Phần Không Tên 8
Bóng nến đong đưa sắc hồng. Trên chiếc giường hoa bằng gỗ tử đàn chạm trổ tinh tế, tấm màn run rẩy như dòng suối uốn lượn. Những tiếng rên rỉ thỏ thẻ và yêu kiều theo nhau tuôn ra từ trong màn hoa. Từng vần từng tiếng tựa như dòng suối mát chảy róc rách.
- Lão... lão gia..., chàng thương tình chút đi mà. Nô gia mới là lần đầu, chịu không nổi lão gia trừng phạt...
Từ bóng người nhấp nhô uyển chuyển, tiếng nỉ non của Ngọc Đường Xuân nghe như một cơn gió dịu dàng, mơ hồ kèm theo tiếng thút thít.
Giọt nến hoá thành màu đỏ sặc sỡ, rực rỡ và tươi đẹp hệt như người con gái trên
giường. Không biết qua bao lâu, tiếng rên rỉ nỉ non khe khẽ ấy bỗng nhiên trở nên gấp gáp và vui sướng. Cuối cùng, chim hót suối reo, róc rách rồi ngừng, giường hoa đã yên tĩnh trở lại...
Thì thầm an ủi một lúc, qua một lúc sau, có lẽ do trong màn oi bức, Dương Lăng kéo tấm màn bên giường lên. Trên chiếc giường hoa xuân sắc vô biên, thân ngọc Ngọc Đường Xuân nằm ngang, cánh tay ngó sen duỗi nhẹ dưới cổ Dương Lăng, khuôn mặt xinh xắn mướt mồ hôi ngập tràn niềm vui sướng và thoả mãn. Nàng nép vào ngực Dương Lăng, thì thầm trong hạnh phúc:
- Lão gia, Ngọc Nhi rất yêu chàng, chàng đã khiến Ngọc Nhi lên mây rồi... Ơ...
Đừng cử động mà, người ta muốn ôm chàng, ôm chàng...
Âm thanh càng lúc càng nhỏ. Sau khi triền miên lên đỉnh, Ngọc Đường Xuân đang uể oải nép vào lòng Dương Lăng, trên môi còn mang theo nụ cười ngọt ngào, tựa chừng đã hơi mỏi mệt. Dương Lăng đét lên bờ mông căng tròn của nàng một cái, cô nàng chỉ dùng giọng mũi phát ra một tiếng kháng nghị mê hồn, thân thể rã rời, ngay cả ngón tay cũng lười chẳng muốn cử động.
Nàng vùi đầu vào lòng Dương Lăng, mái tóc mượt mà như mây phủ lên tấm lưng trần trơn như thoa mỡ. Đen có, trắng có, rất nhạt mà lộng lẫy. "Ôi! Có hiền thê mỹ thiếp như vầy, có cho vương hầu cũng không đổi." Nghe tiếng thở nhẹ nhàng như của chú mèo nhỏ từ trong vòng tay mình từ từ vang lên, Dương Lăng hài lòng suy nghĩ.
Nến đỏ cũng đã cháy hết, tim nến nổ lốp đốp, thoạt mờ thoạt tỏ. Trong trời đêm tĩnh mịch, không biết từ đâu đột nhiên vọng đến những tiếng than khẽ. Đang đắm chìm trong cảnh bồng lai, vừa định gối mỹ nhân say giấc nồng, tim Dương Lăng liền đập đánh thịch, y sực nhớ đêm nay vẫn còn một lần động phòng nữa...
(Hết quyển ba) Chú thích:
(1) Trích từ một hí khúc về Ngọc Đường Xuân (Tô Tam). Lời rằng:
将身来到大街前。未曾开言心好惨,
Hán Việt:
Tô Tam li liễu Hồng Động huyền, Tương thân lai đáo đại nhai tiền。Vị tằng khai ngôn tâm hảo thảm, Quá vãng quân tử thính ngã ngôn。
Đến năm 1920, tại huyện Hồng Động, tỉnh Sơn Tây vẫn còn lưu hồ sơ vụ án Tô Tam.
- Hay! Kế này thật tuyệt. Chúng ta sẽ không tốn công sức bao nhiêu mà lại có thể khiến Dương Lăng biết được lợi hại của chúng ta. Vương công công! Đừng chần chừ thêm nữa, tiên hạ thủ vi cường đó!
- -
Chương 122: Xưởng đốc ra quân
- -
Không biết từ khi nào, ngoài trời lại đổ một cơn mưa nhỏ. Mưa tí tách rơi, đáp xuống những tàu lá chuối dưới khung cửa sổ phát ra âm thanh lộp bộp. Bỗng hai tiếng đàn gảy "tính tang" vang lên cùng một giọng hát ngọt ngào khẽ ngân nga trong đêm mưa sâu thẳm:
Nén nhìn bướm lượn hiên bên,
Run cành sẽ hỏi thệ nguyền biết không? Nương tràn tâm ý gió đông
Vì ai nên bệnh, nên lòng ủ ê. Gió đưa bướm mối mai về,
Mà nơi phòng kín áo thề chửa may. Bàng quan mấy kẻ đâu hay
Chờ ai giải khối tình này người ơi!
Lần đầu khoác chiếc áo cưới ngồi ngóng đợi bên giường, thấy sắc trời càng lúc càng tối mà lão gia dường như không muốn đến, trong lòng Tuyết Lý Mai thực sực đã hốt hoảng. Nàng với Tô Tam vốn có tình thân như thủ túc nên không hề muốn tranh sủng. Nhưng dù xinh tươi quyến rũ thì nét đẹp hoa thơm cỏ lạ ấy của nàng sao có thể sánh với vẻ tuyệt sắc nhân gian vạn người không một của Ngọc Đường Xuân đây?
Cho dù địa vị không bằng Ấu Nương, nhan sắc không bằng Tô Tam thì tiểu cô nương cũng không lo lắm mà chỉ sợ Dương Lăng vì bị lệnh vua ép buộc mới nạp nàng về chứ thực ra trong lòng không hề thích. Ngồi cô quạnh cho đến khi nến hồng cháy hết, Tuyết Lý Mai thương xót cho bản thân mình, cầm lòng không được bèn ôm lấy đàn, vừa khẽ gảy vừa hát, nghe tiếng mưa rả rích bên ngoài cửa sổ mà trong lòng đau khổ không thôi.
Ngọc Đường Xuân tỉnh dậy từ trong mộng đẹp, nghe tiếng ca của Tuyết Nhi mà thấy thẹn muốn chui xuống đất, vội vàng ngọ nguậy tính ngồi lên để giúp lão gia vận quần áo. Vốn Dương Lăng sớm đã ngồi dậy mặc y phục xong, thấy nàng lần đầu đón nhận cơn mưa móc, dáng vẻ mệt mỏi yêu kiều, bèn vội giữ lấy bờ vai thơm mềm, kéo tấm chăn mỏng khoác lên cho nàng, rồi nhẹ giọng bảo:
- Trời mưa rồi, đừng để nhiễm lạnh, nghỉ ngơi sớm chút đi.
Ngọc Đường Xuân đang lõa phơi dáng ngọc, thấy ngồi dậy cũng hơi mất ý tứ bèn nghe lời nằm xuống. Dương Lăng quan tâm như vậy khiến nàng cảm thấy ấm áp trong lòng. Nàng hé cánh môi đào mỉm cười thật ngọt ngào, thẹn thùng gật đầu.
- Nén nhìn bướm lượn bên hiên...
Tiếng ca lại cất lên trong đêm. "Con bướm hái hoa" Dương Lăng vội vàng cuống quít mở cửa phòng đi ra...
***
Một đêm hai lần điên cuồng, đáng lý nên ngủ không dậy mới phải, song trời vừa tờ mờ sáng thì Dương Lăng đã tỉnh giấc, có lẽ do khoảng thời gian này y đã
quen với việc dậy sớm vào chầu. Trong khi đó, Tuyết Lý Mai vốn quen với việc thức khuya dậy sớm lại đang ngủ say sưa. Dáng ngủ của nàng thật sự không được tốt. Quấn lấy nhau cả đêm khiến cả tấm chăn mỏng bị nàng cuộn hết lên người, chỉ để lộ một làn da trắng mịn, trên khuôn mặt được trang điểm nhẹ vẫn lờ mờ hai vệt nước mắt vừa khô.
Tuyết Lý Mai tự biết tư sắc và phong thái không bì được với Ngọc Đường Xuân. Để lấy lòng lão gia, tuy là lần đầu phá thân nhưng nàng đã nén sự xấu hổ mà rụt rè dốc sức giở mọi thủ đoạn quyến rũ mà nàng nghe được ở Thì Hoa Quán. Chỉ mong lão gia sung sướng vui vẻ mà trong tim có thể dành một vị trí cho nàng.
Trong ấy tuy vẻ kiều diễm không diễn đạt được thành lời nhưng chỉ riêng tinh thần "cần cù", "hết lòng cầu thị" của tiểu nha đầu này đã đủ khiến cho tất cả dâm thần phải cảm động rồi. Nếu không chú ý đến vệt máu đỏ và vẻ mặt non nớt lúc giao hoan mà chỉ nhìn vào các tư thế thay đổi không ngừng của nàng thì Dương Lăng có lẽ đã tưởng nàng là kẻ thạo nghề trong chốn phong nguyệt.
Thân thể Tuyết Lý Mai mềm mại, eo thon uyển chuyển gọn gàng, da dẻ mịn màng... đặc biệt là làn da ngọc ngà trắng mịn ấy như đang ửng ráng mây hồng, tinh khôi không tì vết. Lúc động tình, nàng nhíu hàng chân mày, hân hoan như chực khóc. Khuôn mặt thuần khiết khi đó phơi bày một nét quyến rũ lạ thường khiến Dương Lăng sinh ra một loại khoái cảm muốn ức hiếp, lăng nhục. Đêm phong lưu này quả là sung sướng!
***
Nên khai nụ thì đã khai nụ, phải khai trương cũng sẽ khai trương.
Nội xưởng được thành lập, mọi con mắt trong và ngoài triều đều dồn về nó. Thế nhưng nha môn Nội xưởng nằm ngoài Tây Trực môn không bỏ tiền ra mua đất mà lại tổ chức cho quan binh Tả Tiêu doanh - vốn vừa mới phục dịch ở Thái lăng nay lại lắc mình biến thành những binh sỹ nha sai - tự lực cánh sinh xây dựng nha môn trong sơn cốc phía sau Cao Lão trang, thật khiến người ta cười rụng rớt quai hàm.
Đông xưởng lo Dương Lăng sẽ lập tức tiếp nhận việc thuế giám, thế là Phạm
Đình và bốn đại thủ lĩnh thái giám của ty Lễ Giám cùng ngồi lại với nhau, nghĩ ra đủ loại phương kế để định gây khó dễ, nhưng chờ mãi vẫn không thấy Dương Lăng đến tìm. Quá đỗi ngạc nhiên, bọn họ bèn phái người đi nghe ngóng thì được biết Dương Lăng đã chiêu nạp gã "Thiên hộ giữ cổng" người Sắc Mục bất tài vô dụng trong Cẩm Y vệ là Vu Vĩnh làm Nhị bộ đầu, hiện đang dẫn một đám binh sỹ liên lạc với hàng xe, hàng ngựa vận chuyển đường dài khắp nơi để hợp tác, thành lập cơ cấu tình báo cho Nội xưởng.
Nghe xong tin này, Phạm Đình suýt cười đến tắt thở, bao sự trọng thị và e dè với Dương Lăng tức thì tan theo mây khói. Nếu không phải hai bên đang ở thế đối lập với nhau thì lão cũng muốn thông cảm cho Dương Lăng, hành động lần này đã thật sự làm mất hết mặt mũi của xưởng vệ. Nếu Dương Lăng tạm thời không dám tìm đến cửa để tiếp nhận ty Thuế Giám thì mình cũng không cần e ngại mà "hào phóng" một chút. Phạm Đình bèn hạ lệnh, bảo nha sai Đông xưởng tạm thời không cần gây phiền phức cho Nội xưởng, để xem thử Dương Lăng có thức thời hay không rồi sẽ tính tiếp.
Bọn quan văn nghe nói ngoài Đông xưởng, Tây xưởng và Cẩm Y vệ, không ngờ bây giờ Hoàng Thượng lại lập thêm Nội xưởng, thế là nhao nhao yêu cầu Tam đại học sỹ thừa lúc Nội xưởng chưa đứng vững mà phát động tất cả quần thần trong triều "lấy ngòi bút làm vũ khí", thúc giục Hoàng Thượng loại bỏ xưởng này.
Tạ Thiên nghe vậy thì hơi động lòng, bèn ngầm hẹn Lưu Kiện và Lý Đông Dương để thương nghị. Khi Lưu Kiện nghe nói đến hành động yếu ớt của Dương Lăng, cũng không cảm thấy Nội xưởng có thể trở thành mối hoạ lớn, nhưng nếu có thể phát động lực lượng thần tử của triều đình diệt nó tận gốc, ắt sẽ có thể khiến cho hai xưởng Đông, Tây và Cẩm Y vệ có điều cố kỵ, không dám can dự làm loạn triều chính nên cũng vui vẻ tỏ ý tán thành.
Nhưng Lý Đông Dương lại trầm ngâm thật lâu, kề cà không nói lời nào. Tạ Thiên không nhịn được bèn cảm khái nói:
- Tân Chi, tôi biết ông rất có hảo cảm với Dương Lăng đó, thậm chí có rất nhiều kỳ vọng vào y.
- Chúng ta đều đã già rồi, còn có thể tận tâm, tận lực cho triều đình bao năm nữa chứ? Nếu như có vài vãn bối đủ tài lẫn đức có thể hết lòng phò tá Hoàng Thượng, đám lão thần chúng ta cũng không phụ lòng tiên đế, không phụ lòng với bá tánh lê dân rồi. Nhưng mà, Dương Lăng và đám lộng thần bên cạnh Hoàng Thượng xưng bạn xưng bè, nay lại mưu cầu lãnh đạo Nội xưởng, rõ ràng lòng lang dạ thú, chẳng lẽ ông còn tin y sẽ là kẻ trung lương ư?
Lưu Kiện cũng không vui, nói:
- Tân Chi, tôi biết ông trông đợi vào y rất nhiều. Tuy tài cán y không bằng Dương Đình Hoà, Dương Nhất Thanh, nhưng lại là kẻ được Hoàng Thượng tin sủng nhất. Nếu như y một lòng vì nước, chúng ta đương nhiên không ngại mà nâng đỡ cho y, nói không chừng bản triều có thể giống như "Tam Dương nắm quyền"(1) thời Tuyên Đức, lại sản sinh ra thêm "Tam Dương tài giỏi"(2). Nhưng nay nghe lời nói, xem hành động của y, người này tuy chưa hẳn đại gian đại ác, song tuyệt không giống như bề tôi trung hiền. Ông đừng làm việc theo cảm tính nữa.
Lý Đông Dương mỉm cười nói:
- Hai vị đại nhân cho rằng tôi không nỡ cắt đứt tiền đồ của y sao? Ha ha ha, tôi đang nghĩ, trong triều có Nội xưởng và không có Nội xưởng thì cái nào có lợi hơn.
Tạ Thiên không đồng ý, nói:
- Tân Chi, ông hồ đồ rồi sao? Ông nói xem, xưởng vệ đã làm được việc gì có ích cho triều đình, cho dân chúng rồi? Chẳng lẽ có hai xưởng một vệ tranh quyền đoạt lợi còn chưa đủ, còn muốn đẻ thêm một con ác hổ sao?
Lý Đông Dương khẽ cười nói:
- Chẳng lẽ Tạ đại nhân đã quên nơi mà con hổ Nội xưởng này chằm chằm giương mắt vào chính là ty Thuế Giám sao?
Lưu Kiện và Tạ Thiên nghe xong, ánh mắt chợt sáng lên, Tạ Thiên buột miệng
nói:
- Hai hổ tranh đấu...
Lưu Kiện do dự một chút rồi nói:
- Tôi thấy Dương Lăng né tránh khắp nơi, không giao tranh cùng Đông xưởng.
Giao ty Thuế Giám cho Nội xưởng là khẩu dụ của Hoàng Thượng, có thánh chỉ trong tay mà y cũng không dám đi mở miệng với Vương Nhạc, chẳng phải Tân Chi đã quá trông đợi ở y rồi sao?
Lý Đông Dương cười lớn rồi nói:
- Lão đại nhân à, ông thấy Dương Lăng ngày thường hành sự, tuy được vua sủng ái mà vẫn biết khiêm tốn. Nhưng ông quên phần kiến thức, tâm cơ nọ của y tại Kinh Diên đã khiến những vị đại nhân của cả triều muốn làm khó y một phen cũng phải cứng họng à? Tâm cơ và kiến thức của người này đủ thấy y không phải người thường. Sở dĩ tôi đây hiểu không thấu y là bởi vì y rất được ơn vua, vốn không cần cúi đầu để gia nhập Thần Cơ doanh.
- Đương nhiên nếu như y lòng nhiều dã tâm, muốn đoạt lấy hoặc được bổ ra vùng biên ngoại làm quan to hay tướng soái, chúng ta sẽ không khoanh tay đứng nhìn. Lạ là lạ ở chỗ dường như y lại gặp sao yên vậy, không hề có dã tâm.
- Nếu y vốn ẩn nhẫn như vậy, đã không lộ tài năng mà giờ lại khua chiêng gióng trống, sốt sắng với việc thiết lập Nội xưởng nên tôi mới không tin y sẽ bỏ qua vật sờ tay vào là bỏng như cái Thuế Giám này.
Sau đó ông ta mỉm cười, như đã định liệu trước, nói:
- Hãy chờ mà xem, nếu cặp mắt già này chưa mờ, cái ý nghĩ kỳ lạ đi kết hợp Nội xưởng với hàng xe, hàng ngựa gì đó làm do thám cho Nội xưởng, tám chín phần mười là cố ý tỏ ra yếu thế. Đợi khi thế lực ổn định, y nhất định sẽ tranh đoạt miếng thịt Thuế Giám béo bở này với Đông xưởng.
Tạ Thiên vỗ tay khen:
- Hay đây! Thuế của thiên hạ ba phần quy về bộ Hộ, bảy phần chảy vào ty Lễ
Giám. Quyền tài chính nằm trong tay nội triều (ý chỉ các hoạn quan) chung quy không làm người ta an tâm. Vương Nhạc tuổi tác đã cao, một khi tạ thế, chuyện tương lai khó bề lường trước. Nếu như Nội xưởng và Tây xưởng tranh quyền đoạt lợi, lưỡng bại câu thương, chúng ta liền có thể thừa thế phát động việc đem trả quyền thu thuế về tay bộ Hộ.
Lưu Kiện nhíu hàng mày trắng, nói:
- Suy nghĩ của Tân Chi thực ra không tệ, nhưng mà Đông xưởng rễ sâu gốc lớn, thế lực bao trùm khắp thiên hạ. Chỉ dựa vào ơn vua và Nội xưởng không nên hồn nên vía, Dương Lăng có tư cách khiêu chiến với ty Lễ Giám, khiêu chiến với Đông xưởng sao?
Lý Đông Dương cười lớn:
- Không thể được! Cho nên chúng ta không những không thể tâu xin Hoàng Thượng triệt bỏ Nội xưởng, mà trước mắt còn phải âm thầm giúp đỡ bọn họ nhiều hơn. Thực lực Nội xưởng càng mạnh, dã tâm của y cũng sẽ càng lớn. Nhưng cho dù lớn mạnh thế nào, y cũng không thể giáng cho Đông xưởng một kích trí mạng, trừ phi chúng ta tạo cho y một hình tượng giả: ngoại triều (*) đang đứng về phía y!
(*: các quan, tướng không phải là hoạn quan) Lưu Kiện vỗ tay khen:
- Hay! Lão Tạ, báo cho Đốc Sát, bảo bọn ngôn quan của Ngự Sử đài không cần gây phiền phức cho Nội xưởng nữa. Trước mắt vẫn phải mở rộng cánh cửa thuận lợi, để Nội xưởng có thực lực tranh đoạt quả đào trong tay Đông xưởng. Hà hà hà, vì lợi, hai đào sẽ có thể dễ dàng đoạt lấy ba mạng (3)!
Gần hai mươi năm từ triều đại Hoằng Trị cho đến nay, ngoại triều vẫn luôn chèn ép phe nội quan. Có lẽ vì vậy mà tam đại học sỹ đã quên rằng trên đời còn có một câu ngạn ngữ rằng: dưỡng hổ di hoạ (nuôi ong tay áo)!
***
Hai tháng, chỉ vẻn vẹn hai tháng, thế lực của Nội xưởng đã phát triển vượt xa dự đoán của chính bản thân Dương Lăng. Vốn y dự tính một khi Nội xưởng khai trương, lập tức ty Lễ Giám, Đông xưởng, Cẩm Y vệ và bọn quan văn ngoại triều quyết sẽ không bỏ mặt làm ngơ, ắt khó khăn trắc trở sẽ ùn ùn kéo tới.
Vì vậy y dùng khoái mã khoẻ mạnh mời Ngô Kiệt và Hoàng Kỳ Dận về kinh, tự mình bổ nhiệm làm quan Nội xưởng. Ngô Kiệt làm Đại bộ đầu, Hoàng Kỳ Dận và Vu Vĩnh làm Nhị bộ đầu, ba vị quan đô ty Liên Đắc Lộc (*) làm Tam bộ đầu, Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh làm Chưởng hình thiên hộ, những người còn lại đều chiếu theo Bách hộ, Ty phòng, nha dịch, nha sai mà thay đổi toàn bộ thể chế. An bài mọi thứ ổn thoả xong xuôi, mỗi ngày y đều theo bên cạnh hoàng đế, chuẩn bị dựa vào gốc cây to này để ứng phó với các loại công kích có thể xảy đến. ( *: hai người còn lại là Lưu Sỹ Dung và Bành Kế Tổ)
Không ngờ đợi mãi mà phía Đông xưởng không thấy tăm hơi, quan văn trong triều và Ngự Sử đài cũng không hề có động tĩnh gì khiến Dương Lăng uổng công lo lắng một phen.
Mấy năm trở lại đây, tuy Ngô Kiệt không được xem trọng trong Cẩm Y vệ nhưng vẫn luôn cố hết sức đảm trách công tác thu thập tình báo nên có thể nói kinh nghiệm của lão về phương diện này rất phong phú.
Không những Dương Lăng điều lão về kinh mà còn cho lão một bước lên trời, nhậm chức Đại bộ đầu, chỉ đứng sau quan Tổng đốc Nội xưởng khâm sai của y.
Hơn thế, Dương Lăng hoàn toàn không hề uý kỵ xuất thân Cẩm Y vệ của lão, mọi việc đều mạnh dạn giao cho lão làm.
Chịu đủ ghẻ lạnh nhiều năm, Ngô Kiệt vốn đầy lòng nghi kỵ và ghen tức của ngày trước giờ đây cảm động đến rơi lệ, hơn nữa lão đã cứu mạng Dương phu nhân, tự nhận mình đã có quan hệ vô cùng thân mật với nhà họ Dương nên có thể nói lão hết lòng, tận sức tận lực vì Nội xưởng. Dưới sự chỉ dạy của lão và hai vị Thiên hộ Liễu, Dương, đám quan binh đã qua huấn luyện tốt của Thần Cơ doanh đã nhanh chóng hoà nhập vào vai trò mới.
Nhận thánh chỉ vào đến kinh thành, Hoàng Kỳ Dận nghe nói Dương Lăng
muốn điều lão đến Nội xưởng nhậm chức. Lão phu tử này tuy bị triều đình chèn ép nhiều năm, nhưng khí phách kiên cường ngạo nghễ của vị ngự sử nhiệt huyết năm xưa vẫn còn nên đã cự tuyệt thẳng thừng. Dương Lăng đã sớm chuẩn bị, y mời lão phu tử vào mật thất, thành thật cùng lão chuyện trò đại khái về mục đích của việc tạo phước cho lê dân của mình một phen.
Dù sao Hoàng Kỳ Dận đã không còn là thiếu niên vừa "trúng cử" đã được giữ lại làm ngự sử ngôn quan ở Đốc Sát viện, không biết nỗi khổ của dân gian năm xưa nữa, cũng không còn khí phách kiểu thư sinh, quý trọng danh tiếng cá nhân bên ngoài. Trong lòng lão, nếu có thể vì dân chúng mà làm những chuyện này đến nơi đến chốn, cho dù ở lại Nội xưởng có tổn hại đến danh dự cá nhân cũng không tính là gì. Huống hồ ở kinh sư bây giờ còn ai nhớ đến người thời tuổi trẻ đắc chí đã bị gán tội đày đến vùng đất hoang vu nghèo khó gần ba mươi năm như lão nữa?
Hai tháng thời gian, Nội xưởng không những đã trụ vững tại kinh sư, mà còn lấy nó làm trung tâm, ngày ngày không ngừng vươn ra khắp bốn phương, tốc độ phát triển đáng kinh ngạc này rốt cuộc đã dẫn tới sự chú ý và khiếp sợ của Đông xưởng và ty Lễ Giám.
Tốc độ lan tràn nhanh như ôn dịch này ngay cả Dương Lăng cũng không ngờ tới. Y vốn nghĩ rằng trước tiên khai thông một tuyến đường giao thông vận tải đường thuỷ và đường bộ từ kinh sư đến Giang Nam, đợi đến cuối năm có nhiều lợi nhuận, làm gương cho những thương nhân khác, sẽ lại thừa thế mở rộng phạm vi thế lực của Nội xưởng một cách toàn diện.
Cho dù là vậy, trong lòng y cũng không dám lạc quan. Thường thì thương nhân khi giao thiệp cùng quan lại luôn luôn ở thế yếu, bọn họ không thể không mảy may nghi ngờ mà yên tâm hợp tác cùng Nội xưởng. Nội xưởng lại không thể dùng quyền thế ép buộc bức bách bọn họ công tư hợp doanh (4). Muốn tạo dựng danh dự và uy tín với những thương nhân vốn trời sinh đa nghi và cẩn thận này, nói dễ vậy sao?
Thế nhưng Vu Vĩnh - hậu duệ của đế quốc La Mã thần thánh đến từ sông Rhine
- quả thực là thiên tài về kinh doanh. Gã cho người thăm viếng mấy cửa hàng thuyền bè, cửa hàng ngựa xe vào loại lớn nhất, đưa ra những điều kiện mà không
một chủ hàng nào có thể cự tuyệt: "Nội xưởng chúng ta giúp các người vận chuyển tiền bạc hàng hoá, lữ khách bán buôn. Bây giờ các người hãy kết toán lại rồi tính lợi nhuận bình quân hằng năm của các ngươi trong năm năm vừa qua. Nếu sau khi chúng ta tham gia, lợi nhuận thấp hơn con số này, chúng ta sẽ không lấy một văn tiền, nếu cao hơn con số này, dù cao hơn bao nhiêu chúng ta đều lấy một nửa. Năm nay ấy à? Nửa cuối năm nay chúng ta sẽ không lấy một văn tiền nào, coi như giúp không cho các người."
Đám chủ hàng thuyền, hàng xe trước giờ chịu đựng nỗi khổ bị bóc lột trái pháp luật nhưng lại không nơi mà tố cáo, sao không biết lợi nhuận khổng lồ ẩn chứa bên trong đó chứ. Điều kiện của Nội xưởng hào phóng đến độ cho dù nằm mơ cũng có thể cười vang, sao bọn họ lại có thể từ chối được?
Vu Vĩnh chỉ chạy đến bốn nhà thì không cần phải tiếp tục đi nữa. Trên con đường làng nhỏ hẹp dẫn vào chốn bồng lai tiên cảnh của Cao Lão trang, tới lui nườm nượp đều là những chủ nhân lớn nhỏ của các hàng vận chuyển khắp nơi nghe tiếng mà đến. Chỉ chưa quá nửa tháng, toàn bộ hàng ngựa, xe, thuyền của cả kinh sư và thậm chí những thành trì lân cận đều đã ký khế ước cùng Nội xưởng. Như khối tuyết lăn, thế lực của Nội xưởng xuôi theo sông đào và quan đạo lăn một mạch đến mọi nơi trong thiên hạ.
Hay tin, Dương Lăng hớt ha hớt hải chạy đến chất vấn Vu Vĩnh:
- Quân lương triều đình chỉ phát đến cuối tháng bảy, trong năm tháng cuối năm, mấy ngàn con người của Nội xưởng sẽ ăn gì uống gì mà sống?
Vu Vĩnh cúi đầu khom lưng, ra vẻ con buôn nói:
- Khải bẩm đốc chủ, người của chúng ta dùng ngựa xe của bọn họ, hẳn sẽ không đi tới đi lui tay không chứ? Tôi đã bảo người mang theo đặc sản của kinh sư, thẳng đường đi đến Hồ Châu, không cần nhờ thương nhân khác bán thay, khi đến nơi thì một ngàn lạng có thể lãi được năm trăm lạng rồi.
- Tiếp tục lấy một ngàn năm trăm lạng bạc này đặt tơ lụa ngay ở Kim Lăng, vận chuyển về kinh rồi tung ra bán, sẽ lại có thể lãi tám trăm lạng. Đi về một vòng mất
một tháng, một ngàn lạng bạc biến thành hai ngàn ba trăm lạng. Đó là đốc chủ ngài đã căn dặn không được trốn thuế đấy, bằng không chỉ cần động chút tay chân, lúc qua trạm thuế, hai rương gộp lại thành một, ba rương báo thành hai, biết đâu có thể kiếm thêm được ba trăm lạng nữa. Một tháng sau triều đình mới ngưng phát quân lương, chúng ta đã dùng số tiền của một tháng này đẻ ra số tiền lương của ba tháng rồi. Đại nhân không cần lo lắng.
Dương Lăng nghe xong, rắm cũng không dám đánh, xoay người đi luôn. Trông thấy Hoàng đại bộ đầu chủ quản nội chính, y chỉ thòng đúng một câu:
- Hoàng lão chỉ cần trông coi tài vụ cho tốt, chi tiêu tiền lương hãy để Vu Vĩnh lo hết đi.
***
Trong ty Lễ Giám, tại phòng của công công Vương Nhạc, bốn đại thủ lĩnh thái giám và Phạm Đình đang ngồi ở ghế dưới, mỗi người một vẻ mặt, không khí trong phòng ngột ngạt lạ thường. Vương công công đưa ngón tay chấm chút nước sạch day day khoé mắt khô khốc, run rẩy nói:
- Mấy người các ngươi đâu cần phải lo lắng như vậy chứ? Phải nói, dù sao Dương Lăng này và chúng ta đều có chung cội nguồn. Tuy rằng thế lực hiện tại của y phát triển rất mạnh, nhưng thuỷ chung không có ý đụng chạm với Đông xưởng và ty Lễ Giám chúng ta, có phải các người hơi phóng đại không?
Từ sau lần hút chết trong "vụ án phong thuỷ của Đế Lăng", Đới Nghĩa đã hận Vương Nhạc đến thấu xương và cũng đã sớm nảy sinh hiềm khích với hảo hữu khi xưa là Phạm Đình. Lão và Dương Lăng cùng là đại thần đốc tạo Thái Lăng, đôi bên đã có chút giao tình. Quan trọng hơn chính là, giữa bọn họ còn có một bí mật trọng đại cùng ảnh hưởng đến sống chết của hai người. Dựa vào cái bí mật này, lão đã có thể ngồi với Dương Lăng trên cùng một con thuyền, cùng y có phước cùng hưởng, có hoạ... thì xin cho miễn đi nhé.
Cho nên, việc Dương Lăng bắt đầu xây dựng thế lực riêng cho mình, hơn nữa phát triển nhanh chóng dị thường, đứng vào vị trí của lão mà xét thì chỉ có lợi mà
không hề có hại. Vì vậy, vừa nghe Vương Nhạc phản đối, Đới Nghĩa lập tức theo đuôi, chế nhạo:
- Nói đúng lắm, có phải lão Phạm đã bắn tiếng doạ nạt quá rồi không? Ông nhìn cái đám người mà y dùng xem, ngoài mấy tên lính to đầu không biết chữ ra, còn có kẻ tài ba nào chứ?
- Cũng chỉ có một huyện thừa già bất đắc chí, một Ngô thiên hộ quanh năm ở tái ngoại thu mua hàng da, còn có gã Vu Vĩnh đó nữa... Ha ha. Nghe nói con gái hắn tóc vàng mắt xanh, rất là xinh đẹp, Vu Vĩnh muốn gả hai đứa con gái của gã cho Dương Lăng làm thiếp mới kiếm chác được chức Nhị bộ đầu ở Nội xưởng. Người mà Dương Lăng dùng, Ngô Kiệt thì xuất thân từ Cẩm Y vệ, Vu Vĩnh và Vương công công lại có quan hệ thân thích, ông nói Dương Lăng sẽ gây bất lợi cho chúng ta sao?
Trương Thọ cười thâm độc, nói:
- Đới công công! Cũng bởi chính vì chúng ta nghĩ như vậy nên mới bỏ qua cơ hội tốt nhất để áp chế y. Giờ đây y đã mọc đủ lông đủ cánh, ta thấy dã tâm của y rất lớn, tuyệt không giống nhân vật yên phận thủ thường. Ty Thuế Giám khống chế bảy thành thuế của triều đình, một khi nắm giữ được nó, chẳng những lập tức sẽ dưới một người, trên vạn kẻ, thậm chí cũng sẽ có một phần thế lực ngoại triều phải khuất phục dưới trướng của y.
- Chỉ cần ông đứng nơi đầu ngọn sóng của con đường quyền lực này, cho dù bản thân không muốn, cũng sẽ phải lên tới nơi cao hơn, bằng không ông chỉ có nước chìm xuống, thậm chí mọi thứ hiện có cũng giữ không nổi. Dương Lăng có thể không động tâm với ty Thuế Giám sao? Khà khà, tuổi trẻ đắc chí, vận khí đang rất tốt, ông cho rằng y sẽ đi ngược dòng nước chảy xiết ư? Đợi đến khi y đã gom góp đủ lực lượng rồi, đám lão già sợ chuyện chúng ta sẽ bị y coi như cái gai trong mắt cần phải nhổ sạch đi!
Phạm Đình nói với Vương Nhạc:
- Công công! Trương Thọ nói thực không sai. Khi Hoàng Thượng bổ nhiệm
thái tử, mấy tên Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng chỉ biết hầu hạ, nói chuyện rất có chừng mực. Khi tân Hoàng vừa kế vị, bọn chúng vẫn yên phận thủ thường, thế mà hôm nay cũng đã dần dần nổi tâm tư.
- Khi Mã Vĩnh Thành nhậm chức tổng quản mua sắm phủ Nội vụ, Nguỵ Bân nắm giữ Kính Sự phòng, Trương Vĩnh vào Ngự Mã giám thì Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng thấy vậy thèm thuồng, suốt ngày xúi giục Hoàng Thượng cho bọn chúng cái chức tốt đấy. Lòng tham con người vô đáy, đừng thấy bọn chúng bây giờ chưa nên trò trống gì mà xem thường, trước tiên muốn tiền rồi sau đó sẽ muốn quyền, có được quyền rồi sẽ lại muốn quyền to hơn, có rất nhiều người đang nhòm ngó mấy chiếc ghế của ty Lễ Giám này lắm đó. Bọn chúng và Dương Lăng giao tình thắm thiết nên tôi vẫn luôn e ngại rằng, Dương Lăng lần lữa không hành động có phải là vì y muốn cùng bọn chúng nội ứng ngoại hợp hay có mưu toan gì đây.
Vương Nhạc nghe vậy thì hơi động tâm. Lưỡng lự một chút, ông ta quét mắt nhìn từng khuôn mặt của mấy người thân tín rồi hỏi:
- Sao? Thực sự có kẻ dám hất đổ mâm cơm của chúng ta hay sao? Ừm... vậy các ngươi nói, ta phải làm sao đây? Chúng ta đều làm việc cho Hoàng Thượng, mấy người các ngươi và Miêu Quỳ cứ đấu đá nhau suốt, ta thấy mà phiền lòng. Không lẽ lại ra tay với Dương Lăng nữa sao?
Lý Vinh nãy giờ vẫn không hé môi bỗng chậm rãi lên tiếng:
- Vương công công! Bây giờ chúng ta không ra tay, người ta sẽ ra tay trị chúng ta đó. Lão nhân gia người trực tâm nhân hậu, chúng tôi cũng không muốn tranh đấu sống chết với Nội xưởng, khiến ngoại triều nhìn vào cười nhạo chúng ta. Tôi đã nghĩ được một biện pháp có thể kìm nén nhuệ khí của Dương Lăng, khiến y không dám mặc sức phô trương như vậy nữa. Không biết công công thấy sao?
Vương Nhạc mừng rỡ:
- Vậy thì tốt, vậy thì tốt! Mau nói ra nghe thử xem.
Lý Vinh lấy từ trong ống tay áo một phong hàm, cười nói:
- Công công! Biện pháp của tôi rất đơn giản: "lạt mềm buộc chặt!" Phạm Đình sốt ruột giục:
- Thôi ông đừng làm khó nhau nữa! Mau nói đi, thế nào là lạt mềm buộc chặt? Lý Vinh từ tốn giải thích:
- Giao ty Thuế Giám cho Dương Lăng.
Lời vừa thốt ra, Phạm Đình và mấy thủ lĩnh thái giám liền giật nẩy mình, ngay cả Vương Nhạc cũng ngạc nhiên trợn trừng cặp mắt già nua. Lý Vinh giảo quyệt nói tiếp:
- Các ông không phát hiện sau khi tin tức ty Thuế Giám sẽ do Nội xưởng quản lý được truyền ra, sự hiếu kính của bọn thuế giám trấn thủ các nơi đã giảm đi một nửa, thậm chí cả tiền thuế thường ngày nộp lên cũng ba lần bảy lượt thoái thác, chần chừ không chịu giao hay sao?
Hà Trường Xuân phẫn nộ:
- Đám tiểu nhân nịnh hót đó, nếu không phải nhờ chúng ta tiến cử, bọn chúng có thể kiếm được công việc béo bở này sao? Bây giờ bọn chúng thấy gió buông buồm, kẻ nào cũng đều đứng xem chừng, thật đáng băm vằm trăm mảnh!
Lý Vinh cười hắc hắc nói:
- Bọn chúng còn có thể chần chừ do dự với chúng ta, huống hồ là một tên Dương Lăng không biết gốc rễ. Tên trấn thủ Thuế giám Bốc Đắc Nghĩa mà chúng ta cắt cử ở Gia Hưng có trao cho tôi một phong mật hàm, nói rằng ba vị thuế giám trấn thủ ở Tô Hàng (Giang Tô, Tô Châu và Hàng Châu - ND) lén trưng thu gấp đôi thuế quan, toàn bộ cất cho bản thân dùng, hơn nữa hình như bọn chúng còn có những hành vi phạm pháp khác. Tôi vốn định răn đe bọn chúng một chút rồi thôi, nhưng chi bằng bây giờ chúng ta lấy sự việc này ra mà sử dụng.
Lão thấy mọi người đều có vẻ hơi khó hiểu, bèn vội giải thích:
- Chúng ta lập tức giao ty Thuế Giám ra, chỉ cần y vừa tiếp nhận, lập tức nhờ ngoại thần trình bức hàm này lên cho Hoàng Thượng. Y làm tổng quản ty Thuế Giám, vậy y có xử vụ án này hay không? Xử ư, thuế giám trong thiên hạ ai mà không giở trò phạm pháp. Mọi người sẽ đều e sợ, chúng ta chỉ cần xúi giục thêm một chút thì y sẽ không thu được thuế. Năm nay tiền bạc của triều đình tiêu hao như nước, thu không được thuế, triều đình sẽ không có bạc, không có bạc thì làm được chuyện gì đây?
- Y không quản nổi ty Thuế Giám, lúc ấy sẽ xử làm sao? Ha ha ha... nếu như công công của nội triều vi phạm pháp luật, ty Lễ Giám có quyền vạch trần tố giác. Vậy y không cai quản, dung túng cho mấy kẻ đó phạm pháp thì quan viên ngoại triều cũng không thể đứng nhìn. Chỉ cần chúng ta đệ trình chút chứng cứ, y sẽ tự xử trí thế nào? Huống chi... tôi nghe nói, ba đại thuế giám trấn thủ Tô Hàng đều giao du mật thiết với Thục Vương. Chỉ cần Dương Lăng dây vào...
Thục Vương - Chu Nhượng Hủ là người giàu có nhất trong số những phiên vương, đất Thục trù phú mà tám chín phần mười ruộng nương đều tập trung vào tay
y. Vị phiên vương lắm tiền nhiều của này, Dương Lăng trêu nổi sao?
Phạm Đình hào hứng vỗ bàn khen:
- Hay! Kế này thật tuyệt. Chúng ta sẽ không tốn công sức bao nhiêu mà lại có thể khiến Dương Lăng biết được lợi hại của chúng ta. Vương công công! Đừng chần chừ thêm nữa, tiên hạ thủ vi cường đó!
***
Trên dòng sông nước chảy cuồn cuộn, một bầy nhạn lướt cánh bay qua nơi chân trời mênh mông. Hoa màu đã bắt đầu chín tới trên đôi bờ bình nguyên, những người nông dân cần cù đang phơi tấm lưng trần ngăm đen vung cào xới ruộng. Từng giọt, từng giọt mồ hôi của họ đang nhỏ xuống mảnh đất phì nhiêu.
Gió khẽ thổi qua khiến những bọt sóng nhảy lăn tăn trên mặt nước. Từng tiếng ca vang vọng hòa cùng thanh âm vui vẻ nói cười của những ngư dân đang tung lưới xuống sông.
Đại Vận Hà(5) có bờ Bắc ngăn kinh sư, bờ Nam kéo dài đến Hàng Châu. Song bởi hướng chảy vô thường, Đại Vận Hà này cũng không phải thẳng dòng từ Nam đến Bắc mà là nối liền hệ thống sông ngòi các nơi, cho nên dòng chảy quanh co uốn khúc, khi thì hướng Nam lúc thì hướng Đông.
Có chiếc khoái thuyền một cột, thân thuyền được sơn đỏ đang ngược dòng chạy lên. Thuyền chạy cực nhanh. Đây là một chiếc dịch thuyền (thuyền của trạm dịch) chở được khoảng sáu mươi người, đồng thời có khoang hàng để chở thêm một số vật phẩm trọng yếu. Loại dịch thuyền này khi thuận gió thì giương buồm, nghịch gió thì dùng chèo, trên thuyền có chuẩn bị từ tám đến mười hai mái chèo; dân gian thường gọi nó là "thuyền thoi con rết".
Trên sông nước, phàm là thuyền chài, thuyền buôn trông thấy con thuyền thoi màu đỏ của trạm dịch đều phải mau chóng tránh sang một bên. Quy định của quan phủ là mọi thuyền bè vận chuyển trên sông đều phải nhường đường cho khoái thuyền chuyên trách của trạm dịch.
Khoái thuyền chạy qua một cái ghềnh hình tam giác, chợt có người la lên:
- Dịch thừa đại nhân! Phía trước có ba chiếc thuyền lớn, mau báo đáy thuyền (những tay chèo ngồi ở đáy thuyền) giảm tốc nhường đường!
Đang rót rượu độc ẩm trong khoang, dịch thừa vận chuyển đường sông của Đức Châu, Sơn Đông là An Đạt Sung - An đại nhân nghe tiếng lật đật chạy lên đầu thuyền, cười mắng:
- Thấy ma cái con mẹ ngươi rồi à, thuyền chúng ta là thuyền gì chứ? Còn nhường đường cho người khác cái con mẹ gì, rắm cái con mẹ ngươi cứ đánh mãi thế.
Tên dịch tốt đứng đầu thuyền nọ đỏ mặt đáp:
- Đại nhân, nhưng mà thuyền này, chúng ta... chúng ta phải nhường đường cho người ta ạ!
- Hả?
An đại nhân vội vã vịn vào mạn thuyền, giương cặp mắt say xỉn lờ đờ nhìn về phía trước. Lão thấy trên mặt nước bao la, ba chiếc thuyền bốn buồm to lớn, một trước hai sau, giăng đủ mười hai cánh buồm, căng gió lướt đến. Sau thuyền là một dải sóng bạc, từ xa nhìn lại thấy khí thế thật kinh người.
Thuyền lớn chạy nhanh hơn chiếc khoái thuyền của trạm dịch gấp ba lần. Chiếc đầu tiên mới vừa rẽ qua khúc cong phía trước, trên thuyền trang trí hoa lệ, hai bên mạn thuyền cao lớn mở ra chi chít mấy chục ô cửa nhỏ chống chèo. Đầu thuyền dựng ba cột cờ cao sừng sững, chính giữa là một lá cờ thêu hoa văn hình rồng cuộn màu vàng óng ánh.
An Đạt Sung giật thót mình, men rượu lập tức vơi đi mấy phần. Long kỳ màu vàng cao quý của thiên tử, chỉ có nhân viên hoàng thất Đại Minh hoặc khâm sai phụng chỉ mới có quyền treo. Đây là thuyền của ai đến vậy?
Lại thấy hai bên long kỳ mỗi bên treo một lá cờ, bên trái là cờ tam giác lớn, đỏ thẫm như máu, chính giữa là hình phi hổ thêu bằng tơ đen, trông giống quân kỳ nhưng lại hơi khác một chút. Trên cột cờ bên phải là một lá cờ lớn màu xanh sẫm, trên viết một chữ "Dương" to bằng cái đấu.
An đại nhân tuy không biết người đến là ai, song lại biết quyền uy của đối phương vượt xa dịch thuyền của mình. Hắn khiếp sợ co chân đạp mông tên dịch tốt một cái, mắng:
- Con mẹ ngươi, còn không mau xuống dưới bảo giảm tốc à? Bay đâu! Bay đâu, mau xoay bánh lái nhường đường!
Khoái thuyền con rết vội vàng lái sang một bên. Chiếc thuyền lớn ấy chạy lướt qua bên cạnh làm dậy sóng khiến cho chiếc khoái thuyền con rết lắc lư không ngừng, An Đạt Sung đứng bên mạn thuyền thắc mắc nhìn theo lẩm bẩm:
- Đến hành cung(6) à? Là thần thánh phương nào rời kinh vậy?
Trên chiếc thuyền thứ nhất, chiếc rèm cửa khoang được vén lên, một công tử tuấn tú, hoạt bát mặc trường bào màu vàng lợt, đầu đội khăn công tử bước ra. Mặt y như thoa ngọc, mày đen mắt đẹp, trên đai ngọc bên hông đeo một chiếc miếng ngọc bội như ý, lắc lư theo bước chân y. Phong thái như cây ngọc trước gió, nổi bật hơn người.
Hai bên đầu thuyền là hơn chục nha sai mũ nhọn áo đen, hông đeo phác đao(*) trông thấy y bước ra lập tức sụp gối quỳ xuống hô:
- Tham kiến xưởng đốc đại nhân!
(*: một loại binh khí cũ, lưỡi dài, hẹp, cán ngắn, sử dụng bằng hai tay)
Vị đại nhân này chính là Dương Lăng, xưởng đốc Nội xưởng quyền thế ngút trời. Y mở rộng lồng ngực, đón một làn gió mới trong lành thổi tới, không khỏi phấn chấn tinh thần. Dương Lăng khoát tay cho bọn họ đứng dậy, đoạn hỏi:
- Đã đến đâu rồi?
Một nha sai bước lên chắp tay thưa:
- Xin đáp xưởng đốc đại nhân, phía trước ba mươi dặm là đến mười hai liên thành của Đức Châu. Khi nãy chỉ huy sứ Lưu đại nhân của Đức Châu vệ đã được quân dịch báo tin, Lưu chỉ huy sứ đã đến bên tàu cung nghênh đại nhân rồi ạ.
Rèm khoang lại được vén lên, một thị nữ vóc dáng cao gầy, mặc quần áo màu xanh sẫm từ trong khoang bước ra. Gió mát lướt nhẹ qua thổi ống tay áo nàng phất phơ, áo khoác sau vai càng khiến nàng như sắp bay lên. Người thị nữ này chải mái tóc búi chẽ đôi đại biểu rằng hoa kia chưa chủ, chiếc eo thon được buộc chặt có vẻ như mảnh mai dễ vỡ trước cơn gió mạnh. Chiếc áo mỏng bị gió thổi ép sát vào người, lộ ra đường cong chắc nịch và ưu mỹ của song nhũ.
Mặc dù mặc đồ thị nữ, nhưng dáng đi của cô con gái này nhẹ nhàng uyển chuyển. Với dáng đi và cử chỉ ấy, khí chất phong tình, trang nghiêm lẫn tao nhã ấy, e rằng nhiều tiểu thư khuê các cũng tự thẹn không bằng.
Nàng mang một chiếc áo khoác dài màu đen có viền đỏ trên khuỷu tay, bước đến cạnh Dương Lăng, khoác lên vai y, nhẹ giọng nói:
- Đại nhân! Sắp xế chiều rồi, gió to và lạnh, đừng đứng ở đầu thuyền, tránh nhiễm phong hàn.
Dương Lăng quay đầu nhìn nàng. Từ lúc rời kinh, dọc đường đi phong cảnh tự nhiên nối tiếp nhau không dứt khiến người con gái chưa từng rời kinh sư này nhìn mà không kìm được vui thích. Lúc này trong đôi mắt sáng trong hiền lành của nàng vẫn còn thấp thoáng niềm hân hoan.
Dương Lăng cười nói:
- Không sao! Trong khoang nóng nực, chơi cờ lại toàn thua cô, ra ngoài xem phong cảnh tươi đẹp này cũng vui vẻ thoải mái hơn. Có điều cô mặc đồ hơi phong phanh, hay là cô vào khoang đi. Ta bệnh còn có cô chữa trị, nếu cô bệnh ta thực sẽ không biết phải làm sao đây.
Cao Văn Tâm nghe vậy thì cười duyên, chỉ lấy hai bàn tay mảnh mai siết chặt áo khoác lại, vẫn đứng sau lưng y. Dương Lăng nhìn hoàng hôn nơi chân trời đã biến thành sắc vàng óng ả, thở ra một hơi thật dài rồi nói:
- Còn có ngày để rong chơi ư? Vùng Giang Nam giàu nhất thiên hạ, thuế trong nước sáu, bảy phần mười là ở nơi này, không ngờ ba đại thái giám trấn thủ đồng thời bị người ta tố cáo bất tài tham ô, lại đúng một ngày sau khi ta tiếp nhận ty Thuế Giám. Rõ ràng đây là một nan đề ty Lễ Giám đã đưa ra cho ta. Chỉ mong chuyến đi này có thể giải quyết được chuyện này. Bằng không... Giang Nam không ổn định thì làm sao ta nắm vững được ty Thuế Giám đây?
---
Chú thích:
(1) Tam Dương chỉ Dương Sĩ Kì, Dương Vinh và Dương Phổ, ba vị đại thần của vua Minh Anh Tông, phụ trách toàn bộ công việc nội các trong thời gian đầu.
(2) Ám chỉ Dương Đình Hoà, Dương Nhất Thanh và Dương Lăng.
(3) Lấy từ thành ngữ "Nhị đào sát tam sỹ" trích từ một điển cố thời Xuân Thu.
(4) Liên doanh giữa nhà nước và tư nhân
(5) Con kênh đào dài nhất thế giới
(6) Cung thất bên ngoài kinh đô, để cho vua chúa trọ khi vi hành.
- -
Chương 123: Nghe tiếng sóng đùa, bóc cua thưởng thức(1)
- -
Rời kinh lần này Dương Lăng dẫn theo ba trăm thân vệ(*), tất cả đều là những sỹ tốt kiêu dũng và thiện chiến trong quân doanh. Mỗi một người đều đeo phác đao, chủy thủ (dao ngắn); ba trăm người lại chia làm ba đội, mỗi đội đều trang bị nỏ liên hoàn, súng ngắn và cung dài. Trừ phi có binh biến, bằng không chỉ cần dựa vào ba trăm người này cũng đừng hòng ai đụng được đến một cọng lông măng của Dương Lăng.
(* Xin nhắc lại: thân vệ, thân binh là binh lính thuộc đội quân bảo vệ tướng lĩnh, gần như là gia binh)
Đây đều là những thị vệ do đích thân đại bộ đầu Ngô Kiệt của Nội xưởng tuyển chọn. Dương Lăng là linh hồn của Nội xưởng, tiền đồ của toàn bộ mấy ngàn người gắn liền với y, làm sao Ngô Kiệt dám lơ là?
Nếu không phải vì Dương Lăng cảm thấy như thế là huy động quá nhiều người, thực tình Ngô Kiệt muốn điều một ngàn nhân mã và lắp thêm mấy khẩu đại pháo lên thuyền của y.
Sử dụng hai chiếc chiến thuyền to lớn chở ba trăm quân, chiếc chiến thuyền thứ ba này là để chở hàng hóa của đám hào phú trong kinh đến phương Nam. Vương công quý tộc trong kinh sư nhiều vô số kể, những đại gia tộc này ít thì mấy trăm người, nhiều thì hơn ngàn người; ngoại thành Bắc Kinh có được bao nhiêu đất đai có thể nuôi sống được bọn họ chứ? Những gia đình này đã âm thầm bắt tay tham
gia vào mậu dịch thương mại từ lâu, hơn nữa còn lợi dụng thế lực của gia tộc thường xuyên lên những con thuyền "xuôi gió"(*) của triều đình.
(*: hàm ý là thuyền công, không bị tra xét dọc đường, chỉ giương buồm theo gió chạy thẳng (giống xe công, nhỉ?))
Hai ngày trước lúc khởi hành, con trai của Thành quốc công Chu Cương là Chu Hạ Nghĩa và phò mã Tiết Hoàn đã tìm đến nhà mời Dương Lăng vận chuyển hàng hóa dùm, đến nơi sẽ có gia nhân của phủ Thành quốc công tại chỗ tự tiếp nhận.
Thành quốc công từng có ơn giúp đỡ Dương Lăng, cho nên yên tâm phái con mình đến, đoán y sẽ nể chút ân tình.
Còn Tiết Hoàn, từ sau khi nữ quan phủ công chúa Ninh Thanh bị đánh chết, nữ quan tân nhiệm lấy bài học đó làm gương, đã không dám quá khắt khe với phu thê hai người. Hai vợ chồng gặng hỏi nô bộc trong phủ nên biết Dương Lăng đã bênh vực giúp đỡ bọn họ, trong lòng lấy làm cảm kích, cho nên đưa hàng lên thuyền xuôi gió kiếm lợi chỉ là thứ yếu, cái chính là biểu đạt lòng biết ơn, kết thêm giao tình.
Dương Lăng nghe vậy đương nhiên đáp ứng ngay, hơn nữa việc này gợi cho y nhớ đến kế hoạch lôi kéo những kẻ quyền quý trong kinh. Y bèn chủ động gợi ý với các vị huân thần công khanh trong kinh rằng mình có thể giúp đỡ bọn họ chuyên chở hàng hóa. Thậm chí cả hai huynh đệ Thọ Ninh hầu và Kiến Xương hầu cũng mê tít cái lợi hậu hĩ mà một chuyến tuần sát phương Nam do chiếc chiến thuyền lớn có thể mang lại, đã mặt dày đưa đến năm xe đặc sản phương Bắc mà phương Nam đang khan hiếm.
Dương Lăng cũng không hề làm khó dễ bọn họ, vui vẻ tiếp nhận toàn bộ.
Huynh đệ họ Trương thấy y không hề so đo những hiềm khích trước đây nên rất lấy làm cảm kích. Đương nhiên Dương Lăng có tư tâm, càng có nhiều người ràng buộc chung quyền lợi với y thì sẽ càng có ích cho kế hoạch sau này của y, những người này còn có thể vì thế mà sẽ trở thành ô dù cho y. Cùng với hoàng thân quốc thích, huân thần công khanh tạo dựng quan hệ là một chuyện vô cùng có lợi đối với y.
Hiện tại đám ngôn quan của Ngự sử đài giống như là đã ngủ đông, cả ngày không có chút động tĩnh gì. Nhưng Dương Lăng lại không vì vậy mà xem thường.
Y đã cẩn thận bẩm báo trước cho thiên tử Chính Đức biết chuyện này, nói thẳng luôn là mình cũng vận chuyển lậu một ít hàng hóa, nhằm kiếm được một món tiền để mang ít vật quý hiếm ở phương Nam về dâng Hoàng Thượng để bày tỏ tâm ý.
Chính Đức nào biết Dương Lăng "nham hiểm" như vậy, nghe y bộc bạch tâm ý xong, dĩ nhiên cao hứng vô cùng. Dương Lăng dụ dỗ được Hoàng Đế làm đại thủ lĩnh của tập đoàn buôn lậu xong, bản thân cũng yên tâm, như vậy y không sợ lúc rời kinh sẽ bị người đâm lén sau lưng nữa.
Chiêu bài mà Dương Lăng sử dụng là mang danh nghĩa vừa lên nắm quyền ty Thuế Giám, phụng chỉ tuần tra nam Trực Lệ. Chuyện ba vị đại thuế giám của đạo(*) Giang Nam tham ô không được nhiều đại thần trong triều biết đến, nhưng y nghi ngờ rằng nhất định đã có người mật báo cho ba vị thái giám trấn thủ này. Ba vị đại thái giám giống như những ông vua ở bản xứ, sợ rằng bọn họ sớm đã vận sức thủ thế chờ đợi y, phải đối phó với bọn họ thế nào cho ổn thỏa đây? Hiện giờ Dương Lăng chẳng biết gì về tình hình cụ thể nên y cũng chẳng thể nào nghĩ ra được quyết sách cần thiết.
(*: đạo: đơn vị hành chính xưa, như là tỉnh hiện nay)
Chuyến đi Giang Nam lần này so với việc tranh chấp triều chính trong kinh sư càng phức tạp hơn. Nơi đó y lạ nước lạ cái, ba đại thái giám trấn thủ Giang Nam đã lâu năm nên chắc chắn có rất nhiều tai mắt, thực lực lớn mạnh. Dương Lăng vẫn chưa quên việc đường đường một công chúa mà vẫn bị một nữ quan cỏn con mua chuộc nô bộc cả phủ đùa bỡn trong tay như thế nào. Cho nên y không dám đợi đến khi mình đến tận nơi, để ba đại thái giám chuẩn bị sẵn sàng rồi mới bắt đầu điều tra mà đã phái mật thám ngày đêm gấp rút chạy xuống Giang Nam giám thị hành tung của ba đại thái giám trấn thủ trước.
Cao Văn Tâm đứng một bên lặng lẽ quan sát Dương Lăng đang trầm tư. Cánh mũi y thẳng tắp, bờ môi rõ nét, lông mày tuấn tú thẳng tắp, vóc người cân đối. Ánh mắt của y lúc trầm tư toát lên một vẻ thâm trầm không cân xứng với tuổi tác của y, khiến người khác nhìn vào tim liền đập thình thịch.
Y có một ánh mắt và khí chất khác biệt so với những kẻ cùng lứa. Nhưng khi
nghĩ đến bộ dạng ngại ngùng xấu hổ lúc mình châm cứu cho y, khóe môi của Cao Văn Tâm bất giác hé một nụ cười: sự ngượng ngùng của Dương Lăng đã khiến cho sự bối rối của nàng hoàn toàn biến mất. Bây giờ châm cứu đã trở thành tiết mục truyền thống biểu diễn sự xấu hổ của đại đô đốc Nội xưởng mà nàng thưởng thức mỗi ngày.
Ba mươi dặm đường thủy đã mau chóng bị vận tốc của những con tàu khổng lồ rút lại trong phút chốc. Đứng trên đầu tàu, Dương Lăng đã nhìn thấy bến thuyền cạnh hành cung phía xa xa. Trên bến thuyền còn có mấy chiếc thuyền nhỏ hơn một chút đang từ từ rời bến. Ngược lên những bậc thềm đá dọc bến thuyền không xa là một tòa hành cung nguy nga tráng lệ.
Ven con sông đào, cứ cách khoảng một ngày lộ trình đều phải xây một tòa hành cung để Hoàng Đế ngủ trọ mỗi khi rời kinh sư xuống Nam Kinh tuần hành. Thiên tử đi tuần đương nhiên không thể tùy tiện tìm bừa một quán xá nào đó mà nghỉ lại.
Tuy nhiên, những hành cung dọc đường này ngốn không ít tiền của: phải cử quân đóng giữ bên ngoài, bên trong phải có nô bộc chăm nom,... Chỉ riêng chi phí tu bổ mỗi năm đã rất kinh người, nhưng lại không được dùng vào việc gì.
Trừ đại đế Vĩnh Lạc năm xưa từng trọ lại nơi này, các đời hoàng đế về sau đều bị ràng buộc bởi những luật lệ oai nghiêm của thiên tử do chính mình lập ra nhằm phô trương thanh thế, đành bụng làm dạ chịu, cả đời phải tự giam mình trong Tử Cấm Thành như một chú chim hoàng yến bị nhốt trong lồng.
Người ta thường nói khắp dưới gầm trời không chỗ nào không phải đất của vua, nhưng mà ông vua này lại không có quyền tuần du giang sơn của mình. Hành cung cứ bỏ không như vậy, xây rồi sửa, sửa rồi lại sửa thêm, mỗi hành cung sẽ tồn tại hơn trăm năm. Cách hành cung không xa có xây mấy dịch quán. Người của hoàng gia, của các vương phủ lẫn các khâm sai đại thần vãng lai các nơi đều lợi dụng vị thế của bến thuyền này để đỗ thuyền và nghỉ ngơi tại đây.
Dương Lăng xoay người lại, Cao Văn Tâm thấy vậy lập tức thu lại nụ cười trên môi, nhún nhường cúi chiếc cổ thanh tú nho nhã như thiên nga xuống. Dương Lăng đã sớm tinh mắt nhìn thấy nụ cười nơi khóe môi của nàng. Trước đây vị đại cô
nương này không hề dám chuyện trò đùa giỡn cùng y, nhưng kể từ lúc để nàng trị bệnh đến nay, ánh mắt lo sợ, cung kính thuở quen biết ban sơ ấy giờ đã dần không còn thấy nữa.
Đau lòng quá, thật nhớ những ngày đã qua quá đi. Dương Lăng vẫn cứ cảm thấy nụ cười mà nàng nhìn mình đã hơi khác với khi xưa, nhưng y đành chịu thôi: phụ nữ mà, xa cách với họ thì họ khiêm nhường, gần gũi với họ thì họ không cung kính. Cả ngày phơi mông cho người ta sờ tới sờ lui, y đâu còn vẻ tôn nghiêm để ra vẻ đại lão gia nữa?!
Dương Lăng hừ thầm một tiếng, nói với Cao Văn Tâm:
- Đi thôi, thu xếp mấy vật tùy thân một chút, chuẩn bị xuống thuyền rồi.
- Dạ, lão gia!
Cao Văn Tâm đáp một tiếng, vừa định xoay người, chợt nghe một tiếng "bình", thân thuyền chợt lắc lư dữ dội, nàng kêu ối một tiếng rồi ngã nhào vào lòng Dương Lăng. Vốn Dương Lăng đã đứng không vững, lại bị nàng nhào vào lòng, thế là cả hai lập tức cùng ngã xuống sàn.
Không ít nha sai trên thuyền nhất thời không chú ý cũng ngã lăn, nhưng vừa ngã xuống, bọn họ liền lập tức búng người dậy, rút phác đao sáng choang ra một tiếng "keng", nhảy tới bên mạn thuyền quát lớn:
- Kẻ nào dám tập kích thuyền của xưởng đốc đại nhân?
Lúc này năm sáu tay nha sai khác cầm đao xoay người lại, dùng thân làm khiên vây hai người Dương Lăng vào giữa, cẩn thận nhìn khắp nơi. Dương Lăng thầm thất kinh: "Chẳng lẽ là Đông xưởng phái người đến ám toán mình?" Y căng thẳng quát lên:
- Đừng hoảng! Mau xem thử đã xảy ra chuyện gì?
Nằm sấp trong lòng Dương Lăng, Cao Văn Tâm giật mình phát hiện tay y đang đặt lên bộ ngực săn mẩy cao vút của mình, không khỏi vừa giận vừa thẹn. Nàng hơi
tức giận trừng mắt nhìn lên nhưng lại thấy Dương Lăng đang ngước mặt lên trời ra vẻ xưởng đốc oai phong, chẳng những không có chút phản ứng gì với việc đang ôm nàng vào lòng, mà dường như y thậm chí cũng không ý thức được rằng bàn tay của y đang đặt lên bộ ngực căng tròn của cô nương nhà người ta. Trong lòng Cao Văn Tâm bỗng nhiên vô cớ lại dâng lên một nỗi thất vọng.
Quả bồ hòn này xem như là phải ngậm trọn làm ngọt rồi. Cao Văn Tâm hận ngứa cả răng nhưng lại không dám lên tiếng, đành vội cuống quýt lồm cồm bò ra khỏi người y. Lúc này chiếc thuyền lớn đã thăng bằng trở lại, một bách hộ đứng trên đài quan sát nhìn thấy tình hình phía dưới, sắc mặt khẩn trương tan đi, lập tức quát lớn:
- Đui mắt chó của ngươi rồi à, sao không biết nhường đường? Cũng không nhìn xem ai đang ở trên thuyền, làm đại nhân kinh hoảng, ta muốn lấy cái đầu của ngươi!
Bách hộ của Nội xưởng vừa dứt lời, liền nghe thấy bên dưới thuyền một giọng thổ âm Sơn Đông còn to gấp đôi gã hét lên:
- Con mạ mi, tay ta nọ sắp rách toác ra rồi ni. Ôi đau quá! Mi mù răng, lái thuyền kiểu chi rứa? Hở! Ôi mạ nó, Thiên sư mô? Trương thiên sư rơi đi mô rồi?
Giọng hắn khá to, Dương Lăng nghe rõ mồn một. Vừa nghe ba tiếng "Trương thiên sư" y cũng giật nảy mình, vội vàng bò dậy. Chạy đến bên mạn thuyền nhìn xuống, y thấy một chiếc thuyền hai cột cỡ nhỏ đã bị đụng vỡ nát đuôi, nước sông đang tràn ùng ục vào trong khoang thuyền, phần đuôi thuyền đã bắt đầu chìm xuống nước, mũi thuyền đang nhổng lên không.
Vài thuyền phu lực lưỡng như cột sắt đang chạy cuống cuồng khắp nơi trên thuyền tìm kiếm cái gì đó, nhất thời cũng không nhìn ra được ai là kẻ chửi bới vừa rồi. Chỉ thấy một văn nhân vóc người gầy gò, ăn mặc văn nhã đang ôm cột buồm kêu gào:
- Đừng tìm nữa, Thiên sư rơi xuống sông rồi, mau xuống dưới tìm đi! Một thuyền phu có vẻ như là người cầm đầu đét mạnh đùi một cái, quát:
- Mả cha mi, mau nhảy xuộng!
Mấy đại hán thậm chí không thèm cởi bỏ y phục thi nhau nhảy "ùm" xuống nước.
Mấy tay thuyền phu tìm khắp bên đuôi thuyền bị chìm và đầu thuyền bị nhổng lên nhưng đều tìm không thấy. Dương Lăng dựa người vào đầu thuyền mình nhìn kỹ, thấy dưới mặt nước ở đầu thuyền nổi lên một búi tóc, liền vội kêu to:
- Ở đầu thuyền, ở đầu thuyền, mau lên, ai biết bơi? Mau nhảy xuống cứu người!
Tuy nha sai trên thuyền đều là người phương Bắc nhưng cũng có mấy gã bơi lội không tệ, chúng liền vội vứt phác đao, búng người phóng xuống nước, chỉ một lúc sau hai tay giỏi bơi lội đã lôi một người lên. Dương Lăng mừng rỡ hỏi:
- Tìm được Thiên sư rồi à?
Người được cứu mặc đạo bào màu xanh, mũ đạo sỹ không biết đã trôi đi đâu mất, mái tóc dài rối bù nhiễu nước ròng ròng che lấp khuôn mặt, hình như là đã hôn mê. Hai tay nha sai mỗi người một bên đang đạp nước dìu gã, gã thì lại không hề cựa quậy. Một tay nha sai lau nước trên mặt nói:
- Đại nhân! Người này là nữ, không phải là Thiên sư gì đâu.
Dương Lăng nghe vậy thì giật thót mình. Trước kia y từng nghe nói có đạo sỹ tà phái dùng nữ nhân làm lư đỉnh để luyện thái âm bổ dương gì đó, không lẽ đường đường Trương thiên sư cũng là loại rác rưởi này à?
Mấy phu thuyền rất giỏi bơi lội nghe thấy bên này hô lên, bèn ào ào bơi lại rồi cùng lặn xuống đáy sông. Rốt cuộc sau một hồi, ngoài ba trượng có một phu thuyền kéo một người mặc áo xanh lên, lớn tiếng gọi:
- Chộ ni, chộ ni!
Không kịp nghĩ ngợi nhiều, Dương Lăng liền vội kêu người ném dây thừng, trước tiên buộc Trương thiên sư và nữ đạo sỹ đã hôn mê bất tỉnh vào rồi kéo lên,
sau đó lại kéo những người còn lại lên thuyền. Lúc này trên bến thuyền, Lưu chỉ huy của Đức Châu từ xa cũng đã trông thấy hai thuyền đụng nhau, vội vàng đích thân cưỡi thuyền chạy đến cứu viện.
Giờ đã biết tiểu đạo đồng bên cạnh Trương thiên sư là gái, hiển nhiên không tiện cấp cứu trước mặt người khác, Cao Văn Tâm vội kêu người ôm cô ta vào trong khoang, tự tay cứu chữa.
Lưu chỉ huy lên thuyền Dương Lăng, đại lễ cũng bỏ bớt, vội vã ra mắt Dương Lăng. Hai người cùng quây quanh Trương thiên sư mặt mày trắng bệch đang hôn mê bất tỉnh. Truyền thuyết Trương thiên sư lên trời xuống đất không gì làm không được, rất là thần thông quảng đại, ở tiên cung cũng có phẩm tước, nào ngờ Long Vương sông này lại chẳng thèm nể mặt gã, cứ thế mà cho gã uống nước no căng bụng. Dương Lăng và Lưu chỉ huy ngồi xổm một bên xem nha sai đang ấn bụng gã để cấp cứu, trong miệng gã không ngừng ộc ra từng ngụm nước trong.
Một lúc sau, Chính Nhất Tự Giáo Trí Hư Xung Tĩnh Thừa Tiên Hoằng Chiêm Chân Nhân Trương Nhạc Thạc mới yếu ớt tỉnh lại. Dương Lăng và Lưu chỉ huy sứ thấy vậy không khỏi thở phào nhẹ nhõm.
Vừa mở mắt ra, dường như cũng cảm thấy chuyện Thiên sư rơi xuống sông phải nhờ mấy thuyền phu vừa đè vừa ấn cứu mạng hơi mất mặt nên tuy lờ mờ chưa nhìn rõ người ở trước mặt, tiểu chân nhân đã cười ha hả nói:
- Bần đạo sớm đã bói được trong tháng chín sẽ gặp nạn nhập thuỷ, thì ra là ứng vào hôm nay. Ha ha ha...
Dương Lăng rờ mũi, trong lòng chửi thầm một câu: "Đồ bịp bợm!"
Y chợt nhớ tới trong khoang còn có một tiểu đạo cô xinh đẹp tên là Phù Bảo, không khỏi bồi thêm một câu: "Đồ dâm tặc!"
***********
Màn đêm sắp buông xuống, Trịnh bách hộ bước vào trong khoang thuyền. Nhìn
thấy xưởng đốc đại nhân đang cùng Trương thiên sư ngồi đánh cờ tướng, hắn bèn vội đứng nghiêm một bên khom người đợi. Dương Lăng đang nhíu mày, căng mắt nhìn bàn cờ trước mặt, trầm ngâm thật lâu, như thể đang do dự.
Trịnh bách hộ lén đưa mắt nhìn, chợt phát hiện người thị tỳ dáng người cao thon, khuôn mặt xinh đẹp đang đứng duyên dáng sau lưng xưởng đốc hơi rướn người tới phía trước, như thể cũng rất hứng thú theo dõi bàn cờ, nhưng cánh tay ngọc ngà thon thả lại đang lặng lẽ viết chữ lên lưng đại nhân.
Ngón tay trắng nõn của Cao Văn Tâm viết lên lưng Dương Lăng không nhanh, hơn nữa nét viết không nhiều, Trịnh bách hộ nhìn thấy rõ mồn một là chữ "pháo hai bình một". Cô nương này vừa viết xong, liền thấy xưởng đốc đại nhân nhướng mày như mới vừa nghĩ được một nước cờ hay, nhặt pháo lên đập xuống cái chát, nước cờ quả nhiên linh hoạt, gọn gàng, định liệu trước mọi nước.
Trịnh bách hộ thầm đổ mồ hôi, liền vội chuyển ánh mắt để đại nhân đỡ xấu hổ.
Nào ngờ hắn vừa chuyển mắt đi, lại trông thấy vị văn sỹ tuổi hơn ba mươi, thân hình gầy còm nhỏ thó đang mỉm cười đứng bên cạnh Trương thiên sư cũng đang đưa một tay viết chữ lên lưng Thiên sư. Trịnh bách hộ không khỏi ngạc nhiên nhìn Dương xưởng đốc và Trương thiên sư, không hiểu hai "con rối" này thực sự đang cố sức làm gì.
Mỗi khi đánh cờ thắng tay mê cờ nhưng kém cỏi như Dương Lăng, Cao Văn Tâm đều vui vẻ rất lâu, dường như nàng rất hả hê với việc khiến Dương Lăng nếm mùi thất bại. Nếu muốn nàng giả bộ thua Dương Lăng một ván để y vui lòng, còn lâu nàng mới đồng ý. Nhưng lần này mắt thấy Dương Lăng liên tục thua vào tay Trương thiên sư, vị đại cô nương này thực thấy khó chịu trong lòng. Cảm giác đó giống như con mình thì mình đánh được, chứ người ngoài thì dựa vào cái gì? Thế là nàng bèn giúp Dương đại lão gia ăn gian.
Trương thiên sư bị đánh cho tơi bời hoa lá suốt mấy ngày, sau khi rút ra kinh nghiệm xương máu, kỳ nghệ đột nhiên tăng vượt bậc. Cao Văn Tâm đoán là vị Liêu quản sự bên cạnh y đang âm thầm giúp đỡ, thế là lần này nàng cũng so tài cùng hắn, rốt cuộc thành: Dương xưởng đốc và Trương thiên sư minh tranh, còn tiểu thị nữ và
Liêu quản sự ám đấu.
Cao Văn Tâm thấy đối phương đi nước cờ ấy, lập tức viết lên lưng Dương Lăng "mã hai thoái bốn", khoé miệng lộ ra một nụ cười, "song mã ẩm tuyền(2)"! Tập kích thành công rồi! Trong ba nước liên tục kế tiếp, nhất định có thể dồn chết đối phương. Quân của Trương thiên sư đang bị con pháo kềm chế nên không thể rút về cứu viện.
Liêu quản sự trợn mắt nhìn một hồi lâu, đoạn nhìn Cao Văn Tâm khẽ thở dài, không hề nói tiếng nào. Trương thiên sư hiểu ý, cười ha hả nói:
- Ta thua rồi!
Dương Lăng liếc Cao Văn Tâm một cái, nàng nháy mắt đáp lại. Dương Lăng phá ra cười to, lúc này mới quay sang hỏi Trịnh bách hộ:
- Chuyện gì vậy?
Giả vờ không nhìn thấy những cái liếc mắt qua lại giữa đại nhân và tiểu tỳ, Trịnh bách hộ khom người đáp:
- Đại nhân! Thuyền đã đến trấn Thượng Hải, đêm nay có cập bến ở đây không
ạ?
- Hả? Đến Thượng Hải rồi à?
Dương Lăng ngạc nhiên, vội vàng vén rèm nhìn ra ngoài. Y thấy trên trời đầy sao, bên dưới một mảnh hoang vu, đan xen dọc trên bờ sông chỉ có lác đác vài quán rượu, nhìn ra xa xa cũng chẳng có mấy hộ gia đình, hoàn toàn không giống như thành phố phồn hoa trong ấn tượng của y chút nào. Dương Lăng không khỏi thất vọng hỏi:
- Nơi này chính là Thượng Hải à?
Liêu quản sự còn tưởng vị xưởng đốc đại nhân này chê nơi này nghèo kiết, bèn mỉm cười nói:
- Đại nhân! Tuy thôn trấn này nhìn hơi hoang vắng, nhưng thức ăn cũng khá là phong phú và đặc sắc. Chi bằng chúng ta cập thuyền lên bờ đi bộ một chút, cũng là giải lao cho thân thể đỡ mỏi mệt.
Dương Lăng đồng ý:
- Được, lên bờ đi bộ chút vậy.
Y nhìn quanh rồi hỏi Trương thiên sư:
- Lệnh muội đâu? Mời nàng ấy cùng đi ăn uống chút đi. Trương thiên sư lắc đầu:
- Muội ấy đã nói hôm nay không khoẻ lắm, chúng ta không cần để ý đến muội ấy. Trở về ta mang chút thức ăn cho muội ấy là được rồi.
Sau lễ đại hôn của hoàng đế, vị Trương thiên sư đã lưu lại trong kinh thăm viếng thân hữu. Thân bằng quyến thuộc của Thành quốc công đông không kể xiết, mỗi nhà dự một bữa tiệc cũng mất hơn nửa tháng, hơn nữa Thiên sư hiếm khi đến kinh thành nên những thân hữu này không khỏi muốn mời y coi giúp phong thủy một chút, xem tướng một tẹo, lần lữa mất xấp xỉ gần hai tháng trời.
Trước ngày y lên kinh, phú hào ở Ngô Trung là Ngô Tế Uyên đã sớm phái quản sự trong nhà đi theo khẩn thiết mời thiên sư sau chuyến đi kinh sư sẽ đến Tô Châu một chuyến để cầu phúc cho Ngô lão thái gia. Nhà họ Ngô tuy cách xa Long Hổ sơn nhưng đã là tín đồ thành kính của Thiên Sư đạo. Hơn trăm năm trước, vào thời Chu Nguyên Chương khống chế Đạo giáo và Phật giáo cực kỳ nghiêm khắc, trên Long Hổ sơn nhang khói ảm đạm, đời sống gian nan, nhà họ Ngô đã lén phái người đến cúng dường tiền bạc và dầu mỡ tài trợ cho mấy trăm đệ tử Long Hổ sơn vượt qua khó khăn, có thể nói gia tộc họ là người có ơn rất lớn với Thiên Sư đạo.
(Ba_Van: tuy tác giả không nói rõ nhưng qua mạch truyện, chúng ta đoán biết vị quản sự của Ngô Tế Uyên chính là Liêu quản sự)
Đã có ngọn nguồn như vậy, tiểu thiên sư khó lòng từ chối tấm thịnh tình, đành
phải đi theo hắn. Ai dè vừa mới rời khỏi bến thuyền của hành cung tại Đức Châu liền đã bị thuyền lớn của Dương Lăng đâm hỏng. Dương Lăng cũng thấy áy náy không thôi, thế là mời bọn họ lên thuyền đi cùng.
Nha sai hò lớn ra lệnh cho lái thuyền cập bến, bắt ván lên bờ. Cả bọn cùng xuống thuyền, chọn lấy một khách điếm nho nhỏ. Quả nhiên khách điếm nhỏ này có phong vị đặc sắc riêng: quán rượu lại là một chiếc thuyền be bé neo bên bờ sông, khẽ lắc lư theo nhịp vỗ của sóng.
Ở nơi này, trong thời tiết như vậy, muốn thưởng thức đặc sản đương nhiên là phải ăn cua. Liêu quản sự gọi bà chủ thuyền mặt mày niềm nở hâm cho hai bình rượu, rồi cười nói:
- Gió tây thổi, cua ngứa chân. Giờ là cuối thu, trời trong gió mát, chính là thời tiết để thưởng thức cua. Dương đại nhân! Thiên sư! Mời nếm thử đặc sản nơi này.
Tháng chín ăn cua mái, tháng mười ăn cua đực. Những chiếc khay bà chủ thuyền bê lên đều chất đầy cua mái lớn. Trước đây khi ăn cua, Dương Lăng đều chặt ra rồi cầm đũa chọc bừa một trận, nào biết phương pháp kỹ xảo gì? Mắt thấy Trương thiên sư và Liêu quản sự cầm cả con cua lên ăn một cách có quy trình hẳn hoi, bất giác y hơi lưỡng lự.
Tâm tư tinh tế, nhận thấy thần thái của lão gia khác thường, lập tức Cao Văn Tâm lanh trí cầm lấy một con cua, bóc mai, tách chân, khạy bỏ bọng và tai đi, lại dùng chân cua nhọn khảy bỏ yếm và ruột, đặt khối thịt cua trắng tinh thơm phức vào trong bát, trao cho Dương Lăng và mời:
- Lão gia! Món này không cần phải chấm dấm gừng, mùi vị nguyên chất càng thơm hơn, mời lão gia nếm thử một miếng.
Liêu quản sự thấy nàng thức thời hiểu chuyện như vậy, không khỏi tán dương:
- Đêm thanh hoa tỏ ý, canh vắng rượu rót đầy, đại nhân thật là tận hưởng trọn ý vị của đời người rồi!
(Nguyên văn: "深得个中三味", "thâm đắc cá trung tam vị". Trong văn hóa Phật Giáo, khi hiểu sâu sắc một sự việc hoặc một loại tình cảm thì được gọi là thâm hiểu một trong tam vị;
Tam vị có ý nghĩa thay đổi theo từng tôn giáo, từng nền văn hóa nhưng thường có nghĩa là linh thiêng, hoặc là tổng thể của vạn vật.)
Lời của Liêu quản sự tuy là khen ngợi, nhưng lại hơi lập lờ thân phận của Cao Văn Tâm(3). Cao Văn Tâm nghe vậy cảm thấy hơi bị khinh bạc, mặt không khỏi đỏ lên, có phần tức giận.
Dương Lăng thấy vậy liền vội lái qua chuyện khác, bảo:
- Khi nãy đánh cờ lại quên uống trà, bây giờ thấy khát khô cổ rồi. Nhà đò!
Châm dùm ấm trà với.
Cao Văn Tâm nghe vậy bèn nhắc khẽ:
- Lão gia! Tuy cua có mùi vị thơm ngon, nhưng là thức ăn hàn, chốc nữa gọi bà chủ thuyền đem canh gừng pha mật đường uống mới tốt, vừa giải khát lại bổ người. Hay đừng uống trà vậy?!
Liêu quản sự lại cười nói:
- Đại nhân là người phương Bắc, cũng không thích rượu mà thích trà sao? Uống một chút cũng không sao đâu.
Vừa nói hắn vừa cẩn thận lôi từ trong ngực ra một chiếc túi vải, cười nói:
- Tiểu nhân mời đại nhân thưởng thức món trà ngon cực phẩm này. Một túi trà đây vẻn vẹn chưa tới một lạng (50gr - ND), mà trị giá bốn lạng bạc, tiểu nhân còn phải năm lần bảy lượt thỉnh cầu mới kiếm được. Hề hề, đúng thật là đồ tốt có tiền chưa chắc đã mua được à!
Nói đoạn hắn gọi chủ thuyền bảo đem chén tới, rồi nhón từng dúm nhỏ bỏ vào từng chén một.
Một lạng bạc đủ để một gia đình nông dân tiêu dùng suốt cả năm. Một lạng trà này lại có trị giá tới bốn lạng bạc, còn là nhờ vào quan hệ xin xỏ mới có được, vậy bình thường để mua được cần phải tốn bao nhiêu tiền bạc đây? Dương Lăng nghe mà kinh hãi, bất giác hỏi:
- Đây là trà gì vậy? Không ngờ lại mắc đến như vậy! Liêu quản sự đáp:
- Đây là trà xuân (*) Long Tĩnh chánh gốc của Tây Hồ. Không giấu gì đại nhân, tiểu nhân hầu hạ ở Ngô phủ cũng tích góp được chút gia sản, có điều cho dù tiểu nhân chịu bỏ tiền, loại trà ngon cực phẩm này cũng khó cầu lắm cơ.
(*): loại trà tươi, được hái trước tiết Cốc Vũ (bắt đầu vào ngày 20 hoặc 21 tháng 4 dương lịch, kết thúc vào ngày 5 hay 6 tháng 5 dương lịch- Ba_Van)
Dương Lăng nhớ hình như ở đời sau, trà Long Tĩnh được bán đầy đường, không lẽ hiện tại vì trồng trọt quá ít, cung cầu chênh lệch nên mới đắt như vậy sao? Bị Vu Vĩnh lây nhiễm nên bây giờ trong bụng y cũng là một bồ "thương nhân", vừa nghe có thứ có thể kiếm ra món lợi kếch sù, y liền hết sức chú tâm.
Dương Lăng lập tức mừng rỡ ra mặt, hỏi:
- Thứ này trồng quá ít hay khó trồng vậy? Liêu quản sự là người địa phương Tô Hàng, thế mà cũng khó mua sao?
Liêu quản sự cười đáp:
- Cho dù là phú thương bản địa ở Hàn Châu cũng đến tám chín phần mười cầu mà không được đó. Ha ha, Mạt Thanh Hà Mạt công công đã cho người suốt ngày trấn giữ vườn trà, một chỉ (5gr - ND) trà cũng không được phép mang ra. Phàm kẻ nào trộm hái lá trà đều bị đánh năm mươi gậy, cùm xích ba ngày thị chúng. Ngài nghĩ xem, còn ai uống được nữa chứ?
Mạc Thanh Hà? Mạc công công chủ quản thuế má cung ứng trà và thóc gạo lương thực? Đây chẳng phải là một trong ba thái giám trấn thủ mà mình muốn điều
tra lần này sao? Lão ta chỉ phụ trách thuế má, cho dù trà này là trà cống phẩm thì cũng phải do Tri phủ Hàng Châu phụ trách trông nom và cai quản chứ nhỉ?! Sao lão ta lạm quyền, trực tiếp sai người đến tiếp quản vườn trà vậy?
Sinh nghi, nhưng mặt không hề đổi sắc, y ra vẻ bình thản hỏi:
- Trà Long Tĩnh tiến cống không phải do tri phủ Hàng Châu quản lý sao? Thì ra... Mạc công công cũng có quyền giám sát.
Liêu quản sự đắc ý đáp:
- Vườn trà sản xuất ra trà Long Tĩnh chính gốc chỉ có ở mấy vùng đồi núi như Tiên Nhân Xung, Hoàng Khê Giản, Ô Mai Tiêm và Mông Độ Loan, tổng cộng chỉ có mười mấy mẫu, một năm sản xuất được không đến ba bốn trăm cân, chỉ riêng dùng làm cống phẩm cũng đã không đủ rồi. Long Tĩnh được bán trên chợ đều là sản phẩm của mấy huyện lân cận Hàng Châu, giả mạo trà Long Tĩnh chính gốc, mùi vị thật sự kém hơn rất nhiều.
Mạc công công lo có người hám lợi, trộm trà tiến cống bán ra ngoài nên đã sai người giám sát những vườn trà này, ngay cả tri phủ Hàng Châu cũng không được dây máu ăn phần. Bây giờ mỗi năm toàn bộ trà xuân Long Tĩnh cực phẩm đều được dùng để dâng lên cho kinh sư và vài vương phủ. Qua mồng tám tháng tư, mới cho phép phủ Hàn Châu đem trà đặc sản ra bán để thu thuế. Cháu của tiểu nhân là quản sự thân tín dưới trướng Mạc công công, biết tiểu nhân thích uống trà nên khéo lời cầu xin Mạc công công, Mạc công công mới đưa cho bấy nhiêu. Mặc dù đây cũng không được tính là hàng cực phẩm của vua chúa, nhưng cũng chẳng thua kém bao nhiêu, mời đại nhân nếm thử.
Dương Lăng cười nhạt, trong lòng không để ý lắm. Nghe hắn khoác lác đến trời, làm như túi trà của hắn là vật thế gian khó cầu lắm ấy? Ở Đông Noãn các tại cung Càn Thanh y cũng đã uống không ít các loại trà xuân cực phẩm được dùng làm cống phẩm, so với loại trà này còn hơn một bậc, song đương nhiên y không cần phải khoe khoang những lời này với Liêu quản sự làm gì.
Y hờ hững tiếp lấy chén trà, mở nắp ra, dưới ánh đèn chỉ thấy nước trà trong
vắt, màu sắc xanh biếc, bên trong trôi nổi vài lá trà. Một mùi thơm dịu nhạt bay lên thấm thẳng vào trong tim phổi. Ban đầu mùi hương thơm mát đó khiến cho người ta cảm thấy thanh nhã, sau lại cảm thấy mùi hương u nhã đó vấn vương không dứt, tuy không nồng nàn, nhưng lại giống như mùi thơm dịu của hoa cỏ đồng nội trong tiết xuân, lưu luyến mãi không rời.
Mặc dù màu sắc của chiếc lá trà trong chiếc chén thô kệch này và của loại cực phẩm trong cung giống hệt nhau, nhưng mùi hương lại hoàn toàn không thể so sánh. Cầm chén trà trên tay, bất giác Dương Lăng ngây người.
---
Chú thích:
(1) đây là một phong tục vùng Giang Nam, ngồi thuyền nhỏ trên sông, câu cua, hấp chín, lột cua ra ăn giữa trăng thanh gió mát, nghe sóng vỗ rì rào.
(2) hai Mã cùng uống nước suối, chỉ sức tấn công phối hợp của hai quân Mã - cũng là một đòn rất lợi hại
(3) chữ hoa trong câu thơ ám chỉ người con gái đẹp hoặc kỹ nữ; đó là lý do tại sao Cao Văn Tâm lại nổi giận.
- -
Chương 124 Quỷ quyệt khó biết (phần 1)
- -
Liêu quản sự thấy Dương Lăng cầm chén trà có vẻ đăm chiêu, vội thấp thỏm dò
hỏi:
- Đại nhân! Phải chăng... phải chăng loại trà này không hợp với khẩu vị của ngài?
- Hả? Ồ! Đâu có, đâu có! Loại trà ngon cực phẩm này lúc ở trên kinh sư bản đốc cũng chưa từng được thưởng thức. Thật là hương thơm nức mũi, toàn thân thư thái!
Dương Lăng thấy hắn hỏi dò, vội lấy từ trong ngực ra một chiếc khăn gấm trải lên bàn, giả vờ thèm thuồng nói:
- Liêu quản sự có thể san sẻ chút trà ngon cực phẩm này cho bản đốc ta được không? Uống xong nước trà này của huynh, khẩu vị của bản đốc đã bị nâng lên rồi, trà thường thật sự là nhạt nhẽo vô vị.
Y nói xong đưa mắt ra hiệu cho Cao Văn Tâm, Cao Văn Tâm vội lấy ra một thỏi bạc nhỏ không ít hơn mười lạng đặt lên bàn.
Liêu quản gia nghe y khen, bất giác có cảm giác được yêu mến mà áy náy. Hắn vui vẻ móc túi lấy túi trà nhỏ đó ra, hai tay đưa qua:
- Đại nhân nói như vậy hẳn là đại nhân rất thích loại trà này. Là người Hàng Châu, tiểu nhân cũng được vinh dự lây vậy! Ha ha, chút trà này chỉ là tâm ý nhỏ nhoi không tỏ được lòng tôn kính, xin đại nhân vui lòng nhận dùng tạm dọc đường. Đợi đến nơi rồi, chỉ sợ Mạc công công sẽ còn có phần lễ vật lớn cho ngài đó.
Dương Lăng âm thầm cười khẩy trong lòng: "Mạc Thanh Hà dối trên lừa dưới, dùng kém trám tốt, cả gan đánh tráo cả trà tiến cống cực phẩm. Hắn lại dám đưa trà tiến cống cực phẩm cho mình thấy ư?"
Liêu quản sự ra sức từ chối không nhận bạc của y, Dương Lăng đành kêu Cao Văn Tâm cất bạc lại, rồi nhận lấy túi trà trong tay hắn.
Một cơn gió ùa đến, thổi tung chiếc khăn tay của y đang đặt trên bàn . Liêu quản sự tinh mắt, liếc mắt nhận thấy đó là lụa cực phẩm Tô Châu, không khỏi vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ kêu lên:
- Chiếc khăn tay này của đại nhân thực đúng là cực phẩm à nha!
Hắn vừa nói vừa nhẹ nhàng nhặt chiếc khăn tay lên, quan sát cành hoa mai thêu màu rực rỡ bên trên, khen ngợi:
- Thêu thật khéo! Thiếu nữ Giang Nam tính tình đặc biệt dịu dàng, thông minh khéo léo, sở trường nhất là đường thêu bay bướm, ăn nói tế nhị. Nhưng muốn nắm vững thuần thục loại kỹ thuật thêu thùa này, có rất nhiều cô nương cho dù dốc sức cả đời cũng chưa chắc đã có thể nắm bắt được. Chiếc khăn lụa này thật sự là tác phẩm của bậc thầy chân chính, có tiền cũng chưa chắc mua được, không dễ kiếm đâu!
Chiếc khăn tay đó là của công chúa Vĩnh Phúc dùng để bọc cặp xuyến ngọc Bàn Long bị Dương Lăng thuận tay nhét vào ngực khi y vào hậu cung bắt trộm. Ban đầu y có ý định sẽ trả lại cho công chúa, nhưng chờ mấy ngày mà cũng không có cơ hội gặp lại nàng.
Dương Lăng chợt nhớ đến một minh tinh nổi tiếng ở thời hiện đại mà đã có không biết mấy trăm bộ giầy dép và quần áo, huống chi là đường đường một công
chúa Đại Minh? Chắc chắn người ta cũng sẽ chẳng quan tâm đến một chiếc khăn tay, thế là y thuận tay cất trên người luôn. Nếu không phải vì chiếc khăn này là do y thuận tay vớ được mà lấy mang đi tặng Ấu Nương thì thực thẹn với lòng thì y đã sớm mượn hoa kính phật rồi.
Lúc này nghe Liêu quản sự nhận định chiếc khăn gấm bé xíu này quý giá như vậy, y lại hơi hối hận vì đã không đem nó tặng cho Ấu Nương. Nghe thế, Trương thiên sư nổi lòng hiếu kỳ bèn cầm lên quan sát kỹ rồi nói:
- Đúng rồi! Quả nhiên là vật phẩm chất lượng tốt nhất trong số lụa Tô Châu. Ha ha, có điều màu hoa này hơi loè loẹt quá, Dương đại nhân mang theo người không thích hợp cho lắm!
Thiên sư vừa cười vừa mở chiếc khăn tay ra. Nhìn thấy cành hoa mai cổ xưa dưới góc bên phải hơi có chút kỳ lạ, chàng ta nâng khăn lên nhìn cẩn thận. Đột nhiên phát hiện ra ý nghĩa sâu sắc trong đó, Trương thiên sư giật nảy mình, suýt nữa buông tay khiến chiếc khăn bay đi theo gió.
Màn đêm u ám, ánh đèn mờ nhạt, người khác không quá để ý đến đoá hoa mai ở góc khăn. Nhưng Trương thiên sư cả ngày nghiên cứu bùa chú, những cổ tịch đạo gia trên Long Hổ sơn hầu hết đều là vật trân quý từ thời thượng cổ, văn tự ghi trên đó đều là những thứ cực kỳ cổ xưa cho nên Trương Ngạn Thạc rất am tường về chữ triện cổ.
Chàng ta thấy hoa mai trên góc khăn đó không ngờ là bốn chữ triện thêu thành, tiếp đó lấy bốn chữ tiểu triện hình hoa mai hợp lại thành một bức hình hoa mai, nếu không biết những chữ đó thì thực sẽ không nhận ra. Quả nhiên là hao phí tâm tư, khéo léo vô cùng.
Nhìn kỹ chữ thêu đó thì lại là bốn chữ "Vĩnh Phúc Tú Ninh". Công chúa Vĩnh Phúc khuê danh là Chu Tú Ninh, lúc Trương thiên sư lập đàn cầu phước cho hoàng thất trong cung đã biết được tên nàng; lúc này nhìn thấy trên chiếc khăn tay có cả hai chữ Vĩnh Phúc và Tú Ninh, làm sao chàng ta không đoán được đây là vật kề thân của công chúa chứ?
Trương thiên sư kinh hãi đến tim đập thình thịch. Đừng nói là Dương Lăng đã cưới thê nạp thiếp, cho dù hiện giờ y chưa vợ cũng không được phép cùng công chúa ngầm tặng tín vật, thầm trao tâm tình. Chẳng lẽ... chẳng lẽ Dương xưởng đốc gan lớn trùm trời, dám tư tình với công chúa sao?
"Người khôn phải biết giữ mình, người khôn phải biết giữ mình!" Từ khi bá phụ bị lưu đày, Trương Ngạn Thạc và phụ thân đều cùng dè chừng cẩn thận mọi lúc mọi nơi, chỉ sợ sẽ chạm vào vảy ngược(1) của hoàng thất. Phát hiện chuyện bê bối này của hoàng thất, chàng ta lập tức ra vẻ điềm nhiên như không đưa trả lại khăn lụa, trong lòng âm thầm phát thệ: "Đời này tuyệt sẽ không để cho người khác biết được mình nhận ra các chữ triện hoa mai này!"
Mặc dầu đã đến thời đại này được một khoảng thời gian, cũng biết được chút ít cấm kỵ, nhưng Dương Lăng nào có thể gặp chuyện gì cũng lo trước tính sau giống như đang đi trên băng mỏng, cho nên y hoàn toàn không hề để ý già cả. Y thoải mái cầm lấy chiếc khăn tay nhét vào trong người rồi cười nói:
- Đã vậy, bản đốc xin cảm tạ Liêu quản sự!
****************
Trương Phù Bảo mượn cớ thân thể không khoẻ, tắm rửa thay đồ, nhập định trọn một canh giờ mới cảm thấy tinh thần sảng khoái. Thấy mình hơi có linh cảm, nàng vội cầm lấy công cụ bói toán tự bói cho mình một quẻ. Đạo hạnh của nàng có hạn, bói mãi nhưng chỉ mới ra được câu đầu, lại giống hệt với lời bình mà phụ thân đã cho nàng. Trong lòng tiểu cô nương càng bứt rứt hơn.
Nàng biết đạo hạnh của anh trai cao thâm hơn mình một chút, cũng từng có ý muốn nhờ y bói toán nghiệm chứng cho mình. Nhưng cho dù quẻ bói này can hệ đến cả đời nàng đi chăng nữa, một tiểu cô nương mười ba mười bốn tuổi nào lại có da mặt đủ dày nôn nóng đi tìm anh trai bói tìm lang quân trong mộng tương lai cho mình chứ?
Trương Phù Bảo hai tay chống cằm, chơm chớp đôi mắt tròn xoe, trầm ngâm lẩm bẩm: "Bán luân minh nguyệt nhất giang thủy, bạch cốt sơn thượng địch hồng
tiêu. Binh qua khởi thời xuân ảnh động, Lão Quân tượng tiền hứa lương nhân*."
*Tạm dịch:
Nửa vầng trăng sáng, một dòng sông Trên Bạch Cốt sơn rửa lụa hồng* Dáng xuân lả lướt thời chinh chiến
Hẹn chàng trước tượng Lão Quân trông.
*(lụa hồng) cũng chỉ người con gái đẹp
Đọc đi đọc lại mấy lần nhưng ngẫm mãi không thông, Trương Phù Bảo căm tức vỗ bàn cằn nhằn:
- Cha thật đáng ghét! Con gái của mình mà cũng giả thần giả quỷ. Bói không ra thì thôi, bói ra được thì nói thẳng với mình cho xong, hại mình phải đoán tới đoán lui!
Nàng chán nản nhảy xuống giường, đẩy cửa sổ, ngước nhìn vầng trăng sáng tỏ trên bầu trời, hai con ngươi sáng ngời phản chiếu ánh trăng lấp lánh. Nàng si mê ngơ ngẩn hồi lâu, trong lòng thầm nghĩ: "Không thể là y, nhất định không thể là y. Y đã có thê tử, Bảo Nhi mình sao có số làm thiếp người ta được?
Cho dù y có tài ba hơn nữa mình cũng không thể gả cho y được, nhất định là mình nghĩ ngợi lung tung rồi. Nửa cái bánh nướng thế nào cũng không thể tính là nửa vầng trăng tỏ chứ? Vả lại mình ngã là ngã xuống sông đào, chứ đâu phải ngã xuống sông lớn, ngụ ý(2) đâu phải là ngụ ý theo kiểu này. Hơn nữa ba câu sau cũng không khớp với y mà!"
Nghĩ đến đây, dường như Trương Phù Bảo hơi yên tâm, nhưng lại nghĩ đến việc xảo hợp này có thể không liên quan đến y, không hiểu vì sao nàng lại cảm thấy hơi buồn. Nàng giậm chân, tự vả vào mặt mình, xấu hổ tự mắng: "Mi bao tuổi rồi mà lại đi bận tâm mấy cái chuyện này? Đồ nha đầu không có triển vọng!"
Nàng buồn bực mở cửa thuyền, thấy có một nha sai đang xỉa răng đi ngang qua, lúc này mới cảm thấy bụng đang trống rỗng, vội hỏi gã:
- Này, ăn tối rồi sao?
Bây giờ người trên thuyền đều biết nàng là con gái, cũng biết nàng là em gái của Trương thiên sư. Người ta là em gái của quốc sư, đám nha sai thực không dám vô lễ. Tên nha sai đó liền vội làm lễ rồi đáp:
- Vâng thưa tiểu thư, xưởng đốc đại nhân và thiên sư đã xuống thuyền đến ven sông dùng tối rồi ạ!
Nghe nói bọn họ xuống thuyền mà lại không gọi mình, Trương Phù Bảo không khỏi tức giận hừ một tiếng rồi nói:
- Dẫn ta đi. Ta cũng đói bụng rồi.
Ban đầu Cao Văn Tâm đứng cạnh Dương Lăng hầu cơm nhưng rồi bị Dương Lăng bắt ép ngồi xuống cạnh mình. Lúc này nàng vừa nhã nhặn ăn gạch cua, vừa nhanh nhẹn liên tục lóc thịt và gạch cua, kịp đưa cho Dương Lăng đang ngốn lấy ngốn để như bò nhai cỏ.
Lúc uống trà, Dương Lăng lại nhỏ nhẹ nhấp miệng uống từng hớp bát canh gừng pha mật đường nóng hôi hổi. Con thuyền nhỏ khẽ lắc lư, tiếng sóng vỗ rì rào như có như không, cả miệng ngát hương ngào ngạt, quả nhiên sảng khoái vô cùng.
Trương Phù Bảo bước xuống thuyền lớn, được tay nha sai nọ dẫn đến bên chiếc thuyền nhỏ, nhìn thấy bộ dạng nhàn nhã của mọi người, trong lòng càng thêm tức giận. Thế là cũng không thèm đợi bọn họ gọi xuống thuyền, nàng liền không hề khách khí mà chọn lấy một chỗ rồi phịch mông ngồi xuống.
Nàng vẫn mặc một bộ đạo bào nhưng mái tóc dài xõa tung, xinh đẹp thướt tha, trông hồn nhiên và đáng yêu vô cùng. Song khi nàng cầm lấy một con cua lớn lên ăn, tướng ăn lại giống hệt như Dương Lăng.
Chỉ nghe Liêu quản sự cười nói:
- Cho nên có câu "giọng Tô Giang dịu dàng", vừa ngọt ngào vừa êm ái, lại nghe rất hay. Phụ nữ Tô Hàng nói chuyện luôn luôn nhẹ nhàng, ngọt ngào êm tai. Có người còn bảo, nghe bọn họ cãi nhau cũng là một loại hưởng thụ đấy!
Dương Lăng cười nói:
- Thế à! Ha ha, Hàng Châu ta đã đến một lần, có điều đó là rất rất nhiều năm về... À... về trước, vì đi vội nên chưa thưởng thức được phong thổ lẫn nhân tình nơi phố phường này.
Đang gặm cua, Trương Phù Bảo nghe bọn họ nói chuyện hào hứng sôi nổi, thậm chí anh trai mình cũng như đang thả hồn bay xa, không khỏi hừ một tiếng:
- Nghe nói khâm sai đại nhân điều quân ồ ạt xuống Giang Nam, chắc là có việc công cần làm chứ? Đại nhân ngồi đây ăn uống, trên bờ đã có mấy chục tên vệ sĩ lăm lăm vũ khí rồi. Chẳng lẽ ngài định đến Tô Hàng sẽ dẫn theo cả trăm người vào ngõ hẻm nghe cô nương người ta nói chuyện phiếm ấy à?
Dương Lăng nghe vậy hơi lấy làm xấu hổ, Cao Văn Tâm thì lại mỉm cười. Liêu quản sự thấy tình thế không ổn, liền vội đổi đề tài:
- Tiểu nhân nhiều chuyện rồi! Thực ra đại nhân đã đến đó thì đương nhiên là phải nhìn ngắm, thưởng thức phong cảnh vùng sông nước Giang Nam một chuyến. Nói đến phong cảnh, ngày mai chúng ta đến Hàng Châu rồi, những nơi phong cảnh đặc sắc ở Hàng Châu rất nhiều, đứng đầu chính là "Tây Hồ thập cảnh"(3). Phong cảnh ở Tây Hồ còn có rất nhiều câu truyện truyền thuyết, nổi danh nhất chính là về tháp Lôi Phong.
Liêu quản sự thấy vị đại tiểu thư Trương Phù Bảo này xuất hiện thì không còn dám nói về những nét đặc sắc của người con gái vùng Giang Nam nữa mà chuyển sang kể những câu truyện thần thoại. Đương nhiên Dương Lăng biết câu truyện về tháp Lôi Phong nhưng không ngờ câu truyện mà Liêu quản sự kể lại không giống với những gì mà y đã biết.
Theo lời hắn kể, vào năm Thiệu Hưng đời Tống, trong Tây Hồ có yêu quái Bạch xà tu luyện ngàn năm và hầu gái do Thanh ngư (cá trắm đen) hoá thành, trong mưa gặp được một người mở tiệm thuốc tên là Hứa Tiên, hai người vì thế nảy sinh tình cảm, kết làm phu thê. Nhưng Bạch xà và Thanh ngư đều là yêu tinh hoá thân, không biết lễ nghi nhân gian, thường xuyên làm mất thể diện Hứa Tiên, khiến y khó xử không thôi.
May mắn có vị cao tăng giỏi pháp thuật của Kim Sơn tự là Pháp Hải nhìn thấu nguyên hình của hai con yêu, ông đưa cho Hứa Tiên một chiếc bình bát có pháp thuật. Nhân lúc bọn họ không đề phòng, Hứa Tiên chụp chiếc bát lên đỉnh đầu hai yêu, hai yêu hiện nguyên hình và bị Pháp Hải bắt giữ. Thanh ngư định chạy trốn, bị Pháp Hải huỷ hết pháp thuật phải hiện nguyên hình. Bạch xà bị vị cao tăng đè dưới tháp Lôi Phong, vĩnh viễn không thể siêu sinh.
Liêu quản sự kể xong thì cười nói:
- Hoà thượng Pháp Hải còn từng để lại lời kệ rằng: "Tây Hồ thuỷ kiền, giang hồ bất khởi, Lôi Phong tháp đảo, Bạch xà xuất thế*." Nước của Tây Hồ làm sao có thể cạn được chứ? Cho nên Bạch xà yêu cũng chỉ có thể vĩnh viễn bị đè dưới tháp Lôi Phong, nhận chịu hết mọi dày vò mà thôi.
* Tạm dịch:
Nước Tây Hồ mà cạn thì giang hồ sẽ không yên.
Khi tháp Lôi Phong sụp đổ cũng sẽ là lúc Bạch xà xuất hiện.
Chàng Hứa Tiên đó được cao tăng cứu giúp, từ đó một lòng hối cải, hành thiện tích đức. Về sau lại cưới vợ sinh con, con trai còn đỗ Trạng Nguyên, cũng xem như gia đình tích thiện rồi.
Trương Phù Bảo tính tình chất phác, nghe xong tức giận nói:
- Cái tên Hứa Tiên đó thực quá vô tình. Tuy Bạch xà là yêu tinh, nhưng đôi bên đều có tình cảm với nhau, lại chưa từng hại hắn. Hắn không quen với hành vi của
người ta thì cũng nên niệm tình phu thê mà để người ta ra đi, cớ sao lại giúp tên hoà thượng ác độc khiến thê tử mình chịu khổ dưới tháp Lôi Phong? Bản thân thì lại bỏ vợ, cưới người khác, rồi còn con đàn cháu đống gì đó, hưởng hết vinh hoa phú quý! Như thế còn có thiên lý hay sao?
Chẳng ngờ kể câu truyện này cũng bị nàng mắng, Liêu quản sự không khỏi cứng mồm, đờ cả người. Trương thiên sư thấy vậy cười trách:
- Phù Bảo! Chẳng qua chỉ là một truyện thần thoại thôi, muội so đo làm gì?
Dương Lăng không ngờ câu truyện Bạch xà của thời này lại là một phiên bản như vậy, thế là y nhất thời cao hứng kể câu truyện mà mình được biết. Câu truyện về Thanh xà Bạch xà xuất thế, gặp Hứa Tiên trên cây cầu gãy, lên Nga Mi trộm thuốc cứu chồng, dâng lũ nhấn chìm Kim Sơn, đánh cho Pháp Hải bỏ chạy, được Dương Lăng rù rì kể lại, cảm động lòng người hơn câu truyện của Liêu quản sự gấp không biết bao nhiêu lần. Không những Trương Phù Ngọc nghe say sưa mà cả Cao Văn Tâm cũng lắng nghe đến mê mẩn.
Trương Phù Bảo nghe đến kết cục phu thê đoàn tụ, cùng bay về cõi tiên thì mặt mày rạng rỡ, khen: - Câu truyện này mới hay.
Rồi nàng cầm một con cua lên, dương dương đắc ý nói:
- Vị Thanh Thanh cô nương đó dùng tam muội chân hoả đốt Pháp Hải, vậy là thần kỹ của đạo gia ta rồi. Ha ha, Pháp Hải bị đuổi đến lên trời xuống đất đều không xong, là trốn trong vỏ con cua này sao?
Dương Lăng lấy làm lạ: "Chẳng lẽ người thời này còn chưa phát hiện đường vân trong mai cua giống hình hoà thượng à?" Y vội cầm một con cua lên, bóc mai ra, quả nhiên vẫn nhìn thấy đường vân giống như hoà thượng đang tĩnh tọa, hình dáng thần thái đây đủ cả, kỳ diệu vô cùng.
Dương Lăng cười đưa cho Trương Phù Bảo nói:
Cô xem này, lão Pháp Hải đó trốn trên thân con cua đã lâu, giống như Đạt Ma
diện bích(4) nhiều năm, để lại cái hình này. Cô xem xem có phải là hoà thượng hay không?"
Trương Phù Bảo cầm lấy đưa lên ánh đèn nhìn kỹ, không khỏi vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ kêu lên: - Quả nhiên có hoà thượng, quả nhiên có hòa thượng! Ca ca! Thì ra đây không phải là truyện thần thoại, nhất định trước đây thực sự đã có việc này đó!
Trương thiên sư, Liêu quản sự và Cao Văn Tâm ai nấy đều hết sức kinh ngạc tự bóc cua ra quan sát, nhìn thấy mà tấm tắc kêu lạ kỳ. Liêu quản sự cũng khoái chí nói:
- Không ngờ trên đời lại có chuyện kỳ lạ như vậy, trong mỗi con cua lại có một vị hòa thượng. Sao trước nay không ai chú ý nhỉ? Ha ha, thực là thú vị. Tiểu nhân là người Hàng Châu mà cũng chưa từng nghe qua chuyện này. Trở về đem chuyện này kể cho người ta nghe, nhất định trong chốc lát sẽ lan truyền khắp chốn.
Dương Lăng nghe vậy thì giật mình. Câu truyện này đã trải qua không biết mấy thế hệ bổ sung và hoàn thiện, rồi miễn cưỡng ráp vào một ít kỳ văn cổ tích mới trở thành phiên bản của đời sau. Mình nhất thời buột miệng kể ra, hắn lại muốn "xuất bản trước hạn"!
Cao Văn Tâm cũng chưa từng nghe câu truyện này, nhất thời cũng say sưa chìm trong câu truyện tình của Bạch xà và Hứa Tiên. Nàng cảm khái một hồi, dựa vào bóng khuất của ánh đèn lặng lẽ ngắm nhìn vẻ anh tuấn tiêu sái của Dương Lăng, trong lòng thầm nghĩ: "Bạch xà cảm động và ghi nhớ ơn cứu mạng của tiều phu, dám hoá thân thành người, gả làm vợ hắn. Mình... mình thân phận là nô tỳ, song thậm chí cả yêu tinh cũng không bằng, so ra cũng chỉ có thể xem như thị tỳ Thanh xà kia, vác khổ thay người, lo tới lo lui, rốt cuộc vẫn không thành chánh quả."
Cao Văn Tâm nghĩ đến đây, thầm mắng mình một tiếng: "Xì! Mi đang nghĩ bậy nghĩ bạ gì thế, Thanh xà người ta chưa từng có ý với tướng công nhà nàng ấy mà."
Nàng thấy không ai chú ý đến vẻ mặt của mình, không khỏi lại suy nghĩ tiếp trong lòng: "Thanh xà đó ra sức trả công không lời than oán như vậy, thật sự chỉ
xuất phát từ tình cảm tỷ muội ư? Nàng ấy... nàng ấy có bao giờ thích vị công tử Hứa Tiên đó không? Nếu nàng ấy thổ lộ tình ý với Hứa Tiên, tiểu thư lại có tình như thủ túc với nàng, Hứa Tiên có sẽ... có sẽ cưới nàng về hay không?" (TheJoker: nếu là mềnh mềnh cưới ngay! Kết em này sau mỗi Ấu Nương thoai hix)
... ... . . .
Đêm đã khuya, gió đã trở lớn, mặt nước nổi lên những bọt hoa sóng trắng, từng đợt từng đợt vỗ vào con thuyền cá nhỏ bé. Dòng cảm xúc của Cao Văn Tâm cũng bắt đầu giống như con thuyền nhỏ trên sóng, dập dềnh chao đảo.
Vầng trăng như lụa, sóng khẽ vỗ bờ, gió thu nhẹ thổi, ánh mắt mông lung. Con tim không rượu cũng say.
****************
Xa giá nghênh đón quan khâm sai đã đợi trên bến thuyền từ lâu. Mặt trời còn chưa xế núi, thái giám trấn thủ lương trà* Mạc Thanh Hà, thái giám trấn thủ dệt may Tô Hàng kiêm chưởng quản ngự dụng long y** Lý Đại Tường cùng thái giám trấn thủ thuế quan thủy bộ Viên Hùng đã dẫn đầu đám người ra sông đón đợi.
(*: lương thực và trà
**: quần áo hoàng thất)
Dương Lăng là xưởng đốc Nội xưởng, chuyện y xuôi Nam tuần tra trưng thu thuế má không can hệ với Tam ty lắm, nhưng thân phận của Dương Lăng hiện tại không thể coi thường. Vì vậy Bố chánh sứ, Án sát sứ và Đô chỉ huy sứ của Chiết Giang cũng chạy đến nghênh đón. Tri phủ Hàng Châu Dương Vu Anh là chủ nhà song lại bị chen lấn, đẩy dạt sang một bên.
Do sứ giả mau mồm mau miệng rao truyền tin Trương thiên sư cưỡi thuyền quan của Dương đại nhân cùng đến Hàng Châu, đám đạo trưởng của mấy đạo quán lớn ở địa phương cũng rất cao hứng đến bến thuyền chờ đón tổ sư gia, chen lấn đứng cùng đám danh nhân thân sỹ của địa phương.
Điển sứ, tuần kiểm mặt mày căng thẳng đang chỉ huy hơn trăm nha sai duy trì trật tự.
Đoàn long kỳ màu vàng sậm vừa đập vào mắt, đám người liền bắt đầu nhốn nháo. Ba đại thái giám trấn thủ và các vị quan lại vén áo bào chậm chậm bước xuống thềm đá, đi đến đầu bến. Thuyền lớn vừa cập bờ, đội chiêng trống do đám thân sỹ tổ chức liền nổi nhạc ầm lên, pháo nổ đì đùng không dứt, khắp nơi nhất thời mịt mù khói pháo.
Đạp ván xuống thuyền, hai bách hộ dẫn hơn trăm tay nha sai bước xuống thuyền trước, chia thành hai hàng hình cánh nhạn. Dương Lăng và Trương thiên sư vừa sánh bước xuất hiện, lập tức trên bến thuyền tiếng tung hô loạn lên:
- Hoan nghênh đề đốc nội xưởng, thị vệ thân quân khâm sai Dương đại nhân!
- Vô lượng thiên tôn, đệ tử cung nghênh thiên sư pháp giá quang lâm!
Trông thấy cảnh hỗn loạn đó, Trương thiên sư và Dương Lăng không khỏi nhìn nhau cả cười. Trương thiên sư lần này đến Hàng Châu với thân phận cá nhân nên không muốn dây dưa với phía quan lại lắm; thiên sư chỉ chào hỏi chuyện trò cùng các vị quan lại đến nghênh đón một lúc rồi dẫn em gái mình đến gặp đạo nhân và tín đồ của các đạo quán ở địa phương.
Trước mặt Dương Lăng là một đám quan viên đang khúm na khúm núm túm tụm vây quanh y. Thuế giám lương trà Mạc Thanh Hà Mạc công công đi đầu bước lên phía trước, mỉm cười thi lễ:
- Khâm sai đại nhân đi đường mệt nhọc, thật vất vả rồi. Ty chức Mạc Thanh Hà cùng Lý Đại Tường, Viên Hùng và quan viên của Tam ty cung nghênh đại nhân.
Dương Lăng quan sát hắn. Vị đại thái giám Mạc Thanh Hà này tuổi trạc tứ tuần, vóc người cao to, dáng vẻ đường đường. Mặc dầu hắn là công công trấn thủ địa phương, phẩm hàm không bằng đám công công của ty Lễ Giám trong kinh, nhưng có lẽ bởi không phải hầu hạ dưới chân thiên tử nên ngực hắn ưỡn cao, không như đám thủ lĩnh Ty lễ giám đầy quyền lực nhưng lưng vai lúc nào cũng quen khom
cúi; khí chất phong độ ấy trông thật bất phàm.
Hai thái giám phía sau lại không bằng anh bằng em. Thái giám trông coi dệt may Lý Đại Tường da thịt trắng bủng, mày đen mắt híp, thực có mấy phần ẻo lả. Còn Viên Hùng cai quản ty thuế quan, kiêm nhiệm giám quân sứ giám sát mấy ngàn quân của Long Sơn vệ lại gầy gò nhỏ thó, cằm nhọn má hóp, mặc bộ quan bào rộng thùng thình, như thể gặp gió thổi liền sẽ bay lên trời vậy.
Hai người cũng vội vàng bước lên ra mắt Dương Lăng. Không những Dương Lăng là khâm sai, là xưởng đốc Nội xưởng, mà sau này còn là lãnh đạo trực tiếp của ba người. Ba ông chúa đất địa phương này dĩ nhiên sẽ khom lưng uốn gối ra sức bợ đỡ y rồi.
Đợi ba người vỗ mông ngựa một trận xong, Bố chánh sứ ty Ngưu đại nhân mới cùng hai vị đại nhân khác bước lên, cười nói với Dương Lăng:
- Cung nghênh khâm sai đại nhân! Dương đại nhân đi đường vất vả, chúng tôi đã bày tiệc rượu ở lầu Túy Tiên tiếp đãi tẩy trần cho đại nhân rồi. Mời đại nhân sang ngồi kiệu, chúng ta đến nơi sẽ nâng chén kính lời, thỏa sức no say.
Tuy các vị quan to địa phương này không sánh bằng mấy vị thái giám nọ, nhưng Dương Lăng cũng không dám vô lễ với bọn họ, y bèn vội ôm quyền từ tạ:
- Bản đốc phụng chỉ tuần tra, các vị đại nhân trăm bề bận rộn mà vẫn đến nghênh tiếp, thực khiến tại hạ sợ hãi. Thật ra tại hạ đi đường mệt mỏi, lúc này mong muốn nhất là được tắm rửa một hồi, nghỉ ngơi cho khoẻ, thật sự không muốn làm phiền đến các vị đại nhân.
Mạc Thanh Hà nghe vậy vội cười nịnh:
- Xưởng đốc đại nhân! Lầu Túy Tiên nằm ngay dưới chân núi Cô Sơn*, cách hành dinh khâm sai của ngài chỉ có một dặm đường. Các vị đại nhân đều có lòng tốt, xin xưởng đốc đại nhân chớ nên khước từ.
(* thực ra chữ "sơn" đã là núi rồi, nhưng nhóm dịch vẫn giữ nguyên "Cô sơn"
để đọc khỏi thấy trỏng trỏng, giống như vẫn giữ "sông Hoàng Hà" vậy)
Dương Lăng nghe hắn nói vậy cũng không tiện từ chối quá mức. Chén tạc chén thù trên quan trường vốn là chuyện nể mặt mũi nhau, nếu như anh không đi, mặc dù tiết kiệm được tiền bạc cho người ta nhưng chắc chắn trong lòng người ta cứ vẫn không vui. Y đành mỉm cười đáp:
- Nếu như thế thì làm phiền các vị rồi.
Mạc công công vui vẻ kêu người lên thuyền đưa hành trang của Cao Văn Tâm và Dương Lăng về hành dinh, còn mình và các vị đại nhân và những nhân vật danh tiếng địa phương đi cùng Dương Lăng. Chỉ kiệu quan không đã là mấy chục cái, phía trước có đoàn gõ chiêng dẹp đường, đoàn người cuồn cuộn thẳng hướng đến lầu Túy Tiên mà đi.
Lầu Túy Tiên là tửu lâu nổi tiếng và xa hoa nhất Hàng Châu, nằm ngay dưới chân núi Cô Sơn. Tuy những tửu lâu xa hoa của kinh sư cũng rường cột chạm trổ, nguy nga lộng lẫy như thế, nhưng luận về ý cảnh sẽ không thể nào sánh được với nơi này. Dương Lăng bước vào tửu lâu mà như đang đi vào một lâm viên. Hành lang bên trong đình viện rộng lớn uốn lượn khúc khuỷu quanh co, hoa thơm chim hót. Trong sân có vài căn gác nhỏ tinh xảo độc đáo, thi thoảng vẳng ra những tiếng đàn du dương.
Hàng người đi qua ba khu lạc viện, men theo con đường nhỏ rải đá trắng tinh, vượt qua một chiếc cầu nhỏ nên thơ, xuyên qua một khu rừng trúc mới đến một căn gác nhỏ. Những cây trúc cao lớn che chắn làm nổi bật căn gác nhỏ màu hồng trong đó. Trúc xanh đong đưa giam hờ căn gác trong sự thanh tao tĩnh mịch, khiến người ta cảm thấy vui vẻ thoải mái. Dương Lăng vừa trông thấy, thân thể đang mệt mỏi lập tức phấn chấn lên.
Khi nãy trong kiệu y vẫn chưa kịp ngắm cảnh sắc Giang Nam, giờ chỉ cần nhìn thấy một góc này quả nhiên đã tựa như tiên cảnh. Mọi người bước vào gác, phân ngôi chủ khách an tọa. Còn chưa kịp chuyện trò, một hàng thiếu nữ váy trắng vải xanh, tà áo tung bay đã bưng trái cây và trà thơm lả lướt đi tới.
Váy áo tung bay, dáng người tha thướt, mắt như thu thủy, mày tựa núi xa.
Những người con gái này dung mạo tịnh không phải tuyệt sắc thượng thừa, song hiếm thấy chính là ngũ quan đều tinh xảo như nhau. Từng cái nhíu mày, mỉm cười, mỗi bước đi, dừng lại đều mang theo sự ung dung dịu dàng đặc trưng của người con gái miền sông nước.
Nếu nói lâm viên nhìn thấy khi nãy là một phong cảnh thoát tục, thì những người con gái thướt tha như liễu lay trong gió này há chẳng phải cũng u nhã như vậy ư?
Dương Lăng nhìn mà không khỏi lộ ánh mắt tán thưởng. Mạc Thanh Hà trông thấy bèn đưa mắt nhìn sang Viên Hùng ngồi đối diện mỉm cười, rồi nâng chén lên mời:
- Xưởng đốc đại nhân từ phương Bắc đến, tất nhiên tửu lượng không tầm thường. Rượu Giang Nam có vị nhạt tinh thơm, mời đại nhân uống cạn ba chén trước! Hôm nay chúng ta không say không về!
---
Chú thích:
(1) Rồng là một vật có thể đùa bỡn, thậm chí có thể cưỡi. Nhưng ở dưới cái cổ của nó có cái vảy ngược dài một thước ta (3 tấc). Ai động đến thì bị nó giết ngay. Các vị vua chúa cũng có cái vảy ngược, kẻ du thuyết không sờ phải cái vảy ngược của vua chúa thì mới có thể là người giỏi. (trích ký lục Tư Mã Thiên)
(2) nguyên văn Cơ Phong, là thuật ngữ thiền lâm, còn gọi là thiền cơ, là lời nói mang ngụ ý sắc bén, thâm ảo.
(3) Mười cảnh đẹp của Tây Hồ (西湖十景-Tây Hồ thập cảnh), được hình thành vào thời Nam Tống, chủ yếu nằm rải rác xung quanh Tây Hồ, thường được mô tả như sau:
Tô đê xuân hiểu: Buổi sáng mùa xuân trên đê Tô (do Tô Đông Pha đắp)
Liễu lãng văn oanh: Chim oanh hót trong bụi liễu Hoa cảng quan ngư: Xem cá tại ao hoa
Khúc viện phong hà: Hương sen thổi nhẹ tại sân cong Nam Bình vãn chung: Chuông chiều ở núi Nam Bình Bình hồ thu nguyệt: Trăng mùa thu trên hồ yên bình
Lôi Phong tịch chiếu: Tháp Lôi Phong trong ánh sáng buổi chiều Tam đàm ấn nguyệt: Ba đầm nước phản chiếu ánh trăng
Đoạn kiều tàn tuyết: Tuyết còn sót lại trên cầu gãy
Song phong sáp vân: Hai ngọn núi đâm vào mây (theo wiki)
(4) theo truyền thuyết, Đạt Ma sư tổ diện bích (quay mặt vào tường) tham thiền nhập định chín năm rồi viết nên Dịch Cân Kinh và Tẩy Tủy Kinh làm nên nền tảng võ thuật Thiếu Lâm, thế nên có câu "cửu niên diện bích" là vậy. Dương Lăng mượn câu nói này.
Cơ ngơi này vốn là một kiến trúc lâm viên trang nhã và tinh mỹ, khắp nơi đều là giả sơn, hành lang uốn khúc, ao cá, hoa cỏ. Chuyến đi này Dương Lăng chỉ mang theo một thị tỳ là Cao Văn Tâm, còn lại toàn bộ đều là nha sai nội xưởng. Mạc Thanh Hà hào sảng mang nửa số nhân viên phục dịch trong phủ mình như nha hoàn, bà hầu, đầu bếp, vân vân đẩy sang hầu hạ y, có thể nói là dốc đủ vốn liếng với vị khâm sai đến từ kinh đô này.
Hai chiếc kiệu được khiêng về Mạc phủ, dừng lại dưới hành lang trước gian thứ nhất. Hành lang uốn khúc kiểu kiến trúc Giang Nam này được xây theo kiểu chật hẹp nên dưới hành lang hơi có vẻ âm u, trên tường thỉnh thoảng có vài cửa vào nhỏ hẹp xây thẳng lên đến nóc, sơn cùng màu với bức tường. Nếu không để ý nhìn có thể sẽ không biết bên cạnh còn có một cửa ra vào, đẩy cửa mở ra sẽ xuất hiện một thế giới khác ở bên trong.
Dương Lăng và Mạc Thanh Hà lần lượt ra khỏi kiệu, lúc này bên ngoài đang lất phất mưa phùn. Mưa thu rả rích thấm ướt những chiếc lá của cây cỏ dưới hành lang khiến chúng sáng óng ánh. Mặc dù ngắm nhìn và lắng nghe tiếng mưa rơi tí tách, thấu được ý nghĩa sâu xa của trời thu mát mẻ tự nhiên ta sinh ra một cảm giác cô quạnh, nhưng quang cảnh này lại không hề mang vẻ điêu linh của cái thu sắp sang đông.
Mạc Thanh Hà cười nói với Dương Lăng:
- Đại nhân! Mời ngài về nghỉ ngơi tạm cho khỏe, ngày mai ty chức sẽ báo cáo với đại nhân về tình hình thuế má vùng Giang Nam.
Lúc tiếp rượu, Dương Lăng đã bị đám quan viên thân sỹ chuốt cho mấy chén, nay y đã cảm thấy đầu óc quay cuồng, chỉ muốn leo lên giường uống chén trà xanh
rồi nghỉ ngơi. Huống chi lúc y lên bờ đã dặn người bắt liên lạc với đám người Liễu Bưu vốn đã được phái đến nơi đây trước, cho nên nghe vậy y vội vàng gật đầu.
Đúng vào lúc này, một tràng cười êm tai vọng đến. Bên hành lang đối diện, một cánh cửa hẹp cao đến nóc có cùng màu sơn với tường đột nhiên mở rộng, một người con gái mặc áo xanh đang xoè cây dù bằng giấy dầu khom người nhanh nhẹn lách mình bước ra. Theo sau nàng ta là hai cô gái mặc áo hồng cũng đang cất tiếng cười đùa cùng bước ra.
Dương Lăng liếc mắt nhìn, y thấy đằng sau cửa hông đó lại là một hoa viên.
Chỉ liếc nhìn qua khe cửa mà đã cảm thấy phong cảnh thật hữu tình, tinh tế và xinh đẹp tuyệt luân, tựa như cõi bồng lai.
Y lại nhìn ba người con gái nọ. Cả ba đềunđẹp đến nín thở khiến y ngẩn ngơ. Màu áo đỏ bắt mắt hơn, nhưng chỉ liếc một cái, ánh mắt của mọi người đều sẽ chỉ dừng trên thân mình của người con gái mặc áo xanh. Người con gái đó thực khiến người ta phải choáng ngợp.
Tường trắng cao cao, đường lát đá xanh màu đen nhạt, dây bìm bìm mọc dài dọc trên kẽ hở hành lang như thể đã im lìm tồn tại từ rất lâu về trước. Người con gái áo xanh hài đỏ một tay cầm cây dù giấy dầu màu vàng, một tay vén váy, mỉm cười duyên dáng từ trong vẻ cổ kính ấy lướt nhẹ ra.
Vẻ mỹ lệ, ống tay áo, con hẽm nhỏ. Độ sâu sắc ấy, sự tĩnh lặng của khung cảnh ấy cô đọng và súc tích tựa Đường thi, thanh nhã và thâm thúy như Tống từ. Có nàng nhẹ nhàng lướt qua, phong cảnh cổ kính dường như cũng hoà vào sự khẽ khàng, kiều diễm, mềm mại và ngọt ngào của nàng, bất giác trở nên ấm áp say lòng người.
Trông thấy kiệu quan, người con gái vui mừng kêu lên:
- Lão gia đã về rồi à?
Nàng thong dong đưa mắt nhìn sang. Trông thấy Dương Lăng, thoạt tiên nàng hơi ngẩn người, sau đó nàng vẫn vén váy, cầm dù đi giữa sắc xanh của những bồn cảnh chậu kiểng bước đến gần.
Giọt nước trên ngọn cỏ xanh lăn xuống theo bước chân êm ái của đôi hài đỏ.
Trong khoảnh khắc ấy, Dương Lăng có ảo giác dường như nàng là một người ngọc bằng nước mặc y phục cũng bằng nước, đang bước trên dòng nước trong vắt.
Người con gái đi thẳng tới, đôi mắt sáng ngời như sóng nước thoáng hiếu kỳ liếc nhìn vẻ tự nhiên phóng khoáng của Dương Lăng, sau đó nhún người mỉm cười duyên dáng chào Mạc Thanh Hà:
- Lão gia!
Giọng của nàng trong như tiếng suối vỗ đá, êm ái, giòn tan. Khi nàng khẽ cười, dung nhan mỹ lệ chói ngời tựa ánh mặt trời, khiến cho hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Không ngờ thế gian lại có người như vậy! Dương Lăng không khỏi kinh ngạc tán thán tự đáy lòng.
Xét về sắc đẹp, Liên Nhi và Ngọc Nhi tuyệt không thua kém người con gái này, thậm chí còn hơn một bậc, nhưng vẻ phong tình của hai cô đem so với nàng, quả chỉ như những con nhóc ranh chưa đủ lớn. Khí chất thùy mị thành thục ấy của nàng do được hun đúc qua năm tháng, giống như ruợu ngon tinh chất, tuyệt không phải là sắc đẹp vốn có hay được huấn luyện mà có thể hình thành.
Người con gái Giang Nam dáng người cao thon, dung nhan thuần khiết như nước này, tuổi tác xem ra khoảng chừng hai bảy, nhưng sinh cơ và sức sống ấy lại khiến nàng trẻ đi ít nhất mười tuổi. Ngũ quan xinh xắn, cử chỉ dịu dàng của nàng khiến cho người ta không khỏi nghĩ tới vẻ đẹp của thiếu nữ giặt lụa, sóng xanh nước biếc, em bé hái sen(5).
Lúc đối diện với Dương Lăng, Mạc Thanh Hà luôn khoác lên vẻ mặt siểm nịnh và khôn khéo, nhưng khi nhìn thấy người con gái này, trong mắt hắn lại tràn trề sự dịu dàng và hạnh phúc. Hắn âu yếm:
- Trời đang mưa mà nàng nghịch ngợm trong vườn như con nít vậy. Mau ra mắt khâm sai Dương đại nhân đi!
Người con gái mỉm cười, đôi mắt tràn đầy sức sống lướt nhanh trên khuôn mặt anh tuấn của Dương Lăng một vòng, nhỏ nhẹ chào:
- Tiện thiếp bái kiến đại nhân!
Dương Lăng vội chắp tay, đưa mắt nhìn sang Mạc Thanh Hà, không biết nên xưng hô thế nào. Mạc công công cười lớn giới thiệu:
- Đây là tiện nội. Ngày thường ty chức quá cưng chiều nàng nên cô ta không biết nề nếp gì cả, lại khiến đại nhân chê cười rồi!
Dương Lăng nghe thế suýt nữa thì cắn lưỡi. Thái giám cũng có thể lấy vợ sao?
Hơn nữa còn công khai táo bạo như vậy nữa? Đây là thế giới gì vậy trời?
Y lại nhìn vị mỹ nữ áo xanh tươi cười xinh đẹp, rồi nghĩ đến ông chồng thái giám của nàng ta, trong nháy mắt tất cả mọi linh phụ kiện trong đầu đều tan vỡ. Y cố gượng cười chào hỏi:
- Thì ra là Mạc phu nhân, thất kính thất kính. Ờm... bản quan đã hơn mệt rồi, bây giờ... bây giờ sẽ về phòng nghỉ ngơi.
Dương Lăng vội vã hàn huyên mấy câu, rồi lơ mơ đi theo gia đinh băng qua một cửa hông khác. Sau lưng vọng lại tiếng Mạc công công không thể chờ được nữa bắt đầu "dạy dỗ" vợ:
- Tiểu Lâu! Trời mưa mà nàng còn chạy nghịch trong sân, chẳng nết na gì cả, khiến khâm sai đại nhân chê cười kìa.
Tiếp sau đó là một tràng cười hờn mát rung động đến tâm can:
- Lão gia! Người ta có một mình buồn quá hà. Người tốt ơi, chàng về thì hay rồi, mau cùng người ta về phòng trò chuyện nào.
Dương Lăng tưởng tượng cảnh cánh tay ngọc ngà của nàng ta nhẹ nhàng thong thả quấn quanh cổ Mạc Thanh Hà, làm ra vẻ nũng nịu quyến rũ. Khi nãy còn thánh khiết như một dòng suối mát, thoắt cái đã có thể hoá thân thành một bát canh mê
hồn*, khiến y càng cảm thấy khó hiểu: "Mạc Thanh Hà thực ra dáng vẻ đường đường, nhưng hắn... suy cho cùng là một thái giám mà. Thái giám cưới vợ, hai vợ chồng còn rất đằm thắm nữa, chuyện này là sao vậy nhỉ. Lẽ nào chuyện này không trái với chế độ sao? Ừm... quay về hỏi thử Văn Tâm cái đã." (*: thuốc lú)
Trong tiền viện, Mạc Thanh Hà dắt tay ái thê về phòng, đóng cửa lại. Nàng lập tức châm trà, hay tay bê đến trước mặt hắn, yêu kiều nói:
- Lão gia, mời dùng trà. Y chính là người lão gia nói do trong kinh phái đến điều tra đó sao? Hi hi, thật là một vị khâm sai trẻ tuổi.
Mạc công công đón lấy chén trà, thuận tay kéo bàn tay ngọc của nàng. Người con gái liền kêu lên một tiếng yêu kiều, nhẹ nhàng sà xuống ngồi lên đùi hắn, hai tay choàng qua cổ hắn.
Khuôn mặt xinh xắn của nàng khẽ ửng hồng, hơi thở cũng trở nên gấp gáp, nàng thỏ thẻ với Mạc công công:
- Đáng ghét! Lão gia mới vừa trở về lại muốn... lại muốn làm chuyện xấu gì đó?
Sắc mặt trầm tĩnh, trong mắt không hề chứa chút dục vọng, Mạc công công khoan thai nói:
- Tiểu Lâu! Người này niên kỷ tuy nhỏ, nhưng ta không thể xem thường. Trong triều đình, nội triều thì có mấy vị công công Vương Nhạc, Phạm Đình và Miêu Quỳ, ngoại triều có mấy vị đại học sỹ Lưu Kiện, Tạ Thiên và Lý Đông Dương, vậy mà chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi y đã có thể táo bạo nổi lên, đồng vai đồng vế với bọn họ. Người này có thể đơn giản sao?
Vị mỹ nữ tên gọi Tiểu Lâu dựa sát vào tay y hớp một ngụm trà, đoạn áp môi mình vào môi hắn dùng miệng làm chén mớm trà, sau đó vui vẻ cười nói:
- Nô gia chỉ tán thưởng dũng khí kháng chỉ cứu thê của y, chỉ tiếc cuối cùng y còn nạp thêm hai người thiếp đẹp về nhà. Nô gia nghe nói bên tây khoá viện còn có một vị cô nương xinh đẹp vào ở. Hừ! Y chỉ là một tên ngụy quân tử mua danh cầu
tiếng!
Mạc công công cười nhạt, véo mạnh mông nàng một cái, nói:
- Nếu y thật sự là dạng người đó, vậy lại dễ xử. Phu nhân xinh đẹp của ta ra tay, còn không khiến y thần hồn điên đảo, xương cốt rã rời, mũ giáp tả tơi, ngoan ngoãn cúp đuôi về phủ ư!
Tiểu Lâu cố ý kêu lên một tiếng ngọt ngào, cắn chiếc môi đầy đặn hấp dẫn, bộ ngực cao vút phập phồng:
- Lão gia... chàng lại muốn người ta tiếp... tiếp...
Mạc công công nắm chặt cổ tay trắng ngần của nàng, thở dài:
- Tiểu Lâu! Nàng biết ta... ta không thể cho nàng... Ôi! Chỉ cần con tim nàng ở bên ta, những chuyện vui người vui mình, ta sẽ không ngăn cản nàng.
Miệng nói như vậy, song sâu thẳm trong đôi mắt hắn lại chợt lóe lên một sự đau thương sâu sắc.
Tiểu Lâu ôm lấy người hắn, nói:
- Lão gia! Đều do Tiểu Lâu nói sai rồi. Trong lòng Tiểu Lâu chỉ có một mình lão gia, mãi mãi vẫn vậy. Bất luận lão gia muốn Tiểu Lâu làm gì, chỉ cần có lợi cho lão gia, Tiểu Lâu... Tiểu Lâu đều vui lòng!
Mạc công công che dấu nỗi thống khổ, khoác lên bộ mặt vui vẻ rồi véo một cái lên bộ ngực mềm mại nẩy nở mê người của nàng, cười nói:
- Đương nhiên là nàng chịu rồi, tiểu tử đó vừa trẻ tuổi lại anh tuấn. Cái tuổi như sói này của nàng lại gặp con sói trẻ khôi ngô xuất chúng như vậy, còn không sướng như tiên ư?
Vẻ mặt của hắn rõ ràng là hết mực sủng ái người con gái áo xanh này, tình yêu đó tuyệt đối xuất phát từ chân tâm, tuyệt không giả tạo. Nhưng khi nói về việc nàng
ta đi tiếp nam nhân khác, vẻ mặt hắn lại vẫn hết sức thản nhiên, thể như đã hoàn toàn chia tách tình yêu và dục vọng thành hai bộ phận bất đồng.
Tình cảm của người con gái tên là Tiểu Lâu ấy đối với hắn cũng như vậy; nghe hắn bàn chuyện để mình, là người vợ của hắn, đi quyến rũ người ngoài giao hoan như thế nào mà cứ như là giao tiếp uống rượu làm thơ bình thường, hoàn toàn không hề e ngại. Cặp vợ chồng có tình cảm kỳ lạ này thực sự khiến người ta không thể hiểu được.
Hai người trêu đùa một hồi, Tiểu Lâu lo lắng nhíu mày hỏi:
- Nhưng mà... lão gia khẳng định vị khâm sai này ít kinh nghiệm, không lo y đang giả heo ăn thịt hổ sao? Nghe nói ở trong kinh y phạm vào đại tội khi quân, nhưng sau cùng chẳng những bình yên vô sự mà còn hạ bệ được ba vị thượng thư nữa. Như thế, làm sao y là người không có chút thủ đoạn cho được?
Giờ y mới lên làm xưởng đốc, tiếp quản thuế giám các nơi khắp cả nước. Lần này y đến Giang Nam, không biết chừng chính là để giết người lập oai. Lão gia vẫn nên cẩn thận là hơn.
Mạc Thanh Hà mỉm cười ấm áp, đáp:
- Đó là lẽ đương nhiên. Giết người tuy có thể lập oai, nhưng trấn thủ sứ các thành các trấn trên thiên hạ ai ai đã không từng giết mấy mạng người? Ta thấy y vừa nhậm chức liền tìm đến chúng ta, ba đại trấn thủ sứ Nam Trực Lệ giao nộp nhiều thuế khóa nhất nước, sẽ không phải là vì chúng ta chậm giao thuế má, mà là muốn giở chút thủ đoạn vừa đấm vừa xoa. Chỉ cần ba người chúng ta bị y hàng phục, ty thuế giám ở khắp nơi trong nước sẽ tự xuôi theo chiều gió.
Tiểu Lâu lấy làm lạ hỏi:
- Nếu Hoàng Thượng đã hạ chỉ giao ty Thuế Giám cho y, sao lão gia không nương nhờ y sớm một chút, còn muốn đọ sức cùng y một phen là vì cái gì thế?
Mạc Thanh Hà cười ha hả đáp:
- Người đẹp ngoan của ta ơi! Đi nương nhờ người sớm thì đương nhiên có thể được trọng dụng, nhưng y có phải là người chủ có thể nương nhờ hay không? Nếu như nương nhờ nhầm người thì... Nàng thử nghĩ khi ty Thuế Giám trở về lại tay ty Lễ Giám, mấy vị công công trong kinh đó ăn chay sao? Cứ xem thử trước đi đã.
Tuy thấy chúng ta ở địa phương muốn gió có gió, cầu mưa được mưa, quan lớn địa phương đều chỉ có thể lấm lét mà nhìn, nhưng trong mắt của đám quan lớn trong kinh này, chúng ta không phải chỉ là một con kiến có thể bị bóp chết bất cứ khi nào ư? Không thể không cẩn thận đâu...
Hắn thở dài một hơi, rồi phấn chấn tinh thần lại, ôm chặt lấy bờ eo thon của mỹ nhân trong lòng, cười nói:
- Mưa xuân nghe vẳng đêm lầu nhỏ, hoa hạnh rao dần sớm ngõ xa (6). Có nhân vật phong lưu đệ nhất Giang Nam như nàng đây, cho dù vị Dương xưởng đốc này thật sự là kẻ lợi hại, lão gia ta còn sợ y không chịu thu nhận ta hay sao? Ha ha ha, chỉ dựa vào đôi mắt làm say lòng người, thân thể quyến rũ này đây của nàng, trong thiên hạ có nam nhân nào mà không yêu thương say đắm nàng kia chứ?
Cùng với sự chòng ghẹo của hắn, trong căn phòng cất lên tiếng thở yêu kiều nhè nhẹ. Trong chốc lát, những tiếng rên khe khẽ lay động con tim từ trong phòng vọng ra, khiến cả cơn mưa thu giăng đầy trời cũng mờ mịt mang theo ý xuân.
Mãi đến lúc lên đèn, Mạc công công mới mở cửa phòng, quay đầu lại cười nói:
- Ta còn hẹn người khác gặp mặt. Bảo bối của lòng ta, nàng hãy mau thức dậy rồi tắm rửa thay đồ đi, giường bị nàng làm ướt hết rồi.
Một chiếc hài thêu hoa ném tới một cách yếu ớt, đập bộp lên cửa, đi kèm với tiếng rên rỉ liên tục khiến lòng người run rẩy là một giọng nói vô cùng quyến rũ cất lên:
- Quỷ tha chết chàng đi, bỏ rơi người ta dở lỡ, thật là khó chịu. Người ta vẫn còn muốn mà, hãy đổi cái giác tiên sinh* đi..." (*: dương cụ giả)
Mạc công công cười lớn rồi đáp:
- Cô nàng lẳng lơ ơi, một cục sắt cũng có thể bị nàng làm chảy không còn một mẩu đó.
Hắn vừa nói vừa đóng cửa phòng lại. Cửa phòng vừa đóng, nụ cười trên khuôn mặt hắn cũng như bị đóng lại, lập tức biến mất. Hắn đứng lặng im một hồi, nghe thấy trong phòng không có tiếng động gì, lúc này mới hài lòng mỉm cười, lặng lẽ xuống lầu, vòng trái rẽ phải, đi một hồi lâu mới vòng vào một phật đường.
Phòng ốc ở Giang Nam, cho dù là gia đình giàu có, cũng thường xây nhiều nhà nhiều cửa. Toàn bộ phòng sảnh,đình, lầu, bệ, gác nối với nhau bởi những dãy hành lang uốn khúc quanh co, khúc khủy. Nếu không quen nhà quen cửa, đi loanh quanh một hồi lâu chắc chắn sẽ bị lạc đường, thậm chí đến cửa ra vào cũng tìm không được.
Trong phật đường, trên hương án đốt hai cây đèn cầy, trên bồ đoàn có một người mặc đồ đen ngồi xếp bằng, hai tay đặt trên gối như đang nhập định.
Mạc công công vừa vào cửa, người áo đen lập tức búng người dậy, thân thủ cực kỳ linh hoạt. Mạc công công đóng cửa lại, mừng rỡ nói:
- Ngươi đến thật đúng lúc.
Âm điệu Giang Nam của người đó có vẻ hơi cứng, gã đáp cộc lốc:
- Nhận được lệnh Mạc gia triệu đến, ta lập tức khởi hành, một khắc cũng không trễ. Không biết Mạc gia muốn ta chạy đến ngay tức khắc là có gì dặn bảo?
Mạc công công ngoắc tay kêu người đó đến gần, to nhỏ thì thầm một hồi.
Người đó nghe xong do dự nói:
- Y là khâm sai, làm như vậy có sẽ làm sự việc ầm ĩ lên không? Chỉ sợ đối với ngài và ta đều bất lợi.
Mạc Thanh Hà cười gian trá đáp:
- Ta chỉ muốn ngươi đề phòng chuyện chằng may. Nếu như Dương Lăng quả
thật có chút thủ đoạn, đáng để ta theo, vậy ta tận tâm hiến sức cho y cũng không sao. Có điều ý đồ đến của y thực sự khó dò. Đây chỉ là đề phòng ngộ nhỡ, nếu y có lòng muốn bắt giết ta, vậy thì... Ngươi cũng nên biết, nếu như không có ta ở đây bảo vệ, chiếu cố, các ngươi khó mà sinh sống qua ngày. Cả vùng duyên hải còn có thể để cho các ngươi kiếm sống sao?
Người mặc đồ đen nọ chần chừ một lát, rồi nói:
- Được! Trong khoảng thời gian này chúng ta sẽ bày trận chờ địch. Nếu như Mạc gia cần đến, chỉ cần ngài ra lệnh một tiếng, bọn ta sẽ lập tức đem quân giết tới.
Mạc Thanh Hà nghe vậy cười lớn:
- Rất tốt! Các ngươi là nước cờ cuối cùng của ta. Nếu như Dương Lăng thức thời, vậy thì tốt cho ngươi, cho ta và cho mọi người. Nếu như y khinh người thái quá, các ngươi cứ việc mạnh dạn mà làm, cục diện hỗn loạn sau đó đương nhiên sẽ do ta thu dọn!
****************
Dương Lăng loạng choạng bước vào phòng ngủ, ngã vật xuống giường ợ một tiếng rồi nói với những gia bộc đưa y về:
- Được rồi, ta muốn nghỉ ngơi một lúc, các ngươi lui ra đi.
Hai gia nhân vâng vâng dạ dạ rồi lui ra, nhẹ nhàng đóng cửa phòng lại. Dương Lăng cảm thấy chăn đệm mềm mại lại thêm mùi thơm nhàn nhạt, khiến cho người nằm bên trên chỉ muốn say sưa.
Y khoan khoái rên lên một tiếng, áp gò má nóng hổi lên chiếc chăn bông mịn màng trơn truột. Rời khỏi cái giường cứng ngắc trên thuyền mà y vừa nằm ngủ, vốn y đã hơi choáng váng rồi, huống hồ y lại uống thêm mấy ly rượu nên giờ thật sự y chỉ muốn cứ vậy mà nằm ngủ.
Dương Lăng vừa muốn chợp mắt, chợt cánh cửa két một tiếng, mở ra. Dương Lăng hé mắt nhìn thấy Cao Văn Tâm bưng một cái khay bước vào, thế là y rên một
tiếng, nhăn nhó khổ sở.
Cao Văn Tâm nhẹ nhàng đặt khay lên bàn, trở lại đóng chặt cửa, sau đó quay lại cúi xuống nhìn y. Người Dương Lăng đầy mùi rượu, Cao Văn Tâm không khỏi nhíu đôi mày thanh tú, dường như không quen với mùi rượu lắm. Nàng khẽ gọi:
- Lão gia, lão gia, dậy uống thuốc đi! Dương Lăng rên một tiếng, nói:
- Văn Tâm tốt bụng ơi, tha cho tôi đi! Tôi váng đầu lắm, cô để tôi ngủ một lát, ngày mai hãy uống nhé, để mai hãy uống.
Dương Lăng trước nay chưa từng gọi thẳng tên nàng, Cao Văn Tâm nghe mà khuôn mặt xinh xắn đỏ bừng, lòng ngọt ngào như được rót mật. Dương Lăng xuống nước cầu xin khiến nàng nghe mà lập tức mềm lòng, hận không thể đáp ứng mọi chuyện với y được.
Nhưng mà liều thuốc này cũng là bài thuốc mà nàng khổ công tham khảo cổ tịch phối chế ra, nếu như tùy ý ngừng sử dụng, nàng cũng không biết có ảnh hưởng đến hiệu quả trị liệu hay không, nên đành phải cứng lòng, nghiêm mặt lại nói:
- Không được! Phu nhân đã căn dặn kỹ càng, tiểu tỳ phải hầu lão gia dùng thuốc, một ngày cũng không thể bỏ lỡ. Lão gia... người... người mau dậy đi mà.
Cao Văn Tâm nhỏ nhẹ dỗ dành khiến Dương Lăng nghe vậy, hết cách đành định bò dậy. Nhưng vừa rồi y nằm xuống đã thả lỏng toàn thân, nay thật sự là không muốn cựa quậy chút nào. Cao Văn Tâm thấy bộ dạng lười nhác của y, thở dài một tiếng, không biết làm sao đành ngồi bên giường nâng một chân của y lên, bắt đầu cởi giày cho y.
Trước giờ Dương Lăng không hề sai bảo Cao Văn Tâm như nô tỳ thật sự, nay thấy nàng làm như vậy liền vội giãy giụa ngồi dậy nói:
- Cứ để tôi tự làm cho, làm vầy coi sao được?
Cao Văn Tâm lườm duyên y, đáp:
- Cái gì mà được với không được. Lão gia nằm đi! Nhìn cái dáng vẻ của lão gia là đủ biết rồi, lão gia chịu uống thuốc sao?
Cao Văn Tâm cởi hai chiếc giày của y ra, lại tháo giây buộc vớ, giúp y cởi vớ, rồi nâng y ngồi dậy. Dương Lăng ngượng ngùng ngồi yên, Cao Văn Tâm quay về rót một chén nước mát, rồi đem mấy viên thuốc qua. Dương Lăng cầm thuốc nuốt ực, ghé qua tay nàng uống mấy ngụm nước, sau đó cởi áo ngoài rồi ngoan ngoãn leo lên giường nằm sấp.
Cao Văn Tâm bĩu môi mỉm cười hài lòng. Nàng đặt chén xuống, cầm châm lên, Dương Lăng đã tự giác kéo chiếc áo lên cao, để lộ phần dưới hông. Cao Văn Tâm ngồi bên mép giường, vừa vo ngân châm vừa nói khẽ:
- Lão gia! Lúc người đi dự tiệc, có một vị tự xưng là Hải Ninh Diêm Vận phó sứ Mẫn đại nhân đến hành dinh khâm sai này tìm, nói là bạn cũ của người. Vì lão gia không có ở đây, tiểu tỳ đã mời ông ta ngày mai quay lại rồi.
- Mẫn đại nhân? Ồ! Là Mẫn huyện lệnh!
Dương Lăng mửng rỡ, không kiềm lòng được bèn thẳng lưng lên. Cây châm trong tay Cao Văn Tâm thoáng cong lên, cũng không biết đâm trúng y chỗ nào tức thì bắn ra vài giọt máu. Cao Văn Tâm hoảng sợ, cầm cây ngân châm nhỏ máu, luống cuống chỉ biết kêu lên:
- Đâm vào chỗ nào rồi? Đâm vào chỗ nào rồi? Sao lão gia lại cử động lung tung vậy. Giờ biết làm sao đây? Giờ biết làm sao mới được đây?
Dương Lăng lại không cảm thấy đau mấy. Cảm thấy sau lưng lành lạnh, ythuận tay vuốt nhẹ, thấy máu dính đỏ cả tay, lúc này y mới giật mình. Nhưng khi thấy miệng Cao Văn Tâm dẹt ra, vẻ như sắp khóc đến nơi, Dương Lăng vội cười an ủi:
- E hèm! Xem cô kìa, chắc là không cẩn thận nên đâm trúng mạch máu rồi.
Châm mỏng thế này, không có gì đáng lo đâu. Tôi đè mạnh một hồi sẽ lập tức ổn
thôi.
Cao Văn Tâm hoảng hốt vất châm, cuống quýt lấy tay đè lên vết thương của y, vừa sợ hãi vừa lo lắng:
- Xem lão gia đó! Đang châm cứu mà sao lại cựa quậy chứ, ngộ nhỡ có mệnh hệ gì thì biết làm sao?
Dương Lăng cười nói:
- Vị Mẫn đại nhân đó là cố nhân của tôi lúc còn ở huyện Kê Minh, có ơn đề bạt tôi. Tôi nghe ông ta đến, trong lòng vui mừng quá cho nên có phần sơ ý đó mà. Ha ha, cô đừng sợ, không có gì đáng ngại đâu.
Y nói rồi mới nhớ rằng huyện lệnh Mẫn Văn Kiến của Kê Minh giờ làm quan ở Hải Ninh, có lẽ cách Hàng Châu cũng không xa. Lúc này nhớ đến lão ta, y không khỏi lại nhớ đến Tất Đô ty, Mã Ngang, còn Mã Liên Nhi nữa, không phải bọn họ đều ở gần đây sao?
Có nên đi thăm Mã Liên Nhi không nhỉ? Lòng Dương Lăng xao động, rồi y lập tức lại cứng rắn dằn lòng: "Thôi thì đừng đi vậy! Một con ma đoản mệnh như mình đã phụ ba vị cô nương tốt rồi. Nếu còn quyến luyến không quên người khác nữa thì cũng hơi quá vô sỉ đó!"
Dương Lăng đang trầm tư, Cao Văn Tâm đã cất giọng u uẩn trách móc:
- Gì mà không đáng ngại chứ! Về sau khi tiểu tỳ dùng châm, không cho phép lão gia cựa quậy nữa. Huyệt đạo dưới hông này là chỗ bình thường sao? Nếu đâm trật vào chỗ... chỗ đó...
Dở câu, vị cô nương như nàng không tiện nói tiếp nên đành chỉ nói đến đó rồi nuốt phần còn lại vào.
Dương Lăng cười ruồi vài tiếng, cũng không đáp lời, trong phòng nhất thời yên tĩnh trở lại. Sau một hồi, Cao Văn Tâm nhẹ nhàng dời tay, thấy không còn chảy máu nữa mới thở phào, đổi lấy cây ngân châm mới, rồi bắt đầu nhẹ nhàng se se trên
huyệt đạo của y.
Dương Lăng nằm sấp tại chỗ, do dự một hồi chợt nhớ đã sớm phái Liễu Bưu dẫn người đến Tô Hàng nghe ngóng nội tình của ba vị thái giám trấn thủ, đến giờ vẫn chưa thấy gã xuất hiện, không nhịn được bèn hỏi:
- Đúng rồi! Hôm nay Liễu Bưu có đến không? Tôi phái y nghe ngóng sự tình mà không biết như thế nào rồi?
Cao Văn Tâm mắng yêu:
- Lão gia à! Đi đường thủy nửa tháng trời mà thân thể người không biết mệt sao? Bây giờ nghỉ ngơi trước đi đã, điều tra xử án không phải là chuyện một ngày nửa buổi đâu. Liễu Bưu đến thì đã đến rồi, đang lẫn vào trong đám thân vệ của người. Tiểu tỳ báo hôm nay lão gia tiếp rượu xã giao nhất định sẽ mệt mỏi, bảo y mai hãy bẩm báo tin tức với lão gia rồi.
Hôm nay trên buổi tiệc rượu Dương Lăng đã gặp ba vị thái giám trấn thủ và quan viên địa phương, ai nấy đều giống như kẻ khẩu phật tâm xà, khoe khoang việc cai quản ở Tô Hàng cũng giống như phong cảnh của nó, tất cả đều trở thành thiên đường của nhân gian. Trong cả bữa tiệc ngoại trừ uống rượu ăn thịt, ghi nhớ tướng mạo và danh tính của mấy viên danh quan đó ra, y chẳng thu hoạch được chút tư liệu có ích gì, một chút manh mối để xử án cũng không có nên y đang sốt ruột trong lòng.
Lúc này nghe thấy Liễu Bưu đã đến, y không khỏi hưng phấn, chợt thoáng nhổm người dậy, sốt sắng la lên:
- Như vậy sao được? Cô mau gọi y đến gặp ta!
Lưng y vừa nhổm lên, kim châm trong tay Cao Văn Tâm lại cong lên, may mà lần đâm này không hề chảy máu.
Vừa gấp vừa giận, Cao Văn Tâm quên luôn cả tôn ty trật tự, tính khí nữ thần y và đại tiểu thư quen được người ta nuông chiều thuở xưa lập tức phát tác. Nàng
xếch ngược đôi mày liễu, vung tay ngọc vỗ mạnh một cái "chát" lên mông Dương Lăng, miệng quát khẽ:
- Lại cử động lung tung rồi! Lão gia nằm yên cho tôi coi!
---
Chú thích:
(5) đây đều là hình ảnh đẹp trong những bức tranh sơn thuỷ: cảnh hoa nở trên đá, suối ngọc nước chảy, ông già câu cá, thiếu nữ giặt lụa và em bé hái sen.
(6) "tiểu lâu nhất dạ thính xuân vũ, thâm hạng minh triêu mại hạnh hoa". Đây là hai câu thơ trong bài "Lâm an xuân vũ sơ tễ" của Lục Du tự Vụ Quan hiệu Lục Phóng Ông (1125-1210), được xem là nhà thơ vĩ đại nhất Nam Tống. (Xin xem )
Lưu ý Tiểu Lâu chính là tên vợ Mạc công công.
Thấy y cứ cựa quậy mãi, Cao Văn Tâm không khỏi vừa giận vừa cáu, nhất thời lỡ tay vỗ mạnh, một tiếng "chát" giòn giã vang lên khiến chính nàng cũng sững sờ. Dương Lăng há hốc mồm, quay đầu ngạc nhiên nhìn nàng, một lúc lâu Cao Văn Tâm mới sực tỉnh. Nàng vội vàng quỳ xuống đất thưa:
- Tiểu tỳ vô lễ, xin lão gia trách phạt!
Đừng nói nàng chỉ là thị tỳ của Dương Lăng, cho dù là thê thiếp của y, bất kể là thân mật với trượng phu như thế nào cũng không được phép đánh vào mông của y, đó là hành vi cực kỳ vô lễ. Khi còn giúp người chẩn bệnh, Cao Văn Tâm từng nghe kể có vị cử nhân lớn tuổi đuổi vợ với tội danh là phẩm hạnh kém. Thực ra là vì trong lúc vui vẻ với trượng phu, người vợ hơi thất thố, bị cử nhân lão gia cho là bất kính nên đuổi đi, hại nàng ta xấu hổ nhục nhã mà tự vận.
Dương Lăng lại không có loại giác ngộ mà đại nam nhân nên có này, y chỉ bị hành động đột ngột của nàng làm cho ngây người ra thôi. Lúc này trông thấy nàng sợ đến độ môi trắng bệch, bản thân y lại cảm thấy áy náy, thế là y đành cười lớn rồi bảo:
- Là do tôi không phải, đột nhiên nhổm người nên cô trở tay không kịp. Ờm, lần sau khi xoa bóp, cô nhẹ tay một chút là được rồi.
Cao Văn Tâm thấy y hoàn toàn không hề nổi giận, còn vì mình mà bào chữa thành "xoa bóp" mới yên tâm. Nàng bẽn lẽn đứng dậy tiếp tục châm cứu cho y. Đến khi kéo quần lót y xuống để châm cứu, nhìn thấy mông y bị vỗ đỏ ửng cả một vùng, Cao Văn Tâm không khỏi lén le lưỡi. Không biết là cố ý hay vô tình mà mu bàn tay nàng xoa nhẹ vài vòng lên "vết thương". Bàn tay ngọc ngà trơn nhẵn chạm vào thực là cực kỳ dễ chịu khiến Dương Lăng lâng lâng đắc ý.
Châm cứu xong, Dương Lăng lập tức chỉnh đốn lại y phục rồi bảo:
- Nha hoàn và nô bộc trong phủ hiện nay đều là người của Mạc công công, không thích hợp để tôi xử lý công vụ thường ngày cho lắm. Có cô ở bên cạnh tôi là đủ rồi, không cần người khác hầu hạ nữa. Ngôi nhà này nhất định phải hoàn toàn nằm dưới sự khống chế của người chúng ta. Cô bảo Trịnh bách hộ mang đám nha sai tiếp quản tòa nhà, đưa toàn bộ người của Mạc phủ rời khỏi đây, sau đó kêu Liễu Bưu đến gặp tôi.
Cao Văn Tâm thấy sắc mặt y nghiêm nghị, đích xác y có việc công cần làm nên không dám ngăn trở thêm, bèn vội đáp lời. Nàng ra ngoài được khoảng uống cạn một tuần trà thì đám nha sai bắt đầu đứng gác rải rác khắp nơi trong dãy nhà, đuổi tất cả nha hoàn, nô bộc của Mạc công công ra khỏi căn dinh thự độc lập này, cả trong lẫn ngoài bố trí đầy thị vệ của Nội xưởng. Sau đó, cửa phòng mở ra, một người ăn mặc như nha sai bình thường chợt lặng lẽ đi vào.
Dương Lăng ngồi bên bàn, mới vừa rót đầy hai chén trà. Sau khi bị "đày đọa" một phen, men rượu của y đã vơi đi mấy phần, ánh mắt cũng đã tỉnh táo lại. Trông thấy Liễu Bưu bước vào, y khoát tay bảo:
- Không cần khách sáo, đến đây! Ngồi xuống rồi hãy nói! Liễu Bưu chắp tay thưa:
- Dạ! Ty chức ra mắt xưởng đốc đại nhân.
Rồi bước nhẹ nhàng đến ngồi đối diện với Dương Lăng. Gần nửa tháng xa cách bỗng nhiên gặp lại Dương Lăng, nét mặt của hắn hơi lộ vẻ vui mừng.
Dương Lăng đẩy một chén trà qua, bảo:
- Những ngày qua vất vả cho Liễu thiên hộ quá! Huynh nghe ngóng được thế nào rồi?
Liễu Bưu thưa:
- Đại nhân! Ty chức vừa xuống tới Giang Nam liền lập tức tung mạng lưới thám thính, cho người giả làm người bán dạo và du khách dò thám tin tức xung quanh. Ba vị thái giám trấn thủ nắm giữ thuế má Giang Nam đã nhiều năm, tuy đâu đâu cũng có thế lực, nhưng cũng bởi vậy bọn họ không thể nào che giấu được những hành vi, công việc của mình.
Hắn nói đến đây, hiển nhiên hết sức tự hào với thành tích của bản thân cho nên vẻ mặt có phần tự kiêu. Hắn cầm chén trà lên nhấp một ngụm thấm họng rồi lôi trong ngực ra một quyển sổ nhỏ, nâng hai tay trao cho Dương Lăng:
- Đại nhân! Những gì ty chức điều tra được đều ghi ở trong này.
Trước tiên ty chức sẽ nói qua về viên trấn thủ thuế quan kiêm giám quân Long Sơn vệ sở Viên Hùng. Nhiệm vụ của Viên Hùng là lập trạm thu thuế trên những con đường vận chuyển thủy bộ giữa những quan ải và thành trấn trọng yếu. Ví dụ như trên tuyến vận chuyển đường sông, cách mỗi bốn mươi dặm lại cắt cử thuế sứ (nhân viên thu thuế - ND) ngăn sông chặn thuế, một chiếc thuyền đi ba bốn trăm dặm ít nhất phải bị chặn thu thuế năm sáu lần. Nhiều cửa tiệm tơ lụa, tạp hoá địa phương có quy mô nhỏ không kham nổi gánh nặng thuế khóa đã phải đóng cửa.
Dương Lăng nghe xong nhíu mày: "Thuế khoá quá nặng, nhìn ngắn hạn thì số thu có phần dồi dào, nhưng đây chỉ là cái lợi trước mắt, thực tế lại chèn ép sự phát triển của công thương nghiệp, về lâu dài sẽ rất có hại cho dân chúng và quốc gia. Viên Hùng cứ cách bốn mươi dặm lại lập một trạm thu thuế, rõ ràng đã vượt quá quy định của triều đình.
Có điều những phương sách này nhất định cũng đã được sự đồng ý của ty Lễ Giám, ta không thể dùng sai sót này để trừng trị hắn. Huống hồ chính là nhờ những món thuế khoá hà khắc phạm pháp và hợp pháp này cho nên mô hình vận chuyển của Nội xưởng mới được lan rộng, Nội xưởng mới phát triển nhanh chóng như vậy. Muốn hoàn thành mục tiêu cao xa hơn của mình, đành phải có những hy sinh tạm thời như thế này vậy!"
Y trầm ngâm hồi lâu, âm thầm tính toán một hồi rồi nói:
- Ừ, bản đốc đã ghi nhớ chuyện này. Hắn còn hành vi phạm pháp nào khác có thể buộc tội không?
Liêu Bưu mỉm cười, dường như sớm biết việc đó không đủ để trị tội Viên Hùng. Hắn trả lời như đã liệu trước:
- Có. Ty chức phái người đóng giả làm tiểu thương buôn bán rượu thịt, giao thiệp với quan binh của vệ sở Long Sơn. Trong lúc tửu hậu có nghe bọn họ cằn nhằn rằng quân lương bộ Hộ phân phát chỉ có bốn thành rơi vào tay bọn họ, số còn lại đều bị Viên giám quân và đám quan viên chỉ huy vệ sở tham ô cả.
Hơn nữa, trước đây quan binh vệ sở ai nấy cũng đều có đất đai của riêng mình, nhưng những năm gần đây đã sớm bị cường hào và tướng tá dùng thủ đoạn ép mua ép bán chiếm đoạt lấy. Việc này khiến cho rất nhiều quan binh vì cuộc sống của người nhà mà đành phải đào tẩu lưu vong.
Vệ sở Long Sơn vốn phải có 6500 người trú đóng, nhưng con số quan binh thực có hiện tại chỉ là 2800 người, vả lại đa số đều là quân già lính yếu; số còn lại đều bị lĩnh khống tiền lương lẫn trang bị. Thậm chí khí giới lại càng ít đến thảm thương, rất nhiều chiến thuyền đã không thể sử dụng được từ lâu, khi sắp có thượng quan đến kiểm tra sẽ trưng dụng tạm thuyền đánh cá bổ sung vào cho đủ. Đến lúc giặc Oa(1) tập kích thì chỉ có thể nghe thấy tiếng đã phải chạy dài. Tuyến phòng thủ bờ biển dài mấy ngàn dặm hầu như chỉ tồn tại trên giấy.
Dương Lăng nghe xong không nén được lửa giận, đập bàn chát một tiếng mắng:
- Không ngờ việc quân đội nội địa lại buông thả như vậy! Chẳng trách lúc ở kinh sư ta nghe nói cho dù chỉ vẻn vẹn mấy trăm tên giặc Oa cập bờ cũng có thể xông vào tập kích khắp nơi như chốn không người...
Nói đến đây y chợt nhớ đến một chuyện, lấy làm lạ hỏi:
- Có điều... Khi ta còn ở huyện Kê Minh, lúc giặc Thát đến tập kích, quân sỹ phương Nam được điều đến cứu viện đều đầy đủ quân số, vũ khí trang bị cũng không tệ, hình như... Liễu Bưu, huynh xác định tin tức do thám không nhầm lẫn
chứ?
Liễu Bưu ngạc nhiên, đáp:
- Ty chức điều tra hết sức kỹ lưỡng, sẽ không có nhầm lẫn đâu. Vì phương Nam không bị cường địch như giặc Thát uy hiếp, giặc Oa có lên bờ cướp bóc một phen xong cũng đi ngay, hoàn toàn không dám ở lâu, cho nên việc phòng bị luôn luôn lỏng lẻo. Không biết quân phương Nam điều lên Bắc mà đại nhân nói đến là do ai chỉ huy vậy?
Dương Lăng trả lời:
- Ờ... Ta cũng không biết bọn họ thuộc đội quân của ai. Song ta nhớ đô ty dẫn binh tên gọi là Tất Xuân.
Liễu Bưu nghe vậy bật cười giải thích:
- Đại nhân! Chỉ huy sứ của vệ sở Long Sơn chính là Tất Xuân. Thật ra khi Nam quân được điều lên phía Bắc, để phòng ngừa triều đình nhìn ra sơ hở, quân sĩ được điều động thông thường đều là quân tinh nhuệ được điều động từ vệ sở các nơi bù vào cho đủ số. Vì việc này có lợi cho quân vệ sở mọi nơi ở Giang Nam, cho nên những tướng lĩnh ở đây cũng đều ủng hộ hết lòng. Đội quân của Tất Xuân mà đại nhân thấy nhất định là do vài đội quân vệ sở có sức chiến đấu mạnh nhất chắp vá lại.
Dương Lăng nghe xong ngẩn người một lát, rồi mới giận dữ mắng:
- Thủ đoạn giỏi lắm! Chuyện khác ta còn có thể tạm thời ẩn nhẫn, nhưng bọn họ tự hủy trường thành (ý là hủy hoại quân đội, lực lượng chính bảo vệ đất nước) thì chuyện này ta không thể nhẫn nhịn được. Ta sẽ khai đao với hắn trước, giết gà doạ khỉ, để vệ sở duyên hải bớt phóng túng một chút. Huynh hãy tiếp tục thu thập tình báo của bọn chúng, chú ý đừng bứt dây động rừng.
Liễu Bưu hào hứng đáp:
- Ty chức tuân mệnh! Lại nói về vị thứ hai, trấn thủ thuế giám dệt may Lý Đại
Tường. Ngành dệt tơ của Tô Hàng được phân công cực kỳ chặt chẽ, hiện có các loại thợ chuyên môn như thợ sợi bông, thợ vải đoạn, thợ dệt; những đại phú thương mở phường dệt may còn thuê hàng loạt thợ thủ công nữ chuyên phụ trách kéo sợi, nhuộm màu, sửa máy*, thêu hoa.
(*: chắc chỉ là sửa chữa các dụng cụ dệt cổ xưa)
Tính tình của Lý Đại Tường lại không quá kiêu căng, nhưng dệt may Tô Hàng vang danh thiên hạ, thu lợi rất nhiều. Hắn ngầm sai thân tín đội lốt thương nhân, lợi dụng chức quyền ép giá thu mua, đầu cơ trục lợi nên kiếm được món lãi kết xù. Phú hào cả vùng Tô Hàng đều oán giận mà không dám nói ra.
Như dân chúng phủ* Tùng Giang, đa số đều theo nghề phụ là dệt vải, mỗi ngày được một xếp (cuộn); sản lượng vải vóc do ngàn vạn bá tánh sản xuất nội trong một ngày đã đủ hoàn thành kế hoạch. Tiểu dân vùng Gia Thiện lấy nghề kéo sợi làm kế sinh nhai, sản lượng càng lớn vô cùng. Nơi này có câu rằng "vải Tùng Giang mua hoài không hết, sợi Ngụy Đường thu mãi vẫn còn". Toàn bộ những thứ vải vóc tơ sợi này đều bị hắn độc quyền ép giá thu mua, rồi lại tập trung chuyển bán khắp nơi. Bởi có thể thu được món lợi kếch sù từ trong đó rồi cho nên hắn tự nhiên không cần vơ vét đến nỗi bị người người căm ghét như Viên Hùng.
*phủ: đơn vị hành chánh trên huyện
Vả lại vùng Hồ Châu trồng dâu nuôi tằm, phần đông dân chúng Sơn Đông và Hà Nam trồng trọt cây bông vải. Bởi dệt may Tô Hàng cần rất nhiều nguyên liệu từ những địa phương này vận chuyển vào, mà Viên Hùng lại nắm giữ thuế quan, cản trở vận chuyển những món hàng này nên cực kỳ bất lợi cho sự phát tài của Lý Đại Tường, vì vậy giữa hắn và Viên Hùng có mâu thuẫn rất sâu.
Dương Lăng âm thầm gật đầu. Thật ra tập trung thu mua, tập trung vận chuyển, tập trung buôn bán đều có ích, ví bằng sự bóc lột của Lý Đại Tường không quá hà khắc, có thể chừa lại con đường sống cho dân chúng thì không cần thiết phải so đo với hắn về chuyện này trong giai đoạn hiện tại.
Suy cho cùng, tuy bản thân Dương Lăng nắm quyền thuế giám, nhưng không ai
có thể tự thân trấn thủ mọi nơi trong cả nước, cuối cùng y vẫn cần phải dựa vào những người này làm việc cho mình. Nếu như triều đình không thể hoàn mỹ về mặt pháp chế và chế độ thì cho dù đổi cả một đám quan lại cũng chưa chắc những người mới đã liêm chính hơn bọn cũ. Muốn chính trị trong sạch, không phải là chuyện chỉ trù tính mà thành. Cho dù không có đám thuế giám chuyên quyền này đi chăng nữa, nhưng sờ sờ trước mắt là những món lợi to có thể kiếm chác dễ dàng như vậy, lẽ nào thay một đám quan tham thì sẽ hết tham quan?
Dương Lăng nghĩ đến đây bèn gật đầu nói:
- Ừ, người này mặc dù tham ô, nhưng tâm địa không tính là quá xấu, là người có thể lung lạc được. Đúng rồi, còn vị Mạc công công này thì thế nào?
Liễu Bưu cười thưa:
- Trong ba vị thái giám trấn thủ, người có thanh danh tốt nhất chính là vị Mạc công công này. Thuế ruộng Giang Nam được quy thành ngân lượng. Những năm đầu khai quốc, bản triều đã quy định bốn thạch thóc gạo phải nộp một lạng bạc; về sau tỷ suất quy đổi thay đổi lớn, mỗi thạch thóc gạo bị trưng thuế một lạng bạc.
Thuế nông nghiệp nơi đây chẳng khác nào đã bị tăng thêm ba lần.
Dân chúng nói rằng:
"một mẫu ruộng công bảy đấu thâu, trước đem sáu đấu nộp Hoàng châu, chỉ chừa một đấu chờ khi cưới,
dân chúng lo âu đến bạc đầu".
Như vậy ta có thể thấy sự hà khắc của thuế khoá như thế nào! Nếu không phải Giang Nam trù phú, gạo cá được mùa, dân chúng đã sống không nổi từ lâu.
Bởi dân chúng phải vận chuyển lương thực ra ngoài bán đổi lấy ngân lượng mới có thể nộp thuế, vốn đã bị hao hụt khi vận chuyển lại còn bị tên Viên Hùng đánh
thuế không ngừng, cho nên vận chuyển ra ngoài năm đấu, bọn họ có thể cầm tiền của ba đấu về đã coi như tương đối tốt đẹp rồi.
Sau khi Mạc công công trấn thủ Giang Nam, mỗi năm đến mùa thu hoạch hắn đều phái người dùng ghe thuyền quan phủ chủ động đến tận nhà dân thu mua. Tuy rằng hắn thu mua thấp hơn giá chợ một chút, nhưng so với thuế khóa và hao tổn dọc đường, bá tánh vẫn được lợi hơn là tự mình vận chuyển đến chợ bán, thành thử ai nấy đều vui vẻ bán cho hắn. Vì vậy thanh danh của Mạc công công rất tốt, dân chúng Giang Nam gọi hắn là thiện nhân.
Ngày đó trên thuyền Dương Lăng thấy Mạc công công gan lớn trùm trời, thậm chí cả trà tiến cống dâng cho hoàng thượng cũng dám đánh tráo, y cho rằng hắn chỉ là một tên hoạn không sợ chết, trong mắt chỉ có tiền mà thôi. Nào ngờ lại nghe báo hắn tốt bụng như vậy, y không khỏi lấy làm lạ hỏi:
- Nói như vậy, hắn là thanh quan ư? Liễu Bưu cười ha hả đáp:
- Không thể xem là thanh quan! Suy cho cùng hắn làm như vậy cũng là vì muốn trục lợi cá nhân mà thôi. Lương thực nhiều như vậy, nếu mỗi thạch lương thực hắn đều kiếm chác được sơ sơ thì gom góp lại cũng đã được một ngọn núi vàng rồi. Có điều, cho dù nói thế nào đi chăng nữa thì dân chúng cũng được hưởng lợi. Những người dân này mặc kệ ngươi tham ô hay không tham ô, chỉ cần lúc cần kíp ngươi có thể chiếu cố bọn họ một chút, bọn họ đã cảm kích không thôi rồi.
Vả lại... Vì Mạc công công trông giữ cực nghiêm những loại vật phẩm quý hiếm, có giá cao như trà, hương liệu, dược phẩm, muối ăn, ... thậm chí chịu trách nhiệm tổ chức dân công đi xây dựng công trình cũng không ít, cho nên phần ngân lượng hắn thu được cũng phong phú vô cùng. Chỉ là trong ba người, Mạc công công được xem là kẻ rộng rãi nhất. Nếu gặp năm tai ương, hắn còn thường xuyên dựng lều thí cháo cứu sống không ít nhân mạng, cho nên thanh danh cực tốt.
Dương Lăng đứng dậy, bước chậm rãi trong phòng vài bước, trầm tư hồi lâu rồi mới quả quyết ra lệnh:
- Được! Sáng sớm ngày mai huynh hãy điều động người của huynh đến chỗ Viên Hùng, điều tra hắn kỹ càng lại cho ta. Còn về phần ta thì... ha ha, bản đại nhân du hành Giang Nam chỉ phụ trách du sơn ngoạn thủy, những thứ khác sẽ không phụ trách. Ngày mai ta sẽ đến Sư Tử thôn uống trà.
Là tâm phúc của Dương Lăng nên Liễu Bưu đã sớm biết kế hoạch của y, nghe vậy bèn đứng dậy hỏi:
- Đây là đại nhân muốn đánh Viên, lôi kéo Lý, Mạc chăng? Dương Lăng cười nói:
- Ha ha! Dù sao cũng không thể một gậy đánh giết hết thảy được. Nếu làm thế tất cả thái giám trấn thủ trong cả nước đều dở quầy cất sạp, triều đình không còn bạc để dùng, há chẳng phải sẽ lại đẩy ty Thuế Giám về tay ty Lễ Giám ư?
Tuy là nói như vậy, nhưng chuyện Mạc Thanh Hà tráo trà tiến cống vẫn đeo nặng trong lòng y, cho nên y muốn ngày mai đến thôn Long Tỉnh trên núi Sư Tử tự mình thị sát. Vào thời tiết này đương nhiên không có trà ngon gì, lần này y đi kiểm tra, một là muốn để ba đại thái giám trấn thủ bớt lo âu, cho rằng y cũng chỉ là hư trương thanh thế chứ tịnh không có ý xử lý bọn họ, hai là để bóng gió thăm dò ý tứ của Mạc Thanh Hà.
Liễu Bưu cười đáp một tiếng, vừa tính quay người lui ra, Dương Lăng chợt nhớ đến chuyện kỳ lạ mình vừa chứng kiến khi nãy, vội giữ y lại, hỏi:
- Liễu Bưu! Có chuyện này ta muốn hỏi huynh. Thái giám Đại Minh chúng ta... cũng có thể cưới vợ sao?
Liễu Bưu ngẩn người ra. Hắn đã âm thầm điều tra kỹ càng ba vị thái giám trấn thủ nên hiển nhiên biết rõ chuyện gia đình bọn họ như lòng bàn tay. Vì vậy, hắn chỉ hơi ngẩn người liền sực tỉnh, cười đáp:
- Phải chăng đại nhân đã gặp mặt phu nhân của Mạc công công rồi? Dương Lăng kinh ngạc:
- Huynh cũng biết? Chẳng lẽ... Mạc công công vốn sau khi xuất gia... à... sau khi lập gia đình rồi mới tiến cung sao?
Liễu Bưu bật cười đáp:
- Đại nhân hiểu lầm rồi. Thật ra trong nội cung, việc thái giam cùng cung nữ kết làm phu thê cũng không phải là ít, có điều bọn họ không gọi là phu thê, mà gọi là "Đối thực" và "Thái hộ"(2), giữa khác giới có, giữa cùng giới cũng có nữa, chuyện này đã có từ xưa. Thời hoàng đế Hồng Vũ bản triều đã từng cấm đoán một đoạn thời gian, về sau rồi cũng buông trôi bỏ mặc. Bây giờ cho dù Hoàng Thượng, Hoàng Hậu có nghe nói đến cũng sẽ không can dự vào.
Những công công địa phương có quyền có thế không những có thể cưới vợ nhận con nuôi, mà vợ cưới về còn thường là con gái ngoan của những gia đình quan lại. Nhưng vị phu nhân của Mạc công công lại có xuất thân phong trần, nghe nói trước đây là đệ nhất danh kỹ của "Lầu Xuân Vũ" ở Giang Nam.
Dương Lăng nghĩ đến phong tình tuyệt thế của vị mỹ nữ ấy, không khỏi bật cười nói:
- Ta nói thật nhé! Hôm nay gặp cô ta mà ta giật cả mình, còn tưởng là đó là người vợ Mạc công công cưới về trước khi nhập cung, bằng không làm sao hắn có gan dám công nhiên dùng thân phận thái giám để cưới vợ như vậy!
Y vừa nói vừa nghĩ đến người con gái Giang Nam muôn vẻ phong tình ấy lại gả cho một tên thái giám, không khỏi lắc đầu thở dài, rất lấy làm tiếc rẻ.
Liễu Bưu thưa:
- Đại nhân! Ngài đừng thấy bọn họ là giả phượng hư hoàng(3) mà coi khinh, so với người thường thì những cặp vợ chồng thái giám này càng mặn nồng hơn nhiều. Về những cặp "thái hộ" trong cung, thường là một khi đôi lứa nên duyên thì sẽ kính trọng và yêu thương nhau cả đời không đổi. Nếu ngẫu nhiên có thái giám hoặc cung nữ thay lòng đổi dạ, đối phương thường sẽ đau khổ không thiết sống, thậm chí vì vậy mà thắt cổ tự vẫn, chuyện đắng cay này trong cung chẳng lạ lùng gì.
Đa số bọn họ nếu như có một người chết trước, đối phương cũng cả đời không kết duyên lần nữa mà sẽ đặt linh vị của đối phương trong phòng mình, mỗi khi đến ngày giỗ cũng đều thường khóc thương thảm thiết, khóc đến chết đi sống lại. Tình cảm của bọn họ... thật không phải là thứ mà người thường chúng ta có thể lý giải.
Có điều cưới vợ ngoài cung cũng có thể mặn nồng được như vậy hay không thì ty chức không biết.
Quả thật lúc ban đầu Dương Lăng cũng hơi khinh rẻ chuyện thái giám cưới vợ, nhưng nghe Liễu Bưu nói xong, y mới tỉnh ngộ. Những người đó mặc dù về mặt sinh lý đã không thể được gọi là đàn ông, nhưng về mặt tâm lý họ lại muốn hưởng cuộc sống của người bình thường; lòng mong muốn đó còn bức thiết hơn hẳn những người đàn ông bình thường. Kể ra cũng thật khiến người ta đồng tình.
Dương Lăng bỗng bật cười nói:
- Nghe được một câu của huynh còn hơn đọc sách mười năm, bản quan đã lĩnh giáo. Chỉ cần người ta đôi bên đều tình nguyện, chúng ta quả thực không nên vì hắn là thái giám mà ba lời bốn ý làm gì.
Chú thích:
(1) thời xưa người Nhật Bản thấp bé nên bị gọi là người lùn (oa nhân), giặc Oa là giặc lùn, chỉ hải tặc Nhật Bản.
(2) "Đối thực" chỉ cung nữ, "Thái hộ" chỉ thái giám
(3) Phương giả, hoàng dối. Cụm từ này xuất xứ từ Hồng Lâu Mộng, chỉ mối quan hệ vợ chồng hữu danh vô thực. Phượng là chim đực, hoàng là chim cái.
Ngày hôm sau, quan viên bản xứ và thân sỹ địa phương lần lượt đến chính thức thăm viếng khâm sai đại nhân, nhất là những quan lại và thân sỹ hôm qua không có tư cách tham dự tiệc tẩy trần khoản đãi Dương khâm sai.
Đương nhiên tất cả những người đến viếng thăm đều không thể đi tay không: hoặc ngân phiếu, hoặc châu báu thư họa, hoặc đặc sản địa phương; dược liệu trân quý các loại cũng không ít. Dương Lăng cố ý tạo hình tượng một viên quan tham tiền hám lợi vô trách nhiệm, cho nên y không khước từ một ai.
Cao Văn Tâm không biết rõ nội tình, nàng không thích lão gia nhà mình biến thành kẻ cơ hội như vậy. Trong lòng bực bội song lại không tiện phát tiết, cho nên mặc dù được Dương Lăng sai ngồi làm "kế toán viên", nàng lại chẳng thèm đếm xỉa đến những kẻ biếu quà.
May mà những người này đều sớm hay rằng Dương Lăng lần này đến đây chỉ mang theo một cô tỳ nữ xinh đẹp này, hơn nữa nghe nói mỗi tối nàng thường xuyên len lén chui vào phòng khâm sai. Ai còn dám đối đãi với nàng như thị nữ chứ?
Giang Nam là địa phương đông đúc và giàu có nhất thiên hạ. Những phú hào đó đều có gia tài ức vạn, đến thăm viếng xưởng đốc Nội xưởng có quyền lực khuynh đảo triều đình nào dám tặng lễ vật tầm thường? Tuy không dám nói là kỳ trân dị bảo nhưng những món quà biếu tặng cũng đều đắt giá vô cùng.
Cao Văn Tâm đang ghi chép từng hạng mục, bỗng nhiên nha sai dẫn một thương nhân buôn muối vào. Không ngờ người này đem tặng bốn mỹ nữ gồm hai người Cao Ly và hai người Đông Doanh. Bốn nữ tử này dáng điệu tuy không xinh đẹp bằng Cao Văn Tâm, nhưng vẻ phong tình ngoại quốc ấy lại quả thực rất mới mẻ.
Cao Văn Tâm thật sự đã nổi giận, nàng mang bút lông xông thẳng vào phòng khách. Dương Lăng vừa mới tiễn một thương nhân buôn trà về, thấy nàng đang cầm bút lông, dáng điệu tức giận trông rất xinh đẹp, không khỏi cười hỏi:
- Sao vậy? Ai lại chọc cô giận à? Cao Văn Tâm chua chát đáp:
- Lễ vật người ta tặng, tiểu tỳ đều sai người đưa vào trong kho. Giờ có người đến tặng bốn món vật sống, tiểu tỳ không biết có nên đưa lên giường lão gia hay không, cho nên phải đến xin ý kiến lão gia.
Dương Lăng đảo tròng mắt rồi cười nói:
- Đưa lên giường tôi à? Ha ha, có phải có người đến tặng mỹ nữ không? Đi đi đi, ra ngoài xem thử.
Y còn tưởng có người tặng mỹ nữ Giang Nam cho mình, khi ra ngoài nhìn thì lại là bốn nữ tử nước ngoài, đương nhiên nhận ra người đeo bọc vải nhỏ trên lưng là người Nhật Bản, bất giác ngẩn ra.
Đang cung kính chờ đợi khâm sai đại nhân triệu vào gặp, vị thương gia buôn muối trông thấy bốn tay nha sai đang vây quanh một vị công tử thiếu niên vận cẩm bào đai ngọc đi ra, vị mỹ nhân ghi chép sổ sách nọ đang cầm cây bút lông đi theo sau, môi cong như thoa mỡ, thì biết người đi trước chính là khâm sai đại nhân. Gã không khỏi có cảm giác được yêu mến mà lo sợ, bèn quỳ xuống cười nịnh nọt thưa:
- Thảo dân Đỗ Sách bái kiến khâm sai đại nhân! Dương Lăng nói:
- Bản quan xuôi Giang Nam chỉ là tuần tra tình hình thuế khoá địa phương thôi, thực không muốn làm phiền đến danh lưu thân sỹ địa phương. Đỗ tiên sinh đang bao bộn bề lo toan mà vẫn đến thăm viếng, bản quan thẹn không dám cáng đáng.
Tay thương gia buôn muối Đỗ Sách đó cười bồi đáp:
- Nào có nào có! Thảo dân may mắn gặp được đại nhân, đó vận tốt của thảo dân. À... thảo dân nghe nói đại nhân đi đường mệt mỏi, ngay cả nha đầu để sai vặt bên người cũng không có, cho nên đã cố công mua bốn thị tỳ tặng đại nhân để hầu hạ hằng ngày, xin đại nhân vui lòng nhận cho.
Đứng bên cạnh, Cao Văn Tâm ho khan hai tiếng. Dương Lăng nghe thấy trong lòng cười thầm, y cũng không tính sẽ xuống Giang Nam đem theo một đám mỹ nữ về biến nhà mình thành Đại Quan viên(4). Đang tính mở miệng từ chối khéo, y chợt nghe một giọng cười nói oang oang cất lên:
- Thì ra ông chủ họ Đỗ cũng đến rồi à? Chạy còn nhanh hơn ta! Ha ha ha, ông có tặng mỹ nhân thì cũng nên tặng cực phẩm một chút mới được! Nhớ khi xưa có vị tuyệt sắc giai nhân, đến ta thấy mà còn mê mẩn, âm thầm trao lòng cho Dương đại nhân mà Dương đại nhân vẫn năm lần bảy lượt từ chối khéo, sao đại nhân có thể để mắt đến mấy cô gái này?
Lời vừa dứt, liền thấy một vị quan văn râu ria xồm xoàm, hai tay chắp sau lưng, ưỡn bụng bước dài đến nơi. Dương Lăng ngước mắt nhìn, trông thấy đúng là huyện lệnh Mẫn Văn Kiến một đao chém chết vương tử Thát Đát ở Kê Minh khi xưa, liền vội chạy lên mấy bước, nắm chặt tay lão mừng rỡ chào:
- Mẫn đại nhân!! Đã mấy tháng không gặp, thật nhớ ông muốn chết.
Mẫn Văn Kiến vẫn trực tính như xưa, chỉ là bụng đã bự hơn một chút, lão vội cựa khỏi tay y, quỳ xuống làm lễ:
- Hạ quan Mẫn Văn Kiến ra mắt... Dương Lăng ngăn đỡ lão dậy, trách:
- Mẫn đại nhân của ta ơi! Đến Giang Nam rồi, nhìn đại nhân nói chuyện cũng đã ra vẻ nho nhã, sao lại còn chú trọng đến những thứ lễ nghi rườm rà này nữa? Nếu không có ơn tri ngộ của đại nhân, sao có tại hạ hôm nay. Đại nhân cũng đừng khách khí như vậy nữa.
Mẫn Văn Kiến đứng thẳng người lên cười nói:
- Lễ nghi nào nên chú trọng vẫn cần phải chú trọng chứ! Ha ha ha! Từ lúc đại nhân đến kinh sư, thường có những tin tức khó tin lan truyền đến Giang Nam, Mẫn mỗ nghe kể xong lúc thì thấp thỏm lo lắng, khi lại vui sướng không thôi. Vốn dĩ còn tính chạy chọt khắp nơi để điều đại nhân đến Giang Nam. Giờ thực tốt quá, rốt cuộc đại nhân đã đến, nhưng lại không phải do Mẫn mỗ điều động, ha ha ha...
Thương gia Đỗ Sách bước tới cười nói:
- Hoá ra Diêm vận sứ đại nhân và khâm sai đại nhân là cố giao à! Thất kính thất kính.
Mẫn Văn Kiến nheo cặp mắt tròn như đậu xanh nhìn hắn rồi cười nói:
- Sao? Có phải là cảm thấy kính nể bản quan rồi không? Lão lại liếc mắt sang bốn mỹ nhân ngoại quốc nọ, nói tiếp:
- Đừng bảo bọn họ ở đây nữa! Ngươi cũng được xem như là một nhân vật khôn khéo, không lẽ chưa từng nghe nói chuyện đương kim thiên tử hạ chỉ ban thiếp sao? Dương đại nhân có tầm mắt như thế nào? Mấy nha đầu non nớt này lọt được vào mắt đại nhân ư?
Dương Lăng bật cười nói:
- Mẫn đại nhân! Đại nhân đến Giang Nam mới có mấy tháng mà giờ đã xuất khẩu thành thơ rồi. Thật sự khiến người ta phải rửa mắt mà nhìn.
Mẫn Văn Kiến nghe vậy thì cười lớn:
- Không còn cách nào khác, không còn cách nào khác! Cả ngày nghe bọn họ nói những từ ngữ này nên lỗ tai ta cũng quen rồi, thế nào cũng phải nhớ được mấy câu.
Dương Lăng vừa chuyện trò cùng lão, vừa mời hai người vào phòng khách, rồi
kêu người dâng trà tiếp đãi.
Thật ra vị thương nhân buôn muối nọ còn buôn bán thứ khác. Lần này hắn đến Hàng Châu là để tiếp nhận một lượng hàng hóa lớn từ trong kinh do thuyền quan Dương Lăng vận chuyển. Mắt thấy người đẹp mà mình đem tặng không hợp tâm ý của khâm sai đại nhân nhưng cũng không thể cứ đến tay không một chuyến như vậy. Phải biết rằng bấu víu được vào gốc cây to này, sau này có chuyện gì, chỉ cần đại nhân thuận miệng nói một câu thì hắn cũng được ích lợi không biết đến dường nào.
Nghĩ đến đây, ông chủ họ Đỗ lấy từ trong ngực ra một đôi khuyên tai trân châu, vốn là món quà lão mua từ Kim Lăng chuẩn bị tặng cho người thiếp xinh đẹp mà lão sủng ái nhất, hai tay dâng lên thưa:
- Là thảo dân lỗ mãng rồi! Bốn cô gái này chốc nữa thảo dân sẽ dẫn đi. Đôi khuyên tai trân châu này chính là chút lễ mọn, thật sự không tỏ được lòng kính trọng, đại nhân nhất định phải nể mặt cho.
Đôi khuyên tai trân châu đó được chế tạo xinh đẹp tinh xảo, trân châu bóng tròn chắc mẩy, kích cỡ đều đặn, màu sắc và ánh sáng thu hút người ta, đặt trong lòng bàn tay tỏa ra ánh sáng mượt mà thăm thẳm, vừa nhìn liền biết ngay nó là châu báu đắt giá vô cùng. Dương Lăng thuận tay nhận lấy rồi đưa cho Cao Văn Tâm, thấy nàng còn cầm bút, liền cười nói:
- Không cần ghi đâu, đôi khuyên tai này tặng cho cô đó.
Cao Văn Tâm đỏ mặt liếc y một cái rồi nhanh nhẹn xoay người đi ra. Vẻ vui mừng e thẹn hiện lên bất chợt ấy cực kỳ rung động lòng người. Ông chủ họ Đỗ bừng tỉnh, thầm nhủ: "Thì ra khâm sai đại nhân mê luyến người con gái này, khó trách y không nhận mỹ tỳ mình tặng. Tư dung của vị cô nương này quả thực hơn bọn chúng không chỉ là một bậc."
Hai người và Dương Lăng chuyện trò một hồi về chuyện nhà chuyện cửa. Tâm ý đã tặng xong, biết rõ rằng khâm sai đại nhân và Mẫn đại nhân xa cách lâu ngày mới gặp ắt có nhiều chuyện muốn thổ lộ, cho nên Đỗ Sách ngồi một lát thì đứng
dậy cáo từ.
Tiễn Đỗ Sách về xong, Dương Lăng và Mẫn Văn Kiến quay lại chỗ ngồi. Mẫn Văn Kiến mời:
- Đại nhân! Lần này xuôi Nam nhất định ngài phải tranh thủ đến Hải Ninh một chút đấy. Khoảng cách không quá xa, đến khi ấy để ta cũng được tận lễ chủ nhà.
Dương Lăng cười đáp:
- Nếu có cơ hội, tại hạ nhất định sẽ đi. Mẫn đại nhân ở Hải Ninh mọi thứ vẫn tốt chứ?
- Vẫn tốt, sự giàu có và sung túc nơi đây còn lâu phương Bắc mới sánh bằng, có điều quân đội nơi này so với biên quân của chúng ta thực thua kém quá xa. Nghe nói bây giờ phía bên kia biển, chư hầu các nơi của Nhật Bản đang làm loạn, thường có một vài võ sỹ và lãng nhân(5) thất thế không chốn nương thân bèn cấu kết với một số thuyền buôn đi đến chỗ của chúng ta cướp bóc khắp nơi.
Con bà nó chứ! Không ngờ là còn có một đám gian thương, cường hào, lưu manh, hải tặc của địa phương mật báo tin tức cho bọn chúng, dẫn đường cho bọn chúng, thậm chí còn trực tiếp tham gia cướp bóc.
Ta vừa đến Hải Ninh gặp đúng lúc phải giặc Oa đến tập kích quấy rối. May mà bản thân Diêm vận ty có đội ngũ hộ tống hơn ba trăm người, sức chiến đấu còn phải mạnh hơn quan binh một chút. Bọn giặc Oa đó lại không đông, bị ta dẫn người ra sức giáo huấn những tên ranh đó một trận, một cây Đại Khảm đao đã chém chết hơn hai chục tên. Hiện không còn thấy bọn chúng dám đến Diêm vận ty của ta sinh sự nữa.
Dương Lăng lại một lần nữa nghe đến hai chữ "giặc Oa" này, không kiềm lòng được bèn chú ý hỏi:
- Thế lực của những tên giặc Oa này lớn mạnh lắm sao? Mẫn Văn Kiến cười khinh thường:
- Sức chiến đấu không bằng giặc Thát, nhân số lại chỉ là một đám giặc lang thang. Có điều đường bờ biển quá dài nên khó đề phòng cho xuể; hơn nữa quân đội nơi đây quá yếu, thông thường một đám giặc Oa khoảng trăm tên đổ bộ thì đã đủ để tung hoành ngang dọc rồi.
Ta nghe nói chư hầu các nơi ở Nhật Bản đang đấu đá tranh quyền lẫn nhau, trong tay đều thiếu bạc, cũng có chư hầu từng muốn thông thương buôn bán với Đại Minh chúng ta. Đáng tiếc số lượng bến cảng thương mại và hàng hoá giao dịch mà chúng ta cho phép lại quá ít, không thể thoả mãn nhu cầu của bọn chúng.
Bọn chúng chó cùng rứt giậu, bèn tổ chức luôn nhân mã rồi cấu kết với đám thương gia phạm pháp âm thầm buôn lậu. Nhược bằng bị thuỷ quân truy đuổi không buôn bán được thì đổi nghề chuyển sang làm cường đạo. Bọn chúng đến rồi đi ngay, trốn vào biển khơi, chúng ta thật không làm gì được bọn chúng.
Dương Lăng máy động trong lòng, thầm nghĩ: "Thì ra trong những hải tặc này có kẻ vì muốn làm ăn buôn bán hợp pháp không được mới đổi nghề làm hải tặc.
Trước kia chỉ nghe nói giặc Oa tham lam tàn bạo, thường xuyên cướp bóc dân chúng vùng duyên hải chứ chưa hề được nghe ai nói đến nguyên nhân này."
Dương Lăng lặng lẽ gật đầu, suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Muốn giải quyết những vấn đề này, xem ra phải thực hiện song song việc khơi thông và ngăn chặn mới được. Một mặt tăng cường sức mạnh quân sự, khiến bọn chúng phải e dè, không dám tuỳ tiện xâm phạm; mặt khác còn phải mở cảng thông thương hợp pháp, chủ động làm ăn buôn bán với chúng, đôi bên cùng có lợi, có gì là không tốt
Những hải tặc đó chỉ dựa vào cướp bóc thì có thể cướp được bao nhiêu thứ từ trong tay dân chúng chứ? Đa số chỉ đủ trám miệng bọn chúng mà thôi. Nếu thấy rõ những ích lợi có thể kiếm được, ắt những kẻ này sẽ lắc mình biến thành thương nhân ngay...
Nói đến đây, Dương Lăng chợt ngậm miệng: Chỉnh đốn quân đội là việc Nội xưởng làm được sao? Mở cảng thông thương? Văn thần trong triều không gật đầu,
chính sách này có thể được thực hiện à? Chỉ quyền lực và quan hệ không thì không đủ, còn phải thay đổi tư tưởng và nhận thức của mọi người, còn quá nhiều điều kiện chưa chín muồi, cho nên toàn bộ những thứ này dứt khoát không phải là những điều mà hiện giờ y có thể làm. Y có cơ hội và thời gian đi làm mấy việc này sao?
Mẫn Văn Kiến nghe nhưng không hiểu những thứ này, thấy y nhíu mày lo lắng cho dân chúng Giang Nam, bèn vội cười nói:
- Đại nhân không phải lo lắng. Giặc Oa phần lớn đến từ biển, từ biển muốn đổ bộ ắt phải dựa vào sức gió; cho nên mùa nào nổi gió gì, lúc nào giặc Oa lên bờ, phần lớn đều phải theo qui luật, có muốn thay đổi cũng không được.
Chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng thì bọn chúng sẽ không dấy lên được bao sóng gió đâu. Cùng lắm chúng chỉ cướp đoạt ít làng chài, cũng không có bao bản lĩnh. Ờ... thông thường là giữa tháng tư, tháng năm và tháng chín, tháng mười hằng năm là những tháng thích hợp để đi thuyền vượt biển, lúc đó giặc Oa sẽ chạy đến cướp bóc. Trước khi đến thăm đại nhân ta đã sai quan binh Diêm vận ty tăng cường phòng bị, chỉ cần qua hai tháng này, bọn chúng có muốn đến nữa cũng phải đợi đến tháng tư năm sau thôi.
Dương Lăng và Mẫn Văn Kiến đang tán gẫu, Trịnh bách hộ chạy vào thưa:
- Khải bẩm xưởng đốc đại nhân, Mạc công công đã chuẩn bị xong kiệu xe, mời đại nhân cùng đến núi Sư Tử khảo sát.
Dương Lăng nghe vậy đứng lên, áy náy bảo:
- Mẫn đại nhân! Đại nhân và tại hạ xa cách từ lâu mới gặp lại, đáng lý tại hạ nên bày rượu cùng đại nhân chuyện trò cho thỏa thích một phen. Chỉ là hôm nay tại hạ đã cùng Mạc công công thoả thuận sẽ cùng đến núi trà tuần tra. Không biết Mẫn đại nhân trọ ở nơi nào, đợi tối nay tại hạ trở về sẽ lại cho người mời đại nhân đến, chúng ta cùng nhau nâng chén, không say không về.
Mẫn Văn Kiến cười hào sảng đáp:
- Với giao tình của hai ta, đại nhân còn nói những lời khách sáo này làm gì? Có điều đại nhân đường sá xa xôi đến đây, muốn gặp mặt một lần không dễ, cho nên ta mới tranh thủ thời gian chạy đến. Cha già bệnh tình nguy kịch, Diêm vận sứ đại nhân đã xin phép nghỉ về quê; ta thực không dám gác lại công việc quá lâu, cho nên hôm nay sẽ phải chạy về rồi. Nếu đại nhân có thể đến Hải Ninh tuần tra, chúng ta sẽ lại uống thoả thích một phen.
Dương Lăng hồ hởi:
- Được! Khó có dịp đến Giang Nam một chuyến, tại hạ nhất định sẽ đến Hải Ninh.
Mẫn Văn Kiến chợt nhướng mày, cười giảo quyệt:
- Đã biết khó có dịp đến Giang Nam một chuyến, vậy... có đi Kim Lăng không? Dương Lăng ngẩn ra:
- Nam Kinh? Lần này tuần thị thuế khoá Giang Nam, hình như không cần đi Nam Kinh thì phải?
Y vừa đáp vừa thầm nghĩ trong lòng: "Đi đến đó làm gì nhỉ? Vương Quỳnh đang ở Nam Kinh, tuy rằng lão già ấy hận mình đến thấu xương nhưng thực ra bản tính không tệ, mình cũng không muốn làm khó lão, nhưng nếu đi đến đó khó tránh phải chạm mặt cùng lão. Con trai lão chết trong tay mình, đến lúc gặp lão cũng không biết sẽ xảy ra chuyện gì đây. Còn về phần Mã Liên Nhi... chậc!"
Mẫn Văn Kiến cười hắc hắc đáp:
- Lộ trình không xa quá, thật ra nhín chút thời gian đại nhân cũng có thể đi thăm Kim Lăng một lúc.
Lão mỉm cười nói tiếp:
- Lúc ta vận chuyển muối đến Nam Kinh, đã từng tình cờ gặp ái nữ của Mã dịch thừa. Cô nàng đó thực sự là nghĩa nặng tình sâu với đại nhân à! Nếu đại nhân phụ
người ta, ngay cả ta cũng sẽ nhìn không vừa mắt đâu.
Lão vừa nói vừa rút từ trong ống tay áo một tờ giấy đã được gấp lại, nhét vào trong tay Dương Lăng:
- Đây là nơi ở của nàng ấy. Ha ha, ta đã hết lời trong chuyện này rồi, đi hay không đại nhân hãy tự quyết định.
Xử lý xong việc này, dường như Mẫn Văn Kiến hết sức vui vẻ, toét miệng cười đắc chí.
Dương Lăng tiễn lão ra khỏi cổng, trông thấy trước cổng đã có hai kiệu ngựa đang đậu, Trịnh bách hộ dẫn theo một ít nha sai, còn có thuế lại (nhân viên thu thuế) và một ít nô bộc của Mạc phủ đang đứng bên ngoài.
Dương Lăng cáo từ Mẫn Văn Kiến, dõi theo chiếc kiệu của lão từ từ đi xa. Y đứng dưới bức tường xanh mọc đầy dây leo, ngắm nhìn liễu xanh sông biếc cạnh bờ tường, ngẩn ngơ vuốt ve miếng giấy trong tay thật lâu.
Bồi hồi, y dường như nhìn thấy một người con gái xinh đẹp mặc đồ trắng thướt tha mờ ảo, yểu điệu mảnh mai như một đoá thược dược, nhẹ nhàng bước ra từ trong nước, khuôn ngài ẩn chứa mối thâm tình, đang đi về phía y. Dáng đi thong thả ấy, cử chỉ không chỗ nào không quyến rũ ấy, khiến cho người ta phải thất thần.
"Quân tự minh nguyệt ngã tự vụ, Vụ tùy nguyệt ẩn không lưu lộ, Chích duyên cảm quân nhất hồi cố, Ngã tiện tư quân triều dữ mộ.
Hồn tuỳ quân khứ thiên nhai lộ, Y đái tiệm khoan bất giác khốc, Tích thán niên hoa như triều lộ,
Hà thời hàm nên sào quân ốc... Tam thập lục luân minh nguyệt hậu,
Đương vi quân tác nghê thường vũ..." Dịch thơ:
Thiếp tựa mù giăng chàng tựa trăng Trăng lặn mù tan đọng sương lan Cảm lòng chàng một phen ngóng lại Tim này nhớ ai bao ngày sang
Hồn theo chàng đến cuối chân trời Thân gầy áo rộng lệ tuôn rơi
Xuân xanh tàn tận dường sương sớm Khi nao hội ngộ hỡi người ơi
Ba sáu mùa trăng tỏ sẽ qua
Sẽ múa chàng khúc Nghê Thường ca... (hieusol)
Dương Lăng khẽ ngâm hết câu thơ cuối cùng, nghĩ đến ba mươi sáu mùa trăng tỏ sau, mình và Mã Liên Nhi sớm đã người, ma hai ngả, đôi đường li biệt, trong lòng không khỏi dâng lên một nỗi bi ai. Y dằn lòng, vo chặt mảnh giấy ghi nơi ở của Mã Liên Nhi lại, đang định thuận tay vứt xuống sông, chợt nghe bên cạnh có tiếng người vỗ tay khen:
- Thơ hay! Thơ hay! Nếu như ty chức đoán không sai, đây hẳn là của một vị cô nương đa tình tặng cho đại nhân thì phải.
Dương Lăng quay đầu lại nhìn, thấy Mạc Thanh Hà đang đứng bên cạnh vỗ tay mỉm cười, vị phu nhân xinh đẹp muôn vẻ phong tình cũng đứng cạnh bên, ánh mắt đầy vẻ kỳ lạ, hiển nhiên tán thưởng vô cùng.
Phong tục tập quán Giang Nam cởi mở, khác xa với kinh thành phương Bắc, vị phu nhân này của Mạc Thanh Hà cũng không quá kiêng kị. Lão gia nhà mình muốn đi đến núi Sư Tử, nàng ta liền tiễn ra đến cổng. Vừa nghe thấy Dương Lăng ngâm thơ, nàng không khỏi tán thưởng, cười nói với Mạc Thanh Hà:
- Lão gia! Từ sau khi nghe được bài thơ "Đào Hoa am" do tài tử Đường Dần(6) của Tô Châu sáng tác ở biệt thự Đào Hoa am vào tháng sáu năm nay, thiếp thân đã không còn nghe được bài thơ hay nào có ý cảnh như vậy nữa. Nếu như Dương đại nhân không chê, có thể cho phép thiếp thân chép bài thơ này lại hay không?
Mạc Thanh Hà chau mày vờ trách:
- Chớ nên vô lễ! Sao lại để cho đại nhân khó xử như vậy? Dương Lăng cười nói:
- Việc này không sao!
Y vừa nói vừa thuận tay cất miếng giấy nọ vào ngực, rồi tiếp:
- Đợi bản đốc và Mạc đại nhân từ trên núi trở về, sẽ đọc lại cho phu nhân nghe là được.
Trước mặt vị "thái giám có vợ" này, Dương Lăng không tiện gọi hắn là công công, bèn đổi gọi thành đại nhân. Vợ chồng Mạc Thanh Hà nghe xong trên mặt lập tức lộ vẻ vui mừng. Mạc Phu Nhân tươi cười duyên dáng nói:
- Khi nãy thiếp thân chỉ chú ý đến ý cảnh trong thơ, chưa nhớ hết lời. Chỉ cần đại nhân ngâm lại một lượt, thiếp thân liền sẽ nhớ ngay.
Dương Lăng kinh ngạc nhìn nàng ta, không ngờ người con gái này học thức uyên bác, có khả năng xem qua là nhớ, thế là y liền đọc lại bài thơ một lượt. Mạc
phu nhân chăm chú lắng nghe, sau đó không nén được vui mừng vỗ tay:
- Thiếp thân đã nhớ rồi, giờ thiếp thân sẽ về chép lại.
Nói đoạn cũng không cáo biệt, nàng dịu dàng như hoa xuyên liễu phớt, hạnh phúc dẫn hai nha hoàn quay trở vào phủ.
Mạc Thanh Hà chỉ biết cười nhìn theo bóng lưng nàng, rồi nói với Dương Lăng:
- Tiện thiếp trước giờ vẫn luôn không biết lễ phép, khiến đại nhân chê cười rồi. Dương Lăng nói:
- Thẳng tính mà làm, ấy là chân nhân*. Tôn phu nhân tính tình bộc trực, không hề có tâm cơ, như vậy có gì là không tốt? Ha ha, bản quan phải tiếp với mấy vị khách nên ra hơi trễ, đã phiền đại nhân phải đợi lâu. Giờ chúng ta đến núi Sư Tử đi dạo thôi.
*(chân nhân vừa nghĩa là người đắc đạo vừa nghĩa là người sống thật)
Mạc Thanh Hà nghe y nói "đi dạo" núi Sư Tử, không khỏi cười lớn. Hai người cùng lên kiệu ngựa, Dương Lăng dẫn theo một trăm hai mươi nha sai, Mạc Thanh Hà cũng mang theo bốn mươi viên thuế lại, cùng chạy về phía núi Sư Tử.
Hàng Châu có Tây Hồ trong veo trang nhã, có bờ Phú Xuân trong xanh gợn sóng, có dòng Tiền Đường thủy triều lên thủy triều rút, có núi Nam Ngô, Bắc Cô, phong cảnh rất nhiều. Thật ra quang cảnh của Hàng Châu chủ yếu nằm ở những lâm viên và cảnh quan nhân văn của vùng Giang Nam êm dịu; có rất nhiều cảnh vật tự nhiên nhưng mang nặng dấu ấn của con người, nếu bỏ lớp ý cảnh đó đi thì cũng sẽ không còn gì hay ho nữa.
Chẳng hạn như ngôi mộ của Tô Tiểu Tiểu bên cạnh Tây Hồ. Nếu không phải vì nàng là danh kỹ Giang Nam phong lưu thiên cổ, có nhiều câu thơ ưu mỹ như:
"U lan lộ, như đề nhãn. Vô vật kết đồng tâm, yên hoa bất kham tiễn.
Thảo như nhân, tùng như cái. Phong vi thường, thuỷ vi bội..."*
được văn nhân mặc khách lưu lại, thì chỉ nhìn phần mộ đó thôi cũng sẽ chẳng thấy ý vị gì.
*Lan đọng sương, như giọt lệ, lấy gì kết đồng tâm. Trăng hoa đâu nỡ dứt? Cỏ như tơ, thông che bóng. Gió là áo, nước điểm trang...
Quang cảnh Hàng Châu vốn không phải theo kiểu "nhìn núi ra thơ", núi Sư Tử lại hết sức tầm thường. Trong con mắt của người đã quen nhìn những ngọn danh sơn trên thế giới như Dương Lăng, nó càng cực kỳ nhạt nhẽo vô vị. Nhưng chính trên mỏm núi trông hết sức tầm thường này, lại sản xuất ra thứ trà ngon Long Tỉnh vang danh thiên hạ.
Ở Tô Hàng, núi Hổ Khâu vì suối mà có tiếng, ngọn Phi Lai vì Linh Ẩn tự mà nổi danh. Ngọn Sư Tử sơn này chính là nhờ trà Long Tỉnh mà vang danh thiên hạ.
Khi kiệu quan vừa lên núi, sớm đã có viên thuế giám phụ trách trông coi núi này dẫn người chạy vội ra nghênh đón, đưa hai vị đại nhân vào trong một căn nhà gỗ được xây dựa sườn núi.
Dương Lăng ngồi xuống chiếc ghế dựa bằng tre, cười ha hả:
- Tháng này, nếu ở phương Bắc thì sớm đã có gió thu hiu hiu, cây cối điêu linh rồi. Nơi này lại vẫn cỏ cây xanh ngát, hơn nữa khí trời vẫn còn thiêu đốt như vậy!
Mạc Thanh Hà đáp:
- Ở Giang Nam sông nước hãy coi như còn mát mẻ, xuôi Nam vào trong nội địa một chút sẽ càng nóng bức hơn. Người đâu rồi, mau dâng trà ngon lên cho đại nhân giải nhiệt coi!
Dương Lăng nghe hai chữ "trà ngon", không khỏi âm thầm cười nhạt. Y rờ bọc trà nhỏ cất trong người, chỉ đợi nước trà được bưng lên, nếm thử tư vị liền sẽ hỏi rõ Mạc Thanh Hà trước mặt mọi người. Có điều y có ý định thu phục Mạc Thanh Hà
nên cũng không muốn làm quá, chỉ muốn răn đe áp bức hắn một chút, khiến hắn thần phục là được.
Một người con gái hái trà mặc áo màu xanh ngọc, váy vải hoa bằng sáp nhạt màu, eo thon thắt dây đai màu đen, tóc buộc khăn vải, trên gương mặt mang một nụ cười dịu dàng, nhẹ bước vào phòng, nhanh nhẹn pha một ấm trà, rồi dâng cho Dương Lăng và Mạc Thanh Hà mỗi người một chén.
Dương Lăng nâng chén trà lên, thấy lá trà vẫn đang xoay tròn trong nước như lưỡi con chim sẻ. Y liếc Mạc Thanh Hà, rồi thong thả ung dung đưa chén lên mũi ngửi thử, không khỏi lại ngẩn ra.
Mùi vị của trà này thơm nức mũi, giống hệt như mùi vị của loại cực phẩm hoàng gia mà lúc ở trấn Thượng Hải y đã thưởng thức. "Mạc Thanh Hà giấu riêng trà ngon, trà cung phụng cho cung đình so với thứ này kém hơn rất nhiều. Hôm nay ở trước mặt vị khâm sai từ trong kinh đến để điều tra như mình mà hắn lại không hề biết kiêng kị, thản nhiên dâng lên loại trà này. Chẳng lẽ hắn không sợ mình phát giác ra sự khác thường, hạch hắn tội khi quân sao?"
Dương Lăng thoáng ngẩn ra, ngước mắt nhìn Mạc Thanh Hà đang mỉm cười chờ y thưởng thức mùi vị, không dằn lòng được bèn hỏi:
- Mạc đại nhân! Trà này của đại nhân mùi hương ngào ngạt, thấm tận tâm can tỳ phế, quả thực là cực phẩm. Có điều... khi ở trong kinh bản đốc cũng đã từng uống ngự trà trong cung, trà tiến cống mà Hoàng thượng uống so với trà này của ngài kém hơn không chỉ một bậc. Không biết Mạc đại nhân giải thích thế nào đây?
Chú thích:
(4) Đại Quan viên là ngôi biệt thự do Giả Phủ xây dựng dùng làm hành cung cho quý phi thăm viếng trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, được dùng để ví như chốn Bồng Lai.
(5) tiếng Nhật là Ronin, nghĩa là "con người trôi dạt", một thuật ngữ chỉ những samurai vô chủ. (trích wiki)
(6) Đường Dần (1470 - 1523) là một danh hoạ, một nhà thơ nổi tiếng đời nhà Minh. Đường Dần tự là Tử Uý, Bá Hổ (nên còn được gọi là Đường Bá Hổ), hiệu là Lục Như cư sĩ, Đào Hoa am chủ, tự xưng là Minh triều Giang Nam đệ nhất phong lưu tài tử.
Bài Đào Hoa am
Đào hoa ổ lý đào hoa am Đào hoa am lý đào hoa tiên
Đào hoa tiên nhân chủng đào thụ Hựu trích đào hoa hoán tửu tiền Tửu tỉnh chỉ tại hoa tiền tọa
Tửu túy hoàn lai hoa hạ miên Bán tỉnh bán túy nhật phục nhật Hoa lạc hoa khai niên phục niên Đãn nguyện lão tử hoa tửu gian Bất nguyện cúc cung xa mã tiền Xa trần mã túc quý giả thú
Tửu trản hoa chi bần giả duyên Nhược tương phú quý tỉ bần giả Nhất tại bình địa nhất tại thiên Nhược tương bần tiện tỉ xa mã Tha đắc khu trì ngã đắc nhàn
Biệt nhân tiếu ngã thái phong điên Ngã tiếu tha nhân khán bất xuyên Bất kiến Ngũ Lăng hào kiệt mộ Vô hoa vô tửu sừ tác điền.
Dịch thơ:
Lũng Ðào Hoa
Lũng Ðào hoa, am hoa một mái, Trong hoa am tự tại tiên hoa.
Tiên hoa trồng cội đào hoa,
Chiết cành ta lấy đổi ra rượu nồng. Khi tỉnh rượu ung dung kề cận, Uống say nằm ngủ khểnh dưới hoa. Tỉnh say ngày lại ngày qua,
Hoa tươi hoa rụng la đà tháng năm . Chốn ngựa xe chẳng cần luồn cúi, Ước nguyền rằng chết với rượu hoa. Bụi xe dấu ngựa cao xa,
Cành hoa chén rượu cùng ta duyên nghèo. Đem phú quý so đo đạm bạc,
Một đất bằng một ngất trời xanh. Ngựa xe đem sánh thanh bần,
Người toan bận rộn, ta phần thong dong. Người cười ta cuồng ngông khờ khạo, Ta cười người điên đảo ngược xuôi.
Ngũ lăng phần mộ san rồi,
Không hoa không rượu cũng thời ruộng sâu. (Người dịch: Hạt Cát)
Mạc Thanh Hà kinh ngạc nói:
- Khâm sai đại nhân đã từng uống loại cực phẩm hoàng gia rồi ư? À, đúng rồi, Dương đại nhân là thần tử đắc lực bên cạnh hoàng thượng, đương nhiên là có cơ hội thưởng thức trà tiến cống cực phẩm rồi. Ha ha ha!
Hắn nói xong bèn mỉm cười khoát tay ra hiệu cho cô gái hái trà và đám thuế lại, trà giám của đỉnh Sư Tử lui hết ra ngoài.
Trịnh bách hộ chần chừ đưa mắt nhìn Dương Lăng. Dương Lăng lại không tin Mạc Thanh Hà sẽ vì chuyện này mà dám công nhiên gây bất lợi cho mình, huống hồ những người mà mình dẫn theo ai nấy đều võ nghệ siêu quần, nhân thủ cũng hơn xa số người của Mạc thuế giám, vì thế y tuỳ ý khoát tay lệnh cho Trịnh bách hộ dẫn người đi ra.
Mạc Thanh Hà cầm chén trà lên, thong thả thổi những hoa trà đang trôi nổi trong chén tản ra, chậm rãi hớp một ngụm trà tỉnh rồi mới mỉm cười nói:
- Trà này của ty chức so với loại cực phẩm hoàng gia được tiến cống kỳ thật còn ngon hơn một bậc, khó trách đại nhân nếm xong lại sinh nghi. Có điều đây cũng không phải là bí mật gì, người trong nghề đa phần đều biết chuyện này.
- Ồ?
Dương Lăng xoay nhẹ chén trà, nghi hoặc hỏi:
- Trà tiến cống chẳng phải là loại trà ngon nhất à? Vì sao trà Long Tĩnh của Tây Hồ cung phụng hoàng gia đại nội lại không bằng loại trà mà ông giữ lại vậy?
Mạc Thanh Hà cười lớn đáp:
- Đại nhân có điều không biết, trà này chỉ có sản xuất ở mấy ngọn núi gần đây mới là trà cực phẩm chính tông. Lá trà ngon nhất bị ảnh hưởng rất lớn bởi khí hậu. Cho dù năm nay mưa thuận gió hòa, khí hậu thích hợp, có thể sản xuất ra một ít trà ngon cực phẩm, nhưng vận chuyển đường dài gặp phải mưa dầm liên miên, mùi vị cũng sẽ chịu nhiều ảnh hưởng.
Hắn ngừng một chút rồi nói tiếp:
- Bởi vậy loại trà dâng cho hoàng thượng uống cần phải có mùi vị ổn định, phẩm chất như nhau. Trà tiến cống không yêu cầu phải ngon nhất, chỉ cần ổn định nhất là được. Bằng không nếu như năm nay hoàng thượng uống thấy mùi vị khác biệt, năm sau mùi vị lại hơi khác đi, cho rằng kẻ dưới làm việc không tốt, truy cứu xuống thì có đem chém toàn bộ người ở vườn trà này cũng sẽ không sinh ra trà mới đâu.
Hắn lại tiếp tục giải bày:
- Đây không phải là kẻ dưới bất kính với hoàng thượng, mà thực sự là không có biện pháp giải quyết. Trong kinh thỉnh thoảng vẫn có người dùng nhận thấy sự khác biệt giữa hai loại trà này, nhưng cũng chỉ cho rằng do trà mới được hái nên có mùi vị ngon hơn, sẽ không vì vậy mà sinh nghi. Ty chức hết sức kính ngưỡng Dương đại nhân, do đó không dám giấu giếm. Đương nhiên... danh tiếng thương cảm cho bá tánh của Dương đại nhân ty chức đã nghe từ lâu, cho nên cũng không đành che giấu.
Dương Lăng nghe mà ngỡ ngàng. Y cứ tưởng Mạc Thanh Hà giấu giếm trà ngon làm của riêng là vì trục lợi cá nhân, không ngờ bên trong lại có lý do này.
Mạc Thanh Hà cười khổ nói:
- Đại nhân à, những kẻ hầu hạ bên dưới như chúng tôi đây dựa vào thân phận sai dịch cho hoàng thượng để diễu võ giương oai, người người đều cảm thấy oai phong vô cùng, nào có ai biết muốn bình an vô sự chúng tôi cũng phải lao tâm khổ
tứ chứ.
Hắn lại thở dài một hơi rồi nói:
- Nhưng cũng không còn cách nào khác. Ngoài việc không dám tiến cống trà không biết được phẩm chất ngon hay kém do bị ảnh hưởng của thời tiết, chúng tôi thực không dám giấu làm của riêng. Ngân lượng chúng tôi có được từ việc bán loại trà ngon cực phẩm này đều dựa theo số lượng mà nộp lên kinh sư. Đương nhiên... cũng không tránh được phải trích ra một ít biếu tặng cho quan trên, Vương công công và mấy vị thủ lĩnh của Ty Lễ Giám trong kinh. Mỗi năm ty chức đều phải hiếu kính chục cân trà ngon. Giờ đây ty chức thuộc sự quản hạt của đại nhân, thành thật bẩm báo, vẫn mong đại nhân thể nghiệm và quan sát tình hình bên dưới, thông cảm với những khó khăn của đám nô tài chúng tôi đây.
Dương Lăng nghe vậy cười khổ không thôi. Vốn tưởng là một vụ án khi quân to tát, hoá ra lại là một quy củ lớn được ước định mà thành trên quan trường: phàm là cống phẩm không thể bảo đảm chất lượng để cung ứng, thà giảm yêu cầu chất lượng của nó cũng không cung phụng cho đại nội, tránh để mặt rồng nổi giận ngược lại sẽ không hay.
Có điều Mạc Thanh Hà thẳng thắn bẩm báo như vậy cũng khiến y có nhiều hảo cảm hơn. Bất luận Mạc Thanh Hà giả vờ thật thà hay tâm tư bộc trực, ít nhất cũng chứng minh rằng hắn xác thực có ý muốn dựa vào mình. Dương Lăng cười ha hả, nâng chén hướng về phía Mạc Thanh Hà nói:
- Đa tạ Mạc đại nhân thẳng thắn nói cho hay, tháo gỡ nghi hoặc trong lòng tại hạ. Dương mỗ cũng hầu hạ quân chủ, đương nhiên hiểu được nỗi khổ của các vị đại nhân, nay đã biết được đầu đuôi trong đó, dĩ nhiên sẽ không trách móc.
Sau khi nghe xong tình hình do Liễu Bưu báo cáo, Dương Lăng đã quyết định sẽ khai đao lập oai với thuế giám trấn thủ Viên Hùng, chỉ là vụ trà tiến cống của Mạc Thanh Hà vẫn luôn là mối tâm bệnh vướng mắc trong lòng y. Nay đã biết được tường tận tình hình, y cảm thấy vô cùng thoải mái. Hai người uống trà trò chuyện, cảm tình đôi bên cũng thân thiết hơn không ít.
Sau khi đi hai vòng trong vườn trà trên sườn núi, xem như đã hoàn thành sứ mệnh thị sát, lúc hai người lên kiệu xuống núi, Mạc Thanh Hà bỗng đưa tay lên vẫy, thuế giám trông coi vườn trà vội vàng dẫn mấy người khiêng hai chiếc rương nhỏ sang. Dương Lăng nghi hoặc hỏi:
- Đây là...?
Mạc Thanh Hà cười nịnh nói:
- Đại nhân, trên núi này ngoại trừ lá trà thật sự không có thứ gì đáng giá cả.
Trong một chiếc rương này là mười cân trà xuân Long Tĩnh cực phẩm, xin đại nhân cầm về thưởng thức. Nếu vụ thu hoạch trà năm sau gặp phải thời tiết không tốt, đại nhân sẽ không thể uống được thứ trà ngon như vậy đâu.
Dương Lăng biết nếu bây giờ đem loại trà xuân cực phẩm chân chính như vậy ra chợ bán cho phú hào Giang Nam, một lạng trà phải có giá mười lượng bạc. Một rương trà cỏn con này là cả ngàn lượng bạc, uống một ngụm e phải bằng phần ăn cả một tháng của bá tánh bình thường, thật sự là hơi quá xa xỉ.
Có điều nếu trước đây mọi người của Ty Lễ Giám đều đã quen tiếp nhận, bây giờ Mạc Thanh Hà vẫn chưa quy thuận, nếu như không nhận khó tránh sẽ khiến hắn sinh nghi, thế là y bèn tủm tỉm gật đầu.
Mạc Thanh Hà xoa tay nói:
- Còn chiếc rương này bên trong là bốn chiếc gối uyên ương. Lá trà trong gối tuy không phải là loại trà xuân cực phẩm hoàng gia, nhưng cũng là loại trà ngon hạng nhất. Một khi gối lên, mùi trà sẽ lan toả khắp người, lòng thanh mắt sáng, giúp ngủ ngon tốt nhất. Ha ha, xin tặng cho đại nhân và phu nhân.
Dương Lăng nghe nói là gối trà thì rạng rỡ mặt mày. Gối trà này hương thơm nức mũi, ba nha đầu trong kinh nhất định sẽ thích lắm, nhưng vừa nghe nói đến số lượng thì lại thoáng ngẩn ra: "Nếu là gối uyên ương, vậy Ấu Nương, Ngọc Nhi và Tuyết Nhi cộng lại mới có ba người, hắn tặng bốn cái là ý gì? Chẳng lẽ việc này cũng coi trọng 'tặng lễ theo cặp'(1) ư?"
(1) Nguyên văn "hảo sự thành song". "Thành song" ở đây nghĩa là "theo đôi, theo cặp". Theo phong tục Trung Hoa, phàm tặng lễ mừng cho chuyện vui nào đó, lễ vật thường được tặng theo đôi, kị tặng đơn lẻ.
Dương Lăng ngước mắt nhìn, thấy trong mắt Mạc Thanh Hà ngậm cười, mặt bèn chợt nóng lên, biết rằng hắn đã nhận định Cao Văn Tâm sớm muộn gì cũng sẽ được mình cưới về làm thiếp. Y cũng không có cách nào giải thích, chỉ đành ậm ờ ưng thuận, sai người nhận lấy hai chiếc rương, sau đó hai người khởi kiệu rời khỏi núi Sư Tử.
Rời khỏi miệng núi, đầu tiên phải đi qua một thôn nhỏ mới có thể rẽ sang đường lớn về thành. Dương Lăng đang ngồi trong kiệu chợt nghe phía trước có tiếng người quát mắng, vội vén rèm kiệu lên nhìn. Chỉ thấy hai tên thuế lại đang giơ roi đuổi đánh một đứa bé ăn mặc rách rưới, nhìn cũng chỉ khoảng mười tuổi, liền giận dữ quát một tiếng:
- Dừng tay!
Hai tên thuế lại kia đang say sưa quất roi, hoàn toàn không nghe thấy. Trịnh bách hộ đi bên cạnh kiệu liền phóng tới một bước, chụp lấy roi da trong tay tên thuế lại, đẩy một cái khiến cho hắn lảo đảo, quát lên:
- Đại nhân có lệnh, ngươi không nghe thấy à?
Tên thuế lại đó quay đầu lại, nhìn thấy Dương Lăng đã xuống kiệu, bộ mặt hung thần ác sát lập tức đổi thành vẻ mặt tươi cười siểm nịnh, gật đầu khom lưng đứng sang một bên. Mạc Thanh Hà cũng xuống kiệu ngựa, vội vã chạy qua hỏi:
- Đại nhân, đã xảy ra chuyện gì vậy?
Dương Lăng thấy đứa bé đó đã lùi về bên một sạp trà. Trông nó hết sức ốm yếu, thân thể gầy gò để lộ một cái đầu hơi quá khổ, đôi mắt to hiện lên vẻ lanh lợi cứng cỏi, có điều quần áo lại rách rưới, thân thể và mặt mũi trông rất bẩn thỉu.
Dương Lăng bước tới ngồi xổm xuống, đặt tay lên vai thằng bé, chỉ cảm thấy
da bọc xương, gầy đến thảm thương. Y ôn hoà hỏi:
- Tiểu huynh đệ, đệ không phải là người bản địa à? Người nhà đệ đâu rồi?
Dương Lăng vừa bước tới phía trước, Trịnh bách hộ đã dẫn bốn tay nha sai đuổi theo sau. Thằng bé đó trông thấy năm đại hán oai phong lẫm liệt tay cầm đơn đao sau lưng Dương Lăng thì co rúm người lại không dám trả lời. Dương Lăng quay đầu lại nhìn, nhíu mày nói:
- Chỉ là một đứa bé, còn sợ bản quan bị hành thích sao? Đừng doạ thằng bé, các người lui ra chút đi!
Trịnh bách hộ vội dẫn người lùi ra mấy bước. Mạc Thanh Hà cũng bước qua, ngồi xổm xuống, ôn tồn cười nói:
- Nhóc con, vị đại nhân này là người tốt, đại nhân hỏi thì ngươi phải trả lời đàng hoàng, đại nhân mà cao hứng sẽ thưởng ngươi mấy văn tiền để mua mấy cái bánh bao thịt lớn ăn đó.
Thằng bé vừa nghe nói đến bánh bao thịt, cặp mắt liền sáng lên. Nó nuốt một ngụm nước bọt rồi mới ấp úng nói:
- Đại lão gia, cháu tên là Ôn Tiểu Hoa, là người ở trấn Tư Khẩu. Khi nãy đói bụng, trông thấy cây bên đường có quả dại nên định hái mấy trái xuống ăn. Vị đại gia đó... ông ta lấy roi đánh cháu.
Dương Lăng nhìn sang Mạc Thanh Hà. Mạc Thanh Hà nhướng mày nói:
- Trấn Tư Khẩu à? Đó là địa giới Tô Hàng mà, đứa nhỏ như ngươi một mình chạy đến nơi này sao? Người nhà của ngươi đâu?
Thằng bé rụt rè gật đầu đáp:
- Ừm! Người nhà cháu đều chết cả rồi, cháu phải đi ăn xin khắp nơi để sống qua ngày, đi hoài đi mãi thì đến nơi này.
Dương Lăng hỏi:
- Thế nào mà người trong nhà đều không còn vậy? Nơi đó đã xảy ra ôn dịch sao?
Mạc Thanh Hà lắc đầu nói:
- Chưa từng nghe nói có ôn dịch. Đứa nhỏ, nói cho ta biết người trong nhà ngươi làm sao mà chết hết vậy?
Thằng bé chớp đôi mắt to, rụt rè đáp:
- Ruộng nhà cháu ở kế bên sông, tháng năm nổi lụt ngập hết cả ruộng. Cha cháu bán nhà vào thành làm chút buôn bán nhỏ, nhưng mà vào thành cũng bị thu thuế.
Cha... cha lén trèo tường nên té bị thương, mẹ cháu mới bán ruộng để chữa thương cho cha, nhưng bọn người lùn lại kéo đến, cướp tiền và đồ nhà cháu, giết chết cả cha mẹ cháu. Cháu phải... phải ăn xin khắp nơi.
Dương Lăng nghe mà cảm thấy xót xa trong lòng. Lúc này ông già mở quán trà bên đường nhận ra Mạc Thanh Hà, không nén được mừng rỡ kêu lên:
- Ngài là Mạc gia? Mạc đại thiện nhân! Mạc Thanh Hà ngẩn ra, hỏi ngược lại:
- Ông nhận ra ta à?
Lão hán đó hưng phấn reo lên:
- Nhận ra chứ, nhận ra chứ. Mùa đông năm ngoái, Mạc gia bố thí cháo trong thành, lão đây đã từng đến trước phủ ngài xin miếng ăn đó. Cái đứa nhỏ không cha bị Trương quả phụ thôn chúng tôi tái giá bỏ rơi, đứa nhỏ tên là Thuỷ Sinh không có ai nuôi đó, không phải Mạc gia đã nhận nuôi sao? Ha ha, lão đây còn nhớ ngài mà. Đứa nhỏ này thật là đáng thương, lại có vẻ lanh lợi, không bằng Mạc gia ngài rủ lòng thương thu nhận nó đi.
Dương Lăng nhìn Mạc Thanh Hà, lấy làm bất ngờ nói:
- Mạc đại nhân thật không hổ được gọi là thiện nhân, hóa ra không chỉ bố thí cháo cứu người mà còn thu dưỡng cô nhi.
Mạc Thanh Hà còn chưa kịp nói mấy câu khiêm tốn, ông già nọ đã cướp lời nói tiếp:
- Mạc gia là người tốt, thành Hàng Châu ai mà không biết chứ? Mạc gia đã thu dưỡng mấy chục đứa nhỏ bơ vơ không nơi nương tựa. Thằng bé này hôm nay gặp được ngài thật đúng là phước đức tổ tiên à.
Mạc Thanh Hà nghe lão ta khen ngợi mình trước mặt Dương Lăng, dường như hơi không được thoải mái lắm, vội nói:
- Được rồi được rồi, cái ông lão này!
Hắn quan sát thằng bé tên là Ôn Tiểu Hoa mấy lượt, rồi khẽ gật đầu nói:
- Được rồi, ngươi hãy đi theo ta, thế nào? Ta sẽ tìm một chỗ cho ngươi, có ăn có uống, còn có thể học chút nghề.
Thằng bé rất lanh lợi, nghe xong vội vàng quỳ xuống, vui mừng phấn khởi đáp:
- Tạ ơn đại lão gia! Chỉ cần có miếng ăn, ngài sai cháu làm gì cũng được.
Mạc Thanh Hà không ngại nó bẩn thỉu, vừa cười lớn vừa xoa đầu nó, sau đó quay đầu gọi quản gia:
- Lão Lý, mang thằng bé này theo! Có mang theo thứ gì ăn không? Cho nó một chút lót dạ đi!
Dương Lăng vừa cùng hắn trở về, vừa nói:
- Mạc đại nhân đã thu nhận mấy mươi cô nhi à? Đây... đây thật là việc đại thiện đó. Có điều trong phủ nuôi dưỡng nhiều con nít như vậy cũng thật khó khăn cho đại nhân rồi.
Mạc Thanh Hà hơi đỏ mặt nói:
- Đại nhân quá khen rồi. Chúng ta... chà, chúng ta là người gì hẳn đại nhân cũng rõ, chỉ muốn làm chút việc thiện, kiếp sau có thể được báo ứng tốt mà thôi. Ty chức chỉ là giúp đỡ những đứa nhỏ này kiếm miếng ăn, cũng không giữ lại trong phủ mà nhờ người đưa đến hộ dệt bản địa làm ít việc vặt, đồng thời học chút tay nghề. Cũng vì nể mặt ty chức nên những hộ dệt đó không dám làm khó bọn chúng, cho bọn chúng một con đường sống mà thôi.
Đến đây Dương Lăng quả thật đã cảm thấy kính nể người thái giám này. Bất kể hắn có thật muốn tích âm đức để cầu thiện báo hay không, những việc làm và hành động ấy đã hơn biết bao kẻ đọc sách cả ngày ra rả vì nước vì dân, song lại chỉ biết nói suông. Tuy hắn không hiểu nhiều đạo lý lớn, nhưng lại thật sự làm được rất nhiều việc tốt.
Mặc dầu, lợi dụng sự tiện lợi của chức quyền hắn cũng thu được không ít chỗ tốt, nhưng hắn có thể nghĩ đến việc cứu tế dân chúng cùng khổ, đây đã là chuyện rất đáng quý rồi.
Tất cả hộ dệt của bản địa đều thuộc sự cai quản của thái giám dệt may Lý Đại Tường. Các hộ dệt may tập trung ở Tô Châu, cho nên nha môn của Lý Đại Tường cũng đặt tại Tô Châu. Dương Lăng và Mạc Thanh Hà trở về thành, không quay thẳng về phủ mà đến một cửa điếm nhỏ đặc sắc của địa phương. Hai người ngồi dưới gốc thuỳ dương, khoan thai đối ẩm, vui vẻ bình phẩm phong cảnh Giang Nam. Sau đó còn chưa dứt chuyện thì lại quyết định đi đến hộ dệt bản địa để quan sát.
Dương Lăng nhớ lúc nhỏ đọc sách, có nghe nói vào thời Minh hộ dệt Giang Nam thuê mướn thợ thuyền, đã có quy mô khá lớn, có hình thức ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Hộ dệt mà y đến tham quan lần này là một trong mười mấy hộ dệt lớn của Hàng Châu, tuy không lớn bằng hộ dệt Tô Châu nhưng cũng có mấy chục khung cửi, thuê mướn gần hơn trăm thợ nữ. Dạo một vòng bên trong, Dương Lăng có cảm giác rất giống với xưởng sản xuất dây chuyền công nghiệp hiện đại, không khỏi vô cùng hưng phấn.
Khi sắp ra khỏi cửa, y chợt nhìn thấy một thằng bé mập mạp độ mười một mười hai tuổi vác một bao sợi trắng đi vào. Vừa trông thấy có người ngoài, nó bèn đứng một bên cửa, đưa tay áo lên quệt mồ hôi đầy trán, chỉ đứng đó cười ngây thơ.
Mạc Thanh Hà cười chỉ vào thằng bé đó, nói:
- Thằng nhỏ này cũng không cha không mẹ, ty chức thấy tội nghiệp nên đã thu nhận rồi đưa đến đây. Ừm, đó là chuyện của mùa hè năm ngoái rồi.
Hắn lại cười nói:
- Ha ha! Không sợ đại nhân chê cười, người do ty chức đưa đến những hộ dệt này còn không dám không nể mặt. Bọn họ quyết sẽ không ngược đãi chúng, cho nên ty chức cũng chưa bao giờ đến thăm. Ty chức nhớ được thằng nhỏ này cũng bởi cái bướu to đấy của nó, bằng không quả thật không thể nhớ nổi.
Dương Lăng bèn đưa mắt nhìn, thấy thằng bé đó thân thể khoẻ mạnh rắn chắc, xem ra cuộc sống nơi đây quả nhiên không tệ. Có điều cổ nó vừa thô lại ngắn, bên cổ lại mọc ra một cái bướu thịt to dễ sợ màu đỏ tía, khiến người ta trông thấy liền có ác cảm.
Mặc dù Dương Lăng biết thân thế thằng bé này đáng thương, nhưng nhìn xong trong lòng cũng có cảm giác dị dạng, đừng nói là người khác. Nếu không vì Mạc Thanh Hà rủ lòng thương, phỏng chừng thằng bé này có muốn kiếm chút miếng ăn một cách chính đáng cũng sẽ không có ai dùng nó, chỉ có thể ăn xin cả đời. Đối với việc làm vĩ đại của Mạc Thanh Hà, trong lòng y không khỏi càng sinh ra một sự ngưỡng mộ.
Nhưng kỳ quái chính là, sao thằng nhóc đó gặp Mạc Thanh Hà mà vẻ mặt lại bình thường, không có vẻ gì như gặp được ân nhân vậy? Dương Lăng hơi động nghi ngờ, song lập tức nhớ ra thằng nhóc mập này mới chỉ gặp Mạc Thanh Hà một lần, trải qua lâu ngày một đứa bé làm sao nhớ rõ như vậy được, thế là lòng nghi ngờ lập tức tan biến.
Thằng bé mập mạp đó chỉ nhìn mấy vị khách cười ngây thơ, cũng không bước
lên chào hỏi. Hộ dệt Cao Minh cười mắng:
- Tiểu tử ngốc, nhìn gì mà nhìn, mau mang đồ vào đi, đừng che mắt đại nhân! Thằng bé mập đó nghe thấy liền vội vác bao sợi lên rồi chạy vụt vào.
oOo
Dương Lăng mặt đỏ như gấc đi vào Tây khoá viện. Cao Văn Tâm ngồi dí trong nhà cả ngày, nghe nói y trở về liền tung tăng ra đón, trông thấy vẻ mặt Dương Lăng quái dị, không khỏi ngẩn ra. Dương Lăng lúng túng đưa một cuộn giấy qua nói:
- Văn Tâm, đem cất cái này cẩn thận đi! Cao Văn Tâm ngạc nhiên hỏi:
- Lại có người tặng lão gia thư hoạ của danh nhân gì sao?
Nàng vừa mở cuộn giấy ra nhìn, sắc mặt lập tức trầm xuống, chua chát nói:
- Thiếp tựa mù giăng chàng tựa trăng... Quả là một bài thơ tình hay. Không ngờ lão gia nhà chúng ta còn là nhân vật hết sức phong lưu nữa, đến vùng Giang Nam sông nước không biết đã khiến bao nhiêu người con gái phải điên đảo thần hồn rồi.
Dương Lăng dở khóc dở cười bao biện:
- Bài thơ này... là tôi nghe được lúc ở cố hương. Mạc phu nhân thấy hay nên đã phỏng chép ra hai cuộn, cuộn này là tặng lại cho tôi. Cô đừng có nghĩ ngợi lung tung! Đúng rồi, cô thấy thư pháp của vị Mạc phu nhân này thế nào? Thật là khéo tay hay chữ nhỉ.
Cao Văn Tâm nào tin lời nói dối của y. Nếu như thật sự đường hoàng như vậy, cớ gì khi nãy sắc mặt lại lúng túng? Nàng nhìn thư pháp ấy một chút rồi hừ giọng nói:
- Chữ thì không tệ, nhưng cũng không thấy đẹp hơn chữ tiểu tỳ. Trái lại bài thơ này... ý nặng tình thâm, chẳng lẽ là của Ấu Nương tỷ tỷ tặng lão gia?
Dương Lăng đằng hắng hai tiếng, không đáp lời nàng. Khi nãy vừa trở về phủ, Mạc phu nhân liền hưng phấn cầm hai cuộn tranh ra. Nàng ta đã chép bài thơ thành hai phần giống nhau, một phần tặng cho Dương Lăng để tạ ơn.
Chuyện này vốn không có gì to tát, chỉ là không biết vì con gái Giang Nam phóng khoáng như vậy, hay vì Mạc phu nhân lăn lộn chốn thanh lâu nhiều năm, không biết chừng biết mực, lại chẳng hề kiêng kị áp sát đến trước mặt Dương Lăng, mở tranh thư pháp ra, duyên dáng tươi cười, chỉ chỉ trỏ trỏ.
Nếu như cử chỉ đó được đặt vào thời nay thì cũng không tính là gì, nhưng Dương Lăng ở niên đại này đã lâu mà vẫn chưa từng thấy phu nhân người nào không biết tránh hiềm nghi như vậy, cứ kề sát lại gần. Chỉ ngửi thấy làn gió thơm rười rượi, hơi thở như lan đã khiến y trở nên khó chịu bất an, thế mà Mạc Thanh Hà không hề cho đó là ngỗ ngược. Vì vậy y càng không thể nổi giận được.
Cuối cùng khi Mạc phu nhân thu cuộn tranh về, buộc lại rồi đặt vào tay y, ngón tay ngọc thon thả lại thuận thế lẳng lơ khều nhẹ lòng bàn tay y một cái, làm Dương Lăng sợ giật nảy tim. Y ngước mắt nhìn, đúng lúc trông thấy cặp mắt khiến cho hồn xiêu phách lạc của Mạc phu nhân liếc sang: yêu kiều, quyến rũ, răng trắng cắn khẽ môi hồng, tuy vẻ phong tình chỉ hiển lộ ra trong chớp mắt, nhưng lại như hòn đá ném xuống mặt nước yên ả, khiến lòng người nổi lên từng gợn sóng. Lúc này Dương Lăng mới hiểu được không phải nàng ta không câu nệ tiểu tiết mà là có ý quyến rũ mình.
Vẻ phong tình của mỹ nữ này, phong lưu mà không thấp hèn, tuy ở trước mặt trượng phu mình quyến rũ người khác, nhưng sức mê hoặc đặc biệt đó lại khiến người ta không thể nảy sinh chút ác cảm nào. Dương Lăng chỉ cho rằng nàng cưới phải ông chồng thái giám, khao khát xuân tình, đột nhiên có người đàn ông trẻ tuổi vào ở nơi này, mới khiến nàng ta suy nghĩ vẩn vơ. Thế là y không dám ngồi lâu, trò chuyện vài câu với Mạc Thanh Hà xong liền vắt giò lên cổ mà chạy.
Chuyện khó xử như vậy y đương nhiên không thể kể cho Cao Văn Tâm nghe.
Nhìn thấy nàng vẫn còn chút giận dỗi, Dương Lăng vội cười ruồi nói:
- À... Văn Tâm này, chúng ta có phải nên uống thuốc châm cứu không? Cao Văn Tâm duyên dáng lườm y một cái, nói:
- Không được, hay là lão gia người đi gặp Liễu thiên hộ trước đi rồi hẵng bàn!
Đừng để khi châm cứu lại kêu ầm lên, đến lúc đâm cho cái lưng ngài thành cái sàng, trở về Ấu Nương tỷ tỷ mà không đòi mạng tiểu tỳ mới lạ đó.
Dương Lăng buột miệng cười nói:
- Vậy thì không sợ, chỉ sợ tôi kêu la trong phòng, bị đám nha sai nghe được lại hiểu lầm chúng ta...
Y nói đến đây chợt ngậm miệng lại, hối hận đến suýt nữa thì đã vả vào miệng mình: "Thằng khốn nạn này, rõ ràng không muốn gánh thêm nợ tình, sao còn ngứa miệng nhiều chuyện vậy! Mày nghĩ đây là đang trong công ty tám chuyện với đồng nghiệp nữ sao? Phụ nữ thời này chung tình lắm đó."
Y còn ngượng ngùng xấu hổ, Cao Văn Tâm sao không thẹn đến đỏ bừng cả mặt. Thế nhưng nàng lại không hề có chút vẻ giận hờn nào, ánh mắt hết sức phức tạp, cũng không biết đang nghĩ gì. Nàng liếc Dương Lăng một cái thật sâu rồi nhẹ giọng nói:
- Tiểu... tiểu tỳ sẽ đi mời Liễu thiên hộ vào.
Trong khoảnh khắc, ngữ khí ấy càng mê ly và thuỳ mị không nói nên lời. oOo
Quả thật phụ nữ mỗi khi ăn mặc trang điểm lại có một diện mạo khác. Cao Văn Tâm mặc một bộ phục sức phổ thông của con gái vùng Giang Nam, vẻ ung dung sang trọng hoàn toàn biến mất mà lại hơi giống như một cô con gái cưng vậy. Nàng vội vã chạy lên lầu, tay cầm vạt váy màu xanh lá, giậm mạnh đôi hài thêu màu đỏ, bực bội liếc Dương Lăng một cái rồi nói:
- Lần sau lão gia đừng tìm tiểu tỳ nữa, còn muốn người ta cười với hắn một cái,
thật muốn ói quá!
Cao Văn Tâm dáng người thon cao, dung mạo trong veo như nước, lúc này giậm chân hờn dỗi, cả người toát lên phong thái xinh đẹp khiến người ta phải động lòng. Dương Lăng nhìn mà hai mắt sáng rực, liền vội gật đầu nói:
- Đương nhiên, đương nhiên, yên tâm, yên tâm, nếu không phải sợ đánh rắn động cỏ, tôi cũng không nỡ... A hèm, cô lánh ra sau một chút đi, để tôi xem thử tên háo sắc ngửi mùi mà tới này trông như thế nào.
Cao Văn Tâm hừ một tiếng, xoay người lánh ra phòng sau. Chỉ nghe ngoài cửa có tiếng một gã đàn ông cười ha hả:
- Không tệ, không tệ. Ngươi không có gạt ta, cô gái này quả nhiên có mùi vị. Nhưng nói đến chuyện trước mắt, tiền quà cáp lão tử chỉ có thể chi ra mười lượng. Trong tay ngươi đã có thóc gạo, lát nữa ta về kêu quan ty vụ thu mua với giá cao là được. Lợi nhuận của ngươi không ít được đâu, ha ha ha...
Theo giọng nói, một gã quan quân mặt cáo, râu ngắn đen đúa đang cười híp mắt cùng với Liễu Bưu đóng giả thành một thương nhân đầu cơ tiến vào phòng. Hắn nhìn thấy trong phòng lại không phải khuê phòng thiếu nữ như trong tưởng tượng mà là một gian phòng khách không lớn, một công tử trẻ tuổi vận đồ trắng, thắt lưng xanh lam đang mỉm cười ngồi trên nghế dựa nhìn hắn, đứng sau lưng gã công tử đó là bốn hán tử mặc đồ đen, thân hình nhanh nhẹn dữ dằn, vẻ mặt âm trầm thì không khỏi sững sốt, lập tức đưa tay mò cán thanh đao giắt bên hông.
Dáng vẻ thương nhân của Liễu Bưu lập tức biến mất, y giơ chân đá một cái vào sau gối hắn, tiếp đó một thanh chuỷ thủ sáng choang đã kề lên cổ. Hắn chỉ nghe kẻ tự xưng là thương nhân có thóc gạo để bán, muốn dùng mỹ sắc để dâng tặng này lạnh lẽo quát:
- Ngồi bên trên chính là đề đốc nội xưởng, thống lĩnh thân quân thị vệ đại nội, khâm sai phụng chỉ kiểm tra thuế phú Giang Nam, Dương Lăng Dương đại nhân, còn không khấu đầu làm lễ!
Gã quan quân đó cảm thấy hồ đồ, khi nghe nói không phải là cường đạo giặc cướp, mối nguy hiểm mất mạng giảm đi nhiều, hắn mới trút bỏ được một nửa gánh nặng. Nhưng đường đường quan tổng đốc nội xưởng, khâm sai đại nhân, muốn gặp hắn không phải chỉ nói một câu là được sao, thần thần bí bí như vậy để làm gì?
Nghĩ đến những chuyện vi phạm pháp luật và kỷ cương mà mình đã làm, hắn không kìm được mà túa mồ hôi lạnh, hoảng hốt bổ nhào về phía trước, run giọng nói:
- Hạ quan thiêm sự Đinh Lâm chỉ huy Long Sơn vệ, bái kiến Dương... Dương đại nhân...
Dương Lăng cúi người cười nói:
- Đinh thiêm sự, bản đốc mạo muội mời ngươi đến đây, ngươi có biết là vì chuyện gì không?
Thiêm sự Đinh Lâm chỉ huy Long Sơn vệ trán mướt mồ hôi hột, thần sắc hoảng sợ đáp:
- Hạ... hạ quan không biết.
Nội xưởng thành lập chưa lâu, có những thủ đoạn lợi hại gì hắn vẫn không biết, nhưng cực hình của Đông xưởng, Tây xưởng và Cẩm Y vệ thì đã sớm có nghe qua. Nghe nói nội xưởng còn có chức trách đốc sát hai xưởng một vệ, vậy thủ đoạn có thể ít sao? Đinh Lâm đã làm ra không ít trò phạm pháp, cho nên vừa nói vừa không nhịn được run lên lập cập.
Dương Lăng thẳng lưng lên phất áo một cái, bắt chéo chân qua. Chiếc giày trắng như tuyết đung đưa trước trán Đinh Lâm. Y khoan thai nâng chén trà lên nói:
- Trịnh bách hộ, đọc cho hắn nghe!
- Ty chức tuân mệnh!
Trịnh bách hộ kính cẩn đáp một tiếng rồi bước lên một bước, liệt kê ra từng hành vi phạm pháp của Đinh Lâm như: ép mua ruộng đất của quan binh vệ sở, tham ô quân hưởng, thông dâm cùng thê tử của binh sỹ.
Đinh Lâm nghe mà mặt vàng như nghệ, Trịnh bách hộ còn chưa đọc hết, hắn đã bò lên phía trước, bi ai cầu khẩn:
- Hạ quan có tội, hạ quan đáng chết, xin đại nhân thứ tội, xin đại nhân khai ân cho!
Vừa nói hắn vừa dập đầu bồm bộp.
Dương Lăng đặt chén trà xuống, khẽ mỉm cười nói:
- Đinh thiêm sự, những việc này ta đều tra ra chứng cứ xác thực, tin rằng nếu cần nhân chứng, những quan binh được ngươi "đối đãi tốt" như vậy cũng sẽ vui vẻ đứng ra làm chứng. Bất cứ một điều nào trong đây đều đủ để lấy đầu ngươi, ngươi có gì để nói không?
Đinh Lâm run rẩy van xin:
- Dạ dạ, hạ quan biết, hạ quan đáng chết, xin đại nhân... Dương Lăng ngắt lời hắn:
- Thường nói "xin người chi bằng tự xin mình", nếu như Đinh đại nhân muốn đoái công chuộc tội, vẫn phải dựa vào bản thân mới được à!
Đinh Lâm nghe ra ẩn ý trong lời nói của y, hai mắt không khỏi sáng lên, vội ngẩng mặt sốt sắng nói:
- Xin đại nhân hãy chỉ điểm bến mê, hạ quan sẽ nghe theo tất thảy! Dương Lăng bảo:
- Thật ra bản quan cũng biết, trong sáu huynh đệ ngươi chỉ có ngươi là theo nghề binh, gia tộc đông đúc hoàn toàn đều dựa vào một mình ngươi nuôi dưỡng, chỉ với chút bổng lộc đó quả thật không đủ để dùng. Còn về phần ngươi thông dâm với thê tử của sĩ tốt, âu cũng là đôi bên tình nguyện, mặc dầu tội không thể tha nhưng cũng có thể niệm tình. Nếu như ngươi chịu giúp bản quan làm ít việc, những tội lỗi
này ta sẽ giúp ngươi thay đổi một chút, tự nhiên có thể chuyện lớn hoá nhỏ, chuyện nhỏ hoá không.
Đinh Lâm mừng rỡ nói:
- Đa tạ đại nhân khai ân! Không biết đại nhân muốn hạ quan làm... làm những việc gì?
Dương Lăng tập trung ánh mắt lại nói:
- Ta nghe nói chỉ huy sứ Tất Xuân Tất đại nhân của Long Sơn vệ thường hay mưu hại sĩ tốt vi phạm quân quy, sau đó bức ép sĩ tốt tướng vệ khoanh tay phục tùng, cùng với giám quân Viên công công chiếm dụng làm của riêng. Ngoài ra định mức trong quân là sáu ngàn năm trăm người, nay chỉ còn một phần ba, lại đều là người già yếu bệnh tật. Tất Xuân và Viên Hùng giấu giếm không báo, gạt chiếm quân hưởng, thậm chỉ ngay cả ngân lượng trích cấp để đóng thuyền cũng chảy vào trong hầu bao mỗi người. Giờ đây quân giới cũ hỏng, không thể sử dụng được.
Thực có chuyện này không?
Đinh Lâm tuy là thiêm sự chỉ huy, nhưng quyền bính đều nằm trong tay Tất Xuân; Tất Xuân lại cấu kết cùng Viên Hùng, một tay che trời, căn bản không hề để hắn vào mắt. Hắn chỉ có thể vơ vét được một ít lợi trong đó, cho nên trong lòng sớm đã bất mãn với Tất Xuân. Nghe khẩu khí vị khâm sai này dường như muốn trị Tất Xuân và giám quân Viên công công, hắn không khỏi mừng thầm trong bụng.
Nhưng do lâu năm bị chèn ép dưới oai, hắn nhất thời vẫn không dám thổ lộ thật tình, cho nên không khỏi do dự. Dương Lăng thấy vậy hừ nhạt một tiếng, bảo:
- Nếu ngươi đã không thể thành thật với bản quan, vậy bản quan cũng chẳng muốn cứu ngươi nữa. Ngươi về đi!
Đinh Lâm không còn thời gian để suy nghĩ thêm nữa, lật đật nói:
- Đại nhân đừng trách, hạ quan thú nhận ngay đây!
Ngay sau đó Đinh Lâm lôi tất cả những chuyện xấu của Viên Hùng và Tất Xuân
mà mình biết được lần lượt kể hết ra. Càng khiến người ta thêm căm phẫn chính là, ngoại trừ hơn năm trăm binh sĩ trong thân binh doanh của Tất Xuân là tinh nhuệ, còn lại toàn bộ đều không có sức chiến đấu. Vì thế lúc giặc Oa kéo đến, hắn cùng thân binh liền mỗi người một ngả, cố ý tránh né giặc Oa, để mặc cho bọn chúng cướp bóc.
Nếu luận năng lực chỉ huy và dũng cảm, Tất Xuân thực ra là một viên tướng kiêu hùng, bằng không lúc tập trung mấy tinh binh vệ sở chống giữ biên giới phía Bắc ngày đó, hắn đã không có gan chiến đấu trực diện với giặc Thát. Nhưng lần này nếu liều mạng chống chọi với giặc Oa, kẻ chết sẽ đều là quân tinh nhuệ của hắn.
Xuất phát từ tư tâm, hắn thân mang trọng trách giữ đất nhưng lại để mặc giặc Oa cướp bóc, đợi đến khi bọn chúng rút lui mới gióng trống khua chiêng truy đuổi. Mỗi khi chạy không kịp, giặc Oa bèn vứt lại rất nhiều của cải cướp được, khi ấy Tất Xuân liền thừa cơ thu lượm bỏ vào trong túi mình. Tướng quân Đại Minh mà lại làm "bá vương hôi của".
Dương Lăng nghe mà giận sôi lên. Đợi Đinh Lâm nói xong, một nha sai cúi đầu hí hoáy ghi chép ở góc phòng liền cầm một tờ giấy cung khai còn ướt mực đi qua.
Đinh Lâm bất đắc dĩ phải lăn tay. Lúc này mới nghe Dương Lăng cười nhạt nói:
- Rất tốt, kẻ thức thời mới là trang tuấn kiệt, hy vọng Đinh đại nhân có thể chân thành hợp tác với bản đốc. Những chuyện đại nhân vừa khai nhận bản đốc đã ghi chép vào văn kiện. Việc này còn phải nhờ Đinh đại nhân lợi dụng quan hệ để thu thập nhiều chứng cứ hơn, lúc đó bản đốc bắt người cũng hợp lý hợp lẽ.
Đinh Lâm nghe vậy thì ngẩn ra: "Hoá ra vị xưởng đốc đại nhân này đang gạt mình. Tuy y nghe nói có những chuyện này, song lại căn bản không có chứng cứ!"
Đinh Lâm hơi hối hận, nhưng hắn vừa mới lăn tay ký tên, giờ đã lên thuyền giặc, nếu muốn xuống, chỉ cần dựa vào tờ cáo trạng này Dương Lăng đã có thể bắt hắn vào nội xưởng tra khảo.
Lòng người như sắt, phép quan như lò, ai còn có thể giữ được bí mật dưới cực hình của xưởng vệ chứ? Cho dù Viên công công và Tất Xuân chịu cứu hắn, đến lúc ra được thì người cũng đã tàn phế. Đến nước này Đinh Lâm chỉ đành ảo não đáp
ứng mà thôi.
Dương Lăng lại không phải là người dựa vào doạ dẫm để khiến người ta làm việc cho mình, thấy Đinh Lâm đã đáp ứng vội mỉm cười đỡ hắn lên, hứa hẹn phong quan một phen, vẽ ra cho hắn một tiền đồ đầy gấm vóc, đến khi Đinh thiêm sự đang ủ rũ lấy lại tinh thần mới thả hắn đi.
Đợi hắn đi khỏi, Liễu Bưu hơi thắc mắc hỏi:
- Đại nhân, xưởng vệ chúng ta bắt người, chỉ cần có chút manh mối thì không cần xin ý chỉ vẫn có thể bắt loại quan như Tất Xuân và Đinh Lâm này về tra khảo. Huống chi chúng ta ít nhiều cũng đã có chút chứng cứ xác thực, đại nhân cần gì phải phí công lợi dụng tên này cho phức tạp thêm?
Dương Lăng thản nhiên cười nói:
- Liễu Bưu này! Đinh Lâm... không đáng sợ. Tất Xuân... không đáng sợ. Viên Hùng... cũng không đáng sợ. Có điều, huynh cho rằng kẻ địch của chúng ta thật sự là bọn chúng sao?
Nói đoạn y lắc đầu, mỉm cười nói:
- Không đâu, đối thủ chân chính của chúng ta đang ở trong kinh đó. Thay vì nói mấy kẻ này là người mà chúng ta cần đối phó, nói chúng là một món vũ khí thì đúng hơn. Những kẻ ở trong kinh đang dùng bọn chúng để đối phó với chúng ta, chúng ta cũng đang dùng bọn chúng để đối phó với trong kinh. Ha ha, cho nên chứng cứ càng xác thực càng tốt, nếu như nhân chứng vật chứng đều vững chắc, cho dù bọn chúng muốn đặt điều thị phi cũng không có cớ mà vịn lấy.
Liễu Bưu nghe vậy khiếp đảm thất kinh:
- Phải rồi, sao lại quên lý do chúng ta đến Giang Nam nhỉ? Đây vốn là một ván cờ của Ty lễ giám và Đông xưởng lập ra, bọn chúng có thể ngồi yên nhìn Dương đại nhân đến giải ván cờ này sao? Giờ đây đối phó với mấy tên thái giám trấn thủ này thật ra là đánh một trận chiến, thắng thì sẽ giành được sự ủng hộ của mấy trăm vị
thuế giám trong thiên hạ, làm yếu đi thực lực của Ty lễ giám và Đông xưởng, thua thì không chỉ mất một ty thuế giám, mà đến lúc đó thuế giám các nơi sẽ dùng mọi cách để gây khó dễ, e rằng con đường tiền tại và thế lực hiện giờ cũng sẽ đi tong.
- Đại nhân càng ngày càng có tâm kế à.
Liễu Bưu nhìn Dương Lăng một cách khâm phục, cung kính nói:
- Vậy thì chúng ta phải chờ Đinh thiêm sự lấy được bằng chứng rồi mới xử lý bọn chúng sao?
Dương Lăng lắc đầu nói:
- Không! Bây giờ cung đã lắp tên, không thể không bắn. Ba đại thái giám trấn thủ Giang Nam đích thực có hành vi phạm pháp, nếu như một tên cũng không xử lý kỹ thì vẫn sẽ tạo cớ cho người ta. Tên Viên Hùng này nhất định phải bắt, có điều cái cớ của chúng ta không can hệ gì đến thuế phú, mà là bại hoại quân kỷ. Thân làm khâm sai, ta có trách nhiệm thuận tiện khảo sát, chưa phụng chỉ thì chưa thể xử lý được.
Y lại nói tiếp:
- Bây giờ cần lập tức phái người vào kinh đem sự tình bẩm rõ với hoàng thượng, xin chỉ lập tức bắt người. Việc này căn bản không che mắt được xưởng vệ, cho nên chỉ có thể xem ai nhanh hơn. Huynh hãy chọn mấy người cơ trí lập tức hồi kinh, trước tiên đến gặp Ngô đại bộ đầu, sau đó vào cung diện kiến thánh thượng.
- Vâng!
Liễu Bưu đáp một tiếng rồi vội xoay người đi ra.
Cao Văn Tâm từ sau vách tường nhẹ nhàng bước ra, chớp chớp mắt hỏi:
- Đại lão gia chuẩn bị quan binh bắt giặc à? Vậy... ngày mai huynh muội Trương thiên sư mời lão gia đến Tô Châu du ngoạn, lão gia có đi hay không?
Duơng Lăng duỗi lưng nói:
- Đi, tại sao không đi, tin tức trong kinh chuyển về nào nhanh như vậy chứ? Nơi này có Liễu Bưu trông coi tôi cũng rất yên tâm.
Trông thấy Cao Văn Tâm trong trang phục con gái Giang Nam, hai mắt y không khỏi sáng lên, giãn mày cười nói:
- Đẹp quá, mặc bộ quần áo này vào, trông thật giống giai nhân vùng sông nước.
Tôi thấy cô cũng không cần thay nữa, ngày mai cứ mặc quần áo như vầy, kéo ống quần, để chân trần, chúng ta đến Thái Hồ chèo thuyền hái ấu. Học... học...
Đoạn y vỗ trán nói:
- Học ai ấy nhỉ?
Cao Văn Tâm thấy y không nhớ, nhịn không được bèn buột miệng nói:
- Là Tây Thi Phạm Lãi. Dương Lăng vỗ tay nói:
- Đúng rồi, là Tây Thi Phạm Lãi.
Không phải là y cố ý dụ Cao Văn Tâm nói ra, mà vì y không biết cách phát âm chữ "Lãi"(2) của vị Phạm đại phu đó. Cao Văn Tâm vừa nói ra, y mới phát giác ví dụ này hơi không thích hợp. Ví quan hệ giữa mình và Cao Văn Tâm như Tây Thi Phạm Lãi, vậy thành ra cái gì đây? Cho nên nói xong y nhịn không được bèn bật cười.
(2) Chữ 蠡 (lãi) có hai cách phát âm là "lǐ" (thanh 3) và "lí" (thanh 2). Tên của Phạm Lãi là thanh 3.
Cao Văn Tâm đảo mắt, chỉ thấy Dương Lăng cười một cách xấu xa, Trịnh bách hộ và mấy tay nha sai đứng sau đều mím chặt môi, trông thì hết sức nghiêm túc, thế nhưng mặt người nào người nấy đều lộ vẻ kỳ dị, thế là không khỏi ngượng chín
người, cả cổ cũng đỏ ửng lên.
Từ khi nhà thơ Trương Kế thời Đại Đường thi rớt về quê, đêm cập bến Phong Kiều sáng tác bài "Phong Kiều dạ bạc"(1) nổi tiếng được mọi người yêu thích, tháp cổ Hàn Sơn cũng vì thế mà vang danh thiên hạ. Đã đến Tô Châu, thì sao có thể không đến chùa Hàn Sơn một chuyến chứ?
Phú ông Ngô Tế Uyên đất Tô Châu cung thỉnh Trương thiên sư đến phủ chúc phúc cho lão thái gia. Huynh muội họ Trương cũng mới đến Giang Nam lần đầu, nghe danh phong cảnh Thái Hồ đã lâu, có ý muốn ngoạn hồ, chèo thuyền hái ấu một chuyến nên đặc biệt sai người đến Hàng Châu mời Dương Lăng. Ba đại thái giám trấn thủ Giang Nam quyền cao chức trọng, mà Dương Lăng lại đang trọ tại Mạc phủ, đương nhiên Ngô Tế Uyên sẽ không thể không đoái hoài gì đến vị Mạc công công trấn thủ Giang Nam này, vì vậy lão cũng mời vợ chồng Mạc công công đi cùng.
Thuyền quan rẽ sóng dọc theo con kênh cổ xưa. Khi đi qua chùa Hàn Sơn, huynh muội Trương thiên sư và Ngô Tế Uyên đã chờ sẵn trên bến Phong Kiều. Hôm nay Dương Lăng đổi sang mặc quần áo chẽn, nếu không phải vì cái đám nha sai đeo cung cầm đao bên cạnh là cái chiêu bài sống của y, thì với tướng mạo và cách ăn mặc bình dị này nhất định y sẽ bị người khác lầm tưởng là một vị công tử nho nhã phong độ.
Tuy sớm đã nghe nói vị khâm sai này tuổi còn rất trẻ, song khi trông thấy diện mạo của y, Ngô Tế Uyên vẫn không khỏi lộ vẻ kinh ngạc. Vị phú ông Tô Châu này tuổi trạc ngũ tuần, tướng mạo hiền lành tao nhã. Mặc dù nhà họ Ngô mấy đời buôn bán nhưng sở hữu đất đai trong khu vực Tô Hàng cũng rất nhiều, con cháu Ngô gia cũng nhiều người thi đỗ làm quan, cho nên có thể xem họ Ngô là thế gia vọng tộc, hào phú đất Giang Nam.
Hôm nay Trương thiên sư là chủ, vị khách mời quan trọng nhất chính là khâm sai đại nhân; nhưng nói đến quen biết thì Mạc Thanh Hà và Ngô Tế Uyên quen biết hơn. Thế là Mạc Thanh Hà lập tức giới thiệu Dương Lăng với Ngô Tế Uyên, Ngô Tế Uyên thì giới thiệu huynh muội Trương thiên sư với Mạc Thanh Hà. Một đoàn người vui vẻ nói cười bước vào trong chùa Hàn Sơn.
Hôm nay Mạc Thanh Hà cũng đổi sang mặc một bộ thường phục. Hắn có vóc người cao lớn, dáng vẻ đường đường, thật không còn thấy bộ dáng của một thái giám. Hắn đứng cạnh Mạc phu nhân chan chứa phong tình, quyến rũ mê người thực cũng khiến cho người ta có cảm giác đó là một cặp trai tài gái sắc.
Nghe nói hôm nay khâm sai đại nhân từ kinh đô và thái giám trấn thủ Mạc công công muốn đến chùa tham quan, phương trượng chùa Hàn Sơn không dám sơ suất chút nào, sớm đã ra đứng đón ngoài cổng chùa. Lão hoà thượng tuổi quá bát tuần, râu tóc bạc phơ, sắc mặt hồng hào, thân thể rất là tráng kiện.
Lão hòa thượng khoác cà sa màu đỏ thẫm, dẫn theo các trưởng lão, tri khách tăng và mười mấy tiểu sa di trong chùa cung kính nghênh đón nhóm người Dương Lăng. Tuy thanh danh vang dội nhưng thật ra chùa Hàn Sơn này rất nhỏ, đi hết một vòng cũng không mất bao thời gian. Vừa bước vào cổng chùa, đập vào mắt mọi người là một chiếc lư hương lớn, hương hoả cực thịnh, cắm đầy những cây nhang to bằng hai ngón tay do các tín đồ kính dâng, từ rất xa đã ngửi thấy mùi nhang khói nồng nặc.
Tuyệt đối không vì có khâm sai đại nhân quang lâm mà nhà chùa đuổi những khách hành hương khác ra ngoài. Có điều trông thấy đám nha sai xông thẳng vào chùa, đứng canh ở khắp nơi thì ai cũng biết là có nhân vật tai to mặt lớn đến, cộng thêm lão phương trượng ngày thường không dễ ra gặp khách lại đích thân tháp tùng giới thiệu cảnh chùa, những tín đồ nọ sớm đã thức thời mà tránh sang một bên.
Chủ yếu Dương Lăng chỉ tò mò về cái chùa Hàn Sơn này. Tuy nói rằng đến Tô Châu thì Viên Lâm(2) và chùa Hàn Sơn là những nơi phải tham quan, song trong tâm trí Dương Lăng thì Yến Tử Ổ(3) mới là nơi đáng đến nhất. Trương thiên sư có thân phận là bậc chí tôn của đạo gia, đến nơi thánh địa của Phật gia này cũng cảm
thấy có phần bất tiện, còn Mạc Thanh Hà và Ngô Tế Uyên lại đã viếng thăm nơi này chán chê, nên tuy là lão phương trượng vô cùng ân cần, mọi người đều không cảm thấy hào hứng lắm.
Do đó mọi người chỉ cưỡi ngựa xem hoa, ngôi chùa vốn không lớn đi càng mau hết, mới nửa canh giờ, Dương Lăng đã đi đến sau chùa. Lúc vòng qua các tượng phật được cung phụng trong lầu gác ở đằng trước, y chợt trông thấy hai tăng lữ đang chắp tay quỳ trên bồ đoàn bái lạy. Ban đầu Dương Lăng còn tưởng đó là tăng nhân trong chùa đang tham thiền tụng kinh lễ Phật, nên bèn vội dừng bước. Song thấy bọn họ lại quỳ lạy phía sau tượng Phật, y lại cảm thấy có chút quái lạ.
Phương trượng vốn không nghĩ rằng khâm sai đại nhân sẽ đi đến hậu viện nhanh như vậy, cho nên không kịp gọi những tăng nhân ở hậu viện này tránh đi. Lúc này thấy bọn họ làm ảnh hưởng đến hứng thú tham quan của đại nhân, lão bèn vội vẫy tay ra hiệu tri khách tăng đuổi hai hoà thượng áo xám này ra ngoài.
Dương Lăng thấy tăng y hai hoà thượng đó mặc hơi khác với những tăng lữ khác trong chùa, sau lưng hai người lại đều đeo mũ rộng vành, tựa như đi đường xa mà đến, nhìn chung vừa cảm thấy hơi là lạ vừa lại cảm thấy hơi quen quen. Y nhíu mày suy nghĩ ngợi một lúc, chợt nhớ ra những tăng lữ mà y thấy trong truyện tranh Nhật Bản cũng ăn vận như vầy, y lấy làm lạ hỏi:
- Phương trượng đại sư, hai vị cao tăng này có phải là tăng nhân của quý tự không vậy?"
Phương trượng cung kính đáp:
- Khâm sai đại nhân! Hai vị tăng lữ này đến từ chùa Thập Đắc ở Nhật Bản, đến bản tự để chiêm ngưỡng và thỉnh kinh Phật, tượng Phật.
Ngô Tế Uyên đứng bên cười nói:
- Đại nhân! Trong những năm Trinh Quán thời Đường chùa này có hai vị cao tăng đắc đạo, tên là Hàn Sơn và Thập Đắc. Về sau hoà thượng Thập Đắc đông độ (đi truyền đạo về phía đông đến) Nhật Bản, đã dựng nên một ngôi chùa "Thập Đắc"
ở Nhật Bản, truyền đạo dạy kinh, rất được người bản xứ kính trọng. Vì vậy nếu có tăng lữ hoặc tín đồ Nhật Bản đến Đông Thổ, phần lớn đều sẽ đến chùa Hàn Sơn thăm viếng.
- Ồ?
Dương Lăng thấy phương trượng chùa Hàn Sơn và Ngô Tế Uyên bàn luận về Nhật Bản mà thần sắc lại thong dong, không hề có vẻ gì là phẫn hận, thì hơi lấy làm ngạc nhiên, song sau đó liền nhớ ra rằng lúc này Nhật Bản vẫn chưa gây ra tội ác tày trời với Trung Quốc*. Mặc dù giặc Oa làm nhiều điều ác ở vùng duyên hải, song đám hải tặc đó cũng là phường vô lại phạm pháp ở Nhật Bản. Huống hồ trong đó còn xen lẫn rất nhiều hải tặc Trung Quốc, cho nên người dân lúc này vẫn chưa vì vậy mà oán hận người Nhật. Thế là y cũng thoải mái tươi cười.
(*: tác giả nhắc đến những chuyện trong Thế Chiến thứ hai chăng?)
Y cất bước đến trước mặt hai hoà thượng Nhật Bản đang định lui ra điện nọ để chào hỏi. Nhìn trên tường, y thấy treo một bức tranh đã mờ, niên đại xem ra rất xưa, vẽ chân dung hai hoà thượng trông rất chấc phác, thậm chí có phần khôi hài.
Phương trượng đại sư đi đến gần tươi cười:
- Đại nhân! Đây chính là chân dung của hai vị cao tăng Hàn Sơn và Thập Đắc
đó.
Dương Lăng gật nhẹ, nhìn thấy bên trái bức tranh có hai hàng chữ. Hai câu đối thoại này rất nổi tiếng, y đã từng được nghe qua, có điều vẫn không biết xuất xứ từ đâu, lúc này trông thấy thì mới biết là lời của Hàn Sơn và Thập Đắc.
Y thuận miệng đọc:
- Người đời phỉ báng tôi, khi dễ tôi, làm nhục tôi, chê cười tôi, khinh rẻ tôi, căm ghét tôi, lừa gạt tôi, thì tôi phải xử trí thế nào?
Bên cạnh lập tức có người tiếp lời:
- Chỉ cần nhịn họ, nhường họ, mặc họ, tránh họ, chịu đựng họ, kính họ, không
để ý đến họ, rồi chờ ít năm nữa ông hãy nhìn họ xem.
Dương Lăng kinh ngạc quay đầu, trông thấy đó là một trong hai vị tăng nhân Nhật Bản trẻ tuổi nọ đang chắp tay trả lời y. Dương Lăng không khỏi cười nói:
- Hoà thượng! Đúng là ông nhớ thật kỹ.
Được y khen ngợi, mặt vị tăng nhân Nhật Bản đó không khỏi lộ vẻ vui mừng,
nói:
- Đa tạ đại nhân khen ngợi! Bần tăng Viên Nhân, là tăng lữ chùa Thập Đắc ở Nhật Bản. Bần tăng còn nhớ Hàn Sơn đại sư từng hỏi: "Còn có bí quyết gì có thể tránh họ được không?" Thập Đắc đại sư đáp: "Bồ tát Di Lặc từng có bài kệ rằng: 'có người mắng lão khờ, nói lão khờ còn tốt; có người đánh lão khờ, lão khờ tự ngủ khì. Phun nước miếng vào mặt, để nó tự khô luôn, mình cũng đỡ phí sức, họ cũng khỏi não phiền'..."
Bài kệ đó hơn ba trăm chữ, thế mà vị hoà thượng này nhớ rõ mồn một, đọc rõ ràng từng câu từng chữ, du dương trầm bổng. Phương trượng đại sư nghe xong vui vẻ vỗ tay khen:
- Thiện tai! Thiện tai!
Viên Nhân mỉm cười, cẩn thận chắp tay vái phương trượng, rõ ràng cũng có phần tự đắc. Ngô Tế Uyên đứng cạnh cười ha hả nói:
- Thập Đắc đại sư đông độ truyền kinh, quả nhiên thu được nhiều tín đồ, thật là công đức vô lượng.
Dương Lăng nhìn vị hoà thượng miệng đọc kệ ngữ cao tăng, mặt mày hoan hỷ, bèn nhớ đến đời sau cả nước bọn họ hoá thân thành cường đạo, đến Trung Thổ làm ra những hành vi phóng hoả đốt nhà giết người cướp của. Y không khỏi cười nhạt hỏi:
- Lời nói đó của Thập Đắc đại sư quả thực bao hàm phật lý diệu huyền, đại sư quả nhiên thuộc làu. Vậy ta hỏi đại sư, những gì đại sư thuộc... đại sư có làm được
hết không?
Viên Nhân thoáng ngẩn ra, trầm ngâm một hồi lâu rồi mới cung kính đáp:
- Bần tăng không làm được. Dương Lăng lại hỏi:
- Thế... quý quốc là quốc gia thờ Phật, chẳng hay có bao nhiêu người làm được?
Viên Nhân trầm ngâm thật lâu, mồ hôi túa đầy trán, song thuỷ chung vẫn không nói được tiếng nào. Dương Lăng mỉm cười ung dung nói:
- Cho dù có thuộc làu từng quyển kinh Phật, "Phật" đó bất quá chỉ là lời nói đầu môi. Khi nãy đại sư vừa nói... "ngộ đắc chân thường lý, nhật nguyệt vi lân bạn"(4). Lẽ chân thường ấy là ngộ ra như vậy ư?
Hoà thượng Viên Nhân trầm mặc một lát đoạn gập người vái sâu, rồi thản nhiên đáp:
- Từng chữ của đại nhân như lời cảnh tỉnh, bần tăng xin thọ giáo, đa tạ đại nhân chỉ điểm.
Dương Lăng cười nói:
- Không dám, ta chỉ nói bừa mà thôi. "Ngộ ra lẽ chân thường, lấy nhật nguyệt bầu bạn"! Ha ha, nhật nguyệt là ánh sáng, nếu như quý quốc thật sự giúp mọi người làm điều tốt, thì ánh sáng nhật nguyệt ấy... Triều đình Đại Minh(*) ta há không phải chính là bạn tốt láng giềng của quý quốc đấy ư?
(*): Dương Lăng chơi chữ: Chữ Minh明 gồm chữ nhật日 và chữ nguyệt 月 tạo nên.
Hoà thượng Viên Nhân nghe vậy bèn ngẩng đầu nhìn y, cảnh giác hỏi:
- Đại nhân nói vậy... có phải bởi vì quý quốc gặp nạn hải tặc mà trút giận sang nhân dân đất nước của bần tăng không?
Dương Lăng cười nói:
- Đại sư dám khẳng định trong đám "hải tặc" đó không có quân đội do các Mạc chúa hám lợi đen lòng phái ra, giả hải tặc làm ác ư?
Những chuyện này là bí mật được công khai, triều đình Đại Minh có rất nhiều người biết chứ đừng nói là Viên Nhân vốn đến từ Nhật Bản. Viên Nhân nghe vậy thì đỏ mặt, không dám mở miệng phản bác. Nhà sư suy nghĩ một chút rồi bảo:
- Nhưng... quý quốc đã có bao giờ từng biểu thị thiện ý không? Đất nước của bần tăng muốn chung sống hảo hữu cùng quý quốc, hỗ trợ cho nhau, nhưng quý quốc lại vô lý yêu cầu nước bần tăng phải dùng lễ bề tôi mà tiếp kiến.
Nếu dùng lễ bề tôi, thì quý quốc sẽ không tiếc ban thưởng. Mà tăng lữ nước bần tăng cũng phải thường xuyên vượt biển đến đây, mang theo bên người về được một ít, mất bao trắc trở vẫn không thể thoả mãn đủ yêu cầu của các tín đồ. Thế nhưng khi chúng tôi tình nguyện đưa ra nhiều tiền mua sắm, quý quốc lại cho rằng nước của bần tăng không chịu dùng lễ bề tôi mà gây khó dễ. Nếu không phải vì quý quốc hà khắc như vậy, chúng tôi... chúng tôi...
Nói đến đây, mặt nhà sư đỏ lên, rõ ràng cũng tự cảm thấy việc người ta không chịu mua bán với mình mà mình liền ra tay đánh cướp cũng quá vô sỉ, cho nên không thể nào nói xong cái lý do này.
Đương nhiên Dương Lăng cũng biết những nguyên nhân ấy. Năm xưa, khi y đọc lịch sử đã phát hiện quả thật người Trung Quốc xưa rất "đần", thà cầu danh chứ không cầu lợi. Nếu nước khác chịu tự nhận là bề tôi thì cho dù có đưa đến một sọt cỏ cũng hận không thể ban thưởng số hoàng kim gấp mười lần để biểu đạt sự khẳng khái lẫn hào phóng của thiên triều thượng quốc. Nhưng nếu đối phương không chịu xưng thần, thì cho dù có cuộc mua bán trăm lợi mà không hại thì cũng quyết không chịu giao dịch cùng, xem như là mình trừng phạt đối phương.
Y thấy hoà thượng Viên Nhân tuy trong lời nói có ý tức giận bất bình, nhưng mặt lại hiện vẻ xấu hổ, rõ ràng là hổ thẹn với hành vi của người nước mình thì bất
giác có mấy phần hảo cảm với hắn. Y giãn mặt mỉm cười rồi nói:
- Lời đại sư nói, bản quan cũng biết một phần. Những việc này ta sẽ bẩm rõ với Hoàng thượng, cầu xin Hoàng thượng cho phép mở hải cảng thông thương, tăng cường giao lưu qua lại giữa hai nước. Chỉ có điều... những hải tặc đó của quý quốc, bất kể vì lý do gì, chỉ cần bọn chúng tới, chúng ta sẽ đập nát chúng ngay.
Nói xong, Dương Lăng lại thâm thúy nhìn chăm chú hoà thượng Viên Nhân dường như đang có điều đăm chiêu. Sau đó y cùng nhóm người Trương thiên sư và Mạc Thanh Hà chậm rãi quay về. Trông thấy Ngô Tế Uyên dường như có điều nghĩ ngợi, Dương Lăng không nhịn được bèn hỏi:
- Ngô tiên sinh vẫn còn đang nghĩ đến lời vị hoà thượng đó sao? Ngô Tế Uyên giật mình thất kinh, liền vội chắp tay đáp:
- A! Phải... à không phải... thảo dân... Dương Lăng cười nói:
- Ngô tiên sinh không cần phải kinh hoảng. Ngài là phú ông đất Tô Châu, có đất đai, có xưởng dệt và còn có cửa hàng, chắc hẳn hiểu những chuyện này hơn. Lần này bản quan đến Giang Nam chính là để kiểm tra việc thuế khóa. Không những bản quan chỉ tra xét sự thanh liêm của thuế lại mà cũng muốn hiểu rõ hơn về nguồn gốc thuế khóa và phương pháp gia tăng thuế khóa nữa. Tiên sinh cứ việc nói thẳng, bản quan quyết sẽ không trách tội.
Ngô Tế Uyên nhìn Trương thiên sư hỏi ý, thấy y gật đầu khích lệ mới bèn lấy hết dũng khí đáp:
- Đại nhân! Theo thảo dân thấy, thật ra... nếu như triều đình chịu mở cảng thông thương với Nhật thì chẳng những lợi cho bá tánh, mà thuế khóa của triều đình nhất định cũng sẽ tăng lên rất nhiều.
Hiện nay trong nước Nhật Bản chiến loạn liên miên, rất nhiều thứ bị thiếu hụt, ví dụ như tơ sống, vải bông, lụa gấm, thủy ngân, thậm chí là cây kim, dây xích, nồi
sắt, đồ sơn mài, đồ sứ, thảm len, và cả dược liệu, đồ gia vị, vân vân,... đặc biệt là sách vở kinh điển của Phật giáo. Nhu cầu này rất cao, nếu bán được cho bọn họ, chúng ta có thể thu về lợi nhuận gấp mười lần đó.
Tuy Dương Lăng biết thông thương nhất định mang lại lợi ích cho đất nước, nhưng y cũng không ngờ những thứ không đáng giá này mang sang Nhật Bản lại được lãi lớn như vậy. Nếu như một số lượng lớn những vật dụng hằng ngày này được Nhật Bản tiêu thụ, vậy chẳng phải tiền bạc của Nhật Bản sẽ chảy như nước vào Đại Minh ư? Dương Lăng vẫn chưa quên việc xe hơi cùng đồ điện Nhật Bản tràn ngập thị trường Trung Quốc. Thì ra trong lịch sử cũng có lúc bọn họ điên cuồng theo đuổi hàng hoá Trung Quốc à. Cơ hội này sao có thể bỏ qua?
Dương Lăng nửa ngạc nhiên nửa hào hứng hỏi:
- Lại được lợi nhuận lớn như vậy sao? Ngô tiên sinh hãy nói rõ hơn một chút
đi!
Ngô Tế Uyên thấy y mừng rỡ ra mặt thì càng tăng thêm dũng khí. Lão nghĩ ngợi một chút rồi đáp:
- Đại nhân đừng cho rằng thảo dân nói bừa. Thảo dân lấy ví dụ như nuôi tằm, lấy tơ, dệt lụa. Từ nuôi tằm con thành thành tằm có thể kéo tơ phải mất một năm, sau đó là sản xuất tơ sống, một cân chỉ có thể bán được năm sáu phân tiền. Trừ chi phí tiền vốn và thuế, phần còn lại phải cố gắng lắm mới có thể sống tạm qua ngày mà thôi.
Nhưng nếu vận chuyển được tơ sống sang Nhật Bản sẽ có thể bán được năm sáu lạng bạc, chênh lệch gấp cả chục lần đấy! Cho dù một cây kim ở đây mang sang bên chỗ bọn họ cũng có thể bán được bảy phân tiền, đúng là một vốn bốn lời à.
Đương nhiên, bên đó bọn họ cũng có đồ tốt mà chúng ta cần, tỉ như đồng, hưu huỳnh, gỗ vang (tô mộc, danh pháp khoa học: Caesalpinia sappan, lõi rất cứng), vân vân... Chúng ta mua về gia công chế tạo một tí rồi bán lại cho bọn họ, lại kiếm thêm một khoản nữa.
Dẫu sao Ngô Tế Uyên cũng là thương nhân, nói một hồi thì sự sợ sệt e dè hoàn
toàn tan biến, mặt mày lão hớn hở hẳn lên. Dù Dương Lăng nghe như thế nào cũng thấy giống như một phiên bản tình hình kinh tế hai nước Trung - Nhật vào khoảng thời gian nào đó ở đời sau, chỉ có điều là thịnh vượng hơn và cung cầu của song phương được đảo ngược lại, bèn không khỏi bật cười nói:
- Người Nhật cũng không ngu. Những Mạc chúa, tướng quân đó hối hả buôn bán với chúng ta như thế, không phải chỉ vì nhu cầu của người dân mà họ để tâm như vậy, đúng không?
Ngô Tế Uyên cười lớn nói:
- Đó là lẽ đương nhiên. Bình phong, quạt, hộp, nghiên mực của bọn họ được chế tạo tinh mỹ, phú ông bên chúng ta cũng vui vẻ trả giá cao để mua về. Nếu thông thương qua lại, triều đình còn có thể nhập một lượng lớn đao kiếm từ chỗ bọn họ.
Chất lượng đao Nhật tốt hơn đao của chúng ta, bán lại ít nhất phải lời gấp ba lần.
Dương Lăng nghe xong lặng lẽ gật đầu. Đến lúc rời khỏi cổng chùa Hàn Sơn, y bỗng dừng bước, trịnh trọng nói với Ngô Tế Uyên:
- Làm phiền Ngô tiên sinh việc này. Không biết liệu ông có thể ghi cặn kẽ những việc mà ông biết, càng chi tiết càng tốt. Khi hồi kinh bản quan sẽ trình báo những việc này lên cho Hoàng thượng.
Ngô Tế Uyên trợn tròn cặp mắt nhìn y, mãi lúc sau mới hào hứng kêu lên:
- Đại nhân... Đại nhân nói thật đấy chứ? Đại nhân tự nguyện vì chuyện ích lợi của thương nhân này mà dâng lời lên Hoàng thượng sao?
Dương Lăng lắc đầu, nghiêm túc đáp:
- Đây không phải là chuyện ích lợi của thương nhân. Đây là việc quốc gia đại
sự!
Ngô Tế Uyên nghe vậy, ánh mắt chợt lóe lên, đoạn lão vái Dương Lăng một vái thật sâu, trịnh trọng:
- Có câu này của đại nhân, Ngô mỗ nếu biết sẽ không tiếc lời, nếu nói sẽ nói ra hết. Thảo dân nhất định sẽ trong thời gian sớm nhất nhanh chóng thuật lại tỉ mỉ những gì mình biết để đưa cho đại nhân.
Dương Lăng gật đầu nhè nhẹ, trong lòng cũng âm thầm quyết định. Về đến kinh thành bất kể thế nào y cũng phải tâu chuyện này cho Chính Đức, thuyết phục hắn thông thương giao lưu. Y cũng biết đám đại thần thủ cựu xưa nay vẫn một mực cho rằng thiên triều thượng quốc có thể tự cung tự túc, lấy thân phận bình đẳng mà thông thương cùng mọi rợ ngoại bang là việc làm mất mặt thượng quốc nên nhất định sẽ ra mặt can thiệp. Nhưng y cũng biết rõ tầm quan trọng và tất yếu phải xảy ra của việc mở cửa thông thương. Việc này nhất định phải làm. Chỉ cần làm tốt, để triều đình và bá tánh nếm chút lợi lộc của nó, đến khi nó phát triển lớn mạnh rồi thì không ai có thể ngăn cản được nó nữa.
Ngô Tế Uyên đứng thẳng lưng lại, vui vẻ cười nói:
- Thảo dân nói chuyện cả buổi, vất vả cho đại nhân phải nói đến việc công rồi. Hôm nay đại nhân tới để giải sầu, chuyện này để chốc nữa hẵng nói tiếp. Thảo dân đã đoán biết đại nhân nếu đã đi du ngoạn, điểm dừng đầu tiên phải là ngôi chùa cổ Hàn Sơn này rồi. Gần đây có một tiệm ăn chay Hàn Sơn, hương vị độc đáo, thảo dân đã đặt trước tiệc rượu, mời đại nhân đến đó thưởng thức trước một tí, sau đó chúng ta sẽ đi du ngoạn Thái Hồ ngắm cảnh thu tiếp nhé!
Mạc Thanh Hà thoáng ngẩn ra rồi bảo:
- Hôm nay đại nhân dùng thân phận cá nhân du ngoạn Tô Châu cho nên bản quan không thông báo cho tri phủ Tô Châu. Có điều bản quan đã thông báo cho Lý Đại Tường thết tiệc tẩy trần cho đại nhân ở lầu Sư Tử. Đại nhân xem...
Dương Lăng thoáng suy nghĩ rồi đáp:
- Thôi, bỏ đi! Vào thành chạy tới chạy lui sẽ lại lãng phí thời gian, hơn nữa đoàn người đông đảo này cũng không tiện phô trương thanh thế. Đi Thái Hồ xong, tối nay chúng ta hãy trọ lại một đêm rồi phải trở về Hàng Châu. Thôi đừng làm phiền hắn nữa.
Thật ra Dương Lăng định đi nhanh về sớm là muốn khi trở về sẽ đến Hải Ninh gặp Mẫn Văn Kiến một lúc. Song nếu nói cho Mạc Thanh Hà biết trước, nhất định hắn ta sẽ thông tri quan phủ Hải Ninh rằng có khâm sai giá đáo; bọn họ lại rầm rầm rộ rộ chuẩn bị tiếp đón tất sẽ khiến cho cái huyện Hải Ninh bé xíu loạn cả lên.
Cái cảm giác bị cả đoàn người tiền hô hậu ủng, mất hết tự do như lúc này đã khiến Dương Lăng nhức đầu không thôi rồi, y không mong khi đến Hải Ninh thì những người ở nơi ấy sẽ lại bày vẽ chiêu đãi như thể sắp lâm đại địch, cho nên không hề nói cho Mạc Thanh Hà hay. Mạc Thanh Hà nghe y nói muốn nhanh về Hàng Châu, ngẫm nghĩ nếu mình tỏ ý ngăn trở thì ngược lại sẽ giống như sợ y điều tra mình ở Hàng Châu vậy, nên hắn không nói gì thêm.
Tiệm cơm chay Hàn Sơn phía tây nhìn bến Phong Kiều, nam dựa chùa Hàn Sơn, Bắc kề dòng Phong Tân, tựa vào lan can uống rượu, lên lầu trông về phía xa, thoả sức thưởng lãm vẻ tú lệ của Cô Tô. Các món ăn như Phật Thiên Thủ, Công Đức Kim Thối, La Hán Trai, Bát Trân Hoà Hợp, Phỉ Thuý Cầu, Cua Xào Chay do nơi đây làm rất chú trọng đến việc chọn lựa nguyên liệu, màu sắc và mùi vị đều tuyệt vời, hương vị của nó đủ để "mượn giả làm thật".
Nơi ấy cũng không xa, đoàn người không ngồi kiệu, vừa nói vừa cười cuốc bộ mà đi. Ngô Tế Uyên dẫn mọi người đến tiệm cơm chay Hàn Sơn, đang tủm tỉm mời vào thì Liêu quản sự chờ sẵn ở đó chợt hổn hển chạy ra thưa:
- Lão gia! Xảy ra chuyện rồi. Tiểu nhân đã bao hết tiệm ăn này chờ khâm sai đại nhân quang lâm, nào ngờ lão gia Lý Quý câu cá ven sông trở về, khăng khăng đòi thưởng thức khẩu vị nơi đây một chút. Tiểu nhân đã nói rõ với hắn là nơi này đã được lão gia bao, song hắn vẫn không nghe...
Ngô Tế Uyên nghe vậy thì thoáng sững người, lão không ngờ đến đây mà còn chạm phải oan gia đối đầu là Lý Quý. Nhưng mà... Liêu quản sự này cũng thật không biết làm việc gì cả, chỉ cần nói mình bày tiệc là để chiêu đãi khâm sai đại nhân và Trương thiên sư, thì cho dù tên Lý Quý đó có to gan hơn nữa cũng lại dám ở đây sinh sự sao?
Ngô Tế Uyên hầm hầm nhìn Liêu quản sự. Lão vừa định cất lời trách mắng thì
đột nhiên chú ý thấy Liêu quản sự vừa nói với lão vừa không ngừng nhìn sang Dương Lăng, lúc này mới sực hiểu ra ý tứ của hắn ta. Lão cười thầm trong bụng, lập tức đổi thành vẻ mặt khó xử nói:
- Vậy... tiệm này đã bị Lý Quý bao rồi à? Nếu vậy thì hơi có chút rắc rối rồi.
Nguyên lai họ Ngô đã cư ngụ ở nơi này hơi một trăm sáu mươi năm, sáu mươi năm trước đã trở thành phú hộ giàu có nhất Tô Châu. Mà cái tên Lý Quý này, lại là một vị nhà giàu mấy năm gần đây đột nhiên phất lên, là một phú hộ mới nổi chuyên cho vay nặng lãi, đầu cơ trục lợi.
Không ai biết lai lịch xuất thân của tên Lý Quý này, chỉ biết dường như khi hắn đến đã có sẵn nguồn vốn rất hùng hậu rồi. Mỗi khi gặp phải thiên tai nhân hoạ, nhất là sau mỗi lần giặc Oa đến cướp bóc, có mấy nông dân trả nổi nợ nần chứ? Khi đó, cùng đường bí lối, những người nông dân nghèo khổ đói khát này buộc lòng phải cầm cố đất đai mà trả nợ, từ nông dân trở thành tá điền cho hắn, một số người thì trở thành dân lang thang không nghề không ngỗng được các xưởng thủ công làm giấy, dệt tơ thuê mướn; một số thì vì tuổi già sức yếu không cách mưu sinh đành phải đi ăn xin, lang bạc khắp nơi.
Dựa vào thủ đoạn này, chỉ trong vòng vài năm ngắn ngủi Lý Quý đã mua gom được một lượng lớn đất đai của hai vùng Tô-Hàng, giờ đây nghiễm nhiên trở thành địa chủ lớn nhất hai châu Tô-Hàng. Gia nô tôi tớ của gã phải dùng con số hàng ngàn mà tính, nhà ở thì lầu cao cửa rộng, ra đường thì quần áo lụa là, thanh thế có vẻ đã vượt trội nhà họ Ngô.
Hành vi của gã hiển nhiên khiến thân sĩ Tô Châu khinh thường, cộng thêm người dân địa phương cũng có tâm lý bài ngoại, cho nên những thân sĩ này bèn tố cáo những việc làm xấu xa của Lý Quý với quan phủ. Nhưng không biết tên Lý Quý đó rốt cuộc có lai lịch thế nào, mà nha môn tri phủ tiếp nhận cáo trạng xong lại nhắm mắt làm ngơ.
Thế gia hào phú với mạng lưới quan hệ rộng lớn như nhà họ Ngô bèn phản ánh sự tình với Bố chánh sứ cùng nha môn ti Án Sát sứ, không ngờ cũng không hề có kết quả. Lúc này mấy đại gia tộc địa phương mới hiểu chỗ dựa của tên Lý Quý này
nhất định vô cùng vững chắc. Bọn họ lật gã không đổ, lại sợ bị gã trả thù nên đành phải căn dặn người trong nhà bình thường bớt qua lại với tên ác nhân này.
Lý Quý làm mưa làm gió ở Tô Châu, gia nghiệp nhà họ Ngô lại khổng lồ, cho dù có muốn tránh cũng chẳng thể nào tránh hết được, cho nên không ít tôi tớ và quản sự trong nhà bị gã hà hiếp lắm lần. Gần đây Lý Quý lại bắt đầu dòm ngó đến sản nghiệp họ Ngô, quan hệ hai nhà như nước với lửa. Liêu quản sự cố ý không nói rõ khâm sai đại nhân muốn đến dùng bữa, chính là muốn mượn tay Dương Lăng để trút nỗi bực tức này.
Mạc Thanh Hà đứng bên cạnh nghe được chuyện, da mặt liền hơi dúm lại, không nén được giận bước lên cả tiếng:
- Lý Quý? Là cái tên thân hào địa phương không đáng giá đó à? Hừ! Bình thường ỷ vào mấy đồng tiền mà đã ngang tàng hống hách, lần này lại dám bày trò trước mặt cả khâm sai đại nhân!
Dương Lăng nghi hoặc hỏi Ngô Tế Uyên:
- Lý Quý này là ai vậy?
Tuy thân phận thấp kém, nhưng Liêu quản sự từng ngồi cùng thuyền với Dương Lăng, quan hệ còn thân hơn cả lão gia của hắn, nên bèn vội tranh bước tới mấy bước, thêm mắm thêm muối kể lại thái độ đối nhân xử thế của Lý Quý. Dương Lăng nghe mà liên tục nhíu mày.
Mạc Thanh Hà cười ha hả nói:
- Trong số những kẻ giàu có ở vùng Tô Châu thì tên Lý Quý này là kẻ vi phú bất nhân nhất. Tuy gã chưa từng làm chuyện thương thiên hại lý gì, song chỉ mỗi bộ mặt nhà giàu mới nổi đó đã khiến người ta thấy ghét rồi. Hôm nay gã lại dám động chạm đến đại nhân, bản quan đang muốn nhân cơ hội này dạy dỗ gã, cũng là để khiến gã an phận một chút vậy.
Tuy Dương Lăng cảm thấy ghét Lý Quý, nhưng gã chưa hề có hành vi xấu xa
trắng trợn gì, cho vay nặng lãi lại không phạm pháp, nếu chỉ vì gã va chạm với mình mà mình lại nghiêm khắc trừng trị gã, đến khi đám ngôn quan biết được, nhất định bọn họ sẽ dâng tấu hạch tội mình, cho nên y không muốn đa sự. Có điều nghe lời nói của Mạc Thanh Hà, Dương Lăng biết hắn ta sẽ không làm gì quá mức, nên chỉ cười cười không nói.
Mạc Thanh Hà thấy y cho phép, bèn quay đầu ra lệnh cho quản gia của lão:
- Lão Lý! Đập cái tên không biết điều đó một trận cho ta, bảo gã sau này bớt phóng túng lại mộ chút. Ngươi lôi gã ra xa xa đi, đừng làm mất khẩu vị của đại nhân.
Lý quản gia mỉm cười đáp một tiếng. Hắn vừa khoát tay mang theo mấy người bước tới trước cửa, cửa phòng chợt mở ra, một gã tráng niên tầm hơn ba mươi, mặt mày to béo đen đúa, chắp tay sau lưng, hất hàm ngạo mạn nói:
- Ngô lão gia mời nhân vật nào ăn chay thế? Thật ngại quá, hôm nay bản lão gia đã bao quán này rồi.
Chú thích:
Hán Việt:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên Giang phong ngư hỏa đối sầu miên Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Bản dịch của Tản Đà:
Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi
Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co Con thuyền đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
(2) Tô Châu Viên Lâm hay còn gọi là Cô Châu là một kiến trúc lâm viên ở trong nội thành của Tô Châu, lấy khuôn viên tư gia là chủ đạo, bắt đầu từ thời Xuân Thu (514 trước Công Nguyên), hình thành thời Ngũ Đại, hoàn thành thời nhà Tống, hưng thịnh thời nhà Minh. Đến cuối thời nhà Thanh thì Tô Châu đã có hơn 170 vườn cây cảnh đặc sắc, hiện nay có hơn 60 nơi được bảo tồn hoàn chỉnh, có 19 nơi là vườn cây cảnh mở.
(3) tạm dịch "tổ én", là nơi cư ngụ của nhà Mộ Dung trong Thiên Long Bát Bộ.
(4) hiểu ra được lẽ chân thường (chân lý), mặt trời mặt trăng sẽ quây quần làm bạn, ý nói một khi hiểu ra lẽ phải thì anh sẽ tìm được ánh sáng (mặt trời và mặt trăng tượng trưng cho ánh sáng).
Gã hán tử mập lùn, da dẻ đen đúa dương dương đắc ý nói xong, tròng mắt mới dần khôi phục lại vẻ bình thường. Chợt nhìn thấy quản gia của Mạc phủ đang đứng trước mặt, gã không khỏi thất kinh, mặt lập tức biến sắc.
Lý quản gia cười khà khà:
- Lý đại lão gia thực là oai phong! Lão gia nhà ta cũng định nếm thử đặc sản của quán Hàn Sơn này, xem ra sẽ uổng công một chuyến rồi.
Lúc này Lý Quý mới nhìn thấy ngoài cửa còn có mấy người đang đứng, trong đó gã chỉ nhận ra được Ngô Tế Uyên và Mạc Thanh Hà, vẻ mặt hai người đều như nhau, miệng mỉm cười, điềm nhiên quan sát.
Lý Quý chửi thầm trong bụng, biết mình đã trúng kế của Ngô Tế Uyên, hôm nay khó tránh bị mất sạch thể diện rồi. Nhưng Mạc Thanh Hà chủ quản việc thu thuế gạo thóc, mà gã là địa chủ đứng đầu hai vùng Tô – Hàng; có thể nói Mạc Thanh Hà tha cho gã một phần, ấy là được vạn gánh thóc gạo, căng với gã một phần, ấy là mất đi một số bạc lớn, cho nên gã không dám đắc tội với vị thần tài này chút nào.
Lý Quý lật đật bước ra khỏi cửa, cúi đầu khom lưng thưa:
- Mạc gia! Lão nhân gia ngài cũng đến à! Úi chao, tiểu nhân không biết là lão nhân gia ngài, mời ngài vào! Tiểu nhân đã lâu không gặp ngài rồi, muốn hiếu kính ngài cũng không có cơ hội nữa. Thực khó có dịp lão nhân gia ngài đến Tô Châu, xin để tiểu nhân thết tiệc tẩy trần cho ngài.
Mạc Thanh Hà nở nụ cười nhàn nhạt, đáp:
- Ăn đồ chay phải chú trọng đến ý cảnh, lời của Lý viên ngoại thực không thích hợp lắm.
Vị Lý đại viên ngoại này nhìn như kẻ thô kệch nhưng lại không thiếu thông minh. Gã hiểu ý Mạc Thanh Hà giễu gã người đầy mùi tiền, mặt không khỏi lúc trắng lúc đỏ, ngượng ngập nói:
- Phải phải phải! Tiểu nhân không biết Mạc gia còn mời khách, mời các ngài vào, tiểu nhân lập tức đi ngay. Khoản tiền này ngàn vạn lần lão nhân gia ngài hãy để tiểu nhân lo liệu, xem như nể mặt tiểu nhân vậy.
Thấy bộ dạng ảo nảo của gã Lý Quý đang hoành hành khắp phủ Tô Châu, trong lòng Ngô Tế Uyên hết sức hể hả. Lão thấy Lý Quý vẫn đang lấy lòng Mạc Thanh Hà bèn chen miệng vào:
- Không cần nhọc Lý viên ngoại tốn phí. Ngô mỗ đây đã mời các vị đại nhân đến du ngoạn Tô Châu, chút tiền này vẫn có thể trả được.
Lý Quý thấy Ngô Tế Uyên mở tiệc thết đãi Mạc Thanh Hà, hiển nhiên quan hệ đôi bên không nhạt, bên cạnh còn có một vị công tử tôn quý và một đạo nhân trông cũng không phải nhân vật tầm thường, nên càng không dám lộ vẻ kiêu ngạo. Mấy tên tay sai của gã tay áo xắn cao, mặt mày bặm trợn trong quán trà hùng hổ đi theo ra lúc này cũng đã phải rón ra rón rén. Lý Quý thấy Mạc Thanh Hà không thèm nhìn mình, vội ngượng nghịu khom lưng, mãi đến khi Ngô Tế Uyên mỉm cười mời đám người Dương Lăng vào quán xong, gã mới vội vã rời đi.
Lý quản gia được Mạc Thanh Hà căn dặn, nào dám dễ dàng bỏ qua cho gã, sớm đã mỉm cười theo sau. Đương nhiên "dạy dỗ" mà Mạc Thanh Hà nói không phải là sai người tẩn gã một trận; phỏng chừng khi đuổi tới nơi, sợ rằng Lý quản gia sẽ nả gã một món lớn, chưa khiến gã đau thịt buốt xương ba ngày thì chưa thôi.
Ngô Tế Uyên đưa mấy người vào nhã phòng, áy náy xin lỗi:
- Thảo dân không biết tên Lý Quý này sẽ đến, đã quấy rầy nhã hứng của các vị đại nhân, thật có lỗi quá.
Dương Lăng thấy trong quán ngoài đường đều có tuỳ tùng đứng gác, ngay cả ông chủ và tiểu nhị của quán cũng trở nên sợ sệt, y hơi nhíu mày nói: "Hôm nay chúng ta chỉ lấy cương vị cá nhân du ngoạn ngắm cảnh, làm to chuyện như vầy quả thật cũng không ổn. Tại hạ nghĩ... có thể hay chăng phiền Ngô tiên sinh chuẩn bị vài bộ y phục của bá tánh phổ thông, lát nữa chúng ta đến Thái Hồ du ngoạn, cứ đồ xe đơn giản là được. Về phần người của tại hạ thì chỉ cần chọn ra vài người đi theo là được, những người khác chờ trên thuyền. Có điều... phải phiền huynh muội thiên sư thay đổi y phục rồi."
Tuy lần này Trương thiên sư đi với tư cách là người tu đạo, song thật ra đó không phải là lễ nghi trọng đại gì, sau khi lập đàn tế tự thì thiên sư ăn mặc cũng không khác người thường là bao, cho nên không dị nghị gì về việc này. Trịnh bách hộ nghe Dương Lăng giao việc xong, bản thân đảm trách an nguy cho Dương Lăng nên gã không dám qua loa, liền vội tìm Liêu quản gia bảo hắn nhanh chóng thu xếp, còn bản thân gã chọn trong đám nha sai được hơn hai mươi người thân thủ cao cường, thông minh tháo vát, hỏi rõ Liêu quản sự về lộ trình du ngoạn, rồi chạy đến Thái Hồ chuẩn bị trước.
Mạc phu nhân nhẹ nhàng cởi áo khoác ngoài ra, thị nữ đứng bên cầm lấy rồi đứng hầu sau lưng nàng. Nàng cười duyên dáng ngồi xuống cạnh Mạc Thanh Hà, dịu dàng:
- Lão gia, đã lâu thiếp thân không đến Tô Châu, thiếp muốn ghé thăm Bố chánh sứ phu nhân một chút. Vả lại, không được ngồi trên thuyền lớn thiếp lại thấy chóng mặt, thiếp sẽ không đi Thái Hồ đâu.
Nàng vừa nói vừa đưa mắt nhìn sang Dương Lăng và Trương thiên sư cười áy náy. Dương Lăng luôn cảm thấy hơi mất tự nhiên trước mặt nàng, giờ nghe nàng nói không cùng điđến Thái Hồ, trong lòng lại nhẹ nhỏm hẳn. Mạc Thanh Hà khẽ gật đầu, vỗ nhẹ tay nàng, nhẹ giọng bảo:
- Được, nàng cũng không cần về gấp, trên đường về ta sẽ cho người đi đón nàng.
Đoạn hắn quay đầu, nhỏ nhẹ nói với Dương Lăng:
- Chuyết nội (vợ nhà) và như phu nhân (vợ lẽ) của Bố chánh sứ Ngưu đại nhân rất thân thiết, đến Tô Châu mà không ghé thăm thì không tiện tí nào. Hơn nữa chúng ta chèo thuyền du ngoạn Thái Hồ, nếu đi thuyền lớn thì mất hết ý vị, còn nếu đi thuyền nhỏ thì cô nàng lại hay chóng mặt, thôi không đi cũng được.
Dương Lăng nghe vậy bèn gật nhẹ đầu, thầm nghĩ: "Nghe nói vị Mạc phu nhân này là danh kỹ Giang Nam, không biết vị thiếp của Bố chánh sứ Ngưu đại nhân có phải cũng là nhân vật trên chốn phong lưu không nữa."
Y vừa nghĩ vừa không khỏi ngẩng đầu liếc nhìn Mạc phu nhân, không ngờ cặp mắt sắc lẹm của Mạc phu nhân cũng đang "ngầm đưa tình" với y, thấy vậy Dương Lăng liền nổi da gà.
Vị Mạc phu nhân này tuy xuất thân từ chốn thanh lâu, nhưng lại không khiến cho người ta có cảm giác quyến rũ yêu mị, mỗi cái nhăn mày, mỗi một nụ cười của nàng đều vô cùng xinh đẹp thanh nhã. Hôm nay nàng vận váy lụa trắng thuần, càng tôn lên vẻ đẹp như đoá phù dung nổi trên mặt nước; mày ngài tựa núi xuân, mắt như đọng thu thủy, quyến rũ mê người.
Lúc cặp mắt như biết nói đó thuỳ mị nhìn người khác, cho dù không hề có ý khêu gợi sắc tình, cũng khiến người ta suy nghĩ vẩn vơ, càng huống chi ngày đó Dương Lăng từng bị nàng âm thầm trêu ghẹo, sao không chột dạ chứ?
Vừa lảng mắt tránh đi, lại trông thấy Cao Văn Tâm đang đứng đối diện, cặp mắt sáng ngời ấy cũng đang chằm chằm nhìn y không chớp. Cả người Dương Lăng càng mất tự nhiên hơn, như thể đã bị nàng nhìn trúng chỗ uý kị trong lòng.
Hôm nay Cao Văn Tâm quả nhiên mặc bộ đồ màu xanh biếc mà hôm qua Dương Lăng đã khen. Quần áo của con gái bình dân tràn trề phong thổ nhân tình của vùng Giang Nam sông nước khoác lên tấm thân thiếu nữ phương Bắc mang đậm khí chất thanh cao điềm tĩnh của nàng, càng toát lên một ý vị khác. Dẫu rằng tuyệt nhiên không thể đánh đồng với khí chất muôn vẻ phong tình như nước của Mạc phu nhân, song nó lại mang một nét đẹp thanh tao ngọt ngào khác hẳn.
Dương Lăng bất giác nhẹ giọng nói với nàng:
- Văn Tâm! Bản quan không cần người hầu hạ, cô cũng mệt rồi. Liêu quản sự, xin ông hãy bố trí một bàn tiệc rượu khác, để nàng ta... à... và hai vị thị nữ của Mạc phu nhân cùng ăn uống rồi nghỉ ngơi vậy.
Khâm sai đại nhân ngồi ghế đầu còn chưa mở lời nói câu chào hỏi hình thức nào mà đã sai người an bài cho thị nữ của y dùng bữa nghỉ ngơi trước rồi! Người thị nữ này thật sự là thị nữ đấy ư?
Ngô Tế Uyên nghe Dương Lăng dặn dò vậy, bèn quan sát kỹ lưỡng Cao Văn Tâm vài lượt. Tuy Cao Văn Tâm ăn mặc như một thị nữ nhưng đứng chung với hai tiểu tỳ của Mạc phu nhân nàng lại toát ra khí độ ung dung khuê các mà bọn họ thua kém cả vạn phần. Lão máy động trong lòng, không khỏi thầm nghĩ: "Phong độ và khí chất của vị cô nương này thật sự không giống nữ tỳ. Khâm sai đại nhân yêu mến nàng ta như vậy, chẳng lẽ bọn họ...?"
Ngô Tế Uyên nghĩ ngợi một chốc, cảm thấy không ổn thoả, hình như hậu lễ chuẩn bị ban đầu đã tính sót một phần, liền vội gọi Liêu quản sự lại, chum tay căn dặn khẽ thêm mấy câu.
**********************************
Trên Thái Hồ, non xanh nước biếc, phong cảnh hoàn toàn tự nhiên. Cảnh sơn thủy này dung hoà vẻ u nhã thanh tú cùng sự bao la hùng vĩ. Nước biếc bao la, khói sông bát ngát, núi non ẩn hiện, muôn hình vạn trạng.
Bốn người Dương Lăng, Mạc Thanh Hà, Ngô Tế Uyên và Trương thiên sư hoá trang thành thư sinh ngoạn cảnh hồ. Trương Phù Bảo cũng thay một bộ quần áo thị nữ nhỏ nhắn, tóc bới ba búi, theo sau với dáng vẻ lanh lợi hoạt bát.
Tướng mạo nàng vốn đã vô cùng xinh xắn dễ thương, nay đổi mặc trang phụ nữ nhi, vẻ mặt thanh tú vui buồn đều đẹp ấy liền trông như tranh vẽ. Ngay cả Ngô Tế Uyên mấy ngày qua quen nhìn nàng vận trang phục đạo sỹ cũng sáng rỡ hai mắt.
Trịnh bách hộ mang theo bốn tay nha sai giả trang làm gia đinh, trong ngực thủ sẵn dao nhọn, trên vai gánh hộp đồ ăn, cảnh giác quan sát chung quanh. Thỉnh
thoảng có nha sai cải trang làm du khách hoặc thuyền phu lặng lẽ đưa tay làm vài động tác, ra hiệu không có gì khả nghi.
Lúc này đã là buổi chiều, mặt trời không còn khốc liệt nữa mà đã hơi ửng đỏ. Cỏ lau lay động theo gió, bóng cỏ múa lượn đong đưa. Thi thoảng có cơn gió mát rượi thổi qua mặt hồ mang theo mùi vị tươi mát sảng khoái lùa phớt qua khuôn mặt âm ấm do ngà ngà men rượu của đám người Dương Lăng, khiến cho bọn họ cảm thấy toàn thân thư thái.
Đám nha sai do Trịnh bách hộ phái đến trước đã cải trang phân tán rải rác gần hồ chuẩn bị thuyền hái ấu. Tuy trên hồ có vài du khách, nhưng cũng đều là hai ba người chèo một con thuyền nhỏ, cử chỉ tiêu dao tự tại, nhìn không ra bộ dáng khả nghi nào.
Lúc này đang là mùa ấu nổi rộ, phía trước là mấy khoảnh sen, lá sen xanh biếc bát ngát bao trùm, thỉnh thoảng thấp thoáng những cánh sen trắng nõn hoặc phấn hồng và những củ ấu đã trưởng thành. Lá sen xanh biếc không hề có chút dấu hiệu khô héo điêu tàn, sắc xanh tràn trề một mảng. Có những chiếc lá sen xanh biếc làm nền, những đoá sen gần như bị che khuất lại càng thêm phần xinh đẹp.
Ngô Tế Uyên dẫn đoàn người đến ngồi nghỉ chân dưới một mái đình nhỏ, cười
nói:
- Đại nhân thích yên tĩnh du ngoạn hồ, cho nên thảo dân cũng không dám quá khoa trương. Thảo dân đã kêu Liêu quản sự an bài vài chiếc thuyền lá* nhỏ. Hôm nay chúng ta chèo thuyền hái ấu, dập dờn trong sóng biển sen này một lát, đợi trở về bờ, chúng ta sẽ lại lột ít ấu tươi, nhắm rượu thoả thích một phen. Đại nhân thấy thế nào?
(*: thuyền thon hình chiếc lá)
Trong đám người này Dương Lăng có thân phận và địa vị cao nhất, đương nhiên trên mâm tiệc mọi người không ngừng kính rượu với y, cho nên mặc dù năm lần bảy lượt thoái thác, y vẫn phải uống đến gần say, ngực cũng hơi tưng tức, buồn nôn. Vừa nghe lên bờ rồi còn phải uống tiếp nữa, y không khỏi cười khổ sở không
thôi.
Những khóm sen nơi đây mọc lan tới cả sát bờ. Trên bờ trồng một hàng cây dương liễu, hơn chục chiếc thuyền nho nhỏ được buộc vào đó. Liêu quản sự đã dẫn vài người đứng dưới gốc cây, thấy mấy vị đại nhân đã đến, hắn liền sai người tháo dây thừng buộc thuyền ra.
Ngay lúc này, từ trên hồ bỗng cất lên một giọng ca trong trẻo ngọt ngào, hát rằng:
- Đào hoa hồng lai dương liễu thanh, Thanh thủy đường lý chủng hồng lăng, Muội chủng hồng lăng ca chủng ngẫu, Hồng lăng khiên đáo ngẫu ti căn.
Tạm dịch: Hoa đào đỏ cho liễu thêm xanh, trong ao nước biếc trồng ấu đỏ, em trồng ấu đỏ anh trồng sen, ấu đỏ nối gốc với sen anh.
Tiếng hát ngọt ngào đắm say lòng người, ca từ trong sáng tao nhã, mấy người Dương Lăng nghe xong bất giác đưa mắt nhìn ra hồ, thấy một chiếc thuyền hoa (thuyền trang hoàng rực rỡ để đón đưa du khách) đang lắc lư tiến về phía bờ bên này. Ở đầu thuyền là một người con gái thướt tha áo đỏ váy đỏ, thắt đai lưng màu hồng phấn, cặp chân trần trắng muốt như tuyết, đang vừa múa vừa hát.
Ở đuôi thuyền, thuyền phu đã ngưng chèo, đầu thuyền rẽ biển sen đỏ lá xanh như cắt ngang một tấm gương, khoan thai rẽ sóng vào bờ. Từ trong khoang thuyền, một thư sinh trẻ tuổi mặc áo chẽn xanh nhạt tay cầm chén rượu lảo đảo bước ra, cười nói với thiếu nữ áo đỏ :
- Bài hát thật hay, quả hợp để uống rượu. Chỉ là không biết Liên Nhi cô nương nối tình ấu đỏ là cho vị công tử nào vậy nhỉ?
Người thiếu nữ xinh đẹp áo đỏ như lửa cười khúc khích, giơ tay ném một hạt
sen qua chàng công tử, cất giọng thân mật:
- Đương nhiên là Từ công tử chàng rồi, còn có thể là người nào chứ?
Khuôn mặt của vị công tử đã đỏ bừng, rõ ràng y đã say túy lúy. Nghe nàng nói xong y cất tiếng cười to, mắt lờ đờ ngoái đầu vào trong khoang thuyền bảo:
- Xem Liên Nhi cô nương thực biết nói nhiều câu hay. Có điều đã mở miệng hứa với ta, sao đêm qua ngủ trên giường hoa của nàng lại là Tử Úy huynh thế?
Vốn Cao Văn Tâm nghe giọng hát nọ rất lấy làm thích, nhưng nghe đoạn đối đáp này của bọn họ, nàng biết là mấy thư sinh phong lưu đang mời kỹ nữ thanh lâu du ngoạn trên hồ, không khỏi hơi nhíu mày, mặt lộ vẻ chán ghét.
Lúc này trong khoang lại có một người mặc áo xanh bước ra, tay cầm một chiếc quạt, tuổi độ bốn mươi. Trên nước da trắng trẻo đã lờ mờ có nếp nhăn, mặt ông tuy tươi cười, nhưng dường như từ trong nội tâm vẫn toát ra ngoài một dáng vẻ cô độc.
Ông cười phóng đãng hỏi:
- Sao thế, Xương Cốc mới ngủ với Linh Lung Nhi chưa được một tháng mà đã có ý với Liên Nhi của ta rồi sao?
Thiếu nữ áo đỏ tên gọi Liên Nhi chợt xoay eo thon, nhẹ nhàng lách khỏi bên thư sinh áo xanh nhạt rồi như én về rừng sà vào lòng thư sinh áo xanh, cười ngọt ngào:
- Nói đúng đó, Từ công tử thật không có lương tâm, uổng cho Linh Lung muội muội của thiếp nặng tình với y. Xem khi về thiếp mà không tố cáo y với Linh Lung mới lạ đó...
Thư sinh áo xanh ôm lấy eo nàng ta cười lớn. Lúc quay đầu nhìn lên bờ, vừa trông thấy Cao Văn Tâm, mặt thư sinh nọ chợt ngẩn ngơ. Ánh mắt của vị thư sinh áo xanh tuổi trạc tứ tuần này mờ mịt vì men rượu, nhưng khi ông nhìn kỹ người khác lại vẫn hết sức có thần.
Ánh mắt ông nhìn chằm chằm vào Cao Văn Tâm đang đứng trong đình, quan sát từ trên xuống dưới mấy lượt, trên mặt liền lộ vẻ thích thú, tán tụng:
- Đã lâu chưa từng gặp được cô gái có khí chất u nhã hơn người như vậy. Úi chà, còn là một thị nữ sao? Phủ Tô Châu này người nào lại dùng được thiếu nữ như vậy làm tỳ nữ thế nhỉ?
Ông đập quạt vào tay liên tục, mặt đầy vẻ tiếc hận, thiếu điều sắp đấm ngực giậm chân kêu gào một phen.
Trong khoang nghe tiếng khen ngợi, lập tức lại có hai thư sinh nhào ra. Đi đầu là một người râu ria xồm xoàm, mặc một trường bào màu xanh, chòm râu đen đúa dài chấm ngực, tay y cầm một chén rượu lớn, đủ để so với một chiếc bát con.
Hai người nhìn thấy Cao Văn Tâm, hai mắt lập tức sáng rỡ, thay nhau nói:
- Tử Úy có pháp nhãn, người được khen tất phải bất phàm. Úi chà, quả nhiên đoan trang xinh đẹp, có ý vị khác, đáng để cạn một chén to.
Cao Văn Tâm nghe bọn họ bình phẩm mình từ đầu tới chân, đôi mày lớn không khỏi cau lại. Nếu không vì trước mặt có tới mấy nhân vật có uy tín và danh tiếng, thân là tỳ nữ mà tùy tiện mở miệng sẽ làm mất mặt Dương Lăng thì nàng đã sớm phát tác với mấy thư sinh này rồi.
Ngô Tế Uyên thấy sắc mặt nàng không vui, trong lòng liền trở nên thận trọng. Khi nãy tại tiệm ăn chay Hàn Sơn lão đã tận mắt thấy khâm sai đại nhân cưng chìu nàng như thế nào. Ngô Tế Uyên không sợ nữ tỹ xinh đẹp này không vui mà sợ bọn họ chọc ghẹo khiến khâm sai đại nhân nổi giận. Lão liền vội bước lên một bước quát lớn:
- Hi Triết vô lễ! Không được ăn nói quàng xiên.
Thấy lão gọi thẳng tên tự người đó, xem ra đôi bên đã từng quen biết. Người râu rậm nghe thấy có người gọi mình, liền vội đưa tay lên che trán nheo mắt nhìn kỹ đối phương, đoạn khoái trá cười lớn:
- Hóa ra trước mặt là Ngô ông! Vậy thì tốt rồi, vậy thì tốt rồi! Trưng Trọng, mau lấy hộp tranh của huynh ra, ta muốn vẽ người con gái này, Ngô ông nhất định phải cho phép vãn sinh đấy nhé. Cùng lắm ta về tặng ông một bức tranh sơn thủy là xong.
Ngô Tế Uyên xấu hổ nói với Dương Lăng:
- A hèm... Dương đại nhân! Mấy vị đó là tứ đại tài tử của đất Ngô Trung, ngày thường quen thói phóng đãng, mong đại nhân chớ trách. Vị vận áo xanh tên là Đường Bá Hổ (*), thường ngày buôn tranh bán chữ để mưu sinh. Người này giỏi nhất là vẽ tranh mỹ nữ, có điều tầm mắt rất cao, thường luôn nuối tiếc không có nhân vật đáng để y đặt bút. Cho nên hôm nay trông thấy thị nữ của đại nhân phong tư xuất chúng, hắn nhất thời vui quá nên mới thất lễ, để thảo dân đuổi bọn họ đi là được.
(*) Xem thêm
Ba_Van: Có lẽ tác giả nhầm; kẻ rau rậm tỏ ý muốn vẽ tranh là Chúc Chi Sơn chứ nhỉ!
Dương Lăng vừa nghe ba chữ Đường Bá Hổ, toàn thân không khỏi chấn động. Đường Bá Hổ! Nhân vật thanh danh hiển hách này không ngờ lại đang đứng sờ sờ trước mặt y, Dương Lăng vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Nghe Ngô Tế Uyên muốn đuổi bọn họ đi, y liền vội kéo lại, vui vẻ bảo:
- Không sao, không sao! Ngô tiên sinh mau mời... mời mấy người bọn họ lên đây. Dương mỗ nghe danh tứ đại tài tử Giang Nam đã lâu, hôm nay được gặp mặt thật là có phước. Nếu đuổi bọn họ đi như vậy, thật sẽ tiếc lắm.
Ngô Tế Uyên không ngờ Dương Lăng cũng đã nghe danh của bốn tài tử Ngô Trung, nghe y tán thưởng như vậy, bản thân là người đồng hương, lão cũng có chút vẻ vang lây, bèn vội cao hứng gọi Liêu quản sự cho mời bốn người Đường Bá Hổ lên.
Bốn vị tài tử này bước vào đình, ra mắt Ngô Tế Uyên trước. Trong bốn người
thì Chúc Chi Sơn lớn tuổi nhất, gia cảnh cũng giàu có nhất, qua lại với Ngô phủ rất thân mật, cho nên thoải mái nhất, đi tới chỉ cười hì hì làm lễ một cái, vẫn nâng chén rượu to đùng của y uống không ngừng. Văn Trưng Minh và Từ Trinh Khanh thì tương đối câu nệ hơn.
Dương Lăng quan sát kỹ bốn đại tài tử nổi tiếng gần xa này, nhận thấy Đường Bá Hổ mà y muốn kết giao nhất, khi nãy mặc dù vui quá mà không câu nệ hành vi và thái độ, nhưng sau khi bước vào đình, vừa nghe nói thị nữ đó không phải tỳ nữ của Ngô phủ mà là của vị công tử sang trọng mà ngay cả Ngô Tế Uyên cũng phải cung kính lễ độ, vẻ mặt ông liền lập tức trở nên cẩn trọng. Thần thái đó thật sự không giống với Giang Nam đệ nhất tài tử phong lưu phóng đãng như trong tưởng tượng của y, khiến Dương Lăng vốn mong được gặp "phong thái Đường Giải Nguyên"(1) một lần bèn cảm thấy thất vọng không ít.
Y không biết vị Đường Bá Hổ này trong truyền thuyết dân gian tuy là nhân vật phong lưu phóng đãng, không câu nệ lễ pháp, nhưng thật ra trong số tứ đại tài tử thì Đường Bá Hổ là người có số phận long đong nhất, cuộc sống vô cùng nghèo khổ.
Trong lòng ông tuy ngông cuồng cao ngạo, căm ghét thế tục, nhưng do cuộc sống bức bách nên vẫn phải thường xuyên cúi đầu với người ta, nào còn phóng túng gì nổi chứ?
Vị Đường Giải Nguyên mười sáu tuổi đỗ tú tài, vừa vặn cùng độ tuổi mà Dương Lăng đỗ tú tài, nhưng vận mệnh lại kém xa. Mười chín tuổi ông cưới vợ là Từ Thị, trong nhà mở một quán rượu, sinh hoạt cũng thoải mái.
Thế nhưng về sau tai họa lại theo nhau ập đến. Đầu tiên phụ thân y trúng gió qua đời, mẫu thân vì quá đau buồn nên cũng ra đi theo, không lâu sau em gái lại chết ở nhà chồng. Tiếp đó vợ ông sau khi sinh xong thì sốt cao, vì bệnh mà qua đời, con trai ra đời được gần ba ngày thì cũng theo mẹ mà đi.
Liên tục gặp đả kích như thế, dưới sự giúp đỡ của những bạn bè tốt khó khăn lắm Đường Bá Hổ mới gắng gượng vui sống trở lại, cưới vợ mới là Hà Thị, lao tâm đọc sách. Nhưng khi ông vào kinh thi cử lại bị người ta vu cáo tội đút lót chủ khảo, bị đày vào đại lao. Tuy về sau được thả vì không tra được chứng cứ, song ông lại bị
buộc cả đời không được làm quan.
Vị đại tài tử đa tài đa nghệ này dường như chịu phải lời nguyền của thần vận mệnh, gặp đả kích liên miên khiến ông cửa nát nhà tan, nghèo túng thất vọng, người vợ cũng chê nghèo mà bỏ đi, người em thì lại chạy ra ở riêng chỗ khác.
Đường Bá Hổ tán gia bại sản, thân không của nả, lang thang khắp nơi. Đến thời điểm này ông mới trở về Tô Châu được chưa đầy hai năm, cuộc sống mới vừa có chút khởi sắc. Ông tái giá với một kỹ nữ thanh lâu tên Thẩm Cửu Nương, mưu sinh bằng cách buôn tranh bán chữ.
Dương Lăng nghe ông nói muốn vẽ tranh cho Cao Văn Tâm, không khỏi vui mừng hết đỗi. Y nghĩ, được Đường Bá Hổ vẽ tranh cho là vinh hạnh tới dường nào, nên lập tức không ngần ngại mà đồng ý ngay.
Vốn Đường Bá Hổ thấp thỏm lo lắng y sẽ không chịu đáp ứng, lúc này thấy y gật đầu Đường Bá Hổ cũng lộ rõ vẻ vui sướng trên mặt. Sợ Dương Lăng đổi ý, ông liền vội vui vẻ gọi Văn Trưng Minh mang hộp vẽ tới, rồi lập tức trải sạp để vẽ cho Cao Văn Tâm.
Cao Văn Tâm thấy bọn họ cùng đi chơi kỹ nữ, trong lòng vốn đã không có hảo cảm, giờ lại bảo nàng đứng yên ở đó để người ta vẽ. Trong mắt người con gái xuất thân là tiểu thư khuê các này, việc đó tuyệt không phải là việc vinh dự gì, thế nên trong thâm tâm nàng cực kỳ không bằng lòng.
Dương Lăng thấy thần sắc nàng không vui, bèn bước đến gần nói nhỏ:
- Văn Tâm, chỉ là để người ta vẽ dung mạo thôi, có gì không vui vậy? Tranh vẽ của vị Đường công tử này rất là nổi tiếng đó. Hôm trước tôi đã có được thư pháp của Giang Nam đệ nhất danh kỹ, hôm nay nếu có thể có được tranh vẽ của đệ nhất tài tử Giang Nam này, tương lai sẽ có thể làm báu vật gia truyền. Dung mạo khí chất của cô, vạn người không có lấy một, đành phiền cô chịu khó đứng yên trong chốc lát để ông ta vẽ tranh. Nhiều năm sau lấy ra xem lại, sẽ có ý vị khác đó.
Y nói lời này tự đáy lòng, nhưng Cao Văn Tâm lại hiểu lầm thành ý khác. Nghe
y nói muốn đem tranh vẽ mình làm báu vật gia truyền, để lại cho con cháu đời sau, cái ẩn ý đó... Vừa nghĩ đến đây, con tim nàng liền nhảy thình thịch như trống trận, thế là nàng vui vẻ đồng ý ngay.
Chúc Chi Sơn chỉ biết đứng ở một bên vuốt râu uống rượu. Hành động của vị tài tử luôn đóng vai nhân vật gây cười trong những truyền thuyết về Đường Bá Hổ trông cũng hết sức bình thường, không hề có vẻ gì điên điên khùng khùng cả.
Có điều tửu lượng của hắn thật sự kinh người, ban đầu còn thỉnh thoảng gọi thuyền phu lên thuyền rót thêm rượu cho, sau cùng cứ thế mà bê cả vò rượu lên, ngồi bên thành lan can tự rót tự uống.
Đường Bá Hổ đã sớm trải sạp ra, bắt đầu chăm chú vẽ chân dung Cao Văn Tâm. Văn Trưng Minh, Từ Trinh Khanh và nhóm người Dương Lăng cùng Mạc Thanh Hà cũng đều đứng sau lưng ông hiếu kỳ theo dõi. Trương Phù Bảo lại chê chán, kéo anh nàng cùng ra bờ sông chơi.
Bên này Đường Bá Hổ vừa mới phác thảo vài nét, Chúc Chi Sơn chợt như nghĩ đến điều gì, đột nhiên bỏ chén rượu, nhảy xuống thành lan can la lên quái gở:
- Hỏng rồi, hỏng rồi! Sao ta lại cũng tham dự theo chứ nhỉ? "Thập mỹ đồ" đó thật sự sắp hoàn thành rồi!
Rồi hắn giậm chân la lên:
- Ba trăm lạng ơi là ba trăm lạng! Tính sai rồi! Tính sai rồi! Lần này lão Chúc ta phải đền tiền rồi.
Đường Bá Hổ chỉ ngẩng đầu cười lớn một tiếng rồi lại cúi đầu tiếp tục vẽ tranh, vẻ mặt hơi đắc ý. Dương Lăng phảng phất nhớ dường như có cái "Cửu mỹ đồ"(2) gì đó liên quan đến Đường Bá Hổ, không khỏi lấy làm tò mò hỏi:
- "Thập mỹ đồ" gì vậy? Văn Trưng Minh cười lớn:
- Hôm nay du ngoạn trên hồ là ý tưởng của lão Chúc. Chuyến đi du ngoạn hồ này hao mất ba trăm lạng, y thật sự đã tính sai rồi.
Thấy thân phận Dương Lăng dường như cực kỳ cao quý, nhưng tính tình ôn hoà, không hề có phong thái cao kỳ của con cháu thế gia quyền quý, hắn bèn cười cười giải thích:
- Dương công tử! Hi Triết huynh và Tử Uý huynh đã đánh cuộc, chỉ cần trong vòng một năm Tử Uý huynh có thể vẽ được mười bức tranh mỹ nữ, hơn nữa phải là mỹ nữ mà bốn người chúng ta đều công nhận, thì Hi Triết huynh sẽ thua Tử Uý huynh ba trăm lạng bạc.
Chỉ là mười mỹ nữ này thực khó kiếm à nha! Chùa Huyền Diệu ở Tô Châu có nhiều thiếu nữ tới lui nhất, Đường huynh thường hay đến nơi đó ngồi canh chừng, nhìn thấy tuyệt sắc giai nhân chân chính nào liền ghi nhớ kỹ trong lòng, sau đó vẽ lại. Nhưng mà tin tức này dần dần bị tiết lộ, nhà ai có nữ quyến định đến chùa dâng hương đều sai người đuổi vị đại tài tử này đi trước.
Kết quả là sau bảy tháng đầu tiên, Tử Uý huynh đã có thể vẽ được chín mỹ nữ, nhưng người thứ mười lại tìm mãi không thấy. Chúng tôi cứ tưởng rằng lần này Tử Uý huynh sẽ thua rồi, nào ngờ hôm nay lại có duyên gặp được vị cô nương của quý phủ đây. Ha ha, đây cũng xem như là ý trời, muốn Hi Triết huynh đưa bạc cho Tử Uý huynh tiêu dùng.
Dương Lăng nghe vậy cũng cảm thấy mắc cười, thì ra đám tài tử này cũng giống như những người bình thường khác, lúc ăn không ngồi rồi cũng lấy mỹ nữ ra làm đề tài câu chuyện, không ngờ còn dùng nó để đánh cuộc.
Y ngồi xổm bên cạnh Đường Bá Hổ, thấy bút pháp tuyệt diệu của ông hất lên móc xuống, bức tranh trong tay đã vẽ được sáu phần, tuy mắt mũi ngũ quan vẫn mới chỉ được hoạ phác đơn giản, vẫn cần phải chấm phá thêm, nhân vật cũng hãy còn chưa tô màu, nhưng một mỹ nữ sinh động như thật đã dần hiện ra trên trang giấy. Thấy vậy y không khỏi ngợi khen:
- Nhân vật của Đường huynh vẽ quả nhiên giống như đúc, bút lực quả thực bất
phàm.
Đang vẽ say sưa, Đường Bá Hổ nghe vậy mặt liền tươi rói, đáp:
- Dương công tử quá khen! Mỹ nữ tập trung thiên địa linh khí, bản thân đã là một bức tranh sáng đẹp tuyệt luân, tại hạ chẳng qua chỉ lấy bút trong tay vẽ một phần vạn nét phong tình của họ mà thôi. Cái tĩnh của mỹ nữ thì thanh nhã u khiết, còn cái động của mỹ nữ lại bay bổng như hạc. Mái tóc, chân mày, cặp mắt, đôi môi, làn da, cần cổ, tấm eo, đôi chân, không chỗ nào không thể vẽ nên tranh. Vẻ đẹp ấy có thể họa vào thơ, có thể nhập vào trong tranh vẽ, có thể hoà vào rượu, còn có thể bước vào mộng nữa thay.
Dương Lăng không ngờ vị đại tài tử này nói đến mỹ nữ lại cũng có bài bản như vậy. Văn Trưng Minh cũng là cao thủ về hội hoạ, có nhận thức bất phàm về hội hoạ nên có thể lý giải được cái ý trong lời Đường Bá Hổ, vả lại hắn cũng cực kỳ sùng bái kỹ xảo vẽ chân dung của Đường Bá Hổ.
Lúc này thấy Dương Lăng tràn đầy thích thú, trong lòng hắn có cảm giác như gặp người đồng đạo, liền hào hứng nói với Dương Lăng:
- Dương công tử hãy đợi một chút, trên thuyền hoa có một bức tranh tuyệt diệu mà Tử Uý mới vẽ đêm qua, để tôi lấy cho công tử xem!
Đường Bá Hổ phong lưu phóng khoáng. Tuy ông đã cưới người bạn thân thiết chốn khuê phòng của Liên Nhi cô nương là Thẩm Cửu Nương làm vợ, nhưng vẫn thường lưu luyến chốn thanh lâu. Những cô nương này cũng mến tài nghệ của ông nên cũng chưa từng đòi tiền qua đêm, vị Liên Nhi cô nương này cũng là một người ái mộ ông.
Nàng mắt to môi đỏ, da trắng như mỡ, cũng là một mỹ nhân, tuy nhiên hôm nay Đường Bá Hổ vừa thấy Cao Văn Tâm liền miệng khen không ngớt, Liên Nhi tự thấy tư sắc thua người nên vẫn luôn đứng một bên, trề môi vẻ không vui lắm. Bây giờ nghe Văn Trưng Minh nói muốn lấy bức vẽ đêm qua, tuy tức giận, nhưng nàng vẫn không nén khỏi đỏ mặt, hung hăng trừng mắt với hắn, dường như có chút ngượng ngùng.
Văn Trưng Minh hấp tấp chạy về thuyền hoa lấy một cuộn tranh. Hắn trở vào trong đình, mới vừa giở cuộn tranh vẽ ra một nửa, một cơn gió lùa tới suýt nữa thổi rách bức vẽ. Văn Trưng Minh liền kéo Đường Bá Hổ nói:
- Tử Uý huynh ngừng một chút đi! Để Dương công tử kiến thức bức tranh phong nguyệt mà huynh vẽ ngày hôm qua một chút.
Văn Trưng Minh nói xong, liền đoạt lấy bàn vẽ trong tay Đường Bá Hổ, giở cuộn tranh trong tay ra đặt lên trên. Dương Lăng vừa nhìn thì thấy bức tranh đó tịnh không phải là tranh đen trắng, mà dùng thuốc màu sơn lên. Trong tranh vẽ một mỹ nữ khỏa thân dáng vóc nẩy nở rung động lòng người, người con gái đó nửa quỳ trên chiếc giường nhỏ, một dải lụa đỏ vắt ngang eo, một tay che chỗ xấu hổ, eo thon hơi trũng xuống, cặp mắt yêu kiều ngoái nhìn ra sau, trong nét mặt đó có thể lờ mờ nhìn ra người thiếu nữ chính là vị Liên Nhi cô nương nọ.
Phía sau là một nam tử đang nằm chồm sấp trên mông nàng trong trạng thái giao hợp, cạnh bên có lưu hai hàng chữ như rồng bay phượng múa: "Bán liêm thanh phong, nhất tháp minh nguyệt, bán tự hàm tu bán thôi thoát, hồi đầu đinh ninh khinh ta cá, bất tỉ tầm thường lãng phong nguyệt"*. Không ngờ bức tranh này lại là một xuân cung đồ kiều diễm mê người.
(* Tạm dịch: nửa mành gió mát, một mảnh trăng thanh, nửa như e ấp nửa như khước từ, ngoảnh đầu khẽ dặn vài câu, không như cảnh sắc gió trăng tầm thường)
Dương Lăng chưa từng nghe nói đại tài tử Đường Bá Hổ vẽ tranh xuân cung, y ngẩn người nhìn chằm chằm vào bức tranh, vừa chỉ tay vào vừa lắp bắp hỏi:
- Đây... đây là của Đường huynh vẽ sao? Văn Trưng Minh cười đáp:
- Đúng vậy! Nét vẽ tinh tế tỉ mỉ, nhân vật sinh động có thần, tranh xuân cung mà Đường huynh vẽ không dưới trăm bức, song đây là bức vẽ mà tại hạ thích nhất, nên đã xin y. Tại hạ và Dương công tử tuy vừa gặp mặt nhưng như đã quen lâu, nếu như công tử thích, tại hạ xin tặng cho công tử, không biết công tử thấy thế nào?
Dương Lăng cười gượng:
- Ơ... Đệ nhất tài tử Giang Nam cũng vẽ loại tranh này sao? Ha ha, đúng là nằm ngoài dự liệu của tại hạ.
Từ Trinh Khanh cười nói:
- Nghe khẩu âm của công tử, đoán là người đến từ phương Bắc nên không biết tập tục phương Nam. Vẽ tranh này cũng không có gì cả, thật ra rất nhiều tiểu thư khuê các cũng sao đi vẽ lại tranh xuân cung này đấy. Có điều những bức được chính tay Tử Uý huynh vẽ ra đều có thể gọi là trân phẩm, khắp phố phường đều tranh giành đấy!
Đường Bá Hổ dường như cũng rất là hài lòng với bức tranh này, ông lấy bản vẽ lại, xoa nhẹ lên bức tranh cười nói:
- Nào chỉ ở phương Nam, cho dù vùng phụ cận kinh sư cũng học theo tập tục này đấy chứ. Đa số nữ tử khéo tay của Thiên Tân vệ đều tinh thông môn này, chẳng những thường ngày vẽ tranh, mỗi khi đến cuối năm còn vẽ tranh xuân cung đem ra chợ bán, bản địa gọi họ là "Nữ nhi xuân". Dương công tử đến từ phương Bắc, chẳng lẽ không biết chuyện này ư?
Cao Văn Tâm ngồi nghiêng trên lan can mái đình, nhìn chăm chăm vào khói sông trên Thái Hồ theo sự hướng dẫn của Đường Bá Hổ để cho ông ta vẽ. Nàng đã ngồi yên một hồi lâu nên cảm thấy vai và cổ hơi mỏi, vừa quay đầu cho mau huyết lưu thông đột nhiên nhìn thấy Dương Lăng và mấy thư sinh đang chỉ chỉ trỏ trỏ vào bức tranh, thậm chí Ngô Tế Uyên và Mạc Thanh Hà cũng đang đứng sau đám người kiễng chân lên xem.
Nàng tưởng bức chân dung đã vẽ xong rồi nên mừng rỡ đứng dậy, đi lại gần mọi người, vui vẻ hỏi:
- Đường công tử đã vẽ xong rồi à?
Cao Văn Tâm vừa hỏi vừa cúi đầu nhìn bức tranh, mặc dù nhìn ngược xuống,
nhưng tổng thể bức tranh vẽ gì nàng vừa liếc mắt liền nhận ra ngay. Khuôn mặt xinh xắn của nàng liền thoáng trắng bệch, mặt cắt không còn giọt máu, liền tiếp đó lại đột nhiên đỏ bừng, cả người cũng phát run lên.
Nàng vạn lần không ngờ kẻ này lại dùng tướng mạo của nàng để vẽ ra một bức tranh sỉ nhục như vậy. Cao Văn Tâm giận đến choáng váng mặt mày, không chút nghĩ ngợi nàng vung tay tát bốp một bạt tai vào mặt Đường Bá Hổ, giận dữ mắng:
- Đồ vô sỉ!
Cao Văn Tâm mắng xong, hai hàng lệ đã không nén được mà trào ra. Điều khiến cho nàng đau lòng khôn xiết chính là: Dương Lăng chẳng những không nổi giận, mà không ngờ... không ngờ cũng hùa với người ngoài chỉ chỉ trỏ trỏ lên bức tranh. Nếu như y thật sự thích mình, xem mình như nữ nhân của y, sao y lại có thể đối xử với mình như vậy, mặc cho mình bị người ta khinh thị?
Nghĩ đến đây, Cao Văn Tâm đau lòng như cắt. Hai tay ôm mặt, nàng xoay người lao về phía bờ hồ.
Chú thích:
(1) vì Đường Bá Hổ đỗ giải Nguyên (đỗ đầu trong kỳ thi Hương) nên được gọi là Đường "Giải Nguyên"
(2) "Cửu mỹ đồ" kể về chuyện tình giữa Đường Bá Hổ và Thu Hương
Ai nói phụ nữ "chân yếu tay mềm"? Cú tát của Cao Văn Tâm vừa giáng xuống tức thì má trái của Đường Bá Hổ lập tức "nở hoa". Đã bị người ta đánh còn bị mắng là bỉ ổi, đệ nhất tài tử Giang Nam phong lưu đa trí như ông cũng bị đòn đến sững người.
Dương Lăng trông thấy bộ dạng của ông ta như vậy, không khỏi thầm kêu may mắn trong lòng: may mà chỗ ngày đó Văn Tâm đánh chỉ là cái mông của mình, chứ nếu mặt mình bị ăn cái tát như vậy thì e rằng suốt ba ngày cũng đừng hòng gặp ai!
Điều Cao Văn Tâm đau lòng nhất chính là không ngờ nàng bị chính người nàng luôn quan tâm trong tâm tưởng đã quá khinh rẻ và sỉ nhục nàng đến thế. Lệ tuôn đầy mặt, nàng lao về phía bờ hồ, chỉ muốn trầm mình vào dòng khói sóng mênh mông cho kết thúc mọi chuyện từ đây.
Những thuyền phu đang kéo thuyền bên bờ hồ có một nửa là nha sai nội xưởng hoá trang. Vừa thấy người tỳ nữ luôn như hình với bóng với xưởng đốc đại nhân ôm mặt chạy tới, còn Dương khâm sai vừa đuổi theo vừa kêu to cứu người, lập tức có hai gã tráng niên cải trang thành ngư phủ sóng vai bước tới trước cản Văn Tâm lại, cười nói:
- Cô nương, xin dừng bước! Cao Văn Tâm quát:
- Tránh ra cho ta!
Vừa quát vừa đưa tay đẩy. Tay còn chưa chạm ngực hai nha sai đó, eo thon chợt bị siết chặt, cả người đã bị nhấc bổng lên.
Cao Văn Tâm vừa sợ vừa giận, vùng vẫy kêu la:
- Thả ta ra, ngươi thả ta ra!
Ngoái đầu trông thấy chính Dương Lăng đang ôm eo mình nhấc bổng lên, lập tức hành động vùng vằng của nàng tức thì yếu đi vài phần, hai chân vốn đang dãy đạp về phía sau cũng buông lỏng xuống.
Thừa thế Dương Lăng bước thêm vài bước vòng ra sau một gốc liễu xù xì thấp bé đoạn đặt Cao Văn Tâm xuống, nói vội:
- Đại tiểu thư của tôi ơi! Cô gây náo loạn quá chừng rồi! Đã hiểu lầm rồi, hiểu lầm rồi!
Đám người Mạc Thanh Hà, Ngô Tế Uyên và tứ đại tài tử đang đứng ở trong đình nhìn về phía cây liễu trông thấy mỹ nhân đáo để nọ chợt ló đầu ra dường như muốn bỏ chạy đi, ngay lúc đó hai cánh tay đột nhiên vươn ra, ôm lấy eo cô nàng kéo trở lại.
Sau đó, do gốc liễu che khuất tầm mắt nên cả bọn chỉ có thể nhìn thấy nửa bóng lưng của hai người. Họ thấy rõ phần bóng lưng của khâm sai Dương đại nhân - xưởng đốc Nội xưởng, thống lĩnh thân quân phụng chỉ tuần sát - thoạt khom thoạt thẳng như đang cúi người vái lạy, không ngừng xin tha thứ. Đám nha sai Nội xưởng thấy vậy, lòng chợt cảm thấy như bị kim chích, lập tức không hẹn mà cùng xoay người đi vờ như không thấy.
Vị tài tử râu dài họ Chúc cũng không uống rượu nữa. Hắn vuốt chòm râu dài, cố sức rướn cổ nhìn, chỉ thấy hai bóng người sau gốc cây ban đầu thì xô xô đẩy đẩy, tiếp đó càng lúc càng nhích gần lại nhau, cuối cùng trừ hai gót chân ra, cả bóng lưng cũng không nhìn thấy được nữa.
Bỗng một cơn gió thổi tới, hắn mới thấy một dải thắt lưng lụa tung bay sau gốc cây, áo choàng Dương Lăng khẽ lay động, bèn không khỏi đảo mắt nhướng mày, chớp mắt nói to:
- Đường Giải Nguyên mau lấy bút ra ! Lão Chúc thấy hình như sắp diễn xuân cung trực tiếp rồi.
Văn Trưng Minh huých khuỷ tay vào người y, mắng khẽ:
- Lo uống thứ rượu vàng quí hóa(*) của huynh đi. Ngô ông và khách quý của phủ ông ấy cũng đang ở đây đó.
(*):nguyên văn là "hoàng thang" (rượu vàng), cụm từ này được sử dụng với hàm ý chê trách người say sưa.
Từ Trinh Khanh cũng gượng cười nói:
- Vị tỳ nữ đó tuy không phải thiên kim thế gia vọng tộc nhưng xem ra cũng cực kỳ tự trọng tự ái. Lão Chúc hãy cẩn thận cái miệng, kẻo lại bị như Đường huynh...
Đường Bá Hổ nghe vậy bèn xoa cái má đang đau rát mà cười khổ một hồi. Xem ra mình đã ăn không cái tát này một cách oan uổng rồi, còn e rằng mấy bằng hữu to mồm không có lòng dạ này sẽ mang chuyện đi rêu rao khắp chốn một phen. Có điều bọn họ là người phóng đãng không chịu gò bó, tạm thời xảy ra một chuyện phong lưu ân ái cũng không thấy mất thể diện gì.
Dương Lăng vừa giải thích vừa dỗ dành. Hồi lâu, cũng không biết do chưa hết giận hay Cao Văn Tâm vẫn muốn được hưởng cảm giác dựa vào lòng y, bị Dương Lăng ôm chặt, nàng nép sát vào người y như một chú chim nhỏ, lại thút thít một hồi, rồi mới uất ức nói:
- Cho dù bọn họ và lão gia vừa gặp như đã quen lâu, cũng không có lý gì... đem tranh vẽ trộm rêu rao khắp nơi. Vị Liên Nhi cô nương đó xuất thân thanh lâu thì bọn họ sẽ phơi bày nàng ta với người khác một cách tuỳ tiện sao? Chỉ là ngang ngạnh phóng đãng thôi ư? Đó còn không phải là sỉ nhục người ta à? Con đường làm quan của bọn họ không thuận lợi nên mới vờ mượn tiếng phong lưu mà khinh nhờn thế tục, chung quy vẫn là khinh bạc, không giữ đức hạnh, không tuân thủ khuôn phép.
Trong triều hiện đang có không biết bao nhiêu kẻ đang nhìn chòng chọc vào lão gia, muốn bươi móc tìm kiếm khuyết điểm của lão gia. Lão gia thật sự không nên kết
giao thân thiết với bọn họ quá.
Lời Cao Văn Tâm nói rất có lý. Những hành vi phóng đãng của mấy tài tử này nếu đặt ở đời sau thì mọi người sẽ chỉ cảm thấy đó là sự phản kháng đối với lễ giáo phong kiến; ai nấy chỉ hăng say bàn về những chuyện phong lưu mà bọn họ mơ mộng, cho rằng ông trời ghen ghét bậc kỳ tài, khiến họ chịu phải cảnh bất công; mà không biết hành động sa ngã của bọn họ, tuy trong mắt người đương thời cũng tạo được những câu chuyện thú vị để mọi người say sưa bàn tán nhưng bọn họ cũng đã tự tuyệt hoạn lộ rồi: có đủ loại "kiến thức" này, làm sao còn có thể gặp mặt triều đình?
Nói trắng ra, hành vi của bọn họ là khoe mẽ, là hình ảnh không tao nhã. Mọi người có thể dùng nó làm đề tài chuyện trò trong những lúc trà dư tửu hậu, song không ai coi kiểu "minh tinh" này là rường cột của xã hội cả.
Tâm tình bị kích động lúc mới gặp tứ đại tài tử đã hơi bình phục, Dương Lăng đột nhiên tỉnh ngộ. Ví như mình si mê thanh danh đời sau của bọn họ mà đàng đúm cùng bọn họ, vậy há chẳng phải mình đang tạo cơ hội cho những kẻ đang nhìn mình chằm chằm như hổ đói muốn dồn mình vào chỗ chết sao?
Dương Lăng thở dài một hơi rồi nắm chặt cổ tay Văn Tâm, chân thành:
- Văn Tâm, cô nói đúng! Bất luận thế nào, với thân phận của tôi mà cùng bọn họ công khai thảo luận những thứ này như vậy thì quả là đã hơi khinh xuất mất rồi. Đến Giang Nam một khoảng thời gian, thoát khỏi những chuyện minh tranh ám đấu trong triều, tôi thật sự đã có hơi sơ ý rồi.
Cao Văn Tâm được y vừa dỗ dành vừa khuyên giải, biết rằng mình đã hiểu lầm, nộ khí trong lòng sớm đã tan đi, lại nghe y nói với giọng chân thành, ngược lại hơi cảm thấy áy náy trong lòng. Nàng đỏ mặt rụt tay về, mắng khẽ:
- Bị lão gia nắm đau quá đi! Tiểu tỳ đã không tính nhảy xuống hồ nữa, người còn kéo tiểu tỳ làm gì?
Dương Lăng bật cười ha hả, buông tay ra nói:
- Đi thôi, trở về thôi! Mấy người Mạc công công và Ngô tiên sinh nhất định đang lo lắng lắm đây.
Cao Văn Tâm cúi đầu, di di chiếc giày thêu trên mặt đất, ngượng nghịu:
- Tiểu... tiểu tỳ ngại lắm! Lão gia muốn du ngoạn hồ thì tiểu tỳ chờ lão gia ở đây là được rồi.
Dương Lăng cười nói:
- Loại thuyền nhỏ đó một chiếc chở được hai người. Hôm nay tôi chèo thuyền để cô rong chơi vui vẻ một ngày, có được không?
Cao Văn Tâm ngẩng đầu, mừng rỡ nhìn y, rồi lập tức chần chừ:
- Lão gia, tiểu tỳ chỉ là hạ nhân, lão gia... lão gia không cần phải khách sáo với tiểu tỳ như vậy.
Dương Lăng thở dài một hơi, đoạn cười trêu:
- Cao đại tiểu thư à, từ khi đón cô vào nhà đến giờ, cô nói xem, tôi có từng xem cô như tỳ nữ chưa? Còn dùng kiểu nói này với tôi nữa, cô sẽ tự thẹn với lòng thôi.
Khuôn mặt xinh xắn của Cao Văn Tâm thoáng đỏ lên, nàng khẽ hé môi nhưng lại không nói được lời nào. Dương Lăng mỉm cười, xoay người đi về phía mái đình.
Dương Lăng cao đầu ưỡn ngực bước vào trong đình. Ngô Tế Uyên lật đật bước lên hỏi han:
- Đại... Dương công tử, à... Cao cô nương đã hết giận chưa? Dương Lăng khoát tay, ra vẻ bất cần:
- Phụ nữ ấy mà, thật không hiểu ra sao cả! Bị tại hạ dạy dỗ cho một trận, giờ cô ta đã ngoan ngoãn hơn nhiều rồi.
Mạc Thanh Hà bật ho khan vài tiếng, cố nhịn cười, sau đó quay đầu đánh xoạt
một cái về phía Thái Hồ, chắp hai tay sau lưng ra vẻ đang thưởng thức phong cảnh.
Dương Lăng vẫn không hay bộ dạng trốn sau gốc cây cúi đầu thi lễ của mình đã sớm bị người ta thu vào trong mắt, y quay sang Đường Bá Hổ cười áy náy:
- Đường huynh! Thật xin lỗi, tiểu đệ quản giáo không nghiêm, để tỳ nữ đó ra tay tổn thương Đường huynh, thật rất lấy làm hổ thẹn.
Đường Bá Hổ cười khan hai tiếng, đáp:
- Không sao không sao! Nếu không được tặng một cái tát này, Đường mỗ còn hòng thấy hình ảnh mê người như vậy được ư?
Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:
- Hình ảnh gì? Đường huynh đã lại vẽ một bức tranh sao? Đường Bá Hổ vội vàng nhoẻn cười đáp:
- Không dám không dám, không có không có, ờ... Có điều bức Thập mỹ đồ này, tại hạ đã có ý tưởng mới rồi, song cần phải chỉnh sửa một chút. E rằng khó có thể hoàn thành trong hôm nay...
Dương Lăng vội nói:
- Không vội không vội! Không biết Đường huynh vẽ tranh, một bức ra giá bao nhiêu? Huynh cứ việc về nhà vẽ, trở về tại hạ sẽ cho người đến lấy, ngân lượng văn tiền không thành vấn đề.
Đường Bá Hổ liền đáp:
- Dương công tử! Tuy bức tranh này mượn ý từ cô tỳ nữ của phủ công tử, nhưng nó lại là của tại hạ. Thập mỹ đồ này tại hạ quyết sẽ không bán lẻ, mong công tử lượng thứ.
Thời ấy còn chưa có bản quyền tranh chân dung, Đường Bá Hổ nói một cách đầy lý lẽ khiến Dương Lăng cũng không cảm thấy có gì không đúng. Y nghĩ tranh
của Đường Bá Hổ giá trị liên thành, vậy nếu y muốn lấy cả bộ Thập mỹ đồ thì không biết phải tiêu tốn hết bao nhiêu bạc cho đủ? Nhưng y lại không muốn để bức tranh của Cao Văn Tâm bị kẻ khác mang đi.
Dương Lăng không khỏi do dự:
- Như vậy những bức Thập mỹ đồ này, không biết Đường huynh muốn giá bao nhiêu mới chịu bán ra?
Nhìn bộ dạng cung kính mà Ngô Tế Uyên đối đãi với y, Đường Bá Hổ đã sớm kết luận người này hẳn là công tử tôn quý rất có thân phận. Có thể khiến phú hộ số một Tô Châu kính cẩn nghe lời như vậy, nói không chừng y còn là hào phú kinh sư, cho nên ông nảy ý muốn kiếm chác một mớ. Đường Bá Hổ vừa chăm chú nhìn thần sắc của Dương Lăng, vừa ngập ngừng nói:
- Việc này à... Tập hợp Thập mỹ đồ rất ư không dễ, Đường mỗ cũng đã hao tốn gần một năm trời, cho nên giá bán ra so với bán lẻ từng bức tranh có đắt hơn một chút. Ít nhất cũng phải năm... năm...
Những bức mà Đường Bá Hổ dày công ra vẽ cùng lắm cũng chỉ rao giá hai mươi lạng. Mặc dầu Thập mỹ đồ khó kiếm, nhưng đòi đến năm trăm lạng thì bản thân ông cũng cảm thấy có phần quá cao rồi. Nhưng hiếm khi gặp phải một kẻ không tiếc bỏ tiền như thế này, nhìn Dương Lăng cưng yêu người tỳ nữ xinh đẹp nọ như vậy, khẳng định là một công tử phú gia thương hoa tiếc ngọc. Cơ hội này thật sự khó mà có được.
Ông vừa ngập ngừng đang muốn nói giá thì Ngô Tế Uyên nghe được, trong lòng đã sáng tỏ. Gần đây lão bị gã phú hộ mới nổi Lý Quý chèn ép kịch liệt, vậy mà Bố chánh sứ và tri phủ Tô Châu bình thường vẫn nhận của lão từng món bạc lớn ấy lại vẫn ngoảnh mặt làm ngơ, nếu như lão có thể bấu víu vào cái gốc cây cao như Dương Lăng này, ai còn dám khi dễ Ngô phủ nữa chứ?
Nếu như Đường Bá Hổ ra giá thấp thì dù lão có mua tặng cho Dương Lăng cũng chẳng biểu lộ được lòng thành, thế là lão vội lật đật cướp lời:
- Năm ngàn lạng? Được, Đường Giải Nguyên hãy mau vẽ Thập mỹ đồ đi, ta sẽ lấy năm ngàn lạng bạc mua nó.
Nói xong lão cười nịnh với Dương Lăng:
- Đợi tôi nhận Thập mỹ đồ này rồi, sẽ cho người đem đến phủ tặng cho công tử. Nghe vậy rất mừng rỡ, Đường Bá Hổ giơ bức tranh trong tay lên, nói:
- Được, vậy Đường mỗ sẽ tặng miễn phí bức "Nguyệt Dạ Hậu Đình Hoa"* này, đến lúc đó nhất định sẽ đưa đến quý phủ." (*tạm dịch: Khúc nhạc Hậu Đình Hoa trong đêm trăng; Hậu Đình Hoa cũng là một vở kịch nổi tiếng, có nhiều phiên bản)
Dương Lăng nghe mà không biết nên khóc hay nên cười. Y gãi nhẹ mũi, ngắm bức tranh một lúc lâu rồi hỏi:
- Bức tranh này của Đường huynh là... Hậu Đình Hoa à? Ha ha, vị nhân huynh trong tranh che thật đến kín, thật sự là không nhìn thấy được gì.
Đường Bá Hổ vừa nghe Dương Lăng khơi ra khuyết điểm của bức tranh mình vẽ liền có phần nôn nóng, ông ra vẻ nghiêm túc nói:
- Vẽ là phải chú trọng đến cái đẹp của hàm súc, cái thần của ý cảnh. Công tử không thấy một tay của mỹ nhân che chỗ xấu hổ đó ư? "Có người ngư phu đến hỏi, Đào Nguyên giờ ở chốn nào?" Công tử còn chưa hiểu rõ ý sao?
Chúc Chi Sơn và hai người đàn ông háo sắc còn lại nhất tề đắc ý cười dâm, phụ họa:
- Chí phải, chí phải! Huống chi còn có câu này: "Quay đầu khẽ dặn vài câu, nào như trăng gió phong lưu bình thường...", chính là kỹ thuật điểm mắt(1) đấy nhé!
Dương Lăng nghe vậy, trong lòng phát lạnh: "Đây là những đại tài tử của lòng mình à, thần tượng lớn đấy ư? Mấy người cũng... cũng thật... Khó trách sao mấy người không làm quan cho nổi, thì ra có bao nhiêu tài hoa mấy người đều dùng vào khía cạnh này hết cả rồi."
***
Một mảng sen xanh bồng bềnh gợn sóng. Thấp thoáng gần xa, vài chiếc thuyền nhỏ đang chèo trong những khóm lá sen xanh biếc cao tới gối trên mặt nước mà nếu không đứng lên thì sẽ khó thấy được nhau.
Trịnh bách hộ và hơn hai mươi tay nha sai chèo trên những con thuyền nhỏ ra xa, bao quanh vùng này lại, đề phòng du khách xâm nhập. Huynh muội thiên sư một thuyền, Mạc Thanh Hà và Ngô Tế Uyên một thuyền còn Dương Lăng quả nhiên đã thực hiện lời hứa, tự chèo một chiếc thuyền nhỏ cùng Cao Văn Tâm dập dờn trong những con sóng sen liên miên bất tuyệt.
Cao Văn Tâm vui vẻ ngồi ở đầu thuyền, vốc nước hồ trong vắt rót lên những chiếc lá sen xanh ngát. Nước hồ chảy tràn, phần nước còn lại dần dần ngưng tụ lại thành những giọt nước nhỏ tròn trĩnh, xinh xinh. Thuyền trôi nhẹ về phía trước, những chiếc lá ấu rậm rạp gặp phải áp lực nước, tự động rẽ sang hai bên.
Từng đoá hoa ấu trắng tinh lung linh xinh xắn điểm xuyết giữa những bông sen đỏ lá xanh, trang nhã mà tươi mát. Cao Văn Tâm bươi gốc ấu ra, vui thích tìm từng trái ấu đỏ hồng, ngắt lấy bỏ lên váy, đã gom được hai vốc lớn.
Bỗng nhiên, một con cá lớn bị kinh động nhảy vọt lên khỏi mặt nước, vẽ thành một hình cung ngay dưới mắt Cao Văn Tâm, rồi quẫy đuôi đánh "ùm" xuống nước, bụi nước bắn lên tung toé một mảng, làm cho nàng giật nảy mình. Dương Lăng thấy vậy không nhịn được bèn cười to.
Cao Văn Tâm yêu kiều lườm y, nét mặt cực kỳ quyến rũ. Mái tóc đen mướt như gương trên trán hơi bị rối xoà, bọt nước trong vắt óng ánh thấm trên gò má trắng ngần diễm lệ, như thể từ trong da thịt tiết ra. Dương Lăng thấy vậy hai mắt sáng rực, y vừa tính mở miệng khen nàng nhưng lại kịp thời ngậm miệng lại.
Trông thấy vẻ mặt của y, khoé mắt Cao Văn Tâm thấp thoáng một tia hờn oán.
Nàng cầm một củ ấu đỏ lên, cúi đầu ngâm khẽ:
- Lăng nhi cá cá tương y sanh, thu thủy hữu tình tổng giác lãnh. (- Tạm dịch:
Ấu kia mỗi củ nương tựa vào nhau mà sống, làn thu thủy có tình mà sao vẫn thấy chán chường.)
Dịch thơ: Ấu kia sống tựa vào nhau, mắt ai sóng sánh mà sao đượm buồn. (TheJoker)
Miệng ngâm thơ, khoé mắt nàng lại trộm ngắm Dương Lăng.
Dương đại lão gia chân thành phối hợp, liền vội ra sức vỗ tay bôm bốp khen hay:
- Thơ hay, thơ hay...
Cao Văn Tâm hơi thất vọng: "Lão gia đang giả vờ hay thật sự không hiểu vậy?
Không phải mười sáu tuổi y đã đỗ đầu kỳ thi tú tài của Tuyên phủ hay sao?"
Dương Lăng lại không hay biết Cao Văn Tâm đang mượn thơ khêu tình. Y vỗ tay xong nhưng thấy Cao Văn Tâm vẫn hơi phiền muộn không vui, bèn ngượng ngập buông tay nói:
- Chèo nãy giờ cũng hơi đói rồi. Tới đây, chúng ta ăn tí gì trước đi.
Cao Văn Tâm ngoan ngoãn đồng ý, gom mấy củ ấu lại, bước đến giữa thuyền ngồi xuống, đưa tay qua cầm lấy hộp đồ ăn sơn màu sáng bóng. Hộp đồ ăn tổng cộng có bốn tầng, nàng lấy từng món bên trong ra, đặt lên chiếc bàn nhỏ ở giữa.
Đáy loại hộp đồ ăn này của Ngô phủ làm bằng sắt, bên trong đặt than nóng, bên trên là một tầng cách thủy, cho nên để lâu như vậy mà đồ ăn trong hộp vẫn nóng hổi. Người miền Nam ăn uống luôn chú trọng đến sự tinh tế, mỗi loại đồ ăn trong hộp không nhiều, đại khái chỉ đủ vài miếng, song lại rất đa dạng. Đĩa đầu tiên là một miếng thịt vuông vức, dày cộp, thơm phức, béo ngậy, miếng da lợn lại óng ánh sắc vàng, khiến người ta vừa trông thấy đã phát thèm. Đó chính là một miếng thịt Đông Pha(2).
Món thứ hai là Tôm Bóc Vỏ Động Đình, dùng đặc sản "Hách Sát Nhân Hương"
(3) của Động Đình Hồ nấu chung với tôm sông mà thành, sắc, hương, vị tuyệt cả.
Giống như Chè Khoai Môn Hương Quế, Chả Giò Rán, Đậu Hũ Chiên Giòn, Bánh Bao Hấp, Vịt Kho, Lương Bung, món này thể hiện rõ đặc điểm văn hóa Đông Ngô: tinh, nhã, tế (tỉ mỉ), xảo (khéo).
Thuyền dập dờn trên sóng, hái sen giữa rừng hoa, cao lương mỹ tửu, lại có áo hồng thêm hương, cho dù không uống cũng say. Huống hồ chung quanh lá sen cao vút trên mặt nước, giữa nơi đây lại chỉ riêng mình cùng một mỹ nhân xinh đẹp khéo cười bầu bạn.
Nghĩ đến dáng vẻ giận dữ của Cao Văn Tâm khi nãy, Dương Lăng thầm nổi lòng "xấu xa", muốn "dạy dỗ" nàng một phen, nên y bèn giở điệu bộ lão gia ép nàng cũng phải uống mấy chén.
Cao Văn Tâm không thoái thác được, đành phải uống vài chén rượu. Rượu thuần thấm vào bao tử, hai má nàng ửng lên một màu đỏ xinh đẹp, thấy vậy Dương Lăng thầm đắc ý trong lòng. Nhưng đã ép người ta uống rượu, y cũng không thể không uống, kết quả là rượu trong chiếc bình bằng thiết đã được uống sạch trơn.
Dương Lăng đã cảm thấy đầu nặng chân nhẹ mà Cao đại tiểu thư nhà người ta, mặc dù màu da như được phết thêm một lớp son, đôi mắt lại càng lúc càng sáng, lại không hề có vẻ gì là say. Lúc này Dương Lăng mới biết tửu lượng Cao đại tiểu thư khá cao, thế là y không khỏi ngầm kêu khổ.
Đây là lần đầu Cao Văn Tâm ở riêng cùng một chỗ với Dương Lăng, lần đầu cùng y chung bàn uống rượu, lần đầu được y ôm vào lòng, cũng là lần đầu được y dùng những lời lẽ ngọt ngào để dỗ dành. Thiếu nữ ôm ấp mối u tình này hạnh phúc không thể tả, sau khi uống rượu vào, lòng càng thêm vui vẻ.
Nàng cầm chiếc bình bằng thiết đã cạn lên, nhoẻn miệng cười duyên dáng với Dương Lăng:
- Lão gia mười sáu tuổi đã đạt công danh, là tài tử phương Bắc, hôm nay rượu đã cạn bầu, nô tỳ và lão gia dùng câu đối thế rượu, không biết ý lão gia thế nào? Ở đây nô tỳ có một vế trước (thượng liên), mời lão gia đối lại một câu nhé: Đề tích hồ, du Tây Hồ, tích hồ lạc Tây Hồ, tích hồ, tích hồ!* Lão gia, mời người đối lại.
*: chữ 'tích' (vật làm bằng thiết), 'Tây' (phía Tây) và 'tích' (luyến tiếc) đều có một âm đọc là 'xī'. Tạm dịch: Cầm bình thiết, dạo Tây Hồ, bình thiết rơi xuống Tây Hồ, tiếc thay cái bình, tiếc thay cái bình!
Dương Lăng vừa nghe phải đối câu đối thì giật nảy mình, người hiện đại có mấy ai học qua cái thứ này? Đến lúc nghe nàng tay nói mấy cái gì mà 'tích hồ', 'Tây Hồ', rồi 'tích hồ', y lại càng cảm thấy nhức đầu. Tuy y chưa từng nghe câu đối này, nhưng cũng nghe hiểu được cái khó của câu đối chính là cả ba từ đều đồng âm của từ 'Tây Hồ'.
Y không biết rằng năm xưa có người đã dùng câu đối này làm khó đại học sỹ Tô Đông Pha, khi ấy chính Tô Đông Pha cũng đã từng bị bắt bí. Y còn tưởng rằng đây là câu đối do Cao Văn Tâm nghĩ ra nên trong lòng bội phục không thôi.
Nghĩ ngợi thật lâu, cuối cùng y cũng nghĩ ra ba từ có phát âm na ná nhau, miễn cưỡng có thể lắp thành một câu, bèn nói với Cao Văn Tâm:
- Ờ... Tôi vừa nghĩ được một câu, song nếu so ý cảnh với vế trên của cô, thật sự kém hơn nhiều lắm. Bây giờ tôi đọc, cô không được cười đó.
Cao Văn Tâm nghe vậy trên mặt không khỏi lộ vẻ kinh ngạc. Câu đối này từ khi ra đời đến nay đã mấy trăm năm, đã có không biết bao nhiêu tài tử hao tổn tâm tư tìm câu đối lại, kết quả cũng chỉ vì quá truy cầu từ phát âm tương đồng mà miễn cưỡng ghép thành một vài hạ liên (vế sau), song không có câu nào có được ý cảnh ưu mỹ như vế trước.
Lão gia nhà mình chỉ trong chốc lát đã có thể nghĩ ra vế đối, như vậy đã là vô cùng quý hoá lắm rồi, còn mong gì đến ý cảnh nữa.
Cao Văn Tâm vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, liền nói:
- Xin lão gia hãy mau đọc ra, tiểu tỳ rửa tai cung kính lắng nghe đây. Dương Lăng cắn răng, rồi quyết đoán đọc:
- Hảo tỷ phu, sính tiết phụ, tỷ phu thất tiết phụ, ta phu, tỷ phu.
*Tạm dịch: Anh rể tốt, cưới tiết phụ, anh rể phản bội tiết phụ, ôi chồng, anh rể! Ba chữ 'tỷ' (jiě), 'tiết' (jié) và 'ta' (jiē) đọc na ná nhau.
Cao Văn Tâm trợn tròn mắt, đôi môi xinh há ra, ngạc nhiên nhìn y thật lâu, không nói câu nào. Dương Lăng không khỏi ngượng ngùng:
- Cô thấy đó, tôi nói rồi, ý cảnh kém lắm...
Cao Văn Tâm đột nhiên xoay người lại, tựa người vào mạn thuyền, đưa ống tay áo lên che mặt, rồi đôi vai nàng rung lên bần bật không ngừng, con thuyền nhỏ cũng theo đó mà lắc lư qua lại. Sau cùng vị tiểu thư khuê các lâu nay vẫn luôn chú trọng đến phong thái này rốt cuộc cũng không đếm xỉa gì đến hình tượng nữa mà bắt đầu cất tiếng cười to.
Dương Lăng cứng người nhìn nàng, mặt lúc trắng lúc đỏ, sau một hồi lâu mới hậm hực nói:
- Cô xem! Đang uống rượu vui vẻ lại đòi đối này đối nọ cho bằng được, thật làm mất cả vui.
Cao Văn Tâm thấy y giận, vội vàng ngồi ngay ngắn lại, đôi môi mím chặt ra sức nhịn cười, nước mắt cứ ứa ra, người run lên bần bật như trúng sốt rét. Dương Lăng không khỏi giận quá hoá thẹn, đứng bật dậy, gắt:
- Cười đi, cười đi, cười cho chết tôi thì thôi.
Cao Văn Tâm thấy y đã thật sự giận dữ bèn không dám cười nữa, lật đật đứng dậy, nhỏ nhẹ dỗ dành:
- Lão gia! Nô tỳ xin nhận lỗi, lão gia đừng giận nữa.
Chiếc thuyền nhỏ vốn đã đang tròng trành, Dương Lăng đứng lên đột ngột, con thuyền lại càng nghiêng sang bên trái. Do Cao Văn Tâm đứng lên vội nên chân không vững, thiếu chút nữa đã ngã xuống sông.
Dương Lăng tuy tức giận nhưng thật ra là bởi câu đối của mình quá kém. Khi nãy y cho rằng có thể nghĩ ra ba từ gần âm, trong đó còn có một thán từ giống như chữ "tích hồ" (tiếc thay cái bình) là nhanh trí lắm rồi, như vậy đã là hiếm có lắm rồi.
Cho nên khi thấy Cao Văn Tâm bật cười lớn, y mới cảm thấy thật mất mặt. Giờ y thấy Cao Văn Tâm cuống cuồng nên đứng không vững chực ngã xuống sông, bèn vội đưa tay đỡ lấy. Cao Văn Tâm hốt hoảng nhào vào lòng y, mãi đến khi con thuyền chầm chậm ổn định lại, mới đỏ mặt mắc cỡ rời khỏi lòng y.
Lúc này Cao Văn Tâm vừa uống rượu xong, mặt ngọc đỏ bừng, tóc mây tán loạn, mày như liễu mảnh che lấp một mảng xuân quang, mắt sáng như trăng nằm nhởn nhơ trong nước hồ thu. Nhất thời Dương Lăng ngẩn ngơ nhìn ngắm.
Cao Văn Tâm đã đứng vững lại, nhìn thấy ánh mắt y, không khỏi khẽ cụp hàng mày đen mướt, thẹn thùng cúi đầu, song lại không nhịn được mà ngước lên liếc y một cái thật nhanh.
Một cái cụp mày, tình ý khôn kể xiết, mê ly hơn cả lời tỏ tình. Mày ngài nhướng trộm, ngầm tỏ ý đàn lang(4), lại là vẻ lay động hồn phách người ta biết dường nào. Biết rõ là không nên song Dương Lăng lại không thể dằn lòng, y nhịn không được bèn hôn trộm môi nàng một cái thật nhanh.
Bờ môi đỏ thắm của Cao Văn Tâm vốn đầy đặn và mềm mại, chỉ vừa được y hôn nhẹ, môi nàng lập tức trở nên ẩm ướt, cặp mắt sáng ngời của nàng cũng chợt sâu thẳm phảng phất như biến thành hai hũ rượu lâu năm, tinh thuần không gì sánh được.
Chiếc thuyền mui đen thong thả đong đưa, gió đưa đến hương sen thơm ngát, tuy chưa hề uống say song lúc này nữ thần y lại lờ mờ như muốn say, tựa như gởi tới Dương Lăng lời mời tình cảm nồng nàn.
Dương Lăng hôn xong, từ trong mỹ sắc bừng tỉnh lại, cuống quýt buông thỏng đôi tay:
- Văn Tâm! Tôi thật không phải. Chúng ta không thể... tôi thật không nên.
Sau khi say rượu, người ta khó tự kiềm chế tình cảm của mình. Giờ đây hôn xong một cái thoả thê, y mới giật mình phát giác đã phạm sai lầm lớn. Tình ý của Cao Văn Tâm với y, trong lòng y sớm đã biết rõ, và cũng đã luôn cảnh tỉnh mình đừng lún vào quá sâu. Nhưng trên chặng đường xuôi Nam này, bất tri bất giác lưới tình miên man của nàng lại sớm đã trói chặt lấy y.
Cho đến lúc này đây, Dương Lăng mới phát hiện thì ra con tim mình cũng đã thích nàng từ lâu, nhưng bởi nỗi khổ tâm của chính mình, y chỉ có thể giống như con cá mắc vào trong lưới, khổ sở vùng vẫy, khổ sở trốn chạy...
Dương Lăng trở về chỗ ngồi, cầm chén rượu lên, lòng ngổn ngang trăm mối, song lại phát hiện chén rượu đã cạn khô. Y không dám ngẩng đầu nhìn ánh mắt ai oán và thất vọng của Cao Văn Tâm đang ngồi đối diện, lòng chỉ thầm nghĩ: "Không thể lại gây thêm nợ tình nữa. Văn Tâm hiểu chuyện hơn mấy người Ngọc Nhi, mình... Không bằng tiết lộ cho nàng một ít chuyện của mình, cắt đứt ý niệm của nàng ấy vậy."
Dương Lăng nghĩ đến đây, ngẩng đầu tính mở lời, phía trước bỗng nhiên có một giọng nói giòn dã yêu kiều vọng đến:
- Í, vừa mới thấy đứng ở gần đây mà? Ca à, đi tới trước chút nữa đi, này này, mấy người đâu rồi?
Dương Lăng nghe thấy tiếng nước cùng lá sen lay động, huynh muội Trương thiên sư đã chèo thuyền trôi tới, bèn nuốt lời định nói ngược vào bụng. Y thấy Cao Văn Tâm đang cúi đầu vân vê góc áo, dáng vẻ rất đáng thương, bèn vội nói với nàng:
- Văn Tâm! Tôi tự có nỗi khổ của mình, tuyệt không xem nhẹ thân phận của cô.
Ôi... đợi đến lúc về đến Hàng Châu, tôi sẽ nói bí mật của tôi cho cô nghe thì cô sẽ rõ hết thảy.
***
Chú thích:
(1) trích từ thành ngữ "điểm mắt cho rồng" (hoạ long điểm tình), là kỹ thuật làm nổi bật nét chính của bức tranh (hoặc bài viết) khiến cho nó phong phú, sinh động hơn. Tích rằng Trương Tang Do vẽ bốn con rồng nhưng không vẽ mắt, vì lo rằng nếu vẽ mắt thì rồng sẽ bay mất. Mọi người không tin. Nhưng khi Trương lấy bút điểm mắt cho một con rồng thì sấm sét nổi lên, bức vách lung lay và con rồng có mắt bay vút lên, ba con kia vẫn ở yên chỗ cũ.
(2) một món ăn nổi tiếng trên thực đơn trong các nhà hàng ở Tô Châu, do nhà thơ nổi tiếng Tô Đông Pha chế biến.
(3) tên cổ của loại trà "Bích Loa Xuân" nổi tiếng. Vì trà được hái vào dịp tiết Thanh Minh, tiết Cốc Vũ nên có tên gọi là "Bích La Xuân " và được liệt vào là một trong những vật cống phẩm.
(4) chỉ Phan An đời Tấn, sau được người con gái dùng gọi người con trai tuấn tú mà mình ái mộ.
Dọc đường nhàn rỗi, Trương thiên sư và Mạc công công bèn ngồi trong khoang đánh cờ vây. Chớ thấy cờ tướng của Trương thiên sư kém cỏi mà lầm, cờ vây của y cao siêu vô cùng. Không biết đánh cờ vây, Dương Lăng nhìn một hồi cảm thấy nhàm chán bèn ra trước khoang ngắm nhìn phong cảnh một lát rồi trở về khoang mình.
Cao Văn Tâm đang ngồi một mình trong khoang đắm mình trong tâm sự, vừa thấy y trở về nàng liền vội đứng lên. Từ lúc dạo Thái Hồ trở về, hai người luôn cảm thấy không được tự nhiên khi ở chung một chỗ với nhau. Dương Lăng cười gượng gạo, nói:
- Tôi ngồi lâu ở bên ngoài nên cảm thấy hơi mệt, định vào khoang trong nghỉ ngơi một lát.
Cao Văn Tâm vẫn luôn mang nghi vấn trong lòng, không biết rốt cuộc y có bí
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro