Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

DUCNAK VBDT

Phân tích đoạn thơ trích trong Việt Bắc của Tố Hữu:  “Mình về mình có nhớ ta 

(…) Tân trào, Hồng Thái, mái đình cây đa” 

Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay: 

“Mình về mình có nhớ ta 

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng 

Mình về mình có nhớ không 

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?” 

Điệp từ  “nhớ” luyến láy trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng, tràn đầy thương nhớ. 

Các xưng hô “mình - ta” mộc mạc, thân gần gợi liên tưởng ca dao: “Mình về ta chẳng 

cho về - Ta nắm dải áo, ta đề bài thơ”. “15 năm” là chi tiết thực chỉ độ dài thời gian từ

năm 1940 thời kháng Nhật và tiếp theo là phong trào Việt Minh, đồng thời cũng là chi 

tiết gợi cảm - nói lên chiều dài gắn bó thương nhớ vô vàn. Câu thơ mang dáng dấp một 

câu Kiều - Mười lăm năm bằng thời gian Kim - Kiều xa cách thương nhớ mong đợi 

hướng về nhau (Những là rày ước mai ao - Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình). Cảm 

xúc đậm đà chất dân gian, đậm đà chất Kiều. Âm điệu ngọt ngào, giọng thơ nồng ấm, 

tình cảm do vậy dạt dào thiết tha. Việt Bắc hỏi về: “Mình về mình có nhớ không - Nhìn 

cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”. Câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời 

dặn dò kín đáo: đừng quên cội nguồn Việt Bắc - cội nguồn cách mạng. 

Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:  

“Tiếng ai tha thiết bên cồn 

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi 

Áo chàm đưa buổi phân li 

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” 

“Bâng khuâng, bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm buồn 

vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong… lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm năm Việt Bắc 

cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổ có nhau, mười lăm năm đầy 

những kỉ niệm chiến đấu, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ mới về tiếp quản tại 

thủ đô Hà Nội (10-1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào, tâm trạng của 

người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bâng khuâng khó tả. 

“Áo chàm đưa buổi phân li” là một ẩn dụ, màu áo chàm, màu áo xanh đen đặc trưng của 

người miền núi Việt Bắc - tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh cụ thể “áo 

chàm”, chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc của vùng quê nghèo thượng du đồi 

núi nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu 

nước. 

Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” đầy tính chất biểu cảm - biết nói gì không 

phải không có điều để giải bày mà chính vì có quá nhiều điều muốn nói không biết phải 

nói điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một dấu lặng trên khuôn nhạc để tình cảm 

ngân dài, sâu lắng… 12 câu tiếp theo kết thúc đoạn trích, là lời tâm tình của Việt Bắc: 

“Mình đi, có nhớ những ngày 

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù 

Mình về, có nhớ chiến khu 

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? 

Mình về, rừng núi nhớ ai 

Trám bùi để rụng măng mai để già 

Mình đi, có nhớ những nhà 

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son 

Mình về, có nhớ núi non 

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh 

Mình đi, mình có nhớ mình 

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa” 

Điệp từ “nhớ” lập đi lập lại nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, ghi nhớ, nhắc nhở. 

Hàng loạt những câu hỏi tu từ bày tỏ tình cảm tha thiết đậm đà của Việt Bắc. Tình cảm 

lưu luyến của người đưa tiễn, gửi đi nỗi nhớ mong, gài lại niềm thương theo cách: 

“Thuyền về có nhớ bến chăng 

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” 

Việt Bắc nhắc người cán bộ chiến sĩ đừng quên những năm tháng gian  lao vất vả, hoạt 

động chiến đấu trong điều kiện trang bị tiếp tế còn thô sơ, thiếu thốn. 

“Mình về có nhớ chiến khu 

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?” 

“Miếng cơm chấm muối” là chi tiết thực, phản ánh cuộc sống kháng chiến gian khổ. Và 

cách nói “mối thù nặng vai” nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân cướp nước, đè 

nặng vai dân tộc ta. 

 Cảm xúc thương nhớ xa vắng thả vào không gian rừng núi, gợi nỗi niềm dào dạt: 

“Mình về, rừng núi nhớ ai 

Trám bùi để rụng, măng mai để già” 

Hình ảnh “Trám bùi để rụng, măng mai để già” gợi nỗi buồn thiếu vắng - “Trám rụng - 

măng già” không ai thu hái. Nỗi ngùi nhớ bức bối như thúc vào lòng kẻ ở lại. 

Tiễn người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó, đã làm cho 

nỗi buồn nhớ trở nên trong sáng. Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”, đồng 

thời nhắc nhở khéo léo tấm “lòng son” của người cán bộ chiến sĩ. Xin đừng quên thời kỳ

“kháng Nhật thuở còn Việt Minh”, đừng quên cội nguồn cách mạng, đừng quên để chăm 

lo giữ gìn sự nghiệp cách mạng. “Mình đi, mình có nhớ mình 

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa” 

Tóm lại, đoạn thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ trên 

tiêu biểu sắc thái phong cách Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm 

phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua 

hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, 

khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son sắt  của người cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: