Chương 14
Tác giả: Znora
Nguồn: https://archiveofourown.org/works/62809345
__
Căn cứ bí mật của tôi nằm trên một ngọn núi, nơi đó mùa hè mát mẻ, yên tĩnh, đây chính là lý do tôi quyết định dẫn Ngao Bính theo. Nếu so con người với trái cây, thì cậu ấy là loại có tính lạnh bẩm sinh, không hợp để bị đặt trong cái lò lửa đô thị.
Nhược điểm duy nhất là để đến đó, nhất định phải đi ngang qua viện phúc lợi nơi tôi lớn lên. Ban đầu, tôi có định ghé qua thăm viện trưởng một chút, dù sao cũng tiện đường, nhưng nghĩ đến Lộc Đồng—anh ta cũng đang nghỉ hè—tôi liền mất hứng trở về.
Cái tên đó, mắng là tiện nhân còn là nâng y lên. Không thù không oán, thế mà cứ thích đối đầu với tôi, làm tôi ngột ngạt không thôi. Chỉ có thể chúc anh ta tốt nghiệp xong lập tức thất nghiệp.
Tôi và Ngao Bính không mang theo cặp sách, chỉ gói vài bộ quần áo cùng đồ dùng cá nhân, đủ cho chuyến đi bốn ngày ba đêm. Cậu ấy dắt Hao Thiên, tôi xách túi đồ ăn cho chó, cùng nhau xuống lầu. Trước khi đi, chúng tôi gửi Hao Thiên cho ông chủ quán ăn trông giúp mấy ngày.
Hao Thiên hôm nay không giống mọi khi, không còn dáng vẻ trầm ổn, mà sốt ruột nhón chân trước, cạ cạ đầu vào chân Ngao Bính, còn ngậm lấy ống quần của cậu ấy không chịu buông.
Nhân lúc một người một chó tạm biệt nhau, tôi ghé quầy bán đồ vặt mua hai chai nước, mấy gói lương khô no bụng, ít đồ ăn vặt, còn tiện thể mua cho Hao Thiên một cây xúc xích.
Không ngờ con chó này hôm nay nổi chứng, chẳng thèm ăn gì, chỉ muốn phá đám, cắn quai đeo balo của tôi, bộ dạng hệt như muốn giật đứt luôn.
"Giở chứng gì vậy." Tôi kéo Ngao Bính đứng xa ra một chút, tránh bị cắn trúng.
Ông chủ quán ăn giữ chặt dây dắt, khoát tay bảo chúng tôi đi nhanh lên: "Hai đứa còn không đi là lỡ chuyến xe bây giờ. Con chó này cứ để chú lo, chắc nó lại kén ăn, còn nhớ món gan bò và chân thỏ lần trước quá đây mà."
"Đừng có cho nó ăn đồ ngon như vậy!" Tôi bất mãn nói.
Vừa cúi đầu nhìn đồng hồ—chết cha, đúng là sắp trễ rồi!
Tôi vội kéo tay Ngao Bính, chạy băng qua con phố đã gắn bó suốt hai năm qua. Tâm trạng vô cùng phấn khởi, tôi vừa chạy vừa quay sang những cửa hàng ven đường, cười lớn chào tạm biệt từng khuôn mặt quen thuộc:
"Chào nhé! Hẹn gặp lại!"
Ngao Bính cũng bị cuốn theo dòng cảm xúc của tôi, quay đầu nhìn lại những hàng xóm láng giềng thân quen. Nhưng so với tôi, cậu ấy cẩn thận hơn, bỗng nhiên kéo tôi sang một bên:
"Na Tra! Coi chừng xe!"
Phố này hẹp, xe cộ chạy không nhanh, nên tôi cũng không thấy có gì đáng sợ. Vẫn nắm chặt tay Ngao Bính, tôi xoay người né một chiếc xe hơi đỏ đang lao tới, cuốn theo cơn gió mạnh như nhảy ra khỏi con hẻm.
Chúng tôi chạy đến nhà ga kịp giờ trong gang tấc, vừa vặn kiểm vé lên xe. Tôi chọn hai ghế phía sau, để Ngao Bính ngồi cạnh cửa sổ, còn tôi ngồi sát lối đi.
Chiếc xe buýt dần lăn bánh, rời khỏi thành phố, tiến về phía tây—điểm đến là nơi vui chơi thời thơ ấu của tôi: Ngọc Hư Sơn.
Hôm nay tôi dậy rất sớm, vậy nên khi xe lăn bánh, cơn buồn ngủ liền kéo đến. Tựa lưng vào ghế, tôi thiếp đi một lát. Nhưng mà, đúng là càng sợ cái gì thì càng gặp cái đó—chỉ một giấc ngủ ngắn mười lăm phút, tôi lại mơ thấy Lộc Đồng. Trong mơ, anh ta và lão viện trưởng đang bàn bạc xem làm thế nào để chỉnh đốn tôi. Tôi sợ đến mức giật mình tỉnh dậy.
Ánh mặt trời nóng rát hắt lên mặt, không trốn vào đâu được. Tôi liền úp mặt vào tóc Ngao Bính, y đưa tay sờ trán tôi, hỏi có chuyện gì. Tôi không đáp, nhưng thật kỳ diệu—chỉ cần dựa sát vào cậu ấy, cảm giác tim đập nhanh do ác mộng mang đến liền tan biến, không còn chút dấu vết.
Lúc nhỏ, lũ trẻ trong viện phúc lợi cô lập tôi, không ai muốn chơi cùng. Dù Lộc Đồng có chiếu cố tôi đôi chút, nhưng anh ta là loại người thế nào, ai cũng thấy rồi đấy. Thế nên tôi chỉ có thể chơi một mình. Từ bé, tôi đã có đôi chân nhanh như gió, chạy trốn lúc nào cũng nhanh hơn người khác, thân thủ lại linh hoạt như khỉ. Những ngày không có ai bên cạnh, tôi sẽ trèo tường trốn ra ngoài, chạy khắp trấn nhỏ và vùng núi hoang dã xung quanh.
Ngọc Hư Sơn chỉ cao khoảng 700 mét so với mực nước biển, tài nguyên thiên nhiên và phong cảnh chẳng có gì nổi bật, bao năm qua vẫn chưa bị khai thác thành điểm du lịch. Ngày thường, nơi này rất vắng vẻ, chỉ sau những trận mưa, dân thôn dưới chân núi mới đeo gùi leo lên nhặt nấm, hái rau rừng.
Chuyến xe kéo dài tận hai tiếng rưỡi. Buổi trưa, tôi và Ngao Bính xuống xe ở trạm áp chót. Dưới cái nắng gay gắt, đập vào mắt là những cánh đồng rộng mênh mông và những ngôi nhà thấp bé. Một đàn vịt vàng nối đuôi nhau lạch bạch băng qua trước mặt chúng tôi, hết đợt này đến đợt khác kêu "cạp cạp", hòa cùng tiếng chó sủa văng vẳng từ cổng sắt xa xa.
Tôi nhìn Ngao Bính bị nắng hun đến chóp mũi và cặp sừng hơi đỏ lên, liền hối hận nói: "Sớm biết thế thì đã mang theo ô."
Cậu ấy ngẩn ra, thắc mắc: "Sắp mưa sao?"
Thật đúng là không hiểu gì về chống nắng. Vẫn đơn thuần như ngày đầu gặp mặt. Tôi nhìn sang ruộng khoai sọ bên cạnh, lá xanh mướt bóng loáng, to gần bằng lá sen, hình dạng như giọt nước. Tôi nhảy xuống ruộng hái một lá, đưa cho Ngao Bính: "Muốn không? Chắn nắng này."
Nhựa lá dính dính trên lòng bàn tay tôi, như keo nước chưa khô, nhầy nhầy khó chịu. Ngao Bính không rõ ý tôi, nhưng vẫn nghe lời nhận lấy, giơ lá khoai che lên đầu. Bóng râm thẫm màu phủ xuống mặt cậu ấy, khiến đôi mắt trở nên sâu thẳm. Tôi lại nhìn thấy cánh tay cậu bị nắng chiếu rọi, bèn lục trong balo lấy một chiếc áo, khoác lên vai cậu. Nhưng áo cứ trượt xuống hoài, cuối cùng tôi đành trùm nó qua đầu, chừa lại hai mắt.
Ngao Bính có mái tóc dài màu nhạt, trông cực kỳ hợp với những tấm vải mềm nhẹ phất phơ trong gió. Bất giác, tôi điều chỉnh vạt áo che khuất nửa khuôn mặt cậu ấy, chỉ để lộ ra một đôi mắt.
Một giọt nước mưa lạnh buốt lướt qua lưng tôi, khiến tôi rùng mình.
Tôi buột miệng thốt ra: "Tôi đã từng gặp cậu."
Lúc này, một chiếc máy kéo cũ kĩ loảng xoảng chạy ngang qua, cuốn theo bụi đất mù mịt. Tôi và Ngao Bính vội bước lên bờ ruộng, nhường đường cho nó. Đợi đến khi làn khói dầu và bụi bặm tan đi, cảm giác kỳ dị lúc trước cũng biến mất không dấu vết.
"Na Tra, vừa rồi cậu nói gì?" Ngao Bính lại hỏi.
Tôi cười cười: "Không có gì. Đi thôi! Chúng ta còn phải leo núi nữa."
Vì không muốn chạm mặt người quen trong viện phúc lợi, tôi cố tình tránh con đường lớn, kéo Ngao Bính vòng vèo trong thôn.
Nơi này vẫn giữ nguyên dáng vẻ thôn quê, đương nhiên không có quán ăn hay nhà hàng nào cả. Chúng tôi chỉ có thể ngồi nhờ ngoài sân một hộ dân, ăn lương khô và uống nước cho đỡ đói.
Một con mương nhỏ chạy xuyên suốt thôn, nước trong veo róc rách chảy, bên dưới là từng dải rêu xanh và thủy thảo lay động. Những bụi chuối sum suê che đi ánh nắng gay gắt, hơi nước len lỏi trong không khí, xua tan cái nóng oi ả của buổi trưa.
Chúng tôi men theo con mương mà đi, những món ăn vặt ăn không hết đều cho lũ chó thả rông ven đường.
Dần dần, nhà cửa thưa thớt, chỉ còn một ngọn núi đơn độc sừng sững giữa đất trời. Ánh mặt trời chói chang chiếu xuống, cỏ cây xanh mướt vươn mình trong cái nóng. Tôi chỉ tay về phía đỉnh núi, nói: "Chính là trên đó."
Ngao Bính hỏi: "Căn cứ bí mật của cậu là một hang động à?"
"Không phải." Tôi lắc đầu, "Là một đạo quán. Trước đây có một đạo sĩ già sống ở đó, sau này ông ấy mất, nơi đó không còn ai trông coi nữa."
"Vậy đạo quán đó thuộc về ai?"
"Không biết."
Tôi định kể vài chuyện hồi nhỏ cho Ngao Bính nghe để cậu ấy vui vẻ, nhưng lật đi lật lại ký ức, tôi chẳng tìm ra được kỷ niệm nào đáng kể. Tuổi thơ và thuở niên thiếu của tôi chỉ gói gọn trong mấy việc: nghịch ngợm, bị đánh. Chạy trốn, bị đánh. Đi học, đánh nhau, bị đánh. Đương nhiên, cũng có lúc tôi đánh người khác, nhưng chuyện đó thì có gì đáng nói đâu?
May mắn là ngọn núi này không quá cao, cũng không cần leo đến tận đỉnh. Chúng tôi chỉ việc men theo con đường nhỏ trong rừng, đi đến lưng chừng núi là có thể thấy đạo quán.
Bức tường đỏ và mái ngói đen bị thời gian ăn mòn, xà gỗ mục nát nhô ra khỏi mái hiên. Những chiếc chuông đồng nhỏ treo dưới góc mái cong, hoen gỉ theo năm tháng. Chúng tôi băng qua một rừng thông rậm rạp, trên mặt đất rải đầy những quả thông lớn. Tôi nhặt hai quả còn nguyên vẹn đưa cho Ngao Bính, nói là để làm kỷ niệm.
Rừng thông thưa dần, tầm nhìn trở nên thoáng đãng. Giữa khoảng đất trống là một bức tường đỏ sậm, cửa sau của đạo quán đang rộng mở. Ổ khóa đã rơi mất, chỉ còn một sợi dây thép vặn vẹo quấn hờ trên chốt cửa.
"Đây là cửa sau, sơn môn ở bên kia, hơi xa một chút." Tôi cười, "Nhìn bề ngoài có vẻ cũ nát vậy thôi, nhưng bên trong rất khí phái đấy."
Tôi bước qua ngưỡng cửa, đi vào trước.
Sân viện hoang vu, cỏ dại mọc chen giữa những phiến đá xanh, rêu phong phủ kín từng kẽ nứt. So với ký ức của tôi, nơi này đã mục nát hơn rất nhiều.
Tôi vừa dẫn đường, vừa kể lại cho Ngao Bính nghe về đạo quán này. Khi mới xây dựng, nó chắc chắn có một cái tên, nhưng từ khi tôi biết đến nơi này, bảng hiệu đã không còn. Tôi lần đầu tiên đến đây năm sáu tuổi, còn vị đạo sĩ già sống ở đây khi đó đã chín mươi. Ông ấy sống trước tôi gần một thế kỷ, mắt đã mờ, tai cũng lãng, chỉ có thể dùng bàn tay gầy guộc, khô nứt của mình vỗ lên đầu tôi, xác nhận tôi đang đứng ở đâu.
Vị đạo sĩ đó sống đến năm 103 tuổi. Sau khi mất, ông được chôn ở phía nam đạo quán. Hai năm trước, tôi còn đến đây thắp cho ông ấy một nén nhang.
Ngao Bính lẳng lặng đứng trong viện, nhìn ngắm từng gốc cây ngọn cỏ, không biết có nghe tôi nói chuyện hay không.
"Ngao Bính, đi bên này." Tôi gọi cậu ấy.
Y theo tôi bước vào chính điện duy nhất còn nguyên vẹn trong đạo quán. Tôi thầm may mắn vì nơi này vẫn chưa hoàn toàn đổ nát, tro bụi và mạng nhện không thể che mờ những bức bích họa rực rỡ sắc màu.
Thông thường, đạo quán đều thờ Tam Thanh: Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn và Thái Thượng Lão Quân. Nhưng trên bàn thờ của đạo quán này, thần vị chính lại là một pho tượng nữ tướng.
Bà không phải Vương Mẫu, cũng chẳng phải Cửu Thiên Huyền Nữ. Dựa vào giáp trụ và áo choàng trên người, có thể đoán bà từng là một nữ tướng quân xông pha chiến trận. Bà đứng thẳng, tay cầm bảo kiếm, thần thái uy nghi.
Nhưng tượng thần này... lại thiếu mất phần đầu, trên cổ trống không.
Tôi chưa từng nghe nói về nữ thần nào như vậy. Bà là ai? Trông như thế nào? Tôi cũng không biết. Nhìn bộ giáp này, không lẽ là Hoa Mộc Lan? Hay Mục Quế Anh? Nhưng tại sao lại được thờ trong đạo quán?
Tóm lại, vị nữ tướng không đầu này cứ thế đứng ở đây, hương khói quạnh quẽ. Tôi phần nào hiểu được vì sao đạo quán này ngày càng xuống dốc.
Mà bà ấy có thể phù hộ điều gì chứ?
Tôi xưa nay không tin quỷ thần, mỗi lần tới đây chỉ nghĩ đến việc lén lấy trái cây trên bàn thờ ăn. Lúc lão đạo sĩ còn sống, ông không ngăn cản tôi, thậm chí còn cho tôi cả một rổ sơn trà và mận mới hái—mấy thứ này là thôn dân dưới chân núi mang đến cho ông.
Ngao Bính chăm chú nhìn pho tượng hơn cả tôi. Cậu ấy nghiêm túc như vậy, làm tôi cũng không nỡ quấy rầy. Nhưng cũng không thể để cậu cứ đứng ngẩn ra mãi.
Tôi chọc chọc khuỷu tay vào cậu:
"Này, Ngao Bính, Yêu giới các cậu có từng nghe qua nữ thần này không? Tôi ở đây mười bảy năm rồi mà chưa từng nghe nhắc đến."
Ngao Bính suy nghĩ một lúc, rồi lắc đầu: "Tôi không chắc chắn."
"Đi thôi, tôi cho cậu xem một thứ hay lắm." Tôi kéo y ra sau điện.
Thứ tôi muốn cho y xem chính là một cây bồ đề cao lớn tuyệt đẹp. Nó mọc ngay trước cửa sau điện, bộ rễ được bao bọc trong một bồn hoa bằng đá cao. Thân cây vững chãi, cành lá um tùm, tầng tầng lớp lớp lá xanh bóng mượt xếp chồng lên nhau, như một chiếc dù khổng lồ che phủ cả khoảng sân.
Mỗi khi gió núi thổi qua, tán lá lay động, ánh sáng mặt trời len lỏi xuyên qua từng kẽ lá, rơi xuống thành những tia óng ánh, trông như những sợi chỉ vàng buông xuống từ bầu trời.
"Loại cây này vốn không có ở đây, là người ta bỏ nhiều tiền đem từ xa đến trồng." Tôi nói, "Đẹp không? Tôi đoán cậu chưa thấy bao giờ đâu."
"Ừ." Ngao Bính ngẩng đầu nhìn lên tán cây, chậm rãi nói, "Bên trong cây này có thứ gì đó."
Tôi giật mình: "A? Sao cậu biết?"
"Trực giác." Ngao Bính đáp, "Cậu cũng cảm nhận được đúng không?"
Tôi bĩu môi: "Dạo gần đây sao cậu cứ thần thần bí bí thế nhỉ?"
Tình huống này khác xa so với những gì tôi tưởng tượng! Không khí huyền bí làm mất hết sự lãng mạn! Đúng là phiền chết đi được!
Tôi vứt hết tạp niệm trong đầu, túm lấy tay Ngao Bính, nói:
"Ở chỗ này, hôn tôi một cái."
Kế hoạch này nhất định phải thực hiện cho bằng được!
"Được." Y ngoan ngoãn đáp.
Ngao Bính có vẻ không hiểu tại sao tôi lại dẫn cậu ấy đến tận đây chỉ để hôn một cái, nhưng vẫn nghe lời, cúi xuống hôn lên má tôi.
Tôi sửa lại: "Là miệng."
Tôi không muốn đợi y chậm rãi cảm nhận bầu không khí gì cả, liền trực tiếp chồm tới, nhưng còn chưa kịp chạm vào môi y, một bàn tay lạnh buốt đã che kín miệng tôi.
Tôi mở mắt ra, thấy Ngao Bính đã nghiêng đầu đi chỗ khác. Cậu nhìn về phía chính điện, ánh sáng dịu dàng trong mắt rút đi, thay vào đó là một sự sắc bén.
Ngao Bính thấp giọng nói:
"Na Tra, có người tới."
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro