chúng. Thomas hết lòng tận tụy với chị gái của mình và không chịu rời cô chị nửa bước. Mỗi thứ Tư, nó dành cả buổi chiều đến thư viện Montclair để tìm kiếm tất cả những gì liên quan đến Honduras mang về cho chị. Nó photo lại các bài báo tìm được và đưa cho cô chị dán vào cuốn sổ lớn. Xen giữa các trang báo, cô bé vẽ các bức tranh, lúc thì bằng than chì, lúc thì bằng bút chì đen. Lisa cũng đến dự các trận bóng chày của Thomas, cô bé ngồi trên khán đài và khi đến lượt Thomas cầm chày, tất cả mọi người đều phải ngạc nhiên khi nghe cô bé hò la cổ vũ to đến thế. Tháng Tám, họ cùng đi nghỉ tại một trại hè. Philip và Mary thuê một villa nhỏ bên bờ biển, trong vùng Hamptons. Một đợt nghỉ cuối tuần dài vào mùa đông, họ gửi bọn trẻ tham gia vào một lớp học tổ chức các trò chơi tuyết, còn hai người thì đến tận hưởng những ngày nghỉ ngọt ngào trong một căn nhà gỗ bên bờ một cái hồ đóng băng trong vùng Adirodacks. Hai cặp đôi ban đầu dãn dần ra để rồi theo thời gian, hai cặp mới được hình thành: cặp của bố mẹ và cặp của hai đứa trẻ. Lisa cũng thay đổi, cơ thể của bé gái năm xưa biến mất, thay vào đó, mỗi tuần trôi qua, nó dần dần mang dáng dấp thực sự của một thiếu nữ.
* * *
Cô bé kỷ niệm sinh nhật lần thứ mười bốn của mình vào cuối tháng Giêng năm nay, năm 1993. Tám người bạn thân trong lớp đến dự sinh nhật của em. Làn da của em ngày càng rõ màu ngăm ngăm của một đứa con lai, đôi con ngươi đen láy của em ngày càng rạng rỡ, toát lên vẻ độc lập và cá tính. Đôi khi Mary cảm thấy khó chịu vì vẻ đẹp ngày càng được bộc lộ của Lisa, nhất là khi cả hai cùng bước đi trên phố. Những ánh mắt thèm muốn của bọn thanh niên và của cả những đứa nhỏ tuổi hơn nhắc cô nhớ rằng thời của cô đã qua, và một cảm giác ghen tị len lỏi vào lòng cô mặc dù cô không chịu thừa nhận. Tính xấc xược và những lời đáp trả không kiêng nể của Lisa trở thành cái cớ cho các trận cãi vã, thế là cô bé đóng cửa nhốt mình trong căn phòng nơi chỉ có cậu em trai được quyền ở lại, và vùi đầu trong cuốn sổ bí mật mà em giấu dưới nệm. Lisa rất ít chú ý đến việc học hành ở trường, cô bé luôn luôn chỉ cố gắng ở mức tối thiểu vừa đủ để đạt điểm trung bình. Philip hết sức bối rối vì cô bé không bao giờ mua cho mình đĩa nhạc, truyện tranh hay đồ trang điểm, và cũng chẳng bao giờ đi xem phim. Cô bé tiết kiệm tất cả số tiền quà của mình và gửi vào chú thỏ bông màu xanh mà cô bé dùng làm hộp đựng tiền tiết kiệm, nhờ nó có một dây kéo bí mật ở sau lưng. Có vẻ như Lisa chẳng bao giờ cảm thấy buồn chán, ngay cả khi cô bé ngồi hàng tiếng đồng hồ nhìn vào khoảng không. Em sống trong thế giới riêng của mình, chỉ thỉnh thoảng, trong những khoảng thời gian nhất định, em muốn gia nhập vào cuộc sống với những người xung quanh. Và càng ngày, thế giới của em càng trở nên xa cách.
Mùa hè đến báo hiệu năm học sắp kết thúc. Một tháng Sáu thật đẹp sắp trôi qua, ngày mai sẽ là một ngày hội đặc biệt: ngày cắm trại của trường. Suốt từ ba ngày nay, Philip, Mary và Thomas bận rộn chuẩn bị cho sự kiện này.
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Chương 8 (A)
Thomas là người cuối cùng ngồi vào bàn ăn sáng. Lisa không muốn ăn gì hết và Mary đã phải vội vàng dọn dẹp phòng bếp. Những chiếc bánh kem mứt bọc trong lớp giấy nhôm đã được xếp ngay ngắn trong cốp xe. Philip nhấn những hồi còi ngắn để mọi người nhanh chóng lene. Tiếng máy xe đã bắt đầu kêu ro ro khi chiếc đai lưng cuối cùng được thắt lại. Từ nhà đến trường chưa đầy mười phút, Mary không thấy có lý do gì để sốt ruột như thế. Trên đường đi, thỉnh thoảng anh lại đưa mắt nhìn trong kính chiếu hậu. Vẻ bực bội của anh lộ rõ đến mức Mary buộc phải hỏi chồng mình có chuyện gì; anh cố gắng một cách khổ sở để nén lại sự bực dọc của mình và nói với Lisa:
- Từ hai ngày nay, tất cả mọi người đều ăn không ngon ngủ không yên để chuẩn bị cho lễ bế giảng năm học của cháu, và người duy nhất có vẻ như chẳng mảy may bận tâm lại chính là cháu.
Đang mải nhìn qua kính xe để ngắm mây, Lisa chẳng thèm trả lời anh.
- Đúng là cháu hoàn toàn có lý do để im lặng như thế, Philip nói tiếp, quả thực là chẳng có lý do gì để vui mừng với kết quả học tập của cháu. Chú hi vọng là năm tới cháu sẽ chú tâm vào học tập nhiều hơn, nếu không thì nhiều nghề sẽ vượt qua khỏi tầm tay của cháu.
- Đối với công việc mà cháu muốn làm, điểm học của cháu như vậy là đủ rồi!
- Ái chà, thật là một tin tốt lành, hay đúng hơn là cuối cùng cháu cũng có được một mong ước đấy chứ, quả là chẳng bao giờ nên đánh mất hi vọng quá sớm! Mọi người có nghe thấy không? Cuối cùng cũng nghe được một mong ước.
- Cả hai làm sao vậy, Mary lên tiếng, hai người có chịu bình tĩnh lại không?
- Cảm ơn sự hỗ trợ của em. Thế cái nghề hay ho đang dang rộng cánh tay đợi cháu và chỉ cần một kết quả học tập hạng trung cũng có thể làm được là cái nghề gì vậy, chú rất nóng lòng muốn biết đây?
Nói lí nhí trong miệng, cô bé trả lời rằng khi nào đủ tuổi trưởng thành, cô bé sẽ gia nhập vào đội quân Peace Corps và sẽ đến Honduras, để làm công việc giống như mẹ của mình. Trái tim đột nhiên thắt lại, Mary ngoảnh mặt ra phía cửa sổ để không ai đọc được những cảm xúc hiện lên trên gương mặt mình. Tiếng bánh xe siết trên mặt đường kêu chói tai và chiếc xe đột ngột dừng lại bên lề đường. Thomas ngồi thụt sâu, ép sát vào lưng ghế, hai tay nắm chặt lấy dây thắt an toàn. Philip quay người lại, giọng run lên vì giận dữ:
- Tự cháu nảy ra cái suy nghĩ này đấy hả? Những gì cháu mới nói quả thật là một sự đền đáp tuyệt vời dành cho chúng ta đấy, bởi vì cháu tưởng rằng đó là lòng cao thượng thực sự ư? Cháu tưởng rằng chạy trốn cuộc đời của chính mình là một cách thể hiện của sự dũng cảm ư? Cháu có biết điều đó sẽ dẫn đến đâu không? Đó là cái cách sống lý tưởng của cháu đấy ư? Đâu rồi, đâu là những nhân chứng hạnh phúc mà nó đã để lại phía sau? Cháu sẽ không bao giờ đến đó hết, cháu nghe chú nói không? Cháu có muốn chú giải thích cho cháu nghe chuyện gì sẽ xảy ra khi người ta từ bỏ cuộc sống của chính mình không ......
Mary nắm chặt cổ tay của chồng mình.
- Anh đừng nói nữa! Anh hoàn toàn không có quyền nói với con bé những lời như vậy! Anh đâu có phải đang nói với Susan, anh có ý thức được điều đó không?
Philip ra khỏi xe và đóng sập cửa phía sau lưng. Mary quay lại phía Lisa, đưa tay vuốt ve khuôn mặt với đôi mắt đỏ lên vì những giọt nước mắt sợ hãi của cô bé, bằng một giọng nói nhẹ nhàng, thẳng thắn, cô an ủi em.
- Cô thì cô tự hào về cháu. Những điều cháu muốn làm với cuộc sống của cháu sẽ đòi hỏi rất nhiều sự can đảm. Chưa gì, cháu đã rất giống mẹ cháu, và cháu có mọi lý do trên đời này để mong muốn như vậy, bởi vì đó là một người phụ nữ đáng khâm phục. Sau vài giây im lặng, cô nói thêm:
- Cháu thật may mắn, cô ước gì ở tuổi của cháu, cô cũng có thể ngượng mộ cha mẹ của mình đến mức muốn được trở thành người giống họ như cháu bây giờ.
Mary bấm còi xe từng hồi cho đến khi Philip chiu quay trở lại cầm lái. Ngay lập tức cô yêu cầu anh cho xe chạy, bằng một giọng khiến cho người ta chẳng thể cãi lại. Cô lại áp mặt mình vào cửa kính, một ánh buồn thoáng qua đôi mắt cô.
Ở trường, Philip không tham gia vào bất cứ hoạt động vui chơi nào, từ chối không ngồi dự buổi lễ trao giải và không nói một lời nào trong suốt bữa ăn, và cứ như thế trong suốt cả khoảng thời gian còn lại của buổi chiều. Anh không hề nhìn Lisa, thậm chí anh từ chối ngay cả khi cô bé chìa tay ra làm lành với anh vào cuối bữa ăn trưa. Mary làm mọi cách để anh mỉm cười bằng cách nhướn lông mày lên nhưng không thành công. Cô thấy thái độ của anh rất trẻ con. Cô nhận xét với Thomas như vậy và dành thời gian còn lại để chăm sóc cho Lisa, cô biết rằng đối với con bé, ngày hôm nay đã trở thành ngày thực sự tồi tệ. Trên đường trở về, không khí trong xe hoàn toàn trái ngược hẳn với không khí vui tươi của ngày hội vừa khép lại.
Vừa về đến nhà, ngay lập tức Philip bỏ lên phòng làm việc và giam mình trong đó. Mary dùng bữa tối với bọn trẻ trong bầu không khí nặng nề. Sau đó khi đã đắp chăn ấm cho hai đứa trẻ, cô đi về phòng nằm một mình, để buột ra một tiếng thở dài khi cô kéo chăn lên trùm kín vai. Buổi sáng, khi cô mở mắt ra, chiếc giường đã trống hoang. Trên bữa ăn trong phòng bếp, cô tìm thấy mẩu lời nhắn của Philip, anh đã đi đến phòng làm việc và tối nay sẽ về trễ, không cần phải đợi anh.
Cô làm bữa sáng và chuẩn bị tinh thần để đón nhận những ngày nghỉ cuối tuần lạ lùng. Giữa trưa, cô ra khỏi nhà mua sắm một số thứ, để hai đứa trẻ ở nhà xem tivi.
Khi ở trong siêu thị, trong lòng cô bỗng dâng lên một cảm giác cô đơn; cô không muốn để cho mình chìm đắm trong cảm giác ấy, cô điểm lại ngay tại chỗ cuộc sống của mình: những người cô yêu quý đều khỏe mạnh, cô có một mái nhà để trú chân, và một người chồng hầu như không bao giờ nổi giận, chẳng có lý do gì để cô phải khủng hoảng vào một trong những ngày Chủ nhật tồi tệ này.
Cô nhận ra mình đang nói chuyện một mình khi một bà cụ đi ngang qua gần chỗ cô đứng hỏi xem cô đang tìm gì. Cô mỉm cười trả lời bà: "Tìm nguyên liệu để làm bánh xèo." Cô đẩy chiếc xe hàng về phía trước và tiến về phía quầy bán bột và đường. Cô trở về nhà lúc 18 giờ, hai tay trĩu nặng đồ, bởi vì nổi hứng mua sắm thật nhiều thường là cách cô tự vá lành các vết thương trong lòng. Cô đặt các gói đồ lên bàn ăn trong bếp và quay về phía Thomas đang ngồi chơi trong phòng khách.
- Các con ở nhà ngoan đấy chứ?
Cậu bé gật đầu. Mary bắt đầu dỡ các gói đồ ra.
- Lisa ở trong phòng hả con? Cô hỏi tiếp.
Mải chơi quá nên Thomas không trả lời.
- Mẹ vừa hỏi con một câu hỏi đấy, trong trường hợp con hoàn toàn không để ý thấy?
- Đâu có đâu, chị ấy đi cùng với mẹ mà!
- Sao lại thế được, sao Lisa lại đi cùng với mẹ?
- Cách đây hai tiếng, chị ấy ra khỏi nhà, và chị ấy nói: Chị đi gặp mẹ!
Mary buông rơi những trái cây cô cầm trên tay và nắm lấy vai cậu con trai.
- Chị ấy nói thế à?
- Mẹ ơi, mẹ làm con đau! Thì con vừa nói với mẹ đó, chị ấy ra khỏi nhà và chỉ nói chị ấy đi gặp mẹ.
Giọng nói của Mary lộ rõ sự lo lắng. Cô buông lỏng bàn tay đang nắm chặt vai con.
- Chị ấy có mang theo cái túi nào không?
- Thật ra con cũng chẳng để ý nhìn nữa. Có chuyện gì vậy mẹ?
- Con chơi tiếp đi, mẹ sẽ quay lại!
Cô vội vã leo lên các bậc thang, vào phòng của Lisa và tìm con thỏ bông đựng tiền tiết kiệm bình thường vẫn được đặt trên chiếc kệ gỗ sơn trắng. Con thỏ nằm trên bàn, trong bụng nó trống trơn. Mary cắn môi, vội vã chạy vào phòng mình, lao lên giường vào nhoài người ra với lấy chiếc điện thoại. Cô bấm ngay số điện thoại của Philip, anh không trả lời. Cô nhớ ra hôm nay là ngay cuối tuần và trong tâm trạng căng thẳng, cô bấm tiếp số máy trực tiếp của anh; anh nhấc điện thoại khi chuông reo đến hồi thứ tư.
- Anh phải về nhà ngay, Lisa bỏ nhà đi rồi, em gọi điện báo cảnh sát đây.
Philip đậu xe phía sau xe của cảnh sát Montclair. Anh chạy vội theo lối đi. Trong nhà, anh thấy Mary đang ngồi trên bộ sa-lông trong phòng khách, cạnh đó, sĩ quan Miller đang ghi chép.
Viên cảnh sát hỏi anh có phải là bố của cô bé không. Philip liếc nhìn về phía Mary và gật đầu trả lời. Nhân viên điều tra mời anh đến cùng trao đổi với họ. Trong suốt mười phút dài, ông ta hỏi họ về điều gì theo họ có thể là nguyên nhân dẫn đến việc bỏ nhà đi này. Cô bé có bạn trai không, gần đây cô bé có chia tay anh bạn trai đó không, có điều gì trong thái độ gần đây của cô bé có thể coi là dấu hiệu báo trước hành động này không?
Mất hết kiên nhẫn, Philip đứng lên. Họ sẽ không thể tìm ra con gái anh với trò chơi trả lời câu hỏi này, con bé đâu có trốn trong phòng khách và ngồi ở đây như thế này, họ đã để mất quá nhiều thời gian rồi. Anh thét lên rằng chí ít cũng có một người đi tìm cô bé rồi bỏ ra ngoài sau khi đóng sập cửa sau lưng. Viên cảnh sát ngồi sững sờ. Mary đành kể cho ông ta nghe hoàn cảnh đặc biệt của Lisa, và cho ông biết rằng chồng cô đã có một cuộc cãi vã với cô bé ngày hôm trước, và rằng đây là lần đầu tiên chuyện này xảy ra kể từ khi cô bé đến sống với họ. Mary không nói gì đến những điều cô đã nói với cô bé trong xe hơi. Lúc đó cô chỉ muốn nói điều gì đó để an ủi cô bé, nhưng bây giờ thì cô đang bắt đầu ngờ rằng chính những lời nói ấy đã khiến cho cô bé bỏ nhà đi.
Viên thanh tra cất cuốn sổ đi, xin phép ra về và mời Mary đến gặp ông tại văn phòng. Ông cố trấn an cô: trong tình huống xấu nhất, cô bé sẽ ngủ qua đêm ở bên ngoài và sáng sớm mai sẽ trở về nhà, các cuộc bỏ trốn khỏi nhà kiểu này thường vẫn kết thúc như vậy.
Buổi đêm đang xuống sẽ rất dài. Philip trở về nhà tay không, giọng nghẹn lại, anh đến bên vợ, cô đang ngồi bên chiếc bàn ăn trong bếp. Anh cầm lấy hai bàn tay cô trong tay mình và thì thầm nói với cô tâm trạng rối bời của anh. Anh dựa đầu lên vai cô, hôn cô rồi lên gác nhốt mình trong phòng làm việc. Mary nhìn theo anh. Cô cũng đi lên gác và vào phòng mà không cần gõ cửa.
- Em thấy rõ là anh không làm chủ được hoàn cảnnh này, và em có thể hiểu điều đó. Nhưng một trong hai chúng ta phải làm được điều đó. Anh hãy ở đây, anh sẽ chuẩn bị bữa tối cho Thomas và trả lời điện thoại. Nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra, hãy gọi em ngay lập tức vào số điện thoại trong xe hơi, em sẽ đi xem họ tìm đến đâu rồi.
Cô không để cho anh có thời gian để đáp lại; qua ô cửa sổ trong phòng mình, anh nhìn thấy cô chạy vội theo lối đi, chiếc xe hơi mất hút sau góc phố.
* * *
Vẻ mặt của Miller chẳng báo trước tin gì tốt đẹp; ngồi đối diện với ông, cô bỗng cảm thấy thèm hút một điếu thuốc kinh khủng khi nhìn ông châm thuốc. Nhiều đội tuần tra đã xem xét kỹ những nơi thanh niên vẫn thường tụ tập, cảnh sát đã liên lạc với một vài người bạn của Lisa để hỏi thăm thông tin, và bây giờ, cảnh sát nghĩ rằng cô bé đã lên một chuyến tàu hay một chiếc xe khách để đến Manhattan. Thanh tra Miller đã gửi fax đến trung tâm Port Authority của New York[29], trung tâm này sẽ chuyển thông báo tìm đứa trẻ bỏ trốn đi khắp các đồn cảnh sát của thành phố.
- Rồi sao nữa? Cô hỏi.
- Thưa bà, trung bình mỗi thanh tra có khoảng bốn mươi hồ sơ tương tự trên bàn của mình. Phần lớn những đứa trẻ vị thành niên đều trở về nhà sau ba hay bốn ngày, tôi biết bà lo lắng nhưng cần phải kiên nhẫn. Chúng tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm khắp nơi trong thành phố Montclair, nhưng New York nằm ngoài quyền hạn của chúng tôi, chúng tôi không có quyền can thiệp vào địa phận đó.
- Nhưng tôi không cần biết đến chuyện phân chia ranh giới hành chính của các ông. Ai sẽ là người trực tiếp chịu trách nhiệm tìm lại con gái tôi?
Miller hiểu tâm trạng khủng hoảng của cô, nhưng ông không thể làm gì hơn. Cuộc nói chuyện đã kết thúc, Mary vẫn không đủ sức đứng dậy khỏi chiếc ghế. Miller lưỡng lự vài giây, mở ngăn kéo và lôi ra một tấm danh thiếp, ông đưa nó cho cô.
- Ngày mai cô hãy đến gặp người đồng nghiệp này và nói rằng tôi giới thiệu cô đến, ông ấy là thám tử tại Midtown South Squad, tôi sẽ gọi điện báo trước cho ông ấy.
- Tại sao ông không gọi ngay bây giờ?
Miller nhìn thẳng vào mắt cô và nhấc máy điện thoại lên. Có tiếng hộp thư thoại trả lời cuộc gọi. Ông đã định đặt máy xuống, nhưng do Mary nhất định yêu cầu nên cuối cùng, ông để lại một mẩu tin nhắn tóm tắt lý do ông gọi đến. Cô hết lời cảm ơn ông và rời đồn cảnh sát.
Cô lái xe lên đến tận đỉnh đồi Montclair, từ đó, người ta có thể nhìn thấy thành phố New York trải dài đến vô tận. Đâu đó dưới một trong số hàng triệu bóng đèn đang nhấp nháy dưới kia, một cô gái nhỏ mười bốn tuổi đang chìm vào trong đêm tối đầy bất trắc. Mary xoay chìa khóa nổ máy xe đi theo con đường dẫn đến Trái Táo Lớn[30].
Tại bến đỗ trung tâm của hệ thống xe bus, cô chìa bức ảnh chụp Lisa mà cô để trong ví cho tất cả nhân viên tại đây xem. Chẳng có ai nhận ra cô bé. Cô chợt nhớ ra cửa hàng dịch vụ photocopy nơi cô đến đóng luận văn trước đây khi cô sống tại thành phố này. Cửa hàng này mở cửa suốt đêm, cô lập tức đi tới đó. Một cô sinh viên khoảng hai mươi tuổi với mái tóc uốn xoăn đang trực tại cửa hàng vắng vẻ. Mary giải thích cho cô gái mục đích cô đến đây; có vẻ rất đồng cảm, cô gái trẻ lấy một ly cà phê mời cô và tới ngồi vào trước một máy vi tính. Cô gái đánh dòng chữ "Mất tích", ghi rõ phía dưới tất cả các thông tin liên quan mà Mary đưa cho. Khi tờ giấy được in ra, cô gái giúp Mary dán tấm hình lên và đưa vào máy photo thành một trăm bản. Mary ra khỏi cửa hàng, cô sinh viên dán một tờ thông báo lên mặt kính trước cửa tiệm.
Cô lái xe đi chầm chậm qua hết khu phố này đến khu khố khác. Mỗi khi cô bắt gặp một chiếc xe cảnh sát đi tuần trên đường, cô lại chặn họ lại đưa cho các nhân viên cảnh sát một tờ thông báo và xin họ hãy để ý giúp cô. Đúng bảy giờ sáng, cô có mặt tại đồn cảnh sát số 7, chìa cho viên cảnh sát mặc đồng phục tại quầy hướng dẫn tấm danh thiếp mà sĩ quan Miller đã đưa cho cô. Anh ta cầm tấm danh thiếp; cô phải ngồi chờ hoặc trở lại sau, đến 8 giờ vị trung úy này mới bắt đầu làm việc. Cô ngồi xuống một chiếc ghế băng, vui vẻ nhận ly cà phê trong chiếc cốc giấy mà nửa tiếng sau viên cảnh sát mang đến cho cô.
* * *
Viên cảnh sát hình sự đậu xe vào bãi rồi đi lên bằng lối vào phía sau tòa nhà. Ông đã gần đến tuổi ngũ tuần, mái tóc dầy của ông đã bắt đầu điểm bạc. Ông vào văn phòng, vắt áo vest lên lưng ghế và để khẩu súng lục vào ngăn kéo bàn. Đèn hiệu trên hộp trả lời điện thoại tự động của ông chớp liên tục, ông vừa nhấn nút vừa lầm bầm bực bội. Tin nhắn đầu tiên là của người chủ ngôi nhà ông đang thuê, anh ta đòi thanh toán tiền thuê nhà và dọa sẽ báo cho cấp trên của ông, lời nhắn thứ hai là của mẹ anh, như mọi lần, bà vẫn than phiền về người nằm chung phòng trong bệnh viện, tin nhắn thứ ba và tin nhắn duy nhất làm tỉnh thức ánh mắt ngái ngủ của ông đến từ một cô bạn động nghiệp cũ, cô này đến sống tại San Francisco ngay sau khi họ chia tay nhau, hay cũng có thể do ông không muốn đi cùng cô nên họ đã chia tay? Tin nhắn thứ tư và cũng là tin nhắn cuối cùng của một trong những người bạn khá thân của ông, sỹ quan Miller làm việc tại đồn cảnh sát Montclair. Khi đoạn băng quay trở lại từ đầu, ông đi xuống lấy một ly cà phê tại máy pha cà phê tự động nằm ở tầng trệt: từ vài tháng nay, Nathalia không còn ở đó để nhân tiện đi lấy một lý cà phê cho ông khi cô đi lấy cho mình. Mary đang thiu thiu ngủ, ông lay vai cô. Cô mở mắt và thấy trước mặt mình là một người đàn ông với gương mặt tối lại vì bộ râu để nhiều ngày không cạo.
- Tôi là trung úy George Pilguez, người ta đã báo cho tôi biết là cô đến. Cô đã không mất thời gian vô ích, hãy đi theo tôi. (Mary cầm lấy túi xách và ly cà phê uống dở). Cô có thể để lại đó, tôi sẽ mời cô một ly cà phê nóng.
Pilgiuez nhìn chăm chú hồi lâu vào gương mặt người phụ nữ ngồi xuống trước mặt ông. Cô không hề cố gắng để tỏ ra nhã nhặn với ông, điều này làm cho ông cảm thấy mến cô ngay lập tức. Ông nghe cô kể đầu đuôi câu chuyện của cô, vừa nghe vừa xoay xoay chiếc ghế đang ngồi. Ông lấy khoảng ba mươi hồ sơ đựng trong các bìa các-tông từ trên tủ xuống và quẳng xuống bàn.
- Đây là hồ sơ của các trẻ vị thành niên bỏ trốn khỏi nhà, chỉ riêng của tuần vừa rồi, hãy nói cho tôi biết vì sao tôi phải quan tâm đến đứa trẻ này hơn những đứa trẻ khác?
- Bởi vì nó là con gái của tôi! Cô trả lời bằng một giọng cả quyết.
Ông đẩy ghế lùi ra phía sau, và cuối cùng trên mặt ông xuất hiện một nét gì đó giống như một nụ cười.
- Tôi đang ở trong tâm trạng vui vẻ. Tôi sẽ chuyển thông báo tìm kiếm đến tất cả các đội tuần tra và sẽ gọi điện đến một số đồn cảnh sát khác trong thành phố. Cô hãy về nhà đi, tôi sẽ báo cho cô nếu có tin gì mới.
- Tôi sẽ ở lại trong thành phố, tôi sẽ đi tìm con bé.
- Trong tình trạng mệt mỏi như cô hiện nay, tôi sẽ buộc phải rút lại bằng lái của cô; tôi sẽ dẫn cô đi uống một ly cà phê đúng kiểu, và đừng tranh luận gì nữa, tôi sẽ phạm vào tội không cứu giúp người đang gặp nguy hiểm, đi theo tôi nào!
Họ rời khỏi đồn cảnh sát. Trong quán cà phê nằm ở góc phố, họ ngồi vào bàn và cô kể cho ông nghe câu chuyện về một cô gái nhỏ đã rời khỏi Honduras để bước vào cuộc đời cô trong một ngày Chủ nhật trời mưa. Cô kể xong câu chuyện vào lúc họ đang cùng nhau ăn món trứng ốp-la.
- Thế còn chồng của cô đâu trong tất cả những chuyện này?
- Tôi nghĩ anh ấy phải chịu đứng quá nhiều sự kiện cùng một lúc, anh ấy đang tự kết tội mình vì đã cái vã với con bé khi ở trong xe hơi.
- Phải, nhưng có con để làm gì nếu như người ta không được la mắng chúng nữa?
Cô nhìn ông vẻ sửng sốt.
- Tôi chỉ đùa một chút để cô thư giãn thôi.
- Còn ông, cái gì đã làm cho ông ở trong tâm trạng vui vẻ?
- Đúng là lúc nãy khi ở trong văn phòng tôi đã nói như vậy, cô lắng nghe rất chăm chú đấy.
- Tôi tốt nghiệp ngành phóng viên ra mà!
- Cô vẫn còn đang làm nghề phóng viên chứ?
- Không, với hai đứa con như ông nói, người ta phải biết chọn lựa và chấp nhận hi sinh một số điều trong cuộc sống. Ông vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi.
- Tôi đang nhận ra rằng tôi đã chán ngán thành phố này đến mức nào.
- Và điều đó làm ông cảm thấy vui vẻ sao?
- Không, điều đó làm cho tôi dễ xử. Đôi khi tôi phải thú nhận rằng tôi nhớ một ai đó nhiều hơn là tôi vẫn tưởng.
- Tôi vẫn không hiểu có cái gì làm ông cảm thấy vui vẻ!
- Có chứ, cuối cùng chắc tôi sẽ có thể ra một quyết định trước khi quá muộn.
- Quyết định gì?
- Xin chuyển công tác!
- Chuyển đến nơi có người phụ nữ mà ông đang nhớ?
- Tôi tưởng cô không còn hành nghề nữa cơ mà?
- Hãy tìm lại Lisa cho tôi, tôi cũng vậy, tôi không nghĩ là tội lại nhớ con bé đến như thế này.
- Tối nay hãy quay lại đây gặp tôi nếu cô còn đứng vững, và hãy cẩn thận khi lái xe.
Mary đứng dậy và định trả tiền nhưng viên cảnh sát đã cầm lấy tờ hóa đơn với một động tác dứt khoát và bằng tay kia, ông ra hiệu cho cô đi đi. Cô cảm ơn ông và ra khỏi quán cà phê. Cô lái xe đi khắp các con đường trong thành phố. Khi cô đi ngang qua chân tòa nhà của tờ New York Times, cô cảm thấy như có cái gì đó nhói lên trong tim. Theo bản năng, cô lái xe đến tận khu SoHo và dừng lại phía dưới cánh cửa sổ căn hộ trước đây của cô. Khu phố không ngừng thay đổi. Soi mình vào tấm kính của một cửa tiệm, cô ngắm mình trong gương và trề môi một cái vẻ khó chịu: "Chính vì vậy mà mình cảm thấy nó xa với đến thế", cô lẩm bẩm cáu kỉnh. Cô gọi điện cho Philip, anh báo cho cô biết phía Montclair vẫn không có tin gì mới. Hít một hơi thật dài để lấy can đảm, cô uống vội một ly cà phê tại quán Fanelli's, và lái xe về phía khu phố Mỹ la tinh của thành phố.Buổi chiều sắp trôi qua, đã hai mươi bốn tiếng đồng hồ kể từ khi Lisa biến mất, Mary cảm thấy nỗi lo lắng đang lớn dần lên trong ngực mình. Thêm vào sự căng thẳng là cảm giác mệt mỏi. Cô đứng bất động, sững sờ giữa lối dành cho người đi bộ khi nhìn thấy một bà mẹ cùng với một cô con gái trạc tuổi Lisa đi ngang qua. Người phụ nữ nhìn có vẻ dò xét rồi đi tiếp. Một nỗi buồn choán lấy cô. Đầu buổi tối, cô lái xe về hướng đồn cảnh sát thành phố và trên đường đi, cô gọi điện cho trung úy Pilguez.
Ông bảo đến gặp ông tại quán bar ban sáng. Cô là người đến nơi trước. Phải một lúc mắt cô mới quen được không gian tối bên trong quán. Cô bỏ hết số tiền xu mình có trong túi vào một chiếc máy bán hàng tự động gần toilet để mua cho mình một bao thuốc Winston.
Cô ngồi vào quầy bar, để anh phục vụ quầy châm thuốc cho cô và hít một hơi thật dài. Ngay lập tức cô cảm thấy chóng mặt, cô ho và lảo đảo trên ghế.
Anh phục vụ lo lắng hỏi cô có cảm thấy ổn không? Tiếng cười đứt đoạn và đầy bất ổn phát ra từ cổ họng khàn khàn của cô khiến cho anh bối rối.
Trung úy Pilguez đẩy cửa bước vào, cô đi theo ông đến ngồi tại một bàn được ngăn riêng biệt. Ông gọi một ly bia, cô lưỡng lự rồi cũng gọi một ly giống như vậy.
- Tôi đã dành gần như cả ngày đề giải quyết hồ sơ của con gái cô, chắc chắn bây giờ không còn một nhóm tuần tra nào của New York mà không nắm thông tin này. Tôi đã đến khu phố của người Puerto Rico, tôi đã nói chuyện với tất cả những người cung cấp thông tin riêng của tôi, không có một dấu vết nào của con gái cô. Về một mặt nào đó thì đây có thể coi là một tin tốt, điều đó có nghĩa là con bé chưa bị những tên anh chị đường phố để ý tới và nếu như điều đó có xảy ra thì tôi sẽ được báo ngay lập tức; Lisa nhận được sự bảo vệ của tôi, và tại một số nơi, điều đó gần như còn tốt hơn là mang trên người một thiết bị định vị toàn cầu.
- Tôi không biết phải cảm ơn ông như thế nào, Mary thì thầm.
- Nếu vậy thì đừng làm! Hãy nghe những gì tôi sắp nói với cô đây. Bây giờ cô phải trở về nhà, nếu không thì cô sẽ lăn ra bất tỉnh đấy và điều đó sẽ chẳng giúp ích được gì nhiều khi ta tìm được con bé. Trong khi chờ đợi, cô có thể giúp chúng tôi.
Pilguez nhắc cô nhớ rằng bước chân của một đứa trẻ vị thành niên đi theo những con đường khác với bước chân người lớn. Có thể là Lisa bỏ nhà đi trong một cơn xúc động, nhưng không phải là ra đi một cách ngẫu nhiên. Chắc chắn là cô bé phải đi theo một con đường có một logic nào đó, con đường riêng của em. Tấm thảm có thể dẫn chúng ta đến với em được dệt bởi những sợi dây của ký ức, và phải lục tung trí nhớ của ta lên để tìm cho ra những sợi dây mang một ý nghĩa đặc biệt. Trong một lần dạo chơi nào đó trong công viên, liệu có lần nào cô bé, dù chỉ là thoáng để ý đến một cái cây có thể gợi cho cô bé nhớ đến mảnh đất quê hương của em? Nếu có, rất có thể là giờ này cô bé đang ngồi chờ dưới tán lá của cái cây đó.
- Chúng tôi đã từng cùng nhau đi du lịch ở vùng Núi Đá, cô trả lời.
Mẹ của cô bé có thể từng có một chốn riêng thân thuộc nào đó khi còn nhỏ? Mary nghĩ đến những đỉnh đồi Montclair nơi người ta có thể nhìn thấy cả thành phố, nhưng cô đã đến chỗ đó rồi.
- Vậy thì hãy quay lại đó đi! Pilguez nói.
Cô có nhớ từng nhìn thấy một lá cờ Honduras ở đâu đó, dù chỉ là một lá cờ nhỏ xíu? Có thể cô bé đang ở đó ngồi ngắm lá cờ. Có một lá cờ cô bé đã từng vẽ lên một gốc cây. Liệu có một nơi nào đó mà đối với cô bé, nó như một chiếc cầu vượt nối liền thế giới ở đây với xứ sở đó? Mary nhớ lại chiếc cầu trượt màu đỏ tróc sơn mà Philip từng kể với cô, nhưng lần đó đã cách đây lâu lắm rồi, từ những ngày đầu tiên khi cô bé mới đến ở.
- Nếu như tôi là cô, tôi sẽ lao đến tất cả những nơi này ngay lập tức, rất có thể cô bé đang ở một trong những nơi đó. (Pilguez nói chữa lại)Nhưng dù sao, trong tình trạng của cô, cũng đừng phóng nhanh quá, hãy gọi điện cho tôi, và cô cũng nên nghỉ ngơi một chút đi.
Mary đứng dậy và cảm ơn ông. Trước khi rời khỏi bàn, cô đặt tay lên vai người cảnh sát với vẻ ngoài cục mịch.
- Ông có tin vào khả năng con bé đang ở chỗ chiếc cầu trượt không?
- Chẳng ai biết được, luôn có những may mắn bất ngờ xảy ra! Hãy đi ngay đi!
Cô loại bỏ khả năng cô bé bỏ đi bằng tàu lửa vốn là khả năng khiến cô lo lắng nhất. Phương tiện di chuyển này khá đắt tiền đối với con thỏ của Lisa. Cô quay trở lại nhà ga xe bus trung tâm và lần này cô xin được gặp người phụ trách. Cô nhận viên nhà ga nhận ra cô và mời cô ngồi chờ trên một chiếc ghế băng. Thời gian chờ đợi với cô có vẻ như dài vô tận. Cuối cùng, một người đàn ông tướng người to béo mập mạp cũng đến mời cô vào văn phòng. Căn phòng rất u ám, nhưng người đàn ông có hơi thở hổn hển đó thì rất dễ chịu và sẵn sàng giúp đỡ cô.
Cô đưa cho ông ta xem tấm hình của Lisa và hỏi xem cô bé có thể đi đến tận Trung Mỹ bằng xe khách được không. "Các tuyến xe đi về phía nam của chúng tôi dừng ở Mê-hi-cô", ông vừa trả lời vừa đưa tay quệt mồ hôi trên trán. Đã có ba chuyến xe xuất phát kể từ thời điểm đứa trẻ biến mất. Đứng dậy một cách vất vả, ông nhìn đồng hồ và đưa ngón tay chỉ vào tấm bản đồ dán trên tường những vị trí hiện nay của ba chiếc xe. Ông lấy một cuốn danh bạ khổng lồ của hãng từ trên giá xuống để gọi điện thoại đến những điểm dừng chân sắp tới, nơi các hành khách sẽ xuống nghỉ ngơi ăn uống. Cô yêu cầu thông báo đến các tài xế lái xe liên lạc khẩn cấp về nhà ga trung tâm ở New York. Dù có vẻ như điều đó không dễ dàng gì với ông, ông vẫn tiễn cố ra đến tận vỉa hè phía ngoài tòa nhà. Khi cô cảm ơn ông, vẻ rất xúc động, trước khi đi khuất hẳn trên vỉa hè của nhà ga, ông nói thêm rằng ông tin chắc không đời nào ở vào độ tuổi đó, cô bé lại có thể lên xe mà không bị các tài xế lái xe để ý; ông cũng nói thêm rằng dù thế nào đi nữa, cô bé cũng không thể nào đi qua được biên giới!
Để chống lại cơn buồn ngủ, cô để mở cửa sổ xe trong khi lái. Cô không cho phép mình được lăn ra ngủ vào lúc này. Lúc này 20 giờ 30, bãi đậu xe của quán MacDonald's vẫn còn chật kín, những chiếc cầu trượt già nua màu đỏ vẫn nằm ngủ một cách bình yên. Cô chạy khắp các lối đi, vừa chạy vừa gọi tên Lisa nhưng chẳng có ai trả lời. Bên trong quán ăn nhanh, cô đưa tấm hình của Lisa cho tất cả các nhân viên xem nhưng chẳng ai nhận ra cô bé. Cô lái xe theo con đường dẫn đến khu đồi trên cao của thành phố, rẽ vào một con đường đất và dừng xe lại ngay trước tấm thanh chắn ngăn không cho cô đi xa hơn nữa. Cô tiếp tục đi bộ theo con đường mòn và leo lên đến tận đỉnh đồi. Trong ánh sáng nhàn nhạt cuối ngày, cô tiếp tục hét gọi tên Lisa, nhưng không có tiếng vọng lại đáp lời cô. Cô cảm thấy muốn nằm lăn ra đất. Khi đêm tối buông xuống, cô thấy mình đã gần như kiệt sức, đành quyết định trở về nhà.
Thomas đang ngồi trên sàn nhà trong phòng khách; cô nói với con vài lời âu yếm rồi đi thẳng lên phòng mình. Khi bước lên cầu thang, Mary mới nhận ra là tầng trệt hoàn toàn yên ắng. Cô nhìn về phía sau và nhìn thấy màn hình tivi tối đen. Thomas đang ngồi nhìn chăm chăm vào cái màn hình tivi đã tắt. Cô bước xuống trở lại các bậc thang, quỳ xuống bên cạnh con và ôm cậu vào lòng.
- Mấy hôm nay mọi người không chăm sóc được cho con phải không, ếch nhỏ của mẹ.
- Mẹ có nghĩ là chị ấy sẽ trở về không? Cậu bé hỏi.
- Mẹ không phải là chỉ nghĩ, mẹ tin chắc như vậy.
- Có phải tại hôm trước cãi nhau với bố mà chị ấy bỏ đi không?
- Không, tại mẹ thì đúng hơn. Mẹ nghĩ rằng mẹ đã không làm cho chị ấy cảm thấy thoải mái trong cuộc sống.
- Mẹ có yêu chị ấy không?
- Tất nhiên rồi, sao con lại hỏi như vậy?
- Bởi vì không bao giờ mẹ nói ra điều đó.
Mary sững người không nói được lời nào.
- Con đừng ngồi đó như vậy, con đi chuẩn bị cho hai mẹ con mình hai cái sandwich đi, mẹ lên phòng thay đồ xong sẽ xuống ăn tối với con. Con có biết bố con đang ở đâu không?
- Bố đến chỗ đồn cảnh sát rồi, một tiếng nữa bố sẽ về.
- Vậy thì con làm ba cái sandwich nhé... à không, bốn cái!
Cô lại leo lên các bậc thang, bám tay vào thành cầu thang để dựa người, và tiếp tục đi như vậy đến tận phòng làm việc của Philip.
Căn phòng đang chìm trong bóng tối, cô chạm nhẹ tay vào chiếc đèn đặt trên bàn làm việc, chỉ cần chạm ngón tay vào cái cấu trúc bằng kim loại của cây đèn là nó bật sáng.
Cô đi về phía kệ sách, cầm khung ảnh và đưa lại gần mặt mình. Trên tấm hình, gương mặt của Susan rạng rỡ với một nụ cười đã thuộc về quá khứ. Bằng một giọng rất nhẹ, Mary bắt đầu nói với cô:
- Tôi cần có chị. Chị thấy đó, tôi đang đứng đây như một con ngốc ở giữa căn phòng này, và chưa bao giờ trong đời tôi cảm thấy cô đơn đến thế. Tôi đến để nhờ chị giúp. Bởi vì từ nơi chị đang ở, chắc chắn chị sẽ nhìn thấy cô bé. Chị biết đấy, tôi không thể một mình làm tất cả. Tôi rất hiểu những gì chị có thể nghĩ, nhưng đừng gửi cô bé đến cho tôi nếu như chị không muốn tôi gắn bó với cô bé đến như thế này. Tôi chỉ xin chị cho phép tôi có quyền được tiếp tục yêu thương nó. Hãy giúp đỡ tôi mà không cần phải lo sợ điều gì hết, bởi vì chị vẫn sẽ mãi là mẹ của nó, tôi xin thề với chị điều đó. Hãy cho tôi biết một dấu hiệu, chỉ một dấu hiệu rất nhỏ thôi, một cái hích tay, chị có thể làm điều đó mà, phải không?
Và những giọt nước mắt mà cô đã nén lại giờ chảy dài trên má cô. Ngồi trong chiếc ghế bành của chồng, tấm hình của Susan ép vào ngực, cô gục đầu xuống bàn. Khi ngẩng lên, cô nhìn chăm chăm vào chiếc hộp nhỏ bằng gỗ đặt giữa bàn, vẻ mặt đầy suy nghĩ; chìa khóa để ngay bên cạnh. Cô đứng bật dậy và lao xuống cầu thang.
Đứng ngay ngưỡng cửa nhà, cô nói với Thomas:
- Con không ra khỏi nhà nhé, con xem tivi, ăn hết chiếc bánh sandwich và, khi bố về đến nhà, con nói với bố rằng mẹ sẽ gọi cho bố sau, nhất là con đừng mở cửa cho ai đấy nhé, con hiểu không?
- Con có thể biết chuyện gì đang xảy ra được không?
- Để sau đi con yêu, lúc này mẹ thực sự không có thời gian, hãy làm đúng những điều mẹ nói, mẹ hứa sẽ bù lại cho con thời gian đã mất này.
Cô lao vào xe và cuống cuồng tra chìa khóa xe vào ổ công tắc; động cơ xe bắt đầu nổ. Cô phóng xe rất nhanh, vượt qua tất cả những gì nhìn thấy trước mắt, lúc lao qua bên phải, lúc lách qua bên trái, để lại sau lưng tiếng còi xe inh ỏi phản đối nhưng cô chẳng hề mảy may quan tâm. Trong lồng ngực, cô nghe thấy tiếng tim mình đập loạn xạ, mỗi giây phút trôi qua, cô lại tăng tốc thêm chút nữa; cô suýt thì bị trật tay lái trên trục đường dẫn đến cổng ra số 47 nhưng rồi cô giữ vững được tay lái. Mười phút sau, cô bỏ lại chiếc xe bên lề một vỉa hè. Cô chẳng thèm trả lời viên cảnh sát đang gọi cô mà chạy thẳng vào bên trong tòa nhà. Cô lấy hết sức chạy thật nhanh, thở hổn hển khi leo lên các bậc thang của một cầu thang hình xoắn ốc. Ở cuối một hành lang, cô dừng trước một cánh cửa, trong lúc dừng lại để lấy hơi, cô nhìn qua ô cửa kính nhỏ trên cánh cửa để quan sát căn phòng, rồi chầm chầm, cô đẩy cửa bước vào.
= 0 =
Cuối căn phòng của quán bar tại khu vực nhà ga số 1 của sân bay Newark, một mình bên một chiếc bàn, một cô bé gái mười bốn tuổi đang ngồi nhìn qua ô cửa kính rộng, hướng về phía đường băng bên dưới.
Mary chầm chậm bước dọc theo lối đi và đến ngồi trước mặt em. Lisa đã cảm thấy sự có mặt của cô, nhưng mắt em vẫn nhìn đăm đăm về phía những chiếc máy bay. Không nói một lời, Mary đặt bàn tay lên tay em, để em ngồi trong yên lặng. Vẫn không quay người lại, Lisa nói:
- Chính từ đây mà mẹ đã ra đi phải không?
- Đúng rồi, Mary thì thầm, từ đây. Hãy nhìn cô đi, chỉ một lát thôi, cô có điều này quan trọng muốn nói với cháu.
Lisa chầm chậm quay đầu lại và nhìn sâu vào mắt Mary.
- Khi cô nhìn thấy cháu lần đầu tiên trong bộ quần áo ướt sũng và quá chật đối với cháu, với chiếc túi xách và quả bóng của cháu, cô không tưởng tượng được rằng một đứa trẻ bé nhỏ như vậy lại có thể chiếm một vị trí lớn đến thế trong trái tim cô. Cô nghĩ rằng chưa bao giờ cô từng lo sợ đến như thế trong đời, cho đến tận ngày hôm nay. Cô muốn chúng ta trao đổi với nhau một lời hứa, một bí mật của riêng chúng ta. Cháu đừng tìm cách bỏ đi lần nữa, và đến ngày cháu tốt nghiệp trung học, khi cháu đã đủ mười tám tuổi, nếu cháu vẫn cảm thấy "nơi đó" là nơi của cháu, nếu cháu vẫn muốn đi, lúc đó chính cô sẽ dẫn cháu đến sân bay này, cô thề với cháu đấy. Cháu ngồi ở đây suốt thời gian vừa rồi mà không ai để ý ư?
Nét mặt Lisa giãn ra với một nụ cười bẽn lẽn nở trên đôi môi em.
- Không ạ. Chúng ta về nhà chứ? Cô bé nói, giọng nghe nhỏ xíu.
Hai người đứng dậy. Mary để lại vài đô-la trên bàn và cả hai cùng đi ra khỏi quán bar. Ra đến ngoài lề đường, Mary cầm lấy tờ giấy phạt để trên kính trước xe lên và vướt qua vai ra phía sau. Lisa đặt cho cô một câu hỏi:
- Cô là ai đối với cháu?
Mary lưỡng lự giây lát rồi trả lời:
- Cô là điều mâu thuẫn của cháu.
- Điều mâu thuẫn là gì?
- Tối nay, khi cháu lên giường nằm, cô sẽ giải thích cho cháu nghe. Ngay bây giờ, cô hơi ngại đôi mắt của cô, và cháu thì chẳng có đủ đồ để làm bánh xèo trong xe hơi đâu!
Trên chiếc điện thoại gắn trên bảng điều khiển của xe, Mary quay số ở nhà, đầu kia Philip lập tức nhấc máy.
- Cô bé đang ở với em, bọn em đang trở về nhà, em yêu anh.
Sau đó cô gọi cho một viên thanh tra cảnh sát, người mấy ngày nữa sẽ điền vào đơn xin chuyển công tác đến đồn cảnh sát hình sự ở San Francisco; thành phố thực sự rất đẹp, người ta đồn thế, ông biết được điều này từ một cô Nathalia nào đấy đang làm việc ở đó.
Khi họ về đến nhà, Thomas lao ngay ra chỗ Lisa, em ôm chặt cậu bé trong lòng, hai người lớn đến bên cô bé với một đĩa trái cây trên tay. Em không đói, em chỉ mệt và muốn đi ngủ.
* * *
Trong phòng, Mary ngồi xuống bên thành giường và vuốt ve mái tóc của em thật lâu. Cô hôn lên trán em và khi cô chuẩn bị ra khỏi phòng, cô nghe thấy tiếng cô bé đặt cho cô câu hỏi lần thứ hai trong ngày:
- Điều mâu thuẫn là gì hả cô?
Tay vẫn đặt trên nắm cửa, Mary mỉm cười, một nụ cười đầy xúc động.
- Điều mâu thuẫn, đó là cô sẽ không bao giờ trở thành mẹ của cháu, nhưng cháu sẽ mãi mãi là con gái của cô. Bây giờ cháu ngủ đi, mọi chuyện đều tốt đẹp.
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Chương 9
Mùa hè năm đó trại hè không được tổ chức. Philip, Mary, Lisa và Thomas vẫn thuê ngôi nhà trong vùng Hamptons trước đây. Mùa hè tới gần với tất cả mọi người và dù là trong những chuyến dạo chơi bằng tàu hay những lần tổ chức tiệc nướng ngoài trời, tiếng cười và niềm vui sống cuối cùng cũng đã nở hoa trong ngôi nhà của họ.
Ngay từ đầu năm học, Lisa đã bắt đầu việc học hành của mình với thái độ hoàn toàn mới mà cuốn sổ học bạ cuối kỳ một thể hiện rất rõ. Thomas xa cách với chị mình hơn một chút, tuổi vị thành niên tạm thời chia cắt chúng.
Ngày Noel, Mary giải thích với Lisa rằng điều vừa xảy ra với em là bình thường thôi, máu chảy ra đó hoàn toàn không phải do cơ thể của em chiến đấu chống lại một nỗi sợ hãi nào đó. Chỉ đơn giản là em đang trở thành một người phụ nữ, và điều đó sẽ không đơn giản chút nào.
Tháng Giêng, Mary tổ chức một bữa tiệc lớn cho sweet sixteen[31] của Lisa, và lần này, cả lớp đã đáp lại lời mời. Mùa xuân sau đó, nghi ngờ Lisa đã biết thầm thương trộm nhớ ai đó, cô liền giảng giải kỹ lưỡng cho Lisa một bài dài về tất cả các đặc tính của nữ giới. Lisa không để ý lắm đến các chi tiết thân thể, nhưng cô bé chăm chú lắng nghe tất cả những gì liên quan đến sắc thái cảm xúc. Nghệ thuật quyến rũ thu hút cô bé đến mức họ đã có vô số cuộc trao đổi. Nóng lòng muốn có những lời giải thích, cô bé tìm đến Mary. Vô cùng khoái chí về điều đó, cô đưa ra các câu hỏi từng ít, một cách hết sức dè sẻn.
Nhìn vẻ buồn bã của cô bé khi thời điểm những kỳ nghỉ dài đến gần, Mary đoán rằng một tình yêu đã nảy nở trong trái tim cô bé. Những tháng hè trở nên thật đáng ghét khi người ta yêu ở độ tuổi này, lời hứa hẹn sẽ viết thư cho nhau không đủ để lấp đầy khoảng trống mà người ta nếm trải lần đầu tiên trong cuộc đời.
Cô đến trường đón Lisa để dành suốt cả buổi chiều thứ tư đi chơi cùng cô bé tại Manhattan. Ngồi trong khu vườn nhỏ phía sau quán Picasso trong khu Village, hai người cùng ăn một đĩa xa-lát Caesar's với lườn gà nướng.
- Thế nào, hai người còn chưa chia tay mà con đã thấy nhớ cậu ấy phải không? Mary hỏi.
- Cô cũng biết cái vụ đó à?
- Từ lâu lắm rồi.
- Vì sao nó lại làm cho ta đau lòng đến vậy?
- Bởi vì yêu trước hết là chấp nhận một sự rủi ro. Gắn bó lòng mình với một người khác, mở ra cánh cửa nhỏ xíu đi vào trái tim mình là một điều nguy hiểm. Nó có thể gây ra một nỗi đau không gì có thể miêu tả được mà con đang cảm nhận. Thậm chí nó có thể biến thành một nỗi ám ảnh.
- Suốt ngày con chỉ nghĩ đến điều đó!
- Và không có một liều thuốc nào cho nỗi đau này của con tim. Chính vì thế mà cô đã hiểu ra rằng chúng ta hoàn toàn sai lầm về tính tương đối của thời gian. Một ngày có thể dài hơn cả một năm khi người kia không ở bên ta, nhưng đó cũng là một điều của tình yêu. Cần phải học để biết làm chủ tình cảm này.
- Con vô cùng sợ mất anh ấy, sợ anh ấy gặp một cô gái khác. Anh ấy đi nghỉ tại một trại hè ở Canada.
- Điều đó có thể xảy ra, cô hiểu nỗi lo của con. Đúng là đáng ghét, nhưng ở tuổi này, các con trai thường rất thích bay nhảy.
- Thế sau đó thì sao?
- Với một số người thì sau đó họ không còn tính đó nữa, rất hiếm nhưng vẫn có những người như vậy!
- Nếu anh ấy phản bội con, con sẽ không chịu nổi đâu.
- Có chứ, có chứ, cô đã thử trước cho con rồi! Cô biết rằng với tâm trạng của con hiện giờ, điều đó rất khó tin, nhưng dù sao người ta vẫn có thể chịu đựng được.
- Phải làm gì để khiến cho đàn ông họ cũng yêu lại chúng ta?
- Với các cậu con trai, tất cả nằm ở chỗ phải biết giữ chừng mực, giữ khoảng cách, giữ một cái gì đó bí hiểm. Chính những điều đó khiến cho họ phát điên!
- Điều này con đã nhận thấy!
- Thế là thế nào, con đã nhận thấy là thế nào?
- Giữ chừng mực là một tính cách khá tự nhiên ở con.
- Vậy hãy chú ý đến tiếng tăm của con, điều này sẽ rất quan trọng về sau, mọi vấn đề nằm ở chỗ làm sao giữ được thăng bằng.
- Con không hiểu!
- Cô nghĩ rằng bố của con sẽ giết cô nếu ông ấy nghe thấy cô nói những điều như thế này với con, nhưng nhìn con quá lớn so với tuổi của mình.
- Nói đi cô! Lisa vừa nằn nì vừa giậm chân.
- Nếu như con chạy trốn tụi con trai, con sẽ trở thành một nữ thánh đồng trinh và họ sẽ không thèm để ý đến con, nhưng nếu con suốt ngày ở với họ, con sẽ bị coi là một cô gái dễ dãi và họ sẽ thích đi với con nhưng vì những lý do xấu, điều này cũng không tốt.
- Điều này con cũng đã thấy rồi! Cô bạn gái Jenny của con đã đánh mất thăng bằng!
- Thế còn con, con đang ở đâu?
- Đang ngồi trên một sợi dây, con đã giữ được thăng bằng của mình.
- Lisa, đến một ngày mà những chuyện này trở nên quan trọng hơn nữa trong cuộc đời của con, cô muốn rằng con sẽ cảm thấy thoải mái hỏi cô bất cứ câu hỏi nào thoáng qua trong đầu con. Cô ở đây là để giúp con.
- Thế còn cô, ai đã giải thích cho cô khi cô ở vào tuổi con?
- Không ai cả, trong điều kiện đó, còn khó khăn hơn nữa để tránh khỏi bị chóng mặt.
- Đến tuổi nào thì cô có người bạn trai đầu tiên?
- Chỉ biết là không phải ở tuổi của con bây giờ, nhưng thời đó khác với bây giờ.
- Dù sao con cũng thấy chuyện này thật đáng sợ.
- Hãy chờ thêm chút nữa và con sẽ thấy người ta có thể thay đổi ý kiến đến như thế nào!
Sau bữa ăn, họ lại tiếp tục trò chuyện thủ thỉ trong khi đi dọc các con phố tại khu Village, lục tung tất cả các cửa hiệu thời trang mà họ bước vào để tìm cho ra bộ đồ định mệnh sẽ "hạ gục" chàng trai đang được nói đến.
- Con hiểu không, Mary nói, chúng ta vẫn luôn nói rằng trong tình yêu, hình dáng bên ngoài không phải là điều quan trọng, nhưng trong vấn đề quyến rũ, dù sao nó cũng đóng vai trò đáng kể đấy! Vấn đề là phải tìm được phong cách ăn mặc phù hợp nhất với mình!
Khi cô bán hàng của tiệm Banana Republic nhận thấy cô bé đang băn khoăn trước một chiếc quần bó màu đen nên nói với Lisa rằng với thân hình của cô, cô có thể mặc bất cứ loại quần áo nào, và chỉ lát sau, trong khi cô bé đang ở trong phòng thử đồ, vẫn cô bán hàng ấy nói với Mary rằng con gái của cô rất đẹp, cảm giác choán lấy cô không giống chút nào với sự ghen tị, mà giống với một cảm giác tự hào.
Khi ra đến ngoài vỉa hè, hai tay mang lỉnh kỉnh các túi đồ, Lisa ôm hôn Mary và thì thầm vào tai cô rằng chàng trai tên là Stephen.
- Chà, Stephen, Mary cao giọng đáp, đây sẽ là sự khởi đầu cho những nỗi bất hạnh của cậu, suốt những ngày hè, cậu sẽ phải cảm thấy khổ sở đấy, hãy chống mắt lên mà coi!
* * *
Trong suốt mùa hè mà cả nhà lại cùng nhau đi nghỉ trong vùng Hamptons, hai tuần một lần, Lisa bí mật viết thư cho chàng trai tên là Stephen. Những lá thư đủ để chàng cảm thấy an tâm rằng cô nghĩ rất nhiều đến anh, nhưng cũng đủ để cho anh biết rằng có rất nhiều chàng trai dễ thương ở đây, và rằng cô có những ngày nghỉ tuyệt vời, cô chơi thể thao rất nhiều. Cô hi vọng rằng anh cũng cảm thấy vui trong trại hè của anh, và nói thêm rằng cô thấy hai khái niệm có vẻ rất đối kháng. "Một chút từ vựng chẳng có hại gì đâu", Mary trả lời khi cô bé cứ băn khoăn hỏi rằng liệu từ "đối kháng" có hơi to tát quá không.
Ngày tựu trường, Lisa gặp lại Stephen trong lớp và trong cuộc đời cô.
Vào tháng Mười một, Lisa có vẻ buồn bã, và Mary biết được rằng lần này Stephen sẽ cùng gia đình đi dự một lớp trượt tuyết trong vùng núi Colorado. Không hỏi ý kiến một ai, trong buổi ăn tối ngày hôm sau, cô quyết định rằng sẽ rất tuyệt nếu Lisa học để biết trượt tuyết thật giỏi. Lời mời của Cindy, chị của Stephen, mời Lisa cùng đi nghỉ với gia đình đến rất đúng lúc. Đối với Philip, không bao giờ có chuyện gia đình phân tán trong dịp Noel, nhưng Mary kiên quyết giữ nguyên ý kiến của mình bởi vì ngày khởi hành đã dự định là ngày 27. Còn đêm giao thừa, mọi người sẽ gọi điện cho nhau, phải biết học để lớn lên chứ, phải không?
Cái nhướm mày bên trái của cô hẳn đã kêu gọi được sự đồng thuận cuối cùng.
Họ chỉ nhận được một tấm bưu thiếp duy nhất đến vào hôm trước ngày trở về của Lisa, và mỗi ngày Mary đều phải giải thích với Philip rằng phải mừng vì điều đó mới đúng - nếu như ngày nào con bé cũng viết thư thì lúc đó mới đáng lo.
Thế là họ chỉ có ba người cùng đón lễ New Year's Eve[32], và, nhất định hàn gắn sự cách biệt này, Mary chuẩn bị một bữa ăn thật linh đình. Tuy vậy, ngồi trong bàn, chiếc ghế bỏ trống của Lisa vẫn ám ảnh cô suốt buổi tối. Sự vắng mặt của Lisa đánh một cú mạnh vào cái cánh cửa nhỏ để ngỏ mà cô đã từng nói với em vào một buổi chiều mùa hè.
Cô bé trở về với làn da rám nắng, hạnh phúc và mang theo về hai tấm huy chương giành được trên các đường đua. Cuối cùng Mary cũng thấy mặt anh chàng Stephen vẫn hãy được nhắc đến trên những tấm hình chụp cả nhóm. Sau đó, Lisa kéo cô vào phòng và một lần nữa chỉ cho cô xem chàng trai trên tấm chân dung hai đứa tươi cười chụp tại quầy tự động, trước khi dấu nó dưới nệm.
Trong suốt hai tháng sau đó, ý nghĩ quay trở lại với nghề phóng viên ngày càng xuất hiện nhiều hơn trong đầu cô. Cô bắt đầu bằng việc viết các bài thời luận, "chỉ là để cho vui", và đi ăn trưa với người tổng biên tập mới của tờ Montclair Times mà cô từng quen khi còn học ở trường đại học vì tò mò. Cô hết sức ngạc nhiên khi anh ta đề nghị cô gửi cho anh ta một bài. Chắc chắn cô sẽ cần một ít thời gian để "giũa" lại ngòi bút, nhưng anh ta để cho cô tự chọn chủ đề bài viết. Trước khi chia tay, anh hứa sẽ làm hết khả năng của mình để giúp cô nếu như cô thực sự muốn quay trở lại với nghề. "Mà tại sao không?" cô tự nhủ trên đường về nhà.
= 0 =
Philip ngồi tại bàn làm việc, ngắm mặt trời đang lặn vào lúc cuối chiều của một ngày tháng Năm này. Vừa trở về từ thư viện thành phố, Mary đi ngay lên phòng cắt ngang công việc của anh.
Khi cô bước vào, anh ngẩng mặt lên và mỉm cười với cô trong khi chờ cô nói.
- Anh có nghĩ rằng người ta có thể nắm giữ được hạnh phúc khi ở tuổi bốn mươi?
- Ít nhất thì người ta cũng có thể nhận thức được nó.
- Liệu mọi việc có thể thay đổi muộn màng như vậy trong cuộc sống, liệu bản thân người ta còn có thể thay đổi được không?
- Người ta có thể chấp nhận trưởng thành hơn và chung sống với mọi chuyện thay vì đối đầu với chúng.
- Đây là lần đầu tiên kể từ bấy lâu nay em cảm thấy anh ở gần bên em, Philip, và chính điều đó làm cho em hạnh phúc.
Vào mùa xuân năm 1995, Mary biết rằng hạnh phúc đã đến ở trong căn nhà của cô, và sẽ còn ở lại rất lâu.
= 0 =
Cô dọn căn phòng của Lisa và vì lúc đó trời đã bắt đầu nóng, cô quyết định lật mặt đệm qua phía dành cho mùa hè. Chính vào lúc đó cô đã bắt gặp cuốn sổ lớn với bìa màu đen. Cô lưỡng lự, ngồi vào bàn và bắt đầu lật từng trang. Trang đầu tiên có hình lá cờ Honduras vẽ bằng màu nước. Mỗi trang sổ mở ra, cổ họng cô lại nghẹn lại thêm một chút. Tất cả các bài báo đã được đăng tải viết về các đợt bão đã xảy ra trên trái đất trong những năm qua đã được cắt ra và dán vào trong cuốn album bí mật này, các bài báo ít nhiều liên quan đến Honduras thì được sắp xếp cẩn thận theo thứ tự thời gian. Nó giống như cuốn nhật ký hải trình của một người thủy thủ xa đất liền, hàng đêm vẫn mơ về những ngày tháng sắp tới, khi trở về nhà, anh sẽ kể cho những người thân của mình nghe về chuyến đi có một không hai.
Mary gấp cuốn sổ lại và đặt nó lại chỗ cũ. Những ngày sau đó, cô không để lộ cho ai biết phát hiện này và, nếu như mọi người trong gia đình đều cảm thấy tâm trạng của cô có gì đó thay đổi, không một ai hiểu được rằng một trái tim có thể héo tàm chỉ trong vài giây.
= 0 =
Dù không tự nhận thấy điều đó, nhưng đã bốn lần kể từ đầu mùa hè, Mary gặng hỏi Philip xem anh thấy nên làm gì để tổ chức kỷ niệm sinh nhật lần thứ mười chín của Lisa cho xứng đáng. Khi anh trả lời vẻ hài hước rằng họ còn tới hai năm nữa để suy nghĩ, cô tỏ ra bực tức trả lời đôi khi thời gian trôi nhanh đến mức họ không kịp để ý.
Sáng nay, sau bữa ăn sáng, khi Lisa ra ngoài đi cùng với Thomas đến sân chơi bóng chày, cô lại nhắc đến chủ đề này.
- Em làm sao vậy, Mary? Philip hỏi.
- Không sao hết, em chỉ hơi mệt, thế thôi.
- Em chẳng bao giờ mệt cả. Có chuyện gì em chưa nói với anh phải không?
- Thì em đến tuổi rồi, chứ anh còn muốn sao nữa, rồi cũng có một ngày sự mệt mỏi phải đến chứ.
- Sau ba mươi hay bốn mươi năm nữa thì bài diễn văn này của em sẽ là sự thật không thể chối cãi được, nhưng bây giờ thì chưa phải lúc, nói anh nghe đi.
- Đi theo em, em có cái này muốn cho anh xem!
Cô dẫn anh vào phòng của Lisa và thò tay vào phía dưới tấm nệm. Đến lượt mình, anh cẩn thận lật từng trang album.
- Con bé này dàn trang tốt một cách kinh ngạc, nó đúng là có khiếu về đồ họa, anh thấy rất tự hào, nó có tài đấy. Em có nghĩ là công việc của anh tạo cảm hứng cho nó không?
Mary cắn chặt răng để kìm những giọt nước mắt giận dữ chỉ trực trào ra trong đôi mắt cô.
- Đó là tất cả những gì cuốn sổ gợi cho anh ư? Cả bấy nhiêu trang giấy chỉ nói về các trận bão và về Honduras, vậy mà anh, anh lại quan tâm đến khả năng làm maquette của nó!
- Bình tĩnh lại nào, sao em lại như vậy?
- Anh không thấy là con bé chỉ nghĩ đến chuyện đó thôi hay sao, nó bị ám ảnh bởi cái đất nước chết tiệt đó và bởi những cơn bão đáng nguyền rủa! Em cứ tưởng rằng mình đã mang đến cho nó một điều gì đó khác, em đã nghĩ rằng mình đã khiến cho nó cảm thấy thích thú với một cuộc sống khác. Chưa đầy ba năm nữa, thời gian sẽ trôi qua nhanh lắm.
- Mà em đang nói về cái gì vậy?
Cô không trả lời, Philip nắm lấy tay cô và kéo cô ngồi lên đùi mình. Anh ôm cô thật chặt vào lòng và nói với cô bằng một giọng dịu dàng và trầm tĩnh. Cô gục đầu vào vai anh, khóc nức nở.
- Tình yêu của anh, Philip nói tiếp, nếu như mẹ của em bị giết hại, và những người thân đã lấp đầy ký ức tuổi thơ của em đều bị giết chết bởi một tên sát nhân, em có thể không bị ám ảnh bởi những tên giết người hàng loạt chăng?
- Em không thấy có mối liên hệ nào ở đây.
- Những cơn bão, chúng chính là những tên sát nhân vẫn ám ảnh con bé hằng đêm. Ai có thể hiểu hơn em nhu cầu tìm kiếm, đọc tài liệu, thống kê để hiểu rõ hơn, chính em đã từng lý giải cho mình như thế khi em là sinh viên, và em từ chối các buổi ăn tối với anh để ở nhà viết báo. Những cơn bão đã giết chết tuổi thơ của nó, vì thế nên nó tìm kiếm thông tin về chúng, nó cắt chúng ra và dán vào cuốn album của nó.
- Anh nói như vậy để làm cho em yên tâm đấy à?
- Đừng vội từ bỏ, Mary, đừng từ bỏ vào lúc này, nó cần đến em. Lisa đã làm đảo lộn cuộc sống của em. Em đã biết điều đó ngay vào giây phút nó xuất hiện trên lối đi này, nhưng em không muốn thừa nhận điều đó. Em đã chống lại tình cảm này, và dù em đã đoán ra cái hạnh phúc đang tới, nó vẫn làm đảo lộn trật tự mà em đã thiết lập, và em chối bỏ nó. Trước bấy nhiêu điều hiển nhiên, em đã để cho mình bị khuất phục, em đã mở trái tim mình ra với cô bé và mỗi ngày trôi qua, em càng hiểu ra em yêu nó đến mức độ nào. Anh biết rằng ban đầu, điều đó không dễ dàng gì, em đã phải có rất nhiều can đảm.
- Anh nói về chuyện gì vậy?
- Về sự kiên nhẫn và khiêm tốn của em. Bởi vì khiêm tốn cũng có nghĩa là tin vào cuộc sống của chính mình.
Anh đóng cuốn sổ lại và quăng nó ra giường, rồi anh nhìn sâu vào mắt Mary và bắt đầu cởi khuy áo của chiếc áo bó cô đang mặc. Cuối cùng cô cũng mỉm cười khi bàn tay anh đặt lên bộ ngực trần của cô.
- Đừng làm thế trong phòng của Lisa!
- Anh cứ nghĩ là con bé đã gần như trưởng thành rồi chứ? Tại cuốn album này mà em bị ám ảnh về sinh nhật thứ mười chín của nó đấy phải không?
- Không, ngốc ạ, cô vừa trả lời vừa nấc lên, bởi vì em sợ rằng cửa hàng bán đồ ăn sẵn sẽ đóng cửa vào ngày hôm đó!
Sau đó, cũng trong ngày hôm ấy, cô chia sẻ với anh một suy nghĩ mà cô không bao giờ có thể ngờ rằng mình lại có thể có trong đầu.
- Em nghĩ là em đã hiểu anh cảm thấy như thế nào khi Susan ra đi, cảm giác bất lực thật đáng sợ khi bản thân nó phải đối đầu với sức mạnh của tình cảm.
Sáng hôm sau, tại thư viện nơi cô bắt đầu có thói quen đến để làm việc, Mary viết một lá thư. Cô dán phong bì lại và viết bằng bút lông: "National Hurricaine Center, Public Affair, 11691 S.W. 117th Street, Miami, 33199 Florida". Hai ngày sau, khi người nhận lá thư mở nó ra, ông ta đọc thấy những lời sau:
Montclair, NJ, ngày 10 tháng Bảy năm 1995,
Thưa ngài Giám đốc phòng Quan hệ đối ngoại Trung tâm nghiên cứu bão quốc gia,
Tuy bản thân tôi là nhà báo và vốn có ý định vài tháng tới sẽ đăng bài báo về những cơn bão và về trung tâm của ông, tôi viết thư này để xin được gặp và trao đổi với ông với tư cách cá nhân. Để ông có thể hiểu được lý do khiến tôi làm điều này, cho phép tôi được trình bày rõ hơn về hoàn cảnh đặc biệt liên quan đến hành động của tôi. [.....]
Bức thư dài năm trang được ký tên Mary Nolton.
Mười ngày sau, cô nhận được câu trả lời:
Thưa bà,
Lá thư của bà đã khiến tôi đặc biệt quan tâm. Từ tháng Năm, chúng ta đã dọn hẳn về trụ sở mới đặt tại khuôn viên Trường đại học quốc tế Florida, và tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ có thể đón tiếp bà và cô con gái Lisa của bà kể từ tháng Chín tới. Do tính chất đặc biệt trong lời yêu cầu của bà, tôi nghĩ rằng có lẽ sẽ thuận lợi hơn nếu chúng ta có thể trao đổi trước về trình tự chuyến tham quan và làm việc của bà. Bà có thể liên hệ với chúng tôi tại văn phòng.
Xin gửi đến bà lời chào trân trọng.
P.Hebert
MIC(Meteorologist in Charge)
Tuần lễ sau đó, Mary mời tổng biên tập của tờ Montclair Times ăn trưa. Sau khi chia tay với anh bên ngoài bậc thềm của tòa soạn, cô đi đến đại lý bán vé du lịch của mình và mua một tấm vé khứ hồi đi Miami; chuyến bay của cô khởi hành sáng sớm hôm sau, lúc 6 giờ 35, cô gọi điện cho thư ký của ông Hebert để báo rằng ngày hôm sau, cô sẽ có mặt tại văn phòng của ông lúc 12 giờ trưa. Nếu may mắn một chút và làm việc thật hiệu quả, cô sẽ có thể trở về nhà vào buổi tối cùng ngày.
= 0 =
Sáng sớm, cô bước thật khẽ đi xuống cầu thang, chú ý để không đánh thức một ai. Cô vào bếp, pha cho mình một ly cà phê, vừa nhâm nhi vừa ngắm trời đang sáng dần, rồi cô nhẹ nhàng đóng cửa nhà phía sau lưng mình và lên đường. Trên xa lộ dẫn ra sân bay Newark, hơi gió lùa vào trong xe qua ô cửa kính mở lớn đã bắt đầu ấm dần, cô bật radio và tự cảm thấy ngạc nhiên khi nhận ra mình đang hát váng tai.
Máy bay đáp xuống sân bay quốc tế Miami lúc 11 giờ. Cô không mang theo hành lý nên rời khỏi sân bay rất nhanh. Nhận xong chiếc xe hơi đặt thuê sẵn, trải tấm bản đồ ra trên chiếc ghế bên phải, cô lái xe tiến vào làng Virginia Gardens, rẽ qua trái, vào đường cao tốc số 826, sau đó rẽ phải vào đường Flagami West Miami, và sau đó lại rẽ trái vào đại lộ thứ 117. Thông tin chỉ dẫn mà người ta cung cấp cho cô rất chính xác, tòa nhà NHC[33] hiện ra bên tay trái. Sau khi tự giới thiệu với người bảo vệ tại cổng khuôn viên, cô đậu xe vào bãi và di theo con đường chạy dọc khu vườn. Tòa nhà của NHC xây bằng bê tông mài trắng, trông giống như một boongke hiện đại với kiến trúc được cách điệu.
- Đó chính xác là điều chúng tôi muốn, thưa bà! Tất nhiên khi đã làm việc tại Miami, chắc chắn ai cũng mơ ước được làm việc trong những tòa nhà ốp những tấm kính lớn phía trước để có thể tận hưởng vẻ đẹp tuyệt vời của phong cảnh nơi đây. Nhưng với những gì chúng tôi biết và quan sát được, chúng tôi vẫn muốn tòa nhà này phải được thiết kế vững chắc để chống chịu được các cơn bão, dù cho kiến trúc có xấu xí một chút. Đó là một lựa chọn mà tất cả chúng tôi ở đây đều cảm thấy thoải mái.
- Một cơn bão đáng sợ đến như vậy sao?
- Ngang với những gì quả bom nguyên tử dội xuống Hiroshima hay Nagasaki có thể gây nên.
Giáo sư Hebert đến đón cô tại tiền sảnh của tòa nhà, ông dẫn cô đến tận phòng làm việc của ông nằm bên cánh đối diện. Cô đặt hành lý xuống và ông bảo cô đi theo ông: ông có cái gì đó muốn cho cô xem trước khi họ bắt đầu trao đổi. Lối đi kín mít không có cửa sổ khiến cho cô cảm tưởng như đang đi dạo trong một hành lang thông với nhiều phòng trên một chiếc tàu chiến của hải quân, và cô tự hỏi có phải người ta đã làm cho nó thông thoáng ra thêm một chút rồi không. Ông mở cánh cửa của một phòng triển lãm. Phía bên trái, những bức tường lớn màu trắng phủ đầy những tấm hình do các máy bay tham sát của NHC chụp. Những bức hình chụp các cơn bão cho thấy những khối mây trông vừa oai phong, vừa khủng khiếp xoay tròn quanh chính mình, để lộ ra một khoảng trống màu xanh da trời tại tâm điểm của chúng, mà một số người gọi là mắt quỷ.
- Khi nhìn một cơn bão từ trên cao thế này, thậm chí ta có thể nó rất đẹp, đúng không?
Câu nói của Hebert vang lên trong căn phòng lớn và trống trải. Giọng của ông đột ngột thay đổi, nó trở nên gần như trịnh trọng.
- Bức tường bên phải mang người ta trở lại mặt đất, nếu tôi có thể nói như vậy, những bức hình này cho thấy những gì diễn ra bên ở dưới. Chúng nhắc nhở cho mỗi người chúng tôi tầm quan trọng của nhiệm vụ mà chúng tôi đang thực thể hiện. Hãy nhìn những bức hình này thật lâu đến chừng nào đã hiểu rõ chúng ta đang nói về cái gì. Mỗi tấm hình đều là nhân chứng cho thấy sức mạnh khủng khiếp tàn phá và hủy diệt của những con quái vật này. Hàng trăm, hàng ngàn người chết, đôi khi còn hơn con số đó nữa, những vùng đất bị xóa sổ hoàn toàn, biết bao cuộc đời bị hủy diệt, biến thành hư vô.
Mary lại gần một bức hình.
- Cơn bão mà cô nhìn thấy tên là Fifi, một cái tên lạ lùng cho một kẻ giết người quy mô cỡ như thế. Nó đã đổ bộ xuống Honduras vào năm 1974, quét qua gần như toàn bộ đất nước, để lại phía sau nó một sự tàn phá ngoài sức tưởng tượng và hàng trăm ngàn con người trở thành vô gia cư. Trong giây lát, hãy thử hình dung hình ảnh khủng khiếp với xác chết của mười ngàn trẻ con, phụ nữ và đàn ông. Những tấm ảnh nhỏ của chúng tôi dán xung quanh những bức hình lớn chỉ là một vài tấm hình làm chứng cho điều mà tôi vừa miêu tả với cô, chúng tôi đã chọn ra những bức ít kinh hoàng nhất nhưng vẫn không thể chịu đựng nổi khi nhìn thấy chúng.
Không nói nên lời, Mary tiến lên vài mét; Hebert chỉ tay vào một tấm hình khác trên tường.
- Cô đang nhìn thấy những gì xảy ra vào năm 1989. Allison, Barry, Chantal, Dean, Erin, Felix, Gabrielle, Karen, Jerry, Iris là một số trong số những kẻ sát nhân của năm đó, cũng phải nhắc đến Hugo, một cơn bão di chuyển với tốc độ trên 130 hải lý một giờ, tàn phá Charleston và cả một vùng rộng lớn thuộc Nam Carolina. Trận bão mà bà đã nhắc đến trong thư hẳn là một cơn bão tên là Gilbert, nó đã hoành hành trong suốt 13 ngày vào năm 1988, những cơn gió của nó di chuyển với tốc độ 165 hải lý một giờ, và những trận mưa xảy ra trước cơn bão đã gây nên những hậu quả kinh hoàng; tôi đã kiểm tra lại, chúng tôi không có con số chính xác về Honduras. Thưa bà, tôi không muốn xen vào những chuyện không phải của mình, nhưng bà có chắc chắn là bà muốn con gái bà nhìn thấy những hình ảnh này không?
- Cơn bão Gilbert này hay một trong những anh chị em họ của nó đã giết chết mẹ đẻ của cô bé. Lisa đã bí mật nuôi dưỡng một niềm say mê đến ám ánh đối với những cơn bão.
- Đó, lại thêm một lý do nữa khiến cho nơi này trở nên quá sức chịu đựng đố́i với cô bé.
- Chính sự không hiểu biết khiến cho người ta cảm thấy sợ hãi. Chính là để chiến đấu với những nỗi sợ hãi của bản thân mình mà tôi đã muốn trở thành nhà báo. Con bé cảm nhận nhu cầu muốn được hiểu biết mà không biết tìm ở đâu, vì thế tôi sẽ giúp nó, và tôi sẽ ở bên cạnh nó để chia sẻ những giây phút này, dù chúng có khó khăn đến thế nào.
- Tôi e rằng không thể đồng ý với quan điểm của bà.
- Tôi rất cần ông, giáo sư Hebert. Một bé gái không sao lớn lên nổi. Càng ngày càng hiếm khi người ta nghe giọng nói của nó, đến nỗi mỗi khi nó quyết định mở miệng nói, người ta phải căng tai lên để nghe. Năm tháng càng trôi qua, tôi càng thấy nó giam mình trong im lặng của nỗi sợ hãi. Nó run rẩy mỗi khi một cơn giông nổ ra, nó sợ cả những cơn mưa. Khi ông gặp con bé, ông sẽ thấy dù có như thế, con bé vẫn thật là dũng cảm, nó tự hào khi giấu kín nỗi ám ảnh kinh hoàng vẫn luôn đè nặng lên nó. Không có tuần nào trôi qua mà tôi không phải đến phòng nó vào ban đêm để giúp nó thoát khỏi một cơn ác mộng. Tôi thấy nó nằm đó, người vã mồ hôi, bị chôn chặt trong một giấc ngủ mịt mù đến mức thậm chí tôi không thể nào đánh thức nó dậy. Có những lần nó đã cắn lưỡi đến chảy máu để chống chọi lại với những nỗi sợ hãi của nó. Không ai biết điều đó, cả con bé cũng không biết rằng tôi đã khám phá ra điều bí mật vẫn ám ảnh nó. Nó cần được biết là trung tâm của ông đang tồn tại, rằng chúng ta không bỏ qua cho những tên quái vật đã cướp đi mạng sống của những người thân của nó, rằng các ông vẫn giám sát chúng, các ông vẫn đang truy lùng chúng, rằng có những phương tiện đã được đầu tư để khoa học có thể giúp bảo vệ những người dân khỏi những cơn cuồng nộ chết người của tự nhiên. Tôi muốn một ngày kia con bé có thể ngắm nhìn bầu trời và nhận ra rằng những đám may có thể cũng rất đẹp, tôi muốn mỗi đêm khi nằm ngủ, con bé có được những giấc mơ êm ái.
Giáo sư Hebert mời Mary đi theo ông, với một nụ cười trên môi. Khi mở cánh cửa phòng triển lãm, ông quay sang cô:
- Tôi không dám chắc rằng chúng tôi có được đầy đủ các phương tiện, nhưng ít ra là chúng tồn tại. Hãy đến đây, tôi sẽ đưa cô đi xem phần còn lại của Trung tâm và chúng ta sẽ cùng suy nghĩ xem chúng ta có thể làm gì.
Mary gọi điện cho Philip, khi cô rời khỏi NHC, đã quá trễ để có thể về nhà vào buổi tối hôm đó. Ban đêm, từ cửa sổ phòng khách sạn tại bãi biển Miami, cô nghe thấy tiếng sóng vọng lên từ dưới.
- Em không mệt quá đấy chứ? Anh hỏi.
- Không, chuyến đi thăm này đã mang lại cho em rất nhiều thông tin. Bọn trẻ đã ăn tối chưa?
- Xong lâu rồi, bọn anh đang ngồi nói chuyện trong phòng của Lisa. Anh nghe điện thoại ở phòng của mình. Còn em, em ăn tối chưa?
- Không, nhưng em sẽ ra ngoài bây giờ.
- Anh rất ghét khi em ở trong thành phố đó mà không có anh. Ở đó đầy những tay đàn ông cơ bắp như những bức tượng.
- Ở đây những pho tượng đi lại rất nhiều, và em vẫn chưa ghé một quán bar nào! Em nhớ anh.
- Anh cũng nhớ em, nhớ nhiều lắm. Giọng nói của em nghe nhỏ xíu.
- Hôm nay là ngày lạ lùng, anh biết đấy. Hẹn anh ngày mai, em yêu anh.
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Chương 9 (B)
Dưới chân các tòa nhà, từ các quán ăn và quán bar nhìn ra Ocean Drive, tên của đại lộ chạy dọc bãi biển, những tiếng nhạc điên cuồng phát ra. Những cơ thể còn uốn éo nhảy nhót trên nền nhạc đó mãi cho đến khuya. Cứ mỗi cây số lại có một bảng đề; Điểm tập kết di chuyển người đến chỗ trú ẩn trong trường hợp báo động có bão. Sáng hôm sau, Mary đáp chuyến bay đầu tiên.
Chuông điện thoại reo lên vào tối ngày 11 tháng Chín năm 1995. Hebert khuyên cô nên chuẩn bị sẵn sàng ngay sáng sớm hôm sau, ông sẽ gọi lại trước khi Lisa ra khỏi nhà đến trường để báo cho cô biết diễn tiến của những gì mà hiện nay mới chỉ là dự báo. Sau đó ông gác máy, ông có nhiều việc phải làm. Vào lúc 7 giờ sáng, giọng của ông trong điện thoại nói với Mary: "Hãy đến đây bằng chuyến bay đầu tiên, chúng tôi nghĩ rằng thời điểm đặt tên sẽ là vào tối nay, bảng tên sẽ chờ sẵn hai người ở cổng vào, tôi sẽ đón ngay khi quý vị đến nơi." Cô vào phòng của Lisa, cô bé đang thay đồ, cô mở tủ ra và bắt đầu chuẩn bị một vali nhỏ.
- Cô làm gì vậy? Lisa ngạc nhiên.
- Con sẽ bỏ lỡ tuần học này, nhưng có thể con sẽ có cơ hội chuẩn bị bài thuyết trình hay nhất trong lịch sử của trường.
- Cô đang nói gì vậy?
- Bây giờ không có thời gian để giải thích, con hãy vào bếp làm cho mình một lát bánh mỳ bơ đi, một tiếng đồng hồ nữa chúng ta sẽ đáp một chuyến bay, trên đường đi cô sẽ giải thích cho con biết cô đang đưa con đi đâu.
Cô phóng xe như bay trên xa lộ, trong khi Lisa hỏi cô họ đang đi đâu và tại sao lại có chuyến đi bất ngờ này. Mary trả lời rằng với tốc độ như thế này, cô không thể làm hai việc cùng một lúc. Họ sẽ có cả thời gian trong suốt chuyến bay để nói chuyện.
Hai người chạy băng qua tiền sảnh nhà ga sân bay để đi về phía cửa lên máy bay. Mary nắm tay Lisa chạy, mỗi lúc một nhanh hơn. Khi họ lên đến đầu chiếc cầu thang dẫn đến một quán bar nằm nhô ra ở một góc tầng lầu, Lisa đặt lại câu hỏi một lần nữa:
- Nhưng mà chúng ta đang đi đâu?
- Đi qua phía bên kia cửa kính! Mary trả lời. Hãy đi theo cô và hãy tin ở cô!
Lisa nhìn qua ô cửa ngắm cả một đại dương với những đám mây trôi lướt qua cánh máy bay. Chiếc phi cơ bắt đầu đáp xuống sân bay quốc tế Miami. Mary giả vờ ngủ trong suốt chuyến bay và Lisa vẫn không hiểu chuyện gì đang xảy ra và tại sao họ lại chạy vội vã khi vừa ra khỏi máy bay. Ngay sau khi nhận lại hai chiếc vali từ trên tấm thảm trượt trả hành lý, họ nhảy lên một chiếc taxi đi về phía Flagami West.
- Tôi không nhớ chỗ có trung tâm NHC, người tài xế nói.
- Anh rẽ sang trái vào đường số 117 và cổng vào ở cách đó 2 cây số, Mary trả lời.
- NHC là gì? Cô từng đến đây rồi à? Lisa hỏi.
- Có lẽ thế!
Lisa vô cùng ấn tượng bởi chiếc bảng tên có in sẵn tên của em, người ta đã đưa nó cho em khi hai người đến trình diện tại phòng bảo vệ. Em đang đứng chờ cùng với Mary tại tiền sảnh của tòa nhà khi giáo sư Hebert xuất hiện.
- Xin chào, hẳn cháu là Lisa, tôi rất vui khi được đón tiếp cháu tại Trung tâm nghiên cứu bão quốc gia. Chúng tôi là một trong ba chi nhanh của một tổ chức chính phủ tên là Trung tâm dự báo nhiệt đới. Nhiệm vụ của chúng tôi là cứu sống người dân và bảo vệ tài sản vật chất của các cộng đồng dân cư, bằng cách nghiên cứu những hiện tượng khí tượng xảy ra ngẫu nhiên tại các vùng nhiệt đới, chúng tôi phân tích chúng và đưa ra các cảnh báo hay báo động khi cần thiết. Những thông tin mà chúng tôi thu thập được dùng phục vụ cho đất nước chúng ta và cho cả cộng đồng quốc tế. Một lát nữa chúng ta sẽ tham quan một vòng khắp Trung tâm, thông tin mà các máy bay thám sát của chúng tôi chuyển về vào trưa nay khẳng định rằng quý vị đã không cất công đến đây một cách vô ích. Trong giây lát nữa, chúng ta sẽ được thấy cái mà từ 14 tiếng đồng hồ nay đã chính thức được coi là cơn áp thấp nhiệt đới thứ 15 trong năm của vùng Đại Tây dương. Chúng tôi nghĩ rằng vào trước cuối ngày hôm nay, nó sẽ có thể chuyển thành một cơn bão, thậm chí là một trận bão lớn vào ngày mai.
Vừa nói, ông vừa dẫn họ đến một đầu hành lang dài. Ông đẩy hai cánh cửa dẫn vào một căn phòng nhìn giống với một tháp kiểm soát của một sân bay lớn. Ở chính giữa căn phòng, một dãy các loại máy in liên tục nhả ra hàng cuộn giấy, một người đàn ông cắt chúng ra và phát cho những người khác. Hebert dẫn họ đến gần màn hình của một chiếc radar. Sam, người nhân viên đang làm việc tại đó, không một phút rời mắt khỏi màn hình, anh ta ghi lại trên một tờ giấy những số liệu hiện ra ở góc trái phía trên màn hình. Một vệt rộng di chuyển thành vòng tròn trên mặt đồng hồ; khi nó đến vị trí phía đông nam, anh ta chỉ tay vào khối đục màu vàng cam đang tách rời một cách rõ rệt ra khỏi nền màu xanh lá cây. Lisa ngồi xuống chiếc ghế dành cho em. Người nhân viên trạm khí tượng giải thích cho em biết phải diễn giải những con số đang lướt qua trước mắt em như thế nào. Những con số đầu tiên chỉ ngày tháng cơn áp thấp được sinh ra, con số nằm cạnh chứ M chỉ số ngày đã trôi qua kể từ thời điểm đó, những con số trong ô "SNBR" là số hiệu đã gắn cho hiện tượng đang xảy ra.
- Từ XING có nghĩa là gì? Lisa hỏi.
- Đó là chữ viết tắt của "crossing" và số không ở bên cạnh có nghĩa là cơn áp thấp đã không đi qua biên giới của nước Mỹ, hay ít nhất là vẫn chưa vượt qua. Nó đó là một cơ số khác thì có nghĩa là nó đã xâm nhập vào lãnh thổ của chúng ta.
- Thế còn con số phía sau ba chứ S đứng sát nhau?
- Đó là con số xếp hạng chính thức của chúng ta. Độ nghiêm trọng của các cơn địa chấn của trái đất được đo bằng thang Richter của các cơn bão thì, kể từ năm 1899, được đo bằng thang đo Saffir Simpson. Nếu trong những giờ tới, cháu thấy số 1 xuất hiện sau các chữ SSS, điều đó có nghĩa là cơn áp thấp nhiệt đới trở thành một cơn bão ở cấp độ nhỏ nhất.
- Thế nếu là con số 5 thì sao?
- Bắt đầu là số 3 người ta đã gọi chúng là một thiên tai! Sam trả lời.
Trong suốt chuyến tham quan Trung tâm, Mary không lúc nào rời mắt khỏi con gái. Khi đi trong một hành lang dài dẫn họ tới phòng điều khiển, Lisa cầm tay cô và thì thầm nói: "Thật không thể tin được."
Sau khi họ ăn tối tại quán cà phê của Trung tâm, Lisa muốn trở lại chỗ các màn hình, xem xem "em bé" phát triển thế nào rồi. Tất cả ê-kíp đã tập trung quanh Hebert, ông bắt đầu nói khi họ vào phòng.
- Quý vị, bây giờ là 0 giờ 10 phút giờ quốc tế (UTC), tức 22 giờ 10 phút giờ địa phương tại Miami. Căn cứ vào những thông tin mà các máy bay của lực lượng không quân Mỹ vừa chuyển về cách đây ít lâu, chúng tôi chính thức xếp hạng cơn áp thấp nhiệt đới số 15 thành bão nhiệt đới, vị trí của nó ở thời điểm hiện tại là 11,8 độ vĩ bắc và 52,7 độ kinh tây, mức áp thấp của nó là 1004 millibars, và tại đó, nó đã di chuyển ở tốc độ hơn 35 hải lý giờ. Tôi yêu cầu các bạn lập tức phát đi thông tin cảnh báo trên toàn bộ khu vực.
Hebert quay sang Lisa, tay chỉ vào các vệt đã chuyển sang màu đỏ, dần dần càng lúc càng nổi bật trên màn hình lớn gắn ở chính giữa bức tường trung tâm.
- Lisa, cháu vừa tham dự vào một lễ đặt tên của một thứ vô cùng đặc biệt, ta giới thiệu với cháu Marilyn. Cháu có thể ở đây chứng kiến tất cả những công việc sắp diễn ra, chúng ta sẽ truy lùng nó cho tới khi nó chết hẳn, và ta hi vọng điều đó sẽ đến sớm nhất có thể. Ta đã dành một phòng riêng cho cháu và mẹ cháu nghỉ ngơi khi nào cảm thấy mệt.
Khuya hơn một chút, hai người lui về nghỉ trong căn phòng dành riêng cho họ trong suốt những ngày sau đó. Lisa không nói một lời nào, thỉnh thoảng lại nhìn về phía Mary ánh mắt dò hỏi, Mary thì chỉ mỉm cười.
= 0 =
Ngày hôm sau, ngày 13 tháng Chín năm 1995, sau khi ăn sáng xong, cô bé bước vào trong căn phòng lớn và đến ngồi cạnh Sam. Cô bé cảm thấy rõ những nhân viên làm việc ở đây đối xử với em như thể em là một thành viên trong ê-kíp của họ. Rất nhiều lần mọi người bảo em đi thu thập các báo cáo được in ra từ máy in và đi phân phát chúng; thậm chí sau đó, có lúc em phải đọc to một bản báo cáo trong khi các nhà khí tượng học ghi chép những con số mà em đọc lên. Sau bữa ăn trưa, em đọc thấy nỗi lo lắng hiện rõ trên gương mặt họ.
- Chuyện gì đang xảy ra thế ạ? Em hỏi Sam.
- Cháu hãy nhìn những con số trên màn hình kìa, hiện nay gió đang thổi với tốc độ 60 hải lý giờ, nhưng điều tồi tệ nhất là áp thấp, dấu hiệu không tốt chút nào.
- Cháu không hiểu.
- Áp thấp đang tăng lên, và cơn bão càng bị nén xuống, cơn giận dữ của nó càng tăng lên, chú sợ rằng trong vài giờ nữa thôi, sẽ không phải là một cơn bão nữa, mà là một trận bão lớn!
Lúc 17 giờ 45, Sam gọi điện cho Hebert và đề nghị ông đến chỗ anh ngay lập tức. Ông bước những bước khẩn trương vào phòng và ngay lập tức đi về phía màn hình. Lisa đẩy ghế lùi sang bên cạnh để nhường chỗ cho ông.
- Các máy bay nói gì? Ông hỏi.
Một giọng nói trả lời từ đầu kia của căn phòng
- Họ đã nhận thấy sự hình thành vách của con mắt.
- Vị trí hiện nay là 13 độ vĩ bắc và 57,7 độ kinh tây, nó đang di chuyển lên phía tây bắc, về phía Kênh Các Thánh, nó sẽ đụng phải quần đảo Antilles của Pháp, áp thấp của nó sẽ còn hạ xuống nữa, nó đã hạ xuống 988 millibars và gió đã vượt qua vận tốc 65 hải lý giờ, một nhân viên khí tượng học ngồi đối diện với một chiếc màn hình máy tính nói thêm.
Khi Hebert đi về phía các máy in, cô bé nhìn thấy trên màn hình radar của Sam con số 1 hiện lên và liên tục nhấp nháy, ngay sau loạt ba chữ S. Sau đó là 18 giờ, Marilyn vừa trở thành một cơn bão cấp 1.
Ngồi trên ghế của mình, Mary vừa ghi chép thông tin vào một cuốn sổ tay, vừa liên tục liếc mắt để ý cô con gái. Thỉnh thoảng, cô đặt bút xuống và lo lắng chăm chú theo dõi nét mặt của cô bé. Mỗi phút trôi qua, gương mặt của Lisa lại trở nên căng thẳng. Trong căn phòng rộng lớn, chỉ có tiếng của những chiếc máy phá tan sự im lặng đang bao trùm lên mọi người, không gian trở nên nặng nề không khác gì bầu trời trong cơn giông bão.
Vào nửa đêm, khi Lisa trải qua một cơn ác mộng, Mary đến nằm trong giường cô bé và ôm chặt em vào lòng. Cô thấm mồ hôi trên trán em, ru cho em ngủ bằng cách vuốt ve mái tóc em cho tới khi nét mặt em dãn ra. Cô cầu trời đừng tạo ra điều trái ngược với những gì cô đã hi vọng biết bao khi đưa em đến đây. Cô không tìm lại được giấc ngủ nên cứ thức bên cô bé như vậy cho đến sáng.
Ngay khi vừa tỉnh dậy, Lisa liền trở lại căn phòng, cô bé từ chối không muốn đi cùng Mary đến quán cà phê. Vừa vào phòng, cô bé liền lao đến chỗ Sam. Lúc đó là 7 giờ 45 tại Miami, 11 giờ 45 giờ quốc tế.
- Sáng nay nó thế nào rồi chú? Cô bé hỏi giọng kiên quyết.
- Đang giận dữ, nó đến gần đảo Martinique và đang di chuyển về phía tây bắc, áp thấp vẫn đang tiếp tục hạ xuống.
- Cháu thấy rồi, cô bé đáp cụt ngủn, nó vẫn đang ở cấp độ 1.
- Sẽ chẳng còn lâu đâu, nếu cháu muốn biết ý kiến của chú.
Hebert vừa vào phòng. Ông chào Lisa và xoay ghế của mình hướng về phía màn hình lớn nằm ở trung tâm bức tường.
- Chúng ta sắp nhận được những hình ảnh chuyển về qua vệ tinh do lực lượng Không quân Mỹ quay được. Cháu có thể ra khỏi phòng nếu cháu không muốn nhìn.
- Cháu muốn ở lại!
Giọng nói của người phi công bắt đầu vang lên trong phòng.
- Không quân Mỹ 985 gọi trung tâm điều khiển của NHC.
- Chúng tôi đang nhận tín hiệu, Không quân Mỹ 985, Hebert trả lời vào chiếc micrô đặt trước mặt ông.
- Chúng tôi vừa bay qua phía trên trung tâm của mắt bão, đường kính của nó là 25 dặm, chúng tôi sẽ chuyển các hình ảnh về cho các ông.
Màn hình sáng lên và những bức hình đầu tiên xuất hiện. Lisa nín thở. Và thế là, cô gái bé nhở từng sợ hãi biết bao trước sức mạnh của con quái vật này lần đầu tiên trong đời được nhìn thấy nó từ trên trời. Nó quay cuồng một cách oai hùng, vĩ đại, với một sức mạnh không gì cưỡng lại được, nó lôi theo xung quanh con mắt nó cả cái đuôi đường bệ màu trắng. Trên micrô, người ta có thể nghe thấy tiếng hơi thở của viên phi công. Những ngón tay của Lisa bấm chặt lấy hai thành ghế. Đến lượt Mary bước vào, cô mang theo một ly sô-cô-la nóng. Cô nẩng đầu lên, hai mắt mở to, sững sờ trước những gì cô đang nhìn thấy.
- Lạy chúa, cô nói thì thầm.
- Cái mà cô nhìn thấy trước mắt là quỷ sứ thì đúng hơn, Hebert trả lời.
Lisa lao đến chỗ ông, bám chặt vào cổ tay của công. Mary lập tức đến chỗ con bé và tìm cách làm cho em bình tĩnh lại.
- Bác sẽ tiêu diệt nó chứ? Lisa gào lên.
- Chúng ta không có được quyền lực đó.
- Tại sao những chiếc máy bay không thả cho nó một quả bom vào ngay mắt. Phải làm cho nó nổ tung ra khi nó còn ở trên biển!
Ông gỡ tay ra khỏi cô bé và nắm lấy vai em.
- Điều đó sẽ chẳng giúp được gì, Lisa, chúng ta không có trong tay một sức mạnh nào đủ để chặn đứng nó. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ làm được điều đó, tôi hứa với cháu, chính vì vậy mà tất cả chúng tôi đều làm việc không ngừng nghỉ ở đây. Tôi điều hành trung tâm này từ ba mươi lăm năm nay, tôi đã dành cả đời mình để truy lùng những tên giết người này. Chúng ta đã đạt được rất nhiều tiến bộ từ hơn mười năm nay. Bây giờ cháu phải bình tĩnh lại, tôi cần đến cháu và để có thể làm việc hiệu quả, cháu phải giữ được sự bình tĩnh. Cháu sẽ giúp tôi, chúng ta sẽ báo động cho tất cả cộng đồng dân cư mà cơn bão có thể đến gần, đủ sớm để mọi người có thể đi trú ẩn.
Viên phi công thông báo rằng anh ta đang chuẩn bị xuống gần hơn tâm của mắt bão. Hebert bảo Lisa ngồi xuống bên cạnh ông và cầm lấy micrô. "Hãy thận trọng."
Những hình ảnh đôi khi bị gián đoạn ngày càng trở nên ấn tượng hơn. Những máy quay phim trên chiếc phi cơ quay cảnh vòng mây cuộn khủng khiếp với đường kính gần 35 km, thành cao đến hàng trăm mét. Vài phút sau, viên phi công cắt ngang bầu không khí im lặng và thông báo rằng anh ta sẽ bay trở về căn cứ. Ngay sau đó màn hình tắt ngủm. Lúc đó là 11 giờ sáng. Sam vừa mang đến một tờ báo cáo dài, Hebert cầm lấy đọc liền. Ông đặt tờ giấy xuống và cầm lấy tay Lisa, tay kia bật mở nút micrô.
- Đây là phòng điều khiển của NHC, đây là một lời báo động. Trận bão Marilyn với vị trí hiện nay ở vào 14,2 độ vĩ bắc, 58,8 độ kinh tây đang di chuyển về phía quần đảo Trinh nữ [34] của Mỹ. Trong vòng tối nay, nó sẽ đổ bộ xuống đảo Martinique và quần đảo Guadeloupe. Mọi biện pháp di dời các cộng đồng dân cư đến nơi trú ẩn an toàn phải được thực hiện ngay từ lúc này. Tất cả các con tàu, dù trọng tải bao nhiêu, đang ở trong khu vực quần đảo Antilles của Pháp phải lập tức di chuyển đến các bến cảng gần nhất. Hiện nay gió đang thổi với vận tốc 70 hải lý giờ.
Ông quay về phía Sam và yêu cầu anh so sánh các số liệu có được với những con số của trung tâm nghiên cứu tại đảo Martinique. Sau đó, ông để Lisa ngồi trước một máy truyền tín hiệu, ông soạn một bản tin báo động bằng chứ hoa và chỉ em làm sao để thay đổi tần số radio bằng cách quay cái nút tròn.
- Lisa, ta muốn cháu truyền đoạn tin này đi trên tất cả các tần số radio có trong danh sách này, khi cháu làm đến cuối danh sách, cháu bắt đầu lại từ đầu, và cứ tiếp tục như vậy. Làm như vậy chúng ta có thể ngăn chặn không cho nó tác oai tác quái và cứu được mạng sống của những người dân. Khi nào cháu mệt, mẹ cháu sẽ thay chỗ cho cháu, cháu hiểu chưa?
- Rồi ạ, Lisa trả lời bằng một giọng cả quyết.
Thế là suốt cả thời gian còn lại của ngày, cô bé lặp đi lặp lại mẩu tin báo động mà người ta đã trao cho em. Mary ngồi bên cạnh giúp em xoay cái nút radio, em lại cảm thấy như được thoát khỏi một nỗi ám ảnh, em biết rằng cuối cùng em đã có thể trả được mối thù của em đối với những cơn bão.
Marilyn đi ngang qua đảo Martinique và quần đảo Guadeloupe vào đầu buổi tối. Khi con số 3 hiện lên sau ba chữ S, Lisa từ chối không chịu dừng lại nghỉ ngơi và càng cố gắng truyền tin với tốc độ nhanh hơn nữa. Mary không một phút dời mắt khỏi cô bé, và đồng ý thay chỗ cho em khi em buộc phải rời vị trí trong giây lát.
Mary quay đầu về phía Hebert, đôi mắt đỏ ngầu vì mệt mỏi.
- Làm thế này vất vả quá, các ông không có hệ thống nào để truyền những tin này đi một cách tự động hay sao? Mary hỏi.
- Tất nhiên là có chứ! Vị giáo sư mỉm cười trả lời.
Ba mươi mốt tiếng đồng hồ sau khi tin báo động đầu tiên được truyền đi, trận bão đi ngang qua đảo St. Croix và St. Thomas[35], ngày 16 tháng Chín, nó di chuyển về hướng Puerto Rico. Trước mỗi diễn tiến của trận bão, Lisa lại thay đổi tần số radio, truyền tin báo động đến các vùng ngày càng xa hơn, với tốc độ ngày càng khẩn trương hơn. Ngày 17, trận bão đạt đến mức áp thấp tối đa của nó, 949 millibars, khi đó, những đợt gió di chuyển với tốc độ hơn 100 hải lý giờ, nó quay trở về vùng biển Đại Tây Dương. Vào cuối ngày, những đợt gió đạt giờ và bắt đầu suy giảm khi áp suất tăng thêm 20 millibars. Mười tám giờ sau, thành chính của mắt bão tan rã ngay phía trên đại dương. Marilyn chết trong đêm 21, rạng ngày 22 tháng Chín.
Trở về Newark, Lisa biết được rằng trận bão chỉ cướp đi được mạng sống của tám nạn nhân, năm người tại đảo St. Thomas, một ở đảo St. Croix, một ở đảo St. John và chỉ một người ở Puerto Rico. Khi cô bé trình bày bài thuyết trình của mình ở trường, cô bé đã đưa ra một thỉnh cầu lên giáo viên dạy môn địa lý và yêu cầu của em được chấp nhận ngay lập tức. Mỗi buổi sáng, tất cả các học sinh của lớp em đứng lên dành một phút im lặng mặc niệm..... và như thế trong vòng tám ngày.
Em ở đâu?
Dịch giả: Trần Ngọc Thư
Chương 10
Cứ mỗi kỳ ba tháng, Lisa tiếp tục nhận được bản thông tin đến từ NHC, và bao giờ cũng có vài chứ của giáo sư Hebert đi kèm. Ông sẽ nghỉ hưu vào tháng Bảy. Còn với Sam, cô bé thường xuyên trao đổi thư từ; thậm chí mùa đông năm ngoái, anh còn ghé thăm nhà họ. Trong thời gian lưu lại, anh cho cô bé biết rằng các nhân viên khí tượng học tại Trung tâm thường xuyên hỏi thăm về em. Mùa xuân năm 1996, Mary cho đăng trên tờ Montclair Times bài phóng sự thực hiện một cách xuất sắc của cô về các cơn bão. Ngay lập tức, tờ tạp chí uy tín National Geographic mời cô thực hiện một loạt bài toàn diện về chủ đề này để đăng báo vào tháng Mười.
Cô đã làm việc trong suốt mùa hè, Lisa hỗ trợ cô trong công việc, nhiệm vụ của em là tìm kiếm cho cô tất cả các tài liệu và tổng hợp chúng lại.
Gần như ngày nào cũng vậy, hai người đến Manhattan và sau khi ăn trưa trong mảnh vườn nhỏ của quán Picasso, họ lại đến giam mình trong phòng đọc của Thư viện quốc gia nằm tại đại lộ số 5. Thomas cùng với người bạn thân nhất của cậu đi nghỉ tại một trại hè ở Canada còn Philip thì dành thời gian tu sửa căn hộ nhỏ mà hai vợ chồng mới mua như một khoản đầu tư trong khu East Village, hoặc cũng có thể, dù họ không dám tự thú nhận với mình điều đó, căn hộ là để cho Lisa nếu một ngày kia cô bé quyết định tiếp tục theo học tại trường đại học New York. Được khen ngợi vì chất lượng của loạt bài cô cho đăng tải trên tạp chí National Geographic, đầu năm 1997, Mary được giao phụ trách hai cột báo dành cho các bài thời luận tự do trong tờ báo phát hành vào mỗi Chủ nhật của tờ Montclair Times. Lisa theo bước cô và được giao phụ trách diễn đàn của mình trong tờ nguyệt san của trường trung học. Dần dần, cô bé tự cho phép mình ra đi khỏi chủ đề khí tượng học.
* * *
Lisa tổ chức kỷ niệm sinh nhật lần thứ mười chín của mình vào đầu năm sau đó còn Thomas kỷ niệm sinh nhật lần thứ mười lăm vào ngày 21 tháng Ba. Tháng Sáu đầy ắp các sự kiện. Việc chuẩn bị cho tiệc Prom[36] đã giải thích cho việc cần thiết phải dành nguyên hai ngày đi tìm mua quần áo trong các dãy phố của khi village. Stephen đến đón Lisa tại nhà và khi Philip bắt đầu đưa ra những lời răn dạy của anh, Mary đưa mắt liếc anh một cách đầy khêu gợi và yêu cầu chồng đừng có trở thành ông già sớm thế. Lần đầu tiên, Lisa trở về nhà vào buổi sáng sớm. Tháng này cũng báo hiệu thời điểm kết thúc chương trình học của em tại trường Trung học, và, với chiếc bằng trung học trong túi, emễm bước vào đại học. Em đã trở thành một cô gái xinh đẹp rạng rỡ, miệng của em càng rộng, để nở những nụ cười tự nhiên hơn. Mái tóc dài của em rớt nhẹ xuống làn da nâu, khiến cho sắc đẹp của em càng tỏa sáng, em cảm thấy thực sự khó khăn để giữ được "cân bằng". Từ hình ảnh một cô bé nhỏ xíu đến nơi đây vào một ngày trời mưa hôm nào, nay chỉ còn là một ánh mắt, một ánh sáng dữ dội nơi đáy mắt của em khiến người ta phải bối rối.
Càng đến gần buổi lễ mừng ngày tốt nghiệp của Lisa, Mary càng cảm thấy yếu đuối. Ký ức về một lời hứa được thốt ra vào một ngày tìm lại được nhau cách đây năm năm, nơi một chiếc bàn trong một sân bay, thường xuyên đến khuấy động giấc ngủ của cô, dù rằng không có điều gì trong thái độ của con gái cho thấy có thể cô sẽ phải giữ lời hứa.
* * *
Thomas là người cuối cùng ngồi vào bàn ăn. Lisa đã ăn xong phần bánh kếp [37] của mình và Mary phải vội vàng dọn dẹp trong bếp. Philip nhấn những hồi còi ngắn để mọi người nhanh chóng lên xe. Tiếng máy xe đã bắt đầu kêu ro ro khi chiếc đai lưng cuối cùng được thắt lại. Từ nhà đến trường chưa đầy mười phút, Philip không thấy có lý do gì để phải sốt ruột như thế. Trên đường đi thỉnh thoảng anh lại đưa mắt nhìn trong kính chiếu hậu và ngay lập tức Lisa cũng đáp trả lại cái nhìn của anh. Mary cố gắng tập trung xem chương trình của cả ngày, nhưng rồi cô đành bỏ sang một bên, vừa đi trên xe vừa đọc làm cô cảm thấy buồn nôn. Sau khi đậu xe, họ đi chào hỏi các giáo viên. Philip có vẻ bồn chồn đứng ngồi không yên. Trước khi Lisa tạm rời xa họ để đến chỗ các bạn học cùng khóa, Mary trấn an em, bố vẫn luôn như vậy khi có một buổi lễ nào đó hơi trọng thể một chút. Philip nhất định muốn cả Thomas và Mary đến giành trước hai chỗ trên các bậc ghế ngay phía trước bục, nơi sẽ diễn ra buổi lễ phát bằng. Mary nhướn mày theo cái cách vẫn hay làm của cô, ngón tay gõ gõ lên mặt đồng hồ. Phải một tiếng nữa buổi lễ mới bắt đầu, không có gì phải náo động lên như thế, cô sẽ tranh thủ đi dạo vài vòng trong khuôn viên.
Khi cô trở lại, Philip đã ngồi sẵn ở hàng ghế đầu tiên, anh để hai chiếc giầy của mình lên hai chiếc ghế bên cạnh để giữ chỗ. Mary ngồi xuống và đưa trả cho Philip chiếc giầy moka của anh.
- Để giữ chỗ thì anh có một trí tưởng tượng quá phong phú đấy! Anh có chắc là anh ổn chứ?
- Những buổi lễ làm cho anh cảm thấy bồn chồn, vậy thôi.
- Con bé đã có trong tay tấm bằng rồi, Philip! Lẽ ra anh phải lo lắng như vậy từ trước, khi nó còn đang ôn thể hiện cơ.
- Anh không biết em làm sao để có thể giữ được bình tĩnh như vậy, nhìn xem, nó đã lên đến sân khấu rồi kìa, nó sắp sửa đọc bài diễn văn của mình!
-..... bài diễn văn mà ta đã thuộc lòng từ một tháng nay rồi, và em xin anh đấy, anh đừng có vung tay vung chân liên tục như vậy.
- Anh có vung tay vung chân đâu.
- Có mà, cái ghế của anh đang kêu ken két kìa. Nếu anh muốn lắng nghe con gái mình, ít nhất cũng hãy cố gắng ngồi yên tại chỗ một chút.
Thomas ngắt lời hai người: sau cô gái đang cúi chào sẽ đến lượt của Lisa. Philip chắc chắn là đang căng thẳng, nhưng trên hết anh thấy rất tự hào, anh quay người lại phía sau để đếm số người tham dự buổi lễ. Có mười hai hàng, mỗi hàng ba mươi chiếc ghế, vậy là tất cả có ba trăm sáu mươi khán giả.
* * *
Có phải đã có cái gì đó nhìn không rõ hay chính là cái bản năng muôn đời đã khiến anh quay đầu lại nhìn lần nữa? Tận phía sau cùng của đám cử tọa, ở hàng ghế cuối cùng, có một người phụ nữ chăm chú nhìn Lisa lúc đó đang tiến về phía bục.
Cả chiếc kính râm cô đang đeo, cả chiếc áo choàng nhẹ không tay cô khoác quanh người lẫn những dấu ấn mà thời gian đã để lại trên gương mặt cô, không gì có thể ngăn anh nhận ra Susan.
Mary bấm vào đầu gối anh:
- Trừ phi anh vừa nhìn thấy một bóng ma, nếu anh muốn tham dự vào lễ trao bằng của con gái anh thì quay người lại đi, bởi vì nó sắp bắt đầu bây giờ.
Trong suốt thời gian Lisa chào các thầy cô giáo, bàn tay trái rịn đầy mồ hôi của Philip bắt đầu run lên. Mary nắm lấy bàn tay anh và siết chặt các ngón tay. Khi Lisa phát biểu những lời cảm ơn một cách trang trọng đến bố mẹ vì tình yêu và vì sự kiên nhẫn mà họ đã dành cho em, Mary cảm thấy một nhu cầu cấp bách cần có những chiếc bánh xèo nhân ngọt.
Cô lấy ngón tay khẽ xua đi nỗi xúc động vừa thoáng qua đôi mắt, và buông bàn tay Philip ra.
- Anh làm sao vậy? Cô nói.
- Anh thấy xúc động.
- Anh có nghĩ rằng chúng ta đã là những bậc cha mẹ tốt đối với con bé không? Cô hỏi bằng một giọng nhẹ nhàng.
Anh cố gắng thở bình thường trở lại, và không thể tin rằng mình đã thoáng nhìn thấy Susan khi nãy, chiếc ghế giờ trống không. Anh đưa mắt nhìn xung quanh nhưng không thấy cô ở bất cứ đâu. Mary kéo anh trở lại với Lisa, cô bé đang cúi chào trong tiếng vỗ tay, anh đưa tay lên và vỗ to hết sức có thể.
Anh để ý tìm kiếm xung quanh trong suốt thời gian còn lại của buổi chiều. Mười lần Mary hỏi anh đang tìm gì, cả mười lần anh trả lời rằng anh cảm thấy không khỏe lắm, rằng đó chỉ là trạng thái sau cơn xúc động. Anh dịu dàng xin lỗi, cô cảm thấy rằng tốt nhất nên để anh một mình và dành thời gian chăm sóc cho Thomas và Lisa trong khi cô còn ở đây. Philip đi lang thang trong khuôn viên trường, đôi khi anh đi vòng quanh một thân cây, nói vài câu chào với những người anh gặp, nhưng.....Susan vẫn biệt tăm. Cuối ngày, anh đành tự nhủ rằng có lẽ đó chỉ là một ảo ảnh. Thậm chí không dám tự thú nhận với mình, nhưng anh cầu mong sự thực đúng là như vậy. Đã 17 giờ, cả bốn người cùng đi bộ về phía bãi để xe. Khi đến gần chiếc xe hơi, anh chợt nhìn thấy nó, một mẩu giấy trắng nhỏ xíu gấp làm tư nhét vào giữa hai cánh cửa xe. Trong đó chắc chắn có vài dòng chữ. Chưa gì anh đã cảm thấy nín thở vì hồi hộp mặc dù anh vẫn còn lưỡng lự chưa biết có nên đọc không. Anh giữ kín điều bí mật nắm chặt trong tay trong suốt chặng đường về, còn Mary có vài thứ đồ cần lấy trong cốp xe và để cả nhà đi vào trước.
Khi chỉ còn một mình, anh mở lời nhắn ra, tất cả chỉ gói gọn trong một con số với hai chữ cái phía sau: 7 a.m. Anh bỏ mẩu giấy vào túi và đi về phía nhà.
* * *
Trong suốt bữa tối, thỉnh thoảng Mary nói vài câu ngắn ngủi và miễn cưỡng để phá tan bầu không khí im lặng đang bao trùm, Lisa không hiểu nổi lý do tại sao mọi người lại như vậy. Món tráng miệng còn chưa được dọn ra, Thomas đã tuyên bố rằng cảm thấy cái "không khí tức cười này", nó thà đi lên phòng còn hơn. Lisa hết quay sang nhìn Philip lại đến Mary.
- Bố mẹ làm sao mà cứ giữ mãi cái mặt đưa đám như thế này, hai người cãi nhau à?
- Không hề, Mary trả lời, bố của con đang mệt, chỉ vậy thôi, người ta đâu có bắt buộc lúc nào cũng phải cảm thấy khỏe.
- Thật là một bầu không khí tuyệt vời làm sao ngay trước ngày con đi, Lisa nói tiếp, thôi con đi đây, con lên phòng xếp đồ, sau đó con sẽ đi dự tiệc của Cindy.
- Chuyến bay của con khởi hành vào lúc 6 giờ tối mai, con còn có thời gian chuẩn bị vào ngày mai, soạn vali bây giờ quần áo của con sẽ bị nhàu hết, Philip trả lời.
- Những vết nhăn tự nhiên nhìn mới đẹp. Bố mẹ thích những bộ quần áo kỹ càng, sạch sẽ chỉnh chu thì cứ việc. Mà thôi con đi đây.
Em leo lên cầu thang và vào phòng của cậu em trai.
- Họ bị làm sao thế nhỉ?
- Thế theo chị thì làm sao, Lisa? Đó là bởi vì ngày mai chị đi. Suốt cả tuần nay mẹ cứ lòng vòng quanh nhà. Ngày hôm kia, mẹ vào phòng chị ít nhất là năm lần, lúc thì để chỉnh lại mấy cái rèm cho thẳng, lần khác thì để sắp lại mấy cuốn sách trên giá, lần thứ ba thì để kéo lại tấm trải giường. Em đi ngang qua hành lang và em nhìn thấy mẹ cầm cái gối của chị trong tay và áp lên mặt mình!
- Nhưng chị chỉ đi Canada có hai tháng thôi mà; đến ngày chị ra ở riêng thì sẽ còn thế nào đây!
- Em mới là người chỉ còn một mình khi chị đi, mùa hè này em sẽ nhớ chị lắm.
- Chị sẽ viết thư cho em, cưng ạ, và hơn nữa, hè năm sau em sẽ đăng ký vào trại hè của chị, và như thế, chúng ta cùng đi nghỉ hè với nhau.
Để chị làm người phụ trách của em à, không đời nào! Đi đi, sắp vali của chị đi, đồ hèn!
= 0 =
Suốt hơn mười lăm phút, Philip lau đi lau lại mãi một cái đĩa. Mary vừa dọn xong chỗ bát đĩa trên bàn, cô quay sang nhìn anh. Cô nhướn lông mày theo cái cách không ai bắc chước được của cô. Anh không phản ứng gì.
- Philip, anh có muốn chúng ta nói về chuyện đó không?
- Em không cần phải lo lắng đâu, anh giật mình trả lời, tất cả mọi thứ sẽ diễn ra tốt đẹp với con bé ở Canada.
- Em không nói về chuyện đó, Philip.
- Vậy em nói về chuyện gì?
- Về cái đã khiến anh rơi vào tâm trạng như thế này trong suốt buổi lễ.
Anh đặt cái đĩa trên tay xuống bồn rửa, đến gần cô và bảo cô ngồi xuống.
- Mary, có điều này anh muốn nói với em, điều mà lẽ ra anh đã phải nói với em từ lâu.
Cô nhìn anh lo lắng.
- Hãy cẩn thận với mấy cái tiết lộ chết người của anh! Anh muốn nói với em chuyện gì?
Anh nhìn thẳng vào mắt cô và vuốt ve gương mặt cô. Cô đoán được nỗi xúc động trong ánh mắt anh, và, bởi vì anh đột nhiên im lặng, như thể những từ ngữ mà anh muốn nói ra đã bị vùi sâu trong cổ họng anh, cô lặp lại câu hỏi:
- Anh đang muốn nói gì với em?
- Mary, từ cái ngày mà Lisa đến trong cuộc đời của chúng ta, mỗi buổi sáng khi thức dậy, mỗi hơi thở của em khi anh ngắm nhìn em ngủ, mỗi khi ánh mắt của em bắt gặp ánh mắt của anh hoặc mỗi khi tay em nằm trong lòng bàn tay anh như lúc này, anh đã hiểu tại sao anh yêu em và yêu em đến nhường nào. Với tất cả sức mạnh mà em đã cho anh, với những cuộc chiến của tất cả sức mạnh mà em đã cho anh, với những cuộc chiến của em, với những nụ cười của em, với tất cả những nghi ngờ mà em đã vượt qua, với tất cả những nỗi hoài người của anh mà em đã xóa sạch bằng sự tin tưởng của em, với sự chia sẻ của em, sự nhẫn nại của em, và rồi với tất cả những ngày tháng mà chúng ta đã cùng sống bên nhau, ngày qua ngày, em đã tạo ra cho anh món quà đẹp nhất trên đời: bao nhiêu người đàn ông có được cái may mắn tuyệt vời khi có thể yêu và được yêu đến như thế?
Cô tựa đầu vào ngực anh, như để nghe rõ hơn nhịp tim của con tim anh, hay cũng có thể cô đã chờ đợi từ quá lâu để được nghe những từ này.
Cô vòng tay ôm lấy cổ anh:
- Philip, anh phải đi đến đó, em thì em không thể, em cũng không nên, anh sẽ giải thích cho cô ấy biết.
- Đi đâu?
- Anh biết rất rõ điều đó. Lisa trông rất giống cô ấy, nhìn là thấy ngay! Và em cũng đoán được cô ấy đã hẹn anh ở đâu trong cái mẩu giấy mà anh giấu trong tay trên suốt đường về.
- Anh sẽ không đi.
- Có chứ, anh sẽ đi, không phải vì anh mà vì Lisa.
Khuya hôm đó, khi đã ở trong phòng, họ nói chuyện với nhau rất lâu, nằm ép sát trong vòng tay của nhau, của hai người, của Thomas và của Lisa.
= 0 =
Họ không thực sự ngủ được. Họ ra khỏi giường vào lúc bình minh. Mary đi ngay xuống bếp vội vã chuẩn bị bữa sáng. Philip mặc quần áo rồi vào phòng của Lisa. Anh đến bên giường của cô bé và đưa tay vuốt ve má em để đánh thức em dậy từ từ. Em mở mắt và mỉm cười.
- Mấy giờ rồi bố?
- Nhanh lên cún con của bố, con thay đồ đi rồi xuống dưới kia với bố mẹ.
Cô bé nhìn đồng hồ báo thức rồi ngay lập tức nhắm mắt lại.
- Đến 6 giờ tối máy bay của con mới khởi hành mà! Bố ơi, con chỉ đi hai tháng thôi, cả hai người phải bình tĩnh lại đi. Bây giờ con ngủ tiếp được chưa?
- Có thể con sẽ bay một chuyến bay khác. Dậy đi trái tim bé bỏng của bố và đừng để mất thời gian nữa, chúng ta sẽ không có nhiều thời gian đâu. Trên đường đi bố sẽ giải thích tất cả với con.
Anh hôn lên trán cô bé, cầm lấy cái túi vải để trên bàn và đi ra khỏi phòng. Lisa đưa hai bàn tay lên xoa mặt, cô bé ra khỏi giường, xỏ cái quần âu, trùm chiếc áo sơ-mi qua vai và vội vã cột dây giầy. Vài giây sau em đi xuống dưới nhà, đôi mắt còn ngái ngủ. Philip đã đợi sẵn trước thềm cửa, anh nói với con gái rằng anh ra xe trước và khép cửa lại sau lưng.
Mary ra khỏi bếp, đứng cách em vài mét.
- Mẹ đã chuẩn bị bữa sáng, nhưng mẹ nghĩ rằng hai bố con không còn đủ thời gian.
- Nhưng chuyện gì đang xảy ra vậy, Lisa lo lắng hỏi, tại sao con lại phải đi sớm thế?
- Bố con sẽ nói tất cả với con khi con ở trong xe hơi.
- Nhưng...... con còn chưa chào Thomas mà.
- Nó đang ngủ, con đừng lo, mẹ sẽ nói với nó cho. Con sẽ viết thư cho mẹ, đúng không?
- Hai người đang giấu con điều gì vậy?
Mary đến gần và ôm chặt Lisa trong tay đến nghẹt thở, cô áp môi vào tai em.
- Mẹ không thể thực hiện trọn vẹn lời hứa, nhưng mẹ đã làm hết sức của mình.
- Nhưng mẹ đang nói về điều gì vậy?
- Lisa, dù con có làm gì, mỗi bước đi trong cuộc đời con, đừng bao giờ quên mẹ yêu con đến nhường nào.
Cô buông em ra, mở cửa dịu dàng đẩy em về phía Philip, bố nuôi đang đứng chờ em dưới hàng hiên. Lưỡng lự và lo lắng, Lisa đứng bất động trong vài giây, chăm chăm nhìn Mary, cố gắng hiểu nguồn cơn của nỗi đau đớn mà em đọc thấy trong mắt mẹ. Bố đến bên quàng vai kéo em đi.
Sáng hôm đó trời mưa. Cánh tay Philip đang vung vẩy được nối với một bàn tay giờ đã lớn lên, và đang bám chặt vào tay anh. Chiếc túi vải mà cô bé nắm chặt ở tay bên kia giờ đã nặng hơn nhiều.
Trong khung cảnh đó, Mary đã nhìn cô bé ra đi, trong một ánh sáng mờ nhạt nơi mà thời gian dường như ngừng lại. Mái tóc đen rối bời rớt nhẹ xuống bờ vai cô bé, nước mưa chảy dài trên làn da với nước da lai ngăm đen của em. Bây giờ trông em có vẻ thoải mái với bộ quần áo đang mặc. Họ bước những bước chậm rãi theo lối đi. Đứng dưới hàng hiên, Mary định nói thêm một điều gì đó, nhưng cũng chẳng để làm gì nữa. Cánh cửa xe đóng lại, Lisa vẫy tay chào cô lần cuối và họ biến mất sau góc phố.
= 0 =
Trên đường đi, Lisa không ngừng gặng hỏi Philip, nhưng bố không trả lời bất cứ câu hỏi nào của em, bởi vì không tìm ra từ chính xác để diễn đạt. Họ đi vào con đường nhỏ dẫn đến các khu vực nhà ga sân bay khác nhau, và bố đi chậm lại. Lisa ngày càng cảm thấy cái cảm xúc hỗn độn, xen lẫn giữa nỗi sợ hãi và sự tức giận này lớn dần lên trong lòng. Em quyết định không xuống xe chừng nào Philip còn chưa nói cho em biết lý do của sự ra đi vội vàng này.
- Bố mẹ bị làm sao vậy? Việc con đi Canada làm cho cả bố lẫn mẹ rối trí đến mức đó sao? Bố, cuối cùng thì bố cũng cho con biết chuyện gì đang xảy ra đi chứ?
- Bố sẽ để con xuống trước cửa nhà ga và sẽ lái xe ra đậu ngoài bãi.
- Tại sao mẹ Mary không đi cùng với chúng ta?
Philip dừng xe lại bên lề đường. Anh nhìn sâu vào mắt con gái, cầm lấy hai bàn tay của cô bé.
- Lisa, hãy nghe bố nói đây, khi vào đến nhà ga, con sẽ đi lên chiếc cầu thang cuốn nằm bên tay phải, sau đó con sẽ đi dọc theo hành lang và con sẽ vào trong quán bar.....
Nét mặt của cô gái trẻ căng ra; nhìn vẻ mặt nghiêm trọng của người cha, Lisa hiểu rằng một tấm màn quá khứ không ngờ tới đang được vén lên.
-..... Con sẽ đi tới tận cuối căn phòng. Tại chiếc bàn nằm sát bên cửa kính, có một người đang chờ con.
Đôi môi của Lisa bắt đầu run lên, rồi cả người cô bé rung chuyển dưới một cơn xúc động không kìm lại được, cô bé òa lên khóc nức nở, đôi mắt em đầy tràn một dòng lũ nước mắt, cả đôi mắt của Philip cũng vậy.
- Con còn nhớ chiếc cầu trượt cũ màu đỏ không? Anh nói giọng đầy xúc động.
- Bố mẹ không thể làm như vậy với con được, bố, hãy nói với con là điều đó không đúng đi!
Và, không đợi câu trả lời, cô bé cầm lấy túi để ở băng ghế sau và lao ra khỏi xe, sập mạnh cánh cửa phía sau.
= 0 =
Sân bay Newark. Chiếc taxi vừa thả Lisa xuống bên vỉa hè và nhanh chóng lẫn vào đám đông xe cộ hỗn độn đang di chuyển xung quanh những vệ tinh của chúng. Qua làn nước mắt, em nhìn theo chiếc taxi đang mất hút đằng xa. Chiếc balo vải màu xanh lá cây kếch xù đặt dưới chân nặng gần như hơn cả trọng lượng người em. Em nhăn mặt và cố sức giữ nó trên vai. Em lau khô nước mắt, bước qua cánh cửa tự động của nhà ga số 1, chạy băng qua khu tiền sảnh. Bên tay phải của em là chiếc cầu thang cuốn dẫn lên đến tầng 1. Dù chiếc túi đang đè nặng trên lưng, em chạy rất nhanh lên các bậc thang và bước những bước cả quyết dọc theo hành lang. Em đứng bất động phía trước cánh cửa của một quán bar đang ngập chìm trong một ánh sáng màu vàng cam và nhìn qua cửa kính. Vào giờ này buổi sáng, không có ai ngồi gần quầy bar cả. Kết quả những trận đấu thể thao chạy trên màn hình tivi treo phía trên đầu người phục vụ quầy bar đã luống tuổi, ông đang đứng lau ly tách. Đẩy cánh cửa gỗ trang trí kiểu mắt bò với những ô rộng, em bước vào, đưa mắt nhìn về phía cuối những dãy bàn màu xanh đỏ.
Và em đã nhìn thấy Susan, cô ngồi tận cuối phòng, xoay lưng về phía khung cửa kính nhìn xuống phía khu vực máy bay đậu. Một tờ báo gấp lại để trên bàn, Susan đang tựa cằm lên bàn tay phải, tay trái hờ hững mân mê chiếc mặt dây chuyền đeo trên cổ. Em vẫn chưa nhìn được rõ đôi mắt cô, nhưng dường như đôi mắt ấy đang mất hút phía xa trên con đường rải nhựa có những vạch màu vàng, nơi những chiếc máy bay đang lăn bánh. Susan quay người lại, cô đưa tay lên che miệng, như thể để ngăn lại cảm xúc đang trào dâng trong một tiếng thì thầm "Chúa ơi". Cô đứng dậy. Lisa lưỡng lự, bước dọc theo lối đi bên trái, tiến lại gần phía cô, vẫn giữ cho những bước chân đi rất nhẹ. Hai người đứng đối diện ngắm nhìn nhau, đôi mắt đỏ lên, không biết phải nói gì với nhau. Susan nhìn thấy chiếc túi to mà Lisa mang theo. Nó giống hệt chiếc túi cô đang để dưới bàn. Thế là cô mỉm cười.
- Trông con đẹp quá!
Đứng bất động và im lặng, Lisa nhìn cô đăm đăm. Rồi em ngồi xuống bàn, mắt vẫn không rời khỏi cô. Susan chầm chậm làm theo. Cô muốn vuốt ve má của con gái nhưng Lisa đột ngột lùi lại.
- Đừng đụng vào con!
- Lisa, giá mà con có thể hiểu được mẹ đã nhớ con đến thế nào.
- Còn mẹ, liệu mẹ có biết được rằng cái chết của mẹ đã khiến cho cuộc sống của con chìm trong những cơn ác mộng không?
- Con phải để cho mẹ giải thích.
- Có cái gì có thể giải thích được điều mẹ đã làm với con? Nhưng mẹ, có lẽ mẹ có thể giải thích cho con biết con đã làm gì với mẹ để mẹ quên con như thế?
- Mẹ chưa bao giờ quên con, không phải tại con, Lisa ạ, tại mẹ, tại tình yêu của mẹ dành cho con.
- Bỏ rơi con như vậy là cách mà mẹ định nghĩa tình yêu đấy ư?
- Con không có quyền phán xét mẹ trước khi tìm hiểu mọi chuyện, Lisa.
- Bởi vì mẹ, mẹ thì có quyền lừa dối như vậy sao?
- Ít ra con cũng phải nghe mẹ nói đã, Lisa!
- Nhưng còn mẹ, mẹ có nghe tiếng con gọi ban đêm, khi còn chìm trong những cơn ác mộng không?
- Có, mẹ nghĩ là có.
- Vậy tại sao mẹ không đến tìm con?
- Bởi vì lúc đó đã quá muộn rồi.
- Quá muộn để làm gì kia? Có tồn tại từ "quá muộn" giữa một người mẹ và con gái của mình ư?
- Lisa, bây giờ, chỉ có con mới quyết định được điều đó.
- Mẹ đã chết rồi.
- Đừng nói như vậy nữa, mẹ xin con đấy.
- Nhưng đó lại là câu nói đã in sâu trong đầu con, đó là câu nói đầu tiên khi con đặt chân lên nước Mỹ.
- Nếu con nhất định như vậy, mẹ sẽ đi khỏi đây, nhưng dù con có muốn hay không, mẹ vẫn sẽ mãi mãi yêu con.....
- Con cấm mẹ nói điều đó với con ngày hôm nay. Như vậy quá dễ dàng. Nếu đã vậy, nào "mẹ", hãy nói đi, hãy nói cho con rằng đã nhầm đi, hãy nói cho con biết tại sao đi. Và con xin mẹ, hãy cố gắng nói thật thuyết phục.
- Trại của mẹ đã nhận được thông báo có bão nhiệt đới. Với một cô bé ở tuổi con, việc ở lại trên núi là quá nguy hiểm. Con có nhớ không, mẹ đã kể với con rằng một lần, mẹ đã suýt bỏ mạng ở đó trong một trận bão? Vì thế, mẹ đã xuống thung lũng gửi con lại cho ê-kíp đóng tại trại Sula, để con được an toàn. Mẹ không thể để những người dân trong làng một mình.
- Nhưng còn con thì mẹ có thể!
- Nhưng con đâu có một mình!
Lisa bắt đầu gào lên.
- Có chứ! Không có mẹ con còn đơn độc hơn cả một mình, con đau đớn, trái tim con như muốn nổ tung trong lồng ngực, như trong những cơn ác mộng tồi tệ nhất.
- Con gái bé bỏng của mẹ, mẹ đã ôm con trong lòng, hôn con, rồi mẹ trở lại lên núi. Nửa đêm, Rolando đến đánh thức mẹ dậy. Mưa đang trút xuống như thác và những ngôi nhà bắt đầu lung lay. Con có nhớ ông Rolando Alvarez, người trưởng làng không?
- Con còn nhớ mùi của đất, của từng gốc cây, nhớ màu sơn của tất cả các ngôi nhà, bởi vì một mảnh nhỏ nhất của ký ức này cũng là tất cả những gì sót lại về mẹ mà con còn giữ được, mẹ có hiểu được điều đó không, nó có giúp mẹ hình dung được cái khoảng trống mà mẹ đã để lại cho con lớn đến chừng nào không?
- Mẹ và mọi người đã đưa dân làng lên tận đỉnh núi, dưới trời mưa như trút. Trên đường đi, trong đêm tối, Rolando đã trượt chân xuống vách núi, mẹ đã lao theo, nằm ra đất để giữ ông ấy lại, và mẹ đã trật mắt cá chân. Ông ấy đã bám được vào mẹ, nhưng trọng lượng của ông ấy quá nặng.
- Con cũng thế, con cũng quá nặng đối với mẹ phải không? Giá mẹ có thể biết được vì điều đó mà con ghét mẹ đến mức nào!
- Trong ánh sáng của một tia chớp, mẹ đã nhìn thấy ông ấy mỉm cười, "Hãy chăm sóc cho họ, Doňa, tôi trông cậy vào cô" là những từ cuối cùng ông ấy nói. Ông ấy đã buông tay mẹ ra để không kéo mẹ xuống vực cùng với ông ấy.
- Ông Alvarez tuyệt vời của mẹ đã không yêu cầu mẹ chăm sóc, dù chỉ một chút xíu thôi, cho đứa con gái ruột của mẹ trong giờ phút tận tụy tột cùng đó, để nó cũng có thể trông cậy chút ít vào mẹ sao?
Susan đột ngột cao giọng.
- Ông ấy giống như cha của mẹ, Lisa, giống như người cha mà cuộc sống đã lấy đi của mẹ!
- Mẹ mà cũng dám nói với con những điều như vậy sao? Mẹ thật quá tự tin! Mẹ đã bắt con phải trả cái giá cho tuổi thơ của mẹ. Nhưng mẹ ơi, con đã làm gì với mẹ cơ chứ? Ngoài việc yêu mẹ ra, hãy nói cho con biết đi, chúa ơi, con đã làm gì mẹ?
- Sáng sớm khi tỉnh dậy, cả con đường đã biến mất cùng một bên triền núi. Mẹ đã sống sót sau suốt hai tuần không có bất kỳ một liên lạc nào với thế giới bên ngoài. Những mảnh đổ vỡ gãy nát mà dòng thác bùn cuốn xuống tần dưới thung lũng khiến cho chính quyền nghĩ rằng tất cả mọi người đã chết và họ không phái bất kỳ một lực lượng cứu hộ nào đi tìm kiếm. Mẹ đã chăm sóc cho tất cả những con người từng gắn bó với tuổi thơ của con, mẹ đã phải xoay sở trong tình trạng nguy ngập, để chăm sóc những người bị thương, những phụ nữ, những trẻ em sắp kiệt sức, cần được giúp đỡ để sống sót.
- Nhưng không bao giờ mẹ còn chăm sóc đứa con gái nhỏ của mẹ nữa, nó chỉ biết chờ đợi mẹ dưới thung lũng trong nỗi kinh hoàng sợ hãi.
- Ngay khi mẹ có thể trở xuống thung lũng, lập tức mẹ đã đi tìm con, mẹ đã phải mất năm ngày để tới nơi. Cuối cùng, khi mẹ đến được trại thì con đã đi mất. Mẹ đã để lại những yêu cầu rất rõ ràng cho vợ của Thomas, người điều hành phòng khám bệnh ở Ceïba. Nếu có chuyện gì xảy ra với mẹ, họ sẽ phải đưa con đến chỗ Philip. Khi tới nơi, mẹ đã được biết rằng con vẫn ở Tegucigalpa, và tối hôm đó con mới bay đi Miami.
- Tại sao mẹ không đi tìm con? Lisa hét lên, còn dữ dội hơn lúc nãy.
- Có, mẹ có đi! Ngay lập tức mẹ đã nhảy lên một chiếc xe khách. Và rồi, trên đường, mẹ đã nghĩ đến chuyến đi mà con sắp trải qua, đến điểm đích của nó, đến định mệnh, Lisa ạ. Con sẽ bay về phía một ngôi nhà, nơi đó, hứa hẹn một tương lai thực sự. Số phận đã bắt mẹ phải lựa chọn ngay tức khắc vì con. Bởi vì, dù mẹ không cố tình gây ra điều đó, con đang trên đường đi đến một tuổi thơ khác, nơi mà xung quanh con sẽ không còn là cảnh vật của sự chết chóc, của cô đơn và thống khổ.
- Sự thống khổ đối với con, đó là khi mẹ của con không còn ở đó để ôm con vào lòng khi con cần đến mẹ; sự cô đơn, mẹ không bao giờ có thể hiểu được cảm giác đơn độc mà con đã phải trải qua trong suốt những năm đầu tiên không có mẹ; cái chết, đó là nỗi sợ quên mất mùi của mẹ; mỗi khi trời mưa xuống, con trốn ra khỏi nhà để mang về một ít đất ẩm ướt và ngửi hít nó, để tự nhắc mình nhớ những mùi hương của "nơi đó", con đã rất sợ rằng mình quên mất mùi của mẹ.
- Mẹ đã để con đi, để con được sống một cuộc sống mới với một gia đình thực sự, trong một thành phố nơi mà một cơn đau ruột thừa không còn là nguy cơ đe dọa cướp đi mạng sống của con bởi vì bệnh viện ở quá xa, nơi mà con có thể học từ những cuốn sách, nơi mà con được mặc những thứ khác chứ không phải là những chiếc quần và víu lại để có thể nới rộng ra khi con càng ngày càng lớn lên, nơi có câu trả lời cho tất cả những câu hỏi mà con đã hỏi mẹ, nơi mà con không còn phải sợ tiếng mưa rơi mỗi buổi đêm, và mẹ không còn phải sợ rằng một trận bão sẽ mang con đi mãi mãi.
- Nhưng mẹ đã quên mất nỗi sợ lớn nhất trong tất cả những nỗi sợ đó, nỗi sợ không có mẹ. Lúc đó con mới có chín tuổi, mẹ ơi! Biết bao lần con đã tự cắn vào lưỡi mình.
- Đó là sự may mắn của con chứ không phải của mẹ, con yêu. Điều duy nhất khiến mẹ ân hận, đó là đã để lại phía sau con hình ảnh một người mẹ chưa bao giờ thực sự có thể, hay thực sự biết làm mẹ.
- Mẹ sợ khi phải yêu con đến thế sao?
- Giá mà con có thể biết được sự lựa chọn đó khó khăn như thế nào.
- Cho mẹ hay cho con?
Susan lùi lại để nhìn Lisa, trên gương mặt em, sự giận dữ đang chuyển dần thành nỗi buồn. Cơn mưa đã lẩn vào đầu em đang tuôn chảy ào ạt trên hai gò má.
- Cho cả hai chúng ta, mẹ nghĩ vậy. Sau này con sẽ hiểu, Lisa ạ, khi nhìn thấy con trên chiếc bục trang trọng đó, thật xinh đẹp trong chiếc áo của buổi lễ tốt nghiệp, nhìn thấy những người mà từ nay đã trở thành gia đình của con ngồi ở hàng ghế đầu tiên, mẹ đã hiểu rằng, đối với mẹ, sự bình yên và nỗi buồn có thể rất gần nhau, ít nhất là trong khoảnh khắc của câu trả lời mà cuối cùng mẹ đã tìm ra.
- Bố và mẹ Mary có biết mẹ còn sống không?
- Không, cho đến tận hôm qua. Lẽ ra mẹ không nên tới, có lẽ mẹ không còn cái quyền đó nữa, nhưng mẹ vẫn ở đó, như mỗi năm mẹ vẫn đến, đứng phía sau hàng rào sân trường để nhìn con, chỉ vài phút thôi, dù rằng chẳng bao giờ con biết điều đó, chỉ để thấy con.
- Còn con, con đã không có cái đặc ân được biết mẹ đang còn sống, ít ra chỉ trong vài giây thôi. Mẹ đã làm gì với cuộc sống đó hả mẹ?
- Mẹ không có gì phải tiếc, Lisa, cuộc sống đó đã không dễ dàng chút nào, nhưng mẹ đã sống với nó và mẹ tự hào về điều đó. Cuộc sống của con sẽ khác. Mẹ đã phạm một số sai lầm, nhưng mẹ chấp nhận chúng.
Người phục vụ quầy bar gốc Mê-hi-cô đến đặt trước mặt Susan một ly đựng hai viên kem phủ sô-cô-la nóng với những lát hạnh nhân, trên cùng rưới một lớp caramel lỏng.
- Mẹ đã gọi ly kem này trước khi con đến. Con nếm thử xem, Susan nói, đây là món tráng miệng tuyệt vời nhất trên đời!
- Con không đói.
= 0 =
Trong tiền sảnh của khu nhà ga, Philip không ngừng bước tới bước lui. Nỗi lo lắng gặm nhấm anh, thỉnh thoảng anh bước ra ngoài vỉa hè, nhưng vẫn đứng trong trục ngắm của những cánh cửa tự động. Người ướt sũng nước mưa, anh trở lại bên chiếc cầu thang cuốn, bước tới bước lui trên những bậc thang đầu tiên, những bước chân vòng vòng của một người đã mất hết kiên nhẫn.
= 0 =
Susan và Lisa bắt đầu hiểu nhau hơn. Họ cứ tiếp tục trò chuyện miên man về quá khứ, thỉnh thoảng lại không thể tránh nổi những lời chỉ trích. Họ cứ ngồi như vậy rất lâu, trong một không gian vượt ra ngoài thời gian, nơi mà những nỗi đau của Susan và của Lisa dường như cùng tan ra trong một niềm hi vọng mà không ai dám thú nhận, rằng mọi chuyện có thể chưa quá muộn. Susan gọi thêm một ly kem nữa, cuối cùng Lisa cũng chịu nếm thử.
- Mẹ muốn con cùng đi với mẹ à? Có phải vì thế mà người ta đã đưa con tới đây?
- Người mẹ hẹn hôm nay là Philip!
- Thế theo mẹ, con phải làm gì bây giờ?
- Giống như mẹ khi ở tuổi con, những quyết định riêng của mình!
- Mẹ có nhớ con không?
- Mỗi ngày.
- Cả bố nữa, me cũng nhớ bố chứ?
- Đó là chuyện của mẹ.
- Mẹ muốn biết bố có nhớ mẹ không, đúng không?
- Đó là chuyện của người ấy.
Susan cởi sợi dây chuyền đeo quanh cổ và đưa cho Lisa.
Lisa ngắm sợi dây chuyền và nhẹ nhàng đưa tay khép các ngón tay của mẹ mình lại.
- Chiếc mặt dây chuyền này đã bảo vệ mẹ từ bấy lâu nay, còn con, con sống ở đây, con đã có gia đình che chở cho con rồi.
- Dù sao con cũng nhận đi, mẹ sẽ rất vui.
Trong cảm xúc của một tình yêu vô bờ bến, Susan nhào về phía Lisa và ôm em trong lòng. Trong vòng tay siết chặt ngọt ngào, cô thì thầm vào tai em: "Mẹ tự hào về con biết bao." Gương mặt Lisa sáng lên một nụ cười mong manh.
- Con đã có bạn trai. Có thể năm sau bọn con sẽ cũng đến ở Manhattan, gần trường đại học.
- Lisa, dù lựa chọn của con là thế nào, mẹ sẽ mãi mãi yêu con, theo cách riêng của mẹ, dù có thể đó không phải là cách của một bà mẹ.
Lisa đặt tay mình lên bàn tay mẹ và, với một nụ cười trìu mến không thể cưỡng lại trên môi, em đã nói với mẹ rằng:
- Mẹ có biết điều mâu thuẫn của con là gì không? Có thể con đã không phải là con gái của mẹ, nhưng mẹ sẽ mãi mãi là mẹ của con.
Họ hứa với nhau ít nhất sẽ thử thỉnh thoảng viết thư cho nhau. Thậm chí, có thể vào một ngày đẹp trời, nếu Lisa muốn, em sẽ đến thăm Susan. Rồi em đứng lên, đi vòng qua bàn và vòng tay ôm lấy mẹ. Em vùi đầu vai mẹ và hít thở mùi hương của một loại xà phòng làm thức dậy trong em bao kỷ niệm.
- Bây giờ con phải đi đây, con sẽ bay đi Canada, Lisa nói. Mẹ có muốn xuống với con không?
- Không, người ấy đã không muốn lên, và mẹ nghĩ như vậy lại hay hơn.
- Mẹ có muốn con nói với bố điều gì không?
- Không, Susan trả lời.
Lisa đứng lên và đi về phía lối ra. Khi em đến gần cửa, Susan gọi với theo:
- Con để quên sợi dây chuyền trên bàn!
Lisa quay người lại và mỉm cười:
- Không, con chắc chắn là mình không quên gì hết, mẹ ạ.
Rồi cánh cửa ô kính lớn đóng lại sau lưng em.
* * *
Thời gian mất dần mốc quy chiếu của nó, còn Philip thì mất dần sự bình tĩnh. Một cảm giác hoảng hốt khi anh không còn kiên nhẫn được nữa, anh lao lên chiếc thang cuốn. Anh gặp con gái ngay tại nơi hai chiếc thang đi ngược chiều gặp nhau, anh đang đi lên, cô bé đi xuống, nó mỉm cười nhìn anh.
- Con sẽ đợi bố dưới kia hay là bố đợi con trên đó? Lisa hỏi, giọng cô bé nói sát bên tai anh.
- Con đừng đi đâu đấy, bố đi một vòng, bố quay lại ngay lập tức.
- Con có đi đâu đâu, bố đi đấy chứ!
- Chờ ba dưới kia, thế thôi! Bố đến liền!
Trái tim anh bắt đầu đập nhanh hơn, anh đẩy vài người đi xung quanh ra để lấy lối đi. Cái thang cuốn chuyển động chậm chạp vẫn còn khiến cho họ ở xa nhau. Ở nơi mà những bậc thang duỗi phẳng ra và biến mất dưới lớp chắn, anh ngẩng đầu lên. Anh đang đứng đối diện với Susan, ngay bậc nghỉ của cầu thang.
- Em đã để anh chờ phải không? Cô hỏi, một nụ cười đầy xúc động trên môi.
- Không.
- Anh đến đây lâu chưa?
- Anh cũng chẳng biết nữa.
- Anh đã già đi, Philip ạ.
- Thật là tử tế, cảm ơn em.
- Không, em thấy anh rất đẹp.
- Em cũng vậy.
- Em biết, em cũng vậy, em đã già đi, điều đó không thể tránh khỏi.
- Không, anh muốn nói rằng em cũng vậy, em rất đẹp.
- Lisa mới thật là tuyệt vời.
- Ừ, đúng vậy.
- Cảm giác thật lạ khi chúng ta gặp lại nhau ở đây, Susan nói.
Philip nhìn về phía quầy bar, ánh mắt lo lắng.
- Em có muốn....
- Em không nghĩ rằng đó là một ý kiến hay đâu. Hơn nữa, e là bàn đã có người khác ngồi rồi, cô nói tiếp, trên môi cô lại nở một nụ cười nữa.
- Làm sao mà mọi chuyện lại như thế này, Susan?
- Có thể Lisa sẽ giải thích với anh, hoặc có thể không! Em rất tiếc, Philip.
- Không, em không hề tiếc!
- Đúng thế, có thể anh nói đúng. Nhưng thực sự, em không hề muốn anh nhìn thấy em ngày hôm qua.
- Giống như trong ngày cưới của anh phải không?
- Anh biết là em đã đến ư?
- Ngay từ giây phút đầu tiên em đặt chân vào nhà thờ, anh đã đếm từng bước chân em khi em đi lùi lại phía sau.
- Philip, chưa bao giờ có một lời nói dối nào tồn tại giữa chúng ta.
- Anh biết, chỉ có vài lý do và vài cái cớ đôi khi lẫn lộn với nhau.
- Lần cuối cùng chúng ta gặp nhau ở đây, cái điều quan trọng mà em muốn nói với anh trong thư - cô hít một hơi thật dài - điều mà ngày hôm ấy em đến để nói với anh, đó là em có thai Lisa và....
Tiếng loa phóng thanh vang lên cắt ngang phần cuối câu nói của cô.
- Và sao? Anh hỏi tiếp.
Cô nhân viên hãng hàng không thông báo lần cuối cùng yêu cầu hành khách đi Miami làm thủ tục lên máy bay.
- Đó là chuyến bay của em, Susan nói, "Last Call"...Anh nhớ không?
Philip nhắm mắt lại. Bàn tay Susan chạm nhẹ lên má anh.
- Anh vẫn giữ nụ cười kiểu Charlie Brown. Đi xuống nhanh đi, hãy đến chỗ con bé, anh đang muốn điều đó lắm mà, còn em, em sẽ lỡ chuyến bay mất nếu anh cứ đứng như vậy trước mặt em.
Philip ôm Susan vào lòng và đặt một nụ hôn lên má cô.
- Hãy chăm sóc cho mình, Susan.
- Đừng lo, đó là nghề của em mà! Thôi nào! Anh đi đi!
Anh bước ra bậc thang đầu tiên. Cô gọi anh một lần cuối.
- Philip?
Anh quay người lại.
- Susan?
- Cảm ơn anh!
Nét mặt anh giãn ra.
- Không cần cảm ơn anh, hãy cảm ơn Mary.
Và trước khi anh biến mất khỏi tầm nhìn của cô, cô phồng hai má lên hết cỡ, xòe lòng bàn tay thổi đến anh một nụ hôn. Cái vẻ mặt hề ấy là hình ảnh cuối cùng cô để lại cho anh.
* * *
Trong khi sảnh lớn của sân bay, vài hành khách ngạc nhiên khi thấy một cô gái trẻ dang rộng đôi tay, chờ một người đàn ông người ướt sũng đang đứng dưới chân cầu thang cuốn lớn. Màu sắc của chiếc thang mờ đi, hòa vào ký ức chung về một chiếc cầu trượt sơn màu đỏ đã cũ.
Anh ôm chặt cô bé vào lòng.
- Bố ướt hết rồi, bên ngoài trời mưa lớn đến thế sao? Em nói.
- Một trận bão! Con muốn làm gì bây giờ?
- Cuối cùng thì chuyến bay của con tối nay mới khởi hành cơ! Bố đưa con về nhà đi!
Lisa nắm lấy tay Philip và kéo anh về phía cửa.
Từ trên chiếc cầu vượt ở trên cao, Susan nhìn thấy cả hai người rời khỏi sân bay, gương mặt cô rạng rỡ đầy trìu mến.
Philip quay số máy ở nhà trên hộp điện thoại gắn trong xe, Mary nhấc máy ngay lập tức.
- Con ở với anh, bố con anh đang về nhà, anh yêu em.
Ngày 22 tháng Mười, Sam bảo với vị giám đốc mới của trung tâm NHC rằng có nghi ngờ một đợt áp thấp đang hình thành tại vùng biển Caribes. Bốn ngày sau, con số 5 hiện lên trên màn hình phía sau ba chữ S.
Cơn bão mạnh nhất trong số tất cả các cơn bão của thế kỷ, rộng 280 km, đang di chuyển với tốc độ hơn 360km/giờ về phía khu vực Trung Mỹ.
Đã bốn tháng trôi qua kể từ ngày Susan lại ra đi. Thomas đã vào trường trung học, Lisa và Stephen đang trải qua những tuần đầu tiên tại trường đại học. Mấy hôm nữa cô bé dọn đến sống trong căn hộ nhỏ ở Manhattan. Philip và Mary thỉnh thoảng lại nhắc đến ý định rời Montclair để quay về sống tại New York.
Mitch đổ bộ xuống vùng bờ biển Honduras ngày 30 tháng Mười, vào lúc trời xẩm tối. Trong đêm hôm ấy, hai phần ba lãnh thổ nước này bị tàn phá, mười bốn nghìn bốn trăm con người thiệt mạng.....
.....Và cũng trong đêm hôm ấy, ở cách đó vài ngàn cây số, ở "phía bên kia thế giới", trong quán bar của một nhà ga sân bay, một người phục vụ gốc Mê-hi-cô sắp sửa kết thúc ca làm việc của mình, anh đưa nhát giẻ cuối cùng lau chiếc bàn dựng sát bên khung cửa kính.
For you!!!
Chú thích:
[1] Trong hệ thống giáo dục của Mỹ, tương đương với trường trung cấp - ND
[2] Trong hệ thống giáo dục của Mỹ, bằng do hệ thống trường Junior College hoặc một số trường khác cấp, thường chương trình học kéo dài hai năm - ND
[3] Trường Mỹ thuật ở New York
[4] Florence Nightingale là người Anh (1820-1910), được tôn vinh như một nhân vật tiêu biểu trong lĩnh vực chăm sóc y tế vì những hoạt động tích cực của cô - ND
[5] Thủ đô Honduras . Tiếng địa phương là "những ngọn đồi bạc".
[6] Tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản, có nghĩa là "Quý cô da trắng"-ND
[7] Một loại rượu mạnh của Mỹ - ND
[8] Một đảng phái chính trị tại Nicaragua (Frente Sandinista de Liberación Nacional) tạo nên một cuộc cách mạng tại nước này vào năm 1979-ND
[9] Một loại quán cà phê phổ biến ở các nước phương Tây, nơi người ta có thể uống nước và ăn nhẹ - ND
[10] Tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản: "dân làng" - ND
[11] Tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản: "Bà da trắng" - ND
[12] Isabel Martinez de Perón: Nữ tổng thống Ác-hen-ti-na 1974-1976 - ND
[13] Tiếng Anh trong nguyên bản: Anh làm ơn có thể yên lặng dùm được không - ND
[14] Tiếng Honduras trong nguyên bản, có nghĩa là "chàng trai trẻ"
[15] "Cơn giông"
[16] "Đậu"
[17] Một món ăn của Honduras
[18] Một vùng thuộc Tây Ban Nha - ND
[19] Người Pháp có câu thành ngữ " Ngón tay út đã nói cho tôi nghe rồi" ("mon petit doigt me I'a dit") Susan có ý nói trực giác đã mách bảo cô như vậy - ND
[20] Tựa trong nguyên bản của tiếng Pháp: Une femme sous influence - ND
[21] Tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản, nghĩa là "cô giáo" - ND
[22] Tiếng Anh trong nguyên bản: bữa ăn sáng quá buổi người ta thường dùng khi dậy muộn vào những ngày nghỉ, thay cho bữa trưa - ND
[23] Hai trạng thái của động từ trong ngữ pháp tiếng Pháp - ND
[24] Tên gọi người Mỹ thường dùng chỉ New York - ND
[25] Tiếng Anh trong nguyên bản: "Gọi lần cuối" - ND
[26] Một dạng bánh ngọt - ND
[27] Một dạng bài gần với bài Tây - ND
[28] Về nguyên tắc, phụ nữ Pháp chưa lập gia đình được gọi là "Cô" (Mademoiselle), khi đã lập gia đình thì được gọi là "Bà"(Madame). Chữ "Cô" đứng trước tên của Susan chứng tỏ cô không có chồng, và bé Lisa là con ngoài giá thú của cô -
[29] Đơn vị cảnh sát phụ trách tất cả các cửa ngõ vào thành phố
[30] "Trái Táo Lớn", tên gọi chỉ thành phố New York - ND
[31] Kỷ niệm sinh nhật lần thứ mười sáu
[32] Tối giao thừa
[33] Viết tắt của tiếng Anh "National Hurricaine Center", tạm dịch là "Trung tâm nghiên cứu bão quốc gia"-ND
[34] Trong bản tiếng Pháp: "Les iles Vierges" - ND
[35] Hai hòn đảo thuộc quần đảo Trinh nữ - ND
[36] Tiệc truyền thống tổ chức trước khi kết thúc chương trình học ở Trung học.
[37] Bánh ngọt mỏng làm bằng bột nhào trứng sữa, nướng cả hai mặt và ăn nóng, đôi khi có nhân bên trong - ND
HẾT
Đánh máy: valus, chuot_hip
Nguồn: TTVNONL
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 4 tháng 1 năm 2009
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro