Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Dưỡng Chân Tập

Dưỡng Chân Tập

Nguyễn Minh Thiện dịch

Chùa Tam Tông Miếu

 DƯỠNG CHƠN DIỆU LÝ DIỄN CA

Xem xong bộ sách "Dưỡng-Chơn"

Suy tôn Hiền-Thánh ban ơn giúp đời

Từng chương, từng mục, từng lời

Chơn-Lý vi diệu dạy người thoát mê.

Lạc đường biết lối trở về,

Lánh nơi tục lụy, cận kề chánh-chơn.

Rỡ-ràng một kiếp vi nhơn,

Chỉnh nhờ biết phép phục huờn Bổn-Lai

Người xưa xứng mặt thiên tài

Chỉ người tìm Đạo ở ngay thân mình.

Tiên-gia "tựu chánh" thần minh tỏ ngời.

Phật gia "diệu-giác" chẳng rời.

Ba nhà đồng thể "Tánh Trời" tối linh

Xem sách nghiệm lại thân mình

Tìm ra bí-yếu, tận tình sửa trau.

Người thượng-trí học hiểu mau,

Người căn trí thấp biết cầu học nên.

Dưỡng-Chơn chăm học siêng bền,

Noi gương Hiền-Thánh, Phật-Tiên khó gì.

Quyết lòng mở khiếu chơn tri,

Địa bàn sẵn có ngại chi kế tà.

Dưỡng-Chơn Diệu-Lý diễn ca,

Đồng thanh ca tụng thật là báu châu.

Kính mời đạo hữu xem mau,

Thực hành Đạo-Pháp sửa trau cuộc đời

Thuyền từ tách bến chiều mơi

Đưa người đến chốn thảnh thơi vô cùng

Lòng thành giữ vẹn thủy chung,

Tu thân một kiếp thành công muôn đời.

California ngày 22 tháng 9 năm 1993

LỜI GIỚI THIỆU

Sách "Dưỡng Chơn Tập" là một cuốn sách vô cùng quí báu và lợi ích cho người tu hành, muốn hiểu rõ Lý Đạo, muốn tìm Pháp, họặc đang hành Pháp tu giải thoát.

Cuốn sách này tổng hội chơn lý các bậc đại giác, đại ngộ viết ra để làm kim chỉ nam cho người muốn thoát ly trần cấu.

Có thể nói rằng, lời nói của các bậc tiền giác toàn là chơn ngôn, mật ngữ, chỉ chỗ "Ẩn khuyết" của Tam Giáo Đạo, là ngọn đuốc soi đường cho những người quyết chí vượt qua sông mê bể khổ để sang bờ bến giác ngộ.

Trong khi nghiền ngẫm cuốn "Dưỡng Chân Tập", tôi rất cảm kích lời dạy minh triết của các bậc tiền giác , nên nảy ý nói lại những cảm nghĩ của mình trong khi lãnh hội những điều dạy bảo sâu xa mầu nhiệm của các ngài, bằng những bài thi mở đầu cho các mục được trình bày trong sách

Tôi xin cống hiến món quà tinh thần này cho những bạn tu, đồng đạo đồng hành, để suy tư và giải trí trước khi khởi đọc các mục trong cuốn "Dưỡng Chơn Tập". Nay kính,

Thiện Trung

California December 24,1991

TỰA MỚI

(của Dịch-giả)

Cuốn Dưỡng Chân tập này có ít chỗ không hợp với khoa học bây giờ, như nói: qua biển là việc khó làm, mặt trời lặn xuống đất .v.v... Nhưng đó là những lời nói theo lối xưa, nay có người vì quen miệng mà nói luôn, thì cố chấp mà làm chi!

Chỗ nên chú ý là trong sách này có nhiều bài giải phân rành rẽ, rất có ích cho thế đạo, nhân tâm. Bởi vậy, tôi chẳng sợ tài sơ trí thiển, dịch ra để cống hiến cho đồng bào.

Người làm sách, tuy phần nhiều, rút lời Thánh Hiền trong sách Nho để xiển minh chánh giáo, nhưng cũng có luận qua lý Thích giáo và Đạo giáo. Cho nên sau này có bài tựa Quán thông tam giáo (Thông suốt cả ba đạo) của Bạch Tẫn lão nhân, là người tóm tắt ý kiến của tác giả và ghi lời phê bình sau mỗi bài.

Theo bản chữ Hán thì cuốn Dưỡng Chân tập phân ra làm hai quyển: quyển thượng và quyển hạ. Mỗi quyển dịch ra cũng khá nhiều. Trước kia muốn cho tiện bề phổ thông, nên xuất bản làm 4 tập nhỏ. Nay tái bản xin hợp chung vào một quyển cho đủ trọn bộ.

Năm Đinh Dậu, tháng sáu, ngày 26 (23 - 6 - 1957)

NGUYỄN MINH THIỆN kính đề

TỰA CŨ

(của Dưỡng-Chân tập)

Tháng giêng, năm Quý Mão, tôi ở kinh đô về ghé ấp của người bạn tôi, nghỉ lại thơ phòng. Thấy trên bốn vách phòng dán giấy chữ chập chồng, dày đặc như vảy cá, tôi mới bước lại xem: nào là đạo của trời đất, nhật nguyệt; nào là lý về quỷ thần, nhân vật; nào là thuật siêu sinh, trường sinh; nào là phép xuất thế, nhập thế. Chẳng có điều gì mà không chép đủ, chẳng có điều gì mà không tinh tường. Ấy thực là lời tỉnh thế, là phép tu thân.

Tôi mới xin phép bạn tôi chép hết ra, phân từng loại, rồi xếp tập. Khi thành sách rồi, lại chia làm quyển thượng và quyển hạ.

Sách này đem ngay những điều chân, lẽ ngụy trong tam giáo, cùng những tâm pháp của tác giả tự đắc mà bày tỏ hết ra dạy người, chẳng chút gì dấu diếm cả. Khiến cho kẻ xem cuốn sách này, nếu ngẫm nghĩ cho kỹ càng, tự nhiên thiện tâm phát hiện, rõ thấu đến chỗ tinh vi. Nhờ vậy mà kẻ mê đặng ngộ, người tà ra chính, chẳng lầm nhập theo bàng môn; người ám đặng minh, kẻ yếu ra mạnh, không nửa đường mà thoái bước. Vậy thì tập sách của bạn tôi đây sẽ có cái công giúp ích cho thế đạo, nhân tâm lớn biết mấy!

Bạn tôi đạo hiệu là Dưỡng Chân. Còn tôi già cả, vụng về, không giúp thêm đặng câu nào, chỉ có đề ba chữ "Dưỡng Chân tập", làm nhang hiệu sách này đó thôi.

QUÁN THÔNG TAM GIÁO

Thông Huyền lý (lý đạo Tiên) mà chẳng thông Thiền (đạo Phật), thế nào cũng mắc bịnh chấp nê. Thông Thiền lý mà chẳng thông Nho (đạo Thánh), chắc sẽ thành ra phe cuồn huệ.

Học Thiền, Nho thông rồi, mà lại mượn lý Đạo để rõ thông thêm nữa, chẳng những đời nay hiếm người, mà xưa kia trong hàng tăng nhân, đạo sĩ, trừ xứ Tử Dương, Liên Trì ra, thường không đặng mấy kẻ!

Năm Bính Ngũ, nhằm mùa hạ, một bữa kia, tình cờ tôi đến thư phòng của bạn tôi là Triệu Công, thấy trên bàn có một cuốn Dưỡng Chân tập. Hỏi ra cuốn sách này tự đâu mà có, thì mới biết rõ bạn tôi thỉnh nó tại chùa Huệ Phước, ở Hải Điền. Ông sư trong chùa này lại nhờ Trần Đề Đài trao cho. Đề Đài lại thỉnh của thầy dạy học trong nhà mình.

Tôi bèn mượn sách ấy đem về xem mới biết là của một người ẩn sĩ hiệu là Dưỡng Chân tử soạn ra. Tiếc vì trong đó không nói rõ họ tên, nhưng đoán là người trong nhóm Xích Tùng tử, Hoàng Thạch công thì chắc là không sai.

Cuốn sách này do nghiệp Nho, mà hiểu phép Thiền, lấy hư linh mà dưỡng Xá lợi; do phép Thiền mà chứng đại Đạo, mượn bát nhã để luyện Kim đơn. Bàn về bên "không", thì đều là chân truyền theo "cầm bông", "vẽ vách" ( ); luận đến lẽ Đạo, thì không có giá tá thuộc diên cọp, hống rồng ( ). Chỗ khoái vui của Khổng, Nhan ( ), thì nhẹ tay mà vẽ bày; còn phần tân truyền ( ) của Liêm, Lạc( ), lại tùy bút mà phát lộ. Hợp ba giáo đem về một mối, dẹp hết bạch mã, thanh ngưu, là điều huyễn tưởng; quy trăm nhà dẫn lại một đường, lậu tiết thiên tâm, thủy diện ( ), là chỗ tinh vi. Chẳng xây lầu các ở giữa không trung, mỗi bước có nấc thang; tạo thành cầu kỳ trong nơi huyễn hải, mọi nơi vạch đường vạch lộ.

Nạp tử (người mặc áo bá nạp, là chỉ tăng lữ) mới chiều nếm vị (nếm mùi đạo đức), chẳng cần mười quyển Lăng Nghiêm; Vũ khách (khách mặc áo lông, là chỉ đạo sĩ) đi đứng noi theo, nào dụng năm ngàn Đạo Đức (cuốn Đạo Đức kinh có năm ngàn chữ). Cưỡi ngựa ra đi, viếng ít nhiều chốn mây nước ba ngàn nơi; quay đầu trở lại, mới ngồi yên trong động tiên mười hai cảnh.

Nhân thấy quyển sách báu lạ, hiếm có, tôi bèn quên hẳn sự quê dốt của mình, thêm chút ý ngu, đưa ra khắc bản, ngõ hầu sắp tới ai muốn tầm lý chân, chẳng cần tới quán Bạch Vân; mà cũng từ đây, kẻ mong tầm đạo chánh, khỏi phải vào lầu Hoàng Hạc. Mò châu lượm ngọc, toàn mong nơi mắt sáng bậc cao minh; thoát xác phi thăng, ngõ đáp tấc lòng lành người tác giả.

Ôi! Kiền khôn lớn thế này, phải có khách tri âm; còn thế giới rộng dường kia, há không người kiến tính.

Vừa chấm bút đã suốt mấy lời, ấy vô tâm mà thành bài tựa.

Hiệu Càn Long, năm Đinh Mùi, thượng nguyên, ngày hoa đăng.

Bạch Tẫn lão nhân, tên tộc là Vương Sĩ Đoan, đề tựa này ở Bồng hồ ( ) tại trần thế (chót núi Hiểu Phong).

DƯỠNG CHÂN TẬP

1- ĐẠO

Đạo ở đâu xa phải nhọc tầm

Hỡi người tu học nhớ "Minh Tâm"

[1]

Đi vào "Thanh Tịnh" mà suy cứu

Bắt mối "Vi Mô" Đạo dễ cầm

Tầm Đạo chi xa phải nhọc công

Qui tâm tìm lại "Chủ Nhơn Ông"

[2]

Ông đi vắng mặt gà bươi bếp

Chó sủa đêm trăng, lòng hỏi lòng

Lộn xộn, lăn xăn Đạo khó tìm

Muốn hành Chánh Pháp "phải ngồi im,

Hỏi ta có phải là "Cầy Thịt"

Hay giống "Thiêng Liêng"

[3]

rõ nỗi niềm.

***

Ở trong khoảng trời đất này, con người muốn làm một việc vẻ vang đệ nhất, thì có chi bằng đọc sách. Còn ở trong hạng người đọc sách, mà muốn lên một bậc cao thượng tót vời, thì có chi bằng học Đạo.

Châu tử nói rằng: Đọc sách là để cầu Đạo, chẳng vậy thì đọc làm gì? Chứ học mà thi cử (Đây là chỉ hạng người đọc sách thuộc lòng để thi làm quan mà thôi, chớ không tìm cầu đạo lý để trau dồi đức hạnh) là việc ngoài phận sự, rất tiếc cho sự học ấy làm hư biết bao nhiêu người ta!

Đạo Đức kinh có nói rằng: "Cố lập thiên tử, trí tam công; tuy hữu củng bích dĩ tiến tứ mã, bất như tọa tấn thử Đạo". Nghĩa là: Cho nên lập ngôi thiên tử, đặt bực tam công, tuy có ngọc Củng và giục xe ngựa tứ, chẳng bằng ngồi một chỗ mà nghĩ thấu trong cái đạo này (Trong Đạo Đức kinh, chương 62, trước câu này có nói rằng: "Nhân tri bất thiện, hà khí chi hữu!" Nghĩa là: người nào mà chẳng lành, có phải bỏ họ đâu! Cho nên sau mới tiếp nói: "Cho nên lập ngôi thiên tử, đặt bực tam công", là chủ ý để dạy người chẳng lành nói trước kia. Thiên tử chủ đạo, tam công dạy đạo. Tam công là: Thái sư, Thái phó, Thái bảo, để làm kiểu mẫu cho Thiên tử, Thiên tử phải noi theo đó mà ban bố cái đạo. Chữ Củng, trong bản xưa viết ngọc bằng chữ cọng, là ngọc bích to. Bích là vật làm bằng ngọc, hình tròn thể trời, giữa trống thể đạo. Bản nay hay viết tài xóc bằng chữ cọng, là hai bàn tay nắm lại. Tư Mã Ôn Công nói: ngọc bích lớn như hai bàn tay nắm lại (củng thủ) cũng thông. Chữ tiến nghĩa là tiến đạo, dẫn tới, giục tới. Con ngựa tứ là ngựa tốt, ngựa hay, bốn con thắng vào một cỗ xe. Tuy có ngọc bích là lạ và giục xe ngựa tứ là tốt, mà dạo chơi như ngôi thiên tử, bậc tam công, nhưng chẳng bằng ngồi mà nghĩ tới, nghĩ thấu cái Đạo thanh tịnh vô dục này. Ý nói: đừng thấy ngọc bích, ngựa tứ mà ham, vì không phải quý gì đâu, chỉ có thêm hại là lấy lòng tranh giành.

Duy có Đạo là quý mà thôi.

Sao vậy?

 Đạo Đức kinh có tiếp giải rằng: Bất viết: cầu dĩ đắc, hữu tội dĩ miễn dã? Nghĩa là: Chẳng nghe nói: cầu gì đặng nấy, có tội được khỏi tội sao?

Có chỗ giải nghĩa câu trên là: Lập ngôi thiên tử, đặt bậc tam công đặng đem cái Đạo này mà cứu người. Tuy đem cho ngọc củng bích là quý, xe ngựa tứ là tốt, chẳng bằng đem gieo cái Đạo này cho nhiều. Nhưng dịch như thế, thì bỏ mất chữ "tọa").

Bottom of Form

Hồi xưa, các đế vương đã lo đạo vua mà lại gồm đạo thầy. Cho tới đời đức Khổng tử, cái đạo này chẳng còn ở tại nhà vua nữa, mà ở nơi kẻ sĩ (người thông chữ nghĩa, nghiên cứu học vấn).

Đời nay, không phải là không có kẻ sĩ, mà ai là kẻ thấy mà biết Đạo, ai là kẻ nghe mà hiểu Đạo?

Vả chăng Đạo như con đường cái, thì có phải khó biết đâu!

Lỗi tại người không cầu đến nó mà thôi, chớ cầu thì đắc đặng. Bậc thiên tử đặng Đạo thì gìn giữ được thiên hạ, các chư hầu đặng Đạo thì giữ được đất nước, quan khanh đại phu đặng Đạo thì gìn giữ được cửa nhà, kẻ sĩ thứ đặng Đạo thì gìn giữ được thân mình.

Tài là món người ta dùng mà ít khi đến rồi việc (chỉ được một lúc).

Đức là món đồ để trau mình mà hữu danh. Còn Đạo thì vô danh, nên dùng nó được hoài.

Cho nên người quân tử chỉ lo học Đạo này, công danh phú quý đều coi như phù vân, mặc nó lại lại đi đi, trong lòng vẫn không không, chẳng chút nào động cả.

Có kẻ nói: người quân tử chỉ lo học Đạo, mà làm vậy có đặng ích gì chăng?

Đáp: Có.

Dám xin chỉ bảo giùm.

Người học Đạo là học cái ở nơi ta. Tâm phải mở rộng, thân phải tươi nhuần, bịnh có thể mạnh, chết có thể khỏi. Sự ích như thế này, thì còn sự ích nào hơn nữa?

Lại hỏi: Người học Đạo quả thiệt có sự ích, với sự vui đó sao?

Mà nay, người thế thấy có kẻ học Đạo thì đều mắng họ là làm xằng, là tại sao vậy?

Đáp: Đạo Đức kinh nói rằng:

"Thượng sĩ văn đạo cẩn nhi hành chi, trung sĩ văn đạo nhược tồn nhược vong, hạ sĩ văn đạo đại tiếu chi; bất tiếu bất túc dĩ vi Đạo".

Nghĩa là: Người thượng sĩ nghe Đạo thì ân cần mà làm theo, người trung sĩ nghe Đạo thì như nhớ như quên (không chú ý lắm), kẻ hạ sĩ nghe Đạo thì cười lớn lên: nếu không cười thì đâu đủ gọi là Đạo (vì Đạo rất khó, chẳng phải bọn tầm thường mà hiểu được).

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Trong hạng người đọc sách, cao thượng đệ nhất, thì có chi qua người học Đạo. Mà từ xưa đến nay, kẻ học Đạo đông đúc, còn người thành Đạo lưa thưa, cái duyên cớ ấy bởi đâu?"

"Trước phải có căn khí cao, kế đó phải đọc sách nhiều, sau rốt phải sớm gặp thầy. Căn khí chẳng cao thì không mong gì xuất thế được; đọc sách chẳng nhiều thì không thể thấy lý mà nhìn biết ngay được; không gặp thầy sớm thì hay lầm vào nẻo bàng môn, tiểu thuật; rốt cuộc chẳng đặng thành đại Đạo."

"Hãy coi thử Chung, Lữ, Tử, Dương, Ngọc Thiềm, Khưu Tổ chư tiên, đều là hạng đĩnh ngộ siêu quần, lòng đầy muôn quyển, lại sớm gặp tiên sư. Nhờ vậy mà danh nêu tiên tịch (bộ tiên), thân thoát trần phàm."

"Bằng trong ba điều đó mà sót lấy một, chắc khó mà thành Đạo. Nếu bảo rằng lời ta có chỗ gì sai, thì xin hỏi lại các Ngài nơi Bồng đảo."

2-LÝ

Lý trong trời đất rất cao sâu,

Chánh Pháp Vô Vi, Đạo nhiệm mầu,

Là "Tánh"

[4]

là "Tâm" là "Mạng" lý

Buông dây mất mối Đạo nan cầu

Ai hay tầm "Lý" Đạo trong ta

Kiến tánh minh tâm rõ Đạo Nhà,

Đạo có một, Một là sự thật

Vì sao phân rẽ chánh hay tà?

Có "Lý" đương nhiên có "Khí" "Hình"

Mất trung

[5]

mất chánh, "Lý" không minh,

Có lành, có dữ, vì mê chấp;

Trở lại ngôi "Trung" ngộ Đạo mình.

Đạo có một mà thôi. Ở trên trời thì gọi là mạng, ở nơi người thì gọi là tính, ở tại vật thì gọi là lý. Cái lý này lưu hành ở trong khoảng trời đất, phát hiện trong việc làm hằng ngày. Sự gì, vật gì đều có cái lý đương nhiên (cái lý phải như vậy) không thể rời ra được, tức là có cái lý sở dĩ nhiên (duyên cớ làm ra vậy), không thể dời đổi được.

Duy người quân tử hay nói lý, thì mới lấy lý mà xét vật: phải quấy, lành dữ, nhân đó mà bầy ra. Như vậy gọi là vô ngã (không có cái "ta"). Vô ngã thì công chánh, công chánh đặng quang minh (sáng suốt), quang minh ắt cư xử nhằm lẽ, mà lại cùng tột tính vật (biết hết tính vật). Nếu lấy cái "ta" mà xét vật, thì sanh lòng thương ghét không chừng, chẳng khỏi nhậm tình (theo cái ý riêng của mình). Nhậm tình thì tà tây, tà tây bị hôn tối, hôn tối ắt điên đảo, rối loạn, chỉ biết có "ta" mà không biết có lý.

Bottom of Form

Có lý thì có khí, khí lộ mà lý ẩn. Có khí thì có hình, hình lộ mà khí ẩn. Lý chẳng bao giờ không "trung" (ngay chính), còn khí thì "thiên" (chinh nghiêng) (Chữ "trung" và chữ "thiên", tôi dịch là ngay chính và chinh nghiêng, đây là lấy cái thể mà nói. Còn về phần dụng, chữ "trung" có nhiều nghĩa, xin xem cuốn chót Dưỡng Chân tập có bài chữ "trung" giải rõ.), hình lại cũng "thiên". "Trung" không có gì chẳng lành, "thiên" có chỗ chẳng lành. Nếu muốn biến đổi cái chẳng lành vì "thiên" mà ra, đặng quy về chỗ lành ở ngôi "trung", thì khi trong lòng mới máy động, phải tỉnh sát cho nghiêm mật.

Điều gì phát nơi "trung", theo lý, thì khuếch sung nó. Điều gì phát nơi "thiên" thuộc hình, thì tuyệt bỏ đi. Lâu lâu như vậy thì cái lý tự nhiên thường còn, cái dục tự nó tiêu mất.

Cái lý trong thiên hạ chẳng thể không cùng cứu, mà cũng chẳng thể nào cùng cứu cho trọn hết. Có chỗ bí yếu, là phân biện sự lầm lạc trong tâm ta mà thôi. Phân biện thì quang minh, quang minh đặng chân thành, chân thành thì sẽ rõ các lý trong thiên hạ ở tại ngôi "trung" vậy.

Thánh nhân có nói rằng: Thương thì muốn nó sống, ghét thì muốn nó chết. Đó là một sự lầm (Ái chi dục kỳ sinh, ố chi dục kỳ tử, thị hoặc dã).

Nhân một hồi nóng, giận quên thân mình, quên luôn đến người thân thích nữa. Chẳng phải là lầm sao? (Nhất triêu chi phận, vong kỳ thân, dĩ cập kỳ thân, phi hoặc dư?)

Do theo lời Thánh nhân nói trên mà bàn rộng ra: Khi mình gặp cảnh nghèo hèn, lại mong cầu giàu sang cũng là lầm. Tà giáo mê hoặc lòng người, phép vua cấm mà còn chưa dẹp hết. Ta muốn lấy lời nói suông để cản, ngăn, cũng là lầm.

Cái Đạo của Thánh Hiền phải chờ người xứng đáng mới thi hành được.

Nay muốn cho bọn dung chúng làm, chẳng phải lầm sao?

Việc có cái mà mình không thể nào làm nên, vật có cái mà mình không thể nào có đặng, nhưng cứ toan tính hoài trong tâm, cũng là lầm.

Người ta có kẻ không phương ép uổng theo mình, việc có phần chẳng thế làm nên vội gấp, nhưng cứ bo bo lo lắng, chẳng phải lầm sao?

Phận sự của mình bây giờ chẳng làm, mà phát sinh ý muốn bông lông ra ngoài, đó là lầm vậy.

Lời Thánh nhân chẳng sợ, mà lại tưởng đến việc tà tây của bọn vô đạo, không phải là lầm sao?

Biết rõ một điều lành là "trung", mà chẳng trí trung (thật hiện chỗ "trung" đó); biết rõ muôn phép do tâm, mà chẳng liễu tâm (dọn sạch cái tâm mình, xét thấu cái tâm mình), ấy là lầm.

Biết rõ sinh tử là việc lớn, mà chẳng nhận bản thể tự tính là không sinh (vô sinh); biết rõ vô thường đến chóng mau, mà chẳng tìm hiểu nó vốn chẳng mau chậm (vô tốc) (Thể tức vô sanh, liễu bản vô tốc),

không phải lầm sao?

Lý là món ta sẵn có, khươi vạch ra thì tự nhiên có.

Dục là cái ta vốn không, hằng xét rõ tự nhiên không.

Nén dục gìn lý chẳng phải là hai việc riêng nhau.

Hễ nén được một phần dục tức là gìn được một phần lý.  Hễ nén được mười phần dục tức là gìn được mười phần lý.  Lợi cho người có chi hơn lý, mà người gìn giữ lý thì ít.

Tổn cho người có chi hơn dục, mà người buông theo dục lại nhiều. Người có lòng dục cũng như cây có sâu ăn ruồng ở trong ruột, chẳng bao lâu thì phải chết.

Người ta lấy dục làm vui, mà chẳng biết dục là lửa dậy, chẳng giục tắt nó thì nó sẽ đốt cháy mình.

Thần hồn bị nó chưng khô, tửu sắc làm hao tinh khí, sinh bệnh, sinh ghẻ, ngày đêm rên xiết.

Nhà Phù đồ (nhà Phật) gọi chết rồi sau mới chịu tội, mà chẳng rõ sinh tiền đây đã chịu tội trước rồi.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Chu tử có nói: Minh bất chí tắc nghi sinh, minh vô nghi giả.”

Nghĩa là: Rõ chẳng tới nơi, tới chốn, ắt sinh lòng ngờ vực. Hễ rõ được rồi, thì hết ngờ vực. Kẻ nhiều năm khảo cứu nghĩa lý mà còn chưa nhìn được lý cho chánh chân, làm theo lý cho phải phép, huống hồ là kẻ không có công học vấn. Người thế nhờ MINH LÝ mà bảo thân vẫn nhiều, vì TRANH LÝ mà táng thân lại cũng chẳng phải ít. Cho nên, Thiền gia lại cho Lý là chướng ngại"

3-THIÊN ĐỊA

Đại Đạo vô hình, khó phát minh,

Nhìn cơ Trời Đất, học tâm linh

Minh tâm nghiệm xét cơ huyền nhiệm,

Mà biết Đạo Cao để giữ gìn.

Đất Trời muôn thuở rộng thiên-nhiên

Mở máy Âm Dương học Đạo Thiền,

Mở mặt "Tam Tài"

[6]

trong vạn vật;

Thoát ly trần cấu mới làm Tiên

Tánh Mạng là căn Đạo nhiệm mầu,

Song tu Tánh Mạng khỏi tha cầu,

Đất Trời gồm đủ, thông giềng mối;

Chánh Pháp do "Tâm" đạo thượng đầu.

Đại Đạo không có hình, Trời Đất là cái Đạo có hình. Trời Đất không nói ra lời. Thánh nhân là Trời Đất nói ra lời. Thánh nhân ta không đặng giáp mặt với các ngài, chớ không phải là không thấy kinh sách. Thấy kinh sách mà rõ được nghĩa lý, thì có khác chi thấy Thánh nhân đâu?

Trời sinh hình thể ta, Trời phú bản tính ta, trong ngoài chi chi đều là của Trời, thì ta đâu dám trái vặn. Ta ở trong cảnh Trời, Trời ở trong tâm ta. Ai thấy Trời Đất mà bắt chước cái thanh tịnh, thì đối với Đại Đạo

[7]

không hai. Có một chút ý riêng, thì mang tội chẳng nhẹ. Hình thể có tính thiên nhiên; noi tính thiên nhiên mà hành, thì tự nhiên không bị lụy về nhân dục. Việc làm mỗi ngày có phép nhất định: giữ phép nhất định mà cử động, thì ắt khỏi lỗi bởi trái quy (trái phép tắc, quy củ).

Một động, một tịnh, cái Đạo của người chẳng có giờ nào là không cùng Trời Đất tương hợp.

Một hô, một hấp, cái khí của người chẳng có giờ nào là không cùng Trời Đất tương thông.

Thường thấy mặt trời lặn xuống đất là cái tượng trưng của tâm hỏa hạ giáng. Còn mặt trăng mọc giữa trời là cái biểu hiệu của thận thủy thượng thăng. Ngửa mặt lên xem ngôi Bắc thần (Sách Luận ngữ nói rằng: "Vi chánh dĩ đức, thí như Bắc thần cư kỳ sở như chúng tinh cũng chi". Nghĩa là: Trị dân lấy đức ví như ngôi Bắc thần ở chỗ mình (không động), mà các vì tinh tú đều chầu chực chung quanh ngôi ấy vậy. Ý nói: "Bất động nhi hóa, bất ngôn nhi tín". Nghĩa là: Ở một chỗ mà cảm hóa, không nói rằng mà thiên hạ tin. Chu tử nói rằng: Bắc thần là chỗ trung gian, không có tinh tú, mà cũng chẳng động chút nào. Bắc thần đã không tinh tú, mà người ta muốn lấy nơi đó mà làm cực điểm, thì không lẽ chẳng có cái gì để nhìn cho biết. Bởi cớ mới chọn một vì sao nhỏ ở một bên mà gọi là Cực tinh (Từ nguyên). Kỳ thật, vì sao nhỏ này cách Bắc thần, về bên hướng Bắc, một độ. Bắc thần chẳng phải là Bắc đẩu như nhiều người hiểu lầm, chính là ngôi Tử vi ở trung ương, chủ tể hết các vì tinh tú.), tuy thấy nó ở một chỗ, mà các vì tinh tú đều chầu xung quanh. Ngôi này gọi là Thiên xu, tức là then chốt của Trời.

Trời đã có then chốt, lấy đó mà làm căn bản cho Tạo hóa. Người cũng có then chốt, lấy đó làm nguồn cội cho tính mạng. Cũng thời người như nhau, mà có người gọi là đại nhân, ấy là đức mình hợp với đức của Trời Đất vậy.

Thử xét coi cái tâm ta và cái tính ta có hợp với Trời Đất là bao nhiêu. Chỗ nào hợp thì cố gắng thêm, chỗ nào không hợp thì mau sửa đổi. Như thế có lo gì không làm đến bậc đại nhân.

Trời sinh, Đất thành, là đại phụ mẫu của chúng ta. Trời động, Đất tịnh, là đại sư giáo của chúng ta. Thánh Hiền đã qua là con thảo Trời Đất, còn Thánh Hiền sẽ đến là cháu hiền của Trời Đất. Ai hay yêu cha mẹ mình, thì đức lớn sẽ đặng mạng Trời làm vua (như vua Thuấn) hoặc đặng ban Đại Đạo. Ai hay kính thầy dạy mình, là học từ bậc thấp mà lên bậc cao.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Người không sợ Trời là vì thấy Trời ở xa. Cái điểm quan trọng của bài này, bất quá có một câu: Trời

[8]

ở trong tâm ta. Con người nếu thật biết rằng Trời ở trong tâm mình, dám không sợ sao? dám không kính sao? Sợ, kính lâu rồi thì mới có thể minh tâm, có thể kiến tính, có thể thành Phật, có thể làm tổ. Chỉ lo một điều là biết rồi quên rồi đó sao."

4-NHÂN-SINH

Nhơn-sanh là giống của trời gieo

Xuống thế si mê chịu phận nghèo

Nghèo tánh, nghèo tâm, nghèo đạo-đức;

Mau tìm Đạo-Lý thoát cơn eo.

Cơn eo đeo-đẳng chịu thân hèn

Tánh tục, tâm phàm, sống đã quen

Muốn biết con đường về cội phúc

Tìm Thầy chỉ mối Đạo Thiêng-Liêng

Thiêng-Liêng ân độ kẻ chơn tu

Mở khóa phàm thân

[9]

thoát ngục tù

Một kiếp "Chơn-Thân" là vĩnh kiếp

Bỏ đời qua Đạo tiến êm ru.

Nhân sinh là Thái cực. Thái cực động thì sinh dương làm hỏa, hỏa là thần. Thái cực tịnh thì sinh âm làm thủy, thủy là tinh. Thần hỏa, tinh thủy hợp đúng phép thì kết lại làm căn bản cho nguyên khí, ở giữa khoảng hai trái thận.

Chúng ta trước khi sinh ra, cái khí bẩm thanh trọc là do nơi Trời phú, chứ con người không can dự việc đó.

Mà khi đã sinh rồi, cái nhân phẩm tà chính do nơi người tạo ra cho mình, chứ Trời chẳng chủ trương được nữa.

Trời Đất sinh người, hạng thượng trí vẫn ít, mà hạng hạ ngu cũng ít, duy có bậc trung nhân rất nhiều.

Trung nhân hay tự cường, nghĩa là ráng hết sức mình, cùng thượng trí sẽ đồng bậc.

Trung nhân mà tự khí, nghĩa là đánh liều thân mình (nhận mình là kẻ vô dụng, không muốn làm gì) cũng hạ ngu chẳng khác chi.

Nay người ta chỉ biết mình là nhờ cha mẹ sinh ra, mà chẳng biết ta và cha mẹ ta, cùng Trời Đất, đều nhờ Đạo sinh ra.

Cho nên người quân tử trước phải cầu Đạo, đặng rồi mới không hổ với Trời Đất, thẹn với cha mẹ.

Tử Cống nói rằng: "Cái Đạo của vua Văn, vua Vũ chưa sa tới đất (mất biệt), còn ở nơi người" (Tử Cống viết: Văn Vũ chi đạo vị trụy ư địa, tại nhân (Luận ngữ, chương 29)). Chẳng phải nói người đời Xuân Thu mà thôi, cũng chỉ người đời nay. Chẳng phải nói người đời nay mà thôi, cũng chủ người đời sau nữa.

Nhất nhân sinh lai hữu nhất thân,

Nhất thân giai hữu nhất chân nhân.

Chân nhân linh diệu thông thiên địa,

Chân nhân thanh tịnh vô ai trần.

Chân nhân tự cổ bất tăng giảm,

Chân nhân từng lai mạc tử sinh.

Đãn năng dưỡng đắc chân nhân tựu,

Thắng như bần tử hoạch vạn cân.

Nghĩa là:

Mỗi người sinh ra có một thân,

Một thân đều có một chân nhân.

Chân nhân linh diệu thông Trời, Đất,

Chân nhân tịnh thanh dứt bụi trần.

Chân nhân từ trước không tăng giảm,

Chân nhân đến nay chẳng tử sinh.

Chỉ lo dưỡng được chân nhân ấy,

Hơn đứa khó nghèo gặp vàng cân.

Mạnh tử nói rằng: Chỗ con người ta khác với loài cầm thú, chỉ có một chút. Kẻ thứ dân bỏ ra, còn người quân tử giữ lấy chút ấy (Mạnh tử viết: Nhân chi sở dĩ dị ư cầm thú giả, kỉ hi; thứ dân khử chi, quân tử tồn chi. (Mạnh tử, chương 22)). Chút ấy là chân tính hoặc gọi là chân nhân như trên đó cũng được. Giữ nó thì thành Thánh, thành Hiền, bỏ nó thì làm chim, làm thú. Đương lúc bỏ nó ra, tức thì biến làm chim, thú (biến trong tâm), chẳng phải đợi chết rồi hay là đến kiếp sau.

Như nay Trời có ngũ hành, là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Chẳng ngừng gọi là hành (đi). Nếu ngừng một chút, thì hết gọi là hành nữa.

Như nay người có ngũ thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Chẳng biến đổi gọi là thường. Một niệm vừa biến thiên, thì hết gọi là thường nữa.

Nhưng ngũ hành, ngũ thường này đều có đủ trong mình ta, tức là ngũ tạng: tâm, can, tì, phế, thận (Trái tim, lá gan, lá lách, buồng phổi, trái cật. Tì là lá lách, chứ chẳng phải bao tử. Bao tử, tàu gọi là vị. Tì là tạng, vị là phủ. Vì tì vị cả hai đều thuộc về bộ phận tiêu hóa, nên người ta hay nói luôn tì vị). Ngũ tạng đây là gốc lớn sinh con người. Nếu phạm đến gốc lớn này thì không thể nào sống được. Cho nên thầy thuốc rành nghề trị bệnh, thì trước phải điều hòa ngũ tạng. Khi phát ra trong việc làm hằng ngày thì gọi là ngũ luân: Quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu (Vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bè bạn). Ngũ luân này là cái đạo thông dụng trong thiên hạ. Bỏ cái đạo thông dụng nói đây, thì còn gì là con người nữa. Cho nên các tiên vương dạy người, thì trước lo chỉ rõ cái lý ngũ luân. Còn người đời nay có kẻ quên thân thể, bỏ nhân luân để mà cầu Đạo. Thiệt họ chẳng biết cái quấy đó. Kẻ thế thấy vậy thất kinh lấy làm quý lạ, mà tôn sùng hạng người ấy, thì cũng là không biết cái quấy đó nữa.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Khí bẩm có thanh trọc là do nơi Trời, nhân phẩm có tà chính là do nơi mình. Chỗ này nói ra được rất hay. Một lúc có ngừng, không thể gọi là hành. Một niệm vừa biến, không thể gọi là thường. Chỗ này nói ra được lại càng hay hơn nữa".

5-LÃO (già)

Mang thân "Tứ-Đại"

[10]

trẻ rồi già

Một mảnh thân gầy xương bọc da,

Có tử, có sanh, bịnh khổ lão;

Cuộc đời "Bất-Tử" kiếm đâu ra?

Đang lúc thanh xuân nhớ tuổi già

Thiều-quang thấm-thóat lẹ đi qua

Chẳng hành Đạo-Pháp mà siêu xuất;

Chớ trách vô-thường bạc với ta

Kề tai nhắn nhỏ bạn tri-âm

Đạo-Pháp năng tri lý diệu thâm

Chẳng sợ tuổi già tu chẳng kịp;

[11]

Vô-Vi thanh-tịnh đạt âm-thầm.

Người đều nói:

Người tới 60 tuổi, mỗi năm thấy già thêm một chút.

Người tới 70 tuổi, mỗi tháng thấy già thêm một chút.

Người tới 80 tuổi, ngày ngày đều thấy già thêm. Nghĩa là: càng lớn tuổi, càng thấy mau già.

Ta nay đã trên 80 tuổi rồi, thì còn làm gì nữa?

Từ đây về sau, sống thêm được một ngày, ấy là Trời ban ơn cho một ngày, dám để cho nó luống mất sao?

Nay dẫu đắc Đạo, cũng đã trễ rồi, há dám để trễ thêm nữa sao?

Xưa kia, ba ông già bàn đến việc đời vô thường (không bền bỉ). Có một ông già nói rằng:

Kim niên tửu tịch diên tiền hội,

Bất tri lai niên hựu thiếu thùy?

Nghĩa là:

Năm nay tiệc rượu cùng ăn uống,

Chẳng biết sang năm, thiếu mặt nào?

Ông già khác lại nói: Ông nói xa vời lắm.

Kim vãn thoát hạ hài hòa miệt,

Bất tri thiên minh xiêng bất xiêng?

Nghĩa là:

Tối nay giày vớ cởi ra hết,

Chẳng biết sáng ngày, xỏ lại không?

Ông thứ ba bèn nói: Ông nói cũng còn xa!

Giá khẩu khí ký nhiên xuất khứ,

Bất tri tấn lai, bất tấn lai?

Nghĩa là:

Hơi thở này đây phì khỏi miệng,

Chẳng hay trở lại hoặc đi luôn?

Người trí chẳng để mất ngày giờ, kẻ dũng

[12]

chẳng để tính hai lần. Ngày nay biết Đạo, thì ngày nay phải hạ thủ. Giờ này biết được, thì giờ này tức là giờ hạ thủ. Nếu nói: Nay chưa đặng rảnh, để chờ ngày khác, thì ta e cho tới khi muốn thi hành, lại không đủ ngày giờ mà thi hành đó.

Bottom of Form

Con người có ba báu là: Tinh, Khí, Thần. Đến khi già rồi, thì e cho tinh khô, tinh khô ắt phải chết, e cho khí tán, khí tán ắt phải chết, e cho thần lìa, thần lìa ắt phải chết.

Tinh làm sao chẳng khô, có phải xa Sắc chăng?

Khí làm sao chẳng tán, có phải ít nói chăng?

Thần làm sao chẳng lìa, có phải vô Dục chăng?

Thần chẳng phải ép cầm ở lại được. Tâm tức (tâm ý và hơi thở) nương nhau, thì thần tự nhiên ở lại.  Khí chẳng khá hao tán. Chớ hay nói, giữ mực "trung", thì khí chẳng tán.

Tinh chẳng khá lọt mất. Đem tinh bổ óc, thì tinh chẳng lọt.

Có kẻ hỏi: Người già khí huyết đã suy, làm sao mà bổ nó được?

Đáp:

Cẩn thận lời nói, có thể bổ phế,

Ăn uống độ lượng, có thể bổ tì.

Tuyệt hết tư lự, có thể bổ tâm,

Trừ bỏ giận hờn, có thể bổ can.

Đoạn đức dâm dục, có thể bổ thận.

Xin chỉ thêm cho rõ!

Trả lời: Chẳng lo không bổ, duy lo bổ mà rồi lại tổn. Cho nên tôi thường nói: Một trăm ngày bổ mà chẳng thấy có dư, một mai tổn rồi thì liền nghe chẳng đủ. Mùa xuân xem cây cỏ, nhành là xum xuê. Đến cuối thu, lá rụng, sự sống về cội. Nhờ về cội mà cây chẳng chết, nên xuân tới cành lá lại nẩy sinh.

Cứ đây mà xét, thì sinh sinh chẳng cùng là Đạo của Trời vậy. Thứ nào về cội nấy là lý của mọi vật. Biết lý này mà chẳng trái với Đạo này, thì phải chỉ có bậc chân nhân không? Cho nên nói: "Chân nhân chi tức dĩ chủng" (Trang tử nói rằng: "Chân nhân chi tức dĩ chủng, chúng nhân chi tức dĩ hầu".

Nghĩa là: Chư tiên thở ở tại gốc (ý nói thở sâu

[13]

, tới đan điền), còn chúng sinh thì thở ở yết hầu (ý nói thở ngắn, chẳng khỏi cổ)), chữ chủng như chữ Căn (cội gốc). Ba tháng mùa đông là lúc trở về cội, thì phải tịnh để dưỡng cái gốc sinh.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Tâm tức nương nhau, chớ hay nói, giữ mực "trung", đem tinh bổ óc, thì ba báu bền chặt. Cẩn thận lời nói, ăn uống độ lượng, tuyệt hết tư lự, trừ bỏ giận hờn, đoạn đứt dâm dục, thì ngũ tạng đủ đầy. Ba báu đã bền chặt, ngũ tạng lại đủ đầy, có lý nào chẳng đặng diên niên ích thọ (thêm tuổi sống lâu) hay sao?

6-BỆNH (đau)

Bịnh là nổi khổ của nhơn sanh,

Vướng mắc triền-miên nợ ngũ-hành

Học phép dưỡng-sinh mau giải-thoát

Trợ an bản thể khỏe hồn linh.

Linh tánh vương mang bịnh khổ trần,

Thất tình lục-dục hại chơn thân,

Pháp-luân thường chuyển hằng khai giải,

Tụng niệm Nam-Mô

[14]

nhớ dưỡng thần.

Thần khí qui căn

[15]

, bịnh dứt liền,

Mới hay phép báu của Thần Tiên,

Trước lo giải bịnh cho cơ thể

Sau vượt sông mê cậy "Pháp-Thuyền"

Bệnh do đâu mà sinh? Đều bởi vọng tưởng mà sinh phiền não. Phiền não đã sinh thì phía trong thương tâm. Tâm bị thương thì không dưỡng được tì, cho nên không thèm ăn. Tì hư thì khí ở trong phế kém khuyết nên mới sinh ho hen. Ho hen thì thủy khí tuyệt lần, nên mộc khí chẳng sung, tóc đỏ gân bại. Bệnh truyền khắp ngũ tạng thì con người phải chết.

Con người đương lúc vọng tưởng mới động, tức là lúc tật bệnh phát sinh. Người nay chẳng xét, chờ có đau nhức trong mình, mới cho là có bệnh, mà không rõ cái nguyên nhân của nó phát ra chẳng phải hôm một mai gì. Kỳ thật, bịnh lần lần đến cho mình.

Bên ngoài cái thân của con người, thì có lục dâm là: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa (gió, lạnh, nóng, ướt, ráo, lửa).

Còn phía trong thì có thất tình

[16]

là: hỉ, nộ, ai, lạc, ưu, khủng, kinh (mừng, giận, buồn, vui, lo, khiếp, hoảng) (Tưởng nên theo thất tình trong sách Lễ là: hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục, đúng hơn vì giống với kinh Phật là: hỉ, nộ, ai, cụ, ái, tắng, dục.

Chữ ai với chữ ưu tuy khác, mà cũng đồng một nghĩa là: buồn. Còn ố, tắng, cũng đồng một nghĩa là: ghét).

Do thất tình mà bịnh, là bịnh nội thương, đó là chứng bất túc (chẳng đủ). Do lục dâm mà bệnh, là bệnh ngoại cảm, đó là bệnh hữu dư (có dư). Bất túc là bệnh hư tổn, thiếu sức, thì phải bổ. Hữu dư là bệnh nhiễm tà khí ở ngoài, thì phải tả (xổ). Khí huyết hậu thiên thuộc về hữu hình, thọ thương mà bị bệnh, nếu chẳng phản quán (Phản quán nghĩa là: xem ngược vào trong, đem tâm phóng ra ngoài trở lộn về) tịnh dưỡng thì chẳng mạnh được. Mười vị đại danh y trị bệnh thân người, Tam Giáo Thánh nhân trị bệnh tâm người.

Người thân bằng có bệnh, ta biết đi viếng thăm. Còn tự mình có bệnh, lại không biết viếng xem mình.

Nếu biết tự viếng xem mình: ở trong thì vô tâm, ở ngoài thì vô thân.

Tâm thân đều không, thì ai đâu thọ bệnh, ai đâu không bệnh?

Ai thấy được cái lý đó rõ ràng, thì tự nhiên vô sự.

Bottom of Form

Thường tưởng lúc bệnh, ắt tình trần lần thấy giảm. Thường lo ngày chết, thì lòng Đạo tự nhiên sinh.

Xưa kia, Tử Nguyên có tâm bệnh, gặp một vị cao tăng kêu mà rằng: Cái bệnh của ngài khởi tại phiền não, mà phiền não sinh nơi vọng tưởng. Vọng tưởng có ba thứ

:

[17]

Hoặc nhớ đến sự sang hèn, ân oán, một hai chục năm trước, cùng các thứ tình tự vẩn vơ khác. Đây là quá khứ vọng tưởng, nghĩa là vọng tưởng về sự qua rồi.

Hoặc việc xảy ra trước mắt, có thể xui theo một bề, mà lại cưỡng cầu sinh ra ý kiến nọ kia, dụ dự chẳng quyết. Đây là hiện tại vọng tưởng, nghĩa là vọng tưởng về sự bây giờ.

Hoặc trông mong ngày sau giàu sang theo như lòng mình sở nguyện, hoặc trông mong con cháu vinh vang kịp thời, cùng là những việc không thể nên được, không thể có được. Đây là vị lai vọng tưởng, nghĩa là vọng tưởng về sự xảy đến.

Ba thứ vọng tưởng này khi sinh, khi diệt. Thiền gia gọi là huyễn tâm

[18]

.

Hay xét thấy chỗ vọng này, thì nó liền tiêu diệt, Thiền gia gọi là giác tâm. Cho nên nói: "Chẳng lo niệm dấy lên, duy sợ giác trễ chầy; niệm dấy lên là bệnh, không tiếp tục là thuốc".

Vị cao tăng lại nói rằng: Cái bệnh của ngài cũng là thủy hỏa chẳng giao. Phàm nịch ái giai nhân mà làm việc hoang dâm

[19]

, đó là cái dục ngoại cảm.

Hoặc đêm tư tưởng giai nhân mà thành ra mộng mị di tinh, đó là cái dục nội sinh.

Nhiễm lấy hai cái dục này, thì hao tán nguyên tinh.

Nếu bằng đoạn nó được thì thận thủy tự nhiên được tươi nhuần, mới có thể lên giao với tâm.

Còn tư tưởng tìm kiếm chữ nghĩa, bỏ ngủ quên ăn gọi là Lý chướng.

Lo lắng về chức nghiệp, mà chẳng kể gì cực nhọc, gọi là Sự chướng.

Hai điều này chẳng phải thiệt là nhân dục, mà cũng tổn tính linh. Nếu hoà hoãn mà làm mỗi việc, thì tâm hỏa chẳng lên đốt nóng, mới có thể xuống giao cùng thận.

Cho nên Lục trần chẳng hiện duyên cảnh, Lục căn không chỗ phối hợp, trở ngược về một nguồn, thì Lục thức

[20]

không còn đi ra ngoài nữa.

Tử Nguyên y theo lời, ở riêng trong một thất, dẹp sạch hết muôn duyên, ngồi tịnh trên một tháng, thì bệnh tâm đâu mất.

Tự gia hữu bệnh, tự gia trị,

Ký tri tu yếu tảo thời y.

Thoản nhược kỵ y, chung úy bệnh,

Vô thường lâm đáo, hối truy trì.

Nghĩa là:

Tự mình có bệnh, tự mình hay,

Đã biết thì nên chữa trị ngay.

Bằng sợ thuốc này, dấu bệnh nọ,

Vô thường đến viếng hối là chầy.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Có câu ngạn ngữ: "Tâm bệnh khó chữa". Chẳng phải thật khó chữa, tại chẳng biết được phép, chẳng làm theo phép đó thôi.

Tam Giáo Thánh nhân giỏi trị tâm bệnh, một lời nói có thể làm kim chỉ nam cho kẻ mang tâm bệnh. Mà có ai tin theo đó đâu, có ai làm theo đó đâu!

Xưa kia, làm quan giữ cửa ải, tôi mang chứng tì hư hạ tiết (tì yếu, ỉa rót). Năm năm, thở hơi thỏn mỏn, uống thuốc nào cũng không thấy hiệu nghiệm, muôn phần không kể sống lấy một. Tôi bèn phế hết nhân sự, ngồi tịnh phản quán, thung dung xem bộ Tâm kinh. Một trăm ngày, đọc luôn cuốn kinh thì bệnh tôi liền mạnh.

Đó là phương pháp kỳ diệu tôi đã kinh nghiệm, nên mới đem ra mà công bố với ai là người có bệnh trầm trệ như tôi vậy."

7-TỬ (Chết)

Thế nhân cam chịu "tử" và "sanh"

[21]

Cứ xuống, cứ lên, chẳng học hành,

Hành pháp huờn sinh về bến giác;

Trăm năm đấm tục khổ thì đành.

Đành lòng chậm tiến bởi do ai?

Học phép "Trường-sanh" rõ biệt tài,

Nhứt điểm Linh-Quang

[22]

không thoái-hóa;

Lên thang Thượng Phẩm khỏe dài dài

Dài lâu cõi thọ đắc vô-sinh.

Chánh pháp vô vi độ lấy mình

Mình thoát lệ thường nhờ dũng chí

Vén màn sinh tử vẹt vô minh

Con người đương lúc khí huyết cường tráng, cái chí buông lung, thuận theo lục dục, thì có điều gì chẳng dám làm.

Đến khi khí huyết thọ hại, trăm bệnh nảy sinh, thì giờ chết sắp đến. Dẫu có con cái đầy nhà, thế cũng chẳng được; vô số tiền bạc, lo cũng không kham. Tới chết mới ăn năn, thì việc đã trễ rồi. Ai không sợ chết, mà phải sợ trước khi chết kìa.

Nếu chờ tới giờ sắp chết mới sợ chết, thì chết khó mà khỏi được. Ai không sợ bệnh, mà sợ bệnh trước khi bệnh kìa.

Nếu đợi tới lúc mang bệnh mới sợ bệnh, ắt bệnh khó mà trị được.

Thử xem trong thiên hạ, có vật gì trọng hơn tính mạng nữa không?  Thử xem trong thiên hạ có cái gì, lớn hơn sinh tử nữa không?

Chẳng có người nào không ham sống, nhưng lại chẳng ham cái đạo trường sinh. Chẳng có người nào không ghét chết, nhưng lại chẳng ghét việc làm giục chết.

Con người ở trên thế, việc này nối việc kia, phải chờ chết mới hết việc. Nếu chờ đến lúc sắp chết, thì có phương pháp nào mà tránh khỏi cái chết được?

Chi bằng sớm kiếp hồi tâm, đem mọi sự trần duyên, buông bỏ hết một lượt, làm người trường sinh xuất thế, chẳng là hay hơn sao?

Có kẻ hỏi: Trần duyên vương vấn, lâu tháng chầy năm, một mai buộc phải buông bỏ hết, chẳng là khó lắm chăng?

Đáp: Chỉ tại người chẳng khứng buông bỏ, cho nên nói khó. Chứ như chết rồi, có gì mà không buông bỏ chăng? Nay tuy chưa chết, phải tạm coi như chết rồi, buông bỏ hết một lượt, thì có chi không hay?

Lại hỏi: Buông bỏ là buông bỏ cái chi?

Đáp: Buông bỏ là buông bỏ cái hạt giống sinh ra tứ đại, ngũ uẩn, tình thức. Người chân tu hành, giống như kẻ chết hẳn một phen, rồi sống lại mới là tốt cho. Người chết hẳn là người không bị thế giới vấn vương, chứ không có đạo lý chi huyền diệu cả. Phải trọn yên tịnh như thế đó mới là phải. Câu: "Sớm mai nghe đạo, chiều chết cũng đành" (Tử viết: Triêu văn đạo, tịch tử khả hỉ. (Luận ngữ, chương 4)) là lời đức Phu tử dạy người rất cấp thiết, vì ngài cho rằng bậc thượng sĩ nghe Đạo, trong khoảnh khắc, liền thoát sinh tử.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Người xưa nói:

Cư thế tận tùng mang lý lão,

Thùy nhân khẳng hướng tử tiền hưu.

Nghĩa là:

Người thế bôn ba già mòn sức,

Mấy ai thấy chết chịu dừng chân.

Nếu có kẻ thấy cái chết trước mặt kia mà dừng bước lại, thì chẳng những hoãn được sự chết, mà còn có thể thoát khỏi sinh tử nữa".

8-KHỔ (cực nhọc, đau đớn)

Tứ khổ vương mang một kiếp trần,

Bởi vì không biết phép tu thân,

Chẳng thương giá-trị "Người cao quí".

Nên mãi trả vay lắm nợ-nần.

Nợ nần cõi thế cứ triền-miên,

Giải khổ nhờ tâm biết định thiền

Nhìn lại giả trần, cơn đại mộng;

Vô-vi bí-yếu, phép Thần Tiên.

Tiên Phật cũng tu một phép nầy,

Minh tâm, kiến tánh, nội nhiêu đây

Tam-hoa, Ngũ-Khí,

[23]

trường-sanh được;

Xuất tánh Chơn-Như bái-yết Thầy.

Con người ta chỉ có một chữ ái (ưa, mến), mà không trừ bỏ đi được. Mến danh lợi thì bị danh lợi ràng buộc, mến tửu sắc thì bị tửu sắc ràng buộc, mến thân gia (thân mình, nhà cửa) thì bị thân gia ràng buộc, mến con cháu thì bị con cháu ràng buộc. Nó đem cái chân tính này, ràng qua buộc lại, điên đảo đảo điên, lên xuống cõi nhân gian hoài, mà chịu không biết bao nhiêu sự khổ.

Chân tính thọ phụ tinh mẫu huyết mới kết thành thai. Cái y bào (cái bọc bao đứa nhỏ trong bụng mẹ) cũng như khám tối, câu thúc thân hình. Hễ mẹ ăn món nóng, như nước sôi đổ xối vào mình; hễ mẹ ăn đồ lạnh, như nước đá tẩm dầm thân thể.

Đến lúc khí đủ thay đầy, thì phải tung mà ra cho kịp. Vậy trước phải động phá cái y bào, vài ngày cái bọc đó mới rách. Người ta chỉ biết sự thống khổ của người mẹ chuyển bụng, mà chẳng biết đứa con cũng chịu khổ sở vô cùng. Tới khi sinh ra rồi, đứa con khóc oa oa lên một tiếng, thì cái khổ ở trong thai dứt từ đó. Cái khổ với thân này lại tiếp theo đó liền: trong thì lo đói khát, ngoài thì sợ lạnh nóng, biến ra các thứ đậu chẩn, nối nhau mà phát hiện.

Đó là cái khổ hồi lúc còn nhỏ.

Tới chừng nên người, lại có sự nghiệp. Làm vua chúa thì phải lo cho xã tắc, làm kẻ sĩ thứ thì phải lo cho thân gia, ngày đêm lao khổ, nằm ngồi chẳng an. Năm thứ hỏa đều dấy động, đốt hết khí thiên hòa, thì tật bệnh theo bên mình chẳng ngớt. Con người ta trước chịu cái khổ bệnh, sau tới cái khổ chết, rốt có cái khổ báo ứng, muôn kiếp luân chuyển, không lúc nào ngưng.

Thích giáo nói rằng: Ái biệt ly khổ, oán tăng hội khổ, cầu bất đắc khổ; nghĩa là: thương nhau mà lìa nhau là khổ, ghét nhau mà hợp nhau là khổ, có việc cầu xin mà không đặng là khổ. Nay người chịu khổ não, đều là mình làm mình chịu.

Có kẻ lầm không biết mà vào chỗ khổ, có kẻ biết rõ là khổ mà cũng không thoát khỏi được.

Ngạn ngữ nói rằng: Chớ có cưới vợ sớm, cưới vợ rồi sẽ có việc khó! Có nói thi đỗ cao, thi đỗ rồi sẽ chịu nghiệp to! Chớ nói cày cấy no, cày cấy rồi sẽ gặp khổ nhiều! Chớ nói người tu sướng, người tu rồi sẽ biết tâm khó!

Có kẻ hỏi: Cái khổ của người thế phần nhiều ở thân thể, còn cái khổ cuả người học Đạo chỉ ở trong tâm: không có dây mà tự mình trói buộc; không có việc mà tự mình lật đật; muốn thu, thu chẳng đặng, muốn phóng, phóng chẳng đi.

Vậy phải làm sao?

Đáp:

Kẻ học đó chưa đặng chân truyền nên mới chịu khổ như vậy. Nếu đặng chân truyền thu hay là phóng đều tại nơi ta, thì có gì là khổ nữa? Huống học Đạo là cái pháp môn an lạc. Phàm theo Đạo mà nói khổ, tức là ngoại đạo rồi.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Người thế thường đàm luận, rằng lúc con người lọt ra khỏi lòng mẹ, sao cũng khóc oa oa vài tiếng, thì đủ thấy từ đó về sau, đều là cảnh khổ.

Tôi lại nói: Chẳng phải vậy. Bởi mê thất chân tính, lòng muốn chẳng toại, cho nên trăm khổ dồn dập. Nếu khứng hồi tâm xu hướng về đạo đức, muôn vật đều có đủ trong mình ta, thì có cái vui nào lớn bằng!

Làm sao mà có khổ?"

9-TÍNH MỆNH

Tánh mạng gồm chung một bản thân,

Tánh về Tâm-địa thị Nguơn-Thần

Mạng về Nguơn-Khí sanh Chơn-Tức;

Tánh-mạng song tu, dứt nghiệp trần.

Trần ai phờ-phỉnh khách si mê

Bỏ Tánh quên Tâm mất lối về,

Kéo Tánh về Tâm, Tâm tự giác;

Giải tan nghiệp-chướng khỏe trăm bề.

Bề nào rồi cũng phải ra đi

Sống kiếp trầm-luân có nghĩa gì?

Tánh-Mạng không thông đường Đạo-Pháp

Trách sao không thoát nổi sầu bi.

Người mới vào học đạo, trước phải hiểu biết hai chữ tính mệnh. Tính có nguồn gốc là tâm địa, mệnh gốc là chân tức (tức là hơi thở sâu).

Gốc mệnh phải vững bền, nguồn tính phải trong sạch.

Có kẻ hỏi: Nguồn tính làm sao mới gọi trong sạch?

[24]

Đáp: Trong ngoài đều quên là trong sạch.

Lại hỏi: Gốc mệnh làm sao mới gọi vững bền?

Đáp: Thần khí giữ nhau thì đặng vững bền.

Tính ấy là thần, mệnh ấy là tinh với khí. Trong Thái cực đồ có nói: Vô cực chi nhân, nhị ngũ chi tinh, hai cái hợp lại đúng phép thì ngưng tụ, mới có con người sinh ra. Cái ta gọi tính đây là Vô cực chi chân (Vô cực chi chân là cái tính chân không trong khí Vô cực), còn cái ta gọi mệnh đây là nhị ngũ chi tinh (Nhị ngũ chi tinh là cái tinh ba trong hai số ngũ, ấy là khí mậu thổ lão dương hợp với khí kỷ thổ lão âm tại cung khôn, gọi là địa thập thành chi, kết thanh đao khuê).

Vô Dịch tử nói rằng: Tính ở trong tâm. Tâm không một phần, thì tính hiện một phần, tâm không mười phần, thì tính hiện mười phần. Tính hiện tức là tính tận (Tận nghĩa là thiệt hiện, tức là cái chi bị khuất lấp, nay đem bầy ra chỗ quang minh) rồi. Vậy thì dứt niệm tưởng là cốt để tận tính. Tính tận một phần, thì thần khí ngưng tụ một phần, tính tận mười phần, thì thần khí ngưng tụ mười phần. Công phu của người học Đạo chẳng có chi khác, bất quá là thung dung mà đạt tới chỗ đó thôi. Đại khái công phu toàn ở chỗ dứt niệm tưởng

[25]

, tâm tức nương nhau. Phép này rất nhanh chóng, là tại sao?

Khí là mẹ của thần, thần là con của khí. Tâm tức nương nhau, như mẹ con gặp nhau. Thần khí dung hòa, thành ra một phiến, khắn khít nhau hoài, lâu rồi sẽ thành đại định. Đó gọi là Đạo: quy căn phục mệnh, căn thâm đế cố, trường sinh cửu thị (về gốc để tiếp mệnh, gốc sâu thì rễ chắc, đặng mệnh sống lâu dài).

Hà tiên cô nói rằng: Hơi thở còn một mảy lông chưa định, thì mệnh chẳng phải của ta. Ta lại nói rằng: Tâm còn một sợi chỉ chưa quên, thì hơi thở không hề định được.

Con người có tính Trời Đất (phú cho), và tính khí chất (tập quán). Tính Trời Đất là toàn thể của Thái cực, mà hễ phân ra âm dương, ngũ hành, thì hóa ra tính khí chất, tức là cái thật thể cuả Thái cực, sa vào trong khí chất, chứ chẳng phải có một tính nào riêng khác.

Trương tử nói rằng: Biết đem ngược trở lại thì tính Trời Đất còn.

Có kẻ hỏi: Biết đem ngược trở lại có đạo chăng (có phương pháp chăng)?

Đáp: Có!

Lại hỏi: Mong sao đặng nghe giải!

Đáp: Nho nói: Tẩy tâm thoái tàng vu mật (rửa lòng thoái ẩn nơi chỗ kín mật). Phật nói: Quán tự tại (xem vào chỗ tự tại, bất động). Lão nói: Phục quy ư phác (trở lại tính chất phác, thật thà). Đây là giai đoạn trước của phép đem ngược trở lại.

Nho nói: Tri chỉ nhi hậu hữu định, định nhi hậu năng tịnh (biết chỗ ngừng, chỗ trú rồi, sau mới định, mới quyết; có định, có quyết rồi, sau mới lẳng lặng không xao xuyến). Phật nói: Chiếu kiến ngũ uẩn giai không (người vào sâu cảnh bát nhã soi thấy ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều không, chẳng có thật thể). Lão nói: Quy ư anh nhi (trở lại như con nít). Đây là giai đoạn giữa của phép đem ngược trở lại.

Nho nói: Vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã (không ý riêng, không cho cái này hơn cái kia, không cố chấp, không thiên lệch về mình). Phật nói: Vô nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý (chẳng có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân mình, ý thức). Lão nói: Phục quy vu Vô cực (trở lại lý Vô cực). Đây là giai đoạn sau của phép nói trên.

Tính người vốn lành, mà nếu nó có chỗ không lành, là tính khí chất đó. Biết nó là tính khí chất, mà không để nó khiến mình, là phương biến đổi tính khí chất.

Bát thập ngũ tuế đại lão hán,

Mỗi nhật tịnh tọa vô sự cán.

Đạo nghĩa minh liễu một để thuyết,

Kinh thư kiến liễu lãn đãi khán.

Thức đắc nhất tính thị chủ tể,

Chiếu phá vạn duyên giai không huyền.

Tán đạm, tiêu diêu, tự tại hoại,

Tái bất dữ nhân đàm xá đạm.

Nghĩa là:

Tám mươi lăm tuổi, một ông già,

Mỗi bữa ngồi thiền, việc lánh xa.

Đạo nghĩa rõ rồi, không luận đến,

Sách kinh thấy đó, biếng xem qua.

Đặng tường một tính là chân chánh,

Xét thấu muôn duyên ấy huyễn tà.

Tự tại, thung dung, ngày tháng rộng,

Chẳng cùng thế tục chuyện phì phù.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Vô cực chi chân là lý đó, là tính đó; nhị ngũ chi tinh là khí đó, là mệnh đó. Từ xưa đã có nhiều nhà đại Nho phát minh chỗ bí áo của một là lý, hai là khí, thì đủ thấy dưới trời này chẳng đâu có khí mà không lý, cũng chẳng đâu có lý mà không khí; còn trong mình người, chẳng đâu có tính mà không mệnh, cũng chẳng đâu có mệnh mà không tính.

Sao Thích, Đạo hai tông giáo, mỗi bên nắm một mối, xúm nhau cãi lẫy lăng xăng vậy? Xét ra đều bởi lý Thái cực, hai bên chưa rõ thấu. Cho nên nguồn tính mệnh xé ra thành hai miếng, mới có Thích môn trọng tính học, Đạo giáo trọng mệnh công, chia phe rẽ bọn, cũng như mão Thích, mão Đạo chẳng đồng vậy, rất làm cho những người triệt ngộ thất cười! Ôi! Sao không lấy bài này mà đọc cho kỹ?"

10-TÂM

Có một cái "Tâm" biến tánh tình

Lắm khi chìm đắm nẽo vô minh

Mau mau kéo thức đêm về trí,

Tánh trở về Tâm vạn sự linh

Linh tánh là Tâm chẳng động si,

Chẳng sanh, chẳng diệt, tánh toàn tri,

Trần duyên không trói, tâm thanh tịnh,

Nội ngoại am tường lý hiển vi.

Vi diệu cùng chăng một cái Tâm,

Trang-nghiêm thanh-tịnh Đạo thâm-trầm,

Chẳng mong làm Phật, Tâm là Phật,

Đạo tại thân trung giải hết lầm.

Người ta chỉ có một cái tâm: ra ngoài là tình, vào trong là tính, đi xuôi là thức, trở ngược là trí. Nay muốn đem cái đi xuôi ra ngoài, mà cho trở ngược vào trong, thì có phải là phản quán chăng?

Chữ phản có nghĩa là hay lộn về, hay trở lại. Còn chữ quán có cái công hay chiếu soi, hay xét biết. Cái thần của con người ở tại tâm, cái cơ (máy động) của tâm ở nơi con mắt. Cho nên con mắt dùng ở trong, thì tâm cũng theo nó mà ở trong tâm, chẳng những ở trong mà thôi, lại còn thêm định nữa. Cái tâm đã định rồi, thì tâm hỏa hạ giáng, thận thủy thượng thăng, miệng nếm cam tân (nước miếng ngọt), chân đạp hỏa đỉnh (vạc lửa), cái chỗ huyền diệu khó mà tả ra cho cùng tận.

Người ta chỉ có một cái chân tâm

[26]

, vì sao mà sinh vọng? Mê thì tợ như có (cái giả), giác thì hoàn lại không. Cho nên ta nói: Biết vọng thì hết vọng, phải buông xả ngay (Chữ Tàu là: Phóng hạ khan, nghĩa là: ý phải buông sáu trần ở ngoài, sáu căn ở trong và sáu thức ở giữa một lượt, bỏ cho thật hết, tới không còn cái chi khá bỏ. Đó là phép định tâm, thu thần.). Thành là dẹp cái trá ngụy, kính là dẹp cái khinh khi. Đương lúc vọng niệm dấy lên lăng xăng, chẳng cần phải dứt tuyệt, cứ xem trở ngược vào tâm, hay coi nó tưởng là tưởng cái chi. Chỉ hồi quang mà chiếu vào cho nhằm chỗ, thì nó liền lặng lẽ. Học Đạo không có phép nào khác. Thường thường phản chiếu

[27]

tức là học, hết vọng tưởng rồi tức là Đạo.

Chu tử nói rằng: Có một phần tâm hướng vào trong thì đặng một phần sức, hai phần tâm hướng vào trong thì đặng hai phần sức. Nếu kính cẩn thu thập, chẳng đeo đuổi theo vật ra ngoài, có lẽ nào chẳng đặng tâm chính? Tuy tập nửa tháng, chớ đủ xét nghiệm. Lại nói: Cầu phóng tâm, chẳng phải đem cái tâm về gìn giữ. Chỉ vừa hay tâm phóng, thì tưởng rằng: cái tâm này là tâm của ta, nó phải do mệnh lệnh ta. Ta chẳng đặng tin và theo nó mà đi rông dài ra ngoài. Tuy nó bị che lấp đã lâu, ta rán sức cũng kêu nó tỉnh được. Hét lớn một tiếng, trăm tà đều lui, rồi kế xen vào tâm. Tâm không thì kế đó nương theo hơi thở. Hơi thở trụ thì thần cũng theo nó mà trụ luôn. Đây là chỗ gọi: "Chân nhân chi tức dĩ chủng", nghĩa là hởi thở của vị chân nhân (Tiên, Phật) ở nơi căn đề (thâm thâm).

Con người sở dĩ khác hơn chim thú, duy tại cái tâm này mà thôi. Phật nói rằng: Những kẻ làm điều ác, kiếp sau biến làm chim thú. Sao vậy? Hình họ tuy là người, mà tâm họ không còn phải là người nữa. Thấy cảnh mà tâm chẳng động, gọi là chẳng sinh. Chẳng sinh tức là chẳng diệt, ắt cái tâm này không còn bị trần duyên buộc trói. Hết buộc trói tức là giải thoát vậy.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: Trong sách Đại học, nơi chương Chính tâm, trước nói "hữu sở" ("Hữu sở" có bốn loại là: "Tâm hữu sở phận sí, tắc bất đắc kỳ chính; hữu sở khủng cụ, tắc bất đắc kỳ chính; hữu sở háo nhạo, tắc bất đắc kỳ chính; hữu sở ưu loạn, tắc bất đắc kỳ chính. Nghĩa là: lòng có chỗ tức giận, thì không được ngay; có chỗ ham muốn, thì không được ngay; có chỗ sợ hãi, thì không được ngay; có chỗ lo lắng, thì không được ngay.) có bốn loại bệnh hữu tâm, thì tâm chẳng đặng chính; sau nói về "tâm bất tại" trong bốn câu ("Tâm bất tại" trong bốn câu là: "Tâm bất tại diên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị". Nghĩa là: Lòng hễ chẳng ở (đi rồi), trông mà chẳng thấy, lắng mà chẳng nghe, ăn mà chẳng biết mùi vị. Bốn loại "hữu sở" là nói cái bệnh của kẻ hữu tâm, bốn câu "tâm bất tại" là nói cái bệnh của kẻ vô tâm. Trên nói lòng chẳng nên có thiên chủ về sự gì, dưới nói lòng chẳng nên không thường ở trong mình mà làm chủ. Vậy thời ở trong hư không mà có chủ tể, ấy có phải là bài thuốc làm cho ngay lòng đó chăng?) là bệnh vô tâm, thì tâm cũng chẳng đặng chính. Rốt cuộc cũng không chỉ rõ cái công phu chính tâm, khiến cho kẻ học giả không biết đâu mà hạ thủ. Bài này đã chỉ rõ cái công phu chính tâm rồi, lại nói về hiệu quả của tâm chính, phân tích rẽ ròi, lời lời diệu xảo.

Chúng ta quả hay tuân theo đây mà thi hành, chẳng những có thể mong làm Thánh, làm Hiền, mà cũng có khi thành Phật, thành Tổ nữa. Kẻ hữu chí cùng Đạo này, sao lại chẳng gắng công vậy?".

11-TÌNH

Thất tình là lục dục cứ đa mang

Trói buộc thân tâm chịu khổ nàn,

Tự tánh si mê, ai giải-thoát?

Làm sao tỏ đặng mối Linh-Quang?

Linh-Quang xuống thế chịu trầm-luân,

Biết Đạo mà tu mới đáng mừng,

Lấy Tánh soi Tình, Tâm thoát tục;

Ngoài thân còn có cái "Kim-Thân"

Kim-Thân không nhiễm bụi trần-gian,

Không tuổi, không tên, giá ngọc vàng

Đại-Thánh Tề-Thiên vào Thủy-Động;

Thoát vòng cương-tỏa, chí hiên ngang;

Thất tình đã kể ở bài trước rồi (Coi thất tình đã kể ở bài chữ bệnh): hỉ (mừng), thì khí đi chậm, nộ (giận) thì khí đi lên, ai (buồn) thì khí tiêu tan, lạc (vui) thì khí hao tán, ưu (lo lắng) thì khí kết tụ, sầu thì khí đi xuống, kinh (sợ) thì khí loạn động. Hễ khí trái nghịch, thất thường thì nó biến sinh các bệnh. Giả như làm cho lòng bụng bành trướng, có khối hòn, làm cho hông sườn nhức nhối như kim châm, làm cho yết hầu bị nghẹt, làm cho khí lên hóa suyễn, sinh ra năm thứ bệnh tích (ở trong ngũ tạng), sáu thứ bệnh tụ (ở trong lục phủ), theo máu thành bệnh trừng (Trừng là khối hòn có hình thấy rõ, ở cứng một chỗ, đè nó thì nghe cộm tay. Ấy là bệnh đau có khối, có hòn trong bụng mà có hình), theo nước thành bệnh tịch (Tịch là khối hòn ẩn núp ở khoảng giữa hai xương sườn, đè nó thì dường như không có vật gì, mà đến lúc đau lại nghe như có. Ấy là bệnh đau có khối, có hòn trong ngực mà không hình). Đàm dãi vì đó mà ngưng đọng, kết lại như thao càn (đũi), như bầy nhầy không kể xiết. Cho nên kẻ biết tiếp dưỡng, dẫn tình đem về tính. Đó là phương hay để trị bệnh.

Tình là cái phát động đi ra ngoài. Thánh nhân dưỡng nó trước khi chưa động, cho nên hay dùng được tình để thuận muôn vật mà vô tình: vật đi qua mà chẳng nhận có

[28]

(lấy làm của mình), vật xông tới mà không lưu cầm (tới rồi phóng đi). Tỉ như cái gương sáng chiếu vật: như tốt là vật tốt, chứ chẳng vì đó mà sinh lòng mến; như xấu là vật xấu, chứ chẳng vì đó mà sinh lòng ghét. Cho nên nói: "Quách nhiên nhi đại công, vật lai nhi thuận ứng". Nghĩa là: Rộng rãi mà rất công, vật lại thì đưa xuôi theo vật.

Rất công nghĩa là: ròng rã thiên lý, chẳng có một mảy tà tây theo nhân dục. Đưa xuôi theo vật, nghĩa là: có vật tất nhiên có phép (Muôn vật đều có cái phép nhất định. Kinh Thi nói rằng: "Thiên sinh chưng dân, hữu vật hữu tắc, dân chi bĩnh di, háo thị ý đức". Nghĩa là: Trời sinh ra các sắc dân, hễ có người vật thì có phép tắc. Cái Đạo thường tự nhiên (thọ lãnh nơi Trời) của dân là ưa mến cái đức lành), làm theo cái lối vô sự.

Sách Định Tính nói rằng: Các món tình của con người, cái nào cũng hay che lấp, cho nên chẳng thể hợp với lẽ Đạo. Đại khái bởi lo riêng và lại dùng trí

[29]

. Lo riêng thì chẳng hay lấy vô vi làm sự biến hóa (Chính chữ là ứng tích, nói đủ là ứng hóa thành tích, nghĩa là: tùy cơ duyên mà trong chỗ không lại biến thành có), dùng trí thì chẳng hay dùng minh giác (minh giác là diệu giác chân tâm, linh linh bất muội, liễu liễu thường tri. Sự hiểu biết của minh giác tự nhiên phải hơn trí phàm) làm lẽ tự nhiên.

Người ta nói rằng: Cái tình của người dễ phát mà khó chế, thì có chi hơn sự giận nữa. Nhưng hễ phát giận, cứ quên sự giận, mà xét coi lý phải quấy, cũng có thể thấy những điều ngoại dụ (các điều ở ngoài nó cám dỗ mình) không đủ cho ta ghét, thì đường Đạo đã trải qua hơn phân nửa rồi.

Chu tử nói rằng: "Vong nộ tắc công, quán lý tắc thuận". Nghĩa là: quên giận mới công bình, xét lý thì thỏa thuận. Hai điều này là phương để trở xét vào mình, mà vứt bỏ cái màng che lấp. Người đắc Đạo trong ngoài đều không không vắng lặng, nhờ tịnh mà thường phản quán, chẳng vướng một vật chi hết (không bị tình dục khuấy nhiễu). Được vậy, thân tuy gửi trong cõi trần hoàn, mà tâm đã siêu ra ngoài cảnh vật.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Người xưa nói: Cao hơn hết là quên tình. Mà thật chẳng phải quên tình, ấy là dẫn tình đem về tính vậy. Người hay dẫn tình đem về tính, Nho gọi là thu phóng tâm, Đạo gọi là luyện hoàn đan, lâu ngày công phu già giặn, tự nhiên đặng như như bất động y như Phật vậy chẳng khác.

Tôn đại thánh đã vào trong Thủy liêm động rồi, bèn kêu bầy khỉ mà rằng: Chúng bay đến đây, đến đây ắt chẳng còn chịu lấy khí của ông Trời già nữa (Tình thuộc kim. Ngũ hành di thuận thì kim năng sinh thủy, còn ngũ hành di nghịch thì thủy hoàn sinh kim. Kim ở trong nước mà sinh ra, là kim thuộc về tiên thiên, mà tiên thiên thì trời không trái (tiên thiên nhi phất vi). Cho nên Đại Thánh ở trong Thủy liêm động, là chỗ rèm nước bao phủ xung quanh, mới kêu bầy khỉ mà nói: Ai vào đó rồi thì không còn chịu lấy khí của ông Trời già nữa. Ý nói: “Người tu hành đem tình đi ngược lại, hay là nói một cách khác: luyện đặng khí tiên thiên rồi, thì sống chết tại nơi ta

[30]

".

12-TƯ (suy nghĩ)

Chết phần dục niêm, sống "tư duy"

Đem Tánh về Tâm, Tâm tự tri,

Thanh-tịnh vô-vi, Tâm tức Phật;

Ưng vô sở trụ

[31]

gọi qui-y.

Qui y Phật-Tánh Đạo tham cầu,

Cõi tục màng chi kiếp sống lâu,

Nếu biết tư duy tầm lý nhiệm;

Tự tâm thanh-tịnh đạt cơ mầu.

Mầu-vi Thiên-Đạo, Đạo do Tâm

Trở lại nguồn đầu ngộ thậm-thâm,

Suy lý năng tư, tham tận lý,

Mới tường Đạo cả chỗ thâm-trầm.

Cái tâm của người phải cho chết, mà bộ máy của cái tâm sống mới quý. Chết là chết về phần dục niệm, sống là sống về chỗ đạo lý.

Nghĩ tức là bộ máy sống của cái tâm. Không ý tà (Không ý tà (tư vô tà) là chủ chỉ của toàn bộ kinh Thi) là cương lĩnh (Cương lĩnh là giềng lưới, là bâu áo, chỉ phần căn bản) của nó, chín điều nghĩ (Sách Luận ngữ nói rằng: "Quân tử hữu cửu tư: thị tư minh, thính tư thông, sắc tư ôn, mạo tư cung, ngôn tư trung, sự tư kính, nghi tư vấn, phận tư nạn, kiến đắc tư nghĩa". Nghĩa là: Người quân tử có chín điều nghĩ: Xem thì nghĩ đến minh bạch, nghe thì nghĩ đến thông suốt, sắc mặt thì nghĩ đến ôn hòa, tướng mạo thì nghĩ đến dịu dàng, lời nói thì nghĩ đến trung tín, phục sự thì nghĩ đến kính thành, nghi ngờ thì nghĩ đến học hỏi, giận thì nghĩ đến nạn khổ, thấy lợi thì nghĩ đến điều nghĩa.) là điều mục (Điều mục là mắt lưới (lỗ lưới), chỉ phần phụ thuộc mà quan trọng) của nó. Nghĩ về đạo lý là chính, nghĩ về vật dục là tà. Đạo là món ta sẵn có, nghĩ về cái Đạo ta sẵn có thì cái nghĩ ấy tức là Đạo. Nghĩ đến chỗ hay, tâm bỗng phát hiểu, khoan khoái vui mừng, gọi là tự đắc. Nếu nghĩ được sâu xa, mà tâm khí hao kiệt, thì chỉ có phần sở kiến (thấy biết), chứ chẳng phải là tự đắc.

Chẳng nghĩ mà được là bậc thánh nhân. Nghĩ mà được là bậc hiền nhân. Chẳng nghĩ, chẳng gắng, gọi là thành, tức là cái lương tri chẳng học, chẳng lo của đứa con đỏ. Chọn điều lành là chọn điều chẳng nghĩ, chẳng gắng này đây mà thôi.

Tâm con người có bảy lỗ, hay bị máu như sợi chỉ tơ, làm cho bít nghẹt. Như muốn khai thông mà chẳng học và nghĩ thì không được. Nghĩ có cái nghĩa xoi phá, tìm tòi. Học có cái công cầu lấy ấn chứng (là dấu tích của người trước để lại làm bằng). Nghĩ và học gồm dùng cả hai (Tử viết: "Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi". Nghĩa là: Đức Khổng tử nói rằng: Chỉ học mà chẳng chịu suy nghĩ thì không biết ý nghĩa sách vở là thế nào, thành ra trong bụng mờ ám. Chỉ nghĩ mà không chịu học, thì không thông sự lý cổ kim mà làm chuẩn đích, thành ra trong bụng nghi, mà không được yên. Nên học phải nghĩ, mà nghĩ cũng phải học mới có ích) thì cầu đạo nào lại chẳng được. Kẻ chưa thông lý tỉ như người đứng day mặt vào vách tường. Nghĩ cũng như phá lỗ trong vách tường. Phá suốt đặng một lỗ, thì thấy sáng đặng một chút. Lỗ này trước nhỏ sau lớn, lâu rồi phá luôn cả tấm vách tường, thì trống rỗng, thông suốt, không còn gì là chướng ngại nữa.

Tuy biết nghĩ cho tột thì có thể làm thánh, nhưng Trình tử có nói rằng: "Tư lự bất chí vu khổ". Nghĩa là: Nghĩ lo không cho đến khổ quá. Chẳng cẩu thả, chẳng khổ quá, mới gọi là thiện tư (biết cách nghĩ).

Người quân tử nghĩ mà chẳng ra khỏi ngôi mình (địa vị, phận sự của mình), gọi là tư (nghĩ). Nếu nghĩ ra khỏi ngôi mình (vẩn vơ), thì gọi là niệm (tưởng). Tư là cửa nhập Đạo, niệm là nguồn chướng Đạo.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Nho nói tư, Thích nói tham, Đạo nói ngộ, đều là danh từ để chỉ cách dụng tâm cầu Đạo.

Tuổi trẻ phải dụng tâm, tuổi lớn phải dưỡng tâm, tuổi giả phải tức tâm (Tức tâm là để cho cái tâm yên nghỉ), thì mới trúng theo phép công phu.

Nho nói hóa, Thích nói liễu, Đạo nói đắc, tới đây thì công phu không còn dùng vào đâu nữa".

13-NIỆM (tưởng)

Hay nhơn, hay ngã, niệm liền sanh,

Chấp Pháp, chấp tu, niệm niệm hành,

Dứt niệm, chơn tâm vô quái ngại;

Năng hành, năng đạt chỗ vô danh.

Vô danh vô niệm

[32]

, trí lương tri,

Niệm Phật tham cầu có ích chi?

Nếu bỏ chơn tâm, cầu Phật chứng;

Tu hoài tu hủy có ra gì

Ra gì một kiếp tu mê,

Quên lối ra đi, mất lối về,

Vô niệm, vô sanh, tâm tự-tại;

Trở về gốc Đạo khỏe trăm bề.

Vì không sáng suốt mà niệm vụt dấy lên, đó gọi là vô minh. Bởi vô minh dấy lên, nên gọi tâm là niệm chớ tâm thật chẳng động. Xét tâm tới chỗ này, thì niệm tự nó dứt. Dứt niệm chẳng khó, hay trở lại lúc một niệm chưa dấy lên về trước, thì niệm tự nó không còn tiếp tục nữa.

Trước khi niệm chưa dấy, thì toàn là vô cực. Như nay muốn rõ lúc một niệm chưa dấy lên, thì phải thường xét coi niệm do đâu mà sinh. Nhân cảnh hiện tại mà sinh ra cảnh quá khứ, nhân cảnh quá khứ mà sinh ra cảnh vị lai. Hiện tại nếu vô tâm, quá khứ tự nhiên dứt.

Ý hay nhân ngã thật là niệm, lòng còn pháp ái (Ái nghĩa là yêu. Ái có hai loại:

1/ Dục ái là cái ái của kẻ phàm phu;

2/ Pháp ái là cái ái lạc thiện pháp của từ bậc Bồ tát sắp lên.

Pháp ái lại chia ra hai loại nữa, là:

1/ Bậc tiểu cơ ái Niết bàn cùng là Bồ tát chưa đoạn pháp mà chấp ái thiện, cái pháp ái này phải đoạn nó;

2/ Lòng đại bi của Như Lai cũng gọi là pháp ái, đây mới là cái chân ái vô thượng) cũng là niệm. Phải tận trừ nó, rồi sau mới có thể dụng tâm dứt vọng niệm, vọng niệm trở lại sáng suốt nhiều. Hãy coi thử nó niệm cái chi, thì niệm này tự nó tiêu mất. Tu chân phải dứt niệm, dứt niệm phải xét tâm, xét tâm tâm chẳng có, tâm không cảnh tự không. Tâm cảnh đã không rồi, thì cũng không còn gì là dứt (chỉ), là xét (quán) nữa.

Khuê Phong nói rằng: "Mật mật giác sát, cần cần quán chiếu. Tập khí nhược khởi, đương xứ tức hưu. Thiết mạc tùy chi, miễn lạc phàm phu. Túng tình diệc mạc diệt chi, miễn đọa Nhị thừa".

Nghĩa là:

Cẩn mật tĩnh mà xét, cần siêng xem thấy rõ. Tập khí (Tập khí là hết thảy các thói quen bị xã hội cảm hóa mà thâm nhiễm.) có dấy lên, xem trúng chỗ liền dứt.

Chớ có tùy theo nó, khỏi sa vào nẻo phàm phu. Dục tình cũng đừng diệt, khỏi đọa vô hai thừa (Hai thừa là hai bậc Thinh văn, Duyên giác (trung thừa và hạ thừa))".

Theo Viên tông Đốn giáo (Viên tông là giáo lý hoàn toàn chẳng thiếu sót, bao trùm hết các pháp; Đốn giáo là giáo lý dạy người một niệm chẳng sinh tức thị Phật, thành công rất chóng, chứ chẳng phải tu tập lần lần), chỗ cứu cánh là vậy, chỉ tùy thuận (tương ưng) với bản tính, thì giác tri tự nhiên không gián đoạn (lý và trí hợp như có một).

Kinh Tham đồng khế nói rằng:

Nhĩ, mục, khẩu tam bảo,

Bế tắc vật phát dương.

Ủy chí quy hư vô,

Vô niệm dĩ vi thường.

Nghĩa là:

Tai, mắt, miệng ba báu,

Bế ngăn

[33]

chớ phát ngoài.

Chí đem tại cảnh trống,

Vô niệm giữ thường hoài.

(Thân tâm chẳng định là bởi tai, mắt, miệng, ba món độc nó khuấy rối. Lỗ tai nghe tiếng, con mắt thấy màu, miệng nói ra lời, thân tùy tai, mắt, miệng mà dời dạt, tâm do tiếng, màu, lời nói mà động lay. Tâm động thân dời, chân tính không sáng suốt.

Tuy hoàn đan đặng rồi, mà pháp thân cũng khó thoát, sao khỏi dương cực âm sinh, tuy đặng mà rốt cuộc rồi lại mất. Nếu bế ngăn ba độc đừng cho nổi lên, phát ra ngoài, thì tam độc

[34]

có thể đổi lại làm tam bảo, chẳng những không khuấy rối, mà lại giúp ích cho mình nữa. Bế ngăn đây chẳng phải nhắm mắt, nhíp miệng, nhét lỗ tai. Ấy là phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, nghĩa là: điều phi lễ đừng ngó, điều phi lễ đừng nghe, điều phi lễ đừng nói. Chỉ ngó, nghe, nói ròng những điều gì thuộc lễ, tức là bế ngăn con mắt, lỗ tai, cái miệng phi lễ đó. Nói cho cùng cực, thấy màu không biết màu thì mắt bế, nghe tiếng chẳng phải tiếng thì lỗ tai bế, chẳng nhằm hồi không nói thì miệng bế. Nếu biết ngăn đặng mắt, tai, miệng, như vậy thì nội niệm chẳng sinh được, ngoại vật chẳng nhập được, thân tâm tự nhiên chẳng động. "Chí đem" ấy là chẳng không mà "vô niệm" lại là không. Đan thư gọi rằng: "Chỉ diệt động tâm, bất diệt chiếu tâm" là nói vào đây.)

Tức tâm đặng không tâm, là chẳng diệt các tướng của tâm mà để ý phân biệt. Tức niệm mà không niệm (Chữ tức này khác với chữ tức trên kia Tức trên kia là yên nghỉ, còn tức này là xáp gần, hợp một.

Tức tâm đặng không tâm, nghĩa là: Chẳng lìa tâm (chẳng ra ngoài cái tâm) nhưng đặng không tâm Tức niệm mà không niệm, nghĩa là: Chẳng lìa niệm mà lại không niệm.

Ý nói có mà không, không mà có, chẳng phân biệt có không, không có cùng một gốc (luận về trung đạo)), là bởi niệm không có tự tính (Tự tính hay là tự thể là cái thể tính nhất định), duyên khởi cũng là không (chỉ nói bóng dáng, huyễn hóa).

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Dùng tâm ý dứt niệm, chưa ắt là dứt được. Dầu cho dứt được thì niệm tưởng bỏ ra, mà ý dứt còn giữ. Cái ý dứt này chẳng phải là niệm sao? Cũng như đuổi Trương Tâm mà cầm Lý Tứ vậy (Trương Tam, Lý Tứ là chỉ tên này hay là tên kia, hai người khác nhau mà cũng là người, như bên phương Tây nói Pierre hay Paul vậy, chứ không phải thật chỉ người có tên đó. Hai tên này ở trong bài thi của Vương An Thạch:

Trương Tam câm khẩu trách,

Lý Tứ mạo thiềm trường.

Nghĩa là: Cổ áo anh Trương Tam hẹp, vành nón chú Lý Tứ rộng). Người mới học Đạo mỗi khi mắc bệnh đó, thì phải làm sao? Có phải là tọa vong (ngồi quên) chăng ("Tọa vong" của Nho cũng như "tọa thiền" của Phật, đồng nghĩa chẳng khác. Nhan Hồi nói rằng: "Đọa chi thể, truất thông minh, ly hình khử trí, đồng ư đại thông, thử vi tọa vong." Nghĩa là: buông thân thể, bỏ thông minh, lìa hình dẹp trí, đồng với bậc đạt thông (Người thông biết hơn hết, tức là chỉ Thượng đế), đó gọi là ngồi quên (sách Trang tử))? Quên thì không có ta, ta kia còn không có, ai lại dấy niệm đây?"

14-HÁO (ưa)

Háo danh

[35]

, háo lợi, háo nhân tình,

Háo sắc, háo tài, háo tử sanh

Chấp có muôn ngàn, tâm trói buộc;

Buông trôi tất cả, khỏe hồn linh

Linh-Quang ngời sáng chốn không trung,

Đại-Đạo quy nguyên chỗ tận cùng,

Muốn sự muốn ham đều giải sạch,

Trở về nguyên bổn chốn hư không.

Hư-không vốn thật chỗ huờn sinh,

Trở lại nguyên lai tánh tự minh,

Mới biết muôn ngàn điều mến chuộng;

Phải chăng huyển ảo tự tâm mình.

Lòng người ai cũng có chỗ ưa riêng. Chỗ ưa là điều mà lòng mình chú tưởng vào đó hơn hết. Chẳng phải cố ý như vậy mà có vậy, lại không biết hơi cớ đâu mà ra vậy.

Do một niệm tưởng, có thể phân biệt phẩm người cao thấp. Nội một thời gian, có thể quyết định đời người nên hư. Vậy chẳng khá không cẩn thận.

Giả sử chỗ ưa của họ là: nhân, nghĩa, lễ, nhạc, thi thơ, chẳng hỏi mà biết họ là người hiền. Giả sử chỗ ưa của họ là: du đãng, cờ bạc, tửu sắc, chẳng hỏi mà biết họ là người bỏ. Giả sử chỗ ưa của họ là: vườn cây, vườn thú, câu cá, đốn củi, chẳng hỏi mà biết họ là dân thấp kém. Giả sử chỗ ưa của họ là: tranh đấu, kiện thưa, kiêu ngạo, đao binh, chẳng hỏi mà biết họ là người hung bạo.

Phàm kẻ nào ưa coi hát xướng, phải thất 5 điều:

1. Tiết thể (coi khinh thân thể),

2. Lao thần (làm nhọc thần hồn),

3. Thương tài (tốn hao tiền của),

4. Thất thời (luống mất ngày giờ),

5. Ngộ sự (hỏng hư công việc).

Tuy có việc cực kỳ tinh xảo, mà không đặng bền dai, thì người quân tử không làm.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Đại khái, chỗ ưa của con người thiên lịch như thế đó, đều là do hạt giống đã gây từ đời vô thủy mà mang đến ngày nay. Nếu chưa triệt ngộ trước rồi, dầu muốn đổi lại, cũng là khó lắm."

15 -THÂN

Có thân có khổ lẽ tự nhiên,

Tá giả tu chơn học đạo huyền,

Mượn chiếc thuyền từ qua bể khổ;

Tu thân phải học phép tham thiền.

Thiền tâm ẩn hiện tại thân trung

Có luyện, có tu mới tận cùng

Lý nhiệm nơi thân hằng có sẵn,

Khai thông Huyền Khiếu

[36]

đắt tâm thông.

Thông ký nhiệm-mầu quí bản thân,

Đem thân theo Đạo rạng tinh-thần,

Say mê dục lạc thân hư hoại;

Bỏ xác hồn linh vẫn đọa trần.

Trong thân con người, ở phía trước có ba cung là:

Nê hoàn cung: cũng gọi là Thượng đan điền.

Giáng cung,

Hoàng đình cung,

là chỗ thần khí đình trú (Nê hoàn cung, cũng gọi là Thượng đan điền, ở trong chính giữa cái đầu, phía trước là Mi gian, phía sau là ải Ngọc chẩm, phía hữu và phía tả là hai lỗ tai. Chớ lầm tưởng đó là huyệt Bách hội, ở trên đỉnh đầu.

Cuốn: "Như thị ngã văn" nói:

"Dưới cái tâm huyết có một khiếu, gọi là Giáng cung, là chỗ rồng cọp giao hội.

Từ Giáng cung xuống ngay 3 tấc 6 phân, gọi là Thổ phủ, là Huỳnh đình. Ấy là Trung đan điền, mở trống không một khiếu, vuông tròn 1 tấc 2 phân. Đó là chỗ chứa khí, là nơi dưỡng đan. Từ đó đi xuống sau rốn, có ước 3 tấc 6 phân.

Cho nên nói: Trên trời 36, dưới đất 36.

Từ tầng trời cao đi xuống tới đất thấp, là 8 muôn 4 ngàn dặm.

Nói về trong thân thể con người, từ tâm tới thận có 84 phân.

Thiên tâm có 36 phân,

địa thận có 36 phân,

Trung đan điền có 12 phân.

Cộng lại: 36 + 36 + 12, có phải là 84 phân hay là 8 tấc 4 phân chăng?

Sau rốn trước thận, chỗ chính trung gọi là Yển nguyệt lô, lại cũng gọi là Khí hải.

Thấp xuống 1 tấc 3 phân, gọi là Hoa trì (Quan nguyên). Đó là Hạ đan điền, chỗ chứa tinh.).

Ở phía sau có ba quan, là Vĩ Lư quan, Giáp Tích quan, , là đường thần khí lưu thông (Ba quan này ở nơi xương sống).

Xương sống của con người có 24 mắt.

Vĩ lư quan ở phía dưới, tại mắt thứ 22 (có chỗ ghi thứ 24).

Giáp tích quan ở giữa (trên 12 mắt, dưới 12 mắt).

Ngọc chẩm quan ở trên tận chót, cũng gọi là Phong trì, tại sau cái não.).

Mạnh tử nói: "Nghiêu, Thuấn tính chi dã, Thương, Vũ phản chi dã". Nghĩa là: vua Nghiêu, vua Thuấn làm theo tính tự nhiên, vua Thương, vua Vũ phải đem tính trở lại (Vua Nghiêu, vua Thuấn đặng thiên tính hoàn toàn, nên chẳng cần tu tập. Vua Thương, vua Vũ phải tu thân cho hợp với Đạo, đặng phục cái thiên tính lại.). Lại nói: "Thang Vũ thân chi dã".

Nghĩa là: Thang Vũ gắng sức mình mà làm. Hai nghĩa đều nói rằng: Thương Vũ chỉ có trở lại cầu nơi mình mà thôi. Vua Thương, vua Vũ hay trở lại cầu nơi mình, thì trong mình Thương, Vũ đề có vua Nghiêu, vua Thuấn. Chúng ta hay trở lại cầu nơi mình, thì trong mình chúng ta đều có Nghiêu, Thuấn. Xem lại trong thân ta, thì khí có ở trong đó. Xem lại trong khí ta, thì thần có ở trong đó.

Người quân tử đem thân theo Đạo, cho nên thân tu thì Đạo lập.

Kẻ tiểu nhân đem thân theo dục, cho nên dục phát thì thân vong.

Kinh Lăng Nghiêm nói rằng:

"Nhất môn thâm nhập,

Nhập nhất vô vọng,

Bỉ lục tri căn,

Nhất thời thanh tịnh".

Nghĩa là:

Một cửa (Một cửa, đây có ý nói một căn trong sáu căn. Một căn đã phản nguyên, trở về Vô cực, thì đặng viên thông. Đồng một lượt, năm căn há cũng đều đặng giải thoát.) tuốt vào sâu, vào một hết dục vọng. Còn lại mấy căn kia, đồng thời đặng thanh tịnh.

Người chưa có thể đắc Đạo, đều là bị hình thể làm lụy. Muốn trừ cái lụy này, thì phải biết cái thân này là vật không bền, là cái xác rất khổ, là hình không chủ, là đãy đựng mủ máu đái phân, toàn cả thân mình trong ngoài đều không có một điểm gì là sạch tốt.

Vậy chớ sao mà ta tự hỏi ta mày muốn ăn ngon, mặc tốt? Đến trước người hay khoe lanh lợi, chưng tuấn tú?

Chỉ sử người cho ý loạn tâm mê?

Gạt gẫm người thế chẳng ai không bị hại?

Chết rồi sống, sống rồi chết, từ mấy muôn đời đến nay, chịu không biết bao phiền não, không biết chừng nào thoát khỏi vậy?

Ngày nay ta lập chí học Đạo, đem cái duyên do đầu Đuôi của mày ra mà xét thấu hết cả, không còn bị mày mê hoặc nữa, không còn bị mày chỉ sử nữa, tập lần nhân không huệ ("Nhân không huệ" là đã thấu rõ nguồn vô sinh, không còn tính nhân ngã.), dùng liền xả thân pháp ("Xả thân pháp" là chẳng luyến ái giả thân, hay quên mình vì Đạo.), buông thân thể, bỏ thông minh, giữ theo đó chẳng rời, thì mới mong kề gần với Đạo.

Người phái Tiên gia tu thân thì phải xét lại trong cái thể của mình, thần tức khí ngưng (kết đọng lại), khí tức là thần chú (sang sớt qua), tính mệnh song tu, Đạo với món khí cụ đựng cái Đạo nương nhau, hình thần đều được huyền diệu, cùng Đạo hợp một lẽ chân.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng:

"Lão tử nói: "Ngoại kỳ thân nhi tồn".

Nghĩa là:

Gác thân ra ngoài thì thân còn (ý nói Thánh nhân chẳng vì giả thân mà tranh giành, kình địch, khiến phải lụy thân).

Trường Xuân chân nhân nói: "Bá kế dĩ dưỡng thân, tức bá kế dĩ muội tâm".

Nghĩa là:

Trăm kế để bổ dưỡng thân hình, tức là trăm kế làm mê muội tâm hồn.

Lại nên coi luôn bài "Bì nang ca" ("Bì nang" đây là tỉ cái thân người như xú bì nang, nghĩa là như cái túi da đựng đồ thúi, thì còn thương mến nỗi gì.), thì tự nhiên xả thân được vẹn toàn".

16-MẠCH

Trăm mạch lưu thông cậy Khí Thần,

Lửa hòa với gió hiệp đồng cân,

Pháp luân thường chuyển thông Nhâm Đốc

[37]

Muôn quyển thiên kinh há phải cần.

Cần định Khí Thần dính điểm son,

Chuyên Tinh điễn lực kết thành hòn,

Khai thông bản thể từ ma chướng;

Phá Khiếu Huyền-Quan khai Nhứt Môn.

Môn sinh tu luyện khá tinh tường,

Nhâm Đốc tương thông tánh hiển dương,

Tứ-Đại phải chẳng là cát bụi,

Trong thân mà có nẻo Thiên-Đường.

Trong thân người có mạch, kể ra mười hai bộ chính kinh (Mười hai bộ chính kinh: Thái dương kinh, Dương minh kinh, Thiếu dương kinh, Thái âm kinh, Khuyết âm kinh, Thiếu âm kinh, sáu kinh thuộc về tay (thủ), sáu kinh thuộc về chân (túc), cộng lại là 12 bộ) và tám bộ kỳ kinh (Tám bộ kỳ kinh là: Nhâm, Đốc, Xung, Đới, Dương Duy, Âm Duy, Dương Kiều, Âm Kiều. Xin coi bản đồ kỳ mạch, có vẽ các huyệt hữu hình theo y học Tàu).

Nhưng chỉ có hai mạch Nhâm Đốc quan hệ nhất đến việc sinh tử của người.

Với kẻ phàm phu thì mạch Nhâm ở nơi bụng bắt dưới mà đi lên trên, còn mạch Đốc ở sau lưng bắt trên mà đi xuống dưới, trước sau hai mạch gián cách với nhau, cho nên hóa cơ (máy sinh hóa) mất căn bản. Bởi cớ nên mạng sống tùy theo khí bẩm yếu mạnh mà ra vắn dài.

Tiên gia biết được mạch Nhâm là chỗ tổng hội các phần âm, còn mạch Đốc là nơi thống nhiếp các phần dương. Hai mạch nếu thông, thì trăm mạch đều thông. Cho nên Tiên gia thoái âm phù, tiến dương hỏa, làm phép vận chuyển hà xa (Hà xa là bánh xe quây nước để chở dược vật (thuốc của Tiên gia).

Vận chuyển hà xa cho thông hai mạch, lên thì gọi tiến, xuống thì gọi thoái.).

Theo phép này thì phải ngưng thần nhập Khí huyệt, ấy gọi là quy căn, thần khí giữ nhau, khắng khít không rời. Chờ đến khi tịnh cực (tịnh đến cực điểm) rồi thì phát động, ấy là thần trở lại thừa khí mà thượng thăng nơi Nê hoàn cung. Chừng đó đường hà xa mới thông. Phải biết đường hà xa, tức là hai mạch Nhâm Đốc của thân ta đó.

Hồi khí mới phát sinh, nó uất chưng (Uất chưng, nghĩa là nước nhờ có lửa nấu chưng nên sinh ra khí, càng nhiều càng mạnh, bồng bột như trong nồi nước sôi đậy nắp kín (chaudière)) nơi khoảng giữa hai cái thận, tràng dẫy lên trên ngũ du (Ngũ du là năm thứ huyệt ăn vô năm tạng).

Ấy là kinh thủy loạn hành, chẳng còn do nơi mương rãnh nữa. Ta mau đem thần chuyển nó về Vĩ Lư, rồi lên tới Giáp tích. Giáp tích khó qua thì lưỡi trụ ổ gà, khiến nó lên Phong phủ mà thẳng tuốt tới Nê hoàn. Thần với khí giao hội nơi chỗ đó, thì mới nghe trong mình thơ thới điều hòa.

Một chút thì nó biến ra cam lộ. Mau lấy lưỡi dẫn nó từ trên Thước kiều mà đi xuống khai thông Hội yết, qua Trùng lâu, dạo Giáng cung, trở về chỗ chứa nó (Khí huyệt) thì nghỉ.

Gội rưới giáp ròng như vậy lâu rồi thuần thục, khí mãn ba điền (Ba điền là ba đan điền, chỗ dưỡng đan), dưới trên giao thái. Đây là chỗ gọi:

Thường sử khí thông, quan tiết thấu,

Tự nhiên tinh mãn, Cốc thần tồn.

Nghĩa là:

Vận khí thông quan, xoi cốt tiết,

Tự nhiên tinh đủ, dưỡng nguyên thần.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Từ chỗ: theo phép này... sắp xuống mấy câu, muôn quyển đan kinh chẳng nói ra ngoài vòng đó. Nói ra ngoài vòng đó là bàng môn. Chỗ Lão tử gọi rằng: "Trí hư cực, thủ tĩnh đốc, vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan kỳ phục". Nghĩa là: Phăng chỗ hư (trống) cho cùng cực, giữ lòng tịnh (lặng) cho hết sức, thì muôn vật đều phát hiện (hư trung sinh thật, vô trung sinh hữu), ta nhân đó mà thấy lại đặng bản lai hư tịnh là cái tâm của ta hồi ban sơ, tức là nói vô đây. (Theo kinh Dịch, âm cực thì nhất dương trở lại sinh nơi dưới, gọi là quẻ Phục. Phục là cái Đạo sinh sinh vô cùng chẳng dứt). Phải biết quý nó! Rán giữ lấy nó! Nhất là nguyện kẻ thượng đẳng căn khí hết lòng làm theo đó."

17.- TRẦN THẾ

Động lay biến đổi gọi trần dương,

Ở thế làm nên thế khác thường,

Chẳng động, chẳng lay, tâm tịnh lạc,

Muôn duyên trần thế đáng gì thương?

Thương thân cát bụi có rồi không,

Biết phép tu thân, đạo mặn nồng,

Chơn lý tinh tường sang bến giác,

Linh-quang tự-tại mới thần-thông.

Thông lý đạo mầu giữ vẹn thân,

Làm nên quân tử ở trong trần,

Trường thi, tiến hóa cần tu học;

Siêu thoát cõi trần nhuận đức ân.

Động lay gọi là trần, biến đổi gọi là thế.

Thế có trị, có loạn: thời trị quí tài năng thì trổ mặt, thời loạn quí đức hạnh thì ẩn mình ( ). Người có trẻ, có già: trẻ tuổi thì quí học hành mà cần siêng, người gìa lớn thì quí tu dưỡng mà an tĩnh. Đời Đường Ngu ( ) có Hứa Do, mới biết ai buồn, ai vui.

Đời Thúc Quí ( ) không có Nghiêm Quang (tự Tử Lăng), sao rõ ai thanh, ai trược?

Chúng ta trải qua các đời cũng như lội ngang con sông. Phàm gặp chỗ sâu hụt chơn đắm đuối thì phải biết mà tránh.

Lương kí (là ngựa hay đi một ngày một ngàn dặm) rất lẹ, thường mang cái khổ phong trần. Huyền qui (rùa đen) tuy linh, khó trốn sự nguy mỗ ruột.

Xem con chim đang bay kia, thừa gió mà lên cao, lựa cây mà ngừng đậu, thì sướng thích biết bao. Chỉ vì ham ăn mà bị bắt nhốt vào lồng rồi, muốn thoát mà thoát sao được? Nay ta thấy tước lộc, xét coi có phải cái lồng nhốt người đó chăng?

Đời Xuân Thu mà không dùng Khổng tử, ấy là cái bất hạnh của đời Xuân Thu, mà là cái đại hạnh của hậu thế. Huyền Đức biết dùng Khổng Minh, ấy là cái đại hạnh của Huyền Đức, mà là cái bất hạnh của Khổng Minh. Việc làm của người xưa có tốt, có xấu, với việc làm của người nay có phải, có quấy, cùng là việc làm của mình có đặng, có mất, các việc ấy thuộc về dĩ vãng, đều là chuyện vô ý vị ở trần thế, có nói tới làm gì, nhớ tới ích chi? Chẳng nói, chẳng nhớ thì tâm tịnh vậy. Tâm tịnh tức là Đạo.

Các chỗ tiêu sái ngày nay đều do chỗ chẳng toại ý năm trước mà ra. Chỗ chẳng toại ý ngày nay, biết đâu là chẳng phải chỗ tiêu sái một ngày kia vậy?

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Tâm tịnh tức là Đạo

[38]

, đủ thấy Đạo chẳng xa người. Chỗ mà người thế không đắc ý, chính là lúc bậc cao nhân đặng tiêu sái lâu dài"

18.- DANH LỢI

Danh lợi vương mang một kiếp trần

Rốt cùng chỉ thấy khổ cho thân

Mấy ai học Đạo quên danh lợi

Chắc chắn ngôi Tiên chẳng mất phần.

Phần ai tu luyện hãy coi chừng,

Danh lợi chớ mang khổ tấm thân,

Danh Đạo, danh Đời đều trói buộc;

Lợi Đời, lợi Đạo, hại tinh thần.

Tinh thần sáng suốt chẳng si mê,

Giải thoát muôn duyên, nhẹ bước về,

Vô kỷ, vô công vô sắc tướng;

Vương mang trọng trược khó hồi quê.

Học Đạo chưa được là bởi vọng niệm không dứt, nhiều khi chướng ngại. Vọng niệm không dứt là bởi danh lợi khó quên, có thể khiên triền (buộc ràng). Nếu muốn dứt vọng niệm thì trước phải xét thấu danh lợi, rồi sau mới dứt được.

Danh là phần tạo vật rất kỵ, lợi là món nhân tình hay tranh. Cho nên nói: "Danh lợi giết người còn hơn gươm giáo". Sao vậy? Gươm giáo giết người, người còn biết mà tránh. Danh lợi giết người, chết cũng không chừa.

Người xưa đặng cái đặng cái Đạo rồi hay làm như người si cuồng, là vì không muốn cho người ta biết mình. Người đời nay chỉ học biết chút đỉnh mà muốn biểu bộc ở thế, thiệt là hủ lậu!

Người quân tử học Đạo đem hết những tâm háo thắng khoe tài mà quên phứt hết, âm thầm tu hành. Đạo tuy minh, đức tuy lập mà làm như chưa làm gì được vậy. Cho nên nói : "Người quân tử có chỗ ta chẳng theo kịp", có phải chỉ cái chỗ người ta không thấy được đó chăng?

Lợi là một vật không đức mà khiến người ta gần gũi, không lửa mà khiến người ta sốt sắng (hăn hái), không quyền mà khiến người ta chẳng từ lao khổ, không tình mà khiến người ta một khắc chẳng quên. Lợi khiến cho kẻ học Đạo thấy nó mà bại đức, khiến cho người trị thế (làm quan trị dân) thấy nó mà bỏ luật. Từ xưa đến nay lòng người và phép nước, vì mối lợi đó mà phải bị lụy hại. Ở trong thiên hạ có cái Đại hại ẩn trong cái đại lợi, mà người ta chẳng biết. Chảng phải thiết chẳng biết, mà vì lợi làm cho tối tăm đi.

Của tang phạm phép nước, cũng như món ăn phạm tạng phũ sinh bệnh vậy. Lúc muốn lấy trộm, sợ lấy không đặng nhiều; mà đến chừng bại lộ ra, lại trông cho có ít. Chỉ có một vật mà sau trước có chỗ khác nhau như thế đó, là bởi lợi với hại nối gót theo nhau.

Giả như lúc thấy lợi mà liền tưởng tới hại thì những niệm cẩu thả tất nhiên phải tuyệt. Quân tử chứa đức, đức hay nhuận thân, lại cũng hay vinh thân. Cho nên bậc đại đức không cầu lộc, vị, danh, thọ, mà lộc, vị, danh, thọ tự nhiên đến. Tiểu nhân chứa của, của hay nuôi thân, lại cũng hay hại thân. Cho nên kẻ có của muốn bỏ lo lắng sợ hãi mà lo lắng sợ hãi bỏ không kham.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Danh là phần tạo vật rất kỵ ... nói vậy rất hay. Từ chỗ : Lợi là một vật ... cho đến ít câu sau, lại còn nói thấu đến cốt tủy. Kẻ thương gia mua bán nghe qua còn phải gật đầu, hà huống là kẻ sĩ, đại phu, cùng là người học Đạo".

19.- SẮC

Kim cổ truyền sắc

[39]

hại nhân,

Tại mình đắm sắc chẳng toàn thân,

Muốn ra khỏi chốn mê trồn trận;

Phải học phép tiên luyện Khí Thần.

Thần Khí Tinh là ba báu linh,

Bảo toàn phép báu độ thân mình,

Trược tinh biết chuyển thành linh dược,

Nhớ Khí thông lên chốn thượng đình.

Thượng đình có cửa mở lên trời,

Nghịch chuyển phải nhờ ba tấc hơi,

Giải trược lâu ngày tinh hóa khí;

Tinh đầy khí đủ thoát tình đời.

Trời đất là vợ chồng lớn hóa sanh muôn vật. Vợ chồng là trời đất nhỏ sản sinh gái trai. Đại khái Đạo người thông với Đạo trời. Thuận thì đưa ra có thể sinh con cháu, nghịch thì dẫn vào có thể thành tiên thánh.

Một vị tiên hồi xưa có nói rằng :

« Tử yếu bất lão, hoàn tinh bổ não. »

Nghĩa là : « Người muốn chẳng già, thì đem tinh về bổ óc. Óc là cái biển chứa các thứ tủy. Cái tinh dâm dật do nơi các thứ tủy kia mà hóa ra. Những người háo sắc hay bị nhức đầu, ấy là óc trống rồi đó !

Ôi dầu khô đèn tắt, tủy khô người chết.

Quán Sở, lầu Tần chẳng phải chỗ vui, ấy là lưới rập hãm bắt con người. Ca kỷ, vũ nữ chẳng phải là người vui, ấy là quĩ mị phá tan nhà cửa.

Người đều sợ quĩ, duy không sợ thứ quĩ đội lớp ở trong nhà, nó câu thần hồn con người.

Người đều sợ cọp, duy không sợ thứ cọp ngũ chung với mình trên giường, nó ăn cốt tủy người.

Người đều sợ rắn, duy không sợ thứ rắn bao quấn người trong mền, nó hút khí huyết con người.

Người đều sợ trộm cướp, duy không sợ thứ trộm cướp đoạt khí dương ban đêm, nó hại tính mạng con người.

Sắc nó hại người lớn lắm thay ! Chẳng phải không ai biết răn mình, nhưng răn mình rồi lại phạm nữa.

Hay là cho sắc tốt đẹp chăng ? sao chẳng nghĩ trong lỗ tai có cứt ráy, trong con mắt có ghèn, trong lỗ mũi có nước dãi, trong miệng có nước miếng, trong bụng có phẩn đái, trong âm có máu mủ, dơ dáy hôi tanh, chỗ nào cũng đều không sạch cả.

Lại thêm ngấm ngầm xảo mị, giả bộ thương yêu mà thật là lang độc.

Kẻ ngu không rõ, say đắm sắc dục, chỉ ham hoan lạc một hồi, mà chẳng kể hình dung khô héo, bại đức tổn thân, làm hại rất lớn !

Phải nên xa lánh nó như xa lánh đạo tặc vậy. Đạo tặc cướp lấy hết tiền bạc của người, thì người phải nghèo. Nữ sắc cướp lấy hết tinh ba của người, thì người phải chết.

Bạch Tẫn lão nhân nói rằng : « Lữ Động Tân có đề bài thơ như vầy :

Nhị bát giai nhơn thể tợ tô

Yêu huyền lợi kiếm trảm ngu phu

Tuy nhiên bất kiến nhơn đầu lạc

Ám lý giao quân cốt tủy khô

Nghĩa là :

Hai tám gái tơ dạng mỹ miều

Lưng đeo gươm bén chém người yêu

Tuy là chẳng thấy đầu người rụng

Mòn mõi hại chàng cốt tủy tiêu.

Ôi ! Người bậc trung niên trở lên còn không tin chắc lời này, hà huống là kẻ thiếu niên không biết gì ! »

20. SỰ (việc)

Sanh sự, sự sanh ấy lẽ thường,

Không cầu, sự đến, chẳng tư lương

[40]

,

Lương tri biến sự, toan hành sự;

Hành sự giúp đời thoát họa ương.

Họa ương vốn bởi tự thân mình,

Chất chứa muôn điều, tánh bất minh,

Ngộ sự không thông điều lý sự

Tánh bung ra cảnh lại sanh tình.

Tình huống người tu có chữ "Không"

Buồn vui hận tủi dẹp theo lòng,

Gìn câu Bác ái quên hơn thiệt.

Lập hạnh từ-bi giữ đại-đồng.

Việc có điều chẳng thể đem ra thi hành cho thân mình được, tức là chẳng thể để mầm móng ở trong lòng. Có điều chẳng thể đem ra mà nói với người ta được, tức là chẳng thể đem ra bẩm cáo cho Trời biết.

Đem bốn cái « chẳng » trên đây, giờ giờ thường kiểm điểm thì sẽ gần cái đạo.

Việc ở trong thiên hạ, khó mà gặp cơ hội. Việc nào liệu làm được thì chẳng nên thối thác, thối thác thì không công đức chi. Việc nào liệu làm không được thì chẳng khá cượng cầu, cượng cầu thì sẽ thất bại.

Việc nó đến với mình không phải không có lý. Người quân tử nghĩ về phải trái, kẻ tiểu nhân luận về lợi hại.

Con người đang lúc vô sự, thì tâm thường phải ở tại « Xang tử lý » (chỗ trống không), chẳng khá vọng tưởng chỗ mờ ám. Khi có việc thì phải tâm phải chuyên chú về đường chánh lý, chẳng khá cượng chấp ý kiến của mình.

Trong mình ít việc, tự nhiên ít khổ. Trong miệng ít nói, tự nhiên ít họa. Trong bụng ít ăn, tự nhiên ít bệnh. Trong lòng ít dục, tự nhiên ít lo.

Trong đời, sự khó làm đệ nhất là qua biển và ra trận. Người dường như không sợ hãi hai cái khó này, vì có kẻ làm đến. Còn học Đạo là phản cầu (cầu ngược nơi mình) thì liền đặng, dễ dàng chứ không nguy hiểm như vượt qua biển ; là thiên lý tự nhiên yên ổn chứ chăng phải nguy hiểm như khi đi ra trận. Đã dễ dàng, lại yên ổn mà ít người hay là đến , vậy là tại sao ?

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: « Những việc của bậc cao minh, phần nhiều là từ ngoài đến, bậc này lại có thể ráp việc thì xong việc. những việc của người ngu xuẩn, phần nhiều là ở trong sanh, hạng này hiểu lầm nên gặp việc thì gây việc. Bậc cao minh, khi có việc đến, ứng đối lấy lý công, tự nhiên như tên bào đinh (đầu bếp) xẻ thịt bò, ngũ quan không động, duy có thần hành ( ). Người ngu xuẩn, khi có việc đến, ứng đối lấy lòng tư (lòng riêng vì mình), tự nhiên như con cò với con ngao trì kéo nhau để cho ông câu hưởng lợi ( ). »

21.- VẬT

Muôn vật có đây vốn tự không

[41]

,

Tìm không tịnh định ở nơi lòng,

Vô tâm đối cảnh không vương -vấn

Mới tỏ nhiệm mầu tánh sạch trong,

Trong không mà có lý siêu mầu,

Muôn vật có đây vốn tự đâu?

Biết rõ nguồn cơn "Không" với "Có"

Trở về "Cội Phúc" kíp đi mau.

Mau mau dứt bỏ cái tâm trần,

Muôn khổ buộc ràng bởi cái thân,

Trong vật suy ra nguồn lý Đạo;

Tỉnh tu một kiếp khá ân-cần

Muôn vật « có » đây là ở trong cái « không » mà sanh ra. Thói tình của người phàm hay trước ý về bên có mà thôi. Tìm biết được chỗ thường không đó, chắc phải khó rồi, mà thường không cái có kia lại càng khó hơn nữa.

Con người muốn đứng trên cái địa vị thường không này thì phải lấy tánh làm chủ. Lấy tánh làm chủ thì chưa từng có vật. Mình quên mình thì tự nhiên vật kia mất dạng. Vật tuy đầy ở trước mặt, mà thường coi như không vậy ( ).

Bàn cư sĩ nói rằng :

Đản tự vô tâm ư vạn vật,

Hà phương vạn vật thường vi nhiễu.

Nghĩa là :

Chỉ giữ vô tâm cùng mọi vật,

Ngại gì vạn vật phũ vây mình

Người thì có người yêu quái, vật thì có vật yêu quái, nó hay mê hoặc người. Mà thật nó mê hoặc người được sao ? Ấy là tự mình mê nó chứ !

Sách Bá tự bi nói rằng :

Chân thường tu ứng vật.

Ứng vật bất khả mê.

Nghĩa là :

Theo đạo chân thường ( ), thì phải tiếp ứng với muôn vật, nhưng tiếp ứng với muôn vật thì chẳng khá mê. Nếu chẳng tiếp ứng thì ra không tịch hư vô. Vậy có vật lại thì tiếp ứng, vật đi thì chớ lưu cầm. Có câu quyết rằng : « Trước ý đầu đầu thố, vô vi hựu lạc không. » Nghĩa là : Để ý

[42]

thì mỗi đoạn công phu đều sai lầm tuốt hết, còn không làm gì lại ra đoạn diệt hư vô.

Thấy vật tốt mà sanh lòng mến, thì cái tâm mình đã bị nó dẫn đi, tức là mê rồi. Xét thấu một vật thì không bị một vật đó mê hoặc. Xét thấu muôn vật thì không bị muôn vật đó mê hoặc.

Kinh Kim Cang nói rằng :

Nhất thiết hữu vi pháp,

Như mộng, huyển, bào, ảnh.

Như lộ, diệc như điển,

Ưng tác như thị quán.

Nghĩa là:

Hết thảy pháp nào thuộc hữu vi,

Chiêm bao, bọt bóng, dối ra chi!

Như tuồng điển chớp, sương đầu cỏ,

Phải xét cho rành như thế đi.

Các sự vật trong thiên hạ, tự có cái đạo lý ninh tịnh ( ) trong đó, không nên để một mảy tư ý xen vào. Cho nên nói: thiên hạ có tưởng gì ? lo gì? Bởi cớ mà quân tử

[43]

ráp việc thì làm rồi việc chớ không sanh sự, tùy vật mà cấp cho vật ( ) chớ không để ý đến vật.

Trình Y Xuyên nói rằng: "Con người đối với vật ở ngoài, món nào để cấp dưỡng cho thân mình thì muốn cho tốt cả, chỉ có cái thân và cái tâm mình lại không muốn cho tốt. Họ đặng mọi vật ở ngoài tốt cả, mà có dè đâu thân và tâm của mình đã trước không tốt kia mà !

Nay người có nhà cửa, quần áo, món ăn uống, khí dụng, hay hỗ thẹn không bằng của người ta. Còn đến việc học vấn chẳng bằng người, lương tâm chẳng bằng người, lại không biết hỗ thẹn, là tại sao? Thật không nghĩ suy gì hết !

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Mình quên mình thì vật tự nhiên mất dạng. Nói vậy thì đủ thấy vì có mình ở trong, nên mới có vật ở ngoài. Mình ở trong quên mình thì vật ở ngoài tự nhiên mất dạng.

Kẻ thế bỏ chân tìm giả, mà còn cho rằng : Ta là người trí."

22.- NGÃ (ta) ……..

Vô ngã

[44]

là phương thoát y phàm,

Bốn điều hữu ngã tự nơi tâm,

Tâm không chấp-trước ly trần cấu;

Đạo ở đâu xa phải nhọc tầm.

Tầm Đạo nơi ta, Tánh của ta.

Coi chừng bản ngã xúi làm ma,

Ma tình, ma dục, ma phiền-não

Che mất tâm linh, phá Đạo nhà.

Nhà ta, ta biết tự tâm ta,

Thanh tịnh vô-vi tánh sáng lòa,

Không chấp giả trần, không động loạn;

Mới tường tận lý Phật cùng Ma.

Sách Luận Ngữ có ghi rằng Đức Khổng Tử tuyệt 4 điều ( ), mà để hai chữ vô ngã (không có ta) nơi đàng sau rốt, là vì: ý, tất, cố đều là do hữu ngã (có ta) mà ra.

Duy cái ta này mà không, thì ý, tất, cố cũng đều theo đó mà không luôn. Ta là cội rễ của các việc tư (việc riêng của từng người). Không có ta

[45]

thì cội rễ đoạn, các việc tư hết sanh nữa.

Nay người ta có lòng làm những việc gì, có việc nào mà trong đó không có vì ta hay không? Việc chẳng lợi cho mình, thì làm sơ lược lấy có, bởi vì đời thấy nó cho là ở ngoài vòng nên bỏ ra. Việc có lợi cho mình thì tính từ thăng, từ đấu, từ chút mảy mọn, dẫu lụy mình, bỏ mạng cũng ráng đuổi theo. Cái ta nó làm hại lớn biết mấy! Duy không có cái ta thì việc tư tà hóa ra việc công chánh. Mình còn quên hình hài của mình nữa thì đâu có vật nào làm lụy cho được.

Hãy kiếm hết trong hình hài ta, có cái nào là ta đâu? Nếu không thấy cái ta thì đã trọn giải thoát.

Vĩnh gia tập nói rằng: Vô minh

[46]

chẳng đoạn dứt, cố chấp quấy vì ta, theo ngã kiến mà cứ việc tham sân, sa tà kiến lại tranh quyền sở hữu. mới sanh ra các sự nhiễm trước. Biết thân là huyễn, không có tự tánh, sắc tức là không, thì ai là ta? Hết thảy các pháp chỉ mượn giả danh, không có một cái chi chân thật, Tứ đại, ngũ uẩn từng món không phải, mà hiệp lại cũng không phải ta. Tìm kiếm trong ngoài rốt cuộc chẳng có ta.

Hãy xem rõ chữ ngã, là hai chữ qua ( ) hiệp lại thành. Một bên chữ qua xuôi, một bên chữ qua ngược. Các mối họa lang độc, sát sanh đều do hữu ngã (có ta) mà dấy nên. Cho nên người ta có lòng cùng đạo thì trước phải vô ngã

[47]

.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "cái mà người thế gọi là ngã, chẳng phải là chân ngã. Ấy là thức thần quấy hại mà thôi.

Người xưa nói rằng:

Vô lượng kiếp lai sanh tử bổn,

Si nhân hoán tác bổn lai nhơn,

Nghĩa là

Vô ngần kiếp số gây sanh tử

Mà kẻ ngu si tưởng bổn lai (tánh ban đầu).

Lại nói rằng:

Khứ hậu lai tiên tác chủ nhân. Nghĩa là : lại trước đi sau làm chủ nhân ( ). Nếu chẳng lấy bình bát vàng mà chụp nó lại, lấy kim cô bổng mà đánh nó chết, thì thỉnh kinh, trừ ma đều là việc của Lục nhĩ di hầu cả »

23.- GIẢ

Học Đạo am tường lữ giả chơn,

Trong thân có lý đạo linh đơn,

Tâm chơn mượn giả, minh chơn-lý;

Kiến tánh minh tâm dứt tủi hờn

Tủi hờn vì chẳng biết phân minh,

Nẻo giả đường chơn cũng tự mình,

Cái giả phô bày, chơn ẩn giấu;

Tìm cho thấu đạo tận nguồn sinh.

Sinh ra trần thế phải nương đời,

ý thức đường tu học đến nơi,

Trong giả có chơn minh lý-Đạo

Thuyền chèo Bác-Nhã vượt dòng khơi.

Kẻ học Đạo trước phải nhìn cho ra chân giả

[48]

rồi mới có thể vào cửa Đạo (khởi học).

Thường xem kẻ hát làm tuồng, gặp những lúc thạnh suy, đặng mất, tan hiệp, sầu vui, bộ tịch ở ngoại y nhiên theo cảnh, mà trong tâm vẫn bình tịnh như thường. Làm sao mà họ chẳng động tâm như thế đó ? Vì họ biết hình tượng là giả trang, tình cảnh là giả tác, biến đổi xây vần, chớ không bớt hay thêm già cho thân mình cả. Kẻ học xét đó thì có thể tỏ hiểu lý đạo.

Lại khi xem múa rối, thấy con rối tay múa, chân đạp như hình người. Kẻ vô tri xem hình hoạt động, mà không tưởng là có người ở đầu mối dây điều khiển cho hình cử động. Thình lình người điều khiển bỏ dây, thì hình dây tuy còn mà chẳng cử động được nữa.

Vậy hình hài con người có phải là hình nộm đó chăng ? Khí huyết có phải là sợi dây đó chăng ? Chân thánh có phải là người hát đó chăng ?

Lại thấy có người bày trò xảo thuật, đổi vật, tráo hình để lòe mắt khán giả. Người xem thấy rồi, mắt chóa, tâm mê, khen là kỳ diệu.

Ở thế gian, hết thảy các phép hữu vi, người lấy đó gạt ta, ta lấy đó gạt người, đảo đảo, điên điên, cùng với các trò chơi kia có khác gì nhau chăng ? Thấy nó mà mắt chẳng chóa, tâm chẳng mê tức là gần đạo rồi.

Lại thấy kẻ chớp bóng đốt, đèn dánh trống, thiên hạ tựu lại xem hát. Tâm và mắt họ đều theo bóng, bị nó chuyển dời, bỏ không cái xác của mình lại đó, mà chẳng biết xem nó. Đến khi dầu khô, đèn tắt , các thứ huyển cảnh đều hoàn lại không. Kẻ trí nhờ thấy đó mà hiểu được cái Đạo: đương lúc không mà sanh có, nhưng có đó cũng không phải có, đến khi có hoàn lại không, nhưng không đó cũng chẳng phải không.

Tại cớ sao vậy ? Các duyên hội hiệp thì có, mà cái có này không có tự tánh, cho nên nói chẳng phải có để phá cái thường kiến ( ). Tánh trống rỗng là không, không thể chỉ rõ chân thể, cho nên nói chẳng phải không, để phá cái đoạn kiến ( ). Việc nhỏ như ngày đêm, sống chết, việc lớn như ngươn, hội, vận, thế đều có thể lấy loại mà suy ra thì rõ.

Kẻ học đạo phải biết có một cái tánh là chân, muôn duyên đều giả, hết thảy các vật dưỡng sanh hàng ngày đều là trần cấu (bụi đất) ở trong cái giả. Sao lại cùng bọn phàm phu tranh nhiều ít, sánh tốt xấu trong chỗ trần cấu vậy kìa !

Bạch Tẫn lão nhân nói: « Kẻ hát bội biết hát là sự giả, người học Đạo nhìn thế là điều chân. Lẽ nào người học đạo lại kém thua kẻ hát bội kia sao ? Không tỏ hiểu đó thôi.

Nói chẳng phải có để phá thường kiến, nói chẳng phải không để phá đoạn kiến. Hai câu này lại thêm tinh vi. Người hay xét thấu rồi, tự nhiên chẳng trước tướng qua bên có hay bên không. »

24.- MA

Ma, Phật, cũng trong nội tánh

[49]

mình.

Huờn hư tịnh định thấy tâm linh,

Tâm sanh chủng chủng sanh ma chướng,

Tâm diệt từ nhiên sạch thất tình.

Tình huống người tu biết Phật, Ma,

Tự trong tánh ý vậy thôi mà,

Bỏ tâm theo cảnh tìm ông Phật

Chẳng gặp Phật đâu, chỉ thấy tà.

Tà chánh phâm minh rõ đạo mầu,

Ngưng thần tựu khí khó chi đâu?

Minh tâm kiến tánh là cương yếu;

Tự tiến tự tu chẳng vọng cầu.

Mặt trời hay mặt trăng bị che tối (nhật thực hay nguyệt thực) đều là bị ma chướng cả. Gặp một phen ma chướng thì phải có sanh một lần trí huệ. Có sanh một lần trí huệ mới là được một lần tấn ích. Nếu chẳng lấy trí huệ mà xét thấu, lại sanh lòng phiền não, ắt đại sự hư hoại.

Thường vào cửa chùa thấy 4 vị kim cang hàng phục 4 con quái, đó là cái biểu tượng hàng ma. Khi tới trong đại điện, thấy Phật ngồi đoan trang ở giữa, đó là cái biểu tượng « tẩy tâm thối tàng ư mật », nghĩa là rửa sạch cái tâm mà đem thối ẩn nơi chỗ kín.

Có người hỏi : một Phật, hai Bồ Tát, nghĩa ấy ra sao ?

Đáp : Số thuộc dương là lẻ, số thuộc âm là chẳng. Người thế chỉ biết tu riêng một vật (cô âm quả dương), nào có biết đồng loại gặp nhau (hỗ trợ cho nhau) mà thành công đâu ?

Những người tu hành vì tập khí khó quên, nên cần phải học chủ tịnh. Hết thảy tình thức ở khoảng sẽ quên mà chưa quên, cho nên có chư ma phát hiện, thuận thì khiến người tham mến, nghịch thì khiến người khủng kinh. Vậy phải xem xét, chớ để cái tâm này sa vào lưới tà, và thường nhớ rằng chỉ có cái tâm mà thôi chớ không có cảnh giới nào ở ngoài nó được. Có lẽ nào tự mình mà mến, mà sợ cái tâm của mình hay sao ? Xét thấu được như vậy, thì cảnh giới tự nó tiêu diệt.

Tiếc thay cho thánh đạo chẳng được sáng suốt, tà thuyết dấy lên như ong, có người tự tâm mê loạn, vọng xưng làm thầy người ta. Cho nên yêu tinh quỹ quái đều thừa chỗ hở, đem tinh thần phụ dựa vào người ấy, giả xưng là thần. Kẻ ngu không biết lại tin là thiệt, cùng nhau khen ngợi, càng nói càng hay, cả đám theo ma, rốt không tỉnh ngộ. Sống thì làm tôi dân cho ma, chết thì cũng làm hồn quĩ cho ma nữa !

Ô hô, buồn thay! Không thể cứu được. Huyền và Thích hai Đạo có xảy ra nhiều việc ma mà chẳng biết đối trị. Mỗi lần thành ra chứng điên, đều là bởi thấy lý chưa rõ ràng, cượng chế cái tâm mình mà ra vậy. Duy có nhà Nho không có việc ma, là bởi đem cái công phu cách vật, trí tri ( ) ra mà thi hành trước hết.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Đại phàm những người học Đạo theo ma là bởi nhìn lý chưa rõ ràng, học xảo qua 2 nhà kia (Huyền và Thích) rồi hạt luyện manh tu ( ) nên hay mang thứ bệnh ấy. Duy có nhà Nho không có ma, là bởi đem cái công phu cách vật trí tri ra mà thi hành trước. Lời này phải lắm!

Ô Sào thiền sư nói rằng: "Tâm sanh chủng, chủng ma sanh, tâm diệt chủng chủng ma diệt"

[50]

.

Nghĩa là Tâm sanh thì các thứ ma sanh, tâm diệt thì sác thứ ma diệt. Vậy thì đủ thấy các thứ ma đều do vọng niệm mà ra cả.

25.- CẢNH

Tâm động sanh ra cảnh giả trần

[51]

,

Minh tâm nhận xét giả kề chân,

Cảnh là huyền ảo, tâm chân thật;

Phi Cảnh, phi tâm, hiệp khí thần.

Thần khí qui căn luyện tánh linh,

Bảo tồn thuốc báu ở trong mình,

Tam hoa tụ đảnh

[52]

thông Huyền Khiếu;

Xuất tánh ly trần thoát tử sinh.

Sinh ra trong cảnh giả trần gian,

Tá giả tu chơn học đạo nhàn,

Liễu cảnh qui tâm gìn bổn giác,

Bổn lại diện mục tỏ linh-quang.

Hết thảy các cảnh trong tam giới, duy có một cái tâm động niệm mà sanh ra, chớ không có phép nào khác. Niệm nếu chẳng sanh, cảnh nó tự dứt. Hay là sức niệm động đến cùng rồi, thì nó cùng trống không vắng lặng. Do đây thì đủ biết , lúc muội mông chẳng mất gì, khi tỏ hiểu cũng không đặng gì, là bởi cái vô trụ chân tâm (ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm) chẳng tăng mà cũng không giảm. Tâm do cảnh khởi: lấy tâm xem cảnh, thấy vật sanh tâm. Tuy ở chốn sơn lâm hãi đảo, đâu đâu cũng là trần lao ( ). Người luyến cảnh, cảnh lộng (gạt) người, thì tâm người bất chánh mà phát cuồng. Tình theo vật, vật dẫn tình ắt thần lìa khỏi nhà mà thành si.

Cảnh tốt hay là cảnh xấu đều là cảnh; cảnh tuy đến trùng trùng, chớ không phải là có. Tà niệm hay chánh niệm đều là vọng; niệm dầu nổi lên tán loạn mà cũng là không. Chớ gọi ngũ dục ( ) là vui, mê mà quên trở về, thì phải bị thương thân hại mạng. Phải biết chỉ có cái tánh là chân, nắm giữ nó chớ rời, thì tự nhiên tiêu ma chướng, phá hữu chấp, trược thế biến làm Tịnh độ; đem nó về cội tiếp mạng, thì thân phàm kiết nên thai thánh.

Tam giới chỉ do tâm tạo, sao không dẹp trước cái tâm. Sáu trần nhờ thức mà vào thì phải tuyệt ngay cái thức. Đứa con đỏ hoàn toàn không có thức, trần duyên đổ cuồn cuộn (như nước đổ) bao giờ cũng chẳng có lỗ hở mà vào. Bậc chân nhân ròng rặc chỉ là trí pháp giới ( ) chiếu lào lào, khắp xứ đều là nơi cực kỳ vui đẹp.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Cảnh không có khổ sướng, khổ sướng do tâm khởi. Đồng thời ở lầu Nhạc Dương có người được tâm thư thái, thần đẹp vui, lại cũng có khách cảm kích quá, mà sanh buồn thảm.

Người xưa nói rằng: "Thần tiên vô biệt pháp, chỉ sanh hoan hĩ bất sanh sầu. Nghĩa là : Thần tiên không có phép nào khác, chỉ sanh vui vẻ ở trong lòng mà không sầu muộn đó thôi. Chẳng phải người đạo đức sâu xa, dày chặt, khó mà nói ra câu ấy."

26.- THỨC

Cái tánh bổn lai vốn tịnh minh,

Đừng lầm sáu thức biến sanh tình,

Lương tri tự biết nguồn minh-triết;

Không học mà thông ấy tánh linh

[53]

.

Linh tánh chìm sâu bởi thức thần

Thức thần nổi dậy lấp chơn thân,

Chỉnh nhờ kéo thức đem về trí,

Đem tánh về Tâm dứt nghiệp trần.

Trần ai, ai biết tánh chân như,

Vốn của Trời cho chẳng thiếu dư,

Trí thức, dồi-dào sanh nghiệp chướng;

Qui không triệt-để kiến tâm từ.

Cái tánh bổn lai vốn chơn tịnh minh diệu, hư triệt linh thông, không thể suy nghĩ được. Nó chẳng khác, chẳng đồng, mà cũng chẳng phân biệt. Tỏ hiểu nó là bến bồ đề, muội mông nó là biển sanh tử.

Đứa con trẻ nhỏ chưa biết cha mẹ nó gọi là phác (còn tự nhiên chơn chất), mà hễ biết mẹ cha rồi thì gọi là tì (đã bị dấu vết rồi). Tì là tâm bệnh. Kiến thức càng rộng thì phát nhiệt (nóng lên), ấy là tâm bệnh, mà thân cũng tùy bệnh. Do đây mà sanh ra phân biệt gọi là thức.

Trong ngũ uẩn ( ) là : sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Tuy thức ở sau rốt mà là gốc vậy, nên phải lo hàng phục nó trước. Muốn hàng phục thức thần, không có gì bằng biến thức ra trí. Tại cớ sao?

Thức thường theo cảnh mà quên về. Trí hiểu được cảnh mà chẳng mê. Theo cảnh mà chẳng hiểu thì trí nào không ra thức. Hiểu cảnh mà không luyến thì thức nào không ra trí?

Luận về cốt yếu, chỉ có một cái tâm mà thôi; phóng nó ra làm thức, thâu nó lại làm trí; chỉ có phân biệt tức là sa vào tình thức, có chút phan duyên ( ) tức là phát sanh vọng tưởng. Chẳng biết thì liền xong mọi việc, mới được thanh tịnh.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Con trẻ vừa mới biết cha mẹ thì đã trổ cái tài xảo của thức thần. Kiến thức rộng ra thì tâm thọ bệnh. Biết cái bệnh này só mấy ai đâu?

Theo cảnh là thức, thâu lại là trí. Mỗi chữ chỉ dạy thông minh đích xác, có thể nói : Huỳnh Đế đoán chứng bệnh, Kỳ Bá lập phương trị. Nếu chúng sanh không tin nữa, là tại sao ?"

27.- QUÁ (là Tội)

Chủ tâm là ác, tội theo mình,

Chẳng biết lỗi lầm, tránh bất minh,

Tội quá biết rồi mau thức giác;

Tự mình rửa sạch tánh mình linh.

Mình linh nhờ biết phép tư duy,

Thức tánh hồi tâm tự nghĩ suy,

Xét lỗi ba lần trong mỗi nhựt;

Sửa sai hiển lộ trí lương tri.

Lương tri xét lỗi tận nguồn cơn,

Tự giải vô-minh dứt tuổi hờn,

Lập lại quân bình trong bản thể,

Tâm lành tánh sáng có gì hơn.

Tiềm tâm mà làm việc trái gọi là ác (dữ), vô tâm mà làm việc trái gọi là quá (lỗi).

Ngạn ngữ nói rằng : « Nhân phi thánh nhân thục năng vô quá ?» Nghĩa là : Con người chứ nào phải ông Thánh, mấy ai đâu mà không lỗi đâu ? Khá lấy lời nói này mà tha thứ cho kẻ khác, chứ đừng vịn theo đó mà tha thứ cho mình.

Cừ Bá Ngọc ( ) đương tuổi 50 mà biết cái quấy 49 năm về trước. Ta nay đương tuổi 85 mà cái quấy 84 năm về trước, có thể biết hết không ? Cái quấy qua lâu rồi không biết đã đành, còn cái quấy gần đây cũng không dễ mà biết. Tại sao vậy ?

Mê thì lấy quấy làm phải, lầm thì thấy phải như quấy. Xét nét nào phải chỉ có 3 điều ( ), mà biết quấy há để phạm hai lần sao ?

Châu tử nói rằng : Trong việc làm làm hàng ngày, biết vậy là quấy thì đừng có như vậy nữa, tức là phương chữa bệnh. Nếu hỏi do đâu mà được « đừng như vậy nữa », tức là cởi lừa mà kiếm lừa đó ( ).

Kẻ học Đạo chỉ lo tịnh tu tam nghiệp là : nghiệp miệng, nghiệp thân, nghiệp ý mà thôi. Không phạm lỗi ở miệng dễ, không phạm lỗi ở thân khó. Không phạm lỗi ở thân dễ, không phạm lỗi ở ý khó. Kẻ có chí phải đem hết sức mình mà cải đổi chỗ khó đó cho kíp, thì sau này mới mong vào cửa Đạo.

Có kẻ hỏi : người làm tội rồi có sám hối được không ?

Đáp : Cái việc làm trước khi không lớn nhỏ, kiếm nó trong ngoài mà kiếm không được gọi là chân sám hối.

Lại hỏi : người có thệ nguyện sợ phạm thì ra sao ?

Đáp : Muội mông thì nói thệ, tỏ hiểu thì toàn không. Nay thử kiếm xét coi thệ nguyện do chỗ nào mà được đại giải thoát ?

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: « Theo lý nhà Nho, bỏ quấy giữ phải. Theo lý nhà Thiền, phải quấy không để ý, vì không để ý (không trụ trước) mới là được giải thoát. »

28.- THIỆN (Lành)

Hoàng Thiên bất phụ thiện tâm nhơn,

Tự xét tánh mình phân thiệt hơn,

Thiện ác đáo đầu chung hữu báo;

Xét mình lý Đạo, Phật tâm huờn.

Huờn hư chơn tánh, tánh an vui

Mới biết nguồn cơn Đạo có mùi

Mùi Đạo vốn là vi diệu Pháp;

Khai thông Huyền Khiếu

[54]

Đạo xong rồi.

Xong rồi một kiếp khỏe muôn năm,

Vốn của người tu, một chữ "Tâm"

Chí thiện, chí chơn, và chí mỹ;

Mới hay mùi Đạo vốn thâm-trầm.

Thiện là gì ? Là khí dương bởi Thái cực động mà sanh ra. Người đặng lấy nó mà làm tánh, cho nên tánh người đều lành cả. Những nhà tu dưỡng phải dưỡng cho được cái khí dương. Khí dương ở trời sanh ra sau tháng 10 lúc thuần khôn (ròng âm, tột tịnh). Ấy là chơn tức ( ) ở nơi qui trung ( ).

Thích giáo khuyên răn dạy người, nói thiên đàng, địa ngục, thiện ác báo ứng, hào mảy chẳng sai, mà phải chờ đến ngày khác hay là kiếp sau. Còn đức phu tử của ta chỉ nói rằng : « Thượng đạt, hạ đạt, thản đảng đảng, trường thích thích » Nghĩa là : Thượng là trên, trên là gốc, chỉ đức nghĩa. Hạ là dưới, dưới là ngọn, chỉ tài lợi. Người quân tử đạt đến đức nghĩa, kẻ tiểu nhân đạt đến tài lợi. Người quân tử khoan khoái trong lòng luôn luôn, còn kẻ tiểu nhân buồn rầu không ngớt.

Thượng đạt, nghĩa là : càng tấn lên bậc cao minh, không phải là thiên đường sao ?

Hạ đạt , nghĩa là : trầm nịch nơi chỗ thấp dơ, chẳng phải là địa ngục chớ gì ?

Thảng đảng đảng, nghĩa là : nhập mỗi cảnh không đâu chẳng phải chỗ vui vẻ, thì phước đức đó ai bằng. Trường thích thích, nghĩa là : đến chỗ nào cũng đều là chốn sa hầm mắc bẩy, thì nghiệp nào lớn hơn nữa.

Vậy thì đương lúc làm lành, làm dữ, tức là có hưởng chịu liền cái phước, cái tội, lẹ như bóng vang, chẳng phải chờ ngày nào khác hay kiếp sau nữa.

Có kẻ hỏi : Nhà thiền nói chuyện thiên đường, địa ngục, có hay chẳng có ?

Đáp : Vui sợ ở trong tâm mới thành cảnh lành dữ ra ngoài. Chỉ cần dẹp xong cái tâm thì tự nhiên không.

Có kẻ hỏi : Làm thế nào dẹp tâm cho xong ?

Đáp : Đừng có nghĩ suy đến lành dữ.

Hỏi : Làm việc lành với học điều tốt có khác gì nhau không ?

Đáp : Không có gì hhác nhau.

Hỏi : Nghĩa ấy ra sao ?

Tai chẳng nghe tiếng dâm là tai tốt, mắt chẳng xem sắc tà là mắt tốt, miệng chẳng nói lời quấy là miệng tốt, tâm chẳng khởi tưởng quấy là tâm tốt, tay chẳng lấy vật phi lễ là tay tốt, chân chẳng đạp đất phi lễ là chân tốt, noi cái đạo của vua Nghiêu, vua Thuấn để trị dân là vua tốt, học Đạo của ông Y, ông Lữ mà thờ vua là tôi tốt, học bà Mạnh Mẫu chọn xóm ở mà dạy con là mẹ tốt, học Tăng Sâm dưỡng chí mà phục sự mẹ cha là con tốt.

Lại hỏi : Nay có người nói đắp lộ, sửa chùa là tu cho kiếp sau, quả có chỗ tốt không ?

Đáp : Ta nghe Thánh nhân nói rằng từ thiên tử cho tới thứ dân, ai ai đều phải lấy thân làm gốc.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: « Khí dương do thái cực động mà sanh ra làm tánh. Có thể nói : thiên mạng chi vị tánh (nghĩa là : cái trời phú cho ta gọi là tánh) là lời giải đệ nhất ( ). Muốn dưỡng khí dương này, lại chỉ rõ nó là chân tức

[55]

nơi qui trung. Có thể nói : dọn ra mâm đầy dẫy, ít kẻ biết được mùi.

Người tu ở trong thân mình có mấy kẻ, chớ còn tu ở ngoài thân mình đành cho là nhiều rồi. »

29.- MỘNG (chiêm bao)

Đời là mộng

[56]

ảo có chi ham,

Chú trọng bản thân, lại bỏ tâm,

Cây thịt quả sai nhiều lối tục;

Quanh năm mộng mị bởi sân tham.

Tham đời nên chịu sống vô minh,

Một kiếp trăm năm chửa biết mình,

Nguồn gốc từ đâu sinh cõi thế?

Trở về cát bụi khổ hồn linh.

Hồn linh còn mộng chịu vô-minh,

Chuyển kiếp nhiều phen vẫn tử sinh,

Hành Đạo thoát ra cơn mộng ảo;

May ra giải-thoát, đáo Thiên-Đình.

Làm sao mà có chiêm bao. Các thứ chiêm bao đều do trầm mê chẳng tỉnh, rồi một cái thức thần mới biến hóa các thứ huyển cảnh. Chỉ có một cái tâm mê mộng mà sanh ra tam giái, tứ tướng. Ở trong giấc chiêm bao thấy có biến đổi lại hoài, không sanh ra có. Đương lúc mình thấy chiêm bao, thân mình có khổ hay có sướng, mà vừa tỉnh giấc lại thì mọi vật đều thành ra không cả. Chẳng phải nhờ tỉnh giấc mới không có, trước kia vốn đã là không có rồi.

Chứng đạo ca có câu :

Mộng lý minh minh hữu lục thú

Giác hậu không không vô đại thiên.

Nghĩa là :

Trong mộng rõ ràng bày 6 nẽo (6 nẽo luân hồi).

Tỉnh rồi vắng lặng chẳng ba ngàn (ba ngàn thế giới)

Núi sông, thế giới đều là cảnh ở trong giấc chiêm bao. Vương hầu, văn võ đều là người ở trong giấc chiêm bao. Thánh nhân trong tam giới đều là người tỉnh giấc trước. Còn kinh của tam giáo đều là sách bàn chuyện chiêm bao.

Nếu biết việc thế đều không, thì chết sống là một giấc chiêm bao, không có gì ngăn trở, mới gọi là tỉnh biết.

Xưa có Bạch Vân Tiên Sanh ngủ rồi thức dậy. Kim Lệ hỏi về cuộc đời. Tiên sanh Đáp rằng : sau khi phân lưỡng nghi, ai là người, ai là ta ? Ở trong khoảng ngàn năm, ai là thành, ai là bại ? ( ) Người giảng thuyết thì chê Hạng Võ, khen Lưu Bang (đời Tiền Hán). Nhà biên ký thì thương Linh Quân ( ), ngùi Nguyên Lượng ( ). kẻ luận đàm thì khoe Thái Khưu ( ), thương Phạm Bàng ( ).

Coi lại đều là bùn lầy trong cát bụi cả. Chi bằng một chén rượu trược, một cuộc cờ tàn, một giấc ngũ ngáy pho, kiền khôn trong tay mặc tình thâu phóng.

Lệ hỏi rằng : Tiên sanh lấy giấc ngủ mà thâu cái hỗn độn của trời đất, lấy lúc tỉnh thức mà phá cái vãng lai của xưa nay. Hay thay! Nói vậy cái ngủ cũng có Đạo sao ?

Đáp : Có chớ ! Người phàm ngủ thì trước ngủ con mắt, sau ngủ cái tâm. Còn ta ngủ thì trước ngủ cái tâm, sau ngủ con mắt. Ta tỉnh thì trước tỉnh con mắt, sau tỉnh cái tâm. Con mắt tỉnh nhờ đó mà thấy tâm. Cái tâm tỉnh chẳng thấy đời, chẳng thấy đời lại chẳng thấy tâm. Từ có vũ trụ đến nay, kẻ trị đời lầy huyền khuê ( ) mà thưởng, lấy bạch thắng ( ) mà khoe ; kẻ tu hành cởi huỳnh hạc ( ) mà bay, cởi thanh ngưu ( ) mà vượt, kẻ dạy đời đem xích tử ( ) mà suy, đem lục đồ ( ) mà vẽ. Ta đều vô tâm không tưởng đến đó, ngũ cũng vô tâm, thức cũng vô tâm.

Lệ hỏi rằng :

Tôi muốn học cách vô tâm, phải làm sao mới đúng ?

Đáp :

Đối cảnh thì chớ nhìn tâm, đối tâm chớ nhìn cảnh. Như vậy đó là xong rồi, đâu biết cái chi khác nữa ?

Khi tỉnh không biết gì, tâm càng thêm rối. Đáng cười thay người ở trần thế chẳng biết chiêm bao là chiêm bao !

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng:

 « Tâm tỉnh không thấy đời, thì đủ thấy người chấp trước theo cảnh đều là người ở trong giấc chiêm bao cả. »

30.- QUỈ

Người tu bị quỉ dẫn mê tâm

[57]

,

Tham lợi, mê danh khiến lạc lầm,

Nếu biết qui tâm và định tánh,

Diệt tà phục chánh sửa âm-thầm.

Âm-thầm tìm mối Đạo vô-vi,

Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri,

Tâm tánh động hoài ma quỉ bắt;

Đạo Đời bại hoại có ra chi

Chi hơn học Đạo thoát tình đời,

Phân biệt quỉ thần tánh chẳng lơi,

Đem tánh về tâm minh chánh Đạo.;

Theo tình bỏ tánh đọa thân rồi.

Con người bị quỉ dẫn mê hết phân nữa, còn lại phân nữa bị người khác vu hoặc, quỉ với người tranh nhau mê hoặc cơ hồ đã khắp cùng thiên hạ.

Bậc cao minh (người tri thức), lấy lời phải cứu họ mà họ không nghe theo, còn người trên trước (người cầm quyền) lấy pháp luật mà cấm họ, nhưng cũng không dứt nỗi. Tà thuyết càng ngày càng hừng, càng ngày càng thạnh, không biết rồi sẽ đến đâu là cùng.

Quỉ là người chết rồi, người là quỉ chưa chết.

Người đời nay đều là người thuở xưa kia vậy. Khắp trong khoảng trời đất chẳng có chỗ nào là không có quỉ thần. Chẳng những ở trong giữa khoảng trời đất có quĩ thần , mà ở trong thân mình con người cũng có quỉ thần nữa. Làm sao mà biết ?

Bổn tánh con người bởi khí dương sanh, còn hình thể do khí âm thành. Hễ dương thì làm thần, còn âm thì làm quỉ.

Dẫn tình đem về tánh là Đạo của thần giữ, thuận tình cho táng tánh là việc của quỉ làm.

Tục ngữ nói rằng :

Người còn một phần dương chẳng thành quỉ, còn một phần âm chẳng thành tiên. Lời này phải lắm !

Giả chăng con người là âm dương giao kết, là quỉ thần hội hiệp mà thành. Bổng nhớ đến lành là thaafn mở trí cho, thoạt toan làm dữ là quỉ khiến xui vậy. Người quân tử dè dặt chỗ một mình mình (biết và nghe) ( ), chánh là xét coi cái cơ lành dữ, biện rõ cái đạo quỉ thần đó.

17 lão nhân nói rằng : « Dẫn tình đem về tánh, không cầu thần lại là thần. Thuận tình cho táng tánh, chẳng dè quỉ mà ra quỉ. Xin chư quân chọn lấy 1 trong 2 điều đó. »

31.- THẦN

Thần

[58]

là giàn máy ở trong mình,

Ấy thiệt sinh cơ của tánh linh

Biết phép nhưng thần trừ vọng niệm;

Khí thần diệu hiệp đắc trường sinh.

Sinh thời thần khí bị tiêu hao,

Biết Đạo ở đâu, vào ngỏ nào?

Vào Đạo phải nhờ "Thần" mở nẻo;

Công phu thứ lớp có đuôi đầu.

Đầu bài tu luyện phép vô-vi,

Thần thiệt "Nguyên-Thần" Tánh tự tri,

Dứt niệm quy tâm, Thần ở lại;

Tâm hay vọng động, thần ra đi.

Chân tánh của người tức là nguyên thần của người. Vì nó linh minh khôn lường, diệu ứng vô hạn, cho nên gọi là thần. Còn chữ nguyên ở trước là để phân biệt với cái thần tư lự vọng niệm thuộc về hậu thiên. Thần lại nhập vào thân thì người sống, thần đi lìa khỏi thân thì người chết.

Sao mà biết thần lại ? Niệm dứt thì có thần lại.

Sao mà biết thần đi ? Niệm động thì là thần đi.

Hình là nhà của khí, khí ở thì hình chẳng suy. Khí là mẹ của thần, khí còn thì thần chẳng tán.

Người làm lành thì thần tụ mà linh, người làm dữ thì thần tán mà tối. Kẻ có bệnh thì thần lìa hình mà chẳng bị đau khổ. Kẻ mắc nàn thì thần đi trước mà chẳng bị họa ương. Một hơi thở của người

[59]

mà không có thần, thì hơi thở đó chẳng đến.

Con người có 3 cái hang, (chữ Hán là cốc), trống không như động trong kẹt đá. Thần ở trong đó nên gọi là cốc thần.

Ở trên thì kêu là thiên cốc, là Nê hoàn cung, làm thiên căn là bổn cung của thần (như phòng buồn). Cho nên thần ở thiên cốc thì tinh hóa khí, khí thượng thăng, chín năm thiên cung đầy đũ, thì thiên môn bởi đó mà khai thông.

Ở giữa thì kêu là ứng cốc là Giáng cung, làm minh đường thuộc về bố chánh (như chỗ làm việc nước). Cho nên thần ở ứng cốc thì lỗ tai mới nghe, con mắt mới thấy, ngũ quan dều lo chức vụ, thì toàn thân thể do đây mà tùng lệnh.

Ở dưới thì kêu là linh cốc, là đơn điền, làm nhà kín để ẩn thân tu hành (như am thất). Cho nên thần ở linh cốc thì mắt thấy trở lại, tai nghe lộn về, thần khí gìn giữ lấy nhau, thì dinh phách (hồn phách) nhờ vậy mà bảo nhất (dính một chẳng rời).

Bạch Tẫn lão nhân nói rằng : « Hai chữ nguyên thần giải rất rõ ràng. Bằng không vậy, chắc có người nhìn lầm thần tư lự, thuộc về hậu thiên mà cho là thần. Câu : niệm dứt thì thần lại, niệm động thì thần đi, lại là lời khẩu quyết hạ thủ rất hay. Còn câu : Người có bệnh thì thần lìa hình mà chẳng bị đau khổ. kẻ mắc nàn thì thần đi trước mà chẳng bị họa ương, chảng phải là bậc thoát thai thần hóa, quyết chẳng thốt ra chỗ huyền diệu của thần hóa đó được.

Kẻ thế thường hay luận thần, mà là thấy chiêm bao biết mấy.

32.- KHÍ

Khí có ra vào, khí hậu thiên,

Trước lên sau xuống nối liền liền,

Chơn-Nhơn mới đặng dòng thai-tức,

Cổi sạch lốt phàm hóa kiếp Tiên.

Tiên phàm, hơi thở khác nhau xa,

Người biết thở vào, kẻ thở ra,

Hơi thở ra ngoài là lốc khí

Chơn-Nhơn chi tức diệu thay là.

Là người tu học pháp vô-vi,

Niệm Phật tụng kinh chẳng biết gì?

Máy nhiệm trong mình chơn nhứt tức;

Khí thần diệu hiệp xuất Mâu-Ni.

Khí của phàm nhân trước lên sau xuống, còn khí của chân nhân trước xuống sau lên. Khí có ra có vào gọi là phàm tức (hơi thở phàm), chẳng ra chẳng vào gọi là chân tức (hơi thở thánh)

[60]

.

Hễ phàm tức đã đình thì chân tức tự nó phát động.

Hơi thở sở dĩ đình lại đây chẳng phải do cượng bế mà chẳng cho ra. Ấy là Tâm trống cho tột bậc, lặng cho hết sức, mà hễ tâm định nhiều chừng nào thì khí nó yếu lần theo chừng nấy. Theo phép này, bất kỳ đi đứng nằm ngồi, đều dẫn tâm đem về chỗ lặng lẽ, chẳng tưởng việc sẽ tới, không nhớ việc qua rồi. Lâu lâu, thần cùng khí hội, tình cảnh đều quên, thần ngưng khí kiết, chỉ có một hơi thở triền chuyển trong bụng chẳng ra chẳng vào gọi là Thai tức ( ) . Hơi thở này đã sanh, thì cố giữ cho trống lặng, luyện tinh hóa khí, thông thấu tam quan, rưới thấm ba cung. Đó gọi là chân thác thược, chân lư đảnh, chân hỏa hầu ( ).

Thiên Túy Hư nói rằng:

Tích ngộ chân sư truyền khẩu quyết,

Chỉ yếu ngưng thần nhập khí huyệt.

Nghĩa là:

Xưa gặp chân truyền khẩu quyết,

Chỉ phải định thần vào khí huyệt.

Ấy là lúc ban sơ chúng ta mới vừa thọ khí tượng thai, phần thọ tinh huyết của cha mẹ mà thành ngôi Thái cực mà chúng ta ai ai cũng đều có hết.

Chân nhân thần nương theo hơi thở thâm nhập vào trong khí huyệt của ta mãi mãi như còn ( ) chẳng chút gián đoạn. Cho nên chuyên khí chí nhu (làm cho khí yếu lần lần) cho đúng phép (đắc huyền diệu), thì thấy quẻ Phục của mình (coi bài chữ Mạch có giải quẻ Phục).

Thái Thượng Lão Quân nói rằng : "Thiên địa chi gian, kỳ du thác thược hồ ?"

Như vậy cái khoảng giữa trời đất có phải như ống bể lò rèn chăng? Con người nhờ được khí của trời đất mà sống. Hô hấp cái máy động của ống bễ. Chân tức là cái khí hô hấp. Nhưng cái chân tức này là gốc thọ khí, là nguồn sinh khí. Hô hấp lên xuống, xô đẩy chuyền nhau, ứng với âm dương, đồng như khắc lậu (đồng hồ nước). Cho nên nói rằng :

Châu thiên tức số, vi vi số ( )

Ngọc lậu hàn thinh, trích trích phù

Nghĩa là : Cái số hơi thở Chu thiên là số tinh vi (ý nói chẳng khá trước tướng). Nó tương phù với từng tiếng nhỏ giọt của đồng hồ nước ( ) (tỉ dụ hơi thở ra vào).

Có kẻ hỏi : Có cái thuyết nào lấy chân tức làm hỏa không?

Đáp : Chẳng phải lấy chân tức làm hỏa. Hỏa (Lửa) là thần của người, tức (hơi thở) là cái ống bễ của hỏa. Hơi thở của hỏa yếu dài mà chẳng dứt (miên miên bất tuyệt), tức là "chân nhân chi tức dĩ chủng" đó. Cho nên nói :

Mạn thủ dược lư, khan hỏa hậu,

Đãn an thần tức, nhậm thiên nhiên ( ).

Nghĩa là :

Chớ giữ thuốc lò, chăm hỏa hậu,

Chỉ yên thần khí, thuận thiên nhiên.

Phàm trong cả thân người, chỉ có một khí châu lưu,

[61]

khí thông thì vui khoái, khí nghẹt thì khổ đau. Cho nên tay múa chân đạp (luyện tập thể thao) là để dưỡng khí huyết của mình. Phép này chẳng luận giờ khắc nào, tùy tiện mà thi hành. Cần phải chuyên tâm bế tức (tập cho hơi thở nhẹ nhàng, cho đến hết ra vào chứ đừng cưỡng bế), ắt thần sung khí mãn, thì khí dễ lưu thông. Nhưng phải trợn mắt cắn răng (như giận) cho được nghiêm mật võ nghị, thì tà niệm tự nhiên không có. Làm như vậy được ít lần sau đó ngồi tịnh sẽ dễ trừ vọng niệm và tiêu tan bệnh tật.

Đoạn công phu này có nhiều chỗ hữu ích lắm, chớ khá xem thường rồi bỏ qua rất uổng.

Bạch Tẫn lão nhân nói rằng : "Tiên gia giữ kín chẳng truyền, thực ra chỉ có công phu luyện mạng mà thôi".

Mạng là gì?

Là Khí đó.

Bài này đã chỉ rõ : chẳng ra chẳng vào gọi là chân tức. Lại nói: phàm tức đã đình lại thì chân tức tự nó phát động. Phàm tức là lúc con người mới sinh ra, oa oa một tiếng, khí thông miệng mũi gọi là khí hậu thiên. Khí hậu thiên đã thông thì phải có sữa, có cơm nuôi. Hễ bế nó lại một chút thì chết. Còn khí tiên thiên thì chẳng như vậy. Mặc tình ở trong bụng mẹ mười tháng, bị bào y vấn bao, rốt cuộc cũng không chết.

Tại sao vậy? Tức là chỗ bài này gọi là triền chuyển trong bụng, chẳng ra chẳng vào đó. Người tu luyện dẫn tình đem về tánh, lâu ngày công phu già dặn, phản bổn hoàn nguyên (về cội gốc, ban sơ), cũng như con trẻ ở trong bụng mẹ chẳng khác.

Người thế gian chết đó, chẳng qua là ở trong miệng mũi hết khí mà thôi. Nay đang lúc còn sống mà miệng mũi đã hết khí thì còn sợ chết nỗi gì ? Đời mà không tin đạo tiên, là bởi chưa rõ lý này, chưa thấy người này mà thôi. »

33.- TINH

Luyện tinh hóa khí, hóa thần linh,

Thuốc báu Trời cho để giữ mình;

Biết hiệp biết huờn thành Xá-lợi

[62]

Linh-quang xuất hiệp nhập Thiên-Đình.

Thiên-Đình chờ đón kẻ tu chơn,

Hay dở cùng chăng biết hiệp huờn,

Ngũ-Khí, Tam-Hoa triều thượng đảnh,

Khai thông Huyền-Khiếu đắt Chơn-Nhơn.

Nhơn sanh cam chịu tử và sanh,

Nếu chẳng biết tu, chẳng học hành,

Tánh Mạng hậu-thiên cam đọa lạc;

Thọ truyền chánh-pháp kíp tu nhanh.

Chân nhân luyện tinh hóa khí. Phàm nhân hóa khí làm tinh. Người xưa ví tinh như diên (chì) là bởi nó có tính trầm trọng hay lọt mất, ví nó như cọp là bởi nó rất hung hãn khó phục hàng.

Người học Đạo cố thủ mà chẳng để cho nó mất, gọi là Trúc cơ (đắp nền).

Thần, Khí, Tinh thường muốn tán. Người ta chỉ lưu trụ nó lại được, đừng cho tán mất thì mới có thể trường sanh.

Ngụy Bá Dương nói rằng : Phàm nói sưu diên thiêm hống ( ), thật là hoàn tinh bổ não.

Có kẻ nói :

Có nhiều người học Đạo, hay bị chứng mộng di, luyện thụy ( ) chắc khó rồi, uống thuốc lại không hiệu quả, thì phải làm thế nào cho hết bệnh ấy?

Đáp :

Dắt bạch ngưu (trâu trắng) lộn về, thì chẳng còn di tẩu nữa.

Lại hỏi :

Có người nói : Huyền tẫn lập thì chân tinh bền. Làm sao mà lập được Huyền tẫn?

Đáp : Cốc thần chẳng chết là lập rồi đó.

Hỏi : Cốc thần làm sao chẳng chết?

Đáp : Không lòng dục, cho thiệt tịnh, thì nó chẳng chết.

Thường vào miếu Huyền đế thấy con rắn và con rùa quấn nhau. Vả chăng Huyền đế là thiên thần ở ngôi Bắc thần. Thiên thần có ngôi, còn nhân thần há lại không có chỗ ở sao ?

Trời chỉ về chỗ Tử vi, ở tại đó mà chẳng động thì cái tột cùng của trời (ngôi Đại trung) đã lập, tạo hóa do đó mà sản sanh.

Người chỉ về chổ Huỳng đình, đứng tại đó mà không dời, thì cái ngôi tột cùng của người đã lập, tánh mạng do đó mà an vững.

Cho nên kẻ biết tu dưỡng thì đem thần hỏa và tinh thủy ngưng tại một chỗ, như con rắn với con rùa quấn nhau vậy, hiệp thành một khối, chẳng để lìa ra, lâu rồi hết sức tịnh mới sinh động, chân hỏa đốt chưng, kim tinh phát hiện soi quan thấu đảnh thấm dưới rưới trên. Đây là đạo thâm căn cố đế, cửu thị trường sinh.

Bạch Tẫn lão nhân nói rằng :

"Không lòng dục, hết sức tịnh, thì cốc thần chẳng chết, ắt huyền tẫn lập. Huyền tẫn lập, ắt chân tinh bền. Chân tinh bền thì không còn lo di thất nữa. Đủ thấy cái bệnh mộng di là do nơi sắc tâm chưa thối mà dấy lên. Người khám phá được sắc ma, một lòng thanh tịnh, cọp chẳng khó hàng phục, chì chẳng dễ vọng tẩu.

Nếu có người công phu chưa tới bậc đó, bỗng có cái bệnh di thất, thì hãy dùng phép dắt bạch ngưu lộn về. Theo phép này thì lấy bất câu bố hay là vải gì cũng được mà may một cái bao nhỏ, bao ngoại thận lại, rồi đem nó cột ở phía sau dây lưng, thì chứng bệnh này sẽ khỏi".

Đạo gia cũng gọi là : Trương Quả Lão đảo kỵ lư. Nghĩa là ông Trương Quả Lão cởi lừa ngược.

34.- GIÁO

Cái Đạo vô-vi chẳng thốt lời,

Thánh-Nhơn khai giáo độ người đời,

Thân tâm vẹn giữ hành chơn đạo,

Nhơn đạo thuần chơn hiệp Đạo Trời.

Đaọ Trời

[63]

chẳng đợi kiếm đâu xa,

Trở lại thân tâm học đạo nhà

Chẳng đợi lên non cầu diệu pháp

Tâm thành ý thật tự lòng ta.

Ta quyết tìm ra mối Đạo mầu,

Vô-vi thanh-tịnh học cao sâu

Bất ngôn chi giáo, nguồn minh-triết

Đạo tại thân trung khỏi lạy cầu.

Đạo là thánh nhân chẳng thốt ra lời, còn thánh nhân là Đạo thốt ra lời. Tuy nói có thốt ra lời, chẳng qua là lấy Đạo của người mà trở lại trị cái thân của người, chứ chẳng phải miễn cưỡng theo việc khó biết, khó làm đâu. Đời xưa dạy người lấy cái Đạo của thánh nhân mà dạy.

Kinh Dịch nói rằng :

"Mông dĩ dưỡng chánh, thánh công dã ».

Nghĩa là : dạy kẻ mông muội thì phải nuôi tâm trí cho minh chính, ấy là cái công trình của bậc Thánh nhân đó. Lúc dạy kẻ mông muội, phải dạy cho biết hướng về sự học thánh, thì kẻ học có lẽ nào lại không cố gắng học thánh sao?

Từ khi đạo của Khổng Tử lu mờ. Thì đạo Lão, đạo Phật hưng thịnh. Từ khi đạo Lão ít truyền thì luồng gió tà thuyết nổi lên.

Lão tử nói rằng : « Tu kỷ chi thân kỳ đức nãi nhân. Xả thân nhi ngôn, tu giả dã giả ». Nghĩa là : Trau lấy thân mình, thì đức mình mới được chân thật, bỏ thân ra mà nói tu là giả dối vậy.

Đời nay có kẻ cầu đạo Tiên Phật mà thường lánh người, trốn thế để cầu. Kẻ ấy cho là :

Có nhà cửa, có vợ con, có việc đời, ba mối ấy đều có thể làm lụy người, cho nên không thành Tiên thành Phật được. Thế nào cũng phải lánh người trốn thế, mới mong làm Phật Tiên. Sao chẳng biết cái đạo của Tiên, Phật chẳng rời thân tâm vậy?

Quả thật chánh tâm tu thân, có nhà cửa cứ việc ở, có vợ con cứ việc giúp đở cùng nhau, có việc đời thì mượn nó để dồi mài tâm tính, cho nên tại nhà cũng có thể thành Thánh, thành Tiên, thành Phật, cần gì phải bỏ chỗ tiện cho mình mà làm cái việc bất tiện kia vậy?

Bạch Tẫn lão nhân nói rằng : "Nói xuất gia có thể thành Tiên, Phật, người ta có thể còn tin. Nói tại gia thành Tiên, Phật không ai tin cả, tại cớ sao vậy?

Vì chưa thật rõ biết cái Đạo, chưa thật khảo cứu cái lý mà thôi. Họ không tưởng đến rằng : Nếu Tiên, Phật cần phải xuất gia mới thành, vậy có thể nói Thánh nhân cũng cần xuất gia mới thành sao? Người thế trước tưởng chi lắm vậy!".

35. - HỌC

Học Đạo bền siêng, chí cánh thành,

Căn sâu cầu học, chẳng cầu danh

Cũng không cầu lợi mà năng học,

Chơn-lý thông rồi bất luận tranh.

Tranh đua giáo-lý chạy theo đời,

Hay dở cũng chẳng trọn Tánh Trời,

Lẳng lặng học hành và tiến-hóa

Ngàn năm một thuở thoát luân vơi.

Vơi-vơi trời nước chạnh lòng riêng

Đối cảnh qui tâm, tánh định thiền,

Muôn sự giả trần không chấp trước

Tìm về cội phúc cõi vô biên.

Học là con đường đi tới Đạo. Thánh kinh hiền truyện có phải là người dẫn đường cho ta không ?

Đời sau tà thuyết dấy lên cùng khắp, lời dạy với việc làm có hợp với kinh truyện của thánh hiền chăng? Nếu không tức là ma thuyết. Kẻ học Đạo chỉ phải thu thân tâm về mà kềm giữ cho vững vàng, bỏ thân tâm mà dụng công ở chỗ khác, tức là không phải chính đạo.

Học Đạo chẳng phải nói qua cho xong, cũng chẳng phải hiểu biết là rồi, tất phải thành thật ngó vào trong Tâm của chính mình, quét dọn hết thảy những điều vật dục cho sạch sẽ thì tự nhiên hiệp với Đạo.

Chí của người học Đạo gặp cảnh nghèo càng phải thêm cứng cáp. Gặp cảnh già càng phải thêm mạnh mẽ. Nếu bị khách khí ( ) sai sử, ngoại vật ( ) thâu đoạt, thì lỗi ấy chẳng đổ cho khí hay là cho vật được. Bệnh này do nơi chí chưa lập mà ra thì chỉ nên trách nơi chính mình mà thôi. Hãy xét tới nghĩ lui, sẽ thấy được chỗ đau nhức, rồi mạnh bạo đoạn dứt ngay. Ví như nạo xương, đổi tủy, súc ruột, rửa dạ dày, dùng cách đặc biệt để đổi cho một người, làm bất kể sống chết như thế một phen, thì có việc nào mà không thành.

Cái tâm của bậc Thánh nhân chẳng khác với tâm ta, mà tại sao chỉ có cái tâm của Thánh nhân lại thường được thanh tịnh vậy? Thật không có gì lạ hết, mà chỉ do thấy được lý chân, dưỡng được ý định. Duy có thấy lý chân thì hết thảy huyễn cảnh mới không thể mê hoặc ta được. Duy có dưỡng ý định thì cả thảy ảo vật mới không thể diêu động ta được.

Tai nghe mắt thấy ví như ăn uống, ngày ngày phải dùng mà ngày ngày phải tiêu hóa để tống ra ngoài. Nếu tống không hết còn đình trệ ở trong bụng, sau lâu ngày sẽ thành bệnh.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: « Kẻ thế gian học đạo đông đảo, đại để nếu chẳng là vì danh thì cũng là vì lợi. Ngoài hai chữ danh lợi ra siêng học, mà dụng công như vây, thì có mấy người đâu? Cho nên Lữ tổ nói rằng:

Thiên nhai văn thuyết nhân tầm ngã

Tẩu biến thiên nhai bất kiến nhân

Nghĩa là :

Ven trời nghe nói kẻ tìm ta

Chạy khắp ven trời chẳng thấy ai

Lời này quả thật không sai. »

36.- TRI

Biết cho thật biết dễ gì đâu,

Phải mở lương-tri

[64]

học Đạo mầu,

Cái biết từ khi Trời phú tánh,

Mới là thật biết lý thâm sâu.

Sâu cạn cũng do một tấm lòng,

Có bao nhiêu có cũng huờn không,

Biết bao nhiêu biết như không biết;

Nguồn gốc lương-tri vốn sạch trong.

Trong tâm có cái vốn Chân-Như

Chẳng biết có không hay thiếu dư

Cứ học, cứ hành, cho thật biết;

Biết như không biết thật huờn hư.

Học có gì cần hơn là trí tri, nghĩa là mở rộng đường tri thức (sự hay biết). Trí tri tại cách vật, nghĩa là mở rộng đường tri thức cốt để xét tột lý của sự vật.

Vậy đã học rồi thì phải suy, suy rồi thì phải học, cho đến khi trí được mở mang thông suốt mọi lẽ, thì là biết tới nơi đó! Hễ biết tới nơi rồi thì dần dần theo thứ tự sẽ được ý thành. tâm chính...

Kiến thức của kẻ học là hữu hạn, còn nghĩa lý trong thiên hạ thì vô cùng. Cho nên có điều mình biết rồi, mà thế nào cũng có điều mình chưa biết tới. Kịp đến khi biết các điều mình chưa biết đó, lại có điều mình chưa biết khác nữa. Bởi thế người trí hay tỉ dụ sự học như cắt như cứa, như dồi như mài.

Con người ta chẳng phải là không biết gì, nhưng khó biết cho thật đúng (chân tri). Người nào nhìn thấy châu ngọc cũng đều muốn thò tay lấy cho được nó để ôm ấp vào lòng, là tại sao vậy? Là bởi biết thật nó là vật báu. Kẻ học Đạo mà biết thật như vậy đó, thì có lo gì không đủ sức để tu hành.

Người nào thấy gươm thạch tín cũng đều chẳng dám lấy lưỡi mà chạm nó, đem thân mà chống lại nó, tại sao vậy? Là bởi biết nó thật hay hại người. Người muốn bỏ điều ác, nếu biết thật đúng như thế thì có lo gì điều ác chẳng hết sạch không.

Cái tâm của người vốn sáng suốt, vì bị vật dục che khuất nên mới đen tối mờ mịt. Nếu biết do bởi vật dục , thì sốt sắng lấy hết sức chủ định lại chỗ sáng suốt đó.

Ngày nay cần tinh tấn trừ bỏ cái tâm khi sinh khi diệt, người biết điều đó chăng? Biết mà thường soi thường tưởng vào đó, thì có ngày hết sinh hết diệt. Đến chừng hết sinh hết diệt, tâm mới định, thì tánh ta đã tận.

Ngày nay cái khí của người hơi ra hơi vào, người biết điều đó chăng? Biết mà thường nương theo nó (tâm tức tương y) thì sẽ có ngày chẳng ra chẳng vào nữa. Đến chừng khí chẳng ra chẳng vào, là nó đủ rồi, thì mạng ta đã lập.

Bạch Tẫn lão nhân nói rằng : "Ngày nay luận về biết và làm, có nhiều kẻ nói biết thì dễ, chứ làm được thì khó. Sao chẳng xét chỗ biết của mình là nhánh lá, là vỏ da của đạo học thánh hiền mà thôi. Chớ còn cái chân tinh tủy, cái chân mạng mạch, có phải dễ dầu mà biết nó đâu! Nếu người thật biết (chân tri) thì sao cũng muốn làm thật, còn kẻ nào chẳng muốn làm thật thì cũng chỉ là hạng giả biết (giả tri) đó thôi."

37.- HÀNH (làm)

Công phu tu học phải tri hành,

Biết đúng lý chơn bất luận tranh

Lẳng lặng thực hành, năng chủ kỉnh,

Cho tròn Thiên Lý chỗ vô danh.

Danh vị người tu tự tỏ tường,

Năng hành năng đạt, chẳng phô trương,

Cái ngu cái trí hằng đi cặp,

Bản ngã không còn, Đạo hiển dương.

Dương danh hậu thế bởi tri hành,

Thường biết thường làm Đạo chính danh,

Đối cảnh quên tình qui Phật Tánh,

Chơn Nhơn liễu đạt chỗ vô sanh.

Biết và làm là hai đoạn công phu vẫn cứ hiệp nhứt chẳng rời nhau. Thường giữ được cái biết ở với ta thì tự nhiên làm được. Nếu một khắc mà không làm, tức là một khắc hôn mê. Người quân tử lấy thân mà vừa theo Đạo. Hễ thân ở chỗ nào thì Đạo ở chỗ đó. Cho nên đi thì có công phu đi, đứng thì có công phu đứng, ngồi thì có công phu ngồi, ngủ thì có công phu ngủ. Lúc nào không niệm lự, là lúc công phu cả.

Phàm có làm không tấn được, ấy là cái biết chưa thiệt đúng. Nếu biết cái lý cho thiệt đúng rồi thì tự nhiên vui thích mà làm theo lý. Cho nên nói: "Học bất yễm, tri dã", nghĩa là: Học chẳng nhàm là biết vậy.

Nếu thấy lý chưa thiệt đúng mà miễn cưỡng làm bướng, thì ý khí có bao nhiêu đâu! Đến chừng ý hết khí lơi rồi, tự nhiên không làm tới nữa được.

Lúc chiều tối là lúc người quân tử yên nghỉ, thì phải liệu thâu xếp thần thất, bảo nhứt chớ rời, cho nên không có thế tình ràng buộc, mà cũng không có đạo lý diệu huyền, bỗng như người chết, thì mới gọi là đại hưu hiết (yên nghỉ hoàn toàn). Chừng nào ngủ mà không mộng tưởng điên đảo, thì mới thấy cái công hiệu của phép Chủ Kỉnh(1).

Tới sáng mai, đây là lúc người quân tử mỗi ngày làm thêm mới mẽ. Phải liệu dậy sớm, trong ngày lo làm những việc chưa thành. Có người lập chí làm một lần mà nên, ta làm lấy một trăm lần, có người làm mười lần mà nên, ta làm lấy một ngàn lần. Nhiều ngày thành tháng, nhiều tháng ra năm, chẳng luận năm ba năm gì, nếu học như thế mà không tới bực thánh, thì chẳng bao giờ có vậy.

(1) Sau sẽ có bài giảng cái nghĩa chữ kỉnh

Nháy mắt cũng tồn, hơi thở cũng dưỡng(1), công phu không gián đoạn trong giây phút nào. Ngày nầy cũng tấn, tháng kia cũng thêm, học hỏi có tập hi (2) mới tột sáng suốt.

Có kẻ hỏi: Thiên lý làm sao cho tròn?

Đáp: Phải cần giờ giờ tồn dưỡng.

Lại hỏi: Nhơn dục làm sao cho sạch?

Đáp: Chỉ có bữa bữa giảm tiêu.

Con người ai cũng có lương tri lương năng, song lương tri lương năng quí là nhờ ở khoách sung. Khoách sung cốt ở nơi cần học ham hỏi đó thôi.

Cái nhơn tánh của con người đã linh thiêng mà lại thần diệu. Niệm vừa động thì nó bay đi, mà chẳng thấy hình. Nếu muốn lưu nó lại thì phải xét đến cội gốc của nó. Cái cơ (máy động) của nó thường ở tại con mắt, mà cái nhà của có lại ở nơi tâm. Tâm thường thanh tịnh thì thần khí qui về cội gốc, lâu lâu rồi sanh ra món chí bửu, lần lần sung dinh, châu lưu trên dưới, thì cả thân thể đều hiện sắc xuân. Trau mình thuần thục, đối cảnh quên tình, hái lấy linh dược, dùng dương mà chế âm, dưỡng thành thánh thai, hiệu là chơn nhơn.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Thường thường giữ được cái biết ở với ta thì biết tức là làm đó. Một lời nầy chẳng phải người thấu đáo chỗ bí yếu thì chẳng nói ra được. Còn luận về yên nghĩ, mỗi ngày mới mẽ, một nháy mắt cũng tồn, một hơi thở cũng dưỡng, ngày nầy cũng tấn, tháng kia cũng thêm, thiên lý phải giờ giờ tồn dưỡng, nhơn dục phải bữa bữa giảm tiêu, thì lại là lời giải trong 12 giờ (1) chẳng lúc nào là quên đi được."

(1) Tồn là gìn giữ, đương nuôi nấng. Phải gìn giữ cái tâm, thì mới nuôi nấng cái tánh được. Sau sẽ có bài giảng rõ phép tồn dưỡng.

(2) Tập là tâm thuần không gián đoạn, hi là tâm tỏ chẳng bị che.

38.-NGÔN (Lời nói)

Lời nói Thánh Hiền dạy thế nhơn,

Suy cũng nghĩ cạn, tỏ thiên chơn,

Nghe lời phản quán năng tu sửa,

Đắc lý cùng chăng bởi phản hườn.

Phản hườn chơn tánh phát chơn ngôn,

Lời nói tỏ tường biết dại khôn,

Không phải đồng thinh không đáng nói,

Thà cam im lặng giữ sinh tồn.

Tồn tâm dưỡng tánh học vô vi,

Tri giả bất ngôn, ngôn bất tri,

Tai điếc mắt ngơ là thượng sách,

Tự mình tu học, tự mình thi.

Lời của thánh hiền nói ra đều là sự thiệt. Y theo đó mà làm, có thể trau thân, có thể trị người. Phàm đọc sách cần phải đọc cho thiệt hiểu, rồi nhìn cho ra cái nghĩa hiểu đó ở trong thân mình, mới là có chỗ đắc lực(1).

(1) 12 giờ là giờ tý, giờ sửu, vân vân. Nói theo bây giờ là 24 giờ, nghĩa là một ngày trọn.

Theo sách Đại Học, công phu hạ thủ(2) toàn ở tại "cách vật trí tri". Đọc một tạng kinh phật, không bằng xem kỷ một quyển Tâm kinh; xem kỷ một quyền tâm kinh, không bằng hiểu thấu suốt ba chữ "quán tự tại"(3). Cuốn Đạo Đức kinh có năm ngàn chữ, mà cốt yếu chỉ có trong bốn chữ "hư tâm thật phúc"(4).

Cái bịnh của kẻ phàm phu là hay bàn nói chuyện thị phi của người, cái bịnh của người học Đạo là hay chấp lấy lẽ phải của mình. Ta thường tự răn mình mà rằng; mấy năm về trước, học hỏi biết được nhiều, hay được nhiều; còn việc làm gần đây, hoặc vịnh thi, hoặc đặt bài, kiểm điểm lại coi, đều có tâm bịnh. Nay cần phải gấp trừ, lẳng lặng mà sưu tầm...

Thiên hạ trị loạn, giả điếc không nghe. Nhơn gian thị phi, làm lơ chẳng luận. Hình ngáo ngáo ngơ ngơ, chí trơ trơ vọi vọi. Xét muôn loài chẳng có, coi ba cõi đều không. trần duyên đoạn hết, thần khí về nguồn, thì Đại Đạo đã xong, còn phải tìm ai nữa? Mỗi lời thiệt hành, mỗi câu chiếu đối, vì ngày giờ có hạn, chớ theo lối cũ hoài.

Ai giữ lời nói và việc làm được phù hợp với nhau, Thánh nhơn khen người ấy là người quân tử.

Ta nói được mà làm không tới chỗ nói đó, Thánh nhơn chê ta là gỗ mục (hủ mộc), là đất phấn (phấn thổ).

Có kẻ hỏi: Ông là người nhà Nho, sao lại mỗi việc chi cũng đều dẫn lời của Phật?

(1) Đắc lực nghĩa là lấy sức mà làm một việc gì, được kết quả mỹ mãn, không đến phải luống công.

(2) Hạ thủ nghĩa là khởi công, mới phát làm một việc chi.

(3) Coi lời giải trong bài 43 chữ "Quán"

(4) Coi lời giải trong bài 54 chữ "Thái Cực".

Đáp: Người nhà nho đời này thấy danh lợi thì động lòng, chỉ vụ học hư văn (học nhớ chữ chớ không lo thiệt hành), để cầu đặng ngôi lộc. Cũng có người chán thế bỏ trần, ra khỏi được cảnh nầy, nhưng lại chẳng tưởng đến minh đức, tân dân(1) là vật gì, tri chỉ, năng đắc(2), là sự gì? Họ thường hay trái với Đạo Nho mà mong cầu Tiên, cầu Phật, chẳng biết chỗ nhà Nho gọi Thánh tức là Đạo với Thích gọi Tiên, Phật đó.

Nếu ta cho lời Phật, Lão là kỳ quái mà không nói đến, thì họ cũng sẽ cho ta chưa biết cái bí diệu

của họ, Ta với họ tranh phe lập đảng, mỗi bên dựng cờ đánh trống, lố nhố lăng nhăng, biết chừng nào rồi.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Mỗi khi người đời xem sách, ta thấy họ đọc như ruổi ngựa chợ đông. Cái phần thô kệch họ còn chưa thấy rõ ràng thì sao dám bàn bạc tới chỗ nhỏ nhẹm? Sao dám mong hiểu thấu chỗ diệu huyền cho nổi?

Người xưa nói: Thơ độc thiên biến, kỳ ý phương kiến. Nghĩa là: Sách đọc qua một ngàn lần, mới là hiểu rõ ý sách. Ôi! Nếu cứ vội gấp như vậy mãi, dầu có đọc hết năm xe, cũng là không ích!"

(1) Sách Đại Học nói rằng: "Đại Học chỉ Đạo tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện", nghĩa là: Cái Đạo đại học là phải làm cho sáng cái minh đức (cái tánh Trời phú, khác với tánh khí chất), làm cho mới dân, là phải hướng về cõi chí thiện.

(2) Cũng sách ấy nói rằng: "Tri chỉ nhi hậu hữu định, định nhi hậu năng tịnh, tịnh nhi hậu năng an, an nhi hậu năng lự, lự nhi hậu năng đắc.", nghĩa là: biết hướng biết chỗ phải đi tới (mục đích) thì mới quyết định, quyết định thì mới lặng lẽ (không tưởng qua nhiều việc khác), lặng lẽ thì mới yên ổn, yên ổn thì mới dễ bề suy nghĩ (xử việc tinh tường), suy nghĩ rồi mới có thể đặng (là đặng đạt tới cõi chí thiện).

39.-TỈNH SÁT (xem xét)

Hằng ngày xem xét cái lương tâm,

Kiểm điểm lương tri học hỏi thầm,

Khắc trị lỗi lầm năng chủ kỉnh,

Đi vào thanh tịnh vạch cao thâm.

Thâm thẩm Trời cao có khiếu linh,

Người tu tự ngộ ở trong mình,

Biết gìn linh khiếu tu tinh tấn,

Trở lại đường xưa Đạo chiếu minh.

Minh tâm kiến tánh xét âm thầm,

Chăm chỉ nhìn tường, Phật tức tâm,

Khắc kỷ tánh phàm cần quả quyết,

Công phu tồn dưỡng chỗ thâm trầm.

Tỉnh sát là xem xét cái tâm của mình coi trong một ngày là 12 giờ, nó ở trong mấy giờ, nó ra ngoài mấy giờ. Người làm như vậy tự nhiên có chỗ đắc lực.

Xưa có ông Trần Liệt tự xét cái tâm của mình, rồi dùng đậu đen, đậu trắng để ghi cho nhớ: hễ khởi một ý lành thì lấy một hột đậu trắng bỏ vô trong mâm, hễ khởi một ý dữ thì bỏ vô trong mâm một hột đậu đen.

Mới ban đầu thì đen nhiều, kế thì trắng đen bằng nhau, lâu thì đậu trắng nhiều hơn đậu đen. Lâu nữa thì còn ròng là đậu trắng, không có một hột đậu đen. Lại lâu thêm nữa cho tới đậu trắng cũng không. Cái phép nầy tuy vụng về mà cũng có thể dùng được.

Tỉnh sát tức là xem xét, khắc trị tức là trừ lỗi, tồn dưỡng tức là chủ kỉnh (dè dặt).

Đại Đạo tuy không tu không chứng, mà trần tình phải càng giảm càng tiêu. Con người chỉ có một cái tâm, giữ nó ở trong là cái tâm gì? Vụt chút nó chạy ra ngoài, lại là cái tâm gì? Xét được nó cho rành rẽ, rồi sau mới có thể tu tới nữa.

Tỉnh sát phải chăm chỉ, khắc trị phải quả quyết, tồn dưỡng phải thơ thới.

Đó là ba thứ công phu thường bữa phải dùng đến luôn, cho tới chừng nào hết công phu gì phải dùng nữa mới là thành công.

Có người nói chẳng cần nhọc công cũng vượt ngay qua bỉ ngạn. Đó là trong hàng thượng trí, mới có thể được như vậy, chớ đâu dám nói người nào cũng đều làm được như thế cả.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Ba thứ công phu đó là cái bí quyết phải giữ hằng ngày trong cửa

thánh. Người có chí làm thánh, làm hiền, chớ nên xem thường mà bỏ qua."

40.-KỈNH (dè dặt)

Bổn tánh Linh Quang vốn tự tồn,

Lâu ngày che lấp mất tinh khôn,

Làm sao hé mở trong giây lát,

Mới ngộ đường vào chánh pháp môn.

Môn pháp người tu tự kỉnh tâm,

Diệt trừ phiền não, giữ âm thầm,

Chuẩn thằng, quy củ trong muôn việc;

Tự giác tự tồn chỗ thậm thâm.

Thậm thâm do bởi tự lòng thôi,

Chủ kỉnh luôn luôn chẳng đổi dời,

Thần định, tâm chuyên, năng tiến hoá,

Bảo ngươn thủ nhứt, Đạo xong rồi.

Cái bổn tánh linh quang của người không có sanh hay diệt, mà cũng không có tăng hay giảm. Tuy nó bị che tối lâu ngày, mà hễ vừa phát chiếu ra, thì có thể tiêu diệt muôn ngàn điều ác, mà sanh ra muôn ngàn điều thiện. Chỉ bảo thủ linh quang cho được thường tại (còn chiếu hoài), thì ta với Thánh nhơn có khác gì?

Có kẻ hỏi: Làm sao mà bảo thủ linh quang cho được thường tại, phải là kỉnh không?

Duy có kỉnh mới là bảo thủ linh quang thường tại. Giới thận (răn dè), khủng cụ (e sợ)(1) là kỉnh, căng căng nghiệp nghiệp (nớp nớp trong lòng)(2) cũng là kỉnh. Kỉnh thì không sanh lòng tưởng quấy, không tin việc ám mờ. Có phải là chỗ cốt yếu để tồn tâm, cái phép tắc dùng tu kỹ đó chăng? Từ xưa, Thánh nhơn lấy đó mà truyền tâm cho nhau.

Nay con người sửa áo khăn, định tư lự, tự nhiên sanh lòng kỉnh. Kỉnh là chỉ phải chủ nhứt. Chủ nhứt thì tự nhiên tà, giả không xen. Tâm là chủ cái thân, kỉnh là chủ cái tâm.

Người bước vô chùa miễu bèn sanh lòng kỉnh là vì thấy ở trên cốt thần. Còn ở tại thân mình, cũng có một vị thần rất chơn, rất thiệt ở bên trong, mà chẳng tưởng đến, dễ duôi chẳng biết kỉnh là cớ sao?

(1) Sách Trung Dung nói: "Đạo dã giả bất khả tu du ly dã, khả ly phi Đạo dã. Thị cố quân tử giới thân hồ kỳ sở bất đổ, khủng cụ hồ kỳ sở bất vãn". Nghĩa là: Đạo chẳng khi bỏ lìa ra giây lát, nếu lìa ra thì chẳng phải Đạo. Cho nên người quân tử e dè chỗ mình không thấy, e sợ chỗ mình không nghe (tuy không thấy, không nghe, chớ cũng chẳng dám khinh dễ).

(2) Kinh Thi nói: "Căng căng nghiệp nghiệp, như đình như lôi", Nghĩa là nớp nớp lo sợ cũng như nghe sấm nghe sét.

Trình Minh Đạo nói rằng: Lúc viết chữ, tôi rất kỉnh; chẳng phải muốn gò chữ cho tốt, chỉ học cái kỉnh mà thôi.

Trình Y Xuyên nói rằng: Châu Tiên Sanh dạy: nhứt nghĩa là không lòng dục. Kẻ tầm thường làm sao mà giữ được không lòng dục? Chỉ có một chữ kỉnh đó, bất kỳ đi đâu cũng đeo nó theo, nắm nó chặt. Cứ như vậy mà làm, lúc nào cũng tỉnh mỉnh đừng để muội mê thì một hai ngày sẽ thấy hiệu quả.

Qui củ(1) là vuông tròn tột bực, chuẩn thằng(2) là bằng thẳng tột bực. Người nào bên phải có qui củ, bên trái có chuẩn thằng, thì người đó là người tột bực (hoàn toàn).

Qui củ chuẩn thằng là gì? Là lễ đó. Lễ lấy sự kỉnh làm gốc. Trong nước không có lễ, đạo tặc dấy lên thì nước mất. Trong thân không có lễ, tình dục mạnh hơn thì thân mất.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Châu Tử giải chữ kỉnh là chủ nhứt, nghĩa là chủ ý tưởng vào một việc mà thôi, chớ không tưởng sang qua nhiều việc khác. Ai chủ nhứt được thì tâm chuyên thần định, tư tưởng quàng xiêng chẳng thể dấy lên được.

Phép nầy, Đạo gia gọi là bảo ngươn thủ nhứt, Thiền Gia kêu là bất nhị pháp môn."

(1) Qui là cơ xoa (compas) để vẽ vòng tròn. Củ là thước nách để lấy góc vuông.

(2) Chuẩn là ống nước (niveau d'eau) để cân cho bằng. Thằng là dây mực để vạch đường thẳng.

41.-KHẮC TRỊ (Trừ lỗi)

Khắc trị phàm tâm phải quyết tâm,

Tỉnh soi đi đứng, lúc ngồi nằm,

Tánh phàm quen tật hay dời đổi,

Mỗi nhựt thường hành phép định nam.

Nam Mô chí quyết chẳng lơ là,

Mỗi động thông thường chớ bỏ qua,

Khắc trị lâu ngày quen chủ kỉnh,

Mới hay khẩu khuyết Phật Di Đà.

Di Đà tận độ khắp quần linh,

Hay dở, nên hư, cũng tự mình,

Mình quyết sửa mình nên Phật Tánh,

Mới hay diệu dụng pháp vô sanh.

Thánh Nhơn có nói rằng: "Vi học nhựt ích, vi Đạo nhựt tốn"(1). Nghĩa là: Sự học càng ngày càng thêm, việc Đạo càng ngày càng bớt. Bớt đây là bớt chỗ thái quá để đạt tới ngôi trung, là bớt ngọn để trở về gốc, là bớt nhơn dục để trở về thiên lý.

Phàm trăm điều tà dục, trước cần phải khắc kỷ(2). Khắc kỷ cũng như đối với kẻ thù nghịch, trước phải biết chỗ trú của chúng nó, rồi sau mới đem binh công phạt, phá hang, đốt ổ của chúng nó, làm cho tuyệt giống, tuyệt nòi, mới là đặng thái bình.

Tự trị phải cho nghiêm, như kẻ nông phu giẫy cỏ trước phải đào lấy hết rễ, thì sau mới khỏi lo nó mọc lại.

(1) Coi cuốn Đạo Đức kinh chương thứ 48.

(2) Khắc kỷ là khắc trị tư ....

Tỉnh sát cũng là trói kẻ giặc, một khắc cũng không để cho nó thong thả. Khắc trị cũng như giết kẻ giặc, thì phải một đao chặt lìa hai đoạn (chặt một đao cho ngon, ý nói đừng dung vị). Những kẻ muốn trừ nhơn dục thì phải làm như thế đó, rồi sau mới được thành công.

Khắc trị là trừ bỏ cái điều mình vốn không có. Phải biết rằng trước kia tự nhiên không có, chớ chẳng phải khắc trị rồi sau mới không.

Tồn dưỡng là giữ, nuôi cái điều mình vốn có. Phải biết rằng trước kia sẵn có, chớ chẳng phải vì tồn dưỡng rồi sau mới có.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Kẻ mới tấn Đạo phải khắc trị như vậy, rán làm như vậy mới phải là người chơn học Đạo; sau nầy mới có thể hi vọng thành công. Bằng không vậy, cứ mơ mơ màng màng, mai thấy sốt sắng, chiều lại sụt sè, tuy đến tuổi già, cũng còn mắc trong vòng cát bụi (không thoát được chỗ dơ bẩn).

42.-CHỈ

Động tịnh coi chừng tánh quỉ ma,

Chấp nhơn, chấp ngã vẫn còn tà,

Đem tâm để lại sau lưng vậy,

Thì chẳng có người chẳng có ta.

Ta biết quên ta chẳng chấp người,

Tâm ta hằng ngự ở cung trời,

Ở yên một chỗ không dời đổi,

Đoạn dứt trần duyên mới thảnh thơi.

Thảnh thơi tâm nội bởi quên tình,

Mình biết qui tâm, biết giữ mình,

Không để lục trần theo quyến rũ,

Vô nhơn vô ngã đáo thiên đình.

Kinh dịch nói rằng: "Cấn kỳ bối bất hoạch kỳ thân, hành kỳ đình bất kiến kỳ nhơn. "Nghĩa là: để ở (vì đây lấy nghĩa chữ cấn như chữ chỉ) phía sau lưng mình, thì chẳng đặng (chẳng có) ta; đi nơi trước sân mình, thì chẳng thấy người (ý nói động tịnh đều chẳng sanh lòng nhơn ngã).

Nhơn tâm không đặng tịnh là bởi thị dục khuấy rối. Trong thân người, chỗ nào cũng động cả, duy có phía sau lưng thì không động mà thôi. Trong cả thân mình đều có dục cả, duy phía sau lưng không có dục mà thôi. Cho nên Văn Vương dạy người phải chỉ tâm (đem tâm để ở) nơi phía sau lưng.

Bất hoạch kỳ thân, nghĩa là vong ngã (quên ta). Vong ngã thì cội rễ sanh lòng dục phải tuyệt. Đây là tịnh mà chỉ.

Bất kiến kỳ nhơn, nghĩa là vong nhơn (quên người). Vong nhơn thì các việc khêu lòng dục đều tan. Đây là động mà chỉ.

Ta thử nghĩ: Dân đến ở bang kỳ (kinh đô), chim đến ở khưu ngung (gốc núi). Phàm mỗi vật đều lựa chỗ phải mà ở, hà huống là tâm của con người!

Trình Tử nói rằng: Tâm của người phải có chỗ ở, không chỗ ở nó nghe theo vật ngoài, thì đến đâu lại không sanh quấy.

Chữ chỉ có hai nghĩa: Một là ở yên một chỗ mà chẳng đổi dời, Hai là đoạn dứt mọi việc mà chẳng làm lại nữa. Hai nghĩa nầy giúp lẫn nhau, mà làm phương châm vào Đạo.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Bất hoạch kỳ thân là vô ngã, bất kiến kỳ nhơn là vô nhơn, theo đây thì đủ thấy Văn Vương xưa kia đã dạy vô ngã, vô nhơn rồi, nào phải đợi có Phật nhập Trung Quốc rồi mới có luận qua vô ngã, vô nhơn đâu!"

43.-QUÁN

Quán xét lương tâm học Đạo mầu,

Coi chừng tâm tánh chạy đi đâu,

Đem tâm trở lại nơi vô ngại,

Vốn thật không cầm cũng chẳng thâu.

Thâu tâm, tâm động, biết làm sao?

Kiến tánh, tánh rong, tính lẽ nào?

Hãy mượn "Kim Cô" mà khắc trị,

Quên thân cho dứt sạch tâm sầu.

Sầu thương thân phận bởi u mê,

Xuống thế lâu năm lạc lối về,

Nếu biết Chơn Như hằng tự tại,

Quán thông tâm pháp khoẻ trăm bề.

Con người từ khi thức dậy, lo lắng cả ngày, thiệt không thể biết được cái tâm đi hướng nào đâu. Hay là có kẻ biết cầm nó lại mà hay dùng cách cượng chế, cượng chế thì trở lại có hại cho tâm mình.

Âm Phù kinh nói rằng: "Hoả sanh tai mộc, hoạ phát tất khắc", nghĩa là: Cây sanh ra lửa, mà lửa dấy lên thì hoạ đến cây, cây phải bị thiêu, là nói về cái tâm đó. (Cũng như nói: Tâm sanh ra tà, mà tà dấy lên thì hoạ đến tâm, rồi tánh phải loạn). Cái tâm rất hoạt bát mà thần diệu, phải bình cái tánh của nó, thuận theo cái cơ của nó để dưỡng nó, chẳng cho một mảy phóng dật, một mảy miễn cượng, một mảy gián đoạn, thì mới có thể gọi là phép dưỡng tâm.

Đức Khổng Tử nói rằng: Chỉ vu chí thiện(1). Đức Lão Tử nói rằng: Tợ hoặc tồn(2). Thích nói rằng: quán tự tại(3). Số là cái thần của con người ở trong tâm, mà cơ của tâm ở ngoài mắt. Hễ mắt dùng vào trong thì tâm cũng theo nó vào trong, cho nên nói quán tự tại.

Quán tức là phản quán (xem ngược lại). Mắt ở tại đó thì tâm cũng tự nhiên ở tại đó. Nếu con người xem ngược vào đó, lâu rồi chẳng những tâm ở tại đó, mà rốt cuộc cũng sẽ định nữa. Thần khí hễ được định, thì hoảng hốt (dáng mập mờ) như mới tỉnh giấc, kỳ thiệt như trời đất giao thới, khó mà tả chỗ huyền diệu cho cùng tận.

Liễu Tâm kinh nói rằng: Ta tu không biết mấy ngàn kiếp đến giờ, do quán tâm mà đắc đạo.

Khi mặt trời chen lặn thì, ở trong nhà, cái tối nầy ở đâu lại cũng không biết. Đến lúc đốt đèn lên thì cái tối kia đi chỗ nào cũng không rõ. Không lý ánh đèn đuổi bóng tối, bóng tối có tình gì mà sợ đèn. Phải hiểu rằng: Hễ đầu nầy có thì đầu kia mất không phải hao một tí sức lực gì cả.

(1) Chỉ vu chí thiện (hay là chỉ ư chí thiện), nghĩa là: Chăm chỉ về tột lành, lấy đó làm gốc rễ cho mỗi việc làm.

(2) Kinh Đạo Đức, chương thứ tư nói: Trạm hề, tợ hoặc tồn (hay là tợ nhược tồn), nghĩa là; Cái đạo thanh tịnh vô vi không thấy hình dạng mà dường như là có, chớ không phải thiệt không.

(3) Quán tự tại nghĩa là xem ngược vào chỗ tự tại, tức là chỗ vô thỉ, vô chung, bất sanh, bất diệt. Theo Nho và Đạo, chỗ tự tại nầy không phát ra là Vô cực, mà phát ra là Thái cực.

Quán tự tại có nhiều nghĩa khác nữa, nhưng không phải cái nghĩa dùng trong bài nầy, xin miễn bàn.

Có thể lấy ánh đèn mà tỉ dụ sự giác chiếu, lấy bóng tối mà tỉ dụ tánh vô minh. Phải xét tưởng rằng các pháp quá khứ mập mờ như trong giấc mộng, các pháp hiện tại mau lẹ như thấy điễn chớp, các pháp vị lai đen tối như thoa sơn đen. Lại xét tưởng qua hết thảy các pháp hữu vi trong thế gian vụt chút biến hoại, muôn kiếp đến giờ ta vì nó mà chịu không biết bao nhiều khổ não, thì khá sớm lánh cho xa. Đi đứng nằm ngồi đều phải làm luôn hai phép là vừa chỉ, và quán. Chỉ là tịch tịnh (lẳng lặng), quán là tinh tinh (tỉnh giác), nghĩa là lẳng lặng mà chẳng mê muội.

Có kẻ hỏi: Sao gọi là minh tâm (sáng cái tâm)?

Hư tâm (trống cái tâm) tức là minh tâm. Bốn tướng tuyệt như không, muôn pháp đều chẳng động.

Sao gọi là kiến tánh (thấy cái tánh)?

Suất tánh (noi theo cái tánh) tức là kiến tánh, chẳng biết chẳng hay là pháp của Thuận Đế(1).

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: Mạnh Tử nói: đạo học vấn không có cái gì khác hơn là cầu kỳ phóng tâm (tìm cái tâm phóng ra ngoài mà đem ngược trở về).

Kinh dịch nói rằng: Thành tánh tồn tồn, đạo nghĩa chi môn. Nghĩa là: giữ tánh thành khư khư, đó là cửa đạo nghĩa.

Vậy thì đủ biết cái tâm của con người dễ phóng mà khó thâu. Cốt yếu của học vấn ở tại đó, mà công phu hạ thủ cũng ở tại đó. Nếu bằng mỗi khắc mỗi hồi quang, mỗi giờ mỗi phản chiếu, công phu ít thì sẽ thấy tánh sáng tâm, còn công phu nhiều ắt sẽ thành tiên làm tổ. Câu quán tâm mà đắc đạo, trong Liễu Tâm kinh, có phải là lời dối gạt ai đâu!"

(1) Mỗi việc cử noi theo tánh Trời phú mà hành động một cách tự nhiên, không chút miễn cưỡng.

Chẳng biết chẳng hay nghĩa là có biết có hay mà chẳng tự dụng chỗ biết chỗ hay của mình.

44.-TỒN DƯỠNG

Tồn tâm dưỡng tánh kiến Như Lai,

Hàm dưỡng bổn nguyên ấy biệt tài,

Phản quán trở về tâm tự tại,

Lo chi không đáo nhập Diêu Đài.

Diêu Đài nhàn lạc cõi thiên thiên,

Kiến tánh minh tâm ấy định thiền,

Đi đứng nằm ngồi hằng định huệ,

Mới tường giống quí cõi tiên thiên.

Thiên nhơn nhập nhứt cõi trần gian,

Thần khí qui căn học đạo nhàn,

Chẳng phải tánh trần, tâm thoát tục,

Mới hay giống Phật hiệu Kim Cang.

Tồn dưỡng hai chữ vốn chẳng lìa nhau. Nếu chẳng tồn (cầm lại) được, thì dưỡng (nuôi nấng) cái gì? Tồn cái tâm của mình, tức dưỡng cái tánh của mình. Chưa phát ra thì phải tồn dưỡng, đã phát ra rồi thì phải tỉnh sát, thấy ý riêng (chẳng phải công lý) thì phải khắc trị, khắc trị xong lại phải tồn dưỡng. Ba phép nầy làm công dụng lẫn cho nhau một khắc cũng chẳng nên cho gián đoạn.

Tồn tâm chẳng phải lấy sức mà trì kéo nó lại. Chỉ phải gìn lòng trong sạch, ít tham dục mà thôi. Phải biết rằng hễ mình sáng suốt (giác) thì cái tâm nầy nó lại, mình chẳng sáng suốt thì nó đi.

Vậy phải làm sao rồi tâm mới thường sáng suốt, thường chẳng đi ra ngoài? Chỉ nhờ tập cho nó quen tánh mà thôi. Thường thấy người ta nuôi loài chim rừng, tuy nó chẳng phải là loài thú nhà, mà vì nuôi lâu nó quen, thả ra nó cũng không chịu đi. Huống chi cái tâm là món vật ở trong thân ta, dưỡng cho nó quen rồi, thì có lẽ nào nó còn muốn đi đâu nữa.

Châu Tử nói rằng: Cái công hàm dưỡng bổn nguyên(1) rất dễ gián đoạn. Nhưng mà vừa biết gián đoạn tức là trong đó có chấp nối rồi. Chỉ cần thường tự đánh thức, góp nhóp từ phân từ tấc, thì chỗ dứt lâu lâu tự nhiên liền lại, làm một phiến mà thôi.

Hễ tinh khí thần được dưỡng theo phép mà tăng tiến thì sống, còn thất chỗ dưỡng mà tiêu hao thì chết. Thử xem trong một ngày, nhờ dưỡng theo phép mà tăng tiến là bao nhiêu, vì thất chỗ dưỡng mà tiêu hao là bao nhiêu, thì sống chết có thể tự mình biết được, không cần phải dùng phương pháp gì ở ngoài mà xét đoán.

Cái công phu của người học đạo thì phải một ngày một thêm cẩn mật, một giờ một thêm cẩn mật, lâu được thuộc quen, thì chừng đó mới là cùng Đạo hiệp làm một vậy.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Con người hay phản quán thì thần khí trọn về phía trong, Thần khí đã về phía trong thì có lẽ nào không được khước bịnh diên niên (hết bịnh thêm tuổi hay sao?).

(1) Hàm dưỡng bổn nguyên, nghĩa là: hàm sức tồn dưõng cái thiên tánh của mình.

Trong cuốn Ngữ Lục của Ông Khưu Tổ, Ngài chằng chằng lấy đó mà dẫn người ta vào Đạo, Nhưng có người chẳng tuân, không chịu tin theo, là tại sao? Ấy là vì công phu tồn dưỡng khó mà quen được. Hễ quen thì nhồi thành một phiến, theo Nho thì gọi là: tức tâm tức lý, theo Thích thì gọi là: tức tâm tức Phật, theo Tiên thì gọi là: dữ Đạo hiệp chơn (cùng Đạo hiệp một lý chơn).

Người thế đi nửa đường rồi bỏ ngang, đều là bởi tâm sanh, hễ tâm sanh thì công phu gián đoạn. Trong cuốn Tây du ký, tới hồi thứ 97, 98, tác giả mới dám nói vượn thuộc ngựa quen(1). Ôi! Cái tánh quen thuộc nầy có phải dễ mà nói ra đâu.

45.-GIỚI(Răn cấm)

Nhỏ lớn đa mang thói dục tình,

Lâu đời tập nhiễm tánh vô mình,

Ngó, nghe, làm, nói, năng trì giới,

Quán xét tâm tình, sự bất sinh.

Sinh sự rồi ra vẫn sự sinh,

Nếu không trì giới giải tâm mình,

Thì ra học Đạo như chơi giỡn,

Tánh tịch rồi ra vẫn bất minh.

Minh định lập trường tự tiến tu,

Phải nhờ phép báu dẫn công phu,

Tánh năng tự giác, năng trì giới

,

[65]

Tự thắng nổi mình mới trượng phu.

(1) Trong bộ Tây Du, có nêu hai câu nầy lên đầu chương thứ 91: Viên thục mã thuần phương thoát xác, công thành hạnh mãn kiến chơn như. Nghĩa là: Vượn thuộc ngựa quen mới thoát xác, công đầy hạnh đủ thấy chơn nhơn. Vượn thuộc ngựa quen dây chẳng phải nói tâm ý, mà thiệt chỉ chỗ viên dung của Đạo thể, sự tất hoá (trọn cái về lành) của công lực.

Con người từ lúc sanh ra cho đến nay, làm mỗi việc đều theo tình dục. Sự tập nhiễm đã in sâu rồi, một mai muốn cầu đặng thanh tịnh, chẳng phải là chuyện dễ. Cho nên trước phải trì giới (giữ y các điều răng cấm). Trì giới là phải tịnh ba nghiệp. Ba nghiệp là gì? Là thân, khẩu, ý (mình, miệng, lòng).

1. Chẳng hại giết, chẳng trộm cướp, chẳng dâm bôn, là tịnh tu thân nghiệp.

2. Không nói láo xược, không nói đùa bỡn, không đâm thọc hai đầu, không chưởi rủa, là tịnh tu khẩu nghiệp.

3. Trừ tham, trừ sâu, trừ tà niệm, la tịnh tu ý nghiệp. Ngó, nghe, nói, làm, theo tứ vật của Nhan Tử(1) là phép trì giới cao thượng. Khắc, phạt, oán, dục, như bất hành của Nguyên Hiến(2) là phép trì giới thô sơ.

(1) Nhan Tử tức là thầy Nhan Uyên. Sách Luận Ngữ, chương thứ 12, nói rằng: thầy Nhan Uyên hỏi làm nhân là làm thế nào? Đức Khổng Tử đáp rằng: Bỏ tư dục của mình, đem lễ là lẽ tự nhiên trở lại, ấy là làm nhân... Thầy Nhan Uyên lại hỏi điều mục (cái nghĩa rõ ràng). Đức Khổng Tử nói: "Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động. Nghĩa là: điều chẳng phải lễ mắt đừng ngó tới, điều chẳng phải lễ lỗ tai đừng nghe tới, điều chẳng phải lễ miệng đừng nói tới, điều chẳng phải lễ tay chơn đừng làm tới.

(2) Nguyên Hiến tên chữ là Tử Tư, nên cũng có chỗ xưng là Nguyên Tư, cũng là học trò của đức Khổng Tử như thầy Nhan Uyên vậy.

Sách Luận Ngữ, chương thứ 14, nói rằng: "Khắc phạt, oán, dục bất hành diên, khả dĩ vi nhân hỉ?" nghĩa là: Ngăn cấm chẳng cho phát ra ngoài những tư tình ở trong tâm (bất hành) như khắc là háo chăng, phạt là khoe mình, oán là hờn giận, dục là tham lam, có thể đạt tới bực nhân chăng? Đức Khổng Tử đáp rằng: Khó mà ngăn cấm, Theo ta, thì chưa phải là nhân, Tại sao chưa phải là nhân? Vì nhân là ròng thiên lý, không có bốn bịnh nói trên. Ngăn cấm chỉ là cượng chế, rối rồi gốc bịnh cũng còn, cho nên chưa đạt tới bực nhân được.

Đức Khổng tử nói rằng: "Người quân tử có ba điều răn(1), là bởi người quân tử thường gìn cái tâm giới thận (răn dè), một đời chẳng để khí huyết nó sử mình. Lại nói rằng: "Người quân tử có chín điều nghĩ(2), là bởi người quân tử tâm thường tinh tinh (kỉnh giác), chẳng cần phải giữ răn cấm mà tự nhiên chẳng có gì là không ý răn cấm.

Lăng Nghiêm kinh nói rằng: "Nhiếp tâm vi giới, nhân giới sanh định, nhân định sanh huệ", nghĩa là: Kềm tâm mình là giới, nhờ giới mà sanh định, nhờ định mà sanh huệ.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Tịnh tu ba nghiệp là điều răn của Thiên môn, tứ vật cửu tư (bốn cái đừng, chín điều nghĩ) là điều răn của Nho môn. Kẻ mới vào học, chẳng khá không mỗi khắc tuân hành, người tới nhà rồi (trọn thành công) chẳng khá không mỗi điều quét sạch."

46.-ĐỊNH (Yên nơi)

Động tịnh, trong ngoài vẫn lặng trang,

Tánh hằng ngự trị cõi Nhơn Hoàng,

Vô sinh, vô nhiễm, tâm hằng tại,

Không luỵ, không phiền cõi định an.

An tâm, tâm định

[66]

, tánh về nguồn,

Mặc cảnh trần gian lắm khổ buồn,

Tuỳ thuận chúng duyên vô quái ngại,

Từ bi hỉ xả khổ trần tuông.

Tuông ra muôn loại khổ ưu phiền,

Định huệ là phương đắc hạnh Tiên,

Vốn biết tâm sanh là khổ luỵ,

Thì nên tồn dưỡng tánh hồn nhiên.

(1) Ba điều răn là: Hồi nhỏ răn sắc dục, lớn lên răn tranh đấu, lúc già răn lòng tham.

(2) Chín điều nghĩ có giải trong bài chữ Tư (xin xem lại chữ Tư)

Sách Định Tánh nói rằng: Định lấy nghĩa động cũng định, mà tịnh cũng định, hay là nói định ở trong mới phải, ở ngoài chẳng phải, không bằng trong ngoài đều quên. Quên cả hai thì trong tâm mới thiệt lóng trong vô sự. Vô sự mới định, thì khi ứng tiếp có chi mà làm luỵ cái tâm được.

Tâm vốn muốn định, nhưng nếu chẳng định được, thiệt do niệm làm lụy. Nếu bằng dứt niệm gìn tâm, không có gì làm loạn cái tâm nầy nữa, thì tâm tự nó định.

Vân Môn nói rằng: Sơ thiền niệm trú, nhị thiền tức trú, tam thiền mạch trú, tứ thiền diệt tận nhập bồ đại định. Nghĩa là: bực thiền định thứ nhứt là hết niệm, bực thứ nhì là hết thở, bực thứ ba là hết mạch, bực thứ tư là diệt hết, nhập vào cảnh đại định.

Phải biết rằng phép định có ba loại:

1. Thiên sanh định, là nói bổn tánh tịch nhiên (vắng lặng), vốn tự mình chẳng động.

2. Tu thành định, là nói hàm dưỡng đến thuần tuý, tự tánh lắng trong.

3. Vũ thái định, là nói: hư tâm thuận lý (trống lòng theo lý), làm theo lối vô sự.

Trang Tử nói rằng: Vũ thái định phát sanh thiên quang(1). Người xưa đắc đạo là nhờ dùng sự điềm đạm mà dưỡng trí. Trí sanh mà không biết dùng vào đâu, gần ngủ chớ chưa ngủ, thế sự không biết đến, thân tâm êm chẳng động, ấy là tới lúc phát tam muội (samadhi). Luận về nguyên nhân thì gọi là chỉ quán, luận về kết quả thì kêu là định huệ.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: " Quên cả hai tức là cách toạ vong (ngồi mà quên) của Nhan tử. Tới mức quên cả hai thì có lo gì không định."

47.-HUỆ (trí sang)

Lòng người như nước dễ săm soi,

Nếu khuấy đục lên, ắt khổ rồi,

Biến lặng minh châu hằng xuất hiện,

Im lìm lặng lẽ trán rình coi.

Coi tánh Bổn Lai ẩn chỗ nào?

Nhơn không huệ

[67]

trí, rõ âm hao,

Pháp không huệ chiếu, muôn duyên dứt,

Không huệ không tình, Đạo tự cao.

Cao nhơn còn dắm chỗ thương tình,

Vì bởi còn mê hữu lậu danh,

Hư vọng dứt đi, năng giải thoát,

Vô sinh vô tử, có gì tranh.

(1) Vũ thái định nghĩa là: Khí vũ (rộng rãi), nhàn thái (thảnh thơi), thì được tịnh định

Ngạn ngữ nói rằng: Lòng người như nước, để nó lóng trong thì mới có thể soi mặt mày. Nếu khuấy đục lên, thì ngôi trời đất xáo lộn, Phải biết rằng huệ có ba đường:

1. Nhơn không huệ, là nói rõ thấu phép vô sanh, nên vô ngã, vô nhơn.

2. Pháp không huệ, là nói biết năm ấm và các pháp làm duyên (sanh ra muôn vật) là giả chớ chẳng phải thiệt.

3. Không không huệ, là nói hiểu cảnh và trí đều không và cái không nầy cũng là không nữa.

Kẻ mới tập tu định thình lình phát thần thông, hoặc biết việc quá khứ đời trước, hoặc biết việc vị lai ngày sau, hoặc đặng trí tha tâm, nói năng thông suốt. Đó không chi khác chỗ mà nhà Nho ta nói: "Chí thành chi đạo, khả dĩ tiền tri"(1), nghĩa là: người đặng đạo chí thành, có thể tự mình biết trước sự sẽ đến là như vậy đó.

Kẻ học Đạo tới bực đó hay say đắm về đường danh lợi, về sự cung kính của thế gian. Làm như vậy là thuộc về hữu lậu(2), thần khí vì đó mà chẳng bền vững, nên hay thành thi giải(3). Phải mau bỏ cái phép hữu lậu ấy đi, vì nó là phép hư vọng.

Đạo Đức kinh nói rằng: Tục nhơn chiêu chiêu ngã độc hôn hôn. Tục nhơn sát sát, ngã độc muộn muộn(4). Nghĩa là: Kẻ tục sáng rỡ, chỉ ta mập mờ. Kẻ tục biện xét, chỉ ta thờ ơ.

(1) Coi sách trung Dung, chương thứ 24.

(2) Hữu lậu nghĩa là: Còn gây nghiệp phải đầu thai (hữu) lưu trú trong vòng tam giải (lậu).

(3) Thi giải những người tu tiên chưa trọn thành công mà xác hoại phải bỏ xác (chết). Hạng nầy có thể đoạt xá, nghĩa là giựt xác của con nít mới đẻ hày là xác của người lớn vừa chết, như ông Lý Thiết Quài mượn xác của người ăn mày què chín mà tu thêm cho đễn liễu đạo vậy.

(4) Coi đạo Đức kinh, chương thứ 20.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Nước trong có thể soi thấy mặt mày, tâm trong có thể rõ biết sanh tử. Trong cho đến mức vô ngã vô nhơn, ấy mới là chỗ sanh tử bất tương quan (chỗ sanh tử không còn dính dấp với ta nữa) là cơ quỉ thần không xét thấu. Cho nên gọi là Cực Lạc thế giới.".

48.-THÀNH (chơn thiệt)

Trọn bộ Trung Dung giải chữ "Thành"

[68]

Thật lòng, thật dạ, thật vô danh,

Bất tranh, bất chấp, là vô ngã,

Vô kỷ. vô cầu, sự bất sanh.

Sanh cõi trần gian khổ với thân,

Trong thân hằng có Bổn Ngươn Thần,

Thần minh hằng độ thân vô nhiễm,

Chí thiện chí chơn chẳng mất phần.

Phần đạo phần đời đáng trượng phu,

Thành tâm sửa lỗi mới rằng tu,

Mỗi giờ mỗi khắc không quên tánh,

Trọn giác trọn lành chí liệt nhu.

Một bộ Trung Dung chỉ nói về chữ thành. Chọn điều lành mà gắng giữ là việc làm để đạt tới lòng thành(1). Tham tán vị dục(2). Nghĩa là xen vào hàng Trời Đất mà trợ Trời Đất yên ngôi, muôn vật thoả sống, là công trình của bực chí thành.

(1) Sách Trung Dung chương thứ 20, nói rằng "Thành giả, bất miễn nhi trúng, bất tư nhi đắc, thung dung trúng đạo, thánh nhơn dã thành chi giả, trạch thiện nhi cố chấp chi giả dã. Nghĩa là: Người đặng trọn chơn thiệt chẳng phải ra sức gắng công mà làm đúng theo Đạo, cũng chẳng cần phải lo nghĩ mà làm theo đó được ngay, thảnh thơi mà nhằm Đạo là bực thánh nhơn. Kẻ muốn đặng chỗ chơn thiệt (mà mình chẳng có hay là đã mất rồi) thì chọn điều lành mà gắng giữ (đây là chỉ kẻ học giả).

(2) Sách Trung Dung có nói trong chương 22 rằng: Khả dĩ tán thiên địa chi hoá dục, tất khả dĩ dữ thiên địa tham hỉ, nghĩa là: có thể giúp việc biế hoá sanh dục của Trời Đất thì mới có thể xem vào hàng Trời Đất (đồng ngôi tam tài).

Trong chương thứ nhứt, lại nói: Trí trung hoà, thiên địa vị diên, vạn vật dục diên, nghĩa là: Suy tột trung hoà thì Trời Đất yên ngôi, muôn vật thoả sống.

Đây là bực thánh nhơn.

(3) Thiên đạo và nhơn đạo khác nhau là ở chỗ cố gắng cùng không cố gắng giải trên.

(4) Thận độc là dè dặt một mình mình biết và nghe (coi bài chữ Quỉ có giải nghĩa rõ).

(5) Trí là suy trí, khoách sung, Khúc là một mối, một đoạn. Tri khúc là khoách sung mối lành. Sách Trung Dung chương 23, nói rằng: Kỳ thử trí khúc, khúc năng hữu thành... Nghĩa là: Kế đó là khoách sung mối lành, mối lành mới đặng chơn thiệt được. Ý nói: Trên là bực thánh, kế đó là nói tử bực đại thiện sắp xuống tuy có lòng thành mà chưa được trọn, Vậy phải làm cho cái lành đó mới tỏ ra có một mối, một đoạn, được khoách sung đến hoàn toàn.

Chí thành (đặng trọn chơn thiệt) gọi là thánh, tức là thiên đạo(3). Tồn thành (gắng giữ chơn thiệt) gọi là hiền, tức là nhơn đạo(3).

Làm theo trời mới được nên người. Trọng đạo người mới có thể hiệp cùng Trời. Cho nên nói: đến khi thành công rồi, chí có một mà thôi.

Đạo của Trời Đất chỉ nhờ có lòng thành mà sanh dục được muôn vật, đạo của đế vương chỉ nhờ có lòng thành mà cảm hoá được muôn dân, đạo của thánh hiền chỉ nhờ có lòng thành mà trợ giúp được muôn vật.

Dè dặt một mình (thận độc)(4) khoách sung mối lành (trí khúc) (5), là cái công phu rất trọng yếu để cầu thành mỗi ngày. Chí thành có thể cảm động Trời Đất, quỉ thần. Trong khắp khoảng trời đất không đâu là chẳng có quỉ thần. Người tuy chẳng thấy quỉ thần, chớ sao lại chẳng thấy trời đất. Quỉ thần là cái linh diệu của trời đất, còn trời đất là cái dấu tích của quỉ thần. Người quân tử sợ mạng Trời đất là cốt ý sợ quỉ thần đó.

Người thế dám làm điều chẳng nên làm, chỉ sợ người biết mà chẳng sợ Trời biết. Kẻ sợ người biết là dối giả, ấy là kẻ tiểu nhơn. Người sợ Trời biết là chơn thiệt, ấy là người quân tử.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Nhà nho trừ hêt dối trá, thì gọi là chí thành, Chí thành đó là thánh nhơn, Phái Đạo luyện hết âm tà, thì gọi là thuần dương. Thuần dương đó là chơn chơn. Sao chẳng biết thành tức là chơn, chơn tức là thành vậy?

Người xưa nói rằng: Thiên hạ vô nhị Đạo, chí nhơn vô lưỡng tâm, nghĩa là: Dưới trời không hai Đạo, người thánh chẳng hai lòng. Lời nầy thật là đúng lắm!

49.-HIẾU (Thảo)

Hoàng thiên bất phụ hiếu tâm nhơn,

[69]

Nhơn đạo làm nên bậc chí chơn,

Chơn tánh hiển dương trang chí thánh,

Thánh Tiên lẫn thế có gì hơn.

Hơn người nhờ bởi trọn lòng tin,

Có Phật, có Trời, có tánh linh,

Có hạng làm người trọn hiếu đạo,

Bởi năng hành Đạo đắc trường sanh.

Sanh ký tử qui, ấy lẽ thường,

Làm sao âm tuyệt mới thuần dương,

Khá mau học phép "Hồi Nguyên Bổn",

Gởi tặng cho đời một chữ "Thương".

Hiếu là cội gốc trăm hạnh, là nguồn đầu muôn lành. Lập thân hành đạo(1) là cái hiếu trọn đời. Hầu hạ dưỡng nuôi là cái hiếu muôn thuở.

Lời xưa nói rằng: Cha mẹ sanh ra toàn vẹn, thì tới chết con cũng phải giữ vẹn toàn. Mỗi lần dở chơn, mỗi lần mở miệng, mỗi lần động niệm. chẳng dám quên cha mẹ. Đừng làm lỗi gì phải nhục thân mình, táng lương tâm xấu cha mẹ mới được gọi là hiếu.

Ta lại thường nói: Trời Đất sanh ra toàn vẹn, thì tới chết người cũng giữ vẹn toàn. Mỗi lần dở chơn, mỗi lần mở miệng, mỗi lần động niệm, chẳng dám trái Trời Đất, Đừng làm lỗi gì phải nhục thân mình, táng lương tâm, nghịch chơn lý, mới được gọi là nhân.

Cha mẹ là Trời Đất trong một nhà. Con hiếu thờ cha mẹ như thờ Trời Đất. Cha mẹ thương thì vui mừng mà chẳng quên, cha mẹ ghét thì đầu nhọc cũng chẳng oán.

Trời đất là cha mẹ của muôn vật. Ở địa vị giàu sang phát đạt mà chẳng vượt vòng phép tắc (ỷ thế hiếp cô, vân vân...). Đương mạng vận nghèo hèn hoạn nạn mà không sai mất trung chánh (xảo trá, hà lạm, vân vân...).

(1) Cuốn Hiếu Kinh, chương thứ nhứt, nói rằng: "Thân thể phát phu, thọ chi phụ mẫu, bất cảm huỷ thương, hiếu chi thi dã. Lập thân hành đạo, dương danh ư hậu thế, dĩ hiển kỳ phụ mẫu, hiếu chi chung dã. Nghĩa là: mình vóc tóc da, chịu lấy của cha mẹ, chẳng dám làm hư hoại, là đầu việc thảo vậy. Làm nên thân phận làm điều đạo nghĩa để tiếng tới đời sau, rỡ ràng cho cha mẹ, là cuối việc thảo vậy.

Có kẻ hỏi: Cha mẹ đã mất, làm sao mà giữ hiếu?

Đáp: Cái thân của con là cái thể của cha mẹ để lại, rán giữ đừng để cho nó hoại, ấy là thờ cha mẹ đó.

Cái tánh của người ta là cái điểm sáng suốt của Trời Đất ban cho, khéo nuôi đừng để cho nó tán, ấy là thờ Trời Đất đó.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Người được thành Thánh thì kẻ khác kêu cha mẹ mình bằng Thánh phụ, Thánh mẫu. Người được thành tiên, thì kẻ khác kêu cha mẹ mình bằng Tiên phụ, Tiên mẫu. Người được thành Phật, thì kẻ khác kêu cha mẹ mình bằng Phật công, Phật mẫu. Còn người cả đời dung lục (phàm ngu thô tục) ta chẳng biết kẻ khác kêu cha mẹ nó bằng cái gì há?.

50.-ĐỨC

Công phu tích đức trở về lành,

Đức vẹn tánh hườn Đạo trọn danh,

Pháp tánh vượt ra vòng đối đãi,

Trường sanh liễu ngộ, đắc vô sanh.

Vô sanh kỳ thật đức vô cùng,

Vô cực vô biên đấng Chí Công,

Năng học thiên nhiên hoà vạn loại,

Mới tường pháp nhiệm Đấng Huyền Khung.

Khung cảnh trần gian lắm dị đồng,

Buộc ràng tâm tánh khó hườn "không",

Ai hay tự giác năng tu đức,

Tỏ rạng lương tri hiểu tận cùng.

Người đời nay ít ai đặng Đạo. Chẳng phải là Đạo khó đặng, tại biết chưa thiệt, giữ không bền.

Muốn hành công phu nhập đức (vào cõi đức hạnh), trước phải biết cơ vi (1). Muốn hành công phu sùng đức (quí trọng đức hạnh), trước phải giữ thành ý. Muốn hành công phu tu đức (trau sửa đức hạnh), trước phải cải về lành.

Thánh nhơn nói rằng: "Xá đức chi nguyên tỉ ư xích tử", nghĩa là: Cái gốc chứa đức tỉ như con đó..., Con người, khi ban sơ, ai lại không phải là con đỏ? Chỉ trừ cho sạch hết tập nhiễu, trở lại con đỏ khi ban sơ, làm được bấy nhiêu là trọn đức của thánh nhơn rồi.

Vua tôi, cha con, chồng cợ, anh em, bằng hữu, là năm cái đạt đạo (2) của thiên hạ. Bỏ năm bực nầy ra mà nói Đạo, tức là ngoại đạo (ra ngoài đạo).

Trí, nhân, dõng, là ba cái đạt đức (2) của thiên hạ. Bỏ ba thứ nầy ra mà nói đức, tức là bội đức (trái với đức).

Người đời xưa, mỗi lần giận, làm cho thiên hạ yên. Ta nay cũng lấy cái giận ấy mà làm cho tâm mình yên, mới gọi là đại dõng. Dõng phải có trí trợ sức, có nhân làm cho đến thành công. Trí nghĩa là giác mà không mê. Nhân nghĩa là thuần mà chẳng tạp. ba thứ nầy phải cho đủ mới gọi là chí đức. Chí đức được lập thành thì Đại Đạo mới ngưng kiết (tụ mà không rời rạc, ý nói kết quả tốt).

(1) Một sự biến hoá đều tử ẩn vi mà phát ra hiển hiện, từ giản dị mà phát ra phiền tạp, vì vậy cho nên đạo Nho cốt nhứt là phải biết cơ, thấy cơ. Phải phòng vi đổ tiệm. Cơ vi là cái tiên triệu mới phát rất nhỏ nhẹm. Đây nói cơ vi ở trong tâm người.

(2) Đạt đạo là con đường xưa nay ai ai cũng đều phải noi theo đó. Đạt đức là cái lý xưa thiên hạ đồng đặng như nhau (coi sách Trung Dung chương thứ 20).

Đức Khổng Tử nói: Cứ ư đức. Cứ nghĩa là cố chấp (nắm chặt), đừng sờn chí ngã lòng. Có cái tánh nầy thì một lần đặng việc chi là đặng luôn luôn, chẳng khi nào sợ mất. Cố chấp lâu rồi quen, quen thì tự đổi ra nhân.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Châu Tử nói: Đức là đắc (đặng). Đức là hành đạo có sở đắc trong tâm.

Chúng ta bình thường nên rán xét nét lấy mình, coi quả có chơn tri không? Quả có chơn đức không? Hết thảy chỗ nghe, chỗ thấy có được chính chắn không? Nếu có thì phải gắng sức làm thêm, bằng không thì tự hỏi mình có yên được chăng?"

51.-NHÂN

Làm người chí mỹ, trọn lòng nhân

,

[70]

Ngôi Phật, Thánh, Tiên, chẳng mất phần,

Tiên gọi Kim đơn, Phật Xá lợi,

Chơn Nhơn xuất tục thoát phàm trần.

Trần tình trói buộc khách trần ai,

Hay đắm say mê chịu đoạ đày,

Nhân giả siêu sinh, chơn Phật dã,

Thánh Tiên thoát tục, cũng chung bài.

Bài học làm người trọn giác lành,

Lương tri hướng thượng chí cao thanh,

Vượt qua bỉ ngạn, năng tu kỷ,

Trọn đạo vi nhơn, đạo chí thành.

Nhân giả nhơn dã, nghĩa là: nhân tức là người vậy(1). Kẻ bất nhân mà muốn thành chơn nhơn thì chẳng hề có vậy bao giờ.

Theo ta hiểu, nhà Nho gọi nhân, tức là chỗ Phật gọi Xá lợi, Tiên gọi là Kim đơn.

Tâm là cái nhà của nhân, nhân là người chủ trong tâm. Chỉ đem cái tâm nầy mà quét cho ráo rẻ sạch không, thì liền nghe ngươn khí phục hồi, tay chơn thân thể đều khoẻ khoắn, ngoãnh lại xem muôn vật cũng đồng có một vẻ đẹp vui. Cho nên nói: "Nhứt nhựt khắc kỷ phục lễ, thiên hạ qui nhân". Nghĩa là: một ngày sửa mình theo lễ (chế trừ phần tư dục mà trở lại lẽ phải tự nhiên) thì muôn việc trong thiên hạ đều theo về nhân cả(2).

Cái lý sanh sanh của Trời Đất gồm ở trong tâm người ta gọi là nhân(2), ấy là lấy cớ năng sanh mà nói. Hột ở trong trái, người ta cũng gọi nó là nhân, đây cũng là lấy cớ năng sanh. Sao người ta chẳng đem cái lý sanh sanh nầy mà tồn dưỡng nơi tâm?

Ngô Lâm Xuyên nói: "nhân giả thọ", nghĩa là: người có nhân được sống lâu. Ta thường vịn theo đó mà xét coi người thiên hạ. Phàm kẻ nào có khí ôn hoà thì sống lâu, chất hiền lương thì sống lâu, lượng khoan hồng thì sống lâu, tướng trầm trọng thì sống lâu, lời chất phác thì sống lâu. Nhưng ôn hoá, hiền lương, khoan hồng, trầm trọng, chất phác, đều là một mối của chữ nhân cả, cho nên họ được sống lâu là phải. Lâm Xuyên chỉ luận một mối mà còn được sống lâu thay. Huống gồm đủ cả năm đức tánh nói trên thì lại càng sống lâu hơn nữa, tưởng không cần hỏi ai cũng đủ biết.

(1) Coi bài phụ giải về chữ Nhân ở sau rốt bộ Dưỡng Chơn Tập.

(2) Coi sách Luận ngữ, chương thứ 12 (Nhan Uyên).

Chữ Thiên hạ ở đây có nhiều nghĩa. Theo thầy Châu Tử thì thiên hạ là thiên hạ chi nhơn, nghĩa là hết thảy những người trong thiên hạ đều khen cho là nhân.

Thiên hạ cũng có nghĩa là mọi vật, mọi việc trong thiên hạ. Thầy Trình Tử nói rằng: Khắc kỷ phục lễ tắc sự giai nhân, cố viết: Thiên hạ qui nhân. Nghĩa là" Sửa mình theo lễ thì mọi việc đều là nhân. Cho nên nói: thiên hạ đều theo về nhân cả. Cái nghĩa sau nầy rộng hơn.

Theo sách Tánh Mạnh Khuê Chỉ, thiên hạ lại có một cái nghĩa khác cũng nên biết. Trong bản đồ trung tâm có câu giải rằng: Kịch dịch nói : thiên hạ hà tư hà lự? Sách Luận ngữ nói: Thiên hạ qui nhân. Chữ hạ nầy với chữ gian trong thiên địa chi gian, chữ tâm trong thiên địa chi tâm, đều là chỉ ngôi trung nầy mà nói, tức là chỗ vui của đức khổng tử thầy Nhan vậy.

Sách Luận Ngữ nói: "Nhân giả nhạo sơn", nghĩa là người có nhân ưa núi. Vả chăng núi là một vật từ xưa đến nay chẳng hề dời đổi. Trong các vật sống lâu, không có chi bằng núi. Núi mới thường tịnh. Người có nhân thường tịnh, thì thần ngưng, khí kiết, tinh mãn, hình cố (thần đọng, khí tụ, tinh đủ, hình bền), há lại không có người sống lâu sao?

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Thầy Nhan hỏi về chữ nhân. Đức Khổng Tử dạy phải khắc kỷ phục lễ, là làm kiền đạo, khiến phải một đao chặt lìa hai đoạn, tức là chỗ nhà Thiền gọi đốn giáo. Trọng Cung cũng hỏi về chữ nhân. Đức Khổng Tử dạy phải giữ lòng thành kính, làm đạo thứ(1), là làm khôn đạo, khiến phải theo thứ tự mà đi lần tới, tức là chỗ nhà Thiền gọi tiệm giáo. Tại làng Khuyết Lý trước đã có dạy người cái nghĩa đó, chớ nào phải chờ có nam Năng, bắc Tú(2) rồi mới phân đốn, tiệm khác nhau đâu!

(1) Thứ nghĩa là suy lòng ta ra lòng người.

(2) Huệ Năng truyền đạo ở phương nam. Thần Tú ở phương bắc (coi sự tích trong cuốn Pháp Bửu Đàn Kinh).

52.-TỊNH

Tịnh

[71]

là yên lặng để soi lòng,

Giữ vẹn tín thành đón "Chủ Ông",

Thần khí giao hoà "Nhơn Nhứt Tức",

Tánh tình qui hiệp Hạo Nhiên Không,

Trang nghiêm, sáu thức hườn minh triết,

Thanh tịnh, Ba Ngôi dựng đại đồng,

Hỡi bạn tu hành chuyên thủ nhứt,

Chuyện đời xem nhẹ tợ như lông.

Ngạn ngữ nói rằng: "Thánh nhơn chủ tịnh lập nhơn cực" Nghĩa là: Thánh nhân chủ về phép tịnh là cốt để đạt tới ngôi tuyệt đích của con người. Ngôi nầy là ngôi gì? Là ngôi đại trung.

Những bực thánh nhân chủ về phép tịnh, chẳng phải cho phép tịnh là hay, mà để ý về đó. Thiệt là muôn vật không đủ gì làm náo loạn cái tâm mình, chẳng cầu tịnh mà tự nhiên được tịnh.

Nay có kẻ cầu tịnh chưa đặng chơn truyền, đều nói: xiềng chặt con vượn tâm, cột cứng con ngựa ý. Đến khi xiềng cột không được, bèn cho cái tâm nầy, dầu làm thế nào, cũng không tịnh được.

Sao mà chẳng nghĩ lại, lỗi ấy lại chẳng trí tri. Trí tri thì sáng, sáng thì thấy được cái lý trong thiên hạ đều là đình đình đáng đáng(1), một mảy ý riêng không dính dấp với nó được. Đây là chỗ gọi: Tri chỉ nhi hậu hữu định, định nhi hậu năng tịnh, tịnh nhi hậu năng an(2).

(1) Coi lời giải trong bài chữ Vật.

(2) Coi nghĩa trong bài chữ Tánh Mạnh và chữ Ngôn. Tri chi là biết chỗ xu hướng tức là cõi chí thiện, tức là ngôi đại trung.

Ngoài quên danh lợi thì thân yên, trong quên tư lự thì tâm yên, Người đều nói: thân yên tức là phước. Có kẻ lại nói: tâm yên tức là Đạo.

Huệ Khả yết kiến đức Đạt Ma mà bạch rằng: Cái tâm của tôi chưa được yên, nhờ thầy dạy phép cho nó yên.

Đạt Ma nói: Đem cái tâm lại đây rồi ta cho người được yên.

Khả đáp: Kiếm tâm quyết không thể nào được.

Đạt Ma nói: Vậy ta cho người yên đó.

Tâm sau êm đềm, Khả bèn nói rằng:

Tam tế cầu tâm tâm bất hữu,

Thốn tâm mích vọng, vọng nguyên vô,

Vọng nguyên vô xứ tức bồ đề,

Thị tắc danh vi chơn đắc Đạo.

Nghĩa là:

Ba cõi kiếm tâm, tâm chẳng có,

Trong lòng hỏi vọng, vọng xưa không,

Chỗ xưa không vọng ấy bồ đề,

Vậy mói gọi là thiệt đắc Đạo.

Cáo tử không động tâm là vì: bất đắc vật cầu, Nghĩa là: chẳng được thì đừng cầu, bỏ lơ mà không động(1). Đời sau, có những kẻ tu khô khan (ù lỳ) như thế đều là bọn cáo tử cả. Chẳng phải người hiểu Đạo, thì ai biết là họ lầm.

(1) Sách Mạnh Tử, thiên Công Tôn sửu thượng nói rằng: "Viết cảm cấn phu tử chi bất động tâm dữ Cáo tử chi bất động tâm, khả đắc văn dư? Cáo tử viết "Bất đắc ư ngôn, vật cầu ư tâm, bất đắc ư tâm, vật" cầu ư khí." Bất đắc ư tâm, vật cầu ư khí, khả; bất đắc ư ngôn, vật cầu ư tâm, bất khả". Nghĩa là: Sửu nói: Dám hỏi nhà thầy không động tâm với Cáo tử không động tâm, cái mẹo có thể nghe được chăng? thầy nói: Cáo tử nói rằng: "Lời nói mà chẳng được thông thì chớ suy nghĩ ở trong tâm (sợ sanh ra ngờ vực, náo loạn); trong tâm mà chẳng được yên, thì chớ động chi đến khí." Nói rằng tâm chẳng được yên, thì chớ động chi đến khí, còn hơi phải. Nói rằng, lời nói chẳng được thông chớ suy nghĩ ở trong tâm, thì không phải.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Người nào ở trong quên được tự lự, ở ngoài quên được danh lợi, thì cái công phu chủ tịch kia chẳng cần đợi nói nữa. Nếu tự lự chưa trừ, danh lợi chưa dứt, dẫu có tịnh cũng trong chốc lát mà thôi, chớ đâu được lâu dài. Kềm, thúc hay là tự nhiên, xét thấu hay là chưa xét thấu, sai đi một hào, thì thấy khác xa như một trời, một vực."

53.-LẠC

[72]

Vui sướng chi hơn đắc Đạo mầu,

Vượt xa thế tục chẳng tham cầu,

Chúng dân đắc Đạo, hơn vua chúa,

Thoát bể trầm luân có dễ đâu.

Đâu bằng khách Đạo luận thanh nhàn,

Chẳng phải lánh đời, tánh định an,

Xét thấu muôn duyên là giả hợp,

Chi nên chuyển cõi sống huy hoàng.

Huy hoàng lạc cảnh tự tâm trung,

Pháp giới mênh mông chẳng tận cùng,

Chuyển hoá tinh thần về cõi tịnh,

Mới hay tâm lạc tại kỳ trung.

Vui có chi vui bằng đắc Đạo, dân chúng đắc Đạo vui hơn bực vương hầu, khổ có chi khổ bằng thất Đạo, vương hầu thất Đạo khổ hơn người xách bị.

Một ngày học Đạo, một ngày sung sướng, ngày ngày học Đạo, ngày ngày sung sướng, chung thân học Đạo, chung thân sung sướng. Học Đạo là cái pháp môn an lạc, cho nên Thánh nhơn học mà không nhàm.

Châu Mậu Thúc dạy hai họ Trình tìm chỗ vui của Đức Khổng, của thầy Nhan. Cái vui nầy ở trong thân người, cầu ngược vào trong thì tự nhiên có đủ.

Mạnh Tử nói rằng: Người quân tử có ba điều vui:

1. Vui về thiên luân (cha mẹ song toàn, anh em vô sự).

2. Vui về tánh phận ngước lên chẳng hổ cùng Trời, cúi xuống không thẹn với người).

3. Vui về danh giáo (tụ hiệp bực anh tài, chỉ dạy cho biết Đạo).

Cái vui ở đâu trên trời hay là ở tại người khác, ta không thể chắc cầu được. Còn cái vui ở nơi ta, sao mà chẳng lấy hết sức mình để cầu cho được nó vậy?

Nay người có ai bị kẻ khác sai khiến chăng? Có ai bị muôn vật sai khiến chăng? Có ai bị hình thể sai khiến chăng? Người nào trừ được ba thứ sai khiến này thì mới có thể nói chuyện đến sự vui với họ.

Thường thấy kẻ đa mang công việc, hết sức hết gân, chỉ trông buông ra mà nghỉ, thì nghe khoái sướng trong mình lắm. Người học Đạo, nếu buông nghĩ được, lại vui gấp mấy muôn lần hơn kẻ thế.

Lối mấy năm trước, ta đi đường xa mà lại gặp nắng gắt, thấy một ông già ngồi trong nhà mát, ta cho ông ấy là cực vui sướng. Nay ta nhàn rỗi, ngồi dưới gốc cây, tàng che mát mẻ, mà chẳng thấy gì là vui sướng hết, sao vậy? Năm trước, ta đương cực nhọc mà thấy người thong thả, mới có cái tư tưởng vui ấy. Ý đó có phải là nghèo thấy giàu, hèn thấy sang, mà đều như thế hết chăng?

Làm người, ai ở địa vị nào thì cứ làm theo địa vị nấy, thế thì không vào cảnh nào mà chẳng tự đắc (toại chí). Phàm để tâm ước mơ ra ngoài, không có chi ích cả. Hết thảy các phan duyên(1), nghiệp trái, phải quấy, tội phước, đều do nơi một niệm ước mơ ra ngoài đó mà phát khởi, vậy chẳng nên dè dặt sao?

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Học Đạo là pháp môn an lạc, người hay cho nó là khổ, còn danh lợi là việc cực nhọc, mà trái lại người cho nó là vui. Huệ nhãn với nhục nhãn tự nhiên phải có chỗ khác nhau là thế!"

54.-THÁI CỰC

Thái cực Thánh Hoàng bực Chí tôn,

Năng sanh, năng hoá, độ linh hồn,

Tìm nguồn Thái Cực nới linh khiếu,

Mới biết nhiệm mầu diệu pháp môn.

Môn sinh học Đạo luyện kim đơn,

Biết phép cầm thâu, biết phục hườn,

Biết giống Tiên Thiên nơi Tổ Khiếu,

Ngàn tu muôn luyện, một Chơn Nhơn.

Nhơn năng tiến hoá ngộ nơi mình,

Biết chuyển pháp Luân mở khiếu linh,

Tâm Pháp nhãn tàng rày đã rõ,

Mới hay Trời Phật rộng chơn tình.

(1) Coi lời giải trong bài chữ Thức

Thái cực là tổ sanh lưỡng nghi (âm dương). Lưỡng nghi là tổ sanh Trời Đất. Trời đất là tổ sanh muôn vật. Tu thân bằng tổ khí thì thân được vững bền. Vẽ bùa với tổ khí thì bùa sẽ linh nghiệm.

Ở trong mình người, thái cực gọi là huyền tẫn, Ấy là hai thứ chơn tinh diệu hiệp, tự nhiên mà tạo thành. Nó là gốc của thần khí, cũng là khiếu của tánh mạng.

Đại khái, xem xét cái cơ Đạo của Trời, noi theo cách vận hành của Đất, làm hai việc đó thì trọn rồi.

Một âm, một dương, hai cái phối hiệp cùng nhau, là cái cơ Đạo của Trời Đất. Nhựt nguyệt vần xây, ngày đêm hiệp sáng với nhau, là cách vận hành của Trời Đất. Cho nên nói: Trời Đất sắp theo ngôi thứ thì có "dịch" vận hành nơi giữa.

Nói dịch là chỉ khảm li. Thánh nhơn biết như thế nên mới lấy kiền khôn làm đảnh khí, lấy ô thố làm dược vật (1). Ở trong đó, khi phát, khi tàng, khi đầy, khi với, có số, cũng phải lấy hoả hậu mà toán định(2).

Âm Phù kinh nói rằng: Nhựt nguyệt hữu số, đại tiểu hữu định, thánh công sanh diên, thần minh xuất diên. Nghĩa là: nhựt nguyệt có độ số (châu thiên), lớn nhỏ (âm dương) có nhứt định (văng lai), thánh nhơn theo đó mà hành công phu, tự nhiên có thần minh (thiên cơ tạo hoá) phát lộ. Tóm lại, trộm được cái máy nghịch dụng (vận dụng đi trở ngược lại) là đủ rồi.

(1) Đạo Quang nói rằng: Kinh nói: Nhựt nguyệt vốn là tinh ba của kiền khôn. Thánh nhơn vi kiền khôn như đảnh khí, tỉ nhựt nguyệt như đơn dược. Kiền khôn tức là chơn long chơn hổ. Nhựt nguyệt là huyền khí của long hổ.

(2) Thánh nhơn mượn vật hữu hình mà ví dụ. Kỳ thiệt chỉ đem tính "chơn nhứt" về huỳnh đạo. Huỳnh đạo là trung cung, chỗ kim đơn ngưng kiết.

Trời đất phân rẽ, nhựt nguyệt vần xây, chiếu diệu hiệp sáng, thì tạo hoá sanh vậy. Nhựt nguyệt là tinh thần của trời đất, của âm dương. Nói theo bát quái, tức là khảm li. Ô tinh là khí âm ở trong quẻ li, thố tuỷ là khí dương ở trong quẻ khảm.

Theo phép luyện đơn thì lấy ô thố để làm dược vật (vị thuốc), chẳng qua là biết cái tinh ba của ngũ tạng, rồi trộm cái cơ mầu nghịch dụng mà thôi. Dược vật sanh sản có thời tiết, hái lấy có cân lường, vận chuyển có pháp độ. Chỗ cốt yếu là tại mặt trăng mọc lúc canh sơ (trăng lưỡi liềm mông ba mới phát sanh kim khí), diên khí sanh hồi quí hậu (khi có quí thuỷ rồi), nhựt nguyệt hiệp sáng, âm dương hoà khí, tự nhiên mà đơn thành. Cho nên hình chữ đơn do hai chữ nhựt nguyệt hiệp lại.

Có kẻ hỏi: Sao mà gọi là kim dịch hườn đơn?

Đáp: Vật mất rồi mà tìm lại được gọi là hườn. Thâu lấy khí kim ở trong thuỷ, hiệp với khí hống của ta, mà được thành công, gọi là kim dịch.

Bạch Tẫn Lão Nhơn nói rằng : "Thái Cực là lý, là tánh, Lưỡng nghi là khí, là mạng. Kỳ thiệt, ngoài lý không có khí, ngoài khí không có lý, đủ thấy mạng chẳng phải chia ở hai chỗ riêng. Tu tánh tức là phương dưỡng mạng, cũng như đầy bụng (thật phúc) tức là phép trống lòng (hư tâm) vậy (1)".

55.-TRUNG

Đạo mầu hiển lộ tại ngôi "Trung",

Chẳng thấp chẳng cao, chẳng tận cùng,

Ai biết "Qui Trung" vào Chánh Đạo,

Nơi nầy siêu xuất "Chủ Nhơn Ông".

Ông Phật, Ông Tiên, cũng hiệp qui,

Qui Tam, Hiệp Ngũ, tại thân này,

Duy tinh, duy nhứt, rồi qui hiệp,

Suất tánh tinh thông lữ diệu kỳ.

Diệu kỳ Tánh tự ngôi "Trung",

Tâm Pháp nhãn tàng nói chẳng cùng,

Quán nhứt chấp trung cầm mối Đạo,

Thông rồi một mối, vạn nguồn thông.

Những bực thánh xưa truyền lại cho nhau, chỉ có một chữ trung chẳng chinh lịch, chẳng dựa nương, là cái thể của chữ trung. Chẳng quá chừng, chẳng không kịp, là cái dụng của chữ trung.

(1) Đạo Đức nói rằng: Thị dĩ Thánh nhơn chi trị (dân), hư kỳ tâm, thật kỳ phúc, nhược kỳ chí, cường kỳ cốt, thường sử dân vô tri vô dục, sử phù tri giả bất cảm vi dã, vi vô vi tắc vô bất trị. Nghĩa là: Cho nên những bực vua thánh trị dân, làm cho chúng nó trống lòng mà đầy bụng yếu chí mà mạnh xương, thường khiến dân không hay biết, không lòng tham (thanh tịnh), khiến kẻ trí chẳng dám dùng trí mình (mưu loạn), làm theo phép vô vi mà không chỗ nào chẳng được trị an.

Trống lòng đầy bụng nghĩa bóng là trống lòng dục, đầy lòng Đạo, chớ chẳng phải nói cho dân ăn no mà để cho nó dốt.

Vua Nghiêu nói rằng: Doãn chấp khuyết trung nghĩa là: tin chắc nắm giữ chữ trung của mình. Chấp trung đây là nói gồm luôn về động, về tịnh. Tịnh thì giữ chữ trung ấy để tồn tâm (dưỡng tinh thần), động thì giữ chữ trung ấy để ứng sự (đối người vật).

Doãn nghĩa là tin chắc. Có cái ý do thời kỳ, tuỳ sự vật, tự nhiên mà nắm giữ chữ trung, chớ không có một mảy miễn cượng, gián đoạn nào cả.

Vua Thuấn nói rằng: Duy tinh duy nhứt. Rõ thấy chỗ huyền vi, gọi là tinh. Trước sau giữ một dạ, gọi là nhứt. Ý nói làm người phải nghe thấy cho (duy tinh), giữ chí được (duy nhứt), rồi sau mới có thể nắm giữ chữ trung. Trong chữ doãn đã có cái ý nầy, nhưng sợ người không thấu hiểu, cho nên vua Thuấn mới nói rõ thêm rằng: "Nhơn tâm duy nguy, Đạo tâm duy vi", nghĩa là: lòng người rất rắc rối (khó yên), lòng Đạo rất nhỏ nhẹm (khó biết). Có niệm tưởng là lòng người, không niệm tưởng là lòng Đạo. Ý nói lòng người dễ lừng (bốc lên mà đốt), còn lòng Đạo dễ chìm (rất nhỏ khó thấy). Đây nói cái cơ vừa rắc rối vừa nhỏ nhẹm, làm cho ngưòi để ý đến, ngõ hầu cẩn thận về phép chấp trung.

Lý Diên Bình(1) nguy toạ (cũng như đoan toạ, là ngồi ngay thẳng) cả ngày để nghiệm thử coi cái khí tượng của hỉ, nộ, ai, lạc, lúc chưa phát về trước, ra sao, đặng kiếm chỗ "trung" nói đó. Ông làm như vậy lâu rồi, mới biết gốc lớn của thiên hạ quả là ở tại đó. Cho nên nói: học vấn chẳng phải nhiều nói, chỉ ngồi lẳng lặng, lóng sạch lòng, để nghiệm thử thiên lý. Nếu thấy được thiên lý rồi thì nhơn dục phải tiêu thối cả.

(1) Lý Đông tự là Nguyên Trung theo học cùng La Tùng Ngạn, nghiên cứu lý học rất tinh tường. Châu Tử thờ ông làm thầy. Người thế gọi ông là Diên Bình tiên sanh, nghĩa là tiên sanh ở đất Diên Bình.

Lý Thanh Am nói rằng: Chỗ trung nầy chẳng phải là ngôi giữa chừng hai bên trong ngoài, chẳng phải là ngôi giữa của bốn phương, cũng chẳng phải là ngôi giữa trung tâm. Ấy là chỗ ý niệm chưa phát. Cho nên nói rằng: thánh nhơn do nơi đó mà tẩy tâm thối tàng ư mật (rửa lòng thối ẩn nơi kín).

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Chỗ ý niệm chưa phát gọi là trung. Thanh Am nói ra lời nầy, có thể gọi là một tay đã vẽ rồng mà còn điểm nhãn luôn.

Diên Bình tiên sanh cả ngày nguy toạ, để nghiệm thử coi cái khí tượng của hỉ, nộ, ai, lạc, lúc chưa phát về trước, chánh là doãn chấp khuyết trung, Nhờ lâu ngày dày công, nhơn dục biến ra thiên lý, yêu tinh trọn hoá như lai, công phu toàn do nơi: tẩy tâm thối tàng."

56.-HỌC THÁNH

Nghiêu Thuấn sanh ra trọn Tánh Trời,

Võ Thang năng học chỗ cao vời,

Chúng dân chí quyết theo Hiền Thánh,

Thoát cảnh trầm luân, dứt nghiệp đời.

Đời là trường học với trường thi,

Học Đạo am tường chỗ tự tri,

Học sách Thánh Hiền năng tự giác,

Đạo mầu liễu đạt chỗ tân kỳ.

Kỳ tri chốn Mạng, Tánh qui trung,

Thần khí qui căn, tánh mạng đồng,

Học Thánh năng tu thành chánh giác,

Pháp mầu diệu hữu tức Chơn Không.

Người xưa có nói rằng: Nhơn giai khả dĩ vi Nghiêu Thuấn, Nghiêu Thuấn thị thiên sanh để thánh nhơn, Thang Võ thị học thành để thánh Nhơn", Nghĩa là: Người người đều có thể làm vua Nghiêu vua Thuấn. Vua Nghiêu, Vua Thuấn là thánh nhơn tự Trời sanh ra, còn vua Thang, vua Võ là thánh nhơn nhờ học mà nên.

Lão Quân nói rằng: "Ngã phi thánh nhơn, học nhi năng chi", Nghĩa là: Ta chẳng phải thánh nhơn, nhờ học mà được vậy.

Có kẻ hỏi: Châu Mậu Thúc(1) nói có thể học làm thánh, phải thiệt vậy chăng?

Đáp: Phải

Có chi làm cốt yếu không?

Có.

Xin hỏi.

Lấy chữ nhứt làm cốt. Nhứt nghĩa là không lòng dục. Không lòng dục ắt tịnh hư, động trực (Tịnh thì trong tâm trống không, động thì nói, làm ngay thẳng). Tịnh hư thì sáng láng, sánh láng ắt suốt thông, động trực ắt chung cùng, chung cùng thì bủa khắp. Sáng láng, suốt thông, chung cùng, bủa khắp, thì đã gần bực thánh rồi.

Học Đạo tức là học thánh nhơn. Đạo là vật ta sẵn có, chẳng phải ở đâu ngoài lại. Thánh chẳng phải đức tuyệt vời, hễ học thì đạt tới nơi.

(1) Châu Đôn Di là một vị danh Nho, Tự là Mậu Thúc (1067 1073), trước ra làm quan, sau vì có bịnh xin từ chức, về ở dưới núi Liên Hoa, thuộc Lư Sơn. Ở đó có một cái khe, ông bèn đặt tên là Liêm Khê và tự lấy làm tên hiệu. Hậu Nho gọi phái học của ông là Liêm phái.

Cái tánh của ta với thánh nhơn đồng như nhau. Ai thiệt hiện được tánh mình, tức là thánh nhơn vậy. Người học khoa cử thì sẽ đậu khoa cử, thiên hạ đều biết hết. Người học thánh nhơn thì sẽ tới bực thánh nhơn, sao lại chẳng rõ kìa?

Phu tử của ta tin chắc rằng mình có thể làm thánh nhơn, cho nên học mãi mà không nhàm. Ngài cũng thấy người đời đều có thể làm thánh nhơn, cho nên dạy hoài mà chẳng mỏi. Ngài châu lưu các nước là muốn lấy đạo của thánh nhơn mà dạy trong thiên hạ. Ngài chỉnh đốn sáu kinh là muốn lấy đạo của thánh nhơn mà truyền tới đời sau.

Chỗ nhà Nho gọi Thánh, tức là Thích gọi Phật, Đạo gọi Tiên.

Phật là gì? Phật là giác (sáng suốt, xét thấu mọi lẽ). Tiên là gì? Tiên là núi (bất động). Đó là nghĩa xưa nay của hai chữ nầy. Ta lại đem chữ Phật, chữ Tiên mà nói rõ thêm một chút nữa.

Chữ Phật một bên chữ nhơn (người), một bên chữ phất (chẳng). Phất có cái nghĩa chẳng làm theo nhơn dục. Người làm được những việc người ta chẳng làm, thì có thể thành Phật.

Chữ Tiên một bên chữ nhơn (người), một bên chữ sơn (núi). Sơn có cái nghĩa thường định thường tịnh. Người hay tịnh được như núi thì có thể thành Tiên.

Bỏ dục liền là Phật,

Tỉnh mê mới thành Tiên,

Làm sao mà chứng Thánh?

Duy một chẳng hai ba.

Xem qua thì Nho, Thích, Đạo đều nhờ không lòng dục mà thành. Kẻ nào học Thánh mà còn lòng tham lam, thì một trăm người không được thánh lấy một.

Có kẻ hỏi: Muốn học thánh nhơn, mà như khó trừ tập khí thì mới làm sao?

Đáp: Tại chẳng khứng trừ cho nên nói khó. Nếu thiệt muốn trừ, một khắc đã thấy xong. Sao vậy? Vì hết thảy tập khí đều là hư vọng, tâm mê thì có nó, tâm ngộ thì không ngay. Chẳng phải ngộ rồi mới không có, vốn trước kia nó không có rồi.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Đạo là vật ta sẵn có, chẳng phải ở đâu ngoài lại. Thánh chẳng phải đức tuyệt vời, hễ học thì đạt tới nơi. Bốn câu nầy đủ khai chỗ đường đi của thánh nhơn, thêm tinh thần cho kẻ học.

Mạnh Tử sanh sau Khổng tử một trăm năm, mà dốc lòng theo Khổng tử, cho nên tới ngày nay, người đều xưng luông Khổng, Mạnh."

57.-KHẢM LY

Khảm li trở lại Khôn Càn,

Mượn khí thuần âm quá ngũ quan,

Phục lại thể Càn hườn Đại Đạo,

Mới hay Quốc Độ mở Huyền Quan.

Huyền Quan Nhứt Khiếu của Linh Tiêu,

Đạo Pháp đâu xa học hỏi nhiều,

Thanh lọc, phục hườn và mở Khiếu,

Thuần dương xuất tục, Tánh tiêu diêu.

Tiêu diêu khoái lạc có chi bằng,

Tánh hiệp vô vi cứ thượng thăng,

Thông thấu Tam Tài chi bí chỉ,

Còn Thầy, Thầy độ tận lương năng.

Có kẻ hỏi: Dịch có tám quẻ, mà kẻ cầu Đạo thường nói quẻ khảm, quẻ li mà thôi, là tại sao vậy?

Đáp: Quẻ Kiền thuộc dương, quẻ Khôn thuộc âm. Kiền ở phương nam, khôn ở phương bắc hai ngôi đối chiếu nhau. Đây là cái thể của tiên thiên. Kiền dương khi động tức sanh ngọn gió bất chánh, cho nên hào giữa ở quẻ Kiền sa vào giữa quẻ Khôn, làm cho quẻ Kiền thành ra quẻ Li, quẻ Khôn thành ta quẻ Khảm.

Nam bắc là hai cái then chốt của trời đất. Ấy là, theo bát quái tiên thiên, chỗ kiền khôn ở trước khi. Nay Kiền Khôn lui về địa vị vô dụng, rồi lại đem Li Khảm mà thế vào chỗ ấy, thì cái công dụng của hậu thiên mới phát hành. Chơn khí ở cung Khảm biến làm diên, tức là "Thiên nhứt sở sanh chi thuỷ" (là nước của Trời sanh ra lần thứ nhứt). Chơn tinh ở cung Li biến làm hống, tức là "Địa nhị sở sanh chi hoá" (là lửa của Đất sanh ra lần thứ nhì). Bởi cớ nam(1) đặng cái tinh nầy, mà dùng tinh hay biến đổi, cho nên đi thuận thì thành người. Nữ(1) đặng cái khí kia, nhưng dùng khí được vững bền, cho nên đi nghịch thì thành tiên.

Lấy chơn diên là tiên thiên chưa bị vọc khuấy (chưa nhiễm trần) chế chơn hống là hậu thiên chứa đã lâu rồi, thì hai loại mến nhau, triều nhau như vợ chồng, như con mẹ, chẳng dành rời nhau. Đó là tự nhiên như nhiên, không biết duyên cớ sao mà ra làm vậy.

 (1) Nam đây là chỉ quẻ khảm. nữ đây là chỉ quẻ li. Sách Đạo Gia thường dùng hai chữ nam nữ chỉ khảm li, âm dương, chớ lấy nghĩa trai gái mà lầm.

Li là mặt nhựt, mặt nhựt chủ về dương tinh, mà hào giữa quẻ li thuộc âm, ấy là âm ngụ nơi nhà dương. Ở trong mình người, thiếu âm số 8, nam tử đặng số đó, cho nên hai tám (16 tuổi) thì chơn tinh thông (lậu tinh); thiếu dương số 7, nữ tử đặng số đó, cho nên hai bẩy (14 tuổi) thì thiên quí chí (có kỳ). Có phải nhờ dương đặng số âm, âm đặng số dương, mà được thấy nghĩa hộ tàng (cái nầy ngụ trong cái kia, cái kia ngụ trong cái nầy) đó chăng?

Cho nên người muốn cầu Đạo thì phải đem cái hào dương trong quẻ khảm tái nhập cho được trong giữa quẻ li, thì mới phục lại thể kiền mà hườn ý Đại Đạo. Vả lại, dương ở trong âm lấy động làm chủ, cho nên lúc rút quẻ khảm chỉ phải coi chừng nó động. Còn âm ở trong dương lấy tịnh làm chủ, cho nên khi đắp quẻ li rồi, phải tịnh để dưỡng nó.

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Dùng tinh hay biến đổi, người đời đều biết; dùng khí được vững bền, người đều không rõ, Lấy chơn diên tiên thiên chưa bị vọc khuấy mà chế chơn hống hậu thiên chưa đã lâu rồi. Hai câu nầy tiết lậu cái bí chỉ của trọn bộ Ngộ Chơn thiên, kẻ đắc quyết(1) tự mình hiểu lấy.

Lúc rút quẻ khảm, chỉ coi chừng nó động, khi đắp quẻ li rồi, phải tịnh để dưỡng nó, lại là một câu khẩu quyết còn trọng yếu hơn nữa.

(1) Đắc quyết nghĩa là được thày truyền bí quyết rồi.

58.-KHAI QUAN

(Mở cửa ải)

Khai quan điểm nhãn khách phàm phu,

Kiến tánh minh tâm hết điếc mù,

Hoán đổi hậu thiên thành chánh khí,

Phá tan cửa ngục thoát lao tù.

Lao tù cơ thể nhốt chơn linh,

Thiên Tánh tự nhiên biến Thất Tình,

Vận chuyển Pháp Luân trừ nội tặc,

Lưu thanh khử trược khoẻ thần minh.

Minh lý đạo mầu kíp luyện phanh,

Đạo năng khai giải, Đạo năng hành,

Khai quan tựu khí thông đường cũ,

Chí lớn căn sâu Đạo đắc thành.

Trong mình người có mạch Nhâm và mạch Dốc. Đương hồi còn trong thai bào, hai mạch nầy thường vận chuyển không bao giờ gián đoạn, nên thần khí hỗn hiệp, thông với tiên thiên. Đến khí xé bọc ra, cắt rún rồi, thì mạch nầy bèn chia làm hai: Mạch Nhậm chủ về phần âm, khởi tại huyệt Thừa tương (môi dưới) mà dứt ở huyệt Hội âm (gần lỗ đại, phía trước) ; mạch Đốc chủ về phần dương, khởi tại huyệt Trường cường (gần lỗ đại, phía sau) mà dứt ở Nhơn trung (môi trên)(1), thì âm dương hết giao, trước sau gián đoạn. nê hườn chẳng cùng đơn điền giao thông, khí Đơn điền chẳng cùng Vĩ lư thấu suốt, quan khiếu chẳng thông, hoá cơ không chủ. Do cái khí bẩm nhiều ít mà thành ra thọ mạng vắn dài. Cho nên ngày chết đã định rồi từ khi con người mới sanh ra.

(1) Coi bản đồ trong bài chữ Mạch.

Xưa có người hiểu lý nầy trước hết, được chứng quả trường sanh, là nhờ có phép châu thiên thăng giáng, hà xa vận chuyển khiến cho hai mạch liền nhau, tuần hườn không dứt, ba quan khai thông, châu lưu chẳng nghỉ. Theo phép nầy, trước giờ tý, sau giờ ngọ, ngồi xếp bằng ngay thẳng, bốn cửa bế ở ngoài, hai mắt xem vào trong, trong trẻo như nước đứng, vắng lặng tợ nhà không, sẽ đến không lo, qua rồi chẳng tưởng, tâm chẳng sanh diệt, khí không ra vào. Hãy điều hơi thở cho lâu, chú tưởng tại đơn điền, giữ đừng cho khí tán, thì mới nghe trong đơn điền có khí phát động. Tức thì đem hơi thở lỗ mũi cẩn bế nơi dạ dưới, lấy ý mà phụ hơi một chút, cho khí thông vĩ lư. Vĩ lư thông thì phải nhiếu hơi cốc đạo( lỗ đại), lưỡi chống ổ gà, dùng ý dẫn từ từ lên tới nê hoàn. Đem khí lên tới Nê hoàn gọi là hoàn tinh bổ não. Một chập, khí ấy hoá ra cam lộ, do thước kiều(1) mà đi xuống, thì bỏ cái lưỡi xuống, tự nhiên hội yết khai thông, dùng ý nhẹ nhẹ đưa về ngươn hải. Đó là một hiệp. Đủ 360 hiệp như vậy gọi là châu thiên.

Làm như vậy cho lâu, tự nhiên khí cơ lưu chuyển, cốt tiết xoi thông, ba quan lần mở, hai mạch tìm lại con đường Tào khê, có cảm sẽ thông, vào cửa chúng diệu (huyền khiếu), ngươn tinh hết chạy ra nữa.

Trên là một tiết công phu, có thể làm cho người sống lâu. Tới việc bảo ngươn khế hư (giữ gìn huyền khiếu, hiệp với hư không), thoát thai thần hoá (thần ra khỏi thai, vô cùng biến hoá), lại có một từng công phu vi diệu khác nữa, nhưng kỳ thiệt cũng tự bước đầu nầy mà tiến lên.

(1) thước kiều là cầu của chim ô thước bắt qua sông Ngân Hà cho Chức Nữ sang gặp Ngưu Lang đêm mồng bẩy tháng bảy. Đây có nghĩa là chỗ nguy hiểm khó qua (ngõ thông ra lỗ mũi).

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Giữ điều hơi thở, có ngày phục trú cái khí hậu thiên, chứa khí khai quan, tự nhiên trở lại con đường tiên thiên, tức là chỗ gọi, tìm được con đường trước đi lại."

59.-TỰU CHÁNH(1)

Tựu chánh lâu ngày đắc chánh trung,

Tâm hồn, tánh vía thảy qui không,

Thế gian cõi tạm nương thân độ,

Công quả, công phu đến tận cùng.

Cùng tận tánh chơn rõ Đạo mầu,

Biết đường chẳng luận chậm hay mau,

Trở về nguồn sống mà vui sống,

Tận độ khách trần học Đạo Cao.

Cao Đài xuất thế độ toàn linh,

Học Đạo giác mê cũng tự mình,

Thánh thể Thấy phô bày trước mắt,

Người không giác ngộ mối Thiên Tình.

Đức Khổng Thánh nói rằng: "Quân tử thực vô cầu bão, cư vô cầu an, mẫu ư sự nhi thận ư ngôn, tựu hữu đạo nhi chánh diên", nghĩa là: Người quân tử (chuyên tâm dốc chí về sự học) ăn không kịp no, ở không kịp yên, nhặm lẹ về việc làm, dặt dè trong lời nói (nhưng còn chưa dám cho mình làm phải). Lại hay gần gũi với người có Đạo để chất chánh những điều trái phải.

(1) Tựu là đến gần, chánh là chất chánh (hỏi cho chính đính về chỗ còn nghi ngờ). Tựu chánh nghĩa là gần người có Đạo để chất chánh trái phải.

Ngài chuyên tâm gắng sức, có thể nói là học đúng theo tông chỉ. Vậy mà còn phải gần gũi người có Đạo để minh biện chánh tà. Chẳng phải ngài có ý quá khiêm, kỳ thiệt là muốn học thêm mà thôi. Ngài thiệt thấy rõ Đạo Lý trong thiên hạ vô cùng, còn học vấn của một người thì hữu hạn. Cho nên Đại Thuấn là bức thánh nhơn, còn ham hỏi và ưu xét những lời thiển cận, quên mình mà theo người, vui xem gương người để làm lành. Nhan tử là bực đại hiền, mình có tài năng mà hỏi người không tài năng, mình nhiều học thức mà hỏi kẻ không học thức, có như không có, đầu tợ trống trơn. Từ xưa đến nay, thánh không tự xưng mình là thánh, cho nên nhờ đó mà làm thánh, hiền không tự xưng mình là hiền, cho nên nhờ đó mà làm hiền. Người nay chẳng phải vậy. Họ tự khoe mình đã gặp thầy, mà chẳng xét coi thầy đó chơn hay giả, tự khoe mình đã cầu Đạo, mà chẳng xét coi Đạo đó sâu hay cạn. Họ lầm theo bàng môn, luyện đui tu mù, rốt cuộc không nên tỉnh ngộ. Có kẻ thương họ lầm lạc, lấy Đạo chánh mà chỉ dạy, họ cũng không tin nữa!

Kinh Dịch nói rằng: một âm một dương gọi là Đạo. Kẻ nhân thấy Đạo gọi Đạo là nhân, kẻ trí thấy Đạo gọi Đạo là trí. Đời nay, những nhà luận Đạo đều là người thấy nhân thấy trí, cầu luôn về gốc ngọn, gồm hết cả dưới trên, giữ trọn tánh mạng song tu, Đạo đã minh, đức đã lập, tất nhiên phải chờ người dốc lòng ham học, thường có lòng tựu chánh, mới là nói Đạo cùng họ.

Kẻ sĩ có Đạo mới có thể làm nên thân mình, giúp người tròn phận, mới có thể xét rộng, rồi tuỳ thời mà thi thố. Tỉ như cái chuông lớn, đánh mạnh thì nó kêu lớn, đánh nhẹ thì nó kêu nhỏ, chẳng đánh thì nó không kêu. Chẳng đánh mà kêu thì người ta cho là cái chuông kỳ quái, còn đánh mà không kêu thì người ta cho là cái chuông đồ bỏ. Cho nên người có Đạo tuỳ người mà giúp ích, chẳng phải để mất người, nghĩa là: Gặp người nên giúp thì chẳng bỏ qua, lại cũng chẳng phải để mất lời nói, nghĩa là: chẳng nên nói Đạo với người không biết gì.

Có kẻ hỏi: Như ở đời nầy, có kẻ sĩ mộ Đạo, mà khó gặp người có Đạo, là tại sao vậy?

Đáp: Kinh sách ở trong đời nầy tự người có đạo truyền lại. Mình xem kinh sách mà tựu chánh. chỉ giữ đừng phạm câu kinh sách dặn, thì lời dạy ta chẳng phải là nhiều sao?

Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Muốn gần người có Đạo để chất chánh phải quấy, nếu ta chẳng có Đạo thì làm sao biết được người có Đạo? Huống Đạo có lớn có nhỏ chẳng đồng, có tà có chánh khác xa. Mình đặng chánh rồi mới biết chỗ chánh của người, mình không tà rồi mới biết chỗ tà của người. Nếu chẳng phân biệt trắng đen, gặp người thì cầu giáo, làm như thế mà không theo bàng môn ngoại đạo, thiệt là ít có lắm!"

60.-PHỤ GIẢI VỀ CHỮ NHÂN

(của dịch giả)

Câu "Nhân giả nhơn dã" là lời của thầy Mạnh Tử (coi sách Mạnh Tử, chương Tận Tâm). Chữ nhân đây chỉ cái lý do mà con người được nên người, cái đức tánh hoàn toàn mà người muốn làm người phải giữ lấy đó làm căn bản.

Thầy Mạnh Tử cũng có nói (coi chương Cáo Tử): "Nhân, nhơn tâm dã", nghĩa là: Nhân là lòng người vậy. Hay là nói một cách khác: Nhân là bổn đức của cái tâm. Tức là chỗ thầy Trình Tử gọi: "Tâm như cốc chủng", nghĩa là: Tâm in như hột lúa giống. Đây nói nhân là cái tánh hay sanh sanh hoá hoá của cái tâm.

Đức Lữ Tổ cũng nói: "Thiên địa chi đại đức viết sanh, sở dĩ sanh sanh giả viết huyền. Tại thiên vị chi huyền, tại nhơn vị chi nhân". Nghĩa là: Cái đức lớn của trời đất gọi là sanh, cái lý bởi đó mà sanh hoá gọi là huyền. Ở trên trời thì gọi là huyền, ở trong mình người thì gọi là nhân.

Ông Bác sĩ Nhựt Bổn, Phục Bộ Vũ Chi Cát, là một nhà nghiên cứu về triết học nước Tàu rất sâu sắc, không những nổi tiếng ở Nhựt Bổn, mà còn nổi tiếng cả Trung Quốc và Âu Mỹ nữa. Ông diễn thuyết về vấn đề "Cái hư tưởng căn bổng của Khổng, Mạnh", có nói rằng:

Ngài (đức Khổng Tử) đối với môn nhơn là Tăng Tử và Tử Cống nói câu "Nhất dĩ quán chi", ấy là ngài nói về cái nguyên lý căn bổn của ngài đó.

Nhưng cái nguyên lý căn bổn của học thuyết đức Khổng tử là gì? Cái nguyên lý căn bổn của Đức

Khổng Tử, cứ như lời Tăng Tử nói khi đáp lại các môn nhơn thời không ngoài một chữ nhân.

Thế mà các nhà Nho từ xưa đến nay nói rõ về chữ nhân là nguyên lý căn bổn của Khổng Tử thời ở nước Tàu chỉ có Lưu Xướng và ở Nhựt Bổn có Y Đằng, Nhân Trái và Vật Tô Lai ba người.

Nay chữ nhân phải giải thích ra thế nào? Cứ theo ý riêng của tôi, Khổng tử nói nhân một mặt là chỉ đức Trời, một mặt là chỉ cái bổn tánh của loài người ta sẵn có. Khổng Tử đã lấy nhân làm cái thiên tánh của loài người ta vốn có, bèn đem nhân mà thiệt hiện ra mỗi việc, khiến cho ta vừa trọn được cái đạo của ta, vừa trọn được cái đạo thờ trời.

Xem trên đó thì đủ biết nghĩa chữ nhân rộng là thế nào. Cho nên nói nhân hay háo sanh, ái nhơn thì được, mà nói háo sanh, ái nhơn là nhân thì không đủ, vì đó chỉ là một phần việc của nhân mà thôi.

Ghi chú:

Quyển Dưỡng Chân Tập nầy được tiền bối viết quá đầy đủ chi tiết. Thế nhưng một số người hậu tấn vẫn chưa am tường vài vấn đề có liên quan đến cái nhìn mới. Người viết phụ chú chẵng dám để lại tên tuổi làm gì so với bậc tiền bối đã học sâu hiểu rộng và dầy công tu luyện. Hôm nay mạo muội chú thích một số vấn đề (góp một bàn tay) hầu giải toả cho người nay có sự so sánh một cách toàn diện những vấn đề liên quan đến những tông phái giữa Thiền và Tịnh Độ. Cách nào khả dĩ đi thẳng đi nhanh nhất và có hiệu quả để giải thoát đã được nói hết rồi.

Trong kinh có câu: Cô âm bất sinh, Cô dương bất trưởng. ý nói phải tu cả hai tánh và mạng. Tu một trong hai sẽ không đi về đâu cả.

Thư bất tận ngôn. Xin nhận nơi đây lòng tôn kính bậc tiền bối.

 Miền Tây Gia Nả Đại,  Mùa Thu 2010

Kỉnh bút

Danh sách ấn tống kinh:

Ông bà Tuấn & Thu           $200 USD    Alabama

Ông bà Hương & Minh      $200 USD   Georgia

Ông bà Phát & Linh           $200 USD   Atlanta

Ông bà Hoàng & Nga        $200 Can     Victoria

[1]

Minh Tâm: Ý người xưa muốn nói đến Âm Dương. Vì trong chữ Minh có chữ Nhật và Nguyệt. Ý nói kết hợp Âm Dương thì tâm sẽ sáng.

[2]

Chủ Nhân Ông: Trong đời sống của chúng ta bị mê hoặc bởi thói quen, bất kể tốt hay xấu. Chỉ vì tâm sở khiến tâm vương sai lệch, dần dà phàm tâm che khuất “Chủ Nhân Ông là Chân Tâm”. Hay còn gọi là “Ông đi vắng gà bươi bếp” vì tạp niệm khiến nên chúng ta sống vì thị dục, mà mất đi chánh niệm hay còn gọi là Gà Bươi Bếp.

[3]

Giống Thiêng Liêng: Chân ngã, vốn có tự tánh hay còn gọi là Phật tánh. Tự Tánh hằn có ngang với trời đất. Chỉ vì chân tánh là một phần của Thiêng Liêng

[4]

Tánh mạng: Tuy 2 nhưng chỉ một. Không có tánh, tuyệt đối không có mạng. Ngay cả âm dương tuy 2 nhưng chỉ một. Vì trong cỏi địa đàng không có cái gì thuần âm hoặc thuần dương. Do đó tánh mạng là 2 yếu tố có cùng một hoàn cảnh dù 2 thể chất, bất chia lià. Có ai có thân mà chẵng có tâm bao giờ. Tu Tánh liểu Mạng là vậy.

[5]

Mất Trung: Hay Thất Trung, không còn ở trong thì coi như ngoại đạo. Thiên hạ cứ bàn tán về 84 ngàn pháp môm để tự an ủi mình là 1 trong chánh pháp. Chánh pháp chỉ có 1. Nhưng vì chúng sanh có nhiều trình độ nên phải chia nhiều tầng lớp để dể hiểu. Ðạo chỉ có một không hai.

[6]

Tam tài: Trời, Ðất, Người, Trong người có Tam Bửu: Tinh, Khí Thần, ứng với người có Tam Cang: Quân, Sư, Phụ.

[7]

Ðạo: ở đây không nhất thiết là tôn giáo có giáo điều hay tăng lữ. Ðạo là pháp gầy dựng vũ trụ. Tạo ra vạn vật thể. Không có vật thể nào không bắt đầu từ âm dương. Khi nói đến tôn giáo là nói định hướng của triết lý. Khi ngôn ngữ là phương tiện chuyên chỡ triết lý. Từ đó tôn giáo đã biến thể để phù họp với nhân sinh quan. Trong khi Ðạo là luật vô hình cấu tạo trước khi có trời đất. Triết lý không có chỗ đứng trong Ðạo Giải Thoát.

[8]

Trời: là đấng hằng có, vô hình. Từ chỗ vô hình nên cưỡng danh mà gọi là Trời. Khi tu chứng, giải thoát trỡ về với Thượng Ðế tức là trỡ về với Hư

Vô, chứ

chẵng về với ai cả. Hư vô chính là Chân Ngã của ta đó.

[9]

Phàm Thân: Thân của tứ đại, cộng thêm ngũ uẩn. Chừng nào vô hiệu hoá ngũ uẩn thì sẽ giải thoát. Giải thoát ra khỏi tiền kiến ngã chấp, tức là giải thoát luân hồi. Sự sống đã khiến chúng ta huân tập nhiều tạp niệm. Muốn thoát luân hồi phải thoát ra khỏi đối đải Nhị Nguyên của Tạp Niệm. Chẵng cần tìm Thiên Ðàng đâu xa. Chính đó là Chân Thân: Thân không nhiểm trần luỵ. Kết hợp Âm Dương trong ta, tức là Tu Giải Thoát rồi vậy.

[10]

Tứ Ðại: Sự kết hợp của thân (đất, nước, gió, lửa). Vâng, mặc dù sự kết hợp của Tứ Ðại mọi người như nhau, nhưng mổi mổi có nghiệp nặng nhẹ khác nhau. Thế nên giả thân nầy còn mang thêm tánh giả. Bất kể tánh ấy có kiến thức cở nào như học giả. Cũng chỉ nằm trọn vẹn trong sự đối đải Nhị Nguyên mà thôi. Không chạy ra khỏi sanh tử luân hồi.

[11]

Tuổi Già: Nếu chỉ tu tánh thì không sợ tuổi già. Nhưng vì tu cả hai. Tánh Mạng song tu, nên khi tuổi già, lúc ấy Tinh khô, Khí cạn, Hơi tàn muốn tu cũng chẵng thành. Muồi danh lợi là miếng mồi thế tục, là con đường vô định. Khi cái chết đến nơi mà chúng ta chưa có một ít hành trang trong tay. Thì chuyến đi sau cùng, một chiều, một mình, một lần, không chỗ đến, không biết đi đâu, không kịp từ giả. Quả là một sự bất công. Bạn có đi đâu xa mà không hề chuẩn bị hành trang bao giờ??????

[12]

Kẻ Dũng: Dũng ở đây là có khả năng sai khiến mình, chứ không phải sai khiến ngoại nhân. Thắng trăm giặc không bằng thắng chính mình là vậy. Người trí dũng là người có khả năng sống trong nghịch cảnh mà lòng không nghịch. Va chạm với Lục Trần mà không sanh ra Lục Dục. Kẻ dũng dám nhịn để răn mình, nhịn để dưỡng chơn.

[13]

Thở sâu: thở đến đơn điền như thế nào, phải nhờ Minh Sư chỉ điểm lúc Thiền Ðịnh. Có người cho rằng chỉ thở ra thở vào mà giải thoát được sao?? Vâng, chính vì thở ra thở vào đúng cách, chính là thực hành pháp âm dương rồi đó.

[14]

Nam Mô: Trong chữ Hán không có chữ Mô. Chữ Mô đây đồng nghiã với chữ Vô tức là Không. Niệm Phật nghe qua quá dể. Nhưng niệm như thế nào mới gọi là Niệm Phật. Chữ Phật có chữ Nhân và chữ Phất, có nghĩa là Người Không Làm Gì Hết là Phật (theo nghĩa đen).Chữ Niệm không có chữ Khẩu. Vậy Niệm Phật chính là Vô Niệm. Hay còn gọi là Niệm Chính Chân Ngả của mình, chứ không phải niệm ông Phật trên bàn thờ. Chưa gặp Phật mà dám niệm là Tà Niệm…

[15]

Thần Khí qui căn: Trỡ về gốc, Phàm Thần, Phàm Khí biến thành Nguơn Thần, Nguơn Khí. Hay còn gọi là Dưỡng Chân Khí, Chân Thần.

[16]

Thất Tình: Ai cũng cho rằng mình tự làm chủ lấy mình. Nhưng thật ra, chúng ta chưa làm chủ mình bao giờ. Chỉ vì tánh Thiện ban sơ đã dần biến dạng. Phàm tâm với đầy tạp niệm, dẫn đường cho những suy tính thiện ác, vốn đã thâm nhập vào thân tâm và cho rằng bản ngã !!! Không, chân ngã đã vùi sâu trong đối đải nhị nguyên kể từ sau khi mới chào đời.

[17]

Ba Thứ vọng tưởng: Tam tâm là quá khứ, hiện tại, tương lai tâm. Khi diệt tam tâm thì tam độc sẽ không còn chỗ để ẩn, mọi phiền luỵ sẽ biến  mất.

[18]

Huyễn Tâm: Tâm giả, những tập quán kết tụ lâu đời, mình tưởng đó là của mình. Những kiến thức vay mượn từ sách vở học đường, xã hội, chúng sẽ tàn lụi theo hơi thở, chỉ còn lại nghiệp lực mà thôi. Vậy cái biết của thế gian là giả, cũng chính cái biết nầy chính là chướng ngại. Võ trứng là nơi nương tựa cho gà con trưởng thành. Cũng chính vỏ trứng nầy là cái ngăn cản nếu không phá vở khi chúng trưởng thành.

[19]

Dâm: có 3 thứ. Thân, Tâm và Căn dâm. Chỉ có chánh pháp mới hoá giải được Dâm. Trong Tam Thừa Chân Giáo có viết rằng: Người đời không ai có thể đè nén sự cuồng nộ của Tà Dâm . Nếu có chỉ là chế ngự trong giây lát thôi. Chỉ có Chánh Pháp mói tẩy trừ được Dâm.

[20]

Lục Thức: Tu là vô hiệu hoá thức thần. Nếu có làm cho mù mắt, chứ có bao giờ làm cho Mù Tánh Thấy bao giờ ?? Khi tu là làm cho lục căn chạm lục trần mà không sanh ra lục dục. Một ngày nào đó chứng đắc thành Lục Thông.

[21]

Tử Sanh: Ðối với Ðạo Giaỉ Thoát, Chết và sống là 2 biểu tượng, có thể khác biệt đối với tâm tạp niệm. Thế nhưng chết sống không có giá trị tuyệt đối với người lià ngã. Khi đã lià ngã thì tội phước, thiện ác vô sở đắc. Thì chết sống không còn chỗ dựa. Chết sống là hiện tượng của thế gian pháp. Đối với đạo giải thoát, chết sống không có trong ngôn ngữ giải thoát.

[22]

Linh Quang: Là bản thể của hư vô. Mọi chúng sanh xuống trần đều có mang theo một điểm linh quang, nguồn sống của chân ngã. Ðiểm Linh Quang nầy dựa vào thân mạng để tồn tại theo kiểu hậu thiên. Khi mạng căn đã mòn mỏi thì điểm Linh Quang nầy phải bị đào thảy theo nghiệp lực vốn chi phối thần thức. Vậy phàm tánh là tánh nhiểm trần mà có. Từ chỗ nầy Linh Căn bị chìm đắm.

[23]

Tam Hoa, (Tinh, Khí, Thần) Ngũ Khí: (Ngũ Tạng sanh Ngũ Khí). Mọi người đều có phần căn bản nầy. Nhưng vì mê đấm trần nên phàm thân bị tàn tạ, tam hoa, ngũ khí. Muốn tu luyện rất dầy công để Tam Hoa Tụ Đảnh, Ngũ Khí Triều Nguơn.

[24]

Trong Sạch: Khi còn thở khí hậu thiên thì thân tâm còn đối đải. Khi nào bế hô hấp một cách tự nhiên thì lúc đó thở khí hư vô. Mọi sự sinh hoạt không còn tuỳ thuộc vào thân hậu thiên mà đối đải. Ðừng hiểu nghĩa trong sạch đơn thuần của thế gian, vì trong sạch trong điều kiện không thể so sánh. Ngoài ra chánh niệm không phải chỉ là niệm chánh hay niệm tà. Chánh niệm tức là Vô Niệm. Vô Niệm cũng không phải là Ngoan

Không. Mà Vô Niệm trong Chánh Niệm hay còn gọi là Chơn Ðộng. Sự Ðộng sau khi Cực Tịnh.

[25]

Dứt Niệm Tưởng: Khi tu luyện là đi đến chỗ Vô Niệm. Thế nhưng từ Tạp Niệm đến Nhất Niệm (niệm Phật). Sau cùng đến Vô Niệm. Khi dứt niệm thì tự động sẽ bế Hô Hấp. Trong Tam Thưà Chân Giáo có dạy rằng: Chỉ có bế hô hấp thì mới thở bằng Khí Hư Vô. Khí Hư Vô không thở bằng mủi mà thở bằng Huyền Khiếu. Ðây mới gọi là Khí Tiên Thiên. Còn thở tạp khí thì thân mạng nầy không phải của ta, mà của vô thường.

[26]

Chân Tâm: Sau khi sanh ra đời, chân tâm biến thành huyển tâm, kể từ khi thở tạp khí hậu thiên. Ðôi khi dùng ý mà ngở đó là tâm. Muốn tu Tâm phải diệt ý. Ðến khi nào không còn cởi bỏ nữa. Cái còn lại sau cùng gọi là Chân Tâm hay còn gọi là Chân Tánh. Người đời thường tu Ý chứ có ai tu Tâm được bao giờ. Vốn Tâm bị Ý che đậy nên còn gọi là Huyển Tâm. Ðạt Ma Tổ Sư bảo Huệ Khả “ Con hãy đưa tâm của con ra ta an cho….”

[27]

Phản Chiếu: Nhìn vô, nghe vô, thở vô, tưởng vô…cùng một lúc, cùng một chỗ. Chỗ ấy còn gọi là Vô Sở Trụ, hay là Huyền Khiếu. Nếu Nhìn ra, nghe ra, thở ra thì sẽ bị thất chánh. Thất chánh thì tâm bị tạp niệm, rối loạn.

[28]

Nhận có, nhận không: “Nhạn quá trường giang, Ảnh trần hàn thuỷ. Nhạn vô di tích chi ý. Thuỷ vô hư ảnh chi tâm”…Ý nói chim nhạn bay qua mặt hồ, không có ý để lại bóng. Sao người lại lưu giử hình ảnh trong tâm mình??? Cũng tại tâm mình nhận có nhận không, đó là lý do sanh ra Huyển Tâm.

[29]

Lý Trí và Trái Tim: là hai phản ứng khác nhau khi nhận thức của bản ngả. Lý trí phân biệt đối đải. Trái tim làm việc theo tự nhiên của thiên nhiên.

[30]

Khi đã hoà nhập với thiên nhiên rồi, thì tiểu ngã hoà nhập với hư vô, hư vô không bị chi phối bởi vô thường. Sống mãi ngang hàng với trời đất. Tu Luyện là tập cách thở và sống với hư vô. Ðến đây, chỗ đứng của Tôn Giáo và Niềm Tin không còn nữa, mặc dù bắt đầu của sự giải thoát phải kinh qua tiến trình của niềm tin tôn giáo để có định hướng. Ðôi khi định hướng của tôn giáo mang nhiều sắc thái ngoại vi phức tạp, khiến điểm đến không còn giản dị, và quá mơ hồ, đôi khi tôn giáo mang âm hưởng của triết lý giáo điều, mà thiếu phần thực hành. Trong Tam Thừa Chân Giáo có dạy rằng: Coi chừng tu theo lối Tôn Giáo chùa chiền am thất sẽ không đi về đâu. Ðạo Giaỉ Thoát đi lên trên Tôn Giáo, mặc dù bắt đầu từ Tôn Giáo.

[31]

Ưng Vô Sở Trụ: khi chúng ta đụng chạm với lục trần mà không sanh ra lục dục còn gọi là Vô Sở Trụ, Khi lià ngã thì mọi thiện ác, không thể đắc. Khi lià ngã chính là lúc vẫn còn sống hổn tục mà lòng không bị chấp thọ.

[32]

Vô Niệm: còn gọi là Chánh Niệm, Chưa thấy nhau mà niệm là Tà Niệm. Thân chưa an, tâm chưa trụ mà niệm là tà niệm. Ðạo Phật là Chánh Tín chứ không phải mê tín. Vậy niệm Vô Niệm là niệm Chính bản thân mình. Niệm Chính Chân Ngả của mình là Vô Niệm, hay còn gọi là dứt niệm.

[33]

Bế Ngăn: Phải có chánh pháp mới ngăn ngừa được niệm khởi. Người xưa có câu: Một phút xa rời không phải Ðạo. Ðừng để cho niệm lự dấy lên. Do đó phải cầu Minh Sư điểm Ðạo chỉ chỗ thúc liễm thân tâm. Không biết chỗ để thủ khiếu, thì mọi cố gắng chỉ là đè nén nhất thời mà thôi. Khi Thủ Khiếu có nghĩa rằng nối sợi dây mạch toàn thân kín lại thành một luân xa. Chỉ khép kín mạch Nhâm Ðốc thì Tánh Mạng không bị lậu. Pháp nầy tuyệt đối không có ở ngoại thân, không dính dáng đến đọc, tụng, niệm, tưởng. Không có âm, thinh sắc, tướng. Muốn tìm chánh pháp, phải định nghĩa chánh pháp là gì trước khi đi tìm chánh pháp. Phật pháp vốn không lập văn tự. Đạo giải thoát không có trong kinh sách.

[34]

Tu hành là một tiến trình dài kết họp thân tâm. Muốn cho kết quả thì phải sống đúng phương cách, thì đời sống tu hành sẽ hanh thông. Mặc dù chánh pháp có khả năng hoán chuyển thân tâm. Ðời sống giản dị, ít sôi động hàng ngày là yếu tố hổ trợ rất quan trọng. Sống làm sao hổn tục mà lòng vẫn thanh, nhập thế ngay bây giờ, ở đây. Chúng ta không cần phải chạy trốn thế gian. Thế gian là chỗ để ở, chư Phật chư Tổ không miễn cưỡng để sống bất cứ nơi đâu, miễn sao lợi người lợi mình. Trốn thế gian chứ làm sao trốn đưọc chính mình.

[35]

Háo: Khi mê đấm cái gì thì đưa thần thức ra ngoài, coi như bị thất chánh. Nhìn mà không nhìn, Nghe mà không nghe (Thị chi bất kiến, Thính chi bất văn). Tóm lại đời sống tu hành là sống cho qua ngày, giả ngu giả điếc.

[36]

Huyền Khiếu: Huyền Quan chính đây là tổ khiếu, đây chính là chỗ dẫn tới giải thoát. Không có đấng giải thoát nào mà không qua ngưỡng cửa nầy. Nghĩa đen của Huyền Quan là Huyền Diệu, Quan là cơ quan. Huyền Khiếu: Khiếu là lổ (nghĩa đen). Nghĩa bóng là Cách thức. Tuy nhiên biết về Huyền Khiếu không bằng sống với Huyền Khiếu. Phải có Minh Sư hướng dẫn, điểm đạo, chỉ cách thiền định và thân chứng thì mới hiểu nổi cơ quan Huyền Vi của tạo hoá.

[37]

Nhâm Ðốc: là hai mạch châu lưu trong thân, nối những điểm chánh từ Nê Hoàn và Ðơn Ðiền trỡ lại phiá sau lưng. Kinh mạch nầy lưu chuyển một cách kỳ diệu, tuần tự theo trái phải, trước sau, tuỳ theo nam hay nữ mà tu luyện. Khi chuyễn được vòng châu thiên nầy, thì mọi mạch trong

cơ thể đều thông. Với

điều kiện thân tâm phải cực tịnh, và thanh khí mới hữu dụng. Chỉ cần một ý nhỏ dấy lên, trượt khí làm mọi công trình vô nghĩa (huyễn đơn). Vậy phải Tu Thân cho đến cực tịnh là chuyện trước tiên. Ðó là lý do tại sao phải ăn chay, tuyệt dục…..Kinh mạch trong cơ thể con người, không thể giải thích bằng văn tự để đạt được sự hiểu biết, mà cần phải thực hành Thiền Ðịnh và Thân Chứng thì mới thong cảm được với quyển kinh nầy. Ði sâu vào triết lý nầy người ta mới nhận biết rằng, niềm tin của Tôn Giáo và sự thực hành của Thân Tâm hình mâu thuẩn nhau ?? Vì lẻ niềm tin nào đó để dẫn đến sự thực hành, chỉ có Niềm Tin khó mà Giải Thoát.

[38]

Thế Gian: là trường danh lợi. Nếu sống bình thãng yên vui, thì Thế gian không khác thiên đàng. Thế nhưng phải sống làm sao cho thân tâm an lạc, tự tại. Chứ đừng lánh đời để tìm đạo. Ðạo vẫn có mặt ở thế gian. Do đó sống khắc phục được Danh Lợi thế gian là sống Tỉnh Thức. Người xưa có câu “Cư Trần Lạc Ðạo” là vậy. Thế gian không phải là nơi để chạy trốn. Vậy phải sống trong nghịch cảnh mà lòng không nghịch.

[39]

Sắc: “Sắc bất ba đào dị nịch nhân”: Người xưa đã có ý nói đến Sắc đẹp không có mang theo song gió thế mà hại đắm chìm được người. Cũng chỉ vì đưa thần thức ra ngoài để cảm thọ. Nên sắc mới hại người. Nghịch chuyển Tinh lên thì Giaỉ Thoát theo Tiên Thiên, Thuận chuyển xuống thì sanh ra phàm thân

[40]

Tư Lương: Nghiệp trần ẩn trốn tận A LẠi Da thức. Nếu không dung chánh pháp để tu luyện thì bất kkể triết lý cao sâu đến đâu, sẽ không khử trừ được Nghiệp. Cũng may, Nghiệp không có tự tánh, nên chi chánh pháp tẩy trừ được Nghiệp. Ðừng hòng dung triết lý có tính cách lý luận, nhận thức để trừ tạp niệm.

[41]

Vốn tự không: Vật vốn không có tự tánh. Thế nên sở dỉ có chỉ vì chấp có mà có tự nơi tâm. Chứ thật ra không hẵn có. Phật giáo quan niệm mọi sự vật sở dĩ có trong nhất thời, do đó Phật giáo quan niệm có hạnh phúc và đau khổ, dù chỉ là hiện tượng nhất thời như giấc mơ đẹp hay xấu, chỉ là mơ.

[42]

Khi công phu là trên con đường đến lià ngã. Mọi sự nhận thức đều sai lầm. Ví như ngủ mà vẫn còn biết là ngũ thì chưa ngũ. Thiền định là đi đến chỗ Cực Tịnh. Thế mà mọi sự nhận thức đều sai lầm cả.

[43]

Quân tử: lúc làm việc lông rời lỏ đất mà ví như không. Vì người quân tử vì việc mà làm chớ không chấp thọ vào việc lớn nhỏ. Quân tử như Nước Giữa Dòng. Rửa Mặt Cũng Được, Rửa Chân Cũng Được.

[44]

Ngã: Là tự tánh, khi sanh ra đời, chân ngã bị nhiểm trần, sanh ra tánh có đối đải. Hay còn gọi là phàm tánh. Phàm tánh là tánh hay đối đải, chấp vào sự việc trước mặt mà cư xử dị biệt. Muốn thoát khỏi Phàm Ngã, phải có Chánh Pháp để triệt phàm ngả hay còn gọi là triệt sự phân biệt. Triệt phân biệt không phải không biết thiện ác, tốt xấu. Tánh nhất như là tánh không bị cảm thọ vì đối tượng, chứ  không phải không biết phân biệt. (phải cầu chánh pháp)

[45]

Không có ta: ý nói lià ngã. Khi lià ngả rồi thì thiện ác không cò chỗ trụ. Hay còn gọi là Vô Sở Trụ. Ý nói không chấp trước, chấp thọ mọi việc đều là trần cấu (buị bậm).

[46]

Vô Minh: Nhận già thành chơn. Kinh Bát Nhả có dạy rằng: Ngũ Uẩn Giai Không: Có nghĩa là mọi đối tượng của Ngũ uẩn là huyển. Do đó Sắc Thọ Thưởng Hành Thức là giả. Vậy những đối tác của 5 thứ nầy là giả.

[47]

Muốn được vô ngã hay vô niệm, không thể cầu nguyện mà được. Phải thực hành chánh pháp Thiền Định, để vô hiệu hoá mọi cảm giác không bị cảm thọ. Nhìn vô, nghe vô, thở vô, tưởng vô, cùng một lúc và cùng một chỗ. Mọi suy luận về vô ngã hay lià ngã, hoàn toàn không có tác dụng. Đạo Phật là đạo của Trí Tín chứ không phải mê tín. Đừng dùng sự suy luận là cứu cánh của tu chứng hay giải thoát. Phải Thân Chứng bằng Chánh Pháp Nhản Tạng Thiền Định.

[48]

Trước khi chọn một pháp môn để tu hành. Trước tiên phải định nghĩa Chánh Pháp là gì. Chỉ khi nào hiểu am tường thế nào là Chánh Pháp thì mới mong truy tìm Chánh Pháp. Chánh Pháp là pháp bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, không mang âm thinh sắc tướng. Đọc, Tụng, Niệm, Tưởng sẽ không Giải Thoát, nhưng giải bớt nghiệp.

[49]

Nội Tánh: Tánh trong người, tiền kiến của ta khiến mọi sự việt được hiểu như là được chấp trước. Kinh Thập Cáo Linh Văn có ghi” Trước ý nhập ma hương” Khi ta có thành kiến trước một sự việc, là đồng nghĩa với Ma Đạo. Ma hay Phật sở dĩ có từ trong tánh là Huyễn. Như chúng ta đã biết Ngũ Uẩn Giai Không. Từ đó mọi sự cảm thọ là giả. Người ta thường bảo, Tu Tâm, nhưng thật ra có ai tu được tâm bao giờ. Thường thì lấy ý mà Tu. Từ đó tánh phân biệt dể bị nổi dậy.

[50]

Tâm là nguồn gốc của mọi sự chấp thủ. Từ đó Pháp môn thiền định dạy ta tẩy sạch thân tâm, không để cho bất cứ một dấu vết trần nhơ nào bám vào. Vì ý chính là tâm đo, sau khi đã bị nhiễm tạp niệm. Do đó Phàm tâm diệt đạo tâm sanh. Đạo tâm, chân tâm là Phật tánh không nhiểm trần.

[51]

Giả Trần: Như đã nói. Mọi sinh hoạt của Ngũ Uẩn là huyễn.(giả)

[52]

Tam Hoa Tụ Đảnh: Khi Tam bửu đã hiệp nhất thì Huyền Khiếu được hoát khai. Tuỳ theo mức độ định tịnh như thế nào. Thì sự Hiệp Nhất của Huyền Khiếu sẽ hiển lộ.

[53]

Thức: Mọi sự hiểu biết trên đời chỉ là vay mượn của, xã hội quanh ta. Vì thức nằm trọn vẹn trong vô thường đối đải. Hãy biến thức thành trí. Mọi sự hiểu biết của thế gian không thể chạy ra khỏi sanh tử. Cái biết của Nhân Sinh Quan ở chỗ là học hỏi mà có. Còn Trí do tu luyện mà có. Phật tánh vốn hoàn hảo. Thế nên triệt mãi cho đến khi không còn gì để tẩy rửa nữa. Cái sau cùng còn lại chính là Phật tánh, tự tánh của Chân tánh.

[54]

Huyền Khiếu: Chỗ quy nhất của mọi khiếu hay còn gọi là Tổ Khiếu. Khi lục thức tập trung về Huyền Khiếu, cùng một chỗ và cùng một lúc, thì mọi thức sẽ thuần. Chúng ta có thể làm cho mù nhản căn, nhưng không thể làm cho mù (nhản thức) tánh thấy.

[55]

Chân tức: Không thở bằng mủi, mà thở bằng Huyền Khiếu, và thở bằng khí Hư Vô, chứ không phải là Tạp khí. Khi thở bằng Huyền Khiếu hay còn gọi là khí Tiên Thiên. Thở được khií Tiên Thiên không còn vướng vòng sanh tử nữa.

[56]

Mộng: Mộng trong mộng hay mộng trong mê chỉ là mộng. Thế gian là mộng thì gửi trao để làm gì??

[57]

 Mê tâm: Tâm lạc loài trong thị dục, tưởng có tưởng không. Khi lục thức bị phân tán thì oan ma sẽ nhập vào. Đây là tình trạng Tẩu Hoả Nhập Ma trong ngắn hạn. Như chúng ta biết vạn pháp do tâm tạo. Nếu tin vào Tha Nhân, tức là dọn đường cho ma quỉ. Đạo Phật chỉ cho chúng ta cách tu luyện của Phật chứ không phải tin vào chính ông Phật.

[58]

Thần; Là hệ thống tinh vi của con người. Thế nhưng phải gom Tinh Khí và phàm Thần để biến thành Nguơn Tinh, Khí, và Nguơn Thần. Hay còn gọi là Tam Hoa Tụ Đảnh. Muốn gom được Tinh Khí Thần phải nhờ Minh Sư chỉ giáo và phải thành khẩn tu luyện mới đắc được Nguơn Thần.

[59]

Hơi thở: Khi còn thở khí Hậu Thiên thì than xác nầy chưa thuộc về mình. Vì quỉ vô thường làm chủ thân mạng của ta. Cho đến khi bế Hô Hấp và thở bằng Huyền Khiếu thì chúng ta thoát khỏi Vô Thường, bắt đầu làm chủ Tánh Mạng.

[60]

Chân tức: Không thở bằng mủi. Mà thở bằng Huyền Khiếu.

[61]

Khí châu lưu: Thân an, tâm trụ thì Thần Khí châu lưu. Thân bất an tâm tán loạn, mạng căn bị thất chánh. Tánh mạng bị phân hoá theo dục vọng mê tâm.

[62]

Xá Lợi: là sự kết đọng từ nhiều năm tu luyện nơi Cốc Thần. Vố Tam Hoa Tụ Đảnh thành Nguơn Thần. Người tu ở kỹ nguyên nầy ít ai được Xá Lợi. Xá Lợi không phải là xương cốt chi cả, mà là sự kết tụ của Nguơn Thần nhiều năm tu luyện lâu dài.

[63]

Đạo Trời:. Nghịch chuyển đi lên hay thuận chuyển đi xuống làm phàm nhân. Chính ta, ở trong ta, không có ở ngoài ta. Cầu đạo mà cầu ở ngoại nhân và ngoại than, chẳng bao gio82 gặp đạo. Đạo trời chính là đạo người. Vì chính chúng ta là một tiểu vũ trụ trong mọi người.

[64]

Lương Tri: Khác với Lương Năng ở chỗ dùng Lương Tri là cái tu luyện mà có, còn Lương Năng cái học hỏi mà có. Lương Tri đưa chúng ta đến sự cứu cánh mà không bị chấp thọ. Lương năng là cái chướng ngại. Nếu chúng dùng để phân biệt đôi khi dẫn đến Sở Tri Chướng.

[65]

Giới: là cái khung để hướng dẫn chùng ta đi trên con đường giải thoát.  Giới Định Huệ là những tiến trình của giải thoát. Tiến trình nầy không nhất thiết có thứ tự theo mọi người. Tuy nhiên khái niệm về Giới là phần căn bản không thể thiếu được. Tu mà không giới như mù đi đêm.

[66]

Định : có ít nhất hai nghĩa, định trong mê và định trong tịnh. Hay còn gọi là chơn động. Định sau khi đã cực tịnh

[67]

Huệ: Thức biến thành trí, Trí biến thành huệ. Tiến trình nầy đã đi trên cái biết của thế tục. Huệ là hiện tượng của vô ngã, vô nhân, phi thiện ác, liểu sanh tử. Chúng ta trong cỏi sắc giới, khó mà hình dung được trạng thái huệ. Chỉ vì huệ là tình trạng thân chứng. Thế nên có tu chứng mới tự thân mình cảm nhận được.

[68]

Thành: Lão Tử nói: “Đạo khả đạo phi thường đạo, Danh khả danh phi thường danh. Cưởng danh viết đạo”. Đạo ở đây không thể diễn đạt được bằng phương tiện ngôn ngữ. Vì ngôn ngữ là giới hạn, mà dùng ngôn ngữ của giới hạn để diễn đạt cái vô giới hạn của Đạo là chuyện uổng công. Nhưng vẫn cưởng danh cho là Đạo.

[69]

Hiếu: có nhiều nghĩa. Hiếu thông thường là hiếu với cha mẹ. Thế nhưng hiếu ở đây có nghĩa là hiếu với những  gì tạo tác ra mình, mang ơn tạo tác, sanh thành, dưỡng dục. Mang ơn tổ thầy, mang ơn trời đấy đã gầy dựng. Trã hiếu bằng cách tu thân, và trã ơn bằng cách trao truyền mối đạo mãi về sau.

[70]

Nhân: là dẫn đầu của mọi bản nhất của con người. Không có lòng nhân mà làm công việc gì cũng sẽ sụp đổ. Vì căn bản của việc làm sẽ diệt vong. Tu mà không có bắt đầu từ lòng nhân sẽ không thành chánh quả. Chánh trị gia mà không có long nhân thì sẽ thành độc tài thối nát. Thầy giáo mà không có lòng nhân sẽ không có lương tâm chức nghiệp. Thầy bói mà không có long nhân thì trỡ thành cuồng sỉ. Con người mà không có long nhân thì sẽ trỡ thành triệt giáo, ma đạo.

[71]

Tịnh: Sauk hi sáu thức đã thuần, mọi dục tính đã lặng. Tự ht6an tâm trong sang. Thì chính lúc nầy là lúc mình thấy được chính mình. Đó là chủ nhân ông. Người thật của mình xuất hiện.

[72]

Lạc: Vui, sướng. Chính đây mới là chơn lạc. Không bị chế ngự bợi dục tính.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #anh#nguyen