
Chương 42: Người Khiêng Xác
Trong khu phố cổ còn sót lại không nhiều tứ hợp viện, phần lớn đều nằm ở vòng ngoài hoặc giữa hẻm. Chỉ có duy nhất một căn nằm sâu tận cùng trong ngõ, chen giữa đám nhà tập thể, đó là căn của bà cụ Hạng.
Tôi khẽ gật đầu.
Khóe miệng Lôi Phi khẽ giật một cái, rồi bất ngờ đạp mạnh chân ga, đưa tôi thẳng đến đầu ngõ: “Xin lỗi, tôi không thể đưa cô vào trong.”
Anh ta vốn không giỏi viện cớ hay giải thích, cần nói thì nói, không cần thì im. Rõ ràng trường hợp anh ta chọn cách im lặng sẽ nhiều hơn.
Nhìn vẻ mặt của anh bây giờ, tôi hiểu nếu gặng hỏi thì cũng chỉ chuốc lấy bối rối. Anh ta là người khó gần, mà tôi lại không muốn rước thêm phiền phức.
Tôi ngoan ngoãn bước xuống xe, chân vừa chạm đất, Lôi Phi đã đánh lái một vòng, chiếc xe xoay đuôi phóng vọt đi mất.
Ấn tượng của tôi về anh ta vốn là người điềm tĩnh, vậy mà khi nhắc đến căn tứ hợp viện kia, sắc mặt anh ta lại biến đổi hẳn. Điều đó khiến tôi thoáng sợ hãi, ý nghĩ muốn dọn đi lại trỗi dậy lần nữa.
Đêm nay, con ngõ vắng lạ thường. Tôi lấy điện thoại ra xem, mới chưa đến tám giờ.
Bình thường giờ này đầu ngõ phải nhộn nhịp các quán ăn vặt, quán ăn khuya bày đầy. Thế mà nay chẳng thấy hàng ăn vặt nào, quán ăn khuya cũng chỉ lác đác hai ba chỗ mở cửa, khách khứa ít ỏi.
Cả ngày chưa ăn gì, tôi bèn bước vào một quán ăn khuya định mua cơm hộp.
Bà chủ quán béo tròn, đang chán chường dùng một cái que giống gậy trêu mèo để xua ruồi. Thấy tôi bước vào, bà vứt ngay cái que, nở nụ cười tươi rói: “Người đẹp muốn gọi món gì?”
“Tôi lấy một phần thịt xào chua ngọt, một cơm gà Cung Bảo, mang đi.” Tôi đứng giữa quán, nhìn vào thực đơn dán trên tường rồi gọi. Sau đó quay đầu nhìn quanh, trong quán ngoài tôi chỉ có một ông lão da lốm đốm đồi mồi đang ngồi ăn uống ở chiếc bàn phía sau.
Tôi ngồi xuống bàn chéo góc đối diện ông lão, chờ phần cơm của mình.
Ông ta liếc tôi qua đôi mắt tam giác, tay run lên làm thức ăn rơi vãi đầy bàn. Sau đó ông lặng đi gần một phút, rồi mới bắt đầu nhịp điệu kỳ lạ: uống một ngụm rượu, ăn một miếng, lại liếc nhìn tôi một cái.
Cảm giác thật khó chịu, nhưng tôi không tiện nói gì, chỉ đành xoay lưng lại.
Bà chủ báo món xong cho bếp rồi lại bước ra. Tôi tò mò hỏi: “Hôm nay sao ngõ này lại vắng thế? Bình thường náo nhiệt lắm mà?”
“Ờm, tôi là người ngoài tỉnh, cũng không rõ lắm.” Bà xua tay: “Chỉ biết là hằng năm đến ngày này, dân ở đây đều không ra ngoài. Nghe nói từ xưa có một gia tộc lớn sống ở đây… Ài, tôi cũng không nói rõ được. Nói chung, hôm nay chỉ có mấy người ngoài như chúng tôi mới dám mở hàng.”
Nói xong, bà liếc nhìn ông lão kia, rồi hất cằm về phía ông ta:
“Nếu cô hiếu kỳ thì hỏi ông ấy đi. Chú Ngô là dân bản xứ, chuyện gì mà chẳng biết.”
Có lẽ bà cũng rảnh rỗi, liền bước tới bàn ông lão, ngồi xuống đối diện, rót cho ông thêm một chén rượu rồi hỏi: “Vừa rồi vị mỹ nữ này hỏi tôi cũng thấy tò mò. Tôi ở đây đã năm năm, năm nào đến ngày này cũng chỉ có ông là dám ra ngoài. Sao vậy? Người khác sợ, còn ông thì không?”
“Sợ à? Có gì mà phải sợ?”
Ông Ngô dốc cạn chén rượu trắng, lại gắp thêm một miếng thức ăn bỏ vào miệng.
Giọng ông ta khàn đục. Nuốt xong, ông tiếp tục: “Cả đời tôi làm nghề gắn liền với xác chết, thì có gì phải sợ chứ.”
Ông Ngô mặc áo ba lỗ, quần đùi, da thịt lộ ra chi chít đồi mồi, từng lớp từng lớp. Nhìn kỹ bàn tay thì có thể thấy da vốn trắng, chỉ là đồi mồi khiến cả người trông như ngăm ngăm nâu.
Ông liếc nhìn tôi rồi nói tiếp: “Từ năm mười lăm tuổi, tôi đã làm ở nhà tang lễ – khiêng xác, thiêu xác. Mấy chục năm, xác chết kiểu gì tôi cũng thấy qua, chuyện quái gì tôi cũng trải. Người như chúng tôi sống nhờ tiền của người chết mà thôi.”
Bà chủ quán ngạc nhiên hỏi: “Chú Ngô, chú cũng lớn tuổi rồi, vẫn ở chỗ đó được sao? Chẳng lẽ không sợ bị bắt đi à?”
Tôi biết Trung Quán chính là nhà tang lễ nằm ở rìa khu phố cổ, cũng là nơi lớn nhất thành phố. Muốn tuyển được một người gác đêm ở đó không hề dễ, ai dám làm đều phải là hạng chẳng sợ trời, chẳng sợ đất.
Tôi hiểu ý bà chủ, bà lo rằng ông Ngô sẽ không có kết cục tốt đẹp.
Ông Ngô hừ lạnh một tiếng, trông chẳng hề để tâm.
Hơn nửa bình rượu trắng vào bụng, miệng lưỡi ông cũng dần mở ra, bắt đầu kể đủ loại chuyện xưa của khu phố cổ. Tôi vốn rất thích nghe mấy chuyện cũ, nên bèn dọn thức ăn lên bàn, ngồi lại nghe ông kể tiếp.
Ông Ngô còn trẻ, vào thời Dân quốc, chính là con trai của một người làm công cho một gia tộc bí ẩn ở phố cổ. Trung Quán cũng do nhà đó xây dựng, mà người đầu tiên được hỏa táng ở đó lại chính là lão gia của họ.
Thế nhưng ngay đêm hôm ấy, Trung Quán liền xảy ra chuyện quái dị: mấy người làm đều nói thấy lão gia đã chết nhảy nhót như thỏ, miệng liên tục gào đói, đòi ăn thịt người.
Đến ngày thứ ba, trong nhà tang lễ xuất hiện một xác chết, một gã tiểu công, cổ có vết bầm tím rõ rệt, bụng thì bị xé toạc ra. Hiện trường chẳng khác gì bãi săn của một dã thú khổng lồ.
Lạ là gia tộc kia lại đặc biệt coi trọng Trung Quán, dẫu đã xảy ra án mạng nhưng vẫn không chịu đóng cửa. Chẳng ai dám tới làm việc, chỉ trong một tháng, nơi đó đã thành một ngôi nhà của sự kết thúc thực sự.
Lúc ấy tiền công đã tăng gấp ba, mà vẫn không ai dám nhận. Cuối cùng, chàng trai trẻ tuổi, gan lì, không tin tà, chính là ông Ngô đã đứng ra, bảo rằng nếu trả gấp năm thì ông đồng ý.
Năm lần tiền công, còn cao hơn cả lương bác sĩ khi đó. Ai ngờ nhà kia lại sảng khoái chấp nhận ngay.
Thế là ông Ngô thành người khiêng xác.
Gọi là khiêng xác vì nghe đồn lão gia biết nhảy, nên nhà tang lễ cố tình xây bậc cửa thật cao, ngăn không cho ông ta nhảy ra hại người. Hễ có xác đưa đến, chỉ có thể để người sống cõng vào.
Ông Ngô nghe nói thi thể lão gia vốn đã được hỏa táng, chẳng tin vẫn còn thứ gì nhảy nhót trong Trung Quán, nên mới dám nhận việc này.
Ông còn có một lý do khác: lúc đó ông vừa để ý một tiểu nha hoàn, muốn kiếm ít hàng Tây để lấy lòng nàng.
Nhưng kể từ khi làm ở Trung Quán, hễ ông ở bên tiểu nha hoàn là lại xảy ra những chuyện kỳ quái. Cuối cùng còn dẫn đến cảnh cửa nát nhà tan, không có kết cục tốt đẹp, ông cũng suýt bỏ mạng.
Nếu ông không vào Trung Quán, cơ thể sẽ sinh bệnh, nằm liệt giường. Chẳng còn cách nào, ông đành cả đời không lấy vợ, ở mãi trong Trung Quán. Kết quả, ông sống đến cả trăm tuổi, ngoài những đốm nâu do hàn khí tử thi để lại, thì thân thể khỏe mạnh, chẳng ốm đau gì.
“Lão gia chính là mất vào ngày hôm nay.” Ông Ngô lại nốc cạn một chén rượu trắng, chép miệng nói: “Nhưng nguyên nhân khiến dân phố cổ không ai dám ra đường ngày này… là vì một người đàn bà chết cách đây hơn mười năm.”
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro