Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

duong loi cach mang

Câu 1: Giải thích việc đảng cộng sản việt nam ra đời là do yêu cầu tất yếu của lịch sử?

Trả lời:

Lịch sử đã trao quyền lãnh đạo cách mạng cho giai cấp công nhân mà Đảng Cộng Sản Việt Nam là đại biểu. Trước khi Đảng ta ra đời, các phong trào yêu nước chống Pháp mang ý thức hệ phong kiến, tư bản... đều lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước mà thực chất sâu xa là khủng hoảng về vai trò lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến.

Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phầm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Học thuyết Mác - Lênin khẳng định rằng, Đảng công sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Quy luật chung này được đồng chí Nguyễn ái Quốc vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, nơi giai cấp công nhân còn ít về số lượng, nhưng người vô sản bị áp bức, bóc lột thì đồng. Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nông và phong trào yêu nước dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Thứ hai, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự phát triền cao và thống nhất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng ta là con đẻ của phong trào cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động và trưởng thành thông qua đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến. Thứ ba, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả thống nhất của phong trào cách mạng trong cả nước, là sự đồng tâm nhất trí của những chiến sĩ tiên phong. Những người cộng sản Việt Nam dù ở trong Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng hay Đông Dương cộng sản liên đoàn, lúc bấy giờ tuy có những vấn đề bất đồng, nhưng đã biết đề cao trách nhiệm của đội tiên phong, đặt lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp lên trên hết nên đã sớm thống nhất vào một đảng duy nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thứ tư, đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng được thể hiện trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tãt là phù hợp với yêu cầu của toàn Đảng và toàn dân. Cương lĩnh đâu tiên trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng và lãnh đạo phong trào cách mạng từ khi Đảng được thành lập

- Đảng ra đời đã chấm dứt thời kì khủng hoảng sâu sắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu nước ở nước ta từ cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Sự kiện đó chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành " đủ sức lãnh đạo cách mạng'.

- Đảng ra đời mở ra một bước ngoặt lớn cho cách mạng Việt Nam. Với cương lĩnh đúng đắn, Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, là nhân tố quyết định phương hướng phát triển và đưa đến thắng lợi trong sự nghiệp giành độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội.

- Đảng ra đời, cách mạng Việt Nam thật sự trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Kể từ đây, cách mạng Việt Nam nhận được sự ủng hộ của cách mạng thế giới, đồng thời cũng đóng góp to lớn cho cách mạng thế giới

Đảng CMVN ra đời ngày 3/2/1930 là 1 tất yếu ls bởi vì:

- Đó là kq chín muồi của cuộc đấu tranh dt và đấu tranh giai cấp trong thời đại ls mới.

- Đó là kq của sự chuẩn bị công phu và khoa học của lãnh tụ NAQ trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.

- Đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa M-L với phong trào đấu tranh của GCCN và phong trào yêu nước của nhân dân VN trong đầu thế kỷ XX. Sự ra đời của ĐCSVN vừa thể hiện quy luật phổ biến của sự hình thành chính đảng CM của GCCN (chủ nghĩa M-L kết hợp với phong trào công nhân) vừa thể hiện quy luật đặc thù VN (chủ nghĩa M-L kết hợp với phong trào CN và p/trào yêu nước VN).

ĐCSVN ra đời ngày 3/2/1930 đã đánh dấu 1 bước ngoặt trọng đại của ls CMVN là vì:

- Chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối gpdt "tưởng chừng không có lối ra" ở VN. Mở ra 1 thời kỳ mới: thời kỳ CMVN đi theo con đường CMVS, sự nghiệp gpdt gắn liền với giải phóng GCCN và giải phóng toàn xh, độc lập dt gắn liền với CNXH.

- Kết thúc thời kỳ đấu tranh tự phát để chuyển sang thời kỳ đấu tranh tự giác của GCCN. Chứng tỏ GCCN VN đã đến độ trưởng thành đủ sức nắm vai trò lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong cách mạng của mình.

- Mở đầu 1 thời kỳ mới CMVN, đã có 1 nhân tố cơ bản nhất, quyết định nhất, dấy lên các cao trào cách mạng, đưa CMVN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác

Câu 2 : phân tích cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng

Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Chính cương vắn tắt của Đảng nhận định rằng, Việt Nam là một xứ thuộc địa, nửa phong kiến, công nghiệp không phát triển "vì tư bản Pháp hết sức ngǎn trở sức sinh sản, làm cho nghành công nghiệp bản xứ khổng thể mở mang được".

Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng (tháng 2/1930) thảo luận, thông qua. Tuy rất "vắn tắt", ngắn gọn, chỉ có 282 chữ, nhưng Chánh cương đã xác định rõ ràng nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh đó đã vạch ra đường lối cơ bản của CMVN, là ngọn cờ đoàn kết toàn Đảng toàn dân đứng lên đấu tranh gpdt và giải phóng người lao động, giải phóng xh.Sau khi phân tích tình hình xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX dưới ách thống trị của thực dân Pháp và triều đình phong kiến nhà Nguyễn, Cương lĩnh đã chỉ ra mâu thuẫn cơ bản trong xã hội việt nam, đó là mâu thuẫn dân tộc điều này hoàn toàn đúng với thực tiễn. Đồng thời Chánh cương vạch ra đường lối của cách mạng Việt Nam là "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Nghĩa là làm cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản

Cương lĩnh đâu tiên của Đảng là cương lĩnh giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ cách mạng mà Cương lĩnh vạch ra là "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập tổ chức ra quân đội công nông" thâu hết sản nghiệp lớn... của tư bản đế quốc,..thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân nghèo mở mang công nghiệp và nông nghiệp thi hành luật ngày làm 8 giờ" Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội dung dân tộc dân chủ và nội dung xã hội chủ nghĩa. Song, nổi bật là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai của chúng (đại địa chủ, đại tư sản phản cách mạng và vua quan phong kiến) giành lại độc lập, tự do, dân chủ cho toàn dân tộc. Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh của Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp cách mạng, các lực lượng tiến bộ và cá nhân yêu nước, tập trung lực lượng đánh đổ kẻ thù chủ yếu của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc Pháp và tay sai, mở đường cho cách mạng phát triển đến thắng lợi hoàn toàn.Trong khi khẳng định "công nông là gốc cách mạng", Sách lược vắn tắt của Đảng vạch rõ, "phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp" Về nguyên tắc liên minh, Sách lược vắn tắt đã viết: "Trong khi liên lạc với các giai cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp" Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, rồi dựng ra chính phủ công nông binh chứ không phải bằng con đường cải lương. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, đứng trong mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới mà đội quân tiên phong của mặt trận này là Liên Xô. Sách lược vắn tắt ghi rõ: "Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp" Cương lĩnh đầu tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng "thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng... phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến", đồng thời phải liên minh với các giai cấp cách mạng và tầng lớp yêu nước khác, đoàn kết họ, tổ chức họ đấu tranh cho giai phóng dân tộc và để đi tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản Cương lĩnh đâu tiên là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế cộng sản và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, là sự thể hiện tập trung tư tưởng cơ bản của đồng chí Nguyễn ái Quốc về cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước thuộc địa nửa phong kiến. Sau 30 nǎm đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh; (tức đồng chí Nguyễn ái Quốc) đã viết: "Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta... Vì vậy, Đảng ta đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân không ngừng củng cố và tǎng cường". Đảng cộng sản Việt Nam ra đời phản ánh sự phát triển tất yếu khách quan của xã hội Việt Nam.

Cùng với Chánh cương vắn tắt, đồng chí Nguyễn Ái Quốc còn soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng thông qua Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt, Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng. Tất cả những tài liệu này đã trở thành những văn kiện quan trọng có tính kinh điển của Đảng ta, xác lập đường lối chiến lược, sách lược cơ bản của cách mạng Việt Nam và tôn chỉ, mục đích, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Câu 4 : phân tích đánh giá đường lối xây dựng bảo vệ chính quyền và kháng chiến chóng pháp ở đảng ta?

dảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng... Với đường lối cực kỳ sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng đã huy động được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm, củng cố giữ vững chính quyền cách mạng, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.

Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Đảng ta đã tổ chức, lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược.

- Đường lối kháng chiến: Tiến hành chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.

Chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc là nội dung cơ bản đường lối quân sự của Đảng. Đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, dân, chính nhất trí, động viên nhân lực, tài lực, vật lực của cả nước để tiến hành kháng chiến thắng lợi.

Kháng chiến toàn dân :

- Cuộc kháng chiến của ta được Đảng nêu ra ngay từ đầu là một cuộc kháng chiến toàn dân. Với phương châm "đánh lâu dài", ta có thời gian để tổ chức, động viên nhân dân tham gia kháng chiến. Ta càng đánh thì lực lượng nhân dân ta càng mạnh, đồng thời nếu không động viên để toàn dân tham gia thì không thể có lực lượng đánh lâu dài.

Kháng chiến toàn diện :

- Muốn làm cho khẩu hiệu " toàn dân kháng chiến" có nội dung thực sự thì cuộc kháng chiến phải tiến hành trên cáclĩnh vực : quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá ... Thông qua những hình thức của cuộc kháng chiến toàn diện như thế thì toàn dân ta mới phát huy được hết năng lực của mình trong cuộc kháng chiến.

- Pháp không những đánh ta về quân sự mà còn phá ta cả về kinh tế, chính trị, văn hoá ..., cho nên ta không những phải kháng chiến chống Pháp trên mặt trận quân sự mà phải đánh bại mọi âm mưu phá hoại về kinh tế và chính trị của chúng phải kháng chiến toàn diện.

Để tổ chức cho toàn dân tham gia kháng chiến, đánh thắng kẻ thù có tiềm lực kinh tế và quốc phòng mạnh chúng ta phải tiến hành kháng chiến toàn diện trên tất cả các mặt trận; chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa xã hội và ngoại giao.

Kháng chiến lâu dài :

- Đây là một chủ trương vô cùng sáng suốt của Đảng ta, dựa trên sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh của nước ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp một cách khoa học, không hề khiếp nhược trước vũ khí của kẻ thù. Đồng thời cũng kế thừa và phát triển truyền thống " lấy yếu chống mạnh", " lấy chính nghĩa thắng hung tàn".

- Lúc đầu địch mạnh hơn ta về vật chất, vũ khí, nhưng ta có ưu thế tuyệt đối về tinh thần chính trị. Chỗ mạnh của ta là rất cơ bản, có thể lấy tinh thần chính trị khắc phục khó khăn về vật chất, nên ta càng đánh mạnh, càng đánh càng thắng.

Chúng ta phải kháng chiến lâu dài. Vừa kháng chiến vừa xây dựng lực lượng làm chuyển

hoá lực lượng ngày càng có lợi cho ta, tạo điều kiện đánh tháng địch từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Kháng chiến lâu dài trải qua 3 giai đoạn: phòng ngự, cầm cự, phản công.

* Kháng chiến dựa vào sức mình là chính :

- Ta rất coi trọng những thuận lợi và sự giúp đỡ của bên ngoài, nhưng bao giờ cũng theo đúng phương châm kháng chiến của ta là tự lực cánh sinh, vì bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng phải do sự nghiệp của bản thân quần chúng, sự giúp đỡ từ bên ngoài chỉ là điều kiện hỗ trợ thêm.

- Ta có nỗ lực chủ quan mới sử dụng và phát huy được hết sức mạnh của mình. Nếu không dựa vào sức mạnh là chính thì không thể đánh lâu dài được.

- Đường lối kháng chiến của Đảng được thể hiện một cách sinh động và phong phú trong thực tiễn kháng chiến của quân và dân ta trên tất cả mọi hoạt động, đã đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

Đường lối này thể hiện tính chất của cuộc kháng chiến của nhân dân ta.

- Cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh cách mạng chính nghĩa, chống lại một cuộc chiến tranh phi nghĩa của thực dân Pháp.

- Cuộc kháng chiến của ta nhằm mục đích : giành độc lập và thống nhất Tổ quốc, bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân.

- Trong cuộc kháng chiến này, dân tộc Việt Nam vừa đấu tranh để tự cứu mình, vừa đấu tranh cho hoà bình thế giới. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam do đó còn là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, vì dân chủ và hoà bình.

Đường lối kháng chiến của Đảng là kết quả của sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và kinh nghiệm chống ngoại xâm của dân tộc vào hoàn cảnh của đất nước. Đường lối đó trở thành ngọn cờ đưa đường dẫn lối để nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược.

Câu 5: vì sao nói đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước.. mang tính đúng đắn sáng tạo độc đáo?

Trả lời :

1. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam

Đảng ta nhận rõ sứ mạng, trọng trách lịch sử của mình trước giai cấp, trước dân tộc và phong trào cách mạng thế giới. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nhhĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kịp thời đưa ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, đồng thời kiên quyết chỉ đạo thực hiện bằng được mục tiêu, con đường, nhiệm vụ cách mạng đặt ra.

Đảng ta đã đánh giá đúng chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, hiểu rõ những thuận lợi cơ bản cùng những khó khăn của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến vĩ đại để định rõ bước đi, đánh bại kẻ thù rất mạnh và vô cùng xảo quyệt. Trong cuộc đọ sức với đế quốc Mỹ, Đảng ta là Bộ tham mưu của giai cấp, của dân tộc, lãnh đạo toàn dân và toàn quân tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh trên mọi trận tuyến.

Đảng ta coi trọng nguyên tắc "Tập trung dân chủ" và vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên tắc đó trong điều kiện chiến tranh. Trong quá trình cuộc kháng chiến đầy biến động, toàn Đảng từ Trung ương đến chi bộ, dù ở miền Nam hay miền Bắc, là một khối thống nhất vững chắc, toàn Đảng một ý chí, một quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. BCHTW Đảng, Bộ Chính trị đã đưa ra những quyết định chính xác, kịp thời, đúng thời cơ, tạo nên những chuyển biến căn bản, đưa cuộc kháng chiến giành thắng lợi từng bước, tiến tới thắng lợi hoàn toàn.

.

.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã trở thành nhân tố quan trọng, sức mạnh to lớn, góp phần đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta ra sức tăng cường đoàn kết quốc tế, coi đó là một bộ phận hợp thành của đường lối chống Mỹ, cứu nước và đặt hoạt động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận có tầm quan trọng chiến lược, góp phần tạo nên sự vượt trội về thế và lực của nhân dân ta; tạo nên một mặt trận rộng lớn của nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam và ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược. Trong đó, các nước XHCN và phong trào cộng sản quốc tế là nòng cốt, đặc biệt sự giúp đỡ to lớn có hiệu quả của Liên Xô, Trung Quốc, tạo ra một tập hợp lực lượng mạnh mẽ bao vây cô lập và tiến công đế quốc Mỹ từ mọi phía.

Quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược là quyết tâm lớn của Đảng, cũng là quyết tâm của toàn quân, toàn dân, của cả nước Việt nam

Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ

Đại hội lần thứ IV của Đảng đã khẳng định: "Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta" ( *). Đường lối đó được thể hiện trong một loạt chủ trương mang tính hệ thống, kết hợp những vấn đề về nguyên tắc, chiến lược với những vấn đề về sách lược và phương pháp, hình thành một giải pháp tối ưu đưa cách mạng và kháng chiến tiến lên một cách vững chắc, từ giai đoạn mở đầu đến giai đoạn kết thúc. Nó tạo nên sức chiến đấu to lớn của cả nước, của toàn dân tộc, đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ sâu rộng và mạnh mẽ nhất của thế giới trong điều kiện quốc tế rất phức tạp, bảo đảm cho quân và dân ta đánh thắng từng bước, tiến lên đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.

Đường lối đó chỉ ra phương hướng giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa chống đế quốc và phong kiến, giữa nhiệm vụ giải phóng đất nước với xây dựng đất nước, giữa cách mạng nước ta với cách mạng thế giới, giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.

Khi hạ quyết tâm chống Mỹ, giải phóng miền Nam, Đảng ta xác định dứt khoát, cách mạng XHCN ở miền Bắc đóng vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ tiến trình cách mạng nước ta; cách mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Tuy là hai nhưng trên thực tế đã quyện với nhau làm một, do một Đảng lãnh đạo, một nhân dân, một dân tộc, một quân đội tiến hành, tạo thành sức mạnh chung của cả nước, trong đó sức mạnh lớn nhất là ở miền Bắc, ở hậu phương.

Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của con đường cách mạng bạo lực được thực hiện bằng hai lực lượng cơ bản, lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân; bằng hai hình thức đấu tranh cơ bản: Đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự kết hợp chặt chẽ với nhau. Trên cơ sở nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, biết đánh thắng từng bước, đẩy lùi địch từng bước, tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn

Câu 6: Nhận thức mới về mô hình công nghiệp hoá hiện nay ở nước ta gồm những điểm chủ yếu nào?

Trả lời:

"Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng đất nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sớ vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

"Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn ; phát triển toàn diện nông thôn, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản ; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế, trước hết ở những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển.

Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả cao.

Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ.

Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại.

Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như: chế biến nông, lâm, thủy sản, khai thác và chế biến dầu khí, một số ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, du lịch.

Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ".

Câu 7: Phân biệt kinh tế thị trường nói chung và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa?

Trả lời:

Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị trường. Vì thế kinh tế thị trường không chỉ là "công nghệ", là "phương tiện" để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế - xã hội, nó không chỉ bao gồm các yếu tố của lực lượng sản xuất, mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy, chứng tỏ không có và không thể có một nền kinh tế thị trường chung chung, thuần túy, trừu tượng tách rời khỏi hình thái kinh tế - xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị - xã hội của một nước. Do đó, để phân biệt các nền kinh tế thị trường khác nhau, trước hết phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội mà nhà nước và nhân dân lựa chọn làm định hướng, chi phối sự vận động phát triển của nền kinh tế đó.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế - xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là, nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố của xu hướng mới đang vận động, đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ nhất đóng vai trò "động lực" thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, hiệu quả; nhóm thứ hai đóng vai trò "hướng dẫn", "chế định" sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã xác định, bổ sung những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường, hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội.

Có thể nói rằng: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang những đặc trưng chung của kinh tế thị trường, vừa mang tính đặc thù, đó là định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật kinh tế thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường ở nước ta với các nước khác.

• Liên hệ việt nam ( cái này em thêm chị lược bỏ bớt nhé)

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có ba điểm rất cơ bản là: lấy chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu làm nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân; kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, thực hiện tốt các chính sách xã hội;

Việc thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa nguồn lực bên trong và bên ngoài để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.

Bên cạnh đó phải chủ động đổi mới, củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể để chúng trở thành nền tảng của nền kinh tế, có khả năng hướng dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết cũng như an ninh - quốc phòng, mà các thành phần kinh tế khác không có lợi thế hoặc đầu tư không có hiệu quả. Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn.

Thứ hai, kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chính

- Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội.

Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc của kinh tế thị trường, như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội...

Thứ ba, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực hiện cơ chế đó sẽ bảo đảm tính định hướng, điều khiển hướng tới đích xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế theo phương châm: nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh

Câu 8: Giải thích 5 quan điểm chỉ đạo nhiệm vụ thể chế hoá nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong giai đoạn 2010 đến 2020 của Đảng ta?

Trả lời:

5 quan điểm chỉ đạo của đảng:

1.Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.

2.Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế; giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường.

3.Chủ động, tích cực với quyết tâm chính trị cao, tập trung giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc, đồng thời phải có bước đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm.

4. Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

5. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Giải thích:

1- Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo; từng bước làm cho mọi thành viên xã hội đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Ðảng.

2- Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh

- Hoàn thiện thể chế về sở hữu

+ Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng khẳng định sự tồn tại khách quan, lâu dài và khuyến khích sự phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với các loại tài sản mới, như trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên nước, khoáng sản...

+ Bổ sung luật pháp, cơ chế, chính sách khuyến khích,

- Hoàn thiện thể chế về phân phối

+ Hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối lại theo hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển..

+ Chính sách phân phối và phân phối lại phải bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người lao động và doanh nghiệp, tạo động lực cho người lao động, doanh nghiệp và bảo đảm lợi ích quốc gia-

+ Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp lại, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước

+ Tiếp tục đổi mới, phát triển hợp tác xã và tổ hợp tác theo cơ chế thị trường, phù hợp với các nguyên tắc : tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi và phát triển cộng đồng. Khuyến khích tăng vốn góp, tăng vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản và quỹ không chia trong hợp tác xã; phát triển các tổ hợp tác, hợp tác xã đa dạng, sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

+ Thực hiện nghiêm túc, nhất quán một mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế; khuyến khích phát triển các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước vào các lĩnh vực mà pháp luật không cấm

+ Tăng cường đầu tư và đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước để các đơn vị sự nghiệp công lập phát triển mạnh mẽ, có hiệu quả.

3- Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường

- Tiếp tục hoàn thiện thể chế về giá, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước.

- Ða dạng hóa các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng văn minh, hiện đại, chú trọng phát triển thị trường dịch vụ.

- Phát huy tốt hơn vai trò điều hành thị trường tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước như một ngân hàng trung ương hiện đại, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Từng bước mở cửa thị trường tín dụng, các dịch vụ ngân hàng phù hợp với cam kết quốc tế.

Phát triển đa dạng và nâng cao chất lượng các sản phẩm bảo hiểm.

- Xây dựng đồng bộ luật pháp, cơ chế, chính sách quản lý và hỗ trợ phát triển các tổ chức nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học - công nghệ và nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp

4- Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường

- Tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách khuyến khích làm giàu đi đôi với tích cực thực hiện giảm nghèo, vươn lên no ấm, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc và căn cứ cách mạng trước đây. Chính sách giảm nghèo không chỉ nhằm mục tiêu ổn định mà còn tạo động lực cho sự phát triển. Tạo điều kiện để mọi công dân nắm bắt được cơ hội làm ăn, nâng cao thu nhập và đời sống, được hưởng thành quả chung của phát triển.

- Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về bảo vệ môi trường, giám sát chặt chẽ việc thực hiện; phòng ngừa, ngăn chặn, không để phát sinh thêm các ô nhiễm mới, xử lý triệt để những điểm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; có chế tài đủ mạnh đối với các trường hợp vi phạm. Bảo vệ môi trường phải được coi trọng ngay từ đầu và trong suốt quá trình xây dựng, thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế. Có kế hoạch phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai; xây dựng kế hoạch ứng phó và giảm nhẹ tác động tiêu cực do sự biến đổi khí hậu.

5- Hoàn thiện thể chế nâng cao vai trò lãnh đạo của Ðảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế, tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và của nhân dân vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội

- Ðảng tăng cường chỉ đạo nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xác định rõ, cụ thể và đầy đủ hơn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là những nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Coi trọng đổi mới tư duy, công tác tuyên truyền, giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thống nhất nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. Bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đường lối, các chủ trương, chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội của Ðảng; lãnh đạo quá trình tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðổi mới công tác tổ chức và cán bộ, đặc biệt là cán bộ trong lĩnh vực xây dựng và thực thi thể chế kinh tế. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng các cấp phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Nâng cao vai trò của các tổ chức dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và của nhân dân trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tiếp tục hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để các tổ chức dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân tham gia có hiệu quả vào quá trình hoạch định, thực thi và giám sát thực hiện luật pháp, các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội.

Câu 9: văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội. Ys nghĩa của luận điểm này trong thời kỳ vn hội nhập kinh tế quốc tế

Trả lời:

Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng ta đã khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ( khoá IX) đã khẳng định, phát triển văn hóa gắn liền với phát triển kinh tế và xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị. Đảm bảo thực hiện tốt ba lĩnh vực trên là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Trong quá trình hội nhập và phát triển, không tránh khỏi nguy cơ mai một, thậm chí thất truyền văn hóa truyền thống. Chính vì vậy, chưa bao giờ việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống được đặt ra cấp thiết như ngày nay. Làm sao để phong tục tập quán, lễ hội dân gian, hồn văn hóa dân tộc thấm sâu vào đời sống đang ngày một phát triển, gần gũi, thân thiết đến mức trở thành một nhu cầu không thể thiếu, mỗi người đều có thể cảm nhận bằng trái tim, bằng khối óc, lòng đam mê, yêu kính và tự hào đến say lòng.

Đất nước của chúng ta trải bao thăng trầm lịch sử, nhiều khi bị kẻ thù đô hộ, tàn sát nhằm hủy diệt nền văn hóa phong phú và độc đáo, chúng hiểu rằng, nếu làm được điều đó sẽ khuất phục được dân tộc ta. Tự hào thay, chúng ta vẫn giữ được tiếng nói riêng, chữ viết riêng, phong tục tập quán riêng cùng bao lễ hội đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc: Cả dân tộc ta vẫn khắc ghi: "Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba". Thử hỏi nếu thiếu đi những điệu quan họ trữ tình, những điệu hát xoan tình tứ, những buổi trình diễn rối nước nơi ao làng... của đồng bào miền xuôi; những nét thổ cẩm duyên dáng, lung linh sắc mầu, cùng những điệu "xòe", điệu "khắp", "sli lượn"... và những tiếng khèn như tiếng của đại ngàn của đồng bào miền núi Tây Bắc; vũ điệu cồng chiêng, lễ hội đâm trâu... của đồng bào Tây Nguyên; những điệu hò ví dặm của đồng bào miền Trung; lễ Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây của người Khmer...; những làn điệu cải lương, "Hô bài chòi"... của người dân Nam bộ. Nếu thiếu đi tiếng đàn bầu thánh thót, tiếng sao du dương, cùng âm thanh tuyệt vời của các nhạc cụ được chắt lọc từ bao đời của đại gia đình các dân tộc Việt Nam, cuộc sống của chúng ta sẽ ra sao?

Thực tế ngày nay nhiều giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc đang bị sao nhãng, biến thể, giản lược và thưa vắng trong đời sống tinh thần của người dân. Điều đó đồng nghĩa với môi trường lành mạnh, tạo điều kiện cho văn hóa dân tộc đang bị thu hẹp dần. Cuộc sống phát triển ngày càng nhiều dịch vụ, tiện nghi hiện đại thì không gian cho những nghi lễ truyền thống sẽ càng bị thu hẹp, đó cũng là quy luật. Song "ta không thể ôm khư khư một thực thể mà luôn có sự biến động không ngừng theo quy luật của sự phát triển, cái gì nhàn nhạt, lưng chừng tất yếu sẽ bị đào thải, những gì có thể tồn vinh được sẽ là chính nó với tính đặc thù khu biệt, là tinh hoa, tinh thần của cả cộng đồng. Những giá trị văn hoá...cũng không nằm ngoài quy luật đó, bảo tồn là gìn giữ và phát triển trên tinh thần ấy." (GS.TS.KTS Hoàng Đạo Kính).

Trước sự cấp thiết bảo tồn và phát huy vốn văn hóa dân tộc trong thời kỳ mở cửa và hội nhập. Trước nguy cơ mất còn của các lễ hội truyền thống, nghệ thuật dân gian đang đặt ra ngày một gay gắt, thì càng đòi hỏi có sự chung tay gìn giữ của các cấp, các ngành và của mỗi người dân. Trong những năm gần đây nhiều lễ hội, phong tục tập quán khắp mọi miền được quan tâm phục dựng cũng xuất phát từ mục đích đó. Sự giao thoa văn hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên khắp mọi miền đất nước, thể hiện trên nhiều lĩnh vực như: Không gian kiến trúc, âm nhạc, mỹ thuật, ẩm thực... đem lại một diện mạo mới cho nền văn hóa. Các dân tộc hiểu thêm văn hóa các dân tộc và vùng miền trong cả nước, tạo điều kiện cho văn hóa các dân tộc giữ được nét đặc thù, vượt qua không gian nhỏ bé của bản làng, lan tỏa trong cộng đồng và trở thành thương hiệu của từng vùng, từng dân tộc, khơi nguồn cảm xúc sáng tạo cho các văn nghệ sỹ, các nghệ nhân dân gian. Ngay tại Thủ Đô Hà Nội, không mấy ai còn lạ lẫm với kiến trúc nhà sàn, văn hóa ẩm thực của các dân tộc ít người của Tây Bắc, Tây Nguyên...

Nhưng nếu những nhà hoạch định chính sách cho đến từng người dân đất Việt không thấm nhuần những điều tất yếu sẽ đến, thì rất có thể quá trình hòa nhập cũng đồng nghĩa với hòa tan các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Không có người Việt chân chính nào lại mong muốn con cháu của chúng ta sau này lại quên đi những giá trị văn hóa đã chắt lọc từ ngàn xưa. Bởi vì văn hóa là cái còn lại sau khi tất cả những thứ khác mất đi, mãi mãi còn thiếu ngay cả khi vật chất đã dư thừa. Cái chính là chúng ta làm thế nào để đứng trước "làn gió" hội nhập này, những giá trị văn hoá truyền thống ấy không những không mất đi mà còn được thăng hoa, tỏa sáng. Dân tộc ta từng vượt lên mọi sự hủy diệt của ngoại xâm tàn bạo nhất, chắc chắn chúng ta sẽ ngày một giữ vững và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Câu 10: Vai trò tích cực của chính sách xã hội trong ổn định xã hội phát triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng?

Trả lời:

Chính sách xã hội là một khái niệm không mang tính hệ thống mà mang tính lịch sử. Nhìn chung, trong quá trình lịch sử, trong sự chuyển đổi của các quan hệ về kinh tế và đời sống thì các quan điểm về mục đích và nhiệm vụ của "chính sách xã hội" lại được thay đổi khác nhau. Mục đích của "chính sách xã hội" là nhằm để cải cách xã hội trong những thời điểm nhất định, cho một dân tộc nhất định trước những vấn đề nghiệt ngã hoặc nghiêm trọng của xã hội. Chính sách xã hội" được hiểu là tất cả các biện pháp nhằm ngăn ngừa sự xuất hiện những rủi ro xã hội, điều tiết cân bằng những rủi ro xã hội, bảo vệ và cải thiện mức thu nhâp, mức trợ cấp và mức sống của từng cá nhân riêng biệt hoặc từng nhóm người trong xã hội. Chính sách xã hội" theo đuổi các mục tiêu làm hạn chế các rủi ro xã hội, ngăn ngừa việc xẩy ra những hậu quả xấu cũng như ổn định và cải thiện cơ sở thu nhập, các khoản trợ cấp cũng như đời sống của các thành viên trong xã hội

ự can thiệp của chính sách xã hội vào quá trình kinh tế được thể hiện đầy đủ ở các mặt sau:

- Thông qua các quy định của luật pháp, nhất là các quy định về thị trường lao động và quan hệ lao động nhằm khuyến khích phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng trong phạm vi xã hội kiểm soát được, đồng thời ngăn ngừa hoặc làm giảm bớt các hậu quả xấu của việc sản xuất kinh doanh gắn liền với quy mô của từng đơn vị kinh tế riêng (ví dụ như: điều kiện làm việc, tiền lương, lợi nhuận cho phép...).

- Thông qua việc chi trả bằng tiền nhằm điều tiết bổ sung cho việc phân phối lại thu nhập từ những đối tác tham gia vào thị trường cũng như hiệu quả của thị trường nhằm loại trừ sự nghèo đói, giúp đỡ vượt qua những rủi ro làm mất mát thu nhập trong quá trình làm việc cũng như xem xét đến việc bảo đảm những nhu cầu thiết yếu.

- Thông qua các nguồn phúc lợi bằng hiện vật hoặc bằng tiền trong lĩnh vực sức khoẻ nói riêng và và lĩnh vực xã hội nói chung mà đảm bảo đáp ứng đầy đủ các nhu cầu sống tối thiểu cho các thành viên trong xã hội và họ không phải chi trả cho những phúc lợi đó.

- Tổ chức tài chính cho các hoạt động của chính sách xã hội, đây được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước. Các nguồn thu từ thuế và từ đóng góp nghĩa vụ căn cứ vào thu nhập trong quá trình hoạt động kinh tế.

Chính sách xã hội sẽ điều tiết việc phân phối lại trong nền sản xuất xã hội và can thiệp vào quá trình kinh tế ngay từ khi hình thành, xuất hiện cũng như sử dụng các kết quả trong quá trình phân phối đó. Mối quan hệ giữa sự sáng tạo các giá trị mới của nền kinh tế quốc dân với hệ thống chính sách xã hội không chỉ là tác động một chiều. Cả hai hệ thống này mang tính tác động tương hỗ lẫn nhau. Tác động của hệ thống bảo đảm xã hội (an sinh xã hội) sẽ đảm bảo đạt được các chuẩn mực về sản xuất, về thu nhập và về việc làm trong xã hội, trong khi đó thì hệ thống cơ cấu kinh tế tác động ngược trở lại đến hệ thống chính sách xã hội. Khi đánh giá về tác động hai chiều này, tới nay vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận trái ngược nhau: Một mặt người ta cho rằng: phát triển hệ thống bảo đảm xã hội theo sự tăng trưởng kinh tế và việc làm sẽ bị yếu đi và là những nguyên nhân riêng biệt gây thiệt hại cho sự tăng trưởng, làm hạn chế khả năng cạnh tranh quốc tế và khu vực, đồng thời kéo dài nạn thất nghiệp. Nhưng mặt khác người ta lại cho rằng Nhà nước sẽ bảo đảm về sự tăng trưởng kinh tế và đảm bảo việc làm, tạo ra những điều kiện không thể thiếu được trong việc kết nối giữa hiệu quả nền kinh tế thị trường với sự điều tiết công bằng xã hội, đồng thời nền kinh tế sẽ thường xuyên chịu gánh nặng khi bỏ qua việc kết hợp giữa các chính sách kinh tế và chính sách việc làm. Đây là "khoảng trống" để tùy theo đặc trưng của từng loại hình kinh tế thị trường, tùy giai đoạn kinh tế - xã hội nhất định cũng như tuỳ thuộc vào vai trò điều tiết của Nhà nước ở mỗi quốc gia riêng biệt mà đưa ra các chính sách nhất định hoặc biết coi trọng những chính sách nào. Đồng thời, đó cũng phản ánh đặc trưng của yếu tố xã hội thể hiện theo từng loại hình kinh tế thị trường.

Câu 11: Phân tích những điểm mói trong đường lối đối ngoại hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ đổi mới của đảng ta?

Trả lời:

thực tiễn hoạt động đối ngoại của ta trong 20 năm đổi mới đã khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển của Đảng ta là đúng đắn. Chúng ta kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đó.

Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội X của Đảng, công tác đối ngoại trong thời gian tới bám sát những định hướng lớn như sau:

- Tiếp tục mở rộng và phát triển các mối quan hệ đối ngoại của ta đi vào chiều sâu, ngày càng ổn định và bền vững. Đặc biệt coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện với các nước láng giềng có chung biên giới, các nước Đông - Nam Á và Hiệp hội các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN). Thúc đẩy quan hệ hợp tác ổn định lâu dài với các nước lớn, các trung tâm kinh tế, chính trị của thế giới. Mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Trung Đông và Mỹ La-tinh, các nước trong phong trào Không liên kết... Tích cực hoạt động tại các tổ chức quốc tế và khu vực.

Tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, đảng cánh tả, phong trào cách mạng và tiến bộ có nhiều ảnh hưởng ở các khu vực trên thế giới. Mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền, đảng tham chính ở các nước trong khu vực và các nước có quan hệ đối tác quan trọng với nước ta. Tăng cường quan hệ với các chính đảng khác có quan hệ với Đảng ta và hữu nghị với Việt Nam.

Phát triển quan hệ với các đoàn thể, các tổ chức nhân dân ở các nước láng giềng có chung biên giới, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước trong khu vực và các nước lớn. Tích cực hoạt động tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng mà các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta là thành viên.. Mở rộng quan hệ với các tổ chức nhân dân các nước, các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế...

- Tiếp tục thúc đẩy giải quyết bằng thương lượng hòa bình những vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan; phấn đấu xây dựng đường biên giới trên đất liền và trên biển với các nước láng giềng thành đường biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển.

- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Mở rộng và củng cố quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo lập lợi ích đan xen, nhất là với các đối tác chủ yếu. Kết thúc đàm phán để gia nhập WTO; chuẩn bị tốt các điều kiện để tham gia các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương; tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tích cực tranh thủ và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA, thu hút FDI, chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trường, xây dựng các mối quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư lâu dài. Khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên WTO.

- Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền.

- Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu; ủng hộ và cùng nhân dân thế giới đấu tranh bảo vệ hòa bình, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang;

- Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, làm cho thế giới hiểu đúng về tình hình mọi mặt và công cuộc đổi mới của Việt Nam, ủng hộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, tình hữu nghị và sự hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, cùng phát triển giữa nhân dân ta và nhân dân các nước.

. Chăm lo bảo vệ quyền lợi chính đáng của bà con, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế; khuyến khích đồng bào hội nhập và thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp nước sở tại, chăm lo xây dựng cuộc sống thành đạt, nêu cao tinh thần tự trọng và tự hào dân tộc, giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc

Phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại của Đảng, hoạt động ngoại giao của Nhà nước và hoạt động đối ngoại nhân dân, giữa chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại, hoạt động đối ngoại và hoạt động quốc phòng, an ninh, giữa thông tin trong nước và thông tin đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp trên lĩnh vực công tác đối ngoại. Phân công, phân nhiệm rõ ràng, đề cao trách nhiệm và vai trò chủ động của các ngành, các cấp trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao liên quan đến đối ngoại; bảo đảm sự giám sát, kiểm tra chặt chẽ.

- Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại; có cơ chế quy tụ, phát huy trí tuệ tập thể và phối hợp tổ chức nghiên cứu các vấn đề cơ bản phục vụ công tác đối ngoại.

- Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vững vàng về chính trị, có năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #anh#ngo