Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Đồ thị hình nến Nhật Bản

Đồ thị hình nến Nhật Bản - Japanese Candlestick Charting Techniques - Steve Nison (1)

LỜI GIỚI THIỆU

Bạn có muốn học một hệ thống kỹ thuật đó được chắt lọc qua hàng trăm năm sử dụng, nhưng gần như ít được phổ biến? Một hệ thống khá linh hoạt, có thể kết hợp với bất kỳ công cụ kỹ thuật nào của phương Tây? Một hệ thống mang đến cho bạn sự thích thú khi sử dụng như là sức mạnh của nó? Nếu muốn, BIỂU ĐỒ KỸ THUẬT HÌNH NẾN NHẬT BẢN là thứ bạn cần. Bạn có thể thấy được giá trị của nó trong việc cung cấp cho bạn nền tảng của phân tích kỹ thuật.

Sử dụng biểu đồ hình nến Nhật Bản sẽ giúp bạn hoàn thiện khả năng phân tích thị trường. Tập trung chính vào thị trường Mỹ, nhưng những cụng cụ và kỹ thuật có thể áp dụng cho bất kỳ thị trường nào.

Biểu đồ hình nến được dùng cho việc theo dõi, suy đoán và bảo vệ trong hoạt động đầu tư. Nó cũng có thể được dùng cho hàng hóa giao sau, hợp đồng quyền chọn hay bất cứ đâu phân tích kỹ thuật được áp dụng.

Không cần phải băn khoăn, lo lắng nếu bạn chưa hề nhìn thấy biểu đồ hình nến. Những kiến thức này là mới với bạn. Thực ra, nó cũng là mới đối với nhiều người Mỹ và châu Âu.

Nếu bạn là một người phân tích kỹ thuật dày dạn, bạn sẽ khám phá ra cách kết hợp biểu đồ hình nến với công cụ kỹ thuật khác của bạn để có thể tạo ra một sức mạnh tổng hợp của kỹ thuật. Những phần kết hợp biểu đồ hình nến với công cụ kỹ thuật phương Tây sẽ làm cho bạn thích thú.

Nếu bạn là một người phân tích kỹ thuật nghiệp dư, bạn sẽ thấy biểu đồ hình nến hiệu quả như thế nào khi nó là phương pháp phân tích biểu đồ độc lập.

MỘT SỐ THÔNG TIN CẦN THIẾT ĐỂ HIỂU VẤN ĐỀ 

Một số bạn có thể có đã nghe đến biểu đồ hình nến. Nhiều người thì chưa. Tháng m ười hai năm 1989, Tôi (Steve Nison) viết một bài báo giới thiệu về biểu đồ hình nến, ngay lập tức thu hút được sự quan tâm. Điều này hóa ra tôi là một trong số ít những người Mỹ có hiểu biết về kỹ thuật có từ hàng trăm năm của người Nhật. Tôi viết tiếp những bài báo, nhiều buổi trình bày, dạy học và được phỏng vấn trên truyền hình và báo chí khắp đất nước. Đầu năm 1990, Tôi viết một bài giới thiệu ngắn cho luận án Nhà kỹ thuật Thị trường của tôi về những biểu đồ hình nến. Nó chứa đựng những tài liệu rất cơ bản để giới thiệu, vì nó là thông tin chứa đựng trong những biểu đồ hình nến ở Mỹ. Tài liệu này đã được nhiều người ưa thích. Trong vòng vài tháng, Merrill Lynch, nhà xuất bản nhận được hơn 10.000 yêu cầu.

TÔI ĐÃ HỌC BIỂU ĐỒ HÌNH NẾN NHƯ THẾ NÀO? 

"Tại sao", chính tôi đã thường được hỏi "Có một hệ thống kiến thức đã lâu như  vậy mà gần như  không được biết đến ở phương Tây?". Người Nhật đã cố gắng giữ bí mật? Nó là sự thiếu thông tin ở Mỹ? Tôi không biết câu trả lời, nh ưng phải mất vài năm nghiên cứu để tổng hợp tất cả lại với nhau. Tôi đã gặp khá nhiều may mắn. Có lẽ sự kiên nhẫn và khả năng cầu may của tôi là sự kết hợp cần thiết những ng ười khác không có. 

Năm 1987, tôi quen biết một nhà môi giới ngư ời Nhật. Một ngày kia, trong khi tôi và cô ấy đang ở trong văn phòng, cô ấy đang xem một trong số những cuốn sách về biểu đồ bằng tiếng Nhật của cô ấy. Cô ấy kêu lên, "Nhìn này, một cửa sổ (a window)". Tôi hỏi cô ấy đang nói về cái gì. Cô ấy nói rằng cửa sổ (a window) cũng tương tự như một khoảng trống (a gap) trong kỹ thuật của phư ơng Tây. Cô ấy tiếp tục giải thích, khi những nhà kỹ thuật phư­ơng Tây sử dụng thành ngữ "điền vào chỗ trống" thì người Nhật nói "đóng cửa sổ". Sau đó cô ấy còn sử dụng các thành ngữ khác. Tôi đã sử dụng mấy năm sau để khám phá, nghiên cứu và phân tích bất cứ cái gì tôi có thể bởi những biểu đồ hình nến. 

Điều đó thật không dễ dàng. Hiếm có tài liệu tiếng Anh về chủ đề này. Kiến thức ban đầu của tôi với sự giúp đỡ của nhà môi giới người Nhật và thông qua việc tôi tự vẽ và phân tích những biểu đồ hình nến.

Vài tháng sau, tôi mư ợn được một cuốn sách, nó đã ảnh hư ởng rất lớn đến cuộc sống chuyên nghiệp của tôi. Giám đốc văn phòng MTA, Shelley Lebeck, đưa cho tôi một cuốn sách về Biểu đồ hình nến của Seiki Shimizu và dịch bởi Greg Nicholson (Xuất bản bởi Tokyo Futures Trading Publishing Co.) được mang về từ Nhật. Nó chứa đựng khoảng 70 trang về những biểu đồ hình nến và đã đ ược dịch sang tiếng Anh. Được đọc nó giống như tìm thấy một ốc đảo trong một hoang mạc.

Tôi nhận ra rằng cuốn sách mang lại rất nhiều kiến thức. Phải mất nhiều thời gian và công sức để nắm được nội dung của nó. Tôi cũng thấy rằng, rất khó khăn để dịch một đề tài chuyên dụng như  vậy từ tiếng Nhật sang tiếng Anh. 

Tôi mang cuốn sách bên mình hàng tháng trời, đọc đi đọc lại, ghi chú, áp dụng những kiến thức cho những biểu đồ hình nến được tôi vẽ bằng tay. Tôi nghiền ngẫm và nhồi nhét những khái niệm và thuật ngữ mới. Tôi cũng may mắn có được sự giúp đỡ của tác giả, Seiki Shimizu, người đã trả lời nhiều câu hỏi của tôi. Mặc dù Shimizu không nói tiếng Anh, nhưng ngư ời dịch cuốn sách, Greg Nicholson, đã giúp tôi rất nhiều. Cuốn sách đã mang lại nền tảng cho sự nghiên cứu tiếp phần còn lại của tôi về những hình nến. Không có cuốn sách đó, cuốn sách này cũng không thể có.

Để tiếp tục phát triển khả năng trong việc nghiên cứu biểu đồ kỹ thuật hình nến, tôi tìm kiếm những người Nhật đang hành nghề, có thời gian và đam mê, để nói với tôi về chủ đề này. Tôi đã gặp một thư ơng gia người Nhật, Morihiko Goto, ngư ời đã sử dụng những biểu đồ hình nến và sẵn sàng chia sẻ thời gian và sự am hiểu quý giá của anh ấy. Anh ta nói với tôi rằng gia đình của anh ấy đã sử dụng những biểu đồ hình nến qua nhiều thế hệ. Chúng tôi dành nhiều thời gian bàn luận về lịch sử và cách sử dụng của những biểu đồ hình nến. Anh ta đúng là một kho kiến thức vô giá. 

Tôi cũng có một số l ượng lớn tài liệu đư ợc dịch. Việc thu đư ợc thông tin hình nến tiếng Nhật nguyên bản là một vấn đề. Việc dịch nó là của người khác. Có khoảng 400 người dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Anh ở Mỹ. Tôi phải tìm được một ngư ời phiên dịch không thể chỉ dịch thông thư ờng, mà phải có sự hiểu biết đặc biệt sâu rộng về phân tích kỹ thuật. Về điểm này tôi may mắn có sự giúp đỡ của những dịch vụ ngôn ngữ ở New York. Giám đốc, Richard Solberg, mang lại sự giúp đỡ rất cần thiết. Anh ta là một người hiếm có. Anh ta là một ngư ời Mỹ trôi chảy tiếng Nhật, có hiểu biết và sử dụng phân tích kỹ thuật.

Trư ớc khi những bài báo giới thiệu về biểu đồ hình nến của tôi xuất hiện cuối năm 1989, chỉ có vài dịch vụ cung cấp biểu đồ hình nến ở Mỹ. Bây giờ, đã có quá nhiều những dịch vụ cung cấp những biểu đồ này. Chúng bao gồm: 

Bloomberg L.P. (New York, NY); 

Commodity Trend Service Charts (North Palm Beach, FL);

CompuTrac TM (New Orleans, LA); 

CQG (Glenwood Springs, CO);

Ensign Software (Idaho Falls, ID);

Futuresource TM (Lombard, IL); 

Knight Ridder - Commodity Perspective (Chicago, L). 

Khi bạn đọc cuốn sách này, có lẽ sẽ có thêm những dịch vụ cung cấp những biểu đồ hình nến. Tính phổ biến của những dịch vụ này ngày một gia tăng mạnh mẽ. Sự thừa thãi của những dịch vụ cung cấp những biểu đồ hình nến làm chứng cho tính phổ biến và sự hữu dụng của nó. 

VÌ SAO BIỂU ĐỒ KỸ THUẬT HÌNH NẾN ĐÃ THU HÚT ĐƯỢC SỰ CHÚ Ý CỦA NHỮNG THƯ­ƠNG GIA VÀ NHỮNG NHÀ ĐẦU TƯ  KHẮP THẾ GIỚI? 

Tôi đã nhận được những cuộc gọi và fax từ khắp thế giới đề nghị được biết thêm nhiều thông tin về biểu đồ kỹ thuật hình nến. Tại sao lại có sự quan tâm rộng khắp đó? Có rất nhiều lý do và sau đây là một vài trong số đó: 

1. Tính linh hoạt của biểu đồ hình nến. Người sử dụng có thể bao gồm từ những người lần đầu tiên dùng theo phong trào, cho đến những người dày dạn kinh nghiệm. Đó là bởi vì biểu đồ hình nến có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp kỹ thuật phân tích khác. Lợi thế chủ yếu của biểu đồ kỹ thuật hình nến được cho là do những kỹ thuật này có thể được sử dụng để thêm vào, chứ không phải để thay thế các công cụ kỹ thuật khác.

2. Biểu đồ kỹ thuật hình nến được sử dụng cho hầu hết những mảng chưa bao giờ được sử dụng ở Mỹ. Cho đến nay, kỹ thuật này gần như được hưởng truyền thống đã được phát triển qua hàng trăm năm tìm tòi và thử nghiệm của vùng Viễn Đông.

3. Hồi đó có những thuật ngữ chứa đựng hình ảnh được sử dụng để mô tả các mẫu hình. “Tội nhân” diễn tả điều gì có khiến bạn quan tâm? Đó chỉ là một ví dụ cho thấy thuật ngữ Nhật Bản làm tăng thêm sự hứng thú của biểu đồ hình nến, một khi bạn đã trải qua, bạn sẽ không thể không sử dụng nó.

4. Người Nhật gần như chắc chắn biết tất cả các phương pháp phân tích kỹ thuật của phương Tây, nhưng người phương Tây hầu như không biết gì về kỹ thuật của người Nhật. Người Nhật sử dụng phối hợp biểu đồ kỹ thuật hình nến cùng với các công cụ kỹ thuật của phương Tây. Tại sao chúng ta không làm như họ?

5. Dữ liệu cần thiết để tạo ra biểu đồ hình nến cũng tương tự như biểu đồ dạng then chắn (đó là giá mở, cao, thấp, đóng). Điều này rất có ý nghĩa khi nó chắc chắn rằng bất cứ kỹ thuật phân tích nào sử dụng được với biểu đồ dạng then chắn (như các đường trung bình, xu hướng, sóng Elliott, sự hiệu chỉnh, v.v …) đều có thể áp dụng với biểu đồ hình nến. Nhưng đây mới là điểm mấu chốt. Biểu đồ hình nến có thể mang lại những dấu hiệu mà biểu đồ dạng then chắn không có. Bên cạnh đó, có vài mẫu hình có thể cho phép bạn chiếm ưu thế đối với những người sử dụng biểu đồ kỹ thuật truyền thống của phương Tây. Sử dụng biểu đồ hình nến thay vì biểu đồ dạng then chắn bạn có khả năng sử dụng tất cả kỹ năng phân tích như khi bạn dùng với dạng then chắn, nhưng biểu đồ hình nến mang lại cho bạn một khả năng phân tích rộng lớn hơn nhiều.

MỘT VÀI HẠN CHẾ 

Cũng như tất cả những phương pháp sử dụng biểu đồ, những mẫu hình biểu đồ hình nến tùy thuộc vào sự giải thích của ngư ời sử dụng. Điều này có thể coi là một hạn chế. Nếu bạn có nhiều kinh nghiệm với biểu đồ hình nến trong lĩnh vực của mình, bạn sẽ thấy những mẫu hình, và những sự biến đổi nào của những mẫu hình này, hoạt động tốt. Trong trường hợp này, chủ quan có thể không phải là nguy hiểm. Với những kinh nghiệm bạn có đư ợc qua kỹ thuật hình nến, bạn sẽ khám phá ra những sự kết hợp nào hoạt động tốt trong thị trư ờng của bạn. Điều này có thể mang lại cho bạn một lợi thế đối với những người đã không dành thời gian và sức lực trong việc theo dõi sát sao thị trường như  bạn.

Như sẽ đề cập về sau, việc vẽ cây nến đòi hỏi phải có giá đóng. Bởi vậy, bạn có thể phải đợi kết thúc để có một dấu hiệu buôn bán có giá trị. 

Thỉnh thoảng, tôi có thể sử dụng những biểu đồ từng giờ để có được một dấu hiệu mua bán hơn là đợi đến khi đóng cửa của ngày đó. Ví dụ, có một mẫu hình tăng giá tiềm năng trong biểu đồ ngày. Lúc đó, tôi nên đợi giá đóng cửa để hoàn thành mẫu hình. Nếu biểu đồ hàng giờ cũng cho thấy một cái chỉ báo tăng giá trong ngày ấy, thì tôi có thể khuyến cáo mua (nếu xu hư ớng là tăng) thậm chí tr ước khi đóng cửa. 

Những biểu đồ hình nến cung cấp nhiều dấu hiệu mua bán rất hữu ích. Tuy nhiên, chúng không cung cấp những mục tiêu giá. Có những ph ương pháp khác để dự báo những đích giá đó (như  những ngưỡng hỗ trợ hoặc chống cự trư ớc đó, sự hiệu chỉnh, v.v …). Một số ngư ời thực hiện việc mua bán dựa vào các dấu hiệu, và giữ thương vụ đó cho đến khi có sự xuất hiện mẫu hình khác. Những mẫu hình luôn luôn cần đư ợc nhìn trong bối cảnh khi nó xuất hiện và trong quan hệ với những dấu hiệu kỹ thuật khác. 

Với hàng trăm biểu đồ trong suốt cuốn sách này, đừng ngạc nhiên nếu bạn thấy có những mẫu mà tôi bỏ qua trong những biểu đồ. Đó cũng là những ví dụ về những mẫu hình, đôi khi không hoạt động. Những hình nến sẽ không cung cấp một công cụ thương mại chính xác tuyệt đối. Tuy nhiên chúng bổ sung thêm vào bảng mẫu kỹ thuật của bạn. 

Những biểu đồ hình nến cho phép bạn sử dụng những phương pháp kỹ thuật như khi bạn sử dụng với biểu đồ then chắn. Như ng những biểu đồ hình nến cho bạn những dấu hiệu mà biểu đồ then chắn không thể. Vậy tại sao phảI sử dụng biểu đồ then chắn? Trong tư ơng lai gần, biểu đồ hình nến có thể trở nên phổ biến như  biểu đồ then chắn. Thật ra, tôi đã đưa ra dự đoán rằng khi ngày càng có nhiều nhà kỹ thuật cảm thấy thoải mái, thích nghi với những biểu đồ hình nến, họ sẽ không còn sử dụng những biểu đồ then chắn. Tôi đã sử dụng một kỹ thuật phân tích gần 20 năm. Và bây giờ, sau khi khám phá tất cả các lợi ích của nó, tôi chỉ sử dụng những biểu đồ hình nến. Tôi vẫn sử dụng tất cả các công cụ kỹ thuật truyền thống của phương Tây, như ng những biểu đồ hình nến đã mang lại cho tôi một cái nhìn tổng thể về những thị trư ờng. 

Tr ước khi đi sâu vào những biểu đồ hình nến, tôi sẽ nói ngắn gọn về sự quan trọng của phân tích kỹ thuật. Đối với những người chưa sử dụng phân tích kỹ thuật, đoạn tiếp theo nhấn mạnh tới tầm quan trọng của phân tích kỹ thuật. Với những người đã hiểu biết về những lợi ích của phân tích kỹ thuật, có thể bỏ qua đoạn này. 

TẦM QUAN TRỌNG CỦA PHÂN TÍCH KỸ THUẬT 

Tầm quan trọng của phân tích kỹ thuật gồm năm khía cạnh dưới đây:

Đầu tiên, trong khi sự phân tích cơ bản có thể cung cấp quy mô cung cầu, những tỷ lệ giá/lợi nhuận, những thống kê kinh tế học, v.v…, không có thành phần tâm lý học kéo theo trong sự phân tích đó. Vậy mà nhiều thị trường, đôi khi bị ảnh hưởng, thậm chí nặng nề, bởi sự đa cảm. John Manyard Keynes phát biểu, "Không có gì bất hạnh như  một chính sách đầu t ư hợp lý trong một thế giới vô lý". Phân tích kỹ thuật cung cấp cơ chế duy nhất để đo "sự vô lý" hiện diện trong mọi thị trường. 

Thứ hai, những kỹ thuật cũng là một thành phần quan trọng trong việc khép mình vào kỷ luật giao dịch. Kỷ luật trong giao dịch giúp những thương gia làm dịu bớt những căng thẳng. Nếu bạn nghi ngờ điều này, hãy giao dịch trên giấy (tập mua bán bằng cách viết ra giấy). Rồi thử buôn bán với những quĩ của chính mình. Bạn sẽ sớm khám phá sự căng thẳng, nghi ngờ, băn khoăn trong cách mà bạn mua bán và nhìn nhận thị tr ường. Những kỹ thuật cũng mang lại tính khách quan trong việc đưa ra các quyết định. Chúng cung cấp một cơ chế để thiết lập những điểm vào/ra, để đặt những tỷ lệ rủi ro/lợi nhuận, hoặc những mức dừng/thoát. Sử dụng chúng sẽ giúp bạn phát triển kỹ năng quản lý rủi ro và lợi nhuận trong giao dịch. 

Thứ ba, đi theo các nhà phân tích kỹ thuật cũng khá quan trọng dù bạn không hoàn toàn tin tư ởng vào sự sử dụng của họ. Bởi vì đôi khi kỹ thuật là lý do chính cho một sự chuyển động của thị trư ờng. 

Thứ tư, lý thuyết bước ngẫu nhiên giải thích việc thị trường có những ngày mà giá không có mối quan hệ với giá của ngày tiếp theo. 

Và cuối cùng, quan sát hoạt động giá là ph ương pháp trực tiếp và có thể tiếp cận dễ dàng nhất để nhận ra những mối quan hệ cung cầu của thị trường. Có thể có những tin tức quan trọng không được phổ biến, nhưng bạn có thể chờ đợi nó phản ánh vào giá. Những người có kiến thức sâu rộng về những chuyển động của thị trường có thể sẽ mua hoặc bán khi giá cả hiện thời phản chiếu thông tin của họ. Vì vậy, giá cả hiện thời đã phản chiếu tất cả thông tin sẵn có, được phổ biến rộng khắp hoặc một nhóm nào đó.

NỀN TẢNG LỊCH SỬ 

"Thông qua việc tìm hiểu cái cũ, chúng ta học cái mới"

Chư ơng này cung cấp cho bạn nền tảng phát triển của phân tích kỹ thuật Nhật Bản. Những người muốn đi ngay vào phần cốt lõi của cuốn sách (kỹ thuật và cách sử dụng biểu đồ hình nến), có thể bỏ qua ch ương này, hoặc trở lại sau khi bạn đã hoàn thành phần còn lại của quyển sách. Nó là một lịch sử hấp dẫn. 

Người nổi tiếng nhất Nhật Bản đã sử dụng giá quá khứ để dự đoán chuyển động giá tương lai là huyền thoại Munehisa Homma. Ông đã tích lũy được gia sản khổng lồ qua việc buôn bán gạo trong những năm 1700. Tr ước khi nói về Homma, tôi muốn cung cấp tổng quan của nền kinh tế, dựa vào đó mà Homma có thể phát đạt. Thời kỳ này bắt đầu từ những thập niên cuối của thế kỷ 16 đến giữa thế kỷ 18. 

Từ 1500 đến 1600, Nhật Bản là một n ước không ngừng nội chiến. Trư ớc những năm đầu 1600, ba tư ớng - Nobunaga Oda, Hideyoshi Toyotomi, và Ieyasu Tokugawa - đã hợp nhất Nhật Bản trong cả một thời kỳ 40 năm. Sự dũng cảm và những chiến công của họ đã được ghi lại trong lịch sử và văn học dân gian của người Nhật. 

Những qui tắc trong quân đội Nhật được phổ biến nhiều thế kỷ đã trở thành là một phần trong các thuật ngữ gắn liền với biểu đồ hình nến. Và khi bạn so sánh với nó, thì việc buôn bán cũng đòi hỏi nhiều kỹ năng cần thiết như những kỹ năng để chiến thắng mỗi trận đánh. Những kỹ năng như  vậy bao gồm kế hoạch chiến l ược, tâm lý học, sự cạnh tranh, chiến l­ược phòng thủ, v.v… thậm chí cả may mắn. Vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi suốt cuốn sách này bạn sẽ gặp những thuật ngữ về hình nến giống như khi đang ở trong chiến trư ờng. Đó là “night and morning attacks", "advancing three soldiers", "counter attack", "gravestone", v.v …

Kinh tế ruộng đất lớn mạnh, như ng quan trọng hơn, đã có sự mở rộng và dễ dàng trong nội thư ơng. Tr ước thế kỷ 17, một thị trư ờng quốc gia đã tiến triển để thay thế hệ thống những thị trường cô lập và địa phư ơng. Khái niệm này về thị trường tập trung sẽ gián tiếp dẫn dắt tới sự phát triển của phân tích kỹ thuật ở Nhật Bản. Hideyoshi Toyotomi l ưu tâm tới Osaka như  thủ đô của Nhật và khuyến khích nó phát triển như  một trung tâm thương mại. 

Ở Osaka, Yodoya Keian trở thành là một thương nhân của Hideyoshi (một trong số ba tướng lớn nhất). Yodoya có khả năng phi thư ờng trong việc chuyên chở, phân phối, và thiết lập giá cả của gạo. Anh ta trở nên rất giàu có.

Đến năm 1710, Trung tâm mua bán gạo đã ra đời. Sau 1710, sự trao đổi, mua bán ký gửi được tiến hành ở các kho. Việc mua bán gạo được ghi lại qua những tờ biên nhận. Những biên nhận này trở thành những hợp đồng tư ơng lai đầu tiên từng được buôn bán. 

Môi giới gạo trở thành là nền tảng của sự thịnh vư ợng của Osaka.

Để cho bạn thấy tính phổ biến của những hợp đồng tương lai này, xem ví dụ sau: năm 1749, có tổng số 110.000 bao gạo đã được giao dịch ở Osaka. Vậy mà, khắp cả Nhật Bản chỉ có 30.000.

Quay lại với Homma. Munehisa Homma sinh năm 1724 trong một gia đình giàu có. Khi Homma làm chủ doanh nghiệp gia đình vào năm 1750, anh ta bắt đầu buôn bán, trao đổi gạo tại địa phư ơng, trong thành phố cảng Sakata. Sakata là một trong những vùng thu gom và phân phối gạo. 

Khi cha Munehisa Homma chết, Munehisa phải gánh vác trách nhiệm quản lý tài sản của gia đình. Đây thực sự là một khó khăn với một thanh niên trẻ. Với gia tài này, Homma đi tới trung tâm giao dịch gạo lớn nhất Nhật Bản ở Osaka, và bắt đầu giao dịch những hợp đồng tư ơng lai. Để tìm hiểu tâm lý của những nhà đầu tư , Homma phân tích giá gạo lùi lại thời gian trước, thời của Yodoya. Homma cũng lập hệ thống truyền thông của riêng mình.

Sau khi chiếm ưu thế ở thị trư ờng Osaka, Homma mở rộng buôn bán với Edo (bây giờ gọi Tokyo). Ông ta sử dụng những sự hiểu biết sâu sắc của mình để tích lũy được một gia tài khổng lồ. Vài năm sau Homma trở thành một cố vấn tài chính của Chính phủ và đư ợc phong tước vị Samurai. Homma mất năm 1803. Sách của Homma về thị trư ờng đã được viết vào thế kỷ 18. Những nguyên tắc giao dịch của ông đư ợc áp dụng trong thị trường gạo, và được phát triển thành ph ương pháp luận biểu đồ hình nến đ ược sử dụng ở Nhật Bản và về sau phổ biến khắp Thế giới.

CHƯƠNG II:

CẤU TẠO BIỂU ĐỒ HÌNH NẾN

"Không có mái chèo, bạn không thể qua sông với một chiếc xuồng"

Một sự so sánh trực quan về sự khác nhau của biểu đồ dạng then chắn và biểu đồ hình nến thì dễ minh họa. Hình 3.1 là biểu đồ dạng then chắn phư ơng Tây quen thuộc. Hình 3.2 là biểu đồ hình nến với cùng thông tin về giá như trong biểu đồ then chắn.

VẼ NHỮNG CÂY NẾN

Để vẽ biểu đồ then chắn hàng ngày cần có giá mở, cao, thấp, và đóng. Đường thẳng đứng trên biểu đồ then chắn thể hiện giá cao và thấp của phiên. Đường nằm ngang bên trái đường thẳng đứng là giá mở phiên, bên phải đường thẳng đứng là giá đóng phiên.

Hình 3.3 cho thấy cách xây dựng một biểu đồ then chắn và một biểu đồ hình nến với cùng một dữ liệu. Mặc dù những biểu đồ then chắn và hình nến hàng ngày sử dụng cùng dữ liệu, dễ nhận thấy chúng đư ợc vẽ khác nhau. Chỗ dày nhất của cây nến đư ợc gọi là thân nến. Nó mô tả phạm vi giữa giá mở và đóng của phiên đó. Khi thân nến màu đen (tô kín) nó có nghĩa là đóng phiên thấp hơn mở. Nếu thân nến màu trắng (rỗng), thì nó có nghĩa rằng đóng phiên cao hơn mở (màu sắc của biểu đồ hình nến có thể thay đổi bởi người sử dụng).

Những đường mỏng ở trên và ở dư ới thân nến là những bóng nến. Những bóng nến này đại diện cho những cực trị giá của phiên. Bóng ở trên thân nến đư ợc gọi là bóng trên và bóng ở dư ới thân nến đư ợc gọi là bóng dưới. Do đó, đỉnh của bóng trên là giá cao nhất phiên và đáy của bóng dưới là giá thấp nhất phiên. Đối với người Nhật, thân nến là sự chuyển động giá quan trọng. Những bóng nến thường đư ợc xem xét như  những dao động giá bên ngoài.

Những hình từ 3.4 đến 3.7 thể hiện vài cây nến hay gặp. Hình 3.4 là một cây nến đen dài, tương ứng với một phiên giảm giá khi thị trường mở cửa gần với giá cao và đóng cửa gần với giá thấp. Hình 3.5 cho thấy sự đối lập của một thân nến đen dài, và do đó tương ứng là một phiên tăng giá. Giá cả có một phạm vi rộng và thị trư ờng mở gần giá thấp và đóng gần giá cao của phiên. Hình 3.6 cho thấy những cây nến có thân nhỏ và chúng diễn tả cuộc chiến giữa bên bán và bên mua. Hình 3.7 thể hiện những cây nến không có thân, thay vào đó, chúng là những đường nằm ngang. Đó là những ví dụ của những cây nến được gọi là doji.

Người Nhật đặc biệt nhấn mạnh về mối quan hệ giữa giá mở và đóng, vì chúng thể hiện những cảm giác của ngày giao dịch. Tiếng Nhật có một thành ngữ: "Giờ đầu tiên của buổi sáng là phương hướng của ngày". Như  vậy giá mở là phương hướng cho phiên giao dịch. Nó thể hiện manh mối đầu tiên về ph ương h ướng của ngày. Đó là thời gian khi tất cả tin tức và những lời đồn từ đêm trước đư ợc sàng lọc và sau đó thể hiện trong cùng một lúc.

Sau hoạt động nhộn nhịp ở đầu phiên, những ngư ời mua và những ngư ời bán tiềm năng có một chuẩn đánh giá, từ đó họ có thể chờ đợi để mua và bán. Có sự giống nhau giữa việc giao dịch trên thị trường và sự giao chiến trong một trận đánh. Trong ý nghĩa này, giá mở cung cấp một cái nhìn tổng quan của chiến trư ờng và một mối quan hệ tạm thời giữa hai phe. Đôi khi, những thư ơng gia lớn cố gắng lái thị trường khi mở phiên bởi những lệnh mua hoặc bán lớn. Tiếng Nhật gọi là “cuộc tấn công buổi sáng” (a morning attack). Chú ý rằng điều này t ương tự như trong quân đội. Tiếng Nhật sử dụng nhiều sự so sánh với quân đội, như vậy chúng ta sẽ thấy trong suốt cuốn sách.

THUẬT NGỮ HÌNH NẾN VÀ CẢM GIÁC THỊ TRƯ ỜNG

Phân tích kỹ thuật là cách duy nhất để đo lường cảm xúc của thị trư ờng. Những tên gọi của những biểu đồ hình nến Nhật Bản làm cho điều này rõ ràng hơn. Những tên gọi chứa đựng những hình ảnh này được sử dụng để mô tả “sức khỏe” của thị trư ờng khi những mẫu này đư ợc hình thành. Sau khi nghe những thành ngữ “người đàn ông bị treo cổ” (hanging man) hay “đám mây đen bao phủ” (dark-cloud cover), bạn có nghĩ rằng thị trư ờng đang trong một trạng thái mạnh khoẻ? Tất nhiên không! Đó là hai mẫu hình giảm giá và tên của chúng rõ ràng truyền đạt trạng thái ốm yếu của thị trư ờng.

Đôi khi diễn biến thị trư ờng có thể không mạnh khoẻ lúc hình thành những mẫu này, nó không loại trừ khả năng thị trư ờng sẽ trở lại mạnh khoẻ nữa. Khi có sự xuất hiện của “đám mây đen bao phủ”, trạng thái mua cần được cân nhắc kỹ. Tùy thuộc vào xu hư ớng chung và những yếu tố khác, trạng thái bán mới có thể đ ược bắt đầu.

Có nhiều quan niệm và mẫu hình mới trong cuốn sách này, như ng những tên mô tả bởi tiếng Nhật không chỉ làm cho biểu đồ hình nến trở nên ngộ nghĩnh, mà còn dễ nhớ hơn khi những mẫu đó là tăng giá hoặc giảm giá. Ví dụ, trong chư ơng 5 bạn sẽ học về “sao Hôm” (evening star) và "sao Mai” (morning star). Nếu không biết những mẫu hình này trông như thế nào hoặc chúng ngụ ý gì về thị trư ờng, chỉ nghe tên gọi của chúng, bạn nghĩ cái nào là tăng giá và cái nào là giảm giá? Tất nhiên, sao Hôm xuất hiện trư ớc khi bóng tối ập xuống, nghe như dấu hiệu giảm giá - và đúng như vậy đó! Sao Mai, ngôi sao buổi sáng xuất hiện trước bình minh - là tăng giá.

Một điểm then chốt khác là giá đóng, điểm quan trong đối với các nhà phân tích kỹ thuật. Họ có thể đợi giá đóng để xác nhận một tín hiệu vượt thoát quan trọng từ biểu đồ. Nhiều hệ thống giao dịch trên máy tính (ví dụ, những đường trung bình trượt, …) đều dựa trên giá đóng phiên. Nếu có những lệnh mua hoặc bán lớn đư ợc đẩy vào thị trường tại/gần thời điểm đóng phiên, với mục đích làm ảnh h ưởng đến giá đóng phiên, tiếng Nhật gọi hành động này là “cuộc tấn công ban đêm” (a night attack).

CHƯƠNG III:

NHỮNG MẪU HÌNH ĐẢO CHIỀU

"Bóng tối nằm ngay phía trư ớc”

Những nhà phân tích kỹ thuật chờ đợi những manh mối giá cả có thể báo động cho họ một sự thay đổi trong tâm lý thị trường và xu hướng. Những mẫu hình đảo chiều là kỹ thuật tìm ra manh mối đó. Những thuật ngữ chỉ mẫu hình đảo chiều phương Tây như hai đỉnh, hai đáy, đầu vai, đỉnh và đáy độc lập, v.v…

Cho đến nay, thuật ngữ “mẫu hình đảo chiều” có phần được hiểu và dùng sai. Nghe thuật ngữ đó có thể nghĩ rằng một xu hướng cũ kết thúc một cách đột ngột và sau đó có sự đảo chiều sang xu hướng mới. Điều này không phảI lúc nào cũng diễn ra. Sự đảo chiều của xu hướng thường xuất hiện từ từ, trong một khoảng thời gian, như sự thay đổi cơ bản về tâm lý.

Một tín hiệu đảo chiều của xu hướng hàm ý rằng xu hướng trước đó rất có khả năng thay đổi, nhưng không nhất thiết là ngược lại. Điều này rất quan trọng để hiểu được vấn đề. So sánh một xu hướng tăng với một chiếc ô tô đang hướng về phía trước với vận tốc khoảng 50 km/h. Khi đèn phanh bật sáng, chiếc xe chạy chậm lại. Cái đèn phanh là một chỉ báo đảo chiều chỉ ra rằng xu hướng trước đó (ở đây, chiếc xe đang chạy) gần như kết thúc. Bây giờ chiếc xe gần như không chuyển động, người lái xe sẽ quay xe lại, đứng yên hoặc quyết định chạy tiếp? Chúng ta không thể biết nếu không có thêm manh mối.

Hình 4.1 đến 4.3 là một vài ví dụ về những gì có thể xảy ra sau khi một tín hiệu đảo chiều ở đỉnh xuất hiện. Xu hướng tăng giá trước đó, có thể thay đổi thành thời kỳ đi ngang của giá. Sau đó một xu hướng mới, ngược với xu hướng cũ có thể bắt đầu - xem hình 4.1. Hình 4.2 thể hiện xu hướng tăng giá cũ có thể hồi phục lại như thế nào. Hình 4.3 minh họa cho xu hướng tăng giá có thể bất ngờ đảo chiều thành ra xu hướng giảm giá.

Hãy nhớ rằng khi người ta nói “mẫu hình đảo chiều”, nó chỉ có nghĩa rằng xu hướng trước đó dường như thay đổi nhưng không nhất thiết ngược lại.

Nhận ra sự xuất hiện của những mẫu hình đảo chiều có thể là một kỹ năng đáng giá. Để thành công trong kinh doanh đòi hỏi bạn phải nắm được xu hướng và cả những gì có thể sắp diễn ra. Những chỉ báo đảo chiều là cách mà thị trường cung cấp tín hiệu cho bạn, giống như tín hiệu giao thông, ví dụ như “Hãy thận trọng - Xu hướng của quá trình đã thay đổi”. Nói cách khác, tâm lý của thị trường đã thay đổi. Bạn nên điều chỉnh giao dịch tương ứng với diễn biến mới của thị trường. Có rất nhiều cách để tham gia và thoát ra khỏi thị trường với các chỉ báo. Chúng ta sẽ bàn luận về chúng từ đầu đến cuối cuốn sách này.

Một nguyên tắc cơ bản để tham gia thị trường tại một vị trí mới (dựa trên một tín hiệu đảo chiều) chỉ khi tín hiệu đó theo chiều hướng của xu hướng chính. Ví dụ, trong một thị trường tăng giá, một mẫu hình đảo chiều ở đỉnh xuất hiện. Tín hiệu giảm giá này không cho phép một hành động bán ra. Điều này là bởi vì xu hướng chính vẫn là tăng. Dù sao, nó cũng là tín hiệu dừng mua. Nếu đó là một xu hướng giảm đang thịnh hành, sự hình thành của mẫu hình đảo chiều ở đỉnh tương tự có thể được sử dụng để bán ra.

Bây giờ, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu những mẫu hình đầu tiên trong số những mẫu hình đảo chiều.

HAMMER VÀ HANGING MAN

Hình 4.4 cho thấy hai cây nến có bóng dưới dài và phần thân nhỏ. Phần thân nằm ở đỉnh trong phạm vi giao dịch của phiên. Sự khác nhau của hai cây nến trong hình lôi cuốn ở chỗ nó có thể chỉ ra sự tăng hay giảm giá tùy thuộc vào vị trí chúng xuất hiện trong một xu hướng. Nếu một trong hai cây nến đó xuất hiện trong một xu hướng giảm, đó là một dấu hiệu chỉ ra rằng xu hướng giảm có thể kết thúc. Trong bối cảnh đó, cây nến được gọi là một hammer.

Hãy xem hình 4.5. Ngày nay người Nhật gọi nó là takuri. Từ này cũng gần giống như đang cố gắng đo độ sâu của dòng nước với cảm giác đang đứng ở đáy.

Nếu một trong hai cây nến trong hình 4.4 xuất hiện sau một quá trình tăng giá, nó muốn nói với bạn rằng quá trình đó có thể sẽ kết thúc. Nó giống như là một điềm gở, nên được gọi là hanging man (xem hình 4.6). Cái tên này xuất phát từ thực tế là trông nó giống như người đàn ông bị treo cổ với hai chân lủng lẳng.

Có vẻ không bình thường khi những cây nến giống nhau lại có thể chỉ ra cả tăng và giảm giá. So với những hình mẫu quen thuộc của phương Tây (island top và island bottom) bạn sẽ nhận ra rằng quan niệm được vận dụng giống hệt nhau. Sự xuất hiện của island cũng chỉ ra sự tăng hoặc giảm giá tùy thuộc vị trí của nó trong một xu hướng. Một island sau một xu hướng tăng dài là giảm giá, trong khi một island tương tự sau một xu hướng giảm là tăng giá.

Hammer và hanging man có thể được đoán nhận bởi ba tiêu chuẩn sau:

1. Phần thân nến nằm ở phần trên của phạm vi giao dịch. Màu sắc của thân nến không quan trọng.

2. Độ dài của bóng dưới cỡ gấp hai lần độ dài của phần thân trở lên.

3. Nó không nên có, hoặc có bóng trên rất nhỏ.

Bóng dưới càng dài, bóng trên càng ngắn, thân của nến càng nhỏ càng có ý nghĩa tăng giá (đối với hammer) hay giảm giá (đối với hanging man). Mặc dù thân nến của hammer hay hanging man có thể màu trắng hay đen, mức độ tăng đáng kể hơn nếu thân của hammer màu trắng, mức độ giảm cũng đáng kể hơn nếu thân của hanging man màu đen.

Nếu thân của hammer màu trắng, nó mang ý nghĩa rõ ràng rằng thị trường bị bán tháo gần như suốt phiên và sau đó bật trở lại vào lúc đóng phiên gần với giá cao của phiên. Đó gần như là khởi nguồn của sự tăng giá.

Nếu thân của hanging man màu đen, nó thể hiện rằng giá đóng phiên không thể trở lại mức giá mở phiên. Điều đó hàm ý khả năng giảm giá.

Điều quan trọng là bạn phải đợi sự xác nhận với hanging man. Lập luận như thế nào về sự xuất hiện của hanging man? Thông thường là trong bối cảnh thị trường đã thể hiện hết khả năng tăng giá thì hanging man xuất hiện. Vào phiên hanging man, thị trường mở phiên ở/gần giá cao, rồi bị bán tháo, sau đó phục hồi, đóng phiên ở/gần giá cao. Sức mạnh này không phải là kiểu hành động giá để bạn nghĩ rằng hanging man có thể là đỉnh đảo chiều. Nhưng kiểu hành động giá này chỉ ra rằng thị trường đã bắt đầu hành động bán tháo (sell off), nó đã trở nên dễ bị tấn công tiếp khi chúng ta chưa kịp đề phòng.

Tín hiệu xác nhận có thể là một khoảng trống giảm giá (giữa phần thân nến phiên hanging man với giá mở phiên kế tiếp), hoặc có thể là một phiên giảm giá với giá đóng phiên thấp hơn giá đóng phiên hanging man.

Hình 4.7 là một ví dụ minh họa vì sao những cây nến tương tự nhau có thể là giảm giá (hanging man - ngày 3/7) hoặc tăng giá (hammer - ngày 23/7), mặc dù cả hai cây nến trong ví dụ này có thân màu đen. Điều này cho thấy màu sắc của thân nến không phải là vấn đề quyết định.

Hình 4.8 cho thấy một trư ờng hợp khác của hai mẫu hình này. Có một mẫu hình hanging man giảm giá giữa tháng tư báo hiệu kết thúc quá trình tăng giá đã bắt đầu với hammer tăng giá vào ngày 2 tháng 4. Một biến thể của hanging man hiện ra vào giữa

tháng ba. Bóng dưới của nó dài, nhưng không gấp hai lần chiều cao của thân nến. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn khác (phần thân nến nằm ở phần trên của phạm vi giao dịch và gần như không có bóng trên) đã thể hiện. Nó cũng được xác nhận bởi một giá đóng thấp hơn ở phiên kế tiếp. Hình mẫu này mặc dù không phải là một hanging man lý tưởng, đã báo hiệu kết thúc của quá trình tăng giá bắt đầu từ một tháng trước. Biểu đồ kỹ thuật hình nến, cũng như biểu đồ hoặc kỹ thuật nhận dạng khác, đều có những nguyên tắc của nó. Như ng đó không phải là những quy tắc cứng rắn.

Như đã trình bày ở trên, có những tiêu chuẩn nhất định làm gia tăng tầm quan trọng của hanging man và hammer. Với hanging man giữa tháng ba, bóng dưới của nó có thể không gấp hai lần chiều cao của thân để cung cấp một tín hiệu đảo chiều. Nếu bóng dưới dài hơn, mẫu hình càng hoàn hảo.

Hình 4.9 cho thấy một loạt hammer tăng giá được đánh số từ 1 tới 4 (hammer 2 vẫn được xem là một hammer mặc dù nó có bóng trên nhỏ). Điểm đáng lưu ý của biểu đồ này là tín hiệu mua được đưa ra đầu năm 1990. Mức giá thấp mới xuất hiện ở hammer 3 và 4 khi giá thấp hơn hơn cả mức giá thấp của tháng 7 tại hammer 2. Tuy nhiên, không có tiếp tục của xu hướng giảm. Hammer 3 và 4 cho thấy rằng những người đầu cơ giá lên đã nắm quyền điều khiển. Hammer 3 không phải là một hammer lý tưởng khi bóng dưới không gấp 2 lần chiều cao thân nến. Dù sao nó cũng phản ánh sự thất bại của những người đầu cơ giá xuống. Hammer 4 củng cố kết luận một sự đảo chiều ở đáy có vẻ đã xuất hiện.

Trong hình 4.10 hammer 1 và 3 là những đáy. Hammer 2 báo hiệu sự kết thúc của xu thế giảm trước đó, xu hướng giá chuyển từ giảm sang đi ngang. Hammer 4 không hiệu quả. Hammer này nói lên một điểm quan trọng về những hammer (hoặc bất kỳ mẫu hình nào mà tôi đề cập đến). Chúng cần phải được quan sát trong bối cảnh của hoạt động giá trước đó. Trong biểu đồ này, hãy xem hammer 4. Ngày hôm trước ngày hammer này, thị trường thể hiện qua một cây nến đen giảm giá rất mạnh (với a shaven head và a shaven bottom - mở phiên ở giá cao và đóng phiên ở giá thấp của phiên).

Nó thể hiện sức mạnh giảm giá cực lớn. Hammer 4 cũng xuyên qua mức hỗ trợ trước đó - ngày 24 tháng 1. Xem xét những nhân tố giảm giá đã nêu trên, nên thận trọng đợi sự xác nhận của dấu hiệu tăng giá trước khi hành động theo hammer 4. Ví dụ, một cây nến trắng có giá đóng phiên cao hơn giá đóng phiên hammer 4 có thể đã đư ợc coi là một sự xác nhận.

Hình 4.11 là biểu đồ hình nến sử dụng giá theo từng giờ. Quan sát kỹ biểu đồ này, chúng ta có thể thấy rằng một hammer hình thành trong giờ đầu tiên của ngày 11/4. Như hammer 4 trong hình 4.10, giá giảm tạo ra khoảng trống nhưng cây nến trắng sau đó có giá đóng phiên cao hơn. Điều này là tín hiệu xác nhận đáy.

Cây nến giờ thứ 2 của ngày 12/4, mặc dù trong hình dạng như một hammer, nhưng không chính xác là một hammer. Một hammer là một mẫu hình đảo chiều ở đáy. Cây nến này cũng không phải là một hanging man, khi hanging man thường xuất hiện sau một xu hướng tăng giá. Trong tr ường hợp này, nếu cây nến này xuất hiện gần mức giá cao của cây nến đen trước đó, thì nó đã đ ược xem xét như một hanging man .

Hình 4.12 cho thấy một hammer đầu tháng tư, đánh dấu sự kết thúc của xu hướng giảm giá mạnh bắt đầu từ những tháng trước đó. Bóng dưới dài (gấp nhiều lần chiều cao thân nến), một thân nến nhỏ, và không có bóng trên tạo nên một hammer kinh điển.

Hình 4.13 thể hiện một hanging man kinh điển.

Trong hình 4.14 chúng ta thấy sự vận động tăng của giá, từ đầu tháng hai, kết thúc với đích đến là sự xuất hiện liên tục của 2 hanging man. Tầm quan trọng của sự xác nhận dấu hiệu giảm giá sau hanging man đ ược phản ánh trong biểu đồ này. Một cách xác nhận dấu hiệu giảm giá là giá mở của phiên tiếp theo thấp hơn giá ở phần thân của hanging man. Lưu ý rằng sau sự xuất hiện của hanging man đầu tiên, thị trường đã mở phiên cao hơn trước đó. Tuy nhiên, sau hanging man thứ hai, thị tr ường đã mở phiên thấp hơn giá ở phần thân của hanging man, thị trường bắt đầu đi xuống.

Hình 4.15 minh họa một thân nến đen, với giá đóng phiên thấp hơn phiên hanging man, có thể coi là cách khác của sự xác nhận dấu hiệu giảm giá. Ba cây nến số 1, 2, và 3 là một loạt hanging man. Thiếu sự xác nhận dấu hiệu giảm giá sau cây nến 1 và 2 có nghĩa là xu hướng tăng giá vẫn còn sức mạnh. Quan sát hanging man 3. Cây nến đen đi sau nó là tín hiệu xác nhận giảm giá của hanging man này.

Hình 4.16 cho thấy một sự khác thường của thị trường từ cuối 1989 đến đầu 1990. Quan sát vị trí tăng giá dừng lại. Nó dừng ở hanging man ở tuần thứ ba năm 1990. Biểu đồ này minh họa một điều là một mẫu đảo chiều xuất hiện không có nghĩa rằng giá sẽ đảo chiều, như  chúng ta đã đề cập trong chương 3. Một chỉ báo đảo chiều ngụ ý rằng xu hư ớng trước đó có thể chấm dứt. Điều đó chính xác với những gì xảy ra ở đây. Sau sự xuất hiện mẫu hình đảo chiều hanging man, xu hướng tăng giá trước đó chấm dứt với xu hư ớng mới là chuyển động đi ngang của giá. Hanging man khác xuất hiện trong tháng bảy. Lần này giá nhanh chóng đảo chiều từ tăng thành giảm.

Hình 4.17 minh họa một mẫu hình hanging man kinh điển trong tháng năm. Nó cho thấy một thân nến rất nhỏ, không có bóng trên, và một bóng dưới dài. Thân nến đen ngày tiếp theo xác nhận hanging man này báo hiệu một thời gian giảm giá. (Lưu ý rằng hammer tăng giá từ đầu tháng tư).

CHƯƠNG IV:

NHỮNG MẪU HÌNH ĐỔI CHIỀU

ENGULFING 

Hammer và hanging man là những mẫu hình một cây nến riêng biệt. Chúng có thể gửi những tín hiệu quan trọng về “sức khỏe” của thị trư ờng. Tuy nhiên, đa số các tín hiệu từ các cây nến đều dựa vào sự kết hợp của nhiều cây nến riêng lẻ. Mẫu hình engulfing là mẫu đầu tiên trong số các mẫu hình dựa trên sự kết hợp của nhiều cây nến. Mẫu hình engulfing là tín hiệu đảo chiều với hai thân nến đối lập về màu sắc.

Hình 4.18 thể hiện một mẫu hình engulfing tăng giá. Thị trường đang trong một xu hướng giảm giá, xuất hiện một thân nến trắng tăng giá áp đảo thân nến đen trước đó. Điều này cho thấy rằng lực mua đã lấn át lực bán. Hình 4.19 minh họa một mẫu hình engulfing giảm giá. Thị trường đang trong một xu hướng tăng giá, thân nến trắng bị lấn át bởi thân nến đen, đó là tín hiệu của một sự đảo chiều ở đỉnh. Điều này cho thấy bên bán đã giành quyền điều khiển thị trường.

Có ba tiêu chuẩn đối với mẫu hình englfing:

1. Thị tr ường phải trong một xu hướng rõ ràng, tăng giá hoặc giảm giá, thậm chí có thể là xu hướng ngắn hạn.

2. Hai cây nến tạo thành mẫu hình engulfing. Thân nến thứ hai phải áp đảo thân nến trước đó (nó không cần phải lấn át những bóng nến).

3. Thân nến thứ hai của mẫu hình cần phải có màu đối lập với thân nến đầu tiên. (ngoại lệ của quy tắc này là nếu thân nến đầu tiên của mẫu hình nhỏ, như  vậy nó gần như là  một doji (hoặc là một doji). Do đó, sau một xu thế giảm giá kéo dài, một thân nến trắng nhỏ xíu bị áp đảo bởi một thân nến trắng rất lớn có thể là một sự đảo chiều ở đáy. Trong một xu hướng tăng giá, một thân nến đen bị lấn át bởi một thân nến đen rất lớn có thể là một mẫu đảo chiều giảm giá).

Giống mẫu hình engulfing của Nhật là reversal day của phư ơng Tây. Reversal day của phư­ơng tây xuất hiện khi, trong thời gian xu hướng tăng (hoặc giảm giá), một mức cao (hoặc thấp) mới đư ợc tạo ra với giá đóng thấp hoặc cao hơn giá đóng của ngày trư ớc đó. Bạn sẽ khám phá ra là mẫu hình engulfing có thể đ ưa ra tín hiệu đảo chiều không sẵn có với reversal day của phư ơng Tây. Điều này cho phép bạn chiếm ưu thế hơn những người sử dụng reversal day truyền thống như  một tín hiệu đảo chiều. Điều này đư ợc trình bày qua các hình 4.21, 4.22, và 4.23.

Hình 4.20 cho thấy cho những tuần bắt đầu từ 15/5 và 22/5 hình thành một mẫu hình engulfing tăng giá. Trong hai tuần cuối tháng bảy, một mẫu hình engulfing giảm giá xuất hiện. Mẫu hình engulfing tăng giá tháng chín là sự phục hồi từ đáy của quá trình sell off trư­ớc đó.

Hình 4.21 là biểu đồ dầu thô hàng tháng với cả hai mẫu hình engulfing tăng giá và giảm giá. Cuối năm 1985, cú sụt giảm mạnh 20$ bắt đầu. Tháng ba và tháng tư năm 1986 xuất hiện hai cây nến của mẫu hình engulfing tăng giá. Nó báo hiệu sự kết thúc của xu hướng giảm giá. Vận động giá bắt đầu với mẫu hình engulfing tăng giá này kết thúc bởi mẫu hình engulfing giảm giá vào giữa năm 1987. Mẫu hình engulfing tăng giá nhỏ trong tháng hai và tháng ba năm 1988 kết thúc xu hướng giảm giá bắt đầu vào giữa năm 1987 bởi mẫu hình engulfing giảm giá. Sau mẫu hình engulfing tăng giá này, xu hướng giảm của thị trường giảm chuyển thành xu hướng đi ngang trong năm tháng.

Mẫu hình engulfing giảm giá năm 1987 và 1990 mang lại một lợi thế của mẫu hình engulfing - Nó có thể cung cấp một tín hiệu đảo chiều không thể có nếu sử dụng tiêu chuẩn reversal day trong kỹ thuật ph ương Tây. Một quy tắc cho top reversal day của phương Tây (hoặc, trong trư ờng hợp này, reversal month) là một mức cao mới phải đư ợc tạo ra bởi sự vận động của giá. Những mức cao mới chư a đ ược tạo ra bởi thân nến đen những thời kỳ đó nằm trong mẫu hình engulfing giảm giá.

Hình 4.22 là một ví dụ khác thể hiện những biểu đồ hình nến có thể cho phép chiếm ưu thế so với những công cụ của biểu đồ then chắn thông thường. Quan sát hoạt động giá trên biểu đồ trong hai ngày 7 và 8 tháng bảy. Một lần nữa, một khi không có mức cao mới được tạo ra, đã không có dấu hiệu của một sự đảo chiều ở đỉnh nếu sử dụng tiêu chuẩn reversal day truyền thống của phư ơng Tây. Tuy nhiên, với biểu đồ hình nến, có một tín hiệu đảo chiều giảm giá, đó là mẫu hình engulfing giảm giá, xuất hiện.

Hai cây nến 1 và 2 đầu tháng sáu trông như một mẫu hình engulfing tăng giá. Tuy nhiên, mẫu hình engulfing tăng giá là một chỉ báo sự đảo chiều xu hướng ở đáy. Điều này có nghĩa nó phải xuất hiện sau một xu thế giảm (hoặc đôi khi ở đáy của một dải hẹp). Đầu tháng sáu, khi mẫu hình engulfing tăng giá xuất hiện, nó không hoạt động chính xác vì nó không xuất hiện trong một xu thế giảm.

Hình 4.23 là một loạt các mẫu hình engulfing giảm giá. Mẫu hình 1 khiến thị trường bước sang xu hướng đi ngang trong một dải hẹp từ xu hướng tăng giá trước đó của nó. Mẫu hình 2 là một sự nghỉ ngơi tạm thời trước khi hồi phục sức mạnh tăng giá. Những mẫu hình engulfing giảm giá 3, 4, và 5 đều đư a ra tín hiệu đảo chiều không có được với kỹ thuật của phư ơng Tây (khi không có mức cao mới nào được tạo ra bởi sự vận động của giá thì chúng không phải là những tuần đảo chiều đư ợc xem xét).

DARK-CLOUD COVER

Mẫu đảo chiều tiếp theo là dark-cloud cover (xem hình 4.24). Nó là một mẫu hình hai cây nến báo hiệu một sự đảo chiều ở đỉnh sau một xu hướng tăng giá, hoặc đôi khi ở đỉnh của một dải hẹp.

Cây nến đầu tiên của mẫu hình hai cây nến này là một thân nến trắng mạnh mẽ. Cây nến thứ hai có giá mở cao hơn giá cao của phiên trước đó (có nghĩa cao hơn đỉnh của bóng trên). Tuy nhiên, vào khoảng cuối phiên thứ hai, thị trư ờng đóng phiên gần mức thấp của phiên và bên trong thân nến trắng của phiên trư ớc.

Mức độ xâm nhập vào phần thân cây nến trắng càng lớn thì khả năng một đỉnh sẽ xuất hiện càng cao. Nhiều nhà kỹ thuật Nhật Bản yêu cầu sự xâm nhập lớn hơn 50% mức đóng phiên giảm vào phiên tăng trước đó. Nếu cây nến đen không kết thúc thấp hơn nửa thân nến trắng, tốt hơn là đợi thêm sự xác nhận của mẫu hình giảm giá dark-cloud cover.

Lý do căn bản đằng sau mẫu hình giảm giá này được giải thích dễ dàng. Thị trường trong một xu hướng tăng. Một cây nến trắng tăng giá mạnh mẽ, tiếp theo là một khoảng trống tăng giá ở đầu phiên kế tiếp. Đến đây, những người đầu cơ giá lên nắm hoàn toàn quyền điều khiển thị trường. Nhưng sau đó không thấy có sự tiếp tục tăng giá. Thực tế là thị trư­ờng kết thúc ở/gần mức giá thấp của phiên và bên trong phần thân nến trắng của phiên trước. Trong bối cảnh như vậy, những người mua sẽ suy nghĩ lại về vị trí của họ. Những người đang đợi để bán ngắn hạn bây giờ có một điểm chuẩn để đặt một lệnh dừng - tại mức giá cao mới của phiên thứ hai của mẫu hình dark-cloud cover.

Sau đây là một số yếu tố làm tăng thêm độ tin cậy của mẫu hình dark-cloud cover:

1. Mức độ xâm nhập của giá đóng thân cây nến đen vào thân cây nến trắng trước đó càng lớn, cơ hội cho một đỉnh càng cao. Thân nến đen của mẫu hình dark-cloud cover chỉ xâm nhập một phần thân nến trắng. Nếu thân nến đen bao trùm toàn bộ thân nến trắng của phiên trước thì một mẫu hình engulfing giảm giá xuất hiện. Vì vậy, một mẫu hình engulfing giảm giá có ý nghĩa đảo chiều ở đỉnh hơn. Nếu một thân nến trắng, dài kết thúc trên mức giá cao của mẫu hình dark-cloud cover, hoặc engulfing giảm giá thì nó có thể báo trước sự vận động khác.

2. Trong một xu hướng tăng giá kéo dài, nếu có một cây nến trắng mạnh mẽ - mở ở giá thấp (không có bóng dưới), đóng ở giá cao (không có bóng trên), và phiên sau là một thân nến đen dài, mở ở giá cao và đóng ở giá thấp, sau đó sẽ xuất hiện phiên giảm mạnh, không có bóng trên và bóng dưới.

3. Nếu thân nến thứ hai (thân nến đen) của mẫu hình dark-cloud cover có giá mở ở trên một mức kháng cự mạnh và sau đó rớt, nó chứng minh rằng những người đầu cơ giá lên không thể điều khiển được thị trường.

4. Nếu vào đầu phiên thứ hai có một khối lượng giao dịch rất lớn, tình trạng quá mua có thể đã xuất hiện. Ví dụ, khối lượng giao dịch rất lớn tại một mức giá mở cao mới có thể có nghĩa rằng nhiều ngư ời mua mới đã quyết định nhảy lên tàu. Rồi sau đó thị trư ờng bán tháo. Có lẽ sẽ không quá lâu trư ớc khi đám đông những người mua mới hiểu ra rằng con tàu mà họ nhảy lên là tàu Titanic.

Đối với những người giao dịch thị trường tương lai, khối lượng giao dịch cực lớn cũng là một tín hiệu cảnh báo khác.

Hình 4.25 thể hiện sự khác nhau giữa mẫu hình dark-cloud cover và engulfing. Hai thân nến trong tháng sáu năm 1989 tạo thành một dark-cloud cover. Một thân nến trắng dài, tiếp theo là một thân nến đen, dài. Thân nến đen mở ở một mức cao mới, sau đó đóng ở gần mức thấp của nó và bên trong thân nến trắng trước đó. Thị tr ường trái phiếu đã có dấu hiệu giảm nhiệt sau khi có sự đảo chiều ở đỉnh này xuất hiện. Tuy nhiên sự giảm sút mạnh chỉ đến vài tuần đó, khi mẫu hình engulfing được cụ thể hóa. Chúng ta có thể thấy thân nến đen của dark-cloud cover bao trùm một phần thân nến trắng trư ớc đó. Thân nến đen của mẫu hình engulfing giảm giá bao bọc toàn bộ thân nến trắng trước nó.

Trong hình 4.26 có ba mẫu hình dark-cloud cover được nhận diện. Những tín hiệu giảm giá khác nhau được xác nhận qua mỗi mẫu hình này. Chúng ta hãy xem xét từng mẫu hình riêng lẻ.

Dark-cloud cover 1. Đây là một biến thể của mẫu hình dark-cloud cover lý tưởng. Trong dark-cloud cover này, thân nến đen của ngày thứ hai mở ở mức giá cao của ngày hôm trước, thay vì ở trên nó. Đó chỉ là một tín hiệu cảnh báo, nhưng cần được nhìn nhận là như là một yếu tố phủ định. Mẫu hình dark-cloud cover này cũng thể hiện một nỗ lực bất thành của những người đầu cơ giá lên trong việc vượt qua mức kháng cự ở mức giá cao giữa tháng hai.

Dark-cloud cover 2. Không kể mẫu hình này, đã có lý do khác cho việc cần phải thận trọng ở mức 21$. Một tiên đề kỹ thuật là: một mức hỗ trợ sau khi bị phá bỏ có thể chuyển đổi thành mức kháng cự mới. Điều đó đã xảy ra tại 21$. Ghi nhớ rằng mức hỗ trợ cũ 21$ đã bị xuyên thủng một lần vào ngày 9 tháng ba, được chuyển thành mức kháng cự. Những nỗ lực bị phá sản thể hiện qua mẫu hình này trong hai ngày đầu tiên của tháng tư  minh họa cho mức kháng cự này. (Chư ơng 11 sẽ đề cập đến khái niệm có thể hoán đổi vai trò của mức hỗ trợ và kháng cự).

Dark-cloud cover 3. Mẫu hình này cũng thể hiện đã có một sự thất bại tại một ngưỡng kháng cự được thiết lập ở những mức giá cao cuối tháng tư.

Đó là những ví dụ thể hiện mẫu hình dark-cloud cover trùng với những mức kháng cự. Khái niệm này thể hiện là những khu vực có sự hội tụ của nhiều chỉ báo kỹ thuật thì càng quan trọng. Đó là tiêu điểm chính của phần 2 của cuốn sách - Sự kết hợp của kỹ thuật hình nến với những công cụ kỹ thuật khác.

Hình 4.27 chỉ ra rằng trong thời gian đầu tháng ba, dark-cloud cover 1 là sự tạm dừng của một xu hướng tăng. Sự điều chỉnh xảy ra suốt tuần sau đó. Hai dark-cloud cover nữa được hình thành trong tháng tư. Dark-cloud cover 2 ngụ ý rằng sự tăng giá mạnh trong hai ngày có lẽ đã kết thúc. Dark-cloud cover 3, giữa tháng tư, thì đặc biệt giảm giá mạnh.

Trong hình 4.28, chúng ta nhìn thấy giá có xu hư ớng tăng bắt đầu từ ngày 10/2 đến khi đột ngột dừng vào giữa tháng hai với sự xuất hiện của dark-cloud cover.

PIERCING PATTERN

Trong nhiều buổi, sau khi trình bày về mẫu hình giảm giá dark-cloud cover, không lâu sau sẽ có người hỏi về mẫu đối lập. Có. Và nó đư ợc gọi là mẫu hình piercing. Như đã biết, trong khi dark-cloud cover là một sự đảo chiều ở đỉnh, đối lập với nó, piercing là một sự đảo chiều ở đáy (xem hình 4.29).

Nó gồm hai thân nến trong một thị trường sa sút. Thân nến đầu tiên màu đen và thân nến thứ hai là thân nến trắng dài. Thân nến trắng này giá mở phiên rất thấp, dưới cả mức giá thấp của thân nến đen trước đó. Rồi giá cả đẩy cao hơn, tạo ra một thân nến trắng dài tương đối, đóng phiên ở trên điểm chính giữa của thân nến đen phiên trước.

Mẫu hình piercing tăng giá gần giống với mẫu hình engulfing tăng giá. Trong mẫu hình engulfing tăng giá, thân nến trắng áp đảo toàn bộ thân nến đen trư ớc đó. Với mẫu hình piercing tăng giá, thân nến trắng chỉ lấn át một phần thân nến đen trước đó. Trong mẫu hình piercing, mức độ xâm nhập vào phần thân nến đen càng lớn thì khả năng một đáy đảo chiều càng cao. Một mẫu hình piercing lý tư ởng sẽ có một thân nến trắng mà đóng phiên cao hơn nửa thân nến đen của phiên trư ớc. Nếu thị trư ờng kết thúc ở d ưới mức giá thấp của mẫu hình engulfing tăng giá hoặc piercing bằng một thân nến đen dài, thì một xu hướng giảm giá khác lại tiếp tục.

Tâm lý học đằng sau mẫu hình piercing được giải thích như sau: thị trư ờng trong một xu thế giảm sút. Thân nến đen giảm giá củng cố trạng thái này. Thị trư ờng mở phiên sau thấp hơn qua một khoảng trống giảm giá. Những người đầu cơ giá xuống đang quan sát thị trư ờng với sự mãn nguyện. Rồi thị tr ường bật lên, về phía giá kết thúc phiên trước, nhưng không chỉ dừng ở đó, mà kết thúc rõ ràng ở trên mức đó. Những người đầu cơ giá xuống đang cân nhắc lại vị trí của họ. Những người đang xem xét để mua nghĩ mức thấp mới có thể không giữ được và có lẽ đã đến lúc mua vào.

Mẫu hình piercing cũng có một số yếu tố (từ 1 đến 4) làm tăng thêm độ tin cậy giống như mẫu hình dark-cloud cover, nhưng ngược lại (xem lại mẫu hình trước). Trong phần về mẫu hình dark-cloud cover, tôi đã đề cập rằng mặc dù nhiều nhà kỹ thuật Nhật Bản yêu cầu sự xâm nhập lớn hơn 50% mức đóng phiên giảm vào phiên tăng trước đó, vẫn có sự linh hoạt trong quy tắc này. Với mẫu hình piercing, tính linh hoạt không bằng. Cây nến trắng của mẫu hình piercing cần phải đẩy qua được nửa thân nến đen. Lý do cho sự kém linh hoạt của mẫu hình piercing tăng giá so với mẫu hình dark-cloud cover là thực tế trong kỹ thuật của người Nhật có ba mẫu hình khác, tên gọi là on-neck, in-neck và thrusting (xem hình 4.30 đến 4.32) có cấu tạo cơ bản giống như mẫu hình piercing, nhưng chúng cần được xem như tín hiệu giảm giá khi thân nến trắng nằm dưới nửa thân nến đen.

Nh ư vậy ba mẫu hình giảm giá tiềm năng này (hình 4.30 đến 4.32) và mẫu hình piercing tăng giá (hình 4.29) có cùng một định dạng. Sự khác nhau của chúng nằm ở mức độ của sự xâm nhập bởi thân nến trắng vào trong thân nến đen. Với mẫu hình on-neck, thân nến trắng (thường là cây nến nhỏ) đóng phiên gần với giá thấp của phiên trước. Với mẫu hình in-neck, thân nến trắng đóng phiên ở một mức độ xâm nhập không đáng kể vào thân nến trước (cũng thường là cây nến trắng nhỏ). Mẫu hình thrusting cần phải là một thân nến trắng mạnh mẽ hơn, dài hơn so với mẫu hình in-neck, nhưng đóng phiên vẫn không nằm trên nửa thân nến đen trước đó.

Với những mẫu hình này, khi giá vận động dư ới mức thấp của cây nến trắng, các thương gia (traders) biết rằng đó là thời gian để bán. (Lưu ý rằng mẫu hình thrusting trong hình 4.32 là giảm giá trong một thị trư ờng xuống dốc, nh ưng như một phần của một thị trường tăng giá, nên được cân nhắc kỹ. Mẫu hình thrusting cũng là tăng giá nếu nó xuất hiện hai lần trong vòng vài ngày).

Không quá quan trọng để nhớ từng mẫu hình trong các hình 4.30 tới đến 4.32. Chỉ cần nhớ khái niệm là thân nến trắng cần phải đẩy cao hơn nửa của thân nến đen để gửi một tín hiệu của sự đảo chiều ở đáy.

Trong hình 4.33, những người đầu cơ giá xuống thành công rực rỡ khi thị trường xuống đến mức thấp mới vào ngày 27 tháng tư, đư ợc thể hiện qua cây nến đen dài. Ngày hôm sau thị trư ờng mở thấp hơn. Giá mở này trở thành mức giá thấp của ngày và Boeing đóng phiên bên trong thân nến đen của ngày trư ớc đó. Hai cây nến vào ngày 27, 28 tháng tư tạo thành mẫu hình piercing tăng giá.

Hình 4.34 cho thấy một mẫu hình piercing kinh điển trong tuần 26 tháng ba. Hãy lưu ý cách mà thân nến trắng theo sau một thân nến đen dài, rất yếu. Thân nến trắng mở phiên ở một mức giá thấp mới. Sau đó giá tăng mạnh mẽ, đóng phiên giá bị đẩy lên quá nửa thân nến đen phiên trước, đó là một chỉ định mạnh rằng những người đầu cơ giá xuống đã mất khả năng điều kiển thị trường. Thân nến trắng đó là một phiên giao dịch rất sôi động. Nó mở phiên ở mức giá thấp nhất (có nghĩa không có bóng dưới) và đóng phiên ở mức giá cao nhất (không có bóng trên). Lưu ý rằng mẫu hình piercing tăng giá này mang tới sự kết thúc của đợt bán tháo (sell off) bắt đầu với mẫu hình engulfing giảm giá, ngày 19 và 20 tháng ba.

Trên biểu đồ Lúa mì này cũng có một biến thể của mẫu hình piercing trong tuần từ 12 tháng ba. Lý do nó là một biến thể bởi vì thân nến trắng có giá mở dư ới thân nến đen, nhưng không thấp hơn giá thấp nhất của phiên trước. Dù sao, vì thân nến trắng đóng phiên cao hơn nửa thân nến đen của phiên trước đó đã là một dấu hiệu cảnh báo rằng xu hướng giảm giá trước đó đã kết thúc.

Hình 4.35 minh họa cách những biểu đồ hình nến có thể giúp đỡ ngư ời phân tích có một cảm giác về sức khỏe của thị trư ờng nhanh chóng như thế nào. Trong tháng hai năm 1990, có một người môi giới hỏi tôi nghĩ sao về giá lúa mạch. Tôi hiếm khi theo dõi giao dịch lúa mạch. Dù sao tôi cũng xem xét biểu đồ giá của lúa mạch và nói với anh ấy rằng xu thế giảm sút đó có lẽ đã kết thúc. Tại sao? Tôi đã lưu ý anh ấy rằng trong tuần từ 20 tháng hai, một mẫu hình piercing kinh điển xuất hiện. Tôi cũng thấy mẫu hình piercing này trùng với một lần test thành công những mức giá thấp đầu tháng hai. Điều này làm tăng thêm cơ hội cho một đáy đôi (a double bottom) được tạo thành.

Hình 4.36 minh họa xu thế giảm sút - bắt đầu với mẫu hình engulfing giảm giá cuối năm 1984 - chấm dứt vào giữa năm 1987 với sự xuất hiện của mẫu hình piercing. Mặc dù thị trường không phục hồi giá sau tín hiệu đảo chiều ở đáy này, nhưng nó cũng dự báo sự kết thúc của áp lực bán tháo đã kéo thị trường đi xuống từ cuối năm 1984 đến giữa năm 1987. Sau mẫu hình piercing, thị trư ờng trở nên ổn định trong vòng một năm, và sau đó tăng giá trở lại.

NHỮNG NGÔI SAO

Một nhóm của những mẫu hình đảo chiều là những mẫu hình có những ngôi sao. Một ngôi sao là một thân nến nhỏ có khoảng trống với thân nến lớn đi trước nó (hình 5.1). Cũng được coi là ngôi sao miễn là phần thân của nó không chồng lên thân nến trước. Màu sắc của ngôi sao không phải là vấn đề quan trọng.

Những ngôi sao có thể xuất hiện ở những đỉnh hoặc những đáy (đôi khi một ngôi sao trong thời gian một xu thế giảm được gọi là hạt mưa rơi (a rain drop). Nếu ngôi sao là một doji thay vì một thân nến nhỏ, thì nó được gọi là một ngôi sao doji (hình 5.2).

Ngôi sao, đặc biệt là ngôi sao doji, là một cảnh báo xu hướng trư ớc có thể kết thúc. Thân nhỏ của ngôi sao diễn tả một sự bế tắc trong cuộc chiến giữa những người đầu cơ giá lên và đầu cơ giá xuống.

Trong một xu hướng tăng giá, những người đầu cơ giá lên đang tích lũy. Với sự hiện ra của một ngôi sao sau một thân nến trắng dài trong xu hướng tăng, đó là một tín hiệu của sự thay đổi từ những ng ười mua đang điều khiển đến một sự bế tắc giữa bên mua và bên bán. Sự bế tắc này cũng có thể đã xuất hiện bởi sự giảm bớt trong lực mua hoặc sự tăng lên trong lực bán. Ngôi sao như nói với chúng ta sức mạnh của xu hướng tăng giá trư ớc đã đư­ợc xua tan và thị trư ờng dễ bị tấn công bởi một sự đi xuống.

Điều tương tự cũng đúng, nhưng ngược lại, đối với một ngôi sao trong một xu hướng giảm.Nghĩa là, nếu một ngôi sao đi sau một cây nến đen dài trong một xu thế giảm sút, nó phản ánh một sự thay đổi trong môi tr ường kinh doanh. Ví dụ, trong một xu hướng giảm giá, những người đầu cơ giá xuống nắm quyền điều khiển, như ng một sự thay đổi đư ợc nhìn thấy trong sự xuất hiện của ngôi sao, nó báo hiệu một môi trường trong đó những người đầu cơ giá lên và đầu cơ giá xuống đã trở nên cân bằng hơn. Sức mạnh xuống giá đã bị triệt tiêu. Lúc đó không phải là một kịch bản thuận lợi cho một sự tiếp tục giảm giá của thị trư ờng.

Ngôi sao là một phần của bốn mẫu hình đảo chiều, bao gồm: evening star, morning star, doji star và shooting star.

Trong các mẫu hình này, phần thân của ngôi sao có thể màu trắng hoặc đen.

THE MORNING STAR

Mẫu hình the morning star (hình 5.3) là một mẫu hình đảo chiều ở đáy. Tên của nó xuất phát từ việc, như  ngôi sao buổi sáng báo trước bình minh, nó báo tr ước giá cả sẽ cao hơn. Nó gồm có một thân nến cao, đen theo sau là một thân nến nhỏ có khoảng trống giảm giá (hai thân nến này có một mẫu ngôi sao cơ bản). Thân nến thứ ba có thân màu trắng, mà vận động của giá vào bên trong thân nến đen phiên đầu tiên. Mẫu hình này là một tín hiệu cho thấy những người đầu cơ giá lên đã nắm quyền điều khiển. Tôi sẽ phân tích mẫu hình ba cây nến này bằng cách tìm hiểu từng thành phần của nó để hiểu yếu tố căn bản đằng sau phát biểu trên.

Thị trư ờng trong một xu hướng giảm giá khi chúng ta nhìn thấy một thân nến đen. Vào thời gian này những người đầu cơ giá xuống nắm quyền điều khiển. Rồi một thân nến nhỏ xuất hiện. Điều này có nghĩa rằng những ng ười bán đang mất khả năng để điều khiển thị trường xuống thấp hơn. Phiên tiếp theo, thân nến trắng mạnh mẽ chứng minh rằng những người đầu cơ giá lên đã nắm quyền. Một mẫu hình the morning star lý tưởng có một khoảng trống trư ớc và sau thân nến giữa (ngôi sao). Khoảng trống thứ hai này thì hiếm có, nh ưng sự thiếu nó không có vẻ làm yếu đi sức mạnh của mẫu hình này.

Hình 5.4 chỉ ra một mẫu hình morning star tăng giá nảy sinh trong thời gian từ 19 đến 21 tháng m ười hai. Sự tăng giá bắt đầu với mẫu hình này kết thúc bởi mẫu hình dark-cloud cover vào 26, 27 tháng mư ời hai.

Hình 5.5 thể hiện rằng tháng m ười mức giá thấp được tạo ra qua một ngôi sao (thân nến nhỏ tuần đầu tháng mư ời). Tuần sau ngôi sao này, thị trư ờng là một thân nến trắng mạnh mẽ. Thân nến trắng này hoàn thành mẫu hình the morning star. Thân nến đen sau thân nến trắng này hình thành một mẫu hình dark-cloud cover. Thị trường tạm thời giảm giá. Dẫu sao, mẫu hình the morning star cũng trở thành một đáy chính.

Hình 5.6 cho thấy một biến thể của mẫu hình the morning star, trong đó có hơn một ngôi sao (trong trư ờng hợp này có ba "ngôi sao"). Lưu ý rằng thân nến nhỏ thứ ba (ngôi sao thứ ba) là một mẫu hình the hammer, nó và thân nến nhỏ trước nó cũng tạo nên một mẫu hình engulfing tăng giá.

THE EVENING STAR

Mẫu hình the evening star là một mẫu hình giảm giá đối lập với mẫu hình the morning star. Nó giống với tên gọi bởi vì sao Hôm xuất hiện trước khi bóng tối ập xuống. Khi mẫu hình the evening star là một sự đảo chiều ở đỉnh nó cần phải đ ược hành động theo nếu nó xuất hiện sau một xu hướng tăng giá. Ba thân nến tạo thành mẫu hình the evening star (xem hình 5.7).

Hai thân nến đầu tiên là một thân nến dài, trắng theo sau là một ngôi sao. Ngôi sao là gợi ý đầu tiên của một đỉnh. Thân nến thứ ba làm rõ thêm đỉnh và hoàn thành mẫu hình the evening star. Thân nến thứ ba có thân màu đen, mà vận động của giá vào bên trong thân nến trắng phiên đầu tiên. Tôi thích so sánh mẫu hình the evening star với một cái đèn giao thông. Đèn giao thông đi từ màu xanh (thân nến trắng tăng giá) tới màu vàng (tín hiệu cảnh báo của ngôi sao) tới màu đỏ (thân nến đen xác nhận xu hướng trư ớc đó đã chấm dứt).

Về nguyên tắc, mẫu hình the evening star phải có một khoảng trống giữa thân nến thứ nhất và thứ hai và khoảng trống khác giữa thân nến thứ hai và thứ ba. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm của tôi, khoảng trống thứ hai này hiếm khi đư ợc nhìn thấy và không cần thiết cho thành công của mẫu hình này. Mối quan tâm chính phải là phạm vi xâm nhập của thân nến đen ngày thứ ba vào trong thân nến trắng ngày đầu tiên.

Thoạt nhìn hình 5.7 như sự đảo chiều đỉnh hòn đảo (island top) đư ợc sử dụng bởi những nhà kỹ thuật phư ơng Tây. Việc phân tích mẫu hình the evening star tỉ mỉ hơn chỉ ra rằng nó cung cấp một tín hiệu đảo chiều không có được với mẫu hình island top (xem hình 5.8). Đối với mẫu hình island top, mức giá thấp của phiên 2 phải ở trên những mức giá cao của phiên 1 và 3. Tuy nhiên, mẫu hình the evening star chỉ yêu cầu mức giá thấp của thân nến thứ 2 ở trên mức giá cao của thân nến 1 là tín hiệu của sự đảo chiều.

Mẫu hình the evening star trong hình 5.9 cho thấy mùa hè năm 1987 thiết lập mức giá cao mới của Dow trư ớc khi sụp đổ (Tôi tự hỏi nếu những nhà kỹ thuật người Nhật sử dụng những biểu đồ hình nến đang nhìn thấy nó!).

Hình 5.10 cung cấp một ví dụ cách mà những chỉ báo của biểu đồ hình nến có thể truyền một tín hiệu đảo chiều không dễ thấy được với công cụ ph ương Tây ra sao. Giờ cuối cùng ngày 5 tháng chín và hai giờ đầu tiên ngày tiếp theo hình thành một mẫu hình the evening star. Ngôi sao của mẫu hình này không phải là một đỉnh hòn đảo (island top) dựa vào phần trình bày đã nêu trên. Trong ví dụ này, những cây nến cung cấp một chỉ định đảo chiều ở đỉnh không phải là sẵn có với đỉnh hòn đảo (island top) của phư ơng Tây. Cũng lưu ý rằng sự tăng giá chấm dứt với mẫu hình the evening star này được bắt đầu với mẫu hình the morning star vào ngày 4 tháng chín.

Mặc dù thường xuất hiện sau một xu hướng tăng, the evening star cũng có thể xuất hiện ở đỉnh của một dải hẹp nếu nó xác nhận tín hiệu giảm giá khác (hình 5.11). Đó là những gì đã xảy ra vào giữa tháng tư . Phần ngôi sao (ngày thứ hai) của mẫu hình the evening star trùng với một ngưỡng kháng cự. Cơ sở cho ngưỡng kháng cự tại 413$ là đó là một ngưỡng hỗ trợ trước đây từ cuối tháng ba. Ngưỡng hỗ trợ cũ thường đổi thành ngưỡng kháng cự mới. Hãy nhớ điều này! Đó chính là sự hữu ích của quy tắc giao dịch. Chư ơng 11 sẽ trình bày chi tiết hơn về mức hỗ trợ và kháng cự. Trong bất kỳ trư ờng hợp nào, mức kháng cự gần 413$ trùng với sự xuất hiện của mẫu hình the evening star như thế càng củng cố thêm sự đảo chiều của mẫu.

Hình 5.12 cho thấy một mẫu hình the evening star đ ược xác định vào giữa tháng mư ời hai. Ngôi sao là một thân nến trắng mạnh mẽ và theo sau là một thân nến đen, yếu. Một biến thể của mẫu hình the evening star xuất hiện giữa tháng m ười một. Lý do nó là một biến thể đó là mẫu hình the evening star thông thư ờng có một thân nến trắng dài đi trư ớc ngôi sao, rồi thân nến đen sau ngôi sao. Chúng ta không nhìn thấy thân nến dài, trắng hoặc đen ở đây. Chúng ta có thể xem nó như  một đỉnh, tuy nhiên, không

chỉ vì nó gần giống mẫu hình the evening star, mà còn vì sự xuất hiện của mẫu hình hanging man vào ngày 21/11 (phần ngôi sao của mẫu hình the evening star). Giá mở phiên kế tiếp dư ới thân nến của mẫu hình hanging man xác nhận một đỉnh.

Vài yếu tố làm tăng thêm sự chính xác để một mẫu hình evening hoặc morning star có thể là một sự đảo chiều bao gồm:

1. Nếu có một khoảng trống giữa cây nến đầu tiên và phần thân của ngôi sao và sau đó giữa thân ngôi sao và thân nến thứ ba.

2. Nếu thân nến thứ ba kết thúc thật sâu vào trong thân nến đầu tiên.

3. Nếu có khối lượng giao dịch thấp ở thân nến đầu tiên và khối lượng giao dịch cao ở thân nến thứ ba. Điều này cho thấy một sự giảm bớt của lực cho xu hư ớng trư ớc và một sự gia tăng lực điều khiển xu hướng mới.

THE MORNING VÀ EVENING DOJI STARS

Khi một doji có một khoảng trống ở trên một thân nến trong một thị trư ờng lên, hoặc một khoảng trống ở dư ới một thân nến trong một thị tr ường xuống, doji đó đư ợc gọi là một ngôi sao doji.

Hình 5.2 cho thấy những ngôi sao doji. Những ngôi sao doji là một cảnh báo mạnh rằng xu hư ớng trư ớc có khả năng thay đổi. Phiên sau phiên doji cần phải xác nhận sự đảo chiều xu hư ớng. Do đó một ngôi sao doji trong một xu hướng tăng theo sau là một thân nến đen, dài mà kết thúc vào trong thân nến trắng xác nhận một sự đảo chiều ở đỉnh. Một mẫu hình như  vậy đư ợc gọi là the evening doji star (xem hình 5.13). Mẫu hình the evening doji star là một dạng đặc biệt của mẫu hình the evening star thông thường. Mẫu hình the evening star thông thường có một thân nến nhỏ, được gọi là ngôi sao (thân nến thứ hai), nhưng mẫu hình the evening doji star có một doji nh ư một ngôi sao. Mẫu hình the evening doji star thì quan trọng hơn bởi vì nó chứa đựng một doji.

Một ngôi sao doji trong một xu hướng tăng thư ờng là dấu hiệu của một đỉnh sắp xảy ra. Cần chú ý rằng nếu phiên sau ngôi sao doji là một thân nến trắng với khoảng trống cao hơn, tín hiệu giảm giá của ngôi sao doji đ ược phủ nhận.

Trong một xu hướng giảm giá, nếu có một thân nến đen, theo sau là một ngôi sao doji, sự xác nhận một sự đảo chiều ở đáy xuất hiện nếu phiên tiếp theo là một thân nến trắng mạnh mẽ, kết thúc vào trong thân nến đen. Mẫu hình gồm ba thân nến đó được gọi là the morning doji star (xem hình 5.14). Mẫu hình này có thể là một đáy rất có ý nghĩa. Nếu trong một xu thế giảm sút, một thân nến đen với những khoảng trống d ưới ngôi sao doji, tiềm năng tăng giá của ngôi sao doji bị mất hiệu lực. Điều này cho thấy tầm quan trọng để đợi sự xác nhận trong những phiên tiếp theo ngôi sao doji.

Nếu có một một ngôi sao doji có khoảng trống tăng giá với thân nến trắng (mà những bóng nến không chạm nhau) theo sau là một khoảng trống giảm giá với thân nến đen (những bóng nến cũng không chạm nhau), ngôi sao đ ược xem xét như là một tín hiệu của sự đảo chiều ở đỉnh chính. Mẫu hình này được gọi là đứa trẻ bị bỏ rơi ở đỉnh (abandoned baby top), xem hình 5.15. Mẫu hình này rất hiếm khi xảy ra.

Điều tương tự cũng đúng, nhưng ngược lại, cho một đáy. Đặc biệt, nếu có một ngôi sao doji mà có một chỗ trống trư ớc và sau nó (những bóng nến không chạm nhau) nó cần phải được xem là một đáy chính. Mẫu hình này được gọi là đứa trẻ bị bỏ rơi ở đáy (abandoned baby bottom), xem hình 5.16. Mẫu hình này cũng rất hiếm khi xảy ra.

Mẫu hình abandoned baby (đứa trẻ bị bỏ rơi) như  một đỉnh/đáy hòn đảo phư ơng Tây (island top/bottom), ở đó hòn đảo là một doji.

Hình 5.17 minh họa một ngôi sao doji đầu tháng sáu chỉ ra xu hướng giảm giá chấm dứt. Nó vẫn được gọi là một ngôi sao mặc dù bóng của ngôi sao doji có sự gối lên thân nến đen của ngày trư ớc đó. Khi thân nến trắng xuất hiện sau ngôi sao, là sự xác nhận thời kỳ sụt giảm đã qua. Thân nến đen trư ớc và thân nến trắng sau ngôi sao doji làm cho ba thân nến này tạo thành mẫu hình morning doji star.

Trên thân nến ngôi sao doji trên hình 5.18, giá đã rớt xuống 85$. Đây là một vùng hỗ trợ từ đầu tháng bảy. Thực tế rằng mức giá thấp mới không thể giữ được là tín hiệu tăng giá cần đ ược xem xét. Thêm vào mẫu hình the morning doji star này, bạn có hai lý do để nghi ngờ một đáy.

Hình 5.19 là một ví dụ có cả mẫu hình evening doji star và mẫu hình evening star thông thư ờng. Hoạt động giá từ tháng ba qua tháng năm năm 1986 hình thành mẫu hình evening doji star. Mẫu hình này là sự kết thúc của một quá trình tăng giá bắt đầu 

chỉ một ít tháng trước đó. Một đợt bán tháo xảy ra sau mẫu hình evening doji star này. Nó chấm dứt với mẫu hình engulfing tăng giá. Sự tăng giá từ mẫu hình engulfing tăng giá đó kết thúc khi có sự xuất hiện mẫu hình the evening star vào giữa năm 1987.

Trong hình 5.20, chúng ta nhìn thấy mẫu hình the evening doji star vào 17, 18 và 19 tháng ba. Mẫu hình này chấm dứt sự tăng giá bắt đầu với một hammer tuần trư ớc. Trong trư ờng hợp của Dow Chemical, lưu ý là the evening doji star không thực sự là một ngôi sao. Một ngôi sao doji có thân nến (giá mở và giá đóng) cần phải ở trên thân nến của ngày trư ớc, ở đây nó không như vậy. Bởi vậy, cho phép tính linh hoạt hơn với những chỉ báo hình nến với những cổ phiếu. Đối với những người theo dõi thị tr ường cổ phiếu, trong khi thử nghiệm kỹ thuật hình nến, bạn cần phải khám phá rằng những mẫu hình nào có thể phải được sửa đổi.

Trong hình 5.21, có thể nhìn thấy một mẫu hình evening doji star xuất hiện vài tuần trư ớc khi có đợt bán tháo mạnh của năm 1987. Thân nến trung tâm của mẫu hình này (ngôi sao doji) không có khoảng trống ở trên thân nến trắng trư ớc đó như cần phải có đối với một ngôi sao lý tưởng.

Tuy nhiên, như đã đề cập trong hình 5.20, cần phải cho phép có sự thay đổi với khái niệm những khoảng trống khi những cổ phiếu th ường mở cửa tại/hoặc rất gần, giá đóng cửa của phiên trước.

Hình 5.22 bộc lộ một sự kiện rất khác thường và điềm báo xấu sau những mẫu hình evening doji star. Thân nến từ 1 đến 3 hình thành một evening star. Ba phiên tiếp theo, từ 4 đến 6, tạo thành một evening star khác.

THE SHOOTING STAR VÀ THE INVERTED HAMMER

Mẫu hình shooting star gửi một cảnh báo một đỉnh sắp xảy ra. Nó trông như  tên của nó, một sao băng. Nó thông th ường không phải là một tín hiệu đảo chiều chính như mẫu hình the evening star.

Như thể hiện trong hình 5.23, shooting star có một thân nhỏ nằm ở đáy trong phạm vi của phiên với một bóng trên dài. Giống như đối với tất cả các ngôi sao, màu của thân nến không phải là quan trọng. Mẫu hình the shooting star bằng hình ảnh nói với chúng ta rằng thị tr­ường mở phiên gần mức giá thấp của nó, rồi tăng giá và cuối cùng giảm giá kết thúc gần giá mở.

Một mẫu hình shooting star lý t ưởng có một thân nến có khoảng trống với thân nến trước. Tuy nhiên, như sẽ đư ợc thấy trong các ví dụ biểu đồ, khoảng trống này không phải luôn luôn cần thiết. Một thân nến theo khuôn shooting star sau một thời kỳ suy thoái có thể là một tín hiệu tăng giá. Mẫu hình đó được gọi là inverted hammer. Mẫu hình the inverted hammer đư ợc trình bày về sau trong chư ơng này.

Trong hình 5.24, có thể nhìn thấy vào ngày 2 tháng tư, một shooting star giảm giá đang báo hiệu sự rắc rối. 

Hình 5.25 minh họa tốt cho the shooting star và những sự biến đổi của nó. Những sự biến đổi của shooting star bao gồm:

1. Shooting star 1 là một biến thể của shooting star. Nó không phải là ngôi sao lý tư ởng bởi vì không có khoảng trống giữa những thân nến. Tuy nhiên nó cũng chứng minh sự thất bại của những người đầu cơ giá lên để duy trì sự điều khiển thị trường.

2. Shooting star 2 không quan trọng lắm. Nó có một phần tiêu chuẩn của một shooting star (một ngôi sao với một thân nhỏ và bóng trên dài). Tuy thế, nó thiếu một quy tắc quan trọng. Nó không xuất hiện sau một xu hướng tăng mà cũng không ở đỉnh của một dải hẹp. Như vậy, nó cần phải đ ược nhìn như  một ngày thân nhỏ với ý nghĩa nhỏ bé. Một thân nhỏ (a spinning top) phản ánh sự do dự. Trong kinh doanh, sự do dự cần phải được chờ đợi.

3. Shooting star 3 có hình dạng của shooting star như ng nó không phải là một ngôi sao, vì nó không tạo ra khoảng trống từ thân nến trư ớc. Tuy nhiên, ngày này cần phải đư ợc nhìn trong bối cảnh hoạt động giá trư ớc đó. Đỉnh của bóng trên của shooting star 3 là một cuộc tấn công mức giá cao đầu tháng tám tại 6.18$. Những người đầu cơ giá lên tự làm suy yếu mình tại mức đó. Soybeans rồi đóng gần thấp của ngày.

4. Shooting star 4 rất giống shooting star 3. Nó cũng không phải là một shooting star lý tư­ởng khi thân nó không tạo ra khoảng trống từ thân trư ớc. Đó là sự cố gắng khác mà dao động tới gần 6.18$. Nó chứng minh rằng những người đầu cơ giá lên không thể giành được quyền điều khiển.

5. Shooting star 5 là sự thất bại khác ở ngưỡng kháng cự. Bạn phải ngưỡng mộ sự ngoan c­ường của những người đầu cơ giá lên trong việc cố gắng đẩy thị trư ờng lên cao hơn. Với mỗi sự thất bại ở ngưỡng kháng cự 6.18$, chúng ta tự hỏi khi nào những người đầu cơ giá lên sẽ không đẩy lên nữa. Chúng ta có câu trả lời với shooting star 6.

6. Shooting star 6 là cú đẩy cuối cùng bị thất bại. Những người đầu cơ giá lên rồi cũng chịu thua. The hammer là kết thúc của đợt bán tháo (sell off).

Hình 5.26 là ví dụ khác mà mẫu hình shooting star không tạo ra khoảng trống với thân nến trước. Tuy nhiên, nó vẫn là một tín hiệu đảo chiều quan trọng. Một lần nữa chúng ta hãy xem lại shooting star trong bối cảnh thị trường. Nó là sự thất bại khác tại những mức giá cao của quý ba năm 1989. Mẫu hình the shooting star đánh dấu sự kết thúc của quá trình tăng giá bắt đầu với mẫu hình the hammer.

Hình 5.27 thể hiện mẫu hình shooting star kinh điển, xuất hiện vào giờ đầu tiên ngày 29/5. Sự giảm giá tiếp theo dừng lại với mẫu hình engulfing tăng giá vào ngày 4/6. 

Hình 5.28 minh họa hai mẫu hình shooting star báo trước rất ý nghĩa xu hướng giảm giá sau sự xuất hiện của chúng.

Hình 5.29 chỉ ra rằng mẫu hình shooting star cũng là một sự thất bại ở mức giá cao tháng m ười năm 1989.

Hình 5.30 cho thấy một cặp của mẫu hình shooting star. Mỗi cái đánh dấu sự kết thúc của xu hướng trước đó.

THE INVERTED HAMMER

Dù không phải là một mẫu hình có ngôi sao, chúng ta vẫn đề cập đến mẫu hình the inverted hammer trong mục này vì sự giống nhau của nó với mẫu hình the shooting star. Hình 5.31 minh họa một mẫu hình the inverted hammer trông như một mẫu hình shooting star với bóng trên dài và thân nhỏ nằm ở đáy trong phạm vi của phiên giao dịch. Như ng trong khi the shooting star là một mẫu hình đảo chiều ở đỉnh, thì the inverted hammer là một mẫu hình đảo chiều ở đáy. Cũng giống như the hammer, the inverted hammer là một mẫu hình tăng giá sau một xu thế giảm sút.

Quay lại biểu đồ ngô trong hình 5.27. Xem thân nến đầu tiên của mẫu hình engulfing tăng giá ngày 4 tháng 6. Nó có sự xuất hiện tương tự như mẫu hình the shooting star (màu của thân nến không phải là vấn đề). Trong ví dụ này, nó xuất hiện trong thời gian một xu thế giảm sút và như  vậy nó trở thành một mẫu hình the inverted hammer tiềm năng tăng giá.

Thật quan trọng để đợi sự xác nhận tăng giá ở phiên sau phiên inverted hammer. Sự xác nhận có thể là mở phiên tiếp theo ở trên thân của the inverted hammer. Khoảng trống càng lớn thì sự xác nhận càng cao. Một thân nến trắng với giá cả cao hơn có thể cũng là dạng khác của sự xác nhận.

Lý do để tín hiệu tăng giá của the inverted hammer quan trọng bởi vì hoạt động giá mà mẫu hình the inverted hammer xuất hiện là giảm giá.

Trong ví dụ hình 5.27, the inverted hammer được đi theo bởi một thân nến tăng giá trong phiên kế tiếp. Thân nến đó đáp ứng yêu cầu xác nhận hoạt động của giá.

Trong hình 5.32, mẫu hình shooting star 1 làm thị trư ờng dịu đi, về bản chất là chuyển sang dao động yếu từ một xu hướng tăng mạnh mẽ trư ớc đó. Thân nến đen sau shooting star 3 xác nhận một đỉnh khi nó hoàn thành một mẫu hình engulfing giảm giá. Sự giảm giá bắt đầu với shooting star 3 chấm dứt với mẫu hình piercing ngày 27, 28 tháng ba. Mẫu hình này tạo ra nền tảng cho một quá trình tăng giá mà kết thúc ở shooting star 4. Quan sát vị trí xu hướng giảm giá sau shooting star 4 dừng lại - một inverted hammer vào 21 tháng tư, mà đư ợc chứng minh bởi thân nến trắng cao hơn của ngày hôm sau. Nếu thân nến trắng này dài hơn, thì chúng ta có thể nói có một mẫu hình morning star (thân nến đen trước inverted hammer, inverted hammer và thân nến trắng sau nó tạo ra mẫu hình morning star này nếu nến trắng thứ ba dài hơn). Sự vận động bắt đầu với inverted hammer đẩy giá lên, cho đến khi xuất hiện shooting star 5.

Hình 5.33 minh họa những ví dụ khác của inverted hammer. Lưu ý inverted hammer 1 và 2 đư ợc xác nhận bởi giá cả mạnh mẽ hơn ngày tiếp theo. Điều này rất quan trọng. Inverted hammer 2 trở thành bộ phận của mẫu hình the morning star.

DOJI 

Một doji là một thân nến có giá mở và đóng là như nhau. Những ví dụ về doji trong hình 8.1 đến 8.3. Doji là một chỉ báo đảo chiều quan trọng

1. SỰ QUAN TRỌNG CỦA DOJI :

Một phiên doji hoàn hảo có cùng giá mở và giá đóng, tuy vậy có tính linh hoạt nào đó tới quy tắc này. Nếu giá mở và đóng chênh lệch ít, có thể vẫn còn được nhìn nhận như một doji. Một kỹ thuật dựa vào hoạt động thị trường gần đây. Nếu thị trường ở một thời điểm quan trọng, hoặc ở cuối một xu hướng tăng/giảm, hoặc có kỹ thuật khác đưa ra một sự báo động, thì sự xuất hiện của một doji càng quan trọng. Một doji có thể là một cảnh báo quan trọng và tốt hơn là nên cẩn thận với một cảnh báo (có thể sai) hơn là lờ đi một cảnh báo đúng. Lờ đi một doji, với tất cả những sự liên quan của nó, có thể sẽ nguy hiểm.

Doji là một tín hiệu thay đổi xu hướng rõ ràng. Tuy nhiên, khả năng có thể đúng của một sựđảo chiều xu hướng được tăng thêm nếu những thân nến kế tiếp xác nhận tiềm năng đảo chiều của doji. Những phiên doji là quan trọng chỉ trong những thị trường không có nhiều doji. Nếu có nhiều doji trên một biểu đồ cụ thể, thì không nên nhìn sự xuất hiện của một doji mới trong thị trường đó như một sự phát triển đầy ý nghĩa. Đó là lý do tại sao các nhà phân tích thường không sử dụng biểu đồ intra-day với khung thời gian nhỏ hơn 30 phút, vì với khung thời gian nhỏ nhiều thân nến sẽ trở thành doji hoặc gần doji.  

2. DOJI  NHỮNG ĐỈNH

Doji được ưa chuộng bởi khả năng báo hiệu những đỉnh của thị trường của chúng. Điều này đặc biệt đúng sau một thân nến trắng dài trong một xu hướng tăng (hình 8.4). Lý do cho khả năng đảo chiều của doji bởi vì một doji tiêu biểu cho sự do dự. Sự do dự, không chắc chắn, hoặc sự dao động của những người mua sẽ không duy trì một xu hướng tăng. Nó lấy đi sự tin tưởng của những người mua trong việc duy trì xu hướng giá.

Tuy vậy, trong khi doji rất có khả năng báo hiệu những đỉnh, dựa vào sự từng trải, chúng lại để mất tiềm năng đảo chiều trong những xu thế giảm sút. Lý do có thể là một doji thểhiện một sự cân bằng giữa mua và bán bắt buộc. Với những người tham gia thị trường hai chiều, thị trường có thể rơi vì trọng lượng của chính mình. Do đó, một xu hướng tăng có thểđảo chiều nhưng một xu hướng giảm có thể tiếp tục sự xuống giá của nó. Vì thế doji cần nhiều sự xác nhận hơn để báo hiệu một đáy hơn là chúng làm với một đỉnh. Điều này được khảo sát trên hình 8.5.

Trong hình 8.5, sau doji 1, xu hướng tăng của Bonds thay đổi thành đi ngang trong 1 dải hẹp. Đỉnh thị trường ở doji 2. Doji 2 là một long-legged doji (doji chân dài). Một doji chân dài có nghĩa một doji với một hoặc hai bóng rất dài. Doji chân dài thường là những dấu hiệu của một đỉnh thị trường. Chúng ta có thể thấy việc doji 1 và 2 sau những xu hướng tăng là quan trọng như thế nào trong việc chỉ ra một sự đảo chiều xu hướng (31 tháng mười doji xuất hiện giữa một dải hẹp và do vậy mà nó không quan trọng). Sau mỗi đợt giảm giá, doji 3, 4, 5, 6, và 7 xuất hiện. Tuy thế, những doji đó không phải là những sự đảo chiều. Thịtrường vẫn còn tiếp tục xuống sau khi chúng xuất hiện. Chỉ khi doji 8 và 9 hình thành một đáy đôi (a double bottom), đó là một sự đảo chiều xu hướng (mặc dù chỉ là tạm thời). Nhưvậy có thể thấy là ít yêu cầu cho sự xác nhận của một sự đảo chiều ở đỉnh bởi một doji hơn là cho một sự đảo chiều ở đáy.

Hình 8.6 thể hiện quá trình tăng giá bắt đầu từ giữa năm 1987, đưa cho dấu hiệu đầu tiên của sự hiệu chỉnh với doji 1. Cảnh báo khác đã được thể hiện với doji 2, vài tháng sau. Mẫu hình hanging man sau doji 2 xác nhận đỉnh. Một quá trình tăng nhẹ chấm dứt cuối năm 1989ở doji 3. Hình này làm ví dụ cho sự xác nhận sau một doji làm tăng thêm thành công cho một sự đảo chiều xu hướng. Thân nến trắng, xuất hiện một tháng sau doji 1, không xác nhận đỉnh ở doji 1. Sự xác nhận giảm giá chỉ đến sau doji 2. Sau doji 2, sự xác nhận này thểhiện qua mẫu hình hanging man và sau đó là 1 thân nến đen dài. Sự xác nhận doji 3 nhưmột đỉnh thể hiện qua thân nến đen dài sau đó. 

Hình 8.7 cho thấy ba doji, từng cái sau một xu hướng tăng. Doji 1 báo hiệu một đỉnh phụ. Doji 2 không chỉ ra chính xác một sự đảo chiều, nhưng nó được xác nhận bởi một ngày tiếp theo giảm giá. Doji 3 thì quan trọng hơn hai doji trước khi nó đi sau một đợt của ba thân nến trắng dài và nó hình thành một mẫu hình harami cross. Doji 3 nhấn mạnh rằng xu hướng tăng giá trước đó có thể kết thúc. Khi nó xuất hiện, những người mua cần phải bảo vệnhững khoản lợi nhuận. Điều này có nghĩa rằng họ cần phải dừng trạng thái mua, đặt những lệnh dừng để bảo vệ, và/hoặc chuẩn bị trạng thái bán. Vào ngày tiếp theo, thị trường bịbán rõ ràng về phía đóng cửa. Hoạt động này giúp đỡ xác nhận rằng cái nhìn căn bản về xu hướng tăng giá trước đó đã kết thúc. Thị trường sau đó không rõ xu hướng hơn 1 tuần sau. Một mẫu hình giống evening star sau đó xuất hiện. Đó không phải là một mẫu hình evening star lý tưởng khi phần ngôi sao không tạo ra khoảng trống với thân nến trắng dài trước nó, tuy thế nó báo trước một đỉnh.

3. DOJI SAU MỘT THÂN NẾN TRẮNG DÀI

Hình 8.8 cho thấy rằng một doji sau một thân nến trắng dài, đặc biệt sau một xu hướng tăng giá kéo dài, thường cảnh báo trước là rất gần một đỉnh. Hình này có ba ví dụ về khái niệm này:

1. Trong tháng tám 1989, một doji đi theo hai chân nến trắng dài. Sau doji 1, xu hướng tăng giá trước đó (bắt đầu với một mẫu hình hammer tăng giá từ 22 tháng tám) đã chuyển thành đi ngang (side way).

2. Doji 2, trong đầu tháng mười một, đi sau một thân nến trắng dài. Khi doji này nảy sinh, sự tăng giá trước nó chấm dứt. Trong một vài ngày, Dow có rơi xuống dưới mức thấp ở cuối tháng mười.

3. Trong vài tuần cuối năm 1989, Dow có một đợt tăng mạnh đẩy giá lên trên mức 2800. Hãy nhìn vào sự xuất hiện của doji 3. Thực tế doji này đến sau một thân nến trắng dài có nghĩa rằng những người mua, điều khiển ngày trước (được chứng minh bởi thân nến trắng dài) đã mất điều khiển. Thân nến đen ngày sau tăng thêm xác suất thị trường đã tạo đỉnh. Nó cũng hoàn thành một mẫu hình evening doji star.

Trong ví dụ này, chúng ta thấy sức mạnh khác của biểu đồ hình nến; chúng cung cấp một tín hiệu không phải có thể thu được với kỹ thuật phân tích phương Tây. Với những nhà kỹthuật không phải người Nhật, nếu một kết thúc và mở của phiên là như nhau, thì không có dự báo liên quan nào được đưa ra. Với người Nhật, một phiên như vậy, là một tín hiệu trạng thái đảo chiều. 

Hình 8.9 minh họa một sự tăng giá có mức độ bắt đầu với một thân nến giống với the hammer vào giữa tháng ba (bóng dưới không đủ dài mà cũng không là thân nến đủ nhỏ để là một hammer), lên đến cực điểm với một doji sau một nến trắng dài. Ngày doji này cũng là phần ngôi sao của một mẫu hình evening doji star. Một mẫu hình hammer “lý tưởng” vào ngày 6 tháng tư chấm dứt xu hướng giảm giá.

Hình 8.10 minh họa một xu hướng tăng chấm dứt với một doji đi sau một thân nến trắng dài. Hình 8.11 chỉ ra rằng một quá trình tăng giá bắt đầu với the hammer vào 19/4. Nó chấm dứt vào 23/4 khi một doji xuất hiện sau một thân nến trắng dài.

4. THE LONG-LEGGED DOJI VÀ THE RICKSHAW MAN

The long-legged doji là một doji quan trọng đặc biệt ở những đỉnh. Như trong hình 8.2, doji này có những bóng trên và dưới dài, rõ ràng phản ánh sự do dự. Suốt cả phiên, thị trường được đẩy lên cao, rồi xuống thấp rõ ràng. Rồi nó đóng tại/hoặc rất gần, giá mở đầu. Nếu sựmở và đóng nằm ở giữa trong trung tâm phạm vi của phiên họp, thì nó được gọi là một rickshaw man. Với người Nhật, bóng trên hoặc bóng dưới rất dài đại diện một thân nến, mà họ gọi là “mất cảm giác về phương hướng”.

Trong hình 8.12, cuối tháng tư và đầu tháng năm, những phiên giao dịch rõ ràng tạo ra một đợt của những ngày doji hoặc gần doji. Những thân nến nhỏ này là một tín hiệu ốm yếu sau một đợt tăng giá. Chúng chỉ báo thị trường mệt mỏi. The long-legged doji (trong ví dụ này, hai rickshaw man) là tín hiệu sự nguy hiểm chính (mặc dù giá mở và đóng trong ngày đầu tiên không như nhau, chúng vẫn được xem xét một ngày doji). Long-legged doji này phản ánh thị trường có dấu hiệu “mất cảm giác về phương hướng”. Nhóm những ngày thân nến nhỏ trong một phạm vi hẹp này hình thành một đỉnh chính.

Hình 8.13 có một gợi ý rõ ràng về một đỉnh với long-legged doji (ở đây giá mở và đóng đủgần để xem xét như một phiên doji). Ngày long-legged doji cũng hoàn thành một mẫu hình harami và một tweezers top. Sự hội tụ này của những yếu tố kỹ thuật là những manh mối đầy sức thuyết phục chỉ ra một đỉnh.

Hình 8.14 minh họa một đỉnh giá vàng vừa đạt đến với long-legged doji trong tháng giêng. Những bóng trên dài trong đầu tháng hai đã xác nhận ngưỡng kháng cự tạo ra bởi long-legged doji.

5. THE GRAVESTONE DOJI

The gravestone doji (hình 8.3) là một doji đặc biệt khác. Nó hình thành khi giá mở và đóng ởmức thấp của phiên. Đôi khi nó có thể được tìm thấy ở những đáy thị trường, nhưng sởtrường của nó là báo hiệu những đỉnh. Tên của gravestone doji được đặt theo hình dạng của nó. Như chúng ta đã biết, nhiều thuật ngữ kỹ thuật tiếng Nhật dựa trên những từtương tự trong quân đội, và trong ngữ cảnh này, gravestone doji cũng đại diện những phần mộ của những người đã chết để bảo vệ lãnh thổ của họ.

Lý do cho những dấu hiệu giảm giá của gravestone doji sau một quá trình tăng giá có thểđược giải thích đơn giản. Thị trường mở ở giá thấp của phiên. Rồi nó tăng giá (tốt nhất là tạo ra một giá cao mới). Rồi sự rắc rối xuất hiện đối với những người mua khi giá cả lao thẳng xuống mức thấp của phiên. Bóng trên càng dài và mức giá cao càng cao thì gravestone doji càng mang nhiều ý nghĩa giảm giá.

Hình 8.15 chỉ ra rằng ngày 11, 12/4 là những ngày doji. Doji thứ hai là cái đáng quan tâm nhất. Nó là một gravestone doji. Trong trường hợp này, nó đánh dấu sự kết thúc cuộc chiến giữa người mua và người bán, khi đường hỗ trợ tăng giá bị bẻ gãy.

Hình 8.16 minh họa gravestone doji ngày 8 tháng mười (bóng dưới rất nhỏ không làm mất hiệu lực của gravestone) thì đảo chiều đặc biệt cho chứng khoán này. Vào ngày ấy, một giá cao mới được chạm tới. Nó là cơ hội của những người mua để đẩy giá lên, nhưng họ đã thất bại. Bởi cuối cùng giá đã kéo về tới gần mức thấp của ngày. Đã có sự rắc rối tại ngưỡng 41$ trước đó. Bắt đầu từ 23 tháng chín, ba thân nến đã phát triển một mẫu hình stalled. Gravestone doji xác nhận sự cung cấp tại 41$.

Một số người có thể đã chú ý rằng một gravestone doji trông như một shooting star. Gravestone doji, ở những đỉnh, là một phiên bản đặc biệt của một shooting star. Shooting star có một thân nhỏ, nhưng gravestone doji - là một doji - không có thân. Gravestone doji thì ý nghĩa giảm giá hơn một shooting star.

6. DOJI NHƯ NGƯỠNG HỖ TRỢ VÀ KHÁNG CỰ

Doji, đặc biệt ở những đỉnh hoặc những đáy quan trọng, có thể trở thành những vùng kháng cự hoặc hỗ trợ mạnh. Hình 8.17 cho thấy bóng dưới của tuần doji trong đầu tháng chín năm 1989 trở thành một vùng hỗ trợ. Doji đóng vai trò đỉnh trong cuối tháng chín trở thành một mức kháng cự.

Trong hình 8.18, mẫu hình rickshaw man (thân nến đủ nhỏ để xem xét nó như một doji) vào giờ đầu tiên của ngày 21 tháng ba đưa ra một đầu mối rằng xu hướng tăng giá trước đấy có thể bị đảo chiều. Một doji xuất hiện hai giờ sau mang lại thêm sự xác nhận cho điều này. Hai doji này trở thành là một vùng kháng cự quan trọng.

7. THE TRI-STAR

The tri-star (xem hình 8.19) là một mẫu hình hiếm có, nhưng có ý nghĩa đảo chiều rất quan trọng. The tri-star được hình thành bởi ba doji. Doji giữa là một ngôi sao doji. Tôi có thểchưa nhìn thấy một tri-star lý tưởng, như trong hình 8.19, nhưng những ví dụ sau cho thấy ý nghĩa của mẫu hình này, thậm chí trong những biến thể của nó.

Hình 8.20 chỉ ra rằng sau ngày 15 tháng chín, có hai doji đi theo sau là một thân nến nhỏ. Biến thể này của một mẫu hình tri-star là sự bắt đầu của một đợt tăng giá 15$.

Hình 8.21 thể hiện cuối tháng chín 1989, Dow bắt đầu một quá trình tăng giá lên đến cực điểm trong một đợt của ba doji đầu tháng mười. Mặc dù không phải là một mẫu hình tri-star lý tưởng, ba doji trong một sự tăng giá là một tín hiệu báo điềm dữ. Lưu ý là hai doji cũng hình thành một mẫu hình tweezers top.

System phức tạp #1

FRIDAY, 20 NOVEMBER 2009 19:45 VIỆT TRADER

User Rating: / 1 

PoorBest 

System phức tạp #1 (Đa điều kiện)

Cặp tiền : bất kỳ

Khung thời gian : 1 giờ + 30 phút + 5 phút

Công cụ : EMA, 21 EMA, 50 EMA, Bollinger Band (20, 2).

Nguyên tắc mở giao dịch :

Trên đồ thị 5 phút, đối với xu hướng lên, kiểm tra :

·                                 Nếu 14 EMA nằm trên 21 EMA thì kiểm tra tiếp

·                                 Nếu 14 EMA và 21 EMA đều nằm trên 50 EMA thì kiểm tra tiếp

·                                 Nếu 50 EMA nằm trong đường Bollinger Band thì tiếp tục

Chuyển sang đồ thị 30 phút và kiểm tra :

·                                 Nếu candle có giá đóng bên trên giá mở và nằm trên đường 14 EMA hoặc 21 EMA, lại kiểm tra giống như trên 1 lần nữa :

·                                 Nếu 14 EMA nằm trên 21 EMA thì kiểm tra tiếp

·                                 Nếu 14 EMA và 21 EMA đều nằm trên 50 EMA thì kiểm tra tiếp

·                                 Nếu 50 EMA nằm trong đường Bollinger Band thì

=> mở giao dịch “Long” hoặc tiếp tục kiểm tra đồ thị 1 giờ với cùng điều kiện của đồ thị 30 phút và sau đó thực hiện “Long”. Nếu có 1 điều kiện không thỏa thì không thực hiện giao dịch.

Ngược lại, đối với xu hướng xuống, trên đồ thị 5 phút kiểm tra :

·                                 Nếu 14 EMA nằm dưới 21 EMA thì kiểm tra tiếp

·                                 Nếu 14 EMA và 21 EMA đều nằm dưới 50 EMA thì kiểm tra tiếp

·                                 Nếu 50 EMA nằm trong đường Bollinger Band thì tiếp tục

Chuyển sang đồ thị 30 phút và kiểm tra :

·                                 Nếu candle có giá đóng bên dưới giá mở và chạm đường 14 EMA hoặc 21 EMA, lại kiểm tra giống như trên 1 lần nữa :

·                                 Nếu 14 EMA nằm dưới 21 EMA thì kiểm tra tiếp

·                                 Nếu 14 EMA và 21 EMA đều nằm dưới 50 EMA thì kiểm tra tiếp

·                                 Nếu 50 EMA nằm trong đường Bollinger Band thì

=> mở giao dịch “Short” hoặc tiếp tục kiểm tra đồ thị 1 giờ với cùng điều kiện của đồ thị 30 phút và sau đó thực hiện “Short” trên đồ thị 5 phút. Nếu có 1 điều kiện không thỏa thì không thực hiện giao dịch.

Nguyên tắc đóng giao dịch : đóng giao dịch khi một điều kiện không còn thỏa hoặc khi đạt đến mức lợi nhuận mà bạn mong muốn (đừng quá tham nhé!).

System phức tạp #2 (02 điều kiện cắt nhau)

FRIDAY, 20 NOVEMBER 2009 19:47 VIỆT TRADER

User Rating: / 1 

PoorBest 

Cặp tiền : GBP/USD (ưu tiên) hoặc cặp tiền bất kỳ

Khung thời gian : 3 giờ (ưu tiên) hoặc 4 giờ

Công cụ : SMA 200, SMA 100, SMA 15, EMA 5 và MACD (12,26,9)

Nguyên tắc mở giao dịch :

Do chúng ta sử dụng các công cụ “không ổn định cho đến kết thúc” (EMA, SMA, MACD) cho nên bạn luôn luôn sử dụng tín hiệu SAU KHI candle báo hiệu đóng.

1.             Không bao giờ mở giao dịch nếu giá cách SMA 100 hoặc SMA 200 ít hơn 25 pips

2.             Mở giao dịch khi giá cắt qua đường SMA 100 (biến động mạnh) hoặc SMA 200 (biến động rất mạnh) và chỉ sau khi candle hiện tại đã đóng bên kia đường SMA. Các đường SMA không bị cắt thường xuyên.

3.             Đặt stop loss ban đầu là 50 pips. Xem các mức kháng cự /hỗ trợ gần nhất và điều chỉnh theo các mức đó, stop loss có thể lên đến 70-90 pips nhưng không nên nhỏ hơn 40 pips.

4.             Mở giao dịch theo hướng đường EMA 5 khi 02 điều kiện thỏa :

1.                   Đường EMA 5 cắt đường SMA 15 “chắc chắn” – nghĩa là candle hiện tại đóng và 02 đường chắc chắn cắt nhau.

2.                   Các đường MACD cắt nhau và candle hiện tại đóng.

Hai điều kiện cắt nhau không bắt buộc xảy ra đồng thời. Các đường MACD có thể cắt nhau trước hai đường EMA và SMA hoặc sau một khoảng thời gian ngắn, nhưng khoảng cách cắt nhau này không nên nhiều hơn 5 candle.

Nếu 02 điều kiện cắt nhau này không thỏa thì không mở giao dịch.

Nguyên tắc đóng giao dịch : đóng giao dịch với cùng nguyên tắc mở giao dịch : khi 02 điều kiện cắt nhau xảy ra lần nữa. Nếu chỉ xảy ra 01 điều kiện cắt nhau thì chúng ta vẫn giữ giao dịch.

Profit target :

·                                 Có thể đặt mức thu lợi theo mong muốn của bạn và khi giá chạm đến mức thu lợi thì sử dụng  trailing stop để đi tiếp.

·                                 Hoặc dùng mức thu lợi 50 pips, bắt đầu sử dụng trailing stop sau khi đạt được 50 pips

·                                 Hoặc có thể thu lợi theo nguyên tắc đóng giao dịch

Hãy theo các số đánh dấu trên đồ thị :

#1 – EMA 5 cắt SMA 15, các đường MACD cũng cắt nhau, giá không gần đường SMA 100 – mở giao dịch Long.

#2 – Một lần nữa chúng ta có 02 điều kiện cắt nhau – đóng giao dịch Long và lập tức mở giao dịch Short.

# 3 – 02 điều kiện cắt nhau lại xuất hiện và candle báo hiệu đã đóng giá cách xa đường SMA 100 vì vậy chúng ta đóng Short và mở Long.

Vâng, đến thời điểm này chúng ta giao dịch khi thị trường sideway vì vậy không có lợi nhuận hoặc có thể kết quả âm một ít. Giải pháp : giao dịch vào giờ hoạt động, đối với GBP/USD thì giao dịch trong phiên giao dịch của London và New York.

#4 – Chúng ta đang có giao dịch Long – đây là lúc đóng giao dịch và mở Short.

#5 – Các đường trung bình cắt nhau tuy nhiên MACD không cắt do đó vẫn giữ giao dịch.

Chúng ta thấy giá cắt qua đường SMA 100 và đóng bên dưới nó – đây là tín hiệu Sell tốt nhưng chúng ta đang có giao dịch Short đang mở.

#6 – MACD cắt nhau, tiếp theo là các đường trung bình cắt nhau – tại thời điểm này chúng ta đóng giao dịch Short. Vậy thì có mở ngay giao dịch Long không? Không, bởi vì giá rất gần đường SMA 100. Chúng ta cần đợi đến khi candle vượt qua và đóng bên trên đường SMA 100 thì mở Long.

#7 – Các đường MACD cắt nhau nhưng không có gì phải lo lắng khi điều kiện cắt thứ 2 từ các đường trung bình không xảy ra.

#8 – sgiống như #7.

#9 – Thời điểm đóng Long và mở Short.

System phức tạp #3 (MACD phân kỳ)

FRIDAY, 20 NOVEMBER 2009 19:49 VIỆT TRADER

User Rating: / 1 

PoorBest 

Cặp tiền : EUR/USD (ưu tiên) hoặc cặp tiền bất kỳ

Khung thời gian : 30 phút

Công cụ : MACD (5,26,1), Stochastic (14,3,3), EMA 3, SMA 13

Nguyên tắc mở giao dịch : chờ xuất hiện phân kỳ giữa giá và MACD hoặc giữa giá và Stochastic.

Khi phân kỳ xuất hiện, đợi EMA 3 và SMA 13 cắt nhau thì mở giao dịch theo hướng của EMA 3. Đặt stop loss 26 pips.

Thu một nửa lợi nhuận khi đạt 20 pips, phần còn lại đi tiếp theo giá bằng trailing stop.

Phân kỳ trên Stochastic cũng được sử dụng giống như trên MACD. Lý do sử dụng cả 02 công cụ MACD và Stochastic là vì khi phân kỳ xuất hiện trên một công cụ thì công cụ kia có thể vẫn chưa xuất hiện.

System phức tạp #4 (Trade theo xu hướng với các đường EMA)

FRIDAY, 20 NOVEMBER 2009 19:50 VIỆT TRADER

User Rating: / 1 

PoorBest 

Cặp tiền : bất kỳ

Khung thời gian : 1 ngày, 1 giờ hoặc 30 phút

Công cụ : EMA 80, EMA 21, EMA 13, EMA 5, EMA 3 và RSI (21)

Nguyên tắc mở giao dịch :

EMA 80 cho biết chiều của xu hướng chính. Khi giá bên trên đường EMA 80 – xu hướng lên, và ngược lại là xu hướng xuống.

EMA 21 và EMA 13 cho biết chiều của xu hướng hiện tại. Khi đường EMA 13 nằm trên đường EMA 21 – xu hướng lên, và ngược lại là xu hướng xuống.

RSI (21) trên 50 – xu hướng lên, dưới 50 – xu hướng xuống

Các giao dịch được mở khi đường EMA 5 và EMA 3 cắt nhau theo chiều của xu hướng :

·                                 Buy khi EMA 3 cắt qua EMA 5 theo hướng lên trong thị trường đang có xu hướng lên VÀ cả EMA 5 và 3 đều cắt EMA 21 và 13 VÀ RSI trên 50

·                                 Sell khi khi EMA 3 cắt qua EMA 5 theo hướng xuống trong thị trường đang có xu hướng xuống VÀ cả EMA 5 và 3 đều cắt EMA 21 và 13 VÀ RSI dưới 50

Chú ý :

·                                 Có thể mở thêm giao dịch khi EMA 3 và 5 cắt nhau trở lại và sau đó rất nhanh lại tạo một tín hiệu cắt nhau lần nữa.

·                                 Khi có tín hiệu mở giao dịch, bạn phải luôn luôn chờ đến khi candle đóng và các điều kiện đều chắc chắn thì mới tiến hành mở giao dịch.

Nguyên tắc đóng giao dịch : khi EMA 13 cắt EMA 21 lần nữa. Theo dõi EMA 80 đổi hướng, cũng như RSI cắt trở lại mức 50 – trong những trường hợp này lập tức đóng giao dịch.

System phức tạp #5 (Trade theo Fibonacci)

FRIDAY, 20 NOVEMBER 2009 19:51 VIỆT TRADER

User Rating: / 7 

PoorBest 

Một số bạn muốn tìm kiếm một system dùng trên những khung thời gian nhỏ hơn. Đây là một system khá tốt có thể đáp ứng yêu cầu của bạn.

Khi một trader quyết định sử dụng các khung thời gian nhỏ (VD: 10 phút, 15 phút, 30 phút, 1 giờ) thì độ rủi ro sẽ luôn luôn cao hơn so với sử dụng các khung thời gian lớn hơn. Do đó, điều quan trọng là có một system thực sự tốt để có thể báo cho bạn những cơ hội giao dịch với khả năng thắng cao và một điều quan trọng không kém là system có thể cho bạn biết chính xác điểm đóng giao dịch mà không cần phải luôn luôn theo dõi biến động của giá.

System dưới đây sẽ cần đến kiến thức cơ bản về cách sử dụng công cụ Fibonacci, và cũng lưu ý rằng không phải mọi trader đều thấy thoải mái khi sử dụng Fobonacci trong Forex.

Cặp tiền : bất kỳ

Khung thời gian : bất kỳ khung thời gian nào lớn hơn 5 phút và nhỏ hơn 3 giờ

Công cụ : WMA 5

Nguyên tắc mở giao dịch :

Nhìn vào các đợt sóng biến động giá. Tìm 02 điểm “swing high” và “swing low” mới nhất, gọi 02 điểm này là A và B.

Kéo Fibonacci từ điểm A đến điểm B. Biết rằng hướng kéo Fibonacci (lên hoặc xuống) chính là xu hướng, nếu xu hướng không rõ ràng thì kẻ Fibonacci theo cả 02 hướng.

Sau khi kẻ Fobonacci xong, đợi và theo dõi giá thoái lui (retrace) để quyết định mở giao dịch. Trong quá trình giá thoái lui có 03 điều kiện để mở giao dịch :

1.             Giá phải chạm đường WMA 5.

2.             Giá ít nhất phải chạm mức thoái lui Fibonacci 0.382.

3.             Mức thoái lui Fibonacci 0.618 phải không bị thất bại, nghĩa là giá không đóng bên dưới (xu hướng lên) hoặc bên trên (xu hướng xuống) mức 0.618. Giá có thể chạm hoặc qua mức này nhưng cuối cùng mức 0.618 phải đẩy lùi cuộc tấn công.

Khi 03 điều kiện nói trên đều thỏa, mở giao dịch Long khi candle đóng bên trên trên đường WMA 5, và ngược lại mở giao dịch Short khi bên dưới đường WMA 5.

Stop loss được đặt trên (xu hướng xuống)/ dưới (xu hướng lên) mức thoái lui Fibonacci 0.618 khoảng 4-5 pips. Profit target đặt ở mức Fibonacci mở rộng 1.618.

System đơn giản #6 (System 5x5)

SUNDAY, 16 AUGUST 2009 21:29 VIỆT TRADER

User Rating: / 0 

PoorBest 

Đây là một system khá triển vọng. System này được xây dựng dựa trên một thời gian dài tìm hiểu và theo dõi biến động của giá.

Cặp tiền : bất kỳ

Khung thời gian : 1 ngày

Công cụ : 5 SMA và RSI (5)

Nguyên tắc mở giao dịch : BUY khi giá vượt lên trên đường 5 SMA và tăng thêm 10 pips, đường RSI phải trên 50. SELL khi giá cắt xuống dưới đường 5 SMA và giảm thêm 10 pips, đường RSI phải dưới 50.

Nguyên tắc đóng giao dịch : không đặt.

System này rất đơn giản và cho kết quả khá ấn tượng.

Luôn luôn nhớ rằng chỉ mở giao dịch khi candle báo hiệu đóng.

System hoặc ý tưởng giao dịch này có thể sử dụng để tạo nên những system hoàn chỉnh hơn.

System đơn giản #7 (System cực kỳ đơn giản)

SUNDAY, 16 AUGUST 2009 21:30 VIỆT TRADER

User Rating: / 0 

PoorBest 

Một trader có thể quyết định kế hoạch giao dịch chỉ cần nhìn thoáng qua đồ thị trong vài giây. Một hệ thống giao dịch cực kỳ đơn giản là ước mơ của các trader bận rộn.

Cặp tiền : bất kỳ

Khung thời gian : 1 ngày

Công cụ : 5 EMA, 12 EMA và RSI (21)

Nguyên tắc mở giao dịch : BUY khi đường 5 EMA quay lên và cắt qua đường 12 EMA, RSI trên 50. SEL khi đường 5 EMA quay xuống và cắt qua đường 12 EMA, RSI dưới 50.

Nguyên tắc đóng giao dịch : đóng giao dịch khi đường 5 EMA và 12 EMA cắt nhau lần nữa hoặc khi RSI cắt trở lại qua mức 50.

Bởi vì đây là một system dựa theo đồ thị ngày nên có thể xem đây là một system đơn giản theo xu hướng của đồ thị ngày. Bởi vì EMA là công cụ báo hiệu trễ nên chúng thực sự hữu ích cho bạn trong trường hợp này. Tín hiệu do các đường EMA cắt nhau xuất hiện sau khi thị trường lắng dịu một thời gian đủ sức cho một xu hướng mới được thiết lập.

System đơn giản #8 (Breakout system đơn giản)

SUNDAY, 16 AUGUST 2009 21:31 VIỆT TRADER

User Rating: / 4 

PoorBest 

System này dựa theo nguyên tắc nắm bắt sớm biến động của giá khi giá bắt đầu thiết lập xu hướng mới trong ngày.

Như bạn đã biết, thị trường Frankfurt mở cửa lúc 2:00 am EST (tương đương 7:00 am GMT), sau đó một giờ thì tới thị trường lớn khác là London mở cửa vào lúc 3:00 am EST (tương đương 8:00 am GMT). Phiên giao dịch của EU là phiên giao dịch chính đầu tiên của một ngày giao dịch.

Vậy chúng ta làm gì?

Chúng ta bắt đầu với khung thời gian 1 giờ, trên cặp GBP/USD và không cần các công cụ khác.

Chúng ta sẽ chú ý đến phạm vi giá biến động trong khoảng thời gian 1:00 am EST đến 2:00 am EST. Chúng ta tìm giá cao nhất và thấp nhất trong khoảng thời gian này và vẽ 02 đường ngang song song tạo thành một kênh ngang dựa trên 02 giá cao nhất và thấp nhất.

Bây giờ thì bạn hãy chuyển sang khung thời gian nhỏ hơn, chúng ta sử dụng khung thời gian 5 phút và chờ candle 5 phút đóng hoàn toàn bên ngoài đường kênh xuất hiện, đây chính là tín hiệu để bạn mở giao dịch với candle tiếp theo.

Bạn có thể sử dụng Stop loss 20 pips hoặc phía bên kia của kênh ngang.

Mục tiêu thu lợi của bạn ít nhất là 20 pips. Bạn có thể lựa chọn một số phương pháp sau : đóng giao dịch để chốt lời, hoặc bắt đầu đi theo giá bằng cách sử dụng trailing stop bằng mức giá thấp nhất của candle 5 phút trước đó…

System cơ bản #9 (Kênh xu hướng ngang)

SUNDAY, 16 AUGUST 2009 21:18 VIỆT TRADER

User Rating: / 0 

PoorBest 

Tạo một kênh hỗ trợ/kháng cự dựa vào các đỉnh và đáy lặp đi lặp lại trước đó và thực hiện giao dịch khi kênh bị phá vỡ.

System giao dịch này không cần đến các công cụ khác và có thể áp dụng cho mọi cặp tiền, mọi khung thời gian khi giá giao động sideway trong một phạm vi nhỏ.

Nguyên tắc mở giao dịch : khi thị trường sideway, dựa vào các đỉnh và đáy trên đồ thị để vẽ 02 đường kháng cự và hỗ trợ. Khi giá phá thủng một trong hai đường và candle hiện tại đóng bên ngoài đường kênh thì thực hiện mở giao dịch buy/sell theo hướng phá thủng kênh. (Nếu giá phá thủng đường kênh nhưng không đóng bên ngoài đường kênh thì xóa bỏ đường kháng cự/hỗ trợ đã vẽ trước đó và vẽ lại đường khác theo đỉnh/đáy mới).

Nguyên tắc đóng giao dịch : không đặt, tuy nhiên thường khi giá phá vỡ kênh sẽ đi một đoạn bằng độ rộng của kênh.

Ưu điểm : rất đơn giản và cực kỳ hữu hiệu. System này có thể mang lại lợi nhuận cho bạn trong hầu hết các giao dịch, nếu muốn thu lợi nhanh thì trader thường đóng ngay candle đầu tiên sau khi mở giao dịch.

Khuyết điểm : Những order gần với đường kênh rất dễ bị mở bởi các biến động giá đột ngột tại các mức hỗ trợ/ kháng cự trước khi sự phá vỡ kênh thực sự xảy ra.

Chỉ báo MACD

TUESDAY, 06 JANUARY 2009 19:39 VIỆT TRADER

User Rating: / 7 

PoorBest 

MACD là chỉ báo thị trường rất phổ biến khi sử dụng công cụ phân tích kỹ thuật. Nó được cấu thành bởi 3 thành phần chính.

                      1.    Đường MACD:     EMA (12): Đường trung bình giá trong 12 phiên gần nhất

                                                        Trừ EMA (26): Đường trung bình giá trong 26 phiên gần nhất

                      2.    Đường tín hiệu MACD: là đường EMA (9) của đường MACD

                      3.    Đường biểu đồ MACD: là MACD trừ đi đường tín hiệu MACD

Chỉ báo MACD là công cụ rất có hiệu quả và nhiều tác dụng. Có 3 cách chính khi sử dụng chỉ báo  MACD:

-    Sự giao cắt của đường trung bình giá.

-    Biểu đồ MACD

-    Sự phân kỳ của MACD

MACD và sự giao cắt của đường trung bình giá (MA)

Phương pháp sử dụng đầu tiên này là sự nghiên cứu hiện tượng giao cắt của các đường trung bình giá.

-    Khi đường trung bình ngắn hạn EMA (12) cắt và nằm trên đường trung bình dài hạn EMA (26), điều này tương đương với đường MACD cắt và nằm trên đường zero.

-    Khi đường trung bình ngắn hạn EMA (12) cắt và nằm phía dưới đường trung bình dài hạn EMA (26), điều này tương đương với MACD cắt và nằm phía dưới đường zero.

Tín hiệu mua: Tín hiệu mua xuất hiện khi đường MACD cắt và nằm phía trên đường zero.

Tín hiệu bán: Khi MACD cắt và nằm phía dưới đường zero thì tín hiệu bán xuất hiện

Những tín hiệu cảnh báo này thường xuất hiện rất trễ. Nếu sử dụng sự giao cắt của đường tín hiệu và đường MACD thì tín hiệu mua bán sẽ xuất hiện sớm và nhanh hơn.

Tín hiệu mua: Xuất hiện khi đường MACD cắt và nằm phía trên đường tín hiệu của MACD.

Tín hiệu bán: xuất hiện khi đường MACD cắt và nằm phía dưới đường tín hiệu của MACD.

MACD và sự giao cắt của các đường trung bình là một trong những cách sử dụng kỹ thuật chỉ báo MACD. Sử dụng biểu đồ MACD và sự phân kỳ của MACD là 2 phương pháp quan trọng để đưa ra những cảnh báo đảo chiều.

Biểu đồ MACD

Biểu đồ MACD là 1 dạng khá đơn giản, nó nói lên sự khác biệt giữa đường MACD và đường tín hiệu của MACD

Có 2 điều quan trọng nằm trong biểu đồ MACD:

-    Hội tụ: Biểu đồ MACD co rút lại, điều này mang ý nghĩa là có sự thay đổi hướng đi của đường giá đang chậm lại. Đường MACD có khuynh hướng tiến gần với đường tín hiệu của MACD.

-    Phân kỳ: Biểu đồ MACD giãn ra hoặc là tăng độ cao(không kể chiều âm hay dương), điều này mang ý nghĩa làm cho hướng đi của xu hướng giá tăng lên nhanh và chắc chắn.

Khi đường giá di chuyển theo xu hướng giá một cách mạnh mẽ thì biểu đồ MACD sẽ tăng độ cao. Khi biểu đồ MACD không tăng độ cao nữa hoặc nó bắt đầu co rút lại thì thị trường lúc đó có khuynh hướng suy giảm nhẹ và cảnh báo có nhiều khả năng đường giá sẽ có đảo chiều trong thời gian sắp tới.

Tín hiệu mua: Khi biểu đồ MACD nằm dưới đường zero và bắt đầu hội tụ về hướng đường zero.

Tín hiệu bán: Khi biểu đồ MACD nằm trên đường zero và bắt đầu hội tụ về hướng đường zero.

Lưu ý: Biểu đồ MACD không chỉ cho ra các tín hiệu mua bán khá chắc chắn mà còn được sử dụng cho việc cảnh báo khả năng thay đổi hướng đi của đường giá.

Sự Phân Kỳ của MACD

Khoảng trống - Gaps

TUESDAY, 06 JANUARY 2009 19:33 VIỆT TRADER

User Rating: / 3 

PoorBest 

Khoảng trống (Gaps) được xem là 1 phần không thể thiếu trong kỹ thuật sử dụng đồ thị nến Nhật, đây là 1 kỹ thuật vô cùng quan trọng trong đồ thị nến. Để định nghĩa đơn giản 1 khoảng trống như sau: khoảng trống xuất hiện khi giá mở cửa không trùng với giá đóng cửa của ngày hôm trước, có nghĩa là không có giá trị và cũng không có khối lượng giao dịch trao tay giữa khoảng trống này.

Một khoảng trống tăng giá (Gap Up) xảy ra khi giá mở cửa ngày thứ 2 lớn hơn giá đóng cửa của ngày thứ 1. Trái lại, 1 khoảng trống giảm giá (Gap Down) xảy ra khi giá mở cửa của ngày thứ 2 thấp hơn giá đóng cửa của ngày thứ 1.

Có rất nhiều diễn biến tâm lý ẩn đằng sau khoảng trống này, chúng có thể thường được sử dụng như sau:

·                                 Kháng cự (Resistance): Khi đường giá tạo ra 1 khoảng trống giảm giá thì khoảng trống đó đóng vai trò là đường kháng cự lâu dài và bền vững.

·                                 Hỗ trợ (Support): Khi đường giá tạo 1 khoảng trống tăng giá thì khoảng trống đó có thể đóng vai trò là ngưỡng hỗ trợ của đường giá trong tương lai lâu dài và bền vững.

Ví dụ minh hoạ khoảng trống tăng:

Thông thường sau 1 khoảng trống thì đường giá sẽ có khuynh hướng lấp đầy khoảng trống đó, đây là 1 hiện tượng rất thường xảy ra. Hãy tưởng tượng khoảng trống như là 1 lỗ thủng trên bức tranh đồ thị giá và chúng ta cần phải khoả lấp lỗ thủng đó. Thông thường sau khi đường giá lấp đầy khoảng trống thì nó có khuynh hướng tiếp tục tiếp tục di chuyển theo hướng đã tạo ra khoảng trống trước đó.

Như ví dụ minh hoạ trên, đường giá đã đảo chiều tăng giá trở lại (cùng chiều với hướng di chuyển đường giá tạo ra khoảng trống trước đó), sau khi khoảng trống được lấp đầy thì lúc này nó (khoảng trống) đóng vai trò như là mức hỗ trợ. Các nhà đầu tư và đầu cơ xem đây là vùng hầu như chắc chắn sẽ tăng lên.

Tương tự, ví dụ minh hoạ khoảng trống giảm:

Khoảng trống giảm đóng vai trò là vùng kháng cự và khoảng trống tăng đóng vai trò như là vùng hỗ trợ.

Khoảng trống là vùng rất quan trọng trong đồ thị giá, chúng có thể giúp nhà đầu tư sử dụng phân tích kỹ thuật tốt hơn trong việc tìm kiếm những vùng hỗ trợ và kháng cự. Nó cho ta biết vùng hỗ trợ và kháng cự làm việc như thế nào, và chúng ta có thể sử dụng chúng để xây dựng, điều chỉnh chiến lược kinh doanh của mình cho phù hợp. Khoảng trống là phần rất quan trọng trong mẫu đồ thị nến, nó là 1 dạng mẫu đồ thị đặc biệt cần được lưu ý.

Chỉ báo Parabolic SAR

TUESDAY, 06 JANUARY 2009 19:02 VIỆT TRADER

User Rating: / 4 

PoorBest 

Parabolic SAR là chỉ báo kết hợp giữa giá và thời gian để hình thành những tín hiệu mua – bán trên thị trường. Parabolic SAR cũng là công cụ hiệu quả để xác định vùng đặt điểm “dừng lỗ” (stop loss).

Đây là chỉ báo rất tốt về xu hướng tiếp theo của thị trường, một câu châm ngôn của những nhà đầu tư nhiều kinh nghiệm là "Xu hướng là bạn của chúng ta".Welles Wilder cho đây là chỉ báo đảo chiều (reversal) đáng tin cậy về mặt thời gian/giá. Nó bao gồm một lọat các điểm gọi là các điểm Stop And Reverse (SAR). Nếu phá vỡ những mức bảo vệ này thì thị trường sẽ được coi là đảo chiều.

Giống như giá bắt đầu 1 xu hướng thì những điểm SAR cũng bắt đầu chuyển động chậm vượt ra ngòai và hình thành 1 xu hướng đi lên.

Công thức thính toán: SAR tomorrow = SAR today + AF (EP trade - SAR today)

Trong đó:

- AF bắt đầu là 0.02 (giá trị mặt định) và sau khi tăng thêm 0.02 cho mỗi thanh giá và hướng tăng đột biến cho đến khi giá trị nó là 0.2.

- EP = điểm tăng giá quá xa. Mỗi khi giá tăng trong 1 xu hướng tăng giá nó sẽ thiết lập ghi nhớ các vị trí hiện hành. Ngược lại khi thị trường xuống giá thì nó sẽ ghi nhớ những điểm đặt đó.

Đây là chỉ báo giúp cho nhà đầu tư hiểu rõ 1 xu hướng. Nó là 1 chỉ báo dễ sử dụng. Một điều hiển nhiên là đường giá luôn đi xuyên qua SAR trong mọi hướng. Nhà đầu tư nên dừng lại và suy ngẫm khi SAR bị xuyên qua.

Tín hiệu mua: Mua khi giá đóng cửa nằm trên đường Parabolic SAR và đồng thời đường Parabolic SAR phải cao hơn đường giá. Có nghĩa là khi đường Parabolic SAR thay đổi từ giá trị cao chuyển sang giá trị thấp thì nhà đầu tư nên “dừng lại”; thực hiện mua rải hay bán khống để chờ tín hiệu đảo chiều xu hướng mạnh xảy ra hoặc có thể mua để đầu tư dài hạn.

Tín hiệu bán: Tín hiệu bán xuất hiện khi giá đóng cửa nằm dưới Parabolic SAR và đồng thời đường Parabolic SAR thấp hơn đường giá. Ngay tại thời điểm này đường Parabolic SAR thay đổi từ mức thấp hơn đường giá lên mức cao hơn đường giá. Các nhà đầu tư nên “dừng lại”, cũng có thể bán để thoát khỏi xu hướng dài hạn hiện hành và chờ sự đảo chiều trong ngắn hạn.

Đặt điểm “dừng lỗ”

Hiệu quả lớn nhất khi dùng Parabolic SAR để xác định vùng đặt điểm dừng lỗ là nhằm bảo vệ lợi nhuận hoặc giảm thiểu thua lỗ trong việc kinh doanh chứng khoán.

Parabolic SAR là công cụ xác định vùng đặt điểm dừng lỗ hiệu quả, được diễn tả theo 2 lập luận sau:

1.             Đặt điểm dừng lỗ thấp hơn giá của nhà đầu tư dài hạn mua vào hoặc trên mức giá của nhà đầu tư ngắn hạn chấp nhận mua. Sử dụng Parabolic SAR như là một công cụ điều chỉnh điểm dừng lỗ, điểm dừng lỗ sẽ từ từ tiến lên theo xu hướng dài hạn và thấp hơn xu hướng ngắn hạn. Nhưng hiệu quả nhất thì nhà đầu tư nên chốt lại mức lợi nhuận kỳ vọng của mình.

2.             Parabolic SAR hành động như là khoảng dừng về mặt thời gian (thời điểm dừng). Thời điểm dừng được sử dụng tùy vào từng nhà đầu tư. Nếu sự mong đợi của nhà đầu tư đó không xảy ra thì lý trí của nhà đầu tư đó bắt đầu bị buông lỏng một cách tư nhiên, tức là kỷ luật kinh doanh, mua-bán bị vi phạm. Khi đó, nhà đầu tư nên phải thoát khỏi thị trường. Tương tự như vậy, Parabolic SAR đã kết hợp với thời gian để làm cho đường giá hoạt động theo sự tính toán của nhà đầu tư. Nếu đường giá không di chuyển theo hướng đã tính toán trước thì Parabolic SAR sẽ là tín hiệu để xác định thời điểm thoát khỏi thị trường.

Average Directional Index (ADX)

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 11:09 VIỆT TRADER

User Rating: / 4 

PoorBest 

Đây là chỉ báo tiếp theo của xu hướng thị trường được ông Welles Wilder chế tạo ra, công thức tính tóan hết sức rắc rối và khó hiểu nhưng may thay nó lại rất dễ sử dụng.

ADX khi được kết hợp với cặp +DMI (chỉ số hướng tích cực) và -DMI (chỉ số hướng tiêu cực) sẽ cung cấp đầy đủ và chính xác cho hệ thống mua bán (trading system). Nó có thể sẽ trở thành 1 chỉ báo đầy đủ chi tiết trong 1 không gian giới hạn nhưng vẫn thỏa mãn được những khái niệm chung.

Đầu tiên chúng ta cần nói về directional movement indicator (chỉ số hướng vận động) + hoặc -DM. Nó được định nghĩa đơn giản như là phần lớn nhất hướng ra ngòai phía trước phạm vi xác định. Nếu là ở mức cao thì nó là hướng vận động tích cực (+DM), còn thấp thì là hướng vận động tiêu cực (-DM). DM có giá trị 0 khi sự giao động trong phạm vi là nhỏ.

Nói 1 cách chính xác hơn thì chỉ số này được tính tóan trên cơ sở là chỉ số trung bình của +DMI và -DMI trong phạm vi đang xét. Thông thường nó sẽ có giá trị từ 0 cho đến 100 bởi vì nó chỉ là 1 chỉ số có giá trị thuần túy củ đường hướng lên hay xuống của thị trường, số dương hay âm biểu thị cho sự vận động lên hay xuống của thị trường.

Chỉ số DMI gồm 2 đường thẳng khác biệt, và thường được sử dụng đường dưới -DMI là màu đỏ, đường trên +DMI là màu xanh.

Average Directional Index (ADX)

Bước tiếp theo là ta tính tóan chỉ số hướng (direction index) bao gồm: +DMI và -DMI, nó tỉ lệ với nhau trong cùng 1 phạm vi. Nó biểu thị cho vùng trung bình giữa 2 vùng tăng và giảm của xu hướng thị trường. Nó được cấu tạo bởi 2 chỉ báo +DI và -DI. DX là được tính tóan bở sự chênh lệch của 2 chỉ báo này, lấy tổng 2 chỉ báo này chia cho 100 ta được con số phần trăm, con số này sẽ giao động từ 1cho tới 50. Làm trơn chỉ số này trong thị trường ngắn hạn, Wilder đã dùng kỹ thuật trung bình và đã tính tóan ra chỉ số ADX.

Cách sử dụng:

1. Đầu tiên ta có tín hiệu mua khi +DMI cắt và nằm trên -DMI (lưu ý giá có qua điểm cực đại trước khi mua hay không), tín hiệu bán khi -DMI cắt và nằm trên +DMI.

2. Tính hiệu cắt của DMI cho tín hiệu bán rất chính xác khi thị trường đang trong 1 xu thế rõ ràng (trending market), và không chính xác khi thị trường ảm đạm, không có xu hướng (sideways market). Wilder đưa ra cách sử dụng khi thị trường đang trong 1 xu hướng. Khi ADX tăng và điểm tăng phải trên +DMI và -DMI. Nếu điểm tăng này ở giá trị cao thì đường giá sẽ chống lại với xu hướng cơ bản. Điều đáng nhớ là ADX là chỉ báo xu hướng nhưng nó không phản ánh hướng đi của xu hướng.

Trong ví dụ dưới đây, ngay tại đường thẳng đứng đầu tiên cho signal sell (vì có sự cắt của DMI), cái signal sell này được hỗ trợ bởi ADX vì tại điểm này ADX cao hơn các giá trị +/-DMI. Đây là sự đảo chiềucủa xu hướng nhằm củng cố thị trường nó tương tự như tình trạng không xu hướng (non-trending) hay ảm đạm (sideways market). Tiếp đó ở đường thẳng đứng thứ 2 là 1 tín hiệu mua (+DMI cắt và nằm trên -DMI), ngay tại đó giá trị của ADX vẫn cao hơn giao điểm của DMI và vẫn lớn hơn 20 (vẫn là 1 xu hướng)

DMI là 1 chỉ báo được duy trì phần lớn khi thị trường là tăng (bull market), còn ADX tăng là chỉ báo thị trường sẽ tiếp tục xu hướng hiện hành.

Fibonnacci

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 11:03 VIỆT TRADER

User Rating: / 1 

PoorBest 

Vài nét về lịch sử:

Leonardo Fibonacci da Pisa sinh năm 1170 trong một gia đình mẹ là công chức nhà nước và bố là thương gia. Ông nổi lên như một nhà toán học xuất chúng và được ghi nhớ với việc phát hiện ra dãy số Fibonacci.

Sau chuyến đi đến Egypt, Fibo xuất bản cuốn sách toán học nổi tiếng, trong đó ông đã đề cập đến một chuỗi các số mà sau này gọi là dãy số Fibo: 1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89 >> cho tới vô cùng.

Điểm đặc biệt thứ nhất của dãy Fibo là nếu chúng ta cộng một số bất kì trong dãy với một số đứng liền kề trước đó, chúng ta sẽ nhận được số tiếp theo. Ví dụ: 3+5 = 8 và cứ như vậy cho đến vô cùng.

Điểm đặc biệt thứ hai là: sau một vài số đầu tiên trong dãy số, nếu chúng ta chia một số bất kì trong dãy cho số đứng liền kề ngay sau đó, giá trị nhận được là 0.618 và nếu chia cho số liền kề thứ 2 sau đó, giá trị nhận được là 0.382. Ví dụ: 34/55 = 0.618; 34/89 = 0.382. Trong giao dịch, chúng ta chỉ dừng lại ở mức 0.382 mà không quan tâm đến những tỉ số nhỏ hơn. Việc tính toán và vẽ các mức Fibo có thể được thực hiện các công cụ vẽ đồ thị.

Ba tỉ số Finonacci chúng ta sẽ sử dụng là: 0.382, 0.5, và 0.618. Vậy làm thế nào chúng ta sử dụng những tỉ số này trong giao dịch hàng ngày.

Trong xu thế tăng giá, xác định khoảng cách giữa điểm A và điểm B trong đó điểm A là điểm thấp nhất (cực tiểu) gần đây. Trong xu thế giảm giá, xác định khoảng cách giữa điểm A và điểm B trong đó điểm A là điểm cao nhất (cực đại) gần đây

Dưới đây là đồ thị của JPY/USD. Điểm A có mức giá 119.09 và điểm B là 123.16. Khoảng cách giữa A và B là 4.07 và vì thế ta có 38.2% của 4.07 là 1.55. Lấy 123.16 (điểm B) trừ đi 1.55 ta được 121.61. Đó chính là mức giá tại 38.2% retracement. Làm tương tự như trên, 50% retracement sẽ là 121.13 và 61.8% retracement sẽ là 120.68

Ví dụ tiếp theo là với đồ thị Dow Jone, điểm A là 7916.08 và điểm B là 7877.70. Khoảng cách giữa A và B là 38.38 và vì thế ta có 61.8% của 38.38 là 23.72. Cộng 7.877.70 (điểm B) với 23.72 ta được 7901.42. Đó chính là mức giá tại 61.8 % retracement. Điểm khác biệt duy nhất giữa xu thế tăng giá và giảm giá là chúng ta cộng tỉ số Fibonacci với mức giá tại B trong trường hợp tăng giá và trừ đi trong trường hợp giảm giá.

Điều ngạc nhiên là mức hỗ trợ và kháng cự của các chứng khoán thường xảy ra tại các mức Fibonacci. Đó là lí do chính vì sao các traders thường sử dụng kỹ thuật này cho việc phân tích và dự đoán. Ngoài ra, một lí do khác nữa là các mức Fibonacci thường trùng hợp với thứ tự tự nhiên của thị trường.

Vậy làm thế nào để sử dụng kĩ thuật này: trước hết phải xác định xu thế của thị trường. Tiếp đó, ngay sau khi phát hiện được một retracement sắp sửa xuất hiện, tiến hành tính các mức retracement. Sau đó, chúng ta tham gia thị trường tại mức 38.2% retracement và đặt mức thua lỗ (stop loss) ngay sau mức 61.8% retracement.

Nếu chúng ta cảm thấy sự chênh lệch giữa mức 38.2% và 61.8% là quá lớn và quá rủi ro, ta có thể rút ngắn khung thời gian lại, sử dụng kỹ thuật tương tự nhưng mức thua lỗ nhỏ hơn.

Bollinger Bands - Dải băng Bollinger

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 10:57 VIỆT TRADER

User Rating: / 4 

PoorBest 

1. Tính toán

Về tính toán và vẽ đồ thị, dải băng Bollinger sử dụng độ lệch chuẩn và được vẽ bởi hai đường đồ thị trên cùng đồ thị giá của cổ phiếu: một đường goi là băng trên (upper band) và một đường gọi là băng dưới (lower band):

-      Băng trên được vẽ bởi giá cổ phiếu cộng với độ lệch chuẩn.

-      Băng dưới được vẽ bởi giá cổ phiếu trừ đi độ lệch chuẩn.

Công thức tính độ lệch tiêu chuẩn ( standard deviation )

Với X = giá chứng khoán , E() = bình quân

2. Ý nghĩa

Trong bài viết về độ lệch chuẩn đã chỉ ra xác suất giá cổ phiếu nằm trong dải băng Bollinger là xấp xỉ 70%. Nếu giá cổ phiếu không nằm trong dải băng Bollinger, tức là thuộc về phần xác suất 30% còn lại thì các tín hiệu này cần phải chú ý.

-      Khi sức tăng của giá quá mạnh, cầu lớn hơn cung nhiều, giá cổ phiếu sẽ vượt quá băng trên (upper band). Nếu giá cổ phiếu liên tục nằm trên dải băng trên thì điều này có nghĩa là sức tăng giá của cổ phiếu vẫn rất mạnh và được khẳng định chắc chắn.

-      Khi sức giảm của giá quá mạnh, cung lớn hơn cầu nhiều, giá cổ phiếu sẽ đi thấp hơn băng dưới (lower band). Nếu giá cổ phiếu liên tục nằm dưới dải băng dưới thì điều này có nghĩa là sức giảm giá của cổ phiếu vẫn rất mạnh và được khẳng định chắc chắn.

Nếu giá cổ phiếu vượt ra ngoài dải băng bollinger rồi trở lại vào trong dải băng ngay sau đó thì đây là tín hiệu cảnh báo về sự suy giảm sức mạnh của tăng hoặc giảm giá khi sự tăng hoặc giảm giá đã đạt đến sự căng thẳng quá mức. Điều này giống như sự bùng phát cuối cùng rồi lịm dần của sự sống vào thời điểm hấp hối.

3. Cách sử dụng:

Dựa vào giá vượt ra ngoài dải bollinger: khi giá cổ phiếu vượt ra ngoài dải Bollinger và tiếp tục nằm ở ngoài dải thì xu thê tăng hoặc giảm giá hiện tại sẽ tiếp tục:

-      Nếu giá nằm quá dải trên (upper band) và kéo dài liên tục thì tín hiệu này khẳng định xu thế tăng sẽ tiếp tục tăng mạnh.

-      Nếu giá nằm dưới dải dưới (lower band) và kéo dài liên tục thì tín hiệu này khẳng định xu thế giảm sẽ tiếp tục giảm mạnh.

Dựa vào giá vượt ra ngoài dải bollinger rồi quay trở lại nằm trong dải:

-      Nếu giá cổ phiếu vượt quá dải trên (upper band) rồi sau đó thiết lập một đỉnh giá khác nằm trong dài bollinger thì tín hiệu này cảnh báo sự chấm dứt xu thế tăng giá hiện tại và chuyển sang xu thế giảm hoặc dập dềnh. Tín hiệu này sẽ là cảnh báo đảo chiều sang giảm và được khẳng định chắc chắn hơn nếu sau đó giá cổ phiếu rớt xuống dưới đường trung bình động tương ứng của dải băng Bollinger Band.

-      Nếu giá cổ phiếu xuống dưới dải dưới (lower band) rồi sau đó thiết lập một đáy giá khác nằm trong dài bollinger thì tín hiệu này cảnh báo sự chấm dứt xu thế giảm giá hiện tại và chuyển sang xu thế tăng hoặc dập dềnh. Tín hiệu này sẽ là cảnh báo đảo chiều sang tăng và được khẳng định chắc chắn hơn nếu sau đó giá cổ phiếu vượt lên trên dưới đường trung bình động tương ứng của dải băng Bollinger Band.

Tuy nhiên để có kết luận chính xác hơn về các dấu hiệu đảo chiều này, cần phải có sự kết hợp với các phương pháp phân tích khác.

Xét ví dụ về công ty Cổ phần Vận Tải Hà Tiên – HTV sử dụng Dải băng bollinger tính trong 20 phiên.

Nguồn đồ thị http://www.vietstock.com.vn 

-      Tại các thời điểm xác định bằng các đường kẻ màu đỏ và xanh, giá cổ phiếu đã vượt quá băng trên (upper band) hoặc xuống thấp hơn băng dưới (lower band), nếu so sánh lên đồ thị RSI sẽ thấy các thời điểm này tương ứng với các ngưỡng siêu mua và siêu bán. Điều này khẳng định sức tăng (hoặc giảm giá) hiện tại là rất mạnh. Đặc biệt trong giai đoạn tháng 2, các đỉnh của giá liên tục được thiết lập cao hơn băng trên (upper band) khẳng định sức tăng giá rất mạnh và còn tiếp diễn dài trong giai đoạn này.

-      Tại các vùng được khoanh tròn là các tín hiệu giá cổ phiếu vượt ra ngoài dải băng bollinger rồi trở lại vào trong dải băng này.

-      Vòng tròn số 1 và số 4 là khoảng thời gian mà một đỉnh của giá cổ phiếu được thiết lập nằm trên băng trên và một đỉnh tiếp theo sau đó được thiết lập nằm trong dải băng bollinger. Tín hiệu này cảnh báo về sự đảo chiều của giá cổ phiếu sang giảm và càng được khẳng định chắc chắn hơn khi giá cổ phiếu đi xuống dưới đường trung bình động SMA-20.

-      Vòng tròn số 2 và số 3 là khoảng thời gian mà một đáy của giá cổ phiếu được thiết lập nằm thấp hơn băng dưới và một đdáy tiếp theo sau đó được thiết lập nằm trong dải băng bollinger. Tín hiệu này cảnh báo về sự đảo chiều của giá cổ phiếu sang tăng. Tuy nhiên vòng tròn số 3 được khẳng định chắc chắn và có sức tăng mạnh mẽ hơn vì giá cổ phiếu sau đó đã xuyên phá và vượt lên trên đường trunh bình động SMA – 20.

RSI (Relative Strength Index)

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 10:52 VIỆT TRADER

User Rating: / 2 

PoorBest 

Chỉ số RSI giải quyết vấn đề của những dịch chuyển bất thường và giải quyết nhu cầu về một biên độ giới hạn trên và dưới không đổi. Chỉ số RSI được xác định theo công thức sau:

RSI = 100 - 100/(1+RS)

RS = Trung bình giá đóng cửa tăng của x ngày/Trung bình giá đóng cửa giảm của x ngày

Số ngày được sử dụng trong tính toán là 14 ngày theo đồ thị hàng ngày; sử dụng đồ thị tuần số ngày sẽ là 14 tuần. Để xác định được các giá trị trung bình đi lên, chúng ta cộng tổng số điểm đạt được trong các ngày giá tăng trong 14 ngày và chia tổng số đó cho 14. Để xác định giá trị trung bình đi xuống, chúng ta cộng tổng số điểm bị mất trong 14 ngày giá giảm và chia lại cho 14. Sau đó “cường độ tương đối - RS” được xác định bằng cách chia trung bình giá tăng cho trung bình giá giảm. Giá trị RS này sau đó được đưa vào trong công thức tính RSI. Số lượng ngày có thể thay đổi bằng cách thay đổi giá trị của x.

Ví dụ minh họa:

Đường RSI (sử dụng RSI 14 ngày) trong trường hợp này chúng ta có thể lấy 2 mức biên là 80 (overbought) và 20 (eoversold), biểu đồ đã cho thấy RSI đang đi xuống khi gặp mức 80 như vậy giá sẽ không thể vượt hơn mức trước đó và bạn nên mua khi giá rớt xuống tới lúc mà đường RSI chạm mức 30 ( chúng ta nên chọn 30 thay cho 20 trong trường hợp này). Tuy nhiên để rõ hơn thì cần kết hợp với đường Stochastic Oscillator hay ADX.

Sử dụng RSI trong hệ thống mua bán (trading system):

1. Các mức của RSI: 70% (thường dùng là 80%) là mức mà nhà đầu tư bán quá nhiều (overbought), 30% (thường dùng là 20%) là mức mà nhà đầu tư mua quá nhiều (oversold). Mua khi thị trường ở mức oversold và bán khi thị trường ở overbought lưu ý chỉ áp dụng điều này cho 1 thời kỳ biến động còn khi đang hình thành 1 xu hướng thì sẽ không đúng.

2. EMA như là vai trò của đường hỗ trợ hay kháng cự (support or resistance). Mua khi RSI tăng lên trên EMA và bán khi RSI rơi xuống dưới EMA. EMA là 1 tính hiệu trễ và thường đưa ra tín hiệu mua khi vượt qua thời kỳ uptrend.

3. Bullish divergence (tín hiệu phân kỳ mua): tín hiệu mua khi đường giá đang đi xuống trong khi RSI thì đang tăng, tương tự bearish divergence (tín hiệu phân kỳ bán): tín hiệu bán khi đường giá tăng trong khi đường RSi thì lại giảm. Mặt hạn chế của sự phân kỳ (divergence) là chúng cố gắng báo trước 1 xu hướng đảo chiều thay vì xác định theo 1 xu hướng.

4. Dạng đồ thị: xu hướng, kháng cự/hỗ trợ, tam giác (triangles), đầu-vai (head and shoulders) khi áp dụng RSI nó giống như đường dẫn cho giá. Cái dở là dạng đồ thị: xu hướng, tam giá... là quan điểm cá nhân phụ thuộc vào chủ quan của từng traders nên không thể sử dụng trong trading system.

Bố cục của RSI và Bollinger Bands: Chúng ta áp dụng Bollinger Bands (BB) để nghiên cứu chỉ báo RSI. Tín hiệu mua xảy ra khi RSI rớt xuống dưới dải dưới của BB (lower BB), tín hiệu mua xuất hiện khi RSI tăng vượt qua dải trên của BB (upper BB). Đây là những chỉ báo tương phản xu hướng vì chúng ta cần phải sử dụng thêm vài bộ lọc của xu hướng. Chúng ta có thể thêm vào chỉ báo MACD vào bộ lọc xu hướng như sau: nếu MACD > 0 thì xu hướng đi lên.

Hình minh họa:

Phân tích kĩ thuật phần 1

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 09:37 VIỆT TRADER

User Rating: / 0 

PoorBest 

Lịch sử của Phân tích kỹ thuật bắt nguồn từ cách đây hơn 100 năm, từ một người tên là Charles H. Dow. Ông là người đã sáng lập lên tạp chí phố Wall (The Wall Street Journal). Sau nhiều năm nghiên cứu, năm 1884 ông đưa ra chỉ số bình quân của giá đóng cửa của 11 cổ phiếu quan trọng nhất thị trường Mĩ thời gian đó. William Peter Hamilton là người thực sự mang lại sức sống cho những nghiên cứu của Dow bằng việc tiếp tục nghiên cứu và xuất bản cuốn sách “The Stock Market Barometer” (Phong vũ biểu thị trường chứng khoán) vào năm 1922. Suốt những năm 1920 và 1930, Richard W. Schabacker là người đã đã đi sâu vào những nghiên cứu của Dow và Hamilton, Schabacker là người đã đưa ra khái niệm đầu tiên về Phân tích kỹ thuật. Schabacker từng là chủ biên của tạp chí Forbes nổi tiếng. Ông chỉ ra rằng những dấu hiệu mà lý thuyết Dow đưa ra được với chỉ số bình quân thị trường vẫn giữ nguyên giá trị và tầm quan trọng khi áp dụng vào đồ thị của từng cổ phiếu riêng lẻ. Điều này đã được ông thể hiện và chứng minh trong cuốn sách của mình: “Stock Market Theory and Practice, Technical Market Analysis and Stock Market Profit”. Như vậy những cơ sở đầu tiên của Phân tích kỹ thuật đã xuất hiện từ trong lý thuyết Dow, nhưng phải đến Schabacker – người cha của Phân tích kỹ thuật hiện đại tiếp đó là Edward và Magee với “Technical Analysis of Stock Trend” (cuốn sách đã được tái bản 8 lần) và ngày nay là John Murphy, Jack Schwager, Martin Pring, … thì mới thực sự ra đời cái tên “Phân tích kỹ thuật ” và được nâng cao, tổng kết thành một hệ thống lý luận quan trọng trong phân tích đầu tư trên thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính nói chung.

Các quan điểm về Phân tích kỹ thuật

Nguyên lý của thành công trong đầu tư chứng khoán là dựa trên giả định rằng trong tương lai người ta sẽ tiếp tục lặp lại những sai lầm mà họ đã mắc phải trong quá khứ.

(Edwin Lefevre, Reminiscenses of a Stock Operator)

Thị trường chứng khoán hay bất kì thị trường nào đều không bao giờ phản ánh đúng giá trị thực của một hàng hóa được trao đổi bên trong đó mà nó phản ánh giá trị mà nhà đầu tư nhận thức được và cho rằng nó đáng giá như thế.

Giá của bất kì một chứng khoán đã cho nào đều không chi ra mối quan hệ thực tế giữa cung và cầu mà là phản ánh kỳ vọng tương lai của cung và cầu.

Vậy “Phân tích kỹ thuật” là gì? Nhiều nhà quan sát coi Phân tích kỹ thuật là một tập hợp những mánh khóe và cần đến sự tập luyện nghiêm túc thực sự. Những người vận dụng kết quả sau quá trình tập luyện ấy còn được gọi là “pháp sư”. Nhiều người hiểu về tính đúng đắn của công việc này nhưng họ vẫn đặt ra câu hỏi về tính chính xác trong dự báo các xu thế chính trên thị trường chứng khoán và thị trường các loại hàng hóa khác. Bản thân trong những người sử dụng Phân tích kỹ thuật cũng không có một sự thống nhất về quan điểm về bản chất của Phân tích kỹ thuật vì Phân tích kỹ thuật có thể dược hiểu thuần túy là một khoa học mà cũng có thể được hiểu là một nghệ thuật.

Hiểu một cách rộng nhất thì Phân tích kỹ thuật luôn cố gắng nghiên cứu tình trạng “sức khỏe hiện tại của toàn thị trường hay của mỗi chứng khoán với mục đích là nhằm dự báo biến động tương lai của giá bằng cách dựa trên những kinh nghiệm có được với các hình mẫu kĩ thuật (hay mô hình kĩ thuật) thị trường đã xuất hiện trong quá khứ và áp dụng lại khi có mô hình tương tự xuất hiện. Giả thuyết căn bản trong Phân tích kỹ thuật là những kiến thức đã có về giá và hình mẫu đồ thị trong quá khứ sẽ được sử dụng “tham khảo” nhằm xác định giá có xu thế như thế nào trong tương lai đối với mỗi thị trường cụ thể.

Ta sẽ xem xét một số định nghĩa đã được đưa ra về Phân tích kỹ thuật :

Nick và Barbara Apostolous định nghĩa Phân tích kỹ thuật là “quá trình dự báo biến động giá chứng khoán trong tương lai dựa trên cơ sở phân tích những biến động trong quá khứ của giá và các áp lực cung cầu có ảnh hưởng đến giá”. Tuy nhiên định nghĩa này làm cho Phân tích kỹ thuật dường như trở lên gần tương đương với phân tích cơ bản - là quá trình ước lượng giá trị chứng khoán hay hàng hóa bằng cách phân tích các điều kiện kinh tế tài chính cơ bản mỗi công ty, mỗi ngành,…"

Norman Fosback, trong cuốn “Stock Market Logic”:

“Nếu như bản chất của phân tích cơ bản là việc xác định giá trị và xác định mua hay bán cổ phiếu khi giá trên thị trường sai lệch khỏi giá trị thực, thì Phân tích kỹ thuật lại dựa trên 2 giả thuyết cơ bản khác hoàn toàn. Thứ nhất, những ước lượng mang tính chủ quan là quá mơ hồ và không thích hợp và thứ hai là dao động giá trong tương lai có thể dự đoán được qua việc phân tích biến động giá trong quá khứ, phân tích mối quan hệ cung - cầu và một số yếu tố khác có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả thị trường “

Clifford Pistolese đã đưa ra định nghĩa khá đầy đủ như sau: “Phân tích kỹ thuật là việc sử dụng biểu đồ giá và khối lượng giao dịch làm cơ sở cho các quyết định đầu tư. Cơ sở căn bản cho hướng tiếp cận này là ở chỗ các thông tin về giá và khối lượng trên biểu đồ phản ánh tất cả những gì diễn ra về việc mua hay bán một loại cổ phiếu. Vì biểu đồ cổ phiếu tóm tắt và phản ánh kết quả thực của các giao dịch đã thực hiện nên Phân tích kỹ thuật là cơ sở duy nhất cho việc ra các quyết định đầu tư”

R. W. Schabacker, người cha đẻ của Phân tích kỹ thuật hiện đại đã mô tả Phân tích kỹ thuật như “một môn khoa học mới”. Schabacker giải thích rằng tất cả những yếu tố phân tích cơ bản hợp lý đều mang đến tình trạng thị trường di xuống và chúng được đánh giá, tự động đưa vào và lưu lại trong các mức cân bằng thực trên biểu đồ chứng khoán. Ông còn mô tả sâu hơn đặc tính của biểu đồ cổ phiếu hay biểu đồ các loại hàng hóa khác như là một bộ nhớ hoàn hảo của thị trường và khẳng định chắc chắn rằng giá trị chủ yếu của một biểu đồ giá vượt ra ngoài ý nghĩa thực tế là một bức tranh ghi lại những giao dịch trong quá khứ.

Định nghĩa cụ thể của Schabacker như sau:

“Việc Phân tích kỹ thuật các biến động thị trường là một khía cạnh của phân tích, dựa trên cơ sở những hiện tượng phát sinh từ chính thị trường, bỏ qua những tác động của các yếu tố trong phân tích cơ bản và các yếu tố khác.

Trên thực tế Phân tích kỹ thuật có thể được giải thích đơn giản chỉ là phát biểu một cách đối lập lại với việc xem xét theo trường phái phân tích cơ bản. Khía cạnh cơ bản của phân tích thị trường nhắm mối quan tâm đặc biệt vào những yếu tố như doanh nghiệp phát hành cổ phiếu, việc kinh doanh của doanh nghiệp, tiềm năng, họat động trong quá khứ, thu nhập hiện tại và tương lai, bảng cân đối kế toán, sức mạnh tài chính, chất lượng của đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp, …Các yếu tố kĩ thuật là những gì có thể được coi là tổng thể các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng biến động về giá cổ phiếu sau khi đã bỏ qua các yếu tố thuộc phân tích cơ bản và những yếu tố không thực sự có ảnh hưởng. ”

Còn theo Edward và Magee thì:

“Phân tích kỹ thuật là môn khoa học của sự ghi nhận lại, thường là dưới dạng đồ thị, những hoạt động giao dịch diễn ra trong quá khứ gây lên những thay đổi về giá, khối lượng giao dịch, … của một chứng khoán bất kì hay với chung toàn bộ thị trường và sau đó sẽ dựa trên “bức tranh về quá khứ” đó để suy luận ra xu thế có thể xảy ra trong tương lai”

Không phải ngẫu nhiên mà cuốn sách “Technical Analysis of Stock Trend” của Edward và Magee lại được tái bản tới 8 lần, đây là quyển sách mang tính đầy đủ nhất và cơ bản nhất khi tìm hiểu về Phân tích kỹ thuật , vì vậy để có thể hiểu rõ thì rất cần nghiên cứu kĩ cuốn sách này. ở đây sẽ trích dẫn thêm một số đoạn nhằm giúp người đọc hiểu kĩ hơn ”…những nhà Phân tích kỹ thuật luôn phát biểu với lý luận đầy đủ còn lượng thông tin, dữ liệu mà phân tích cơ bản nghiên cứu là quá cũ và không con giá trị sử dụng. Bởi vì tâm lý thị trường không quan tâm đến quá khứ và thậm chí là cả hiện tại, thị trường luôn hướng về phía trước, cố gắng phản ánh những tăng trưởng trong tương lai, xem xét đo lường và làm cân bằng tất cả những ước lượng, dự đoán của hàng trăm nhà đầu tư - những người cùng nhìn vào tương lai nhưng dưới những góc độ hoàn toàn khác nhau và với những cặp kính nhiều màu sắc. Tóm lại, giá thị trường được tạo lên bởi bản thân thị trường, bao gồm tất cả những thông tin thuộc về cơ bản mà những nguời phân tích thống kê muốn tìm hiểu cùng với nhiều những nguồn thông tin khác có tầm quan trọng ngang hoặc lớn hơn nhiều…”

Edward và Magee còn đưa ra 4 điểm căn bản sau về Phân tích kỹ thuật:

- Giá trị thị trường của một chứng khoán được xác định duy nhất thông qua tác động qua lại giữa cung và cầu.

- Cung và cầu chịu ảnh hưởng, ở bất kì thời điểm nào, bởi hàng trăm những yếu tố, một số là ảnh hưởng hợp lý, một số hầu như phi lý. Thông tin, ý kiến, tâm lý, dự đoán,…(có thể đúng, có thể sai,…) về tương lai kết hợp và trộn lẫn với nhau và với những yếu tố cần thiết khác để tạo thành sự cân bằng chung của toàn thị trường. Không một cá nhân nào có thể nắm lấy và định lượng những điều này mà thị trường sẽ tự thực hiện.

- Bỏ qua những dao động nhỏ thì giá nhìn chung sẽ vận động theo những xu thế giá chung của thị trường, những xu thế này là ổn định trong một khoảng thời gian tương đối dài.

- Những thay đổi trong xu thế thị trường thể hiện qua sự dịch chuyển của điểm cân bằng cung cầu dù là vì bất kì nguyên nhân nào đều có thể xác định sớm hơn hoặc muộn hơn thời điểm thị trường biến động.

Cuối cùng ta sẽ xem xét định nghĩa của Steven B. Achelis, tác giả của cuốn sách “Technical Analysis from A to Z”:

“Phân tích kỹ thuật là việc nghiên cứu giá, với công cụ cơ bản là biểu đồ, nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư…”

Xét cho cùng định nghĩa về Phân tích kỹ thuật cũng chỉ cần đơn giản như vậy còn cụ thể bản chất, cách thực hiện sẽ được nghiên cứu ở các phần tiếp theo. Mời các bác xem phần tiếp theo về lý thuyết Dow

Phân tích kĩ thuật phần 2

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 09:38 VIỆT TRADER

User Rating: / 0 

PoorBest 

Những giả định cơ sở và những bàn luận xung quanh việc áp dụng Phân tích kỹ thuật vào thị trường chứng khoán.

1. Những giả định cơ sở

Phân tích kỹ thuật là sự nghiên cứu biến động của thị trường, chủ yếu thông qua việc sử dụng các đồ thị nhằm mục đích dự đoán các xu thế biến động của giá trong tương lai.

Thuật ngữ “biến động của thị trường” ám chỉ ba yếu tố biến động chính cung cấp thông tin cho quá trình Phân tích kỹ thuật là giá, khối lượng giao dịch và số lượng hợp đồng chưa tất toán (open interest).

Có 3 giả định làm cơ sở cho việc tiếp cận Phân tích kỹ thuật:

- Biến động thị trường phản ánh tất cả

- Giá dịch chuyển theo xu thế chung

- Lịch sử sẽ tự lặp lại

Biến động thị trường phản ánh tất cả.

Đây có thể coi là nền tảng của Phân tích kỹ thuật. Mọi lý thuyết, phân tích khác muốn được chấp nhận thì trước tiên phải hiểu và chấp nhận giả định này. Các nhà Phân tích kỹ thuật cho rằng bất cứ yếu tố nào có khả năng ảnh hưởng đến giá như tâm lý, chính trị hay các yếu tố tài chính của doanh nghiệp, tổ chức. . . đều được phản ánh rõ trong giá thị trường. Do đó có người cho rằng việc nghiên cứu biến động của giá là tất cả những gì ta cần và thực sự không thể phản đối lại ý kiến này.

Trên cơ sở nhận thức chung về việc giá phản ánh những biến động trong cung, cầu. Các nhà Phân tích kỹ thuật chỉ ra rằng khi giá tăng dù vì bất kì lý do gì thì cầu phải vượt cung và thị trường tăng giá. Chúng ta cũng đều biết và đồng ý rằng động lực chính của cung và cầu là những yếu tố kinh tế căn bản, chúng làm hình thành lên Bull Market hay Bear Market, còn đồ thị thì không tự nó làm cho thị trường dịch chuyển lên hay xuống. Đồ thị chỉ có thể phản ánh tình hình thị trường mà thôi.

Giá vận động theo xu thế

Khái niệm về xu thế là khái niệm vô cùng quan trọng trong Phân tích kỹ thuật do đó cần hiểu kĩ về giả định này trước khi muốn tìm hiểu sâu thêm về nó. Mục đích của việc xác lập đồ thị mô tả những biến động giá trên thị trường là nhằm xác định được sớm những xu thế giá, từ đó sẽ tham gia giao dịch trên cơ sở những xu thế này. Trên thực tế những kĩ thuật ở đây đều mang tính lặp lại những xu thế giá có từ trước tức là mục đích của Phân tích kỹ thuật là nhằm xác định sự lặp lại của những dạng biến động của giá đã xuất hiện trong quá khứ để có thể tận dụng kinh nghiệm và đưa ra những quyết định phù hợp.

Từ giả định này chúng ta còn có một hệ quả là “một xu thế giá đang vận động sẽ tiếp tục theo xu thế của nó và ít khi có đảo chiều”. Hệ quả này rút ra từ định luật 1 về sự vận động của Newton, do đó nó cách phát biểu khác như sau: "một xu thế đang vận động sẽ tiếp tục theo xu thế của nó cho đến khi nó đảo chiều”. Nhìn chung tất cả những nghiên cứu nhằm tiếp cận theo các xu thế đều nhằm để đi theo những xu thế giá hiện tại cho đến khi có dấu hiệu đảo chiều.

Lịch sử sẽ tự lặp lại.

Phần lớn nội dung của Phân tích kỹ thuật và việc nghiên cứu biến động thị trường đều phải nhằm vào nghiên cứu tâm lý con người. Chẳng hạn như những mô hình giá, những mô hình này đã được xác định và chứng minh từ hơn 100 năm nay, chúng giống như những bức tranh về đồ thị biến động giá. Những bức tranh này chỉ ra tâm lý của thị trường đang là lên giá hay xuống giá. Việc áp dụng những mô hình này đã phát huy hiệu quả trong quá khứ và được giả định rằng sẽ vẫn tiếp tục có hiệu quả trong tương lai bởi chúng dựa trên phân tích nghiên cứu tâm lý con người mà tâm lý con người thì thường không thay đổi. Như thế giả định này có thể được phát biểu là : “Chìa khóa để nắm bắt tương lai nằm trong việc nghiên cứu quá khứ” hay “tương lai chỉ là sự lặp lại của quá khứ”

2. Những bàn luận xung quanh việc áp dụng Phân tích kỹ thuật vào thị trường chứng khoán

Dự đoán trong phân tích cơ bản đối lập với trong Phân tích kỹ thuật

Trong khi Phân tích kỹ thuật tập trung vào việc nghiên cứu biến động thị trường thì Phân tích cơ bản lại tập trung vào các động lực kinh tế của cung và cầu - những nguyên nhân gây ra sự vận động của giá. Phân tích cơ bản tiếp cận theo hướng phân tích các thành tố có liên quan ảnh hưởng đến giá thị trường nhằm xác định giá trị thực của một loại chứng khoán - giá trị được xác định thông qua cung cầu và cuối cùng là để xác định các điểm thị trường bán trên giá trị thực tế (overprice) và các điểm thị trường bán dưới giá trị thực (underprice). Cả hai hướng tiếp cận theo Phân tích cơ bản và Phân tích kỹ thuật đều nhằm xác định xu thế mà giá có thể vận động tuy nhiên cách tiếp cận là khác nhau: những nhà phân tích cơ bản thì nghiên cứu nguyên nhân của những biến động thị trường trong khi những nhà Phân tích kỹ thuật lại nghiên cứu tác động của các biến động ấy.

Một số nhà đầu tư tự coi mình là người theo Phân tích cơ bản hay Phân tích kỹ thuật nhưng thực tế có rất nhiều sự trùng lặp: nhiều nhà Phân tích cơ bản có áp dụng những nguyên lý của Phân tích kỹ thuật trong công việc của mình trong khi hầu hết các nhà Phân tích kỹ thuật lại ít nhiều đều có thời kỳ đi theo Phân tích cơ bản.

Thường thì vào những giai đoạn bắt đầu của một số biến động quan trọng của thị trường những nhà Phân tích cơ bản không giải thích và không ủng hộ những gì mà thị trường chuẩn bị diễn ra. Chính tại những thời điểm nhạy cảm này mà hai trường phái phân tích tỏ ra khác nhau nhất. Hai trường phái này rồi sẽ lại giống nhau ở một số điểm nhưng nếu nhà đầu tư nào muốn dựa vào những điểm đó để làm cơ sở chắc chắn cho các quyết định của mình thì nó sẽ là quá muộn.

Một cách giải thích cho mâu thuẫn này là “giá thị trường có vai trò chỉ dẫn cho những người nghiên cứu Phân tích cơ bản” hoặc có thể nói giá thị trường là chỉ số dẫn đạo cho những nhà phân tích cơ bản. Những người có nghiên cứu về Phân tích kỹ thuật đều có thể nhận thấy những thay đổi về giá có tác động đến thị trường, hay là họ đã theo nhịp của thị trường, còn những người theo phân tích cơ bản lại chịu ảnh hưởng từ những biến động ấy. Những thời điểm thị trường lên giá mạnh và giảm giá trầm trọng được ghi nhận trong lịch sử thường do sự không nhận thức được hoặc nhận thức được quá ít những thay đổi thị trường và cho đến khi những biến động ấy được nhận thức rộng rãi thì bản thân nó đã chuyển hướng và vận động theo hướng khác rồi.

Phân tích và chọn thời điểm có đối lập với nhau không?

Quay lại với Phân tích kỹ thuật, quá trình ra quyết định có thể được chia thành 2 giai đoạn là phân tích và chọn thời điểm. Với những thị trường có “tác động đòn bẩy” lớn chẳng hạn như thị trường tương lai (thị trường có các công cụ phái sinh như: hợp đồng tương lai - futures và hợp đồng quyền chọn - Options) thì việc xác định thời điểm tham gia vào có vai trò rất quan trọng bởi hoàn toàn có trường hợp bạn đã phân tích và theo đúng tình hình thị trường nhưng bạn vẫn có thể mất tiền của mình. Cho dù mức tiền đặt cọc đối với thị trường tương lai là nhỏ (chỉ khoảng 10%) thì dù chỉ một lượng rất nhỏ giá vận động sai hướng có thể tác động đẩy nhà đầu tư ra khỏi thị trường và mất toàn bộ mức tiền đặt cọc ấy. Trái lại trong giao dịch trên thị trường chứng khoán, khi một nhà đầu tư nhận thấy mình đang lệch khỏi thị trường đối với một loại cổ phiếu nào đó thì anh ta chỉ việc đơn giản là giữ lại cổ phiếu đó và đợi cho đến khi cổ phiếu đó quay lại xu thế thị trường. Những người đầu tư vào thị trường tương lai sẽ không có đặc quyền ấy. Chiến lược “mua và nắm giữ” không thể áp dụng để đầu tư kiếm lời trên thị trường tương lai.

Khi phân tích ta có thể áp dụng theo cơ bản hay kĩ thuật, nhưng để trả lời câu hỏi về xác định thời điểm tham gia vào hay thoát ra khỏi thị trường thì câu trả lời nằm hoàn toàn trong Phân tích kỹ thuật. Việc xác định thời điểm có ý nghĩa rất quan trọng với quyết định mua hay bán. Do đó khi xem xét các bước tiến hhành của nhà đầu tư trước khi đưa ra quyết định cuối cùng ta có thể thấy việc áp dụng các nguyên lý của Phân tích kỹ thuật là không thể bỏ qua tại một số thời điểm của quá trình ra quyết định cho dù ở phần đầu của quá trình này khi tiến hành phân tích nhà đầu tư có thể áp dung theo phân tích cơ bản.

Phân tích kĩ thuật phần 3

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 09:40 VIỆT TRADER

User Rating: / 0 

PoorBest 

Tính linh hoạt và tính thích dụng của Phân tích kỹ thuật.

Một trong những thế mạnh lớn của Phân tích kỹ thuật là sự thích dụng của nó trong bất kì phương thức giao dịch nào và vào với bất kì khoản thời gian giao dịch nào. Không có một phần nào trong giao dịch chứng khoán hay các chứng khoán phái sinh mà Phân tích kỹ thuật không thể ứng dụng được.

Một nhà phân tích đồ thị có thể sử dụng đồ thị trong bất kì và bao nhiêu thị trường tùy thích, nhưng điều này là không thể với một người sử dụng Phân tích cơ bản. Điều này là do với mỗi thị trường một người áp dụng Phân tích cơ bản sẽ phải xử lý một khối lượng dữ liệu khổng lồ, nó cũng nói lên tại sao một người Phân tích cơ bản chỉ có thể chuyên vào một hay một nhóm nhỏ chứng khoán nhất định - những ưu thế này của Phân tích kỹ thuật là không thể bỏ qua.

Mỗi thị trường đều phải trải qua những thời kỳ thị trường biến động mạnh và những thời kỳ trầm lắng, những giai đoạn mà giá biến động theo những xu thế rõ ràng và những giai đoạn mà xu thế của giá rất mờ nhạt thậm chí là không có một xu thế cụ thể nào. Khi đó những nhà Phân tích kỹ thuật có thể tập trung sự quan tâm cũng như những nguồn lực của mình vào những thị trường có cu thế vận động rõ ràng hơn và bỏ qua những thị trường loại kia. Điều này có nghĩa là họ có thể chuyển hướng đầu tư để tận dụng tính luân phiên tự nhiên của các thị trường. Vào những thời điểm khác nhau có những thị trường trởi lên “nóng”, có xu thế rõ ràng. Thông thường, tiếp theo những thời kỳ có xu thế giá cụ thể ấy là những thời kỳ giá biến động khá trầm và hầu như không có xu thế nào rõ rệt, trong khi đó ở một hay một nhóm thị trường khác lại có những dấu hiệu biến động nóng. Tóm lại, một nhà Phân tích kỹ thuật có thể tìm và tham gia những thị trường mà họ thấy có khả năng kiếm lời nhanh chóng, còn những nhà Phân tích cơ bản thì không có tính linh họat ấy do tính chuyên sâu vào một loại thị trường như đã nói ở trên. Mặc dù họ hoàn toàn có quyền chuyển hướng quan tâm của mình vào một thị trường khác, nhưng điều ấy cũng có nghĩa là họ phải đối mặt với việc xử lý một khối lượng lớn các dữ liệu của thị trường mới này và rõ ràng là họ sẽ mất rất nhiều thời gian.

Một lợi thế khác của các chuyên gia Phân tích kỹ thuật là họ có “bức tranh tổng thể về thị trường”. Bởi vì họ theo dõi và nghiên cứu nhiều loại thị trường khác nhau nên họ luôn có được cảm nhận rất tôt về những biến động chung nhất của toàn thị trường, tránh được rơi vào tình trạng có những cái nhìn bó hẹp về thị trường - điều rất dễ xảy ra nếu chỉ chú trọng vào một hay một nhóm nhỏ thị trường nhất định. Đồng thời bởi vì mỗi thị trường đều xây dựng trên cơ sở những mối quan hệ kinh tế và cùng phản ứng lại những nhân tố kinh tế theo cách tương tự nhau cho nên biến động giá ở một hay một nhóm thị trường này có thể là những gợi ý cho việc dự đoán giá ở một hay một số thị trường khác.

Ứng dụng Phân tích kỹ thuật vào các hình thức giao dịch khác nhau.

Các nguyên lý của phân tích lĩ thuật có thể áp dụng trên thị trường chứng khoán cũng như trên thị trường tương lai. Các hợp đồng tài chính, bao gồm cả các hợp đồng về lãi suất và ngoại tệ trở nên vô cùng phổ biến trong những thập kỉ gần đây và đã chứng minh chúng là những đối tượng cần quan tâm mới cho phân tích biểu đồ. Trong giao dịch Options các nguyên lý của Phân tích kỹ thuật đóng vai trò rất lớn, rồi trong các giao dịch mang tính phòng vệ đầu tư (hedging) việc áp dụng Phân tích kỹ thuật cũng mang lại những lợi thế rất lớn.

Phân tích kỹ thuật áp dụng vào những khoảng thời gian có độ dài khác nhau.

Đây là một trong những sức mạnh của Phân tích kỹ thuật. Cho dù nhà đầu tư tham gia vào những giao dịch ngắn chỉ trong một ngày trong đó quan tâm đến từng biến động nhỏ hay đầu tư theo phân tích xu thế giá thì những nguyên lý chung chưa bao giờ tỏ ra vô giá trị. ý tưởng cho rằng biểu đồ chỉ hữu ích cho phân tích trong ngắn hạn là sai bởi người ta luôn nói đến những khoảng thời gian dài trong dự báo của Phân tích kỹ thuật. Cho dù người ta luôn nói rằng để phân tích trong dài hạn thì nên áp dụng phân tích cơ bản nhưng thực tế cho thấy những dự báo sử dụng Phân tích kỹ thuật trong các biểu đồ tuần, tháng, năm có giá trị không kém chút nào. Một người khi đã nắm vững Phân tích kỹ thuật thì hoàn toàn có thể áp dụng rất đa dạng và linh hoạt trên bất cứ thị trường hay lĩnh vực đầu tư nào. Phân tích kỹ thuật có thể dùng không chỉ để dự báo giá chứng khoán mà có thể áp dụng dự đoán biến động của các loại hàng hóa, các biến động của nền kinh tế, của lạm phát, lãi suất….

Quá khứ có thể được dùng để dự đoán tương lai hay không?

Hầu hết những những người phản đối Phân tích kỹ thuật đều đưa ra câu hỏi về vấn đề này. Nhưng hãy thử nhìn lại hầu hết những hình thức dự báo mà chúng ta đã biết đều hoàn toàn dựa trên những nghiên cứu đối với những dữ liệu trong quá khứ chẳng hạn như dự báo thời tiết hay kể cả Phân tích cơ bản. Liệu còn loại dữ liệu nào khác để sử dụng trong phân tích?

Trong thống kê có hai loại là thống kê mô tả và thống kê quy nạp. Thống kê mô tả nhằm đưa ra dữ liệu dưới các dạng biểu đồ khác nhau. Còn thống kê quy nạp lại mang tính tổng quát hoá, dự đoán, ngoại suy, ước lượng tức là những thông tin được suy ra từ việc phân tích dữ liệu. Như vậy các biểu đồ giá mang tính chất và dáng dấp của phân tích mô tả, còn những nhà Phân tích kỹ thuật lại thực hiện công việc xử lý những dữ liệu về giá cần đến thống kê quy nạp.

Trong một cuốn sách về thống kê có viết “ bước đầu tiên của dự đoán hoạt động kinh doanh hay dự đoán một hiện tượng kinh tế trong tương lai là tập hợp các quan sát ghi nhận được trong quá khứ”. Phân tích đồ thị cũng chỉ là cũng chỉ là một dạng của phân tích chuỗi thời gian, đều dựa trên cơ sở phân tích quá khứ - đó là tất cả những gì ta cần khi phân tích một chuỗi thời gian. Dạng thông tin duy nhất mà chúng ta có thể sử dụng là những thông tin trong quá khứ. Chúng ta chỉ có thể dự tính tương lai bằng cách áp dụng vào tương lai đó những kinh nghiệm có được trong quá khứ. Bất kì một ai nếu cứ dựa vào đây để phản đối lại Phân tích kỹ thuật thì người đó cũng nên đặt câu hỏi với tính chính xác của mọi dự báo trong phân tích cơ bản bởi chúng cũng đều dựa trên dữ liệu trong quá khứ.

Lý thuyết “Bước đi ngẫu nhiên” - random walk

Lý thuyết “bước đi ngẫu nhiên” cho rằng những biến động của giá là một chuỗi hoàn toàn độc lập và những biến động trong quá khứ của giá hoàn toàn không phải là một chỉ số đáng tin cậy cho việc dự đoán xu thế tương lai. Tóm lại biến động của giá là ngẫu nhiên và hoàn toàn không thể dự đoán được. Lý thuyết này dựa trên cơ sở lý thuyết “Thị trường hiệu quả”, trong đó cho rằng giá thị trường sẽ dao động xung quanh giá trị thực của nó. Thuyết này cũng cho rằng chiến lược đầu tư tốt nhất vào thị trường chỉ đơn giản là mua và nắm giữ, cũng có nghĩa là nó chống lại tất cả những cố gắng muốn “chiến thắng” thị trường. Lẽ dĩ nhiên trong bất kì thị trường nào cũng có những yếu tố ngẫu nhiên hay còn gọi là độ nhiễu, những rõ ràng nếu nói tất cả các biến động của giá đều là ngẫu nhiên thì khó có thể đồng tình. Đây có lẽ là một trong những phần mà những quan sát thực nghiệm, những kinh nghiệm thực hành có giá trị hơn những kĩ thuật thống kê công phu, kinh nghiệm là cái giúp cho mỗi người tự chứng minh cho suy nghĩ của riêng mình. ở đây khái niệm ngẫu nhiên cần được hiểu đơn giản là việc không thể xác định được các hình mẫu kĩ thuật đã có trong hệ thống, tức là những hình mẫu đồ thị giá mà người ta dùng để dự đoán xu thế tương lai của giá là hoàn toàn không thể nhận ra được. Tuy nhiên cho dù kể cả những chuyên gia giảng dạy trong lĩnh vực trong lĩnh vực này cũng đôi khi không thể xác định được sự xuất hiện của các hình mẫu kĩ thuật thì điều này cũng không có nghĩa là những hình mẫu giá đó không tồn tại.

Điều này dẫn ra một câu hỏi là liệu xu thế thị trường có thực sự có ích lợi với những người đang hàng ngày phân tích hay tham gia vào thị trường nơi những xu thế (nếu có) đang hiện diện thực tế. Nhưng nếu nhìn bất cứ một đồ thị nào ta đều có thể thấy một xu thế của giá. Làm sao những người ủng hộ cho thuyết “bước ngẫu nhiên” giải thích cho những xu thế giá này nếu giá là ngẫu nhiên liên tục - nghĩa là những gì xảy ra vào ngày hôm qua, vào tuần trước, … đều không có ảnh hưởng vào những gì có thể xảy hôm nay và ngày mai? Làm sao họ giải thích được khả năng sinh lời thực tế của rất nhiều những chiến lược kinh doanh theo xu thế thị trường?

Và nhiều câu hỏi khác:

- Làm sao chiến lược mua và nắm giữ cổ phiếu có thể sử dụng trong thị trường giao dịch các hợp đồng tương lai, nơi mà việc xác định thời điểm tham gia và rút lui khỏi thị trường là yếu tố sống còn?

- Liệu những hợp đồng dài hạn có thể được nắm giữ suốt thời kì thị trường đi xuống?

- Làm sao nhà đầu tư có thể biết được sự khác biệt giữa một Bull Market và một Bear Market nếu như giá biến động hoàn toàn không theo qui luật và không theo xu thế nào?

- Thậm chí là có tồn tại Bull Market hay Bear Market hay không nếu không tồn tại các xu thế giá trên thị trường?

Khó có thể xác định liệu mọi kết quả thống kê có thể hoàn toàn chững minh hay bác bỏ lý thuyết “bước ngẫu nhiên”. Dẫu sao thì ý tưởng thị trường mang tính ngẫu nhiên là hoàn toàn bị bác bỏ trong “cộng đồng Phân tích kỹ thuật”.Trong khi không thể bác bỏ tính hợp lý của việc tiếp cận thị trường theo khuynh hướng kĩ thuật thì bản thân thuyết “Thị trường hiệu quả” lại có nội dung rất gần với giả thuyết cơ bản của Phân tích kỹ thuật là “thị trường phản ánh tất cả”. Những nhà nghiên cứu cho rằng bởi vì thị trường phản ánh quá nhanh (gần như ngay lập tức) tất cả các thông tin nên không có cách nào để tận dụng ưu thế của thông tin trên thị trường. Cơ sở của Phân tích kỹ thuật như đã nói ở trên cho rằng những thông tin quan trọng về thị trường đều đã được phản ánh từ lâu trong các biến động giá trước khi nó được mọi người biết đến. Mọi chuyên gia đều cho rằng cần phải nghiên cứu và theo dõi kĩ biến động của giá chứ không thể dựa vào những thông tin tài chính căn bản để hi vọng kiếm lời.

Nhìn chung việc quan sát đồ thị và nhận thấy sự ngẫu nhiên hay tính nhiễu của thị trường chỉ xảy ra với những người không hiểu sâu sắc qui trình hoạt động của thị trường. Nó cũng giống như một điện tâm đồ, với một người không được đào tạo thì anh ta sẽ hoàn toàn không biết ý nghĩa của nó là gì, nhưng với một bác sĩ thì lại khác, những đốm sáng tối trên đó chắc chắn sẽ cung cấp được rất nhiều thông tin. Như thế sự cảm nhận về tính ngẫu nhiên hay tính nhiễu của thị trường sẽ dần mất đi khi trình độ phân tích biểu đồ của một người ngày càng tăng.

Phân tích kĩ thuật phần 4

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 09:41 VIỆT TRADER

User Rating: / 0 

PoorBest 

Các khái niệm và công cụ cơ bản sử dụng trong quá trình Phân tích kỹ thuật.

Các loại biểu đồ.

Hiện nay trên Thị trường chứng khoán các chuyên viên phân tích dùng rất nhiều các loại biểu đồ khác nhau để phân tích, trong đó có 3 loại biểu đồ được dùng một cách phổ biến nhất đó là: biểu đồ dạng đường (Line chart), biểu đồ dạng then chắn (Bar chart), biểu đồ dạng ống (Candlestick chart).

Biểu đồ dạng đường (Line chart).

Dạng biểu đồ này từ trước tới nay thường được sử dụng trên Thị trường chứng khoán, và cũng là loại biểu đồ được dùng một cách phổ biến nhất trong các ngành khoa học khác dùng để mô phỏng các hiện tượng kinh tế và xã hội…và nó cũng là loại biểu đồ được con người dùng trong thời gian lâu dài nhất. Nhưng hiện nay trên Thị trường chứng khoán do khoa hock kỹ thuật phát triển, diễn biến của Thị trường chứng khoán ngày càng phức tạp cho nên loại biểu đồ này ngày càng ít được sử dụng nhất la trên các Thị trường chứng khoán hiện đại. Hiện nay nó chủ yếu được sử dụng trên các Thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động trong thời gian ngắn, khớp lệnh theo phương pháp khớp lệnh định kỳ theo từng phiên hoặc nhiều lần trong một phiên nhưng mức độ giao dịch chưa thể đạt được như Thị trường chứng khoán dùng phương pháp khớp lệnh liên tục.Ưu điểm của loại biểu đồ này là dễ sử dụng, lý do chính là vì nó được sử dụng trên tất cả các Thị trường chứng khoán trên khắp thế giới từ trước tới nay. Hiện nay loại biểu đồ này ít được sử dụng để phân tích trên các Thị trường chứng khoán hiện đại vì các Thị trường chứng khoán hiện đại ngày nay thường diễn biến khá phức tạp, mức độ dao động trong thời gian ngắn với độ lệch khá cao, nếu dùng loại biểu đồ này để phân tích thì thường mang lại hiệu quả thấp trong phân tích.

Ví dụ về dạng biểu đồ dạng đường (line chart):

Đồ thị biến động VNIndex

(tính đến ngày 18/01/2007 - bsc.com.vn)

Hiện nay trên các Thị trường chứng khoán hiện đại đang dùng một số loại biểu đồ trong Phân tích kỹ thuật mang lại hiệu quả cao đó là Bar chart và Candlestick chart.

Biểu đồ dạng then chắn (Bar chart)

Ví dụ về dạng biểu đồ dạng then chắn (Bar chart):

Cổ phiếu General Electric

Trên các Thị trường chứng khoán hiện đại trên thế giới hiện nay các chuyên viên phân tích thường dùng loại biểu đồ này trong phân tích là chủ yếu lý do chính vì tính ưu việt của nó đó là sự phản ánh rõ nét sự biến động của giá chứng khoán.

Hai kí tự mà dạng biểu đồ này sử dụng đó là:

loại biểu đồ này thường được áp dụng để phân tích trên các Thị trường chứng khoán hiện đại khớp lệnh theo hình thức khớp lệnh liên tục, độ dao động của giá chứng khoán trong một phiên giao dịch là tương đối lớn.

Biểu đồ dạng ống (Candlestick chart)

Ví dụ về dạng biểu đồ dạng ống (Candlestick chart):

Đây là dạng biểu đồ cải tiến của biểu đồ dạng then chắn (Bar chart), nó được người Nhật Bản khám phá và áp dụng trên Thị trường chứng khoán của họ đầu tiên. Giờ đây nó đang dần được phổ biến hầu hết trên các Thị trường chứng khoán hiện đại trên toàn thế giới. Dạng biểu đồ này phản ánh rõ nét nhất về sự biến động của giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán khớp lệnh theo hình thức khớp lệnh định kỳ.

Phân tích kĩ thuật phần 5

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 09:50 VIỆT TRADER

User Rating: / 1 

PoorBest 

Xu thế, Đường xu thế, Kênh

Xu thế

Khái niệm xu thế sẽ được giới thiệu kĩ hơn trong phần Lý thuyết Dow. Xu thế gồm có cả xu thế giá tăng và xu thế giá giảm. Xu thế giá tăng gồm liên tiếp những đỉnh giá cao dần và đáy giá cao dần (đỉnh trước cao hơn đỉnh sau và đáy trước cao hơn đáy sau).

Một xu thế giá tăng sẽ được coi là vẫn duy trì cho đến khi xuất hiện một đáy mới thấp hơn đáy trước nó. Ngược lại xu thế giá giảm cũng sẽ được coi là vẫn đang tiếp diễn cho đến khi xuất hiện một đỉnh mới cao hơn đỉnh trước nó.

Đường xu thế

Xu thế giá tăng và xu thế giá giảm cũng được nghiên cứu dưới dạng các đường xu thế. Với xu thế giá tăng ta có đường xu thế giá tăng, đây là đường nối các điểm đáy cao dần lên và đường xu thế giảm là đường nối các đỉnh thấp dần. Đường xu thế có thể kéo dài thậm chí nhiều năm. Qui trình vẽ một đường xu thế khá đơn giản nhưng cũng rất dễ nhầm. Điều căn bản là phải có những dấu hiệu chắc chắn về sự xuất hiện một xu thế giá. Khi muốn vẽ một xu thế giá tăng ta phải có ít nhất hai điểm đáy mà đáy sau cao hơn đáy trước. Tất nhiên điều kiện cần và đủ để có thể vẽ được một đường thẳng là phải có hai điểm, tuy nhiên người ta thường đợi cho đến khi xuất hiện một đáy thứ ba cao hơn hai đáy trước và đường xu thế đi qua cả 3 đáy (một cách tương đối). Điều này có nghĩa là đường xu thế có thể không đi qua đáy thứ ba mà chỉ đi sát, nhìn chung như thế là đạt yêu cầu. Nhưng một đường xu thế đi qua cả đáy bao giờ cũng được coi là một đường xu thế chính xác và có độ tin cậy cao.

Khi một đường xu thế đã được xác nhận về độ chính xác thì nó sẽ trở nên rất hữu ích bởi tính chính xác ấy đảm bảo chắc chắn hướng chuyển động ổn định của giá. Với xu thế giá tăng, sau mỗi đợt tăng biến động điều chỉnh xuất hiện sẽ kéo giá xuống sát hoặc đến đúng đường xu thế những sẽ không xuống thấp hơn nếu xu thế thị trường vẫn đang ổn định. Đường xu thế lúc này là biên thấp nhất của dao động giá. Tương tự, với thị trường đang có xu thế giá giảm thì đường xu thế sẽ là biên cao nhất cho mọi dao động giá. Như thế, các đường xu thế chính xác của thị trường sẽ là các biên dao động cơ sở để xác định mức giá mua và bán tối đa và tối thiểu hợp lý.

Nếu chuyển động của đồ thị vượt lên đường xu thế giảm hoặc xuống dưới đường xu thế giá tăng thì đây là dấu hiệu, có thể nói là sớm nhất, cho sự thay đổi trong xu thế thị trường.

Kênh

Kênh là khoảng giao động của giá, nếu giá sẽ dao động trong một dải thì dải đó gọi là kênh. Dải dao động đó được xác định bởi hai đường biên là đường xu thế và đường kênh (channel line), hai đường này song song với nhau. Vấn đề là làm sao có thể xác định được hai đường này

Sau khi đã xác định được đường xu thế như trên, giả sử với xu thế giá tăng, ta vẽ đường kênh là một đường song song với đường xu thế và đi qua đỉnh giá rõ nhất đầu tiên. Nếu ở lần tăng giá tiếp theo giá tăng đến gần hoặc chạm vào đường kênh rồi lại giảm xuống đến gần đường xu thế thì khả năng có thể tồn tại một kênh dao động của giá. Với xu thế giá giảm việc vẽ và xác định kênh là hoàn toàn tương tự, tất nhiên là theo hướng ngược lại.

Mỗi lần giá chạm vào hoặc đến gần đường kênh rồi quay trở lại xuống đến đường xu thế là một lần kênh được kiểm tra thành công. Kênh tồn tại càng lâu với càng nhiều lần thử thành công thì vai trò cũng như độ tin cậy của nó càng lớn. Kênh có thể sử dụng cho kiếm lời trong ngắn hạn và thậm chí một số nhà đầu tư táo bạo còn sử dụng đường kênh để tiến hành những giao dịch ngược hướng với xu thế thị trường nhằm tìm kiếm những khoản lợi lớn hơn cho dù giao dịch ngược hướng thị trường có thể là một chiến thuật nguy hiểm và phải trả giá đắt.

Khi chuyển động của giá trên thị trường phá vỡ đường xu thế thì có thể gây ra sự đảo chiều của xu thế thị trường, nhưng nếu đường kênh bị chuyển động của giá phá vỡ (khi giá vượt ra ngoài đường kênh) thì tác động lại hoàn toàn ngược lại: đây là dấu hiệu cho sự gia tăng sức mạnh của xu thế hiện tại, thậm chí một số nhà đầu tư tin tưởng rằng việc giá chuyển động làm mất đi đường kênh sẽ xác nhận cho một xu thế ổn định trong thời gian dài và là cơ hội cho những nhà đầu tư thực hiện những hợp đồng dài hạn.

Ngược lại, khi giá không lên được đến đường kênh mà quay ngược trở lại quá sớm thì đây lại là dấu hiệu dự báo sớm sự suy giảm của xu thế hiện tại và là dấu hiệu cho thấy có thể chuyển động của giá sẽ phá vỡ đường xu thế

Nói chung việc chuyển động của giá không thể đạt đến sát một trong hai đường biên của kênh có thể là một dấu hiệu sớm cho thấy xu thế giá có thể thay đổi và khả năng chuyển động của giá có khả năng sẽ phá vỡ đường biên còn lại của kênh. Với xu thế giá tăng, có thể có hai trường hợp (trong các hình vẽ ở hai trường hợp này ta giả định ban đầu kênh đang có xu thế hướng lên- xu thế tăng giá, hoàn toàn tương tự nếu muốn xem xét đối với xu thế giá giảm).

Nếu chuyển động của giá vượt qua đường kênh một khoảng lớn thì đây là dấu hiệu cho thấy xu thế lên giá đang mạnh lên, thường ta sẽ phải vẽ một đường xu thế mới dốc hơn từ điểm đáy cuối cùng song song với đường kênh mới. Thực tế cho thấy đường xu thế mới này hoạt động tốt hơn đường cũ.

Nếu giá không đạt được đến đường kênh và chuyển động phá vỡ đường xu thế thì điều này chỉ ra rằng xu thế thị trường đổi ch iều thành xu thế giá giảm. Hai đỉnh mới xuất hiện (đỉnh 5 và 7) sẽ là cơ sở để vẽ đường xu thế giá giảm, tương tự ta sẽ vẽ đường kênh song song đường xu thế và đi qua đáy 4. Chú ý là ở đây có sự đổi vai trò đường xu thế ban đầu trở thành đường kênh và ngược lại

Ngoài ra kênh và các đường kênh còn mang một ý nghĩa khác: Khi giá chuyển động phá vỡ xu thế hiện tại - xuất hiện ‘breakout’ từ kênh hiện tại, giá thường sẽ chuyển động một khoảng bằng với độ rộng của kênh đó.

Như thế, để xác định điểm dừng của chuyển động này ta có thể tính tương đối chính xác bằng cách đo độ rộng của kênh vừa bị phá vỡ và dự kiến điểm dừng từ điểm giá vượt ra ngoài kênh (Tuy nhiên cần luôn luôn lưu ý rằng trong hai đường biên của kênh thì đường xu thế luôn có vai trò quan trọng và đáng tin cậy hơn, đường kênh chỉ là một công cụ kĩ thuật xuất phát từ đường xu thế)

Phân tích kĩ thuật phần 6

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 10:17 VIỆT TRADER

User Rating: / 0 

PoorBest 

Mức hoàn lại - Khung giao dịch - Hỗ trợ và Kháng cự

Mức hoàn lại.

Trong bất kì một đồ thị nào ta đều thấy sau một giai đoạn giá chuyển động theo xu thế của thị trường thì giá sẽ hoàn lại một chút trước khi quay trở lại chuyển động theo xu thế cũ.

Những chuyển động ngược xu thế này thường có độ lớn ở vào những khoản có thể dự đoán được và được gọi là mức hoàn lại. Mức hoàn lại trung bình thường gặp nhất là 50%. Bên cạnh đó còn có các mức hoàn lại thường thấy khác đó là các mức 1/3 và 2/3. Nói cách khác, nếu chia một xu thế giá thành ba phần thì nói mức hoàn lại thấp nhất là 33% và cao nhất là 66% có nghĩa là ở giai đoạn điều chỉnh của xu thế đó giá sẽ hoàn lại ít nhất 1/3 mức tăng (hay giảm) mà nó đạt được trong xu thế trước đó và mức hoàn lại đó không vượt quá 2/3 mức tăng (hay giảm) trước đó đạt được. Nếu mức hoàn lại cao hơn thì khả năng sẽ xảy ra sự đảo chiều thị trường tức là giá sẽ chuyển động theo xu thế đảo ngược xu thế trước mà không quay lại chuyển động theo xu thế đó.

Khung Giao Dịch.

Thị trường có thể ở một trong 3 xu thế là xu thế tăng, xu thế giảm và xu thế dao động ngang. Nhiều người cho rằng thị trường chỉ có thể tăng hoặc giảm, nhưng thực tế có đến 1/3 thời gian giá chuyển động theo một hình mẫu dạng ‘phẳng’ nằm ngang gọi là khung giao dịch. Khung giao dịch là một dải nằm ngang trên đồ thị trong đó bao gồm các dao động của giá trong một giai đoạn dài. Nói chung hầu hết các biến động của thị trường sẽ diễn ra bên trong khung giao dịch. Tuy nhiên khi thị trường có biến động dạng khung giao dịch thì lại rất khó kiếm được lợi nhuận. Khung giao dịch phản ánh thời kỳ mà áp lực cung cầu là tương đối cân bằng và giá duy trì ở mức cân bằng thị trường. Đôi khi người ta còn gọi thời kỳ mà giá biến động theo khung giao dịch là thời kỳ không có xu thế thị trường. Hầu hết các công cụ kinh tế đều được tạo ra để có thể áp dụng vào các thị trường có xu thế tăng hoặc giảm rõ rệt còn khi thị trường ở dang không có xu thế rõ rệt thì các công cụ này nhìn chung hoạt động kém hiệu quả, thậm chí là không thể áp dụng. Đây cũng chính là thời kỳ gây khó chịu nhất cho những người đi theo Phân tích kỹ thuật và gây ra nhiều lỗ nhất. Trong những tình huống ấy nhà đầu tư luôn phải đối mặt với một trong ba quyết định là mua, bán hay đứng ngoài không tham gia vào thị trường và thông thường thì quyết định không tham gia vào thị trường luôn là quyết định sáng suốt nhất.

Thực tế cũng có một số phương pháp có thể áp dụng để kiếm lời khi thị trường xuất hiện dạng khung giao dịch, chẳng hạn như sử dụng các chỉ số dao động thị trường (Oscillators) mà ta sẽ nghiên cứu ở phần sau. Nhìn chung rất khó có thể dự đoán sự xuất hiện trong tương lai của mô hình khung giao dịch. Mô hình này cũng có thể kéo dài trong nhiều tháng, một năm hay nhiều năm. Cũng giống như kênh, khung giao dịch cũng có các đường biên bên trên và bên dưới, đây chính là các đường kháng cự và hỗ trợ của khung (ta sẽ nghiên cứu về kháng cự và hỗ trợ ở phần sau). Những “sự phá vỡ” (break out) ra ngoài khung có thể là các dấu hiệu quan trọng để tiến hành các giao dịch. Tuy nhiên cũng cần lưu ý bởi giá cũng thường dao động vượt ra ngoài khung nhưng chỉ với một lượng nhỏ, sau đó quay trở lại bên trong khung. Đôi khi nguyên nhân của hiện tượng này là do những lệnh dừng mà nhà đầu tư đã đặt và những lệnh này tác động đến những vùng giá nằm ngoài khung. Khi những lệnh này kết thúc thì giá sẽ trở lại dao động bên trong khung giao dịch nếu không có những lý do liên quan đến những yếu tố tài chính cơ bản hay có sự xuất hiện khối lượng giao dịch lớn duy trì sự vượt ra ấy. Nhìn chung nhà đầu tư không nên đi theo ngay những “breakout” mới xuất hiện mà nên chờ thêm một dao động tiếp theo xác nhận “breakout” này cho dù điều này có thể làm chậm lại một chút nhưng sẽ tránh được rất nhiều dấu hiệu sai và tránh được những khoản lỗ.

Hỗ trợ và kháng cự

Việc nghiên cứu về mức hỗ trợ và kháng cự là một trong những vấn đề khá quan trọng đối với Phân tích kỹ thuật. Nó cho phép người nghiên cứu có thêm những cơ sở mới trong việc chọn các loại cổ phiếu để mua hay bán, trong dự đoán các biến động tiềm năng, trong việc chỉ ra những thời điểm mà thị trường có thể gây ra rắc rối cho nhà đầu tư. Trên thực tế, nhiều nhà đầu tư có kinh nghiệm đã xây dựng cho họ một “hệ thống đầu tư” riêng dựa hầu hết vào những nguyên lý về mức kháng cự và hỗ trợ. Việc nghiên cứu về mức kháng cự và hỗ trợ một cách đầy đủ cần rất nhiều thời gian và cần thêm nhiều yếu tố khác, người viết chỉ xin đưa ra một số khía cạnh cơ bản nhất với mục đích đưa ra cơ sở lý thuyết cơ bản nhất về khái niệm quan trọng này của Phân tích kỹ thuật.

Mức kháng cự và hỗ trợ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nghiên cứu phân tích các hình mẫu kỹ thuật. Những kiến thức cơ bản về mức kháng cự và hỗ trợ sẽ giúp người nghiên cứu dễ dàng hiểu bản chất và các ứng dụng của các hình mẫu đó.

Mức hỗ trợ thường được dùng khá thông dụng. Trên thị trường phố Wall, bạn có thể nghe thấy việc một nhóm nhà đầu tư luôn sẵn sàng hỗ trợ thị trường bằng cách mua tất cả các chứng khoán chào bán nếu giá giảm 5 điểm. Vậy mức hỗ trợ là gì? Ta có thể định nghĩa mức hỗ trợ là việc mua thực tế hay khả năng mua với khối lượng đủ để làm ngưng lại xu thế giảm của giá trong một thời kỳ đáng kể (tương đối dài). Mức kháng cự lại ngược lại với mức hỗ trợ: đó là việc bán, trong thực tế hay tiềm năng, một khối lượng đủ để thoả mãn tất cả các mức chào mua, do đó, làm giá ngừng không tăng nữa trong một khoảng thời gian nhất định. Như thế mức kháng cự và hỗ trợ là gần giống theo thứ tự với khối lượng cầu và khối lượng cung. Mức hỗ trợ là mức giá ở đó mức cầu cho một cổ phiếu là đủ để, ít nhất là, làm dừng xu thế giảm giá của thị trường và cũng có thể đổi chiều xu thế đó, tức là làm xu thế giá đi xuống quay ngược đi lên. Từ đó ta có định nghĩa về mức kháng cự, đó là mức giá mà ở đó lượng cung đủ để giá sẽ ngừng không tăng nữa và có thể chuyển động ngược lại đi xuống. Theo lý thuyết thì mỗi mức giá có một lượng cung và cầu nhất định. Nhưng khoản hỗ trợ thể hiện sự tập trung của cầu còn khoảng kháng cự thể hiện sự tập trung của cung. Như vậy với một hình mẫu giá nhất định, chẳng hạn ta xét với hình mẫu dạng hình chữ nhật (mô hình này phản ánh giai đoạn thị trường gồm rất nhiều những dao động nhỏ của giá theo hướng ngang đồ thị chứ không hướng lên hay hướng xuống rõ rệt, hai đường nối các đỉnh và các đáy của thị trường trong giai đoạn này gần như song song, không cần thiết phải song song 100% nhưng độ lệch phải rất nhỏ, hay có thể nói là một dạng của khung giao dịch), đường nối các đỉnh có thể coi là mức kháng cự, còn đường nối các đáy được coi là mức hỗ trợ.

Nhìn chung trong giai đoạn hai mức này còn phát huy hiệu lực thì giá sẽ không vượt quá mức kháng cự và không xuống dưới mức hỗ trợ. Nhưng với tư cách một nhà đầu tư ta sẽ quan tâm hơn đến việc xác định tại sao và yếu tố nào làm xuất hiện các mức kháng cự và hỗ trợ ở một mức giá nhất định. Các chuyên gia còn tập trung nghiên cứu thời điểm giá lên đạt đến mức kháng cự và khi nào giá xuống đến mức hỗ trợ.

Cơ sở của những dự đoán này cũng là những dữ liệu cơ bản hình thành nên lý thuyết về hỗ trợ và kháng cự, đó là khi giá trị giao dịch có xu hướng bị tập trung tại một số mức giá có khối lượng các cổ phiếu được giao dịch lớn. Điều đáng chú ý là tại bất kì mức giá nào xuất hiện mức khối lượng giao dịch lớn thường đều trở thành điểm đảo chiều đối với xu thế hiện tại của thị trường và mọi điểm đảo chiều đều có xu hướng lặp đi lặp lại thường xuyên và hoàn toàn mang tính tự nhiên. Có một thực tế quan trọng mà nhiều khi một số người quan sát và phân tích biểu đồ một cách ngẫu nhiên không nhận ra đó là: những mức giá đó đang dần dần chuyển vai trò từ hỗ trợ thành kháng cự và ngược lại từ kháng cự thành hỗ trợ. Nếu như biến động của giá vượt qua một đỉnh giá đã được hình thành trước đó thì đỉnh này sẽ đóng vai trò là khoảng đáy của xu thế giảm giá (điều chỉnh) sẽ xuất hiện sau xu thế tăng hiện tại và một đáy sau khi đã bị giá vượt xuống dưới sẽ trở thành khoảng đỉnh của xu thế tăng sẽ xuất hiện ngay sau đó.

Quá trình hình thành một xu thế thông thường.

Ta sẽ xem xét các ví dụ:

Giả sử một cổ phiếu đang trong xu thế tăng mạnh và tăng từ mức giá 12 lên đến 24, đồng thời trên thị trường cũng đang có một khối lượng cổ phiếu lớn đang được chào bán. Kết quả của việc này là thị trường có thể phản ứng và hình thành một xu thế điều chỉnh trung gian (tạm thời), làm giá giảm xuống còn 18, hoặc cũng có thể phản ứng của thị trường làm xuất hiện hàng loạt những dao động nhỏ quanh mức, chẳng hạn, từ 24 xuống đến 21 tạo thành một dạng hình mẫu mang tính củng cố xu thế hiện tại. Sau thời gian điều chỉnh hoặc củng cố này sẽ xuất hiện một đợt tăng giá mới và đưa giá lên đến 30, tại đó cung lại đầy và dư, làm ngưng lại đợt tăng giá này. Lúc đó lại có thể xuất hiện một trong hai dạng mô hình điều chỉnh hay củng cố. Nếu xảy ra điều chỉnh, câu hỏi đặt ra là xu thế giảm tạm thời này sẽ xuất hiện ở mức nào? Câu trả lời là mức giá 24, đây là đỉnh đầu tiên của xu thế tăng giá chính (cấp 1) trên thị trường - mức giá này thấp hơn mức giá hiện tại và tại đó lại xuất hiện tổng giá trị giao dịch rất lớn. Khi đó nó đóng vai trò và hoạt động như một mức kháng cự, tạo ra sự ngưng tăng hay đảo chiều của đợt tăng giá đầu tiên. Sau khi bị vượt qua thì vai trò của nó lại là mức hỗ trợ, làm ngưng hay có thể đảo chiều, dù rất ít xu thế giảm giá đang diễn ra trên thị trường.

Một ví dụ tương tự đưa ra với một cổ phiếu đang trong xu thế giá giảm. Giả sử cổ phiếu đang ở một đỉnh lớn của toàn thị trường ở mức giá 70, giá giảm xuống còn 50. ở tại mức 50 xuất hiện một đỉnh điểm diễn ra các giao dịch nhưng chỉ mang tính tạm thời. Thị trường có tổng khối lượng giao dịch lớn, giá tăng lên, có thể lại trượt xuống một chút như một dạng kiểm tra mức giá 50 có thực sự là một điểm dừng quan trọng của thị trường hay không. Sau đó xuất hiện giai đoạn hồi phục đưa giá lên 60. Tại mức 60 sức mua yếu dần, xu thế giá đảo lại và đi xuống, giá sẽ giảm mạnh hơn ở đợt giảm mới này và làm xuất hiện một mức đáy thấp hơn là 42. Đến đây, lặp lại thời kỳ trước, nhu cầu mua lại tăng lên và lại xuất hiện quá trình hồi phục lần hai. Chúng ta có thể tự tin chờ đợt hồi phục từ mức giá 42 này lên sẽ tăng lên đến mức kháng cự (đã được kiểm tra là “mạnh”) đó là mức giá 50. ở đợt giảm lần đầu mức giá này đóng vai trò mức hỗ trợ, bây giờ nó đóng vai trò mức kháng cự, mức đáy lúc trước trở thành mức đỉnh của thị trường.

Vậy ta đặt ra câu hỏi tại sao có sự chuyển vai trò ở hai ví dụ trên? Ta bắt với ví dụ thứ 2 trước. Giá đầu tiên giảm xuống đến 50 và xuất hiện khối lượng giao dịch tương đối lớn, rồi lại đảo chiều tăng lên 60 nhưng lực tăng yếu dần. Ở mức giá 50, rất nhiều cổ phiếu đã được giao dịch, với mỗi người bán đều có ít nhất một người mua tương ứng. Một số người đã mua nhưng với chủ định nắm giữ trong ngắn hạn và đã bán đi, bây giờ họ không còn quan tâm đến loại cổ phiếu này. Một số khác là những nhà đầu tư ngắn hạn và thậm chí cả một số chuyên gia có thể đã mua ở mức giá 50 bởi đơn giản là họ thấy thị trường đang ở một mức đáy tạm thời và mua với mong muốn kiếm lãi khi giá tăng lên theo dự kiến của họ, hoàn toàn có thể giả sử họ đã thực hiện được mục đích của mình và đã thoát ra khỏi thị trường trước khi giá tụt xuống dưới mức 50. Với đa số những nhà đầu tư còn lại, quyết định mua của họ là do họ thấy mức giá 50 là mức giá thấp đủ thảo mãn họ bởi chỉ vài tháng trước giá cổ phiếu được bán trên mức 70, rõ ràng 50 là một mức giá hời, đồng thời họ cũng cho rằng giá sẽ lại lên và lên nữa trong thời gian dài.

Nhưng hãy đặt mình vào vị trí của những người vừa mua cổ phiếu đó. Họ nhìn thấy giá tăng hàng ngày, lên 55 rồi lên 58 rồi đến 60, những nhận định của họ lúc trước có vẻ đúng và họ vẫn tiếp tục nắm giữ cổ phiếu. Rồi xu thế tăng này yếu đi, giá lại giảm xuống còn 57, 55 rồi 52 rồi lại về 50. Họ có lo lắng một chút những rồi lại vẫn cho rằng 50 là mức rất rẻ, vẫn hời, đặc biệt khi thị trường dừng lại ở mức giá 50 trong một thời gian ngắn.

Rồi giá lại giảm tiếp phá vỡ mức giá 50. Lúc đầu có thể họ vẫn hi vọng đây chỉ là mức giảm tạm thời, là một chút biến động của giá và thị trường sẽ hồi phục nhanh chóng. Thế nhưng hi vọng ấy mất đi khi xu thế giảm giá vẫn tiếp tục và không hề tỏ ra là sẽ có điều chỉnh. Những nhầ đầu tư bắt đầu tỏ ra lo lắng, có điều gì đó không ổn đã xảy ra. Cho đến khi giá giảm còn 45, mức giá hời lúc trước không còn là một quả cam ngọt nữa mà là một quả chanh.

Với ví dụ thứ nhất về xu thế tăng giá của thị trường. Khi giá tăng từ 12 đến 24 các nhà đầu tư đều cho rằng 24 là mức giá tương đối cao so với 12 (mức giá mà họ đã mua vào) do đó họ bán, khi mà sau đó giá giảm xuống một chút đến 20, họ đều tự chúc mừng cho sự sáng suốt của mình. Nhưng rồi xu thế giá lại đảo chiều, giá tăng vọt lên 30, họ sẽ không còn cảm thấy như vậy nữa. Họ ước gì mình vẫn nắm giữ cổ phiếu đó và có thể muốn mua lại cổ phiếu này, tất nhiên là không mua cao hơn 24, rõ ràng nếu giá giảm xuống còn 24 sẽ có rất nhiều nhà đầu tư lại mua vào với hi vọng kiếm lời nhiều hơn.

Những ví dụ trên đây phản ánh một cách chung nhất tâm lý của những nhà đầu tư trên thị trường và tác động của họ tới việc hình thành cũng như sự chuyển vai trò của mức kháng cự và hỗ trợ. Qua đó ta cũng nhận thấy rằng tại một mức giá kháng cự hay hỗ trợ, nếu giá dao động quanh nó càng lâu thì vai trò và sức mạnh của nó càng lớn và một xu thế giá phải thực sự mạnh mới có thể phá vỡ hay vượt qua được nó. Một mức kháng cự hay hỗ trợ được duy trì càng lâu thì những biến động có khả năng vượt qua nó càng có ý nghĩa và có thể được coi là những dấu hiệu cho những biến động lớn của thị trường.

Thêm một nhận xét nữa là khối lượng giao dịch cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong xác định các mức kháng cự và hỗ trợ. Nếu mức kháng cự hay hỗ trợ hình thành mà không có dấu hiệu gì về sự thay đổi trong khối lượng giao dịch thì mức độ tin cậy cũng như độ bền vững của chúng là không cao. Trái lại nếu một mức hỗ trợ chẳng hạn được hình thành với khối lượng giao dịch rất lớn, điều này có nghĩa là tại đó nhu cầu giao dịch là rất lớn, rõ ràng mức độ phản ánh cũng như ý nghĩa của nó là cao và quan trọng hơn nhiều

Phân tích kĩ thuật phần 7

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 10:21 VIỆT TRADER

User Rating: / 0 

PoorBest 

Các mô hình đảo chiều cơ bản

Double bottom (Mô hình hai đáy)

Mô hình hai đáy hình thành khi giá tạo thành hai điểm đáy liên tiếp trên cùng một đồ thị. Mô hình này chỉ hoàn thiện khi giá tăng vượt qua điểm bắt đầu hình thành đáy thứ hai (tức là vượt qua đường Neckline sau khi đã chạm đến đáy thứ hai).

Mô hình hai đáy là thời kỳ chuyển đổi xu thế giảm giá thành xu thế tăng giá, nó mang tính đảo chiều. Có điều là mô hình này tương đối dễ nhận ra nên cũng rất dễ nhầm do đó nhà đầu tư nên cẩn thận khi quyết định tham gia trong thời kỳ này. Thực tế thống kê cho thấy nếu nhà đầu tư nóng vội tham gia ngay từ đầu thì xác xuất thất bại là 64% còn nếu họ cố gắng đợi đến khi xuất hiện "breakout" (đảo chiều) thật sự thì xác xuất thất bại chỉ còn 3%.

Để có thể nhận diện chính xác mô hình, nhà đầu tư nên chú ý đến một số vấn đề: đáy thứ hai không nên xuống vượt quá đáy thứ nhất; khoảng thời gian giữa hai đáy cũng là một dấu hiệu quan trọng-thời gian càng dài thì độ chính xác càng cao-ít nhất phải là một tháng và có thể kéo dài nhiều tháng.

Double top (Mô hình hai đỉnh)

Mô hình hai đỉnh hình thành khi đường biểu diễn sự biến động của giá chứng khoán hình thành hai đỉnh trên biểu đồ. Mô hình này chỉ hoàn thiện khi giá chứng khoán rơi xuống dưới mức sàn đáy (điểm dưới cùng của đáy) của toàn mô hình. Mô hình hai dỉnh là mô hình thể hiện sự đảo ngược của xu hướng tăng giá chứng khoán – nó đánh dấu quá trình chuẩn bị cho xu hướng đi xuống của xu hướng tăng giá trong hiện tại (nó báo hiệu cho một thị trường giảm giá). Vì đây là mô hình rất hay thường gặp và rất dễ nhận ra nên khi nhận định về thị trường chúng ta nên xem xét một cách cẩn then. Bolkowski ước tính mức thất bại của mô hình này là 65% nếu nhà đầu tư đợi đến mức đột biến giá (Breakout) mới tiến hành giao dịch thì mức rủi ro giảm xuống còn 17%.

Falling wedge (Mô hình cái nêm hướng xuống)

Mô hình Falling wedge là một hình mẫu kỹ thuật dạng bullish (chỉ báo thị trường tăng giá), mô hình bắt đầu thì biên khoảng cách giữa hai đường xu thế rộng sau đó độ rộng giảm dần khi giá chứng khoán giảm. Sự biến động của giá hình thành một hình chóp nón hướng xuống dưới do các đỉnh và đáy dần hội tụ. Hình mẫu kỹ thuật Falling wedge trượt hướng xuống phía dưới và có dấu hiệu bullish (chỉ báo thị trường tăng giá), tuy nhiên dấu hiệu bullish (chỉ báo thị trường tăng giá) này sẽ không thể được nhận ra cho đến khi có "breakout" (đảo chiều xu thế ) khỏi đường kháng cự. Khi mô hình mang tính continuation (tiếp tục xu thế của thị trường), thì Falling wedge vẫn sẽ hướng xuống dưới và xu hướng này ngược với xu thế của thị trường hiện tại. Khi nó mang tính reversal (đảo ngược với xu thế của thị trường), thì Falling wedge hướng trượt xuống dưới cùng với xu thế của thị trường. Nhưng cho dù Falling wedge thuộc loại nào thì nó vẫn là hình mẫu kỹ thuật báo hiệu sự tăng giá!

Head and shoulders top (hình mẫu kỹ thuật đỉnh đầu vai)

Đỉnh đầu vai là một hình mẫu kỹ thuật hết sức phổ biến đối với những nhà đầu tư vì nó là một hình mẫu kỹ thuật đáng tin cậy nhất trong tất cả những hình mẫu kỹ thuật được trình bày trong đề tài nghiên cứu này, đồng thời nó cũng thường được nhận ra một cách dễ dàng. Những nhà phân tích kỹ thuật ít kinh nghiệm thường mắc lỗi đối với hình mẫu kỹ thuật này vì họ nhận thấy nó xuất hiện khá phổ biến trên biểu đồ. Những nhà phân tích kỹ thuật chuyên nghiệp thường nhận biết hình mẫu kỹ thuật này thông qua những biến cố thực sự. Đỉnh đầu vai là loại hình mẫu kỹ thuật đảo ngược xu thế của thị trường. Nó là dấu hiệu quan trọng đánh dấu sự đảo chiều của xu thế biến động giá chứng khoán từ xu thế tăng giá chuyển thành xu thế giảm giá.

Hình mẫu kỹ thuật đỉnh đầu vai thực ra là sự mô phỏng theo hình dáng đầu và hai vai của con người, hình mẫu gồm ba đỉnh cao nhọn được tạo bởi ba điểm khôi phục - tăng giá trở lại sau khi giá giảm trong sự biến động của giá chứng khoán. Đỉnh đầu tiên – vai trái – xuấn hiện khi giá chứng khoán tăng đạt tới đỉnh của nó và sau đó giảm xuống. Đỉnh thứ hai – cái đầu- xảy ra khi giá chứng khoán tăng lên đến một đỉnh cao mới cao hơn đỉnh của vai trái rồi sau đó lại giảm xuống. Đỉnh thứ ba – vai phải – xuất hiện khi giá chứng khoán tăng một lần nữa nhưng không cao bằng đỉnh thứ hai, rồi lại giảm xuống sau khi đã đạt được đỉnh của nó. Đỉnh của hai “vai” chắc chắn sẽ thấp hơn đỉnh của “đầu”. Trong mô hình phân tích cổ điển thì hai đỉnh của hai vai phải cân bằng với nhau nhưng điều quan trọng nhất quyết định của mô hình này đó chính là đường nối hai đáy của hai vai gọi là đường “vòng cổ” – neckline – mô hình sẽ bị phá vỡ khi đường vòng cổ bị xuyên chéo bởi giá chứng khoán và giá chứng khoán tiếp tục giảm xuống dưới đường “vòng cổ” – neckline – các chuyên viên Phân tích kỹ thuật cho rằng mô hình không được khẳng định là đúng cho tới khi giá chứng khoán giảm xuống dưới đường “vòng cổ” – neckline.

Rounding bottom (hình mẫu kỹ thuật đáy vòng cung)

Rounding bottom là một hình mẫu kỹ thuật đảo ngược xu hướng biến động thị trường – reversal – dài hạn, nó thường được dùng để phân tích với biểu đồ hàng tuần. Nó đại diện cho một thời kỳ củng cố dài hạn trong xu thế biến động của giá chứng khoán, nó là mô hình chuyển tiếp từ một khuynh hướng giảm giá liên tục – Bearish – sang một khuynh hướng tăng giá mạnh – bullish. Sự xác nhận của khuynh hướng tăng giá mới – bullish – khi khuynh hướng biến động giá chứng khoán vượt qua đường miệng của vòng cung, nó đánh dấu một khuynh hướng mới trong quá trình biến động của giá chứng khoán, như một mức hỗ trợ của sự đột biến giá chứng khoán, đường này cũng được coi là mức kháng cự của xu thế mới. Tuy nhiên, Rounding bottom đại diện cho sự đảo chiều của sự biến động giá chứng khoán trong dài hạn và mức hỗ trợ mới cũng trở thành không mấy quan trọng nữa.

Triple bottom (hình mẫu kỹ thuật ba đáy)

Mô hình ba đáy được hình thành bởi ba đáy phụ riêng biệt với mức xấp xỉ bằng nhau. Mô hình ba đáy được xem như là mô hình cải tiến của mô hình đỉnh đầu vai ngược, mô hình ba đáy là hình mẫu dạng đảo ngược xu thế biến động của thị trường. Thứ duy nhất để phân biệt giữa mô hình ba đáy và mô hình đỉnh đầu vai ngược đó chính là đỉnh - “đầu” – nằm giữa hai “vai”. Mô hình ba đáy biểu diễn xu thế giảm xút trong quá trình nó trở thành một xu thế tăng giá. như vậy nó chỉ còn hợp lệ khi nó vẫn trong quá trình giảm xút so với hai đỉnh ở giữa hay là nó chưa đi xuyên chéo qua đường vòng cổ – neckline – vượt qua mức kháng cự của mô hình. Bởi vì hình mẫu kỹ thuật này rất dễ nhầm lẫn với nhiều hình mẫu kỹ thuật khác cho nên cach chuyên viên phân tích khuyên rằng để ứng dụng mô hình này một cách có hiệu quả cao nhất trong quá trình đầu tư, chúng ta nên chờ đợi một dấu hiệu "breakout" một cách rõ ràng thông qua sự xuyên chéo của đường biểu diễn giá chứng khoán với đường kháng cự của mô hình – neckline – trước khi nhận định đây có phải thực sự là hình mẫu kỹ thuật dạng “ba đáy” hay không

Triple top (hình mẫu kỹ thuật ba đỉnh)

Mô hình ba đỉnh được xem là mô hình cải tiến của mô hình đỉnh đầu vai. Tương tự như mô hình “ba đáy” thứ duy nhất để phân biệt một cách rõ ràng giữa mô hình này với mô hình đỉnh đầu vai đó chính là đỉnh “đầu” nằm giữa hai “vai”, trong mô hình “ba đỉnh” thì ba đỉnh xấp xỉ cao bằng nhau, nhưng trong mô hình “đỉnh đầu vai” thì hoàn toàn khác, đỉnh đầu cao hơn hẳn so với hai vai hai bên. Như hình minh hoạ ở bên dưới thì mô hình “ba đỉnh” được hình thành từ ba đỉnh sắc nhọn, cả ba đỉnh có độ cao gần bằng nhau. Một đỉnh trong bộ ba xuất hiệ khi giá chứng khoán đang ở trong giai đoạn tăng giá, sự tăng giá lên tới mức kháng cự của mô hình sau đó giá chứng khoán giảm xuống mức hỗ trợ của mô hình, sau đó xuất hiện sự tăng giá trở lại nhưng chỉ đạt đến mức kháng cự ngang bằng với mức kháng cự của mô hình và lại giảm xuống, sự tăng giá trở lại mức kháng cự thứ ba trước khi giá chứng khoán bị giảm một cách nhanh chóng xuống dưới mức hỗ trợ của mô hình. Hình mẫu kỹ thuật ba đỉnh là một hình mẫu dạng đảo chiều của thị trường nó đánh dấu một thời kỳ chuyển tiếp giữa một xu thế tăng giá và một xu thế giảm giá. Điều kiện đầu tiên của mô hình đó là phải được bắt đầu băng một xu thế tăng giá. Các chuyên viên phân tích khuyên rằng nhà đầu tư nên đợi sự xuất hiện của sự xuyên chéo giữa đường biểu diễn giá chứng khoán với đường hỗ trợ của mô hình – neckline – một cách rõ ràng. nếu giá chứng khoán không giảm mạnh sau sự xuất hiện đỉnh thứ ba thì đó không phải là mô hình “ba đỉnh”. Đôi khi trong thực tế mô hình “ba đỉnh” không thực sự xảy ra một cách hoàn hảo ví dụ như ít khi ba đỉnh có độ cao xấp xỉ bằng nhau, mà sự bằng nhau chỉ mang tính chất có sự sai lệch có thể chấp nhận được.

Phân tích kĩ thuật phần 8

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 10:27 VIỆT TRADER

User Rating: / 0 

PoorBest 

Sử dụng đường hỗ trợ và đường kháng cự trong phân tích

Đường hỗ trợ và kháng cự là một trong những công cơ bản được các tay buôn chứng khoán sử dụng để phân tích và xác định vùng biến động của giá cổ phiếu trên thị trường. Có thể ở Việt Nam, khái niệm đường hỗ trợ, đường kháng cự còn rất lạ lẫm đối với nhiều nhà đầu tư song khái niệm này được nhắc tới và sử dụng rất phổ biến trong phân tích kĩ thuật, thậm chí còn được coi là kim chỉ nam, là sách gối đầu giường của nhiều tay chơi cổ phiếu. Bài viết này nhằm cung cấp các kiến thức cơ bản nhất về mức hỗ trợ, mức kháng cự cũng như cách xác định các mức giá có khả năng xảy ra trong tương lai.

Một trong những tiên đề nổi tiếng, có tính kinh điển trong phân tích kĩ thuật đó là "giá cả của cổ phiếu chịu sự tác động mạnh mẽ của mức hỗ trợ và mức kháng cự". Hỗ trợ là thuật ngữ dùng để chỉ các tác động giữ cho giá cổ phiếu luôn cao hơn một mức nào đó, còn kháng cự ngược lại, là thuật ngữ được sử dụng để chỉ các tác động khiến cho giá cổ phiếu luôn thấp hơn một mức nhất định nào đó. Người ta đã nghiệm ra rằng lịch sử luôn lặp lại, nếu trong quá khứ các mức giá đã từng đóng vai trò là giá kháng cự,thì chúng có xu hướng sẽ lặp lại vai trò đó trong tương lai. Việc biểu diễn được các đường hỗ trợ hay kháng cự trên đồ thị cổ phiếu sẽ giúp nhà đầu tư xác định được tầm quan trọng của chúng trong quá khứ cũng như tiên liệu được các biến động trong tương lai. Khi nhận thấy thị trường đang giao dịch với mức giá gần với và hướng về các mức trên, ta có thể đưa ra một số dự báo hợp lý về giá cả cổ phiếu trong thời gian tới, từ đó có được các quyết định đầu tư cho riêng mình.

Vậy thế nào là hỗ trợ, thế nào là kháng cự và hình thù của chúng trên các đồ thị cổ phiếu ra sao? Để giải quyết được câu hỏi này, hãy cùng quan sát một đồ thị có biểu diễn các đường kháng cự và đường hỗ trợ tại các mức giá hết sức rõ ràng và dễ nhận biết. Sử dụng các thông tin rút ra từ bảng này ta có thể biết được liệu các mức kháng cự hay hỗ trợ này có lặp lại không khi giá cổ phiếu có xu hướng chạm tới các mức giá đó. Tuy nhiên, trước khi đi sâu khám phá những bí ẩn đằng sau các biểu đồ, hãy cùng tìm hiểu một số thuật ngữ và các nguyên nhân dẫn tới sự hình thành của các đường này.

Bất kì ai thường xuyên theo dõi các kênh thông tin tài chính, đọc các tạp chí đầu tư như Financial Times, vào các website chuyên ngành đầu tư chứng khoán của các thị trường lớn đều có thể nghe được và đọc được các lời nhận xét của các chuyên gia tài chính như, đại loại như là "Tôi cho rằng mức hỗ trợ của Dow là 7300" hay "Dow chắc chắn sẽ có mức kháng cự là 8100" Vậy thì bản chất tài chính của kháng cự hay hỗ trợ là gì, và tại sao người ta lại nhắc đến nó nhiều như vậy. Robert Edwards và John Magee trong tác phẩm kinh điển của họ có tựa đề "phân tích kĩ thuật xu thế biến động cổ phiếu" (Technical analysis of stock trend) đã định nghĩa như sau:

Hỗ trợ là việc mua, có thể trên thực tế hoặc tiềm năng, một khối lượng lớn cổ phiếu trong một giai đoạn nhất định nhằm ngăn chặn không cho giá của chúng giảm thêm nữa. Kháng cự, ngược với hỗ trợ, là việc bán một lượng lớn cổ phiếu nhằm đáp ứng các lệnh mua, khiến cho mức giá không tăng thêm nữa. Xét về quan hệ cung cầu thì hỗ trợ là mức giá mà tại đó cầu lớn hơn cung, còn kháng cự là mức giá tại đó cầu nhỏ hơn cung.

Hãy cùng quan sát bảng 1 để thấy rõ hơn. Đây là biểu đồ chứng khoán của công ty Rubbermaid từ tháng 6 năm 1997 đến tháng 9 năm 1998. Đồ thị thể hiện ba lần giá cổ phiếu lên cao hơn mức 27.5 điểm ( tại A ,B ,C), sau đó lại đảo chiều và giảm giá. Kế đó, sau khi vượt qua mức 27.5 điểm vào tháng 1 năm 1998 giá cổ phiếu lại tụt xuống (điểm D ,E ,F) trước khi tăng lên tới mức 35 điểm. Một đường thẳng được kẻ sao cho càng gần với cả sáu điểm này càng tốt. Trong bảng này, ta thấy mức giá đóng vai trò kháng cự tại điểm A-C, sau đó đảo chiều và đóng vai trò hỗ trợ tại điểm D-E.

Để giải thích được hành vi của thị trường, chúng ta cần phân tích rõ đồ thị này hơn chút nữa. Sau khi sụt giảm mạnh từ mức 30 điểm vào giữa tháng 7 năm 1997, giá cổ phiếu sau đó đã tăng lên mức 27.5 (điểm A) vào tháng 8, lại sụt giảm, rồi tăng lên mức 27.25 điểm vào tháng 8, sau đó lại sụt giảm. Chu kì này lại tiếp diễn một lần nữa vào tháng 1 năm 1998, sau đó lại được đẩy từ mức 27.5 điểm lên mức 29.5 điểm vào tháng 2.

Giả định rằng trước khi diễn ra sự sụt giá vào giữa tháng 7 năm 1997, các nhà đầu tư mua cổ phiếu ở mức giá dưới 30 điểm đã kiếm được một khoản lợi nhuận sau khi bán lại các cổ phiếu này cho các nhà đầu tư mới ở mức giá 30 điểm. Nhưng ngay sau đó, nhiều người trong số các cổ đông mới này đã đau khổ khi phải chứng kiến tiền đầu tư của mình bỗng nhiên giảm đi mất 15% chỉ sau một đêm ngắn ngủi (giá giảm xuống mức 25.5 điểm) và đương nhiên ai cũng mong ngóng ngày giá tăng để giảm bớt khoản lỗ.

Mặt khác, các nhà đầu tư đã lỡ cơ hội kiếm lời từ việc tăng giá ngay trước đó (từ thấp hơn 30 lên 30 điểm) thì lại coi đây là một cơ hội tốt để mua vào, đơn giản vì mới chỉ hai ngày trước đó, mức giá còn ngất ngưởng 30 điểm. Chính vì tâm lý này nên giá cổ phiếu đã tăng lên mức 27.5 (điểm A), và các cổ đông mua cổ phiếu ở mức giá 30 cũng nhẹ nhõm hơn một chút vì mức lỗ của họ chỉ còn 2.5 điểm thay vì 4.5 điểm như trước đây. Nhiều người chấp nhận mức lỗ này, và không muốn kéo dài tình trạng lo lắng cho túi tiền của mình, họ quyết định bán cổ phiếu ra, khiến cho giá sụt xuống. Chu trình này lặp lại (điểm B và C) cho đến khi một bộ phận lớn các nhà đầu tư không chấp nhận mức lỗ 2.5 điểm và vẫn quyết định nắm giữ cổ phiếu, khiến cho mức giá tiếp tục tăng và vượt qua mức 27.5 vào tháng 2 năm 1998, tiếp tục tăng lên mức 29.5 điểm.

Tại mức giá này, nhiều nhà đầu tư cảm thấy hài lòng với quyết định nắm giữ cổ phiếu của mình, chấp nhận mức lỗ 0.5 điểm, lo sợ vì mức giá duy trì yếu trong thời gian dài, họ quyết định liên lạc với người môi giới của mình để bán cổ phiếu, khiến cho giá lại giảm xuống mức 27.5 (điểm D). Hiện tượng này tiếp tục xảy ra thêm hai lần nữa (điểm E, F) cho đến khi những nhà đầu tư chấp nhận chịu mức lỗ nhỏ đã ra khỏi thị trường, lúc này giá cả lại được đẩy lên mức 30 điểm vào tháng 5 năm 1998.

Quá trình trên không chỉ xảy ra tại mức giá này mà nó xảy ra ngay tại mỗi mức giá cổ phiếu được giao dịch. Mặc dù điều này có vẻ quá đơn giản, nhưng đó là một trong những kiểu ra quyết định của các nhà đầu tư giúp hình thành nên mức hỗ trợ và mức kháng cự. Một vài nhân tố quan trọng hơn cả sẽ có ảnh hưởng lớn đến biểu hiện của giá cả, tuy nhiên nếu không tính tới các nhân tố này, các mức hỗ trợ và kháng cự này có thể có những tác động rõ rệt đến hình dạng của bảng biểu chứng khoán thường ngày. Nhưng quan trọng hơn cả, bằng cách kết hợp kiến thức về mức hỗ trợ, mức kháng cự cùng với các công cụ phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật khác, chúng ta có thể có những sự so sánh, dự đoán xu hướng biến động của giá cả, chớp thời cơ làm giàu, hơn là bị động gánh chịu và sửng sốt trước những biến đổi bất ngờ của nó.

Bảng thứ hai lại là một ví dụ khác, thể hiện biến động theo từng ngày của cổ phiếu OSSi (Outback Steakhouse). Kể từ đầu năm 1998 tới giữa tháng 2, giá cổ phiếu tăng từ 28.5 lên 34.5 điểm (tại A). Hãy chú ý tới phần đường biểu diễn nằm sát nhau ngay trên đường hỗ trợ được kẻ tại mức 34.5, và những biến động của giá cả trong vài tháng tiếp đó khi nó tăng giảm chạm mức hỗ trợ 4 lần tại B, C, D, E. Từ điểm E cho đến cuối tháng 7, giá tăng lên tới tận mức đỉnh điểm là 41(tại F), ngay sau đó lại tụt dốc rất nhanh xuyên qua đường hỗ trợ, xuống mức 32.5 vào đầu tháng 8.

Vì F là điểm cao nhất trong cả thời kì phân tích, ta sẽ kẻ một đường thẳng từ điểm G đến điểm E, kéo thẳng đường này sang phía phải (gọi là đường xu thế). Hãy chú ý rằng điểm dừng H trước ngày giá giảm từ 36 xuống 32.5 điển (I) nằm ngay trên đường này. Sự sụt giảm tương đối lớn ngay ngày sau đó cho thấy đường xu thế này đóng vai trò như một đường hỗ trợ, một khi vượt qua được "rào cản" này, giá sẽ rớt tự do. Đồng thời điều này cũng có nghĩa là đường hỗ trợ và kháng cự không nhất thiết phải là đường ngang, nó có thể là một đường xiên. Trên thực tế, cũng có thể coi chính các đường xu thế này như đường hỗ trợ hay kháng cự.

Quay lại với các điểm nằm trên đường hỗ trợ (A, B, C, D, E). Vì mức giá giảm xuống dưới 34.5 nên giá đã phá vỡ đường hỗ trợ và đường xu thế. Trong tháng 8 mức giá chủ yếu giao động nhẹ quanh mức 34.5, lúc này đường xu thế không còn đóng vai trò như một đường hỗ trợ nữa, nó đã đảo chiều và đóng vai trò như một đường kháng cự cho đến khi giá giảm xuống mức thấp hơn, đến tháng 9, cổ phiếu này được giao dịch ở mức 26.

Mức độ quan trọng và đáng tin cậy trong việc dự đoán tương lai của đường hỗ trợ hay kháng cự trong phân tích kĩ thuật liên quan trực tiếp đến sô lần giá chạm tới các đường này và chuyển động ngược trở lại. Trong đồ thị số 4, có ít nhất là 7 lần giá đạt tới mức kháng cự/hỗ trợ và sau đó đảo chiều. Con số này chứng tỏ rằng các đường này rất có ý nghĩa và đáng tin cậy, có thể dùng để dự đoán các biến động của giá trong tương lai. Nó có đáng tin 100% không? Tất nhiên là không, chẳng có phương pháp phân tích nào lại đáng tin 100% bởi thị trường còn chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố, tuy nhiên theo như đồ thị này thì khả năng giá sẽ đảo chiều là rất lớn.

Theo đồ thị trên, khi mức giá không giữ xu thế tăng nữa, chúng ta sẽ kẻ một đường xu thế mới để thể hiện hướng biến động mới của giá cả. Một đường thẳng nối từ F, kéo dài qua J là đường xu thế mới. Một đường thẳng khác nối từ H, song song với đường xu thế trên có vẻ "bao trọn" được biên giao động của giá trong thời gian từ tháng 7 đến tháng 9, đây chính là môt hình hỗ trợ-kháng cự đường xiên điển hình.

Nhìn chung, hỗ trợ và kháng cự không phải là công cụ dự đoán chính xác 100% sự biến động của giá cả trong tương lai, thay vào đó chúng là công cụ dùng để cảnh báo các nhà đầu tư về một số điểm cần xem xét thẩm tra kĩ càng. Bằng cách sử dụng đường hỗ trợ và kháng cự kèm với các chỉ số khác, chúng ta có thể biết được các tác động của chúng (nếu có) đối với giá cổ phiếu, với độ chính xác tuỳ theo số lần giá cả chạm mức kháng cự hay hỗ trợ. 

Phân tích kĩ thuật phần 9 - Lý thuyết Dow

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 10:32 VIỆT TRADER

User Rating: / 0 

PoorBest 

Lý thuyết Dow là cơ sở đầu tiên cho mọi nghiên cứu kĩ thuật trên thị trường chứng khoán. Mặc dù nó thường bị coi là trễ so với thị trường và bị nhiều người chỉ trích, nhưng nó vẫn được đông đảo những người có quan tâm đến và tôn trọng.Rất nhiều người, dù ít hay nhiều có sử dụng lý thuyết này cho việc đề ra cho riêng mình một quan điểm đầu tư đều không nhận ra một điều là bản chất của Lý thuyết Dow là hoàn toàn mang “tính kĩ thuật”.

Cơ sở để xây dựng cũng như đối tượng nghiên cứu của lý thuyết chính là những biến động của bản thân thị trường (thể hiện trong chỉ số trung bình của thị trường) và không hề dựa trên cùng cơ sở của Phân tích cơ bản là các thống kê họat động kinh doanh của doanh nghiệp.

Trong những ghi chép của người đầu tiên đề ra lý thuyết này, ông Charles.H.Dow, có rất nhiều điều chứng tỏ rằng tác giả không hề nghĩ lý thuyết của mình sẽ trở thành một công cụ dùng cho dự báo thị trường chứng khoán hay thậm chí nó trở thành một hướng dẫn chung cho các nhà đầu tư. Những ghi chép ấy chỉ nói lên rằng ông muốn lý thuyết của mình thành một thước đo biến động chung của thị trường. Dow thành lập “Dịch vụ thông tin tài chính Dow Jones” và được mọi người biết đến với việc tìm ra chỉ số bình quân thị trường chứng khoán. Những nguyên lý căn bản của học thuyết (ngày nay được đặt theo tên ông) đã được ông phác thảo ra trong một bài nghiên cứu mà ông viết cho “ Nhật Báo Phố Wall”. Sau khi Dow chết, năm 1902, người kế tục ông làm biên tập cho tờ nhật báo, William.P.Hamilton, đã tiếp tục việc nghiên cứu lý thuyết này, sau 27 năm nghiến cứu và viết các bài báo, ông đã tổ chức và cấu trúc lại thành Lý thuyết Dow như ngày nay.

Trước hết, hãy quan tâm đến chỉ số trung bình của thị trường. Nhìn chung giá, chứng khoán của tất cả các công ty đều cùng lên và xuống, tuy nhiên một số cổ phiếu lại chuyển động theo hướng ngược lại xu thế chung của các cổ phiếu khác cho dù là chỉ trong vài ngày hoặc vài tuần. Thực tế cho thấy khi thị trường lên giá thì giá của một số chúng khoán tăng nhanh hơn những chứng khoán khác, còn khi thị trường xuống giá thì một số chứng khoán giảm giá nhanh chóng trong khi có một số khác lại tăng lên, nhưng thực tế vẫn chứng minh rằng hầu như tất cả các chứng khoán đều giao động theo cùng một xu thế chung.

Cùng với những cố gắng nghiên cứu của mình, Charles Dow đã đưa ra khái niệm về “chỉ số giá bình quân” nhằm phản ánh xu thế chung của một số cổ phiếu đại diện cho thị trường. Hai loại chỉ số bình quân Dow Jones được hình thành vào năm 1897 và vẫn được sử dụng cho đến ngày nay do Dow tìm ra và áp dụng trong các nghiên cứu của ông về xu thế chung của thị trường. Một trong hai loại chỉ số ấy là chỉ số của 20 công ty xe lửa, loại còn lại gọi là chỉ số công nghiệp thuộc các ngành khác bao gồm 12 công ty mạnh nhất vào thời kỳ đó. Con số này tăng lên 20 công ty vào năm 1916 và đến 1928 là 30 công ty.

Chỉ số bình quân Dow (phần 1)

Thuật ngữ thị trường nhằm chỉ giá chúng khoán nói chung, giao động của thị trường tạo thành các xu thế giá, trong đó, quan trọng nhất là cá c xu thế cấp 1 (xu thế chính hay xu thế cơ bản)...

1 - Chỉ số bình quân thị trường phản ánh tất cả (trừ hành động của Chúa)

Bởi vì nó phản ánh những hoạt động có liên kết với nhau của hàng nghìn nhà đầu tư, gồm cả những người có kinh nghiệm dự đoán thị trường giỏi nhất, có những thông tin tốt nhất về xu hướng và các sự kiện, những gì có thể nhận thấy trước và tất cả những gì có thể ảnh hưởng đến cung và cầu của các loại chứng khoán.Thậm chí cả những thiên tai hay thảm họa không dự tính được thì ngay khi xảy ra, chúng đã được thị trường phản ánh ngay vào giá của các loại chứng khoán.

2 - Ba xu thế của thị trường

Thuật ngữ thị trường nhằm chỉ giá chúng khoán nói chung, giao động của thị trường tạo thành các xu thế giá, trong đó, quan trọng nhất là các xu thế cấp 1 (xu thế chính hay xu thế cơ bản). Đây là những biến động tăng hoặc giảm với qui mô lớn,thường kéo dài trong một hoặc nhiều năm và gây ra sự tăng hay giảm đến 20% giá của các cổ phiếu.Chuyển động theo xu thế cấp 1 sẽ bị ngắt quãng bởi sự xen vào của các giao động cấp 2 theo hướng đối nghịch_ gọi là những phản ứng hay điều chỉnh của thị trường. Những biến động này xuất hiện khi xu hướng cấp 1 tạm thời vượt quá mức độ hiện tại của bản thân nó (gọi chung các biến động này là các biến động trung gian - biến động cấp 2). Những biến động cấp 2 bao gồm những biến động giá nhỏ hay gọi là những biến động hàng ngày đều không có ý nghĩa quan trọng trong Lý thuyết Dow.

3 - Xu thế cấp 1

Như đã nói đến ở phần trước,xu thế cấp 1 là những chuyển động lớn của giá, bao hàm cả thị trường, thường kéo dài hơn 1 năm và có thể là trong vài năm. Nếu như mỗi đợt tăng giá liên tiếp đều đạt đến mức cao hơn mức trước đó và mỗi điều chỉnh cấp 2 đều dừng lại ở mức đáy cao hơn mức đáy của lần điều chỉnh trước thì xu thế cấp 1 lúc này là tăng giá - thị trường lúc này là thị trường giá lên (Bull Market). Còn ngược lại nếu mỗi biến động giảm đều làm cho giá xuống những mức thấp hơn còn mỗi điều chỉnh đều không đủ mạnh để làm cho giá tăng lên đến mức đỉnh của những đợt tăng giá trước đó thì xu thế cấp 1 của thị trường lúc này là giảm giá, thị trường được gọi là thị trường giá xuống (Bear Market).Thông thường, về lý thuyết thì xu thế cấp 1 chỉ là một trong 3 loại xu thế mà một nhà đầu tư dài hạn quan tâm. Mục đích của nhà đầu tư đó là mua chứng khoán càng sớm càng tốt trong một thị trường lên giá, sớm đến mức anh ta có thể chắc chắn rằng mới có duy nhất mình anh ta bắt đầu mua và sau đó nắm giữ đến khi và chỉ khi thời kỳ "Bull Market" đã thực sự kết thúc và bắt đầu thời kỳ "Bear Market". Nhà đầu tư hiểu rằng họ có thể bỏ qua một cách an toàn tất cả những sự xen vào của các điều chỉnh cấp 2 và các giao động nhỏ vì họ đầu tư dài hạn theo xu thế chính của thị trường. Tuy nhiên với một nhà đầu tư ngắn hạn thì những biến động của xu thế cấp 2 lại có vai trò quan trọng bởi họ kiếm lợi nhuận dựa trên những biến động ngắn hạn của thị trường.

4 - Xu thế cấp 2

Xu thế cấp 2 là những điều chỉnh có tác động làm gián đoạn quá trình vận động của giá theo xu thế cấp 1. Chúng là những đợt suy giảm tạm thời (trung gian) hay còn gọi là những điều chỉnh xuất hiện ở các thị trường giá lên; hoặc những đợt tăng giá hay còn gọi là hồi phục xuất hiện ở các thị trường giá xuống.Thường thì những biến động trung gian này kéo dài từ 3 tuần đến nhiều tháng. Chúng sẽ kéo thị trường ngược lại khoảng 1/3 đến 2/3 mức tăng (hay giảm tùy loại thị trường) của giá theo xu thế cấp 1. Do đó, chẳng hạn trong thị trường giá lên, nếu chỉ số giá bình quân công nghiệp tăng liên tục ổn định hoặc có gián đoạn rất nhỏ và mức tăng đạt đến 30 điểm, khi đó xuất hiện xu thế điều chỉnh cấp 2, thì người ta có thể trông đợi xu thế điều chỉnh này có thể làm giảm từ 10 đến 20 điểm cho đến khi thị trường lặp lại xu thế tăng cấp 1 ban đầu của nó.

Dẫu sao cũng cần lưu ý là quy tắc giảm 1/3 đến 2/3 không phải là một quy luật không thể phá vỡ mà nó đơn giản chỉ là một nhận xét về khả năng có thể xảy ra mà hầu hết các biến động cấp 2 đều bị giới hạn trong mức này. Rất nhiều trong số đó ngừng tác động ở điểm gần với mức 50% mà rất hiếm khi đạt đến mức 1/3.

Như vậy có 2 tiêu chí để nhận định một xu thế cấp 2: Tất cả những chuyển động của giá ngược hướng với xu thế cấp 1 kéo dài ít nhất 3 tuần và kéo hoàn lại ít nhất 1/3 mức biến động thức của xu thế cấp 1 (tính từ điểm kết thúc biến động cấp 2 trước đó đến biến động cấp 2 này, bỏ qua những giao động nhỏ) thì được coi là thuộc loại trung gian hay còn gọi là biến động cấp 2. Mặc dù đã có những tiêu chí để xác định một xu thế cấp 2 nhưng vẫn có những khó khăn trong việc xác định thời điểm hình thành và thời gian tồn tại của xu thế.

5 - Xu thế nhỏ (Minor)

Đây là những giao động trong thời gian ngắn(dài tối đa 3 tuần, thường chỉ dưới 6 ngày) mà theo như thuyết Dow đã nói đến, bản thân chúng không thực sự có ý nghĩa nhưng chúng góp phần tạo nên các xu thế trung gian. Thông thường thì một biến động trung gian dù là một xu thế cấp 2 hay là một phần của xu thế cấp 1 xen giữa hai xu thế cấp 2 liên tiếp đều được tạo thành từ một dãy gồm 3 hoặc nhiều hơn những sang nhỏ khác nhau.Xu thế nhỏ là dạng duy nhất trong 3 loại xu thế có thể bị “lôi kéo” (bị tác động). Để tác động vào xu thế cấp1 và 2 thì cần những giao dịch với khối lượng rất lớn và điều này hầu như là không thể.

Để làm rõ khái niệm về 3 xu thế của thị trường, ta có thể so sánh với biến động của sóng biển với một số điểm giống nhau như sau: Xu thế cấp 1 trong giá chứng khoán giống như những đợt thủy triều lên hoặc xuống.Có thể so sánh thị trường giá lên (Bull Market) với thủy triều lên. Thủy triều dâng nước lên bờ biển ngày càng xa vào sâu trong bờ và đến đỉnh của thủy triều thì lại quay ngược trở về biển. Khi thủy triều rút lại được so sánh với thị trường giá xuống (Bear Market). Và cho dù trong lúc thủy triều lên hay xuống thì luôn có những con sóng đập vào bờ rồi lại lùi lại về biển. Khi thủy triều lên, mỗi con sóng liên tiếp nhau vào bờ, sóng sau vào sâu hơn sóng trước lại góp phần làm thuỷ triều vào xa hơn trong bờ, nhưng khi thủy triều xuống mỗi con sóng không mang nước ra xa bờ mà nước giảm xuống là do sóng sau vào đến bờ ở mức thấp hơn(tụt lại hơn) so với đỉnh của sóng trước, mỗi con sóng do đó sẽ trả lại dần dần bờ biển như trước khi thủy triều lên. Những con sóng này là các xu thế trung gian,có thể cấp1 hoặc cấp 2 tùy thuộc hướng chuyển động của nó so với hướng của thủy triều vào thời điểm xảy ra xu thế đó.

Mặt biển cũng luôn luôn biến động với những gợn sóng nhấp nhô chuyển động cùng chiều, ngược chiều hoặc chuyển động ngang so với hướng của những con sóng lớn - những gợn sóng này biểu hiện cho các xu thế nhỏ (những giao động hàng ngày có vai trò ko quan trọng như đã nói ở phần trên). Những đợt thủy triều, những con sóng và những gợn sóng nhỏ chính là những hình ảnh so sánh giống nhất đối với những biến giá của một thị trường. Điều này được mô tả cụ thể hơn trong Lý thuyết Sóng Elliott, trong đó mọi biến động của thị trường đều gắn trực tiếp với các con sóng...

Phân tích kĩ thuật phần 10 - Lý thuyết Dow (tt)

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 10:33 VIỆT TRADER

User Rating: / 1 

PoorBest 

Một xu thế tăng giá cơ bản thường bao gồm 3 thời kì.Thời kì đầu tiên là quá trình “tích tụ”. Trong quá trình này, những nhà đầu tư có tầm nhìn xa sẽ tiến hành xem xét các doanh nghiệp, có thể vào thời kì này doanh nghiệp đang suy thoái nhưng nhà đầu tư nhận thấy khả năng doanh ngiệp có thể chuyển biến tình hình thành tăng trưởng nhanh chóng,có thể giá cổ phiếu của nó sẽ tăng trong thời gian tới...

6 - Thị trường giá lên

Một xu thế tăng giá cơ bản thường bao gồm 3 thời kì.Thời kì đầu tiên là quá trình “tích tụ”. Trong quá trình này, những nhà đầu tư có tầm nhìn xa sẽ tiến hành xem xét các doanh nghiệp, có thể vào thời kì này doanh nghiệp đang suy thoái nhưng nhà đầu tư nhận thấy khả năng doanh ngiệp có thể chuyển biến tình hình thành tăng trưởng nhanh chóng,có thể giá cổ phiếu của nó sẽ tăng trong thời gian tới. Đây cũng là thời điểm mà cổ phiếu này đang được chào bán rất nhiều bởi những nhà đầu tư đang có tâm lý rất chán nản và lo lắng về tình trạng của những cổ phiếu của họ và để nhằm tăng dần giá chào bán của họ khi thị trường xuất hiện sự suy giảm trong khối lượng giao dịch. Các bản báo cáo tài chính của doanh nghiệp đó có thể không tốt thậm chí tồi, rất tồi. Giới đầu tư hoàn toàn cảm thấy thất vọng khi tham gia vào thị trường chứng khoán bởi họ thấy tiền đầu tư của họ đang giảm nhanh chóng và có nguy cơ còn giảm nữa, vì vậy mà họ muốn thoát ra khỏi thị trường.Tuy nhiên có thể nhận thấy một điều vào cuối giai đoạn thứ nhất này là trong hoạt động của công ty và trong những biến động trên thị trường đã có những biến chuyển tuy mới chỉ ở mức hạn chế, bắt đầu xuất hiện những đợt tăng giá nhỏ.

Thời kỳ thứ 2 là thời kỳ của sự tăng trưởng khá vững chắc. Họat động của doanh ngiệp đang theo dõi gia tăng mạnh cùng với những khởi sắc trong nội bộ doanh nghiệp và doanh thu của nó cũng tăng dần và bắt đầu thu hút các mối quan tâm trên thị trường.Đây chính là thời kì mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà kinh doanh chứng khoán theo trường phái phân tích kĩ thuật.

Cuối cùng là thời kì thứ 3. Trong thời kì này thị trường sôi sục với những biến động của nó. Công chúng rất háo hức với từng biến động của thị trường.Tất cả các thông tin tài chính của doanh nghiệp đưa ra đều rất tốt, giá chứng khoán tăng cao ngoài sức tưởng tượng và đang là những vấn đề nóng hổi được đưa lên trang đầu của các tờ báo ra hàng ngày.Thời điểm này có lẽ đã là 2 năm kể từ khi thị trường bắt đầu đi lên,những người ít kinh nghiệm có thể cho rằng thị trường lúc này mới chắc chắn cho lợi nhuận của họ và muốn tham gia vào thị trường. Nhưng thực sụ thì sau 2 năm, giá đã tăng khá cao, câu hỏi nên đặt ra vào lúc này là “nên bán cổ phiếu nào” chứ không còn là “nên mua cổ phiếu nào” nữa.Vào cuối thời kì thứ 3, người ta có thể thấy nạn đầu cơ tràn lan, khối lượng giao dịch vẫn tiếp tục tăng nhưng “air-pocket” xuất hiện và cũng gia tăng thường xuyên,số lượng cổ phiếu có giá thấp nhưng không có giá trị đầu tư cũng gia tăng và cả những đợt phát hành trái phiếu cũng ít dần đi.

7 - Thị trường giá xuống

Xu thế giảm giá của thị trường cũng được chia thành 3 thời kì.Thời kỳ đầu tiên là thời kỳ “phân bổ” (thời kỳ này thực sự bắt đầu ở giai đoạn cuối của thị trường giá lên trước đó). Trong thời kỳ này những nhà đầu tư có tầm nhìn xa đều nhận thấy rằng doanh thu của những công ty mà họ đang nắm giữ cổ phiếu đều đang đạt mức cao không bình thường và họ muốn nhanh chóng thoát khỏi cổ phiếu của các công ty này. Khối lượng giao dịch vẫn rất cao mặc dù đã có những dấu hiệu của xu hướng giảm, công chúng vẫn rất “năng động” nhưng cũng bắt đầu có dấu hiệu lo lắng và cũng không còn nhiều kỳ vọng kiếm lợi nhuận.

Thời kỳ thứ 2 được gọi là thời kỳ hỗn loạn. Số lượng người mua bắt đầu giảm dần và những người bán bắt đầu trở lên vội vã bán đi những cổ phiếu mình đang nắm giữ. Xu thế giảm giá bắt đầu tăng mạnh làm đồ thị giá gần như dốc thẳng xuống và khối lượng giao dịch đạt đến mức đỉnh điểm.Giai đoạn này được gọi là hỗn loạn vì sự sụt giảm thường xảy ra rất trầm trọng thậm chí là thái quá với mức độ vượt quá cả thực trạng của các doanh nghiệp.Sau giai đoạn hỗn loạn có thể có giai đoạn hồi phục(một dạng xu thế cấp 2) hoặc một giai đoạn giao động ngang của thị trường (các giao động không có hướng đi lên hay đi xuống mà là giao động trong một khoảng cố định theo chiều ngang của thị trường) trong một thời gian tương đối dài.Giai đoạn này thể hiện tâm lý chán nản của một bộ phận nhà đầu tư,họ cũng chính là những người đã cố gắng nắm giữ cổ phiếu qua thời kỳ hỗn loạn trước đó hoặc cũng có thể là những người đã mua cổ phiếu trong thời kỳ đó bởi vì lúc đó giá củ cổ phiếu rõ ràng là rẻ hơn rất nhiều so với trước đó vài tháng. Thông tin về các doanh nghiệp ngày càng xấu đi. Kết thúc giai đoạn này mới bước vào thời kỳ thứ 3. Vào thời kỳ thứ 3,xu thế đi xuống trên thị trường đã yếu dần,nhưng lại được duy trì bởi những lệnh bán nhiều và liên tục thể hiện “nỗi buồn” và sự lo lắng của những nhà đầu tư đang rất cần tiền cho những nhu cầu riêng của họ. Các cổ phiếu đều giảm đến mức thấp nhất, thậm chí gần như mất hoàn toàn giá trị. Những cổ phiếu có chất lượng cao hầu như không được giao dịch vì những người sở hữu chúng đều muốn nắm giữ đến cùng. Ở giai đoạn cuối của thị trường giá xuống, như một kết quả của toàn bộ thời kỳ giảm giá trước,cả thị trường chỉ tập trung vào giao dịch một số loại cổ phiếu. Thị trường giá xuống kết thúc tất cả với những tin xấu về các doanh nghiệp, về thị trường ở mức có thể coi là tồi tệ nhất đã thể hiện ra và có thể đến.

8 - Hai đường chỉ số bình quân của thị trường phải cùng xác nhận xu thế của thị trường.

Đây là câu hỏi thường xuyên đặt ra nhất và cũng khó giải thích nhất đối với hệ thống các nguyên lý của lý thuyết Dow.Tuy nhiên từ khi được đưa ra cho đến nay nó đã được thời gian chứng minh tính đúng đắn và nó vẫn được vận dụng cho đến ngày nay và bất kì một ai khi xem xét những số liệu ghi lại thì đều không thể có ý kiến phản đối với nguyên lý này.Còn với những người ít quan tâm hay bỏ qua nguyên lý này thì trong thực tế kinh doanh sẽ phải nhiều lần tiếc nuối. Điều nguyên lý này muốn nói đến đó là không thể có một dấu hiệu chính xác nào về sự thay đổi xu thế thị trường có thể được ra chỉ thông qua xem xét biến động của duy nhất một loại chỉ số bình quân(ở đây muốn nói đến những thị trường bao gầm nhiều chỉ số bình quân,chẳng hạn như ở Mĩ, như nói ở phần đầu,có hai loại chỉ số bình quân).

9 - Khối lượng giao dịch áp dụng kèm với xu thế thị trường.

Điều này thể hiện một thực tế là khi giá biến động theo đúng xu thế cấp 1 thì các họat động kinh doanh trên có xu hướng mở rộng hơn. Do vậy, với thị trường giá lên, khối lượng giao dịch sẽ tăng nếu giá tăng,và sẽ thu lại nếu giá giảm; với thị trường giá xuống, giá trị giao dịch sẽ tăng nếu giá giảm và ít khi giá có dấu hiệu phục hồi. Điều này vẫn đúng ở mức độ thấp hơn tức là với những xu thế cấp 2, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của một xu thế hồi phục cấp 2 trong một thị trường giá xuống, khi mà các diễn biến của thị trường chỉ ra rằng giá sé tăng lên theo một số đợt tăng giá nhỏ, còn các biến động kéo giá xuống giảm đi. Các kết luận ở đây thường không có giá trị nếu chỉ dựa trên diễn biến trong vài ngày và càng không có giá trị với những kết luận dựa trên một phiên giao dịch đơn lẻ.Nguyên lý này chỉ phát huy hiệu quả nếu dựa trên những diễn biến của khối lượng giao dịch chung trong thời gian giao dịch tương đối dài .Hơn nữa, theo Lý thuyết Dow thì chỉ dựa trên những phân tích về giá mới có thể đưa ra được những dấu hiệu mang tính quyết định về xu thế thị trường,còn khối lượng giao dịch chỉ có thể cung cấp thêm những chứng cứ phụ để giải thích rõ hơn biến động của thị trường và sử dụng vào những tình huống khi dấu hiệu chính tỏ ra còn nhiều nghi ngờ.

10 - Đường ngang có thể thay thế cho các xu thế cấp 2

Đường ngang theo đinh nghĩa của Lý thuyết Dow là những chuyển động ngang có tính chất trung gian của thị trường phản ánh thời kỳ mà giá biến động rất ít (với thị trường Mĩ là nhỏ hơn hoặc bằng 5%). Đường ngang thường kéo dài từ 2 đến 3 tuần hoặc đôi khi là lâu hơn (trong vài tháng). Khi thị trường xuất hiện mô hình dạng đường ngang, điều này chỉ ra rằng áp lực của cung và cầu trên thị trường là tương đối cân bằng. Thực tế trong giai đoạn này các lệnh đặt mua hoặc bán đều thể hiện một sự kiệt sức .Những người muốn mua cổ phiếu thì phải tăng mức giá chào mua để khuyến khích người có cổ phiếu mà họ muốn bán cho họ,còn những người muốn bán thì với thị trường có biến động dạng đường ngang họ thấy rằng số lượng người mua đang ít dần và kết quả là họ phải giảm giá để có thể bán được những cổ phiếu của mình. Do vậy một mức giá giao động vượt ra ngoài mức giao động của mô hình đường ngang đang xuất hiện trên thị trường sẽ là một dấu hiệu rõ ràng cho một thị trường lên hoặc xuống giá tùy thuộc vào hướng của giao động vượt ra ngoài. Nhìn chung mô hình đường ngang càng kéo dài lâu và biên độ giao động càng nhỏ thì ý nghĩa của giao động vượt ra ngoài mô hình đường ngang càng lớn.

Mô hình đường ngang thường diễn ra dài vừa đủ để khoảng thời gian tồn tại của nó mang một ý nghĩa quan trọng đối với những người phân tích thị trường theo trường phái Dow. Những biến động vượt ra ngoài mô hình đường ngang có thể là dấu hiệu cho thấy mô hình này chính là những mức đỉnh hoặc đáy rất quan trọng của thị trường bởi nếu là đỉnh thì đó chính là giai đoạn “phân bổ”- giai đoạn ban đầu của một thị trường giá xuống; còn nếu dấu hiệu cho thấy nó có thể là mức đáy của thị trường thì đây là giai đoạn “tích tụ” - giai đoạn đầu của một thị trường giá lên.Thông thường nhất, nó đóng vai trò như một thời kỳ yên tĩnh thuộc giai đoạn cuối cùng trong quá trình hình thành hoặc thuộc giai đoạn củng cố xu thế cấp 1 của thị trường. Trong những trường hợp đó mô hình này đóng vai trò như những sóng cấp 2. Mức biến động 5% cũng hoàn toàn chỉ là một mức biên độ được xác định theo kinh nghiệm bởi trên thực tế rằng mô hình đường ngang có rất nhiều điểm tương đồng với mô hình cũng có nhiều biến động ngang với biên độ lớn hơn nhưng hai biên của nó vẫn được xác định khá rõ ràng và tương đối chuẩn nên cũng được tính là một loại mô hình đường ngang.

11 - Chỉ sủ dụng mức giá đóng cửa để nghiên cứu.

Lý thuyết Dow không quan tâm và ít đề cao đến các mức biến động giá (thậm chí là cả mức giá cao nhất và thấp nhất) trong ngày mà chỉ quan tâm đến những số liệu cuối ngày giao dịch, chẳng hạn như mức bình quân giá bán cuối cùng trong ngày.

Xem xét một thị trường với xu thế cơ bản là tăng giá và đang ở thời điểm giá tăng và đạt mức đỉnh của ngày hôm đó vào 11 giờ sáng, giả sử lúc đó chỉ số bình quân công nghiệp đang là 152.45 sau đó lại giảm xuống mức giá đóng cửa là 150.70. Để có thể xác nhận thị trường vẫn đang trong xu thế cơ bản là tăng giá thì ở đợt tăng giá tiếp theo mức giá đóng cửa phải cao hơn 150.70 . Trong trường hợp này mức đỉnh 152.45 không được quan tâm đến. Trái lại nếu ở đợt thứ 2, dù giá có đạt đến mức đỉnh ở 152.60 nhưng giá đóng cửa lại nhỏ hơn 150.70 thì hoàn toàn có cơ sở để nghi ngờ liệu xu thế tăng giá hiện tại có còn tiếp tục hay không.

Trong những nắm gần đây, nhiều ý kiến đã được đưa ra xung quanh vấn đề liệu chỉ số giá bình quân phải tăng thêm hay giảm đi bao nhiêu so với giới hạn đạt được của đợt giao động giá trước (đỉnh hoặc đáy) để có thể báo hiệu (xác nhận một xu thế mới hoặc xác nhận lại xu thế hiện tại) xu thế thị trường. Dow và Hamilton luôn rất cẩn thận trong việc xem xét bất cứ một giao động nhỏ nào xen vào xu thế hiện tại làm giá thay đổi thậm chí đến 0.01 và hai ông đều cho rằng dấu hiệu đó hoàn toàn có thể là một dấu hiệt đúng. Nhưng ngày nay nhiều nhà phân tích cho rằng mức thay đổi đó phải đạt ít nhất 1.00 mới có thể được coi là một dấu hiệu của thị trường.

12 - Một xu thế cần được giả định rằng vẫn đang tiếp tục cho đến khi có một dấu hiệu thực sự về sự đảo chiều của xu thế đó được xác định.

Nguyến lý này là một trong những nguyên lý có nhiều ý kiến tranh cãi nhất. Nhưng nguyên lý này khi được hiểu chính xác vẫn có giá trị rất lớn trong phân tích thị trường. Nguyên lý này giúp đề phòng với những thay đổi quá sớm trong quan điểm về thị trường những phản ứng quá sớm,theo như chúng ta hay nói là cầm đèn chạy trước ô tô, của bất kì nhà đầu tư nào. Điều này không nhằm làm nhà đầu tư trì hoãn hành động của mình lại một cách không cần thiết,cho dù là chỉ một phút, khi những dấu hiệu về sự thay đổi của xu thế thị trường là đã rõ ràng, nhưng nó nhắc nhở một điều rằng lợi thế sẽ nghiêng về phía những người biết chờ đợi cho đến khi họ chắc chắn về tình hình thị trường và rõ ràng sẽ không nghiêng về những người quá nôn nóng với hành động của họ. Khả năng xảy không thể được phát hiện một cách rõ ràng bởi bản chất của nó là những biến động thực tế của thị trường và chúng thay đổi thường xuyên. Thị trường giá lên không thể lên giá mãi và thị trường giá xuống thì sớm muộn cũng đạt đến đáy của nó. Khi một xu thế cấp 1 của thị trường vừa mới được hình thành thì cho dù có những giao động trong ngắn hạn ta vẫn có thể chắc chắn rằng nó không thay đổi, nhưng nếu nó kéo dài càng lâu thì mức chắc chắn càng ít dần đi,các điểm tái xác nhận xu thế thị trường cũng có giá trị ít dần đi. Động lực của người mua và khả năng bán được những cổ phiếu với giá cao hơn giá mua để kiếm lời sẽ ngày càng thấp nếu như Bull Market đã tồn tại trong nhiều tháng và rõ ràng là thấp hơn khi nó mới hình thành. Nguyên lý thứ 12 của Dow nói rằng “Making your position pending contrary orders”.

Một hệ quả tất yếu từ nguyên lý này đó là khi đã có những dấu hiệu về sự thay đổi của xu thế thị trường thì sự thay đổi đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào.Vì vậy bất cứ nhà đầu tư nào cũng cần phải theo dõi thị trường một cách thường xuyên.

Phân tích kĩ thuật phần 11

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 10:35 VIỆT TRADER

User Rating: / 0 

PoorBest 

Nhà phân tích kỹ thuật trên thị trường chứng khoán là những người có thể dự đoán giá cổ phiếu trong tương lai bằng việc phát hiện ra xu hướng giá trong quá khứ.

1- Biểu đồ phân tích kỹ thuật.

Kỹ thuật dùng biểu đồ phân tích kỹ thuật đã rất phổ biến từ cuối thế kỷ 19, do Charles H. Dow khởi xướng. Sau đó, quan điểm của ông đã trở thành "Lý thuyết Dow" ("Dow Theory"), cho rằng những biến động thị trường với mọi xu hướng đều có thể được dự đoán trước trên cơ sở biến động giá cổ phiếu trên các biểu đồ.

Cơ sở của việc phân tích là tìm cách xác định giá của cổ phiếu trong tương lai bằng việc nhận diện và đo lường giá trị cổ phần. Các lý thuyết về phân tích kỹ thuật cho rằng, các hành vi thị trường trong quá khứ tự nó sẽ xác định giá tương lai.

Biểu đồ phân tích kỹ thuật gồm hai trục biểu thị giá và thời gian. Mỗi một cổ phần, thị trường và chỉ số niêm yết trên bảng giao dịch đều được biểu thị bằng một biểu đồ minh hoạ sự biến động giá chứng khoán qua các thời kỳ; mỗi một đồ thị (đường) là tập hợp các điểm chỉ giá đóng cửa (closing price) ngày giao dịch. Đồng thời, có một sự liên hệ giữa giá mở cửa, giá đóng cửa, giá cao nhất / thấp nhất.

Phân tích biểu đồ có thể được áp dụng cho từng chứng khoán riêng lẻ cũng như một danh mục đầu tư. Các nhà phân tích sử dụng kỹ năng nghiên cứu kỹ thuật các biểu đồ chỉ số để nhận định thị trường đang ở trạng thái "thị trường bò" hay "thị trường gấu". Với các biểu đồ, các nhà đầu tư có thể đưa ra đánh giá tương tự về công ty mà mình lựa chọn.

2- Xu hướng.

Sử dụng biểu đồ để nhận diện xu hướng hiện tại: xu hướng phản ánh tỷ lệ biến đổi trung bình của giá cổ phiếu qua thời gian. Các xu hướng tồn tại trong mọi trạng thái thời gian và mọi thị trường. Các nhà đầu tư hàng ngày có thể xây dựng được xu hướng của cổ phiếu mà họ mua (bán) trong vòng vài phút. Về dài hạn, các nhà đầu tư quan sát các xu hướng tồn tại trong nhiều năm.

Các xu hướng được phân loại: tăng, giảm, hoặc không đổi.

Theo xu hướng tăng, một cổ phiếu hồi phục thường là với một giai đoạn "quá độ" giữa tính ổn định và những biến động giảm. Do vậy, nó sẽ hình thành lên hàng loạt những đỉnh cao hơn và đáy cao hơn trên biểu đồ cổ phiếu, và người ta dự đoán rằng, khả năng tăng giá cổ phiếu là có thể.

Theo xu hướng giảm, một cổ phiếu suy yếu thường là với một giai đoạn "quá độ" giữa tính ổn định và biến động tăng. Do vậy, nó sẽ hình thành lên hàng loạt những đỉnh thấp hơn và đáy thấp hơn trên biểu đồ cổ phiếu, và người ta dự đoán rằng, khả năng giảm giá cổ phiếu là có thể.

Xu hướng không đổi biểu thị bằng sự dao động lên xuống trong một thời gian dài giữa các giới hạn tăng giảm trực quan. Sự biến động giá trên biểu đồ là không rõ ràng và giá cổ phiếu sẽ không thay đổi (hoặc thay đổi không đáng kể).

Xu hướng có khả năng ổn định theo thời gian. Một cổ phiếu với xu hướng tăng (giảm) (về giá) sẽ tiếp tục tăng (giảm) cho đến khi có biến động về giá trị hoặc các trạng thái xảy ra. Người "đọc" biểu đồ phải định vị được các đỉnh và đáy - những điểm biểu thị sự chấm dứt khả năng hồi phục hay suy yếu. Lựa chọn tại một điểm gần đỉnh hoặc đáy có thể rất có lợi.

Một châm ngôn nói rằng, "xu hướng là bạn của anh". Với các nhà kinh doanh và các nhà đầu tư, tuyên ngôn này có ý nghĩa là, bạn sẽ đạt thành công hơn nếu lựa chọn vị thế cổ phiếu theo xu hướng phổ biến, hơn là đi ngược lại với nó..

3- Khối lượng.

Khối lượng cổ phiếu giao dịch đánh giá mức độ tham gia của các nhà đầu tư.

Các biểu đồ cổ phiếu cho thấy khối lượng thông qua đồ thị hình cột dưới các ô giá. Thông thường trong các biểu đồ này, các đường màu xanh chỉ các ngày giá lên và những đường màu đỏ là những ngày giá xuống. Các nhà đầu tư và kinh doanh có thể đánh giá được lãi mua và bán bằng việc theo dõi số lần giá lên xuống trong một đường và mức độ biến động của chúng so với những ngày giá biến động theo chiều hướng ngược lại thì như thế nào.

Cổ phiếu mua vào với lãi cao hơn khi bán ra được gọi là đang trong trạng thái “tích luỹ”, và ngược lại, trường hợp lãi khi bán ra cao hơn khi mua vào được gọi là đang trong quá trình “phân phối”. “Tích luỹ” và “phân phối” thường dẫn tới sự biến động của giá cả. Hay nói cách khác, các cổ phiếu đang trong trạng thái tích luỹ thường sẽ tăng giá chỉ một thời gian ngắn sau khi hành vi mua bắt đầu. Và ngược lại, những cổ phiếu đang được lưu thông thường rớt giá một thời gian sau khi bán ra.

Một cổ phiếu có thể hồi phục được hay không đòi hỏi sự tham gia “nhiệt tình” của các nhà đầu tư. Khi sự hồi phục của một cổ phiếu không hấp dẫn được các nhà đầu tư mới thì nó sẽ rất dễ rớt giá. Các nhà đầu tư và kinh doanh sử dụng các tiêu chí như trạng thái cân bằng khối lượng để đánh giá số lượng người tham gia đang chậm lại hay tiến triển nhanh hơn các động thái của giá cả.

Các cổ phiếu giao dịch thường ngày với một khối lượng trung bình. Khối lượng này có thể xác định được tính lỏng của các cổ phiếu đó. Nhà kinh doanh có thể rất dễ dàng mua và bán các cổ phiếu có tính lỏng cao. Những cổ phiếu không có tính lỏng cao đòi hỏi chi phí giao dịch rất lớn và thường không thể nhanh chóng loại bỏ ra khỏi một danh mục đầu tư. Những phép phân tích biểu đồ cổ phiếu không thể áp dụng cho cổ phiếu không có tính lỏng cao.

Việc giá cổ phiếu gia tăng đột biến kéo theo một khối lượng giao dịch cao hơn rất nhiều so với mức trung bình là có lợi cho sự tiếp tục biến động của giá cổ phiếu theo chiều hướng đó. Nhưng sau một thời gian dài tăng giảm, các cổ phiếu thường có một ngày có khối lượng giao dịch rất lớn, đạt mức đỉnh điểm. Trong những ngày này, người mua, hoặc người bán cuối cùng sẽ là những người được lợi nhất. Sau đó, giá trị của cổ phiếu đó sẽ thay dổi theo chiều hướng ngược lại vì sẽ không còn có đủ lượng người tham gia giao dịch để làm cho giá biến chuyển theo chiều hướng đó...

4- Mô hình và chỉ số

Làm thế nào bạn có thể biến những đường vô tận biểu thị các dữ liệu trên biểu đồ thành một dạng logic mà không cần sự can thiệp của các thao tác kỹ thuật ? Các biểu đồ cho phép các nhà đầu tư và kinh doanh nhận biết hành vi giá cả thị trường cả trong quá khứ và hiện tại để làm cơ sở hợp lý cho việc dự báo cũng như đưa ra các quyết định khôn ngoan. Nó gần giống như công cụ trực giác, trái ngược với quan điểm của các nhà phân tích giá trị.

Biểu đồ cổ phiếu có khả năng tác động tới các chức năng của cả hai bán cầu não về tư duy logic và tính sáng tạo. Quan điểm này đã gây tranh cãi trong giới phân tích đầu tư trong suốt thế kỷ qua.

Dạng "nguyên thuỷ" của việc đọc các biểu đồ là phân tích mô hình. Phương thức này khá phổ biến qua các lý thuyết của Charles Dow và cuốn Technical Analysis of Stock Trends (viết ngay sau Chiến tranh thế giới II). Dạng hiện đại hơn là phân tích chỉ số, một phương pháp khảo sát sử dụng các công cụ toán học trong đó các yếu tố cơ bản của giá và số lượng được xem xét thông qua một loạt các phép tính nhằm dự đoán mức tăng giảm tiếp theo của giá cả.

Phép phân tích mô hình có độ chính xác cao do các đồ thị có xu hướng lặp đi lặp lại sự hình thành các đường. Những mô hình này từ lâu đã được phân loại thành khuynh hướng đầu cơ giá lên và đầu cơ giá xuống. Có một số mô hình được nhiều người biết đến như Đầu và Vai (HEAD and SHOULDERS), Tam giác (TRIANGLES), Hình chữ nhật (RECTANGLES), Hai đỉnh (DOUBLE TOPS), Hai đáy (DOUBLE BOTTOMS), và Hình cờ (FLAGS). Hơn nữa, các chi tiết của đồ thị như các khe hở giá (GAPS) và đường chỉ xu hướng (TRENDLINES) được coi là có ảnh hưởng đáng kể đến quá trình diễn biến tiếp theo của giá.

Phép phân tích chỉ số sử dụng các phép tính toán học để đánh giá mối quan hệ giữa tình hình diễn biến giá ở thời điểm hiện tại với quá khứ. Hầu hết các chỉ số có thể được phân chia thành các nhóm theo khuynh hướng và giao động. Các chỉ số theo khuynh hướng phổ biến là các chỉ số trung bình biến đổi (MOVING AVERAGES), khối lượng cân bằng (ON BALANCE VOLUME) và MACD. Chỉ số giao động thông thường bao gồm STOCHASTICS, RSI và tỷ lệ thay đổi (RATE OF CHANGE). Chỉ số theo xu hướng thường phản ứng chậm hơn so với chỉ số giao động. Các chỉ số này đi sâu vào phân tích quá khứ để dự đoán tương lai. Chỉ số giao động nhạy cảm hơn với các thay đổi giá cả trong ngắn hạn, giao động qua lại giữa mức OVERBOUGHT và OVERSOLD.

Cả hai phương pháp mô hình và chỉ số đều có thể đánh giá được tâm lý thị trường. Các nhà đầu tư và giao dịch trên thị trường hằng ngày có xu hướng hành động theo tâm lý chung khi giá cả biến động. Họ có khuynh hướng bộc lộ các đặc tính cố hữu mà lặp đi lặp lại nhiều lần. Việc giải thích rõ biểu đồ có sử dụng hai công cụ phân tích quan trọng này đã cho thấy những chấn động tâm lý trong giới đầu tư mà rốt cục thì cũng có thể hiểu được là do sự biến động của giá cả.

Phân tích kĩ thuật phần 12

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 10:37 VIỆT TRADER

User Rating: / 1 

PoorBest 

BIỂU ĐỒ GIÁ và SUPPORT RESISTANCE

Support và resistance đại diện quan trọng cho mối quan hệ giữa cung và cầu. Trên thị trường tài chính, giá cả phụ thuộc vào sự tăng giảm của cung và cầu. Cung tăng đồng nghĩa với xu hướng giảm, kì vọng giá giảm và việc bán. Cầu tăng đồng nghĩa với xu hướng tăng , kì vọng giá tăng và việc mua. Những từ này được dùng với ý nghĩa như nhau. Khi nhu cầu tăng giá sẽ tăng còn khi cung tăng thì giá sẽ giảm. Khi cung và cầu đạt mức cân bằng thì giá sẽ ổn định.

Xác lập giá

Có 2 phương pháp để biểu diễn mức giá dọc theo trục y (trục tung) là: arithmetic (số học) và logarithmic (thuộc hàm log). Cách arithmetic biểu diễn 10 điểm cách đều nhau trên đường chéo cho dù mức giá có khác nhau. Mỗi đơn vị đo đều như nhau. Nếu giá cổ phần tăng từ 10 lên 80 sau 6 tháng thì sẽ xuất hiện sự dịch chuyển từ 10 lên 20 và sự dịch chuyển này cũng tương đương với sự dịch chuyển từ 70 lên 80. Tuy nhiên sự chuyển dịch trên không tương đương về phần trăm.

Cách logarithmic đo sự tăng giảm của giá cả theo phần trăm. Tăng từ 10 lên 20 nghĩa là tăng 100%. Cũng thế với bước tăng từ 20 lên 40 và từ 40 lên 80. Cả 3 sự dịch chuyển trên có khoảng cách trên đường chéo như nhau . Hầu hết các chương trình về biểu đồ cho rằng dạng logarithmic là dạng semi-log, vì trục thời gian vẫn được biểu diễn theo kiểu số học

Biểu đồ trên minh họa cho sự khác nhau của 2 dạng. Ở dạng semi-log, khoảng cách giữa 50 và 100 cũng bằng khoảng cách giữa 100 và 200. Còn đối với dạng arithmetic thì khoảng cách giữa 100 và 200 lớn hơn nhiều so với 50 và 100.

Ưu điểm của 2 dạng biểu diễn trên:

- Dạng arithmetic hữu ích khi biên độ giá tương đối hẹp.

- Dạng arithmetic hữu ích để biểu diễn những biểu đồ và những giao dịch trong thời gian ngắn. Sự chuyển dịch giá(đặc biệt là giá cổ phần) được biểu diễn tuyệt đối và phản ánh sư chyển dịch của dollar với dollar.

- Dạng semi-log hữu ích khi giá cả tăng giảm mạnh, vượt hoặc mở rộng khung thời gian.

- Các đường biểu diễn không quá chênh lệch trong dạng semi-log.

- Dạng semi-log hợp cho những biểu đồ có thời gian dài để dự đoán mức tăng phần trăm sau 1 khoảng thời gian dài. Những dịch chuyển lớn trở nên cân đối hơn.

- Cổ phần và tài sản thế chấp được đánh giá tương đối qua việc dùng các tỷ lệ như PE, giá/thu nhập, giá/sổ thu chi. Điều này cũng giúp phân tích sự chuyển dịch giá theo phần trăm 1 cách hợp lý

Kết luận

Cho dù có nhiều kỹ thuật khác nhau về biểu đồ thì không hẳn một phương pháp sẽ tốt hơn phương pháp khác. Dữ liệu có thể giống nhau nhưng mỗi phương pháp có cách trình bày riêng với những ưu và khuyết điểm khác nhau. Mức giá của tài sản thế chấp đươc trình bày thế nào, biểu đồ thanh hay biểu đồ candlestick, biểu diễn dạng arithmetic hay semi-log không phải là yếu tố quan trọng nhất. Và cuối cùng, dữ liệu thì luôn giống nhau và sự biến động giá vẫn là sự biến động giá. Khi tất cả được nói và làm, kỹ năng phân tích sự biến động giá là yếu tố phân loại nhà đánh giá có thành công hay không. Lựa chọn sử dụng biểu đồ nào còn phụ thuộc vào sở thích cá nhân và cách giao dịch hay đầu tư riêng của mỗi người. Môt khi bạn đã chọn được dạng biểu đồ thì nên kèm theo đó nhũng dự đoán và học cách tốt nhất để dự đoán. Đổi đi đổi lại có thể gây ra xáo trộn và không làm rõ đượctrọng tâm của bài phân tích. Lỗi phân tích hiếm khi gây ra bởi biểu đồ. Do đó nên xem lại bài phân tích trước khi đổ lỗi cho biểu đồ.

Chìa khóa để phân tích biểu đồ là quyết tâm, đặt trọng tâm và sự thống nhất:

-Quyết tâm: Học những điều cơ bản về phân tích biểu đồ, ứng dụng kiến thức đã học thường xuyên.

-Trọng tâm: Giới hạn số lượng biểu đồ, dấu hiệu và cách thức thực hiện của bạn. Học cách sư dụng chúng và cách sử dụng chúng cho thật tốt.

-Sự thống nhất: Duy trì những dạng biểu đồ bạn dùng và nghiên cứu chúng thường xuyên(nghiên cứu mỗi ngày nếu có thể).

Support and Resistance

Support và resistance đại diện quan trọng cho mối quan hệ giữa cung và cầu. Trên thị trường tài chính, giá cả phụ thuộc vào sự tăng giảm của cung và cầu. Cung tăng đồng nghĩa với xu hướng giảm, kì vọng giá giảm và việc bán. Cầu tăng đồng nghĩa với xu hướng tăng , kì vọng giá tăng và việc mua. Những từ này được dùng với ý nghĩa như nhau. Khi nhu cầu tăng giá sẽ tăng còn khi cung tăng thì giá sẽ giảm. Khi cung và cầu đạt mức cân bằng thì giá sẽ ổn định.

Support là gì?

Support là mức giá mà tại đó người ta cho rằng nhu cầu đủ nhiều để mức giá không giảm mạnh. Khi giá giảm đến mức support hoặc rẻ hơn nữa thì người mua sẽ có khuynh hướng mua tiếp và ngược lại người bán sẽ không bán. Trước khi giá giảm tới mức support, hiện tuợng cầu vượt quá cung xuất hiện và hiện tuợng này sẽ ngăn giá giảm xuống dưới mức support

Support không phải luôn ở mức ổn định và việc mức support giảmbáo hiệu cung vượt quá cầu. Khi đó người ta có xu hướng bán nhiều hơn mua. Mức support bị phá vỡ và mức support mới thấp hơn dự báo người bán đang mất hy vọng và họ sẵn sàng bán với giá thấp. Thêm vào đó, người mua sẽ không mua cho đến khi giá giảm dưới support hoặc giảm so với mức trước đó. Khi mức support bị phá vỡ, 1 mức support khác thấp hơn sẽ được thiết lập.

Mức support được thiết lập căn cứ vào đâu?

Mức support thường thấp hơn mức giá hiện tại nhưng thông thường sẽ an toàn nếu giao dịch gần mức support hoặc tại mức support. Kỹ năng phân tích không phải là ngành nghiên cứu chính xác và đôi khi rất khó xác định mức support chính xác. Hơn nữa, sự chuyển dịch giá có thể đột biến và tụt xuống dưới mức support 1 cách đột ngột. Đôi khi không hợp lý khi cho rằng mức support bị phá vỡ nếu giá giảm gần 1/8 so với mức support. Vì lý do này nhiều nhà giao dịch và đầu tư đã tạo ra vùng support

Resistance là gì?

Resistance là mức giá mà tại đó người ta cho rằng việc bán ra đủ nhiều để giữ giá không tăng mạnh. Khi giá tăng đến mức resistance thì người bán có khuynh hướng tiếp tục bán và người mua thường dừng lại. Trước khi gía chạm tới mức resistance thì cung sẽ vượt quá cầu ,ngăn giá tăng trên mức resistance

Resistance thường không giữ nguyên và mức resistance bị phá vỡ dự báo cầu vượt quá cung. Việc mức resistance bị phá vỡ cho thấy người ta mua nhiều hơn bán. Mức resistance bị phá vỡ và mức resistance mới cao hơn cho thấy người mua sẵn sàng mua ngay cả với giá cao. Hơn nữa, người bán sẽ không bán cho đến khi giá tăng trên mức resistance hoặc tăng hơn trước đó. Khi mức resistance bị phá vỡ thì 1 mức resistance mới cao hơn sẽ được thiết lập.

Mức resistance được thiết lập căn cứ vào đâu?

Mức resistance thường cao hơn mức giá hiện tại nhưng thông thường giao dịch tại mức resistance hoặc gần mức này là an toàn. Thêm vào đó, sự chuyển dịch giá có thể đột biến và tăng trên mức resistance 1 cách đột ngột. Đôi khi thật bất hợp lý khi cho rằng mức resistance bị phá vỡ nếu giá tăng gần 1/8 so với mức resistance được thiết lập. Vì vậy nhiều nhà giao dịch và đầu tư thường lập nên vùng resistance.

Phương pháp nào để thiết lập support và resistance?

Support và resistance giống như những hình ảnh phản chiếu trong gương và có nhiều điểm chung

Mức cao và mức thấp:

Support có thể được thiết lập dựa vào mức thấp trước đó và tương tự, resistance có thể được tạo bởi mức cao trước đó

Biểu đồ trên biểu diễn phạm vi giao dịch rộng từ tháng 1-99 đến tháng 3-2000. Support được tạo nên bởi mức thấp tháng 10 gần mức 33. vào tháng 12, giá cổ phần quay lại mức support vào khoảng 33-35 và mức thấp là gần 34. Cuối cùng vào tháng 2 giá cổ phần 1 lần nữa quay lại mức support và mức thấp là gần 33 1/2.

Sau mỗi lần mức support dội lên, giá giao dịch cổ phần lại tăng lên mức resistance. Mức resistance ban đầu được tạo nên từ mức support là 42. 5 đã bị phá vỡ ở tháng 9. Sau khi mức support bị phá vỡ thì nó trở thành mức resistance. Từ mức thấp của tháng 10, giá cổ phần tăng đến mức resistance mới(mà trước đó là mức support)khoảng gần 42.5. Khi giá cổ phần không vượt qua 42.5 thì lúc đó mưc resistance được xác định. Giá cổ phần sau đó tăng đến mức 42. 5 2 lần nữa rồi lại giảm dưới mức resistance 2 lần.

Support = Resistance

Một điều cơ bản của kỹ năng phân tích là mức support có thể chuyển thành mức resistance. Khi giá giảm dưới mức support thì mức support ấy có thể trở thành mức resistance. Mức support bị phá vỡ báo hiệu cung vượt qua cầu. Do đó, nếu giá quay trở lại mức này thì cung có thể sẽ tăng.

Ngược lại mức resistance cũng có thể sẽ chuyển thành mức support. Khi giá vượt qua mức resistance, có thể sẽ xuất hiện sự thay đổi của cung và cầu. Việc mức resistance bị phá vỡ chứng tỏ cầu đã vượt quá cung. Nếy giá quay trở lại mức này, có thể cầu sẽ tăng và mức support có thể được xác định.

Trong biểu đồ trên, giá cổ phần phá vỡ mức resistance là 935 ở tháng 5-97 và vượt trên mức resistance trong hơn 1 tháng sau. Sau lần thứ 2 mức support là 935, mức giá này được thiết lập.

Trong ví dụ này, ta thấy mức support có thể trở thành mức resistance và sau đó lại trở lại thành mức support. Mức support là 18 từ tháng 10-98 đến tháng 1-99(vòng oval xanh lá cây), nhưng giá giảm dưới mức support vào tháng 3-99 do cung đã vượt quá cầu. Khi giá cổ phần bị dội xuống (vòng oval màu đỏ), mức cung cao nhất chạm đến mức resistance 18 trong khoảng từ tháng 1-99 đến tháng 10-99.

Do đâu có mức cung cao như thế? Dễ thấy nhu cầu tăng cao trên dưới 18 trong khoảng tháng 10-98 đến tháng 3-99 (vòng oval xanh lá cây) . Do đó sẽ có nhiều người mua gần mức 18. Khi giá giảm dưới 18 và gần mức 14, nhiều người mua này sẽ giữ lại cổ phần. Điều này giữ cho mức cung cao(thông thường được xem là mức resistance) ở mức gần 18. Khi giá cổ phần quay lại 18, người mua trong mức oval xanh lá cây ( mua trong mức 18 ) sẽ nắm lấy cơ hội để bán. Và khi cung đã yếu dần, cầu có khả năng vượt cung để giữ mức resistance tại 18.

Phân tích kĩ thuật phần 13

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 10:45 VIỆT TRADER

User Rating: / 0 

PoorBest 

Xác định khi nào giá bắt đầu đi theo xu hướng

Điều mà chúng ta quan tâm nhất là quá trình xác định khi nào giá bắt đầu đi theo xu hướng. Và 1 công cụ có thể hỗ trợ việc đó là chỉ số định hướng trung bình ( Average Directional Index ) – ADX

Hầu hết người giao dịch đều tập trung vào các chỉ số xung lượng (momentum) phổ biến để tìm kiếm tín hiệu vượt mua / vượt bán ( overbought / oversold ), và các chỉ số giá / xung lượng phân kì ( divergence) xác điểm điểm kết thúc của xu hướng.

Chúng ta hãy xem xét chỉ số RSI nhanh xác định tín hiệu vượt mua ./ vượt bán như thế nào trên đồ thị USD/JPY

Thật rõ ràng ! chỉ số xung lượng RSI đã phản ánh chính xác thị trường, và nếu bạn mới bắt đầu về kĩ thuật thì chỉ số trên chắc sẽ gây ấn tượng mạnh với bạn ! Tuy nhiên, tất cả các công cụ kĩ thuật không đơn giản như vậy. chúng ta hãy xem 1 ví dụ khác về sự thay đổi giá

2 tín hiệu RSI đầu tiên ( vượt bán và vượt mua ) rất chính xác.

Tuy nhiên, các tín hiệu sau đó liên tiếp chỉ mức vượt bán nhưng giá vẫn tiếp tục tăng cao.

Điều gì đã xảy ra?

Đơn giản, chỉ số xung lượng cung cấp tín hiệu vượt mua / vượt bán trong 1 thị trường dao động và chưa chắc chắn. Tuy nhiên, nó sẽ bị mất tác dụng khi thị trường bắt đầu đi theo xu hướng , và đó là những gì diễn ra tại biểu đồ trên.

Trong kì xu hướng, các chỉ số xung lượng hầu hết đều nằm ở vị thế vượt mua / vượt bán cao và không phản ánh được chính xác diễn biến thị trường. Tại thời điểm này chúng ta cần bỏ qua tín hiệu xung lượng . Điều mà chúng ta quan tâm nhất là quá trình xác định khi nào giá bắt đầu đi theo xu hướng. Và 1 công cụ có thể hỗ trợ việc đó là chỉ số định hướng trung bình ( Average Directional Index ) – ADX

Nhìn vào biểu đồ dưới đây:

Trên biểu đồ có sử dụng công cụ chỉ số ADX (xanh lá cây) với +DI (xanh dương) và –DI (đỏ).

2 đường +DI và –DI biểu hiện xung lượng tích cực và tiêu cực của giá. Khi xu hướng rõ ràng đường +DI sẽ vượt từ dưới lên khỏi đường –DI , và ngược lại.

ADX là đường chỉ số định hướng trung bình cho cả xu hướng tăng và xu hướng giảm. Có nghĩa là khi giá tăng hay giảm theo 1 chiều rõ ràng ( theo 1 xu hướng – xu hướng tăng hoặc giảm ) , ADX vượt mức 30 cho biết xu hướng đang trong giai đoạn phát triển.

Tôi thường dành nhiều chú ý cho đường ADX, và khi nó tăng vượt mức 30, có thể phớt lờ tín hiệu RSI.

Tuy nhiên, ADX là 1 chỉ số chậm và nó chỉ đi theo sau 1 khoảng thời gian khi các chỉ số xung lượng đã báo tín hiệu vượt mua / vượt bán. Làm cách nào để hiệu quả?

Trước tiên phải xác định nếu chỉ có các đường chỉ số xung lượng vào vùng cảnh báo, điều này chưa đủ để xác định cơ hội giao dịch. Trong ví dụ trên khi đường RSI nhanh tiến tới vùng vượt mua, chúng ta cần đánh giá biến động giá không chỉ trên biểu đồ ngày mà còn trên những khung thời gian ngắn hơn

Trong những tình huống chúng ta sẽ xem xét đến các điểm đỉnh và đáy ( top and bottom) trước khi ADX vượt mức 25-30. Một lý do đáng tin cậy là xu hướng luôn có qui luật – đó là bước sóng.

Hình vẽ trên cho thấy trong 1 xu hướng tăng vẫn có các điểm đỉnh và đáy , nhưng trong 1 “khung”, và khi điểm đáy bị phá vỡ, đó là dấu hiệu của 1 sự đảo ngược xu hướng.

Để rõ ràng hơn chúng ta có thể vẽ thêm 1 đường kẻ hỗ trợ ( support line) dưới các điểm đáy , và khi nó bị phá vỡ, đó có thể là 1 tín hiệu báo xu hướng đã kết thúc. Một rủi ro nhỏ là giá có thể quay lại để tái lậ lại đường support sau khi đã “xuyên qua” nó, và điều này thỉnh thoảng xảy ra trong xu hướng tăng, do đó chúng ta cần xem xét khi ADX bắt đầu giảm thì xu hướng có thể đã kết thúc, kết hợp với đường RSI nhanh cung cấp tín hiệu vượt mua hoặc vượt bán.

Vì vậy khi thêm ADX vào danh mục chỉ số của bạn, bạn có thể đánh giá được xu hướng đang xảy ra hay không. Đây là 1 vũ khí hiệu quả hỗ trợ cho các công cụ của bạn, cung cấp thông tin thay vì làm phức tạp các chỉ số xung lượng khác

Chúng ta cần quan tâm đến lợi ích từ việc kết hợp kiến thức về RSI và ADX vào trong một hệ thống đơn giản. Cả ADX và RSI đều là những công cụ hiệu quả và sự kết hợp giữa chúng dường như sẽ đem lại 1 khả năng rất lớn . Tôi thích sử dụng RSI chủ yếu như 1 chỉ số xác định tín hiệu mua mua trong xu hướng lên. Và ADX là chỉ số đo lường sức mạnh của xu hướng đó.

Dưới đây là 1 số yếu tố làm cách nào 2 chỉ số này có thể phối hợp nhau trong 1 hệ thống để xác định thời điểm vào thị trường khi xu hướng mạnh và mua tại điểm đáy. ( tôi tập trung phân tích vào việc kì vọng giá lên nhưng lập luận này vẫn có thể áp dụng tốt cho kì vọng giá xuống )

Khi đường ADX đang tăng, đây là chỉ số xác định xu hướng mạnh đang diễn ra. Trong 1 vài trường hợp đợi đến khi có điểm thích hợp vào thị trường sẽ không hiệu quả bởi vì xu hướng tăng có thể bi vuột mất và điểm vào thị trường để tối đa lợi nhuận của bạn đôi khi quá chậm. Trong trường hợp này chúng ta phải vào ngay khi có xu hướng mạnh. Để thực hiện điều này như là 1 nguyên tắc đơn giản, chúng ta có thể dựa vào sức tăng của ADX ( chúng ta cũng có thể xem 1 số chỉ số khác đang tăng báo hiệu xu hướng tăng đang diễn ra ) , và đặt lệnh MUA, bất kì lúc nào RSI đang thấp hơn ngưỡng cao 85. Nguyên tắc này giúp chúng ta xác định nhanh chóng điểm vào trong hầu hết mọi trường hợp và kết quả cho thấy chỉ cần giao dịch khi ADX tăng là 1 ý tưởng rất hay. Đường RSI sẽ giúp tránh mua ở mức vượt mua ( overbought) khi vượt qua 85, tránh được những tình huống quá mạo hiểm.

Đường RSI, tuy nhiên, có vai trò rất quan trọng khi mà ADX đang theo chiều ngang hoặc hạ xuống. Trong trường hợp này nguyên tắc là nếu đường ADX không tăng chúng ta phải hoãn lại điểm vào lệnh. Một khi đường ADX không đưa cho chúng ta 1 tín hiệu tốt về sức mạnh của xu hướng, cần bổ sung thêm những chỉ số khác để xác định thị trường có tiềm năng tăng như thế nào. Nếu không chúng ta không thể chọn được điểm tốt vào thị trường khi xu hướng lên. Một vài đường như đường trung bình động MA 20 cũng không hiệu quả khi áp dụng với các chỉ số này.

Bây giờ, sau khi đặt lệnh vào thị trường với sự kết hợp giữa 2 chỉ số ADX và RSI, chúng ta cũng sẽ kết hợp chúng để xác định điểm ra. Khi thị trường đang tăng, nhưng xu hướng không còn mạnh . chúng ta sẽ dựa vào đường RSI xác định điểm đóng lệnh thuận lợi nhất để thu lợi nhuận. Một ví dụ khi bạn đang giao dịch với RSI 9 tăng đến 75 – 80 điểm, đây là tín hiệu cho thấy sự hiệu chỉnh sắp xảy ra. Nếu xu hướng thị trường không còn mạnh chúng ta nên vui vẻ với khoảng lợi nhuận có được thay vì đợi đến việc đóng lệnh khi có sự hiệu chỉnh. Tuy nhiên nếu ADX vẫn tiếp tục tăng chúng ta có thể mạo hiểm với hi vọng xu hướng tiếp tục tăng hơn nữa. Khi ADX tăng cúng ta có thể phớt lờ đường RSI để tiếp tục đạt lợi nhuận. Việc nhẫn nại cho phép chúng ta tích lũy lợi nhuận và tiếp tục quan sát RSI và thị trường. Đôi khi ADX tăng nhưng không đủ sức để giữ sức mua tiếp tục cao khi RSI đạt mức vượt mua và có thể 1 số người mua sẽ đặt lệnh đổi chiều. Lúc này chúng ta nên lập tức thoát lệnh. Hoặc chúng ta có thể phớt lờ RSI cho đến khi đạt mức lợi nhuận mong muốn.

Dưới đây là lập luận của 1 hệ thống mà theo tôi khá hiệu quả. ( nhưng nếu bạn áp dụng bạn phải theo cách thức của mình). Tât cả những con số tôi đưa ra chưa được kiểm tra hay đánh giá 1 cách khách quan. Một ví dụ là đường 20 –day MA chỉ là 1 con số mà tôi nghĩ đến trong đầu. Nhưng nó đủ để giúp bạn có những thông tin cần thiết để bắt đầu và bạn có thể tự xây dựng các nguyên tắc giao dịch trong khung thời gian thích hợp nhất.

Đặt lệnh mua:

- Đường MA 20 phải tăng

- Nếu đường ADX tăng ( ADX hôm nay cao hơn 0.2 so với hôm qua ) à đặt lệnh mua nếu đường RSI nhỏ hơn 85

- Nếu đường ADX không tăng à đặt lệnh mua nếu đường RSI 14 nhỏ hơn 50. Một số nhà giao dịch thích lựa chọn RSI ở mức 60, nhưng 1 số khác lại chọn thấp hơn 40

Ra khỏi thị trường:

- Đường ADX không còn tăng , thoát lệnh buy nếu đường RSI 9 lớn hơn 75

- Nếu đường ADX đang tăng , và lợi nhuận đã lớn hơn mức mong đợi.

Commodity Channel Index indicators CCI

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 09:34 VIỆT TRADER

User Rating: / 1 

PoorBest 

Là chỉ số giao động được sáng lập bởi ông Donald Lambert. Nó giao động giữa 2 vùng quá mua (overbought) và quá bán (oversold). Điều kiện làm việc tốt nhất của chỉ số này là thị trường trong trạng thái ít biến động, ảm đạm (sideways market), nó không làm việc tốt khi thị trường đang trong 1 xu hướng (trending market). Bởi thế nó phải được sử dụng kết hợp với các chỉ số khác, tốt nhất là dùng kết hợp với các chỉ số định hướng Directional Movement Index (DMI). Có thể lọai trừ những sai lầm khi bạn nhận được tín hiệu bán ở vùng quá mua (overbought) trong xu thế tăng giá (bull market).

Công thức tính tóan:

1. Calculate the average price of the period

i. Average Px = (high + Low + Close) / 3

2. Calculate the Moving Average over ''''n'''' periods

i. MA = (Close 1 + Close 2 + Close 3 = ... +

Close n) / n

3. Calculate the mean deviation over ''''n'''' periods

i. Mean Deviation = ([MA last - Avg Px 1 [+] MA

last - Avg Px 2 [ + ...+ ] MA last - Avg Px n]) / n

4. CCI = (Average Price - MA) / (0.015* Mean Deviation)

Lambert đề xuất sử dụng về 1/3 chu kỳ thông thường của thị trường nó giống như là 1 giới hạn tốt nhất cho CCI. Nếu chu kỳ bình thường của thị trường là 90 ngày thì nên sử dụng thông số n=30 ngày và nên sử dụng đồ thị ngày.

CCI về bản chất là đo lường khỏang cách bao xa từ đường giá đến đường trung bình của giá (Moving Average) và đo chúng di chuyển nhanh như thế nào. Nếu đường giá nằm bên phải đường MA (Moving Average) thì giá trị của CCI sẽ là 0. Hằng số (0.015) bị hạn chế khỏang 80% thời gian nằm trong khỏang từ -100 đến +100.

Cách sử dụng:

Có nhiều chỉ dẫn để sử dụng chỉ số này nhưng có 2 cách thường dùng nhất là:

1. Tín hiệu mua và bán thật sự: Khi chỉ số CCI trên +100 và thị trường là quá mua (overbought) thì đó là cơ hội bán của chúng ta. Và khi thị trường là quá bán (oversold) với chỉ số CCI dưới -100 thì đó là cơ hội mua của chúng ta.

2. Phân kỳ (Divergence Indicator): Nếu đường giá tăng mà chỉ số CCI giảm thì giá sẽ thường đổi chiều sau đó.

Nó thật sự là chỉ số mạnh khi được kết hợp với các chỉ số về đường hướng (directional indicator). Nó sẽ cho tín hiệu sai khi xu hướng của thị trường chống lại cái tín hiệu đó. Ngược lại nó rất chính xác khi có tín hiệu mua trong thị trường tăng (bull market) và tín hiệu bán khi thị trường giảm (bear market).

Có rất nhiều cách sử dụng chỉ báo này. Nó có thể sử dụng để xác nhận điểm thóat (breakout) trong phạm vi gần của xu hướng. Nó còn được sử dụng để đo gia tốc của thị trường.

Ví dụ dưới đây chỉ báo CCI cho tín hiệu bán khi > +100 và tín hiệu mua khi <-100

Stochastic Indicator

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 09:28 VIỆT TRADER

User Rating: / 3 

PoorBest 

- Chỉ báo Stochastic (Stoc) là chỉ số căn bản cho khuynh hướng của thị trường. Trong giai đọan tăng giá (bull market) thì chỉ số này đi lên, còn trong giai đọan giảm giá (bear market) thì chỉ số này đi xuống.

- Chỉ số này được cấu tạo bởi 2 đường: %K , %D và được tính tóan như sau:

%K = (giá hiện hành - giá thấp n) / (giá cao n - giá thấp n)

Với n là số phiên giao dịch trong giai đọan đang xét (mặc định thường dùng là 14)

%D = (%K x + %K x-1 + %K x-2) / 3

Là trung bình 3 phiên của %K, trong đó x là số phiên hiện hành.

- Có 2 dạng stochastic: đường nhanh (fast stochastic), đường chậm (low stochastic). Đường nhanh ảnh hưởng cực kỳ đến giá trong khi đó đường chậm chỉ đơn thuần là kết quả cân bằng của đường nhanh.

- Chì số stochastich được giới hạn từ 0 đến 100, nhưng phần lớn nó nằm quanh vị trí 20-80, nó phản ảnh các vùng quá bán (oversold) và vùng quá mua (oversbought). Đôi khi nó nằm ở những vùng 25-75 là những vùng hết sức nguy hiểm để thực hiện mua và bán vì ở tại những vùng này thường không có nhiều thông tin hỗ trợ.

Cách sử dụng chỉ báo Stochastic: đây là 1 trong những chỉ số dùng để nhận biết sự đảo chiều của thị trường.

1. Thông thường những vùng overbought/oversold là những vùng chỉ báo có sự biến động. Tín hiệu bán khi chỉ báo stoc tăng mạnh lên trên 80 và cho tín hiệu mua khi stoc rơi xuống dưới 20.

2. Khi fast stochastic (%K) các low stochastic (%D) và hướng từ dưới lên sẽ cho tín hiệu mua, việc này có hiệu quả cao khi nằm trong vùng dưới 20. Tương tự, khi %K cắt %D từ trên xuống sẽ cho tín hiệu bán, điều này có hiệu quả cao khi nằm trong vùng trên 80.

3. Phân kỳ: Khi đường giá tăng nhưng đường stochastic giảm thì cho tín hiệu bán. Khi đường giá giảm mà đường stochastic tăng thì sẽ cho tín hiệu mua.

Một tín hiệu mạnh xảy ra khi cả 3 tín hiệu trên đều cho ra 1 tín hiệu mua hay bán. Đôi khi tại những lúc thị trường đạt đỉnh thì stochastic cũng nằm ở vị trí cao nhất và khi thị trường ở đáy thì stochastic cũng ở vị trí thấp nhất. Đây cũng là dấu hiệu nhận biết để thóat ra hay nhảy vào của những nhà đầu tư.

Trong ví dụ dưới đây Stochastic indicator bắt đầu trên 80 lúc cuối tháng 2 khi đó giá nằm khỏang 9450, sau đó giá tăng nhanh đến mức 9470. Sau đó là có những biến động nhẹ, và 1 ít dấu hiệu phân kỳ đã đẩy giá rớt xuống trong những ngày sau đó.

Nguyên tắc sóng Elliott

THURSDAY, 25 DECEMBER 2008 00:30 VIỆT TRADER

User Rating: / 6 

PoorBest 

Nguyên tắc sóng Elliott là một trong những công cụ phân tích kỹ thuật mà một số nhà kinh doanh chứng khoán dùng để phân tích những xu hướng giá trong các thị trường tài chánh. “Cha đẻ” của nguyên tắc này là Ông Ralph Nelson Elliott (1871-1948). Nghề chính của ông là kế tóan và ông đã nghiên cứu và phát triển ra nguyên tắc này vào những năm 30 của thế kỷ trước.

Theo ông Elliott, sự thay đổi của giá cả sẽ tạo ra những cơn sóng, như hình vẽ. Trong đó một cơn sóng cơ bản sẽ có 5 cơn sóng “chủ” và 3 cơn sóng điều chỉnh. Trong 5 con sóng chủ thì sóng số 1, 3 và số 5 gọi là sóng “chủ và động”, và sóng 2, 4 gọi là sóng “chủ và điều chỉnh”. 2 con sóng điểu chỉnh được gọi là sóng A,B, C.

Trong mỗi một con sóng như vậy lại có những con sóng nhỏ và cũng tuân theo quy luật của lý thuyết Elliot. Một đợt sóng chủ hòan chỉnh sẽ có 89 sóng và đợt sóng điều chỉnh hòan chỉnh sẽ có 55 sóng.

Tùy theo thời gian độ lớn của sóng sẽ được phân theo thứ tự sau

Grant Supercycle: sóng kéo dài nhiều thập kỹ, đôi khi cả thế kỹ

Supercycle: kéo dài từ vài năm đến vài thập kỹ

Cycle: kéo dài từ 1 đến vài năm

Primary: kéo dài từ vài tháng đến vài năm

Intermediate: kéo dài từ vài từ tuần đến vài tháng

Minor: kéo dài trong vài tuần

Minute: Kéo dài trong vài ngày

Minuette: Kéo dài trong vài giờ.

Subminutte: Kéo dài trong vài phút.

Dưới đây là phân tích một con sóng 5-3 điển hình của thị trường trong giai đọan tăng trưởng - “bò húc”. Cũng con sóng 5-3 này trong Thị trường suy thóai – “gấu ngủ” sẽ được vẽ hòan tòan ngược lại.

Dưới đây là phân tích một con sóng 5-3 điển hình của thị trường trong giai đọan tăng trưởng - “bò húc”. Cũng con sóng 5-3 này trong Thị trường suy thóai – “gấu ngủ” sẽ được vẽ hòan tòan ngược lại.

Sóng chủ số 1. Đợt sóng đầu tiên này là có điểm xuất phát từ thị truờng con gấu (suy thóai), do đó sóng 1 ít khi được nhận biết ngay từ đầu. Lúc này thông tin cơ bản về các công ty niêm uớc vẫn đang là thông tin tiêu cực. Chiều hướng của thị trường trước khi sóng 1 xảy ra chủ yếu vẫn là thị truờng suy thoái. Những nhà phân tích cơ bản vẫn đang tiếp tục điều chỉnh thu nhập kỳ vọng thấp xuống so với dự kiến. Khối lương giao dịch có tăng chút ít theo chiều hướng giá tăng. Tuy vậy việc tăng này là không đáng kể. Do đó nhiều nhà phân tích kỹ thuật không nhận ra sự có mặt của đợt sóng số 1 này.

Sóng chủ số 2. Sóng chủ 2 sẽ điều chỉnh sóng 1, nhưng điểm thấp nhất của sóng 2 không bao giờ vượt qua điểm xuất phát đầu tiên của sóng 1. Tin tức dành cho thị trường vẫn chưa khả quan. Thị trường đi xuống ở cuối sóng 2 để thực hiện việc “kiểm tra” độ thấp của thị trường. Những người theo phái con gấu vẫn đang tin rằng thị trường con gấu vẫn đang ngự trị. Khối lượng giao dịch sẽ ít hơn đợt sóng 1. Giá sẽ được điều chỉnh giảm và thuờng nằm trong khoảng 0.382 đến 0.618 của mức cao nhất của sóng 1.

Sóng chủ số 3. Thông thường đây là sóng lớn nhất và mạnh mẽ nhất của xu hướng lên giá. Ngay đầu sóng 3, thị trường vẫn còn nhận những thông tin tiêu cực vì vậy có nhiều nhà kinh doanh không kịp chuẩn bị để mua vào. Khi sóng 3 đang ở lưng chừng, thị trường bắt đầu nhận những thông tin cơ bản tích cực và những nhà phân tích cơ bản bắt đầu điều chỉnh thu nhập kỳ vọng. Mặc dù có những đợt điều chỉnh nho nhỏ trong lòng của sóng 3, giá của sóng 3 tăng lên với tốc độ khá nhanh. Điểm cao nhất của sóng 3 thường cao hơn điểm cao nhất của sóng 1 với tỷ lệ 1,618:1

Sóng chủ số 4. Đây thật sự là một con sóng điều chỉnh. Giá có khuynh hướng đi xuống và đôi khi có thể răng cưa kéo dài. Sóng 4 thường sẽ điều chỉnh sóng 3 với mức 0.382 – 0.618 của sóng 3. Khối lượng giao dịch của sóng 4 thấp hơn của sóng 3. Đây là thời điểm để mua vào nếu như nhà kinh doanh nhận biết được tiềm năng tiếp diễn liền sau đó của con sóng 5. Tuy vậy việc nhận biết điểm dừng của sóng 4 là một trong những khó khăn của các nhà phân tích kỹ thuật trường phái sóng Elliot.

Sóng chủ số 5. Đây là đợt sóng cuối cùng của 5 con sóng “chủ”. Thông tin tích cực tràn lan khắp thị trường và ai cũng tin rằng thị trường đang ở trong thế bò húc. Khối lượng giao dịch của sóng 5 khá lớn , tuy vậy thông thường vẫn nhỏ hơn sóng 3. Điều đáng nói là những nhà kinh doanh “không chuyên nghiệp” thường mua vào ở những điểm gần cuối sóng 5. Vào cuối con sóng 5, thị trường nhanh chóng chuyển hướng.

Sóng điều chỉnh A. Sóng này bắt đầu cho đợt sóng điều chỉnh A,B,C. Trong thời gian diễn ra sóng A, thông tin cơ bản vẫn đang rất lạc quan. Mặc dù giá xuống, nhưng phần đông các nhà kinh doanh vẫn cho rằng thị trường đang trong thế bò húc. Khối lượng giao dịch tăng trưởng khá đều đặn theo con sóng A.

Sóng điều chỉnh B. Giá tăng trở lại và với mức cao hơn so với điểm cuối sóng A. Sóng B được xem là điểm kéo dài của thị trường bò húc. Đối với những người theo trường phái phân tích kỹ thuật cổ điển, điểm B chính là vai phải của đồ thị Đầu và Vai ngược. Khối lượng giao dịch của sóng B thường thấp hơn của sóng A. Vào lúc này, những thông tin cơ bản của các công ty không có những điểm tích cực mới, thế nhưng cũng chưa chuyển hẳn qua tiêu cực.

Sóng điều chỉnh C. Giá có khuynh hương giảm nhanh hơn các đợt sóng trước. Khối luợng giao dịch tăng. Hầu như tất cả mọi nhà kinh doanh, đầu tư đều nhận thấy rõ sự ngự trị của “gấu ngủ” trên thị trường, chậm nhất là trong đợt sóng nhỏ thứ 3 của sóng C. Sóng C thường lớn như sóng A. Điểm thấp nhất của sóng C ít nhất bằng điểm thấp nhất của sóng A nhân với 1.618.

Support and Resistance, Trend Lines, and Channels

THURSDAY, 11 DECEMBER 2008 13:48 VIỆT TRADER

User Rating: / 0 

PoorBest 

Support and Resistance (Hỗ trợ và kháng cự)

Hỗ trợ và kháng cự là một trong phần lớn các khái niệm được sử dụng rộng rãi trong kinh doanh. Mọi người có ý nghĩ dựa vào đâu để đo lường sự hỗ trợ và kháng cự.

Hãy nhìn qua hình cơ bản đầu tiên

Nhìn vào lưu đồ trên, bạn có thể thấy, mẫu chữ chi này đang đi lên (thị trường tăng giá). Khi thị trường đi lên và sau đó kéo trở lại, nó đạt đến đỉnh cao nhất trước khi bị kéo xuống và ta có sự kháng cự.

Khi thị trường tiếp tục lên lần nữa, nó đạt đến điểm thấp nhất trước khi bắt đầu trở lại khi này ta có sự hỗ trợ. Bằng cách này sự kháng cự và hỗ trợ được hình thành liên tục như khi thị trường dao động theo thời gian. Trái với trường hợp này ta có xu hướng xuống.

Có 02 điểm quan trọng cần ghi nhớ :

1. Khi thị trường trãi qua sự kháng cự, sự kháng cự trở thành hỗ trợ.

2. Vùng kháng cự hoặc hỗ trợ là vùng mà giá thường có mức kháng cự hoặc hỗ trợ nhưng không phá vỡ nó.

Trend Lines (Đường xu hướng)

Đường biểu diễn xu hướng hầu như là dạng phổ biến nhất của phân tích kỹ thuật được sử dụng hiện nay. Chúng hầu như cũng là một dạng không được sử dụng đúng mức nhất.

Nếu được vẽ đúng, chúng có thể chính xác như bất kỳ phương pháp nào khác. Nhưng đáng tiếc, phần lớn những người kinh doanh không vẽ đúng hoặc họ có làm cho đường hợp với thị trường thay cho một hướng khác.

Trong dạng cơ bản nhất, một đường lên được vẽ từ đáy của vùng hỗ trợ (khe) có thể nhận biết dễ dàng. Trong một hướng xuống, đường xu hướng được vẽ từ đỉnh của vùng kháng cự (đỉnh).

Channels (Kênh)

Nếu chúng ta bước thêm một bước về lý thuyết đường xu hướng và vẽ một đường song song có cùng góc của đường lên hoặc xuống, chúng ta sẽ tạo ra một kênh.

Để tạo một kênh lên, đơn giản vẽ một đường song song có cùng góc với đường hướng lên và sau đó dời đường đó đến vị trí chạm đỉnh gần đó. Điều này nên được thực hiện cùng lúc với tạo đường xu hướng.

Để tạo một kênh xuống, vẽ một đường song song có cùng góc với đường xuống và sau đó dời đường đó tới vị trí chạm đáy gần đó nhất. Điều này nên được thực hiện cùng lúc với tạo đường xu hướng.

Khi giá chạm đường xu hướng dưới có thể được sử dụng như vùng mua. Khi giá chạm đường xu hướng trên có thể sử dụng như một vùng bán.

10 quy tắc phân tích kỹ thuật của John Murphy

THURSDAY, 04 DECEMBER 2008 10:03 VIỆT TRADER

User Rating: / 5 

PoorBest 

1. Xác định xu hướng: 

Nghiên cứu các biểu đồ dài hạn. Bắt đầu phân tích biểu đồ với biểu đồ tháng và biểu đồ tuần liền trong vài năm. Khung thời gian càng lớn cung cấp cái nhìn càng tổng quan của thị trường trong dài hạn. Một khi biểu đồ dài hạn được xác lập thì hãy tham khảo biểu đồ ngày và trong ngày. Một sự nhìn nhận ngắn hạn riêng lẻ có thể dẫn đến nhầm lẫn. Ngay cả bạn chỉ giao dịch ngắn hạn, bạn sẽ giao dịch tốt hơn nếu bạn giao dịch cùng hướng với xu

hướng trung hạn và dài hạn. 

2. Phát hiện xu hướng và đi theo nó:

Xác định xu hướng và đi theo nó. Xu hướng thị trường với nhiều kích cỡ khác nhau: dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Đầu tiên, xác định xu hướng nào bạn sẽ giao dịch với nó và sử dụng biểu đồ thích hợp. Hãy chắc chắn rằng bạn đang giao dịch theo đúng hướng của xu hướng đó. Mua đáy khi xu hướng lên và bán đỉnh khi xu hướng xuống. Nếu bạn đang chọn chiến lược giao dịch trung hạn, bạn nên sử dụng biểu đồ ngày và tuần. Nếu bạn chỉ giao dịch ngắn hạn trong ngày, bạn nên dùng biểu đồ ngày và trong ngày. Nhưng trong mỗi trường hợp, hãy để biểu đồ khung thời gian lớn hơn xác định xu hướng và biểu đồ khung thời gian ngắn hơn xác định thời điểm ra vào thị trường.

3. Tìm điểm kháng cự và hỗ trợ

Xác định mức hỗ trợ và kháng cự. Nơi tốt nhất để mua là giá ở gần mức hỗ trợ. Các điểm hỗ trợ là các điểm đáy trước đó. Ngược lại, nơi tốt nhất để bán là gần mức kháng cự. Các điểm kháng cự là điểm đỉnh trước đó.

Sau khi điểm kháng cự bị phá vỡ, các điểm này sẽ đảo ngược vai trò. Có nghĩa là các điểm cao cũ sẽ trở thành các điểm thấp mới. Tương tự, khi các mức hỗ trợ bị phá vỡ, thì các điểm thấp cũ sẽ trở thành những điểm cao mới. 

4. Nhận biết mức độ thoái lui

Đo phần trăm mức thoái lui (retracement). Sự hiệu chỉnh lên hoặc xuống của thị trường thường thoái lui một phần đáng kể của xu hướng trước đó. Bạn có thể đo sự hiệu chỉnh của một xu hướng hiện tại bằng phần trăm mức thoái lui. Mức thoái lui 50% là phổ biến nhất. Mức thoái lui thấp nhất thường là 1/3 của xu hướng trước. Mức thoái lui cao nhất thường là 2/3. Fibonacci retrace với mức 38% và 62% thường được quan tâm nhất. Trong suốt quá trình thoái lui của một xu hướng tăng, điểm mua thường nằm trong vùng thoái lui 33%-38%.

5. Vẽ đường thẳng: Vẽ đường xu hướng (trendline). 

Đường xu hướng là một trong những công cụ biểu đồ đơn giản và hiệu quả nhất. Tất cả những gì bạn cần đó là một đỉnh chính xác và 2 điểm trên một biểu đồ. Xu hướng lên được vẽ qua 2 điểm thấp và xu hướng xuống được vẽ qua 2 điểm cao. Một xu hướng đúng nên được chạm ít nhất 3 lần. Xu hướng càng lâu, số lần giá chạm đường xu hướng càng nhiều, đường xu hướng đó càng trở nên quan trọng.

6. Theo dõi các chỉ số trung bình:

Theo dõi các đường trung bình dịch chuyển (MA). Các đường MA này có thể cung cấp tín hiệu Mua hoặc Bán. Nó sẽ nói cho chúng ta biết xu hướng hiện tại có biến động không và giúp chúng ta khẳng định sự thay đổi của xu hướng. Biểu đồ kết hợp hai đường trung bình dịch chuyển chính là cách phổ biến nhất để tìm kiếm các tín hiệu giao dịch. Những cặp MA phổ biến khi trade là đường MA4 và MA9, MA9 và MA18, MA 5 và MA20. Tín hiệu xuất hiện khi đường trung bình ngắn hơn chéo qua đường trung bình dài hơn. Giá cắt lên hoặc xuống đường MA 40 ngày có thể xem là tín hiệu giao dịch tốt. Vì MA là một chỉ số theo xu hướng nên nó chỉ hoạt động tốt trong một thị trường có xu hướng. 

7. Nghiên cứu các điểm đảo chiều:

Kiểm tra các chỉ số dao động (oscillator). Các chỉ số này giúp xác định tình trạng mua vượt và quá vượt của thị trường. Trong khi các đường MA giúp xác nhận xu hướng thì các chỉ số dao động lại giúp xác định thị trường đã tăng quá nhanh hoặc giảm quá nhanh và sẽ sớm quay lại (hiệu chỉnh). Có thể dùng RSI và Stochastics để xác định tình trạng này. Cả hai chỉ số này đều được định từ 0 đến 100. Đối với RSI, 70 là giá trị ám chỉ mua vượt, trong khi dưới 30 là bán vượt. Tương tự tình trạng mua vượt và bán vượt cũng được xác định bởi chỉ số Stochastics là 80 và 20. Hầu hết các nhà đầu tư ứng dụng stochastics trong 14 ngày hoặc vài tuần, và 9 hoặc 14 ngày hoặc vài tuần đối với RSI. Phân kỳ có thể thông báo sự đổi chiều của thị trường. Những chỉ số này hoạt động tốt trong một biên độ giao dịch của thị trường. Có thể dùng các tín hiệu giao dịch theo khung thời gian tuần để dự đoán các tín hiệu giao dịch theo khung thời gian ngày.

8. Nhận biết các tín hiệu cảnh báo:

Có thể giao dịch theo MACD. MACD là sự kết hợp của một hệ thống chéo trung bình biến đổi với một tín hiệu dự báo mua vượt/bán vượt. Ngoài ra cũng có thể dùng MACD histogram để xem trước các tín hiệu cảnh báo. Histogram có thể giúp xem được sự thay đổi về khoảng cách của 2 đường cấu tạo nên MACD.

9. Xác định có phải xu hướng hay không.

Sử dụng đường ADX. Đường ADX có thể giúp xác định thị trường có xu hướng hay không. ADX đo lường mức độ của một xu hướng trong thị trường. Nếu ADX càng tăng thì xu hướng càng mạnh và ngược lại. ADX tăng có thể kết hợp với các đường MA, ADX giảm có thể kết hợp với các chỉ số oscillator. Sử dụng ADX có thể giúp nhà đầu tư xác định xem dùng chỉ số (indicator) nào là phù hợp.

10. Nhận biết các dấu hiệu khẳng định

Khối lượng giao dịch và lãi suất mở (open interest) là 2 chỉ số khẳng định trong thị trường giao sau. Lượng tiền giao dịch đến trước giá cả. Trong xu hướng tăng giá thì lượng tiền giao dịch sẽ nhiều hơn. Việc tăng lãi suất mở khẳng định rằng đồng tiền mới đang hỗ trợ cho xu hướng lan tỏa của thị trường. Xu hướng tăng giá luôn đi kèm với việc tăng lượng tiền giao dịch và tăng lãi suất mở.

Giới thiệu các loại Fibonacci

THURSDAY, 04 DECEMBER 2008 09:53 VIỆT TRADER

User Rating: / 7 

PoorBest 

Fibonacci Arcs được xây dựng như sau: đầu tiên, đường xu hướng được vẽ từ hai điểm cực độ, ví dụ, từ cực tiểu đến cực đại đối diện. Sau đó, ba đường hình cung sẽ được xây dựng với tâm trùng với điểm cực trị thứ 2 và cắt đường xu hướng tại mức Fibonacci 38.2, 50 và 61.8%. Fibonacci Arcs được xem như là các đường tiệm cận trên và tiệm cận dưới tiềm năng. Fibonacci Arcs và Fibonacci Fans thường được sử dụng với nhau trên biểu đồ và đường tiệm cận trên và tiệm cận dưới được xác định bởi giao điểm của các đường này.

Fibonacci Fan

Fibonacci Fan là một công cụ được xây dựng như sau : một đường xu hướng – ví dụ vẽ một đường nối 2 điểm cực trị. Sau đó, một trục dọc “vô hình” được vẽ một cách tự động đi ngang qua điểm cực đại thứ hai. Và sẽ có 3 đường xu hướng được vẽ từ điểm cực trị thứ nhất, các đường này cắt đường dọc vô hình tại mức Fibonacci bằng 38.2, 50 và 61.8%.

Những đường thẳng này được xem là đại diện cho đường tiệm cận trên và tiệm cận dưới. Để có thể đạt hiệu quả cao hơn trong việc dự đoán giá, chúng ta nên sử dụng các công cụ Fibonacci khác cùng với Fibonacci Fan.

Fibonacci Retracement

Đường Fibonacci Retracement được xây dựng như sau: đầu tiên, đường xu hướng được vẽ giữa hai điểm cực trị, ví dụ, từ điểm cực tiểu đến điểm cực đại đối diện. Sau đó, 9 đường ngang cắt đường xu hướng ở các mức Fibonacci 0.0, 23.6, 38.2, 50, 61.8, 100, 161.8, 261.8 và 423.6% được vẽ. Sau một mức tăng hay giảm rõ rệt, giá thường sẽ trở lại mức trước đó nhằm điều tiết cho một phần cần thiết (và thỉnh thoảng tới khi hoàn thành) của những thay đổi ban đầu. Giá thường chạm tiệm cận trên/tiệm cận dưới tại hoặc gần các mức Fibonacci Retracement trong một quá trình thay đổi tuần tự.

Fibonacci Time Zones

Fibonacci Time Zones là một loạt các đường dọc cách nhau 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34,…Các thay đổi giá mạnh thường nằm gần các đường này.

Để xây dựng công cụ này, phải xác định 2 điểm để có thể biết được chiều dài của khoảng cách đơn vị. Mọi đường thẳng khác được xây dựng dựa trên các khoảng cách đơn vị và các số Fibonacci.

Fibonacci Expansion

Fibonacci Expansion tương tự như Fibonacci Retracement và dùng để xác định điểm kết thúc của bước sóng thứ 3. Không như Fibonacci Retracement, công cụ này được xây dựng không chỉ dựa trên một đường xu hướng, mà dựa trên 2 bước sóng.

Đầu tiên, vẽ đường thẳng xu hướng cho bước sóng thứ nhất, độ cao của nó sẽ được dùng làm đơn vị khoảng cách. Điểm kết thúc bước sóng thứ hai là điểm mang tính tham khảo để dựng một trục thẳng đứng vô hình. Các đường thẳng tương ứng khác được vẽ từ điểm tham khảo đó trên các khoảng cách bằng 61.8%, 100% và 161.8% của khoảng cách đơn vị (xác định khi dựng đường thẳng thứ nhất). Bước sóng thứ ba sẽ kết thúc gần các mức này.

Fibonacci Channel

Fibonacci Channel được tạo nên bằng các đường xu hướng song song. Để xây dựng công cụ này, bề rộng của kênh được sử dụng là bề rộng đơn vị. Sau đó, các đường thẳng song song sẽ được vẽ tại các điểm giá trị tương ứng với dãy số Fibonacci, bắt đầu là 0.618 bề rộng đơn vị, sau đó 1.000, 1.618, 2.618, 4.236 lần…Sau bước sóng thứ năm, có thể dự đoán được sự thay đổi của xu hướng.

Nên nhớ rằng để dựng Kênh Fibonacci đúng thì phải dựa vào đường giới hạn tầm trên của kênh khi xu hướng tăng và tầm dưới của kênh khi xu hướng giảm.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: