Duong loi cach mang
-
Hội nhập và phát triển mang trong chúng mối quan hê nhân quả chuyển tiếp. Hội
nhập để phát triển và trong phát triển có hội nhập. Mối quan hệ nhân nhân - quả quả - nhân
nhân …, cứ như vậy, hội nhập và phát triển là quy luật chung trong sự vận động tiến lên mãi
của mỗi quốc gia dân tộc, của mỗi con người và cả loài người. Vấn đề quan trọng là hội
nhập và phát triển như thế nào? Giải quyết vấn đề này phụ thuộc nhiều vào ý nguyện của
dân chúng và chính sách của mỗi quốc gia ở mỗi hoàn cảnh lịch sử nhất định. Đối với Việt
Nam hiện nay, mong muốn hội nhập, tích cực hội nhập, chủ động hội nhập để phát triển
nhưng không muốn “hoà tan”; phấn đấu phát triển đất nước, nhưng không muốn “tự đánh
mất mình”; luôn tự hào về sự lớn mạnh của mình chứ không muốn “Bốn nghìn năm ta lại là
ta”… Hy vọng bài viết nhỏ này có thể đóng góp chút ít gì đó vào việc thực hiện những mục
tiêu có vẻ “khiêm tốn” ấy triều Trung Quốc rất hùng mạnh trong thời kỳ này. Người Việt đã giành lại được non sông
đất nước và giữ gìn được nền văn hoá của mình; hơn nữa còn biết hấp thụ có chọn lọc
những nhân tố văn hoá của Trung Quốc làm phong phú thêm văn hoá dân tộc và tăng thêm
tiềm lực của đất nước, chuẩn bị lực lượng cho những cuộc chiến sau này. Phải chăng đây là
những bài học kinh nghiệm của hội nhập và phát triển đầu tiên của nước ta? Phải chăng kết
hợp truyền thống của thời kỳ Hùng - Thục với cách tân về kinh tế, chính trị, văn hoá thời kỳ
Bắc thuộc; kết hợp nội lực với ngoại lực… là trụ cột để dựng nước, giữ nước và phát triển
đất nước của tổ tiên ta?
1930 đến năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam,
cuộc đấu tranh giành lại độc lập tự do đã theo đúng quy luật của lịch sử và đã giành thắng
lợi vẻ vang, lại đưa nước ta vào một kỷ nguyên phát triển mới hào hùng hơn, oanh liệt hơn -
kỷ nguyên của nền dân chủ cộng hoà và xây dựng chủ nghĩa xã hội với hai chiến công đánh
thắng đế quốc Pháp và Mỹ chói lọi địa cầu. Ngày nay cả dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của
Đảng quang vinh, đang thực hiện thành công mơ ước của lãnh tụ Hồ Chí Minh: xây dựng
đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh. Ở đây yếu tố quyết định vẫn là biết tích tụ nội lực hàng nghìn
năm dựng nước và giữ nước của tổ tiên kết hợp với kết tinh tinh hoa văn hoá nhân loại, cả
vật chất và tinh thần, của thời đại mới - Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới với nhiều bước quanh co, thậm chí có cả thụt lùi, khó tránh
khỏi. Đó cũng chính là phương sách (đường lối, chính sách) giải quyết đúng đắn nhất mối
quan hệ của hội nhập với phát triển do Hồ Chí Minh khởi xướng và Đảng cộng sản Việt
Nam tổ chức thực hiện thành công. Yếu tố chủ đạo nhất của các sự biến lịch sử đó là biết
phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam - sức mạnh văn hoá Việt Nam mà trong đó hạt nhân
là đạo lý “uống nước nhớ nguồn”.
Đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” được khái quát từ nhiều mối quan hệ nhân quả trong
đời sống xã hội kế tiếp nhau từ quá khứ đến hiện tại tới tương lai, được tổng kết từ nhiều
cách tiếp cận khác nhau như: Cây phải có gốc, sông phải có nguồn, núi cao bởi có đất bồi,
ăn quả nhớ kẻ trồng cây, không thầy đố mày làm nên, con người có tổ có tiên v.v… Cái trục
xuyên suốt của đạo lý “uống nước nhớ nguồn” là lòng biết ơn và đền đáp công ơn của con
người đối với con người, đối với làng bản xóm thôn, đối với giang sơn đất nước. Trong đó
đời sống của con người hiện tại đều được nảy sinh nhờ được chuẩn bị, tạo điều kiện thuận
lợi từ tất cả những cái tương ứng trong quá khứ. Cái hiện tại đó lại chuẩn bị mọi điều kiện
cho sự ra đời và tồn tại của cái tương lại… Như vậy, các thế hệ sau bao giờ cũng biết ơn và
đền đáp công ơn đối với các thế hệ trước. Sự đền ơn đáp nghĩa qua các thế hệ được củng cố
vững chắc thêm nhờ tác động của tín ngưỡng, tôn giáo, càng làm cho sư đền ơn đáp nghĩa ở
hiện tại thêm phong phú và sâu Các giá trị văn hoá vật thể được thức tỉnh sống động trở lại đầy đủ hơn trong những
ngày giỗ gia tiên và các vị thần. Trong những ngày này, nhà cửa, đình, đền, miếu và các đồ
thờ cúng, tế lễ cũng được sửa sang, tu bổ, lau chùi sạch sẽ và được sử dụng tối đa. Ngoài ra
cách thức, hiện vật tế lễ cũng được bổ sung để phục vụ cho việc rước sách và trình diễn lại
thần tích của thần hoặc ôn lại công đức của cha mẹ, ông bà. Như vậy, trong những ngày giỗ
của gia đình, của làng và nước, các giá trị văn hoá vật thể truyền thống Việt Nam được khơi
dậy. Các vật thể văn hoá là sản phẩm của con người. Nó chỉ có giá trị khi con người khai
thác, sử dụng chúng mang lại cho con người những ích lợi nhất định. Đó chính là các giá trị
văn hoá vật thể. Thông qua các giá trị văn hoá vật thể và các phương thức khác mà các giá
trị văn hoá phi vật thể được thể hiện, được khái quát tổng kết thành đạo lý “uống nước nhớ
nguồn”. Đây mới là cái trường tồn, cái nội lực cứ dần dần được tích luỹ thêm cùng với sự
tồn tại người Việt.
Đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” trước hết là sự tổng kết các giá trị văn hoá phi vật
thể khi người Việt nhận thức và thực hiện việc đền đáp công ơn của tổ tiên, của các vị anh
hùng, nghĩa sĩ trong quá trình dựng nước và giữ nước. Vì vậy, đạo lý “Uống nước nhớ
nguồn” là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, phản ánh nhiều đặc điểm
khác về chất của văn hoá Việt Nam so với văn hoá của các nước khác. Trước hết đạo lý
“Uống nước nhớ nguồn” góp phần làm rõ cội nguồn của người Việt và sự hình thành quốc
gia dân tộc Việt Nam trong lịch sử, góp tiếng nói chung khẳng định truyền thống lâu đời,
thuộc vào loại sớm trên thế giới, của văn hoá, văn minh đất Việt. Tổng kết truyền thống lâu
dài đó hình thành nhiều triết lý nhân sinh của người Việt như: “Cây có gốc, sông có nguồn”,
“con người có tổ có tiên”… ông tổ chung của đại gia đình các dân tộc Việt Nam là các Vua
Hùng thuộc họ Hồng Bàng - Người đã có công đoàn kết, liên kết các bộ tộc Việt, thống nhất
các công xã nông thôn, lập nhà nước sơ khai ở Việt Nam với 18 đời. Ngày giỗ của đại gia
đình các dân tộc Việt Nam chính là ngày giỗ tổ Hùng Vương: “Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ
ngày giỗ tổ mùng Mười tháng Ba”, “Dù ai buôn bán gần xa, nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mùng
mười”, “ Dù ai lưu lạc quê người, nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”… Hồ Chí Minh đã
khẳng định như một lời hứa thiết tha và niềm tin tất thắng: “Các Vua Hùng đã có công dựng
8
nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” . Người đã thực hiện đúng lời hứa, kế tục
xuất sắc sự nghiệp các Vua Hùng và hơn thế nữa còn “làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và
9
non sông đất nước ta” . Hiện nay, nhà nước ta đã lấy ngày 10 tháng 3 hàng năm - ngày giỗ
tổ Hùng Vương - làm ngày quốc lễ.
Trong phong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt đã lần hối trở về với cội nguồn dân tộc,
với gốc gác gia đình - dòng họ của mình. Qua đó mà tình yêu thương quê hương, đất nước
và con người cứ luôn luôn được tích tụ thẳm sâu và bùng lên mạnh mẽ, đánh thắng mọi kẻ
thù xâm lược. Bởi vì làng xóm, quê hương, đất nước cứ đời này qua đời khác đều thấm đẫm
mồ hôi công sức, thấm đượm tình thày trò, tình làng nghĩa xóm, tình yêu đôi lứa thuỷ chung
và biết bao máu xương đã đổ ra của ông bà, cha mẹ, tổ tiên trong quá trình dựng nước và
giữ nước để có được con người và quê hương, đất nước ngày nay. Chính vì vậy mà các thế
hệ sau luôn biết ơn và làm hết sức mình để tỏ lòng thành kính, hiếu thảo và đền đáp công
ơn dưỡng dục sinh thành của các thế hệ trước. Thực hiện phong tục thờ cúng tổ tiên, nhất là
vào ngày giỗ hàng năm, làm cho tình yêu thương quê hương, đất nước con người của các
thế hệ người Việt thường xuyên được nhắc lại, được củng cố và phát triển. Đây chính là yếu
tố quyết định làm cho người Việt không mất gốc dù có phải lưu lạc quê người, là nền tảng
tinh thần vững chắc của quốc gia dân tộc. Đây chính là những giá trị văn hoá lớn nhất của
truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”.
Đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” còn phản ánh nhiều giá trị nữa rất quý của văn hoá
dân tộc. Đó là các giá trị đạo đức, nhân văn, bản tính sáng tạo đặc biệt của con người và
đoàn kết dân tộc. Trước sức mạnh tàn phá của thiên nhiên và sự huỷ diệt, thâm độc của kẻ
thù xâm lược, người Việt buộc phải luôn luôn nung nấu ý chí quyết tâm, phát huy trí tuệ và
tài năng sáng tạo của mình, thực hiện đoàn kết cộng đồng cả trong lạo động sản xuất cũng
như trong chiến đấu chống kẻ thù. Từ đó hình thành nhiều triết lý sinh tồn đặc sắc của người
Việt: “Xưa nay nhân định thắng thiên đã nhiều”, “Một dân tộc độc lập và một quốc gia có
chủ quyền”, “nhân tài là nguyên khí của quốc gia”, “vô luận, bất cứ cái gì của đời sống con
người cũng do con người làm ra và quyết định”, “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
8
công, thành công, đại thành công” v.v… Đó chính là cơ sở lý giải, có sức thuyết phục nhất,
của những hiện tượng phi thường có một không hai trên thế giới đã diễn ra ở Việt Nam: Ở
thời cổ - trung đại, dân tộc Việt Nam đã gần như suốt 1110 năm bị Bắc thuộc, nhưng chẳng
những không bị mất nước mà còn giành chiến thắng, bảo tồn và phát triển được nòi giống
Tiên - Rồng. Tiếp ngay sau đó, người Việt đã đánh thắng tất cả mọi kẻ thù xâm lược bất kể
chúng là ai, từ đâu đến và hùng mạnh, xảo quyệt như thế nào.
Giá trị, như một sự tổng kết, của đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” chính là ở sự hình
thành, củng cố, khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn, lòng tự hào và tự tôn dân tộc. Trên cơ sở
đó mà người Việt thường xuyên bồi dưỡng, phát huy ý chí quyết tâm gìn giữ, phát triển tất
cả những gì mà tổ tiên đã tạo dựng, đảm boả quyền độc lập tự chủ của quốc gia, tự do của
dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Đồng thời quyết tâm xây dựng non sông đất nước ta ngày
càng to đẹp hơn, đàng hoàng hơn để xứng đáng với nòi giống con Lạc cháu Hồng, với dòng
họ tổ tiên, với các vua Hùng và các anh hùng, nghĩa sĩ có công với dân với nước trong lịch
sử oanh liệt của dân tộc.
Tất cả những giá trị của truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn lớn trong hội nhập và phát triển đất nước ta hiện nay.
Ý nghĩa về lý luận: Những giá trị truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” góp phần
tổng kết những bài học kinh nghiệm, hình thành những triết lý sống động trong quá trình
lịch sử tự nhiên của người Việt. Đó chính là nền tảng tinh thần, cơ sở lý luận không thể
thiếu được trong hoạch định các chính sách hội nhập và phát triển nước ta. Phụ thuộc vào
mục tiêu và cách thức tiếp cận mà bài học kinh nghiệm được rút ra có thể nhiều hoặc ít.
Dưới đây chỉ nêu một số bài học chủ đạo.
Một là: để hội nhập và phát triển thành công đòi hỏi phải có tiềm lực của một nền
văn hoá dân tộc đủ lớn mới có thể tiếp thu (tiêu hoá) được văn hoá ngoại lai mà không bị
mất gốc, không bị đồng hoá. Đây là yếu tố nội sinh, nội lực có ý nghĩa quyết định của hội
nhập và phát triển. Trong thời kỳ Bắc thuộc hơn 11 thế kỷ và thời kỳ thuộc địa của đế quốc
Pháp, Mỹ gần một thế kỷ, nước ta “hội nhập” trong thế bị động, nghĩa là kẻ thù xâm lược
chủ động du nhập văn hoá của chúng vào nước ta để đồng hoá dân tộc ta, nhằm thôn tính
nước ta. Âm mưu và hành động phi nghĩa đó đã thất bại. Bởi vì trước thời Bắc thuộc, dân
tộc ta đã có hàng chục vạn năm văn hoá tiền sử và trên cơ sở đó cha ông ta đã xây dựng
được một nền văn hoá rực rỡ Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử kế tiếp nhau cho đến
ngày nay bằng cách tiếp thu thêm những cái tốt, cái đẹp, cái mới của các nền văn hoá ngoại
lai trên tinh thần chủ đạo, nội sinh của nền văn hoá dân tộc, của đạo lý “Uống nước nhớ
nguồn”. Ngày nay, chúng ta chủ động hội nhập chứ không phải bị động mà người chiến sĩ
tiên phong là chủ tịch Hồ Chí Minh. Người tuyên bố: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả
mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai” 10. Tư tưởng chiến lược của Người về
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là sự kế tiếp, mở rộng và phát triển kinh
nghiệm hội nhập để tồn tại và phát triển của tổ tiên ta trong lịch sử.
1
Hai là: Hội nhập và phát triển chỉ thành công khi biết khơi dậy lòng yêu nước nồng
nàn, nâng cao lòng tự hào và tự tôn dân tộc trong mối quan hệ bình đẳng, “biết mình, biết
người”, với các quốc gia dân tộc khác trên thế giới. Hội nhập để phát triển là chính sách của
nhiều nước. Vì vậy, nó chính là cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước với nhau, một sự thi
đua quyết liệt nhằm giành vòng nguyệt quế. Trong tất cả các phương thức cạnh tranh và thi
đua thì thi đua về ý chí, nghị lực và trí tuệ là yếu tố hàng đầu, có ý nghĩa tiên quyết. Hồ Chí
Minh đã khái quát chân lý này khi Người nói chuyện với cán bộ: “Các chú muốn thi đua với
tổng thống, thủ tướng nước ngoài về ăn mặc thì thua họ thôi. Bác cháu ta thi đua với họ về
lòng yêu nước, thương dân thì ta mới thắng”11.
Ba là: Đoàn kết chân thành, bền chặt trên tinh thần thương yêu giúp đỡ lẫn nhau là
yếu tố quyết định sự thành công của hội nhập và phát triển đất nước. Đoàn kết là phương
thức tổng hợp cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của nhiều người (nhà - làng -
nước) tạo ra sức mạnh chung to lớn, đảm bảo cho công việc được thực hiện thắng lợi.
Khẳng định chân lý này, Hồ Chí Minh viết:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công.”12
Ý nghĩa về thực tiễn: Những giá trị của truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” được
khai thác trong hoạt động bảo tồn, sửa chữa, tôn tạo, phục chế nhà cửa, đình, đền, miếu,
miễu, tháp, đàn, đài, lầu các và những hiện vật gắn liền với các công trình kiến trúc đó. Khó
nhất là phục chế những đồ cổ đã mai một theo năm tháng, bị tàn phá do chiến tranh, bị đập
phá do sự ấu trĩ của con người, hoặc đã bị bán ra nước ngoài… Chúng có thể chỉ còn trong
danh sách, tranh, ảnh hoặc theo truyền thuyết. Những hoạt động này chẳng những rất khó,
mà còn rất tốn kém, nhưng hiện nay đã trở thành vấn đề cấp bách. Văn hoá vật thể của nước
ta vốn rất đa dạng, phong phú, giàu có và có giá trị nội sinh rất lớn. Chúng sẽ trở thành xơ
xác, nghèo nàn, chắp vá và mất dần bản chất nếu ngày hôm nay không làm tốt công tác bảo
tồn, tu tạo, phục chế này. Tuy trong không khí sôi động của hội nhập quốc tế và chạy đu a
làm giàu hối hả, nhưng đa số người Việt Nam vẫn khát khao được xem những bộ phim
hoành tráng, nhiều tập, những bộ sách lịch sử hào hùng của dân tộc về 18 đời Hùng vương,
trận chiến Cổ loa, về lịch sử 12 sứ quân, về lịch sử dựng nước và giữ nước đời Lý, về ba lần
đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông đời Trần, về trận chiến đánh tan hơn 20 vạn quân
Thanh của vua Quang Trung v.v… Nhưng thay vào đó là những bộ phim của nước ngoài,
nhiều nhất là của Trung Quốc. Hiện tượng nhiều người Việt Nam hiểu lịch sử Trung Quốc
hơn hiểu lịch sử nước nhà có thể được giải thích bởi lý do này chăng? Sự đáng tiếc ấy có thể
còn nhiều hơn ở mai sau nếu chúng ta cứ tự đánh mất dần lịch sử của mình.
4 - Yêu nước và tình cảm yêu nước, thương người phát triển thành chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo, đó không chỉ là một nét đẹp đạo đức, một nét văn hóa mà còn kết tinh thành giá trị bền vững của văn hóa truyền thống Việt Nam. Chính giá trị này làm nên sức sống của con người và dân tộc Việt Nam. Đây cũng là cội nguồn sức mạnh của bản lĩnh văn hóa Việt Nam cần phải phát huy trong hội nhập quốc tế ngày nay
Yêu nước, thương người là sự cao quý của tư tưởng và tâm hồn Việt Nam, là giá trị nhân cách của con người Việt Nam, đó là truyền thống dân tộc trải qua bao biến thiên của lịch sử vẫn tồn tại một cách bền bỉ và tỏa sáng rạng rỡ trên gương mặt tinh thần của cả dân tộc. Đó cũng là một truyền thống văn hóa, văn hóa chính trị gắn liền với văn hóa đạo đức của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân văn truyền thống của Việt Nam được sản sinh và nuôi dưỡng trong lịch sử dựng nước và giữ nước hằng nghìn năm cho tới ngày nay vừa anh hùng vừa bi tráng. Cốt cách Việt Nam định hình trong thử thách khắc nghiệt chống thiên tai và chống ngoại xâm, đoàn kết và cố kết cộng đồng, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển, bởi sức mạnh của hợp tác và đồng thuận. Sức mạnh ấy chẳng những được quy định thành văn mà còn được tổng kết thành triết lý sống và thành phương châm ứng xử, chỉ dẫn hành động, sự khẳng định các giá trị. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống có trong mối liên kết giữa Nhà với Làng với Nước, là liên kết cộng đồng, lấy sức mạnh ở tổng thể, trong đó từng cái riêng, đơn lẻ và cá thể được tập hợp và hòa đồng trong cái chung của cộng đồng rộng lớn, lấy tương đồng, cố kết cộng đồng để khắc phục những khác biệt và những xung đột.
5 - Truyền thống và những giá trị văn hóa truyền thống định hình ở dân tộc này nhưng có thể có ở dân tộc khác, ở nhiều dân tộc khác
Có lẽ, để tồn tại và phát triển, không dân tộc nào trong cộng đồng thế giới nhân loại lại không hình thành nên tình cảm yêu nước, thương nòi, cần cù lao động, sáng tạo trong việc cải biến tự nhiên và chống ngoại xâm. Cũng như vậy, trong văn hóa của dân tộc mình, không dân tộc nào lại không xây dựng cho mình những chuẩn mực đạo đức và quy tắc ứng xử, những thành tựu riêng thuộc về tư tưởng hay ý thức hệ, về văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa và đưa nó vào trong sinh hoạt tinh thần, thành tâm lý, phong tục, tập quán.
Phân biệt đâu là cái đích thực, cái riêng có của dân tộc mình, kết tinh trong giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình là không đơn giản.
Văn hóa là sự thống nhất trong đa dạng, thống nhất từ những khác biệt. Sự phong phú, sâu sắc của mỗi nền văn hóa là ở những tính riêng đặc thù trong khi biểu hiện thành những tính chung, những cái phổ biến, phổ quát.
Đồng nhất văn hóa là cái chết của văn hóa và điều đó không thể xảy ra trong lý luận cũng như trong thực tiễn văn hóa.
Sự tương đồng, giống nhau về những giá trị văn hóa có lý do từ những tất yếu của tồn tại và phát triển đời sống con người và loài người, của nhân tính. Nó cũng còn bắt nguồn từ sự tiếp xúc và tiếp biến giữa các chủ thể văn hóa trong thời gian và không gian văn hóa, sự tương đồng trong tích lũy kinh nghiệm sống và những trải nghiệm lịch sử về sự sống giữa các dân tộc.
Và khác biệt, có lẽ là ở phương thức biểu hiện, ở hình thái sản xuất và sáng tạo văn hóa, ở quan niệm tư tưởng và triết lý văn hóa của mỗi dân tộc, trong sự đề cao hay ưu tiên giá trị này chứ không phải giá trị khác. Nếu truyền thống hình thành từ lịch sử là khác nhau giữa dân tộc này với dân tộc khác, nếu truyền thống là lịch sử đã trải qua và đã chứng nghiệm của đời sống dân tộc, nó kết động cả mặt tích cực lẫn tiêu cực, cả cái hay lẫn cái dở thì giá trị trong truyền thống lại trải qua sự sàng lọc, đi qua cái “bộ lọc của tinh thần dân tộc” để cái gì trở thành giá trị, được thừa nhận và tôn vinh (trở thành ý thức tự hào dân tộc) phải là cái tốt đẹp, tích cực, với hai phương diện nổi bật: trí tuệ và đạo đức. Dĩ nhiên, điều này cũng là tương đối và có tính lịch sử, bởi rất có thể, cái được quan niệm là giá trị ở dân tộc này lại không được coi là giá trị trong quan niệm của dân tộc khác. Rõ nhất là trong phong tục tập quán. Như đã nói ở trên, truyền thống cũng thay đổi trong những điều kiện lịch sử nhất định mà giá trị truyền thống cũng luôn đổi mới sự biểu hiện và trong thước đo đánh giá của hiện đại.
Không một quá khứ nào có thể giữ nguyên vẹn khi gia nhập vào đời sống của hiện tại và đi tới tương lai. Đó là lẽ tự nhiên của phát triển. Bởi vậy, khi xem xét văn hóa dân tộc với truyền thống và giá trị của nó như là “tấm căn cước” của dân tộc để hội nhập vào thế giới, giúp cho sự nhận thức và đánh giá dân tộc đó là gì và như thế nào trong sự hiểu biết và cảm thông của cộng đồng nhân loại thì nhận diện những khác biệt là rất cần thiết và quan trọng. Những khác biệt đó không chỉ là cái tốt, cái đẹp mà có cả những khiếm khuyết, hạn chế. Cái mạnh của dân tộc này (về văn hóa) có thể là cái yếu của dân tộc khác.
Để nỗ lực vươn tới phát triển và có đóng góp xứng đáng vào phát triển chung, tính tự ý thức của dân tộc là điều không thể thiếu.
Song trong tiếp xúc giao lưu, đối thoại giữa các nền văn hóa trong hội nhập, thái độ chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau, không lấy mình làm chuẩn để đánh giá cái ngoài mình cũng vô cùng cần thiết. Đây là thực chất của tinh thần khoan dung và văn hóa khoan dung mà ai ai cũng cần phải nhận biết, trau dồi và thực hành trong ứng xử. Đây cũng là điều cần thiết để gây dựng quan hệ văn hóa giữa các dân tộc trên thế giới đáp ứng yêu cầu dân chủ, bình đẳng giữa các dân tộc, cùng hướng tới hòa bình, phát triển, đoàn kết, hợp tác và đồng thuận.
Bản chất của khoan dung làm cho văn hóa đóng vai trò thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau, là nhịp cầu của tình hữu nghị và sự thân thiện, đồng cảm và thông cảm lẫn nhau trong việc cùng tham gia, cùng chia xẻ những trách nhiệm chung vì phát triển chung của cả thế giới nhân loại. Bản sắc và bản lĩnh văn hóa của dân tộc trong việc thể hiện những giá trị văn hóa chung, phổ quát của nhân loại và khẳng định phần sáng tạo riêng của dân tộc mình trong việc làm phong phú, sâu sắc những giá trị đó hoặc sáng tạo ra những giá trị thực sự của mình - Đó mới thực là điều cần nhấn mạnh khi bàn về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong hội nhập quốc tế./.
GIỚI THIỆU VỀ ĐẠI LỄ KỶ NIỆM 1000 NĂM THĂNG LONG - HÀ NỘI
Thăng Long - Hà Nội là nơi địa linh nhân kiệt với bề dày nghìn năm lịch sử, từ Hồ Gươm lung linh huyền thoại đến núi Tản sừng sững linh thiêng, nơi đâu cũng khắc ghi những dấu ấn của ngàn năm văn hiến. Cũng chính từ nơi đây tinh hoa của dân tộc kết tinh, hội tụ và lan toả, trở thành biểu tượng của nền văn hiến Việt Nam. Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội là niềm tự hào không chỉ của người dân Thủ đô mà còn dành được sự quan tâm của nhân dân cả nước bởi Hà Nội là trái tim của cả nước, cả nước hướng về Hà Nội.
Vịnh Hạ Long đã 2 lần được tổ chức UNESCO công nhận là di sản thế giới bởi giá trị đặc biệt, ngoại hạng mang tính toàn cầu về cảnh quan và về địa chất - địa mạo. Điều đó có nghĩa là vẻ đẹp của Vịnh Hạ Long đã được khẳng định, không cần bàn cãi. Việc trở thành kỳ quan thiên nhiên thế giới hay không do một tổ chức nào đó bình chọn không phải là vấn đề quan trọng. Vịnh Hạ Long đã và đang đứng ở một đẳng cấp khác và đã được UNESCO chính thức công nhận .
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro