doi thua
Phân tích bi kịch của người trí thức trong truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao.
1. Trong số những nhà văn xuất hiện nửa đầu thế kỷ XX thì Nam Cao (1915 – 1951) là một tên tuổi chói sáng. Hành trình sáng tác của Nam Cao trải qua hai thời kỳ trước và sau cách mạng tháng Tám nhưng sự nghiệp văn chương ấn tượng nhất là thời kỳ trước cách mạng. Thời kỳ trước cách mạng Nam Cao đã dồn hết tâm lực và bút lực của mình vào hai đề tài chính đó là người dân quê và người trí thức nghèo. Về đề tài người trí thức , ngoài thiểu thuyết “Sống mòn” thì phải kể đến truyện ngắn “Đời thừa” 1943. Truyện ngắn “Đời thừa” tác giả tập trung phản ánh tấn bi kịch kép của người trí thức đó là bi kịch về sự vỡ mộng văn chương và bi kịch về sự sụp đổ đạo lí sống. Chuỗi bi kịch đau đời này của người trí thức được nhà văn Nam Cao thể hiện một cách sinh động qua nhân vật nhà văn Hộ, một nhân vật chính của tác phẩm.
2.a. Truyện ngắn “Đời thừa” phản ánh tấn bi kịch của người trí thức thông qua nhân vật nhà văn Hộ. Nhà văn Hộ rất có ý thức về nghề nghiệp của mình. Không những thế Hộ còn có khát vọng của một nhà văn chân chính. Nhưng sống trong xã hội chó đểu Họ đã không thể thực hiện được ước mơ khát vọng của mình.
Hộ là một nhà văn nên có bản chất gốc của nhà văn là “mê văn” hơn mọi “lạc thú vật chất” ở đời. Không chỉ mê văn mà Hộ còn có một “hoài bảo lớn” một giấc mộng đẹp về văn chương “đối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa. Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác ra cùng thời”. Việc một nhà văn viết được một tác phẩm như thế, tác phẩm “sẽ ăn giải noel” không phải là một sự háo danh mà là một ước mơ chân chính rất đáng trân trọng. Khát vọng này có cơ sở để thành hiện thực khi nhà văn Hộ có quan niệm viết đúng “Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có”. Tiếc thay giấc mộng văn chương của Hộ bị cơm áo ghì sát đất làm cho sụp đổ mộng văn chương. Trước khi viết văn Hộ phải làm một con người chân chính. Hộ đã cúi xuống nỗi đau đỉnh điểm của Từ dang cánh tay nhân ái cứu vớt mẹ con Từ và cả gia đình Từ. Cũng từ đó Hộ vướng vào nỗi lo cơm áo “những bận rộn tẹp nhẹp vô nghĩa lí ngốn một phần thời gian của hắn”. Hộ phải xoay lưng ra kiếm tiền, cách kiếm tiền duy nhất của Hộ là viết văn viết báo. Mà muốn có tiền nhanh thì phải viết vội vàng dễ dãi “quấy loãng một thứ văn chương bằng phẳng dễ dãi”. Từ đó những cuốn sách viết vội vàng được in ra, những bài báo nhạt nhẽo người ta quên ngay sau khi đọc. Hộ cảm thấy đau đớn khi phải sản xuất ra hàng giả. Hộ cảm thấy mình “bất lương đê tiện”. Hộ đã tự chà đạp lên khát vọng của mình, Hộ phản bội lại chính mình. Hộ đã thốt lên một cách đau đớn về sự nghiệp văn chương “Thôi thế là hết ta đã hỏng, ta đã hỏng đứt rồi”.
Nhà văn Hộ không chỉ có khát vọng lớn về văn chương mà còn có một quan niệm đúng trong sáng tạo nghệ thuật điều đó hứa hẹn một sự nghiệp văn chương chói sáng. Nhưng rồi “Cuộc đời cơ cực giơ nanh vuốt, cơm áo không đùa với khách thơ” (Xuân Diệu) Hộ đã đành bất lực trong việc thực hiện sự nghiệp của mình. Hộ đã rơi vào bi kịch vỡ mộng văn chương, bi kịch đời thừa trong văn chương.
b. Nhà văn Hộ không chỉ là một nhà văn chân chính mà còn là một con người chân chính. Hộ lụôn đề cao nguyên tắc sống có tình thương cả trong quan niệm và cả trong đời sống thực hành. Hộ đã từng quan niệm “kẻ mạnh không phải là kẻ dẫm lên vai người khác để thoả mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ người khác trên đôi vai của mình”. Trong sáng tạo văn chương Hộ cũng quan niệm “văn chương phải ca tụng lòng thương, tình bác ái, lẽ công bình”. Trong đời sống thường ngày Hộ thực hành đúng những nguyên tắc đó, Hộ đã cuối xuống nâng cuộc đời từ trên đôi vai nhân ái của mình, Hộ yêu thương mẹ con từ hết mực. Khi Từ ốm “Hộ lo xanh mặt, thức suốt đêm để lo thuốc than cho vợ”. Đi xa về gặp con Hộ “cảm động đến ứa nước mắt”. Hộ đã hy sinh tất cả giấc mộng văn chương để chăm lo cho cái gia đình khốn khổ của mình, đó là một tình thương rất cao cả, rất đáng trân trọng.
Nhưng rồi cuộc sống gia đình ngày càng túng quẩn đã làm bẩn đục bầu tâm lí tình thương của Hộ. Bắt đầu là Hộ “trở nên cau có và gắt gõng” rồi đến những hành động doạ nạt vợ con “là tôi đuổi tất cả mấy mẹ con mình ra khỏi cái nhà này, mấy đứa kia đều đáng đánh vật một nhát cho chết cả, cả con mẹ nữa cũng đáng đánh vật một nhát cho chết cả”. Không dừng lại ở cau có gắt gõng, doạ nạt trừng trộ mà Hộ còn “đánh cả Từ đuổi Từ đi”. Như vậy cảnh sống túng quẩn đã đánh mất bản chất vốn có của Hộ, Hộ đã trở thành một người chồng vũ phu. Đến một lúc Hộ bắt gặp dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não” của Từ, Hộ đã bật khóc “nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh” và Hộ đã nhận ra Hộ đã đánh mất mình chà đạp lên nguyên tắc sống có tình thương của mình, một lần nữ Hộ lại thốt lên một cách đau đớn “anh…anh chỉ là một thằng khốn nạn”.
Cái bi kịch thứ nhất của Hộ tuy đau đớn nhưng còn có lí do để an ủi là đã hy sinh cho nguyên tắc sống có tình thương. Nhưng đến bi kịch thứ hai này, bi kịch tự chà đạp lên nguyên tắc sống có tình thương là bi kịch tự Hộ gây ra vì thế Hộ đau xót vô cùng. Một lần nữa Hộ đã rơi vào bi kịch đời thừa, sống kiếp đời thừa.
3. Qua chuỗi bi kịch đau đớn đau đời của nhân vật Hộ, nhà văn Nam Cao muốn gián tiếp nhắn gửi một điều “những người trí thức trong xã hội cũ họ luôn có khát vọng sống tốt đẹp, họ luôn tự ý thức phải vươn lên sống cho có ý nghĩa với cuộc đời, với xã hội nhưng lại phải rơi vào kiếp đời thừa”. Từ đó nhà văn muốn lên án một xã hội đã vô trách nhiệm với người trí thức để cho họ phải rơi vào cảnh sống “mòn đi móc lên mục ra rỉ ra không lối thoát” của kiếp sống đời thừa. Cũng qua diễn tả tấn bi kịch của nhân vật Hộ, nhà văn cho người đọc cảm nhận được cái tài nghệ trong việc diễn tả tâm lí ý thức của nhân vật. Nghệ thuật xây dựng tâm lí nhân vật là một nét thành công đặc sắc của truyện ngắn “Đời thừa”.
“Ai làm cho khói lên giờ,
Cho mưa xuống đất, cho người biệt li
Ai làm cho Nam, Bắc phân kì
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân”.
Không biết rằng trên cõi đời này, ai đã đọc và tự đặt câu hỏi tác giả của bốn câu trên là ai và họ viết làm gì. Không biết rằng trên cõi đời này, ai hay cái gì đã khiến cho ai đó phải thốt lên não nề như kia. Không biết và không biết. Chắc có lẽ Nam Cao cũng thế. Phải chăng ông cũng chẳng hay biết gì đến lời than với thân, than với trời của Từ, bởi khi kết thúc truyện ngắn “Đời thừa”, ông lại bỏ lửng câu hát ru của Từ. Dường như câu hát ra này là dấu chấm hỏi mà Nam Cao vô tình hay cố tình đặt vào cuộc đời Từ. Nhưng không, cái dấu chấm hỏi mà Nam Cao đặt vô tình hay cố tình lại là cái dấu chấm than mà ông, dương như đã có tính trước, đặt vào cuộc đời chồng của Từ - văn sĩ Hộ. Ông chấm than cho cái tài của Hộ, cho cái lương tâm nghề nghiệp, cho cái đẹp trong con mắt Hộ. Dấu chấm than như một cung điệu cao vút đang rung nhịp giữa đời Hộ, giữa cái xã hội thực dân nửa phong kiến này. Không biết rằng trên cõi đời này, có ai đã từng hỏi sao Nam Cao lại chấm dấu chấm than kia đẹp đến thế kia? Không biết và không biết. Phải chăng chỉ còn mỗi Nam Cao mới biết ông đang làm gì. Ông cứ chấm than dài mãi để rồi kết thúc bằng dấu chấm hết cho cuộc đời Hộ. Hộ bế tắc, túng quẫn và cuộc đời của văn sĩ này bắt đầu “khốn nạn”, lắm những đau thương.
không biết rằng trên cõi đời này, sẽ có bao nhiêu người như Hộ, nhất là vào cái thời mà phong kiến, thực dân chia để trị này? Quá lớn lao, quá cao cả, quá con người!
Nhưng có lẽ chính vì lòng thương người của Hộ đã đẩy anh vào cuộc sống “áo cơm ghì sát đất”. Nó đã phản bội anh. Lòng thương người của Hộ đã bắt anh phải hận đời, hận người. Hộ đã nghèo, nay còn khốn khổ hơn. Khi còn một thân một mình, cái nghề viết lách là nguồn thu nhập chủ yếu của Hộ và có thể chỉ nuôi được mỗi mình anh. Thế mà bây giờ đây, cái nghề viết lách kia phải gánh thêm cái nợ vợ con Hộ trên vai. Văn sĩ này phải viết “vội vàng” những tác phẩm “nhạt nhẽo”, “một vài ý rất thông thường quấy loãng trong thứ văn bằng phẩng và quá ư dễ dãi”. Anh là một nhà văn yêu nghề, lương tâm nghề nghiệp đúng đắn mà bây giờ đây lại phải “dối trá”, “bất lương” như một kẻ hèn nhát, “tiểu nhân thị oai”. Quả thế, Hộ quan niệm “sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Không chỉ riêng hộ, mà mỗi người trên thế giới này, nếu là con người thì họ đều sống theo quan niệm của mình. Thế mà cái số phần “áo cơm ghì sát đất” này đã bắt Hộ không được làm người, nếu chưa bàn đến sẽ trở thành một thú vật, khi Hộ không thể sống theo điều anh đã quan niệm. Khốn khổ và khốn nạn thế đấy! Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ có ai thấu hiểu được nỗi đau tinh thần này? Không biết và không biết.
Vì Hộ là một văn sĩ có lương tâm và anh muốn qua những tác phẩm của mình, tình thương người sẽ được đưa đến khắp nơi, nên Hộ rất muốn có “một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”. Ai dám cho rằng đây là sự kênh kịu của Hộ, sự kênh kịu của một kẻ “vốn nghèo”, lại “đê tiện” thế đây? Con người ta cũng có thể nghĩ như thế nhưng quả thật, Hộ đáng thương hơn là đáng ghét. Bởi xét như Hộ là một văn sĩ luôn biết “đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán” thì không lý nào ước mơ kia lại là sư kiêu ngạo. Và anh muốn anh sẽ chỉ có một quyển sách thôi, một tác phẩm do chính ông viết “sẽ ăn giải Nô-ben và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu”.
Tưởng chừng như bi kịch về nghề nghiệp của Hộ đã là quá đủ đối với anh nhưng không, cái xã hội này không tha cho anh. Nó vẫn bắt anh phải chịu những bi kịch khác. Và rồi bao nhiêu tài năng lẫn cái đức độ của Hộ lại trở thành cái cớ, cái nền rất chắc cho những bi kịch sau này anh phải chịu. Nếu như chính cái tài năng viết văn của mình, hay thậm chí chỉ là quan niệm “văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” đã khiến cho Hộ phải “lãnh đủ” cái thối tha, cái dối trá, cái bất lương thậm chí là cái đê tiện của một kẻ “ngòi bút thơ” cẩu thả, vội vàng; thì chính cái lòng thương người của anh lại là một trợ lực rất chắc, một hậu phương vững vàng cho cái bi kịch về lòng thương người. Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ còn một người nào khác mà cuộc đời của họ giống như Hộ, đầy rẫy những mâu thuẫn trong tâm hồn. Không biết và không biết. Có lẽ Hộ là người duy nhất. Và chắc Nam Cao cũng là người duy nhất ác đến mức phải đẩy hết nhân vật của mình vào những hoàn cảnh, xem ra thì những nhân vật này có lẽ làm chó sướng hơn. Lật lại những tác phẩm của Nam Cao, Chí Phèo lẫn lão Hạc đều cũng phải sống trong những hoàn cảnh khốn khổ, khốn nạn. Nếu như Hộ phải chịu sự mâu thuẫn về tinh thần thì Chí Phèo lại phải suốt ngày say khướt để rồi om xòm làng xóm cùng bầy chó, cũng như lão Hạc phải kết thúc cuộc đời mình bằng bả chó. Qủa thật làm chó sướng hơn.
Có lẽ Nam Cao là một nhà văn thiếu đi một “lương tâm”, mà cái xã hội thối nát xưa cần có, là giả dối, là đê tiện. Ông đã thương thì phải thương đến cùng. Từ khi mở đầu cho “Đời thừa”, Nam Cao dường như đã vô tình đặt lòng thương người của Hộ vào Từ. Họ lấy nhau và rồi tưởng chừng như Hộ sẽ yêu thương Từ mãi mãi. Nhưng “sông có khúc, con người có lúc”. Quả thế, đã có lúc khi nghĩ về gia đình mình, Hộ “đã đứng phắt dậy, mắt chan chứa nước” và bắt đầu giận ghét Từ. Một cơn “điên người lên” chưa từng thấy ở Hộ đã có thể dường như thay đổi toàn bộ bộ mặt của Hộ, thậm chí là giết chết Hộ. Bởi nếu anh là một con người có lòng thương người tha thiết thì hẳn Hộ đã không có những hành động như thế. Khốn khổ và khốn nạn thế đấy! Nhưng anh không phải là người dễ chiều theo cái thói “điên người lên” của mình. Hộ đã kết thúc nó bằng cách lao vào cơn say mèn của rượu chè. Lại thêm một Chí Phèo nữa. Nhưng lần này Nam Cao lại “nhẹ tay” hơn khi vẫn để cho văn sĩ Hộ còn sống, tỉnh ra và nhận thấy cái dối trá, bất lương, đê tiện của chính mình. Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ còn một nhà trí thức nào có một cuộc sống như Hộ. Không biết và không biết.
Và chắc có lẽ rằng Nam Cao không phải là người duy nhất khi khắc họa nên bi kịch của một người trí thức. Người đời còn có thể thấy được bị kịch này trong nỗi niềm của Nguyễn Khuyến.
“Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi”
Nguyễn Khuyến như đang vạch trần bộ mặt đê hèn của lối học giả, hư danh xưa. Những người trí thức thật, những “tiến sĩ thật” thì dường như đã bị xã hội vùi dập trong vũng sâu của thời đại. Dù có tài giỏi hay đạo đức đến đâu, khốn khổ cũng như khốn nạn là đây!
Con người đời này khi đọc lại tác phẩm “Đời thừa” của Nam Cao, có lẽ dường như tất cả đều không khỏi ngạc nhiên về cách miêu tả nhân vật rất sắc sảo đến như vậy. Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ có ai khác có thể nhập vai nhân vật tuyệt vời như Nam Cao? Không biết và không biết. Nam Cao như hóa thân chính mình vào hoàn cảnh đó để rồi từ tâm lí, lời nói, cách xưng hô, hành động, suy nghĩ đều rất phù hợp. Tác phẩm chỉ kéo dài một ngày từ sáng hôm trước đến sáng hôm sau mà tâm lí nhân vật văn sĩ Hộ đã được toát lên cách đặc biệt và Hộ dường như trở thành đại diện cho giới tri thức trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Xuyên suốt quá trình khắc họa vẻ đẹp nhân vật Hộ, Nam Cao đã nhiều lần đưa chính ông, Hộ và cả người đọc quay đi quay về với quá khứ và hiện tại để rồi toát lên cái tài năng, cái đức độ của một con người có hoài bão, lương tâm nghề nghiệp và quan niệm văn chương đúng đắn. Nhưng rồi cũng vì những điều đó đã dẫn Hộ đến cảnh “điên người lên” vì bi kịch nghề nghiệp, bi kịch lương tâm. Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ có một ai giống như Hộ? Không biết và không biết. Khốn khổ và khốn nạn là đây!
Nhưng rồi Hộ đã hoàn toàn thất bại, cái mơ ước cao siêu ấy vĩnh viễn không bao giờ đến và cả những mong ước nhỏ bé cũng không thực hiện được. Có thể nói toàn bộ thời gian dồn vào kiếm sống, sống vất vả và nhiều lúc cũng tầm thường, nhỏ nhặt: "Còn gì đau đớn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì mà nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?"
Đối với người trí thức, sự sụp đổ lý tưởng cũng chính là sự sụp đổ của sự tồn tại. Anh ta sống mà không còn tồn tại nữa. Cái bi kịch là ở chỗ phải ý thức về sự vong thân ấy.
Nỗi lo này không chỉ “ghì sát đất” văn sĩ Hộ, làm cho anh không thực hiện được hoài bão mà còn có nguy cơ bào mòn nhân cách của anh. Hộ là người nghệ sĩ bất đắc chí. Muốn lưu danh với đời, muốn có ích cho đời mà đành chịu kiếp vô danh, chịu kiếp đời thừa.
Anh mong muốn đem ánh sáng vào nghệ thuật bằng chính trái tim đầy nhiệt huyết nhưng cuối cùng phải sống trong bóng tối vô danh, một cuộc sống ê chề, thừa thải, chán ngấy.
Hộ muốn sống vì nghệ thuật, sống cho nghệ thuật nhưng chỉ vì những lo lắng về vật chất đã ghì sát đất khiến anh bị giằng xé đau đớn đến quyết liệt, hủy đi khát khao văn chương và tình yêu thương con người , thế nhưng anh vẫn cố gắng giữ lối sống, lẽ sống nhân đao của mình.Bi kịch của Hộ trước hết là bi kịch văn chương. Anh ôm ấp hoài bão về sự nghiệp, đối với anh “nghệ thuật là tất cả”. Anh khinh thường những tủn mủn về vật chất: “ đói rét không có nghĩa gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng”. Anh luôn mơ ước về một tác phẩm để đời “phải làm mờ hết những tác phẩm cùng ra một thời”. Anh phải đạt được giải Nobel, làm sáng danh của anh, rạng rỡ nền văn học nước nhà. Đó là những ước mơ tươi đẹp , trong sáng, là hoài bão của anh, là khát vọng của anh. Anh quan niệm về văn chương rất đúng đắn. Với anh “sự cẩu thả trong văn chương thì thật đê tiện”, “văn chương không cần những người thợ khéo tay làm theo mẫu đưa cho”, và nó “đòi hỏi sự đào sâu, sáng tạo…”. Thế nhưng cuộc đời có bao giờ như người ta mong muốn, khát khao. Anh nhận xét về văn chương đúng lắm, sâu lắm thế nhưng anh đã viết những gì. Anh “cho in những cuốn văn viết vội vàng”,”gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông trến một thứ văn quá ư bằng phẳng, dễ dãi”. Cũng như trong Giăng sáng với nhà văn Điền, “nghệ thuật không là ánh trắng lừa dối, nghệ thuât là những tiếng kêu đau khổ từ những kiếp lầm than”, nó không là “ánh sáng xanh huyền ảo”. Hộ không mơ mộng về công danh, anh muốn viết những gì có giá trị để đời thế nhưng đã phản bội lương tâm nghể nghiệp của mình. “Cơm áo không đùa với khách thơ”( X.Diệu) Cuộc sống mà đủ lo cơm áo cũng đủ mệt, trong đầu anh toàn những tính toán , lo toan cho những chi tiêu hằng ngày thì làm sao sáng tạo được. Anh càng ước mơ cho một cuộc sống như thế thì càng rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn. Ô! giá như anh không có những giấc mộng văn chương thì anh đâu đau khổ đến thế mà nếu như anh cứ được bay mãi với giấc mộng thì anh cũng không bị giằng xé đến thế này. Nhưng “đau đớn thay cho những kiếp sống muốn bao cao nhưng bị cơm áo ghì sát đất” (Sống mòn), “Văn chương hạ giới rẻ như bèo” (Tản Đà) mà anh lại gánh cả gia đình trên vai thế này thỉ “bay” là sao được.
Bi kịch giấc mộng văn chương có phần đau khổ đẩy anh vào mộ đời thừa. Anh phải viết ngược lại với những gì mình mong muốn, thề nhưng dù là trái với đạo đức nghề nghiệp nhưng anh lại thuận với gia đình. Những cuốn văn viết vội vã đã nuôi sống vợ anh, con anh và chính anh khỏi chết đói. Đó là một chút ý nghĩa còn lại, một chút có ích của cuộc sống “Đời thừa” . Nguyên tắc về tình thương có lẽ là sợi dây níu giữ anh lại. Anh hy vọng vào sự ôm ấp lòng thương người có thể khiến anh không trở thành vô nghĩa. Anh thừa thải trong xã hội nhưng là nguồn sống của Từ, của gd. Anhcưu mang đời Từ, một người đàn bà bị phụ tìnhvới đứa con mới sinh. Có lẽ bởi cái lẽ sống “ kẻ mạnh là kẻ giúp kẻ khac trên đôi vai mình”, một lý tưởng sống cao đẹp. Thế nhưng chính bản thân anh cũng giết chết phần người nhất trong con người của anh. Anh nghĩ cạn quá khi xem chính gia đình là nguyên nhân cho cái bi kịch vỡ mộng sự nghiệp. Nào có phải thế đâu, Từ đảm đang, hiền thế cơ mà. Xã hội, chính xã hội “chó đểu” lúc bấy giờ là ngọn nguồn xuất phát bao đau khổ. Xã hội đã không đánh giá đúng tài năng và vì xã hội đã làm nghèo ngày càng nghèo, bị áo cơm ghì chặt đến nghẹt thở. Và rồi anh tìm đến rượu. Anh không say trong men rượu, men tình mà anh chết trong rượu. Rượu khiến anh trở thành vũ phu, vô học. Nó đáng đồng kẻ tốt người xấu , kẻ giàu, người nghèo . Rượu không giúp anh tìm thấy tình cảm như Chí Phèo mà nó hành hạ anh, đưa anh đến lối cùng. Bi kịch đau đớn nhất chính là anh đã vi phạm nguyên tắc tình thương cao cả do mình đặt ra. Đó thực sự là nỗi đau không gì sánh được. Trước bi kịch trong sự nghiệp, nhà văn Hộ cảm thấy ray rứt. Cũng như Chí Phèo gieo rắc tội lỗi của mình trong làng Vũ Đại, thầy giáo Thứ đưa vào đầu hs nhữg thứ chán nản thì Hộ đã gieo những tình cảm rất nông , rất nhẹ, đưa đến người đọc những bài viết mà người ta đọc rồi quên ngay sau lúc ấy. Ray rứt đau khổ vì không tròn với lương tâm nhưng trước bi kịch của gia đình trái tim anh vỡ vụn. Qúa đau khổ vì lẽ sống không còn. Hộ đi vào đường cùng. Nam Cao khắc họa nên Hộ một nhà văn chịu bao đau khổ bởi tấn bi kịch nội tâm qua đó cũng chính là tấn bi kịch của trí thức đương thời.Nhân vật Hộ đã thay Nam Cao bộc lộ tư tưởng nhân đạo mới mẻ , sâu sắchay cao hơn là cảm hứng nhân văn. Hộ đã bộc lộ nên những giá trị vật chất bên trong con người từ đó mà Nam Cao đã ca ngợi, yêu thương , bảo vệ cho những kiếp sống đáng thương và đấu tranh cho hạnh phúc của họ, để họ sống với lẽ sống nhân đạo của mình. Cũng có ý kiến cho rằng Hộ là Nam Cao nhưng với tôi không phải vậy. NC và Hộ không giống hoàn toàn. Thật sự NC từng chịu nỗi lo cơm áo như Hộ nhưng ông không phải “đỏ mặt”, “tức giận” vì những bài viết mang tên mình. Như Chí Phèo, Đời thừa, Đôi mắt,…
Nam Cao đã rất thành công. Đó là nơi mà tài năng nghệ thuât của ông nảy nở. NC đã bộc lộ gợi nên những tư tưởng nhân văn của mình một cách mới mẻ mà sâu sắc. cò thể nói NC đã làm đúng tưởng “văn học là nhân học”, ông đã tôn lên vẻ đẹp nhân bản qua những tác phẩm để đời của mình. Đồng thời nó cũng đậm chất nhân văn vì ông đã thay họ đứng lên đấu tranh để bảo vệ quyền sống, lẽ sống, khát vọng , ước mơ cao đẹp. đó là những nổi bật có giá trị của NC về mặt tư tưởng trong các tác phẩm nói chung và trong “Đời thừa” với nhân vật Hộ với bi kịch tinh thần nói riêng. Nếu Chí Phèo kết thúc với cảnh Thị Nở thoáng thấy cái lò gạch vắng kẻ lại qua, thì Đời thừa cũng không khá hơn mấy. Không ai biết được sẽ có một Chí Phèo con ra đờn hay không và cũng không ai biết được sau tiếng khóc, tiếng nấc của Hộ anh sẽ hạnh phúc trong cuộc sống của mình: Tất cả là bởi cái xã hội đương thời bóp chết cái ước mơ tốt đẹp của con người, những nhà văn không được viết theo ý của mình và họ muốn sống tốt cũng không được. Thật đau khổ vì họ biết tại sao mình khổ nhưng không thể thoát ra và Nam Cao đã giúp họ nói lên tất cả , vạch trần cái xã hội giết chết trí thức đương thời. “Tiếng hát đi từ trái tim lên miệng”.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro