Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Đội đặc nhiệm TK1 (part2/3) haley

Chương XI

Hình như ở trên cao bình minh ngắn hơn. Trời vừa mới hửng, nắng đã ngập tràn ngoài đồi cỏ. Tuy vậy dưới những vòm cây sương còn chưa tan. Tôi nằm yên trên võng chờ trời sáng hẳn. Tiếng chim xôn xao trong đám lá. Mấy con sóc ló đầu ra khỏi hốc cây giương mắt nhìn quanh rồi vọt lên cành chạy thoăn thoắt. Một lúc sau thấy xung quanh không có dấu hiệu gì đáng lo ngại, tôi mới tháo võng nhét vào ba lô ôm tụt xuống đất.

Trước mặt là con suối mà chiều qua tôi đã tìm tới uống nước, còn sau lưng là rừng rậm. Từ đây xuống suối phải đi qua một bãi cỏ bằng phẳng rộng hơn trăm mét, có những gốc cây mọc thưa thớt như trong vườn nhà. Cái cây cổ thụ tôi vừa mắc võng ngủ tối qua mọc ngay chân dốc đầu rừng. Cây này thì đúng là cây đa rồi, tuy lá có nhỏ hơn loài đa dưới xuôi nhưng cũng là thứ cây có mủ trắng, rễ khí sinh chi chít lòng thòng từ cành cây xuống đất, nhiều cái lâu ngày đã to hơn cột nhà.

Phía bên kia bãi cỏ có một dải rừng thấp cây mọc kín mít, làm thành bức bình phong kéo dài từ bờ suối lên tới rừng cây cổ thụ. Tôi xách súng giẫm lên những ngọn cỏ lòa xòa còn ướt sương đêm đi xuống suối. Con suối này không lớn lắm, nó chảy từ cánh rừng phía tây bắc về đến đây thì tách làm đôi bởi một tảng đá to tướng trông từa tựa như con voi đứng chắn giữa dòng. Phía bên kia tảng đá nước chảy lăn tăn trên những hòn cuội, còn ở bên này dòng nước xói vào bờ lâu ngày tạo thành vũng to như cái ao, nước trong vắt và khá sâu. Qua khỏi tảng đá chừng chục mét, hai nhánh suối lại hòa với nhau cùng trôi xuôi. Phía trên vũng suối một quãng ngắn, dòng nước tụt xuống tử bậc đá cao chừng ba mét tạo thành con thác nhỏ. Mùa này nước chảy nhẹ, con thác trông tựa bức rèm thủy tinh trắng bạc bởi làn nước mỏng chốc chốc lại lóe nắng sáng lóa.

Mặt trời nhô khỏi dải rừng non, màu nắng vàng tươi trải kháp rừng. Nắng làm ấm dần bờ cát nhỏ mịn màng mà chiều qua tôi đã in dấu chân lên vẻ đẹp trinh nguyên tự ngàn xưa của nó. Cảnh vật sống động hẳn lên. Vũng suối trở nên trong xanh, nhìn thấy cả những bóng cá lượn lờ qua khe đá mờ mờ dưới đáy.

Tôi nhìn xuống nước, bắt gặp một gương mặt đen sạm hốc hác, tóc bù xù chờm quá tai. Gương mặt đó kéo tôi trở lại với thực tại. Không thể cứ đứng đây mà ngắm cảnh, còn bao nhiêu việc phải làm. Tôi quay về chỗ gốc cây, chuẩn bị cho chuyến đi khảo sát quanh vùng đồi cỏ.

Chỉ mang theo súng đạn, ống nhòm, tăng, võng và lương thực đủ dùng cho năm ngày, tất cả đồ dùng còn lại tôi bỏ vào chiếc ba lô của anh Đằng rồi đem dấu trong hốc cây đa. Lúc sáng tụt từ trên cây xuống, tôi đã phát hiện ra nó. Cái hốc này khá kín đáo, miệng hẹp nhưng khô ráo, đủ chỗ cho một người nấp.

Dải rừng non cạnh bãi cỏ chỉ rộng độ năm chục mét, toàn một thứ cây bụi mọc san sát bên nhau. Len lỏi qua các lùm cây, tôi bước ra một tràng cát cỡ bằng sân bóng đá. Xung quanh tràng mọc đầy lau lách, còn ở giữa là bãi đất sỏi vụn pha cát. Rõ ràng những cơn lũ hàng năm đã tạo ra tràng cát này cùng với dải rừng non và bãi cỏ phía trong kia.

Tôi đi dọc suối, chăm chú tìm dấu vết con người để lại. Nếu tụi thám báo đổ xuống vùng này, chúng phải ở quanh nguồn nước. Con suối chảy men phía tây vùng đồi cỏ, lúc sát chân đồi, lúc cách nhau qua vạt rùng rộng vài trăm mét. Ở đây gần nước nên cây cối xanh tươi và rậm rạp. Hai bên bờ đá xếp lô nhô chen với cỏ. Mấy đám lau trổ bông trắng muốt phất phơ trong gió.

Gần trưa, tôi nhìn thấy bên kia suối có vạt rừng le bèn trèo lên cây để xem. Loại le này thân chỉ to bằng ngón chân cái nhưng măng của nó khá ngon. Khi mùa mưa tới, những búp măng sẽ trồi lên trong khóm le. Bẻ chúng về, cứ thế thả vào nơi luộc hoặc vùi trong tro nóng, lúc chín bóc vỏ chấm muối ăn rất ngọt. Mùa măng le mọc cũng là mùa lợn rừng, mang và những con cheo kéo tới dũi gốc ăn măng. Nhưng mùa này chưa có măng. Cả rừng le giờ đang héo vàng dưới nắng chói chang, lá le cháy sém khua lao xao trong gió. Cứ biết vậy? Đến mùa mưa có thể tới đây kiếm thức ăn.

Đêm đó tôi ngủ lại trên một cái cây mọc bên bờ suối, hôm sau đợi trời sáng rõ lại tiếp tục đi. Tới mười giờ sáng mới qua hết triền phía tây vùng đồi cỏ. Dòng suối đến đây thì gặp con suồl khác đổ từ núi xuống, nên nó chia tay với vùng đồi, nhập vào con suối kia rồi dắt díu nhau chảy tiếp về hướng đông nam.

Tôi leo lên nấp kín trong một tán lá rậm, dùng ống nhòm quan sát khu vực ngã ba suồl. Quanh đây có những vạt đất trống và mấy bãi đá cuội, những điểm cắm trại khá lý tưởng. Lúc này đã gần trưa, giờ mà con người thường xuống suối lấy nước, cần tránh một cuộc chạm trán bất ngờ. Nhưng suốt buổi trưa tất cả vẫn yên tĩnh. Tôi không nhìn thấy gì ngoài ba con nai xuống uống nước rồi lên nằm lim dim mắt trên đám cỏ. Rừng trưa êm đềm trong tiếng nước chảy. Cũng là cái nắng trưa hè nhưng nơi này không khí dịu mát hơn nhờ có dòng suối chảy qua. Tôi buộc người vào cành cây ngủ thiu thiu được một lúc.

Chiều đến tôi sục kỹ vùng rừng quanh ngã ba suối. Chỉ có dấu thú chứ không có dấu người. Không một lối đi giẫm rạp cỏ, một vết dao chém hay đống lửa tàn, cũng chẳng có sản vật nào do con người làm ra có mặt ở đây. Câu hỏi vẫn còn đó nhưng giờ có thể yên tâm là dọc suối không có thám báo.

Sáng hôm sau tôi rời con suối đi vào khu rừng phía nam vùng đồi. ở đây xa nước nên cây lá phờ phạc, những ngọn cây mệt mỏi vật vờ trong gió nóng. Càng về trưa càng nắng gắt. Mây cũng bay đâu hết, trên bầu trời xanh thẳm chỉ có mấy bóng diều hâu uể oải lượn lờ.

Đang đi bỗng ngửi thấy mùi quế thơm ngào ngạt, tôi lần theo hướng gió tìm được mấy cây quế cổ thụ. Rất dễ nhận ra chúng nhờ hương quế từ lá rụng, từ vỏ cây được nắng hun nóng tỏa mùi sực nức. Tôi lấy dao bớc những mảng vỏ quế dày cộm cho vào ba lô. Giờ chưa cần dùng tới, nhưng để đến lúc mưa gió ngậm cho ấm người, lại chống được cảm lạnh.

Đến trưa ngày thứ tư, tôi sục hết cánh rừng phía đông tới ngang gốc thủy tùng. Tôi ra bên mộ đốt một đống lửa nhỏ. Nắng chói chang làm ánh lửa nhạt nhòa, những hòn đá trên mộ nóng như nung.

Tôi chỉ ngồi với các anh dăm phút rồi quay vào rừng, không dám mạo hiểm vì lúc này đã mệt lử. Một mình luồn trong rừng rậm ngày cháy nắng đêm rét buốt, lúc nào cũng ở trong trạng thái rình rập căng thẳng và tập trung cao độ để tìm dấu vết nên tôi đuối sức. Hơn nữa ăn uống thất thường lại chỉ toàn đồ khô khiến người cũng héo rũ đi.

Tôi men theo dải rừng phía bắc vùng đồi quay trở lại chỗ con suối. Cánh rừng này mới sục kỹ mấy hôm trước nên tôi đi nhanh hơn, chừng nửa chiều thì tìm tới được chiếc trực thăng. Mọi vật vẫn có vẻ y nguyên, nhưng khi nhìn vào khoang máy bay thấy một số túi thức ăn bị rách, những thứ trong đó vung vãi trên sàn. Chắc lại mấy con chồn con sóc tinh quái ngửi thấy mùi thức ăn lạ nên tìm tới nếm thử. Hôm trước tôi đã đóng kín cửa nhưng còn một cánh chỉ khép hờ vì nó bị móp méo nhiều chỗ không sập vào được. Tôi thu dọn những thứ vung vãi, lấy mấy hộp thịt và mấy túi khẩu phần ăn bỏ vào ba lô, rồi chặt một nhánh cây để chặn cửa từ bên ngoài.

Ra nơi giấu súng đạn, tôi ôm về cả hai khẩu súng, lấy thêm chục lựu đạn và chục hộp đạn tiểu liên. Ngần ngừ một lúc, tôi buộc luôn cuộn vải nhựa căng lều lên nắp ba lô. Một chuyến è cổ vì cuộn vải nhựa nặng hơn tôi tưởng.

Cũng như hôm trước, tôi về tới gốc cây đa khi chiều sắp tắt nắng. Bỏ ba lô xuống gốc cây, tôi ra thẳng vũng suối uống căng bụng nước rồi nhào xuống tắm. Sau mấy ngày vất vả giờ được ngâm mình dưới làn nước mát thật dễ chịu.

Tối đến tôi nhặt cành khô nhóm lửa nấu một gô cháo gạo sấy với thịt hộp, bữa ăn nóng sốt đầu tiên sau nhiều ngày không dám đốt lửa. Ăn xong, tôi dập tắt đống lửa, lại leo lên cây mắc võng ngủ. Nhờ căng được tấm tăng trên võng nên đêm đó đỡ lạnh hơn mấy hôm trước. Tôi ngủ một giấc dài ngon lành, chỉ tỉnh dậy khi nghe tiếng léc chéc của mấy con khỉ. Thì ra chúng cư ngụ trên cây đa này, giờ đang gọi nhau đi kiếm ăn. "Mình vô ý quá, chẳng chào hỏi gì chủ nhà..."

Mặt trời lên cao, một ngày mới đã bắt đầu từ lâu. Ánh nắng làm rừng sáng hơn và bớt vẻ hoang vắng. Tôi ra suối rửa mặt, ngồi lại đó hồi lâu để suy nghĩ. Qua mấy ngày lùng sục, tôi khẳng định bọn thám báo không có mặt trong dải rừng ven đồi cỏ, và có thể nói, chúng chưa hề đặt chân tới đó. Vậy phải nghĩ sao về những chiếc trực thăng xuất hiện ở vùng này? Lại còn những quân trang quân dụng trong chiếc bị bắn rơi? Chắc chắn là không phải chở tới cho tôi rồi! Năm ngày qua chưa hề nghe tiếng máy bay, trong khi trước đó, tôi vừa ló mặt ra là đã gặp chúng nhào tới. Chẳng lẽ chúng không tổ chức tìm kiếm chiếc bị mất tích? Những câu hỏi chưa trả lời được và nỗi lo âu vẫn cứ nặng trĩu. Dòng suy nghĩ luẩn quẩn rối tung trong đầu, cho tới khi tôi nhận ra rằng mình không có đủ thông tin để giải đáp được những điều thắc mắc.

Tôi quay lại gốc cây đa. Trước hết phải cất giấu số vũ khí chưa cần dùng tới. Hôm nào rảnh phải thử lại khẩu AR15 để kiểm tra độ chính xác của kính ngắm, sợ nó bị xê dịch khi máy bay rơi. Số hộp đạn và lựu đạn tôi cũng gói lại bỏ trong hốc cây đa, lấy lá khô phủ lên. Chỗ này kín đáo và không sợ mưa ướt. Mấy con vật gặm nhấm chắc chẳng tò mò những thứ mà chúng không ăn được. Chỉ sợ lũ khỉ thấy lựu đạn đem ra nghịch thì khốn. May lúc này chúng đi vắng.

Đem chiếc áo rách xé thành những dải vải, tôi dùng kim chỉ khâu chúng lên một bộ áo quần khác. Làm xong mọi việc thì mặt trời lên gần tới đỉnh đầu. Tôi lấy một túi thức ăn của tụi ngụy để ăn trưa. Gọi là khẩu phần ăn dã chiến nhưng chẳng tiện chút nào: một túi gạo sấy, đổ nước vào ngâm một lúc thành cơm, ăn cứ sường sượng trong miệng; một gói ruốc bông, chắc là ruốc cá; rồi những gói nhỏ bột ngọt, tiêu, muối, đường..., mỗi thứ một tí. Không sánh được với lương khô của ta, ngay cả trẻ em cũng thích. Nghe nói khẩu phần của bọn Mỹ sang hơn, có cả gói cà phê bột đủ pha một tách và hai điếu thuốc lá.

Đến ba giờ chiều, tôi mặc vào người bộ quần áo có khâu những dải vải, mang theo súng đạn, ống nhòm, đi men tráng cát về phía đồi cỏ. Đường không xa lắm. Qua khỏi tráng cát, leo lên một đoạn dốc ngắn mọc đầy lau là tới chân quả đồi đầu tiên. Tôi nằm lại trong một đám cỏ, rứt những túm cỏ quanh đó buộc vào những dải vải trên áo quần. Ý định của tôi là tìm đến những nơi trực thăng có thể đáp xuống để xem có dấu vết gì giúp phán đoán ý đồ và hành động của kẻ địch. Sẽ rất nguy hiểm nếu chúng bất ngờ ập tới như hai lần trước. Vì thế phải ngụy trang kỹ và chọn những thời điểm trực thăng ít có khả năng bay đến. Tôi có chục bộ quần áo rằn ri chiến lợi phẩm còn mới nguyên, nhưng những vết loang lổ màu cây lá và màu đất không phù hợp với màu cỏ sém nắng trên vùng đồi này.

Những cuộc tìm kiếm được thực hiện trong mấy ngày liền. Buổi sáng từ lúc trời hửng tới tám giờ và buổi chiều từ bốn giờ tới sẩm tối, tôi đi như chạy từ mỏm đồi này sang mỏm đồi khác, vừa quan sát tìm dấu vết trên đất, vừa cảnh giác nhìn trời. Đến cuối chiều ngày thứ tư thì tôi xem xét hết những nơi đáng chú ý mà trực thăng có thể hạ xuống. Về địa hình không có gì lạ. Vẫn những triền đồi thoai thoải nối nhau, cỏ mọc thưa thớt trên nền sỏi vụn, đôi nơi lác đác đá tảng. Phía tây, chỗ gần con suối, có mấy vạt cỏ tranh khá rậm. Nhưng tôi đã tìm thấy điều mình phỏng đoán: năm điểm có vết trực thăng đổ xuống. Đúng ra chỉ một nơi có dấu càng trực thăng đè gãy mấy nhánh cây nhỏ, còn những nơi khác toàn cỏ khô và đất sỏi, chúng có hạ xuống cũng không hằn vết. Tôi phát hiện ra là nhờ những mẩu thuốc lá, giấy bọc kẹo, rồi vỏ bao thuốc quân tiếp vụ Ruby Quen. Có một nơi còn tìm được hai đầu mẩu thuốc Pallmall và vỏ hộp đựng cà phê pha sẵn, loại sản xuất ở nước ngoài. Mấy thứ này tụi Mỹ hay dùng, lính ngụy ít xài sang như vậy.

Chưa giải đáp được những thắc mắc, nhưng ít ra lúc này đã có thể nhận định: kẻ địch đã dùng trực thăng đến đây nhiều lần, có lẽ để quan sát, tìm kiếm một cái gì đó ở vùng đồi cỏ và những khu rừng xung quanh. Chúng đến rồi đi, chưa đổ quân sục sạo. Còn những điều khác đành tạm gác lại lúc này chưa thể biết gì hơn được.

Giờ đến lúc phải lo chuyện ăn ở. Tôi sẽ ở lại đây, khó có nơi nào vừa đẹp vừa thuận tiện hơn.

Ban đầu tôi định làm một cái chòi như kiểu chòi gác máy bay của dân quân ngoài quê tôi, nhưng sau thấy không ổn vì không thể đốt lửa trên đó được. Vả lại, chỉ riêng việc leo lên leo xuống đã thấy bất tiện rồi. Lúc khỏe còn được, chứ ốm đau thì làm sao? Dựng lều trên mặt đất đơn giản hơn, nhưng chỉ tạm thời trong vài ngày chứ lâu dài dễ sinh bệnh, lại còn thú dữ... Tốt nhất là làm một cái nhà như kiểu nhà sàn của đồng bào dân tộc. Tất nhiên không cần lớn ìắm vì chỉ mình tôi ở đâu hết mấy, nhưng phải đủ cao đủ rộng để có thể đốt trên đó một đống lửa cháy suốt ngày đêm trong mùa mưa lạnh.

Tôi nhẩm tính số gỗ làm nhà: cần bốn cây cột, bốn cây gác đà ngang đà dọc, rồi gỗ lát sàn, làm sườn che mái... Phần lợp đã có tấm vải nhựa chiến lợi phẩm.

Nhưng phải mấy ngày nữa tôi mới bắt tay vào việc đốn gỗ vì có hai việc phải làm trước. Tôi lên chỗ chiếc máy bay tháo khẩu đại liên và gùi cả ba thùng đạn về bố trí một ổ súng. Địa điểm đã nhắm sẵn từ mấy hôm trước: một mỏm đồi nhỏ nằm phía trên tráng cát, ở đó có sẵn cái hố, chỉ cần đào sâu thêm một chút là đứng bắn được. Xung quanh hố toàn là cây bụi, cây dây leo mọc chen giữa đám lau cằn cỗi. Phía sau mỏm đồi có cái khe cạn chạy vào tới mép rừng có thể dùng làm đường rút khi cần thiết. Từ đây, tầm bắn của đại liên khống chế được cả khu vực từ đồi cỏ gần nhất qua tráng cát tới bãi cỏ trước gốc cây đa. Tôi rất chú ý đến tráng cát, nó đủ chỗ cho cả một phi đội trực thăng cùng đáp xuống.

Sau khi dùng xẻng khoét xong chỗ bắn, tôi chặt một đoạn thân cây có nạng chôn xuống đất làm giá súng. Hơi khó xoay trở khi bắn máy bay, nhưng đành tạm chấp nhận như vậy sẽ tìm cách khắc phục sau. Trên ụ súng, tôi lấy cành cây buộc lại làm giàn ngụy trang và gỡ những nhánh dây leo quanh đó gài lên. Cái giàn có thể chống lên hạ xuống được. Việc cuối cùng là lắp sẵn đạn vào súng và cắt một góc tấm tăng trùm lại che mưa. Tất cả chỉ nhằm phòng xa chứ thực lòng tôi không muốn phải sử dụng đến nó. Tôi đến đây đâu phải để bắn nhau! Chiến tranh đã lan đến tận vùng rừng xa xôi này. Chả lẽ trên khắp đất nước không còn nơi nào yên được hay sao?

Việc thứ hai là phải làm một đài quan sát. Tôi chọn cây chò cao mọc trên triền dốc phía sau cây đa, chặt mấy khúc gỗ gác lên nhánh cây cách mặt đất hơn chục mét để làm chỗ đứng. Từ đây, qua ống nhòm có thể nhìn rõ cả khu vực đồi cỏ trong điều kiện thời tiết tốt. Giờ bắt tay vào việc dựng nhà được rồi.

Suốt năm ngày liền, tôi vất vả từ sáng tinh mơ đến lúc trời tối mới lấy đủ số gỗ cần dùng, vì phải chặt rải rác mỗi nơi một cây, tránh sự chú ý của kẻ địch khi quan sát từ máy bay. Chôn xong bốn cái cột, tôi mới nhận ra cần phải có dây buộc. Những thứ dây rừng xung quanh đều không dùng được vì không đủ bền. Tôi đành gác mọi việc lại, đi tìm dây mây.

Từ mờ sáng, tôi đã dậy mang súng xách dao men theo dòng suối trước nhà đi ngược lên.

Càng đi cây cỏ càng rậm rạp. Ven bờ suối đôi chỗ mọc đầy những cây chuối rừng cao ngồng. Thấp thoáng mấy búp hoa chuối đỏ sẫm thòng dài tới gần ngọn cỏ. Thì ra phía trên này dòng suối không cạn như tôi tưởng, có nơi phải sâu ngập đầu là ít. Lúc lúc lại gặp lối thú rừng xuống uống nước, trông xa như lối mòn có người đi.

Qua khỏi rừng chuối, tôi leo lên một sườn dốc và tìm thấy khu rừng có cây mây. Mọc bên dưới những tầng cây cao, cây mây vươn dài quấn quanh những thân cây và len lỏi trong các lùm cây bụi, đôi chỗ chằng chịt thành từng đám rậm rì. Có những cây lâu ngày tự bong vỏ còn trơ sợi thây vàng óng, tôi chỉ cần chặt gốc rồi đứng rút, khi nào tới ngọn mây còn gai mới phải dùng dao róc. Loại mây này thân to cỡ chiếc đũa, có thể để nguyên như vậy mà buộc, không cần chẻ.

Đến chiều thì tôi lấy được số mây ước đủ dùng, nhưng nặng quá nên chỉ mang về một nửa. Sáng hôm sau, tôi quay lại vác chuyến khác. Trên đường trở về, tôi gặp mấy con công đang nhởn nhơ trên vạt cỏ ven suối. Những con công rất đẹp nhưng không thấy chúng xòe đuôi múa, chắc chưa đến mùa gọi tình. Tôi bắn một con về ăn thử vì nghe nói "nem công chả phượng" ngon lắm, ngày xưa chỉ vua mới được ăn. Nhưng tôi đã thất vọng khi ăn món thịt công nướng chấm muối, nó không ngon bằng thịt gà rừng. Có lẽ do thiếu gia vị, hoặc tại tôi "chế biến" không đúng cách, chứ vua mà ăn thế này thì cũng xoàng.

Lao động cật lực trong nửa tháng tôi mới dựng xong nhà. Sàn nhà cao cách mặt đất hai mét, làm bằng những cây gỗ to cỡ bắp chân xếp khít nhau. Mái nhà được lợp bằng tấm vải nhựa loang lổ màu lá cây, lại nằm dưới vòm lá rậm của cây đa cổ thụ nên trực thăng có treo ngay bên trên cũng khó phát hiện ra. Vách nhà ken bằng những cây le mà tôi đã mất ba ngày để chặt và vác từ rừng le về. Việc còn lại là làm một chiếc thang nhỏ dùng lên xuống và một cái bếp. Thang làm không khó. Còn bếp, tôi phải chặt bốn khúc gỗ dài một mét đấu lại thành cái khung hình vuông, đổ đất vào nện chặt để có thể đốt lửa trên đó mà không sợ cháy sàn nhà.

Mọi việc xong xuôi, tôi xoa tay hài lòng đứng ngắm căn nhà do chính tay mình dựng lên và cảm thấy trên đời này chẳng có ngôi nhà nào đẹp hơn nó. Lúc này mới ba giờ rưỡi chiều, cần phải kiếm cái gì ăn mừng nhà mới. Đi săn sợ mất nhiều thời gian, nên tôi móc ba lô lấy cuộn dây câu ra suối ngồi câu cá, vừa để nghỉ ngơi luôn thể.

Ra tới suối, tôi bỗng nhớ việc về nhà mới người ta thường xem ngày. Hôm nay là ngày mấy nhỉ? Trên đồng hồ, lịch ngày chỉ con số hai mươi mốt. Thừ người một lúc, tôi mới tính được là hai mươi mốt tháng sáu chứ không phải tháng năm hay tháng bảy. Lâu nay quên bẵng ngày tháng, có nhìn đồng hồ cũng chỉ xem giờ để biết sớm muộn. Thế là kể từ hôm đi từ Bãi Hà đến nay đã sáu mươi lăm ngày. Tôi chưa biết mình còn phải ở lại đây bao lâu nữa, nhưng ít nhất cũng qua mùa mưa này. Tất cả mọi công việc mà tôi đem hết sức lực và ý chí để làm trong một tháng qua, mới là sự chuẩn bị. Cả ngày về lẫn đường về đều xa lắc xa lơ.

Vừa thả câu một lát đã giật được con cá đầu tiên. Tôi mừng rơn khi thấy ở đây cũng có cá lấu, thứ cá mà theo cách nói của anh Hùng là "ăn một miếng nhớ cả đời". Lúc giật được con thứ hai thì tôi không câu nữa, hai con là đủ cho bữa tối. Cá ở đây dễ câu quá, có lẽ từ xưa tới nay chúng chưa bị lừa lần nào.

Tôi bó gối ngồi lặng yên bên suối, tư lự nhìn mặt nước lấp loáng nắng chiều. Phía bờ bên kia, cây rừng mọc thẳng tắp ken dày sừng sững như vách đứng. Cảnh vật đìu hiu làm tôi nhớ lại buổi chiều hôm nào bên dòng suối nơi biên giới, khi đó chúng tôi còn đủ bốn người... Giờ đây cả ba anh đều đã đi về cõi xa xôi, chỉ còn lại mình tôi nơi này... Giữa tiếng chim kêu nước chảy, nghe như có giọng hát buồn buồn từ trong rừng vẳng ra: "Chiều nay ra đứng bên bờ suối vắng, lặng nghe con chim nó kêu lạc đàn. Núi rừng đó người đâu không có..." Tôi không khóc mà nước mắt cứ lăn dài trên má...

Chương XII

Lúc còn đi học, tôi chỉ biết tới vàng qua trang sách, nghĩa là cái vòng tròn nửa trắng nửa đen trên tấm bản đồ khoáng sản, hay ký hiệu nguyên tố thứ bảy mươi chín trong hệ thống tuần hoàn hóa học. Sau này vào hoạt động ở thị xã Quảng Trị, hiểu biết về vàng của tôi có nâng cao được chút ít nhưng cũng chỉ dừng ngang chỗ nhìn thấy những nhẫn, vòng, dây chuyền vàng các bà các cô thường đeo, hay cái tiệm kim hoàn nhỏ nằm ở đầu phố mà tôi chẳng có việc gì để bước chân vào. Tất cả kiến thức của tôi về việc tìm kiếm một vỉa quặng là những điều anh Sơn đã nói. Những tưởng còn có đủ thời gian để học ở anh nhiều điều, đâu ngờ chỉ được sống với anh chưa đầy tháng... Cái câu "đãi cát tìm vàng" tôi học lúc trước là câu tục ngữ, nó được giảng theo nghĩa trừu tượng chứ không giải thích một công việc cụ thể.

Chính vì vậy mà giờ đây tôi lúng túng không biết nên làm gì. Theo tài liệu anh Hai Nguyên phổ biến, "vỉa quặng" nằm trong dải rừng phía bắc vùng đồi cỏ. Trên tấm bản đồ anh Sơn mang theo, nó được đánh dấu bằng mũi kim châm.Tìm dấu kim trên bản đồ đã khó, thế mà giờ đây tôi phải tìm trong rừng một vỉa quặng trong lúc chẳng hình dung được hình thù của nó như thế nào.

Tôi để một ngày đi men dải rừng phía bắc vùng đồi. Địa hình ở đây đã nói sơ trong lần trước, tất nhiên lúc này nó vẫn thế: rừng rậm nhiều tầng có đá bazan nằm rải rác, đôi chỗ nền đất pha sỏi vụn như ven các khe cạn hoặc vùng đất giáp đồi cỏ Những ngày đi đó không phải là vô ích. Nó giúp tôi nhận thức được rằng, đừng bao giờ mong tìm thấy một tảng đá có những mạch vàng sáng lấp lánh như đã xen trong phim. Mà nếu có tảng đá như vậy, nó cũng bị vùi lấp dưới đất hay lẫn trong cây cỏ rậm rạp, có sục hết từng mét đất của vùng rừng này cũng chắc gì phát hiện được.

Cuối ngày hôm đó, sau khi đi thực địa về, tôi quyết định làm theo cách mà anh Sơn đã bảo là "tuy thô sơ nhưng đơn giản nên dễ áp dụng...", tôi sẽ đãi cát tìm vàng theo nghĩa đen. Cách đãi tôi cũng có biết, về lý thuyết thì phải - vừa xoay vừa lắc cho đều như cách sàng gạo. Nhưng đãi bằng cái gì bây giờ?

Tôi lên chỗ máy bay rơi, lấy cái mũ phi công gỡ hết các thứ bên trong và bịt các lỗ thủng rồi xuống suối bỏ đất vào đãi thử. Mới lắc mấy vòng đã thấy không ổn, lòng mũ sâu và hẹp quá. Phải có cái gì rộng hơn và cạn, chỉ hơi trũng thôi. Hèn gì lúc trước anh Sơn mang cái xoong cạn miệng rộng như vậy.

Quay lại chỗ chiếc trực thăng, tôi dùng dao găm hì hục gần một buổi mới chặt được mảng vỏ máy bay vừa ý. Loại hợp kim này nhẹ và đủ dẻo để tôi gò được một vật từa tựa cái khiên thời trung cổ người ta hay mang theo lúc ra trận. (Sau này khi nhìn thấy dụng cụ của những người làm nghề đãi vàng thủ công, tôi mới biết lúc đó mình đã làm đúng kiểu).

Thế rồi tôi bắt tay vào việc với tâm trạng hăm hở pha lẫn hồi hộp xen với niềm hy vọng tràn trề. Điểm xuất phát là cái khe cạn nằm chính giữa rìa vùng đồi phía bắc, nơi có đám lau khô tiếp giáp với rừng. Không ảo tưởng vào một kết quả nhanh chóng trong ngày một ngày hai, tôi chia dải rừng ra làm nhiều ô, ghi nhớ những hòn đá hay gốc cây nào đó để làm mốc, dự định tìm kiếm hết nơi này mới chuyển qua nơi khác. Phải đãi có vàng đã rồi mới tính tới chuyện lần tìm vỉa quặng.

Công việc chẳng nhẹ nhàng chút nào. Cả dải rừng này chỉ có con suối chỗ tôi ở và cái khe nhỏ nơi tôi đã mắc võng nghỉ hôm bị sốt. Muốn đãi, phải gùi đất đến chỗ có nước.

Tôi cắt một tấm pôngsô khâu thành mấy cái túi. Mỗi đoạn khe cạn hay chỗ trũng, tôi đào đất ở nhiều điểm bỏ vào những túi khác nhau, và phải đánh dấu để biết túi đất nào lấy ở đâu. Chưa hết, đào xong phải ngụy trang kỹ, đất đãi rồi phải khỏa cho trôi đi. Nếu kẻ địch tới đây, chúng có thể biết tôi có mặt ở vùng này, nhưng không để chúng phán đoán được ý đồ. Ngay cả trong trường hợp bị địch bắt, tôi cũng chỉ là một người lính giải phóng lạc trong rừng. Tình huống này đã được dự tính từ trước.

Hàng ngày, với súng đạn, chiếc ba lô rỗng, cái xẻng nhỏ cùng cái khiên đeo sau lưng, tôi ra đi từ lúc hửng sáng và chỉ trở về nhà lúc sẩm tối. Đào đất đổ vào túi, bỏ túi vào ba lô mang tới suối đãi, đổ đi rồi quay lại đào tiếp... Công việc nặng nhọc và nhàm chán làm sự háo hức ban đầu dần dần nguội đi. Nhưng tôi không nản. Trong đầu tôi là sự quyết tâm đến lì lợm bởi ngoài trách nhiệm cá nhân, tôi còn có nghĩa vụ với người đã khuất. Mà có lẽ còn trên cả nghĩa vụ...

Tôi mới bắt tay vào việc được mươi ngày thì phải tạm ngừng vì mùa mưa tới. Trước đó mấy hôm bầu trời kém trong hơn, tầng mây trắng bạc mờ mờ trên cao thay thế dần khoảng trời xanh. Buổi sáng những áng mây xuất hiện ngày càng nhiều, lúc đầu chúng có màu trắng hoặc phớt hồng, sau đổi sang màu xám chì. Còn đến hoàng hôn ráng chiều nhuộm mây ngàn đỏ sậm. Những tiếng sấm ì ùng xa xa nghe như tiếng đại bác báo hiệu đạo quân mưa đang tiến lại gần. Gió thổi từng làn ngắt quãng làm cây lá xôn xao. Rừng đang bồn chồn.

Rồi một hôm, cơn mưa chờ đợi từ lâu đã tới. Suốt buổi sáng trời đứng gió. Cây cối im phăng phắc trong cái nóng ngột ngạt đến khó thở. Không gian nặng nề như đang chịu một áp lực từ vũ trụ ép xuống bề mặt khí quyển. Quá trưa thì mây kéo về làm bầu trời thấp xuống, màu mây đen kịt và nặng trĩu. Gió cuộn lên ào ào, bụi tung mù mịt trên vùng đồi cỏ cây rừng nghiêng ngả vật vã chịu đựng nỗi đau chuyển mùa. Lát sau, những tia chớp bắt đầu kéo loằng ngoằng trong mây kèm theo tiếng sấm nổ choáng tai. Những hạt mưa đầu tiên rơi lộp độp xuống lá cây, xuống lớp đất khô bụi sau nhiều tháng nắng nóng.

Trận mưa dạo đầu chỉ kéo dài hơn một tiếng đồng hồ. Rừng bốc khói như đang ngủn cháy âm ỉ. Hơi nước ngùn ngụt khắp nơi, đến sẩm tối trở thành những đám sương xanh lam quyện trong vòm lá. Ngày hôm ấy tôi ở nhà lấy củi về chất dưới gầm nhà nên tránh được cơn mưa. Đi rừng gặp trận mưa này, ốm là cái chắc!

Đất rừng khô hạn lâu ngày, hơi nóng bốc lên rất độc. Mấy ngày kế đó mưa đổ xuống từng đợt ngắn, nhưng mây vẫn tiếp tục kéo về ùn ùn trên bầu trời. Ngoài đồi, chuồn chuồn kết thành từng đám dày đặc lượn sát ngọn cỏ. Tranh thủ lúc tạnh, tôi xách súng đi ngược con suối lên mé trên, ý định kiếm ít thịt dự trữ. Tới đoạn suối chảy ngang qua vách đá thì gặp con mang ở bờ bên kia. Tôi bắn, nhưng phát đạn không chính xác nên nó còn chạy được. Tôi lội qua suối lần theo dấu máu, phát hiện nó chui vào một cái hang nhỏ nằm chết trong đó. Cái hang này khuất sau mấy tảng đá và những cây dây leo nên rất kín, nếu không có vết máu thì không thể tìm ra. Chật vật mãi tôi mới kéo được con mang ra vì miệng hang hẹp quá. Nhưng khi nhìn kỹ thới thấy trong hang khá rộng, đủ chỗ cho vài người nấp. Chỉ nhìn qua cho biết chứ chẳng có việc gì phải dùng đến nó.

Tôi vác con mang về xẻ thịt, và nhân lúc nước suối còn trong tôi câu được hơn chục con cá. Số cá, thịt đó tôi nướng và sấy khô rồi đem treo trên đống lửa để ăn dần. Lương thực dự trữ còn mấy bao gạo sấy, năm phong lương khô và một thùng khẩu phần ăn dã chiến, nhưng số đó phải để dành và nếu để được cho tới lúc quay về là tốt nhất. Còn ở đây chim thú không thiếu, tôi lại sẵn đạn nên chẳng lo đói.

Những cơn mưa nặng hạt ngày càng kéo dài, thời gian tạnh ngắn lại và hiếm hoi dần. Cho đến lúc mưa tầm tã suốt ngày đêm thì hầu như tôi chỉ bó gối ngồi trong nhà, không đi đâu được Ngoài trời mưa trắng rừng trắng núi, nhìn ra hướng đồi cỏ chỉ thấy mịt mờ màn nước. Nước chảy thành dòng săn tít dọc theo thân cây cổ thụ. Mặt đất trương ra, mềm lún. Muôn dòng chảy len lỏi qua các gốc cây đổ xuống chỗ thấp. Những rãnh nhỏ trở thành khe, khe thành suối và suối thành sông con. Dòng suối trước nhà giờ đây đục ngầu cuồn cuộn như lũ, cuốn băng băng từng đống rác rều kết từ cành khô và là mục. Những đám mây mọng nước suốt ngày sà trên ngọn cây làm bầu trời như sắp sập xuống. Nhà tôi dựng dưới tán lá rậm, chỉ sáng mờ mờ được dăm tiếng đồng hồ vào ban ngày, vì vậy đêm tối càng dài hơn.

Một hôm, tôi đội mưa lên chỗ máy bay kiểm tra lại những thứ trong đó và lấy thêm số đồ cần dùng. Lần này tôi tìm được nắp thùng chứa nhiên liệu nên lấy ra ít dầu để thắp. Số dầu còn lại trong thùng khá nhiều, có thể an tâm về khoản ánh sáng. Ở dưới ghế lái có cái ngăn nhỏ, trong đó có bộ cờ !ê đủ cỡ, tôi đem bỏ cả vào ba lô cùng với mấy bộ quần áo lính. Nhưng thứ khác tôi gói kỹ cho khỏi ướt, để lại trong máy bay. Xong việc, tôi khoác ba lô lên vai, ra tìm đoạn cánh quạt gãy vác về nhà.

Khi căng mấy tấm pôngsô quanh vách để tránh mưa tạt tôi bỗng nhận ra căn nhà tuy tốt nhưng lại giống cái rọ, nó chỉ có một cửa và mấy lỗ thông khói. Nếu có kẻ nào xuất hiện tấn công lúc tôi đang ngồi trong nhà, chúng chỉ cần khống chế trước cửa là chẳng còn thoát đi lối nào được. "Mình vô ý quá, lẽ ra phải làm thêm cái cửa hậu..." Nhưng khi có động, nếu có nhảy được từ độ cao hai mét xuống đất và kịp chạy hai chục mét tới gốc cây đa hay không? Biết là lo xa, nhưng khi đã nghĩ đến rồi thì tôi cứ thấp thỏm không yên. "Giá mình bay được như chim... À, đúng rồi! Đã có cách!"

Lấy mấy cuộn mây hôm trước chưa dùng hết, tôi đem bện thành sợi dây dài, buộc một đầu lên nhánh cây đa quãng giữa nhà và gốc cây, đầu kia buộc thành cái vòng để có thể luồn chân vào. Phải sửa đi sửa lại mấy lần mới vừa ý. Tôi trổ thêm cái cửa nhỏ phía sau nhà và móc sẵn đầu dây ở đó. Trong trường hợp khẩn cấp, chỉ cần lách qua của níu dây đu nhẹ là tới chỗ cây đa trong nháy mắt. Ở đó có dấu sẵn số vũ khí dự trữ, và nếu cần tôi sẽ lẩn nhanh vào rừng.

Suốt mấy tháng mưa, lúc nào tạnh tôi lại ra rừng. Bây giờ những nơi trũng đều ngập nước, việc đào đãi tiến hành tại chỗ nên thuận tiện hơn nhiều. Chỉ có điều lội trong rừng mùa này rất khó chịu vì ướt át suốt ngày. Những vết cào xước trên người trở nên ngứa ngáy thành ghẻ, đôi chỗ nhiễm trùng mưng mủ sưng tấy lên. Chẳng ai chết vì bệnh ghẻ, nhưng mắc phải nó thì thật khốn đốn. Không có xà phòng, áo quần giặt mấy cũng không sạch, da thịt nhớp nháp làm mụn ghẻ chả mấy chốc đã lan khắp toàn thân. Lại còn nạn vắt nữa? Cái giống đỉa cạn này vào mùa mưa nhiều như trấu. Mặc dù mỗi lần ra rừng tôi đều lấy lá ngải hôi xoa khắp người, nhưng thế nào cũng có dăm bảy con bám vào hút máu đến căng tròn, về đến nhà cởi quần áo ra mới biết.

Nhưng "có khó mới ló khôn", tôi đã nghĩ ra giải pháp tối ưu cho vấn đề vệ sinh, một trong những "phát kiến" quan trọng nhất của tôi trong thời gian sống giữa rừng: đó là việc tìm ra cây bồ kết. Đúng ra tôi đã nhìn thấy nó từ trước, nhưng đến lúc này mới nhớ tới. Nó mọc ở mé đồi cỏ, nơi vạt rừng phía cuối tràng cát. Đây là một cây bồ kết cổ thụ to cỡ mấy người ôm, trên cành lủng lẵng những chùm quả tươi có, khô có. Tôi cũng không phải leo nên chẳng lo đám gai sắc nhọn chi chít trên cây: quả bồ kết rụng đầy dưới gốc, chỉ việc chọn những chùm chưa bị mục đem về bẻ ra ngâm để tắm gội hoặc giặt quần áo. Nhờ nó mà tôi triệt được bệnh ghẻ, và tuy ở rừng nhưng áo quần lúc nào cũng sạch bong. Ở quê tôi, các bà các chị lâu lâu mới đi chợ mua vài hào bồ kết về gội đầu. Còn ở đây, cái cây bồ kết này đủ cho cả làng gội quanh năm.

Một buổi trưa, nhân vừa ngớt mưa tôi xách súng vào rừng bắn chim. Ăn mãi thịt thú cũng ngán, còn cá thì nước suối to lại chảy xiết không câu được. Hôm đó tôi đi khá xa mới bắn được một con chim không lớn lắm nhưng cũng đủ ăn bừa tối. Lúc trở về, tôi nhắm hướng đi cắt rừng cho gần hơn. Khi băng qua cánh rừng cách nhà chừng cây số, tôi gặp một cây trầm. Tôi chưa nhìn thấy cây trầm tươi lần nào. Lúc trước anh Hùng có hứa khi nào gặp sẽ chỉ, nhưng không kịp... Nhưng đây là cây trầm đã rụi xuống lâu ngày, phần gỗ đều mục nát và bị đợt mưa vừa rồi xói trôi gần hết, làm lộ ra những khúc trầm đen nhánh đôi chỗ chen thớ gỗ lấm tấm trắng. Nhiều khúc như được một bàn tay tài hoa nào chạm trổ, tạo nên những đường nét hình thù kì dị và rất đẹp. Đoạn gần gốc có những tảng trầm màu nâu đen giống như những tảng nhựa, cầm lên cứ nặng trĩu trên tay. Có lẽ quanh đây có những cây trầm khác còn sống, nhưng tôi không nhận ra. Loài cây này thật kỳ diệu. Nó mọc giữa rừng hoang, hút chất đất và khí trời để tạo nên nhựa sống. Đến khi về già, cây trầm dồn nhựa của mình cô đặc thành tinh chất của hương thơm, và lúc chết nó để lại tất cả cho đời.

Tôi nhặt mấy khúc trầm mang về để mỗi lần đi thăm mộ sẽ đốt thay hương. Về sau, lần nào đi ngang qua gần đó tôi cũng rẽ vào lấy một ít đem chất trong hốc cây đa. Chẳng qua thấy thì ham vậy thôi, chứ chẳng bao giờ tôi nghĩ đến chuyện sau này mang số trầm ấy về.

Mặc dù tôi rất sốt ruột, nhưng việc tìm kiếm vẫn tiến hành chậm chạp. Những đợt mưa thường kéo dài, số ngày trời hửng rất ít. Ngay cả những ngày có chút nắng hiếm hoi thì chừng bốn giờ chiều trong rừng đã tối, ra tới chỗ đãi chưa làm được mấy việc lại phải quay về.

Ai đã từng một lần trải qua mùa mưa Trường Sơn hẳn sẽ nhớ mãi những cơn mưa dầm dề lê thê ngày này qua ngày khác. Cũng có lúc mưa nhẹ hạt, những hạt mưa rơi chầm chậm làm ta tưởng trời sắp tạnh, bỗng lại nghe ào ào như ai trút nước xuống mái nhà: những đám mây lại vỡ òa trên bầu trời. Ngồi trong nhà nhìn ra màn mưa trắng mịt mờ mà buồn đến não lòng, nhiều lúc tôi có cảm giác mình như cũng sắp chảy ra thành nước. Rừng sâu vốn đã hoang vắng, trong mưa lại càng âm u lạnh lẽo khiến tôi thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Giá lúc này mà có một người bên cạnh, một người thôi, dù già hay trẻ, dù xấu hay đẹp, dù tính nết thế nào cũng được. Cố quên đi sự rầu rĩ trong những ngày mưa ấy, tôi dồn hết tâm trí vào một công việc đã ấp ủ từ lâu: làm tấm bia tưởng niệm đặt trên mộ hai anh.

Tôi đập gãy đầu một chiếc cờ lê cỡ mười sáu, mài vào đá để làm chiếc đục. Phải mất gần một tuần, mài vẹt nửa hòn đá mới được chiếc đục vừa ý. Lấy đoạn cánh quạt trực thăng mang về hôm trước, tôi dùng đục trổ lên đó dòng chữ "đời đời bất tử". Công việc không đơn giản, vì giữa chiếc đục bằng thép tốt và đoạn cánh quạt hợp kim, không cái nào chịu mềm hơn. Nhưng tôi không ngại. Tôi làm việc này với lòng thương nhớ vô hạn hai người anh, hai người đồng đội, hai con người bình dị và giàu lòng nhân ái đã chết cho tôi được sống...

Ngoài những lúc tạnh mưa ra rừng đào đãi, còn hầu như suốt ngày tôi tập trung vào tấm bia. Cả những đêm không ngủ được, tôi cũng thắp đèn ngồi đục. Công việc thử thách lòng kiên nhẫn, và tôi đã chứng minh được quyết tâm của mình cứng hơn thứ hợp kim sản xuất từ nước Mỹ. Gần cuối tháng chín, khi cây đục qua nhiều lần mài chỉ còn một mẩu ngắn thì tôi làm xong tấm bia. Bên dưới dòng chữ "đời đời bất tử" có khắc tên hai anh cùng quê quán và ngày hy sinh. Tôi định khắc thêm mấy chữ TK1, nhưng sau lại thôi. Chỉ cần suy nghĩ một chút, ai cũng đoán ra hai chữ TK nói gì.

Rồi những cơn mưa thưa dần, những ngày nắng nhiều hơn và ngày cũng dài ra. Đôi lúc tầng không xanh ngắt ló ra giữa những đám mây. Cho đến một hôm, khi nhìn thấy trong rừng có những tán lá ngả màu vàng, tôi hiểu mùa thu đã mang sắc màu của nó đến với vùng rừng núi này. Cứ nhìn nắng thì biết! Nắng thu đằm thắm, óng vàng như màu mật của những con ong làm ra từ phấn hoa mùa xuân và quả ngọt mùa hè. Mùa xuân nắng khác hơn, nắng xuân có màu vàng tươi và tràn trề sức sống. Nắng hè rực rỡ mà chói chang. Còn mùa đông thỉnh thoảng cũng có ngày đẹp, lúc đó trời trong veo và nắng có màu hoa cải cuối vụ.

Vào một ngày thu như thế, tôi về bên mộ đốt trầm dựng bia cho hai anh. Tấm bia cao hơn hai mét, màu kim loại ánh lên dưới nắng nổi bật trong cảnh hoang dã. Không nét hoa văn, không lời tưởng niệm, những dòng chữ đơn sơ đục bằng tay trên tấm hợp kim đặc biệt chế tạo theo công nghệ hiện đại là sự thách thức với kẻ thù. Tôi muốn cho chúng biết rằng, sự trả thù quyết liệt sẽ đến với bất cứ kẻ nào tàn bạo và hèn hạ. Tấm bia này cũng là tín hiệu nếu có toán TK nào đến đây.

Khói trầm nghi ngút, hương thơm ngào ngạt theo gió lan khắp đồi cỏ. Trong làn khói thơm như thấy hiện lên những khuôn mặt thân thiết... Tôi tiếc là không thể trở lại bờ vực để đốt mấy khúc trầm tưởng nhớ anh Sơn. Mà giờ này chắc anh ấy đã xuống tới sông Thu Bồn...

Chương XIII

Thế là tôi sống một mình trong rừng được năm tháng. Thực ra, nói sống một mình cũng không hẳn đúng. Năm tháng qua, tôi đã có dịp quen biết với những cư dân khác của rừng. Nếu không kể những con sóc giống nhau như được đúc ra từ một khuôn suốt ngày thoắt ẩn thoắt hiện trên cành cây và những bầy chim chợt bay tới hót ồn ào một lúc rồi bay đi; nếu không tính đến một nhà nai nào đó tảng sáng tinh mơ đi ăn về ghé lại vũng suối trước nhà tôi uống nước, hoặc những con thú tình cờ ngang qua hay các loài côn trùng sâu bọ, thì cư dân chính của khu rừng này không nhiều lắm, nhưng quan hệ với nhau cũng rất phức tạp như vẫn thường diễn ra trong cuộc sống.

Trước hết, phải nói đến gia đình khỉ. Nơi cư ngụ của chúng ngay trên cây đa, nên nhà khỉ là láng giềng gần nhất. Hôm đầu thấy tôi, lũ khỉ leo tít lên cành cao nghiêng đầu ngó xuống. Những ngày bận rộn dựng nhà, tuy không để ý, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn bắt gặp một cái đầu khỉ nhô ra sau khóm lá, giương cặp mắt tò mò nhìn kẻ lạ mặt mới tới đang làm những việc lạ lùng mà chúng chưa từng thấy bao giờ. Thời gian sau quen dần với sự có mặt của tôi, và có lẽ cảm thấy vị khách không mời mà tới này cũng không có gì nguy hiểm, nên lũ khỉ tỏ ra bạo dạn hơn. Chúng leo xuống nhảy nhót ngay trên cành cây thấp xòa trước nhà. Có hôm từ dưới suối lên, tôi còn thấy chúng nô đùa trên vạt đất trống nơi tôi thường đốt lửa nấu nướng vào những ngày nắng.

Đến lúc đó tôi mới biết nhà khỉ có năm con, và dần dần phân biệt được từng con một. Đứng đầu là con khỉ đực đã già dáng bộ chững chạc, (nếu không muốn nói là đạo mạo) và có vẻ chậm chạp so với những con khác. Hai hàng lông mày và chòm lông bên thái dương nó nhạt màu như đã chớm bạc chứ không vàng nâu như mấy con kia. Khỉ già ít chạy nhảy. Có hôm đang chặt cành khô làm củi, chợt ngước lên, tôi thấy nó ngồi im trên cành cây chăm chú nhìn xuống như cố tìm hiểu xem tôi làm như thế để làm gì.

Sau khỉ già là cặp vợ chồng khỉ dáng còn trẻ, cũng nhanh nhảu nghịch ngợm giống mọi con khỉ khác. Tôi biết chúng là vợ chồng bởi nhiều lần thấy chúng âu yếm nhau, hoặc ngồi vạch lông bắt rận cho nhau một cách tình tứ. Còn hai khỉ con thì khỏi phải nói! Chúng chỉ nhỉnh bằng bắp tay tôi, bộ lông còn thưa và nâu nhạt chứ chưa nhuốm vàng như bố mẹ chúng, nhưng đã nghịch như quỷ. Suốt ngày chúng trèo lên tuột xuống, đu từ cành này qua cành khác, lúc lúc lại cấu véo nhau chí chóe. Ngay cả lúc rảnh rỗi cả nhà ngồi phơi nắng, chúng cũng không mấy khi chịu ngồi yên cho "người lớn" bắt rận. Hầu như chúng không sợ gì bố rnẹ. Nhiều khi chúng đuổi nhau leo bừa qua mình mấy con khỉ lớn, đu cành tuột xuống rồi xô đẩy nhau ngã lăn ra bãi cỏ. Những khi đó, chỉ có tiếng lẹc khẹ của khỉ già mới làm chúng dịu lại.

Quan sát nhà khỉ láng giềng, tôi rất ngạc nhiên. Nghe nói loài khỉ thường sống thành bầy đàn chung chạ, và mỗi lần đẻ, khỉ mẹ chỉ sinh được một con, vậy mà ở đây, gia đình khỉ trông có vẻ có "tôn ti trật tự" hẳn hoi. Tôi cũng chẳng thể nào biết được hai nhóc khỉ có phải là anh em sinh đôi hay không, nhưng trông chúng rất giống nhau. Hay một trong hai con là con nuôi?

Một hôm đi rừng, tôi gặp bên bờ suối buồng chuối rừng đã chín, có quả bị chim mổ ăn gần nửa. Chuối rừng quả nhỏ nhưng nếm thử thấy ngọt và thơm, chỉ tội nhiều hạt. Tôi chặt cả buồng bỏ vào ba lô mang về.

Sáng hôm sau, tôi lấy nải chuối trên cùng đã chín rục đem để dưới gốc cây đa, rồi nhìn lên cây làm điệu bộ như mời nhà khỉ xuống ăn. Chẳng biết chúng có hiểu không, hay nhờ mùi chuối chín mà khi tôi lên nhà ngồi một lúc, thấy lũ khỉ mò tới. Trái với dự đoán của tôi, không phải hai khỉ con lanh chân chạy trước mà là khỉ già với dáng bộ thận trọng đi đến. Nó đặt một chân trước lên nải chuối, mắt nhìn lên nhà tôi, nửa như ngẫm nghĩ, nửa như dò hỏi. Lát sau không thấy tôi tỏ thái độ gì, nó mới bưng nải chuối quay lại gốc cây, lần này thì nhanh nhảu như... khỉ.

Từ đó mỗi lần đi rừng gặp quả chín có dấu chim ăn, tôi lại hái mang về cho lũ khỉ. Lâu dần thành lệ, mỗi khi thấy tôi đi đâu về chúng thường nhìn tôi chờ đợi. Những lúc có quà hai khỉ con lại là những kẻ nhanh chân nhất. Bố mẹ chúng cũng tỏ ra không thua kém, chỉ có khỉ già vẫn giữ được vẻ đĩnh đạc hàng ngày. Quan hệ đôi bên dần dần trở nên tin cậy, thân thiết hơn. Tất nhiên nhà khỉ chẳng bao giờ biếu lại tôi thứ gì, nhưng tôi không so đo. Nhờ lũ khỉ mà tôi biết thêm nhiều loại quả dại ăn được, chúng là chuyên gia trong lĩnh vực này. Chỉ tiếc là tôi không biết được tên từng loại quả vì lũ khỉ không nói.

Những con khỉ đáng yêu đã giúp tôi phần nào vơi bớt nỗi buồn khi phải sống đơn độc giữa rừng. Mỗi khi về tới nhà gặp lúc chúng đi kiếm ăn, tôi lại thấy cô quạnh vì thiếu vắng tiếng chí chóe quen thuộc trên cây.

Nhưng mối quan hệ hàng xóm láng giềng dù thân thiết đến đâu cũng không tránh khỏi có lúc va chạm. Một buổi chiều, sau cả ngày tìm kiếm mệt nhoè mà chẳng có kết quả gì, tôi lê bước leo từng bậc cầu thang lên nhà. Khi mở cửa, trước mắt tôi hiện ra cảnh đổ vỡ tan tành. Thực ra trong nhà chẳng có tài sản gì nhiều, nhưng tôi điên tiết lên khi thấy mấy bao gạo sấy tung tóe khắp nơi. Những bao gạo mà tôi đã cố nhịn ăn dành dụm phòng khi mưa gió. Vô số những hạt gạo trắng nhờ, khô cong vương vãi đầy trong khe gỗ sàn, lẫn cả vào tro bếp. Tôi tức giận cầm một bao gạo bị xé rách nhảy xuống, chạy tới đứng dưới gốc cây đa nhìn lên, vung tay múa chân chửi mắng om sòm. Tôi không còn biết lúc đó nói những gì, nhưng có lẽ đã sử dụng hầu hết những từ mà người ta thường dùng trong những dịp tương tự. Trên cây lũ khỉ im thin thít, hai khỉ con leo tuốt lên trên cao.

Quát mắng một lúc để nguôi giận, tôi quay lên nhà, âm thầm nhặt từng hạt gạo bỏ lại vào bao. May sao chúng không xé rách bao muối hầm. Thôi thì cũng lỗi tại mình thiếu cẩn thận! Đây có lẽ là trò nghịch ngợm của hai nhóc khỉ, chúng đã luồn qua lỗ thông gió mà tôi quên cài trước lúc đi. Lâu lắm rồi, hôm nay tôi mới có dịp nói ra thành tiếng...

Sáng hôm sau, tôi mang chỗ gạo bẩn ra suối đãi sạch rồi bỏ vào gô nấu chín. Tôi chỉ ăn mấy miếng, còn lại đem đổ ra tàu lá chuối đặt dưới gốc cây đa. Chiều về thấy lũ khỉ đã chén sạch. Chúng không để bụng chuyện đụng chạm vừa rồi nên chẳng tự ái và cũng không khách sáo.

Một hôm khác, tôi nhóm lửa treo gô lên bếp để nấu nước rồi ra suối câu cá. Mãi chưa câu được con nào, tôi sốt ruột định nhảy ùm xuống tắm, bỗng nghe tiếng lũ khỉ chéo véo. Tôi vội xách súng chạy lên. Tới nơi thấy gô nước đổ tung tóe, mấy khúc củi cháy dở vung vãi quanh bếp bốc khói mù mịt, còn nhà khỉ đang túm tụm cuống quít bên gốc đa. Thấy tôi đến, hai khỉ bố mẹ và một khỉ con leo vội lên cây, riêng khỉ già vẫn hốt hoảng chạy tới chạy lui bên một con khỉ con khác nằm lăn lộn trên cỏ. Có lẽ chú ta đến bên đống lửa bắt chước tôi đun bếp nên bị bỏng. Mấy túm lông trên vai và bụng cháy quăn thoảng mùi khét. Vết bỏng không nặng, chỉ hơi đỏ tấy. Nó đạp chân lên mấy thanh củi và bị lửa bén vào, chứ nếu bị dội nước sôi thì chưa biết hậu quả sẽ như thế nào. Ở đâu cũng vậy, trẻ con thường gây ra những chuyện rắc rối làm mất lòng người lớn.

Tôi bế khỉ con lên nhà, mở nắp bi đông mật ong đổ một ít ra chiếc lá khô rồi dùng ngón tay chấm bôi lên những chỗ da bị bỏng. Khỉ con nằm yên trong tay tôi, thỉnh thoảng kêu khẽ mấy tiếng, đôi mắt ngây thơ chớp chớp. Rõ ràng chú ta bị choáng vì sợ hơn là đau do vết bỏng. Tôi đem chú xuống nhà thả bên gốc cây, cả nhà khỉ nhào xuống đến rối rít. Lát sau chúng đã cùng nhau đu chuyền trên cành. Không biết mật ong có chữa được vết bỏng hay không, nhưng ít ra nó cũng là thứ thuốc có tác dụng tốt đối với tâm lý khỉ.

Ngày qua ngày, lũ khỉ càng quyến luyến tôi hơn. Những chiều tôi về muộn, thường thấy chúng quanh quẩn trước nhà chờ đợi. Có hôm cả nhà kéo nhau theo tôi ra suối. Khỉ già ngồi nhìn tôi câu cá, còn những con khác leo trèo nhảy nhót trên mấy tảng đá. Sau này mỗi lần ra suối, tôi thường giao cho khỉ già xách bi đông nước. Nó tỏ ra vô cùng thích thú vì được tin cậy. Thử hỏi cả cánh rừng này đã có con vật nào được như nó? Bắt chước tôi, nó choàng dây bi đông qua cổ nhưng dây dài quá vướng chân không đi được, nên lại cởi ra vừa nhảy vừa kéo lướt sướt trên cỏ. Những lúc lấy nước vào bi đông, tôi cố ý làm chậm từng động tác cho khỉ già thấy. Chỉ sau mấy lần, nó đã biết lấy nước vào bi đông và vặn nắp thành thạo.

Lúc tôi chặt cành khô làm củi và đem chất dưới gầm sàn, cả nhà khỉ lại kéo xuống giúp xếp củi. Chúng tíu tít quanh đống củi chọn những thanh nhỏ, vừa đi vừa kéo một cách vụng về. Cuối cùng những con lớn cũng đem vào được vài thanh, chứ hai khỉ con chỉ làm cho mọi việc rối lên. Chúng lăng xăng bận rộn, vừa lôi thanh này ra, đã lại vứt xuống lấy thanh khác. Có khi cả hai con cùng túm lấy một thanh, giằng co nhặng xị cả lên. Đến lúc chán chúng vứt bừa ra đấy, leo lên cây nhảy nhót vin cành bẻ lá, rồi lại tụt xuống bãi cỏ vạch lá khô tìm trứng kiến để ăn.

Một cư dân khác mà tôi muốn nói tới là con báo hoa. Nó cư ngụ ở cây cổ thụ gần bờ suối, cách chỗ tôi ở khoảng bốn trăm mét. Cái cây này có một nhánh to bị gãy xuống vướng vào cây bên cạnh tạo thành cái cầu gỗ, mưa nắng lâu ngày làm nó tróc vỏ nứt nẻ và bạc trắng. Tôi gặp con báo trong một lần đi ngang qua, lúc nó đang nằm phơi nắng trên nhánh cây gãy. Thấy nó, tôi hơi giật mình đứng lại. Biết loài báo không vô cớ tấn công người, tôi cố gắng không làm những cử động đột ngột. Đó là một con báo cái đang độ sung sức có bộ lông vàng điểm những chấm đen rất đẹp. Dạo trước anh Hùng kể ở Việt Nam chỉ có loài tiểu báo, mà phần nhiều là hắc báo, thường gọi beo đen, chứ giống báo đốm hoa vàng này rất hiếm.

Khi tôi xuất hiện, báo hoa chỉ đưa mắt nhìn thoáng qua rồi lại cúi xuống liếm lông, vẻ lười nhác như một con mèo sau bữa ăn. Nó không mảy may đếm xỉa gì đến tôi, có lẽ tự cho mình là dân chính gốc của rừng, chẳng việc gì phải săn đến với kẻ ngụ cư mới tới.

Về sau thỉnh thoảng tôi vẫn gặp nó. Dù có hơi e dè khi phải giáp mặt với "người" láng giềng không mấy cởi mở này, nhưng trong lòng tôi thầm thán phục mỗi khi nhìn con báo bước uyển chuyển trên bãi cỏ với dáng vẻ đầy tự tin. Điều kỳ lạ là lũ khỉ sống cách chỗ báo hoa không xa mà chúng chẳng có vẻ gì lo lắng. Nhiều lần vẫn thấy cả nhà khỉ đu cành đi kiếm ăn về hướng ấy. Phải chăng rừng sâu có luật riêng của nó, thứ luật bất thành văn mà con người chưa thể biết và hiểu hết?

Mấy lần bắn được thú rừng ăn không hết, tôi lại đem đến treo trên gốc cây gần nơi báo hoa ở. Đấy là những tặng vật hậu hĩnh vì có lúc tôi cho nó nguyên cả đùi lợn rừng. Tôi chỉ lấy số thịt đủ dùng trong vài ngày do chẳng có cách gì trữ lâu được. Về mặt này, báo hoa là kẻ láng giềng may mắn. Lũ khỉ vốn là hậu duệ chính tông của Tôn Ngộ Không nên chẳng quan tâm gì tới món thịt rừng. Khắt khe mà nói, chúng cũng "phạm giới" khi ăn trứng kiến.

Bẵng đi một dạo, phải đến mấy tháng trời tôi không gặp báo hoa. Thời gian này tôi mải mê với việc tìm kiếm, thường đi sớm về muộn. Đến hôm nhìn thấy bi đông mật ong đã gần cạn, tôi bèn nghỉ việc một ngày đi kiếm mật về trữ để dùng dần.

Sáng đó tôi men con suối ngược lên đầu nguồn, nơi gần đi lấy mây về làm nhà có gặp tổ ong. Lúc ngang qua nơi ở của báo hoa, tôi chợt nghe những tiếng gừ gừ là lạ, bèn nhẹ nhàng rẽ lá bước vào. Cảnh tượng nhìn thấy trước mắt làm tôi hết sức bất ngờ và thú vị: trên đám cỏ gần gốc cây, con báo hoa đang âu yếm thời với hai con báo con. Thấy tôi, nó chỉ hơi nghiêng đầu nhìn rồi lại tiếp tục liếm đầu liếm cổ cho con. Hai chú báo con mới chỉ nhinh bằng con mèo, bước đi còn chưa vững. Mỗi lần báo con loạng choạng, con báo mẹ lại nhẹ nhàng lấy mõm và chân đỡ cho chúng khỏi ngã. Báo con trông rất dễ thương. Chúng có bộ lông mềm mại lốm đốm vàng den giống mẹ, nhưng sắc màu còn mờ nhạt. Đôi mắt chúng gần như trong veo và đầy vẻ ngây thơ. Tuy chưa bước vững nhưng trên hai thân hình nhỏ bé đã thấy nét uyển chuyển duyên dáng của loài báo. Nhìn báo mẹ, tôi không thể ngờ được là con vật hoang dã, biểu tượng uy nghiêm của rừng già lại thể hiện tình mẫu tử đầy trìu mến và cảm động đến như vậy. Ánh mắt, sắc mặt và từng cử động của con báo đều như toát lên lòng yêu thương và sự mãn nguyện pha chút kiêu hãnh đối với hai đứa con thiên thần của nó. Không muốn làm xáo động những giờ phút ấm cúng của mẹ con báo hoa, tôi lặng lẽ rút lui.

Hôm đó, tôi may mắn gặp tổ ong ruồi to tướng nên lấy được đầy hai bi đông mật cùng mấy tầng sáp mà tôi định dùng làm nến thắp. Nói thực, tôi không phải là thợ lấy mật chuyên nghiệp nên chỉ áp dụng phương pháp cổ điển nhất. Nghĩa là, khi gặp tổ ong thì bứt một bó cỏ khô buộc chung với mấy cành tươi, đốt cho khói mù lên xua đàn ong bay đi, rồi dùng dao xẻ vội mấy tầng sáp đầy mật, túm vào tấm nilon bưng chạy thật xa mới dám ngồi lại vắt mật vào bi đông. Tất nhiên cách làm như vậy nhìn vào không đẹp, cứ như di ăn trộm, còn nếu nặng lời có thể gọi là ăn cướp cũng được. Nhưng tôi chỉ lấy số mật đủ dùng chứ không phá nát cả tổ. Bầy ong lúc quay lại sẽ thấy không bị thiệt hại gì nhiều lắm.

Cách đó mấy ngày, vào một buổi chiều khi trở về nhà sau ngày làm việc, tôi tình cờ bắn được con chồn hương khá to lúc nó chạy ngang qua đường. Vốn có ý định từ mấy hôm nay nên tôi xách con chồn đi thẳng tới chỗ con báo. Tôi đến đúng lúc báo mẹ đang tập cho con nó leo cây. Một con báo con đang bám vào thân cây, cái đầu nhỏ nhắn cứ ngọ nguậy, hết ngước lên lại nhìn xuống, ý chừng nó còn sợ không dáng leo cao. Nhìn bốn cái chân xinh xắn run run, tôi cũng thấy tội nghiệp, nó đang còn bé quá. Nhưng báo mẹ biết rõ việc mình làm. Nó lấy mõm vừa đỡ vừa ủi cho con leo dần lên, miệng gừ gừ nửa dỗ dành nửa đe nẹt. Thấy đã chiều, tôi đặt con chồn lên nhánh cây gần đó rồi quay về. Lát nữa báo mẹ sẽ nhận được món quà tôi dành cho nó.

Lúc ấy tôi không hề biết rằng chẳng bao giờ mình còn gặp lại báo hoa nữa. Nhưng sự kiện tiếp theo trong mấy ngày sau đó đã chứng tỏ ở góc rừng già êm ả này, cuộc sống vẫn diễn ra hết sức nghiệt ngã theo đúng những quy luật có tự muôn đời.

Lúc đó là buổi sáng, chừng mươi ngày sau hôm mang con chồn tới cho báo mẹ, tôi đang ngồi trên nhà lau súng. Chiều hôm trước tôi gặp mưa ngoài rừng nên cả người và súng đều ướt sũng. Mặc dù hết sức sốt ruột với việc tìm kiếm, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn tự dành cho mình một ngày thong thả để nghỉ ngơi và tìm thêm thức ăn hoặc làm các việc lặt vặt khác. Sáng hôm đó trời đẹp, cả khu rừng ngập trong ánh nắng vàng óng. Tiếng chim hót xôn xao hòa với tiếng thác nước rào rào ngoài suối. Vạn vật say sưa trong cuộc sống thanh bình.

Đang định lắp lại các bộ phận súng vừa lau xong, tôi chợt nghe có tiếng kêu của lũ khỉ. Hơi ngạc nhiên vì biết hôm nay trời đẹp, cả nhà khỉ kéo nhau đi kiếm ăn từ sáng sớm, nhưng tôi vẫn ngồi lắp cho xong khẩu súng. Lát sau nghe tiếng chúng gần hơn, hình như lũ khỉ vừa chuyền cành về phía nhà tôi vừa kêu hoảng hốt. Đã quá quen với những âm thanh của gia đình láng giềng vốn lắm lời này, tôi nhận ra lũ khỉ đang giận dữ và hoảng sợ đến tột độ. Nhất định là có chuyện gì khác thường. Bước ra cửa, thấy lũ khỉ đu từ trên cành cây xuống đất chạy về phía tôi, dẫn đầu là khỉ già. Lúc này đã thấy rõ nỗi hoảng sợ của chúng. Cả năm con đều kêu chộn rộn, những tiếng lẹc khẹc líu lại với nhau đến nỗi nếu có biết tiếng khỉ, chắc tôi cũng chẳng nghe được là chúng nói gì. Nhìn lũ khỉ nhảy loi choi chạy tới chạy lui dưới chân cầu thang, tôi vừa buồn cười vừa thương hại. Chúng đang tự giận mình vì không biết cách làm cho tôi hiểu điều chúng muốn nói. Con khỉ già ôm đầu bứt lông nhăn nhó. Lát sau, nó cứ chạy về phía tôi vài bước rồi lại quay lưng chạy mấy bước về hướng chúng vừa tới, đầu ngoái nhìn tôi, đôi mắt như van lơn điều gì đó. "Đúng rồi...", tôi chợt hiểu. Lũ khỉ muốn tôi đi theo chúng. Chắc có việc gì khẩn cấp đây!

Tôi nhào vào nhà xách súng, vớ thắt lưng đạn nhảy xuống cầu thang, vừa chạy vừa cài vào người. Qua khỏi bãi cỏ lũ khỉ nhanh nhẹn đu lên cây, chuyền ào ào trên cành dẫn tôi chạy về phía đầu con suối. Được một quãng, tôi nhận ra mình đang chạy về hướng gia đình báo hoa. Đầu tôi nhói lên linh cảm chẳng lành. Tới gần gốc cây nơi mẹ con báo hoa ở tôi bước chậm lại, tuột súng cầm tay thận trọng rẽ lá quan sát Kia rồi! Trên vạt cỏ dưới gốc cây nơi hôm trước gặp mẹ con nhà báo, nay chỉ thấy một con báo con đang bò lui bò tới dáng ngơ ngác và hoảng hốt. Báo mẹ và một con báo con nữa đâu? Chắc có chuyện gì khủng khiếp xây ra, chứ báo hoa không khi nào bỏ rơi con như thế! Tôi nhẹ nhàng bước thêm mấy bước. Dù sao cũng phải cảnh giác. Nếu con báo mẹ bất ngờ trở về và hiểu lầm thì tôi còn oan hơn cả Thị Kính.

Tôi đá nhìn thấy những dấu vết đáng chú ý: phía bên kia gốc cây có một vạt cỏ nhàu nát. Cả những cành lá của bụi cây gần đó cũng tơi tả. Rõ ràng ở đây vừa có cuộc vật lộn quyết liệt. Tôi tới gần hơn và chợt nhìn thấy một vũng máu đang đen đặc lại. Bên cạnh vũng máu, có vệt lõm kéo dài trên lớp đất mềm... Thôi chết rồi! Con trăn mốc! Đây chính là những dấu vết của nó. Trăn mốc là cư dân thứ ba của góc rừng này, kẻ láng giềng mà tôi đang định nói tới.

Nhưng việc gì đã xẩy ra với mẹ con báo hoa? Tôi bồng chú báo con đang hoảng sợ lên, đăm chiêu suy nghĩ. Lũ khỉ nhấp nhổm trên cành, nãy giờ nín lặng nhìn theo từng động tác của tôi, lúc này cùng ồ lên, tranh nhau lẹc khẹc ầm ĩ. Con nào cũng làm ra vẻ ta đây biết nhiều chuyện nhất. Có thể lũ khỉ biết nhiều chuyện thật, nhưng chúng chẳng cung cấp được gì cho tôi cả. Tôi lại đi quanh tiếp tục tìm những dấu vết khác, cố hình dung sự việc vừa xẩy ra.

Ngay từ khi mới tới đây sống được vài tháng, tôi đã biết trong góc rừng này còn có một cư dân nữa, đó là con trăn mốc. Nơi ở của nó là cái khe cạn gần chân núi, cách chỗ con báo chừng nửa cây số. Cái khe này hai bên bờ cây thấp mọc um tùm, dưới lòng khe tối tăm vì ánh mặt trời không rọi tới có những tảng đá và những hang hốc đen ngòm ẩm ướt. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy dấu vết của trăn mốc là hôm đi qua đám cỏ gần bên khe cạn, bắt gặp mấy đống lổn nhổn xương của một con thú bốn chân nào đó. Những khúc xương tuy vỡ nát nhưng còn tươi, có khúc còn thấy vệt gân bám hồng hồng. Bên cạnh có mấy bãi lướt sướt màu đen bốc mùi tanh lợm. Vạt đất mềm gần bờ khe nhẵn thín. Tôi đoán nơi đây có một con trăn đang sống. Trăn rắn trong rừng chẳng thiếu, nhưng con trăn này to lắm, và nó sống ở đây đã lâu rồi.

Từ đó, mỗi lần đi qua khu vực này tôi lại hết sức cảnh giác. Cảnh anh Hùng bị trăn quấn còn in đậm ấn tượng kinh hoàng trong tâm trí tôi. Tuy vậy, mãi cho đến hôm nay tôi vẫn chưa giáp mặt nó lần nào. Nói chưa giáp mặt là hoàn toàn chính xác, vì có hai lần gặp nó nhưng chỉ kịp thấy khúc đuôi to tướng mốc thếch vút nhanh vào đám lá rậm. Đã quá biết sự nham hiểm của loài bò sát gớm ghiếc này, lại thêm hành tung của kẻ láng giềng đầy mờ ám, nên tôi chẳng có chút cảm tình nào với nó.

Nếu so ra thì trăn mốc hoàn toàn không xứng là đối thủ của báo hoa cả về tính cách lẫn khả năng chiến đấu. Nó có thể cuốn nát nhừ rồi nuốt trọn con nai nặng hàng tạ, nhưng không thể đọ nổi bộ răng và móng vuốt sắc nhọn được phát huy đến tuyệt đỉnh bởi giác quan nhạy bén, sức dẻo dai bền bỉ và phản xạ cực kỳ lanh lẹ của loài báo. Cùng với tài leo trèo như mèo, chạy nhanh như cọp, dáng vẻ uyển chuyển duyên dáng và bộ lông mượt mà của con báo đã làm cho nó xứng đáng là niềm kiêu hãnh của rừng già.

Trên đường về nhà, tôi ôm con báo nhỏ bé trong tay vừa bước vừa suy nghĩ. Nó không ngớt ngọ ngỵây, miệng kêu những tiếng não nuột. Bầy khỉ bỏ cả việc kiếm ăn hàng ngày, đang chuyền cành theo phía sau. Lúc này chúng chẳng thiết gì chuyện ăn uống. Sự việc thương tâm vừa xẩy ra khiến những cư dân của khu rừng vốn thanh bình này phải đau lòng và sửng sốt. Những dấu vết để lại trên hiện trường chứng tỏ mẹ con báo hoa bị hại bởi trăn mốc. Chắp nối các tình tiết, tôi hình dung sự việc diễn ra như sau:

Từ lâu, trăn mốc đã biết đến sự có mặt của con báo trong cánh rừng này. Đối với nó, con báo mềm mại kia là một miếng mồi ngon nhưng không thể với tới được. Nó tự biết mình không phải là đối thủ của báo hoa, và ở đây đâu thiếu con mồi. Nhưng do bản tính nhỏ nhen của loài bò sát, nó ganh tị với phong thái tự tin và đầy bản lĩnh của con báo. Trong khi luôn tìm cách tránh mặt, trăn mốc vẫn rắp tâm rình mò chờ cơ hội. Nó có thuận lợi vì con báo chẳng bao giờ xem nó là con mồi, cũng không nghĩ nó là kẻ thù.

Và rồi trong cuộc sống, có khi sự hèn hạ nhưng nham hiểm lại chiến thắng sức mạnh và lòng kiêu hãnh. Cơ hội mà trăn mốc chờ đợi từ lâu đã tới khi nó thấy báo hoa sinh con. Trăn mốc rình rập và ra tay, đúng hơn là bung thân ra để cuộn mẹ con nhà báo hoa lúc đang đùa rỡn với nhau. Con báo sau khi sinh nở, rồi trong những ngày chăm con mọn, đã có phần mỏi mệt và thiếu nhạy bén. Hơn nữa, nó quá say mê hai thiên thần của nó nên thiếu cảnh giác. Đúng ra khi phát hiện trăn mốc cuộn tới, báo hoa chỉ cần khẽ nhún mình là thoát khỏi vòng nguy hiểm, nhưng nó không nỡ để lại những đứa con. Khi nó vừa kịp cắp lấy cổ một con báo con thì trăn mốc đã siết cả hai mẹ con nó trong những vòng thân tanh tưởi. Con báo còn lại văng ra bãi cỏ. Lũ khỉ vừa tới kịp chứng kiến tội ác, bèn hốt hoảng chạy về báo tin cho tôi. Nếu không có chúng, tôi chẳng bao giờ biết được điều gì đã xây ra với mẹ con báo hoa.

Những điều kể trên chủ yếu dựa vào sự liên kết các tình tiết và có phần suy đoán, nhưng tôi nghĩ nó không xa sự thật bao nhiêu. Điều cần tính tới lúc này là làm sao chăm sóc cho báo con, và sau nữa, phải ổn định lại hòa bình ở góc rừng này. Nếu còn trăn mốc thì những cư dân khác, kể cả tôi đều luôn bị nguy hiểm rình rập. Cả ở nơi hoang dã, cuộc sống cũng cần phân biệt thù, bạn rạch ròi. Kẻ thù không thể chung cùng mảnh đất. Hơn nữa, tôi thực sự phẫn nộ trốn sự tấn công hèn hạ của trăn mốc. Nếu hai con vật đó đọ sức trong một cuộc đối đầu sòng phẳng thì chẳng nói làm gì! Lẽ công bằng phải được áp dụng cho muôn loài.

Về tới nhà, tôi lúng túng với chú báo con trong tay, chưa biết nên làm gì. Báo con đã ăn được gì chưa hay còn bú mẹ? Có lẽ phải làm cho nó một cái chuồng, nhưng trước hết phải cho nó ăn cái đã. Nãy giờ báo con kêu mãi, chắc vì đói.

Tôi lên nhà lấy bi đông mật ong róc một ít ra vỏ hộp thịt. Chẳng có cái thìa nào, tôi lấy chiếc đũa nhúng vào mật cho nó liếm. Nhưng mỗi lần đưa đầu đũa vào miệng là nó cứ nguẩy đầu né tránh, có khi còn đưa chân trước lên ẩy ra và lại không ngớt kêu béo béo nghe não cả ruột. Cuối cùng, tôi đành đặt nó trước mặt khỉ già rồi lấy dao đi làm chuồng. Lúc này mấy con khỉ lớn vẫn loanh quanh trước nhà, còn hai khỉ con thì đã leo lên cây đùa nghịch. Đúng là trẻ con bao giờ cũng vô tư.

Tôi định làm cho báo con một chiếc cũi bằng những thanh gỗ tròn như kiểu người ta xếp gỗ làm miệng giếng. Xuống dưới gầm sàn, tôi lôi ra được mấy thanh gỗ vừa ý, nhưng thấy chưa đủ nên xách dao vào rừng đốn thêm.

Khi vác bó thân cây về tới nhà, thấy chú báo đang nằm ngoan ngoãn trong lòng khỉ già. Con khỉ ngồi bệt trên cỏ, một tay ôm báo con, một tay đưa chiếc lá khô có dính mật ong cho nó liếm. Nhìn cái lưỡi nhỏ xíu đỏ hồng mềm mại liếm mật trên lá, tôi thầm phục khỉ già thông minh. Chắc chắn nó sẽ là trợ thủ đắc lực của tôi trong việc nuôi nấng đứa trẻ mồ côi này. Làm xong chiếc cũi, tôi đặt nó lên đầu sàn nhà, rải vào một ít lá khô rồi bỏ báo con vào đó. Sau khi được khỉ già cho ăn nó đã dịu lại, không còn kêu luôn miệng như trước. Tôi ra suối lấy nước, lúc quay lại thấy nó đã ngủ thiêm thiếp trên lớp lá khô, xinh xắn như một chú mèo con.

Tối đó tôi thao thức nghĩ cách trừng trị trăn mốc, mãi gần sáng mới chọn được một phương án tạm coi là tối ưu.

Tôi xách súng đi về phía rừng le với ý định bắn cho được một con thú lớn. Mùa này ở đó thường có lợn rừng tìm tới ăn măng. Sau mấy giờ rình mò, tôi cũng gặp được bầy lợn khoảng bốn, năm con. Tôi chọn bắn con nhỏ nhất, ước độ bốn chục kí. Con thú ngã vật ngay sau tiếng nổ, những con còn lại chạy biến trong rừng le. Tôi xốc con lợn lên vai trở về nhà.

Đến chiều tôi đem con lợn ra bờ suồl dùng dao xẻ một miếng lấy thịt ăn, rồi dùng dây buộc phần còn lại treo rút lên cành một cái cây mọc trơ trọi bên bờ suối để phơi nắng.

Ngày hôm sau, tôi ra hốc cây đa lấy khẩu AR15 có kính ngắm mang vào nhà. Mặc dù khẩu súng trông vẫn còn mới nguyên nhờ được lau chùi và bao bọc cẩn thận, tôi vẫn tháo ra lau kỹ từng bộ phận, tỉ mẩn kiểm tra độ nhạy của cò súng, lắp băng đạn vào kéo khóa nòng vài lần cho trơn tru. Khẩu này tôi đã thử, thấy rất chính xác: đặt nấc phát một bắn ba phát, cả ba viên cùng trúng chụm vào một điểm. Tôi còn lấy dao găm đem ra suối mài thật sắc, đút vào vỏ cài ở thắt lưng thay chỗ con dao rừng vẫn mang thường ngày. Trước mỗi trận đánh, sự chuẩn bị chu đáo không bao giờ thừa.

Ngày sau nữa, tôi dậy sớm, choàng thắt lưng đạn vào người, cài thêm chiếc xẻng nhỏ rồi xách khẩu AR15 ra bờ suối ở phương đông trời mới rạng, mặt trời chưa lên khỏi ngọn cây của cánh rừng phía bên kia đồi cỏ. Trên dòng suối vẫn còn một dải sương trắng mờ như khói. Tôi đến bên gốc cây cắt dây hạ xác con lợn rừng xuống. Qua gần hai ngày phơi nắng nó đã hơi sình lên và có mùi. Vác con lợn lên vai, tôi đi về hướng cái khe cạn chỗ trăn mốc trú ngụ. Quãng đường chỉ hơn cây số đường chim bay, nhưng nửa giờ sau tôi mới tới vì phải luồn rừng với con mồi trên vai.

Sau khi quan sát cẩn thận, tôi bước đến bên gốc cây thọc giữa đám cỏ, gác con lợn lên nhánh cây cao ngang ngực, dùng dây buộc chặt nó vào đó. Việc còn lại bây giờ là nhanh chóng chọn chỗ mai phục và kiên trì chờ đợi. Tôi khoác súng leo lên một cây có tán lá thưa mọc tách biệt với dải rừng xung quanh. Có khoảng trống sẽ an toàn hơn. Tôi không muốn mình trở thành con mồi của trăn mốc trong khi ngồi rình nó. Nghe nói loài trăn gió không chỉ kiếm ăn trên mặt đất mà còn leo cây bắt mồi rất nhẹn.

Điểm tôi chọn ở cuối hướng gió, là nơi mai phục khá lý tưởng. Từ đây tới chỗ con mồi, và đoạn bờ khe có vết trán bò là ba điểm tạo thành một tam giác cạnh khoảng sáu chục mét. Tôi ngồi trên nhánh cây to mọc ngang, dựa lưng vào thân cây, co chân trái lên nhánh cây để lấy điểm tựa và giương súng ngắm thử. Tốt rồi! Mọi việc đều ổn!

Chăm chú quan sát đoạn khe cạn, tôi thấy khó có thể nhìn được gì dưới lòng khe tối om ấy. Hy vọng tính toán của tôi đúng, tức là: con trăn đã muốn ăn lại nó phát hiện ra con mồi và lê mặt khỏi chỗ nấp. Khi đó việc quyết định là găm chính xác một viên đạn vào đầu nó. Tôi đã làm tất cả những gì có thể, còn kết quả bây giờ phụ thuộc vào việc đối thủ có chịu xuất đầu lộ diện hay không.

Hơn một giờ trôi qua. Cái khe trước mặt vẫn im lìm lặng lẽ. Tôi bắt đầu thấy tê mỏi vì ngồi bất động. Bao giờ cũng vậy, sự chờ đợi càng kéo dài càng căng thẳng. Kinh nghiệm cho biết, nếu không tự chủ tốt thì lát nữa tôi sẽ rơi vào trạng thái lơ mơ bất động như bị thôi miên bởi những âm thanh đơn điệu đều đều của rừng vắng. Tôi buông lỏng các cơ bắp và thỉnh thoảng nhìn ra những điểm xa gần khác nhau cho mắt khỏi bị mỏi.

Gần trưa, tôi đã thấy sốt ruột. Và chẳng hiểu từ đâu, một nỗi lo lắng mơ hồ len vào suy nghĩ làm tôi cảm thấy hoang mang. Không biết mình có phạm phải sai lầm nào không? Có phải con mồi lộ liễu làm trăn mốc cảnh giác? Hay lúc này nó không có ở dưới khe? Nghe nói con trăn ăn một bữa nhịn được cả tháng? Hay cũng như loài rắn, nó không phát hiện ra nếu con mồi bất động hoặc không có thân nhiệt? Nếu đúng vậy thì chỉ còn trông trăn mốc "trình độ" hơn đồng loại... Tôi chẳng mấy hiểu biết về loài trăn, cũng chưa nghe ai kể chuyện săn trăn ngoài chuyện Thạch Sanh chém trăn tinh trong cổ tích. Nhưng con nào chưa biết, chứ trăn mốc tham ăn là cái chắc. Mà báo hoa thuộc giống tiểu báo không to con cho lắm, đối với trăn mốc chỉ lưng lửng dạ..." Ngay từ đầu mình đã tính tới việc thất bại, nhưng cả trong trường hợp đó cũng không được nản. Tất cả đang còn ở phía trước. Mình sẽ kiên trì ngồi đây suốt ngày hôm nay và nếu cần, cả những ngày tiếp theo. Không thể chịu thua nó! Không trừ nó trước, sẽ có lúc mình trở thành con mồi của nó trong một lần luồn rừng nào đó..."

Nhìn đám lá um tùm trên khe cạn, tôi nhận ra từ sáng tới giờ chưa có con chim nào đậu lên đó, mặc dù các nơi khác trong rừng đều nghe tiếng chim hót. Cái khe lạnh lẽo đang toát ra tử khí. Chắc chắn trăn mốc có ở dưới đó, và nó sẽ mò ra.

Lúc này nắng đã gay gắt. Những tia nắng xuyên qua tán lá thưa chiếu tới bên vai làm lớp vải áo nóng lên, mồ hôi bắt đầu đổ giọt trên mặt. Có tiếng động khẽ trong tán lá trên đầu làm tôi giật mình nhìn lên. Thì ra một chú sóc bay từ cành cây gần đó liệng tới. Cánh rừng này có rất nhiều sóc bay. Những con sóc bé nhỏ có màng mỏng nối bốn chân với thân nên chúng có thể liệng từ cây này qua cây khác như chim. Sóc bay rất hiền lành, suốt ngày lúc nào cũng tỏ ra tất bật bận rộn. Tôi thấy vui vui. Ít ra lúc này mình cũng có con sóc làm bạn, chứ không như đối thủ, ngay cả một con chim cũng không dám đến gần...

Mặt trời gần tới đỉnh đầu. Đang định đổi lại tư thế ngồi cho đỡ mỏi, chợt cảm thấy trong lòng khe có sự chuyển động mơ hồ nào đó nên tôi căng mắt nhìn. Một phút... hai phút... rồi ba phút. Vẫn chưa thấy gì? Nhưng tôi tin ở cảm nhận của mình. Kia rồi! Có vài chiếc lá khẽ rung. Không phải gió. Những chiếc lá này ở sát mặt đất. Và trong đám lá đó, một cái đầu trăn hiện ra, rất nhẹ, rất êm! Cứ như nó đã có sẵn ở đó từ trước. Con trăn đang nghe ngóng động tĩnh.

Thêm mấy phút nữa. Tôi ngồi im như dán vào thân cây tay nắm hờ khẩu súng gác trên đùi, cố điều hòa hơi thở để làm dịu sự hồi hộp. Chắc không thấy gì dáng ngờ nên con trăn trườn thêm một quãng, ra khỏi đám lá được hơn mét. Cái đầu tam giác bè bè bắt đầu ngỏng lên, nhìn rõ cặp mắt tròn giống hai hòn bi ve. Nó ngoác miệng, cái lưỡi gớm ghiếc thò ra thụt vào như đánh hơi. Và có lẽ đã nhìn thấy con mồi, nó trườn nhanh về hướng đó, toàn thân nó lên hết bờ khe hiện rõ trước mắt tôi. Lớp da có những hình lục giác tứ giác màu đen màu xám loang lổ cuồn cuộn như dòng chảy trên đám cỏ, vài chiếc vảy chốc lại lóe ánh mặt trời. Tôi hít một hơi dài, từ từ nâng súng lên.

Khi cái đầu con trăn hiện rõ trong kính ngắm thì nó chợt dừng lại. Tôi ngừng thở. "Không lẽ nó phát hiện ra những cừ động của mình..." Trăn mốc còn cách con mồi chưa tới bảy mét, đầu ngóc cao dần. Trong kính ngắm, tôi nhìn rõ cặp mắt nó như lồi ra. Nó đang thôi miên con mồi hay bị miếng mồi ngon thôi miên? Phần thân trăn nằm trên mặt đất co lại: chiếc lò xo đang nén. Đã đến lúc? Tôi nhanh chóng đưa một "hòn bi ve" vào tâm chữ thập của thước ngắm và bóp cò. Phát súng nổ đanh gọn. Cái đầu con trăn đang ngóc cao bỗng gập xuống như bị ai phang một cú trời giáng. Cùng lúc, tấm thân dài thượt của nó bung ra như văng khỏi mặt đất. Tôi hạ súng, sững sờ nhìn con trăn lồng lộn giãy chết. Cảnh tượng trông thật khủng khiếp! Cả thân hình nó lởm chởm vảy, lúc cuộn lại thành một nùi thịt khổng lồ, lúc bung ra quằn quại. Khúc đuôi nặng nề vật vã quật liên hồi làm cả vạt cỏ rộng nát nhừ. Từng đoạn thân nó uốn éo cong vồng, lôi theo cái đầu bết máu lê trên dết. Phải hơn mười phút sau con trăn mới thôi vùng vẫy. Nó nằm đừ trên đám cỏ nhàu nát, những thớ thịt trên mình vẫn còn giật giật.

Đến lúc này người tôi mới hết co cứng, các cơ bắp chùng lại. Tôi nhắm mắt ngả đầu tựa vào thân cây, buông thòng chân xông đất. Cảm giác mệt mỏi dễ chịu lan khắp toàn thân...

Một tiếng chim đột ngột hót vang trong vòm lá trên đầu làm tôi choàng tỉnh. Tôi ngồi lơ mơ chưa lâu, nhưng những phút thư giãn đó đã giúp đầu óc tỉnh táo hẳn. Tôi đóng khóa an toàn, khoác chéo súng sau lưng ôm thân cây tuột xuống, cà nhắc mất một lúc vì chân trái tê cứng. Khát khô cả họng. Ban sáng tôi cố ý không mang theo bi đông nước, sợ khi ngồi phục không nhịn được lấy ra uống sẽ gây cử động dễ lộ.

Bóng cây đã tròn lại. Sau những phút vắng lặng, giờ đây cả khu rừng lại râm ran tiếng chim, những âm thanh líu lo vang mãi lên tầng trời xanh thẳm.

Tôi đến bên xác con trăn. Lúc này mới thấy trăn mốc to kinh khủng. Toàn thân nó phải dài hơn chục mét, vòng bụng to như cột nhà. Con này có gọi là "trăn tinh" cũng không ngoa? Viên đạn găm trúng con mắt bên phải xuyên ra sau làm toác một lô còn rỉ máu trên đầu nó.

Nhìn cái xác khổng lồ của trăn mốc, tôi thở dài. Phải chôn thôi! Nếu không cả góc rừng này sẽ thối hoắc hàng tháng trời. Tôi rút xẻng đưa mắt nhìn quanh chọn chỗ đất liềm để đào hố.

Mất hơn một tiếng đồng hồ mới đào xong cái hố đủ chôn xác con trăn. Mồ hôi tuôn ướt đẫm cả áo nên tôi càng khát tợn, nhưng không thể bỏ đi tìm nước. Sáng đi vội chưa kịp cho báo con ăn, giờ chắc nó đang gào khản cổ ở trong cũi. Tôi cắt một đoạn dây rừng buộc thành thòng lọng lừa vào cố con trăn thít lại, gắng sức kéo xác nó tới bên miệng hố. Nặng quá, chẳng nhúc nhích được mấy! Tôi phải chặt một nhánh cây làm nạng, hì hục đẩy từng khúc cho nó khoanh gọn trong hố, lùa đất đầy rồi dùng chân giậm kỹ. Chẳng bao lâu nữa cỏ sẽ mọc lên.

Tôi quay trở về rất nhanh, ra thẳng suối uống nước rồi vội vã lên nhà. Điều nhìn thấy trước mắt làm tôi nhẹ người. Bầy khỉ đang chơi đùa với báo con dưới chân cầu thang. Nhìn chú báo, không ai nghĩ nó bị bỏ một mình suốt ngày nay. Báo con đang dùng chân trước vờn một trái cây chín đỏ mà lũ khỉ hái về cho nó. Hai khỉ con nhảy nhót xung quanh, mở to đôi mắt tò mò nhìn những động tác vụng về của người bạn bé nhỏ nhưng đã có dáng đĩnh đạc hơn hẳn chúng. Tôi nhẩm tính, thấy báo con ít ra cũng vài tháng tuổi. Ở quê tôi, chó con một tháng người ta đã đem về nuôi.

Hơi ngạc nhiên khi mấy con khỉ lớn nhìn tôi vẻ khép nép và sợ sệt, nhưng vì vội nên tôi không chú ý lắm. Bước lên cầu thang, thấy những khúc gỗ chặn trên cũi bị kéo lệch sang một bên. Chắc khỉ già nghe báo con gào nên dỡ ra để bế nó xuống. Tôi lấy bi đông mật ong rót một ít ra vỏ hộp thịt, đem tới bỏ trước mặt khỉ già rồi xuống suối tắm. Nó đã biết cách cho báo con ăn như thế nào. Cởi quần áo dìm xuống nước, tôi bỗng hiểu ra là mùi của con lợn rừng và con trăn còn vương trên người tôi làm cho lũ khỉ sợ hãi. Tôi lội xuống đứng dưới thác. Nước chảy ào ào trên người, mát lạnh đến rùng mình.

Lúc từ dưới suối lên thì trời đã gần tối. Dưới phân cầu thang chỉ còn mình khỉ già với báo con. Chỗ mật trong vỏ hộp hết nhẵn, rõ ràng có sự tham gia của hai nhóc khỉ. Tôi ẵm con báo lên và xoa đầu khỉ già. Lần này nó không né tránh nữa.

Bữa tối, tôi tự thưởng cho mình bằng cách mở hẳn một hộp thịt nấu cháo với gạo sấy. Số gạo còn lại trong bao sáng mai sẽ nấu cơm đãi lũ khỉ. Món cháo thịt hộp ngon vô cùng! Đã lâu rồi nay tôi mới ăn lại những thức ăn có gia vị đậm đà mà con người thường dùng. Tôi cũng dành cho con báo ít cháo. Nó ăn nhưng có vẻ không được ngon miệng cho lắm. Tôi đến tôi ôm con báo vào ngủ trong nhà. Nó cứ rúc vào người tôi tìm hơi ấm, bộ lông mềm mại như một cuộn bông.

Tôi chỉ bận rộn với báo con trong khoảng một tuần, còn sau đó mọi việc trở nên dễ dàng hơn khi nó ăn được những miếng thịt tươi xé nhỏ. Rồi đến hôm thấy nó leo được lên cái cây trước nhà và nằm gọn ghẽ trên nhánh cây thì tôi hoàn toàn yên tâm. Báo con biết leo trèo sớm như vậy, có lẽ phần do bản năng, phần nhờ những bài tập vỡ lòng của mẹ. Con báo hoa đã không chần chừ khi dạy những điều cần thiết cho lũ con non nớt. Nó biết ở nơi hoang dã, mọi việc đều có thể xẩy ra

Chương XIV

Mùa thu năm ấy đã trôi qua như thế. Ngoài vụ trăn mốc ra, mọi việc đều bình thường. Tôi vẫn miệt mài đào bới sàng đãi hết ngày này qua ngày khác. Tôi còn làm thêm chiếc đục và gặp tảng đá nào cũng đục thử một miếng. Chẳng qua là để ngắm nghía rồi vứt đi chứ đâu nhìn thấy chút vàng nào.

Mùa đông ở đây thật lạ! Những ngày nắng thì ban ngày mặt trời đổ lửa và đêm đến lạnh buốt da thịt, còn lúc mưa lại mưa tầm tã, chẳng có chút mưa phùn nào. Đôi khi tôi chợt nhớ cồn cào làn gió heo may se lạnh thổi lăn tăn mặt nước ao bèo, hay một buổi sáng mai thức dậy thấy gió mùa đông bắc về đêm qua rung lá vàng rơi đầy ngõ, mưa phùn lấm tấm nền trời. Mỗi khi tiết trời thay đổi, lòng người thường chạnh nhớ tới bao điều...

Ngày tháng cứ nối nhau trôi đi. Tôi biết mùa xuân tới khi nhìn thấy cây rừng trổ lộc mơn mởn. Mấy loài cây rụng lá trơ trụi trong suốt mùa đông giờ đang nhú những búp chồi non tơ. Cỏ mọc xanh rì ngoài đồi. Buổi sớm, khi mặt trời vừa lên và sương còn chưa tan, đã thấy từng đàn thú ra đồi gặm cỏ. Hoa dại thi nhau nở rộ làm ong bướm dập dìu suốt ngày. Mùa xuân đem sức sống mới cho muôn loài trong rừng. Chẳng biết ngày tết trôi qua khi nào nữa! Mà tôi cũng cố tình không nghĩ tới. Càng nghĩ càng nhớ nhà, nhớ quê, nhớ đồng đội, nỗi nhớ nhiều lúc da diết đến rưng rưng nước mắt. Những ngày cô đơn lủi thủi trong rừng càng làm tôi thèm được nghe một tiếng nói, một giọng cười. Rừng dù đẹp đến đâu cũng không làm nguôi được nỗi khao khát tình người.

Bầy khỉ ngày nào cũng kéo nhau đi từ sáng sớm. Chúng vừa đi kiếm ăn vừa rong chơi cho thỏa những ngày mưa rét phải nằm chúi đầu trong hốc cây. Báo con lớn nhanh như thổi. Bộ lông nó mượt mà hẳn lên, những chấm đen đều đặn nổi bật trên nền vàng tươi óng ả. Đến giữa rùa xuân thì nó biết tự kiếm ăn. Lần dầu tiên tôi thấy nó tha về một con chim lớn đã ăn hết một nửa, nửa còn lại nó để ở đầu sàn, chắc có ý dành cho tôi. Tôi đem con chim đó ra treo trên cây, đến chiều lại ném cho nó ăn. Thấy báo con tự lập được là mừng rồi, chứ tôi nào trông nó trả ơn.

Tôi vẫn để con báo ngủ ở ngoài hiên, nơi lúc trước đặt cái cũi. Nhưng vào mùa này, nó thường leo lên nằm trên nhánh cây trước nhà. Con báo không chịu được mùi khói, tuy rằng nó rất mê món cá nướng. Nhiều hôm nó mò ra suối bắt cá nhưng chỉ đứng trên bờ hoặc lội xuống quãng nước nông dùng chân trước chộp những con cá ngây ngô bơi lên chỗ cạn. Loài báo vốn không thích nước. Mấy lần tôi phải ôm báo con vứt xuống suối và tắm cho nó. Về sau nó cũng quen dần.

Báo con ngày càng mến tôi hơn, tuy nó không biết cách vẫy đuôi cuống quít hay vồ vập mừng rỡ như loài chó nuôi trong nhà. Cũng như những người ít nói thường thiên về đời sống nội tâm, tình cảm ít bộc lộ ra bên ngoài. Những lúc báo con tới dụi đầu vào người tôi, trong mắt nó thể hiện sự trìu mến chân thành và hình như có cả lòng biết ơn. Đôi tròng mắt nó có màu vàng chanh, đốm con ngươi đen tròn nhỏ xíu. Dù sao nó cũng có vẻ chín chắn già dặn hơn lũ khỉ. Không biết đó có phải là đặc tính của loài báo, hay dáng vẻ thường thấy ở những đứa trẻ sớm mồ côi?

Dạo này báo con thường theo tôi đi rừng. Trong lúc tôi cặm cụi đào đãi thì nó quanh quẩn săn mồi gần đó. Một hôm, khi đi ngang qua dải rừng non trước nhà, nó chợt nhảy ra trước tôi gầm gừ. Tôi nhìn lên và thấy một con rắn đang vắt vẻo trên nhánh cây đổ xuống chắn lối đi. Từ đó tôi biết mình đã có một vệ sĩ đáng tin cậy. Tôi đặt tên cho nó là Aga. Không Phải vì sính chữ Tây chữ Tàu gì đâu, chẳng qua tôi thấy vần A khi gọi trong rừng vang rất xa. Ai chưa tin, xin cứ vào giữa rừng sâu mà gọi thử: A... a... a... ga... a... a... a...

Thấm thoắt đã tới mùa hè. Đây đó thấp thoáng những trái cây chín ửng. Không khí thoảng thơm mùi mật ngọt. Ở lâu trong rừng, chỉ cần ngửi hương rừng, nghe chim hót là biết mùa hè tới. Đừng có tin lũ ve, chúng kêu ra rả ngay từ những ngày nắng nóng giữa mùa xuân. Tôi bỗng thấy nôn nao khi nghe tiếng chim cu quen thuộc. Tiếng chim gù đánh thức bao nỗi nhớ. Rồi còn tiếng gà rừng gáy te te mỗi buổi trưa...

Đến ngày giỗ anh Sơn, tôi ngậm ngùi đốt mấy khúc trầm tưởng nhớ tới anh. Dù không mê tín, nhưng tôi cũng khấn thầm mong anh phù hộ cho tôi tìm ra vỉa quặng. Giá như anh còn sống, công việc dễ dàng hơn biết bao!

Rồi tới ngày anh Đằng và anh Hùng ra đi, tôi lại về ngồi bên mộ. Mới đó mà đã một năm tròn. Những ngày đơn độc trong rừng thật dài, nhưng khi nghĩ tới chuyện cũ thì tưởng như nó vừa qua. Tôi nhớ lại lúc anh Hùng ngã gục trên người anh Đằng và nước mắt lại trào ra, trong tai như còn nghe tiếng đạn nổ, tiếng máy bay gầm rú... Cỏ đã mọc xanh trên những hố đạn nhưng nỗi đau vẫn chưa hề nguôi ngoai...

Thỉnh thoảng đi ngang qua chiếc trực thăng, tôi cũng ghé vào đốt mấy miếng trầm bên mộ viên phi công và hai người lính ngụy. Với tôi giờ đây họ không còn là kẻ thù. Chẳng phải tôi đã thay đổi cách nhìn nhận, đơn giản lúc này họ chỉ là những khúc xương khô dưới mộ. Tội nghiệp cho họ, những kẻ đã uổng phí cuộc sống của mình để giờ đây nắm xương tàn không ai biết đến... Mà cũng lạ! Từ đó đến nay chẳng có chiếc trực thăng nào tới đây. Lâu lâu mới nghe tiếng máy bay ù ù tít trên cao, đôi lúc chúng để lại một vệt khói thẳng băng, lát sau gió thổi hóa thành mây.

Ngày ngày tôi vẫn mỏi mắt ngóng về phía ngôi mộ, về cây thủy tùng, trông chờ một toán TK tiếp theo. Đôi lần nhìn thấy vài bóng đen di động xa xa, đưa ống nhòm lên lại chỉ có mấy con thú.

Tôi sẽ không nói nhiều về mùa hè năm ấy. Có gì đâu mà nói! Chẳng lẽ cứ tả mãi những cảnh vật đã có lần nói tới hay kể lể nhưng công việc lặp đi lặp lại hàng ngày: đào, đãi, đổ đi rồi lại đào đãi... Nhưng đến đầu tháng sáu thì tôi đào bới hết mọi suối, khe, chỗ trũng của cánh rừng phía bắc vùng đồi cỏ, vào tới chân dãy núi thấp. Nhiều lần tưởng đã nhìn thấy một vảy vàng lấp lánh trong đám cặn dưới cùng của mẻ đất, nhưng không phải. Đó chỉ là hạt cát bình thường lóe nắng. Đôi lúc tôi tần ngần hàng giờ với một khúc suối đầy đá cuội, nhặt lên ngắm nghía hết hòn này đến hòn khác, mài mài gõ gõ, rồi vứt đi, lại nhặt... Hòn nào trông cũng na ná cục vàng trong tưởng tượng, bỏ qua sợ sót. Nếu có ai thấy tôi nhưng lúc này, hẳn sẽ nghĩ đấy là một kẻ điên từ xã hội loài người lạc lối tới đây. Ngay cả chỗ ở lúc trước của trăn mốc tôi cũng không bỏ qua. Cái khe cạn âm u đến rùng rợn. Tôi phải ném xuống mấy quả lựu đạn mới dám đào đãi, nhưng vẫn chẳng thấy gì.

Tôi như con dã tràng núi ngày ngày làm mãi một công việc vô vọng. "Dã tràng xe cát biển đông, nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì..." Câu hát ru quen thuộc của thời thơ bé, giờ đây cứ văng vẳng trong đầu như một lời than thở.

Lại một mùa mưa nữa sắp tới. Nhưng đám mây mọng nước đã ngấp nghé trên cao và tiếng sấm ì ùng văng tới từ xa. Tôi phải ngừng việc mấy ngày để đi lấy củi dự trữ và bắn một con lợn rừng về xẻ thịt nướng sấy khô. Lương khô gạo sấy đã hết, chỉ còn một ít túi khẩu phần ăn. Muối cũng không còn nhiều nên bây giờ phải dùng hết sức tiết kiệm. Tôi cũng phơi được ít măng le. Còn mộc nhĩ thì khá nhiều, tôi xâu lại treo trên bếp. Những thức đó có thể để lâu được.

Mùa mưa thứ hai trong rừng trôi một cách chậm chạp và buồn bã. Ngoài cái buồn của những ngày mưa trắng trời trắng đất mà phải thui thủi một mình nơi rừng sâu, còn có sự thất vọng ngấp nghé trong tiềm thức. Tuy vậy lúc nào tạnh tôi lại vào rừng. (Ấy là nói văn vẻ thế thôi, chứ tôi đã ở giữa rừng rồi, còn vào, ra gì nữa!). Với niềm hy vọng ngày càng mong manh, tôi tiếp tục đào đãi những nơi nghi bỏ sót, chỉ thỉnh thoảng mới nghỉ một buổi để kiếm thức ăn. Lũ khỉ mùa này cũng đói. Nhiều lúc tôi phải chia cho chúng các thứ kiếm được trong rừng.

Những đêm không ngủ, nằm nghe tiếng mưa rơi triền miên ngoài rừng mà buồn đến nẫu ruột. Những lúc đó tôi nghĩ vẩn vơ đủ thứ chuyện, nhưng cuối cùng mọi ý nghĩ lại quay về với câu hỏi: "Phải chăng đã đến lúc trở về?"

Mới ba giờ chiều mà trời u ám như sắp tối. Những đám mây là là lướt qua ngọn thuỷ tùng. Từ bìa rừng, sương đang lan dần ra đồi cỏ. Tính theo ngày tháng thì bây giờ là mùa thu, nhưng cảnh vật ở đây ảm đạm như đang giữa đông.

Tôi ngồi dưới một gốc cây cổ thụ cụt ngọn mọc trên đỉnh dốc, buồn rầu nhìn về hướng đồi cỏ. Từ đây tới rìa đồi, chỗ cái khe cạn mà hơn năm trước tôi khởi sự việc đào đãi, chỉ cách vài trăm mét.

Từ sáng tới giờ tôi lang thang trong rừng, chốc chốc lại đào bới chỗ này chỗ khác đem đất đi đãi. Thực ra tôi làm mọi việc như một thói quen, như quán tính, chứ trong lòng không còn hy vọng gì nữa. Tôi cay đắng nghĩ tới sự bất lực của mình. Cũng tại tôi quá ngu dốt, không biết cách tình kiếm. Nhưng tôi nào có được học hành gì về việc này? Có ai chỉ bảo cho tôi đâu? Nếu là anh Sơn, anh sẽ làm gì nhỉ?

Thôi! Giờ phải tìm cách quay về. Tôi đã làm hết khả năng của mình. Dầu sao, việc tìm tới được đây cũng là tốt rồi. Anh Hai Nguyên chẳng đã nói "Sự trở về của các đồng chí là một thắng lợi đó sao? Phải về báo cáo với anh, và còn kể cho mọi người biết ba thành viên của TK1 đã hy sinh như thế nào. Mà chắc gì có mỏ vàng? Cái thứ máy móc bay trên độ cao mấy chục ngàn mét, cho dù nó hiện đại đến đâu hẳn cũng có lúc sai sót, nhầm lẫn gì đó...

Sự thất vọng làm tôi chán nản đến cực độ. Đúng là tôi đã làm hết sức, nhưng trong thâm tâm vẫn thấy mình có lỗi với các anh, những người đồng đội đã chết cho tôi được sống, những người mà trước lúc hy sinh đã gửi lại nơi tôi biết bao hy vọng... Chẳng lẽ bây giờ tay không trở về? Nhưng biết làm gì hơn? Sau này, chắc tổ chức còn cử người tới đây nữa, những người có kinh nghiệm và thạo việc, chứ tôi đành bó tay...

Tôi nhắm nghiền hai mắt lại cho nước mắt khỏi trào ra. Một con sóc chạy vụt qua chỗ tôi ngồi, lao tới bụi cây trước mặt. Nó leo lên mảnh vỏ cây quăn queo rồi dừng lại, quay mình đứng trên hai chân sau giương đôi mắt tròn xoe nhìn tôi. Nó rung rung mấy sợi ria mép như ngạc nhiên, như muốn hỏi rằng vì cớ gì mà một kẻ như tôi lại ngồi rầu rĩ ở đây? Tôi bứt cọng cỏ đưa lên miệng nhấm, lơ đãng nhìn con sóc rồi quay mặt đi nơi khác. Lúc này nó có hỏi bằng tiếng người tôi cũng chẳng buồn trả lời. Đầu óc tôi đờ đẫn, những ý nghĩ trôi qua một cách máy móc.

Một hơi thở nóng hổi phả vào gáy tôi. Báo Aga vừa đi đâu về. Nó nhìn tôi và xoài hai chân trước nằm xuống bên cạnh. Con báo biết tôi đang buồn.

Gió thổi mạnh hơn, những đám mây bay vùn vụt. Đêm nay trời sẽ mưa. Về nhà thôi, Aga! Tôi vuốt đầu nó, định đứng dậy. Nhưng có cái gì đó níu tôi lại. Không! Chẳng phải sức mạnh vô hình thần bí nào đâu, chỉ là một ý nghĩ vừa bật lên trong đầu báo rằng tôi đã nhìn thấy vật gì đó. Chưa nhớ được là vật gì, nhưng tôi có cảm giác lạ lắm Vật đó in vào mắt, bộ não thu nhận nhưng chưa xử lý. "Mà nãy giờ ngồi đây mình đâu thấy gì lạ? Xem nào...". Cố tập trung tư tưởng, tôi lướt nhanh một loạt những gì nhìn thấy từ lúc ngồi xuống đỉnh dốc này. "Cái cây cụt ngọn, mây... cây thủy tùng... những đồi cỏ... gió... cái khe cạn..., và con sóc nữa? - Tim tôi bỗng đập gấp - Con sóc? Nó chạy qua rồi đứng lại nhìn mình... Sóc thì đâu có gì lạ, ngày nào mà chẳng gặp? Không phải vì con sóc... Khoan đã! - Đầu tôi căng lên - đúng rồi, con sóc dừng trên mảnh vỏ cây!". Tôi lướt mắt tìm nhanh mảnh vỏ cây mốc meo nằm sát gốc lùm cây trước mặt, chỉ cách độ bảy mét. Và tôi từ từ đứng dậy, từ từ đi tới..., mắt nhìn chằm chằm như sợ nó biến mất. Mảnh "vỏ cây" này lạ lắm! Nó quăn queo không tự nhiên! Chẳng phải vỏ cây! Đây là sản phẩm do con người làm ra!

Tôi ngồi xuống bên nó, chưa dám sờ tay vào, sợ phải cầm lên đúng mảnh vỏ cây thật. Nhưng không! Một mảnh kim loại! Nó móp méo hoen rỉ nhiều chỗ. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, đây là mảnh xác máy bay. Nó có ở đây lâu lắm rồi, thời gian và mưa gió đã làm nó mục nát.

Cầm mảnh kim loại trong tay, người tôi run bắn lên. Bộ não vùn vụt hoạt động hết công suất. Nó tập hợp một loạt những thông tin có liên quan ghi nhận được từ trước đến giờ, rồi phân tích, sàng lọc, loại bỏ, tổng hợp lại: Vỉa quặng vàng... Tập trung một nơi... hàm lượng cao... Nhật thu giấu... xa đường giao thông... "Tôi rất ngạc nhiên khi có vỉa quặng vàng được phát hiện qua vệ tinh..." Tôi chợt nghĩ đến lời anh Sơn nói hôm nào.

Tôi vụt đứng dậy nhìn quanh, người bừng bừng như đang sốt cao độ. Trước mặt là vạt rừng rậm cây cối um tùng. Tôi đi qua đây nhiều lần nhưng chỉ chú ý cái khe cạn và những chỗ trũng. Vạt cây rậm này không rộng lắm, lại mọc trên đám đất nhô cao như mỏm đồi nên tôi chẳng vào đó làm gì. Nhưng bây giờ tôi tin chắc điều mình cần tìm dang ở trong đó. Lần này không phải là linh cảm. "Mảnh vỏ máy bay! Một chiếc máy bay rơi ở đây! Rơi đã từ lâu!" Đó là những gì mà bộ não đã xác định được. Và nó đưa ra dự đoán là chiếc máy bay này chở vàng.

Tay xách súng tay cầm dao, tôi hồi hộp vạch lá đi tới. Được mươi bước thì gặp những mảnh kim loại khác. Càng phấn chấn hơn, tôi vung dao chém cành lá hăm hở bươn lên. Lát sau tôi đã nhìn thấy toàn cảnh chiếc máy bay rơi: một đống kim loại nát vụn trên phủ đầy những cây dây leo, cùng nhiều mảnh vỡ văng rải rác xung quanh. Có cả chiếc chong chóng bốn cánh nhô ra bên ngoài đám lá rậm rạp và cái bánh máy bay bằng cao su, đạp lên thấy mủn tơi.

Đang tính leo vào giữa đống kim loại, chợt con Aga chồm tới trước nhe răng rít lên. Tôi nhìn tới và lạnh buốt xương sống: một con rắn đang ngóc cao đầu dừ dừ như định thốc tới mổ, chỉ cách có mấy bước. Thả rơi cây dao, tôi nâng súng bắn nhanh như máy. Loạt đạn găm trúng vào cổ con rắn làm phụt ra những tia máu. Nó từ từ tụt xuống, mất hút trong đống kim loại. Hú vía! Nếu không có con báo chắc tôi đã mất mạng một cách oan uổng vào giây phút quan trọng này.

Tôi nhặt đoạn thân cây to bằng cổ tay dài hai mét, rồi vừa chọc vừa bẩy những mảnh xác máy bay. Sau vài chục phút hì hục, tôi nhặt được một thỏi kim loại nặng trĩu hình khối chữ nhật, mặt trên hơi nhỏ hơn so với mặt dưới. Lau qua bụi đất, ánh vàng kim loại hiện ra mờ mờ. Tôi lùi lại một quãng, ngồi thụp xuống và hối hả dùng vạt áo cọ sạch. Đúng là vàng thật rồi! Không thể nhầm được! Rưng rưng nước mắt, tôi nhìn xoáy vào thỏi vàng trước mặt. Trên bề mặt của nó có những con số và dòng chữ lạ kiểu chữ tượng hình, nhưng lúc này tất cả nhòa đi trong mắt tôi. Tôi ngỡ mình nằm mơ, đầu óc tràn ngập một cảm giác kỳ lạ như đang bay bổng chơi vơi giữa bầu trời lóe sáng muôn ánh hào quang rực rỡ. Rồi mọi cực khổ đau đớn, mọi hy sinh mất mát trong cả quãng thời gian dài, nay hiện lên thành hình ảnh lướt vùn vụt trong đầu như những thước phim quay nhanh. "Các anh ơi, giờ đây các anh có thể yên lòng nhắm mắt..."

Một ngọn gió mang hơi lạnh thổi tới hun hút, kéo tôi ra khỏi trạng thái choáng ngợp. Trời sẩm tối rồi, lúc này chưa thể làm gì hơn được. Tôi bỏ thỏi vàng vào ba lô, luồn khỏi vạt rừng rậm, băng qua đồi cỏ để về nhà cho nhanh. Báo Aga sải bước đuổi theo.

Tối hôm ấy tôi không ăn được gì, và suốt đêm không hề chợp mắt. Sự phấn khích đến tột độ làm thần kinh căng thẳng, người lúc nào cũng ngây ngấy sốt. Tôi hết ngồi xuống lại đứng lên, bước tới bước lui trong căn nhà hẹp. Những thanh gỗ sàn kêu ken két dưới chân. Đêm dài quá, mãi chẳng thấy sáng. Mà hình như chiếc đồng hồ trục trặc làm sao ấy! Mấy cái kim quay chậm rì rì. Không tin nó nữa, lúc lúc tôi lại ghé mắt nhìn ra của. Ngoài trời tối om. Rừng khuya vẫn tiếng thú chạy sột soạt trong bụi cây, tiếng chim ăn đêm buồn bã kêu hết góc rừng này đến góc rừng khác và con thác nhỏ rì rào không dứt... Đã bao đêm nằm nghe những âm thanh ấy, nhưng đêm nay mỗi tiếng động đều làm tôi bồn chồn. Nỗi xúc động bùng lên rừng rực từng lúc khiến tôi ngây ngất như say. Hàng ngàn ý nghĩ quay cuồng trong đầu mà không có điều gì rõ nét. Mãi khuya lắm, tôi mới dần trấn tĩnh lại được để hướng những suy nghĩ về công việc cần làm ngày mai.

Chắc chắn trong đống xác máy bay còn có những thỏi vàng khác, nhưng muốn biết bao nhiêu thì phải lấy ra. Và rắn cũng thế, không chỉ có một con. Lạ thật! Hình như ở đâu có kho báu là ở đó có rắn. Có một cuốn truyện nào đó đã nói về đàn rắn thần giữ kho báu. Tôi không tin những chuyện thần bí, nhưng rắn ở đây thì có thật. "Hay cứ để nguyên mọi thứ như vậy? Mình phải mất hơn năm nay mới tìm thấy, kẻ khác dễ gì phát hiện ra được?...". Nhưng rồi tôi gạt phắt ngay ý nghĩ đó. Tôi đã tìm ra chiếc máy bay rơi một cách tình cờ, người khác cũng có thể gặp may mắn như thế. Hơn nữa, không có ai tìm được một kho báu lồ lộ như vậy mà lại chịu dừng ngang đó. Có điều đừng để rắn cắn. Bị một con rắn cỡ như con hôm qua mổ một cú thì mọi kho vàng trên thế gian này đều vô nghĩa. Có lẽ phải chất củi đốt. Mùa này không sợ cháy rừng, nếu cần cứ phát rộng xung quanh tạo khoảng trống. Không được! Làm thế dễ lộ quá. Lỡ trực thăng áp tới! Thôi, để mai tới đó hãy tính.

Nhưng lấy được vàng rồi thì dấu ở đâu? Đào hố chôn? Có thể chôn làm nhiều nơi. Tôi bỗng nhớ tới cái hang đá nhỏ hồi trước tìm thấy con mang bị bắn chui vào nằm chết trong đó. Phải rồi! Cái hang ấy rất hay, miệng hang hẹp lại kín đáo chỉ cần chặn một tảng đá là kín.

Cuối cùng rồi trời cũng chịu sáng. Tôi đến bên xác máy bay lúc mặt trời vừa chiếu những tia nắng đầu ngày. Việc đầu tiên là chặt bớt dây leo và kéo chúng ra khỏi đống sắt vụn. Chiếc máy bay không đến nỗi vỡ nát như tôi tưởng. Vẫn còn lại đoạn vòm thân cong cong gắn với chiếc cánh gãy một nửa, tất cả đều thủng lỗ chỗ. Thời gian đã xóa nhòa hết mọi dấu vết nên không biết được đây là kiểu máy bay gì và của nước nào, nhưng nhìn cái chong chóng động cơ cũng thấy nó thuộc loại cổ lỗ sĩ rồi.

Tôi không dám thò tay vào đống kim loại rỉ nát phủ đầy lá khô, cành mục và dây leo. Cả xác con rắn hôm qua cũng mất hút trong đó. Phải đốt thôi! Hôm nay trời u ám, mây bay thấp. Thời tiết này máy bay ít hoạt động.

Tôi kéo cành khô phủ kín thân máy bay rồi châm lửa đốt. Khi ngọn lửa bốc cháy rừng rực mới chợt nghĩ không biết trong đó còn bom không? Vội vã rời đống lửa, tôi chạy nhanh đến chỗ cây cổ thụ cụt ngọn ngồi nấp. Hẳn cái cây này liên quan tới chiếc máy bay. Lúc lao xuống đất, nó va gãy ngọn cây. Từ đây tới đó hơn trăm mét. Nếu kẻ một đường thẳng giữa hai điểm. Như vậy có thể nghĩ chiếc máy bay này bay từ tây sang đông, hoặc chếch một chút: tây tây nam, đông đông bắc.

Nhưng máy bay của ai? Nhật? Pháp? Mỹ? Mỹ thì không phải rồi! Chưa nói đến mức độ mục nát của xác máy bay mà chỉ cần nghĩ nếu của Mỹ, không đời nào chúng chịu bỏ qua một chiếc máy bay chở vàng. Chúng có đủ phương tiện và thời gian để tìm kiếm. Pháp cũng vậy. Tôi không nhớ chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới xuất hiện từ năm nào, nhưng Pháp vào Việt Nam ngót nghét một thế kỷ, tính tới trận Điện Biên Phủ. Khi phải rút quân về nước, chúng còn có thời gian dùng dằng khá lâu. Có mất một đồng "phờ răng" chúng cũng tìm được, huống chi cả chiếc máy bay chở vàng. Vậy chỉ còn Nhật? Nhật chẳng phải rộng rãi gì và không đến nỗi "đãng trí", nên nếu "bỏ quên" một chiếc máy bay như thế này, hẳn phải ở thế kẹt lắm, không thể có điều kiện để tìm...

Cứ suy nghĩ lung tung như vậy, cuối cùng tôi tạm kết luận chiếc máy bay này rơi vào khoảng nửa đầu năm 1945, khi Nhật đang bại trận. Mà thôi, tạm gác chuyện đó. Hình như lửa đã tắt nên không thấy khói bay lên nữa. Những đám khói lúc trước đã hòa lẫn vào tầng mây thấp. Không có trái bom nào nổ như tôi lo sợ.

Tôi trở lại, thấy trong đống xác máy bay lửa đang còn cháy âm ỉ, nhưng có thể bắt tay vào việc được rồi. Giờ khỏi lo rắn. Chẳng có con rắn nào trụ nổi với lửa. Tôi moi ra được những thỏi vàng nằm lẫn trong đống sắt vụn, bên dưới lớp tro còn đỏ hồng. Tất cả đều đúc cùng khuôn với thỏi vàng hôm qua, trên bề mặt có con số chỉ trọng lượng bốn kí rưỡi. Bỏ vào ba lô vừa đủ sức mang là tôi đi ngay. Đêm qua tôi đã trù tính con đường từ đây tới cái hang nhỏ bên bờ suối, giờ cứ thế mà đi, chỉ cần nhớ đừng giẫm lên cùng một lối để khỏi tạo ra đường mòn.

Ngày hôm ấy tôi đi được ba chuyến thì trời tối nên đành nghỉ. Đoạn đường chỉ chừng ba cây số nhưng luồn rừng nên không thể đi nhanh được. Vả lại khi cõng ba lô vàng trên lưng, cánh rừng quen thuộc bỗng trở nên xa lạ, đầy nguy hiểm. Lúc nào tôi cũng thấp thỏm, cứ nơm nớp như có ai đang rình mò mình. Lúc nào cũng lăm lăm súng trên tay chực nhả đạn và luôn ở trong tư thế sẵn sàng co cẳng chạy. Đúng là nỗi lo sợ bản năng mà chỉ con người mới có. Mấy ngày sau tôi phải cho con báo ăn no để nó đi cùng tôi suốt ngày. Ở trong rừng, con Aga còn tinh hơn chó săn. Chưa bao giờ tôi có tâm trạng như những ngày đó, vừa phấn chấn vừa phấp phỏng lo âu, người cứ rạc đi.

Phải hơn nửa tháng tôi mới hoàn tất công việc. Thực ra, chỉ có mấy ngày đầu là mọi việc thuận lợi. Những ngày còn lại tôi phải moi móc, nhặt nhạnh từng thỏi vàng một. Có thỏi bị kẹt, mất hàng giờ đồng hồ mới lấy ra được. Sau khi giấu hết số vàng vào hang, tôi đào đất nơi khác mang đến đổ vào lèn chặt, bưng những tảng đá nhỏ chất lên trên. Cuối cùng mới vần một hòn đá to chẹn cửa hang, kéo những dây leo quanh đó cho nó bò lên và xóa hết mọi dấu vết. Bây giờ, số vàng này thực sự là "của tôi".

Công việc cuối cùng là ngụy trang lại nơi máy bay rơi, việc này chẳng có khó khăn gì. Tôi đào hố, cẩn thận chôn những mảnh xương người tìm thấy trong đống xác máy bay. Có một số xương đầu lâu đã vỡ vụn, những đốt xương khác cũng không nguyên vẹn. Thì ra chỉ mỗi góc rừng hoang này, từ trước tới nay cũng đã có bao nhiêu người chết.

Mọi việc xong xuôi lúc chiều đã muộn, nhưng tôi chưa về nhà ngay mà đi thẳng đến bên ngôi mộ đá. Tôi đốt một đống lửa, gác lên đó mấy khúc trầm rồi im lặng ngồi nhìn làn khói xanh lơ lửng bay. Hôm nay trời nhẹ gió, mấy tia nắng cuối ngày le lói qua mây rọi xuống đồi cỏ trước mặt một màu vàng nhợt nhạt. Tôi sắp từ biệt nơi này! Tôi đã làm được những gì mà các anh tin cậy và bây giờ có thể yên tâm quay về, nhưng thật đau lòng khi chẳng có cách nào đưa các anh theo. "Mình sẽ mang về một nắm đất..."

Một mình trở về không phải là chuyện dễ dàng, nhưng tôi không ngờ được là còn có nhiều sự việc xảy ra ngoài dự tính. Hình như số tôi chưa hết "nạn" nên còn nặng nợ gian truân với rừng.

Chương XV

Phần vì mệt nhọc, phần trong lòng đã thanh thản hơn, nên đêm đó vừa nằm xuống là tôi ngủ say như chết, chỉ tỉnh giấc khi có cơn mưa ập đến. Nhìn đồng hồ thấy đã gần sáng. Tôi nằm mơ màng, tai lắng nghe tiếng mưa rơi rào rào trên mái nhà. Ngoài kia gió rít gào qua đồi cỏ, cây rừng nghiêng ngả từng đợt. Gió đổi chiều rồi! Mùa đông đang tới! "Mình có nên trở về trong mùa này?" Ý nghĩ đó làm tôi tỉnh ngủ hẳn. Một mình đi giữa rừng sâu núi thẳm trong ướt át và lạnh giá, nếu có sống sót nổi không? Khó đấy? Khả năng sống và chết là ngang nhau. Tôi nhớ lại những cánh rừng rậm bịt bùng, những sườn núi dốc đứng, cái vực thẳm sâu hun hút, vách núi dựng ngược nơi biên giới. Giá còn đủ bốn người, chúng tôi có thể đi ngay giữa những ngày mưa tầm tã nhất. Hoặc nếu là anh Đằng hay anh Hùng, các anh ấy sẽ đi được, chứ tôi thì...

Nhưng hơn mười chín tháng rồi ở nhà không nhận được tin tức gì của chúng tôi, hẳn anh Hai Nguyên và mọi người sốt ruột lắm. Chắc ai cũng nghĩ là TK1 đã hy sinh tất cả. Và đã có những toán TK khác lên đường, tôi tin như vậy. Đến lúc này chưa có ai xuất hiện ở đây, có phải họ ngã xuống dọc đường? Biết đâu chỉ vì tôi về chậm một ngày mà có một toán TK phải hy sinh? Cứ nghĩ thế là tôi lại sốt ruột, muốn trở về ngay. Hơn nữa, tôi bắt đầu cảm thấy cuộc sống thui thủi một mình giữa rừng sâu ngày càng trở nên nặng nề.

Suốt mấy ngày liền, không lúc nào tôi rứt khỏi những suy tính ấy. Về bây giờ hay đợi hết mùa đông? Chà! Không ngờ chỉ mỗi việc quay về mà rắc rối đến thế! Hay tại mình trở nên nhu nhược? Hay do mình sợ chết? Tôi ngồi trên hòn đá bên vũng suối, trầm ngâm suy nghĩ. Từ dưới đáy nước có một người nhìn lên. Đấy là cái bóng của tôi, nhưng lúc này trông thật xa lạ. Trên khuôn mặt cháy nắng, đôi mắt trũng sâu đang nhìn thẳng vào mắt tôi như muốn nói: "Mày phải tự quyết định lấy, chẳng ai làm thay cho mày việc ấy đâu? Phải có cách suy nghĩ tỉnh táo hơn, chứ dằn vặt mãi sẽ thành luẩn quẩn..."

Đúng vậy! Tự lượng sức, tôi thấy không thể đem tính mạng ra để đánh một canh bạc năm ăn năm thua. Cái chết của tôi lúc này đồng nghĩa với sự hy sinh vô ích của cả tổ. Cần ở lại hết mùa đông này. Xuân đến, rừng khô ráo và ấm áp, tôi sẽ lên đường. Biết rằng rất buồn nhưng tôi quen rồi, có thể chịu đựng được. Cái khó nhất là muối đã gần cạn, phải hết sức dè sẻn may ra cầm cự được tới ngày về. Không sao! Chỉ ba tháng chứ mấy! Và tôi cảm thấy yên tâm hơn khi nhận ra quyết định ở lại cũng là sự can đảm.

Mùa đông năm đó mưa nhiều và tiết trời lạnh hơn, một phần vì sức tôi đã yếu đi. Tôi biết vậy nên tự đề ra cho mình chế độ luyện tập khắt khe. Buổi sáng thức dậy từ sáu giờ rưỡi, nếu trời không mưa, tôi xách súng chạy lên đỉnh đồi cỏ gần nhà rồi quay về, nhảy xuống suối tắm. Còn nếu trời mưa to hoặc quá lạnh thì tôi tập tạ trong nhà bằng một tảng đá.

Tôi còn xuống suối chọn mấy tảng đá có bề mặt bằng phẳng vác lên kê thành một bộ "bàn ghế" trên vạt cỏ trước nhà. Thực ra vác đá là để luyện tập, chứ mình tôi cần gì bàn ghế. Hơn nữa, tới mùa nắng là tôi đã đi rồi. Coi như để lại một kỷ niệm cho lũ khỉ vậy. Tuy nghĩ thế nhưng tôi vẫn rất thích những tảng đá đẹp. Dưới chân thác nước có nhiều hòn đá được dòng nước và mưa gió gọt giũa lâu ngày tạo thành hình dáng đẹp lạ lùng. Tôi chọn những hòn đẹp nhất vác lên đặt rải rác bên mấy gốc cây cạnh nhà. Công việc nặng nhọc nhưng ngoài ý nghĩa tập luyện, nó còn tạo cho tôi niềm vui nho nhỏ trong những ngày dài đằng đẵng. (Nói "ngày dài" là kể cả ban đêm, chứ mùa này thời gian ban ngày ngắn lắm, chừng bốn giờ chiều trong rừng đã tối).

Một vấn đề nan giải là cái ăn. Ăn thịt chim, thú, cá mãi cũng ngán. Các thứ khác thì quanh quẩn cũng măng le, hoa chuối. Củ mài vùng này hiếm, còn các loại lá có thể ăn thay rau tôi biết không nhiều. Cả nấm cũng vậy. Ngoài mộc nhĩ ra, tôi không biết thứ nấm nào. Có thể ăn được, cũng không dám thử. Mấy lần tôi đi kiếm mật ong, nhưng lúc này các tổ ong ít mật. Có lẽ vì thế mà lũ ong đâm ra cáu kỉnh. Phải mất ba, bốn ngày lội rừng, tôi mới lấy được một ít mật sau khi bị ong đốt sưng cả mặt. Mà mật mùa này không được ngon, nó nhạt và hơi chua. Thì ra ngay cả khi ở trong rừng một mình, con người ta không chỉ có nhu cầu ăn no mà còn muốn ăn ngon nữa. Tôi đành khắc phục bằng cách không ăn mãi một món. Nếu hôm nay ăn thịt chim thì ngày mai tôi câu cá, ngày kia đi săn cheo... Thú lớn ở đây không thiếu nhưng tôi ít khi bắn, vì ăn không hết nó phí đi. Có hôm tôi bắn được một con kỳ đà khá lớn. Thịt kỳ đà mềm và trắng như thịt gà, nhưng không có gia vị, chỉ làm mỗi món nướng, nên tôi không chắc là nó có ngon hay không. Đã thế lại thiếu muối, ăn cứ nhàn nhạt khó chịu. Bây giờ ba ngày tôi mới ăn muối một lần, mà cũng chỉ nhấm tí chút cho có vị mặn, chứ đâu dám ăn nhiều.

Những lúc tạnh ráo, tôi thường leo lên đài quan sát trên cây chò dùng ống nhòm nhìn khắp bốn hướng, suy nghĩ về con đường trở về. Đứng ở đây, có thể nhìn rõ cả vùng núi non nhấp nhô thấp dần ở phía đông. Đi theo hướng đó sẽ gặp được vùng đồng bào dân tộc, nhưng trông hiểm trở thế kia, liệu có đi nổi không? Hơn nữa rất dễ lạc vào vùng địch kiểm soát. Còn ở phía tây, có nhiều dãy núi cao chắn tầm nhìn. Vượt qua những dãy núi đó, đi mãi rồi sẽ gặp tuyến đường tây Trường Sơn. Nghĩ vậy thôi chứ tôi không dám một mình đi theo hướng ấy, nhất là khi không biết tí gì về địa hình và cũng chẳng rõ quãng đường xa gần thế nào.

Như vậy chỉ còn cách là quay lại theo con đường chúng tôi đã tới đây. Đến lúc này tôi vẫn hình dung được cảnh vật của từng chặng đường đi trong từng ngày. Nhưng đó là nhớ như nhớ những kỷ niệm, chứ không thể nói nhớ được đường. Ở trong rừng rậm, ngay cả lối mòn ta vừa qua khi đi ngược lại cũng khó nhận ra, huống hồ đi cắt rừng. Muốn trở lại phải nhằm hướng mặt trời lặn. Tính theo đường chim bay thì đâu có xa, chỉ hơn trăm cây số là đến khe Trầm. Nhưng khi tời đây chúng tôi phải đi trên hai chục ngày với quãng đường thực tế dài hơn nhiều. Ấy là đi cả tổ, có những người giàu kinh nghiệm và tháo vát, chứ bây giờ chỉ mình tôi. Và nếu đến được khe Trầm, tôi còn phải đi cho tới khi gặp một đơn vị bộ đội nào đó. Chắc phải ra tận đường Chín. Biết bao gian nan trên chặng đường về. Nhưng thôi! Lúc lên đường hẵng hay, giờ không thể lo trước được mọi điều. Tôi nhớ có lần anh Hùng nói: "Khi đã coi rừng như nhà mình, thì việc đi trong rừng, sống trong rừng sẽ nhẹ nhàng hơn nhiều."

Thỏi vàng đầu tiên lấy về, ngay đêm đó tôi chôn nó xuống cạnh gốc cây trước nhà. Lâu lâu, nhằm lúc nhà khỉ đi vắng, tôi lại moi lên ngắm nghía. Tất nhiên lũ khỉ chẳng coi vàng ra gì, nhưng chúng là chúa tò mò và hay bắt chước. Còn báo Aga thì khỏi lo. Nó ngồi bên tôi, thờ ơ nhìn thỏi vàng như nhìn cục đá. Sau này nhớ lại, tôi không hiểu lúc đó mình cứ đào lên chôn xuống như thế để làm gì! Có lẽ do rảnh rỗi mà làm vậy, chứ không như anh nhà giàu ngắm của. Với tôi thỏi vàng trước mặt chẳng có gì hấp dẫn nếu so với một nhúm hạt muối trắng lóng lánh hoặc bát cơm bốc khói thơm thơm mùi gạo mới.

Dù hết sức chậm chạp, nhưng rồi những ngày đông năm ấy cũng dần qua đi. Khí trời ấm lên, bầu trời bớt vẻ ảm đạm. Và đến khi nhìn thấy những nụ mầm nhỏ xíu nứt ra trên mấy nhành cây khẳng khiu thì tôi thực sự háo hức chuẩn bị cho ngày về. Tiếng là chuẩn bị chứ chẳng có gì nhiều. Súng đạn, ba lô, võng, áo mưa..., rồi bật lửa, dao, ống nhòm... đều có sẵn. Riêng áo quần tôi đã rách hết, đành phải mặc mấy bộ rằn ri. Còn hai bộ áo quần của anh Đằng và anh Hùng lâu nay vẫn gói kỹ, tôi định khi về gần đến vùng ta mới đem ra mặc. Tôi không có giấy tờ gì, lại mang trên người áo quần ngụy, vũ khí Mỹ, nếu may mắn không chết bởi một viên đạn vội vàng nào đó thì cũng gặp nhiều rắc rối. Mặc bộ quần áo "Giải phóng" chính hiệu trên người, dù sao cũng tạo được ấn tượng nhất định và dễ ăn nói hơn.

Việc cần làm là sấy một ít thịt khô mang theo. Nếu có được bi đông mật ong càng tốt, nhưng mùa này khó kiếm ra mật.

Mấy ngày đó lúc nào tôi cũng ở trong trạng thái tất bật hối hả, vì vậy đã xảy ra một việc làm cản trở tất cả. Trong một lần đi lên cầu thang, do vội vã nên tôi trượt chân ngã xuống đất. Chẳng bị thương tích gì, chỉ thấy đau ở cổ chân trái. Lát sau thì nó sưng vù lên, không còn bước được nữa. Tôi ôm chân mà tức ứa nước mắt. Chuyện không đáng xây ra, có gì đâu mà phải vội cơ chứ? Đã vậy, lại càng bực hơn khi nấy con khỉ cứ nhìn tôi lom khom, làm như cả đời chưa nhìn thấy người què bao giờ! Tôi đành chặt cành cây làm nạng chống để đi lại quanh quẩn. Mong sao chỉ bị bong gân chứ đừng mẻ tí xương nào.

Tôi hái bừa nhiều thứ lá, mỗi thứ nhai đắp lên vài ngày rồi bỏ đi thay thứ khác. Ngoài ra, chỉ còn biết chờ đợi và tự an ủi là muộn mươi ngày có khi lại hay. Biết đâu trong thời gian ấy có một toán TK đến đây. Giờ khô ráo rồi, nếu họ không gặp trở ngại gì thì chỉ hai mươi ngày là tới chứ mấy!

Để đỡ buồn, tôi thường ra vũng suối ngồi câu cá. Cá dễ phơi và để được lâu hơn thịt. Tôi cũng chống nạng cà nhắc ra mé đồi tìm bắn gà rừng. Mùa này chúng thường ra đồi cỏ kiếm ăn lúc mặt trời mới lên hoặc khi chiều sắp tắt nắng. Tôi chỉ việc bắn, còn đã có Aga đi nhặt hộ. Nó làm việc này thạo lắm. Mới ngày nào còn bé xíu, mà bây giờ nó đã trở thành một chàng báo duyên dáng và lực lưỡng.

Phải một tháng sau cái chân mới lành. Giờ thì tôi đi lại cẩn thận hơn, không dám vội vã như lần trước. Mà cùng chỉ còn mỗi việc đi kiếm ít mật nữa là có thể yên tâm lên đường. Lúc này chắc trong các tổ ong đã có mật, lũ ong tất bật cả tháng nay rồi còn gì.

Tôi nhảy trên những tảng đá để băng qua suồl tới nơi giấu vàng. Cần phải kiểm tra lại lần nữa trước lúc ra đi. Mọi việc đều tốt. Cây dây leo đã phủ xanh trên hòn đá lấp miệng hang. Xung quanh không có dấu vết gì đáng nghi ngại. Tôi lội xuống suối quay trở về, không dám nhảy trên đá nữa vì thấy chân trái còn hơi đau.

Nước suối lạnh buốt làm tôi nổi gai ốc và rùng mình liên tiếp. Sao thế nhỉ? Ngay cả những ngày đông giá lạnh, tôi vẫn tắm suối bình thường cơ mà? Nhưng tôi cũng không suy nghĩ lâu, chuyện vặt vãnh! Lúc này đang vội. Định chỉ đi lấy mật buổi sáng, còn sau đó về bên mộ ngồi với hai anh để mai đi sớm, vậy mà bây giờ đã hai giờ chiều rồi. Sáng nay tôi phải lội rừng "hỏi thăm" năm tổ ong, mới kiếm được hơn bi đông mật.

Tôi ghé nhà lấy ít trầm để đi ra mộ, nhưng khi ngồi nghỉ một lát bên bàn đá, thấy trong người mệt rã rời. Mấy lần định đứng dậy đi mà không cất bước nổi. Chắc tại sáng nay đi nhiều. Nhưng mấy năm nay ngày nào tôi cũng bươn bả như vậy, có sao đâu? Không khéo ốm thì nguy.

Bước lên nhà, tôi nằm vật xuống sàn và thiếp đi. Lúc tỉnh dậy thấy trời đã tối, bèn gắng gượng ngồi lên nhen đống lửa. Người tôi hâm hấp sốt, từng khớp xương như rời ra. Sao oái oăm thế nhỉ? Chẳng lẽ lại ốm vào lúc này? Tôi nướng thịt ăn bữa tối, nhưng không nuốt nổi. Miệng đắng nghét, cổ họng đau buốt và hơi thở nóng ran trong mũi.

Tối đó tôi nằm sốt li bì. Sáng dậy vẫn thế, đầu choáng váng, bước đi chệnh choạng như người say. Tuy vậy, tôi cũng gắng ra suối lấy nước rồi quay vào chuyển ít củi dưới gầm sàn lên nhà. Bây giờ chẳng những không lên đường được mà sợ còn phải nằm liệt một chỗ. Tôi âm thầm khóc, chua xót cho số phận của mình. Gần hai năm nay, ngoài một đêm sốt lúc mới đến đây và cái chân bong gân vừa qua, tôi đâu có đau ốm gì? Dầm mưa dãi nắng hết ngày này qua ngày khác, cùng lắm chỉ nhức đầu sổ mũi vài bữa hoặc mấy cái mụn ghẻ. Vậy mà... Những ý nghĩ cay đắng chìm dần trong cơn sốt và trở thành ác mộng, nhưng tôi hầu như không còn biết gì nữa...

Không biết tôi đã mê man mấy giờ? Mấy ngày? Tôi nhấc cánh tay lên nhìn đồng hồ, nhưng một màn sương che mờ tất cả. Cổ họng như có lửa đốt, lưỡi phồng rộp lên. Nước... nước đâu?... Tôi nhoài người sờ tìm bi đông nước. Tiếng mạch đập thình thình trong tai, nhưng quầng lửa nhoang nhoáng trước mặt. Chiếc bi đông nặng quá... Mãi tôi cũng dốc được ít nước vào miệng, nhưng chỉ còn một ngụm nhỏ. Ngụm nước ít ỏi chẳng làm nguội được sức nóng ngùn ngụt trong người. Tôi ngã vật xuống, hàng trăm mũi kim đâm nhoi nhói trong đầu làm tôi lịm đi...

Tôi sốt như thế suốt mấy ngày liền. Hết cơn sốt này đến cơn sốt khác dìm tôi vào vực sâu mê man. Từ trong tiềm thức, một ý nghĩ mờ nhạt nhắc tôi rằng hãy tỉnh dậy, hãy làm một cái gì đó, nếu không muốn chìm mãi vào cõi hư vô... Nhiều lần tôi gắng sức ngồi lên để bứt khỏi cơn mê, nhưng không được. Giờ tôi cố lần nữa... Hình như tôi đã ngồi được, mặc dầu đầu óc quay cuồng, người lắc lư như muốn rụng xuống. Tôi tìm nước, nhưng chẳng còn giọt nào. Ngoài cửa có thấy bóng người. Có ai đến! Ai vậy? "A! Anh Đằng, anh Hùng, cả anh Sơn nữa! Các anh đến lúc nào vậy? Đến đón em đi phải không? Sao không ai nói gì? Em biết rồi! Chúng ta chẳng đã hẹn nhau bao giờ hòa bình sẽ lại vào rừng, lên chỗ rừng xoáy là gì?... Mà bây giờ hòa bình chưa các anh? Sao các anh lại cười? Tại em nói nhiều phai không? Lâu nay em đâu có được nói. Đợi tí, để em lấy ba lô và súng. Súng này là súng Mỹ đấy? Khẩu AK của em hết đạn rồi... Các anh còn nước không, cho em uống với..." Có ai đó chìa bi đông ra, tôi giơ tay đỡ, nhưng sao với mãi không tới. Mắt tôi căng lên nhìn theo bi đông nước. Màn sương mờ đục tan dần, tôi nhận ra mình vừa mê sảng. Đúng là tôi đã ngồi dậy, tay đang nắm chặt khẩu súng, nhưng vừa rồi chỉ là giấc mơ.

Hình như trước cửa có bóng người thật. Sao lại thế nhỉ? Mình vẫn còn mê à? Tôi nhắm nghiền hai mắt. Một lúc sau mới mở ra nhìn. Những bóng đen rõ dần lên. Không phải người, mà mấy con khỉ. Nhà khỉ kéo lên thăm tôi. Trời ơi! Chúng mày thì giúp được gì?... À không! Nhớ ra rồi! Tôi quờ quạng tìm chiếc bi đông. Lũ khỉ trố mắt nhìn. Khỉ già đâu rồi? Mày đi lấy giúp tao ít nước. Trước đây mày vẫn lấy nước vào bi đông cơ mà! Tôi chìa cái bi đông trước mặt nó, tay run rẩy. Mày cố hiểu đi. Tao cần nước! Tao khát lắm! Khỉ già vẫn nhìn tôi chăm chăm, nó không hiểu. Tôi thất vọng thả rồi chiếc bi đông, gục xuống thiếp đi.

Có ai lay tôi nhiều lần. Lại mê nữa rồi! Làm gì có ai ở đây. Một vật gì nặng trĩu đè trên ngực làm tôi khó thở. Cái gì vậy? A, bi đông nước! Có nước rồi. Tôi cuống quít nhổm dậy, mở nắp bi đông dốc nước vào miệng. Mát quá! Ngọt quá! Nước chảy vào tới đâu mát lạnh tới đó. Những giọt nước tràn ròng ròng xuống ngực. Giờ thì tôi đã nhìn rõ lũ khỉ. Cả năm con đứng quanh giương mắt nhìn tôi, nửa tò mò nửa thương hại. Cả báo Aga cũng có mặt. Nó không vào nhà mà đứng ngoài cửa nhìn vào. Cám ơn chúng mày nhé!

Uống hết nước, tôi lại chìa bi đông ra. Lần này khỉ già hiểu ngay. Nó túm lấy dây bi đông chạy đi, những con khác nhảy nhót đuổi theo. Không biết nó làm thế nào mà xách được bi đông nước lên cầu thang?

Đợi nhà khỉ ra hết, báo Aga mới bước vào. Hơi thở của nó nóng ran trên mặt tôi. Tôi vuốt nhẹ bộ lông mềm mại của nó, cảm thấy yên lòng hơn. Dầu sao, quanh mình còn có những con thú trung thành. Tôi nhìn đồng hồ: ba giờ chiều. Và con số trong ô lịch cho biết tôi nằm mê man đã bốn ngày. Đống lửa tắt ngấm từ lâu. Dù rất mệt nhưng tôi cũng gắng nhen lại lửa. May hôm trước có đem củi lên.

Tối đó tôi uống một ít mật ong hòa với nước. Uống mật mà thấy đắng nghét. Người còn hâm hấp sốt, nhưng đầu óc có tỉnh táo hơn. Đáng ra mình đi được bốn ngày rồi... Thôi, tốt nhất lúc này đừng nghĩ tới chuyện đó. Càng nghĩ càng thêm nản. Trong cái rủi có cái may, nếu sốt bất ngờ giữa đường thì cầm chắc là chết. Phải sốt rét không nhỉ? Không phải! Tôi đã bị sốt rét một lần nên biết. Còn nếu sốt ác tính thì đừng hòng qua khỏi. Chắc là thương hàn. Mà bệnh gì cũng thế thôi, không có viên thuốc nào, làm sao bây giờ? Tôi cố moi trong trí nhớ xem có biết thứ gì có thể làm thuốc. Giá còn anh Hùng... Trong rừng đủ thứ cây thuốc mà tôi đành chịu. Hơn nữa có biết cũng không còn sức đi lấy. A, quế! Đúng rồi, mình còn vỏ que. Mừng rơn như tìm thấy vàng lần nửa, tôi bò dậy mở ba lô. Số vỏ quế lấy hôm nào tôi dùng để ngậm trong những ngày mưa rét đi đào đãi ngoài rừng, nay vẫn còn hai cuộn. Nghe nói người ta lấy vỏ những cây quế già mài ra hòa với nước cho người bệnh uống. Còn bệnh gì thì không nhớ. Nhưng bệnh gì mà chả được? Tôi đâu còn cách nào khác? Ít nhất nó cũng đem đến chút hy vọng trong lúc này.

Tôi bẻ một mẩu quế cho vào miệng. Cứng quá không nhai nổi. Răng đau nhức, máu tứa từ chân răng thấm mằn mặn đầu lưỡi. Tôi đành ngậm trong miệng cho nó mềm dần. Những ngày sau đó tôi vẫn còn sốt, tuy không sốt cao như mấy hôm đầu. Và tôi yếu lắm. Chỉ trở người hoặc cử động nhẹ là đầu nhức như búa bổ. Tôi không đứng lên nổi. Có muốn ngồi dậy cũng rất khó khăn, chân tay run lẩy bẩy và người cứ lả di.

Bầy khỉ ngày nào cũng kéo bi đông đi lấy nước. Nếu không có chúng, chẳng biết tôi sẽ ra sao. Một hôm tôi gắng ngồi dậy hầm miếng thịt khô để lấy nước húp, nhưng vừa nuốt vào đến bụng là đã nôn thốc nôn tháo. Tôi tiếc đứt ruột vì mới tráng cái bao đựng muối đổ vào gô nước thịt. Thế là hết chút chất mặn cuối cùng. Những ngày kế tôi chỉ uống được mật ong pha loãng. Vỏ quế vẫn là thứ thuốc duy nhất, tôi ngâm nó trong nước cho dễ nhai. Mấy việc đó tôi làm một cách máy móc, hầu như chỉ dựa vào bản năng.

Chừng một tuần sau thì những cơn sốt dứt, đầu cũng bớt nhức và tôi không còn mê sảng nữa. Nhưng sức tôi ngày càng yếu đi, hầu như suốt ngày chỉ nằm một chỗ. Đưa bi đông nước lên miệng là một công việc nặng nhọc, còn muốn nhen lại đống lừa tôi phải cố hết sức mới làm được. Tuy vậy, những lúc lũ khỉ đến tôi đều biết. Trông chúng bây giờ có vẻ chín chắn hơn, cả hai nhóc khỉ cũng không lí lắc nghịch ngợm như thường ngày. Có lẽ chúng hiểu đứng trước một người bệnh "thập tủ nhất sinh" cần phải có thái độ như thế nào. Cũng có thể chúng đã lớn, không "trẻ con" như trước. Mỗi lần ngước mắt nhìn ra, tôi vẫn thấy lờ mờ báo Aga nằn chắn ngang trước cửa. Nó chỉ đứng dậy khi lũ khỉ đi qua. Chả lẽ nó không đi săn mồi sao?

Không biết lại mấy ngày nữa trôi qua, tôi vẫn nằn thiêm thiếp và gần như bất động. Tôi không còn ý thức được thời gian, mà điều đó lúc này có ý nghĩa gì đâu! Tôi biết mình sắp chết, chỉ chưa biết lúc nào. Có thể ngày mai, ngày kia, hay lát nữa. Sự sống trong người giờ như ngọn đèn leo lắt. Tôi nghĩ đến cái chết một cách dửng dưng, chẳng có chút xúc cảm nào. Chẳng vui mà cũng không buồn, không chờ đợi cũng không tránh né, không sợ hãi và chẳng hề day dứt. Tôi thờ ơ với mọi sự. Thì ra cái chết không ghê gớm như người ta tưởng.

Hình như những lúc thiếp đi tôi không còn gặp ác mộng. Còn khi tỉnh dậy, những ý nghĩ trôi qua trong đầu một cách lười nhác và vô định, tuy tôi vẫn hiểu mình đang nghĩ gì. Nếu sau khi chết con người còn có cuộc sống khác ở thế giới bên kia, thế nào tôi cũng tìm gặp cho bằng được anh Đằng, anh Hùng, anh Sơn. Khi đó tôi sẽ mãi mãi đi cùng các anh, chẳng có gì chia lìa chúng tôi được nữa. Nhưng biết đâu cuộc sống bên ấy cũng phức tạp như ở thế giới này. Chắc phải đến nơi mới biết. Tôi sắp đi rồi, sẽ biết ngay thôi mà...

Tôi hình dung một hôm nào đó tim tôi ngừng đập, hơi thở ngưng lại, tôi nằm chết trên căn nhà nhỏ này mà chẳng ai hay biết ngoài con báo và lũ khỉ. Lúc ấy thân xác tôi sẽ sình lên, trương phềnh ra. Rồi dòi bọ sẽ đục khoét những gì trước đó vẫn được coi là máu thịt. Ngày tháng trôi qua... Căn nhà này sẽ mục nát và sập xuống. Nếu có ai tới đây, chỉ còn thấy những đốt xương trắng, vài mảnh vải rách mủn cùng khẩu súng hoen ri. Như vậy... như vậy sẽ... không còn gì hết. Cả kho vàng cũng chẳng ai tìm được. Và công sức cùng sự hy sinh của bốn chúng tôi coi như đổ xuống sông xuống biển. Đối với tôi lúc này những thỏi vàng chẳng có giá trị gì, nhưng đất nước đang cần vàng. Trước lúc ra đi anh Hai Nguyên nói gì nhỉ? À, "cả nước đang dốc hết sức người sức của..." Mỗi người lính chúng tôi trước khi cầm khẩu súng đều được dặn: "Mỗi viền đạn súng trường bằng bốn cân gạo...". Cần bao nhiêu gạo để đủ đạn cho người lính đánh giặc? Mà chừng này vàng đổi được bao nhiêu súng đạn? Nhiều! Nhiều lắm? Đỡ được vô khối gạo. Nhưng bây giờ tôi không còn làm gì được nữa rồi. Chẳng ai biết để tìm ra cái hang đá nhỏ bị lấp kín nằm giữa những tảng đá và dây leo. Trời ơi! Sao mình nghĩ lộn xộn như vậy nhỉ? Lại mê sảng rồi, làm sao báo cho anh Hai Nguyên biết nơi giấu vàng.

Những ý nghĩ rối bời nửa mê nửa tỉnh làm tôi mệt lả, và tôi lại lịm đi.

Một hôm lúc tỉnh dậy, tôi thấy lũ khỉ đứng vây quanh. Tôi nhìn chúng mỉm cười yếu ớt. ấy là tôi muốn làm như vậy chứ nụ cười có biểu lộ trên nét mặt hay không thì không biết. Nhưng ánh mắt lũ khỉ có cái gì khang khác. Hay chúng biết tôi sắp chết, sắp từ biệt chúng?

Hình như chúng có ý gì đó. Khỉ già kêu mấy tiếng khẹc khẹc, những con khác phụ họa theo nhốn nháo. Chúng không nhìn mặt tôi mà nhìn xuống bên cạnh. Tôi quờ tay và sờ thấy mấy vật cưng cứng tròn tròn. À, quả dại ngoài rừng! Lũ khỉ hái về cho tôi. Tôi rơm rớm nước mắt. Ai nói con vật chỉ có bản năng? Cám ơn nhé! Nhưng tao không ăn được đâu! Tao chẳng còn muốn ăn nữa! Tội nghiệp, lúc tao chết chắc chúng mày buồn lắm! Nhưng dù sao chúng mày còn có gia đình, chứ báo Aga chỉ có một mình... Không biết mấy hôm nay con báo có chịu ăn uống gì không?...

Tôi thả rơi mấy quả dại, định ngủ tiếp. Nhưng nhìn lũ khỉ thấy tội quá? Chúng xôn xao quanh tôi như van lơn nài nỉ. Không nên phụ lòng tốt của chúng. Tôi cầm một quả đưa lên miệng cắn, cảm thấy vị chua lan trong miệng khiến tuyến nước bọt nhói lên, và lát sau tôi thấy muốn ăn. Tôi ăn hết quả đó, rồi quả nữa. Không rõ thứ quả gì, chỉ biết chúng có vỏ dày mềm vừa chua vừa chát, trong ruột có một lớp cùi trắng tựa như cùi vải nhưng mỏng và nhạt hơn. Còn lại là cái hạt to tướng mà nếu có muốn ăn cũng không ăn được vì nó quá cứng. Mấy ngày sau, lũ khỉ vẫn mang thứ quả ấy về cho tôi, lúc ba quả, lúc bốn quả.

Cho đến một hôm khi mặt trời lên, ánh nắng tràn vào cửa. Tôi cảm nhận được hơi ấm cùng sắc vàng tươi của nhưng tia nắng và cảm thấy xót xa nếu phải chết giữa lúc này. Ngoài kia rừng đang giữa mùa xuân và trời đẹp biết bao! Tôi như ngửi thấy mùi hoa dại ngan ngát, nghe được những âm thanh náo nức sôi nổi của vạn vật đang tràn trề sức sống. Tôi thèm một ngọn gió vuốt ve mái tóc, thèm được nhảy xuống suối để làn nước trong lành thấm mát da thịt. Tình yêu cuộc sống đã trở lại.

Nhưng để sống được, phải tập từ đầu mọi thứ. Tôi tựa người vào vách, chống tay cố ngồi dậy. Đầu nhức buốt, mắt hoa lên, cả căn nhà, cả khung cửa ngập tràn ánh nắng cũng dập dềnh như sóng. Cuối cùng tôi cũng dựng được nửa người phía trên vào vách nhà và nhắm mắt ngồi thở dốc. Một lúc sau thấy đỡ chóng mặt, tôi lết đến bên bếp xếp mấy thanh củi nhen lại đống lửa. Lúc này mới thấy ruột gan cồn cào và réo lên ùng ục. Tôi biết mình xuống sức một phần do không ăn được gì, gần tháng trời chỉ uống mật ong pha loãng. Giờ phải tập ăn lại. Tôi nướng một con cá khô rồi vừa nằm vừa nhai. Chưa thấy ngon nhưng không bị nôn, hẳn cơ thể đã chấp nhận.

Cứ như thế, hàng ngày tôi tập vận động và tự bắt mình phải ăn. Đến hôm tụt xuống được cầu thang tới ngồi bên chiếc bàn đá, nhìn ánh nắng chói chang nơi bãi cỏ trước nhà và nghe tiếng cây lá đung đưa rì rào trên đầu, tôi mới thực sự tin ràng mình còn sống được.

Tôi chống gậy lần ra vũng suối, ngồi bệt xuống bờ cát. Hôm nay đã là ngày thứ bốn mươi lăm kể từ hôm bị sốt, nếu như chiếc đồng hồ vẫn chạy đúng. Một mùa xuân đã trôi qua. Đáng ra giờ này mình về đến nơi rồi mới phải. Chưa biết bao giờ mới đủ sức trở về. Điều đó lúc này càng hết sức xa vời.

Nhìn xuống vũng suối, tôi thấy bóng mình còn xa lạ hơn lần trước: hai con mắt thô lố trên khuôn mặt chỉ còn da bọc xương, mái tóc rối bù dài quá vai, râu ria tua tủa, bộ quần áo rằn ri nhàu nát thùng thình trên người. Mọi cơ bắp như biến mất sau những ngày nằm liệt giường. Tôi trở thành "người rừng" mất rồi? Thôi, còn sống được là tốt! May nhờ có lũ khỉ. Hình như trong thứ quả chúng mang về có vị thuốc. Tôi không dám chắc điều đó mà cũng không tiện hỏi. Lũ khỉ tốt bụng không có thói quen giấu diềm những bài thuốc gia truyền như con người, chẳng qua chúng không nói được. Thế mới biết ở đâu cũng vậy, nếu sống tốt ta sẽ được đền đáp. "Ở hiền gặp lành" mà! Chẳng có tiên có bụt như trong chuyện cổ tích, nhưng con báo Aga bảo vệ tôi, lũ khỉ cứu sống tôi. Ngay cả con người, không phải ai và lúc nào cũng làrn được như vậy. Và sẽ chẳng có điều kỳ diệu nào cả, nếu ngay từ đầu tôi không thực lòng đối xử tốt với chúng.

Việc trở về tính sau, giờ phải nghĩ tới chuyện tập luyện và sắp xếp lại nơi ăn ở. Dù gì đi nữa, cũng phải sống cho ra con người. Tôi đem dao găm mài trên đá cho thật sắc để cạo râu. Tóc thì đành chịu. Trước đây tôi đã cắt thử: một tay túng từng lọn tóc, tay kia dùng dao cứa. Kết quả trông nó nhăn nhở đến phát khiếp. Cạo trọc dễ hơn nhưng tôi không muốn, nên đành lấy dây buộc túm lại sau gáy cho đỡ nóng. Lại còn cả đống quần áo, võng màn, mấy ngày ốm tôi vơ tất cả đắp lên người vì không nhen được lửa. Nay phải mang ra giặt giũ cho bay hết mọi hơi hám bệnh tật...

Tôi tập tễnh chống gậy đi nhặt quả bồ kết.

Ngồi bệt trên đỉnh đồi, tôi giương ống nhòm thích thú ngắm đàn bò rừng nhởn nhơ nơi đồi cỏ gần ngã ba suối. Phải đến ba chục con là ít. Trông xa rất dễ nhầm đấy là đàn bò nhà đang ung dung gặm cỏ, nhưng khi chỉnh ống nhòm nhìn kỹ từng con mới thấy khác. Những con bò rừng có phần ức nở nang, đôi sừng xoắn cong khoằm khoằm, toàn thân phủ lớp lông dài vàng sậm, dọc sống lưng lông dày rậm hơn và có màu nâu đen. Có cả mấy con nhỏ chạy tung tăng theo mẹ. Đàn bò này từ nơi khác đến chứ lâu nay tôi không thấy. Và chúng đến để rong chơi thì đúng hơn, vì dạo này cỏ đã khô sém đi dưới ánh nắng đầu hè. Phía ấy vẫn thấy có nhiều thú lớn, chắc cỏ ở đó tốt hơn.

Lên khỏi ngọn cây một quãng, mặt trời nhỏ lại và tỏa nắng chói chang. Sương đã tan hết, đất ấm lên và không gian trong suốt. Gió thênh thang trên đồi, những ngọn cỏ màu hung nâu đung đưa nhè nhẹ. Vài gợn mây hồng nhạt lúc sáng mai giờ đang tan vào tầng không mênh mông.

Trong ống kính, những con bò vẫn mải mê gặm cỏ. Lúc lúc chúng lại lồng lên đuổi nhau chạy rỡn. Đang định buông ống nhòm xuống, tôi chợt thấy mấy con bò lớn nghếch mõm nghe ngóng và bồn chồn gõ móng xuống đất. Rồi cả đàn bò bỗng lồng lên chạy. Lúc đầu tưởng chúng chạy về hướng con suối nhưng không phải. Một con, có lẽ là con đầu đàn, chạy vòng vòng cuốn theo những con khác, dần dần chỉ thấy một đám vàng đen lố nhố chuyển động xoay tròn.

Chuyện gì vậy? Rê ống nhòm về hướng mấy con bò nhìn lúc nãy, thấy có vật gì đang di động. Tôi chỉnh tiêu cự để nhìn rõ hơn: một con cọp. Sắc lông vàng cháy của nó chập chờn trong cỏ. Không nhìn rõ chân nên trông con cọp như đang lướt trên triền dốc. Nó đã tới gần đàn bò.

Nhưng yếu tố bất ngờ không còn nữa. Cả đàn bò quây thành một đám tròn, những con lớn đứng ở vòng ngoài gằm gằm chĩa sừng ra. Giờ cọp ta chỉ còn nhìn thấy những u bắp và cẳng chân gân guốc, những tảng đầu gồ ghề với cặp sừng cong nhọn hoắt cùng những đôi mắt gườm gườm nẩy lửa. Con cọp bắt đầu chạy quanh, tìm xem chỗ nào có thể đột phá. Mỗi lần nó đổi hướng là cả đàn bò lại rùng rùng giẫm chân, nhưng cái khối tròn vẫn không hề suy suyển. Một bên phòng ngự kín kẽ, một bên cố tìm chỗ yếu tấn công. Mấy lần con cọp rạp chân gồng mình quật đuôi chờn vờn nhưng vẫn không dám chồm lên, không có cơ hội cho nó vồ mồi. Nếu đàn bò bỏ chạy, nhất định sẽ có con yếu sức chậm chân lọt vào móng vuốt nó, sẽ bị nó cắn cổ lôi đi. Còn lúc này, cái khối tròn lởm chởm sừng nhọn trước mặt là cả một sức mạnh đáng sợ. Đáng ra cọp ta phải dán mình trườn sát đất để tiếp cận đàn bò theo như bài bản săn mồi truyền kiếp, nhưng khoảng cách quá xa và sườn đồi trọc đã không cho phép nó làm điều đó. Hơn nữa con cọp đang độ sung sức, nó quá tự tin vào sức lực hùng mạnh của mình nên sử dụng tốc độ để đột kích, và bây giờ đành phải chấp nhận thất bại.

Sau khi vờn mấy vòng quanh đàn bò, con cọp bỏ cuộc. Nó thõng đuôi thất thểu chạy vào rừng, đi kiếm con mồi dễ săn hơn. Thịt bò tuy ngon đấy, nhưng đành đợi dịp khác, lúc đàn bò chia lẻ đi kiếm ăn trong rừng chẳng hạn.

Tôi ghé lưng sát chiếc ba lô, quàng hai quai vào vai rồi chống gối ráng sức đứng dậy. Trong ba lô chỉ có chừng mười lăm cân đá cuội, nhưng đối với tôi lúc này nó nặng như trước đây cõng nửa tạ gạo. Sau trận ốm, tôi lại bền bỉ luyện tập. Ban đầu đi bộ từng chặng ngắn, sau tập chạy rồi tập mang nặng leo dốc. Mỗi ngày hai lần, sáng tinh mơ và lúc chiều xế. Sáng nay tôi leo đến đỉnh đồi cỏ phía trên tràng cát từ lúc mặt trời mới lên, nhưng đã ngồi lại khá lâu để ngắm đàn bò, mấy khi có dịp được nhìn thấy cảnh hấp dẫn như vậy. Giờ phải cố đi một mạch về đến nhà. Xốc lại chiếc ba lô lọc cọc sau lưng, tôi bậm môi choãi người bấm từng bước xuống dốc.

Về tới bên chiếc bàn đá, tôi ngồi phịch xuống cố gỡ quai ba lô ra khỏi vai, há mồm thở dốc. Vậy là xong bài tập buổi sáng, giờ có thể nghỉ đến chiều. Nhìn tảng đá kê làm bàn, tôi biết còn lâu mới vác nổi nó như trước kia. Nếu nhanh cũng phải hết hè. Và như vậy lại thêm mùa mưa nữa trong rừng. Không sao! Tôi sẽ tập cho đến khi đủ sức quay về.

Có thể nói mùa hè trong rừng năm ấy cũng dễ chịu. Ngoài những giờ tập ra, tôi không còn phải lặn lội đào đãi ngoài rừng vất vả như trước đây. Dòng suối trong mát, bóng râm dưới tán lá lúc ban ngày cũng như đống lửa ban đêm đã làm dịu bớt sự khắc nghiệt của khi hậu. Tập xong, nghỉ ráo mồ hôi là tôi nhảy xuống vũng suối tha hồ vùng vẫy. Buổi trưa, nếu không muốn ngủ trong nhà thì ra mắc võng dưới bóng cây nằm mơ màng chờ những âm thanh của rừng trưa ru vào giấc ngủ. Mùa này không cần trữ thức ăn. Tới bữa tôi mới xách súng vào rừng hoặc ra suối câu cá. Muốn ăn "sang" hơn phải chịu khó một chút, đi kiếm rau, bẻ măng, hái hoa quả hoặc lấy mật ong...

Chiều tối, tôi đốt một đống lửa trên bãi cỏ, vừa nấu ăn vừa ngắm làn khói xanh lam bay lơ lửng lên vòm lá rồi hòa vào màu tím man mác của rừng chiều. Giờ này bầy khỉ cũng về tới. Chúng nô đùa nhảy nhót trên bãi cỏ trước lúc leo lên cây ngủ. Chỉ có khỉ già ngồi chồm hỗm trên hòn đá nhìn tôi đốt lửa, trầm tư như một cụ già ít nói. Dạo này nó cũng già lắm rồi, chòm lông bên thái dương đã bạc trắng. Trên nhánh cây con báo nằm liếm chân, đợi tôi gọi xuống ăn thịt nướng. Nó đã no mồi suốt ngày trong rừng nhưng vẫn thích nhấm nháp một miếng thịt nướng trước khi đi ngủ vì đã quen như thế từ nhỏ. Nói "nhấm nháp" là chỉ việc ăn thêm cho vui miệng, chứ kỳ thực nó nhai rau ráu cả xương lẫn thịt hoặc gặm sồn sột những khúc xương to.

Hoàng hôn, khoảnh khắc tĩnh lặng đặc biệt của rừng già, phút giao thời giữa ngày và đêm, giữa ánh sáng và bóng tối rừng trở nên êm đềm trong tiếng chim nháo nhác gọi nhau bay về tổ. Nhưng chỉ lát nữa thôi, những âm thanh của cuộc sống ban đêm lại vang lên hối hả khi bóng tối lấp đầy mọi khoảng trống trong rừng.

Ngày lại ngày, cuộc sống cứ bình thản trôi qua như thế. Nhiều lúc tôi có cảm giác như mình đã an phận ẩn dật nơi rừng xanh núi thẳm. Nhưng những đêm chợt thức giấc bởi tiếng cọp gầm à uôm bên kia suối rồi không sao ngủ lại được tôi nằm nghe tiếng mọt nghiến đều đều trong cây gỗ khô, tiếng quả đa rơi lộp bộp trên mái nhà, cảm thấy mình như lạc lõng chơi vơi, như chìm đắm mê man trong màn đêm sâu thẳm của rừng già. Những lúc đó, tiếng con mang tác đều đều trong rừng sâu nghe cũng buồn như tiếng trẻ khóc hời gọi mẹ nơi xóm nhỏ.

Nếp sinh hoạt đều đặn, không khí trong lành cùng chế độ tập luyện tích cực đã giúp tôi phục hồi sức khỏe nhanh chóng. Đến ngày giỗ hai anh, tôi đủ sức đi một mạch về bên mộ, không phải dừng nghỉ dọc đường. Và tôi ăn khỏe lắm. Hầu như lúc nào cũng thấy đói.

Nhưng cuộc sống nhàn nhã cùng hai năm không bóng giặc không bom rơi đạn nổ đã làm trơ mòn ý thức cảnh giác. Trước đây mỗi lần đốt lửa tôi phải đợi đến đêm, hoặc có nấu ăn ban ngày thì cũng chọn thứ củi thật khô và ít khói. Còn bây giờ tôi đốt bất cứ lúc nào, có lúc bứt cả cành tươi ném vào đống lửa cho khói mù lên xua đuổi những con bọ con muỗi đến quấy rầy. Những lần tập đi tập chạy trên cùng một lối đã tạo nên con đường mòn rõ mồn một từ nhà lên tới ngọn đồi cỏ phía trên tráng cát. Đã thế, tôi còn dùng dao phát rộng lối cho dễ đi. Đôi khi tôi ung dung đi bắn gà rừng ngoài đồi mà không hề e ngại những chiếc trực thăng có thể ập tới như ngày nào. Chẳng có ai, chẳng có cái gì nhắc nhớ tới việc giữ bí mật. Lúc này tôi chỉ lo một việc duy nhất là làm sao đủ sức quay về.

Do thiếu muối nên cơ thể tôi kém dẻo dai, đầu óc lúc nào cũng bứt rứt, tay chân bải hoải, và lo nhất là mắt kém dần đi. Để khắc phục, tôi tính tới chuyện đốt cỏ tranh lấy tro ăn. Trong cuốn "Đất nước đứng lên" có kể đồng bào dân tộc tới bữa rút mái nhà đốt ăn thay muối. Có lẽ đã đến lúc áp dụng điều học được tử trang sách. Gì chứ cỏ tranh ở đây không thiếu.

Thế là một buổi chiều lúc gần tắt nắng, tôi xách súng đi ra mé đồi phía trên gốc bồ kết. Ở đó có vạt cỏ tranh già cháy nắng tốt rậm như đừng, mà tôi tính có ăn cả đời cũng không hết. Lúc đầu chỉ định bứt một ôm về đốt ăn thử, nhưng ra tới nơi, tôi bỗng nảy ra ý định nhân dịp này kiểm nghiệm một điều khác cũng đọc được trong sách. Có cuốn sách nào đó đã kể, những con nai con hoẵng đi ăn đêm về thường tới nơi đồng bào dân tộc đốt rẫy để liếm muối trong cỏ tranh cháy. Tôi rút bật lửa đốt luôn vạt cỏ tranh. Mùa này khô nhưng gió thổi lên hướng đỉnh đồi nên không lo cháy rừng. "Gần sáng mình sẽ đến đây phục bắn nai!", tôi nghĩ thầm và bốc đầy một bao tro đem về.

Bữa đầu tiên ăn thứ "muối" của rừng là một kỷ niệm đáng nhớ. Chẳng thấy mặn, chỉ có vị chát, và xàm xạp trong miệng như ăn... tro. Tuy không mấy hứng thú, nhưng về sau tôi vẫn chấm thịt nướng vào tro để ăn. Còn những lúc hầm thịt hay nấu canh rau thì không dám bỏ thứ muối ấy vào. Chỉ nhìn nó nổi lều bều đen đặc, đã thấy mất ngon.

Tối hôm đó tôi không đi bắn nai như dự định. Phần nghĩ có bắn một con cũng không ăn hết, mà bắn con thú chỉ để thỏa ý thích tò mò thì không nên, phần tôi ngại cọp. Cánh rừng phía dưới ngã ba suối có con cọp to, chính cái con hôm trước ra đồi săn bò rừng. Dạo này nó đã mò lên gần đây, lúc chiều thấy dấu chân nó in trên tráng cát to như miệng bát. Không cần thiết phải xây ra một cuộc đụng độ, nhất là về ban đêm, khi mà mọi ưu thế đều thuộc về loài thú vốn được coi là chúa sơn lâm.

Buổi sáng hôm đó cũng bình thường như mọi sáng khác, không hề có dấu hiệu nào báo trước cho tôi biết sắp xây ra một biến cố làm gián đoạn chuỗi ngày êm ả của cuộc sống ẩn dật bất đắc dĩ. Chim vẫn hót râm ran từ lúc hừng đông và mặt trời tỏa nắng gay gắt khi vừa ló dạng.

Bảy giờ sáng. Tôi thả phịch ba lô đá xuống chân cầu thang, thở phào nhẹ nhõm. Đáng ra tôi về nhà sớm hơn, nhưng lúc đi vào dải rừng non gặp nhà khỉ láng giềng đang rối rít trên một lùm cây chi chít những quả chín hồng hồng đỏ đỏ, nên tôi dừng lại xem. Thấy chúng bứt quả ăn ngon lành, tôi cũng hãi ăn thử. Chẳng biết thứ quả gì mà mới ngửi mùi đã thấy buồn nôn. Rõ ràng khẩu vị của khỉ cũng có khác người.

Nghỉ ngơi một lúc, tôi ra suối tắm. Mặt trời đã lên cao. Ánh nắng rực rỡ xuyên qua làn nước trong vắt, soi rõ những hòn cuội trắng mờ dưới đáy vũng suối.

Vừa lội xuống nước, chợt nghe có tiếng sấm ì ùng từ rất xa vẳng lại. "Mới sáng mà đã có giông! Chắc năm nay mưa sớm...". Nghĩ vậy nhưng tôi không bận tâm. Đằng nào cũng phải qua mùa mưa nữa ở đây. Tôi ngụp xuống nước, lặn một hơi tới tận chân tảng đá hình con voi.

Tám giờ sáng. Tôi bước lên cầu thang, vừa đi vừa dùng tay phẩy tóc cho ráo bớt nước. Mới vào nhà, định nhen lửa nướng thịt ăn sáng, bỗng nghe tiếng lũ khỉ chộn rộn ngoài kia. Lê đầu ra cửa, tôi nhìn thấy chúng nhảy từ trên cây xuống bãi cỏ, hớt hải chạy về cây đa. Có biến rồi! Việc gì thế nhỉ! Thái độ lũ khỉ giống hôm chứng kiến vụ trăn mốc nuốt mẹ con báo hoa, nhưng hôm nay chúng chạy thẳng tới gốc đa bám thân cây trèo lên chứ không dửng lại trước nhà tôi. Chỉ có khỉ già lúc ngang qua có kêu lúc chắc mấy tiếng sợ hãi. Chẳng lẽ chúng gặp một con vật nguy hiểm nào đó? Trăn? Cọp? Phía trên dải rừng non, một bầy chim chừng năm sáu con vỗ cánh bay tán loạn. Đầu tôi căng lên. Sự nhạy cảm vụt trở lại và nhanh chóng hình thành mối liên hệ giữa thái độ của lũ khỉ với tiếng sấm ì ầm lúc nãy. Chết rồi! Tiếng trực thăng chứ không phải sấm. Khi đó tôi ngụp xuống nước, không nghe được lúc nó tới gần. Trực thăng đổ quân. Và toán quân này đi theo lối mòn qua tráng cát vào dải rừng non nên lũ khỉ trông thấy. Thú rừng vốn nhạy bén với sự nguy hiểm, dù là xa lạ.

Tôi nhảy hai bước vào nhà chụp thắt lưng đạn cài vào lưng, mang ba lô lên vai và xách súng mở cửa sau, túm lấy sợi dây mây nhún chân đu sang cây đa. Ôm được nhánh rễ phụ, tôi móc sợi dây vào đó rồi tụt xuống đất vòng ra phía sau, nơi có cái hốc giấu vũ khí. Nhanh lên, chúng sắp đến rồi!

Chuồi ba lô và khẩu M.4 vào hốc cây, tôi với tay lấy khẩu AR15 tháo tấm nilon bọc ngoài, lắp băng đạn vào và kéo khóa nòng lên đạn. Sau đó, tôi gạt lớp lá khô, mở nắp thùng lựu đạn lấy năm quả cài vào thắt lưng. Chừng đó đủ rồi mang nặng quá khó vận động.

Chọn chỗ nấp sau khúc rễ cây to tướng, tôi nằm xuống giương súng và chăm chú quan sát. Không hiểu sao tôi cứ mong có bọn thám báo xuất hiện chứ đừng phải trông thấy một con cọp bước ra bãi cỏ, trong người lại rần rần cái cảm giác vừa phấn chấn vừa hồi hộp như hôm nào rình bắn con trăn mốc.

Nhưng lần này không phải đợi lâu. Chỉ sau vài phút, nơi bìa rừng non có mấy nhánh lá rung rung, rồi tên địch đầu tiên lấp ló sau bụi cây. Nó nhẹ nhàng toại người nằm xuống cỏ và nâng súng lên. Sau lưng nó xuất hiện một tên khác lăm lăm súng trong tay, mắt nhớn nhác nhìn quanh.

Cách đó chừng chục mét một khóm cây khác lay động: lại thêm hai tên ló mặt ra. Phía sau còn không? Có lẽ đây chỉ là toán mở đường. Chúng là những con người đầu tiên tôi gặp sau hai năm vắng bóng đồng loại.

Qua kính ngắm xa, cự ly một trăm hai mươi mét vụt gần lại còn vài chục mét. Xem nào! Mũ vải ngụy trang, áo quần loang lổ màu đất và màu cây lá, súng tiểu liên AR15 thắt lưng đạn, lựu đạn, hai khối hình trụ màu vàng chắc lựu đạn khói. Trang bị nhẹ của lính trinh sát.

Tôi hướng kính ngắm vào mặt một tên: khuôn nhặt ngăm đen, bộ ria con kiến, trạc ba mươi tuổi hoặc già hơn một chút, đôi mắt láo liên đảo qua đảo lại gian xảo. Giá biết đang được "quay phim" chắc nó cố diễn xuất đẹp hơn, chứ lúc này điệu bộ nó trông rất xấu. Gì nữa? Cấp bậc thượng sĩ, phù hiệu lính dù. Chà! Đụng loại "thứ dữ" đây!

Trong đầu tôi lướt nhanh một loạt các tình huống. Lính gì cũng thế thôi, không đáng ngại! Ở đây rừng là nhà tôi! Khi chúng bước ra bãi cỏ coi như sa vào bẫy. Diệt gọn tốp này không khó, nhưng phía sau còn bao nhiêu tên? Diệt bọn này, chúng sẽ đổ quân lùng sục. Có cần thiết phải đụng độ không, trong khi tôi có nhiệm vụ khác quan trọng hơn? Hay mình lẩn sâu vào rừng, đố chúng làm gì được! Có điều làm vậy sẽ không biết được ý đồ của địch, và những gì tìm thấy ở đây càng kích thích chúng tò mò hơn...

Tuy nghĩ như vậy, nhưng tự trong thâm tâm tôi biết mình đang ao ước được tiếp xúc với con người, một nhu cầu mãnh liệt đến nỗi tôi không muốn bỏ đi, dù con người trước mặt lúc này là kẻ thù. Chả lẽ không có cách nào để nói chuyện với nhau mà không dùng tới súng đạn ư?...

Tốp lính đã phát hiện ra ngôi nhà. Hai tên ghìm súng yểm trợ, hai đứa khác lom khom tiến ra bãi cỏ. Ngang chỗ mấy gốc cây mọc giữa bãi, chúng nằm lại giương súng. Hai tên phía sau vượt lên. Rất bài bản! Lúc này có thể tỉa từng đứa dễ dàng, nhưng tôi chưa bắn. Để xem chúng còn làm gì...

Bốn tên lính chỉ cách ngôi nhà một quãng ngắn. Một thằng vận động tới nấp sau chiếc bàn đá. Nó quan sát ngôi nhà khá lâu rồi giơ tay ra hiệu cho đồng bọn. "Hiểu rồi! Mày định ghé thăm nhà tao đây mà..." Tôi đoán không sai. Nó chạy mấy bước tới chân cầu thang và cắp súng vọt lên. Có tiếng chân đạp cửa.

Một phút... hai phút... Nó làm trò khỉ gì trên đó mà lâu thế không biết! Tôi đâm cáu. Chẳng phải sợ nó lấy cắp mất thứ gì, (Có gì đâu mà lấy, cùng lắm chỉ mất mấy xâu thịt khô treo trên bếp) nhưng nhìn cảnh thằng giặc chạy xống xộc lên nhà mình, tức không chịu được!

Kia rồi Đôi giày lính màu đen giẫm rung những bậc cầu thang. Xuống tới đất, tên lính cúi người trên ba lô đá. Hắn mở nắp ba lô, cầm một hòn lên săm soi vẻ ngạc nhiên rồi bỏ vào túi quần. Tôi buồn cười quá, nhưng cố nén. Tên lính xách súng chạy nhanh đến nấp sau gốc cây, ngoái đầu sang nói gì đó với đồng bọn. Tôi chỉnh kính ngắm vào mặt nó để đọc trên cặp môi mấp máy xem nói gì, nhưng không được. Lại cái thằng thượng sĩ lúc nãy, chắc hắn chỉ huy tốp lính này.

Tôi đang phân vân thì tên thượng sĩ đã quyết định. Hắn rút quả lựu đạn cài ở thắt lưng đưa lên miệng cắn chốt. Thôi chết, thằng này định phá nhà. Tôi ngắm nhanh vào vai hắn và bóp cò. Muộn rồi! Phát súng nổ đúng lúc hắn rút xong chốt lựu đạn. Hắn nẩy người loạng choạng, cánh tay phải thõng xuống, quả lựu đạn rơi xuống đất. Trong một thoáng, hắn ngẩn mặt nhìn quả nổ chết chóc đang nằm giữa hai chân, làm như nó vừa trên cây rồi xuống chứ không phải của hắn. Đáng ra phải đá văng nó đi và lăn nhào để tránh, nhưng viên đạn bất ngờ găm vào vai đã làm hắn tê liệt mọi phản xạ.

Một ánh lửa bùng lên ngay dưới chân thằng thượng sĩ, hất hắn nhảy dựng lên rồi ngã vật xuống trong đám khói bụi. Tiếng nổ dội rền rền trong rừng.

Phát súng khai cuộc đã nổ. Sau vài giây choáng váng, ba tên còn lại giương súng bắn xôi xả vào gốc cây đa. Mảnh vỏ cây văng tung tóe, nhựa trắng chảy ròng ròng từ những vết đạn.

Đến lượt chúng mày! Tôi chọn thằng nấp sau hòn đá. Thằng này có vẻ kinh nghiệm, hắn bắn từng loạt ngắn chắc mạch. Tôi găm một phát vào cánh tay đang bóp cò súng, chỗ gần vai. Khẩu súng rơi xuống, tên địch ôm tay lăn nhào nấp sau hòn đá.

Để mặc tên bị thương, tôi hướng nòng súng vào tên nấp sau gốc cây, lần này ngắm vào bàn tay đỡ súng. Viên đạn bắn trúng mu bàn tay, hất khẩu súng văng ra.

Hai phát súng vừa rồi đã giúp tên còn lại phát hiện được chỗ tôi nấp. Hắn bắn rát. Từng tràng đạn cắm phầm phập vào khúc rễ cây và bay chiu chịu trên đầu, khiến tôi phải ôm súng lăn mấy vòng ra sau gốc đa để tránh. "Oang... Oang", chúng ném liên tiếp hai quả lựu đạn. Một quả nổ sát gốc cây đa, quả kia trúng nhánh rễ phụ bật ngược trở lại nổ trên bãi cỏ. Lợi dụng lúc khói bụi mù mịt, tôi dán người sát đất trườn lui một quãng rồi bò nhanh sang vạt rừng phía bên phải. Ở đây rậm rạp, không không dễ gì phát hiện ra được.

Nấp sau gốc cây, tôi thận trọng ló đầu quan sát. Hai tên bị thương đang cuống quít băng vết thương, tên còn lại vẫn giương súng bắn từng loạt quanh cây đa. Ngoài dải rừng non không thấy có bọn khác xuất hiện. Tốt lắm! Đến lúc phải săn sóc thằng đang bắn. Hắn nấp kín quá, chỉ nhìn thấy một bàn chân thòi ra. "Thì chân vậy!" Tôi ngắm vào chiếc giày linh màu đen và bóp cò. Hắn rụt chân nhanh như chớp và hét váng lên.

Tranh thủ lúc đó, tôi xách súng lủi qua những lùm cây tiến đến gần hơn. Nhanh lên, càng áp sát càng tốt! Lỡ trực thăng tới yểm trợ...

Có tiếng sột soạt phía sau. Tôi ngoảnh lại và suýt bật kêu mừng rỡ khi nhìn thấy con báo ló đầu ra. Lực lượng tiếp ứng đến thật đúng lúc. Tôi đang yếu, nếu phải cận chiến cầm chắc thua. Giờ thì khỏi lo rồi! Vẫn biết báo Aga đã quen với tiếng súng những lúc cùng tôi đi săn, nhưng thật bất ngờ khi nó dám chạy về tìm tôi giữa lúc súng nổ ầm ầm như thế này. Tôi xoa đầu con báo rồi tiếp tục luồn đi, lát sau đã đến bên hông tụi lính, chỉ cách hai chục mét. Hai tên bị trúng đạn ở tay đang gác súng lên mấy hòn đá bắn hú họa canh chừng cho tên kia tháo giày băng vết thương. Thằng này nhặt mày nhăn nhó méo xẹo, chứng tỏ hắn đau và hoảng hốt đến cực độ.

Tôi trườn tới gốc cây giáp bãi cỏ. Mấy tên lính vẫn chưa hay biết gì, chúng đang hớt hải giục nhau rút. Một thằng cầm chiếc máy truyền tin đưa lên miệng. Tôi nâng súng, gạt sang nấc bắn liên thanh và thét to: "Bỏ súng xuống, giơ tay lên?" Tiếng thét kháo kháo nhưng cũng đủ làm cho tốp lính giật mình. Hai tên nấp sau tảng đá hoảng hết thả rơi súng, nhưng tên kia lại quờ tay định chụp khẩu tiểu liên đặt trên cỏ. Tôi bắn nhanh một loạt. Đạn cày tung đất cạnh nó, mấy viên xuyên vỡ báng súng làm tóe lên những mảnh nhựa màu đen.

- Đừng liều lĩnh vô ích. Đưa tay lên! - Tôi lại quát, lần này dõng dạc hơn.

Hai tên lính từ từ đứng dậy, nhưng chỉ có cánh tay lành là giơ được quá đầu. Tên bị ở chân vẫn ngồi trên cỏ giơ cả hai tay, mắt lấm lét. Tôi bước ra khỏi gốc cây, gằn giọng nói:

- Nếu muốn giết các anh, tôi chẳng cần nổ súng lần thứ hai đâu. Muốn sống phải làm theo lệnh tôi, nghe rõ chưa?

- Dạ... - Cả ba đứa li nhí, nhìn tôi sững sờ.

- Cởi nịt đạn ra? - Tôi ra lệnh.

Chúng luống cuống tháo thắt lưng đạn. Tên trung sĩ, kẻ bị bắn vào mu bàn tay, cởi luôn chiếc máy truyền tin đặt xuống cỏ.

- Lùi lại năm mét. Đứng vào một chỗ. - Tôi lệnh tiếp.

Hai tên đi giật lùi. Tên què chân chống tay lết, cuộn băng băng dở tháo ra trải dài trên cỏ, máu loang từng vệt đỏ sẫm. Tôi bước tới nhặt mấy thắt lưng đạn ném vào gốc cây và hỏi tiếp, giọng nhẹ hơn:

- Các anh có mấy người? - Dạ... thưa... tụi em có bốn... - Tên trung sĩ trả lời run run.

- Nói láo! Nếu đồng bọn của các anh xuất hiện, thì các anh là người chết trước đó? - Dạ, thiệt tình... tụi em chỉ bốn người. - Tên què chân trả lời...

- Còn trên máy bay?

- Dạ, có phi công.

- Mấy người?

- Dạ một ạ!

- Thế lái phụ?

- Dạ bay tầm ngắn nên không cần lái phụ.

- Thôi được! - Tôi nói - Giờ nghe đây! Tôi biết các anh là những người giỏi cận chiến, nhưng không đọ nổi với vệ sĩ của tôi đâu, nên đừng có giở trò làm liều, rõ chưa?

- Dạ... - Cả ba ấp úng, mắt lấm lét nhìn con báo. Nãy giờ nó theo tôi như hình với bóng, thỉnh thoảng lại nhe răng gầm gừ vì ngửi thấy mùi máu tươi. Tôi phải vỗ vỗ lên đầu nó để trấn an.

Tôi bắt ba tên lính quay lưng lại, bước tới soát người chúng cho chắc ăn. Mất cảnh giác với bọn này là mất mạng. Trong người chúng không có vũ khí.

- Cho các anh ngồi xuống, băng lại vết thương đi! - Tôi giật mấy cuộn băng cá nhân cài ở nịt đạn ném cho chúng.

Trong lúc chờ bọn lính băng vết thương, tôi nhặt mấy khẩu súng tháo băng đạn ném vào một chỗ, kéo khóa nòng cho viên đạn trong súng rồi xuống cỏ.

Đợi chúng băng bó xong, tôi mới hỏi tiếp:

- Các anh lên đây làm gì?

- Dạ... thưa... tụi em được lệnh thám sát...

- Thám sát cái gì?

- Dạ... tụi em chỉ làm theo lệnh... - Y ấp úng.

- Nói rõ đi! - Tôi quát - Dối trá thì không còn được sống mà về đâu!

- Dạ, - tên trung sĩ vội đáp - Máy bay trinh sát chụp ảnh, họ phát hiện ở đây có những dấu vết đáng ngờ. Bên tham mưu giao tụi em lên kiểm tra tại chỗ...

- Dấu vết gì?

- Dạ, trong ảnh chụp thấy có đốt lửa và có lối đi, mấy ổng nghi có người ở đây...

- Ảnh đâu?

- Dạ, để trên máy bay...

Tôi suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Tôi sẽ kiểm tra lại điều đó. Nếu đúng vậy, sẽ cho các anh về. - Tôi cầm chiếc máy truyền tin đưa cho tên trung sĩ - Cho phép anh gọi trực thăng, nhớ dặn họ đừng có giở trò.

Tên trung sĩ cầm máy chưa kịp nói gì thì tôi nhặt mấy khẩu súng rỗng ném trả cho chúng: "Cầm lấy!"

Bọn lính sửng sốt. Chúng không ngờ tôi lại rộng rãi như thế. Hoặc chúng đang căng óc cố nghĩ xem tôi là người thế nào? Áo quần như chúng, súng đạn đầy người và cũng hiện đại không kém, nhưng mặt mày đen sạm hốc hác cùng mái tóc dài buộc túm sau gáy thì giống người rừng? Lại còn con dã thú theo sát từng bước, chốc chốc lại nhe hàm răng trắng ớn nhọn hoắt với cái miệng đỏ lòm. Chừng đó đủ gây ấn tượng mạnh hơn cả một nòng tiểu liên lăm lăm săn sàng nhả đạn.

- Nhìn cái gì? Liên lạc đi! Tôi không thèm lừa các anh đâu! Thấy bọn lính cứ nhìn chăm chăm, tôi phát cáu.

Tên trung sĩ vội bật máy gọi:

- A lô! Anpha đâu? Đây Bê ta gọi Anpha.

Trong máy có âm thanh trả lời, giọng eo éo nghe không rõ.

- ...Dạ, Bêta có ba người bị thương, thượng sĩ đã chết. Xin trực thăng xuống đón.

Tiếng trong máy hỏi lại gì đó. Tên trung trả lời:

- Dạ tụi em bị bắt... ở đây có một... - Y liếc nhìn tôi ấp úng.

Tôi chìa tay. Y vội đưa máy cho tôi.

- Phi công nghe đây! - Tôi gằn giọng nói vào máy - đồng bọn của anh có một người chết, ba người bị thương đang bị bắt giữ. Cho phép anh xuống đưa họ về...

- Dạ thưa... - Tên trung sĩ xen vào. Tôi quắc mắt nhìn hắn:

- Cái gì?

- Dạ thưa quý anh, phi công là đàn... là... phụ nữ ạ!

Tôi ngớ người kinh ngạc. Chuyện lạ! Xưa nay trên thế giới cũng có phụ nữ lái máy bay chiến đấu, nhưng ở Việt Nam thì đây là lần đầu tiên tôi nghe nói đến. Chà! Xưng hô thế nào nhỉ? Chị? Bà? Cô? Mụ?... Nói chuyện với đàn ông, dù là kẻ thù, vẫn dễ hơn.

Trong máy có tiếng nói vọng ra. Giờ thì tôi biết đó là giọng nữ chứ không phải vì máy nên âm thanh khác đi:

- Ông là ai?

- Cứ gọi tôi là... người của rừng cũng được. - Tôi cười nhẹ - Chuyện đó đâu có gì quan trọng!

- Làm sao tôi tin ông được?

- Nghe đây? - Tôi nói như quát vào máy làm mấy tên lính cũng giật mình - Tôi không cần cô tin hay không. Đồng bọn của cô có người bị thương cần được cứu chữa, người chết cần đưa về chôn cất. Cô có thể bỏ mặc họ mà về gọi thêm người tới đây nhưng tôi tin khi đó chỉ còn mấy khúc xương thôi. Ở đây thú dữ không thiếu, chúng đang ngửi thấy mùi máu tươi đấy? Chẳng lẽ cô... không có chút tình người nào với họ sao?

Một lát im lặng. Rồi giọng trong máy hỏi lại:

- Máy bay có thể đáp xuống ở đâu?

Tôi quay sang hỏi tên trung sĩ:

- Trực thăng hiện đỗ ở đâu?

- Dạ trên đỉnh đồi... nơi có vạt cỏ cháy.

- Hiểu rồi! Đấy là chỗ tôi vẫn thường ngồi nghỉ giữa chặng tập. Tôi nói vào máy:

- Cách chỗ cô đang đứng khoảng hai cây số về hướng tây bắc có một tràng cát rộng nằm cạnh con suối. Tôi sẽ dẫn mấy người bị thương ra đó. Khi nào được gọi, cô cho máy bay đỗ xuống, rõ chưa?

- Rõ rồi! - Giọng trong máy trả lời cộc lốc.

Tôi đưa máy cho tên trung sĩ cầm để được rảnh tay, và nói với chúng:

- Các anh đi ra chỗ tràng cát, máy bay sẽ xuống đó. Còn người kia... - Tôi lưỡng lự - Thôi, để tính sau. Đi đi!

Cả ba dìu nhau đứng dậy đi theo hướng tôi chỉ. Tên bị thương ở chân chống súng bước nặng nhọc. Lúc tới dải rừng non, tôi rút dao chặt một thân cây nhỏ có nạng đưa cho hắn:

- Anh cầm chống đi cho dễ!

- Cám... cám ơn... quý anh! - Hắn lắp bắp.

Cho ba tên lính đi trước, tôi theo sau cách vài mét. Ra tới một phần ba tràng cát, tôi bảo cả bọn đứng lại rồi hỏi tên trung sĩ:

- Trên máy bay trang bị vũ khí gì?

- Dạ không có. Trực thăng chở quân bình thường, không gắn súng.

- Thế còn phi công!

- Dạ, chị Thủy có cây ru lô.

- Được! Anh gọi máy bay đi!

Y mở máy gọi. Phía trên đồi có tiếng động cơ phành phạch. Một chiếc HU1A từ từ lên cao, chao nứa vòng rồi bay thẳng về hướng tôi. Bất giác tay tôi siết chặt khẩu súng. Cảm giác khi bị trực thăng săn đuổi ngày nào giờ như trở lại...

- Anh nói máy bay đỗ giữa bãi. - Tôi bảo.

Tên trung sĩ gọi vào máy. Chiếc trực thăng xuống thấp hạ càng chính giữa tráng cát, cánh quạt cuộn tung bụi mù mịt. Tôi cầm chiếc máy từ tay tên trung sĩ và gọi:

- Phi công nghe đây! Tắt máy. Bước xuống đứng cạnh máy bay!

Tiếng động cơ im bặt. Cánh quạt quay chậm dần rồi ngừng hẳn. Cửa bên mở ra, một người bước xuống. Cô ta gỡ chiếc mũ phi công bỏ lại vào buồng lái, tháo cặp tóc đưa lên miệng ngậm, hơi ngửa đầu lắc lắc cho mái tóc xõa ra rồi đưa cả hai tay ra sau vuốt tóc kẹp lại.

Tôi hơi ngỡ ngàng. Không ngờ cái cô "giặc lái" này lại có những động tác đầy nữ tính đến như thế. Mà lại để tóc dài nứa chứ! Nếu tóc cô ta uốn, ép gì đó, chắc tôi không ngạc nhiên. Nãy giờ tôi vẫn hình dung trong đầu một mụ đàn bà cao to, tướng tá dữ dằn bặm trợn, cỡ trên ba chục tuổi. Cô này trông còn trẻ và thon thả.

Tôi quay sang bảo mấy tên lính: "Tới đi". Chúng thất thểu bước tới. Tôi theo sau. Lát sau tôi đã nhìn rõ cô ta: áo pilốt, quần lính, trạc hăm bốn, hăm lăm tuổi, khuôn mặt tròn tròn trông cũng... dễ coi. Cô ta đứng cạnh máy bay chằm chằm nhìn chúng tôi, có vẻ không sợ hãi gì.

Còn cách chiếc trực thăng một quãng ngắn, tôi ra hiệu cho bọn lính dừng lại rồi đi vượt lên, tới trước mặt cô gái và dừng chếch sang một bên để có thể kiểm soát được cả tốp lính. Cô ta nhìn tôi, lại nhìn xuống con báo lúc này vẫn theo tôi sát gót, vẻ ngạc nhiên lẫn tò mò.

Không nói gì, tôi nhìn thẳng vào mắt cô ta và chìa tay trái ra, tay phải vẫn nắm chặt súng, ngón trỏ đặt hờ trên vòng cò. Hiểu ý, cô gái từ từ mở bao súng rút khẩu ru lô, cầm đầu nòng chìa báng đưa cho tôi. "Lịch sự gớm nhỉ!". Tôi thoáng cười, cầm khẩu ru lô bấm chốt lắc ổ đạn ra, dốc cả sáu viên đạn rơi xuống cát rồi vẫy tay hất ổ đạn sập trở lại và đưa trả. Cô ta nhận súng, nét mặt hiện chút sửng sốt nhưng ngay lập tức trở lại bình thản.

- Nghe tôi hỏi đây! - Tôi nói chậm rãi - Các người tới đây làm gì?

Cô ta im lặng, ánh mắt lộ vẻ thách thức. Tôi cười khẩy:

- Cô có thể không trả lời. Chẳng qua tôi đã hứa với mấy người kia là sẽ để cho họ sống nếu nói đúng sự thật, giờ chỉ kiểm tra lại thôi!

- Chị Thủy... - Tên bị thương ở chân kêu lên. Cô ta lạnh lùng trả lời:

- Tôi được lệnh chở những người này tới đây, thế thôi!

- Tấm không ảnh đâu? - Tôi hỏi luôn.

Cô ta ngạc nhiên nhìn mấy tên lính nhưng không nói gì chỉ quay người với tay lên buồng lái lấy xuống chiếc cặp mỏng, thản nhiên đưa cho tôi.

Một mặt chiếc cặp làm bằng mi ca trong suốt. Tấm ảnh đen trắng to cỡ trang sách cài trên tấm bản đồ bay. Tôi nhìn qua và hiểu ngay: trong ảnh là một vùng đồi núi được chụp từ trên cao, thấy rõ cả mảng đen của cỏ cháy và lối mòn lờ mờ ngoằn ngoèo.

Tôi xem tiếp tấm bản đồ bay: đường bay kẻ bằng chì xanh, xuất phát từ Đà Nẵng chạy dịch dắc qua mấy điển cao, chắc để dễ định hướng, rồi kết thúc ở điểm có dấu chì đen. Tôi định thu tấm bản đồ, nhưng sau lại thôi. Thứ này chỉ dùng cho những kẻ "đi mây về gió". Hơn nữa, nó chỉ có vùng từ vĩ tuyến mười sáu trở vào.

Đưa trả cô ta chiếc cặp, tôi hỏi tiếp:

- Cô bay tới đây mấy lần rồi?

- Lần đầu? - Cô ta đáp cụt lủn.

- Trong kia có một người chết, cô nên đưa xác anh ta về. Trên máy bay có băng ca không?

Cô ta không nói, chỉ gật đầu.

- Lấy xuống đây? - Tôi ra lệnh, đã thấy bực mình nhưng cố nhịn. "Được rồi! Thế nào cũng phải cho cô ta một bài học..." Tôi tự nhủ, nhưng bài học gì thì lúc này chưa nghĩ ra.

Cô ta mở cửa hông máy bay lôi xuống chiếc băng ca khung nhôm, loại gấp được. Tôi liếc mắt, thấy trong khoang máy bay trống trơn.

Quay sang tên lính bị thương ở chân, tôi nói:

- Anh ở lại đây. Nếu sợ cọp thì leo lên máy bay mà ngồi. Còn hai anh kia đi theo tôi. Cả cô nữa, xách băng ca theo.

Cô ta không nói gì, định vác chiếc băng ca lên vai, nhưng tên trung sĩ đã đưa cánh tay không bị thương đỡ lấy: "Chị để em!" Giọng anh ta có vẻ kính nể, mặc dù cô gái trông ít tuổi hơn.

Tôi đi trước, ba "vị khách" theo sau. Báo Aga uyển chuyển sãi bước bên cạnh. Bọn chúng sẽ không dám phản phúc, ít nhất cho đến lúc đưa được xác tên kia về.

Mười giờ trưa. Mặt trời đổ lửa xuống tràng cát, hơi nước bay lên thành những lớp không khí lung linh. Bọn chúng tôi, hai lực lượng đối địch, đi bên nhau dưới cái nắng chói chang. Hai tên lính bị thương bước nặng nhọc. Tôi biết chúng mệt, nhưng không còn cách nào khác. Chả lẽ chỉ tôi với cô ta lẽo đẽo kẻ trước người sau khiêng cái xác? Vả lại, không phải giải quyết hậu quả do chính chúng gây ra.

Qua khỏi dải rừng non, chúng tôi đến bên xác tên thượng sĩ. Quả lựu đạn nổ làm hai chân hắn nát bấy. Ruồi nhặng vù vù trên vũng máu đen đặc. Bầy kiến kéo tới bu đầy cả trên mặt, trên đôi mắt lúc này đã trắng dã nhưng vẫn mở trừng trừng như còn kinh sợ. Tôi nhặt khẩu súng gãy và cởi nịt đạn đem tới bỏ vào đống vũ khí thu được lúc nãy, bảo hai tên lính vuốt mắt cho kẻ chết. Cả hai luống cuống làm mãi không được. Tôi đành gạt chúng ra, đặt bàn tay lên đôi mắt của xác chết, để một lúc rồi vuốt cho chúng nhắm lại. Mấy tên lính thuỗn mặt đứng nhìn.

Chúng tôi hì hục vần cái xác. Cô gái cũng định mó tay vào nhưng tôi gạt đi. Dù sao cô ta cũng là phụ nữ.

Đặt được cái xác lên băngca, tôi bảo cả bọn đứng đợi, lên nhà lấy bi đông nước xuống đưa cho hai tên lính. Chúng mừng rỡ cảm ơn rối rít, nhưng chưa uống ngay mà trao cho cô gái:

- Chị Thủy uống nước?

- Các anh uống đi, tôi không khát!

Cô ta trả lời, đưa mắt nhìn ngôi nhà và cảnh vật xung quanh vẻ ngạc nhiên. Lúc nhìn xuống dòng suối, cô ta mở tròn đôi mắt thích thú, mặt rạng nét hồn nhiên đến ngây thơ. Nãy giờ tôi vẫn kín đáo quan sát cô ta, vì tò mò hơn là cảnh giác. "Con gái trẻ thế mà lái được trực thăng...", trong lòng tôi không khỏi thán phục. Đối với tôi, lái trực thăng là một lĩnh vực quá ư phức tạp. Bắn rơi nó dễ hơn nhiều. Càng lúc càng thấy cô "giặc lái" này thật khó hiểu. Không rõ cô ta cấp bậc gì, nhưng chắc không phải loại vừa vì tụi lính tỏ ra kính nể thật sự.

Chúng tôi, bốn người nắm bốn góc băng ca khiêng cái xác ra máy bay. Lúc này tôi rất mệt. Sức tôi còn yếu, sáng nay chưa ăn uống gì. Trận đánh vừa rồi tuy đơn giản nhưng hết sức bất ngờ làm đầu óc căng thẳng, giờ lại luôn ở trong trạng thái cảnh giác cao độ. "Dù sao cũng đỡ hơn là phải đào hố chôn xác tụi nó...". Tôi tự an ủi và nghĩ xem có thể khai thác được gì ở tốp lính bại trận này.

Có thể chúng khai đúng, đây chỉ là một cuộc trinh sát bình thường. Bức không ảnh cùng chiếc trực thăng không vũ trang nói lên điều đó. Hơn nữa, tốp lính ít ỏi, trang bị nhẹ và hoàn toàn bị bất ngờ khi chạm súng. Nhưng có mối liên hệ nào giữa chuyến bay hôm nay với những chiếc trực thăng tới đây từ hơn hai năm về trước? Nếu có, chắc gì tụi này đã biết? Chúng chỉ là những quân tốt đen trên bàn cờ.

Đẩy được cái xác lên máy bay, tôi đưa tay áo gạt mồ hôi, nói với cả bọn:

- Các người nghe đây! Tôi làm tất cả những việc này vì lòng nhân đạo, chứ đúng ra các người không đáng được đôi xử như vậy khi vô cớ dùng súng đạn tấn công vào một con người sống đơn độc giữa rừng...

Mấy tên lính cúi rặt, cô gái vẫn nhìn tôi chăm chứ. Không hiểu cô ta nghĩ gì? Tôi nói tiếp:

- Chắc các người muốn biết tôi là ai, và vì sao sống ở đây? Chẳng có điều gì phải giấu. Tôi sẽ nói cho các người biết để thỏa trí tò mò và để có cái về báo cáo với cấp trên. Tôi là một người lính Giải phóng lạc trong rừng, đã ở đây hơn hai năm nay. Vạt cỏ cháy do tôi đốt, lối mòn này tôi đi như các người thấy tận mắt. Các người là những con người đầu tiên tôi được gặp sau hai năm vắng bóng đồng loại. Hai năm... tôi khao khát một giọng nói, một tiếng cười nhưng các người chỉ đem đến đây sự chết chóc... Mà thôi! Các người chẳng hiểu được đâu! Nhưng tôi cũng nói luôn: bất cứ kẻ nào đến đây với mục đích làm hại tôi, sẽ bị đánh trả quyết liệt. Nào, có ai muốn nói gì trước lúc chia tay không? - Tôi nói giọng châm biếm.

Viên trung sĩ lên tiếng:

- Dạ thưa... xin cám ơn quý anh... Mong quý anh thông cảm, tụi em chỉ làm theo lệnh...

Tôi ngắt lời hắn:

- Tôi biết! Các anh là lính mà! Nhưng các anh nên nhớ, trước khi bóp cò súng, cần phải biết mình bắn vào ai và để làm gì? Chúng ta là những con người cả, đừng tự biến mình thành người máy chỉ biết bắn giết... - Tôi chợt muốn bật cười với bài "hùng biện" có vẻ không đúng lúc của mình - ... Còn cảm ơn thì không cần thiết. Chính các anh bị thương vì viên đạn tôi bắn, đúng không?

Tên lính què chân nãy giờ nhoài người ra cửa máy bay hóng chuyện, nay cũng chen vào:

- Dạ thưa... tụi em cám ơn vì quý anh đã tha chết... Mà bị thương thế này chắc em sẽ được giải ngũ...

Anh ta khấp khởi.

Trời trưa gần tròn bóng. Cuộc trò chuyện kỳ lạ đúng là diễn ra giữa "thanh thiên bạch nhật". Tôi nói, giọng khản đặc:

- Còn việc nữa! Cách đây hơn hai năm có một chiếc trực thăng rơi ở đây. Cả ba người trong máy bay đều chết. Nhờ các người về báo cho gia đình hoặc đơn vị họ lên đem hài cốt về quê quán... - Tôi nói đều đều, hơi ngạc nhiên trước sự sững sờ của ba người linh và vẻ mặt tái xanh của cô gái. Theo tôi biết, phi công tên Trà, hai người kia tên Lộc và Tình, người của không đoàn Sáu.

Cô gái lảo đảo vịn tay vào cửa máy bay, miệng lắp bắp "Sao... sao lại... ở đây?..."

Tôi nhìn cô ta:

- Cô biết họ phải không?

Cô ta chúi đầu vào cánh tay không nói được, đôi vai rung rung. Tôi đưa mắt cho mấy người lính ra ý hỏi. Lúc này họ đã xô đến gần nghe chuyện. Viên trung sĩ nói:

- Dạ thưa... nếu đúng vậy thì... đấy là máy bay của anh chị Thủy.

- Anh? Anh ruột? - Tôi ngạc nhiên kêu lên.

- Dạ phải!

"Đúng là quả đất tròn! Gặp "oan gia" rồi!". Tôi nhìn cô gái, nghĩ thầm. Cô ta ngước đôi mắt ướt đẫm, hỏi lại như chưa tin:

- Anh nói... anh Trà chết ở đây?

- Đúng vậy! Tôi có xem giấy tờ. Nhưng tại sao khi máy bay mất tích mà không ai đi tìm? - Tôi hỏi, nghĩ giờ đây chắc sẽ giải đáp được thắc mắc ám ảnh suốt mấy năm nay. Dạ có tìm... nhưng không biết ở đây... - Cô ta lại khóc nức lên.

- Cô có thể nói rõ hơn được không? - Tôi sốt ruột.

Trưa nắng nóng, cái xác đang bốc mùi tanh nồng khó chịu.

- Anh ấy... bay tiếp tế... - Cô ta nghẹn ngào không nói được.

Viên trung sĩ xen vào:

- Dạ, để em kể cho quý anh rõ. Hôm đó ảnh bay đi tiếp tế cho tụi em mà...

Sắp xếp những lời kể khá lộn xộn của viên trung sĩ, tôi được biết như sau: Tiểu đội thám báo của y chốt ở một điểm cao gần A Sầu đã hơn mười ngày. Lương thực hết. Họ gọi lên máy bay thám thính yêu cầu điện về nhà xin tiếp cứu. Ngày hôm sau, họ gặp một đại đội bộ binh hành quân qua, bèn điện xin ý kiến trung tâm chỉ huy và nhập vào toán quân này xuống Huế. Hơn tuần sau họ về tới căn cứ và được biết một chiếc trực thăng bay đi tiếp tế cho họ bị mất tích. Chiếc trực thăng này khi bay được nửa đường thì nhận lệnh từ căn cứ gọi quay về vì toán thám báo đã rút. Đó cũng là lần liên lạc cuối cùng.

- Thế sao không đi tìm? - Tôi hỏi

Cô gái giờ đã bình tĩnh hơn, trả lời:

- Không đoàn tổ chức bay tìm mấy tháng liền. Không ai nghĩ ảnh bay lên tận đây. Các đơn vi đồn trú dọc đường bay của phi vụ hôm đó cũng được lệnh tìm kiếm, nhưng không có kết quả. Họ nói chỉ thấy máy bay lúc bay đi...

- Đúng vậy đó, thưa quý anh! - Viên trung sĩ xen vào - Sau khi máy bay mất tích, chị Thủy xin ra đội bay để đi tìm...

Cô gái cắt ngang lời kể của y:

- Thưa, mộ anh em ở gần đây không ạ? Em lên đó được không?

Tôi liếc nhìn đồng hồ, trả lời:

- Cô nên trở về. Những người bị thương cần được cứu chữa, để lâu vết thương sẽ nhiễm trùng. Còn nếu cô và gia đình mấy người kia muốn đem hài cốt về, lên đây tôi sẽ giúp.

- Dạ thế nào em cũng lên. Ba em hai năm nay cứ ray rứt hoài nên sanh bệnh... Mà anh cho khi nào?

- Tùy cô thôi! Nhưng nên lên sớm vì mùa mưa sắp đến rồi. Cô sẵn máy bay, lo gì. - Tôi nói pha chút mỉa mai. Cô này dám thuộc loạt "con ông cháu cụ" đây!

- Dạ, nếu được thì ngày mai... không, chắc phải ngày kia.

- Được! Tôi đợi trong vòng một tuần. Nên lên đây vào buổi sáng. Tôi muốn máy bay không vũ trang, người không mang vũ khí. Cô yên tâm, xuống đây tôi sẽ bảo đảm an toàn cho mọi người.

- Em hiểu! Nhưng làm sao tìm được anh?

Tôi chỉ vào cái máy viên trung sĩ đang giữ:

- Máy này liên lạc được bao xa?

- Dạ, nghe rõ trong năm ngàn mét nếu liên lạc với máy bay ở trên không. Ở mặt đất còn tùy địa hình.

- Được rồi, đưa máy đây? Khi cô tới, liên lạc với tôi qua máy. Nếu có trục trặc, ví dụ máy hỏng, máy bay có thể đổ xuống nhưng người không được tự tiện đi vào rừng. Bây giờ các người về đi!

Mấy người lính gần như đồng thanh: "Dạ, xin cám ơn quý anh". Cô gái chỉ hơi cúi đầu chào rồi bước lên máy bay.

Đang định bước đi, tôi chợt nhớ ra một việc nên quay lại nói:

- Khoan đã, đợi chút? - Tôi cởi chiếc đồng hồ đeo trên tay đặt vào tay cô gái - Đồng hồ của anh cô! Cô giữ lấy!

Cô ta nhìn chiếc đồng hồ, lật mặt sau ra xem, ánh mắt ngân ngơ:

- Của anh Trà đây mà! Ảnh mua nó hồi đi tu nghiệp...

Tôi biết mặt sau đồng hồ có khắc dòng chữ: "Okinawa-1967"

Mặt trời lên tới đỉnh đầu. Tôi quay lưng đi thẳng một mạch vào rừng, tin chắc không có họng súng nào nhắm theo, cho dù họ có đạn. Lúc vào tới dải rừng non mới nghe tiếng động cơ nổ. Chiếc trực thăng từ từ bốc lên cao rồi bay đi.

Chương XVII

Đói mềm cả người. Tôi nướng thịt ăn trưa và có cảm giác như đang nhai cỏ khô. Cuộc đổ bộ bất ngờ của những kẻ đồng loại đối địch đã xáo trộn tất cả nếp sống lâu nay vốn buồn tẻ mà êm đềm. Bứt rứt không yên, tôi cứ nhấp nhổm như ngồi trên lửa. "Hình như mình vừa phạm phải một sai lầm khủng khiếp nào đó... Nhưng là việc gì?..." Những ý nghĩ ngổn ngang trong đầu mà chẳng có điều gì rõ nét.

Cuối cùng tôi đành bỏ bữa ăn, xách súng ra ngồi bên suối cố tĩnh tâm để suy nghĩ về từng việc...

Chuyện trả súng? Đó chỉ là đòn tâm lý! Mấy khẩu súng không làm cho kẻ địch mạnh hơn. Thế còn việc báo cho họ chiếc trực thăng rơi và những người chết? Cũng đáng làm, vì lòng nhân đạo... Nhưng làm vậy khác nào gọi chúng trở lại một lần nữa? Không, việc đó chẳng can hệ gì! Nếu chúng muốn, không gọi chúng cũng đến.

Vậy điều gì đã tạo nên tâm trạng day dứt nặng nề đến thế? Mất cảnh giác thì rõ rồi, có hối cũng muộn, hậu quả đã xây ra. Mà dù có sơ suất, việc đối đầu với kẻ địch là tình huống được lường trước. Hay có phải tôi đã mềm lòng khi không giết những kẻ bắn vào mình? Chúng là kẻ thù, và lúc đó tôi đủ sức diệt gọn, kể cả chiếc trực thăng kia nữa. Bọn lính dù được tuyển lựa huấn luyện kỹ, thiện chiến và nguy hiểm. Tha chết, lại gọi máy bay chở chúng về, khiêng giúp xác chết. Phải chăng khi sống giữa rừng, xa hẳn đồng loại và chỉ biết bầu bạn với mấy con thú, con người ta trở nên đa cảm? Tôi đã khoan dung và động lòng trắc ẩn không đúng lúc?

Nhưng việc gì phải giết khi có cách khác tốt hơn? Tôi nhớ lại giọng nói khấp khởi của người lính bị bắn què chân: "...chắc em sẽ được giải ngũ...". Lại còn cô gái ôm mặt khóc khi biết anh mình chết tại đây. Dù sao trong họ vẫn còn có tình người. Nếu thu phục được họ, dù chỉ ở mức độ nào đó, vẫn tất hơn là giết. Ở đây tôi chỉ có một mình, phải tự quyết định lấy tất cả. Hãy làm những gì mình cho là đúng và cần phải làm. Tôi tin vào lòng nhân ái, chính nó sẽ tạo nên sức mạnh.

Được rồi! Giờ nên suy tính về những việc sắp tới. Mấy người lính đó nghĩ gì về tôi, chưa biết. Nhưng chắc chắn họ phải báo cáo lại toàn bộ sự việc với kẻ đã ra lệnh cho họ đến đây. Nếu địch nắm được tin tức về số vàng từ một nguồn nào đó, chúng sẽ không tin vào chuyện tôi lạc rừng. Chúng đã biết cái "tổ" của tôi, vậy sẽ có một cuộc tập kích bất ngờ nhằm bắt sống để khai thác? Không loại trừ trường hợp đó. Chúng có thừa điều kiện tiến hành những cuộc đột kích như thế.

Hay mình lẩn vào rừng sâu, tìm nơi khác ở? Nhưng còn số vàng? Tuy được giấu kín nhưng chắc gì đã an toàn tuyệt đồi? Chẳng lẽ để kẻ địch tự do lục lọi từng gốc cây hòn đá rà tìm từng thước đất? Bảo vệ số vàng đến cùng là trách nhiệm của tôi. Lúc này nếu có đủ sức trở về, tôi cũng không thể bỏ đi khi địch đã tới đây. Hơn nữa tôi không muốn lẩn tránh. Số đạn và lựu đạn hiện có đủ đánh trả cả trung đội địch, chỉ cần khéo léo và giữ thế chủ động. Bám sát địch là cách tốt nhất để tìm hiểu âm mưu của chúng. Tôi đã biết nguồn gốc số lương thực vũ khí trên chiếc trực thăng, nhưng chưa rõ nó đến đây làm gì. Một nửa câu hỏi vẫn còn đó...

Lại còn lời hứa với cô gái ấy, nếu trong vài ngày tới họ lên bốc hài cốt? Tôi không thể thất hứa. Trên đất nước này, bất cứ một gia đình nào cũng coi việc chôn cất tử tế hài cốt người thân là điều thiêng liêng. Tôi tin cô ta sẽ quay lại, và cùng mong như vậy. Đó là cơ hội để gián tiếp khai thác những thông tin có ích. Dĩ nhiên kẻ địch cũng đủ tinh khôn để lợi dụng việc này. Phải hết sức cảnh giác với cô ta và những người đi cùng.

Tồi đó tôi xách súng đạn và chiếc máy truyền tin lên lót ổ ngủ trên ụ đại liên, sau khi đem số vũ khí còn lại giấu kỹ ở mấy nơi. Trận đánh lúc sáng chỉ tốn mươi viên đạn mà thu được mười bốn băng đạn tiểu liên cùng một mớ lựu đạn và mấy cây dao găm Mỹ. Lãi to!

Để yên tâm hơn, tôi gọi con báo theo. Còn lũ khỉ cả ngày nay trốn trong rừng, gần tối mới trở về leo tít lên cành cao nghiêng ngó, không dám chơi đùa trên bãi cỏ như thường lệ. Hôm nay chúng được một mẻ sợ khiếp vía. Việc tôi tới ở đây làm chúng bị vạ lây.

Ngày hôm sau mọi chuyện vẫn bình thường. Rừng cây, suối nước và vùng đồi cỏ vẫn yên tĩnh. Trên bầu trời xanh lồng lộng chỉ có mấy con diều hâu chao liệng tìm mồi.

Tôi nằm trên ụ đại liên suốt ngày, chỉ một lần xuống suối lấy nước. Được cái ở đây cũng thoải mái. Hôm nay có gió nhẹ, và giàn dây leo che trên ụ súng bây giờ tốt um, bóng râm mát rượi. Giá có cuộn sách nằm đọc thì tuyệt.

Tôi dùng chiếc xẻng cùn khoét rộng thêm xung quanh hố, đổ đất vào mấy chiếc bao lúc trước vẫn dùng đựng đất đem đi đãi, để làm bao cát chắn trước ụ súng. Cũng phòng xa vậy thôi, chứ khẩu đại liên đặt ở đây chỉ phát huy được tác dụng trong tình thế bất ngờ. Còn nếu trực thăng phát hiện ra, chỉ cần một phát rốc két là tan tành tất cả. Nhưng nơi này là vọng gác án ngữ hướng tiến của địch từ đồi cỏ. Ở xung quanh, trực thăng không có nơi nào khác để đỗ xuống ngoài vùng đồi và cái trảng cát trước mặt. Nếu phải đánh nhau lần nữa, khẩu AR15 có kính ngắm là vũ khí thích hợp nhất. Qua trận đụng độ vừa rồi mới thấy nó lợi hại như thế nào. Tuy vậy, không hiểu sao tôi vẫn cứ thích khẩu AK hơn.

Đêm xuống được một lúc thì trăng lên. Vầng trăng đêm nay chưa thật tròn nhưng rất sáng. ánh trăng vằng vặc trên màn sương trắng mờ giăng khắp rừng. Đoạn suối bên kia tráng cát lấp lánh ánh bạc, tiếng nước chảy róc rách suốt đêm.

Tôi ngồi mơ màng nhìn cảnh vật mờ ảo dưới trăng mà nghĩ đủ thứ chuyện. Càng về khuya trời sáng lạnh. Cũng may tôi có xách lên bao than củi, gây được đống lửa cạnh chỗ nằm. Than củi cháy đượm không có lửa ngọn, lại đốt dưới hố nên không sợ lộ. Nhưng biện pháp này chỉ tạm thời chứ lâu dài phải tìm cách khác. Không thể cứ ngày lại ngày thấp thỏm lo âu chờ địch mò tới. Vả lại sức tôi giờ yếu đi nhiều, nằm đất dầm sương mãi rồi có lúc qụy xuống. Mà nằm thế này cũng nguy hiểm. Con cọp rừng dưới gần đây vẫn mon men lên vùng đất của tôi, nhiều đêm nghe tiếng nó gầm rất gần. Vẫn biết cọp rừng già không mấy khi bắt người, nhưng lỡ đâu nó muốn "đổi món"? Để vài bữa nữa xem sao, chứ tình hình này chắc phải dạy cho nó biết thế nào là "rừng nào cọp ấy"...

Cứ nghĩ vẩn vơ như vậy, mãi gần sáng tôi mới chợp mắt được.

Tiếng con Aga kêu béo béo bên tai làm tôi tỉnh giấc. Có lẽ nó muốn nhắc tôi hôm nay đến ngày hẹn với cô "giặc lái".

Mặt trời lên. Quả cầu lửa lung linh chuyển từ màu đỏ sang màu trắng chói lòa. Bầu trời xanh dần và dâng lên cao thăm thẳm.

Tôi bồn chồn kiểm tra lại súng đạn, mặc dù đã chuẩn bị kỹ từ hôm trước. Gì chứ vũ khí bao giờ tôi cũng bảo quản cẩn thận. Hồi ngoài kia, tôi vẫn được tiếng là người giữ súng kỹ nhất.

Khoảng tám giờ sáng thì có tín hiệu gọi vang ra từ máy truyền tin. Chưa vội trả lời, tôi nâng ống nhòm hồi hộp nhìn về hướng đông. Kia rồi! Chiếc trực thăng xuất hiện. Nó bay thẳng tới và to lên rất nhanh. Chỉ có một chiếc.

Tôi cầm máy bật nút nghe. "... Người của rừng! Đây Thủy gọi người của rừng...". Cái cụm từ dùng để chỉ tôi nghe khá buồn cười. Cô ta không biết gọi sao vì hôm trước tôi không nói tên.

Máy bay ngang qua ngọn thủy tùng. Tiếng gọi trong máy nghe càng thúc giục khẩn thiết. Tôi bấm nút trả lời: "Tôi nghe!".

- A?... - Một tiếng reo nhỏ và giọng cô ta nói nhanh - Đây là Thủy. Tôi lên theo lời hẹn hôm trước. Xin anh giữ liên lạc và cho phép đáp xuống.

- Có mấy máy bay? Mấy người? - Tôi hỏi cộc lốc.

Giọng trong máy trả lời, nghe đã nguội đi sự mừng rỡ:

- Chỉ một chiếc của tôi. Trên máy bay có bảy người, ba người nhà và ba người... theo giúp việc.

- Được rồi! Xuống đi! Đỗ cuối trảng cát, gần lối vào nhà tôi ấy! Cô biết chứ?

- Tôi hiểu. - Cô ta đáp gọn.

Chiếc HU1A lướt qua trên ụ súng, cỏ lau lay động ào ào. Tôi giương nòng đại liên ngắm theo. Ngon ăn quá? Chỉ cần nhấn cò là... Trong đầu tôi vẫn đầy ấn tượng kinh hoàng và căm hận khi nhìn thấy loại trực thăng này.

Tới đầu trảng cát, chiếc trực thăng lượn một góc hẹp, xuống thấp dần rồi hạ càng trước dải rừng non. Tôi buông khẩu đại liên, nâng ống nhòm lên mắt.

Cánh cửa bên ghế lái bật mở, phi công bước xuống. Đúng cô ta rồi! Bộ quần áo màu cỏ may kiểu đàn ông mặc bỏ áo trong quần không làm mất đi những nét mềm mại cua cô gái.

Cửa hông máy bay mở ra, những người trên đó lục tục kéo xuống. Tôi chăm chú nhìn kỹ. Đi đầu là một ông già dong dỏng cao, mái đầu điểm bạc. Theo sau có hai ông già khác, rồi đến ba người lính mặc quân phục, một trung sĩ và hai hạ sĩ. Nhìn bên ngoài không thấy ai mang vũ khí. Cả sáu người đưa mắt nhìn quanh, vẻ ngỡ ngàng trước cảnh rừng núi hoang vu. Còn cô gái thái độ bồn chồn hiện rõ trên nét mặt chứ không bình thản như hôm trước. Cũng phải thôi! Bây giờ tôi không ra, cô ta chỉ có nước khóc mà quay về.

Tôi vớ tấm nilon trùm khẩu đại liên, hạ giàn ngụy trang xuống rồi xách khẩu AR15 cùng chiếc máy truyền tin luồn ra khỏi ụ súng, chạy dọc cái khe cạn về hướng họ.

Ngang nơi máy bay đỗ, tôi dừng một phút cho hơi thở dịu lại, đoạn vạch lá bước ra, đi thẳng tới toán người đang đợi. Thấy tôi, cô gái mừng rỡ ra mặt, nhưng chỉ hơi cúi đầu chào. Ba ông già nhìn tôi chăm chú. Mấy người lính lộ vẻ lo lắng.

"Chào các bác!" Tôi lên tiếng chào trước rồi bước đến bắt tay họ và khẽ gật đầu với những người khác. Ba ông chào lại và đứng im, có lẽ chưa biết mở lời như thế nào. Cô gái nhìn ông già dáng dong dỏng cao, ý chừng nhắc nhở. Ông bước lên một bước và nói:

- Thưa với anh, chúng tôi là...

Thấy ông lúng túng, tôi vội đỡ lời:

- Xin các bác đừng ngại, cháu chỉ là bậc con cháu thôi mà. Ở đây nắng quá, mời mọi người vào trong kia, ta ngồi nghỉ rồi bàn chuyện luôn thể.

Nét mặt mấy ông già tươi tỉnh hẳn lên, còn ba người lính không giấu được vẻ vui mừng. Họ đưa mắt cho cô gái như muốn hỏi gì đó. Cô ta tiến lại gần tôi, nói:

- Dạ, trên máy bay có mang theo một số thứ để bốc mộ, anh cho đem xuống...

Tôi vui vẻ:

- Cô đừng khách sáo, tôi không khó tính lắm đâu!

Thái độ của tôi đã làm giảm sự căng thẳng cho những người khách vừa đổ bộ từ trực thăng. Bầu không khí như thoáng ra và dễ chịu hơn. Mọi người tíu tít chuyền các thứ trên máy bay xuống. Tôi liếc nhanh thấy có ba chiếc tiểu sành, mấy cái cuốc xẻng cùng những thùng, gói, túi xách...

Đoàn người mang vác lỉnh kỉnh đi vào dải rừng non. Thấy ông cụ lớn tuổi nhất xách cái túi khá nặng, tôi đỡ lấy: "Bác để cháu mang giúp...". Thực lòng tôi thương mấy ông già. Họ bay lên đây trong tâm trạng lo âu phấp phỏng, chỉ mong đưa được nắm xương của con về. Trông họ cũng bình dị, thân thuộc như những người dân quê tôi. Tôi có cảm giác như đã gặp họ đâu đó, nhất là bác già dong dỏng cao, hình như bố của cô gái.

Khi đã mời mọi người "an tọa" quanh chiếc bàn đá, tôi mới lúng túng thật sự. Chẳng có gì để tiếp khách. Mấy ngày qua tôi chỉ lo việc đón loại khách khác. Tôi đành vẫy cô gái lại, nói nhỏ:

- Cô Thủy này, nhờ cô đun hộ ít nước uống!

- Dạ, để em? Em có mang trà lên...

Mấy người linh đứng gần đó nghe thấy liền mau mắn nói: "Chị Thủy để đó cho em...". Tôi chỉ lối cho họ xuống suól lấy nước rồi quay vào tiếp chuyện mấy ông già:

- Xin lỗi các bác, lúc nãy cháu quên chưa giới thiệu, cháu tên là Hải. Còn vì sao cháu ở đây, chắc cô Thủy đã có nói.

- Anh Hải à? - Ông già dong dỏng cao nói - Tôi là Thành, ba của cháu Thủy và... cháu Trà. Đây là anh Lý, - ông chỉ ông cụ lớn tuổi nhất - ba cháu Tình. Còn anh Hồng là ba cháu Lộc. Chẳng giấu gì anh, - ông nói tiếp - hai năm nay tìm kiếm mãi mà không biết mấy cháu chết ở đâu. Nay nhờ có anh mới biết, nên lên đây xin anh giúp, cho chúng tôi đem mấy đứa nó về chôn ở quê để được yên lòng đôi chút...

Tôi nhìn ba người cha của những kẻ bị chính tay mình bắn chết và nghĩ, khi biết điều đó, không hiểu họ sẽ nói gì? Tôi không hề áy náy về việc mình đã làm. Nhưng nhìn những người cha đau khổ đang ngồi trước mặt, tôi không biết nói sao. Chẳng lẽ chỉ an ủi họ bằng một câu chung chung: "Tại chiến tranh...", hay nói đó là số mệnh? Họ tự cho mình là người may mắn khi tìm được xương con. Ừ, cũng có thể thật! Đâu phải ai cũng được như vậy. Tôi nghĩ đến ngôi mộ đá cô đơn trên bãi cỏ gần gốc thủy tùng, ở dưới đó không có đốt xương nào...

Ông Lý, - mà sau này tôi vẫn gọi là già Lý, như cách cô gái gọi - chừng trên bảy mươi tuổi, tóc đã bạc trắng nhưng vẫn tráng kiện. Nét mặt ông điềm đạm tự tin, dáng vẻ của một lão nông từng trải việc đời. Ông Hồng khoảng sáu mươi, da trắng, người hơi đẫy. Ông ít nói, vẻ mặt hiền lành và an phận. Còn ông Thành chắc chưa tới sáu mươi. Ông hơi gầy và nhanh nhẹn, có đôi mắt tinh anh của người học rộng biết nhiều nhưng lại đượm nét trầm tư khắc khổ. Nhìn vào đôi mắt ấy, ai cũng hiểu những nếp nhăn trên trán, trên đuôi mắt ông không chỉ là dấu ấn của thời gian và tuổi tác. Trông ông hơi giống một thầy giáo dạy tôi hồi trước, nhưng thầy nào thì chưa nhớ ra...

Chuyện trò được một lúc, mấy người lính róc nước trà ra những chiếc ca nhôm bưng đến mời. Tôi nói:

- Thưa với các bác, ta uống nước rồi lên trên ấy, sợ trưa nắng nóng. Lúc nào xong việc về lại đây, cháu sẽ kể rõ chuyện các anh ấy chết như thế nào.

- Dạ, trăm sự nhờ anh sắp xếp, chúng tôi lên đây lạ đường lạ đất... - ông Hồng nói.

Tôi đỡ lời ông:

- Bác đừng ngại? Nhưng từ đây lên đó chừng hai cây số đường dốc khó đi, sợ các bác...

Già Lý nói ngay:

- Anh đừng lo, chúng tôi đi được. Có điều là... Nói thế này để anh thông cảm, đáng ra chúng tôi chỉ có người nhà lên đây mà dưới không đoàn không chịu. Họ đưa mấy chú lính đi theo để đỡ đần việc nặng. Tôi cười:

- Không sao đâu ạ! Ai lên cũng được, miễn là có thiện ý!

Mọi người rục rịch chuẩn bị. Tôi bàn với già Lý là chỉ mang vải lên gói hài cốt vì mấy cái tiểu sành khá nặng.

Chúng tôi lên đến nơi không mấy khó khăn. Nấm đất ngày nào qua mấy mùa mưa gió giờ chỉ còn lờ mờ dưới cỏ. Tôi chỉ tảng đá đầu mộ:

- Đây là hướng đầu. Cả ba người chôn chung một chỗ. Cái bác hiểu cho, lúc đó sức cháu chỉ làm được có vậy.

Già Lý cầm tay tôi, nghẹn ngào nói:

- Được vậy là quý lắm rồi? Anh vẫn lên đây thắp hương cho mấy đứa nó phải không?

- Ở đây không có hương già ạ! - Tôi đáp - Thỉnh thoảng đi qua đây cháu có ghé vào đốt ít trầm. Nhưng sao già biết ạ?

- Tôi nhìn cái lư hương này, tôi biết? - ông chỉ vào hòn đá ám khói đặt cuối nấm đất. Nó có hình dáng khá đẹp, một nhặt lõm vào như cái chậu hoa cạn, tôi vẫn bỏ trầm vào đó đốt cho dễ cháy.

Già Lý nói tiếp:

- Con chúng tôi đi lính chống lại Cách mạng là có tội. Vậy mà chúng nó chết giữa rừng giữa núi, vẫn được chôn cất tử tế. Gia đình tôi đội ơn anh, đội ơn Cách mạng...

Tôi nắm tay ông, nhìn những giọt nước mắt lăn dài trên trên khuôn mặt nhăn nheo từng trải mà không biết nói sao.

Mấy người lính bày cái mâm nhỏ, đặt lên đó nải chuồi và chai rượu trắng. Đợi già Lý thắp hương khấn vái xong, tôi vần tảng đá đầu mộ, dùng dao găm đào một lúc rồi lấy lên bọc nilon gói những thứ tìm thấy trong tôi mấy người lính chết trên chiếc trực thăng. Già Lý run run mở gói. Các thứ trong đó đã ẩm mốc, nhưng giấy tờ vẫn còn đọc được.

Ba người lính cầm cuốc xẻng bắt đầu đào. Khoảng nửa giờ sau thì nhìn thấy những mảnh pôngsô xanh xám. Họ bỏ xẻng, thận trọng dùng tay vét đất. Mấy tấm pôngsô quấn quanh xác đã mục rách, nhưng vẫn giữ được từng bộ xương riêng biệt. Tôi còn nhớ vị trí của từng người nên chỉ cho họ đem xác viên phi công lên trước. Cô gái đứng khóc lặng lẽ.

Ông Thành đến bên tôi nói nhỏ: "Nhờ anh đưa cháu Thủy ra đâu đó..." ông không muốn con gái nhìn thấy hình ảnh cuối cùng của anh mình là bộ xương.

Tôi kéo nhẹ tay cô ta:

- Cô Thủy! Chiếc máy bay rơi đằng kia, cô tới xem?

Cô ta im lặng đi theo. Tôi gọi con báo chạy lên trước để phòng rắn.

Xác chiếc trực thăng nằm im lìm dưới bóng cây, cỏ và dương xỉ đã mọc phủ kín càng máy bay. Mấy nhánh dây leo bò lên mặt kính buồng lái, quấn xanh um quanh đoạn cánh quạt gãy và vô tư nở những bông hoa hình loa kèn màu vàng.

Cô gái chỉ chăm chú quan sát chứ không nói gì. Tôi chỉ giàn rốc két, nói:

- Loại này vào đây tôi mới biết, hồi trước chưa gặp lần nào.

Cô ta trả lời:

- Thứ này mới trang bị lần đầu ở không đoàn. Người Mỹ muốn giao thêm một số vũ khí mới cho không lực trước khi họ rút dần về nước.

- Chắc cô đã sử dụng chúng?

Cô gái nhìn thẳng vào mắt tôi, lát sau mới nói:

- Không! Tôi chỉ lái. Hơn nữa thứ rốc két này mới thử nghiệm mấy lần trên máy bay HU.1A, rồi chấm dứt.

"Lại xưng tôi rồi..." , tôi nghĩ thầm nhưng không bận tâm. Câu chuyện thử nghiệm vũ khí đang hấp dẫn.

- Chắc vì lý do kỹ thuật? - Tôi hờ hướng hỏi.

- Cũng không hẳn! Anh muốn biết rõ phải không?

Tôi gật đầu:

- Đúng vậy!

- Nhưng anh sống một mình, lại đang lạc rừng, cần biết dể làm gì?

Đến lượt cô ta tra hỏi mình đây! Tôi thấy bực. Cô ta nghĩ mình là ai cơ chứ? Dám hỏi vặn tôi... Khoan đã! Hình như cô ta đoán ra điều gì đó... Không, nghĩ tới điều gì thì đúng hơn. Cô ta không tin chuyện tôi lạc rừng. Được! Tôi sẽ nói cho cô ta biết:

- Tôi muốn biết, vì tôi và hai người cùng đi bị bắn bởi loại rốc két này. Đó là hai người đồng đội mà tôi coi như ruột thịt. Họ đã nhào ra hứng lấy những loạt rốc két để cho tôi được sống. Khi các anh ấy chết rồi, hai chiếc trực thăng như chiếc này, như chiếc cô đang lái, vẫn điên cuồng nhào lộn trút vào họ tất cả rốc két có trên máy bay. Tôi ra đến nơi, chỉ còn mấy mảnh thịt... Không còn một đốt xương nào để chôn, cô hiểu chưa? - Tôi ghìm giọng để khỏi thét lên, cảm thấy máu dồn nóng bừng trên đầu.

- Anh... anh nói sao? Bắn... thứ rốc két này ở đây? - Cô ta lắp bắp, mắt mở to kinh ngạc.

- Cô nghĩ chuyện bịa à? Để cô tin, tôi nói thêm: trong trận đó tôi đã bắn chết thằng Mỹ đen bắn đại liên trên trực thăng. Chắc cô biết vụ ấy chứ? Nó xây ra cách năm ngày trước khi chiếc trực thăng này rơi ở đây.

- Em... em biết! Em chỉ muốn nói là... không ngờ... họ lên tới đây để bắn thử... - Cô ta ấp úng thanh minh, nét mặt xúc động thật sự.

- Cô bình tĩnh lại đi! - Tôi dịu giọng - Và nếu không muốn thì đừng kể. Tôi chỉ nói cho cô hiểu vì sao lại hỏi vậy thôi. Nhưng... anh cô lái một trong hai chiếc hôm đó?

- Vâng! Hôm đó ông Cođy dẫn hai máy bay đi thử nghiệm rốc két lần đầu. Khi về thấy máy bay đã phóng hết đạn và có một người Mỹ chết. Ông ta là chuyên viên vũ khí, Bộ tư lệnh mượn từ hạm đội Bảy về giúp cho không đoàn.

- Tôi thấy hắn ta bắn đại liên?

- Việc đó em không hay. Trên trực thăng có xạ thủ súng máy. Có thể lúc đánh nhau ông ta thích làm vậy! - Cô gái kể tiếp - Sau đó phía Mỹ ngưng toàn bộ chương trình trang bị thứ rốc két mới. Họ nói thế hệ trực thăng HU không thích hợp. Em nghĩ, vụ ông chuyên viên vũ khí chết cũng cản trở một phần...

- Một chuyến bay như thế phải có bản đồ bay, chương trình bay... Nếu cô tìm hiểu kỹ, sẽ biết ngay chứ đâu có khó?

- Em có kiểm tra. Theo kế hoạch, điểm thử nghiệm hôm đó ở điểm cao 697, cách đây cả trăm cây số. Ông Cođy nói là đã đánh chặn một cuộc hành quân của Việt... của bên Giải phóng, và bị bắn trả nên ông chuyên viên vũ khí chết. Sau này em có bay tới đó, cũng thấy những hố đạn nhưng không rõ đạn cối, pháo hay rốc két. Em không rành...

- Thế anh cô nói sao?

- Anh Trà cũng nói như ông Cody vậy? Và cả anh Hoạt, người lái chiếc trực thăng kia. Nhưng em không tin, dù trên trực thăng ảnh lái hôm đó có dấu đạn. Từ lâu cả em và ba em đều cảm thấy anh Trà bị cuốn hút vào một công việc gì đó... Ông Cođy đã kéo ảnh đi theo một hướng mà gia đình em không hề muốn. Em nghĩ anh Trà và vài phi công khác nhiều lần tiến hành những phi vụ kết hợp kiểu như vậy, nghĩa là lợi dụng các phi vụ đã được hoạch định để thực hiện một công việc nào đó... Chuyện dài lắm, có kể ra chắc chi anh đã hiểu. Em cũng nói để anh Hải biết, em lái trực thăng nhưng không phải phi công chiến đấu. Chỉ sau khi anh Trà mất tích, em mới xin ra đơn vị bay...

- Để bay đi trả thù phải không?

Cô gái bàng hoàng đứng lặng nhìn tôi, đôi mắt đen ngân ngấn nước.

Sao thế nhỉ? Còn oan nỗi gì nửa? Hay cô ta đóng kịch? Không, chẳng ai "kịch" được như vậy... Tôi lúng túng bứt ngọn dương xỉ vò nát trong tay.

Một lúc sau cô gái mới nói:

- Anh nghĩ sao cũng được? Có lẽ trường hợp này ai cũng nghĩ như vậy thôi. - Cô lưỡng lự rồi nói tiếp - Lúc máy bay anh Trà mất tích, em nghĩ là ảnh đã chết. Ra trận bom đạn khắp nơi, mọi sự phó thác vào may rủi, chuyện sống chết biết thế nào mà nói... Nhưng sau khi tìm kiếm nhiều lần trên đường bay hôm ấy mà không thấy vết tích gì, em nghĩ rằng ảnh lại thực hiện một phi vụ kết hợp, và đã chết cho ý đồ của một kẻ nào đó. Bây giờ biết được cuộc thử nghiệm diễn ra ở đây, em càng tin như vậy. Em xin ra bay là mong có cơ hội tìm xác anh em và để biết vì sao ảnh chết...

"Nếu cô ta biết người anh bị mình bắn...". Bất ngờ cô gái nhìn thẳng vào mắt tôi và hỏi:

- Anh đã bắn chết ảnh, phải không?

Cô này ghê thật! Cứ như đọc được ý nghĩ của người khác. Biết cô ta dễ dàng đoán ra điều đó khi nhìn thấy vết đạn trên mặt kính cửa bên ghế lái, nhưng tôi không ngờ cô dám hỏi thẳng như thế.

- Đúng, tôi bắn!

Tôi trả lời bình thản. Đó là sự thật, một sự thật đáng tự hào. Tôi không muốn và không cần che dấu điều đó. Còn cô ta và những người khác nghĩ gì, cái đó tùy!

Tưởng cô gái sẽ trừng trừng nhìn tôi bằng ánh mắt thù hận, nhưng không phải. Cô cúi đầu tư lự, nói như trong cơn mê: "Biết mà! Mọi sự như đã định trước...".Có lẽ cô đang nói với chính mình.

Tôi hỏi sang chuyện khác:

- Lúc nãy cô nói tới ông Cođy nào đó?

- Vâng! Trung tá Hay Cođy, cố vấn của không đoàn. Ông ta là người đỡ đầu cho anh Trà và anh Hoạt, hai phi công trực thăng giỏi nhất của không đoàn đi tu nghiệp khóa đặc biệt ở Okinawa. Từ đó về sau ảnh như bị ông ta hớp mất hồn.

- Sao cô không hỏi thẳng...

- Em không hỏi! - Cô gái ngắt lời tôi, tức tối - ông ta không bao giờ nói sự thật. Đó là một người Mỹ thâm trầm nham hiểm, khác với những cố vấn quân sự khác. Ông Cođy có bạn bè ở tòa lãnh sự Mỹ. Ngay cả bác Tùng cũng không biết nhiều về con người ấy. Hôm đó đích thân ông ta gọi điện từ trung tâm chỉ huy lệnh cho trực thăng quay về. Em nghi anh Trà đang làm việc gì đó cho ông Cođy, như vậy chính ông ta đẩy anh em vào chỗ chết. Và nếu đúng như lời anh kể thì... thật kinh khủng. Không bao giờ em nghĩ ảnh lại có thể tàn nhẫn đến thế. - Cô ôm mặt khóc.

Tôi định nói đôi câu an ủi, nhưng lại thôi. Tôi chưa hiểu gì nhiều về cô gái này, chỉ thấy cô có cá tính mạnh mẽ, rất nhạy cảm và... khá thẳng thắn. Điều không thể quên là cô ta đang đứng trong hàng ngũ địch, như người ta thường nói là "ở bên kia chiến tuyến", lại làm một cái nghề đặc biệt trong binh chủng con cưng của quân ngụy. Cả hai anh em đều là phi công, sao trông ông Thành cũng bình dị, không có dáng vẻ của người giàu có hay có thế lực. Mà thôi, chuyện đó chẳng cần biết thêm làm gì! Từ nãy giờ, những điều cô gái kể đang rối tung lên ở góc khác trong đầu tôi. Và tôi muốn túm lấy ruột đầu sợi chỉ, gỡ rối để rút ra nguyên vẹn cả sợi. Nhưng hình như chưa đủ các tình tiết để kết nối tất cả lại thành chuỗi theo trình tự... Nếu những gì cô gái nói là chính xác, thì trong câu chuyện đã xuất hiện một tên Mỹ điều khiển một nhóm phi công người Việt thực hiện ý đồ gì đó nằm ngoài chương trình hoạt động của lực lượng không quân ngụy tại đây. Điều này có vẻ không phù hợp với cách thức hoạt động của một đơn vị quân đội hay tình báo Mỹ vốn được tổ chức chặt chẽ và có đủ phương tiện. Vẫn chưa thể trả lời câu hỏi: kẻ địch đang có âm mưu gì ở vùng này.

Mặt trời lên gần tới đỉnh đầu. Ngàn cây đằm trong nắng chói chang. Trên vòm lá có con chim nào đang hót, từng chuỗi dài tiếng hót trong veo nghe bồn chồn như lời nhắn gọi. Chắc nó đang gọi bạn...

Có tiếng chân bước sột soạt trên cỏ. Tôi quay lại, thấy ông Thành đi tới. Ông nói:

- Anh Hải à? Việc ở đây xong rồi, có lẽ ta xuống...

- Dạ!

- Chúng tôi có bàn nhau xuống dưới đó cúng bát cơm quả trứng như lần đầu mai táng cho mấy đứa nó. Không biết ý anh thế nào?

- Dạ, cháu cũng không rành tập tục, các bác thấy gì cần xin cứ làm.

Quay lại chỗ ngôi mộ, thấy mấy người lính ôm nhữrlg gói hài cốt đang đứng đợi cùng với già Lý và ông Hồng, ông Thành xin mang theo hòn đá ám khói, tôi hơi ngạc nhiên nhưng không tiện hỏi. Đoàn người nối thành hàng một theo con báo đi xuống.

Chương XVIII

Chúng tôi xuống tới nơi vừa đúng giữa trưa. Ông Thành giục con gái nấu cơm rồi cùng những người khác lo việc lau rửa gởi ghém những bộ hài cất đặt vào trong tiểu sành. Cô gái trút gạo vào soong, lẳng lặng bưng xuống suối vo. Tôi nhìn theo, thấy lo lo. Biết đâu con cọp rừng dưới mò lên... Đắn đo một lát, tôi xách cái can nhựa xuống lấy nước. Đến suối, thấy cô gái tay vẫn bưng soong đứng ngây người bên mép nước, nắng in bóng cô lên bờ cát. Nghe tiếng chân, cô ngoảnh lại nói như reo:

- Đẹp thiệt anh ạ? Như cảnh tiên ấy!

Tôi cười:

- Cô nhìn thấy cảnh tiên bao giờ chưa?

- Thì... em đọc chuyện cổ tích, em... tưởng tượng vậy thôi...

Tôi nhìn nhanh nét mặt hớn hở của cô, thoáng ngỡ ngàng. "Một cô "giặc lái" mê chuyện cổ tích, thật lạ..."

- Giờ thì em hiểu vì sao anh có thể sống ở đây một mình? - Cô nói tiếp.

- Do hoàn cảnh bắt buộc thôi? - Tôi đáp - Cứ cho là cảnh tiên, nhưng không phải ai sống ở đây cũng thành tiên đâu nhé! Còn tôi chỉ muốn làm một con người bình thường thôi.

Cô gái cúi xuống nghiêng miệng soong cho nước tràn vào ngước mắt hỏi tôi.

- Thế sống một mình, anh không sợ à?

- Lúc đầu cũng sợ, sau quen dần. Rừng tuy khắc nghiệt nhưng biết thương người.

Tôi trả lời rồi hất khẩu súng ra sau lưng, bước xuống mép nước. Buổi trưa vũng suối xanh màu ngọc bích, nước trong leo lẻo tới đáy, chỉ nhìn cũng đã thấy mát rượi. Phía bên kia, dòng suối chói nắng đang náo nức trôi xuôi. Tôi dìm chiếc can xuống vũng suối. Tiếng nước chảy vào miệng can ùng ục, bọt khí phun lên mặt nước loang thành những gợn sóng nhỏ.

Chúng tôi còn trao đổi với nhau vài câu bâng quơ như người ta thường vẫn nói trong những trường hợp tương tự. Trong thâm tâm tôi muốn hỏi để hiểu thêm về cô gái lạ lùng này, nhưng thấy không tiện. Và chắc cô cũng vậy, nên vô ý để một nhúm hạt gạo tràn ra ngoài miệng soong, chòng chành chìm xuống đáy nước. Mấy con cá vội nhoi lên, đớp lấy những hạt ngọc của trời. Trông sao cô gái vo gạo nhanh nhanh để còn lên, lỡ những người khác tưởng tôi muốn tán tỉnh gì cô ta thì phiền lắm!

Lúc hai chúng tôi quay lên, thấy ba chiếc tiểu sành đã được đậy nắp, đặt ngay ngắn dưới bóng cây. Mấy người lính kê đá nhóm bếp. Ba ông già ngồi bên bàn đá với chai rượu trắng nút miệng bằng cuộn lá chuối khô và mấy chiếc ly nhỏ. Già Lý vồn vã gọi:

- Anh Hải! Mời anh ngồi xuống đây uống với chúng tôi chén rượu!

Tôi hơi ngượng:

- Cháu không biết uống rượu đâu ạ!

- Thì anh cứ ngồi đây! - ông Thành níu tay kéo tôi ngôi xuống.

Già Lý rót rượu ra ly. Tôi đứng dậy nói:

- Dạ, các bác cứ tự nhiên! Để cháu đi lấy ít thịt khô...

Tôi lên nhà lấy mấy xâu thịt đem xuống. Một người lính đỡ lấy: "Anh để em...". Họ nướng thịt rất nhanh, lát sau đã bày ra bàn đĩa thịt nai khô nướng thơm phức. Già Lý ấn chiếc ly vào tay tôi:

- Mời anh, anh Hải!

- Dạ, xin mời các bác!

Tôi cụng ly với mấy ông già, nhấp một chút rượu gạo thơm nồng và thấy cay xè trong miệng. Tôi không biết uống rượu. Hơn nữa, lúc này khứu giác của tôi đang hướng về mùi gạo thơm trong soong cơm đang sôi và hương vị biển đông mặn mòi quyến rũ bay lên từ soong cá kho sẵn mà cô gái vừa hâm lại trên một bếp khác. Mùi này nhất định là mùi cá nục, mà phải là cá nục tươi vừa đánh dưới biển lên kho với đường đen, loại đường bánh thơm mùi mật mía, và rắc hạt tiêu xanh giã giập chứ không phải hạt tiêu khô xay nhỏ...

Cô gái bưng tới một chén nước mắm ớt tỏi để chấm thịt nướng, rồi đứng sau lưng tôi hỏi nhỏ:

- Anh Hải! Em có mang cho con báo thịt bò, cho nó ăn được không anh?

- Cô khôn lắm! - Tôi nói - Mà cô cứ gọi nó là Aga, nó không khó tính đâu!

- Chắc nó học cái tính ấy ở anh phải không?

Cô đáo để nói. Tôi cười cho qua, vì chẳng biết đối đáp thế nào.

Mọi người thích thú ngắm con báo ăn ngon lành tảng thịt bò. Từ sáng đến giờ, nó vẫn là trung tâm chú ý của nhiều ánh mắt, nhất là của mấy người lính. Tuy vậy nó luôn theo sát bên tôi, chẳng màng tới ánh hào quanh sáng lên từ sự ngưỡng mộ. Không ngờ cô gái vẫn nhớ con báo, dù mới nhìn thấy một lần. Tôi nói với cô:

- Cô Thủy à! Như vậy không công bằng. - Cô ngơ ngác không hiểu. Tôi chỉ lên vòm cây đa - ở đây còn có lũ khỉ, chúng đang kiện cô đấy! - Ôi, em không biết trước để chuẩn bị. Mà có nải chuối cúng...

- Chuối là món chúng thích nhất đấy! Cô cứ đặt dưới gốc cây, lát chúng xuống lấy.

Trên cây đa, lũ khỉ không biết về từ lúc nào, đang lấp ló nhìn cảnh đông vui bên dưới. Chúng tinh lắm, biết phân biệt lành dữ nên tuy thập thò nghiêng ngó nhưng không có vẻ sợ hãi.

Anh nuôi con báo này lâu chưa? - Già Lý hỏi.

- Cũng được hai năm già ạ! Trông nó lớn vậy chứ còn ít tuổi - Tôi kể cho mọi người nghe về lai lịch con báo.

Già Lý gật gù:

- Loài vật chúng có nghĩa lắm! Cũng như con chó con trâu ta nuôi trong nhà vậy. Anh tài thật, dạy được cả thú rừng!

- Cháu có dạy gì đâu ạ! Chúng tự biết cả đấy!

- Thì cũng là dạy! Anh đối xử tốt với chúng, chúng nhuần cái nết của anh nên mới được thế!

Tôi kể chuyện bầy khỉ đã cứu tôi như thế nào. Mấy ông già sững người quên cả ly rượu uống dở. Còn ba người lính và cô gái thì khỏi nói, cứ tròn xoe mắt!

Mùi cơm cháy khét trên bếp làm mọi người sực tỉnh. Cô gái cuống quít giụi lửa, mở vung xới cơm.

Dưới bóng cây râm mát, cảnh rừng êm ả và câu chuyện thân tình làm mọi người quên đi cái nắng hè oi bức cùng vẻ hoang sơ của rừng sâu. Tôi cứ ngỡ như mình đang ngồi trò chuyện với các cụ ở nơi làng quê nào đó. Mấy người linh vừa lo chuẩn bị bữa cơm, vừa khe khẽ trò chuyện với nhau. Tôi vẫn luôn để mắt tới họ. Hai viên hạ sĩ nói giọng Nam Bộ trông vô tư hơn, thỉnh thoảng họ còn trêu chọc nhau. Nhưng viên trung sĩ nói giọng Bắc có cái gì đó khiến tôi chú ý.

Cơm chín. Sau khi đặt mấy bát cơm cúng và thắp hương, già Lý giục mọi người dọn cơm ăn.

Mâm cơm được bày trên bãi cỏ. Lúc đầu mấy người lính định ngồi riêng một nơi ý chừng không dám ngồi "mâm trên", nhưng tôi gọi họ tới. Già Lý bảo:

- Anh Hải đã nói vậy, mấy chú cứ ngồi lên đây?

Cô gái xới cơm ra bát. Tôi thật tình hít hà:

- Thơm quá? Lâu lắm rồi cháu mới được ngửi mùi cơm thơm như thế này?

- Thế lâu nay anh... sống thế nào? - ông Thành băn khoăn hỏi.

- Ở đây không lo đói bác ạ! Nhưng quả thực cháu rất thèm những món ăn quen thuộc ở quê...

Ăn xong bữa, ba người lính đem soong bát ra suối rửa. Cô gái róc nước trà bưng mời mọi người. Già Lý đặt ca nước vào tay tôi, hỏi:

- Anh Hải này, tôi hỏi thế này, nếu có gì không phải, anh bỏ quá cho. Chẳng lẽ anh cứ sống ở đây mãi sao? Cũng phải tính chuyện trở về chứ?

Tôi xoay xoay ca nước trong tay, lát sau mới trả lời:

- Đó là điều cháu nghĩ tới từng ngày từng giờ. Nhưng... ở đây còn có các anh ấy, những người cùng đi với cháu...

Mọi người nhìn tôi ngạc nhiên. Tôi kể:

- Bọn cháu có bốn người, được giao nhiệm vụ đi khảo sát để mở một tuyến đường. Đi được hai mươi ngày thì gặp một cái vực sâu, phải hạ cây làm cầu. Lúc qua cầu một đồng chí sẩy chân rồi xuống vực. Không tìm được xác. Anh ấy hy sinh, mang theo cả địa bàn, bản đồ. Còn lại ba người, chúng cháu đi tiếp và bị mất phương hướng. Cho đến hôm tới vùng này... - Tôi kể lại cuộc đụng độ với hai chiếc trực thăng, chuyện anh Đằng và anh Hùng kéo lá che cho tôi rồi lao ra đánh lạc hướng bọn địch và hy sinh...

Ba người lính từ dưới suồl lên, họ ngồi xuống bên gốc cây nghe chuyện.

- ...Trận đánh hôm đó diễn ra cạnh cây thủy tùng, - Tôi chỉ về hướng đông - cách đây ba cây số. Lúc trực thăng bay đi, cháu chạy ra chỗ hai anh ấy ngã xuống, nhưng không còn gì hết. Tìm khắp bãi cỏ chỉ nhặt được mấy mảnh thịt... - Tôi nghẹn lời không nói được nữa.

Trời đứng gió. Không gian im ắng, nghe rõ cả tiếng mấy con ong vo vo trên cao. Mọi người cùng ngồi im, không ai nói gì. Lát sau tôi kể tiếp:

- Cháu đào hố chôn mấy mảnh thịt, đắp mộ cho hai anh ấy rồi đi vào rừng. Vào một buổi sáng cách đó năm ngày, lúc cháu xuống khe tìm nước uống quay trở lên thì gặp trực thăng... - Tôi kể tường tận, từ việc chiếc trực tháng đã săn đuổi tôi như thế nào, đến việc tôi leo lên cây bắn hạ nó ra sao, rồi việc chôn cất những xác chết trên máy bay... - Bây giờ các bác đã biết mọi chuyện. Vâng. Chính tay cháu bắn, bắn bằng những viên đạn AK cuối cùng. Các bác nghĩ gì về chuyện này, cháu không rõ. Là những người làm cha, bác bác có quyền được biết sự thật về cái chết của con mình, dù đó là sự thật đau đớn. Cháu có thể tự hào mà nói rằng, mình là người chiến thắng trong trận đánh không cân sức ấy. Có điều cháu không hề muốn có một cuộc đụng độ như vậy để giành phần thắng.

Không khí oi bức và ngột ngạt. Cây rừng rũ lá đứng im lìm dưới nắng. Ba ông già ngồi trầm ngâm, nét mặt đăm chiêu. Cô gái chớp chớp đôi mắt đỏ hoe. Mấy người lính cúi đầu lặng thinh. Không biết những người khách của tôi đang nghĩ gì? Đau xót? Uất ức? Oán hận? Hay những suy nghĩ giằng xé giữa một bên là lẽ phải, một bên là tình cha con máu mủ? Họ nghĩ sao về tôi, người đã bắn chết con họ và giờ đây đang ngồi trước mặt họ, điều đó không ngại, nhưng tôi rất muốn biết họ nghĩ gì...

Hồi lâu sau ông Thành mới lên tiếng:

- Ba chúng tôi đây mỗi người một cảnh, nhưng đều đã sống gần hết đời người, đã từng trải đủ điều cay đắng trong cuộc sống. Chúng tôi hiểu được cái gì đúng cái gì sai, hiểu thế nào là lẽ phải... - ông ngưng một lúc rồi nói tiếp, giọng run run - Khi con tôi vào lính, tôi biết là có ngày nó bắn vào người khác, và rồi có lúc nó sẽ bị người khác bắn... Biết mà đành chịu! Làm cha, không ai muốn con mình như vậy đâu, anh ạ! Nhưng điều tôi không ngờ là thằng con tôi có thể hành động dã man và hèn hạ đến như vậy. Từ hồi nó còn nhỏ, tôi vẫn dạy nó cách sống để làm người, chứ đâu có dạy... ông nghẹn ngào cúi đầu, đôi vai trĩu xuống.

Cô gái ngẩng mặt nhìn ông lo lắng. Tôi nhẹ nhàng nói:

- Cháu nghĩ chuyện này không phải lỗi ở bác!

Già Lý lúc này mới lên tiếng:

- Mấy đứa nó gây cho anh đủ chuyện như thế, mà sao anh vẫn... chôn cất tụi nó?

Tôi trả lời:

- Lúc đầu cháu cũng đắn đo mãi, cứ nhớ tới lúc bò trên bãi cỏ lượm từng mảnh thịt lẫn trong đất đá... Hơn nữa sức cháu khi ấy cũng đuối lắm. Nhưng nghĩ cảnh thú rừng tha xác họ vương vãi lại không đành lòng. Cháu không coi những người đã chết là kẻ thù. Họ cũng có một gia đình như cháu, như những người khác. Nếu hai người đồng đội của cháu ở trong trường hợp này, các anh ấy cũng làm như vậy.

- Tôi không mê tín, anh à! - Già Lý nói - Nhưng nghĩ chuyện này như có số mệnh. Nếu hôm đó cháu Thủy không gặp anh thì chẳng bao giờ chúng tôi biết con mình chết ở đây. Hôm cháu nó vào Tam Kỳ báo tin, tôi cứ nửa tin nửa ngờ. Biết rằng con mình có tội, chết cũng phải lẽ. Nhưng cứ nghĩ nắm xương của nó không biết tàn tạ nơi nào, có lẽ đến lúc chết cũng không nhắm mắt nổi, anh ạ.

Ông Hồng góp chuyện:

- Cũng là nhờ cái tâm của anh Hải. Anh mà bỏ mặc thấy đứa nó thì... Hôm nghe cháu Thủy nói, tôi run lên. Nói anh bỏ lỗi, cứ nghĩ dại, biết ra sao mà bay lên giữa rừng giữa núi. Cháu Thủy cứ kéo tôi đi, nói có gì nó đem mạng sống ra thế.

- Vậy các bác phải cảm ơn cô Thủy mới đúng. Cô ấy gan lắm! Một mình mà dám bay xuống đón mấy cậu lính bị thương thì cũng liều. - Tôi quay sang hỏi cô gái - Lúc đó cô Thủy có sợ không?

Cô ngượng nghịu cúi đầu:

- Em sợ lắm chớ, nhưng ráng liều thôi. Chẳng lẽ để mấy người bị thương ở lại? Đến lúc nhìn thấy con báo đi với anh mới hết lo.

- Sao lạ vậy? - Tôi ngạc nhiên thốt lên. Mấy người lính cũng trố mắt nhìn cô.

- Thì em chỉ nghĩ, phải là người tốt con thú nó mới mến như vậy. - Cô gái trả lời.

Tôi ngẩn người. Thật giản dị, nhưng lại đúng. Thế mà lúc đó cô ta cứ tỉnh bơ như không!

Câu chuyện đến lúc vui vẻ hơn. Ba người lính xôn xao bàn tán với nhau. Tôi không nghe rõ họ nói những gì vì mải tiếp chuyện các cụ, nhưng trong đầu vẫn có cảm giác bất an mỗi khi quan sát viên trung sĩ. Hay tại mình không thích cặp mắt thường đảo nhanh như chớp của anh ta?

Ông Thành nói với tôi:

- Tôi chỉ được hai anh em nó, anh ạ! Bà nhà tôi mất lúc cháu Trà chín tuổi, còn con em lên bảy. Trước lúc nhắm mắt, bà ấy trăng trối với tôi phải làm sao nuôi cho con nó nên người. - ông cúi đầu, mắt đượm nét buồn sâu xa - Cả hai cháu lớn lên đều học giỏi, tôi đã mừng. Đến lúc thằng Trà xong tú tài, phải vào lính. Tôi có người bạn học hồi trước rất thân, giờ ông ấy làm bên không lực. Ông coi hai đứa nó như con, nên bảo lãnh cho cháu đi học phi công. Tôi không còn cách nào khác, lại nghĩ vào đó ít ra cũng đỡ nguy hiểm hơn, và con mình còn có thể giữ cho bàn tay sạch sẽ...

Tôi cùng mọi người ngồi im lặng lắng nghe lời tâm sự của ông Thành. Giọng ông buồn buồn, nhiều lúc như lẫn trong những âm thanh của rừng chiều.

Qua lời kể của ông, tôi được biết: Con trai ông được tuyển vào không quân, đi học khóa huấn luyện lái máy bay trực thăng ở Mỹ. Ba năm sau, anh ta trở thành người lái trực thăng giỏi nhất của không đoàn Sáu ngụy, đóng ở Đà Nẵng. Ông tạm yên tâm vì người chỉ huy không đoàn là đại tá Tùng, bạn ông. Nhưng sau đó mọi việc không như ông nghĩ. Năm 1967, lúc con trai ông được viên trung tá cố vấn đỡ đầu cùng mấy phi công khác đi dự một khóa huấn luyện đặc biệt trở về, thì ông có cảm giác là con mình đã biến đổi thành một người khác hẳn...

- Không phải làm cha nên nói tốt cho con mình, anh à! Ông nói - Nhưng quả thực cháu Trà là đứa có hiếu từ nhỏ. Ngay cả sau này nó vẫn vậy. Thương cha, thương em, đi thưa về dạ, không rượu chè cờ bạc hay hư hỏng gì. Nhưng tôi biết trong đầu nó đã có sự đổi khác. Cháu Thủy cũng nói: "Ba à! Ba coi chừng chớ con thấy dạo này anh Trà khác lắm! Ảnh bay như điên, hăm hở với mấy phi vụ tìm diệt, coi ông Cođy như thần tượng...". Mấy lần tôi nói chuyện, nó vẫn khoanh tay ngồi nghe, nhưng những điều nói ra chứng tỏ nó đã suy nghĩ khác trước nhiều. Tôi... - ông hơi lúng túng - Tôi không biết diễn đạt thế nào. Đại để, theo cách nó nghĩ thì phải... diệt hết những người phía bên kia mới mong chấm dứt chiến tranh, mới ổn định được xã hội. Nó nói: "Chiến tranh không có chỗ đứng cho lòng nhân ái đâu ba! Khi người lính đã giương súng lên mà trong đầu còn bận bịu với tình người, anh ta là kẻ chết trước...". Tôi dặn cháu Thủy: "Con coi chừng anh con, có gì khác về nói lái với ba...". Nhưng cả hai cha con tôi đâu còn làm gì được, chỉ buồn rầu mà nhìn thằng Trà ngày càng xa dần. Tôi nghĩ mình mất đứa con từ khi đó. Đến lúc nghe tin máy bay mất tích, biết nó đã chết, tôi chỉ mong tìm được nắm xương đem về chôn cạnh má nó cho bà dạy dỗ khuyên can. Còn tôi, tôi đã bất lực... - ông nghẹn ngào, đôi mắt mờ nước.

Tôi hỏi một câu cốt nói sang chuyện khác, và cũng thăm dò:

- Có thể trong khóa tu nghiệp, người ta đã... huấn luyện cho anh ấy một công việc gì đó...

- Không! - Cô gái xen vào - Theo em biết, đó chỉ là một khóa huấn luyện kỹ thuật bay cao cấp. Nhưng chính vì vậy anh em mới đổi khác. ảnh say mê theo cái hư danh "Phi công siêu hạng" mà ông Cođy đem ra nhử. Mới hăm bốn tuổi đã được như vậy trong không lực không có mấy người... Vì vậy ảnh coi ông Cođy như thánh, ông ta nói gì mà chẳng nghe...

- Còn con nữa đấy! - ông Thành gắt con rồi quay sang nói với tôi - Anh biết...

- Kìa ba... - Cô gái nhìn ông trách móc.

- Cứ để cho ba nói, con đừng cản. - ông Thành gay gắt. Giờ đã tìm được anh con đem về cho má con, ba phải nói, để ít ra cũng có người nghe và hiểu cho ba...

- Thì con hiểu ba mà...

- Đó là con! Ba muốn anh Hải và mọi người ở đây hiểu, ba không bao giờ muốn anh con trở thành người như vậy. Ba có lỗi với má con, với chú con, với mấy anh bên Cách mạng.

Cô gái học xong tú tài thì anh cô đã là viên phi công trực thăng giỏi. Vốn cưng em, anh ta thường cho cô theo bay mỗi khi có dịp. Chẳng mấy chốc, cô ham bay và say mê nghề bay. Cô tham gia câu lạc bộ hàng không, hồi đó chỉ là một nhóm nhỏ do không lực đỡ đầu. Anh dạy cô những bài học vỡ lòng về nghề lái trực thăng, cô tiếp thu rất nhanh và bộc lộ một năng khiếu kỳ lạ. Cô được chọn đi học một khóa phi công trực thăng dân dụng ở Mỹ. Đến khi trở về thì ý tưởng ghi tên vào đại học văn khoa ngày trước không còn vương vấn chút nào trong đầu cô gái. Ông Thành nhiều lần khuyên con, nhưng cô không chịu. Đối với cô, việc điều khiển con chuồn chuồn sắt bay lượn trên bầu trời mênh mông là niềm đam mê mãnh liệt không gì cản được. Cô con gái nói với ông: "Ba đừng lo! Con chỉ thích được bay chứ đâu ham bắn giết! Con sẽ không đụng tới súng đạn. Ở nước ngoài, người ta đi trực thăng như mình đi xích lô...". Cuối cùng, ông đành giao con gái lại cho đại tá Tùng, vì ở Việt Nam lúc này chỉ có xích lô chứ chưa có trực thăng dân dụng. Muốn bay phải vào không quân. Cô làm thư kí riêng cho ông Tùng. Ông đại tá của không lực vốn coi cô gái như con của mình, nên cô không thiếu cơ hội bay. Tuy nhiên đó chỉ là những chuyến bay tập và bay biểu diễn mỗi khi không đoàn có quan khách tới thăm.

Đến khi anh cô mất tích, cô nằng nặc xin ra bay trực tiếp để có cơ hội tìm anh. Ông Thành nói với con: "Ba đã mất anh con, giờ con muốn ba mất con nữa sao? Nếu vậy sau này xuống dưới kia ba biết nói thế nào với má con?".

- Anh biết nó nói gì với tôi không? - ông Thành nói với tôi - Nó bảo: "Ba ạ! Chỉ như vậy mới có thể tìm ra anh con. Anh con không chết trận bình thường như những người khác. Con muốn biết anh con chết vì cái gì? Con muốn biết sự thật..."

Ông quay sang bảo con gái:

- Đấy! Nhờ có anh Hải, bây giờ con đã tìm được anh con. Ba muốn lần này về, con bỏ hẳn nghề bay đi. Con tưởng không trực tiếp bóp cò súng là không có tội ư? Khi mình còn ở dưới tay người Mỹ, có muốn sống tốt cũng không được đâu con ạ! Đi theo họ, sẽ dần dần mất hết nhân tính. Gương anh con sờ sờ ra đó. Còn sự thật ư? Với những người Mỹ như ông Cođy con không bao giờ biết sự thật đâu. Muốn biết, phải tìm cách khác, bằng con đường khác. Con coi đó! Ông Cođy biết anh con chết ở đây, vậy mà mấy tháng trời tìm kiếm, ông ta đâu có nói gì? Chỉ chừng cũng đủ hiểu... Con có biết vì sao ba mang hòn đá này về không? - Ông chỉ tay vào hòn đá hình chậu hoa cạn ám khói - Ba mang về cho con, và cả ba nữa, nhìn vào đó mà suy ngẫm để biết thế nào là lòng nhân ái, điều mà trước đây ba không có cách nào nói cho anh con hiểu được.

Ông Thành ngừng lại, trầm ngâm một lúc rồi chậm rãi nói:

- Ngày trước, ông Nguyễn Trái đã viết: "Dùng đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo..." Đó là đạo lý, là lẽ sống của cả một dân tộc được hun đúc bằng xương máu của bao thế hệ. Vậy mà chúng nó bây giờ coi lịch sử chỉ là môn học chán ngắt trong chính khóa, chúng học qua loa cốt đủ điểm lên lớp, và dồn hết tâm trí sùng bái những cái gọi là "Văn minh phương Tây", để rồi đến lúc chúng phải đổ xương đổ máu đi tìm những điều trước đây người ta đã dạy cho chúng, và đến lúc chết vẫn không hiểu được bài học cha ông để lại. Tôi cũng có chút hiểu biết, tôi đâu coi thường văn minh! Nhưng muốn hưởng thụ văn minh mà bỏ qua lịch sử, chà đạp lên đạo lý, lên truyền thống cua dân tộc mình, thì khác gì đào gốc chặt cây để hái quả...

Mặt trời nghiêng về chiều. ánh nắng chiếu chênh chếch qua tán lá rọi lên bàn đá. Tôi mời mọi người ngồi xuống cỏ để tránh nắng.

Viên trung sĩ bưng xoong nước trà tới róc vào mấy chiếc ca nhôm. Xong việc, anh ta với tay lấy chiếc túi dết của lính treo cạnh bàn móc khăn mặt lau mồ hôi, rồi như tiện tay treo luôn chiếc túi lên gốc cây nơi chúng tôi ngồi. Kín đáo quan sát từng động tác của anh ta, tôi chợt hiểu. "Rõ rồi! Trò trẻ con?" Tuy vậy tôi chưa tỏ thái độ gì, vẫn chăm chú nghe già Lý hỏi:

- Anh Hải năm nay bao nhiêu tuổi rồi? - Dạ cháu hăm ba, à... hăm lăm ạ! - Tí nửa tôi quên tính hai năm ở rừng vào số tuổi của mình.

- Chà! Còn trẻ vậy mà anh sống hiểu biết lắm! Phải nói bên Cách mạng dạy người tài thật!

Tôi ngượng:

- Cháu có giỏi dang gì đâu ạ! Chẳng qua chỉ nghĩ, cái gì đúng thì mình làm...

Ông Thành vội tiếp lời:

- Ấy đấy! Cần nhất là phải biết cái gì đúng. Con tôi nó làm bậy mà tưởng đúng. - Ông nói với tôi - Bác Lý cũng có một người con đi Cách mạng đấy anh ạ! Là anh của cậu chết ở đây ấy? Anh Hồng cũng còn thằng con đi lính, phải chạy cho nó về làm văn phòng. Tôi giờ chỉ còn mỗi con Thủy, chẳng biết rồi có giữ được nó không - ông thở dài nhìn con gái. Cô đỏ bừng mặt, bồi rối cúi xuống bứt lá cỏ. - Đời tôi cay đắng lắm anh à! - ông kể tiếp - Tôi là giáo sư dạy sử ở trường đại học. Dạy sử thì phải nghiên cứu lịch sử. Lịch sử dân tộc ta oai hùng lắm! Làm người Việt Nam, ai cũng cần phải biết về nguồn cội... Và điều cần nhất của người dạy sử là phải trung thành vời lịch sừ. Vậy mà nhiều khi người đứng trên bục giảng phải uốn lưỡi bóp méo sự thật để nói theo ý đồ chính trị. Cho nên đôi lúc giận con nhưng không biết nói sao. Ngay mình còn bị cuốn vào vòng xoáy khắc nghiệt đó, huống chi con! Tụi nó sinh ra lớn lên trong xã hội này, hiểu mấy chữ "Tự do, bình đẳng, bác ái" theo cái nghĩa người ta nhồi nhét cho chúng. Người ta làm trò phù thủy với những từ "Tổ quốc", "Bổn phận" trước khi rót vào tai chúng. Ở miền Nam trước đây ai chả nghe "Bảy Việt Cộng đeo một cọng đu đủ không gãy...". Mãi đến lúc thấy Mỹ đổ nửa triệu quân vào đánh nhau với những người "đeo cọng đu đủ không gãy", có người mới biết mình bị lừa. Tôi nghĩ con tôi hư là bởi người ta lừa nó, còn tôi lại không dạy được nó biết nghĩ thế nào cho đúng. Day dứt mãi, rồi tôi bỏ dạy. Dạy sừ mà xuyên tạc lịch sử thì dạy làm gì! Hơn nữa, con mình mình còn chưa dạy được, làm sao đi dạy người khác? Tôi ra Đà Nẵng sống, mong gần con để có thể bảo ban thêm được điều gì ông trầm giọng xót xa - Buồn trong lòng mà có mấy khi nói ra được đâu anh? Hôm nay lên đây tôi mới có dịp nói hết. Mong rằng con tôi, đứa còn sống và cả đứa đã chết nằm kia, chúng nghe và hiểu cho ba chúng, để rồi biết nghĩ thế nào cho đúng. Con bé này nó cứng cỏi lắm anh à! Nó đã muốn làm gì là làm cho bằng được. Giống hệt tính chú nó...

Có cái gì đó khiến tôi xốn xang, nhịp tim đập gấp dồn máu lên đầu cho bộ óc hoạt động nhanh.

- Chẳng giấu gì anh, - ông Thành vẫn kể - tôi có chú em đi Cách mạng từ dạo tổng khởi nghĩa đến nay chưa gặp lại, chỉ biết tin chú nó còn sống. Tội nghiệp, hồi trước chú ấy bỏ học để tôi được học lên, can mãi không nghe. Nhà chỉ có hai anh em, cha mẹ chúng tôi mất sớm...

- Anh Hai Nguyên phải không ạ? - Tôi vụt kêu lên hầu như cùng lúc với ý nghĩ lóe trong đầu như ánh chớp hồ quang. Và ánh chớp đó nổ thành tiếng sét bên tai cha con ông Thành làm họ bàng hoàng sững sờ. Những người khác cũng ngơ ngác nhìn.

- Anh... anh có biết...? Đúng... Đúng chú em tôi tên Nguyên mà... Nỗi xúc động khiến ông Thành lắp bắp.

- Có phải... nhà bác hồi trước ở cạnh sông Thu Bồn, trước nhà có cây mai già phải không ạ? - Tôi hỏi lại cho chắc.

- Đúng... đúng rồi! Vậy là anh có biết chú ấy... - ông Thành trào nước mắt.

Trong đầu tôi, những mảnh sự kiện rời rạc giờ đây vụt ráp khớp lại với nhau: nét mặt quen quen của ông Thành, hai anh em mồ côi cha mẹ được họ hàng nuôi ăn học..., giáo sư dạy sử bỏ nghề, rồi lời kể của anh Hai Nguyên đêm nào ở Bãi Hà: "...Nghe nói nó làm pilốt, không biết đã khi nào nó ném bom xuống đầu chú nó chưa...". Không thể nhầm được! Quả đất tròn hơn người ta vẫn tưởng! Những nẻo đường đời tình cờ gặp nhau! Sự trùng hợp ngẫu nhiên đầy thú vị như thế này thường chỉ thấy trong tiểu thuyết.

Tôi nghĩ nhanh đến một tình huống và bắt đầu kể:

- Cháu biết anh Hai Nguyên cũng là tình cờ. Dạo ấy đơn vị cháu hành quân trên đường Trường Sơn, bị tắc đường phải dừng lại ở trạm giao liên gần mười ngày cùng với một đoàn cán bộ mới từ ngoài Bắc vào. Nơi đó bên bờ suối có cây mai vàng nở hoa sớm rất đẹp. Thấy bọn cháu ngồi ngắm, một anh trong đoàn cán bộ kể hồi trước nhà anh cũng có cây mai như vậy... Đến tối anh ấy ôm võng xuống ngủ với chúng cháu. Anh tâm sự chuyện nhà, cháu mới biết...

Tôi buộc lòng phải nói dối một đoạn, sau đó kể cho cha con ông Thành và mọi người nghe về anh Hai Nguyên cùng những tình cảm, mong ước của anh về gia đình, quê hương.

Ông Thành đưa cả hai tay cầm tay tôi:

- Trời ơi! Ai ngờ được! Mấy chục năm biệt tăm, vậy mà lên đây lại biết tin chú ấy...

Già Lý gật gù:

- Duyên kỳ ngộ! Đúng là duyên kỳ ngộ!

Ông Thành vô cùng vui sướng khi hay tin mình có cháu trai:

- Anh Hải! Vậy chú em tôi có biết... thằng con tôi đi lính không?

- Dạ, anh ấy có biết con trai bác làm phi công, chỉ không biết cô cháu gái cũng lái trực thăng giỏi như thế!

Đang ngóng cổ háo hức nghe chuyện, bị móc một câu bất ngờ, cô gái vội thụp xuống, mặt đỏ dừ.

Ông Thành không để ý, tư lự nói tiếp:

- Anh ạ! Hồi Mậu Thân...

Tôi giơ tay ngăn lại:

- Xin lỗi, bác đợi một chút... - Rồi vẫy người lính đeo lon trung sĩ - Anh lại đây!

Anh ta đứng dậy, từ từ bước tới, nét mặt căng thẳng. Tôi hỏi nhẹ nhàng:

- Anh quê ở đâu?

- Dạ... em ở... - Anh ta nói tên một tỉnh ngoài Bắc.

- Anh vào Nam năm năm tư phải không?

- Dạ... em theo gia đình... đi cao su...

- Không sao! Tôi hỏi cho biết thôi! Tôi cũng từ miền Bắc vào...

- Dạ...! - Anh ta tươi hẳn nét mặt.

- Nhưng anh xem lại cái máy đã chạy hết băng chưa, để thay băng khác.

Mặt tên trung sĩ đỏ bừng rồi tái xanh tái xám, cặp mắt gian xảo cụp xuống, trán vã ra từng giọt mồ hôi to như hạt bắp.

Hai người lính nói giọng Nam bộ chậm chạp đứng dậy, lừ lừ bước tới.

Khẩu tiểu liên dựng bên bàn đá. Không kịp! Lại vướng nữa! Tôi kín đáo luồn tay dưới vạt áo nắm lấy báng khẩu ru lô dắt trước bụng.

Tới ngang tên trung sĩ, hai người lính bất ngờ chụp tay y giữ lại và nhanh chóng soát người. Lát sau họ buông y ra, nhìn tôi phân vân:

- Dạ thưa... không thấy có chi...

Tôi chỉ cái túi dết treo bên gốc cây:

- Các anh xem trong cái túi kia? Một người lính giật cái túi xuống, lục lọi một lúc rồi lôi ra chiếc máy ghi âm nhỏ cỡ bao thuốc lá, cuộn băng trong máy đang quay. Anh ta trao chiếc máy cho tôi, quay sang nói với cô gái:

- Em biết mà! Hồi sáng em đã ngờ ngợ, coi bộ nó lạ hoắc há!

Báo Aga nhảy từ trên cây xuống, lầm lì bước tới bên tôi. Mấy ông già sửng sốt. Cô gái đỏ bừng mặt chực khóc.

- Thủy! Thế này là thế nào? - Ông Thành quát.

- Con đâu có biết? Bác Tùng biểu bên tham mưu cử người của văn phòng theo giúp. Lúc sáng thấy người lạ, con nghi nghi mà không kịp hỏi. - Cô giậm chân tức tối.

- Trời! Ai ngờ ông Tùng lại làm vậy với tôi - ông Thành thốt lên cay đắng.

- Dạ thưa... - Tên trung sĩ ấp úng.

- Anh nói đi? - Tôi gằn giọng - Và nhớ coi chừng mạng sống của anh đó!

- Thưa... em chỉ... mà không phải... - Hắn ngoảnh sang ông Thành - đại úy trưởng ban nằn nì với bên tham mưu đối người, đại tá không biết...

Tôi hỏi:

- Anh ở bên An ninh quân đội phải không

- Dạ...

- Xếp của anh bảo anh lên đây làm gì?

- Dạ, họ bảo... lên nghe ngóng quan sát, đặt máy ghi âm rồi về tường trình lại...

- Vì sao phải làm vậy?

- Dạ... ông đại úy nghi anh... không phải lạc rừng. Họ tìm thấy hòn đá trong túi thượng sĩ Tài, cái ông chết vì lựu đạn đó! Đại úy thẩm vấn mấy người bị thương, họ khai hết...

- Tôi hiểu rồi! Mấy tên lính bị thương khai về ba lô đá dưới chân cầu thang. Hôm đó tên thượng sĩ có lấy một hòn bỏ vào túi quần. Tôi cười, nói với mọi người:

- Lúc nãy cháu chưa kể hết. Mấy lần cháu tính quay về mà cứ nấn ná mãi. Không ngờ đến lúc quyết định về thì ốm một trận gần chết. May nhờ có mấy con khỉ, như cháu đã kể đó. Ốm dậy cháu yếu lắm, nên cố tập để có sức trở về. Lúc đầu tập đi sau bỏ đá vào ba lô tập leo dốc. Hôm toán lính đó lên, cháu mới xong giờ tập buổi sáng. - Tôi nói với tên trung sĩ - Anh về nói với xếp của anh, đá cuội ở đây nhiều lắm, muốn bao nhiêu lên tôi chỉ chỗ cho mà lấy về.

Hai người lính kia phì cười, mấy ông già cười theo. Không khí nhẹ nhõm hơn.

Tôi nghiêm giọng:

- Do thám là tội nặng. Lợi dụng việc bốc mộ người chết để do thám, tội càng nặng hơn. Anh hiểu không

- Dạ...

- Về tôi, anh cứ báo cáo với xếp của anh mọi điều mắt thấy tai nghe. Nói với họ, nếu muốn mang cả máy lên đây mà quay phim chụp ảnh, nhưng phải làm công khai. Tôi ghét mọi chuyện mờ ám. Còn nếu họ lên đây với súng đạn, sẽ được đáp lại bằng súng đạn. Anh chẳng đáng để tôi hỏi tội, nhưng phải nhớ: câu chuyện giữa tôi với các bác đây là chuyện thân tình; về dưới anh nói một lời nào hại tới họ, thì liệu chừng mạng sống của anh đó!

- Dạ... em đâu dám... em xin thề...

- Tôi chẳng cần lời thề của anh. Tất nhiên anh có phản lại mọi người, tôi cũng không xuống được dưới đó để hỏi tội anh, đúng không? Vì thế ngay cả tên anh, tôi cũng không cần biết. Nhưng ở đời gieo gió thì gặt bão, anh nhớ lấy!

- Dạ...

- Thôi, ra kia ngồi!

Tôi bảo hắn, rồi đập tan cái máy ném vào gốc đa. Không cần hỏi thêm cho mất thời giờ, tên này chẳng biết gì hơn đâu.

Tên trung sĩ cúi đầu lủi thủi ra ngồi cạnh gốc cây ngoài cùng. Ông Thành áy náy nói với tôi:

- Chuyện này chúng tôi không ngờ tới, anh Hải ạ? Chứ nếu biết, chẳng thà để xác con nằm lại đây...

Tôi vội nói:

- Bác đứng lo, cháu hiểu mà! Chỉ sợ nó về dưới kia nói bậy làm các bác rắc rối.

Khí trời oi bức lạ thường. Nhìn qua kẽ lá thấy góc trời phía tây ùn ùn mây xám. Tôi bảo cô gái:

- Cô Thủy này! Không khéo có cơn giông đấy!

- Vâng, em cũng nghĩ vậy - Cô lo lắng ngước mắt nhìn trời, hàng mi dài cong chớp chớp - Mây mưa không sao, nhưng thời tiết này bay ở đây thường gặp luồng khí xoáy. Cô quay sang ông Thành - Phải về thôi, ba à!

Mọi người đứng dậy sắp sửa đồ đạc. Ông Thành nắm lấy tay tôi: "Tiếc quá! Giá được ngồi nói chuyện với anh lâu hơn..."

Tôi ra sau gốc đa chọn bốn khúc trầm đẹp nhất, mối khúc nặng đến ba, bốn kí, ôm vào biếu mấy ông già:

- Cháu gửi các bác chút quà của rừng. Còn cái này, - Tôi đưa cô gái khúc trầm thứ tư - nhờ cô Thủy chuyển cho ông Tùng, nói tôi gửi biếu. Dù gì đi nữa, khi thấy ông ấy sốt sắng với việc đi lấy hài cốt lính mình, tôi nghĩ ông cũng là người có tình.

Ông Hồng cảm động:

- Anh chu đáo quá! Chúng tôi chẳng biết lấy gì để đền ơn anh, chỉ xin chúc anh mạnh khỏe, có ngày về với gia đình.

Già Lý kéo tôi đứng riêng ra, nói nhỏ:

- Thằng con tôi hồi trước nằm vùng, sau Mậu Thân nó nhảy núi, giờ hoạt động ở huyện. Không biết có giúp gì được cho anh không?

Tôi phân vân suy nghĩ lát sau mới đáp:

- Cám ơn già! Cháu cũng muốn nhắn tin về, nhưng đơn vị cháu ở khác vùng, sợ không liên lạc được. Già cứ kể hết mọi chuyện ở đây, nếu giúp gì được, anh ấy sẽ biết!

Cô gái bước tới:

- Em có mang lên cho anh ít gạo và muối. Vì không biết anh cần chi nên...

- Ôi, cám ơn cô Thủy! Thế là tốt lắm rồi. Gạo muối là thứ tôi cần nhất đấy!

Tôi cũng cho mỗi người lính một miếng trầm đen nhánh nặng trĩu:

- Nghe nói thứ này dưới kia bán được, các anh cầm về mua quà cho cháu.

Hai người lính nói giọng Nam Bộ mừng rỡ cám ơn rối rít, nhưng họ rất ngạc nhiên khi thấy tên trung sĩ cũng có phần.

Tôi khoác súng tiễn mọi người ra máy bay. Mấy người linh vác ba chiếc tiểu sành và xách đồ đi trước, già Lý cùng ông Hồng bước theo. Ông Thành ôm hòn đá cùng con gái đi chầm chậm phía sau.

Đợi những người khác đi được một quãng, tôi nói với ông:

- Lúc nãy bác định kể chuyện dạo Mậu Thân anh Hai Nguyên cho người về móc phải không ạ?

- Đúng vậy! Hôm đó có người đằng mình tới nói chuyện, dặn tôi viết thư, hẹn hôm sau quay lại. Tôi đợi mãi mà không thấy. Mấy ngày đó súng nổ dữ quá!

- Anh Hai Nguyên cũng kể vậy! Bây giờ anh ấy công tác ở Khu ủy Trị Thiên. Nếu bác muốn nhắn tin, có thể nhờ anh con trai già Lý, nhưng phải cẩn thận. Điều đó cần thiết cho sự an toàn của bác và cô Thủy.

- Tôi hiểu! Cám ơn anh!

Tôi đưa trả cô gái chiếc máy truyền tin, cô bảo:

- Anh cứ giữ ở đây. Biết đâu có dịp em lên lại...

- Chắc để chở lên một toán lính như lần trước, nhưng lần này đông hơn phải không?

Tôi thoáng áy náy vì mình nói hơi "ác". Cứ ngỡ cô gái sẽ tức ứa nước mắt, vậy mà cô chỉ cười rồi đáp:

- Còn anh thì chờ sẵn đâu đó với một cây đại liên đầy đạn chứ gì?

Tôi giật mình, nhưng vẫn giả bộ bình thản:

- Cô không chở sẽ có người khác chở. Nếu vậy cô lên vẫn vui hơn, dù sao cũng có chút quen biết...

Như hiểu tôi muốn thăm dò điều gì, cô nhẹ nhàng nói:

- Em nghĩ sau chuyện vừa rồi, bác Tùng sẽ không cho tiến hành ở đây những phi vụ như vậy nữa. Trực thăng của không đoàn đảm trách tất cả các phi vụ tác chiến chiến thuật trên khắp Vùng Một chiến thuật. Nhưng anh phải đề phòng phía người Mỹ.

- Ông Cođy?

- Không! Ông ta bây giờ chẳng là cái gì cả! Sau vụ ông chuyên viên vũ khí chết, bên hải quân Mỹ đòi đưa ông ta ra tòa án binh. Nhờ bạn bè có thế lực ông ta mới thoát được, nhưng bị điều đi đâu không rõ.

- Cô muốn nói tới bọn "Mũ nồi xanh"?

- Vâng! Nếu như họ đánh hơi thấy một điều gì quan trọng ở đây!

- Tôi thì chẳng quan trọng đến mức như thế. - Tôi cười - Dù sao cũng xin cám ơn cô!

- Em chẳng biết gì hết. Nhưng không phải tự nhiên ông Cođy kéo trực thăng lên đây...

Ông Thành lên tiếng:

- Tôi mong có dịp lên thăm anh một lần nữa, anh Hải ạl Nhưng anh cũng đừng trông vì chưa chắc đã lên được. Hôm trước ông Tùng có nói với tôi là muốn gặp anh một lần cho biết.

- Có việc gì thế bác? Chẳng lẽ một đại tá của không lực Việt Nam cộng hòa lại muốn làm quen với anh lính Giải phóng lạc rừng như cháu?

Ông Thành cũng cười, trả lời:

- Tôi cũng chưa hiểu được. Hôm đó tôi đến để xin chuyến bay lên đây, nên không kịp nói chuyện. Ông ấy chỉ nói anh là một con người kỳ lạ.

- Ông Tùng là người thế nào, bác?

- Ông ấy là bạn học với tôi hồi trước. Chúng tôi thân nhau vì hoàn cảnh giống nhau, mỗi người đều chỉ có hai anh em mồ côi cha mẹ. Về sau tôi tiếp tục học lên rồi đi dạy, còn ông ấy đi lính, được tuyển vào không quân và đi học phi công ở Pháp. Có lẽ đứng trước anh mà... nói tốt về ông Tùng là không nên, vì dù sao ông ấy cũng là sĩ quan cao cấp trong một quân đội đang chống lại bên Cách mạng. Nhưng nếu... chỉ nói về phương diện cá nhân thì theo tôi ông ấy cũng có điểm tốt, anh ạ! Ông sống đàng hoàng, không ăn chơi, không hống hách hay ham muốn quyền lực như các quan chức khác. Hai vợ chồng ông không có con. Bà vợ thương ông, nhiều lần khuyên ông lấy vợ bé để có người nói dõi, nhưng ông không chịu. Tôi mến ông vì cái lối sống đứng đắn chung thủy, điều ít thấy ở lớp người như ông ấy, chứ chúng tôi vẫn có nhiều bất đồng trong suy nghĩ, nhìn nhận về thời cuộc, về lịch sử...

Câu chuyện phải ngừng lại vì chúng tôi đã ra khỏi dải rừng non. Những người đi trước đang đứng đợi dưới bóng cây giáp trảng cát. Chẳng ai lên ngồi được trên khoang máy bay lúc này đang nóng như cái lò nướng.

Cô gái cúi xuống vuốt ve con báo. Nó cạ đầu vào chân cô nũng nịu. Báo Aga có vẻ mến cô gái, không biết vì nó cảm thấy đó là người tốt, theo như cách nói của cô, hay vì được ăn món thịt bò nhà nuôi ngon và lạ miệng.

Mấy ông già bịn rịn chia tay. Già Lý và ông Hồng cầm tay tôi mãi không muốn rời: "Chắc chẳng bao giờ gặp anh nữa..." Nước mắt lại lăn dài trên những gương mặt tuổi tác.

Mấy người lính bước tới chào. Tôi chìa tay, họ đưa cả hai tay ra bắt. Hai người lính nói giọng Nam Bộ xúc động thật sự: "Em chúc anh Hai mạnh giỏi..." Tên trung sĩ khúm núm bắt tay, mặt cúi gằm, miệng lí nhí: "Đội ơn quý anh..."

Tên trung sĩ quay đi. Cô gái đứng dậy, tuột chiếc đồng hồ đeo ở cổ tay giúi vào tay tôi: "Anh cầm để coi giờ!", rồi bước nhanh đến bên máy bay leo lên ghế lái. Tôi không kịp trả lại, cũng chẳng nói được lời cám ơn.

Cuộc chia tay lưu luyến chấm dứt. Tôi gọi con báo bước ra khỏi vùng cuộn gió của cánh quạt. Động cơ nổ, cánh quạt quay nhanh dần thành vòng tròn loang loáng. Một bàn tay nhỏ nhắn vẫy vẫy sau mặt kính buồng lái. Chiếc trực thăng từ từ lên cao, chao một phần tư vòng rồi bay thẳng về hướng biển. Lát sau nó nhỏ dần thành chấm đen và mất hút nơi chân trời. Phương ấy bầu trời vẫn trong xanh. Cơn giông lúc này đang trút xuống dãy núi phía tây một màn mưa xám xịt hằn mảng chéo trên nền trời, nắng chiều chốc chốc lại rực lên nơi rìa những đám mây. Cơn giông không lớn, nó chỉ là dấu hiệu báo trước của mùa mưa.

Trên dải rừng non, một con đại bàng lượn những vòng hẹp, giương đôi mắt tò mò nhìn hai cái bóng, một người một thú, đang lầm lùi bước trên lối mòn trở vào rừng.Chương XIX

Thế là những người khách đã ra về. Góc rừng này giờ trở nên hiu quạnh hơn bao giờ hết. Tôi ngẩn ngơ nhìn vạt cỏ nhàu nát còn vương hơi người, bên tai như vẫn nghe văng vẳng tiếng cười tiếng nói. Đã quen với những ngày sống một mình lặng lẽ, cuộc tiếp xúc vừa rồi khơi dậy biết bao điều. Chỉ mấy con người trong thời gian gặp gỡ ngắn ngủi như vậy mà có cả bạn và thù, cả lòng tin lẫn mưu mô.

Tôi chợt nhớ ra mình không kịp hỏi gì về tình hình dưới đó, ít lắm cũng có thể hỏi họ đôi điều về tình hình chiến sự. "Sao mình ngớ ngẩn thế nhỉ?", tôi tiếc húi hụi. Thôi, dù sao cũng đã gửi được một tín hiệu về "nhà". Già Lý sẽ kể cho anh con trai đang hoạt động cách mạng ở huyện việc tìm thấy hài cốt người em. Và câu chuyện người lính Giải phóng sống một mình trong rừng sâu hơn hai năm nay là chuyện lạ, không phải ngày nào cũng được nghe. Anh ấy sẽ báo cáo lại với tổ chức. Chỉ cần lên tới cấp lãnh đạo của tỉnh Quảng Nam, ở đó đã được thông báo về TK1, họ sẽ chuyển tin cho anh Hai Nguyên. Chắc chắn như vậy! Tôi cảm thấy vui hơn.

Lũ khỉ đang chạy nhắng trên bãi cỏ giành nhau chiếc máy ghi âm vỡ. Của lạ mà! Chúng no căng với mấy nải chuối cúng nên không cần vào rừng. Còn báo Aga đã lại nhao đi đâu đó. Cũng tội, mấy ngày nay nó phải theo tôi miết, chắc giờ đi kiếm gì ăn thêm. Tảng thịt bò lúc trưa tuy ngon nhưng chỉ đủ lót dạ.

Tôi bước tới đống đồ chất cạnh gốc cây. Những người khách để lại nhiều thứ: mấy cái xoong, bát đĩa, chiếc can nhựa đựng nước, cuốc xẻng... Tôi mừng rơn khi thấy họ đem lên cho tôi bốn bao cát đựng đầy gạo và một bao muối chừng năm kí, thứ muối hạt to trắng lóng lánh. Còn trong cái thùng giấy là chiếc chăn len khá dày, giữa cuộn chăn có một chiếc lược nhựa màu đỏ, loại lược to của phụ nữ. "Thế này thì mình dư sức qua mùa mưa. - Tôi cầm chiếc lược chải tóc, bâng khuâng thầm nghĩ - Cứ tưởng cô ta chỉ quan tâm tới con báo..."

Rừng chiều vắng lặng. Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ đeo trên tay làm tôi nhớ tới thái độ lạ lùng và lời cô gái nói lúc nãy: "Anh cầm để coi giờ...". Cô ta muốn bù lại chiếc đồng hồ tôi đưa hôm trước. Ừ, chỉ thế thôi! Chứ chả lẽ tặng tôi làm kỷ niệm?" Một người rừng như mình đâu có gì để cô ấy cảm tình? Có thể tạo được một ấn tượng nào đó, chứ cảm tình thì không. Mà... cô ấy có đẹp không nhỉ? Nếu là Bằng, - tôi nhớ tới người bạn cùng tổ công tác vốn hay đùa tếu - cậu ta cho mấy điểm? Ít lắm cũng bảy điểm! Cô ấy không đẹp sắc sảo, nhưng có duyên. Còn cái dáng dong dỏng mềm mại kia thì đúng là dòng giống nhà anh Hai Nguyên rồi! Cô ấy cao gần bằng mình, chắc phai mét sáu lăm. Và cô ấy... cũng thông minh đấy chứ? Rất thông minh là đằng khác! Nhưng... mình đang lộn xộn gì vậy? Khi không lại nghĩ chuyện đâu đâu? Cô ta đến rồi đi, như những người khác, thế thôi Mọi chuyện đến đó chấm dứt, đừng có nghĩ ngợi lung tung. Vậy... liệu sau này còn gặp lại không nhỉ? Dù sao đó cũng là cháu gái của anh Hai Nguyên cơ mà? Mình tin cô gái ấy không phải là người xấu. Con gái mà có cách cảm nhận thiên nhiên sâu sắc như vậy, không thể là người xấu được. Mà cô... chưa có chồng. Nếu có, ông Thành đã kể. Nhưng biết đâu người yêu cô ta lại là một tay pilốt nào đó... Thôi, "tốp" lại được rồi..."

"Biết làm sao được? Mình chỉ là một con người bình thường, một chàng trai hai lăm tuổi. "Tu luyện" ở đây mới hai năm, dễ gì đã đắc đạo ngay được...". Tôi tự thông cảm cho mình.

Tôi bưng mọi thứ lên nhà. "Lại giàu to rồi? Phải đến hai trăm lon gạo. Nếu mỗi ngày ăn hai lon, cũng qua được hơn ba tháng. Còn muối đủ dùng trong hai năm. Chẳng ai lạc rừng mà lại được như thế! Sau này có kể lại, chắc ai cũng nghĩ: "Làm gì có chuyện may mắn đến vậy...". Ừ nhỉ! Nếu con người ta có số mệnh, và trên đời có sự may rủi, thì có thể nói số mình luôn gặp may. (Tất nhiên phải trừ ra những lần rủi ro). Hậu quả của việc mất cảnh giác, đến lúc này có thể nghĩ là một kết quả có hậu.

Sáng dậy tôi chia đôi số gạo muối, cõng một nửa lên giấu trên chiếc trực thăng. Chưa đến ba chục kí, nhưng tôi phải dừng nghỉ mấy lần trên chặng đường hai cây số. Bao giờ mới đủ sức đi từ đây ra tới đường Chín? Lại còn mùa mưa tới, sức yếu thế này rất dễ bị kí sinh trùng sốt rét quật ngã...

Xong việc tuy mệt lừ nhưng tôi không về nhà ngay, mà luồn rừng đi thẳng đến bên ngôi mộ đá. Tôi đốt trầm rồi tần ngần ngồi nhổ những ngọn cỏ mọc trong kẽ đá, thầm kể cho các anh nghe mọi chuyện vừa qua. Dù tin chắc mình làm đúng, nhưng cảm giác có lỗi vẫn cứ day dứt trong đầu. Tôi đã làm tất cả để kẻ bắn chết các anh được đưa về quê quán, mà đành để những người đồng đội thân thiết nhất nằm lại mãi mãi giữa rừng...

Những ngày sau đó tôi dồn sức vào việc sửa nhà: chôn thêm bốn cột đỡ dưới xà ngang, thay mấy thanh gỗ sàn bị mọt, chặt le về buộc lại vách và căng lại mái nhà. Tấm vải nhựa lợp mái qua mấy mùa mưa nắng lại thêm đốt lửa trong nhà, giờ cứng quèo như mo cau. May lắm nó chịu được một mùa mưa nữa là cùng.

Việc cuối cùng là kiếm ít thịt về trữ. Sáng nay tôi sửa soạn đi săn. Phải bắn con thú nào lơn lớn một chút, mà phải là loại thú thật nhiều nạc để dễ nướng và sấy khô. Tốt nhất là nai, hoẵng hoặc mang, cùng lắm mới bắn lợn rừng.

Vừa bước ra chưa kịp cài cửa, bỗng nghe có tín hiệu "tít tít..." vang từ chiếc máy truyền tin treo trên vách. Quá đỗi ngạc nhiên, tôi nhào vào nhà chụp máy bấm nút nghe: "...Thủy gọi anh Hải? Đây Thủy gọi..." Đúng là giọng cô ấy? Có phải mình ngủ mê không? Chẳng lẽ cô ta lại lên? Không còn tin ở tai mình, tôi trân trân nhìn cái máy. "Anh Hải đâu trả lời đi? Đây Thủy..." Tôi cuống quít chạy ra cửa nhảy hai bước xuống cầu thang. Đã nghe rõ tiếng trực thăng. Tiếng trong máy vẫn gọi bồn chồn: "Đây Thủy gọi..."

Tôi đưa máy lên miệng, bấm nút nói: "Tôi nghe đây?". Giọng cô gái như reo lên: "Anh Hải! Anh có sao không? Sao gọi mãi không trả lời?"

Tôi không đáp, chỉ hỏi lại: "Cô lên đây làm gì?" Như bị hụt hẫng, lát sau mới nghe cô nói vào máy:

- Ba em lên thăm anh!

- Ôi! Bác lên à?

Tôi mừng quýnh. Có ông Thành lên là yên tâm rồi. Không ngờ hôm trước nói thế, mà nay ông lên thật.

- Thế nào? Hạ xuống được chứ?

Giọng cô gái nghe lạnh tanh và kiêu kỳ, nhưng tôi không chấp.

- Cô xuống đi! Tôi ra ngay bây giờ!

Cố nén xúc động, tôi chạy như bay qua bãi cỏ. Con báo hốt hoảng đuổi theo.

Máy bay vừa đáp xuống tràng cát, bụi bay mù trên ngọn cây. Sắp ra khỏi rừng, tôi dừng sau một lùm cây vạch lá nhìn. Chiếc trực thăng đỗ đúng chỗ hôm trước, gần giáp mé rừng. Cánh quạt ngừng quay. Từ cửa hông, ông Thành bước xuống. Theo sau ông có một người nữa. Ai vậy? Cô gái vẫn ngồi trên ghế lái. Hết! Chỉ có ba người. Tôi nhìn kỹ vị khách lạ: ông ta trạc tuổi ông Thành, cũng cao như vậy nhưng vóc người đậm hơn và rắn chắc. Mái tóc hoa râm cắt ngắn, lưỡng quyền cao, cằm hơi bạnh nên vẻ mặt ông ta có nét quyết đoán đến lạnh lùng. Gì nữa? Áo cộc tay màu xám, quần màu nâu sẫm, giày da, chiếc mũ trắng cầm tay..., dáng nhanh nhẹn nhưng vẫn bệ vệ. Đúng rồi? Đây là ông Tùng, bạn của ông Thành, vị đại tá không lực. Ông ta lên đây làm gì?

Không có thời gian để nghĩ thêm, cứ ra gặp rồi sẽ biết. Tôi giữ vẻ mặt bình thản, khoác súng lên vai đi ra. Thấy tôi, ông Thành vui mừng bước lên mấy bước:

- A, anh Hải!

- Chào bác, chào đại tá!

Tôi niềm nở bắt tay hai ông và gật đầu chào cô gái. Lúc này cô ta mới mở cửa máy bay nhảy xuống, mừng rỡ chạy tới con báo, làm như cô bay hơn trăm cây số lên đây cốt để gặp nó.

- Sao anh biết tôi là đại tá? - Vị khách lạ bắt tay và nhìn tôi chăm chú.

Tôi mỉm cười trả lời:

- Tôi chỉ đoán thôi!

- Ồ! ông ta quay sang nói với ông Thành - Không ngờ anh ấy lại sắc sảo đến vậy! Thiệt là thú vị!

Tôi thấy bực. Giọng nói có vẻ trịch thượng. Hay ông ta tưởng lên đây sẽ gặp người tiền sử chắc? Tôi hỏi lại:

- Việc quân bận rộn, đại tá "quá bộ" lên tới đây, hẳn không phải là không có lý do?

Ông Thành định nói gì đó, nhưng ông ta đã trả lời trước:

- Xin lỗi anh! Hơi đường đột phải không! Bởi vì anh biết tôi là đại tá, nên tôi quá ngạc nhiên. Tôi với anh Thành lên đây chỉ để thăm anh, mong anh coi tôi như một người bình thường thôi.

Ông Thành bây giờ mới nói:

- Đáng ra tôi phải báo trước, nhưng không có cách gì liên lạc được...

Tôi vội ngắt lời ông:

- Không sao đâu bác ạ! Cháu ở đây một mình, trông được gặp người là mừng rồi, huống hồ lại được bác và... đại tá đây lên thăm. Xin mời mọi người vào trong kia ta nói chuyện. Cũng may cháu định đi săn mà chưa kịp đi.

- Thủy, xách đồ xuống con! - Ông Thành giục con gái.

Ba người khách đem xuống mấy cái túi xách và chiếc thùng giấy, chia nhau mang vào. Tôi cũng xách hộ chiếc túi nặng. Cô gái hăm hở bước lên trước ra vẻ người thành thạo. Con báo cứ quấn lấy chân cô, không ngờ nó cũng biết nịnh.

Chúng tôi đi qua dải rừng non. Hôm nay trời có mây nhưng nắng vẫn rực rỡ, tiếng chim ríu rít khắp nơi. Tôi mời khách ngồi xuống bên chiếc bàn đá. Ông Tùng ngạc nhiên nhìn quanh, nét lạnh lùng trên mặt dường như biến mất. ông ta kêu lên:

- Chà! Đẹp quá! Anh sống ở đây cứ như là... ẩn sĩ ấy nhỉ!

- Vâng! - Tôi cười đáp - Có lẽ cũng giống như vậy, chỉ khác ở chỗ lúc nào cũng phải súng đạn kè kè bên người.

Cô gái bày lên bàn mấy chai nước lọc cùng những chiếc cốc giấy. Hay quá, khỏi phải mời khách uống nước suối. Tôi biết người dưới xuôi lên rất ngại uống nước ở đây. Ai cũng vậy chứ không riêng gì những người khách đặc biệt này.

- Ông Tùng bàn với cha con tôi lên thăm anh, - ông Thành nói như phân bua - coi như một chuyến pícníc vậy! Quả thực tôi cũng mong có dịp nói chuyện thêm với anh, hôm trước về gấp quá! Mà phải có ông ấy mới đi được, chứ cha con tôi kiếm đâu ra trực thăng?

- Ông nhìn ông Tùng nói vui - chỉ có đại tá mới dám xài máy bay như vậy!

- Đồ Mỹ mà! Mình xài được gì hay thì cứ xài. Đem đi đánh nhau mãi cũng phí. Anh không thấy vừa rớt cả mớ đó à? - ông Tùng cũng nói giọng vui vẻ và quay sang tôi - À, anh Hải không biết phải không? Vừa rồi hành quân ở đường Chín, các anh bắn rớt chúng tôi như đập ruồi ấy!

Tôi nhìn ông ngạc nhiên. Lạ nhỉ! Không ngờ một đại tá ngụy lại có cách nói như vậy! Ông ta nói giọng Nam Bộ nhưng ít dùng ngữ điệu vùng trong ấy, chắc tại đi lâu ngày. Tôi chưa có dịp gặp gỡ một nhân vật "quan trọng" cỡ đó. Hồi ở thị xã Quảng Trị có tiếp xúc với vài sĩ quan cấp úy, nhưng lúc đó chúng tôi đóng kịch, nói chuyện như cùng chiến tuyến, mà cũng chỉ nói những chuyện bâng quơ cho phù hợp với hoàn cảnh. Còn ở đây, ông ta biết tôi là ai...

Ông Tùng lại nói, cắt ngang những suy nghĩ của tôi:

- Thiệt tình tôi cũng muốn đổi gió một chuyến, chứ chả lẽ cả đời cứ đánh nhau mãi? Hôm trước nghe mấy thằng lính kể chuyện về anh, tôi trông được gặp một lần cho biết...

- Chắc đại tá muốn nhìn thấy người rừng xem như thế nào? - Tôi buột miệng và thấy áy náy. Ông ta đang là khách, chẳng nên căng thẳng làm gì. Không ngờ ông lại là người xin lỗi trước:

- Xin lỗi anh! Tại tôi nói không rõ ý. Mấy đứa nó kể về anh như huyền thoại...

- Chúng thua trận, sợ tội nên nói quá lên, đại tá tin làm gì!

- Là chúng kể cho nhau nghe chứ không phải nói với tôi đâu. Lại còn con Thủy... - Cô gái đỏ bừng mặt, vờ cúi xuống lấy gì đó trong túi xách - ... nó kể chuyện anh như trong xinê...

- Anh Hải, em cho con báo ăn được không?

- Cô còn hỏi? Nó chẳng ra đón cô từ ngoài cửa máy bay là gì?

Cô cúi mặt cười ngón ngoẻn, sắc hồng bừng trên đôi gò má cao cân đối. Quả nhiên ông đại tá bị đánh lạc hướng, ngây người nhìn con báo khoái khẩu với món thịt bò.

Tôi quay sang ông Thành:

- Bác vẫn khỏe chứ ạ?

- À, tôi thấy khỏe lên nhiều. - Ông mỉm cười hiền lành. Trông sắc mặt ông tươi tắn, khác hẳn lần trước. Mới một tuần chứ mấy!

Ông nói tiếp:

- Giờ tôi chỉ mong hòa bình để gặp lại chú em tôi, gặp thằng cháu trai...

Ông Tùng ngoảnh lại:

- Nghe nói anh có quen chú Nguyên phải không? Này, thế chú ấy làm tới cấp gì rồi?

- Vâng! Tôi cũng tình cờ có biết! - Tôi đáp nhưng không trả lời trực tiếp câu hỏi - Hồi năm năm tư, anh ấy đã dẫn một trung đoàn đi đánh trận Điện Biên đấy...

Mắt ông Thành sáng rực, còn ông Tùng thì gật gù thán phục:

- Chà chà! Vậy giờ ít lắm cũng đại tá chứ chẳng chơi đâu! Tôi biết, dòng anh toàn người giỏi mà!

Tôi cố kìm nỗi kinh ngạc. Không biết ông ta thân với ông Thành cỡ nào mà nói chuyện tỉnh bơ. Cứ như là chẳng có nhột khoảng cách nào giữa ông và chúng tôi. Hay đó là tính cách bộc trực của người Nam Bộ?

- Nhưng anh ấy gàn dở lắm! Tới bữa ăn cơm với tụi cháu, đêm ôm võng xuống nằm nói chuyện. Dạo Mậu Thân, anh ấy cùng đặc công bò vào tận hầm chỉ huy trong sân bay Ái Tử... - Tôi kể tiếp những chuyện về anh Hai Nguyên, rồi nói với ông Thành - Anh ấy có nói hồi anh bỏ học, bác la dữ lắm?

- Ừ, tính chú ấy vốn vậy, đã quyết việc gì thì đố ai cản được Chú ấy lo không đủ tiền cho cả hai anh em cùng học. - Ông rơm rớm nước mắt - Hồi đó cơ cực lắm anh à! Có củ khoai bữa sáng ăn đi học mà hai anh em cứ nhường nhau mãi, trưa về vẫn còn đó, nguội ngắt...

- Tôi giống anh Thành, cũng nhà nghèo, cũng hai anh em mồ côi cha mẹ từ nhỏ, chỉ tréo một chút là bên tôi em đi học còn anh đi lính. - Ông Tùng hể hả nói.

"Còn có cái khác cơ bản là đi lính cho ai?", tôi nghĩ vậy và hỏi:

- Thế bây giờ... người em của đại tá ở đâu ạ? - Chú ấy du học bên Canada rồi ở lại luôn. Lấy vợ ở bển, nhưng cũng người Việt mình. Có bốn con, lớn rồi. Chú em tôi giờ là chuyên viên điện toán trong một chương trình không gian. - Ông trả lời với vẻ tự hào.

Câu chuyện cứ thế tiếp tục vui vẻ. Trong đầu tôi loáng thoáng mấy chữ "ác ôn", "nợ máu"... Không biết đã lần nào ông ta lái máy bay ném bom xuống quê tôi chưa? Mà ném xuống đâu cũng vậy thôi! Nhưng hình như trong ông còn có một điều uẩn khúc nào đó mà tôi chưa biết được...

Mười giờ trưa. Ông Thành giục con gái nấu cơm rồi quay sang nói với tôi:

- Lúc sáng cứ nôn nao lên đây thành ra chưa ăn uống gì. Tôi đã bảo con Thủy đem đồ nguội đi mà nó không chịu, nói lên giữa rừng nấu ăn thích hơn.

Cô gái hỏi tôi lấy xoong rồi trút gạo đem đi vo. Họ lại đem cả gạo lên.

- Anh Hải đưa em xuống suối! - Cô bảo.

Tôi ngần ngừ. Đúng là phải đưa cô ta đi, nhưng để hai ông khách ngồi đây cũng không yên tâm. Con báo thì nhất định chạy theo chúng tôi rồi! Tôi hỏi ông Tùng:

- Sao lên rừng mà đại tá không mang theo súng?

Ông ta cười bảo:

- Lúc sáng cũng định mang khẩu súng săn cho có vẻ đi rừng, mà con Thủy không chịu. Nó nói làm vậy là vi phạm quy định của anh.

Cô gái cười:

- Chớ bác biểu sao? Bay trực thăng Mỹ, mang theo súng, không chừng lãnh đạn à!

Tôi cũng cười, bảo cô đứng đợi rồi ra sau hốc cây đa lấy khẩu súng có kính ngắm khoác lên vai. Còn khẩu kia tôi lên đạn, khóa lại và dựng bên bàn đá.

- Xin đại tá nhớ giữ súng trong tầm tay. - Tôi dặn.

Ông nhìn tôi ngạc nhiên:

- Anh... cẩn thận quá!

- Lúc này đại tá là khách của tôi mà! Nhưng cảnh giác vậy thôi chứ ở đây cũng yên. - Tôi nói rồi bước theo cô gái.

Đi được một đoạn, cô cười khúc khích: Phải như vầy mới nói chuyện với anh được. Ngồi trên em đâu chen vô được câu nào!

- Ờ thì... phải để người lớn nói chuyện chứ?

- Em cũng lớn chớ bộ?

- Cô bao nhiêu tuổi mà đòi lớn?

- Em... hăm tư!

- Vậy còn ít hơn tôi một tuổi, chỉ đáng bậc em thôi!

- Em đâu có đòi làm chị? - Cô cười, nói tiếp - Nhưng thôi, để nói sang chuyện khác. Em có đem lên cho anh bản đồ và địa bàn, giấu trong thùng mì ấy? Mà anh đừng cho ba em và bác Tùng biết.

- Ôi, cám ơn cô Thủy nhiều lắm? - Tôi mừng rỡ - Nhưng... sao lại phải giấu bác?

- Thì phải làm vậy cho nó ly kỳ chớ? - Cô cười tinh nghịch.

Lúc này tôi mới để ý thấy cô nói tiếng miền trong chứ không phải tiếng Quảng, chắc tại lớn lên ở Sài Gòn. Tiếng vùng trong ấy với giọng nói thanh thanh nghe thật hay.

Cô gái ngồi thụp xuống bên vũng suối, nhưng chưa vo gạo mà đưa tay nghịch nước:

- Anh Hải này! Ba em vừa đi Tam Kỳ hai ngày đấy?

- Vậy hả? Chắc bác đi thăm ai? - Tôi hồi hộp nhưng giả bộ thờ ơ hỏi lại.

- Ba em vô chỗ già Lý.

- Thế bác kể gì không?

- Anh lên mà hỏi ba em ấy! Em hỏi, ông cứ ậm à ậm ừ, ra vẻ chuyện người lớn không nói với con nít. - Cô ấm ức.

Tôi cười:

- Chắc chẳng có chuyện gì nên bác mới không nói.

- Đâu phải! Em biết ba đi để tìm cách nhắn cho chú Nguyên. Ôi! Em mong được gặp chú quá? Hồi nhỏ nghe ba em kể hoài. Cả má em cũng đâu biết mặt. Mà... chú giống ba em không anh?

- Giống lắm! Không phải giống như in đâu, nhưng có nét gì rất dễ nhận. Hôm mới gặp bác, tôi cứ ngờ ngợ mãi mà không nghĩ ra.

- Nhưng sao anh lại gọi... chú là anh?

- Thì ông bảo gọi vậy để ông được trẻ lâu!

- Ngộ quá ha! Vậy là em mê chú rồi! - Cô nói như reo. Lúc nào em cũng hình dung chú như một nhân vật kỳ bí, oai phong lẫm liệt...

Tôi bật cười:

- Ông là người bình thường thôi, cô đừng nên thần tượng hóa. Nếu cô coi ai đó như vị thánh, rồi sau thất vọng vì thấy họ cũng chỉ là người bình thường, thì lỗi là ở cô đấy!

- Anh Hải còn trẻ mà ăn nói già dặn ghê ta!

- Tôi ăn thì được, chứ nói dở lắm, chỉ nghĩ sao nói vậy thôi.

Cô gái vo gạo. Vùng nước trắng mờ lan dần ra vũng suối trong vắt.

- Bác và cô rủ ông Tùng lên phải không - Tôi hỏi.

- Đâu có! - Cô nói - Chính bác ấy rủ đó chớ! Ba em cũng muốn lên thăm anh, nhưng đâu dám hỏi. Còn em làm sao bay trộm được? Mặt đất kiểm soát chặt lắm!

- Nhưng sao lạ vậy? Tự dưng một đại tá không lực lại... muốn lên đây?

- Anh thấy kỳ lắm sao?

- Rất may là ông ấy không báo trước, chứ không tôi phải mất ăn mắt ngủ vì lo! - Tôi nới vui.

- Hôm trước, em với ba em tới nhà để cảm ơn. Lúc em đưa quà, nói của anh gửi biếu, cả hai ông bà đều ngớ người ra rồi mừng rối rít.

- Vậy sao? Chừng ấy trầm đâu có đáng gì?

- Bộ anh không biết đó là kỳ nam à? Thứ đó mắc lắm! Nhưng em nghĩ không phải vì nó nhiều tiền. Nếu anh ở vào trường hợp ấy, khi có người ở tận trên rừng chẳng quen biết gì mà lại là người phía bên kia, gởi cho mình một món quà như vậy, thì anh nghĩ sao?

- À..., chắc cũng có cảm giác như lúc nhận gạo và muối cô đưa lên!

- Ý, chẳng qua em tiếp tế cho Quân giải phóng thôi à nghen! - Cô nhìn tôi cười tinh nghịch, hàm răng trắng đều sáng lên cùng cặp mắt long lanh. - Mà anh đừng lo, dưới đó lên đây có nửa giờ bay chứ mấy! Còn khỏe hơn đi Tam Kỳ!

Cô đã đi Tam Kỳ?

- Ừa! Em có vô thăm già Lý mấy lần, từ sau ngày anh em mất tích... Không phải ngay thị xã đâu mà ở vùng ven, toàn đồi không hà! Ở đó hay lắm? Già Lý nói bên... Cách mạng lên về hàng ngày. Mà... lần trước em cũng vô ý quá, không hỏi coi anh cần chi để mang lên...

- Cô Thủy giúp như thế là quý lắm rồi! Tôi biết ơn bác và cô nhiều lắm.

Cô cúi xuống đưa tay khỏa nước:

- Nếu nói ơn huệ, gia đình em phải cám ơn anh mới đúng?

Sao cô lại nói vậy? - Tôi ngạc nhiên.

Cô im lặng, lúc sau mới nói:

- Từ hôm ở đây về, ba em khỏe hẳn ra, ăn được ngủ được cười nói vui vẻ suốt ngày. Em biết ba mừng vì đem được anh Trà về bên má, và mừng nhứt là biết tin chú Nguyên. Và em cũng hứa với ba là từ nay không bay nữa. Nhưng ba em biểu cứ từ từ đợi ít lâu, để coi có giúp chi được cho anh không?

Tôi sững sờ. Ông Thành nói vậy ư? Chưa biết ông định giúp tôi như thế nào, nhưng điều gì khiến ông dám gánh chịu nguy hiểm có thể đe dọa đến tính mạng mình và con gái, để giúp một người đã từng bắn chết con trai mình?...

- Ta lên nhà thôi anh! - Cô gái giục.

Chúng tôi đứng dậy, bước lên lối mòn. Tôi hỏi:

- Thế cô Thủy còn... muốn bay nữa không?

- Có chớ! Đó là ham mê suốt đời của em mà! Nhưng chắc phải đợi đến lúc hòa bình. Còn bây giờ em sợ lắm!

- Cô sợ bác mắng?

- Không! Khi nào ba em cho, em mới bay.

- Cô sợ trúng đạn Quân giải phóng?

- Có sợ nhưng em sẽ bay quá tầm đạn hoặc tránh vùng chiến sự.

- Vậy cô sợ ổ không khí loãng?

- Em biết cách tránh!

- Chứ cô sợ gì?

- Em sợ nhứt là khi bay đến nơi nào đó, lại có người hỏi: "Cô đến đây làm gì?" - Cô liếc nhìn tôi, cười tủm tỉm.

Tôi điếng người, nhưng cố chống chế:

- Thế cô không biết nói sao à?

- Nói sao?

- Thì nói là: "Tôi đi thăm con báo!"

Cô cười rũ làm xoong nước trên tay sóng sánh:

- Ối! Anh còn khôn hơn quỷ! Mà... Aga nó cũng mến em chớ!

- Chắc gì! Chẳng qua nó ngửi thấy mùi thịt bò.

Cô xịu mặt:

- Anh toàn chọc quê em không hà!

- Đâu có! Tôi nói con báo đấy chứ! Mà này, nếu thích, tôi cho cô đưa nó về nuôi!

- Ôi, em thích lắm. Nhưng... ai nỡ bắt nó lìa rừng được...

Câu chuyện đến đây chấm dứt vì chúng tôi đã lên tới nơi hai ông khách đang ngồi đợi.

Ông Tùng nói với cô gái, miệng cười cười:

- Thủy này, lâu lắm rồi mới thấy cháu vui như vậy đấy!

- Cháu cũng thấy hôm nay trông bác trẻ hẳn ra!

- Ờ thì... nghỉ ngơi giữa rừng, đầu óc nó thư giãn, người khỏe khoắn hơn. Chứ tao mà trẻ nỗi gì nữa cháu?

- Bác đâu đã già! Mấy bà mấy cô ở...

- Đứng đó mà lí lắc mãi! Đi nấu cơm đi con? - ông Thành gắt con gái rồi nói với ông Tùng - Sao lên đây ngồi không mà thấy mau đói bụng quá!

Tôi nói:

- Tiếc thật? Nếu biết trước, cháu đã đi bắn con thú nào ngon thịt để đãi bác bữa thịt rừng. Mà bác với đại tá có thích câu cá không?

- Câu cá? - ông Tùng bật dậy.

- Vâng! Ở suồl đây có thứ cá ngon lắm!

- Trời! Gì chớ-câu cá là nghề của tôi hồi nhỏ mà! - Ông Tùng ngoảnh sang ông Thành - Ta đi anh!

- Thôi anh đi với anh Hải. Tôi phụ bếp cho con Thủy. - Ông Thành trả lời.

Tôi lấy hai chiếc cần câu cài bên vách nhà rồi dẫn ông ta ra suối. Chúng tôi ngồi trên gộp đá ở mé dưới vũng suối, nơi có bóng cây che mát. Nước trong leo lẻo, chỉ dưới chân tảng đá chỗ sâu nhất mới thấy tối mờ. Buổi trưa cá ít cắn câu nhưng không sao! Chỉ cần vài con đãi khách là được.

Tôi tìm giun móc vào lưỡi câu, trao cho ông Tùng:

- Ở đây nước sâu, đại tá nới phao nữa đi! Loại cá này ăn mồi sát đáy.

- Ồ, lâu lắm rồi tôi mới lại đi câu. Mà nơi này đẹp quá, anh chọn được nơi ở thật hay. Hèn chi con nhỏ về dưới cứ khen mãi.

Tôi không rõ "con nhỏ"' khen tôi hay khen con suối, nhưng không tiện hỏi.

- Có lẽ vì cô ấy yêu thiên nhiên và biết cảm nhận cái đẹp. Nhưng nhìn vậy thôi chứ sống ở đây cũng không phải dễ, khí hậu khắc nghiệt lắm. - Tôi nói, cốt đưa đẩy câu chuyện để tìm hiểu thêm vài việc - Thực tình, tôi rất ngạc nhiên khi thấy bác Thành và cô Thủy trở lại. Và càng bất ngờ hơn khi đại tá cũng lên đây!

- Tôi biết! Nhưng nếu có suy nghĩ gì, xin anh hình dung sự việc đơn giản hơn. Với chúng tôi, chỉ nửa giờ bay là lên tới đây. Có phương tiện trong tay, tội gì chẳng nghỉ ngơi tí chút! Tướng Kỳ còn lái trực thăng ôm gà đi chọi hàng ngày. Tôi cũng muốn nhân dịp này để cảm ơn anh về món quà hôm trước.

- Có gì đâu mà đại tá cảm ơn. Tôi rất mến bác Thành dù mới gặp lần đầu. Mà đại tá lại là bạn của bác ấy...

- Tôi với anh Thành lại khác. Chúng tôi thân nhau từ hồi còn học trung học ở Sài Gòn. Vợ chồng tôi không có con nên coi hai đứa còn ảnh như con mình. Anh Thành gửi gắm cả hai đứa nó cho tôi, vậy mà... tôi không giừ được thằng con trai cho ảnh. Thực ra, với quyền hành của mình, tôi có thể để thằng Trà làm việc gì đó không nguy hiểm. Nhưng tôi đã không làm vì nghĩ điều đó là hèn. Một người lính phải cho ra người lính...

- Nếu vậy, đại tá đâu có gì phải áy náy! Anh ta đã thể hiện tư cách người lính đúng như đại tá mong muốn. - Tôi nóng nảy cắt ngang lời ông ta.

Không chú ý tới thái độ của tôi, ông ta trầm ngâm một lúc rồi nói:

- Tôi không nghĩ như vậy! Thực tế nó là thằng giỏi, một phi công lành nghề dù còn rất trẻ. Nhưng thời gian sau này nó thay đổi nhiều, trở nên liều lĩnh và tàn bạo. Tôi muốn người lính chỉ làm bổn phận của mình chứ không nên hiếu sát.

- Chắc đại tá phải biết nguyên nhân?

- Tôi biết! Tất cả chỉ tại thằng cha cố vấn!

"Không hẳn vậy đâu, ngài đại tá?", tôi nghĩ thầm nhưng không nói. Việc cần làm lúc này là moi một ít thông tin.

- Đại tá muốn nói tới trung tá Cođy? - Tôi hỏi.

- Con Thủy có kể anh nghe rồi thì phải? Đến giờ tôi vẫn không hiểu hắn làm cách nào mà kéo được thằng Trà theo. Hôm nghe con Thủy nói hắn bay lên tận đây để bắn thử rốc két, tôi càng ngạc nhiên.

- Thời gian sống ở đây, tôi thấy có nhiều dấu vết chứng tỏ trực thăng đã tới vùng này nhiều lần chứ không chỉ hai vụ bắn nhau với tôi. Chẳng lẽ đại tá không kiểm soát được các chuyến bay ấy?

- Tôi hiểu anh muốn nói gì. - Ông ta trả lời - đúng ra là phải kiểm soát được. Nhưng máy bay, vũ khí, tiền bạc họ bỏ ra, tôi biết nhưng... cũng khó can thiệp.

- Thế đại tá không nghĩ ông ta làm gì ở vùng này? Xin lỗi, không phải tôi tò mò, chẳng qua vì thấy những cuộc đụng độ giữa tôi với mấy chiếc trực thăng là hoàn toàn tình cờ.

- Lúc đầu tôi nghi thằng cha này dính tới mấy vụ ma túy. Chuyện ấy bây giờ không hiếm. Nhưng nếu vậy, anh sống ở đây hai năm phải biết cái gì đó: đường dây vận chuyển, kho chứa, thậm chí cả nơi chế biến... Nếu anh không thấy những thứ đó thì không phải ma túy. Hơn nữa sau vụ thằng Trà chết, rồi cha Cođy bị điều chuyển, mọi việc êm trở lại.

- Nghe cô Thủy nói, ông ta là người có thế lực?

- Thế lực gì đâu! Nhưng cũng có thằng bạn mà chả nói là bạn thân từ hồi nhỏ. Tay này là "xịa" chính cống đấy?

- Đại tá có biết?

- Hắn có đến chỗ tôi mấy lần. Chúng tôi có uống rượu với nhau, và chỉ thế thôi. Hắn đến cốt gặp thằng cha kia. Hắn tên là John Smith, nghe nói cũng vai vế lắm trong làng tình báo. Có vậy mới gỡ được cho Cođy khỏi ra tòa án binh.

- Kìa, cá cắn câu, đại tá giật đi!

Ông ta vung tay. Một con cá đen trũi to bằng cổ tay vùng vẫy dữ dội ở đầu dây. Khuôn mặt ông đại tá sáng bừng niềm thích thú. Ông ta nhoài cả người lên bãi cỏ, cố chộp cho được con cá đang giãy dụa.

Tôi cũng giật được một con, và bứt nhánh cây xỏ vào mang hai con cá.

- Cá này ngon lắm! Lát nữa đại tá sẽ biết!

- Ta câu nữa đi! - Ông ta rủ - Chà! Lâu lắm rồi hôm nay tôi mới có cảm giác thú vị như thế này!

Tôi móc mồi cho cả hai. Ông Tùng buông câu rồi nhìn tôi nói:

- Anh là một người kỳ lạ!

- Đại tá chưa nhìn thấy người lính Giải phóng lần nào ư!

- À, cũng có gặp. Mà mấy thằng chiêu hồi ấy thì nói làm chi! Là một người lính chần chính, tôi coi trọng sự can đảm. Những kẻ hèn nhát, dù ở bên nào, tôi đều căm ghét.

Tôi hăng máu lên:

- Theo đại tá, thế nào là một người lính chân chính?

- Thế anh nghĩ thế nào? - Ông ta thích thú hỏi lại.

- Người lính chân chính, trước hết phải là con người chân chính. Tôi trả lời.

- Ồ? Cách nghĩ của anh hay lắm, nhưng... chung chung. Theo tôi, đã là người lính thì chỉ làm bổn phận của mình, đừng dính dáng đến chính trị. Tất nhiên phẩm chất hàng đầu phải là dũng cảm, sau nữa, là người giỏi. Tôi là một phi công thành thạo nghề nghiệp và độc lập, không tham gia một đảng phái nào, không lệ thuộc vào phe cánh nào. Anh biết rồi đấy! Chính trường Nam Việt những năm trước liên tục đảo chánh, vậy mà tôi không dính vào ai hết. Tôi chỉ làm công việc của mình. Và tôi giỏi, nên chả ai bắt bẻ được Tướng Thiệu, tướng Kỳ đều cần tôi, mặc dầu hai ông chẳng ưa gì nhau...

Lối suy nghĩ của ông ta đơn giản, nhưng cũng vì thế là trở nên rắc rối khó hiểu. Dĩ nhiên tôi có quan điểm của mình, nhưng dễ gì nói cho ông ta hiểu, và cũng không cần thiết. Tôi nghĩ vậy nên chỉ nói:

- Nếu nói không tham gia đảng phái nào, thì còn đúng. Chứ khi đã làm bổn phận, như cách nói của đại tá, có nghĩa là đã phục vụ cho một chế độ chính trị nhất định, ít nhất cũng cho một ý đồ chính trị nào đó. Chỉ có tụi thổ phỉ mới không theo đường lối chính trị nào, còn đại tá đang ở trong một quân đội chính quy.

Một lát im lặng, rồi ông ta hỏi tôi một câu chẳng ăn nhập gì với chuyện đang nói:

- Tôi nghe kể, anh leo lên cây bắn rớt máy bay của thằng Trà?

- Vâng! - Tôi đáp gọn lỏn.

- Vậy mà anh còn chôn cất nó và tìm cách nhắn gia đình lên đem nó về?

- Tôi làm những gì lương tâm mách bảo. - Tôi trả lời và nói tiếp - Cá ăn hết mồi rồi, đại tá mắc lại mồi đi!

Ông ta nhấc cần câu, cầm con giun nhỏ tôi đưa móc vào lưỡi câu thả xuống nước.

- Tôi cảm ơn anh về điều đói - Ông nói.

Chẳng lẽ ông ta cảm ơn về mồi câu? Tôi ngạc nhiên nên hỏi lại:

- Tôi không hiểu?...

- Ông Thành là bạn tôi. - ông Tùng trả lời - Khi thằng Trà chết, ông ấy đau đớn gần như không muốn sống, nhưng chẳng hề trách tôi một câu nào. Điều đó càng làm tôi thấy mình có lỗi với ổng. Con Thủy thì sùng sục đòi bay tìm. Còn bà nhà tôi đay nghiến tôi hoài, bả quý hai đứa nó lắm! Vì vậy tôi rất mừng khi thấy từ hôm ở đây về ông Thành tươi tỉnh hẳn lên, có vẻ như đã thăng bằng trở lại. Cả con Thủy cũng thế. Anh không biết rằng tôi đã lo như thế nào mỗi lần nó bay, dù đã bố trí để nó chỉ bay những phi vụ đơn giản, không có đụng độ. Bà nhà tôi thì mừng cuống quít, cứ như tìm được xác con bả không bằng. Hôm nhận được khúc trầm anh gửi biếu, bả ngớ cả người, rồi xoắn xuýt lấy con Thủy để hỏi chuyện. Bà nhà tôi là người nhân hậu anh à! Tôi thương quý bả ở cái tính ấy. Lúc đó tôi thấy lạ, cứ nghĩ mãi, không hiểu vì sao một người như anh lại có sức thu hút đến thế với những người thân của tôi. Giờ thì tôi hiểu, anh là một người linh giỏi và có lòng nhân từ. Một người lính Việt Cộng lại đi vuốt mắt cho kẻ thù của mình lúc đã chết, là điều làm tôi thực sự ngạc nhiên.

Ông Tùng nói những điều đó một cách chân thành, vì thế nên tôi đâm khó nghĩ, không rõ ông là người thế nào. Tôi suy nghĩ một lúc rồi hỏi:

- Nếu đại tá không phiền thì cho tôi hỏi, vì sao đại tá lại nghĩ như vậy?

- Tôi nói thẳng thắn với anh, được chứ?

- Vâng! Tôi cũng mong thế! - Tôi đáp.

- Tôi không ưa nổi Cộng sản. Xin lỗi, nếu điều đó làm anh khó chịu.

- Đại tá đừng xin lỗi, và tôi cũng vậy! Chúng ta đã thỏa thuận là nói chuyện thẳng thắn cơ mà! Nhưng vì sao đại tá lại không ưa Cộng sản? Nghe nói hồi trước gia đình đại tá cũng nghèo lắm?

- Anh tưởng cứ người nghèo thì đi theo Cộng sản sao?

- Không! Nhưng những người giàu có thường nghi chúng tôi sẽ làm cho họ nghèo đi.

- Tôi không ưa cộng sản vì họ tạo nên loại người cuồng tín. Các anh hô hào; đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội, như vậy khi nào mới hết chiến tranh? Chả lẽ cứ đánh giết nhau hết đời này qua đời khác ư?

- Vì thế nên đại tá thấy lạ khi một người lính như tôi lại có lòng nhân từ?

Ông ta ngoảnh sang nhìn tôi chăm chú, lát sau mới đáp:

- Điều đó tôi đã nói rồi!

Tôi ngập ngừng. Khó mà đưa lý lẽ ra để tranh luận với ông ta những vấn đề lớn đó. Hơn nữa, tôi không được chuẩn bị cho một cuộc tranh luận kiểu này. Dù có giàu óc tưởng tượng đến mấy đi nữa, cũng chưa bao giờ tôi nghĩ đến cuộc chuyện trò kỳ lạ như thế này với một đại tá ngụy ở giữa rừng già. Người đang ngồi bên cạnh tôi có hệ tư tưởng đối nghịch. Và đừng hòng tính tới chuyện thuyết phục một kẻ mà thâm niên chống Cộng lớn hơn cả tuổi đời của tôi, trừ phi chính trong bản thân ông ta đang có sự chuyển biến nào đó.

Tôi nói:

- Có thể nói, đại tá gặp tôi một cách ngẫu nhiên. Phía Quân giải phóng đâu biết trước một cuộc gặp gỡ như thế này để chọn người chờ sẵn ở đây? Còn tôi, khi tôi làm tất cả những việc như đại tá đã biết, tôi đâu nghĩ là sẽ có ngày gặp ông Thành, cô Thủy và... gặp đại tá?

- Anh muốn nói rằng, anh chỉ là một trong ngàn vạn người, và phía các anh ai cũng như vậy?

- Rất mừng vì đại tá hiểu được ý tôi!

- Tôi hiểu ý anh, nhưng đừng nghĩ là tôi công nhận điều đó! Thế anh nói sao về vụ tàn sát ở Huế năm Mậu Thân?

- Vì vậy mà đại tá nói chúng tôi là những kẻ cuồng tín?

- Tôi đưa ra một dẫn chứng!

- Nếu tôi nói đến hai từ "Sơn Mỹ", chắc đại tá cũng đoán ra ngay sau đó tôi sẽ nói gì! Nhưng việc đó không nên, phải không ạ? Thật nhẫn tâm khi đem sinh mạng đồng bào mình ra làm vật so đo như đặt trên bàn cân, chỉ cốt tính chuyện hơn thua trong một cuộc tranh luận giữa hai cá nhân. Cho nên tôi chỉ nói, phía chúng tôi không hề có một chủ trương như vậy!

- Các anh vẫn hô hào diệt ác trừ gian?

- Đúng! Chúng tôi đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù. Nhưng "diệt và "trừ" ở đây không chỉ có nghĩa là giết. Đại tá nên nghĩ rằng, trong mấy chục ngày đêm Quân giải phóng chiếm giữ thành phố Huế, người dân Huế vẫn sống yên ổn. Họ còn giúp đỡ chúng tôi rất nhiều.

- Cái hố chôn xác người ở vùng ven Huế là có thật!

- Tôi không phủ nhận điều đó!

- Vậy anh định giải thích thế nào?

- Thẳng thắn mà nói, tôi không có quyền phán xét. Tôi cũng không có mặt ở đó lúc xảy ra sự việc nên...

Cá lại cắn câu. Tôi giật được con nữa xỏ vào xâu cá lúc nãy và móc lại mồi thả xuống nước.

Ông Tùng vẫn ngồi im ý chờ tôi nói tiếp, mắt đăm chiêu nhìn những gợn nước tròn lan ra từ chiếc phao câu nhấp nháy, nhưng hình như không nhận thấy cá đang phá mồi. Tôi nói tiếp:

- Vụ việc ở Huế lúc đó là sai lầm của một số ít người. Tôi nghĩ sai lầm đó đã gây tổn thất rất lớn cho phía chúng tôi, nhất là khi nó bị các ông lợi dụng để kích động hận thù. Mặt trận dân tộc giải phóng đang kêu gọi toàn dân đứng về phía mình, chúng tôi đâu muốn mọi người mất lòng tin.

- Cứ cho là các anh không có chủ trương, sao việc đó lại xây ra?

- Đại tá đừng đề cao chúng tôi quá.

- Tôi đề cao các anh cái gì? Ông ta đảo mắt, ném sang tôi cái nhìn bực dọc.

- Chúng tôi đi theo Cách mạng với nhiều hoàn cảnh, nhiều trình độ nhận thức khác nhau. Và trước hết chúng tôi là những con người bình thường như mọi người khác. Trong mỗi con người đều có tính thiện tính ác. Rồi có lúc, lòng thù hận thổi bùng lên cái ác ở một số người, nhất là khi họ bị dồn tới bước đường cùng. Dưới sông tàu nã pháo, trên trời phản lực ném bom và trực thăng rỉa đại liên, ở mặt đất bộ binh vây chặn các ngả. Một số người phải dẫn giải lên căn cứ những kẻ mà họ coi là kẻ thù. Là người địa phương, trước đây bản thân họ hoặc gia đình từng phải chịu đau đớn mất mát bởi những kẻ đó. Còn lúc đó, họ đang cận kề cái chết. Rồi trong tâm trạng thất vọng bởi cuộc tổng tấn công ở vào bước thoái lui, họ đã làm những việc không được phép làm. Xin nói thêm với đại tá, số người bị giết đó tuy không mặc áo lính nhưng là những kẻ đang cộng tác với chế độ các ông ở những hình thức hay mức độ khác nhau. Đối với Cách mạng, họ là kẻ chống đối. Tuy nhiên, đáng ra họ phải được xét xử. Tôi cũng nghĩ rằng có những người chưa đáng tội chết, và có người bị oan.

- Thế bên các anh đã xử những kẻ phạm sai lầm ấy như thế nào?

- Đại tá nghĩ họ còn sống ư?

- Sao anh biết là họ đã chết?

- Tôi không nói thế Tôi chỉ hỏi thế thôi? Tình hình ở Huế lúc đó, hẳn đại tá biết hơn tôi nhiều. Tôi có người bạn nhập ngũ cùng ngày cũng chết ở Thành Nội đợt đó. Cả đại đội chỉ trở về có mấy người.

- Anh nói rất khôn, nhưng thực ra cũng chỉ nói theo lối tuyên truyền, nhằm bênh vực cho phía các anh!

- Tôi chỉ nói ra những điều mình suy nghĩ dựa vào những gì mình biết. Đó chỉ là ý kiến cá nhân.

- Như vậy là anh đồng tình với việc bắn giết những người tay không vũ khí?

- Không! Tôi hoàn toàn phản đối.

- Quanh co! Chẳng lẽ anh không nhận ra mâu thuẫn trong cách nói của mình sao?

Tôi ngẫm nghĩ rồi trả lời:

- Có lẽ cách diễn đạt của tôi không rõ. Đại tá có muốn nghe một câu chuyện để hiểu thêm ý tôi không ạ?

Đúng lúc đó, ông Thành cùng con gái đi xuống, có con báo lẽo đẽo theo sau. Tôi ngập ngừng định đứng dậy, nhưng ông Tùng đã vẫy tay gọi họ ngồi xuống bên cạnh và nói với tôi.

- Anh cứ nói đi!

- Vâng? Hơi dài dòng một chút... - Tôi tiếp tục câu chuyện - Quê tôi ở Vĩnh Linh, vùng đất mà trong cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ được gọi là cái túi bom đạn. Người quê tôi phòng tránh các cuộc oanh kích bằng cách dở nhà làm hầm chữ A và dựa vào thế các triền đồi đất đỏ để đào những địa đạo, thường là sâu trên hai chục mét dưới lòng đất Hẳn đại tá có biết việc này?

- Anh kể tiếp đi!

- Lúc có máy bay ném bom, những ai không đủ sức cầm khẩu súng bắn trả đều phải chui xuống nấp dưới địa đạo. Trong một cuộc oanh kích, máy bay Mỹ sử dụng bom khoan, loại bom nổ ngầm trong lòng đất. Phải nói là phi công giỏi! Họ đánh sập địa đạo, chôn sống trong lòng đất gần trăm con người, toàn là người già, trẻ em, phụ nữ có thai... Kết cục thế nào, chắc đại tá cũng đoán được. Người trên mặt đất biết địa đạo bị sập nhưng đành bó tay. Các loại bom phá, bom sát thương đã làm đảo lộn địa hình, không còn nhận ra của địa đạo ở đâu nữa. Mà có biết cũng chàng thể đào nổi hàng ngàn khối đất đá để moi những con người tội nghiệp đó lên.

- Lúc đó tôi đã vào chiến trường. Nói đúng hơn là vào vùng đất phía nam sông Bến Hải, chứ ở đâu cũng đều là chiến trường cả rồi. Người kể lại chuyện cho tôi nghe là một cậu trai trẻ cùng quê, học sau tôi mấy lớp, mới nhập ngũ hơn tháng. Hồi nhỏ cậu ta rất hiền, vẫn thường bị tôi bắt nạt. Cậu ấy chỉ mê đọc truyện chứ chả bao giờ tham gia vào trò chơi đánh trận giả của lũ trẻ cùng xóm. Đến bây giờ, tôi như vẫn nhìn thấy cậu ấy ngồi trước mặt mình, mặc bộ quân phục rộng thùng thình còn mới tinh, đội chiếc mũ tai bèo mới tinh, và khẩu AK tựa trên vai cũng mới. Cậu ấy ngồi dựa lưng vào vách hầm, thong thả kể chuyện, giọng dửng dưng như không hề có chút xúc cảm nào. Nhưng khi ngẩng lên nhìn cậu, tôi bỗng giật mình: trên khuôn mặt vừa qua tuổi thiếu niên đó đang giàn dua nước mắt, những giọt nước mắt lạnh vì không có tiếng khóc. Và khủng khiếp nhất là đôi mắt. Đôi mắt cậu ấy lóe lên một thứ ánh sáng kỳ lạ mà tôi không biết tả thế nào, chỉ có cảm giác là nó giống mắt của một con ác thú. Kể xong chuyện, cậu ta thề sẽ xé xác bất cứ tên giặc nào mà cậu bắt gặp... Mẹ cậu và hai đứa em..., không, ba đứa mới đúng vì còn một đang trong bụng mẹ, cả bốn mẹ con đều chết dưới địa đạo.

Sau này nhiều lần tôi cố nghĩ xem những người dưới địa đạo còn sống được bao lâu nữa sau khi cửa hầm sập, mà chịu không đoán được, và cũng không hiểu mình nghĩ như vậy để làm gì? Có thể lúc những chiếc máy bay về tới căn cứ thì dưỡng khí trong địa đạo cạn? Cũng có thể khi các phi công mở sâm banh uống mừng một phi vụ trót lọt và kéo nhau vào tiệm nhảy thư giản, thì những người dưới lòng đất bắt đầu bị ngạt? Đại tá thử hình dung xem họ làm gì lúc đó? Họ có nghĩ gì không? Những người mẹ ôm con gào thét đến điên dại? Những người già cào cấu xé rách lồng ngực? Họ giãy dụa trong lòng đất tối om như âm phủ và mãi mãi nằn lại dưới đó. Tất nhiên chẳng có ai quay phim chụp ảnh được họ, dù với mục đích gì đi nữa. Liệu có thể nói rằng bàn tay ấn nút cắt bom của những phi công đó sạch sẽ không?

Tôi ngừng lời. Mọi người im lặng. Nắng đã tràn tới gộp đá, bóng râm thu lại dưới gốc cây. Tôi rút dao găm đứng dậy:

- Để tôi đi làm cá. Loại cá này nướng ăn ngon lắm! Ông Thành kéo tay tôi:

- Anh để con Thủy nó làm. Ta ngồi vào đây cho mát!

Cô gái đỡ cây dao, xách xâu cá bước xuống bờ nước. Tôi đang ngần ngừ thì ông Tùng cuốn dây câu đi lên ngồi dưới gốc cây, ý muốn nói chuyện tiếp. Chả lẽ các vị khách không đói sao? Ông Thành và tôi lên theo, ngồi xuống vạt cỏ.

Ông Tùng khơi chuyện trước:

- Có phải anh muốn nói cậu ấy có mặt ở Huế trong Mậu Thân?

- Không! Cậu ấy chết sau đó mấy ngày. Chết vì giẫm phải mìn chứ chưa kịp bắn một phát súng thù nào. Nhưng những chuyện như thế bây giờ nhiều lắm, ở đâu cũng có. - Tôi ngưng một lát rồi nói tiếp - Không rõ câu chuyện vừa rồi có giúp đại tá hiểu thêm ý tôi nói lúc nãy không ạ?

- Tôi biết! Anh muốn đề cập đến nguyên nhân của nguyên nhân. - Ông nói, mắt vẫn nhìn đăm đăm con thác nhỏ lúc này đang chói nắng sáng lóa - Anh kể tôi nghe một câu chuyện để nói về lòng căm thù, theo cách nghĩ của các anh. Nhưng sự việc đó chỉ là rủi ro. Các trận oanh kích vào Bắc Việt chỉ nhằm phá hoại các căn cứ quân sự, ngăn chặn việc chuyển người và vũ khí của chính quyền Hà Nội vào Nam Việt. Và anh nên nhớ: lúc sử dụng các phương tiện chiến tranh hiện đại, sai số kỹ thuật là cho phép.

Tôi cười nhẹ:

- Tôi không hiểu là ai cho phép, nhưng đại tá dùng từ hay lắm! Để nói tới rủi ro trong chiến tranh, trước đây người ta thường dùng "tên bay đạn lạc", còn bây giờ đại tá lại nói: "sai số kỹ thuật"! Nhưng khi người Mỹ đánh phá miền Bắc, làm gì có sai số?

- Anh lầm! Dù phương tiện, vũ khí có hiện đại đến đâu, những sai sót là điều không tránh khỏi. Nhất là khi các mục tiêu quân sự nằm lẫn với khu vực dân cư, và phi công phải bay trên một vùng hỏa lực phòng không dày đặc.

- Tôi chưa được bay bao giờ, không biết có sợ như lúc... ngồi dưới trận bom B52 hay không? - Tôi nói, không giấu sự mỉa mai - Nhưng đại tá nói như thế, thì mấu chốt cuối cùng của vấn đề vẫn là yếu tố con người. Tôi cũng nghĩ vậy! Không thể coi khẩu AK là biểu tượng của chúng tôi, còn cây AR15 là biểu tượng của phía các ông. Chính vì thế nên tôi không lầm. Khi Mỹ đã tuyên bố "đánh cho Bắc Việt trở lại thời kỳ đồ đá", thì bom đạn ném xuống đâu cũng đều trúng tích, cũng nhằm hủy diệt, làm gì có "sai sổ" hay rủi ro?

Cô gái làm xong mớ cá, bước lên bãi cỏ ngồi xuống cạnh con báo. Ông Thành nãy giờ vẫn ngồi im chưa nói gì.

Ông Tùng thôi không nhìn ra thác nước nữa mà quay sang tôi, nói chậm rãi:

- Chẳng phải trong luận thuyết của Cộng sản các anh thường sử dụng mối liên hệ nhân quả đó sao? Nếu chính phủ Hà Nội không đổ quân vào Nam Việt thì làm gì có cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc? Việt Nam cộng hòa là một chính thể quốc gia được nhiều nước trên thế giới công nhận. Lúc các anh mang vũ khí vượt qua vĩ tuyến mười bảy là đã thực hiện một cuộc xâm lăng trắng trợn.

Tôi nhìn ông, cố giấu vẻ tò mò. Ông ta nghĩ vậy thật sao? Khuôn mặt có nhưng nét rắn rỏi giờ tối sầm lại dưới vành lưỡi trai của chiếc mũ thể thao màu trắng. Đôi mắt mệt mỏi và hai mí mắt dưới sùm sụp dường như đang phồng lên làm nét mặt của ông ta trở nên nặng nề khó hiểu.

Tôi nói:

- Tôi không nhớ những nước nào đã công nhận chính quyền của các ông, có phải mấy nước đưa quân chư hầu sang giúp các ông đó không? Còn vì sao họ công nhận, tôi nghĩ mình cũng đoán được... Nhưng thôi! Xin lỗi, tôi hỏi điều này hơi tò mò, đại tá quê ở đâu ạ?

ông Tùng nhìn tôi ngạc nhiên, nhưng cũng trả lời:

- Tôi quê miệt Tiền Giang.

Tôi nói thong thả:

- Có một nhà thơ khi nói về những người đi mở mang vùng đất phương nam, đã viết hai câu thơ nổi tiếng: "Từ độ mang gươm đi mở cõi. Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long...". Hai câu thơ ấy rất hay, phải không ạ? Nhất là về ý nghĩa lịch sử. Không biết ông cha xưa cầm cuốc cầm phảng đi mở đất, có nghĩ rằng đến lúc nào đó thế hệ con cháu sẽ tự chia cắt đất đai bờ cõi không? Và hơn thế nữa, có vị tổng thống nào đó của các ông đã tuyên bố một câu xanh rờn: "Biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến mười bảy...". Tôi không nhớ vị nào đã nói thế, vì có dạo phía các ông quốc trưởng, tổng thống thay đổi xoành xoạch. Nhưng chỉ có những kẻ như vậy mới coi việc người Việt Nam đi đánh giặc ngay trên đất nước mình là xâm lược. Thế đại tá nghĩ sao về việc quân Mỹ cùng các phương tiện chiến tranh hiện đại từ bên nước Mỹ kéo sang đây?

Ông Tùng bực bội cau đôi mày rậm. Cô gái nhìn hai chúng tôi lo lắng. Riêng ông Thành nét mặt rạng rỡ hẳn lên. Điều đó làm tôi yên tâm.

- Hoa Kỳ là đồng minh của chúng tôi. Họ giúp chúng tôi cũng như Nga Xô đứng bên các anh vậy? - Ông Tùng mệt thỏi trả lời.

- Khác nhiều chứ! Mỹ đổ vào miền Nam hơn nửa triệu quân. Trước đây có đài phương Tây đã nói mỗi tháng có từ năm đến sáu trắm lính Mỹ chết ở Việt Nam. Còn ở miền Bắc, theo tôi biết cũng có một số chuyên gia Liên Xô, nhưng không đông và phần lớn là chuyên gia về kinh tế.

- Cá nhân tôi cũng chẳng ưa gì người Mỹ, - ông Tùng nói giọng gay gắt - nhưng họ giúp đỡ chúng tôi, chiến đấu và đổ máu cùng chúng tôi. Còn các anh thì sao? Nga Xô và Trung Cộng giao cho các anh một mớ vũ khí, và thế là các anh đánh thí xác. Tôi khâm phục lòng dũng cảm của những người lính phía các anh, nhưng sao các anh không nghĩ rằng chính quyền Hà Nội đang làm tên lính xung kích cho Nga Xô ở bên bờ Thái Bình Dương, và biến những người lính các anh thành những kẻ hy sinh mù quáng? Hà Nội đã chà đạp lên hiệp nghị Giơnevơ, biến khu phi quân sự phía bắc sông Bến Hải thành căn cứ quân sự để làm bàn đạp xâm lăng Nam Việt. Anh đừng lấy làm lạ khi quê anh trở thành cái túi bom đạn...

Mặt tôi nóng ran. Tôi nghe rõ tiếng mạch đập thình thịch trong đầu và người rực như sốt. Sự phẫn nộ làm cả người tôi rung lên. Quay mặt đi để khỏi nhìn thấy ánh mắt lo lắng của ông Thành cùng nét mặt bối rồi của cô gái, tôi nhìn xuống dòng suối, tai cố lắng nghe tiếng nước chảy, mắt tìm mấy bóng cá mờ mờ khi ẩn khi hiện trong khe đá. Lát sau thì trấn tĩnh lại được. Tôi nói:

- Theo hiệp nghị Giơnevơ, cuộc tổng tuyển củ sẽ tiến hành sau hai năm. Nhưng điều đó không bao giờ thực hiện được, bởi ngay từ đầu, chính quyền Diệm đã hô hào "lấp sông Bến Hải", gào thét "Bắc tiến". Làng tôi chỉ cách giới tuyến có bảy cây số. Hồi đó bọn trẻ con chúng tôi nghe vậy sợ lắm! Còn người lớn thì lo lắng đào những cái hố cá nhân trong vườn nhà và dặn bọn trẻ chúng tôi, nếu có phái đoàn quốc tế tới hỏi thì nói là đào hố trồng chuối... Họ sợ mang tiếng hiếu chiến, sợ "vi phạm hiệp nghị"! Quê tôi mà là căn cứ quân sự ư? Chắc đại tá cũng biết, khi máy bay Mỹ lần đầu ném bom Vĩnh Linh, ở đây người ta bắn trả bằng những thứ vũ khí gì? Không cần đến tin tức tình báo, chỉ nhìn vào những vết đạn trên máy bay của tướng Kỳ, những ai là phi công đã trải qua chiến đấu đều biết rõ đó là đạn của các loại súng bộ binh cổ lỗ sĩ. Hôm đó chính tướng Kỳ dẫn những chiếc AD6 của không lực các ông tham gia đánh phá, dù chỉ mang tính chất tượng trưng, và đã tỏ ra rất "tự hào" về những vết đạn trên máy bay mình. Những việc này hẳn đại tá rõ hơn tôi.

Còn những điều khác mà đại tá vừa nói, đài Hoa Kỳ và đài BBC nói mãi rồi, hồi trước tôi có nghe. Thú thực là nghe trộm thôi. Ở bên chúng tôi, lính trẻ như tôi không được nghe những đài đó. Nhưng những gì người Mỹ đã làm ở Việt Nam là tội ác chứ đâu phải sự giúp đỡ? Đại tá bay trên trời, chắc chỉ nhìn thấy cảnh bom đạn chết chóc từ xa hoặc qua ảnh chụp trên máy bay, chứ chưa ngồi dưới những đợt bom B52 hay đi trong màn sương mờ mờ của hóa chất làm trụi lá từ máy bay rải xuống. Đại tá đâu phải hít vào phổi thứ mùi ghê rợn thường có sau trận bom: mùi tanh nồng của máu trộn lẫn với mùi khói bom và mùi xác người cháy khét lẹt...

Đại tá bảo, quân Mỹ đổ máu cùng các ông? Quả có thế! Nhưng để làm gì? Người Mỹ thực dụng lắm mà! Nợ gì còn trả được, chứ nợ xương nợ máu lấy gì để trả? Cho nên tôi chẳng hề lấy làm lạ khi thấy trước những việc làm mờ ám của một trung tá cố vấn, mà đại tá lại nói: "Tôi biết nhưng cũng khó can thiệp"...

- Anh thật... quá quắt? - Ông ta nói như quát, mặt phừng phừng giận dừ.

Tôi điềm đạm hỏi:

- Đại tá có cần tôi phải xin lỗi không ạ?

- Không cần? - Ông ta phẩy tay

- Mà... anh định xin lỗi điều chi?

- Tôi chỉ xin lỗi vì đã làm buổi đi câu của đại tá mất vui!

Ông Tùng nhìn tôi chằm chằm, rồi bỗng cười lớn:

- Hay lắm? Tôi sẽ rất thất vọng nếu anh xin lỗi về những lời nối thẳng thắn vừa rồi...

Ông Thành và con gái thở phào nhẹ nhõm. Còn tôi mãi sau này mới hiểu vì sao ông ta lại nói như vậy.

- Nhưng hôm nay tôi chưa định tranh luận với anh đâu đấy! - Ông Tùng nói tiếp.

Tôi đáp:

- Vâng, tôi cũng nghĩ thế? Thấy đại tá nói rất ít...

Nét mặt ông giãn ra và dịu hẳn lại.

Không ai bảo ai, cả bốn chúng tôi cùng đứng dậy. Tôi giục mấy vị khách lên nhà trước, rồi chạy xuống đoạn bờ suối phía dưới chặt mấy tàu lá chuối. Lúc quay trở lại, thấy ba người đã lên gần đến nhà. Cô gái vác khẩu tiểu liên trên vai, tay xách xâu cá chân bước thoăn thoắt, mái tóc kẹp thòng đung đưa sau lưng. Giá có thêm chiếc mũ tai bèo...

Chương XX

Cha con ông Thành đã chuẩn bị bữa cơm trưa khá tươm tất. Thức ăn có một đĩa xếp đầy những lát cá thu kho, và một đĩa khác ngồn ngộn những con tôm luộc to hơn ngón tay cái, mà màu vỏ đỏ hồng cùng hương vở của nó đều hết sức xa lạ và hấp dẫn khi xuất hiện ở giữa rừng. Lái còn đĩa rau sống xanh đến mát mắt, có điểm những lát chuối chát trắng mỏng và mấy lát khế hình ngôi sao vàng hượm. Bên cạnh là chén nước mắm có thả mấy miếng ớt đỏ tươi, cùng đĩa muối tiêu lốm đốm đen trắng với mấy quả chanh vỏ vàng suộm. Còn xoong cơm thì khỏi nói, mới mở vung ra đã thơm nức hương gạo.

- Ôi! Gạo mới phải không cô Thủy? - Tôi kêu lên - Thơm quá, chỉ ngửi mùi cũng thấy ngon! Cứ như đang vụ gặt...

Ông Tùng cười hà hà, quay sang nói với ông Thành:

- Hèn chi con nhỏ sáng nay cứ chạy lòng vòng quanh chợ, gạo nào cũng chê không mua!

Tôi làm như không biết gì. Cô gái đỏ mặt nói lảng:

- Cháu đâu biết bác chê cơm gạo mới?

- Tao chê hồi nào? Tao chỉ nói mày muốn mang cả biển cả ruộng vườn lên rừng để...

Cô gái vội cướp lời:

- Có vậy nên cháu mới bỏ quên chai rượu...

- Nói gì kỳ vậy cháu? Thôi tao không nói nữa. Đem ra cho bác! Lên đây mà thiếu chai rượu nhâm nhi thì còn ra gì!

- Cháu quên thiệt mát! Lúc sáng lu bu công chuyện, lại đi gấp...

- Con nhỏ này giỡn hoài! Đâu rồi? Đem ra đây để bác mời anh Hải một ly chớ! Mấy khi có dịp ngồi giữa rừng cụng ly với Việt Cộng?

Cô gái cười lỏn lẻn, lôi từ túi xách ra chai rượu vuông nhãn đỏ và mấy cái ly nhỏ. Mắt ông Tùng sáng lên. Ông vừa mở nắp róc rượu ra ly vừa lầu bầu:

- Thằng nào sau này lấy mấy thì khổ thôi, cháu ạ!

- Bác khỏi lo! Cháu không lấy chồng đâu! Cháu đợi khi nào chú Nguyên vô đã.

- Vậy là bác không được dự đám cưới mày rồi!

- Sao bác lại nói thế!

- Chú mày mà vô đây thì tao chạy từ đời tám hoánh nào rồi!

Ông nói tưng tưng, trên mặt chẳng còn chút căng thẳng nào của cuộc nói chuyện bên bờ suối lúc nãy. Hình như trong ông có đến hai con người..., không, phải nói là hai tâm trạng thì đúng hơn.

Bữa cơm trưa rất vui vẻ. Ai nấy đều ngon miệng, một phần vì đói mềm. Đã một giờ chiều rồi còn gì! Tôi ăn ngon lành mấy món biển, còn các vị khách lại nắc nỏm khen mãi món cá lấu gói lá chuối lùi trong than hồng, tuy món cá chưa đạt yêu cầu cho lắm do nướng vội, lớp da cá cháy mà không giòn. Tôi biết họ khen thật tình, bằng chứng là ba con cá to cuối cùng chỉ còn lại chỗ xương mà báo Aga cũng chỉ đưa mũi liếc qua rồi quay đi. Tuy vậy nó không tỏ vẻ khó chịu, không hiểu vì biết nhởn miệng đãi khách hay còn no thịt bò.

Cơm xong, cô gái thu dọn bát ba rồi nói với ông Tùng:

- Bác đưa cháu xuống suối!

Tôi vội nói:

- Cô cứ để đấy, chiều tôi rửa!

- Ai lại để bát đĩa dơ thế này mà ngồi nới chuyện? Đi bác! - Cô giúi khẩu tiểu liên vào tay ông.

- A...! Con nhỏ này! Ăn xong phải để tao nghỉ ngơi chút chớ!

- Lên đây bác phải làm việc, đâu như ở dưới mà có hầu cận!

Khi ông Tùng đứng dậy xách súng đi, cô quay lại nhìn tôi cười ranh mãnh.

Quả nhiên hai người mới đi được một quãng, ông Thành đã bảo tôi:

- Anh Hải này, vừa rồi tôi có vào Tam Kỳ!

- Bác vào chỗ già Lý! - Tôi hỏi.

- À! Có hẹn trước nên tôi gặp được người con trai. Anh ấy tên Nghĩa, làm ở Huyện ủy. Tôi có viết thư gửi cho chú Nguyên, trong thư kể chuyện gặp anh nên mới biết địa chỉ.

- Rồi sao nữa bác? - Tôi lại hỏi, trong bụng mừng rơn.

- Anh ấy hứa là sẽ chuyển được, và hỏi rất kỹ về chuyện của anh, chắc ông Lý có nói trước. Tôi thì cứ thiệt tình kể lại những gì biết ở đây và nghe anh nói.

- Cám ơn bác! Nếu vậy chắc rồi đơn vị cháu sẽ biết tin cháu còn sống.

- Anh có cần nhắn gì không? - Ông nói, và chắc nhìn thấy vẻ mặt phân vân của tôi nên lại nói tiếp - Xin anh tin ở tôi. Tôi rất biết ơn anh về những việc anh đã làm cho gia đình tôi, và cũng mong làm được việc gì đó để sau này còn gặp lại chú nó.

- Chính bác với cô Thủy mới giúp cháu nhiều chứ ạ. Cháu chỉ sợ lỡ có gì nguy hiểm cho hai bác.

- Không sao đâu anh. Chỗ ông Lý dân Đà Nẵng lên nườm nượp, ở đó có ông thầy thuốc nam giỏi lắm. Tôi vào đó đã quen mặt rồi.

- Vậy bác cho cháu mượn giấy bút viết mấy chữ.

Ông Thành đưa cho tôi cây bút bi với quyển sổ lịch. Tôi xé trang giấy trắng viết bức thư ngắn:

"Chú Hai kính!

Mấy lần định lên thăm chú thím và các em mà chưa đi được. Mùa màng vừa xong thì ba đứa nhỏ lại ôm. Thành ra có kiếm cho chú mấy cây mai vàng, giống nở hoa sáu cánh, nhưng còn bỏ đó. Hay hôm nào chú rảnh, về chơi rồi đem lên một thể. Nghe nói giống mai này quý lắm!

Vậy cháu viết ít dòng để chú khỏi trông.

Kính chú thím khỏe!

Cháu Tư"

Lâu ngày không cầm bút, tay cứng quèo nên nét chữ nguệch ngoạc, nhưng như vậy cũng hay. Tôi đưa tờ giấy cho ông Thành và dặn:

- Bác đưa cho anh Nghĩa, nhờ anh ấy chuyển cho anh hai Nguyên. Nếu kẹt, bác cứ hủy đi rồi nhắn miệng với nội dung như trong thư cũng được.

- Tôi hiểu! Anh yên tâm.

Ông Thành đọc bức thư rồi gấp lại, nhét trong ngăn ví và cất vào túi. Cách thức liên lạc này tôi đã từng nghĩ tới. Nếu nhận được thư, anh Hai Nguyên hoặc các cán bộ tham gia chỉ đạo TK1 sẽ hiểu ngay vấn đề. Còn lỡ nó lọt vào tay địch, thì chỉ những kẻ biết rõ việc tôi sống ở đây và biết bức thư này tôi viết, mới nghi ngờ nội dung. Nhưng tôi tin ở ông Thành và hiểu được rằng, nếu không có lòng tin ở con người thì chẳng làm nên việc gì cả.

Tôi nói với ông:

- Quả thực, cháu rất ngạc nhiên khi thấy ông Tùng lên đây!

- Ông ấy không có ẩn ý gì đâu!

- Cháu biết! Một vị đại tá không đến nỗi phải đích thân di do thám, nhưng dù sao cũng rất khó hiểu.

- Ông Tùng lên không phải vì anh, cũng không phải vì tôi hay con Thủy lôi kéo, mà chỉ vì ông ấy đang muốn tự chiêm nghiệm lại bản thân mình. Tất nhiên trong lớp người như ông Tùng, không phải ai cũng như vậy. Nhưng nội tâm con người vốn rất phức tạp. Anh cứ coi đây là một trường hợp đặc biệt. Tôi biết mấy năm gần đây ông ấy có nhiều trăn trở trong cách nhìn nhận về cuộc chiến...

Tôi còn muốn hỏi thêm nhưng ông Tùng và cô gái đã lên tới.

Mặt trời chênh chếch dọi nắng lên chỗ bàn đá. Chúng tôi ngồi xuống bãi cỏ nơi có bóng râm, tiếp tục trò chuyện. Khi nghe tôi hỏi về diễn biến hội nghị Paris, ông Tùng nói:

- Vẫn tiếp tục, nhưng chưa có gì mới. À, anh lên đây mấy năm? Hai phải không - Thấy tôi gật đầu, ông nói tiếp - đúng là chẳng có gì mới trong thời gian đó. Tướng Thiệu bắt buộc phải cử một phái đoàn sang để đối diện với Mặt trận Giải phóng. Dĩ nhiên đó là ý người Mỹ chứ ông ta chẳng vui vẻ gì!

Tôi hỏi:

- Theo đại tá, hội nghị Paris sẽ đi đến đâu?

- Thì cũng phải tiến tới một kết cục nào đó chớ! Nhanh hay chậm là còn tùy ở hai phía, Mỹ và Hà Nội. Anh biết rồi, cái gọi là "bốn bên" chỉ là hình thức. Nhưng cuộc chiến kết thúc như thế nào, theo tôi cuối cùng vẫn phải quyết định trên chiến trường. Vừa rồi, tướng Thiệu mở cuộc hành quân Lam Sơn cũng nhằm ý đó. Ông muốn tạo một hành lang chiến lược dọc theo đường Chín, cắt đứt tuyến tiếp tế của Hà Nội, cái đường... Trường Sơn đó! Nếu làm được, ông ta sẽ có tiếng nói mạnh trên bàn hội nghị, và có giá với Hoa Kỳ.

Tôi thấy ông Tùng chỉ gọi "tướng Thiệu" chứ không gọi tổng thống, nhưng không quan tâm đến điều đó, chỉ háo hức hỏi:

- Thế rồi kết quả ra sao?

- À... Tất nhiên chúng tôi phải thắng chớ! Đại tá chỉ huy hành quân bị bắt làm tù binh, nhưng chúng tôi vẫn thắng! Thắng ở trên đài trên báo! - Giọng ông chua chát - Phía các anh tham chiến với cả tăng T34 và đại pháo, còn hỏa lực phòng không thì dày đặc. Tôi thấy có vẻ lần đầu tiên các anh tổ chức tác chiến hiệp đồng binh chủng, quy mô không lớn nhưng hiệu quả...

Cũng với cách nói tưng tưng, ông kể thêm về tình hình chiến sự, tất nhiên từ góc nhìn của ông. Tôi như mở cờ trong bụng. Được biết những tin tức đó, nhất là khi nghe chính ruột đại tá ngụy nói, thật thú vị.

Ông Tùng lại vớ cái ly và chai rượu còn non nửa. Từ đầu tới giờ ông uống là nhiều, tôi với ông Thành chỉ nhấp môi gọi là.

Cô gái can:

- Bác đứng uống nữa! Hồi tới giờ bác uống nhiều rồi...

- Nhâm nhi cho vui chớ ăn nhằm chi ba cái thứ rượu ngoại này!

- Bác uống nhiều thế, làm sao bay được?

- Cái con này! Hôm nay phải để bác xả hơi chút chớ! Mày đưa tao đi thì phải lo chở về...

- Là nói... bay dài dài đó. Chớ cháu đâu dám bỏ bác lại đây? Về dưới chết với bác gái à! Mà bác gái biểu dạo này bác hay uống rượu một mình...

- Ôi nghe bả làm chi! Mà... tao hết ham bay rồi. À này, ông quay sang nói với tôi - Cái thứ cá nướng của anh đó, nhậu với ba xị đế là phải biết! Còn ngon hơn cá lóc lụi rơm. Anh nhậu thứ đó bao giờ chưa? - Giọng ông ngà ngà.

- Tôi có nghe kể mà chưa được ăn lần nào. - Tôi cười đáp.

- Chậc! Nếu có dịp, mời anh về quê tôi. Tôi sẽ tự tay bắt cá làm cho anh nhậu một bữa. Mà anh biết sao không? Phải nhậu giữa đồng, lúc sắp tắt nắng ấyl Lúc đó gió biển lồng lộng, ta ngồi giữa mênh mông trời đất, nhìn chỏm nắng trên đọt dừa, ngắm đàn cò bay về tổ, người khói đốt đồng thơm mùi rạ cháy, tay nâng ly đế trong như mắt mèo đưa lên ngang mắt ngắm qua một chút rồi mới tợp một ngụm, rồi xé miếng lóc nướng thơm phức kẹp với rau sống, thêm ngọn rau thơm, lùa vô đầy miệng nhai mới đã! Lại cắn thêm trái ớt xanh nữa... Ối! Phải biết nhá!

Cô gái cười rúc rích:

- Nghe bác kể mà bắt thèm! Hôm nào đi, bác nhớ kêu cháu theo với...

- Mày thì biết gì! Nhậu như vậy phải gặp tri âm tri kỷ mới đã à nghen! - Ông Tùng mắng cô gái rồi quay sang nói với tôi - Con người ta kể cũng lạ! Như tôi ăn uống đâu thiếu thứ gì, vậy mà vẫn thèm được một lần như thế. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ như in cảnh ông già tôi ngồi nhậu với bạn vào những buổi chiều...

Ông ngừng lời, xoay xoay ly rượu trong tay rồi chợt nâng lên ực một cái hết cạn. Tôi nhận thấy nãy giờ ông nói đặc giọng Nam Bộ.

- Thỉnh thoảng đại tá nên nghỉ "việc binh", tổ chức một buổi nhậu như thế. - Tôi nói với ông.

- Nhằm nhỏ gì anh! Bay một chiếc trực thăng tới vùng đồng nào đó, tất nhiên là liên hệ trước với đồn binh ở đó để khỏi lo du kích bắn tỉa... Rồi đám đệ tử lăng xăng, chúng mang theo đủ thứ... Tôi đã thử mấy lần và hiểu ra là một niềm vui bình dị như vậy chỉ có được khi người ta sống mộc mạc thanh thản...

- Thế giờ đại tá còn ai ở quê không ạ?

Ông Tùng cúi xuống nghiêng chai róc rượu vào ly mình, lát sau mới kể:

- Ba má tôi bị bịnh mất lúc tôi mười bốn tuổi. Tôi dắt thằng em lên Sài Gòn nhờ ông chú họ nuôi đi học. Nhà tôi có trước mảnh vườn chưa đầy công đất, dựng xong ngôi nhà lá còn trồng được mấy hàng cau... Khi hai anh em tôi dắt díu nhau đi, ngôi nhà đã nát nhưng hàng cau vẫn còn. Sau này về cau già chết hết. Tôi nhờ bà con dựng lại nhà để đặt bàn thờ ba má tôi, và trồng mấy hàng cau như cũ, có người anh họ tới ở để trông coi. Lâu lâu có dịp, tôi về nhậu với ổng một bữa. - Ông tợp thêm ngụm rượu rồi kể tiếp, giọng ngùi ngùi - Cách đây... ờ, phải hơn ba năm rồi, tôi về quê, thấy... cháy hết. Ngôi nhà cháy rụi, ông anh họ chết cháy trong đó. Còn thấy hàng cau cây cháy sém, cây cháy đen... Bom napan! Việt Cộng các anh đâu có thứ đó! Cũng biết chiến tranh là vậy mà sao thấy... buồn quá?

Câu chuyện của ông ngừng lại ngang đó. Chúng tôi ngồi im lặng, mỗi người miên man theo ý nghĩ của mình.

Tôi liếc nhìn nét mặt trầm ngâm của ông Tùng, cố đoán xem vì sao ông lại kể những điều ấy ra với tôi, một người mới gặp lần đầu, mà lại là một người lính của phe đối địch? Có phải khi ngồi giữa rừng, người ta dễ cởi mở thẳng thắn với nhau hơn? Cũng có thể khi ở giữa thiên nhiên hoang dã, không cần phải lừa lọc dồi trá toan tính, không e ngại những mưu mô cạm bẫy, con người trở nên trong sạch hơn và sống thật với chính mình...

- Anh Hải, cho em mượn chiếc lược! - Tiếng cô gái cắt ngang dòng suy nghĩ.

Tôi trả lời:

- Ở trên nhà, cô lên đó lấy!

- Em lên được không?

- Sao lại không? Có bí mật gì đâu mà cô lo?

Tôi cười đáp và hơi ngạc nhiên. Chẳng phải cô lên lấy bát đĩa xuống dọn cơm đó sao? Chắc lại kiếm cớ nói chuyện riêng đây.

Lát sau nghe tiếng cô gọi với xuống: "Anh để ở đâu em tìm không ra...". Tôi đành xin lỗi hai vị khách, chạy lên.

Bước vào nhà, thấy cô ngồi xệp giữa sàn, hai chân xếp nghiêng một bên, đang cầm lược thong thả chải tóc.

- Biết ngay là cô lại có âm mưu gì đây? - Tôi đùa.

- Đâu có! Em chỉ muốn coi anh sống thế nào. - Cô đáp dịu dàng, mái tóc dày che nghiêng nửa khuôn mặt.

- Chẳng phải cô lên đây rồi sao?

- Em lên hồi nào? - Cô ngạc nhiên.

- Lúc lấy bát đĩa xuống dọn cơm?

- Ối! Anh đa nghi quá? - Cô cười rũ - Ba em lấy đó? Em là con gái, ai lại tự tiện vô nhà con trai được. Nhưng... đúng là em có chuyện muốn nói với anh thật. - Cô bỏ lược xuống, nhìn tôi đăm đăm.

- Có gì cô Thủy cứ nói đi?

- Anh Hải! Hay là anh về dưới với em... ì, không phải! Em muốn nói là... anh về dưới đó rồi tìm cách móc để ra... Chớ ở đây anh sống cực quá hà!

- Sao trước cô nói ở đây đẹp như cõi tiên? - Tôi hỏi, cốt để có thời gian suy nghĩ.

- Thì... đẹp thiệt chớ bộ. Có điều anh sống một mình, lỡ ốm đau làm sao? Anh chẳng đã kể có lần suýt chết là gì? Mà em thấy anh còn yếu lắm, biết lúc nào mới đủ sức trở về?

Quay mặt ra cửa để tránh ánh mắt của cô, tôi nói nho nhỏ:

- Tôi có nghĩ tới điều đó, nhưng không thể!

- Sao vậy anh?

- Tôi là người lính, không quen cuộc sống đô thành, về dưới lớ ngớ là bị bắt liền. Lúc đó sẽ rất nguy hiểm cho bác và cô.

- Em biết những người như anh đâu chịu rời bỏ mục đích của mình. - Cô cúi đầu, mái tóc chảy dài xuống ngực - Em chỉ muốn làm được việc gì đó để giúp anh...

- Cám ơn cô Thủy? Mà sao bác và cô lại tốt với tôi đến vậy? Tôi cảm động.

Cô ngẩng đầu nhìn tôi lém lỉnh:

- Bộ anh nghĩ trên đời chỉ mình anh tốt thôi sao?

- Không phải như vậy, nhưng...

- Anh biết trước lúc lên đây, bác Tùng dặn em sao không

- Ông nói gì?

- Bác ấy biểu, lên hỏi anh nghĩ sao nếu có một chuyến trực thăng chở anh tới nơi nào đó gần bên... Cách mạng?

- Ông ấy nói vậy ư? - Tôi thốt lên kinh ngạc.

- Bác ấy thiệt tình đó anh! Sắp xếp một phi vụ như thế đói với bác ấy đâu có khó!

- Nhưng sao ông lại làm vậy? Cứ cho là... bác ấy có cảm tình với anh! Hoặc anh nghĩ... ông làm vậy vì em cũng được, đâu có sao? - Ánh mắt cô lại hiện lên vẻ tinh nghịch.

- Như vậy... nguy hiểm lắm!

- Anh đừng lo? Em đâu dám lừa để bắt cóc anh về dưới đê! Lỡ giữa đường anh biết, anh làm "không tặc" thì chết em à!

- Tôi không nói vậy? Nhưng... cô không sợ đạn của Quân giải phóng bắn vào máy bay ư? Bác giờ chỉ còn mình cô...

- Anh lúc nào cũng chỉ nghĩ đến người khác... - Cô thở dài.

Tôi cười:

- Không hẳn! Máy bay rồi thì tôi cũng chết. Hoặc cứ cho là không bị bắn, nhưng về lại dưới đó cô sẽ nói sao với tụi an ninh? Một chuyến bay như vậy không qua mắt tụi nó được. Lúc đó ông Tùng cũng không che chở nổi. Tôi không muốn... người khác vì tôi mà gặp nguy hiểm

Cô gái ngồi lặng lẽ, lát sau mới nói:

- Anh biết hồi trước ba nói với tụi em sao không? Là nói có cả anh Trà đó. Ông biểu: Bây ham gì thì ham, nhưng phải ráng sống sao cho có ý nghĩa... Lúc đó em đâu hiểu hết lời ông nói, em chỉ ham bay thôi à! Em bay trên mây và tội nghiệp cho mấy nhỏ bạn đi biểu tình sinh viên bị xỉu hơi cay... Giờ em muốn làm được một việc gì đó, mà sao thấy khó quá...

Tôi tần ngần nhìn cô, định nói đôi lời an ủi nhưng cứ lúng túng mãi. Có lẽ nói ra điều gì lúc này cũng đều sáo rỗng. Cuối cùng lại chỉ hỏi:

- Cô vẫn chưa giải thích vì sao ông Tùng lại bảo như vậy?

- Em đâu biết! Anh xuống hỏi thử coi!

Lại khúc khích cười. Và chừng như nhìn thấy vẻ mặt đăm chiêu của tôi, nên cô nói tiếp:

- Thiệt tình lúc đó em cũng ngạc nhiên lắm. Em hỏi, bộ bác mê Việt Cộng rồi sao? Ông mắng em một trận te tua luôn à! Mãi sau bác ấy mới nói: "Chẳng qua tao khâm phục những người lính can đảm". Bác ấy còn biểu... Mà thôi, em không nói nữa đâu!

- Sao ông không tự nói với tôi?

- Em không biết! Có thể bác ấy cũng có tự ái chớ! Tự dưng một đại tá của không lực lại đi năn nỉ: "Anh lên đây, tôi chở anh qua bển..." Và đừng tưởng anh đã thuyết phục được bác ấy đi theo Việt... theo bên...

- Cô cứ nói đại Việt cộng, không sao đâu!

- Thì để em tập cho quen. Lỡ sau này gặp chú mà cứ quen miệng, chú mắng em chết! - Cô che miệng cười, đôi mắt đen láy cũng cười theo.

Có tiếng rào rào trong đám lá trên mái nhà. Tôi giải thích khi thấy cô nhìn lên:

- Lũ khỉ về đấy! Hôm nay chúng về sớm, chắc biết nhà có khách.

- Hay quá! Em có đem chuối lên...

Cô vớ chiếc cặp ba lá cặp vội mái tóc, lao ra khỏi nhà nhảy xuống cầu thang.

- Gì vậy con? - Ông Thành ngạc nhiên hỏi.

Cô gái không đáp, vội vã lôi từ trong túi xách ra mấy nải chuối chín vàng.

Những con khỉ lúc đầu có vẻ rụt rè, nhưng sau cũng chứng tỏ là chúng không hề khách khí, khiến các vị khách hết sức hài lòng và vui vẻ khi nhìn chúng nhảy nhót trên bãi cỏ rồi rít chia nhau những quả chuối tiêu vàng hươm. Tuy vậy hôm nay trông lũ khỉ từ tốn hẳn ra. Không phải chúng biết giữ ý trước khách, chẳng qua chuối còn nhiều, đâu có gì phải vội.

Cây ngàn lao xao trong nắng chiều vàng nhạt, vài cụm mây trắng trôi lững lờ qua khoảng trời ló ra giữa những vòm cây. Trong muôn ngàn âm thanh êm đềm của rừng chiều, thỉnh thoảng lại có tiếng chim vút lên tan vào thinh không. Thiên nhiên lúc này đủ sức làm mềm lòng bất cứ ai...

Ông Thành nhìn đồng hồ rồi nói với tôi:

- Anh Hải này! Anh cho chúng tôi đi thăm mộ và thắp hương cho các anh ấy. Hôm trước về vội quá, tôi cứ áy náy mãi...

Tôi cảm động:

- Vâng! Nhưng...

Thấy tôi ngập ngừng, ông Tùng nói ngay:

- Anh yên tâm! Tôi luôn kính trọng những người lính dũng cảm. Việc này chúng tôi đã bàn với nhau trước khi lên đây!

Tôi xem đồng hồ thấy đã hơn ba giờ chiều, bèn nói với ông Thành:

- Nếu vậy ta xuống đó, rồi bác và đại tá về luôn kẻo muộn.

Cô gái bảo tôi:

- Em có mang lên cho anh mấy thứ lặt vặt, để đem lên nhà.

Ông Thành cùng con gái đem mấy gói đồ và chiếc thùng giấy lên trên nhà. Tôi mượn lại ba chiếc túi, ra sau gốc đa chất đầy ba túi trầm khệ nệ xách vào:

- Có ít trầm biếu bác và đại tá!

Ông Thành áy náy:

- Anh cho nhiều quá!

- Có gì đâu bác! Quà của rừng mà!

Chúng tôi ra chỗ máy bay đỗ. Cô gái leo lên ghế lái. Ông Tùng bảo tôi ngồi ở ghế trước, rồi cùng ông Thành bước lên cửa hông. Tôi bồng con báo bỏ lên máy bay, nhưng nó lồng lộn tuột khỏi tay tôi, vùng chạy vào đến bìa rừng thì dừng lại, cúp đuôi đứng nhìn ra. Tiếc quá! Định để nó đi máy bay một lần cho biết, mấy khi có dịp!

Chiếc trực thăng nhớm càng bay lên. Từ trên cao, tôi ngỡ ngàng nhìn cánh rừng nơi mình ở và cố hình dung xem lúc trước, với tư thế nào mà tên lính ngồi ở vị trí này đã nhắm bắn tôi bằng khẩu súng hiện giờ tôi đang cầm trong tay. Chưa kịp nghĩ ra thì máy bay đã đến nơi. Tới chỉ cho cô gái đáp xuống bãi cỏ, cách ngôi mộ đá chừng bảy chục mét.

Chưa bao giờ tôi nghĩ rằng sẽ có lúc mình đến thăm mộ bằng máy bay. Cũng loại trực thăng như chiếc đã tấn công chúng tôi ngày nào, nhưng con người thì khác. Hôm nay họ đến đây với tư cách bạn bè, kể cả ông đại tá kia nữa.

Tôi đốt trầm rồi quỳ một chân trước tấm bia, mắt đăm đăm nhìn những phiến đá màu nâu trơ mòn mưa gió. Ba người khách lần lượt thắp hương trên mộ, kính cẩn bỏ mũ đứng cúi đầu. Dưới nắng chiều nhàn nhạt, cả vùng đồi cỏ mênh mông vắng lặng, nghe rõ tiếng gió lùa vi vu trên ngọn thủy tùng và tiếng chim vẳng ra tử cánh rừng trước mặt. Trong khoảnh khác này tôi quên hết mọi sự vật xung quanh và không còn nhớ tới nhũng người đang đứng sau lưng. Tâm trí tôi như bay theo khói hương trầm nghi ngút, trở lại với những tháng ngày chúng tôi còn bên nhau. Ước gì các anh hiện ra từ làn khói trắng mờ kia, dù cbỉ một giây thôi. Lòng kính trọng và sự ngưỡng mộ chẳng làm các anh sống lại được...

Cô gái cất tiếng nói sau lưng tôi, giọng nhẹ như làn gió thoảng:

- Mấy lần bay qua đây em đều nhìn thấy ngôi mộ, mà nghĩ mãi không biết tấm bia làm bằng gì. Có phải của chiếc trực thăng ấy?...

Tôi đứng dậy nhìn cô, im lặng gật đầu. Cô mấp máy môi định nói gì đó nhưng lại thôi, đôi mắt ươn ướt buồn bã.

Ông Tùng bước tới đưa tay rờ rẫm những dòng chữ đục trên đoạn cánh quạt, khuôn mặt như tạc bằng những nhát đẽo giờ trông tư lự và khắc khổ. Ông Thành vẫn lặng lẽ đứng cúi đầu, gió thổi những sợi tóc hoa râm rung rung. Tôi chợt nhận ra rằng, bên cạnh cây thủy tùng vươn cao đồ sộ và hùng vĩ, và trong cảnh đìu hiu của vùng sơn nguyên hoang dã mênh mông, bốn con người chúng tôi mới nhỏ bé làm sao...

Có tiếng thở phì phì bên cạnh khiến mọi người cùng giật mình. Thì ra con báo, nó chạy tới từ lúc nào chẳng ai thấy. Sao nó tài thế nhỉ? Đã đành ba cây số đồi núi đối với sức lực và tốc độ của nó chẳng đáng là bao, nhưng làm sao con báo biết chúng tôi tới đây? Chắc nó chạy lên mỏm đồi nào đó đứng nhìn theo.

Con báo tới cọ đầu vào chân cô gái, hiền như một chú mèo ngoan. Cô thụp xuống vuốt ve nó, mặt rạng rỡ, mắt ngời hãnh diện. Đâu phải ai lên đây cũng đều được con dã thú quyến luyến đến thế. Bất cứ cô gái nào có lòng yêu thương loài vật đều mong muốn có những giây phút đáng tự hào như vậy.

Thấy chiều đã muộn, ông Thành giục con gái:

- Thủy, chuẩn bị về thôi con!

Cô quay lại nói với tôi:

- Để em đưa anh lại nhà!

- Không cần đâu! Cô sắp xếp về kẻo muộn. - Tôi trả lời rồi cúi xuống vun cho những miếng trầm cháy hết và cắm lại mấy cây hương bị nghiêng, những cây hương lần đầu được cắm tại đây.

Lúc ngẩng lên, thấy ông Thành và con gái đã tới gần chiếc trực thăng. ông Tùng vẫn đứng đợi tôi. Tôi cùng ông bước chầm chậm qua những hố đạn ngập cỏ ông hỏi:

- Con Thủy có nói với anh rồi phải không?

- Vâng! Dù sao cũng xin cám ơn đại tá! - Tôi hiểu ông muốn nói gì nên trả lời như đang tiếp tục một câu chuyện nói dở.

- Rất tiếc là không giúp gì được cho anh? - Ông Tùng nói - Sắp xếp để anh sống ở Đà Nẵng hay Sài Gòn, điều đó tôi làm được. Nhưng những người như anh đời nào chịu như thế. Còn bố trí để anh trở về bên kia thì đành chịu. Ở vị thế tôi lúc này, không thể móc được với người bên ấy...

Rồi ông chợt nói nhanh, giọng nghiêm trang và buồn buồn:

- Trong cuộc chiến này, cuối cùng các anh sẽ thắng. Tôi biết điều đó từ khi thấy Hoa Kỳ buộc phải ngưng ném bom miền Bắc và rút dần quân về để ngồi hòa đàm. Nhưng các anh lấy đâu ra sức mạnh như vậy để tồn tại và chiến thắng, có lẽ đến hôm nay tôi bắt đầu hiểu ra, khi nhìn tấm bia mộ làm bằng cánh quạt trực thăng. Chứ những lời lẽ của anh chưa đủ thuyết phục tôi đâu!

- Vâng! - Tôi đáp gọn.

- Nói gì thì nói, tôi vẫn không ưa cộng sản. - Ông nói tiếp! Có thể tôi sai. Có thể sau này, nếu các anh tạo dựng được một xã hội tốt đẹp hơn thì thế hệ đời cháu đời chắt tôi chúng sẽ theo, chứ tôi không thể. Ở tuổi tôi những gì đã hằn sâu trong óc là khó thay đổi. - Nói đến đây ông cười buồn. Thế giờ đại tá tính sao? Tôi hỏi cho có hỏi, chứ không nghĩ là ông sẽ trả lời. Hai chúng tôi đứng lại bên mép một hố đạn. Ông nhìn tôi rồi cúi đầu trầm ngâm, lát sau mới chậm rãi nói:

- Tôi sẽ về hưu.

- Những người như đại tá đâu dễ muốn nghỉ là nghỉ?

- Việc đó không khó! Tôi có bạn bè ở quân y. Hơn nữa... Hiện giờ ông Thiệu đang chạy đua một ngựa để giành ghế tổng thống, tướng Kỳ bị đẩy ra khỏi chính trường, chỉ còn ôm chức tư lệnh không quân mà ấm ức. Vì vậy ông Thiệu muốn đưa tay chân của mình vào nắm giữ các lực lượng chủ chốt trong không lực, ổng sợ lỡ ông Kỳ nổi khùng. Tôi cùng thế hệ với tướng Kỳ, cũng lớp phi công được đào tạo tại Pháp. Nếu lúc này xin nghỉ, ông Thiệu sẽ "ô kê" ngay để thế người vào... - ông bỗng ngẩng đầu nhìn tôi - Ờ... Thiệt lạ! Sao tôi lại đi nói với anh những việc này nhỉ? Ngay cả ông Thành tôi cũng chưa nói. Còn bà nhà tôi mà nghe vậy, bả mừng phải biết!

- Lúc ở giữa rừng, con người thường cởi mở và thẳng thắn với nhau hơn. - Tôi cười, hỏi tiếp - Thế sau đó, đại tá định làm gì?

- Tôi sẽ sang Canađa với chú em. Chẳng phải tôi ưa gì cuộc sống nơi đất khách quê người, nhưng ở đây tôi đâu còn ai thân thích ruột thịt! Anh biết đó, ngay cả cái bàn thờ ông bà cha mẹ, tôi cũng không giữ được... Sang bên đó còn có mấy đứa cháu. Chả lẽ lúc cuối đời chỉ có thân già trơ trọi! Này! - ông chợt cao giọng - Anh đừng tưởng vì gặp anh nên tôi quyết như vậy đâu nghen? Đáng ra tôi đã làm điều ấy lâu rồi ông lại cúi đầu đăm chiêu.

- Tôi hiểu! Và tôi biết vì sao đại tá lại dùng dằng như thế.

- Anh nói thử coi!

- Là người linh, đại tá không muốn bị xem như kẻ chạy trốn hèn nhát. Nếu phía các ông đang thắng thế, chắc đại tá sẽ ra đi nhẹ nhõm hơn. ông Tùng ngẩn người nhìn tôi:

- Không ngờ anh hiểu được như vậy!

- Còn một điều cuối cùng, tôi sẽ nói nếu đại tá không giận.

- Anh cứ nói!

- Đại tá vào lính từ khi tôi chưa được sinh ra, vì vậy điều sắp nói chắc sẽ làm đại tá mếch lòng. Nhưng tôi cũng xin lấy hết can đảm để nói rằng, đối với người lính có lúc việc rút lui lại đòi hỏi lòng can đảm lớn hơn bất kỳ mọi sự can đảm nào, hơn cả lúc ngồi dưới những trận bom hay bay trên vùng hỏa lực phòng không dày đặc của đối phương. Theo tôi, nếu không dám làm một việc mà mình nghĩ là đúng, thì với lý do gì đi nữa, cũng vẫn là hèn nhát.

Ông Tùng cười buồn:

- Anh lại khích tôi phải không?

- Không! Tôi nói thẳng thắn vì biết đại tá thích như vậy! Nếu coi thường đại tá, tôi đã không nới. Sắp chia tay nhau và không biết có còn gặp lại nữa hay không, nên tôi đâu muốn để lại một ấn tượng xấu trong suy nghĩ của đại tá!

- Ồ không! Tôi không giận anh đâu! Nào, bắt tay anh lần cuồl, anh lính Việt Cộng!

Chúng tôi bắt tay nhau. Bàn tay ông to và cứng cáp như đã từng cầm cuốc cầm phảng.

- Về dưới đó, đại tá cho tôi gởi lời thăm... bác gái?

Tôi nói, hơi ngắc ngứ khi dùng từ. Gọi "bà nhà" thì thô lỗ, còn nói "đại tá phu nhân" lại quá trịnh trọng. Vì vậy, tôi rất yên tâm khi thấy ông Tùng tươi hẳn nét mặt. Không nói gì thêm, ông lắc tay tôi lần cuối rồi quay người đi vòng qua đầu máy bay leo lên ghế lái phụ.

Tôi tới bên ông Thành, cố giữ vẻ mặt bình thản. Ông bắt tay và ôm lấy tôi, nói giọng nghẽn nghẹn:

- Mạnh giỏi nghe anh Hải! Gắng mạnh giỏi mà trở về!

- Vâng! Cháu... cảm ơn bác? - Tôi không dám nói nhiều, sợ bật lên thành tiếng khóc.

Ông vỗ vỗ vào lưng tôi rồi buông ra, bước chầm chậm đến bên máy bay.

Cô gái nãy giờ ngồi vuốt ve con báo, lúc này mới đứng dậy, miệng cười mà như mếu:

- Anh lính Giải phóng không bắt tay em sao?

Tôi mỉm cười, chìa tay nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn, mềm và ấm.

- Liệu còn gặp nhau nữa không anh? - Cô ngước nhìn tôi đôi mắt mọng nước.

- Sao lại không? - Tôi nói cứng, cố giữ cho giọng khỏi run - Lúc nào hòa bình, tôi sẽ vào Đà Nẵng thăm... bác và cô.

- Anh Hải nhớ nghe! Thôi, em đi đây? Đứng lại chút nữa chắc em... khóc òa lên liền à! - Cô rút tay khỏi tay tôi, đi thẳng đến bên máy bay và leo lên ghế lái.

Tôi cầm ngang cây súng, đứng dạng chân trên bãi cỏ, gió thổi đuôi tóc dài khét nắng bay lất phất ra trước mặt. Không phải tôi muốn tỏ ra ngang tàng, mà đang cố ghìm người đứng thật vững để khỏi khuỵu chân ngồi phịch xuống đất, để khỏi bật khóc trước khi chiếc trực thăng kia bay đi, đế những người trên đó không nhìn thấy giây phút yếu đuối của mình. Tôi vừa từ chối con thuyền đến đưa tôi ra khỏi trùng dương rừng rậm, chỉ vì nó không đi về hướng mình đã định. Liệu có quá dại dột khi từ chôn một sự cứu giúp chân thành như vậy? Liệu có quá mạo hiểm khi muốn tự mình vùng vẫy để thoát ra khỏi điệp trùng núi non vây bủa như lớp lớp sóng dồn trong cơn biển động?

Động cơ nổ. Từ trong máy bay có ba bàn tay vẫy chào qua lớp bụi mù mịt. Không như mọi lần, chiếc trực thăng bay sạt qua bãi cỏ rồi đột ngột vọt lên trên ngọn cây nơi bìa rừng và nhanh chóng biến mất trong tầm nhìn. Tôi thả người ngồi phịch xuống cỏ, chân tay rã rời...

Hôm đó tôi về tới nhà lúc nhập nhoạng, và bỗng ứa nước mắt khi nghĩ rằng giờ này những người khách cũng đã về đến nhà. Góc rừng vắng vẻ đang tối lại. Mấy con khỉ đã đi ngủ. Phía tây ráng chiều đỏ rực. Nhìn qua ngọn cây, cứ tưởng như có cả một góc trời đang cháy.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: