Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Phần Không Tên 21

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

La Sĩ Quyền mừng rỡ, vội vàng gọi thêm vài thân binh cùng Dương Lăng lên thành lâu. Bọn Hưởng Mã đạo không có vũ khí công thành tầm xa sắc bén, đứng ở thành lâu sẽ an toàn hơn.

Tổng Tiểu Ái thấy Dương Lăng nghe lời như vậy, có chút kinh ngạc. Kì thật Dương Lăng cũng muốn đứng đây quan sát bọn Hưởng Mã đạo nhằm tìm ra phương pháp tác chiến trực quan, nhưng bởi như vậy La Sĩ Quyền lại không lòng dạ nào mà chỉ huy, đem toàn bộ chú ý đặt lên hắn. La Sĩ Quyền là tổng chỉ huy, Dương Lăng cũng không có ý định muốn thay thế, tự giác cầm đao đến chỉ huy cuộc chiến phòng thủ Đức Châu, như vậy sẽ không gây phiền phức cho La chỉ huy nữa.

Hơn nữa quân coi giữ trong thành gấp đôi ngoài thành, cứ cho là kẻ thù có ưu thế về ngựa, nhưng tác dụng của nó trong công thành không lớn, mà quân coi giữ chiếm cứ ưu thế về địa lợi và vũ khí, lại hoàn toàn thủ thế. Nếu như đã vậy còn cần mình ra mặt, vậy La Sĩ Quyền dù là kẻ ngu cũng không thể nhẫn nhịn được, căn bản không thể dùng.

Dương Lăng đang tính bước kế tiếp, La Sĩ Quyền là quân cờ trọng yếu, cần y một mình đảm đương một phía. Dương Lăng trăm phương ngàn kế chỉnh đốn quân đội phòng thủ Đức Châu, nhấn mạnh quân lệnh quân luật, trước mặt quân sĩ Đức Châu tạo nên quyền uy tuyệt đối cho La Sĩ Quyền. Chính nhờ vậy mà hiện giờ quân đội mới được vững mạnh như vậy, càng tiến thêm một bước củng cố địa vị của y.

Dương Lăng không lui vào phía sau màn, không khéo lại đoạt đi sự nổi bật của y.

Thấy Dương Lăng lui về trong lầu, La Sĩ Quyên lập tức phấn chấn lại tinh thần, hét to:

- Áp chế cung nỏ, tận lực sát thương. Các cung thủ, không được bối rối.

Nói xong liền rút đao ra, nấp sau ụ tường lỗ châu mai bên cạnh, ngưng thần quan sát động tĩnh từ bọn Hưởng Mã đạo.

Quân ngũ tác chiến, cung nỏ làm đầu. Cung xạ tốc độ cao, nhưng cầm nắm khó khăn, mà bắn nỏ bằng cơ quan sáng học tối quen, lực có thể bắn xa nhưng nhét vào khó khăn, phóng ra chậm chạp, lại không dùng được trên ngựa chiến nhưng thủ thành thì lại thuận tiện hơn rất nhiều.

Thành Đức Châu bố trí tỷ lệ nỏ và cung là sáu bốn. Lúc này tên nỏ bắn ra cùng lúc. Cung hai thạch nội hai trăm bước có thể xuyên qua giáp cắm vào cơ thể. Kình nỏ tầm bắn còn xa hơn. Chỉ nghe dây cung cắt rầm rì, cung nỏ bắn ra cùng lúc, vô số nhánh Lang Nha tiễn kêu gào bắn ra ngoài.

- A!

Một tên Hưởng Mã đạo đang phi ngựa bị mũi tên lông vũ bắn trúng, ngã xuống ngựa. Tên kia nửa tiếng cũng chưa phát ra được liền bị một kình nỏ chiếu thẳng vào trán, thân thể gã liền ngã ngửa ra sau, treo trên lưng ngựa.

Mấy trăm mũi tên Lang Nha phá không mà tới, bắn tới như mưa rào, trong nháy mắt cũng đến hai trăm người thương vong. Mất đi người quản lý, chiến mã chạy hỗn loạn tứ phía, trận hình tấn công liền tan tác, không còn được nghiêm túc như trước. Kỵ quân Hưởng mã bị thế tấn công ngăn trở, bắt đầu vừa chạy đồng thời bắn tên nhằm áp chế lại. Mưa tên vun vút, tuy quân canh giữ đầu thành có dựng lá chắn, song vẫn không ít người trúng tên bị thương.

Song phương đầu tiên cùng công thủ, đều là áp chế tầm xa, ra sức bắn chết đối phương. Xem dáng vẻ bọn Hưởng mã đạo này, hiển nhiên còn có hậu chiêu. Bọn chúng đương nhiên sẽ không lấy thân xác máu thịt để công thành. Bọn Hưởng mã đạo giơ lên tấm chắn, có mộc thuẫn, thiết thuẫn, còn có loại lá chắn tự chế bằng cây mây, đủ loại, tuy rằng không kháng cự được kình nỏ, nhưng vẫn có thể chống đỡ được cung tiễn.

Trong thành lâu, Ngũ Hán Siêu và Tống Tiểu Ái một trái một phải đứng sau lưng Dương Lăng. Dương Lăng một thân quần áo xanh ngồi ở trên cao dựa lưng

vào thành ghế, bắt chéo chân ngồi gần cửa sổ trông ra, thần sắc thản nhiên. Hắn vỗ nhẹ trên đầu gối, hắng giọng nói:

- Ta đang ở thành lâu ngắm cảnh núi, chợt nghe được ngoài cửa thành hỗn loạn, tinh kì phấp phới nhìn không rõ, thì ra Lưu Lục gửi binh tới.

Tống Tiểu Ái bật cười, hé miệg nói:

- Đại nhân hát khúc gì vậy? Thật là nhàn nhã quá đi. Dương Lăng cười ha hả nói:

- Thiếu một chiếc Nga mao đại phiến (quạt lông ngỗng lớn), nếu không càng thú vị hơn.

- Hả? Thú vị hơn?

Tống Tiểu Ái ngạc nhiên

Quan binh căng thẳng đứng quan sát khắp nơi, thấy vị Quốc công gia này nói nói cười cười, không thèm để ý hơn vạn kỵ binh đứng dưới thành, trong lòng không khỏi âm thầm khâm phục, tâm trạng vốn lo lắng cũng có phần bình phục lại.

Đại quân của Lưu Lực hiển nhiên là đến gần thành Đức Châu mới bất chợt tăng tốc. Bởi vì phía sau xuất hiện người đẩy xe ngựa kéo, có phòng xe giá gỗ, hẳn là mang theo không ít vũ khí công thành. Dương Lăng thoải mái cười nói:

- Thì ra là thế. Ta đã nói rồi, Lưu Lục ngu ngốc hơn nữa, chung quy vẫn không biết dùng người. Ba vạn binh mã có thể công thành Đức Châu không.

Nữ nhân dựa vào cảm tính, Tống Tiểu Ái đối với Dương Lăng vẫn là một kiểu sùng bái mù quáng. Dưới thành ước chừng hơn một vạn người, nàng biết Quốc Công đại nhân nhất định có biện pháp khắc chế. Nhưng nếu như dưới thành là trăm vạn quân, thấy Dương Lăng nhàn nhã như vậy, nàng vẫn sẽ cho rằng Dương Lăng nhất định có biện pháp.

Ngũ Hán Siêu lại có chút căng thẳng. Y nhìn bọn Hưởng Mã đạo phía dưới thành đang từ từ phân tán. Bọn hưởng mã đạo dẫn dụ hoả lực đầu thành, đồng thời bắn tên yểm hộ khí giới công thành phía sau. Ngũ Hán Siêu nói:

- Quốc Công, Lưu Lục ngừng tấn công mấy ngày, ắt là không lần ra được thực hư của chúng ta, đồng thời nhất định cũng đang chuẩn bị công thành. Hắn đã dám đến, e là đã nắm chắc, có cần phải kiến nghị với La Tướng quân điều một bộ phận nhân mã từ ba thành còn lại không?

Trong thành lâu, một số tướng sĩ quân coi giữ bản địa như ngừng thở, lắng tai nghe Dương Lăng nói chuyện. Dương Lăng lắc đầu cười nói:

- Nắm chắc? Hắn có cái gì mà nắm chắc? Hắn chỉ là không thể không đến. Nếu không phải kế hoạch từ bỏ sống yên ở Sơn Đông, bắc ách Kinh đô, săn Giang Nam, cách xa Kinh sư, cứ đâm đầu vào chốn phồn hoa, nhưng muốn sống yên ở đó càng khó.

Hắn dừng một chút, lại nói:

- Thành Đức Châu này, Lưu Lục nhất định đánh hạ. Kẻ thủ thành thất bại không ngoài địch mạnh ta yếu. Thành lớn mà ít người, lương ít dân nhiều, quân nhu thất thoát ra ngoài, tướng sĩ không phụng mệnh. Ngoài ra sông ngoài cao mà trong thành thấp, mạch đất sơ mà ao hoàng nông, vật chất không đủ, tiền lương không cấp, dù thành có cao thì cũng không thể thủ được.

Thành Đức Châu binh hùng tướng mạnh, hào sâu tường dày, bảy vạn đại quân đủ để giữ thành. Hơn nữa lương thảo sung túc, đường thuỷ thuận lợi, thưởng phạt nghiêm minh, pháp luật chặt chẽ. Dù kẻ địch có đông gấp nhiều lần, căn bản cũng không thể công được.

Dường như chứng minh cho lời nói của Dương Lăng, tên đổ xuống như mưa, đại pháo nổ vang, khí thế kia làm cho đại quân Lưu Lục vừa mới nhào tới không thể khống chế được nỗi sợ hãi. Quân tiền phương có gan khiêu chiến đã không còn nhiều lắm, tuy nhiên xe tiếp viện phía sau vẫn dần dần được đẩy tới.

Quan binh đứng trên thành quan sát nhất cử nhất động của bọn Hưởng Mã đạo rõ như lòng bàn tay, có thể nhanh chóng tìm ra cách ứng phó. Nhưng vì gần đó không có núi cao, vì đại pháo của quan binh, Bọn Hưởng Mã đạo lại không dám thiết lập tháp quan sát ngay trên tổ xe. Giữa địch và ta bên nào nặng nhẹ rất rõ ràng. Bên trong thành quân coi giữ bố trí phòng thủ thế nào, điều chỉnh hoả lực ra sao, bên ngoài thành chỉ có thể chờ đến lúc giao chiến mới có thể phán đoán được vài phần, mà bọn họ ở ngoài thành có động tĩnh gì, bên trong liền biết hết.

Giờ phút này, hành động của bọn Hưởng Mã đạo liền bị quan binh phát hiện ra:

- Nỏ sàn! Là nỏ sàn? Tiên sư chúng nó, không ngờ bọn chúng lại dùng đến nỏ sàn rồi. Mau, đánh cho nát nó

Thanh âm của La Sĩ Quyền từ nơi xa truyền đến.

Nỏ sàn lại một loại nỏ cỡ lớn trang bị đặt trên giá gỗ, trong 500 mét có thể xuyên thủng thân thể, có thể nói là bá vương trong các loại nỏ. Thời Nam Tống quân Tống từng dùng nỏ sàn bắn chết Đại Hãn Mông Cổ, do đó dẫn đến cuộc tranh giành Hãn vị giữa Hốt Tất Liệt và A Lý Bất Ca, nhờ vậy Nam Tống mới có thể kéo dài hơn mười năm.

Tiễn mà nỏ sàn phóng ra lấy gỗ làm càn, dùng đầu thiết thương làm mũi nhọn, dùng miếng sắt làm đuôi cánh, được xưng là "Nhất thương tam kiếm tiễn" kỳ thực là đoản mâu mang lông đuôi chim, dùng để thủ thành, các loại chiến xa, thang mây, mộc che, cự thuẫn...tấn công gặp phải cũng bị phá nát. Dùng để công thành, thành luỹ đổ, nếu như là thổ thành mộc trại, càng bị bẻ gãy nghiền nát.

Vào thời điểm đó, đây được xem là vũ khí công thành hạng nặng, khó trách La chỉ huy lo lắng như thế. Quân canh giữ đầu thành nhanh chóng di chuyển đại pháo, tính toán vị trí mục tiêu. Nỏ sàn tuy nói là binh khí hạng nặng nhưng đối với lính sử dụng cung nỏ mà nói, đặt lên xe ba gác thô sơ tuy là dễ dàng di động nhưng để nhắm trúng vào mục tiêu thì e nói dễ hơn làm.

Không phải là nỏ sàn thôi sao?

Ai không có chứ, ngươi có ta cũng có nha!

Kiều Tứ Hải được điều về phòng thủ thành Đức Châu thấy đại pháo không có cách nào bắn được nỏ sàn đang được bọn hưởng mã đạo dùng lừa kéo xe ngựa di chuyển đến dưới thành, không đợi La Sĩ Quyền phân phó, lập tức gầm rú kêu người khênh nỏ sàn gác thành đẩy lên giữa đầu thành, chuẩn bị dùng nỏ sàn chiến nỏ sàn.

"Ong", một luồng sóng chấn động xẹt qua tai mọi người, âm thanh vang dội, tiếng người hô ngựa hí chấn động màng nhĩ, lại giống như máy bay chiến đấu nhanh chóng xẹt qua đỉnh đầu.

Dương Lăng cảm thấy tai ngứa ngáy, sau một lát mới nghe tiếng nói của Kiều Tứ Hải từ đầu thành truyền đến:

- Bọn họ phóng ra "đạp quyết tiễn', tập trung cây lăn đá lăn, dầu hỏa vôi, bọn chúng sắp mạnh mẽ tấn công thành rồi.

Dương Lăng vừa nghe "Đạp quyết tiễn" lập tức hiểu. Thời điểm ở trong biên quân Đại Đồng hắn dù chưa từng thấy "Đạp quyết tiễn", nhưng cũng từng nghe người ta nói tới. Đạp Quyết tiễn chính là dùng nỏ sàn ghim đoản mâu trên tường thành, để người công thành leo lên thành, giống như thang mây cơ động. La chỉ huy ghé sát vào tường thành nhìn thăm dò một chút, chỉ thấy năm đoản mâu thẳng tắp cắm vào hốc tường, dù là đoản mâu, phần đuôi vẫn rung động kịch liệt, phát ra thanh âm vù vù.

Y chỉ nhìn rồi lập tức rụt đầu về. Binh lính bên cạnh vội dựng thẳng thuẫn để chắn. Quả nhiên, trong quân Lưu Lục có người nhìn thấy, đốc đốc vài tiếng, trên mặt thuẫn đã bị trúng mấy mũi tên bắn lén.

Đừng tưởng rằng bức tường gạch xanh này lợi mâu bắn không vào, không chỉ

chất lượng gạch tốt, hơn nữa xây bằng đất dính, kháng thổ càng nhiều.

Năm đó cự phú Thẩm Vạn Tam trợ giúp Thái tổ xây dựng Nam Kinh, hai người tự sai người của mình xây một đoạn tường thành phía sau. Chu Nguyên Chương tiến đến kiểm nghiệm, lệnh sĩ tốt cầm thiết chùy đập bể tường thành, một búa vừa đập, tường thành do mình phụ trách xây dựng đã bị đánh sụp. Mà bức tường thành do Thẩm Vạn Tam dùng trọng kim mướn người, đích thân giám sát xây dựng ba chùy đánh mà không sụp. Chu Nguyên Chương giận giữ, chém người giám sát xây dựng, kinh thành như thế, nơi khác không cần nghĩ cũng biết.

Đương nhiên loại gạch này bị đập vỡ chỉ vỡ ở bề mặt, sẽ không tạo thành cả bức tường thành bị sụp đổ, đầu tiên gạch này chính là một khối rất lớn, hơn nữa tường thành rất dầy, chiều rộng hơn mười trượng, cho dù người dùng mười con trâu kéo cũng không đổ, huống chi còn có kháng thổ rất dày nặng, càng thêm rắn chắc.

Chỉ có điều mặt tường dù cứng rắn như nào, từng đoản mâu này cắm vào nửa thước cũng đã cố định như bàn thạch, chỉ cần xếp thành hàng với độ dốc nhất định vọt tới tường thành, tựa như đáp từng bậc thang trên tường thành, đừng nói leo lên, đám hưởng mã đạo nghiêng người đứng dưới tường chạy cũng chạy lên được.

La Sĩ Quyền đỡ nón trụ, cười lạnh nói:

- Ý tưởng kỳ lạ! Bản quan có thể cho phép đám tặc tử các ngươi đắc thủ hay sao? Đến đây nào, cứ đâm đoản mâu vào, ta sẽ ném đập gãy mâu, nện ngã bọn chúng.

Dương Lăng ngồi ở đầu thành cũng không phải là ngắm phong cảnh, vẻ thản nhiên này dĩ nhiên là để đám quân coi giữ địa phương xem đấy. Hắn miệng thì cười nói, nhưng hai mắt vẫn quan sát đặc điểm công thủ và thế tiến thoái của đám hưởng mã đạo ngoài thành, càng chú ý quan sát La Sĩ Quyền. Xem y chỉ huy, điều hành, trù tính như nào, quan sát lực phán đoán lực cơ biến của y cùng với năng lực chiến đấu, trình độ phục tùng, sĩ khí quân tâm và tố chất hiệp đồng tác chiến của binh lính.

Hắn ở đây đang xem cuộc chiến, không chỉ là xem địch, hơn nữa còn quan sát

bên mình. Hắn vừa mới đến Đức Châu, còn chưa biết người biết ta. Chiến trường, là thời điểm khó che giấu ưu khuyết điểm của bản thân nhất, cho nên cũng khiến hắn nhanh chóng tìm hiểu được hết thảy. Trước mắt, hắn rất hài lòng với La Sĩ Quyền.

La Sĩ Quyền không phải loại bề ngoài như hung thần ác sát trong lòng thì nhát gạt, vừa ra chiến đã sợ, mà là chiến thần rất biết khích lệ sĩ tốt, cũng không phải là tham tướng thích hợp công thích hợp thủ, mà là lão tướng có kinh nghiệm chiến trận phong phú. Y giống như một viên chỉ huy theo nghĩa hiện đại, điều hành an bài vô cùng nhuần nhuyễn, tâm tư rất kín đáo, rất nhiều chi tiết đều suy tính chu đáo.

Danh tướng ai cũng có sở trường riêng, có người giỏi về tấn công, có người thiện thủ, có người thiện chính hợp, có người thiện kỳ chiến. La Sĩ Quyền này hiển nhiên là thiện thủ. Dương Lăng rất hài lòng với người này. Có người này thủ Đức Châu, chỉ cần trên dưới toàn quân như một, để cho y điều hành thuận buồm xuôi gió, chỉ huy dễ sai khiến, thì trọng châu Đức Châu có thể được bảo vệ. Hiện tại, mình cuối cùng có thể yên tâm triển khai kế hoạch tiêu diệt phỉ Sơn Đông rồi.

Một kế không thành, người của Lưu Lục bắt đầu thay đổi phương pháp công thành. Y cho người trang bị dây cung nỏ sàn, một lần bắn hơn mười mũi tên, phát ra giống như bão tố, mũi tên rời cung, nhảy tới, lực sát thương kinh người.

Nhờ vào lực sát thương lớn của nỏ sàn và nhóm kỵ thủ không ngừng bắn tên áp chế, hơn mười chiếc thang công thành đã bắt đầu di chuyển áp sát vào bên trái tường thành. Thang công thành rất ít sử dụng phân tán, như vậy rất dễ bị người thủ thành tiêu diệt từng bộ phận. Một khi sử dụng, ít nhất phải tập trung hơn mười cái thang ở một chỗ, vừa công vừa thủ đấy, không ngừng bắn tên về phía nhau. Còn là lấy mạng người để lấp vào, như vậy một phương công thành trả giá bằng thương vong rất lớn, tuy nhiên đây lại là phương pháp xử lý công thành mau lẹ nhất.

La Chỉ huy điều hành, Kiều Tham tướng mang người vọt tới phía thang công thành. Cùng lúc đó, đám hưởng mã đạo bên kia lại có hơn mười cáp mô xa kéo hào kiều bắc qua sông đào bảo vệ thành tiến về phía tường thành.

Cáp mô xa đẩy về phía trước, không khác với chiến xa công thành mà người Thát Đát sử dụng khi tấn công Kê Minh Dịch, nó cùng dùng da trâu bọc để chắn

mưa tên, đám hưởng mã đạo tránh ở phía dưới. Phi câu cầm trong tay, chuẩn bị vượt qua chiến hào ép leo lên. Đầu thành lập tức lấy hỏa súng, hỏa tiễn ngăn cản lại, đồng thời quan binh tập kết đến nơi này, chuẩn bị chiến đấu.

Cổng chính bởi vì có tám khẩu đại pháo uy hiếp, đám hưởng mã đạo chỉ công kích hai bên, rất ít dám khiêu chiến chính diện, tận đến khi bọn chúng từ phía xa dựng lên hai máy ném đá loại nhỏ đơn giản, từng vật có độc được đốt cháy ném lên đầu thành, quấy cho đầu thành tràn ngập sương khói, mới có một xe công thành đáp vào mái lầu, đám hưởng mã đạo đẩy xe lập tức reo hò lao đến, có người khác khiêng hào kiều chạy từ bên cạnh lên trước.

"Rầm rầm...", đại pháo phun lửa lên, tám khẩu đại pháo bắn hai đợt, từ xa vài máy ném đá bị bắn vỡ tung, người khiêng hào kiều dưới thành bị mưa tên bắn chết non nửa, người còn lại trốn dưới hào kiều để tránh né mưa tên, hào kiều được đáp lên rãnh mương. Xe công thành, cây gỗ cỡ lớn đụng cửa thành, đám liều mạng rú gào đánh tới.

Trong lòng bọn họ, quan binh chỉ duy nhất dựa vào thành cao hào sâu để thủ, chỉ cần đụng mở cửa thành, quan binh sẽ mất sạch dũng khí, trở thành con thỏ để mặc chúng chém giết. Đức Châu là thành lớn, bên trong có nhiều gia đình giàu có, nhiều tài vật và nhiều phụ nữ đẹp. Hơn nữa Lưu đại soái nói, đánh hạ được Đức Châu, là có cơ hội có được thiên hạ. Mỗi người họ đều có cơ hội làm tướng quân, dù sao đã là mệnh ti tiện rồi, vì sao không ra sức đánh cược một lần.

Đám hưởng mã đạo gầm rú, đụng cây gỗ lớn vào cửa thành, từng tiếng trầm đục nặng nề, chấn động ngay cả đầu thành cũng cảm nhận được. Một Bách hộ giơ yêu đao hô lớn:

- Mau, chuẩn bị thiết đụng mộc, đuốc đuôi én.

Trên đầu thành bày đặt thiết đụng mộc, thân gỗ đầu sắt, đầu sắt do sáu mũi sắt tạo thành, từng mũi sắt dài hơn một thước, tựa như sáu đinh sắt Lang Nha. Đám quan binh ném thiết đụng mộc xuống dưới, đập trúng đỉnh xe công thành, đinh sắt thô to sắc bén đâm rách đỉnh xe, ngay sau đó thiết đụng mộc đập lên, xé mở một lỗ hổng lớn.

Lập tức đuốc đuôi én được ném xuống dưới, tạt dầu hỏa xuống dưới, xe công thành biến thành ngọn lửa lớn, ngay cả dưới xe cũng bị thấm dầu bén lửa, không có tác dụng che chắn nữa, đám hưởng mã đạo phụ trách đẩy xe công thành lập tức liều mạng bỏ chạy trở về cho dù đã có nhân mã bên mình không ngừng bắn tên yểm hộ. Quan binh trên đầu thành không ngừng bắn tên truy đuổi, đã ghim những tên hưởng mã đạo ôm giấc mộng làm tướng quân dưới đất.

Dương Lăng đứng ở trên cổng thành, thấy vũ khí công thành nhiều loại phong phú này, so sánh với khí giới tấn công phòng thủ chính quy trong quân, bề ngoài thì tàm tạm nhưng tác dụng cũng không hề thua kém, không khỏi tràn đầy cảm xúc.

Hắn thở dài, nói với Ngũ Hán Siêu:

- Ta từng nghe nói, người phạm tội dù không phải là thiên tài, nhưng tài trí tuyệt đối không hề tầm thường đấy. Ở phương diện khác, họ nhất định mạnh hơn người bình thường rất nhiều. Câu nói đó rất đúng, trong đám hưởng mã đạo thật sự là có người tài.

Đây vẫn là lần đầu tiên Tống Tiểu Ái nhìn thấy nhiều loại khí cụ công thành như thế, đôi mặt đẹp mở to nhìn thích thú. Nghe Dương Lăng nói vậy lập tức tán thành:

- Vâng, đại nhân nói đúng, trong đám hưởng mã đạo có không ít thở thủ công giỏi.

- Triệu Toại đến Sơn Tây, Hứa Thái, Giang Bân cũng đuổi theo sau. Hứa Thái đã truyền dụ lệnh xuống, quan viên quân chính địa phương Sơn Tây đều tự phụ trách lãnh địa thuộc mình quản lý, chỉ được kháng cự kẻ tặc bên ngoài, không được lãnh binh đuổi theo, để tránh bị trúng kế kẻ tặc, khiến chúng thừa dịp thành không mà vào.

Người mặc áo bào xanh ngồi đối diện với Trương Dần chậm rãi nói. Gã hiện tại có thân phận là Tham nghị trong quân Trương Dần, tên là Giang Nam Nhạn. Trên thực tế gã cũng là thành viên tham mưu của Trương Dần, thân phận thật sự là Đại pháp sư Di Lặc giáo của Di Lặc Giáo chủ Lý Phúc Đạt.

Lý Phúc Đạt cười ha hả nói:

- Không cần quản hắn, chỉ cần không đến Thái Nguyên, cứ mặc cho Triệu Phong Tử tung hoành đi. Hứa Thái này có quân lệnh, rất hợp ý ta. Sơn Tây đông có Thái Hành. Tây có Lã Lương, nam có quần sơn Trung Điều, Tích Thành, đông liền Thái Hành, tây sát Lã Lương, có thể nói đâu đâu cũng là rừng núi rậm rạp, khe rãnh tung hoành. Nếu như tiêu diệt phỉ còn khó hơn lên trời. Nói tới, vẫn là nên trông giữ Sơn Đông bên kia.

Lý Phúc Đạt hưng trí bừng bừng nói:

- Không thể tưởng được Dương Hổ lại lập nên cục diện lớn như vậy ở Sơn Đông. Ừm...trong đó dĩ nhiên không thể thiếu công lao người của chúng ta âm thầm hiệp trợ. Chẳng qua hắn có thể tạo nên cục diện như hiện giờ, phát triển đến mức này vẫn là ngoài dự liệu của ta. Xem ra Lưu Cẩn, Tất Chân ở Sơn Đông cướp đoạt vô độ, quá mất dân tâm, cũng đã giúp hắn một đại ân rồi.

Lý Phúc Đạt mỉm cười nói:

- Bá Nhan Khả Hãn cũng chỉ như vậy thôi, lần trước hợp tác thất bại, khiến cho tình cảnh của hắn khó khăn. Bộ tộc Thát Đát sắp sụp đổ, ta còn lo lắng rất khó lại hợp tác được với hắn. Không thể tưởng tượng lúc này không cần ta ra tay, hắn lại chủ động tới hỗ trợ.

Có hắn lúc ẩn lúc hiện ở biên tái, triều đình chẳng những không dám vận dụng biên quân, mà ngay cả Kinh Doanh cũng không dám phái ra, điều này rất có lợi cho Dương Hổ ở Sơn Đông tạo phản. Có điều hành động của Bá Nhan hơi cổ quái, nếu dốc toàn bộ lực lượng được ăn cả ngã về không, vậy thì đánh nhỏ gây loạn nhỏ có tác dụng gì chứ? Nếu không công mà lui, lòng người tận tán, ôi, Bá Nhan Khả Hãn từng ngạo mạn kiêu hãnh, cũng có lúc đáng thương.

Giang Nam Nhạn nói:

- Giáo chủ, với binh lực hiện tại Bá Nhan rất khó có động tác lớn. Tôi thấy hắn đã cùng đường rồi, chạy đến biên cảnh đầu cơ thủ lợi, mong ngóng thừa dịp Đại Minh nội loạn, tìm kiếm thời cơ chiến đấu. Tuy nhiên đến lúc này, lại giúp Dương Hổ, Lưu Lục một đại ân rồi.

Bên chúng ta, vốn trong kế hoạch là muốn lợi dụng Dương Hổ tạo phản, tranh thủ thời gian cho Ninh Vương. Nhưng mà Dương Hổ trong thời gian ngắn đã có thể tụ nhiều binh mã như vậy, có thể thấy được triều đình cũng không lớn mạnh như chúng ta tưởng tượng. Thừa dịp hắn gây loạn họa ở Sơn Đông, sao chúng ta không thuận theo thời thế, nhân cơ hội khởi binh chứ? Làm gì mà cứ nhất định phải mượn dùng tên phế vật Ninh Vương?

Lý Phúc Đạt lắc đầu mỉm cười nói:

- Thời cơ chưa đến, Đại Minh hơn một trăm năm cơ nghiệp, không phải đơn giản có thể lay động như vậy. Tuy nói hiện tại dân chúng bất mãn nhiều, nhưng trong đại bộ phận người dân vẫn thừa nhận địa vị chính thống của nó.

Sau khi Chính Đức kế vị, gian nịnh trong triều đã loại trừ dần dần, bề ngoài

nhìn nó rất yếu, nhưng trên thực tế Giang Nam, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc vẫn đang được triều đình nắm giữ chặt chẽ trong tay, không thể khinh thường.

Lực lượng của chúng ta chủ yếu ở phương bắc, Dương Hổ có thể nhanh thành thế như vậy, thật ra trợ lực chính là do chúng ta âm thầm ủng hộ, sao không để hắn xung phong cơ chứ? Thành hay bại chúng ta cũng không bị tổn thất. Nếu chúng ta khởi binh vào lúc này, chẳng khác nào giành thức ăn với Dương Hổ, bởi vì địa bàn mà thế lực của chúng ta có thể khống chế trên cơ bản chính là địa phương mà Dương Hổ tung hoành lui tới không cố kỵ. Chúng ta khởi binh, chính là phân binh cho Dương Hổ đấy.

Hiện tại địa phương khác còn rất bình ổn, Ninh Vương cánh chim không gió, vẫn chưa phải lúc tạo phản. Hiện tại phải nghĩ biện pháp khiến Dương Hổ gây họa lớn hơn nữa, khiến người người oán trách, dân chúng mất lòng tin, khi đó dân chúng, thân sĩ, quan lại các nơi ăn bữa hôm lo bữa mai, nhất định tụ tập oán cho triều đình. Phiên vương các nơi tự thấy lợi ích bản thân bị ảnh hưởng, cũng sẽ bất mãn với triều đình. Như vậy, Ninh Vương khởi binh, lấy danh nghĩa giúp đỡ hoàng thất tiêu diệt loạn phỉ, thanh quân trắc mà xuất binh bắc phạt, có thể tranh thủ được dân tâm, dễ dàng đánh hạ triều đình đang sứt đầu mẻ trán.

Y thở dài nói:

- Nam Nhạn, biết vì sao ta nhất định phải mượn Ninh Vương để đoạt thiên hạ không? Nhiều lần thất bại, khiến ta không thể không thận trọng được. Chúng ta khởi binh, Dương Hổ khởi binh, phản đối chúng ta chính là khắp thiên hạ, một khi cổ lực lượng này quật khởi, không phải là nhỏ, thành công sẽ cực kỳ bé nhỏ. Mà Ninh Vương khởi binh Tĩnh Nan, chẳng qua chỉ là tranh đấu trong bộ phận hoàng tộc, phiên vương khác sẽ thờ ơ không quan tâm, rất nhiều Đại tướng nơi biên cương cũng sẽ ngồi yên đầu cơ, lực cản trở sẽ có thể giảm đến thấp nhất. Hơn nữa một khi thành công, chúng ta là có thể lợi dụng con rối Ninh Vương này để nắm trong tay hai lực lượng khổng lồ nhất tinh nhuệ nhất là Kinh Doanh và biên quân.

Đến lúc đó, bất kể quan ngoại ai là đương gia, chúng ta đều bí mật liên hệ cắt

đất kết minh, mười vạn quân đội tinh nhuệ chín vùng biên giới lập tức có thể phóng xuất, có một đại quân vô địch như vậy có thể nam chinh thảo nghịch bất cứ lúc nào, lại lấy danh nghĩa ủng hộ Ninh Vương làm Hoàng đế tước bỏ thuộc địa, có lẽ căn bản không cần phải xuất binh, phiên vương các nơi sẽ ngoan ngoãn giao ra lãnh địa, hồi kinh làm một Vương gia nhàn tản. Sau đó...ha hả, Ninh Vương cũng không còn tác dụng gì nữa rồi.

Giang Nam Nhạn gật gật đầu, nói:

- Giáo chủ nói rất đúng, điều lo lắng duy nhất của thuộc hạ là liệu thế lực của Dương Hổ, Lưu Lục phát triển đến mức không khống chế được hay không? Nếu thật sự phái hắn khống chế Sơn Đông, Hà Nam, Sơn Tây, ngăn cách nam bắc, tinh binh Bắc Cương lại không thể gấp rút tiếp viện, Dương Hổ, Lưu Lục thừa cơ tọa tại, nếu chẳng may Ninh Vương khởi binh cũng không thể chế phục hắn, chẳng lẽ không phải lợn lành chữa thành lợn què sao? Người của chúng ta ở bên cạnh hắn hữu hạn, Dương Hổ, Lưu Lục cũng không phải những kẻ đơn giản nha.

Trương Dần thản nhiên cười, khinh miệt nói:

- Thiên hạ hôm nay còn chưa tới mức loạn thế không có thuốc chữa, dưới tình hình trước mắt, hạng người Dương Hổ, Lưu Lục không có kinh doanh tích lũy trường kỳ, không có thế gia đại tộc ủng hộ, không có nho lâm sĩ tử hưởng ứng, không có dân chúng rộng khắp làm căn cơ, chỉ trong vòng mấy tháng ngắn ngủi đi lên, trong thời gian quá ngắn dựng nghiệp từ hai bàn tay trắng, muốn có ngày đó, chỉ là nằm mộng thôi.

Tranh hùng trục lộc là mua bán lớn, không phải là dành cho hạng thảo mãng không có đầu óc như chúng chơi đâu. Dương Hổ cũng thế, Lưu Lục cũng thế, đều là một đám ô hợp không có tầm mắt dài rộng, bọn chúng chơi sẽ tự làm mình rơi đầu.

Dương Lăng không phải là đi Sơn Đông sao? Ta thấy, người này vài lần tác chiến ở nam bắc tây đông, chiến pháp biết tròn biết méo, căn bản vượt xa đám người Dương Hổ. Hơn nữa địa vị của hắn ở trong quân hết sức quan trọng, có lực ảnh hưởng lớn đối với Hoàng đế trong triều. Hắn làm Tổng đốc, tuyệt đối có thể khiến cho các lực lượng đang phân tán chia sẽ nghe theo chỉ huy điều hành của hắn.

Nếu ta đoán không sai, Dương Hổ ở Sơn Đông đã bị chặn chân rồi. Lựa chọn duy nhất của hắn là xuôi nam Trung Nguyên, cắn loạn trung tâm Trung Nguyên, hoàn thành sứ mệnh lưu tặc duy nhất của hắn: Sáng tạo điều kiện cho Ninh Vương tạo thế tụ binh.

Trương Dần nâng chung trà lên, ngón tay chuyển động, cười khoái trá:

- Hạng Dương Hổ, Lưu Lục chỉ thích hợp làm may, chuyên môn may áo cho kẻ khác là rất tốt đấy. Bọn họ có thể đối phó được Dương Lăng sao? Ha hả, một người nếu từ nhỏ chính là Hạng Võ, ngươi cho hắn một trăm lần cơ hội, hắn làm theo vẫn không đánh lại Lưu Bang đấy.

Từng chiếc thang mây bắc lên tường thành, đầu thành tên bắn như mưa rơi, bọn hưởng mã đạo giơ cao lá chắn, cúi người, giống như từng hàng kiến men theo thang mây bò lên. Phía sau, từng đội cung tiễn thủ tận lực bắn quan binh ở trên tường thành, cố gắng toàn lực yểm hộ bọn họ công thành.

Gậy xiên và cọc đâm thi thố tài năng, thỉnh thoảng nhìn thấy một chiếc thang mây bị quan binh dùng gậy xiên toàn bộ xiên đổ xuống. Bọn hưởng mã đạo leo ở trên tới tấp kêu thảm ngã xuống dưới đất, hoặc là mấy binh sĩ ôm cọc đâm hợp lực xông đến, đem thang mây đâm đến sụp đổ từ giữa, bọn hưởng mã đạo hét thảm ngã xuống hào sâu ở bên dưới, liền giống như một đàn kiến bị người ta phủi rơi xuống, nhưng quan binh xung phong ở phía trước cũng không tránh được bị loạn tên bắn trúng, đều ngã xuống đất.

Men theo thang mây trèo lên thành, cái gọi là như kiến bu chỗ tanh, thân hình động tác của bọn chúng thật sự là giống như kiến, sinh mạng không nghi ngờ gì cũng hèn mọn như con kiến, ở bên trong loại điên cuồng nhân tính này, giá trị của sinh mạng sớm đã không còn gì, từng sợi sinh mạng tươi sống rất rẻ mạt bị thu lấy.

Người như kiến tụ, đao quang kiếm ảnh, tiếng kêu giết mấy ngày trời liền. Máy ném đá bị phá hủy, bọn hưởng mã đạo công thành liền nghĩ ra cách mới,

đem chút 'Đạn khói' dùng đất gia công làm thành mang theo bên người, sau khi chân vừa trèo lên thang mây vừa ném lên tường thành. Những tên tặc này tạo ra phá hư quả nhiên có chút thiên phú, đầu thành khói đen dày đặc, sâu cay đến sặc người, hun đến quan binh thủ thành nước mắt giàn giụa. Giữa tháng sáu, thời tiết nóng như thiêu, oi bức không thấy ngọn gió nào, lá cây liễu đều uể oải rũ xuống, khói công rất có hiệu quả.

Tên trong không trung không ngừng qua lại không ngớt, đan dệt thành một tấm lưới dày đặc, không ngừng thu lấy mạng người. Binh lính tiến công giơ đao đội khiên, mạo hiểm bất cứ lúc nào lăn cây bay xuống, đá mài và tên bắn tới bất cứ lúc nào. Binh lính chống cự trên tường thành cũng thỉnh thoảng trúng tên ngã xuống.

Trận chiến công thủ như này không có nhiều thay đổi gì, hoàn toàn là liều mình vật lộn thật, vứt bỏ mạng người, vứt bỏ dũng khí, ai nên đấu tranh ai nên ở lại.

Lúc này, xem ra là Lưu Lục chịu đựng không được trước, nhân thủ thương vong lớn khiến cho y chịu áp lực tâm lý rất lớn. Ngoài ra hai lộ đại quân chia nhau tấn công hai chỗ cửa thành khác nhau, cũng nhận được phản công điên cuồng giống nhau, vũ khí của quan binh vốn tốt hơn của y, mà lần phản công này, so với hai lần trước dường như cũng kiên quyết hơn, lực lượng phản công cường đại hơn, Lưu Lục bắt đầu nảy sinh ý định rút lui.

Dương Lăng chú ý đến thế công bên phía quân địch dần yếu, liền hướng về Tống Tiểu Ái mỉm cười nói:

- Người chia quân lực chiếm đóng, liền không có ý quyết chiến, người chủ động khiêu chiến, quyết sẽ không trận đầu liền dốc ra toàn lực, Lưu Lục muốn lui binh rồi.

Tống Tiểu Ái không chút nghi ngờ, lập tức gật đầu xác nhận, ngược lại khiến cho Dương Lăng không thể nào phát huy, nhất thời có cảm giác tâm ngứa khó ổn định.

Quả nhiên, theo quân lệnh của Lưu Lục truyền xuống, tiếng hò hét xung phong dần yếu đi. Quân bọn hưởng mã đạo bỏ lại thi thể thành mảng bắt đầu từng bước rút lui, lùi về hướng dịch đạo xa xa. Đại quân phòng thủ ở đầu thành được cổ vũ, bọn hưởng mã đạo đã rút lui khỏi đường tên bắn, đại pháo đầu thành không ngừng nổ vang, mượn cơ hội cướp lấy càng nhiều sinh mạng.

La Chỉ huy thu hoạch lớn đại thắng vô cùng cao hứng, tuy nói mấy lần đầu thất bại trước tiến công của bọn hưởng mã đạo, lấy được thắng lợi, nhưng là thắng lợi phập phòng lo sợ nha, mấy lộ binh mã trong tay mỗi người đều lòng dạ xảo trá. Y căn bản không thể đem toàn bộ tinh lực đặt ở việc chỉ huy tác chiến, vì điều động

thuận lợi, phối hợp lẫn nhau, y đối với tướng lĩnh mấy lộ đại quân xuất thân phức tạp không thể không cười, nói chuyện nhỏ nhẹ, đây vẫn là lần đầu tiên đánh sảng khoái tràn trề, thống khoái như vậy.

Cửa thành mở ra, cầu treo hạ xuống, bọn binh sỹ nhận lệnh nhanh chóng loại bỏ xe đụng thành, đám chướng ngại vật bị thiêu hủy ở chỗ cửa thành, lại dọn đi cự mã thương mà bọn hưởng mã đạo bố trí. Theo sau đó hai ngàn tên kỵ binh còn lại giữ sức lực đợi triển khai xông ra khỏi thành, bọn họ mặc nhuyễn giáp hộ tâm, trong tay cầm trường mâu mã tấu sắc bén, sát khí đằng đằng đuổi theo bại quân Lưu Lục.

Lưu Lục lúc này đã không còn ý hiếu chiến, y muốn là thành Đức Châu, mà không phải là hai ngàn kỵ binh thừa thắng mà đến này. Tuy nhiên đại bộ phận đội ngũ của y là kỵ binh, ngược lại cũng không sợ hai ngàn kỵ binh trong thành, kết quả hai ngàn kỵ binh xuất hiện này chỉ là tăng nhanh tốc độ rời đi của bọn họ. Trên thực tế những kỵ binh này không dám đuổi theo đến chỗ quá xa, bọn hưởng mã đạo cũng là kỵ binh là chính, lực cơ động cũng không kém so với bọn họ, chẳng may bị bọn hưởng mã đạo bất thình lình cắt đứt đường lui, như vậy bọn họ liền phải toàn quân bị diệt rồi.

Hai ngàn kỵ binh đuổi theo bọn hưởng mã đạo một lúc liền vòng ngựa quay về, đứng ở chỗ ngoặt theo dõi giám thị hướng đi của đại quân Lưu Lục, để tránh khỏi bọn chúng giết một hồi mã thương. Quân phòng giữ trong thành bắt đầu làm xử lí sau chiến tranh, cấp cứu binh lính bị thương, tu bổ tường thành, thu gom binh khí, còn có một bộ phận người hết sức phấn khởi ra khỏi thành, nhặt đao thương, quét dọn chiến trường, dọn dẹp thi thể.

Hiện giờ là tháng sáu, thời tiết khô nóng, thi thể nếu không xử lí tốt, trong thành tụ tập nhiều người như vậy, một khi truyền ra bệnh dịch, lập tức sẽ dần dần gây thành đại họa. Thi thể toàn bộ bị kéo đến chỗ hẻo lánh trong rừng, đào mấy cái hố to, quan binh đem bọn hưởng mã đạo lột trần như nhộng giống như ném chó chết từng tên từng tên vứt vào trong hố, bao gồm một số còn chưa tắt thở, thiếu tay thiếu chân rên rỉ thảm thiết, sau đó không chút nào thương hại đào đất chôn, lại giẫm đạp lên.

Loạn thế mạng người như rơm rác, không có người nào để ý sống chết của bọn họ, nhất là vừa mới còn là đối thủ liều chết đối đầu, nếu không phải lo lắng bệnh dịch lan tràn, thi thể của bọn chúng cũng không có ai để ý tới, chỉ có thể tùy ý chó hoang gặm ưng tha, cuối cùng trở thành một đống xương trắng bên đường.

Trong y phục của bọn hưởng mã đạo bức ép cởi xuống có tài vật lượng lớn, những tên giặc cỏ này tác chiến bất cứ lúc nào, rời đi bất cứ lúc nào, căn bản không có chỗ ở cố định, tài vật trọng yếu tự nhiên tùy thân mang theo, bọn chúng công thành chiếm đất, cướp bóc gian dâm, trên người vàng lá, thỏi bạc, tiền đồng tiền giấy, trang sức của nữ nhân, phàm là đồ vật đáng giá chút tiền đều có chỗ cần dùng.

Trên mặt đất bày mấy chiếc áo choàng, các binh sĩ giám thị lẫn nhau, vẫn dựa theo quy củ trước đây, dưới sự trông coi của quân quan, đem tất cả tài vật tập trung ở một chỗ. Uy Quốc Công khi duyệt binh chính mồm nói, tất cả tài vật thu được trên chiến trường giết địch thuộc về sở hữu của mỗi một người, không cần phải nộp lên trên, nhưng là rõ ràng bắt đầu thực thi có chút khó khăn.

Đầu tiên đây không phải là hai quân đối đầu đánh giáp lá cà, cho dù là, các binh sĩ cũng không dám giết chết một người liền đi soát người, mà đặt mình vào chiến đấu hoàn toàn không quan tâm đến gì cả, vả lại chiến tranh vốn chính là hợp tác phối hợp giữa các binh sĩ với nhau, công thủ giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thành đấy, không thể làm giống như bọn hưởng mã đạo kia.

La chỉ huy khá có tâm kế, y ra lệnh cho binh sĩ đem tài vật thu hoạch được tập trung lại nộp lên trên, sau khi cùng đánh giá lại cho phân phối cho binh sĩ tác chiến, người tử vong cần phải trợ cấp nhiều nhất, binh sĩ tác chiến tuyến đầu thứ hai, người hậu cần tiếp tế viện trợ thứ ba, tỉ lệ phân phối căn cứ mỗi lần thu hoạch tài vật lại nghiên cứu rồi quyết định.

Phương pháp như vậy là rất công bằng, các binh sĩ tự nhiên không có ý kiến, người hậu cần tiếp viện tính mạng nguy hiểm rất ít, nhưng là tham gia chiến sự, cũng có thể nhận được một phần thưởng. Bọn họ coi khoản thu nhập thêm giống như họ chính là binh sĩ trực tiếp tham gia chiến đấu giành được, công tác hậu cần được bảm đảm thì càng thêm ra sức, đối với các binh sĩ cũng trở nên cực kỳ nhiệt

tình, có thể nói là tất cả mọi người đều vui vẻ.

Dương Lăng thấy La Sỹ Quyền đánh giặc rất có trình tự quy tắc, làm quản lý cũng có chút thiên phú, xử lý không chê vào đâu được như vậy, trong lòng rất là vừa lòng. Hắn gọi một tên thân binh, kêu anh ta bảo La Chỉ huy an tâm giải quyết tốt hậu quả công việc, bản thân mình về hành dinh trước, sau đó không đợi y đến tiễn đưa, liền dẫn người rời đi.

Phải bẩm báo mình, La Chỉ Huy trở về tự nhiên sẽ đến bái kiến, hiện giờ không cần hắn đợi ở đó, trận này đánh thắng rồi, phần vinh quang và quyền uy này là của La Sỹ Quyền đấy, phải cho y chút thời gian và không gian để tiêu hóa, cho y một cơ hội để mở ra, giành được thừa nhận của thủ hạ. Bản thân mình không ở đó y càng thoải mái, trợ giúp y tạo được quyền uy cá nhân.

Ngũ Hán Siêu đi theo sau lưng Dương Lăng, thấp giọng nói:

- Quốc Công, La Chỉ huy như thế nào? Dương Lăng chỉ cười, nói:

- Trải qua trận chiến này, La Chỉ huy nơi này ta ngược lại không lo lắng rồi, chỉ là không biết Đại Bổng Chùy nơi đó, hiện giờ như thế nào rồi.

Đại Bổng Chùy rối bù bẩn thỉu, thảm hại không chịu được. Gã mặc chiếc quần rách gần như lộ mông. Trên người một chiếc áo ngắn đen như bôi sơn đen, sau vai hở lỗ lớn, phía dưới rốn đều không che được, dưới chân đi một đôi giày vải đen lộ ra ngón chân lớn, đai lưng bên cạnh treo một cái bát vỡ, trong tay cầm theo một cái gậy đánh chó gỗ táo khá chắc, hoàn toàn là hình tượng của một tên ăn mày nạn dân.

Hình tượng này khiến cho người khác nhìn thấy đều lộ vẻ thương xót, nếu là nha đầu Tiểu Vân Quốc Công phủ nhìn thấy, Hoàng Hà không lụt lội mới lạ. Đại Bổng Chùy ngẩng đầu nhìn, thành Thanh Châu thình lình ngay trước mắt, nhìn quang cảnh kia lại mười dặm liền có thể chạy đến rồi, gã không kìm được thở dài, lẩm bẩm nói:

- Ta con mẹ nó, coi như là đến rồi.

Đại Bổng Chùy nói xong, rầm một tiếng ngã lên sườn đất, trong tay vẫn còn nắm chặt gậy đánh chó của anh ta. Trên sườn đất mọc đầy cỏ dại tạp nham. Dưới người là đất đai xốp dày. Xem ra nơi này vốn hẳn là một mảnh đất sườn núi khá phì nhiêu, hiện tại hoàn toàn hoang vu rồi.

Dương Lăng còn chưa điều quân xuất chinh. Đại Bổng Chùy liền trước tiên ra kinh sư chạy đến thẳng Sơn Đông. Đoạn đường vào nam ra bắc này, mấy chỗ trọng trấn phủ thành đang giữ vững cơ hồ đều đi qua một lần, Thanh Châu là chỗ cuối cùng rồi. Anh ta là người Sơn Đông, ăn mặc rất phù hợp, khẩu âm Sơn Đông, bất luận là đi đến chỗ nào, ở nơi chiến tranh loạn lạc này, đối với khẩu âm nơi khác chính là chỗ cảnh giới nhất, Đại Bổng Chùy đều không khiến cho bất cứ người nào hoài nghi.

Tuy nhiên đoạn đường này khó chịu đựng. Vào thành là thiên hạ của triều đình,

muốn vào khó như lên trời. Ra khỏi thành chính là thiên hạ của bọn phỉ đạo, Bạch Y Quân, Hồng Nương Tử Quân, sơn tặc, thủy tặc, thổ phỉ thậm chí vốn là lưu manh du đãng đánh vào cờ hiệu của Bạch Y Quân, các loại đội ngũ nhiều như cá diếc sang sông.

Sơn Đông từ xưa nhiều hào kiệt, nhưng hào kiệt nhiều thì cũng thường thường lấy võ loạn cấm. Từ Tần Hán trở về sau, người khởi sự vô số, Sơn Đông có Tây Hán Xích Mi, Lục Lâm, cuối Tùy Tri Thế Lang, Thanh Châu khăn vàng, cuối thời Đường Vương Tiên Chi, Hoàng Sào, Đại Tống Thủy bạc Lương Sơn, Đại Minh Đường Trại Nhi vân vân, còn như những người khác không mấy quy mô hoặc là dựa vào loạn lạc mà dựng lên, lại không thể đếm được.

Những hào kiệt Sơn Đông này, chân chính tạo phản thành công, có thể cắt đất phong hầu phong vương phong tướng, cũng chỉ có mấy người ít ỏi cuối thời Tùy Tần Thúc Bảo, Trình Giảo Kim thôi, nhưng chỉ cần có người thành công, liền có người bắt chước.

Đại Bổng Chùy đoạn đường này đi đến, gặp qua mấy chục đội ngũ tạo phản lớn lớn nhỏ nhỏ, trong đó có một số chẳng qua là nhà tan cửa nát cuộc sống quá khó khăn, chỉ đành tụ tập lại thành mấy chục trên trăm người ỷ vào người đông thế mạnh thuận tiện cướp của nhà giàu, hơn nữa sẽ không bị người khác ức hiếp thôi.

Đại Bổng Chùy hai ngày trước còn bị một đội lưu tặc hơn bảy mươi người lôi kéo nhập bọn, tên thủ lĩnh kia tên Thiết Ngưu, thấy Lưu Đại Bổng Chùy và bản thân mình khổ người tương đương nhau, đều là người có thân cao khỏe mạnh cường tráng, liền thịnh tình mời hắn ta nhập bọn. Đại Bổng Chùy ngược lại cũng không từ chối, đi theo Thiết Ngưu lăn lộn hai ngày rưỡi, cuối cùng bị tên đồng bọn Thiết Ngưu đuổi ra.

Thằng nhãi Đại Bổng Chùy này nhát như chuột, thời điểm cướp bóc xung phong thì luôn ở phía sau, thời điểm ăn cơm luôn xung phong ở phía trước, lượng cơm một người gần như vượt qua ba người, Thiết Ngưu đại thủ lĩnh thật sự là chịu không nổi, đành phải đau đớn đuổi ái tướng đi. Lưu Đại Bổng Chùy liền rời khỏi đội ngũ tạo phản, tiếp tục bước lên hành trình của mình.

Vào địa cảnh Thanh Châu, dân chúng rõ ràng trở nên thưa thớt hơn. Nơi này là nơi nguy hiểm nhất binh đến phỉ đi, chịu tai họa cũng nghiêm trọng nhất. Từ lúc bọn lưu tặc rất đông trốn vào trong thành trong núi, lại có một số người dứt khoát thu dọn thu dọn trốn về quê cũ Sơn Tây, cho nên trở nên hoang vu ít người. Vô cùng thê lương.

Sơn Đông có rất nhiều người là di dân Sơn Tây. Cuối thời nhà Nguyên khi Hán Mông giao chiến Sơn Đông là chiến trường chính, thời kỳ đầu Đại Minh lập quốc nhân khẩu cực kì thưa thớt, ngàn dặm không có tiếng gà gáy, dân cư cũng không thấy xuất hiện. Vì thế Chu Nguyên Chương liền di dân từ Sơn Tây đến Sơn Đông.

Thời điểm Yến Vương Tĩnh Nan giằng co lâu dài bốn năm, giết tặc vô số. Đến nỗi đường lớn um tùm hoang vắng, đồng ruộng bỏ hoang, Sơn Tây sáu bảy trăm dặm, Nam Bắc gần nghìn dặm, đều là đất mộ. Sơn Đông lại là chiến trường chính, nhân khẩu vì chiến tranh, nạn hạn hán, nạn châu chấu, ôn dịch trên diện rộng giảm bớt, vì thế Chu Lệ sau khi thành công cũng noi theo cha anh, từ Sơn Tây bốn bề bao quanh là núi tương đối ổn định di dân đến Sơn Đông.

Lúc ấy, di dân nhiều nhất là Đông Xương Phủ, ( nay là Liêu Thành), Tế Nam Phủ, Duyện Châu Phủ, Lai Châu Phủ, Thanh Châu Phủ, dân chúng không muốn rời khỏi quê hương, vì phòng ngừa di dân chạy trốn, lúc đó quan binh đều dùng dây thừng đem trói hai tay dân chúng sau lưng, từng dãy kết hợp lại với nhau để tiện cho việc trông coi. Trong quá trình áp giải, khi mọi người cần đại tiểu tiện, liền van nài quan binh cởi dây trói tay, nghe nói hiện tại gọi đại tiểu tiện thành tháo tay là vì thế.

Hiện tại bọn họ dời đi đã hơn trăm năm, rất nhiều người từ trong miệng tổ tông bố mẹ còn biết quê hương của mình. Sơn Đông vừa loạn, quan phủ mất đi lực trói buộc, hộ tịch, lộ dẫn tất cả không dùng được nữa, cho nên có một số người dứt khoát thu dọn nhà cửa chạy nạn, ngàn dặm lặn lội, muốn chạy trốn về Sơn Tây.

Loại tình cảnh này Thanh Châu là đặc biệt nghiêm trọng. Cho nên Lưu Đại Bổng Chùy vừa mới tiến vào địa cảnh Thanh Châu, gần như không thấy được mấy người, muốn làm ăn mày cũng không dễ dàng.

Anh ta nằm ở trên sườn đất, lim dim hai mắt, nghỉ ngơi một hồi tích lũy đủ sức lực, mới nghiêng người đứng lên tiếp tục đi về phía trước.

Thành Thanh Châu đã phong thành rồi. Bạch Y Quân mấy lần tấn công thành Thanh Châu, dọa Hành Vương quá sợ, tính mạng của người nhà y, toàn bộ gia sản tất cả đều ở Thanh Châu, cho nên y đem tất cả binh mã ở các huyện lân cận toàn bộ tập kết ở bên trong thành Thanh Châu, sau đó phong tỏa toàn thành để bảo vệ bản thân.

Hiện giờ Bạch Y Quân đã vòng sang tấn công thành Thái An, nơi đây đã yên bình lại, Hành Vương điện hạ vẫn cứ kiên quyết không cho phép mở thành, cũng không cho quân đội, quan viên ra khỏi thành tiêu diệt đám lưu tặc để trấn an dân chúng địa phương. Y hoàn toàn vứt bỏ ngoài thành và huyện trấn phụ thuộc, để mặc bọn lưu tặc hoành hành, dân chúng tự sinh tự diệt, chỉ cầu một điều là an nguy. Tri Phủ Thanh Châu Lạc Thiếu Hoa là một thanh quan, nhưng là phiên vương ở thời điểm chiến loạn. Nếu không có chỉ dụ của triều đình, có quyền chỉ huy quân chính địa phương, ông ta cũng không còn cách nào.

Lưu Đại Bổng Chùy tới dưới chân thành Thanh Châu, chỉ thấy tường gạch vết thương chồng chất, có chỗ đã lộ ra đất đầm, tường chắn mái ở đầu thành cũng bị đập hỏng mấy chỗ, có thể nghĩ đã từng gặp chiến đấu kịch liệt như thế nào.

Đại Bổng Chùy đã bụng đói cồn cào, vất vả mới đến được chân thành, cũng không quan tâm đánh giá bốn phía xung quanh, lập tức ngẩng đầu hô lớn nói:

- Mở thành! Mở thành! Nhanh chút cho ta đi vào!

Quân phòng thủ đầu thành đã sớm nhìn thấy gã loạnh choạng đi đến rồi, chỉ là một tên ăn mày mà thôi, bọn họ ngay cả cung tiễn cũng lười cầm, đứng ở đầu thành hướng về phía Đại Bổng Chùy cười mỉa nói:

- Tên ngốc, Hành Vương điện hạ có lệnh, ngoại bất nhập, nội bất xuất, ngươi chạy trốn về nơi khác đi.

- Thối lắm! Ta là đặc sứ triều đình, phụng mệnh khâm sai Tổng Đốc Uy Quốc

Công Dương đại nhân tiêu diệt loạn phỉ, có chỉ lệnh quan trọng phải vào thành truyền đạt, còn không mau để ta đi vào?

Quân phòng thủ đầu thành ôm bụng cười to:

- Ha ha ha, ngươi chớ có đùa cợt, hai ngày trước có cháu trai còn mạo danh Diễn Thánh Công Khổng Công Gia đấy, bị lão tử cho một bãi nước tiểu dội đi rồi. Ngươi là đặc sứ của Uy Quốc Công trong kinh? Ta nói huynh đệ ngốc, ngươi trước tiên sửa lời của ngươi lại, trực tiếp nói ngươi là Uy Quốc Công không phải càng tốt sao?

Đại Bổng Chùy vừa bực mình vừa buồn cười, gã trừng mắt nhìn về phía trên thành liên tục gào giải thích, gào đến cổ họng bốc khói, quân phòng thủ đầu thành dứt khoát quay đầu không để ý đến gã nữa.

Lưu Đại Bổng Chùy vò đầu bứt tai, đột nhiên nghĩ ra một kế, hướng về phía quan binh đầu thành hét nói:

- Quan gia, quan gia, tôi nói thật, tôi kỳ thật chính là đầy tớ của Vương lão tài chủ huyện bên cạnh, trong nhà bị Bạch Y Quân cướp sạch rồi, tiểu nhân trộm một viên gạch vàng to, một mình chạy trốn đi ra ngoài. Nhưng ta hiện nay ngay cả miếng ăn đều không có, ngài giơ cao đánh khẽ, cho tôi vào thành đi, chỉ cần đi vào, viên gạch vàng này chính là của ngài rồi.

Trên đầu thành rầm rầm một lúc, nhô ra bảy tám cái đầu, một đám trừng mắt như nhìn bánh bao giống nhau, trong đó có một người nhìn quân phục là một tên Bá Tổng, y trừng mắt đánh giá trên dưới Đại Bổng Chùy một hồi, cười ha hả nói:

- Tiểu tử, cục gạch vàng ngươi giấu trên người đâu?

Nếu Lưu Đại Bổng Chùy nói gã là tài chủ hoặc là đại thiếu gia của nhà tài chủ, sợ là không có ai sẽ tin tưởng, nhưng gã nói là tên đầy tớ nhà địa chủ, thừa dịp hỗn

loạn trộm tài vật của chủ nhân, chuyện này thời điểm chiến loạn cũng thường gặp rồi, quân phòng thủ đầu thành ngược lại không hoài nghi.

- Đúng vậy, đúng vậy, với bộ dạng này của ta, lưu tặc nhìn cũng đều lười soát người. Cho nên cất giữ được rất tốt, vốn muốn bán tiền, chờ sau khi ổn định xuống, mở một tiệm nhỏ, nhưng hiện tại sống đều không sống nổi nữa rồi, quan gia, ngài mở lòng từ bi.........

- Hắc hắc hắc, ngươi yên tâm đi, chỉ cần là thật, ta sẽ cho ngươi đi vào. Tiểu Lục Nhi, Lục Tử, nhanh đi cầm sợi dây, buộc cái giỏ, để hắn ta đem cục gạch vàng đặt vào trong giỏ, kiểm nghiệm trước rồi nói sau.

Một binh sĩ thân tín tên Tiểu Dư bên cạnh cười cười thấp giọng nói:

- Nhị ca, Hành Vương gia đã hạ lệnh đấy, thật muốn cho hắn ta đi vào ư? Bá Tổng bĩu môi nói:

- Cho hắn tiến vào, cho cái rắm ấy! Mẹ nó, không phải là tên đầy tớ trộm tài vật nhà chủ chạy trốn ra ngoài sao, lão tử không bắt hắn tống vào ngục tra xét đã không tệ lắm rồi, bản thân hắn có chân đau bị ta nắm rồi, ngậm bồ hòn dám phóng rắm sao? Đợi cục gạch vàng lên thành, phóng hai mũi tên dọa hắn chạy. Hắc hắc, vùng chiến tranh loạn lạc, tiểu tử này không là làm kẻ tặc chính là đói chết, không có trở ngại gì.

Tiểu Dư cười hắc hắc, lặng lẽ giơ ngón tay cái lên.

Tiểu Lục Tử tìm sợi dây thừng, buộc cái giỏ đựng vôi thuận tiện thả xuống dưới thành. Lưu Đại Bổng Chùy quay lưng về phía bọn chúng, liền quẳng cái bọc trên mặt đất, đem một khối lớn bằng cỡ bàn tay ở đoạn trên cùng gậy đánh chó dính chắc bẻ gãy, bên trong lộ ra một đoạn lụa màu vàng, Lưu Đại Bổng Chùy lấy ra, thuận tay vơ một hòn gạch mẻ gói lại, bỏ vào trong giỏ.

Vài tên quân phòng thủ đầu thành nhìn cái mông của gã vểnh lên cũng không biết đào cái gì, trên quần mấy cái lỗ rách vốn không hiện rõ, lúc này rõ ràng lộ ra

mông thịt, không kìm được hi hi ha ha, cười giễu không ngừng.

Lưu Đại Bổng Chùy làm xong rồi, nâng người lên hướng về phía đầu thành hô:

- Quan gia, đã bỏ vào trong giỏ rồi.

Dư Tiếu tinh thần chấn động, vội vàng nhào qua, cùng Tiểu Lục Tử đem kéo nhanh giỏ lên. Trong thời gian chốc lát, đầu thành vèo một tiếng bay ra một viên gạch. Bá Tổng gia nhô đầu ra hung ác chửi mắng:

- Vương bát cao tử, lấy cục gạch lừa gia gia ngươi? Lưu Đại Bổng Chùy né một chút, chắp tay cười to nói:

- Biết chữ không huynh đệ, viên gạch kia không đáng giá, vật bọc nó nhưng lại đánh giá bạc, ngươi nhìn rõ đi!

Bá Tổng ánh mắt sáng lên, thất thanh nói:

- Con mẹ nó, chẳng lẽ là khế ước phòng đất? Nhanh nhanh, lấy ra ta xem thử.

Bá Tổng cầm lụa vàng trong tay, đặt ngang dựng thẳng xem, nhìn một hồi lâu

hô:

- Tiểu Lục, không phải ngươi biết chữ sao, đọc cho lão tử, bên trên này vẽ lung tung loạn xạ gì đó?

Tiểu Lục Tử học qua tư thục, con người cũng nhã nhặn, thường bị người sai bảo sai đến gọi đi, nghe vậy vội vàng nhận lụa vàng, gật gù đắc ý đọc:

- Phụng thiên thừa vận Hoàng Đế, chiếu viết..........

Đọc đến chỗ này, hắn ta không khỏi ngẩn người, há hốc mồm ngẩng đầu nhìn Bá Tổng. Bá Tổng trừng mắt nhìn lại gã, lắp bắp nói:

- Gì...gì....đồ chơi gì?

- Thánh...thánh..thánh chỉ!

- Phụng thiên thừa vận Hoàng Đế, chiếu viết:

Uy Quốc Công, Phó Soái Kinh doanh Ngoại Tứ Gia quân Dương Lăng, xuất binh ra trận tiêu diệt loạn phỉ, quân chính Sơn Đông, tất cả các chức quan quan trọng, đều chịu quản lý, kẻ trái lệnh lập tức hành quyết.

Hành Vương Chu Hựu Huy, Phó Tổng Binh tướng lĩnh hiện đóng quân tại Thanh Châu Trịnh Hồng Phi, Tham Tướng Phương Thanh Vân, Tri Phủ Lạc Thiếu Hoa cùng với các quan viên lớn nhỏ khác từ trên mặt đất bò dậy, Lưu Đại Bổng Chùy cầm gậy đánh chó đứng ở bên cạnh, từ trong khe hở nhỏ của gậy đánh chó khoét rỗng lấy ra bản hiệu đính binh bộ, bên trên đã có ấn tín đám tham tướng Diên Đồ Đại Phụ, Tri Phủ, đám quan viên Du Kích, Phòng Thủ của Tề Nam Phủ.

Lưu Đại Bổng Chùy kéo căng mặt trứng đen, lớn tiếng nói:

- Nơi này là trạm cuối cùng, phải lập tức sai người liên hệ với các thành lân cận, lần lượt thay phiên nhau chuyển tin tức đến Đức Châu, để Quốc Công đại nhân biết nơi này đã nhận mệnh hành sự. Về mệnh lệnh cụ thể, vì quan hệ trọng đại, Quốc Công không cho phép gửi công văn đi, phải do ty chức chính mồm giải thích cho Vương gia và các vị đại nhân biết.

"Dương Lăng phái người đến, nhất định là chủ ý nhằm vào quân phòng thủ Thanh Châu." Hành Vương điện hạ nghĩ, cực kì không cam tâm tình nguyện.

Nhưng tên ăn mày trước mắt này đang cầm thánh chỉ của Hoàng Đế mà đến đấy, bên trên nói rõ ràng, binh mã Sơn Đông, chuyện quân chính quan trọng, toàn bộ do Dương Lăng chỉ huy, ai dám làm trái chính là khi quân, Hành Vương cũng không có gan tạo phản.

Huống chi sáu tỉnh ven biển đang trong cuộc chiến chống giặc Oa được Dương Lăng chỉ huy thu được toàn thắng, quan binh mấy tỉnh này đối với hắn tin tưởng mười phần. Nhất là trong đoạn thời gian kia, Dương Lăng quân kỷ nghiêm minh, bãi bỏ Cang Viên của quân đội tác chiến, ấn quân công ban thưởng, trong số tướng lĩnh cấp thấp một bộ phận rất lớn đều là ở trong trận chiến này thay thế được địa vị

tầm thường vô vị bắt đầu đảm nhiệm tướng lĩnh, mới lên chức đến sĩ quan địa phương.

Những sỹ quan trẻ trung này dĩ nhiên vô cùng tôn sùng Dương Lăng. Tướng lĩnh cao cấp bởi vì được lợi không nhỏ ở trong cuộc chiến chống giặc Oa, đối với Dương Lăng cũng hết sức vui vẻ nghe lệnh. Trước mắt vị Phó Tổng Binh này chính là vì chống Oa có công từ Tham Tướng trực tiếp thăng lên, vừa nghe Lưu Đại Bổng Chùy chính mồn nói mệnh lệnh của Dương Lăng. Bọn họ không đợi dặn dò, liền chen lên, đem Đại Bổng Chùy vây lại.

Hành Vương thấy thế không khỏi nơm nớp lo sợ: " Hành Vương phủ của ta không thể có sai lầm nha, Dương sao chổi lớn này, phái người đến Thanh Châu rốt cuộc mưu đồ cái gì nha?"

Dương Lăng không trực tiếp chạy về hành dinh, mà là ở trong thành đi dạo xung quanh một lúc. Trong thành dân cư khá yên tĩnh, mấy vạn đại quân đồn trú, đối với dân chúng bình thường hồ đồ vô tri mà nói chính là vật bảo đảm tính mạng. Bọn họ tuy nghe nói bọn hưởng mã đạo rất lợi hại, nhưng bọn hưởng mã đạo cho đến nay còn chưa thành công đánh hạ cứ điểm quân sự quan trọng như này, cũng không giao phong chính diện cùng quân đội đông như vậy, dân chúng trong thành đối với quan binh vẫn là rất ỷ lại đấy.

Khi Dương Lăng đi dạo một vòng chạy về chỗ đặt hành dinh, La Sỹ Quyền, Kiều Tứ Hải dẫn một đoàn tướng lĩnh mặt mày rạng rỡ ở trong quân đúng lúc chạy đến, nhóm quan văn phụ trách dân chính địa phương cũng đến cửa chúc mừng.

Dương Lăng gặp bọn họ ở cửa, chuyện trò vui vẻ vào phủ. Vừa mới đi vào viện. Liền thấy một đại hán cởi trần, đứng ở bên miệng giếng phía trái vườn hoa, nhấc một thùng lớn nước giếng mát lạnh " rào " một tiếng đổ ở trên người, sau đó lắc đầu mạnh, giọt nước bắn tứ phía, gã ha ha cười lớn nói:

- Mát mẻ, mát mẻ, vùng này khô hanh nóng như thiêu, so với chỗ chúng ta nơi đó còn nóng hơn, ha ha, vẫn là nước giếng mát mẻ.

Người này một thân cơ bắp cường tráng, da thịt đen thui, toàn thân bắp thịt cuồn cuộn, dường như tràn đầy sức mạnh bùng nổ dữ dội vô tận, thân thể và khí phách khỏe mạng như vậy, quả nhiên là một hảo hán. Nghe thấy thanh âm của anh ta, Dương Lăng đầu tiên là ngẩn ra. Sau đó thử thăm dò kêu:

- Bành Tiểu Dạng!

Đại hán nghe tiếng mãnh mẽ quay đầu lại, nhìn thấy Dương Lăng, hai mắt lập

tức trợn tròn, vui vẻ cười to nói:

- Ha ha, Dương đại nhân trở về rồi! Ty chức đi về đầu thành tìm ngài, quan binh không cho phép trèo lên thành, ty chức đợi nóng quá, liền trở về trước rồi.

Bành Tiểu Dạng nói xong, chạy nhanh đi qua, thẳng đến hành lễ:

- Ty chức ra mắt đại nhân!

Trên người anh ta toàn là nước, chiếc quần sũng nước, mạnh mẽ ôm quyền giơ tay, giọt nước bám vào đều bắn lên mặt Dương Lăng. Mấy tên quan văn bên cạnh không nhìn được nhăn mày. Dương Lăng biết tiểu tử này đã quen làm hải tặc, gia nhập quan binh thời gian ngắn, có thể biết lễ nghĩa, có thể giữ quân kỷ như này là không tồi rồi, những lễ nghĩa phiền phức này ngược lại không quan trọng.

Hắn vô cùng thích tính cách ngay thẳng của tên dũng tướng này, liền cười mỉn đỡ anh ta đứng dậy, nói:

- Tiểu Dạng, hôm nay ở Thủy Tây môn nhìn thấy cờ xí của thủy quân Giang Nam, ta liền biết là nhân mã của các ngươi, chỉ là không nghĩ đến là ngươi tự mình dẫn đội. Ha ha, gần nửa năm chưa gặp, ngươi càng thêm vạm vỡ rồi, rắn chắc giống như là sắt thép đúc vậy.

Bành Tiểu Dạng toét miệng rộng cười nói:

- Đường bộ gặp loạn phỉ, đường thủy cũng không yên ổn, lần này đồ vật vận chuyển quá quan trọng, đều là dâng cho ngài đấy, không đích thân áp giải ta không yên tâm được. Vốn là muốn qua nơi này vòng đường bộ đưa đến kinh sư, giữa đường liền nghe nói ngài phụng chỉ đến Sơn Đông, như vậy thì tốt rồi, bớt việc.

Trong lòng Dương Lăng thấy kỳ quái, không biết anh ta có đồ quan trọng gì muốn đích thân vận chuyển giao cho mình, ở trước mặt nhiều người như vậy cũng không tiện hỏi đến, liền trước tiên dẫn bọn họ đi về phía Diễn Võ Đường. Dương Lăng vừa đi vừa giới thiệu Bành Tiểu Dạng với đám người La Sỹ Quyền làm quen nhau. Mới vào cửa Diễn Võ Đường, Bành Tiểu Dạng liền vỗ trán nói:

- Ai ya, ta quên nói rồi, đại nhân.....

Anh ta mới nói đến đây, mấy người ngồi ở mấy án hai bên trái phải trong Diễn Võ Đường đã đứng lên, trong đó một người nhìn thấy Dương Lăng lập tức yêu kiều gọi một tiếng

- Dương!

Lập tức một bóng dáng cao gầy đã bước nhanh đi đến trước mặt Dương Lăng.

Người này ngũ quan tươi đẹp, khí chất cao quý, mặc quân phục tướng lĩnh quân Minh, quần áo cắt rất vừa người, eo sữa nhỏ bé yếu mềm được phác họa vô cùng uyển chuyển, tôn lên dáng vẻ cao gầy tràn đầy vẻ quyến rũ.

Mái tóc dài màu nâu, mắt đẹp xanh lam thâm thúy tràn đầy lệ quang, lúm đồng tiền như ngọc, mắt sâu mũi cao, đây là một nữ nhân mỹ lệ phong tình dị quốc, khí chất, tư sắc, dáng người hết sức hoàn mỹ, xinh đẹp dịu dàng giống như một bông hoa hồng nở rộ trong sương sớm.

Nàng nắm lấy tay của Dương Lăng, hai má ửng đỏ kích động. Bởi vì quá vui mừng, nhất thời lại nói không ra lời. Dương Lăng kinh ngạc hồi lâu, mới giật mình gọi một tiếng:

- A Đức Ny, nàng sao lại đến đây?

Đôi mắt A Đức Ny thâm tình chân thành, dịu dàng nhìn hắn, giọng nói dịu dàng run rẩy thân mật lẩm bẩm một câu:

- Dương, ta rất nhớ huynh!

Tin tức Dương Lăng xảy ra chuyện truyền về Chiết Giang, thiếu nữ A Đức Ny xưa nay luôn kiên cường tự lập này lập tức cảm thấy như trời sập xuống. Năm tháng một mình trôi giạt ở trên biển, nàng cắn răng chống đỡ kiên cường ba năm, nhưng thời điểm bị người bán làm nữ nô, tâm hồn của nàng cuối cùng hoàn toàn sụp đổ.

May mắn, nàng gặp Dương Lăng, tâm hồn thiếu nữ này coi như là có chỗ dựa vào. Nghe nói Dương Lăng chết rồi, người duy nhất nàng có thể nói chuyện, vị Khởi

Vận tỷ tỷ kia trở nên giống như một âm hồn âm u đáng sợ, cả ngày tìm hung thủ, sau đó làm hung thủ. A Đức Ny không có người quan tâm, lẻ loi giống như lại một lần nữa bị toàn bộ thế giới vứt bỏ, cái loại cảm giác cô độc kia thật sự so với cái chết còn đáng sợ hơn.

Có hạnh phúc mà lại mất đi, sau đó mất đi mà lại tìm được lại. Quá trình đau buồn vui mừng lại lặp đi lặp lại này, đã giày vò lòng của thiếu nữ kiên cường cũng bắt đầu yếu đuối, đây là nam nhân duy nhất nàng có thể yêu, có thể dựa vào cả đời ở Đại Minh. Những ngày tháng ở phương nam nỗi nhớ của nàng thậm chí so với Thành Khởi Vận và Mã Liên Nhi còn nhiều hơn.

Mã Liên Nhi ít nhất còn có hài tử, Thành Khởi Vận ít nhất còn có sự nghiệp, rời khỏi Dương Lăng, một nữ nhân dị tộc như nàng ở Đại Minh còn ý nghĩa gì? Yêu, chỉ có thể là toàn bộ của nàng.

Đôi mắt đẹp của Á Lỵ, A Đức Ny trong suốt, nhu tình như nước, dịu dàng ôm chặt lấy Dương Lăng. Người nam nhân này, là ký thác tình cảm duy nhất của nàng. Là nam nhân thân mật nhất trong cuộc đời này của nàng.

Kiều Tứ Hải hô to gọi nhỏ:

- Ấy? Sao là một nữ nhân sắc mục? Cô ta là ai, sao còn mặc quân phục chứ?

Gã nói xong nhìn bên nọ ngó bên kia, chỉ thấy từ La Sỹ Quyền xuống dưới, tất cả quan văn võ tướng đều nhìn mình như đang nhìn tên ngốc, chỉ dùng khóe mắt liếc gã, mà đem chóp mũi hướng về phía khác.

Kiều Tứ Hải khó hiểu gãi gãi đầu, ánh mắt đảo quanh nói:

- Ta làm sao?

Các đồng chí xung quanh soàn soạt nghiêng đầu đi, vẻ mặt biểu hiện không quen biết gã.

Dương Lăng cũng có chút ngại ngùng. Bản thân mình vừa mới tuyên truyền giảng giải cho người ta mười bảy điều năm mươi tư chém. Nói chuyện quân luật

quân pháp, hiện tại nữ nhân của mình lại chạy đến trước hai quân. Tuy nói không có người nào dám truy cứu trách nhiệm của mình, nhưng lúc này cũng quá mất mặt mũi đi.

Hắn rất nhạy bén, nghĩ đến A Đức Ny kiêm chức vụ Đại Sứ Tham Tán Quân Khí Cục Phúc Kiến, bởi vì nàng tinh thông hỏa khí, chuyên gia hỏa khí Quân Khí Cục Phúc Kiến Trịnh lão đối với nàng vô cùng coi trọng, cho nên sau khi nàng đi Giang Nam Trịnh lão cũng chưa cho nàng từ chức vụ này, không ngại dùng cái này ứng phó trước rồi nói sau.

Dương Lăng ho khan hai tiếng, kéo dài thanh âm nói:

- Vị này......, vị A Đức Ny cô nương này là Đại Sứ Tham Tán Quân Khí Cục Phúc Kiến, trong trận chiến bình dị tộc đã phát minh ra thủy trung hỏa lôi, công trạng to lớn.

- Ồ......

Chúng quan viên bừng tỉnh đại ngộ.

- Dương!

Nước mắt của A Đức Ny đã tràn ra hốc mắt, nàng thổn thức, bỗng nhiên rúc đầu chui vào trong lòng Dương Lăng, ôm chặt lấy eo của hắn.

- Hơ....

Dương Lăng theo bản năng ôm lấy eo nhỏ thon thả mượt mà của nàng. Quan viên xung quanh thấy cử chỉ kinh hãi thế tục, đồi phong bại tục này, hai tròng mắt trừng đến đều sắp rớt ra ngoài rồi.

Dương Lăng cười gượng hai tiếng, nói:

- Cái này là lễ tiết Tây Dương, là một loại lễ tiết Tây Dương.

- Ồ....

Chúng quan viên tiếp tục bừng tỉnh đại ngộ.

- Tướng công, huynh làm người ta lo lắng chết đi được.

-.......Khụ khụ, là Quốc Công! Dương Lăng thấp giọng rên rỉ.

- Vâng vâng, Quốc tướng công!

A Đức Ny biết nghe lời phải, lập tức sửa miệng.

Trán Dương Lăng đã đầy mồ hôi, lắp bắp giải thích nói:

- Nàng ấy muốn nói Quốc Công. Người Tây Dương nha, không hiểu rõ Hán ngữ, cũng không biết xưng hô!

- Ồ....

Chúng quan viên vẻ mặt đờ đẫn.

- Mẹ nó, ai tin thì tin!

Dương Lăng thẹn quá thành giận, chẳng kiêng kỵ nữa.

- Ta không thèm giải thích nữa.

Chúng quan viên vốn vẻ mặt ám muội, nhưng Dương đại quan nhân vò đã mẻ lại sứt, bày ra tư thế "'Ta là lưu manh ta sợ ai", bọn họ thật ra đều đã không còn khí thế rồi.

Những quan viên này tới cửa chỉ là chúc mừng, chỉ có La Chỉ huy là báo cáo chút quân tình, tiếp theo là trưng cầu ý kiến của Uy Quốc công về tác chiến. Lần này nói ngắn gọn vào nội dung chính, những câu khách khí đều lược bỏ hết.

La Sĩ Quyền vội vàng hồi báo một lần, lại xin chỉ thị vài câu, liền binh bại như núi đổ, dẫn một đám tàn binh bại tướng chạy trối chết. Kiều Tứ Hải nhất thời nói lỡ, gọi phu nhân của Uy Quốc công thành "'Lão nương" lập tức cắp đít chạy nhanh hơn bất kỳ ai khác.

Dương Lăng ngẩng đầu ưỡn ngực đứng trên đại sảnh Diễn Võ, hiên ngang chắp tay tiễn các quan viên, ngực ưỡn lưng thẳng, vẻ mặt quang minh lỗi lạc. A Đức Ny như chim nhỏ dựa vào bên cạnh của hắn.

Thấy đám người Ngũ Hán Siêu, Bành Tiểu Dạng, văn võ quan viên rắm cũng không thả lập tức tán đi như chim thú. Dương Lăng uy phong lẫm lẫm, ngạo nghễ, thấy bên cạnh ngoại trừ bốn thị vệ đang giả câm vờ điếc ở cửa phòng ra, đại sảnh trống không không một bóng người rồi, lúc này mới ôm đầu vai của A Đức Ny, quay nàng đối mặt với mình.

Quốc gia của A Đức Ny, tính cách phụ nữ khá tự lập kiên cường. Với thân phận của nàng và những gì đã trải qua, đã khiến tính cách của nàng tự chủ và lý trí hơn so với những cô gái khác, cho nên lúc trước Dương Lăng mới giao tin quan trọng như vậy cho nàng, dù khả năng sẽ gặp phải nguy hiểm. Bởi vì nàng kiên cường, từng từ ngàn dặm thuận gió lướt sóng đi vào Đông Phương, trời đưa đất đẩy mà trở thành A Lỵ, nữ nhân của hắn. Nam tước A Đức Ny, cũng là người Dương Lăng vướng bận ít nhất đấy.

Nhưng mà hiện tại nhìn lại, A Đức Ny dường như thoát thai hoán cốt (thay da đổi thịt), vẻ tự tin kiêu ngạo, ánh mắt cao quý kiên nghị đã không còn nữa. Đôi mắt lắng đọng xinh đẹp mờ sương kia khi ngắm nhìn hắn tràn đầy tình cảm sâu sắc không muốn xa rời. Một thiếu nữ xinh đẹp khi đã yêu, hoàn toàn không hề che giấu tình cảm của mình trước mặt hắn.

Dương Lăng thấy, trái tim không khỏi rung động. Dù thời gian hai người bên nhau là ngắn nhất, nhưng nhớ lại, tâm linh đôi bên tựa như thật gần. Ánh mắt vô hạn nhìn nhau, như đã từng gặp ở kiếp trước. Tình yêu nam nữ vốn chính là một thứ tình cảm giao hòa mềm mại nhất, huống chi lại người lại vốn có tình cảm với nhau? Đương nhiên, thứ cảm này cũng dễ nổ bùng nhất.

Trong mắt An Đức Ny ang áng nước mắt, khóe miệng lại ẩn chứa nụ cười thỏa mãn. Nàng áp đầu vào ngực Dương Lăng, dịu dàng ôm lưng eo hắn, đỉnh đầu chạm vào cằm hắn, áp sát vào ngực hắn nói hết nỗi lòng sâu kín:

- Dương, cuối cùng đã gặp được huynh rồi. Sau khi nghe nói huynh gặp chuyện không may, ta vô cùng đau lòng. Những ngày đó, ta cảm thấy bị cả thế giới ruồng bỏ. Tại dị quốc tha hương này, huynh là người thân duy nhất của thiếp, là người duy nhất thiếp dựa vào, thiếp đã không thể rời xa huynh được rồi.

Dương Lăng nhẹ nhàng nắm lấy đầu bờ vai của nàng, dịu dàng lau giọt nước mắt trên má nàng, mỉm cười trách yêu:

- Nhìn nàng kia, phụ nữ các nàng, đều nhiều chuyện rồi, giờ còn rơi nước mắt được. A Đức Ny là thượng úy Hải quân, quân nhân chuyên nghiệp, hẳn là kiên cường hơn so với nữ tử bình thường, đúng không?

A Đức Ny bĩu môi, khẽ đụng vào vai hắn:

- Kiên cường đầu huynh ấy. Người ta ở trước mắt huynh, kiên cường cho ai xem chứ?

Hán ngữ của nàng vẫn mang chút lơ lớ, lần này còn bao hàm cả giận hờn của chân tình thiếu nữ. Nhưng dùng ngữ điệu này nói ra, lại đủ loại ý vị rung động đến tâm can quyến rũ hồn phách.

Dương Lăng nghe vậy trong lòng rung động, ôm eo nhỏ của nàng thật chặt. Nếu không phải đang đứng ở đại sảnh, đôi môi mọng kia đã bị hắn chà đạp rồi. Hắn cười khẽ nói:

- Từ tướng công này, là ai dạy nàng? A Đức Ny chớp chớp mắt nói:

- Là Liên Nhi ạ. Tỷ ấy nói hẳn nên xưng hô với huynh như vậy. Thiếp gọi huynh là vị hôn tướng công, bị tỷ ấy cười một trận, thiếp liền sửa lại, giờ sao lại thành Quốc tướng công nhỉ?

Dương Lăng cười ha hả, giải thích đơn giản vài câu, lại hỏi tin tức của Mã Liên Nhi và con gái Phán nhi, mới buồn bã thở dài nói:

- Làm quốc công, vốn không có nhiều cố kỵ như vậy, đang muốn tiếp nhận hết các nàng. Hiện tại binh hoang mã loạn, thật ra ở bên nhau an toàn nhiều hơn. Giờ ta chẳng có thời gian đi thăm họ nữa. À đúng rồi, nàng và Liên Nhi phụ trách sản nghiệp các vùng Giang Nam sao, sao lại vào kinh vậy? Tiểu Dạng nói nhất định phải đích thân hộ tống...chính là nàng ư?

Dương Lăng cũng không hỏi thăm nhiều về tin tức của Liên Nhi, nữ nhân dù rộng lượng, nhưng trước một người lại hỏi thăm tình huống người khác, mà biểu hiện càng quan tâm, càng săn sóc, trong nội tâm nàng ấy cũng sẽ càng không thoải mái.

Mã Liên Nhi ở Giang Nam, muốn nói thiệt thòi, chỉ sợ chính là không có phu

quân là mình đây ở bên làm bạn mà thôi, còn những thứ khác như ăn ngon mặc đẹp, tôi tớ như mây, cuộc sống càng không có vấn đề gì. Nếu nói mấy thứ này thì lại càng làm ra vẻ rồi.

Vừa nhắc tới hộ tống gì đó, tinh thần A Đức Ny khẽ dao động, nhảy lên hưng phấn nói:

- Dương, thiếp dẫn huynh đi xem. Giờ thứ này đặt ở tây sương tiền viện, chúng thiếp đã cho người canh giữ. Tuy nhiên...thật ra cũng không cần phải để ý như vậy. Thiếp và Trịnh lão vẫn cứ luôn tính toán mãi, rất an toàn đó.

Dương Lăng thấy nàng hưng phấn đến hai má ửng đỏ, nói vừa nhanh lại vừa gấp, không rõ nàng đề cập đến cái gì, hỏi vội:

- Thứ nàng nói rốt cuộc là gì?

Trong mắt A Đức Ny lóe lên tia sáng, kéo tay hắn, đầu lông mày quyến rũ nhướng lên, cười ngọt ngào:

- Nào, thiếp dẫn huynh đi xem, đảm bảo huynh sẽ chấn động cho mà xem.

Dương Lăng mỉm cười để mặc nàng kéo tay mình đi đến tây sương. Tây sương đã được binh lính của Bành Tiểu Dạng trú đóng. Thấy A Đức Ny, bọn họ đều đứng trang nghiêm thi lễ, hiển nhiên đã thừa nhận vị nữ tướng quân này.

Diện tích Diễn võ đường Bảo Châu khá rộng, trước sau tam tiến viện lạc giống như tòa đại công viên, hai bên chái nhà của tiền viện vốn chính là nơi đặt quân bị quan trọng, Bành Tiểu Dạng giữ công hàm của quân khí cục Phúc Kiến, Đô Chỉ Huy Sứ ti Phúc Kiến, chỉ huy Sứ ti Chiết Giang, cho nên có thể vào ở.

A Đức Ny lôi kéo hắn đi vào một nhà kho, mệnh lệnh binh lính mở cửa kho, sau đó kéo Dương Lăng vào. Chỉ thấy bên trong nhà kho đặt ba hòm gỗ cực lớn. A Đức Ny gọi người mở giấy niêm phong của hòm gỗ ra, sau đó chắp tay sau lưng cười cười thong thả đi vòng qua hòm gỗ hai vòng, đắc ý nhìn Dương Lăng.

A Đức Ny mặc quân trang, càng lộ vòng eo nhỏ nhắn chặt chẽ, bộ ngực căng

tròn, vừa xinh đẹp lại có ba phần anh khí. Hơn nữa vóc dáng cao ráo, ngực eo, đường cong bắp chân nhắn mịn no đủ, có vẻ quyến rũ khó diễn tả thành lời. Cặp đùi thẳng tắp tròn lẳn kia, bị ống giày ống quần ôm lấy, tỉ lệ cực đẹp, vô cùng động lòng người.

Dương Lăng tưởng tượng cặp đùi thon đẹp kia rắn chắc mềm mại, trơn mượt, trong lòng rung động, vội che giấu, cười nói:

- Tiểu nha đầu, rốt cuộc muốn khoe khoang gì thế? Còn không mau cho ta xem?

A Đức Ny hé miệng cười, bỗng nhiên cầm nắp hòm lên, cười nói:

- Dương, huynh tự xem đi.

Dương Lăng đến gần, nhìn vào rương, thấy bên trong có một lớp rơm bông.

Hắn đẩy nhẹ vài cái, hô hấp bỗng ngừng lại, cầm lên một cái, nhìn sững ra, hạ giọng nói:

- Lựu đạn!

A Đức Ny cười khanh khách nói:

- Đúng vậy. Là dựa theo lựu đạn mà huynh từng đề cập với thiếp lúc ở Phúc Châu, hình mẫu của nó là chấn thiên lôi trong quân.

A Đức Ny cầm lấy một quả lựu đạn, nói:

- Quân khí cục kinh sư thiết kế ra súng toại phát, tốc độ bắn nhanh hơn rất nhiều. Chỗ chúng ta lại phát triển nhiều thêm súng kíp ống. Với tốc độ bắn, không dưới cung tên. Tuy nhiên bây giờ còn tồn tại vấn đề nòng súng dễ nổ, nòng súng bị bịt kín, binh sĩ thường sợ súng pháo nổ nòng làm nổ tung mà không dám sử dụng hoặc cự tuyệt sử dụng.

Ngoài ra hiện tại hỏa dược còn phải cần cải tiến thêm, nếu không sau mấy phát bắn, trong nòng súng sẽ đọng cặn, không lau sạch sẽ không thể sử dụng liên tục. Mà pháo lại quá mức cồng kềnh, dùng để công thủ thành trì thì dễ, dựa vào phương tiện giao thông hiện tại muốn mang theo dã chiến cơ hồ không có khả năng. Hơn nữa đồ quân nhu tiếp tế quá mức ỷ lại, tài chính quốc gia cũng khó có thể tiếp nhận.

Dương Lăng gật đầu đồng ý, Hỏa thương cho đến thời đại Napoleon vẫn sử dụng đao kiếm, ưu thế góc bù. Trong niên đại hiện tại này hoàn toàn dùng hỏa thương thay thế kỵ cung căn bản chính là không thực tế. Ngoại trừ nan đề kỹ thuật còn có vấn đề tài lực, hiện tại trong triều vẻn vẹn Sơn Đông tiêu diệt phỉ tiêu hao binh mã thuế ruộng sắp vượt qua chín mươn vạn lượng. Nếu như là toàn bộ hỏa khí quân đội, thiên văn sổ tự kia sẽ khiến quốc gia phá sản (thiên văn sổ tự: những con số rất lớn từ hàng trăm triệu trở lên), có nhiều thứ không phải ngẫm đơn giản như thế, tốt nhất dùng gì đó chưa chắc là thích hợp nhất, chiến tránh đánh chính là tiền.

Ban đầu là hỏa thương, một phát bắn có thể bắn ra ít nhất sáu tiễn, mà kỵ binh xung phong, lâm chiến cũng chỉ không quá ba lượt bắn tên. Trong dã chiến chỉ cần bắn ra chỉ cần phóng ra ba tiễn, kỵ binh đối phương đã vọt tới trước mặt rồi, khi đó chỉ có thể dùng đao kiếm cận chiến mới có hiệu quả. Tốc độ bắn của hỏa thương hiện tại tương đương với cung tiễn, tức là chỉ ba lần bắn thôi, thích hợp thủ mà không thích hợp dã chiến. Huống chi vấn đề tầm bắn kém hơn cung tiễn trước mắt còn chưa thể giải quyết.

A Đức Ny nói:

- Mặc dù đối với khoái mã cung cứng mà nói, ưu thế của nó rước mắt cũng không rõ ràng, tuy nhiên sở trường của nó ở chỗ thời gian huấn luyện ngắn, kỵ sĩ thể lực gầy yếu một chút khi nắm giữ cũng có thể trở thành chiến sĩ đủ tư cách.

Thiếp nghĩ, nếu Đại Minh quân trước mắt viễn chiến ngoại trừ pháo thì vẫn lấy cung tiễn là chính, không thể dùng hỏa thương thay thế được. Như vậy uy lực hỏa khí phát huy trong cận chiến, có thể thay thế đao kiếm thương mâu hoặc là trở thành hỗ trợ lớn trong cận chiến hay không?

A Đức Ny cười tươi tắn nói:

- Chấn thiên lôi vốn chính là một loại hỏa khí sử dụng trong quân, có điều ngòi lửa ban đầu sử dụng không tiện, hơn nữa phải đảm bảo uy lực, hình thể lại quá lớn, một người mang theo không được vài cái. Thiếp nhớ huynh ở Phúc Châu nói với thiếp một ý tưởng, thiếp đã bắt đầu thực hiện nó.

Loại lựu đạn nhỏ này sử dụng toại phát nguyên lý dẫn lửa. Quy giáp ngoại xác

mà huynh đề nghị tuy rằng dễ nổ tung, nhưng mang theo không tiện, hơn nữa dù hỏa dược được cải tiến, lực nổ vẫn không đủ. Cho nên thiếp quyết định không dựa vào ngoại xác đả thương người nữa, ngoại xác vẫn đúc thành hình trụ, như vậy mỗi người có thể mang theo mười đến mười lăm miếng. Thành hình trụ cố gắng đúc thật mỏng, để nó chỉ có phát huy tác dụng vật đóng gói, ở bên trang bị miếng sắt và bi thép hình câu, hình châm, như vậy một khi bùng nổ, trong vòng phạm vi năm trượng, cả người lẫn vật khó mà thoát khỏi.

Miếng sắt, bi thép? Dương Lăng chợt nhớ tới lựu đạn trong quân Mỹ trong một bộ phim mà hắn từng xem, một khi bùng nổ cầu thép bắn ra bốn phía vô cùng khủng bố, da đầu chợt run lên. Hắn nhìn ba rương lớn, nói:

- Vậy...ba rương này đều là lựu đạn à? A Đức Ny hé miệng cười nói:

- Lựu đạn phí tổn thấp, kỹ thuật chế tạo đơn giản, nhưng chúng ta chỉ kịp làm hai rương, bản vẽ thiếp cũng mang đến, có thể cho Quân khí cục Bắc Kinh gần đây chế tạo. Cuối cùng một rương cũng không phải lựu đạn.

A Đức Ny đắc ý nói:

- Lựu đạn dựa vào lực cánh tay ném mạnh, vẫn không đủ xa. Ta đúc một loại lựu đạn hình chùy lớn hơn nữa. Nó mượn kỹ thuật kích phát hỏa pháo, trên thực tế là một loại pháo nhỏ, chỉ có một cây thiết đồng, từng binh sĩ có thể mang theo. Tuy phóng ra chậm chạp, tuy nhiên không trong dã chiến sẽ không dùng tới, có tác dụng vô cùng hữu hiệu dùng để phá huỷ chướng ngại vật và trận lũy phòng thủ lâm thời mà đối phương dựng lên, tầm bắn là ném mạnh gấp năm lần.

Nàng cười nói với Dương Lăng:

- Đây cũng là do huynh. Dựa vào lời nói và cách nghĩ của tướng công đại nhân thiên tài của thiếp, thiếp đã biến nó thành sự thật.

A Đức Ny nói xong xốc hòm gỗ lên, vô số hỏa tiễn đồng phát xạ đồng bóng

loáng phát ra, dùng bông để chặn, xếp chỉnh tề trong rương. Tuy nói hỏa tiễn đồng so với hiện đại chênh lệnh nhiều, thật ra Dương Lăng cũng chưa từng thấy kết cấu bên trong của hỏa tiễn đồng hiện đại, tuy nhiên nếu A Đức Ny đã làm được nó, vậy nhất định là trải qua thực chiến mà mô phỏng, hẳn là có thể sử dụng.

Dương Lăng cười ha ha, hắn không kìm lòng nổi tiến lên, trùn xuống thân ôm thân thể của A Đức Ny, hai tay giữ cặp mông đầy đặn của nàng. A Đức Ny duyên dáng kêu to, vội vàng ôm cổ Dương Lăng, theo sát sau nàng đã bị Dương Lăng bế lên, quay nhanh ba vòng trong phòng, vui sướng nói:

- A Đức Ny, nàng quả thật là mưa đúng lúc của ta, là gió như ý. Ha ha, thật sự làm khó nàng rồi.

Đức Ny nhẹ nhàng từ trên người hắn trượt xuống, thâm tình chân thành nói:

- Người ta không suy nghĩ vì ngài, thì suy nghĩ vì ai chứ? Nữ nhân thông minh, nên hiểu được làm thế nào để yêu nam nhân của mình.

Dương Lăng cười vui vẻ, đậy nắp rương lại, nói:

- Những vũ khí này giúp cho ta rất lớn. Ta sắp thực thi kế hoạch, có nhóm này vũ khí, thì càng thêm tuyệt đối không sai sót nhầm lẫn rồi. Đi, chúng ta trở về nói chuyện. Đúng rồi. Ta đảm nhiệm Tổng đốc tiễu phỉ, tin tức hẳn là vừa mới rơi vào tay Giang Nam, sao nàng lại đến, chớ không phải đã biết trước đó chứ?

A Đức Ny nói:

- Là Liên Nhi nói. Thiếp cùng Liên Nhi ở Giang Nam xử lý việc kinh doanh của chúng ta. Bên quân khí cục kia khi chạy thuyền rảnh rỗi ngài qua đó để ý. Đó là thiếp và Trịnh lão nghiên cứu ra, vừa mới làm ra một nhóm. Tin tức kinh kỳ hưởng mã tạo phản đã truyền tới. Liên Nhi thông qua ca ca của nàng và trấn phủ ti Tiền đại nhân mà biết được quân tình.

Nàng ấy sau khi phân tích thì nói thiếp biết. Người dẫn binh bình định nhất định là ngài, muốn thiếp lập tức tạo vũ khí đưa tới cho ngài, giúp ngài một tay, đồng thời

mang theo bản vẽ, do Quân khí cục kinh sư gần đây chế tạo, dễ dàng hơn chút.

- Liên Nhi....

Dương Lăng nao nao, có khoảnh khắc thất thần, trước mắt bỗng nhiên hiện lên mỹ nhân có má lúm đồng tiền mượt mà như ngọc kia, hàng lông mày xanh đen thanh tú, đôi mắt đẹp như nước, thân hình không chỗ nào là không quyến rũ...

Thế gian an được lưỡng toàn pháp, bất phụ đại nghĩa bất phụ khanh. Liên Nhi...đợi ta, tướng công của nàng sẽ lập tức xuất binh bình định, tiêu diệt phỉ nơi đây xong, ta nhất định đón nàng về, đời này kiếp này, không xa nhau nữa.

Thành Tế Nam cao cao đứng vững, tường thành cao và dốc, chứa nhiều cửa lầu, vọng lâu, lầu quan sát, tường chắn mái đan vào thành một đạo lưới công kích dày đặc. chiến hào hộ thành ngoài thànhvừa sâu vừa rộng, đủ để so sánh với thành trì của Đại Đồng phủ trọng trấn biên tái.

Tòa thành trì này chiếm cứ chỗ thuỷ bộ xung yếu, là vùng binh gia ắt giao tranh, lại thêm nha môn chỉ huy tối cao của Sơn Đông nhất tỉnh, nếu như có thể phá được tòa thành trì này, không hề nghi ngờ, không chỉ ở trên quân sự, quan trọng hơn là có ảnh hưởng chính trị cực lớn. Thành trì các nơi Sơn Đông xem chừng thủ vững đem người sa vào mà không chiến tự tan.

Thành Tế Nam luỹ cao hào sâu thọc sâu phòng ngự, mấy vạn binh mã đề phòng nghiêm khắc, canh giữ thành lũy này trở nên sừng sững như núi, khó có thể lay động. Khi Yến Vương phát động chiến dịch Tĩnh Nan, nơi này chính là một tòa pháo đài quân sự. Lúc ấy Yến Vương chiếm binh trạm Đức Châu trọng yếu, được lương thực hơn trăm vạn thạch, vũ khí vô số kể, chẳng những khiến bản thân mạnh mẽ, hơn nữa khiến Tế Nam trở thành một tòa cô thành.

Mặc dù như thế, Sơn Đông tham chính Thiết Huyễn thu nạp một số tàn binh bại tướng quân lính tản mạn của triều đình, cậy vào tòa thành trì này giằng co mấy tháng với Yến Vương. Sau đó Yến Vương vận đến đại pháo công thành, Thiết Huyễn liền tìm họa sư vẽ cha của Chu Lệ là Chu Nguyên Chương, lại cắm vô số bài vị trên đầu thành, khiến cho Chu Lệ không có lợi khí nơi tay mà không dám oanh thành, cuối cùng buồn bực mà về.

Sau đến lúc Chu Lệ lấy Nam Kinh, được thiên hạ, lại phát binh Bắc Phạt, vây thành thật lâu, Hao hết lương thảo trong thành, lúc này mới đánh hạ được thành Tế Nam. Chu Lệ cực hận Thiết Huyễn, vợ con sung đến Giáo Phường ti bị người người

lăng nhục, sau lại vứt hài cốt cho chó ăn, vẫn không giải được nỗi hận này.

Hiện giờ Dương Hổ tạo phản, quan binh thủ thành, bức họa của Chu lão đầu đương nhiên không thể làm tấm mộc đón đỡ được. Tuy nhiên may mắn Dương Hổ không có đại pháo. Ngay cả có cũng không chắc đã bằng số lượng đại pháo của thành Tế Nam, cho nên Dương Hổ căn bản không trực tiếp đến công Tế Nam, hiện giờ ngày đêm tấn công mạnh Thái An. Chỉ cần hưởng mã đạo chiếm Đức Châu, tướng lĩnh quân coi giữ thành Tế Nam chưa chắc có đảm lược và dũng khí của Thiết Huyễn kia, biến Tế Nam thành tòa cô thành, chưa chắc không đánh hạ được.

Thành Thái An đã mấy lần phái người phá vây thành Tế Nam đi cầu cứu viện binh, nhưng Đô Chỉ Huy Sứ Trần Hồng Mông vừa từ Tứ Xuyên điều đến phòng thủ Tế Nam lại án binh bất động. Đại quân của y thủ thành dư dả, nhưng sĩ khí quân tâm dù sao cũng không thể so sánh với một đám liều mạng, hơn nữa quan binh chiến mã không nhiều lắm, lấy mấy ngàn kỵ binh gấp rút tiếp viện Thái An, nếu xuất động đại đội bộ kỵ, kỵ binh của Dương Hổ chỉ cần tới một cánh quân đột phá, tất mặc người chém giết.

Bánh bao thịt đánh chó, Trần Hồng Mông sẽ không đi làm. Mười vạn đại quân của Dương Hổ vây Thái An lâu như vậy lại không thể đánh hạ, cũng không phải thực sự không đánh hạ được, mà chính là muốn dụ y đi cứu viện, đến vây điểm đánh viện binh, xa như vậy so với đoạt Thái An vây Tế Nam nhanh hơn nhiều. Trần Hồng Mông nhìn thấu quỷ kế của Dương Hổ, còn lâu mới mắc mưu.

Việc như vậy, y và Sơn Đông Bố chính sứ Lã Kế Thiện từng liên kết, Lã Kế Thiện cũng đồng ý với phán đoán của y, nhưng quân chính nhân viên Tế Nam chưa chắc đã có kiến thức này, đều cho rằng y sợ chiến sợ địch. Ngôn luận công kích không dứt, y từ Tứ Xuyên điều đến không lâu, thân sĩ quan liêu địa phương chưa quen thuộc y, nên không ngừng tạo áp lực với Bố chính sứ Lã Kế Thiện, buộc y xuất binh.

Lã Kế Thiện cũng là quan viên rất có chủ ý, cho dù là kẻ lõi đời quan trường hay là một đám lưu manh gian xảo, cũng đều không làm gì được y. Y mới đến Tế Nam phủ mà đã có nhiều người đến "thăm hỏi", từ tác động tình thân đến danh dự,

từ con đường làm quan đến tiền đồ không ngừng vừa đấm vừa xoa, uy bức lợi dụ.

Luận điệu môi hở răng lạnh, Lã Kế Thiện đã nghe đến chán tai rồi. Y đã luôn miệng giải thích lý do của Trần Hồng Mông cho đám sĩ tử quan viên và đám thân hào đại tộc địa phương, đáng tiếc những người này này căn bản nghe không vào. Thân sĩ đại tộc giữa Thái An và Tế Nam có nhiều quan hệ thông gia, mắt thấy Thái An tràn đầy nguy cơ, bọn họ sao có thể yên tâm được.

Đại hào Tế Nam Ông Chi tức giận nói:

- Trần Hồng Mông ư? Lão đạo giả thần giả quỷ kia có bản lĩnh cái rắm, rõ ràng là sợ chết không dám xuất binh. Đại nhân à, ngài là Sơn Đông Bố chính sứ, quan giai còn cao hơn hắn một bậc, thời gian chiến tranh ngài phụ trách phụ toàn, ngài phải ép hắn xuất binh nha.

Trần Hồng Mông tín ngưỡng đạo gia, chẳng những trong nhà cung phụng tượng tam thanh tổ sư, sớm hay tối đều thắp một nén hương, xưa nay còn lui tới với các đạo sĩ có đạo hạnh Tế Nam và danh sơn phụ cận. Bởi vậy danh môn vọng tộc, thân hào sĩ tử này mới gọi là Hồng Mông lão đạo.

Lã Kế Thiện liên tục cười khổ, y mặt mày nhăn nhó mà nói:

- Các vị, các vị, ta dù sao cũng là một văn nhân, nếu bàn về quân sự, không thể bằng Trần đại nhân được. Dương Hổ chí không ở Thái An, mà ở Tế Nam, xuất binh chỉ đem quân coi giữ Tế Nam tặng cho người ta. Trần đại nhân hiểu việc binh đấy, quân đội Tế Nam thích hợp thủ không nên công, đây cũng là hết cách.

Người này đang dây dưa, bỗng có người chạy tới báo cáo:

- Bẩm Bố chính sứ đại nhân, Thái An phủ phái đặc sứ tới cầu viện!

Quan viên sĩ thân có mặt nghe vậy lập tức tỏa sáng hai mắt, cũng không đợi Lã Kế Thiện chỉ bảo, liên tiếp nói:

- Mau, mau mời vào.

Người bên ngoài căn bản không cần mời, đã đích thân đi vào. Lã Kế Thiện đang sứt đầu mẻ trán vừa thấy người nọ đi vào, lập tức kính cẩn đứng dậy, chắp tay lạy dài, nói:

- Tiên sinh, ngài...sao ngài lại tới đây?

Bên ngoài tới là một lão đầu nhi, nguyên là học chính Chiết Giang, tên là Trương Đa Khí, vốn từng là ân sư của Lã Kế Thiện. Sau khi thoái sĩ quay về quê nhà Thái An dưỡng lão. Lã Kế Thiện đảm nhiệm Sơn Đông bố chính Sứ ti ngày lễ tết vẫn thường đi thăm hỏi ân sư, nay thấy lão đến, không khỏi nghiêm nghị đứng dậy.

Trên mặt lão đầu nhi có một đường đen một đường trắng, gầy gò, dưới cằm là một bộ râu dê, nhìn hết sức buồn cười. Vị học cứu này không phải là "cổ bản đông hồng", làm người khôi hài thú vị, hơn nữa bác học đa tài. Lúc trước đảm nhiệm Học chính rất được học trò kính mến.

Trương Đa Khí thấy Lã Kế Thiện thì tức giận, hừ một tiếng, đặt mông xuống ghế vỗ đùi nói:

- Tiên sinh? Lão đầu nhi ta sắp biến thành tiên tử rồi. Mấy chục vạn đại quân Thái Châu đang nghển cổ ngóng trông Lã Đại lão gia ngài phái binh cứu viện đó, trông mong đến mức cổ dài hơn ba tấc rồi, người cầu viện đến một thì bị đuổi về một, hiện tại lão đầu nhi ta cũng bị phái tới, nể mặt lão già ta là người quen, ngươi nói đi, rốt cuộc khi nào thì phái binh?

Lã Kế Thiện đi tới bên cạnh lão, khép nép nói:

- Tiên sinh, không phải học trò trơ mắt nhìn Thái An nguy nan, có điều Dương Hổ gian xảo, người người đều biết hắn vây công Thái Nguyên bấy lâu mà không đánh hạ, rõ ràng là muốn dụ Tế Nam xuất binh, lấy lệ dễ dàng lấy thành Tế Nam. Hiện giờ Uy Quốc công gia đã đến Đức Châu, hắn đánh bại phản quân Lưu Lục, nhất định dẫn Binh đến giúp. Thái An..... Ngài lão Ôi! Cố gắng chống đỡ nha.

Trương Đa Khí há miệng, chỉ vào miệng nói:

- Chống đỡ? Ngươi xem đi lão đầu nhi còn răng sao? Đã rụng sạch rồi, lấy gì mà cắn? Ngươi là Sơn Đông Bố chính sứ, không phải Tế Nam Bố chính sứ, Thái An cũng không phải là con dân của ngươi rồi hả? Ngươi cứ trơ mắt nhìn Thái An nguy nan, hơn mười vạn dân chúng bị phản tặc làm thịt à?

Lã Kế Thiện liên tục cười khổ, đối mặt với vẻ tức giận của ân sư, đành phải ôn hòa giải thích. Một đám quan viên địa phương, thân sĩ học cứu đứng bên đều đứng ra hát đệm nói chuyện. Lã Kế Thiện đang lúc cảm thấy không chống đỡ được, Trương lão đầu thở hổn hển, đột nhiên nhảy dựng lên, quỳ xuống trước mặt Lã Kế Thiện:

- Lã đại nhân, Lã lão gia, lão già ta van xin ngươi được không? Thái An sắp không thủ được rồi, ngươi phát binh đi, phát binh đi.

Lã Kế Thiện vừa thấy ân sư quỳ xuống, y cũng lập tức quỳ xuống, lạy dài, nhưng kiên trì nói:

- Từ bi có thể phát, nhưng binh không thể phát. Biết rõ là cạm bẫy, học trò không thể dẫn quân Tế Nam ngơ ngẩn nhảy vào trong cạm bẫy được.

Trương Đa Khí tức giận run người, lão run run lấy một chồng gì đó trong người, vuốt vuốt nói:

- Nhìn đi, nhìn đi, nhìn thấy không? Đây là lão phu viết, trên dưới Thái An, quan viên, nhân vật có tiếng tăm đều đã ký lên đó, là cáo trạng ngươi đấy. Ngươi cầm nhìn đi, nếu Thái An bị hạ, chúng ta sẽ đi kinh thành để tố cáo ngươi. Không tin không tố cáo ngươi được, khốn kiếp.

Lã Kế Thiện ngượng ngùng nói:

- Ân sư, lão nhân gia ngài cứ đứng lên trước đi, một chồng như vậy, ngài bảo học trò đọc như nào? Học trò biết ngài lão văn chương giỏi, muốn xem, vẫn nên đợi sau này đưa vào kinh để Hoàng thượng xem ạ.

Trương Đa Khí chỉ vào mũi y quát lên:

- Tốt, tốt! Ngươi không cần quan tâm có phải không? Ta...ta....

Lão hết nhìn đông tới nhìn tây, đứng lên đi tới bên một cây cột, căm giận nói:

- Ngươi rõ là muốn ép lão phu nha. Ngươi phát binh hay không? Ngươi không phát binh, lão nhân đập đầu vào cột luôn.

- Đừng nha, đừng nha ân sư, ngài ở gần cây cột như thế, đụng vào cũng không ảnh hưởng mấy. Ngài ngồi xuống, chúng ta từ từ nói...

- Từ từ nói cái rắm! Ngươi không đồng ý đúng không? Ta đây treo cổ ở ngay

đây.

Trương lão đầu cởi đai lưng xuống, chỉ vào xà nhà rít lên. Lã Kế Thiện cười mỉa nói:

- Tiên sinh, đai lưng ngài nhỏ như thế, mà chưa dài tới hai thước, cho dù ngài với lên được, nhưng đai lưng này cũng không quấn được xà nhà, làm sao mà treo cổ được? Ôi, muốn cắn lưỡi? Đừng nha tiên sinh, ngài không còn răng, nhìn miệng ngài kia..

Lã Kế Thiện biết lão đầu nhi tâm nhãn rộng, làm nhiều hành động như vậy là ép buộc y xuất binh, căn bản không có ý tự tử. Y vừa nhạo báng ân sư vừa đi qua, kéo tay gầy gò của Trương Đa Khí, ấn lão ngồi xuống ghế.

Lão nhân vỗ đùi, gào khóc:

- Trên dưới Thái An đều ngóng ngươi nể chút mặt mo này của ta, mấy chục vạn

người đều đang chờ cứu mạng...Ngươi tâm địa sắt đá không dao động, lão đầu nhi ta nào còn mặt mũi nữa, ta nào có thể diện nữa...

Lão cầm chén trà lên, đưa lên cằm tiếp đó khóc lóc nói:

- Trương Đa Khí ta nào có mặt mũi nữa, mặt mũi của ta trong mắt Lã đại nhân còn không bằng ngón tay cái, vùi mặt vào trong chén trà này, là có thể chết đuối đấy. Ta còn thể diện gì đi gặp phụ lão Thái An đây...

Lão tự tử là giả, nhưng khóc là khóc thật. Lã Kế Thiện luống cuống tay chân, gã khuyên tiên sinh, đám quan liêu thân sĩ bên cạnh nhân cơ hội khuyên gã, mọi người đang ồn ào, bỗng nghe bên ngoài có tiếng binh khí va chạm, chỉ thấy hơn mười Giáo úy mặc minh giáp đằng đằng sát khi đi vào đại sảnh.

Đi trước là một viên tì tướng, y thấy Lã Kế Thiện lập tức chào theo nghi thức quân đội, ôm quyền cao giọng nói:

- Ty chức tham kiến Bố chính sứ Lã đại nhân, Đô Chỉ Huy Sứ Trần đại nhân điểm binh ở sàn đấu võ chuẩn bị đi cứu viện Thái An rồi, đặc biệt phái tôi tới mời Bố chính Sứ ti, Án Sát Sứ ti cùng các vị đại nhân tới sàn đấu võ, hiệp đồng an bài công việc phòng ngự Tế Nam.

Mọi người trong phòng ngây ra, một lúc lâu sau, Lã Kế Thiện mới ngơ ngác

nói:

- Trần đại nhân muốn xuất binh rồi hả? Viên tì tướng kia cười cười nói:

- Vâng! Uy Quốc công gia sớm bí mật hiểu dụ các phủ các đạo hiệp đồng xuất binh, cùng trừng phạt Bạch Y Đạo, thời gian định vào giờ mẹo ngày mai. Vì Tế Nam là trạm thứ nhất, đề phòng để lộ tin tức, cho nên vẫn giữ kín không nói ra.

Y nhìn một vòng, Trương lão đầu Trương Đa Khí lau lau nước mắt trên gương mặt khô héo, chớp chớp mắt để lấy lại tinh thần. Tì tướng khẽ mỉm cười, khoát tay nói:

- Chư vị đại nhân, xin mời!

Trong doanh trướng tạm thời trong giáo trường, các tướng lĩnh được khẩn cấp triệu đến vừa lúc nghe được Chỉ huy sứ Trần đại nhân công bố bí mật kế hoạch của Dương Lăng, trong doanh trướng lập tức xôn xao, tiếng tranh luận nổi lên bốn phía.

- Đại nhân, kế hoạch này quá mức mạo hiểm, Dương Hổ vẫn giám thị động tĩnh Tế Nam, chúng ta phải chịu trách nhiệm dụ địch, chỉ cần hơi có động tĩnh, Dương Hổ đều nhận được tin tức, thành Tế Nam có thể bị mất đó.

- Đại nhân, các lộ viện quân chỉ có trước đó định thời gian công kích, hiện tại liên lạc cũng không thông, một khi các lộ đại quân không tới đúng giờ, quân coi giữ Tế Nam phải một mình chiến đấu, đánh bất ngờ lại không thể mang theo binh khí trọng hình, kỵ binh lại quá ít, bộ kỵ chúng ta chỉ sợ chống cự không nổi mã đội Dương Hổ công kích nửa ngày toàn quân tán loạn rồi, quá mức mạo hiểm.

- Đại nhân, theo mạt tướng thấy, có nên phái thám mã đi thám thính tin tức các lộ viện quân trước hay không, phái một đội nhỏ ra khỏi thành dụ địch, đại đội nhân mã phát ra từ đâu? Nơi này cáchThái An cũng không khá xa, chúng ta hẳn là tới kịp.

Trần Hồng Mông hai tay đặt lên án, giữ im lặng, lẳng lặng nhìn chăm chú các tướng lĩnh thủ hạ. Người này dáng người cao ráo, khuôn mặt thanh quắc, hàm râu dài, nhất là chòm râu kia, khiến cả người toát lên vẻ thoát trần thanh dật, thật là một viên nho tướng.

Thời gian dần qua, các tướng lĩnh rốt cục an tĩnh lại. Trần Hồng Mông mới nghiêm trang nói:

- Ta biết chư vị cũng không hạng người ham sống sợ chết, mà là suy xét cho chiến sự. Nhưng đây là mệnh lệnh của khâm sai tiễu phỉ tổng đốc Dương đại nhân, giờ mẹo ngày mai binh mã chưa tới, chém tất cả đại tướng lãnh binh. Các lộ binh mã tề tụ Thái An, hiện tại đã có đội quân lên đường rồi.

Dương Hổ một đường truy quét, nhiều lần thành công công thành chiếm đất,

toàn bộ các lộ nhân mã bên ta điều động không linh, làm theo điều mình cho là đúng. Trong chuyện này khó không có tướng lĩnh ôm thái độ tảo môn tiền tuyết, mới khiến phỉ thế lớn. Chúng ta đều là tướng phòng giữ Sơn Đông, có trách nhiệm giữ gìn đất đai, không thể gạt bỏ, một mặt theo thành cố thủ, thủ lĩnh phản loạn chiếm mà không đi, ngày đó khó yên.

Y chỉ một vị tướng quân trẻ tuổi đang đứng bên tướng soái, nói:

- Còn đây là Binh bộ Kiêu Kỵ úy Ngũ đại nhân, là quan tướng đốc chiến của khâm sai Tổng đốc. Uy Quốc công gia lấy kế minh tu sạn đạo âm thầm đưa một nửa binh mã đã từ Đức Châu ngay trong đêm hành quân đến rồi, sẽ lập tức tới ngay.

Chúng ta là mồi dục địch, khó không phải tiên phong quyết chiến. Các lộ binh mã, tấp nập như châu, liên miên mà không tuyệt, lo toan đã mất lo, còn có chỗ nào sợ? Dương Hổ, một thảo khấu, lại tàn sát bừa bãi Sơn Đông lâu rồi, thực là sỉ nhục cho tướng sĩ chúng ta. Ta mời các vị đồng tâm hiệp lực, thủ thành mà chiến, có tiến vô lui, còn sống vô tử, nhưng lâm chiến có người nói lui, giết không tha!

Sắc mặt Trần Hồng Mông bỗng nhiên dữ tợn, hung ác nói:

- Trung nghĩa lưu sử sách, thắng bại quyết cho ngày mai! Các ngươi nghe rõ chưa?

Các tướng cả kinh, nhất tề chắp tay nói:

- Mạt tướng hiểu được, cẩn tuân quân lệnh!

Trần Hồng Mông gật gật đầu, sát khí trên mặt thu lại, y quay người, đi đến một góc lều lớn. Các quan tướng dài cổ nhìn, chỉ thấy Trần đại nhân từ trên bàn nhỏ cầm ba nhánh hương, đốt lên bái ba bái, sau đó cung kính cắm hướng trong lư hương, bên trong bàn thờ cúng Tam thanh Đại đế, bộ mặt ba vị lão thần tiên hiền lành dễ thân.

Đám binh lính đội mũ mặc giáp đi thẳng một mạch. Một vạn bộ tốt, trong đó có ba nghìn là thiết kỵ Ngoại tứ gia quân do Dương Lăng tự mình dẫn từ kinh tới, hai ngàn còn lại là thủ quân ở Đức Châu.

Dương Lăng trấn thủ Đức Châu, vốn không phải ở lại đây đôn đốc tác chiến, mà thật sự đấu với Dương Hổ. Hắn dừng ở Đức Châu, là vì tầm quan trọng của Đức Châu không thua gì Tế Nam, không bố trí ổn thỏa nơi đây, hắn không thể yên tâm mà gấp rút tiếp viện cho Thái An, đồng thời nhân lúc hỗn loạn khiến Dương Hổ lơ là, âm thầm điều chuyển thủ quân các nơi.

Tinh kỵ Lưu Lục ba vạn, tố chất quân đội cao hơn Dương Hổ, nhưng nhân số ít, hơn nữa không có sở trường về công thành, theo lẽ thường thì, không có gấp mấy lần chiến sĩ tinh nhuệ, phải đánh hạ một pháo đài quân sự đã được gây dựng nhiều năm, khó như lên trời vậy. Nhưng khí thế quan quân giảm xuống sẽ làm cho lực chiến đấu giảm xuống nghiêm trọng, hơn nữa thủ quân Đức Châu vàng thau lẫn lộn, xuất phát từ những nơi khác nhau, cho nên rất khó tuân lệnh cho đồng nhất, kết quả là viện quân nhiều hơn, nhưng không phát huy được hiểu quả như 1+1=2, trái lại còn thành ra yếu hơn.

Đây là nguyên lí thùng gỗ, nếu thùng gỗ được tạo thành từ những tấm ván gỗ dài ngắn khác nhau, vậy thì dung lượng lớn nhất của thùng gỗ không do tấm ván gỗ lớn nhất quyết định, mà sẽ được quyết định bởi tấm ván gỗ ngắn nhất. Thủ vệ thành trì, cần quân đội phối hợp chỉnh tề, hiệp đồng tác chiến. Sức chiến đấu mạnh yếu của một đội quân, thắng bại của toàn bộ chiến dịch, trên diện rộng không quyết định bởi vài người nào đó hay một chi đội vượt trội xông lên, càng không quyết định bởi tình hình tổng thể ở đó, mà quyết định bởi một số mắt xích yếu kém còn tồn tại có xông ra hay không.

Đức Châu quân có quan quân, có tuần bổ, có hương binh đinh dũng, có dân tráng, hơn nữa quan binh đến từ tứ phương, phe phái sơn đầu rất đông, hợp lại chừng ấy người, nghĩ thôi cũng biết là rất khó rồi. Dương Lăng lâm chiến ở Đức Châu hết sức quyết đoán hình sát lập uy, chỉnh đốn chi phối các lộ quân không đồng nhất, tạo nên quyền chỉ huy tuyệt đối cùng với uy vọng của La Sĩ Quyền, chính là vì trách nhiệm phải thủ vững Đức Châu.

Hắn sắp xếp Bảo Định và Thiên Tân, hai chi viện quân có số lượng lớn nhất đến Tang Viên Khẩu và mười hai liên thành. Triệu hồi toàn bộ thủ quân bản địa của Đức Châu quay về thành Đức Châu, đồng thời giữ lại đội quân dễ chỉ huy và nghe lệnh ở lại Đức Châu, tăng mạnh năng lực điều hành thống nhất, bảo đảm sự an toàn cho pháo đài quân sự Đức Châu này.

Đợi khi sĩ khí quân tâm vững vàng trở lại, lệnh của La Sĩ Quyền vừa ra, đủ để điều khiển thủ quân Đức Châu thống nhất, lúc này Dương Lăng mới đột nhiên tuyên thệ trước khi xuất quân, tự mình dẫn binh mã đi, nhân lúc nửa đêm lẳng lặng rời khỏi thành Đức Châu, lao tới Thái An trong đêm. Cờ soái chữ Dương trên đầu thành Đức Châu chưa bị gỡ xuống, Lưu Lục, Lưu Thất vốn không biết Dương Lăng đã im lặng rời đi, còn dẫn theo một vạn hai ngàn người.

Lúc này phía trong thành Đức Châu vẫn còn hai vạn sáu ngàn quan binh, trong tình huống bình thường cũng có thể giằng co với đại quân Lưu Lục, huống chi còn có hai lộ đại quân của Tang Viên Khẩu, và mười hai liên thành viện trợ lẫn nhau.

Đại quân Lưu Lục không biết chi tiết, hơn nữa thương vong cũng thê thảm nghiêm trọng vô cùng. Vì giằng co một hồi, bề ngoài vẫn hùng hổ, bày ra thái độ muốn quyết chiến, kỳ thực đã thay đổi chủ ý muốn kìm chân Dương Lăng và quân đội Đức Châu, phối hợp với Dương Hổ cướp lấy Thái An, Tế Nam rồi.

Kế hoạch ám độ Trần Thương của Dương Lăng không thể nói là không lớn gan.

Nhưng để giảm bớt nọc độc của Dương Hổ ở Sơn Đông, giảm tổn thất của Đại Minh xuống mức thấp nhất, đây là cách duy nhất, nếu không viễn cảnh Sơn Đông sẽ càng trở nên thối rữa, như một vòng tuần hoàn ác tính, bọn phỉ càng tiêu diệt thì chỉ càng nhiều thêm mà thôi.

Quan phủ truyền ra ngoài bọn hưởng mã đạo, Bạch Y Quân làm xằng làm bậy, bức ép loạn dân ra sao, kỳ thực có một số chuyện rất khó nói rõ ra ngoài. Dân chúng theo giặc, Dương Hổ, Lưu Lục trong mấy tháng ngắn ngủi tập hợp được mấy vạn binh, quyết không chỉ dùng cách bức ép hay dụ dỗ bằng lợi ích để xử lý, triều đình thi hành biện pháp chính trị quá hà khắc cũng là một trong số những nguyên nhân gây ra chuyện này.

Dân chúng Hà Bắc, Sơn Đông đã hơn trăm năm vì đảm bảo cung ứng ngựa cho biên quân quân Minh, gánh nặng lao dịch của mã hộ cực kỳ nặng nề. Vì đảm bảo nuôi ngựa cho tốt bọn họ phải trả cái giá rất đắt, không chỉ là chậm trễ việc cày cấy mà thôi. Hơn nữa khi chăm ngựa để ngựa chết hoặc ngựa giống sinh sản không đạt được hạn ngạch, còn phải bồi thường tổn thất, nông dân nghèo rớt mùng tơi không thể không bán điền sản, bán con cái, sung vào khoản thâm hụt, thật là khổ không tả xiết.

Khi biên quân tạm thời không cần nhiều ngựa trưởng thành như thế, quan phủ cũng sẽ không đoạt lại toàn bộ ngựa, bọn họ cũng không thể đảm đương chăn nuôi quân mã khổng lồ như vậy, vì thế phải nuôi trong nhà dân. Chia ra nuôi dưỡng ngựa trưởng thành trong nhà nông hộ cũng là để tiết kiệm. Lượng lớn chiến mã của hai đội ngũ Dương Hổ, Lưu Lục chính là nguồn gốc từ sưu cao thuế nặng mà có được. Bởi vì gánh nặng của dân chúng quá nặng như vậy, đến nỗi người đương thời than thở "Họa Giang Nam lương thực làm đầu, họa Hà Bắc ngựa làm đầu".

Cùng lúc, vùng gần kinh kỳ Hà Bắc, Sơn Đông, phú thân thương gia giàu có không bằng phía nam, nhưng địa chủ quan liêu lại mù quáng như cá diếc sang sông vậy. Như Diễn Thánh Công là một trong những địa chủ lớn ở Sơn Đông, có được triệu mẫu ruộng tốt. Đó là khái niệm thế nào? Dân chúng mấy huyện phụ cận hết thảy đều là tá điền của gã, làm địa chủ nếu khắc nghiệt một chút tham lam thu lại một ít, cũng đủ gây đau khổ cho muôn dân trong huyện rồi.

Mã chính bóc lột, thôn tính đất đai, đất đai bị thôn tính làm cho đồng cỏ giảm bớt, ngược lại làm cho mã chính bóc lột càng thêm trầm trọng. Cách của triều đình chỉ thấy cái lợi trước mắt, khiến cho rất nhiều dân chúng oán ghét quan phủ không ngừng. Một khi hủy hoại niềm hy vọng sinh tồn cuối cùng của dân chúng, đây sẽ là

đội ngũ phản loạn, bọn họ vốn không trông mong gì vào triều đình mà lựa chọn theo phỉ. Thậm chí nông dân bị quan thân địa chủ chèn ép ít lâu, chủ động tiếp tế viện trợ mã tặc, lại nhìn quan phủ như nhìn kẻ thù vậy.

Bởi vậy, mặc dù Sơn Đông không phải nơi quá gần Kinh sư, chỉ dựa vào hoàn cảnh xã hội nơi đây cũng dễ dàng nảy sinh kẻ phản loạn, dễ dàng trở thành căn cứ ổn định của Bạch Y Quân. Dương Lăng cũng không thể không coi trọng, không thể không dốc toàn lực diệt trừ mối họa lớn này.

Chiến mã hí dài, chiến kỳ phần phật, khoái mã gọn nhẹ, đội ngũ kỵ binh hùng tráng nhanh nhẹn dũng mãnh phóng như bay về phía trước. Kiều Tứ Hải dẫn bộ tốt bám theo phía sau. Kiều Tứ Hải đã tham gia chiến tranh kháng Oa, kinh nghiệm lâm chiến rất phong phú, còn giỏi về mai phục, đánh đột kích, có thể trọng dụng.

A Đức Ny mặc quân trang, ngồi cạnh Dương Lăng, nàng để nón trụ sang một bên, mái tóc dài xinh đẹp xõa xuống, trong vẻ oai hùng lộ ra nét dịu dàng quyến rũ, rõ ràng càng thêm phần xinh đẹp.

Dương Lăng nhẹ nhàng đặt tay lên eo nàng, vuốt ve tóc nàng, thấp giọng nói:

- Một lát nữa là tới Vũ thành rồi, nàng nên hành động theo Kiều tham tướng thì hơn. Bên phía Thái An, đông binh mã, ta sợ không chiếu cố cho nàng được.

Xe lắc lư, A Đức Ny nhẹ nhàng cầm tay Dương Lăng, dịu dàng nói:

- Dương, tại sao không để ta cùng chàng sóng vai tác chiến chứ? Ta không chỉ có thể đi thuyền đánh giặc, mã thuật của ta cũng rất khá mà. Chàng..... đối chiến mà vẫn không nắm chắc ư?

Dương Lăng lắc đầu, trầm tư nói:

- Không, trận chiến này Dương Hổ tất bại. Quân đội của hắn mạnh thì mạnh thật, tuy nhiên thời gian ngắn như thế tập hợp đội quân khổng lồ như vậy, hắn sẽ không có thời gian chỉnh đốn ước thúc, khi chiến sự thuận lợi để tranh đoạt tài vật, ai trong bọn họ cũng đều dũng mãnh như hổ. Một khi gặp kẻ mạnh tay áp chế, sẽ lập tức sụp đổ. Phỉ, chỉ là phỉ mà thôi!

- Nhìn cục diện này, bọn họ chiếm ưu thế về số lượng, trên thực tế so sánh với đại quân triều đình, bọn họ vẫn là thế đơn lực bạc, toàn bộ quân đội tác chiến chỉ bằng khí thế, nông dân nghèo khổ theo phỉ thì có bao nhiêu kinh nghiệm tác chiến đây. Càng không có năng lực phối hợp với nhau khi mấy chục vạn đại quân hỗn chiến.

Dương Lăng cười lạnh nói:

- Ưu thế của bọn họ là cơ động linh hoạt, có thể tác chiến xuất kỳ bất ý, nhưng Dương Hổ vẫn không suy nghĩ đến chuyện thành lập căn cứ địa vững chắc, lấy Sơn

Đông làm hậu phương lớn, bọn lính vẫn mệt mỏi bôn ba. Ta nghĩ hiện giờ quân nhu tiếp tế tiếp viện đã gặp khó khăn lớn. Việc này dễ dàng cho ta tập trung binh lực, một kích đánh tan.

A Đức Ny khẽ gật đầu, nhẹ nhàng tựa vào vai hắn, nói:

- Một trận chiến này có thể diệt hết phản quân Dương Hổ không? Dương Lăng lắc đầu, thở dài:

- Nói dễ hơn làm, có là quân thần cũng không có được chiến quả như vậy, trừ phi Dương Hổ thề sống chết một trận, quyết không lui về sau. Nếu không, cho dù ta có điều đến một triệu đại quân, không tiếc tài lực từng bước bố trí công sự, tầng tầng vây quanh, phong tỏa tất cả đường giao thông hiểm yếu, hắn muốn dẫn một chi khinh kỵ khoái mã thoát khỏi vòng vây của ta cũng dễ như trở bàn tay.

Hàng mày đen nhánh của A Đức Ny khẽ chau lại:

- Ta hiểu, cho dù quốc gia của chúng ta nhỏ, một đội ngũ phản loạn rất nhỏ, tiếp tục bao vây tiễu trừ cũng tương đối khó khăn. Tuy nhiên... đến bây giờ bọn họ đều lén chạy trốn khắp nơi, sợ là sẽ tạo nên phiền phức không nhỏ cho quốc gia.

Dương Lăng hôn lên má nàng, khẽ cười nói:

- Cũng không hẳn thế, nếu như có thể lợi dụng thật tốt cuộc chiến, thiệt hại tạo ra chưa chắc đã bằng lợi ích.

Dương Lăng nháy mắt nói:

- Bắc chiến Thát Đát. Chúng ta cùng Đóa Nhan tam vệ và Nữ Chân tam bộ đã kiến lập nên liên minh chiến lược, đồng thời kéo hai bên giao dịch với nhau, xem như điều kiện trao đổi, chúng ta đã lập nên rất nhiều nông trường khổng lồ ở Liêu Đông.

Đánh giặc Oa, chúng ta thừa cơ phát triển thủy quân lớn mạnh, kiến tạo chiến thuyền và pháo kiểu mới, nắm trong tay hơn trăm kẻ trộm lưu lạc trên các đảo của

Đông Hải, cho Lưu Cầu đóng quân, Bắc khống Đông doanh. Nắm trong tay Hoàng Hải, Đông Hải, bảo đảm thông thương đường biển.

Trợ giúp Mãn Lạt Gia và Phật Lang Cơ đánh nhau một trận? Hạt di châu.

Khống chế Nam Hải, đóng quân cho Mãn Lạt Gia, bất cứ lúc nào cũng có thể vươn thế lực ra Ấn Độ Dương. Đồng thời đẩy mạnh giao lưu với hai phía Đông Tây, giao lưu buôn bán sắp tới còn muốn giao lưu và dung hòa văn hóa Đông Tây nữa.

Cho dù bình định Đô Chưởng Man ở Tứ Xuyên, nhân cơ hội bộ lạc hơn trăm năm lại đây không ngừng tác loạn này đã hoàn toàn tan rã, dùng chiến lược của ba tỉnh Vân Quý Xuyên khống chế nơi xung yếu nhất của Tự Châu, đồng thời đe dọa được mười lăm vị thổ ty Ba Thục càng ngày càng ương ngạnh. Thúc đẩy triều đình thay đổi những chính sách cố hữu dễ khiến các dân tộc tranh chấp.

Nếu chiến tranh chỉ có đánh thật thống khoái, chỉ có thắng lợi trên chiến trường, đó mới thật sự là thất bại. Tướng công của nàng bình Bắc Lỗ, bình hải đạo, bình giặc Oa, bình Nam Man, bình Tây di đều có thu hoạch, vậy bình phỉ thì sao? Có chỗ nào tốt? Nam tước hải đạo xinh đẹp các hạ, nàng nói thử xem.

A Đức Ny cười nói tự nhiên, ôm eo y, lười biếng nói:

- Chàng à, ở bên chàng, người ta mới không muốn hao phí đầu óc vì mấy tên phỉ này chứ. Hơn nữa, đối với Đại Minh chàng quen thuộc hơn ta nhiều, bây giờ lại là Công tước Đại Minh, người ta cho chàng một cơ hội thể hiện, chàng nói thử đi.

Dương Lăng bị sự quyến rũ động lòng người của nàng chọc cười, nhéo nhẹ một cái, rồi mới mở miệng:

- So sánh với những cuộc chiến tranh ấy, Bạch Y Quân, hưởng mã đạo tác loạn lần này, tuy có chút lí do cá nhân, nhưng bọn họ có thể có được đội ngũ lớn như vậy, không thể không khiến người ta lo nghĩ xa xôi được.

Loạn Sơn Đông, căn nguyên do Hà Bắc. Loạn Hà Bắc, căn nguyên do triều đình. Do triều đình, nảy sinh từ thể chế. Đây mới là gốc rễ của phản loạn, không giải quyết gốc rễ này, cho dù ta đánh trăm trận trăm thắng, giết hơn trăm vạn người,

cũng chỉ là biện pháp không triệt để, trị phần ngọn mà không trị tận gốc.

Cho dù Lưu Lục chết rồi, Dương Hổ cũng không còn nữa, nói không chừng lại xuất hiện ngay một Lưu Lục, Dương Hổ mới, giết Lưu tặc không dứt, người chịu khổ trước sau vẫn là dân chúng. Chỉ có rút củi đáy nồi, thanh trừ tệ nạn đã kéo dài lâu ngày, cho dân chúng có con đường sống, mới có thể chân chính hoàn thành việc bình ổn Lưu tặc tác loạn. Nhưng muốn trị tận gốc nói dễ hơn làm?

Nó sẽ chạm đến lợi ích hiện hữu của cả giai cấp thống trị Đại Minh, giai cấp này bao gồm công hầu huân khanh, đủ loại quan lại trong triều, thân sĩ thiên hạ, thậm chí cả phiên vương, thế gia, nhà quyền quý các nơi, cho dù là Hoàng đế, cũng sợ không chống lại sức mạnh khổng lồ đến vậy. Nhưng mà, cảnh hỗn loạn do phản loạn Lưu tặc, người hứng chịu cuối cùng không chỉ là bách tính bình dân.

Toàn bộ giai cấp thống trị típ tắp trên cao, đều đã xúc động vô cùng, bọn họ đương nhiên sẽ ý thức được nếu muốn có được ổn định và hòa bình lâu dài, đạt được lợi ích dài lâu, nhất định phải đem lại cái lợi cho dân, thi nhau dùng những cách có tác dụng xoa dịu mâu thuẫn xã hội. Rất nhiều thói quen lâu ngày, chế độ xưa cũ bình thường khó có thể lay động, giờ lại giải quyết được dễ dàng.

Dương Lăng thản nhiên cười nói:

- Nói thật, ta đánh quá nhiều trận chiến như vậy, trong triều hao phí tâm tư thực hiện một số cải cách, vẫn chưa bao giờ chạm tới vấn để thể chế Đại Minh. Lần này... lần này là một cơ hội tốt, một trận hay. Với ta mà nói, mới là trận chiến quan trọng nhất. A Đức Ny, chiến trường chân chính của ta không phải ở đây, mà là ở trong triều, đánh thắng một trận ấy, ta mới thực sự giành được thắng lợi.

A Đức Ny ngẩng đầu lên, đôi mắt sáng nhìn Dương Lăng, chợt phát hiện có một chút hứng thú xa lạ. Ánh mắt này, trong sự cơ trí cương nghị mang theo chút quyết đoán sát phạt tàn nhẫn. Khi bàn về chính sự y không hề mang chút tình cảm cá nhân nào, chỉ bình tĩnh lo lắng đến vấn đề lợi ích lâu dài. Đây hẳn là một người có tố chất của một chính trị gia tài ba.

"Chàng ấy thật sự không có đủ sức một trận chiến toàn diệt Bạch Y Quân, vẫn cố ý tung tin phỉ gây loạn, trong hỗn loạn thúc đẩy việc thi hành những chính sách của chàng, nhằm mục đích đạt tới lợi ích chính trị lâu dài hơn?"

Trong lòng A Đức Ny đột nhiên hiện lên ý niệm hoang đường này, lập tức thầm tự trách mình: "Sao ta có thể nghĩ như thế? Không phải đâu. Dương vĩnh viễn không làm một chính khách ác nghiệt. Chàng chỉ khéo lẽo dẫn dắt, lợi dụng triệt để những nhân tố bất lợi không thể ngăn lại, biến nó thành những sáng tạo có ích mà thôi."

Dương Lăng cũng không nghĩ tới ý niệm đã vòng vo nửa ngày trong lòng A Đức Ny, lại có thể biết trong chốc lát đã tưởng tượng hắn thành một chính khách máu lạnh. Cõi lòng hắn chan chứa một cảm giác ấm áp dịu êm, nhưng là vì những tính toán nghĩ ngợi của riêng mình lúc này, càng muốn tiền đồ sáng lạn, trong lúc hưng phấn, hai tay nhẹ nhàng an ủi như một hành động theo bản năng. Hắn không có suy nghĩ hay ham muốn gì, vẻ mặt A Đức Ny đã đỏ hồng, dần dần thở dốc.

Dương Lăng vẫn không nhận ra, tủm tỉm cười:

- Nàng không tưởng tượng được cũng không thể trách nàng, triển khai chiến tranh tốt, có thể thúc đẩy chính trị, khoa học kĩ thuật, kinh tế nữa, ta cũng từ nước Mĩ ... à, từ mỗi... mỗi quốc gia có những cuộc chiến tranh trong lịch sử mà tìm tòi học hỏi điều này.

Lâm chiến không hoảng. Ra sức hóa giải cái bất lợi thành cái có lợi. Từ trong hỗn loạn sáng tạo ra điều kiện, lại có thể giảm thiệt hại chiến tranh xuống mức thấp nhất. Thậm chí mang lại lợi ích xa hơn cái hại nhất thời. Chiến tranh là cuộc vật lộn và tiêu hao thực lực của một nước. Để đối phó với chiến tranh, lập kế hoạch cho tốt,

có thể gia tăng của cải, là động lực kéo nền kinh tế quốc dân phát triển, không tính toán thì sẽ dẫn đến hiếu chiến vô độ, hại nước hại dân.

Nói ví dụ nhé, cảng Thiên Tân là một trong ba cảng được triều đình mở thử nghiệm, nhưng phương Bắc chưa mở cửa phía Nam, đội ngũ có lợi nhất phần lớn là giai cấp địa chủ, đối với chuyện này vẫn giữ thái độ chống đối, cho nên cảng Thiên Tân cho tới nay vẫn có tác dụng như quân cảng.

Loạn Bạch Y Quân, khiến giao thông đường bộ nam bắc bị cắt đứt, đường sông cũng chịu ảnh hưởng. Nhưng bây giờ trên biển vẫn yên ổn, có thể nhân cơ hội mở rộng quy mô đường biển, đợi khi mọi người nếm thử vị ngọt của nó, mặc dù chiến tranh đã kết thúc, nó vẫn sẽ tiếp tục náo nhiệt. Dựa vào việc chính lệnh của triều đình không thể thúc đẩy, vậy thì càng dễ dàng thực hiện hơn.

Bách tính Sơn Đông bỏ lỡ việc cày cấy vụ xuân năm nay, nhờ lương thực chuyển từ bên ngoài tới mới giúp họ miễn cưỡng chống chọi được đến tháng mười, sang năm thì phải làm sao? Hiện giờ nạn dân chạy loạn không đất đai không tài sản, muốn trở về cũng không có cách nào để sinh tồn, ta sẽ đề nghị với triều đình định ra một số chính sách ưu đãi, đưa những dân chúng coi gia viên thổ địa như tính mạng, không dễ dàng đồng ý này xa xứ tới Quan Đông.

Người Hán bạc nhược ở Liêu Đông, ... Năm ấy Thái tổ Hoàng đế bắt người Sơn Tây đến Sơn Đông trú ngụ, bây giờ lợi dụng tình thế bất lợi này, bách tính chẳng những không phản đối, ngược lại còn cảm kích triều đình đã mở cho bọn họ một con đường sống. Đồng thời vùng Sơn Đông, Hà Bắc, Hà Nam rất nhiều nhà giàu và địa chủ phá gia bỏ mình, rất nhiều vùng đất hoang, lưu dân an cư trong cảnh chiến loạn, thi hành tân lương, công thương cũng trở nên dễ dàng.

Về phương diện quân sự, chế độ mộ lính vẫn không thể hoàn toàn thực thi quán triệt, dân loạn hoành hành gần trong gang tấc, Vệ Sở quân thối rữa vô năng hoàn toàn bại lộ trước đám quyền quý ở kinh sư. Bộ Binh muốn bỏ chế độ mộ lính, dần dần hủy bỏ Vệ Sở quân cũng dễ dàng hơn nhiều.

Về phần công thương, do chiến loạn, triều đình càng lúc càng phụ thuộc vào thuế phú Giang Nam, có thể nhân cơ hội nới lỏng những gông cùm xiềng xích của

các thương nhân lớn, để bọn họ hình thành quy mô và tập đoàn hóa.

Ngoài ra, chiến tranh cần doanh trướng vũ khí, có thể mở rộng công xưởng và nông trường triều đình thiết lập tại Liêu Đông, đồng thời giải quyết việc làm cho di dân, chiến loạn xúc tiến giải thể mã chính, dần dần tăng cường chiến lực của quân đội.

Dương Lăng đắc ý cười nói:

- Do thiệt hại chiến tranh, tất cả các bộ phận đương nhiên bị trì trệ và cản trở. Nếu người thi hành biện pháp chính trị có thể nghĩ tới mấy vấn đề này, tích cực lợi dụng lần nội loạn này để tấn công, dựa thế mà thay đổi, đám quan phủ và quan liêu địa phương cũng sẽ tích cực hưởng ứng. Đây là bốn lạng thắng nghìn cân, việc mà bình thường phải dốc hết sức lực, uổng phí rất nhiều năm mới có được, lại có thể giải quyết dễ dàng.

- À... Dương, chàng thật vĩ đại!

A Đức Ny thở hổn hển ôm chặt Dương Lăng:

- Ta thực sự không nghĩ tới chuyện lợi dụng chiến tranh làm nhiều việc như vậy, chỉ xứng làm một võ sĩ. Mà chàng... mới là một kỵ sĩ chân chính.

Đại quân đang tiến lên bỗng dừng lại, tướng lĩnh tiền quân đi tới trước xa giá của Dương Lăng, chắp tay bẩm:

- Quốc công, phía trước đã là Vũ thành rồi.

Trong xe một mảnh xuân quang, hai người dù chưa kịp làm loạn, nhưng tình cảnh thân mật cũng đủ khiến người ta đỏ mắt nóng lòng rồi.

- Mau mau, sửa sang lại một chút, tác phong và kỷ luật quân nhân phải nghiêm chỉnh...

Dương Lăng nhỏ giọng thúc giục, nói xong chỉnh lại ống tay áo, hơi thở dần hòa hoãn, khụ khụ hai tiếng, uy nghiêm nói:

- Đại quân dừng lại tạm nghỉ trong thành, sau đó mời Kiều tham tướng và các vị tướng quân tới đây nghị sự.

Tướng lĩnh ngoài xe cung kính trả lời, thúc ngựa lên đầu truyền đạt quân lệnh đi. A Đức Ny dáng vẻ như mây mùa xuân, đôi mắt quyến rũ như tơ, hàm răng tuyết trắng cắn nhẹ đôi môi anh đào, dùng ánh mắt quyến rũ liếc sang Dương Lăng cười, lặng lẽ lấy từ trong tay áo một chiếc khăn lụa, nhẹ nhàng thấm lên cánh môi hồng nhuận ươn ướt.

Vũ thành cũng từng bị Bạch Y Quân tấn công, bây giờ mặc dù đã không còn phỉ, nhưng cả huyện lị hỗn loạn, một bộ phận quan viên địa phương đã bỏ chạy tới phủ Tế Nam, những kẻ khác cũng không quản lí địa phương. Tuy nhiên đại quân triều đình vào thành, động tĩnh lớn như thế, những quan viên này đương nhiên có nghe nói, không khỏi mừng rỡ như điên. Vội vàng mặc quan phục bào trở ra, hấp tấp tới bái kiến.

Dương Lăng hỏi qua tình hình địa phương, yêu cầu quan viên địa phương chịu trách nhiệm mọi việc, nhanh chóng chỉnh đốn địa phương, sau đó cho mọi người lui rồi gọi đám người Kiều tham tướng vào nghị sự.

Dương Lăng xác định lại việc bố trí quân sự một lần, sau đó cất cao giọng nói:

- Dương Hổ nhiều lần đánh bại quan binh, một là những nơi chúng ta đóng quân xảy ra chuyện ngoài ý muốn, không thể chân thành hợp tác. Hai là đại quân Dương Hổ phần lớn là kỵ binh, có thể đánh thì đánh, không thể đánh thì đi, cơ động linh hoạt vượt xa quân chúng ta.

Lần này tập hợp các lộ khinh kỵ trong binh mã để đột kích, dùng kỵ binh đấu với kỵ binh, lấy nhanh đánh nhanh, Dương Hổ tất nhiên sẽ làm lại trò cũ, chọn đường mà chạy. Các lộ bộ tốt của viện quân trung bộ chia ra thủ ở những con đường, thành trì hiểm yếu. Nhớ kỹ, các ngươi là bộ binh, bọn chúng là kỵ binh, cho nên ta không cần các ngươi toàn thắng, lại càng không trông đợi các người toàn diệt giặc Bạch Y tháo chạy.

Các ngươi phải lợi dụng lợi thế về địa hình bố trí mai phục. Dùng cung tiễn,

súng ống, đem hết khả năng ra tiêu diệt địch nhân chạy trốn, khiến bọn chúng trở thành chuột chạy qua đường, chim sợ cành cong, khiến bọn chúng không dám dừng lại ở một tòa thành trì, một nơi sơn lĩnh, một con sông, hay một mảnh rừng nào.

Phải khiến bọn chúng cảm thấy nơi nơi đều có quan binh, nơi nơi đều có mai phục, biến bọn chúng thành binh mỏi, binh yếu, binh sợ hãi!

Hiện tại, đại quân sẽ nghỉ ngơi tại chỗ hai canh giờ. Hai canh giờ sau, bổn Quốc công dẫn khinh kỳ tập kích bất ngờ thành Thái An, hội hợp với các lộ viện quân tấn công đại doanh Dương Hổ. Các ngươi cứ tự động đi tới địa điểm mai phục chặn đánh, quân Dương Hổ đến, chính là mệnh lệnh tác chiến. Cần phải tận trung với cương vị, anh dũng chiến đấu.

Các tướng lĩnh dạ ran, Dương Lăng quét mắt nhìn một lượt, nói:

- Giải tán, tự chuẩn bị đi.

Nha môn tri huyện đã bị Bạch Y Quân phóng hỏa đốt trụi, nơi này là một tửu lâu lớn, trong tửu lâu bị cướp sạch chẳng còn gì, chưởng quỹ của tiệm cũng chẳng biết đã đi đâu. Cho nên Dương Lăng tạm thời biến chỗ này thành nơi hội nghị. Bố trí xong liền ra khỏi tửu lâu. Chỉ thấy đại quân điều động qua lại đầy đường, dân chúng đứng đông nghịt ven đường quan sát.

A Đức Ny kề sát bên người Dương Lăng, thấp giọng nói:

- Dương, ta đã nói với Kiều tham tướng, lát nữa ta cùng đi với chàng. Dương Lăng trừng mắt, trách mắng:

- Làm càn, ai cho phép hắn làm chủ hả? Ta đã đồng ý rồi sao? A Đức Ny bĩu môi, quật cường đáp:

- Ta cứ đi theo chàng đấy!

Dương Lăng chấn động thân thể, hai mắt cố sức trừng lớn, thấy A Đức Ny

không hề sợ hãi, không khỏi nhún vai, giận dữ nói:

- Cùng đi thì cùng đi, nàng có thể, ta không quản được nàng rồi.

A Đức Ny nghe vậy nhảy nhót không ngừng, vui mừng khoác tay Dương Lăng.

Dương Lăng nghiêm mặt vờ không để ý tới nàng, A Đức Ny hồn nhiên cười hì hì không để tâm.

Vì bị Dương Lăng dùng nghiêm lệnh, các lộ quân trật tự rành mạch, không dám nhiễu dân chút nào. Dương Lăng đi thẳng một đường, thấy rất vừa lòng. Vừa đi tới lộ khẩu, chỉ nghe một người cao giọng réo lên:

- Dương Hổ chẳng là cái thá gì hết, hắn con bà nó là cái thá gì? Là tên giặc chẳng có gì tốt, bộ dạng lưu manh, toàn bộ đều không phải đồ chơi, ngươi dám nói có gì tốt?

Dương Lăng động tâm, quay đầu nhìn lại, thấy hai người dân ven đường xem náo nhiệt mà đang cãi cọ đằng kia, nhìn dáng vẻ nghèo túng ấy đều là lưu dân ở ngoài, từ trang phục đến đồ dùng đang mang trên người đều cho thấy điều đó.

Người kia bị người này túm quần áo, mặt đỏ lên nói:

- Ta đây... ta đây chưa nói bọn chúng là thứ gì tốt, ta đây chỉ nói so với Bạch Y Quân của Dương Hổ, Hồng Nương Tử quân còn có chút đạo nghĩa hơn thôi.

Người mặc quan phục địa lý bào, quan viên lon ton theo sau Dương Lăng vừa nghe, lập tức lao ra, chỉ vào mũi người dân kia mắng:

- Khốn kiếp! Dương Hổ, Hồng Nương Tử đều là phản tặc, ngươi dám nói lời hay cho bọn chúng? Hay là ngươi cũng cùng một giuộc với bọn loạn tặc hả? Tới đây tới đây, bắt tên phản tặc này lại.

Người dân kia vừa thấy thế, bị dọa cho mặt mũi trắng bệch, liền vội vàng xua tay nói:

- Lão gia, ta đây đâu có nói tốt gì cho phản tặc, ta đây thật sự chưa nói, ta đây cũng không phải phản tặc, ngài nhìn ta xem, nếu không bị bọn họ làm hại, ta đây có

thể chạy nạn thành bộ dạng thế này sao?

Dương Lăng qua đó, khoát tay đuổi tên quan cáo mượn oai hùm này, vẻ mặt ôn hòa nói:

- Không cần phải sợ, các người từ đây tới đây?

Hai người dân thấy Dương Lăng khoát tay chặn lại, mấy tiểu quan lập tức lui sang một bên, hiểu được vị quan này lớn hơn, người dân gây họa nơm nớp lo sợ đáp:

- Lão gia, ta đây từ huyện Bình Nguyên tới.

Người kia đã sớm buông lỏng y phục người này, cười nói:

- Lão gia, tiểu nhân từ phủ Hà Gian tới.

Dương Lăng nghe thế, thì ra là một người Sơn Đông, một người Hà Bắc, liền cười cười nói:

- Hà Gian Phủ, à, vì loạn Lưu Lục, Lưu Thất chạy tới. Người nọ cười nói tiếp:

- Dạ dạ dạ, chính là Lưu Lý, Lưu Khí*, bọn chúng dẫn binh tấn công Hà Gian phủ. Tiểu địa sợ hãi quá, bèn chạy thẳng tới, sợ bọn giặc tìm người trút giận.

("Lưu Lý Lưu Khí" có nghĩa là bộ dáng lưu manh, đồng âm với Lưu Lục Lưu Thất)

Dương Lăng ngẩn ngơ, giờ mới hiểu được gã đọc Lưu Lục, Lưu Thất thành Lưu Lý Lưu Khí. Tâm tư Dương Lăng vừa chuyển, đột nhiên nghĩ không biết người ta nói bộ dáng lưu manh là có ý gì, hay chính là bộ dáng lưu manh mà Lưu Lục, Lưu Thất đã thể hiện ra?

Hắn thật sự đã đoán đúng, chỉ nghe người nọ lại nói:

- Lưu Lý, Lưu Khí, Chẳng là cái thá gì hết. Hắn gieo họa Hà Bắc, lại tới náo Sơn Đông, tiểu nhân cũng không biết nên tránh đi đâu nữa, bây giờ nhìn thấy nhiều quân gia như vậy, xem như cũng nhẹ lòng rồi.

Dương Lăng cười cười, nói:

- Các ngươi không cần tránh đi đâu hết, lần này triều đình nhất định có thể đánh bại bọn giặc hưởng mã đạo, Bạch Y phỉ.

Hắn xoay người đi hai bước. Đột nhiên nghĩ ra một chuyện, quay phắt đầu lại

nói:

- Huyện Bình Nguyên? Bình Nguyên bị đội ngũ của Hồng Nương Tử tấn công rồi? Chuyện này xảy ra khi nào?

Họa kia từ miệng mà ra, người dân đang muốn lặng lẽ chuồn đi, bị hắn hỏi lại căng thẳng đứng lại, tất cung tất kính đáp rằng:

- Hồi lão gia, chúng ta... cũng không biết Hồng Nương Tử đã đánh Bình Nguyên chưa. Ta là người của Vương Phương Lâu ở huyện Bình Nguyên, trưa hôm trước người của Hồng Nương Tử đã tới chỗ chúng ta.

Dương Lăng nghe xong nhất thời hứng thú, vội vàng cẩn thận hỏi lại:

- Ngươi nói xem, rốt cuộc là xảy ra chuyện gì vậy. Hồng Nương Tử đã qua huyện Bình Nguyên? Cô ta đến từ đâu, đi tới nơi nào, ngươi có biết chút tin tức gì không?

Người nói thấy vị đại nhân này rất quan tâm tới chuyện này, vội đáp:

- Hồi lão gia, người của Hồng Nương Tử cũng mặc áo choàng trắng, nhưng trên đầu đội khăn đỏ. Chúng ta đều nghe nói qua, trưa hôm trước, đột nhiên có vài nghìn người tới chỗ đó, làm ta sợ hãi, rồi nhìn hình dáng bọn họ mới biết là nhân mã của Hồng Nương Tử.

- Cô ta...

Người này nhìn sắc mặt Dương Lăng, thấp giọng nói:

- Người của cô ta so với những cường đạo khác, còn phân rõ phải trái hơn, không cướp của người nghèo, cũng không ức hiếp nữ nhân. Chỉ đập phá nhà của Vương lão tài chủ đầu trấn đông. Nhà lão Vương có tiền, có thể bắt bọn họ chia ra. Cũng không còn lại bao nhiêu, chút ít còn lại này để cho mấy cô nhi quả phụ nhà họ.

Người này chậc chậc mấy tiếng, dường như nếu không chia lão còn rất tiếc nuối ấy, tiếp tục nói:

- Bọn họ ở trong thôn gần nửa ngày, ta đây cũng không thấy nghe nói người mặc y phục đỏ kia là Hồng Nương Tử, liền nghe người của bọn họ tán gẫu, những người đó cũng tùy tiện, vốn không để ý gì tới thiên hạ. Ta đây chợt nghe nói bọn họ từ Khúc Phụ đánh thẳng về Thanh Châu, lại bao vây Huệ Dân, lập ấp nơi này, nói là không hợp với Dương Hổ, muốn tới chỗ Ngô Kiều hội họp với Lưu Lý Lưu Khí.

Dương Lăng giật mình kinh hãi, bây giờ phỉ tới nhanh chóng, các nơi trong thành đều tự thủ, không có đại đội quan binh bảo vệ, căn bản không có thám mã đưa tin lui tới, nếu Hồng Nương Tử không tới thành lớn phủ lớn, chỉ tới mấy hương trấn, thị trấn ở giữa, bách tính này hiện giờ lại không có lòng lo lắng đến phủ huyện báo cáo, tin tức cực kỳ chậm trễ.

Hồng Nương Tử tới hội hợp cùng Lưu Lục, Lưu Thất, vậy là bọn họ sẽ lại tăng thêm một nhánh quân chủ lực. Trong lòng Dương Lăng bối rối, lấy lại bình tĩnh mới nghĩ đến Hồng Nương Tử chiêu binh thà thiếu chứ không thèm đổ bỏ đi, nhân số hiện tại hẳn là chưa tới năm ngàn người, xu thế công thủ Đức Châu sẽ không thay đổi, lúc này mới ổn định tâm thần, buồn bã nói:

- Cô ta... tới Ngô Kiều? Người dân thành thật nói:

- Bọn họ không đi, không biết bọn họ đi đâu mà vừa nghe tin, nói vị Dương đại nhân đến Đức Châu này, còn là một Quốc công, bọn Hồng Nương Tử bỗng nhiên

lại thay đổi chủ ý, không hợp lại với Lưu Lý, Lưu Khí, người của bọn họ xuống đường, đi dưới bến sông, qua Thanh Hà, muốn đi tìm người tên là Triệu Phong Tử.

Dương Lăng ngẩn ngơ:

- Từ Thanh Hà ra Sơn Đông, thế thì phải đi Sơn Tây, nàng... nàng muốn tránh mặt ta ư?

Lão nông kia thấy vị quan gia này mờ mịt nhìn xa xăm, lão cũng không dám đi, liền cung kính đứng trước mặt. Dương Lăng qua hồi lâu mới lấy lại tinh thần, thấy lão nhân vẫn đứng cạnh, vội vàng gật đầu nói:

- Ừm, đa tạ lão, lão có thể đi rồi.

Dương Lăng không còn tâm tư tiếp tục dạo phố nữa, hắn ngậm ngùi thở dài, thu lại nụ cười chậm rãi quay về:

- Ta tới Sơn Đông, nàng liền trốn sang Sơn Tây, ôi! Tạo phản tội lớn, đại họa ngập trời, Hồng Nương Tử à Hồng Nương Tử, nàng còn muốn gieo họa bao lâu mới vừa lòng bỏ qua đây?

Trong lòng Dương Lăng mặc dù có chút mất mát, tuy nhiên lại không khỏi thoải mái hẳn lên:

- Sơn Đông diệt phỉ, không thể né tránh, đánh Bạch Y Quân của Dương Hổ, sẽ tiện thể thượng nhân mã của Hồng Nương Tử, xung đột vũ trang với nàng trên chiến trường, Dương Lăng rốt cuộc có phải cảm nhận được gì hay không. Bây giờ nàng rời khỏi Sơn Đông, cũng vừa lúc mình không vướng bận.

Bất kể nói thế nào, quốc gia đại sự quan trọng hơn, hơn nữa trận phản loạn này, bản thân đang muốn lợi dụng nó, từ trước tới giờ chạm đến thể chế chính trị triều đình để cải cách một phen. Thời vận tự đẩy mình lên vị trí này, không thể phụ ý tốt của trời cao. Nhân sinh không thể ghi trong lòng, mặc dù thọ trăm tuổi, vẫn phải chết mà thôi! Tư tình nhi nữ, vẫn nên gác sang một bên trước đã

Ngọn lửa chiến tranh ngày càng lớn, từng vệt sáng như lửa đốt cháy cả bầu trời đêm. Dưới chân thành Thái An, tiếng chém giết rung trời.

Công thành vào ban đêm, là đề nghị của một quan quân cấp thấp trong Dương Hổ Quân. Y vốn là một quan quân, đồn điền mà Vệ Sở phân cho y, khi đo đạc bị người của Lưu Cẩn tham công, nói là thổ địa của địa phương, mà bị lấy mất. Y không có đất để trồng ruộng, chỉ đành lưu lạc lang thang, trốn khỏi Vệ Sở. Lúc Dương Hổ Quân tới Sơn Đông thì y đầu quân luôn.

Theo chủ ý của y, Dương Hổ Quân ngày đêm không ngừng tấn công thành, trong đó thế tấn công của ban đêm mạnh nhất. Vì ban đêm tướng thủ trên đầu thành không thể nhìn rõ cụ thể bố trí và hướng di chuyển của Bạch Y Quân bên dưới. Như thế thì không thể dự đoán trước bước tiến của địch và chuẩn bị phòng thủ. Cách làm này quả thật làm khổ binh lính thủ thành, thế công ngoài thành lúc mạnh lúc yếu, ngày đêm không ngừng. Đặc biệt là ban đêm không thể nhìn rõ quân số của đối phương, bốn cửa thành nơi nào đánh thật, nơi nào đánh giả, quả thật không cách nào biết trước. Chỉ đành ngày đêm phòng thủ căng thẳng, nên bây giờ binh lính đều đã rất mệt mỏi.

Tính nhẫn nại của Dương Hổ cũng sắp hết rồi. Y vốn định dùng Thái An làm mồi câu, dụ lính thủ thành Tế Nam ra thành quyết chiến, nên thế công cũng không phải vô cùng mãnh liệt. Không ngờ quân của Tế Nam luôn án binh bất động. Mấy mươi thuyền lương thực mà y cướp ở sông Vận Hà, người ăn ngựa ăn, không hề tiết kiệm, bây giờ đã không còn bao nhiêu, nếu không công hạ thành Thái An, toàn quân sẽ phải đối diện với tình cảnh thiếu lương thực.

Vì vậy hai hôm nay, Dương Hổ đã từ bỏ kế hoạch vây thành đánh viện binh, toàn lực công kích thành Thái An, nhất định phải hạ được nó, dùng kho lương trong

thành bổ sung lương thực, dùng của cải mỹ nữ trong thành cổ vũ sĩ khí ngày một suy yếu của toàn quân.

Dương Hổ Quân có bốn khẩu pháo lớn, nhờ sức trâu sức ngựa kéo từ huyện thành quanh đó đến, nguyên quan quân của Vệ Sở mới đầu quân cũng không biết dùng pháo. Y chỉ biết rằng khi sử dụng đại pháo phải cố định thiết tiêu, đặt chống sắt và tường đất sau xe. Còn về độ nâng của miệng pháo, mục tiêu, cự li vâng vâng toàn bộ đều không biết. Nhưng một tòa thành lớn thế này ở trước mắt, mỗi một đợt pháo thế nào cũng trúng tường thành hoặc bắn trong thành là được.

Bên kia cổng thành, lính Thái An sử dụng tầng tầng lớp lớp thạch cao đắp thành bức tường, phòng ngự đại pháo của Dương Hổ. Tường thành bị đạn pháo làm cho loang lổ, nhưng khi trời vừa chớm sáng, đại pháo của Dương Hổ Quân phụt tắt. Hỏa dược của họ còn mấy thùng lớn, nhưng đạn sắt thì đã dùng hết. Tiên phong Dương Hổ Quân không hề để ý, vẫn múa may cây cờ hiệu trong tay, ra lệnh cho thuộc hạ toàn lực công thành, bất kể thương vong.

Pháo trên tường thành phát ra một tiếng nổ kinh thiên động địa, miệng phun khói đen, lựu đạn tấn công mãnh liệt trấn áp sự tiến công của quân Dương Hổ. Máy bắn đá, cầu hào, thang leo tường, không ngừng tập kết ở những góc chết của đại pháo. Các tảng đá, cầu lửa, cầu khói độc không ngừng được bắn lên trên tường thành. Từng mạng từng mạng người không ngừng bị chôn vùi trên chiến trường, mà không ai ngoái lại nhìn một cái.

Trong lều lớn trung tâm quân ngũ, Dương Hổ cau mày, đi đi lại lại một cách sốt ruột. Những tướng lĩnh thân tín như Mộc Vân, Đậu Hủ Lang im lặng đứng một bên. Dương Hổ đột nhiên ngừng bước, nói với giọng căm hận:

- Chỉ một cái thành Thái An thôi, mà lâu thế này vẫn chưa hạ được. Bây giờ đạn pháo thì dùng hết sạch, đại quân của Lưu Lục bị Dương Lăng chặn ngoài thành Đức Châu không thể tiến bước. Và nghiêm trọng nhất chính là lương thảo lại sắp dùng hết. Chẳng lẽ ta không thể không tử bỏ Thái An? Không cam tâm, ta không cam tâm!

Đậu Hủ Lang đảo mắt một cái rồi nói:

- Đại ca, hay là đệ dẫn một toán quân, đến các phủ huyện lân cận tìm kiếm thêm lần nữa, lương thực tìm thấy được thế nào cũng có thể để cho đại quân duy trì thêm mười ngày. Bây giờ quân ta cả người lẫn ngựa đều mệt mỏi, nhưng binh lính trong thành Thái An chỉ sợ còn gian khổ hơn. Đệ không tin, chúng có thể cầm cự thêm mười ngày.

Còn Mộc Vân thì nói:

- Đại ca, theo đệ thấy, chi bằng chúng ta đưa quân xuống phía nam, phía nam lương thảo sung túc, đủ để cung ứng cho nhu cầu của quân ta. Nếu ta chiếm được Nam Kinh, đưa một tông thân Hoàng thất họ Chu lên làm con rối, tệ lắm thì cũng có thể lấy sông làm biên giới, chia đất cai trị với Kinh Sư.

Đậu Hủ Lang cười lạnh:

- Tên họ Mộc kia, hình như những lời lẽ như là chiếm trọn đất Sơn Đông, liên kết ba nơi Sơn Đông, Hà Nam, Sơn Tây làm thòng lọng, siết chặt lấy nơi yết hầu của Kinh Sư là chủ ý của ngươi đúng không? Bây giờ thắng bại chưa phân, ngươi lại lên tiếng đòi đến Giang Nam rồi.

Mộc Vân mỉm cười, nói:

- Hành quân đánh trận, yêu cầu phải biết tùy cơ ứng biến. Kế hoạch ban đầu của chúng ta là chiếm đoạt toàn đất Sơn Đông, sau đó tiến quân ra Bắc, chiếm Kinh Sư, chém người đứng đầu. Như không ngờ triều đình phản ứng nhanh như vậy, quân đội của họ không còn theo sau chúng ta dốc sức tiễu trừ, mà là chia ra trấn thủ, ỷ thế thành trì mà đối kháng quân ta. Thế mạnh của chúng ta là dã chiến, bây giờ chỉ còn cách bàn con đường khác.

Đậu Hủ Lang khịt mũi dè bỉu, bất mãn nói:

- Một tên xuất thân thợ săn như ngươi, còn tưởng mình là Gia Cát Lượng?

Cùng lắm thì chỉ là con cáo già. Nếu sớm chiếm được Thái An thì hết chuyện rồi. Không phải ngươi nói cái gì vây mà không đánh, vây rồi giả đánh, dụ quân Tế Nam ra thành, bây giờ Thái An đã sớm bị công hạ rồi.

- Được rồi, được rồi, đừng có cãi nữa!

Dương Hổ phiền não vung tay, nhìn ra ngoài lều, sắc trời đã sắp tỏ. Dương Hổ thở dài:

- Lệnh cho nhân mã của Dịch Thần Phong, Lý Dạ Ẩn lập tức phối hợp với Hàn Bách toàn lực công thành. Chúng ta đánh đến lúc trời sáng hoàn toàn, nếu vẫn chưa công hạ Thái An, sau khi "mai oa tạo phản" rồi thì rút quân ngay, thẳng tiến xuống phía Nam.

- Vâng!

Thấy Dương Hổ đã có quyết định, các tướng lĩnh trong lều đều cùng ôm quyền nhận lời.

Dương Hổ đi đến cửa lều, nhìn tường thành ở phía xa không ngừng bốc lửa và từng đợt âm thanh chém giết, trong lòng thầm keu gào:

- Là thành hay bại, tất cả đều phụ thuộc vào trận chiến sáng mai!

- Là thành hay bại, tất cả đều phụ thuộc vào trận chiến sáng mai!

*************

Bá Nhan Mãnh Khả vung roi gấp rút, không những mồ hôi nhễ nhại đầy người, mà ngay cả ngựa của ông cũng mồ hôi đầy mình.

Sáu ngàn kỵ binh, hai vạn con ngựa, phóng chạy hết mấy ngàn dặm. Mục tiêu: Hồ Thanh Hải, đại tướng phản nghịch Gia Tư Bố sở hữu ít nhất bốn vạn dân chúng.

Tốc độ hành quân của họ nhanh đến kinh người, một ngày ít nhất cũng đi được mấy trăm dặm. Để bảo tồn binh lực, chỉ đến lúc người ngựa đều mệt mỏi vô cùng mới dừng chân nghỉ nửa ngày. Chiến thuật tiến công sấm chớp trên đường dài của kỵ binh Mông Cổ, đều được hắn phát huy hết tác dụng.

Trọng binh tập kết ở quanh Tuyên Phủ Đại Đồng, giả bộ tấn công Đại Minh,

che mắt thiên hạ, đích thân dẫn khinh kỵ tiến công ngàn dặm đến đánh y, Gia Tư Bố. Phần hào tình này, phần tự tin này, thật không hổ danh là huyết mạch đích hệ của Thành Cát Tư Hãn. Tâm thái cược tất cả cho hành động lần này, cũng chỉ có Bá Nhan Mãnh Khả mới có đảm phách như thế.

Y không thể không làm quyết định như thế, chiến bại không thể làm y suy sụp. Nhưng trong lúc y khó khăn nhất, đại tướng thân tín dưới trướng dẫn quân tạo phản. Nếu không nhanh chóng trừng phạt, y không thể khiến cho những bộ hạ khác nghe lệnh. Đáng sợ hơn, Gia Tư Bố không biết từ đâu tìm được Mãn Đô Hải sớm đã mất tung tích từ trước. Những quý tộc vốn thuộc hệ Mãn Đô Hải đều bắt đầu ngập ngừng do dự, một số bộ lạc nhỏ đã lặng lẽ đầu quân qua đó.

Nếu còn không giải quyết Gia Tư Bố, y cũng chỉ có thể chịu đựng khoảng nửa năm. Đến mùa đông năm nay, thế lực y lao tâm khổ tứ xây dựng mấy năm nay sẽ toàn bộ sụp đổ. Tìm đường sống trong cõi chết, y chỉ còn cách chiến đấu!

Chiến mã phi nước đại, rầm rầm trên thảo nguyên, một vạn thiết kỵ trông cứ như là một trận cuồng phong, mang theo sấm giật chớp lòe lướt qua, khiến choc him thú quanh đó sợ tới bỏ chạy hết.

Chỉ cần có đồng cỏ và nguồn nước, người Mông Cổ có thể không cần quân nhu nặng nề, hành lý nhẹ thì ngựa chạy nhanh, quãng đường dài ngàn dặm chỉ mất một khoảng thời gian ngắn. Đại quân áp sát Hồ Thanh Hải, bầu trời vẫn còn là một mảng màu đen. Bá Nhan Mãnh Khả ra lệnh cho đại quân dừng chân nghỉ ngơi.

Khoảng nửa canh giờ sau, họ uống hết sữa ngựa và nước sạch, ăn hết luôn phần lương khô còn lại. Sau đó, nhân lúc ánh nắng bình minh đầu tiên chưa xuất hiện, phát động lần tấn công cuối cùng.

Hồ Thanh Hải sóng gợn mênh mang, vẫn còn chìm đắm trong khung cảnh nửa đêm nửa sáng. Chốc chốc, vài con cá quẫy đuôi vụt lên khỏi mặt nước, những con chim âu dậy sớm khẽ sà xuống mặt nước, đập cánh vỗ song, hòa cùng với tiếng kêu lâu lâu phát ra từ miệng chúng. Không gian vắng lặng mà tĩnh mịch.

Bên trong hang rào bên hồ là từng đàn dê và bò. Đất nơi đây màu mỡ, cây cỏ sum xuê, là nơi sống tốt của những con thú vật, là nông trường thiên nhiên rộng lớn,

mảnh đất phì nhiêu đang chờ đợi khai khẩn.

Lúc này, chú chim trong lùm cỏ tung cánh bay cao, con hươu bào ngẩng đầu lên khỉ đám cỏ, trừng to đôi mắt nho nhỏ đen tròn cảnh giác nhìn quanh, rồi sau đó nhúc nhích cái đích mập ú vội vã bỏ chạy. Sau đó một giây, một tiếng sấm rền đánh ngay trúng chỗ nó vừa đứng.

Bá Nhan Khả Hãn giương roi thúc ngựa, từng làn gió mát trên Hồ Thanh Hải quét qua mặt y, các lều Mông Cổ trải dài vô tận dần hiện ra trước mắt y. Cái mà y cần tìm, chính là cái to nhất trong số đó, cái lều mà trước cửa có cắm một cột cờ cao chót vót. Từ xa truyền đến tiếng sấm rền, kinh động đến đám dê và bò cùng với chó chăn dê trước nhất, bọn chúng xáo động lên, bắt đầu phát ra những tiếng kêu, sủa hỗn loạn.

Khi thiết kỵ của Bá Nhan Khả Hãn phá vỡ phòng tuyến bên ngoài, nhanh chóng ập vào trung tâm doanh trại, các dũng sĩ của Gia Tư Bố đều vội đứng dậy, cầm vũ khí lên, leo lên lưng ngựa. Chúng không có quân do thám. Ở nơi này, quả thật có quá nhiều bộ tộc, mặc dù bộ tộc của Gia Tư Bố có sức mạnh to lớn nhất trong số đó, nhưng vẫn khó đảm bảo là không có kẻ khiêu chiến không tự lượng sức.

Nhưng những kẻ tấn công quá quả quyết, quá thần tốc, nên khi lính do thám nhìn thấy bóng người của họ, giục ngựa quay về báo tin, cũng chỉ nhanh hơn họ một tuyến đường nhỏ. Có người chỉ vào nơi như bị cả bầy sói thảo nguyên hung dữ nhào vô và hét lớn:

- Chính là chỗ đó, chính là chỗ đó!

Gia Tư Bố cưỡi ngựa nhìn về phía xa xa, chỉ thấy vạn con ngựa phi nhanh, phóng nhanh mà tới, khí thế như mũi tên sắc nhọn lao nhanh về đích.

Gia Tư Bố vừa kinh ngạc vừa thấy kỳ lạ: Đây là quân của ai? Thanh Hải là nơi giao nhau của hai động mạch chủ: con đường tơ lụa và Đường Phiên cổ đạo, cho nên ở đây có rất nhiều nhân chủng, người Ả Rập, người Ba Tư, người Salir, người Hồi, còn có người Tây Tạng, người Duy Nhĩ Ngô, người Thổ Phiên. Nhưng vì bộ lạc của họ quá phân tán, không hề có một tổ chức thống nhất, không thể tập hợp thành một đội thiết kỵ phối hợp nhịp nhàng, khí thế như hổ thế này được.

Các chiến sĩ trong các lều Mông Cổ đều đã leo lên lưng ngựa, vội vã phi đến lều lớn trung tâm của y. Chỉ một lúc sau, sau lưng y đã tập kết được hơn sáu ngàn chiến sĩ, gần xa còn có chiến mã không ngừng chạy tới.

Gia Tư Bố cười một cách hài lòng. Chiến sĩ hợp chuẩn dưới trướng y ít nhất cũng có một vạn người, sau khi tới Thanh Hải, lại thu nạp thêm một số bộ lạc nhỏ tản cư như Thát Đát, Ngõa Lạc, thậm chí còn thu nhận một số dũng sĩ Thổ Phiên.

Từ khi có được Hoàng hậu Mãn Đô Hải một cách kỳ tích, Gia Tư Bố như hổ thêm cánh, lợi dụng uy vọng của nàng không ngừng sai người đi du thuyết những quý tộc phụ thuộc bộ lạc của Bá Nhan Khả Hán, truyền nhiều tin đồn bất lợi đối với

Bá Nhan. Cho nên, lại lần lượt có một số bộ lạc lặng lẽ đầu quân cho y. Chiến sĩ của y bây giờ ít nhất cũng một vạn năm ngàn người, là lực lượng mạnh nhất Thanh Hải.

- Các dũng sĩ, xông lên, cho bọn xâm lược đó không còn đường về, dùng thân xác của họ bón cho thảo nguyên của chúng ta thêm phì nhiêu. Giết!

Gia Tư Bố cưỡi một con ngựa Thanh Hải cao to cường tráng, rút loan đao ra ra lệnh tác chiến.

Gia Tư Bố cao to anh vũ, khuôn mặt đen, hình dáng mặt sắc nét như dao cạo, cưỡi trên con Phiên Mã cao hơn những con ngựa Mông Cổ khác một cái đầu, vung đao chỉ về phía trước, khí thế hơn người. Hai ngàn thiên phu trưởng đã cầm đao thúc ngựa, tiếng "vâng" vang ngút trời, họ dẫn binh mã của mình reo hò đuổi theo hai cây tiễn Lang Nha Kình mà Gia Tư Bố bắn ra.

Binh mã phía sau cũng xung phong theo, binh mã của đối phương trông như một lưỡi dao, còn đại quân của Gia Tư Bố thì trông như vạn tiễn tề phát, phi nhanh về trước. Khí thế của chúng đủ để nuốt gọn đối phương vào bụng. Chính lúc này, nụ cười nhẹ nhõm trên mặt Gia Tư Bố đột nhiên khựng lại.

Đội quân xông đến từ xa, đang dần hiện rõ trước mắt chúng. Ánh sáng đầu tiên của buổi bình minh chiếu lên đầu của họ. Đầu tiên là một cái cờ lớn, trên đó là hình một cái đầu sói dữ tợn, tung bay trong gió, như muối nuột sống người. Gia Tư Bố đột nhiên cảm thấy tay chân lạnh ngắt: đó là vương kỳ của Đại Hãn Mông Cổ, biểu tượng của gia tộc Hoàng Kim. Người đến là Bá Nhan Khả Hãn.

Bá Nhan Mãnh Khả thân mặc giáp da, đầu đội trụ sắt, râu ria đầy mặt, xông lên trước đội hình. Vương kỳ của y ở ngay sau lưng y. Tin tức tối qua truyền về còn nói Bá Nhan Mãnh Khả đang cướp đoạt ở biên giới Đại Minh. Y... sao y lại ở đây?

Đại quân của Bá Nhan Mãnh Khả nhiệt huyết sôi người, trong mắt chỉ có sát ý lạnh lùng vô cùng. Rõ ràng nhân mã của đối phương nhiều hơn họ, nhưng họ không có tránh tiến công trực diện, sử dụng tấn công bên hông. Đối mặt với địch quân ồ ạt kéo đến, Bá Nhan Mãnh Khả ra lệnh, cây đao sáng bóng loáng vung lên, phản chiếu lại ánh sáng mặt trời.

Tiếng reo hò như sấm rền vang lên:

- Đại hãn chinh phạt kẻ phản nghịch, kẻ đầu hàng tha mạng! Giết!

Đại quân của Gia Tư Bố đều ngây người ra hết, chiến mã vẫn còn đang xông pha, nhanh cánh tay nắm dây cương lại bất giác thắng lại. Gang đao vẫn còn vung lên trong không trung, nhưng đã không còn khí thế ngút trời như ban nãy.

Bọn họ phản bội Bá Nhan Mãnh Khả chưa được bao lâu, tâm lý phục tùng vẫn còn ăn sâu trong tâm trí, tư tưởng gia tộc Hoàng Kim là không thể xâm phục vẫn còn ăn sâu trong đầu họ. Đột nhiên phát hiện, đối tượng tác chiến của họ chính là Đại Hãn mà ngày xưa họ thề nguyện phục tùng. Bọn họ nhất thời cảm thấy mơ màng, không biết nên làm như thế nào.

Nếu sớm biết tin Bá Nhan Khả Hãn tiến quân, nếu như Gia Tư Bố và những tướng lĩnh trung thành với y có thời gian tiến hành tổng động viên, những binh sĩ có thời gian suy nghĩ kĩ càng về tiền đồ của bản thân và gia đình, xem thủ lĩnh mà trước đó họ tôn kính nhất là thù địch. Nhưng bây giờ Đại Hãn đột nhiên xuất hiện, phản ứng đầu tiên trong đầu họ chỉ có phục tùng và tránh né.

Cuộc tiến công hơn vạn người như những cơn sóng lớn động trời biến thành từng đợt thủy triều vỗ nhẹ trên bờ cát của Hồ Thanh Hải. Bá Nhan Mãnh Khả một người một ngựa, tay cầm bảo đao, hét một tiếng, tay vung đao, tiếng "giết" của y như sấm rền. Kỵ binh của y giống như một cây kéo rạch rách một miếng vải đang căng ra, xông thẳng vào trung tâm của các sĩ tốt. Mục tiêu: Gia Tư Bố.

Thiết Kỵ nhanh như chớp, các tướng lĩnh thề chết trung thành với Gia Tư Bố cùng với tộc người thân tín thấy tình hình không ổn, lập tức rút đao thúc ngựa, hò hét xông lên. Loan đao cùng với trường mâu sáng bong chạm vào nhau trong nháy mắt, nhanh như sóng biển phủ lên đá ngầm vậy.

Kỵ binh của song phương tấn công nhau, đều sử dụng chiến thuật đâm xuyên chuyên dụng của kỵ binh Mông Cổ, giống như cây búa cây rìu đục thẳng vào trung tâm trận địa vậy. Các chiến sĩ lão luyện của song phương đều biết cách phối hợp nhau, hỗ trợ nhau. Dũng mãnh như nhau, thiện chiến như nhau, nhưng sĩ khí của

binh lính bên Gia Tư Bố, thế nào đi nữa cũng không thể sánh ngang với sáu ngàn tử sĩ này.

Tiếng hí của chiến mã, dòng người lưu động, đao giáo vung lên, mục tiêu của người truy kích chính là cột cờ to hình đầu sói đó, mục tiêu của người xung trận cũng là cây cờ đó. Nó chỉ đi đâu, người xung phong và truy kích đi theo hướng đó. Dưới sự dẫn đường của nó, đâu đâu cũng là những cây kiếm cây giáo đang dốc sức chiến đấu. Không ngừng có người hét lên vả ngã ngựa, cho dù có bị thương hay không, ngã ngựa đồng nghĩa với chết.

- Giết!

Hò hét một cách phẫn nộ, Bá Nhan Mãnh Khả đỏ cả mắt, ánh mắt hung dữ của y nhìn thẳng người thuộc hạ đắc lực cũ. Y thúc ngựa phi nhanh, đao vung nhanh như chớp, chiến sĩ chết dưới tay y nhiều không kể xiết. Gia Tư Bố cũng đích thân tham chiến, cầm đao thúc ngựa, tung hoành trong mớ người hỗn loạn. Ánh mắt của cả hai người chạm vào nhau, nhưng vì người ngựa dày đặc cản trở, nhất thời không thể xông vào nhau.

Trước mắt, không ngừng có ánh đao và giáo vụt qua, không ngừng có cờ và chiến mã lướt qua, không ngừng có bóng người đang chiến đấu cản ánh nhìn của hai bên lại. Nhưng ánh mắt của hai người chưa từng bị những điều này cản trở, họ luôn có thể tìm thấy hình bong của đối phương trong thời gian ngắn nhất.

Bá Nhan Mãnh Khả vung bảo đảo, đá quý xanh đỏ khảm trên thanh đao lóe lên ánh sáng mập mờ, một kỵ sĩ xông thẳng vào y bị chém đôi. Ngay sau đó, y đạp lên ngựa, dồn sức nhảy lên cao, mượn thế ngựa đang phi nhanh, đương đầu chém một nhát mãnh liệt xuống, bổ đôi đầu con ngựa. Máu văng tung tóe, y to tiếng cười, thách:

- Gia Tư Bố, ra đây đấu với ta một trận.

Gia Tư Bố cũng đỏ cả mắt, nghe lời khiêu chiến, nghĩ cũng không nghĩ, rống một tiếng thật to như sét đánh, quay đầu ngựa, cầm chắc gang đao xông về phía Bá Nhan Mãnh Khả. Những chiến sĩ đang chém giết nhau quanh đó bất giác ngừng tay

hết. Dưới cột cờ hình đầu sói đó, chỉ thấy ánh đao như chớp, chớp giật sấm rền, thúc ngựa như rồng, hình bong giao nhau qua lại đó, chỉ có đôi kiêu hùng ấy...

*********

Ánh mặt trời sáng như lửa, bên ngoài thành Thái An, tiếng "giết" rung trời.

Khí thế công thành của Dương Hổ đang hừng hực bùng cháy, nhưng thế nào y cũng không ngờ trận chiến lúc bình minh dưới thành Thái An, không phải với quân thủ thành, mà là với các đạo viện quân đột nhiên xuất hiện.

Y tung hoành Sơn Đông, rất hiếm khi gặp đối thủ như thế. Khi y tập kết binh lính công thành, do hành động thần tốc, mà các quan binh nếu muốn điều động thì phải có sự đồng ý của Đô Chỉ huy sứ Ti. Đợi khi Đô Chỉ huy sứ Ti nhận được tin tức, y sớm đã đạt được mục tiêu chạy đi nơi khác. Tốc độ vây đánh của quan binh chưa từng nhanh hơn tốc độ hành quân của y, nên y luôn không gặp một đối thủ xứng tầm.

Lần này vây đánh thành Thái An, đánh hết nửa tháng trời, y cũng từng nghĩ qua triều đình có điều viện quân tới tấn công hay không, nên trên những con đường chính ngoài thành Thái An bốn mươi dặm đều có quân do thám. Một khi có tin tức gì thì ngay lập tức quay về báo tin. Với thực lực và tốc độ điều quân của y bây giờ, bất luận là chiến đấu hay bỏ chạy, đều dễ như trở bàn tay.

Nhưng khả năng này rất nhỏ. Bởi vì binh lính bản địa Sơn Đông bây giờ đều trấn giữ trong các thành trì. Nếu không điều quân từ tỉnh khác, mà điều những nhân mã này đến tấn công y, chính là đang mạo cái hiểm y thoát khỏi vòng vây, phản công những thành trì trống không đó. Y bại trận, cũng chỉ là chết một số binh mã.

Triều đình bại trận, mất thành trì, chủ soái tám chín phần mười sẽ vào ngục. Y không tin có ai điên cuồng như vậy.

Nhưng một thằng điên như thế địch thực xuất hiện. Không ngờ Dương Lăng lại điều binh ở tận Thanh Châu đến. Phần lớn quân triều đình đều là bộ binh, theo lẽ thường, đợi khi nhân mã của họ tới, y sớm đã chỉnh đốn xong quân ngũ, mọi người ăn no cơm, hát vào điệu nhỏ, nhàn nhã tự tại rời khỏi. Nhưng điên hơn nữa là,

Dương Lăng điều động kỵ binh của các đạo quân đánh đầu trận. Còn đại đội bộ binh ngay cả bóng còn chẳng thấy.

Chi nên khi Dương Hổ nghe được tin này vừa kinh vừa mắc cười. Y thật sự không tưởng tượng nổi, kỵ binh trấn giữ trong các thành trì thường không quá ba ngàn người. Một đội kỵ binh nhỏ như thế thoát li khỏi đại đội, rốt cuộc là đánh trận hay đi tìm cái chết đây?

Nhưng rất nhanh thì y hết cười nổi. Bởi vì binh lính mà Dương Lăng điều tới toàn là kỵ binh, tốc độ không hề chậm hơn quân do thám của y. Khi người của y chạy về báo tin, kỵ binh các lộ quân cũng đồng thời tới nơi.

Nhân mã của họ hầu như đến đích cùng lúc. Họ đến từ những nơi khác nhau, trên những con đường khác nhau, nhưng lại cùng nhau xuất hiện ở cùng một địa điểm. Thậm chí một số nơi ở xa hơn, chẳng hạn như binh mã đến từ Thanh Châu, trên đường không ngừng sử dụng quân lệnh của Tổng đốc Khâm sai, triệu kỵ binh của các thành trì dọc đường nhập ngũ, khi đến thành Thái An thì đã hình thành một toán quân khoảng hai vạn tám ngàn người. Đội quân này lợi dụng địa thế núi cao gần đó, đủ để chống cự ít nhất năm lượt tấn công của Bạch Y Quân.

Từ Gia Lâu, Khâu Gia Điếm, Thái Bình Trang, Lão Tước Khẩu... rất nhanh, họ đã chiếm cứ hết các tuyến đường quan trọng quanh thành Thái An này. Không đợi Dương Hổ phản ứng, lập tức bắt đầu rải đinh, đặt chướng ngại vật, sau đó đào hố bẫy ngựa,... trên đường.

"Binh quý thần tốc", họ đã làm được. Nhưng không nhân cơ hội này tấn công, mà làm ra vẻ trấn thủ như thế là sao? Không lẽ họ mơ tưởng dùng cách hành quân thần tốc của kỵ binh, dùng khả năng cơ động linh hoạt như thế nhanh chóng chiếm cứ các con đường chính, sau đó đặt phòng tuyến đợi bộ binh tới? Có tới kịp không đây? Dương Hổ bị hành vi quái dị của quan binh các lộ làm cho khó hiểu.

Nghĩ hoài không ra, Dương Hổ quyết định không nghĩ nữa. Y quyết định chạy.

Đến đâu? Tứ diện bát phương, ngoại trừ con đường tới Tế Nam này trống không, chẳng thấy bong ai, những con đường khác đều có quan binh canh giữ. Lần này, tướng lĩnh dưới trướng y đều cùng chung ý kiến:

- Không đi đường này, nhất định có mai phục!

Đúng là ý tưởng của anh hùng đều như nhau, Dương Hổ cũng nghĩ như vậy.

Nếu đã sớm quyết định đi xuống phía nam, đến Giang Nam phát triển. Bây giờ vừa đúng lúc hành động. Dương Hổ quyết định tập hợp quân mình, đột phá vòng thủ ở Thái Bình Điếm, sau đó tìm đường thoát khỏi Sơn Đông, thẳng tiến xuống nam.

Thám mã nhanh chóng quay về báo tin, báo cáo về động thái của đại quân Dương Hổ. Dương Lăng tập kết với kỵ binh thủ thành Tế Nam, bây giờ có khoảng tám ngàn kỵ binh tinh nhuệ, yên tĩnh chờ đợi sau gò đất bên đường. Dương Lăng đứng trên đỉnh đồi, vừa nhìn ánh lửa dưới thành Thái An, vừa nghe báo cáo của thám mã.

Nghe nói Dương Hổ đã ngừng công thành, A Đức Ny vội nói:

- Dương, phát động tấn công ngay đi, dùng ba ngàn kỵ binh của chàng, xé một lỗ hổng, rồi ném lượng lớn thủ lôi nhân cơ hội này ra lệnh cho các lộ binh mã, cùng nhau tiến công, phỉ quân tất loạn!

Dương Lăng mỉm cười, nói:

- Đợi thêm chút nữa.

Chỉ một lát sau,lại có thám mã đến báo: Trung quân của của Dương Hổ Quân chuyển dịch, xem phương hướng di động, có vẻ như là định trốn đi từ Thái Bình Trang, đội quân công thành đang lui về sau tập kết.

Lần này, ngay cả hai vị tướng quân du kỵ thống lĩnh kỵ binh cũng sốt ruột luôn.

Họ đều nhìn Dương Lăng bằng con mắt nóng lòng muốn thử. Dương Lăng mỉm cười phẩy tay:

- Không cần vội, đợi thêm chút nữa.

Kế hoạch của A Dức Ny không tồi, nhưng đội quân tạm thời do các lộ quân tập hợp mà thành có một nhược điểm lớn nhất: Không muốn thống nhất phục tùng, không tốt trong việc chỉnh hợp. Tuy Dương Lăng đã tiên liệu từ trước, và đã ra lệnh trong đội kỵ binh mà các lộ phái tới chọn ra vài vị tướng lĩnh nhậm chức chủ soái.

Đây là một sự tập hợp tạm thời, một khi chịu sự phản công điên cuồng của phỉ quân, đội hình có tan rã hay không rất khó nói. Hắn không dám mạo cái hiểm như thế.

Hắn có thể ra sắc lệnh, lệnh cho các lộ viện quân nếu đến giờ mà vẫn chưa tới thì chém chủ tướng, nhưng không thể qui định một cách không nói lí lẽ: bất kì lộ viện quân nào thất bại thì chém chủ tướng, như thế được. Trận đầu tiên, nhất định phải để hắn đánh, thắng đẹp thắng nhanh rồi, đánh cho con hổ xuống núi thành con chó rụt đầu chạy, các lộ viện quân sẽ từ lũ chó quèn biến thành bầy sói dữ.

Thay da dổi thịt, bắt nguồn từ sĩ khí, cái quân Minh thiếu chính là sĩ khí. Nhìn

kỹ thì sẽ thấy, ngoại trừ thiết lỵ dưới trướng hắn nghiêm túc bình tĩnh, quan binh Đức Châu và Tế Nam nhìn sao cũng thấy hồi hộp lo lắng, đây còn là khi hắn đích thân chỉ huy, vậy thì tâm thái của các lộ quân khác thế nào đây. Thúc giục chúng tấn công, chỉ có thể biến thành một trận đánh tồi.

Nhưng còn Bạch Y quân? Bạch Y Quân thì tính là quân gì? Khóe miệng Dương Lăng cười lạnh một cái, hắn thàn nhiên nói:

- Chúng có thể chiến đấu một cách tàn độc, nhưng không thể chiến đấu ác liệt. Đậy là hai việc hoàn toàn khác nhau, vong mệnh đồ tâm địa hiểm ác, nhưng không có nghĩa là chúng không tiếc mạng. Khi chúng cảm thấy tuyệt vọng, cũng sẽ bỏ chạy. Những người có thể chiến đấu ác liệt, tiếc mạng nhưng không sợ chết, luôn không dễ dàng nói thất bại, quân kỷ nghiêm chỉnh như thép. Bách Y Quân chỉ là một đám lưu phỉ, chúng có thể làm được như thế sao?

Dương Lăng chắp tay ra sau lưng, nhàn nhã nói:

- Tân Quý Hỉ, khi quân biên thùy tác chiến, đột nhiên chỉnh đốn quân ngũ tiến hành di chuyển, nếu như có mười vạn người, cần bao nhiêu thời gian?

Tân Quý Hỉ là thống lĩnh ba ngàn thiết kỵ của hắn, một trong những quân du kích trong đội quân biên thùy. Y ngẩn người, suy nghĩ một lát, mới cẩn thận trả lời:

- Từ lúc quân lệnh được thông báo đến toàn quân, tập kết chỉnh đốn xong, cho đến tháo lều nhổ trại...khoảng một canh giờ.

Dương Lăng cười cười, nói:

- Quân biên thùy được huấn luyện kĩ càng, mười vạn đại quân tập kết còn cần một canh giờ, huống hồ đám hãn phỉ không biết quân kỷ này? Công thành không hạ, khí thế đã yếu; đột nhiên biết mình bị vây đánh, quân tâm không vững; tập kết quân một cách gấp gáp, đột hình tất loạn! Trên có ý rút lui, dưới có ý bỏ chạy, lúc này đâm thêm một nhát vào tim chúng, hừ hừ!

Ánh bình minh đầu tiên đã chiếu tới trên đỉnh núi, cảnh vật trước mắt đột nhiên

sáng lên, cây xanh núi biếc, thật là đẹp lạ lung. Ngay sau đó, ánh dương quang đầu tiên này bị mây che mất, ánh sáng vừa lóe lại chợt tắt.

Dương Lăng ra lệnh:

- Du kích Tân, lệnh cho người của ngươi xung phong, nhân lúc đại quân của chúng đang tập kết, không thể triển khai đội hình tấn công hiệu quả, nhanh chóng rạch một đường ngay bụng của chúng. Sau khi vào trong rồi, ném thủ lôi ra khắp nơi, nổ cho chúng tanh bành! Một doanh loạn thì toàn doanh loạn, trăm ngựa kinh tất vạn ngựa kinh. Đến lúc đó, chúng ngoại chạy tán loạn ra, thì không cò có thể phản kích một cách hiệu quả nữa rồi.

Tân Quý Hỉ ôm quyền, nghiêm nghị nói:

- Tuân lệnh!

Ngay lập tức tay phất chiến bào, sải bước xuống núi. Trên giáp của y có thêu một cái túi vải kì lạ, chia ra làm nhiều ngăn, trong mỗi ngăn đều để một hang ống gỗ nhỏ. Chúng lắc lư theo bước chân của y, trông có vẻ khá nặng.

Bành Tiểu Dạng ôm thùng thuốc súng màu đen, ảo não liếc nhìn Dương Lăng, thấy hắn căn bản không chú ý đến mình, cũng rón ra rón rén đi theo.

Dương Lăng lại triệu tướng lĩnh của hai toán quân Đức Châu và Tế Nam, bàn bạc với hai người hồi lâu, hai người này mới nhận lệnh rời khỏi. Dương Lăng mỉm cười nói với A Đức Ny:

- Đi, chúng ta lên cao hơn nữa, có thể thấy rõ hơn...

- Thấy... thấy cái gì?

- Thấy mười vạn đại quân như núi đổ!

- Ai, chàng thì yên tâm thật đấy, muội cứ thấy số quân tiên phong hơi ít. A Đức Ny nhẹ nhàng than thở.

Dương lăng không xem nó là vấn đề:

- Có gì đáng lo? Đánh trận không chỉ xem quyền cước binh khí, quân nhu tiền lương, còn đánh tâm lý, đánh nhân tính. Huynh cũng là quan sát, nghiền ngẫm bọn hưởng mã đạo này, phong cách tác chiến của Bạch Y Quân, tố chất binh sĩ dọc đường đi, nên mới khẳng định như vậy.

Dương Lăng nắm bàn tay nhỏ bé ấm áp mềm mại của người phụ nữ lên, dương dương đắc ý nói:

- Hơn nữa, nhất ngôn nhất hành của chủ soái thống binh đều nằm trong mắt bộ hạ hết, cho nên càng lâm vào đại chiến, càng phải trấn tĩnh. Nàng xem, ngọn núi cao bên đó là ngọn núi cao nhất trong thiên hạ: Nhạc Thái Sơn. Người làm chủ soái, phải có tâm lý: núi Thái Sơn sụp đổ ngay trước mắt mà mặt không biến sắc.

- Bùm ~ bùm ~~!

Một tiếng nổ kinh thiên động địa vang lên, mặt đất dưới chân cũng rung chuyển. Vừa hay cụm mây dày đặc trên trời tản ra, vạn ánh dương quang xòa xuống mặt đất, cảnh vật trước mắt sáng hẳn lên, trông cứ như là sấm sét làm cho trời rung chuyển đến lộ ra một kẻ hở.

Dương Lăng nắm lấy cánh tay của A Đức Ny, thất kinh hỏi:

- Đây... đây là âm thanh gì?

- -oOo

Ba nghìn kỵ binh của Du kích Tân đã quen với tiếng đại pháo. Nhưng để giảm thiểu cảm giác sợ hãi của chiến mã, họ vẫn nhét đầy lỗ tai của chiến mã, để phòng chúng bị thủ lôi làm cho kinh sợ.

Trời vừa sáng trưng, ba ngàn thiết kỵ theo chiều gió sớm, theo ánh triều dương xông thẳng vào đội Bạch Y Quân đang chỉnh đốn đội hình và rút lui, như dòng nước lũ chảy xiết không gì đỡ nổi. Ánh đao sáng rực, rậm rạp như rừng.

Không ngoài dự đoán của Dương Lăng, công thành không được không quan trọng, nhưng sau đó lại lập tức toàn quân di chuyển, mà không có lấy một giải thích hợp lý cho binh sĩ hoặc không có thời gian giải thích, thì đối với một đội quân chưa từng được huấn luyện quy củ mà nói, là làm mất đi nhuệ khí của họ một cách nặng nề, khiến họ suy đoán lung tung.

Nhất là vì thời gian cấp bách, quân Dương Hổ tập kết một cách rất gấp gáp. Đội quân đang công thành sớm đã không còn giữ được trận hình. Bây giờ vì muốn quay trở về đội của mình, ai ai cũng đi đi lại lại, binh không kiếm được tướng, tướng cũng chẳng thấy binh đâu, trông hỗn loạn cực kỳ. Sĩ quan thì lớn tiếng quát, chửi chửi bới bới, ra lệnh cho sĩ tốt.

Một số sĩ tốt nghe tin đại quân triều đình đang bao vây tứ phía, nhưng lại không biết tình hình cụ thể, các tướng lĩnh của Dương Hổ quân cũng không hay trao đổi thông tin chi tiết với các binh sĩ. Do không hiểu rõ tình hình, lại thấy các tướng lĩnh từ cao đến thấy đều khẩn trương ra lệnh cho quân của mình tập kết di chuyển. Vô hình trung, số lính triều đình trong tình thế bất lợi trước mắt bị các binh sĩ khuếch đại rất nhiều lần, thậm chí đến mười lần.

Kỵ binh của Tân Quý Hỉ phát động tấn công ngay trong tình huống như thế, đột

nhiên xuất hiện trước mặt Bạch Y Quân. Thiết nghĩ bổn gia của Du kích Tân, Tân Khí Tật, năm xưa dẫn theo năm mươi khinh kỵ đột kích đại doanh của quân Kim, bắt sống Hán gian Trương An Quốc rồi vô sự quay về, cũng chỉ là như thế. Bọn họ đường đường hoàng hoàng xông vào trong đội ngũ của Bạch Y Quân trong sự ngạc nhiên của chúng, trong sự kinh ngạc đến khó tin của chính họ.

Từ khi đạt tới qui mô năm vạn người, Dương Hổ quân không còn áp dụng phòng thủ nữa, dù cho "lấy công làm thủ" có lộ sơ hở cũng mặc kệ. Lúc trước chỉ là những toán quân nhỏ, cho dù bị tấn công cũng có thể linh hoạt cơ động để tấn công hoặc tránh né. Nhưng một đội quân đang di chuyển lớn đến thế này, bị địch đột kích ngay khi hỗn loạn thế này cũng là lần đầu tiên.

Vả lại đói thủ còn là thiết kỵ thuộc quân biên thùy hiếu dũng thiện chiến nhất Đại Minh. Trong những lúc thế này, không ngờ chúng lại phạm hai lỗi lầm cơ bản nhất: một là quân đội chưa tập kết hoàn tất, mà chủ tướng trung quân đã nhổ trại đi trước. Tư duy của Dương Hổ là đại ca xung phong lên trước, làm gương cho đàn em theo sau. Nhưng nếu thế thì quân đội đang hỗn loạn bỗng gặp chuyện gì ắt sẽ như rắn mất đầu. Hai là khi đại quân di chuyển, không có để lại đội quân tâm phúc có sức chiến đấu mạnh nhất, và cũng đáng tin cậy nhất đoạn hậu phía sau.

Các đội kỵ binh của Minh quân lập phòng tuyến trên các tuyến đường giao thông quan trọng, đường Tế Nam này lại bày bố nghi trận, không thấy một binh một tốt. Những hành động này làm cho Dương Hổ nghĩ sai rằng: quân Minh phải đợi tới khi bộ binh tới rồi, mới xây một vòng tuyến quanh bốn phía thành Thái An vây chúng ở bên trong.

Một chủ tướng thiếu thốn kiến thức quân sự cơ bản như thế, lãnh đạo mười vạn quân, lại còn dùng cách đánh năm xưa của ba ngàn sơn tặc. Cứ như thế chỉ huy quân mình tới nước hỗn loạn thậm tệ như thế, hoàn toàn không thể thực hiện phản công một cách hiệu quả.

Nhìn thấy tình cảnh như thế, Du kích Tân cũng không khách sáo, ba ngàn thiết kỵ vừa kích vừa đá, mã đao chém ngang bổ dọc. Họ không hề ngừng nghỉ, cả đội xếp thành hình chùy, xông vào đại quân Dương Hổ huyên náo giết ra một con

đường máu, cứ như là đang chặt thịt heo vậy. Họ tiến thẳng vào bên trong lòng địch.

Cảnh tượng hôm nay rất ứng với câu" con hổ lọt vào đàn dê". Bạch Y Quân tuyệt đối không phải bầy dê chờ chết, nhưng tình hình bây giờ ngay cả thần tiên sống cũng không có cách chỉ huy quân đội phản kích.

Người thì đang nhổ trại, người thì đang cột lương khô lên ngựa, người thì đang băng bó vết thương, người thì vừa mới từ trên chiến trường xuống chưa kịp ăn cơm đang ôm dưa, khô lương khô nhai ngấu nghiến, người thì đang đi tới đi lui nghểnh đầu tìm cờ chủ tướng của mình. Vả lại người này người nọ chen chúc nhau, khi vòng ngoài bị Tân Quý Hỉ xé rách xông thẳng vào một cách đột ngột như thế, rất nhiều người vẫn không biết đang xảy ra chuyện gì.

Nơi ba ngàn khinh kỵ đi qua, đều giống như lớp đất màu mỡ vừa được cày bới qua. "Lớp đất" phía sau "cái cày", bị xới tung lên về hai phía, con đường chính giữa thẳng tắp, bên trong nhuốm màu máu đỏ.

Du kích Tân lặng lẽ tính toán vị trí. Y vốn định giết thẳng vào giữa bụng của đại quân Dương Hổ, nhân lúc hỗn loạn xung kích thẳng tới vị trí hậu phương. Nếu gặp sự truy kích mãnh liệt, thì rút về, đến ngoài rìa đại quân thì ném thủ lôi vào trong. Nếu không làm vậy thì sức mạnh đáng sợ của cơn lũ kinh hoàng do vạn đại quân tạo ra, không phải sức người có thể đỡ nổi.

Nếu xảy ra cục diện như thế, ba ngàn kỵ binh của y chỉ sợ không chết trong tay quân Dương Hổ, mà sẽ bị vó ngựa của thiên quân vạn mã đạp chết. Nhưng không ngờ tấn công vào trong lại thuận lợi đến khó tin như thế. Du kích Tân tự tin hẳn lên, quyết định đi vào dòng người giết thẳng qua bên kia, đến phía bên kia rồi mới ném thủ lôi.

Đại quân Dương Hổ xếp thành đội hình hẹp và dài, vây quanh thành, hướng về phía Thái Bình Trang. Thiết kỵ của Du kích Tân giống như một đinh, chọc thẳng vào đại đội của y, giết thẳng qua phía đối diện. Bạch Y quân phía trước còn chưa biết rõ tình hình, thì đã nghe tiếng kêu thảm khốc của cả người lẫn ngựa. Khi quân của Du kích Tân gần giết tới phía trước, Bạch Y Quân ở hậu phương tức tốc đuổi theo, và đang giao chiến với hậu đội của Du kích Tân.

Du kích Tân nhìn thấy khoảng đất trống ở phía trước không xa, trong lòng thầm mừng: chỉ cần xông lên phía trước thêm ba mươi trượng nữa, là có thể ném thủ lôi được rồi, đám Bạch Y Quân ngạo mạn, đồ dân quê không biết trời cao đất dày, cho chúng bây nếm mùi lợi hại của vũ khí mới này.

Lúc này, Bành Tiểu Dạng dẫn theo hơn hai mươi thân binh xông tới góc đường, chỉ thấy Bạch Y Quân người ngựa tan hoang, còn quân của Du kích Tân thì như phong ba bão táp, đã không biết đi về đâu. Bành Tiểu Dạng không khỏi thầm tặc lưỡi.

Y là anh hùng trên nước, hảo hán của Nam quốc, nên thuật cưỡi ngựa rất tầm thường, nên chạy mãi mới tới đây. Với tài nghệ của mình, y cũng không sợ gì Bạch Y Quân, nhưng kêu y cưỡi ngựa xông vào đội quân nhìn không thấy biên giới này, y cũng không có gan.

Bành Tiểu Dạng nhảy xuống ngựa, nhét một quả thủ lôi dạng bự vào trong ống bắn, một thân binh bên cạnh lo lắng nói:

- Tướng quân, người... biết xài cái thứ này không? Bành Tiểu Dạng nói như không hề để ý:

- Yên tâm, lúc A Đức Ny cô nương dạy Bắc quân trên giáo trường, ta đứng ngay kế bên. Cái này dễ lắm, dễ hơn cầm tay lái trên thuyền nhiều. Ngươi tránh xa chút, phía sau nó phun lửa ra đó...

Mấy thân binh vừa nghe, lập tức tránh ra hai bên. Bành Tiểu Dạng khiêng ống pháo lên, ngắm trái ngắm phải, thấy trước mắt toàn là người với người, cũng không biết bắn vào đâu. Lúc này một thân binh chỉ cột cờ nằm ở hướng bên phải trong quân, rồi nói:

- Tướng quân người xem, quân kỳ của Dương Hổ. Bắn nó đi, người ta thường nói chém tướng cướp cờ mà. Tướng không chém được, bắn gãy cờ của chúng cũng là một đại công.

Bành Tiểu Dạng nghe xong, thấy cũng có lý, vội đứng thẳng dậy, khiêng ống pháo trên vai, nhắm thẳng cột cờ trong quân ngũ kia.

Lúc này Bạch Y Quân trong cơn hỗn loạn này cũng đã phát hiện hai mươi mấy tên quan binh thậm thà thậm thụt đứng ở đằng xa. Chúng cũng không xông lên phía trước, mà còn xuống ngựa, đứng đó chỉ chỉ trỏ trỏ. Người đứng đầu chắc là tướng quan, đang khiêng cái ống khói trên vai không biết dùng để làm gì. Cho nên họ lập tức cầm cung bắn tên, tiếp đó bọn chúng.

- Tướng quân, cẩn thận, có tên. Thân binh vội vã cảnh báo.

Bành Tiểu Dạng vừa mới châm ngòi ống pháo, nghe tiếng của thân binh liền khuỵu xuống một cách vô thức. "Bùm" một tiếng, một cái thủ lôi cỡ đại bắn ra khỏi ống pháo, ngả ngả nghiêng nghiêng bắn về phía Bạch Y Quân, cách xa cái cột cờ tới mấy chục trượng.

Bành Tiểu Dạng thầm ảo não, quăng cái ống pháo đi rồi đứng dậy, rút vũ khí ra, giận dữ quát:

- Mẹ nó, tên khốn nào phá hỏng chuyện tốt của ta thế?

Vừa dứt lời, một tiếng nổ đinh tai điếc óc chấn động màng nhĩ vang lên, ngay cả mặt đất cũng rung chuyển. Cảm giác lắc lư y như đang ở trên thuyền, "leng keng", Bành Tiểu Dạng làm rớt mất vũ khí, mồm miệng há hốc nhìn về đằng xa, thì thấy chỗ thủ lôi rơi xuống có một đám khói đen dày nổi lên, dư sóng của vụ nổ làm cho hơn hai mươi người và chiến mã quanh đó, và vài cái xe đã nát bét bay lên không trung khoảng mười lăm sáu trượng.

Bành Tiểu Dạng lắp bắp nói:

- Không đúng, lúc ở giáo trường đâu thấy nổ lớn như vậy, sao còn lợi hại hơn cả đại pháo thế này.

Một thân binh cạnh đó nơm nớp lo sợ:

- Tướng... tướng quân, đừng nghĩ nữa, chạy... chạy mau đi, đàn ngựa điên rồi.

Sau một khắc im thin thít, từ trong đội Bạch Y Quân truyền ra tiếng vang khủng khiếp, đó là tiếng hí đồng thanh của hơn vạn con chiến mã. Sau đó, bầy ngựa điên lên, không phân biệt trái phải trước sau, điên cuồng mà chạy, mà va vào nhau, giống

như những con sóng dữ bị kẹt giữa bãi đá ngầm đang liều mình chèn ép, đánh tan bất cứ thứ gì có thể.

Mấy con chiến mã ngoài rìa tìm thấy đường ra trước nhất, bắt đầu bỏ chạy tứ tung. Mấy trăm con chiến mã mặc kệ tất cả, liều lĩnh phóng đi nơi khác. Có một số con còn có kỵ sĩ trên lưng, một số con thì ngay cả chủ mình cũng đã hất luôn xuống đất. Cái không khí điên cuồng này khiến cho nhưng người chưa từng thấy qua bao nhiêu đây con ngựa lớn phóng về phía mình như Bành Tiểu Dạng và thân binh thủy phỉ lập tức luống cuống cả tay chân.

- A? A! Chạy mau!

Bành Tiểu Dạng hét lớn một tiếng rồi quay đầu bỏ chạy. Y phóng lên thân ngựa, một tay nắm dây cương, một tay liên tục vỗ vào mông ngựa, hai chân vừa kích vừa đá. Con ngựa đó bị tiếng nổ làm cho hết hồn, bốn vó ngựa như cắm chặt xuống đất, không hề nhúc nhích.

Rồi tiếng ngựa hí, tiếng vó ngựa rầm rập, mấy mươi con chiến mạ chạy vụt qua y, giống như một trận cuồng phong vậy. Lúc này, ngựa của y mới như tỉnh thần, hí một tiếng dài, phóng theo sau đàn ngựa. Bành Tiểu Dạng hét lớn một tiếng. Từ xa nhìn, cơ thể của y không ngừng lắc lư trên yên ngựa, nhấp lên nhấp xuống, giống như chiếc lá cuối cùng trong làn gió thu vậy.

Dương Lăng vội vã đi xuống núi, trong lòng thấp thỏm không yên. Động tĩnh lớn như vậy, không giống tiếng nổ của thủ lôi chút nào.

Thủ lôi do A Đức Ny cải tạo, vừa nhỏ gọn lại dễ dàng theo bên mình, lại có đủ hỏa dược trong đó. Vả lại hỏa dược lúc đó uy lực có hạn, để gia tăng sức sát thương, lớp vỏ bọc bằng sắt bên ngoài không ngừng được làm mỏng, đã tới mức chỉ còn tác dụng là vật bao bọc mà thôi, toàn nhờ vào móc sắt, miếng sắt, đạn sắt bên trong đả thương người, đâu ra động tĩnh lớn đến thế.

Không lẽ là binh sĩ nào bất cẩn, làm nổ tung hết tất cả những thủ lôi trên người?

Nổ như vậy, nếu còn dẫn đến những hiệu ứng sau khác nữa, người chịu đầu tiên chắc là ba ngàn thiết kỵ tinh nhuệ của hắn mất.

Lúc ở thành Đức Châu, Dương Lăng đã quan sát kĩ quá trình phát binh, thu binh của bọn hưởng mã đạo này, cũng hỏi kỹ càng đặc điểm tác chiến của những binh lính còn sống và chạy đến Đức Châu từ các huyện khác. Thế công mãnh như hổ, thế thủ thì phân tán, biến trận, di chuyển hoàn toàn không theo quy tắc gì cả, giống như đang tháo chạy vậy.

Cho nên kế hoạch ban đầu của hắn là các lộ kỵ binh đặt vòng vây, bày hư trận, buộc Dương Hổ thu binh di chuyển, lợi dụng lúc y tập kết quân đội, trận hình vừa lớn vừa loạn mới tấn công từ bốn phía, và đột phá. Từ khi có được thủ lôi đã qua cải tiến của A Đức Ny, Dương Lăng quyết định thay đổi kế hoạch gốc một chút xíu, lấy thủ lôi làm mồi dẫn, biến lượng lớn chiến mã của Bạch Y Quân làm vũ khí.

Lợi dụng thủ lôi làm cho chiến mã của Bạch Y Quân điên lên. Một khi chiến mã trở nên tán loạn, lương lớn chiến mã mà chúng dùng để đối kháng quân triều đình, sẽ phát huy uy lực của mười vạn đại quân tinh nhuệ. Dòng người xô đẩy, vót ngựa điên cuồng, chà đạp lên nhau, cũng đủ để cho Bạch Y Quân tập trung nhiều người và ngựa như thế tan rã. Thiệt hại của phía quân triều đình, nói không chừng có thể giảm tới tỉ lệ nhỏ nhất.

Do vận hành thích đáng, với cái giá nhỏ đến không ngờ, làm kẻ địch tổn thất gấp mười lần. Không phải chưa từng có tiền lệ rằng địch quân nhiều hơn mấy chục lần. Trận chiến "Thổ Mộc Bảo", Thái sư Ngõa Lạt cũng không quá ba vạn người, năm mươi vạn quân Minh bị y đánh tơi bời. Máu chảy thành song, xác chất thành núi, bình quân mỗi tên Thát Tử giết chết hơn mười quan bình, nhưng thương vong bên của y lại rất rất ít. Cho dù đội hình quân Minh tan rã tháo chạy, không lòng dạ nào chiến đấu, người của Dã Tiên cũng chỉ việc đuổi giết một đám người chạy nạn chỉ lo tháo chạy, không hề biết phản kháng.

Nổ doanh trại là một việc mà bất ì đội quân kỉ luật nghiêm minh nào cũng bó tay, chứ đừng nói tới quân Dương Hổ không hề có kỉ luật. Cho dù là Thiết kỵ có quân kỉ nghiêm minh nhất, một khi nổ trại, cũng chỉ là thiên quân vạn mã tương tàn, chà đạp lên nhau. Dù cho Tôn Võ có tái thế cũng bất lực. Nhiều thủ lôi như thế còn không bằng một tiếng rống năm xưa của Trương Phi sao?

Lòng Dương Lăng vốn hết sức chắc chắn, tự thấy phán đoán không sai. Nhân trận chiến này, không chừng còn được trở thành danh tướng thiên cổ lưu danh sử sách. Bây giờ đột nhiên nghe tiếng nổ lớn như thế, lòng hắn không khỏi thấp thỏm không yên.

Dương Lăng vừa đi xuống chân núi, thì thấy ở phía xa xa, chiến mã phi nhanh, xông qua đây với khí thế cuồng liệt không gì đỡ nổi. Dương Lăng không kịp suy nghĩ, lập tức lên tiếng:

- Lấy đây thừng chắn ngang chân ngựa!

Mấy cái dây thừng ở hai bên đường bị kéo căng ra, không ngờ ngựa phi quá nhanh, liên tiếp làm đứt hết hai cái, sau đó chiến mã mới phóng lên cao, tiếp xuống đất cách đó khoảng một trượng, hất văng tên kỵ sĩ trên lưng xuống đất, khiến hắn bị gãy cả xương. Tiếp sau đó lại là mấy con chiến mã xông tới nữa, lại một phen người ngựa hỗn loạn, tất cả các dây thừng đều đứt hết.

Phía trước còn có các chướng ngại vật chắn ngựa khác, dùng để đối phó với đàn ngựa đang điên cuồng này. Bọn chúng hầu như không hề biết né tránh là gì, quan binh nấp ở bên đường là có thể giết được người. Bạch Y đạo không trả giá, thì đừng mong thoát ra khỏi khu vực chết này. Khi chúng thoát ra khỏi đây rồi, thì cũng đã biến thành một đám tản binh du dũng không có tổ chức, không có đấu chí, còn có thể đối phó với quan binh được sao?

Nhìn thấy đàn ngựa điên này, Dương lăng biết kế hoạch của mình không thất bại, tâm sự cũng nhẹ hơn được một nửa. Nhưng vẫn còn một nghi vấn trong đầu, rốt cuộc là thứ gì có thể tạo ra tiếng nổ lớn đến thế?

Bọn đạo tặc trên ngựa muốn khống chế bọn ngựa điên này cũng đã tốn hết rất nhiều công sức. Hai tay chỉ có thể nắm chặt lấy dây cương, hoặc giả kẹp chặt yên ngựa. Quan binh hai bên đường ung dung dùng súng và cung tên bắn giết cường đạo, hoàn toàn là trận đồ sát của một bên.

Chính vào lúc này, trong đám ngựa liên tiếp chạy tới có người hô lên:

- Đừng bắn! Đừng bắn! Là tôi, là tôi!

Dương Lăng nghe tiếng liền thò đầu ra khỏi tảng đá ẩn thân bên đường. Chỉ thấy trên lưng một con ngựa đang phi như điên, Bành Tiểu Dạng đang dùng hai tay nắm chặt yên ngựa. Chiến mã phi chạy nhấp nhô lên xuống, hai chân của y đã rời khỏi cái bàn đạp, cái mông cũng nhấp lên nhô xuống, giống như là cái bao trên lưng ngựa vậy.

Cũng may y lái thuyền lâu năm, có thể chịu được xóc nảy, hai cánh tay lại sức lớn vô cùng, cho nên mới còn có thể trụ lại trên lưng ngựa. Thân binh của y cũng đã không còn bao nhiêu người, toàn bộ đều nửa đường bỏ ngựa lăn vô lề đường.

Dương Lăng nhớ ra phía trước còn có nhiều chướng ngại vật, không khỏi hét

lớn:

- Đừng bắn! Tiểu Dạng, bỏ ngựa mau, bỏ ngựa mau!

Bành Tiểu Dạng thấy không còn kiên trì được nữa, lại nghe tiếng của Dương Lăng, vội thả tay ra khỏi yên ngựa, lăn ra phía ngoài, "rầm" một cái ngã xuống đất, rồi lăn sang hai bên đường. Khi y đang lăn vào lề, một con ngựa chạy từ phía sau lên, đến sát thân thể của y rồi mà vẫn né qua chạy tiếp một cách huyền diệu.

Bành Tiểu Dạng vừa lăn vừa bò đi ra khỏi chỗ đó, đứng dậy với khuôn mặt xám

xịt:

- A... đáng sợ quá, thật là đáng sợ quá!

Dương Lăng vội kêu người kéo y vào sau tảng đá bên đường, hỏi:

- Xảy ra chuyện gì vậy, vừa nãy cái gì nổ vậy, sao mà lớn tiếng thế...

- Đáng sợ quá, thật là đáng sợ quá.

Bành Tiểu Dạng gãi gãi cái đầu tổ chim, nói như chưa hoàn hồn:

- Tôi chỉ bắn một phát thủ lôi thôi mà, ai ngờ lại biến thành như vậy. Đồ của A Đức Ny cô nương đáng sợ quá.

Cái thủ lôi mà Bành Tiểu Dạng bắn ra, rơi trúng ngay trên nóc một cái xe ngựa, trên đó là hỏa dược mà Bạch Y đạo thu gom được. Do đạn của đại pháo đã sử dụng hết, nên tạm thời không dùng tới hỏa dược. Bạch Y đạo cũng biết hỏa dược này là đồ tốt, vì vậy vừa nghe lệnh di chuyển, lập tức đem hết chúng lên xe ngựa, định mang theo đi, nhưng không ngờ cái xe đầy hỏa dược này lại trở thành mầm tai họa.

Uy lực khi xe hỏa dược đó phát nổ vượt xa thủ lôi mà Du kích Tân và thuộc hạ của mình mang theo. Nơi vụ nổ xảy ra biến thành một cái hố lớn. Lấy nó làm trung tâm, trong vòng bán kính hơn mười trượng, tất cả Bạch Y quân, xe ngựa, chiến xa đều bị thổi bay lên không trung. Dư chấn của vụ nổ đẩy người ngựa trong vòng mấy mươi trượng ra hết bên ngoài, đè nén đàn áp lên nhau.

Du kích Tân cũng nghe thấy tiếng nổ đinh tai nhức óc đó. Còn chưa kịp định

thần, đàn ngựa phát điên do tiếng nổ cũng đã bắt đầu mất tiêu. Chiến mã của quan binh dưới trướng Du kích Tân đều đã quen với tiếng nổ, vả lại còn bị nhét đầy lỗ tai, tuy cũng có chút hoang mang, nhưng cũng đã bị những kỵ sĩ kỹ thuật cao cường khống chế. Nhưng sự xao động của bầy ngựa rất dễ lây sang đồng loại, tất cả chiến mã xung quanh đều gào rú phát điên, chạy như điên. Chúng ảnh hưởng tới ngựa của các quan binh, làm cho những con ngựa này cũng bắt đầu xao động, không chịu khống chế.

Sự chèn ép dồn nén do bầy ngựa nổi điên gây ra, hầu như không ai đỡ nổi.

Trước mắt còn có hơn mười trượng cự ly, nhưng đàn ngựa điên chạy tán loạn khắp nơi. Do đại quân đang từ từ di chuyển về hướng tây nam, nên phần lớn chiến mã phát điên theo quán tính đều tăng tốc chạy cả về hướng tây nam. Nếu muốn xuyên qua dòng người điên cuồng như thế, mặc ho họ có chém thế nào đi nữa, ba ngàn kỵ binh cũng sẽ bị áp lực to lớn này đè bẹp.

Du kích Tân thấy tình thế không ổn, chỉ đành hô lớn:

- Thuận theo hướng của đàn ngựa! Thuận theo hướng của đàn ngựa!

Nói rồi, dẫn đầu quay đầu ngựa, tham gia vào dòng người đang lưu động về phía tây nam, đồng thời cũng cầm đao trên tay, không ngừng chém hết những tên chắn đường phía trước.

Những thuộc hạ ở đằng xa hầu như không nghe thấy tiếng nói của y giữa một tràng những tiếng hí, tiếng vó ngựa như thế. Nhưng họ đều là những binh sĩ thân kinh bách trận, vừa nhìn hành động của Tướng quân và những binh lính bên cạnh, lập tức hiểu ran gay. Cho nên họ cũng quay đầu ngựa, hòa nhập vào dòng chảy điên cuồng này.

Để đề phòng bị những con ngựa tăng tốc chen chúc sau lưng đụng phải, mã đao trong tay họ không ngừng vung lên chém xuống, máu văng tung tóe, nhưng đội quân điên cuồng này dường như đã chai sạn. Tình trạng hỗn loạn của cả chiến trường đã không còn ai có thể khống chế được nữa, những tiếng kêu thảm khốc, thấp có, cao có, thanh có, trầm có, đan vào nhau tạo thành những âm thanh thê thảm đến rùng rợn. Bộ binh của Bạch Y Quân trở thành nạn nhân đầu tiên dưới móng

ngựa trong trận điên cuồng này, người sống sót thì trăm người cũng không thấy một.

Từ Gia Lâu, một tuyến phòng thủ của kỵ binh Thanh Châu.

Nhiệm vụ gốc đột kích đổi thành thiết lập chướng ngại vật chặn kẻ địch. Mệnh lệnh khiến cho thủ quân Thanh Châu thở phào nhẹ nhõm. Lúc dã chiến, khí thế hung tợn không sợ chết của Bạch Y Quân, thiết kỵ xông pha uy phong lẫm liệt, thật sự là khiến họ sợ quá rồi.

Bọn Bạch Y đạo có thể vì cướp một bịch bắp, cậy một cái răng vàng, cưỡng hiếp một người phụ nữ mà lâm trận giết người. Tuy nói nhận lương đi lính thì phải lên chiến trường, nhưng muốn y tác chiến với một đám vong mệnh đồ, trong lòng thật sự là rất sợ. Giống như bây giờ...

Vó ngựa rầm rập như sấm tới, các quan binh đều căng thẳng lên. Họ vội vã chạy vào hai bên đường nấp, rồi cầm súng và cung lên. "Lưu Đại Bổng Chùy cầm cây thiết côn đen thui liếc họ một cái, hừ một tiếng khinh bỉ. Gã vừa gặm một cọng cỏ trong miệng, vừa ung dung đi lên trên sườn dốc, để tiện quan sát tình hình kẻ địch.

Trước mặt có đặt chướng ngại vật trên nửa dặm đường, toàn là chông, gai, bẫy, chặn... Bạch Y đạo có xông qua đây, trước hết phải hóa giải hết những thứ này đã. Quan binh không ngừng bắn tên quấy nhiễu, muốn hóa giải hết đâu phải chuyện dễ? Bọn chúng còn ở xa, thiệt tình, lo cái gì?

Nhưng sự khinh bỉ của Lưu Đại Bổng Chùy lập tức biến thành sự kinh ngạc.

Miệng gã càng mở càng lớn, cọng cỏ trong miệng dần dần nghiêng xuống:

- Má ơi, mấy người này điên hết rồi sao? Có đánh trận kiểu này nữa sao? Cái này, vong mệnh đồ cũng không liều mạng đến thê chứ!

Bụi gai, trực tiếp xông qua, không hề lo lắng tới sự tổn thương đối với vó ngựa và chân ngựa. Hàng chắn, xông qua luôn, bị chúng đá tới nghiêng bên này ngả bên kia. Rất nhiều Bạch Y đạo bị văng ra khỏi ngựa khi chúng đang liều mạng phi

nhanh mà không hề dể ý, cuối cùng họ bị chà đạp đền nỗi chỉ còn đống thịt nhão nhét.

Cự Mã Thương, chính giữa có một cái trục hình tròn, một đầu được chôn dưới đất, là một thanh gỗ lớn khoảng một cánh tay dài khoảng hai trượng, đầu thương nhọn hoắt nghiêng nghiêng chỉ lên không trung. Đám ngựa đang bôn đằng một cách điên cuồng cứ như là không nhìn thấy vậy, mặc cho kỵ sĩ trên ngựa ra sức kéo cương tới cỡ nào, chúng vẫn cứ lao đầu lên trước. Mũi thương nhọn hoắt đâm thẳng vào lồng ngực của ngựa, rồi đầu kia xiên từ lưng ra, những kỵ sĩ không kịp nhảy ngựa bị dâm thẳng vào bụng, cả người lẫn ngựa đều bị xiên chặt vào nhau.

Khu vực hố lấp ngựa cũng một cảnh tượng người đổ ngựa ngã. Chân ngựa bị bẻ gãy một cách dễ dàng, chiến ngựa bị thương và đám cướp bị té ngã hay bị đè đều lăn lộn dưới đất một cách đau khổ. Nhưng chúng cũng chẳng đau khổ được bao lâu, vì phía sau liên tục không ngừng có kỵ sĩ lại xông tới, đạp chúng dưới chân. Bọn chúng ngang nhiên dùng mấy trăm, thậm chí mấy ngàn nhân mạng lấp thành một con đường trong nháy mắt.

Dây cung trong tay quan binh phát ra âm thanh, rồi mũi tên bắn sà xuống như mưa. Bọn cướp kẹp chặt thân ngựa để không bị hất xuống, cơ bản là không tài nào phản kích. Người có thân thủ cao minh còn có thể ẩn thân, còn người thân thủ kém thì chỉ còn nước trơ mắt nhìn mình bị bắn chết.

Chưa từng gặp qua cách đánh trận kì lạ như thế bao giờ, cũng chưa từng giết người mà nhanh gọn như cắt rau cắt thịt như thế. Một số binh sĩ thậm chí còn giết đến mỏi cả tay. Tình hình như thế cùng lúc diễn ra trên các đường giao thông yếu đạo.

Người của Du kích Tân đã không còn có thể vung đao chém người được nữa, một số thanh đao còn cong cả lưỡi đao. Người ngựa chen chúc, tốc độ ngày càng nhanh, bất cẩn một cái là sẽ ngã ngựa chìm trong dòng "nước lũ". Họ chỉ đành thu đao, khống chế gắt gao chiến mã của mình. Quan binh và thổ phỉ cùng chung một con đường, cả hai bên đều nhìn thấy nhau, nhưng không ai có thời gian vung đao. Quân chủ lực của Bạch Y quân kèm cặp, hỗ trợ nhau, xông thẳng ra Thái Bình Trang.

Phía trước đầy mùi máu tanh, cũng không biết đã hi sinh hết bao nhiêu thương vong, mới mở ra một con đường như thế. Vó ngựa đạp lên vũng máu, đống thịt nát bấy, phát ra âm thanh nghe rất kì lạ.

Xông ra Thái Bình Trang rồi, đại đội binh mã chạy thoát tứ phương, lại chạy thêm khoảng hơn hai mươi dặm nữa, những con ngữa điên mới dần bình tĩnh lại. Du kích Tân và thuộc hạ do đã nhét đồ vào tai ngựa từ trước, nên họ là những người đầu tiên khống chế được chiến mã. Họ vừa khống chế được chiến mã lập tức tập họp một cách có ý thức trong lúc chạy. Khi nhân mã của Bạch Y Quân cuối cùng cũng bình tĩnh trở lại, thì người của Du kích Tân cũng đã tập hợp hoàn tất.

Bọn họ cởi áo giáp ra, ca người đầy mồ hôi, trông nhếch nhác vô cùng. Số binh sĩ chết trong lúc xông vào doanh trại kẻ địch và bị chèn ép trong lúc chạy nạn là hai trăm người, còn lại khoảng hai ngàn tám trăm người xếp thành đội hình tấn công, Du kích Tân hô một tiếng ra lệnh thì ngay lập tức tấn công Bạch Y Quân vừa mới bình tĩnh trở lại.

Trận hình của Bạch Y Quân rối loạn, có người còn chưa hoàn hồn, thì bị thiết kỵ của Du kích Tân tấn công, chém giết cả một đám tản kỵ du dũng không hề biết phối hợp là gì. Sau đó, lợi dụng địa hình rộng lớn, Bạch Y Quân hoàn hồn trở lại và bắt đầu tổ chức phản công. Bốn phương tám phía đều là binh sĩ chạy thoát ra ngoài của Bạch Y Quân, chúng đều vội vã tập trung về nơi vang lên tiếng giết rung trời này.

Trải nghiệm chết chóc cực độ, khiến cho những binh sĩ sau sự kinh hãi cực độ nảy sinh một sự dũng cảm bệnh hoạn. Người của Du kích Tân lợi dụng ưu thế bình tĩnh và điều chỉnh đội hình trước, thúc ngựa xông lên như con hổ thoát khỏi chuồng, liều mình chém giết. Lợi dụng cơ hội số người của họ ít, mà Bạch Y Quân thì nhất thời không thể tập họp thành đội hình tấn công hiệu quả, giết hết bên này tới bên kia trong vòng vây của chúng.

Bọn họ dụ đám Bạch Y Quân đang phát cuồng đuổi theo chạy về một hướng, sau đó lại đột nhiên vòng ngược lại, với ý đồ "khuấy đục nước dễ bắt cá". Rồi Du kích Tân nhắm chắc cơ hội, nhảy ra khỏi vòng vây của Bạch Y Quân, nhanh chóng thúc ngựa xông về phía đông nam. Đội ngũ của Bạch Y Quân rất thưa thớt, dù sao mục đích quấy nhiễu Bạch Y Quân cũng đã đạt được rồi, bây giờ chúng mới là đối tượng săn mồi của quan binh, không cần thiết chỉ dùng hơn hai ngàn người này quyết đấu trong vòng vây của kẻ địch.

Y tính rằng đội kỵ binh xông ra đây cùng quân chủ lực này có khoảng ba vạn người. Theo kinh nghiệm chiến đấu của y, Bạch Y Quân chạy thoát mạng trên những con đường khác vốn đã ít, có thể sống sót mà thoát khỏi vòng vây lại càng ít hơn, tổng số người chắc cũng khoảng hơn một vạn. Nói cách khác, mười vạn Bạch Y Quân thí có ít nhất sáu vạn chôn thân dưới thành Thái An. Con số này có thể xem như đại thắng, toàn thắng rồi.

Kỵ binh tinh nhuệ của Ngoại tứ gia quân đều luôn chú ý đến động tĩnh của chủ soái, thấy y vung đao thúc ngựa phi về hướng đông nam, liền lập tức đi theo, xếp thành hình tam giác quật ngựa đuổi theo. Tản kị du dũng của Bạch Y Quân ở hướng đông nam không nhiều, thấy sắp không thể ngăn cản được thế công của họ, thì đột nhiên phía sau vang lên tiếng rống như sấm rền của ai đó. Mấy chục kỵ sĩ điên cuồng chạy tới, người dẫn đầu mặc áo choàng trắng bay phấp phới trong gió, ánh mắt hung hãn như mãnh thú, sát khí đầy mặt như con mãnh hổ sẵn sang xé xác người.

Y không ngừng hò hét, không ngừng quật ngựa. Trong tiếng hí dài của chiến mã, y đã đuổi kịp kị binh của Du kích Tân. Trong một tiếng quát dữ dội, cây trường thương trên tay phải y cứ như là cái lưỡi của con rắn độc, ung dung đâm tới.

Một kỵ binh đứng gần đó nhất lập tức giật ngựa vung đao, chém từ bên hông qua. Một tiếng "keng" chói tai vang lên. Y vốn đã né qua đầu thương, chém vào giữa thân của cây thương, nhưng không biết tại sao lại vừa chém đúng vào đầu cây thương. Cánh tay chấn động mã đao lại vung lên lần nữa, và để lại phần ngực không có gì bảo vệ. Cây trường thương vừa rụt lại vừa duỗi ra, và đâm thẳng vào tim của y, xuyên qua cả lớp giáp da.

Đầu thương nhọn hoắt chưa kịp nhỏ máu xuống, đại hán cầm thương ấy rống một tiếng, chỉ dùng một cánh tay, nâng người đó lên khỏi ngựa. Sau đó, hai tay nắm cán thương, xoay vòng như bánh xe, quẳng xác của người kỵ sĩ cường tráng ấy đi thật xa, rồi hai chân điều khiển ngựa, hai tay cầm thương, tiến thẳng về phía tướng quân Tân Quý Hỉ.

Du kích Tân tận mắt chứng kiến cái chết thê thảm của đồng đội mình, không khỏi trừng lớn con mắt, giật cương thắng ngựa, đột hiên quay đầu ngựa, tay cầm trảm mã đao có lưỡi đao hơi cong, cũng xông về phía đại hán đó.

Vó ngựa rầm rập liên tục, cả hai đều là tướng thiện chiến trên ngựa, lợi dụng và phát huy triệt để đà chạy của chiến mã. Một thương, một đao, chỉ tới khi giao chiến hai người mới đột nhiên bộc phát ra tiếng rống lớn. Khí thế của chiêu này quả thật kinh thiên động địa, mạnh như quả núi; lại mượn lực đạo to lớn khi chiến mã xing

kích và lực eo của bản thân, và quan trọng nhất, là người ngựa hợp nhất. Đây là sự dung hợp hoàn mỹ giữa kĩ thuật cưỡi ngựa và võ công, sức mạnh được sử dụng khéo léo đến đỉnh điểm.

Ánh đao như lụa, thương múa như rồng. "Keng" một tiếng, thương đoạn đao vỡ. Hai con chiến mã chạy gần nhau, thanh gỗ dài khoảng ba tấc còn lại trong tay cảu bạch y nhân, "vút" một tiếng xoay ngược lại, đâm ngay hộ tâm kính sau lưng Du kích Tân. Du kích Tân phun ra một ngụm máu đỏ tươi.

Một bạch y nhân khác thúc ngựa chạy về phía này, từ xa gọi với tới:

- Hổ ca, thương này!

Một cán trường thương bay tới.

- Hổ ca? Người này chính là Dương Hổ!

Du kích Tân nắm chặt yên ngựa, thúc ngựa quay đầu, mắt thấy mây đen đầy trời, trong đó một cái bóng trắng phi nhanh đến, cây trường thương trong tay chuyển động như bay, vì tốc độ quá nhanh nên đầu thương phát ra tiếng xé không khí vô cùng chói tai.

- Tướng quân cẩn thận!

Vài binh sĩ thúc ngựa chạy tới, né con chiến mã chạy bán sống bán chết của Du kích Tân, mã đao dựng đứng như núi, chém thẳng xuống đỉnh đầu Dương Hổ.

Dương Hổ hét lớn một tiếng, trường thương xoay một vòng trong không trung, mấy cây mã đao bị đầu thương hất đi chỗ khác, sau đó đầu thương như lưỡi con rắn độc đâm thẳng vào ngực của ba kị sĩ, máu phun tung tóe.

Một năm luyện đao, mười năm luyện kiếm, trăm năm luyện thành một cây thương. Dùng thương một cách thành thạo nhuần nhuyễn là khó nhất. Nhưng thương pháp của Dương Hổ quả thật xuất thần nhập hóa, đã tới cực đỉnh. Tiếng thương rất lớn, khiến người ta sợ từ đáy lòng. Cây trường thương trong tay Dương Hổ rất mãnh liệt, có địch không ta, rất ư là uy phong.

- Đừng luyến chiến, chạy đi!

Du kích Tân miễn cưỡng nén ngụm máu sắp phun ra xuống, hét lên một câu. Dương Hổ có dũng mạnh thế nào, thì cũng chỉ có một người, nhưng nếu dây dưa với hắn lâu quá, khi Bạch Y quân ở tứ phía tập họp lại rồi thì muốn chạy cũng không kịp.

Những kỵ sĩ vây đánh Dương Hổ dều bị Dương Hổ đông đỡ tây kích, chẳng mấy chốc đã bị giết chết, chỉ có một người để lại một nhát chém trên tay của y. Nhân cơ hội này, Du kích Tân và những người khác đã chạy xa được hơn hai mươi trượng. Dương Hổ rất hận đám quan binh đã phá hủy đại quân của y, lập tức đuổi theo không tha.

Phía sau có một kỵ binh phi nhanh tới, vừa chạy vừa gọi:

- Hổ ca, quan trọng nhất là tập họp đại quân, nhanh chóng thoát hiểm, đừng

đuổi theo nữa!

Dương Hổ cắn chặt răng, không thèm nghe lời, đôi mắt đỏ lên vì giận dữ chằm chằm nhìn đám quan binh đang bỏ chạy phía trước không thôi. Mộc Vân thấy y không nghe, vừa tức giận vừa không ngừng quật roi đuổi theo. Hai người khó khăn lắm mới gần đuổi kịp, thì Du kích Tân và mấy quan binh phía trước đột nhiên liên tiếp ném cái gì đó ra.

- Hổ ca cẩn thận, có ám...

Mộc Vân nói được nửa chừng thì đột đột nhiên ngưng bặt:

- Ném xuống đất rồi là sao đả thương người? "Ràm, rầm, bùm... bùm...

Tiếng nổ không hề mãnh liệt, nhưng đáng sợ là tiếng xé gió chói tai phát ra từ bốn phương tám hướng. Cho dù có người dùng chiêu "Mạn thiên hoa vũ" phát ám khí, cũng không thể có phãm vi sát thương rộng đến thế được, sức mạnh cũng không lớn như thế.

Cả hai người thất kinh, một người dùng đao, một người múa thương, đợ hết những gì bắn tới từ phía trước. Con ngựa của Dương Hổ thì bị vô số châm sắt mảnh sắt bắn trúng, đau tới la hét điên cuồng. Trong lúc chiến mã nhảy lên nhảy xuống, Dương Hổ chỉ cảm thấy phía mắt trái nhạt nhòa không thấy gì, lấy tay lau thì thấy toàn là máu, lúc này y mới cảm nhận được cơn đau thấu tim này.

Dương Hổ vừa kinh vừa giận, hai tay cầm thương ngửa mặt lên trời hét một tiếng điên cuồng:

- A....!

Rồi hai cánh tay dùng sức, "rắc" một tiếng, không ngờ y chỉ dùng hai tay mà làm cán thương đó gãy đôi ra. Cơ bắp hai cánh tay của Dương Hổ gồng lên, đâm mạnh xuống, hai cán thương gãy đâm sâu vào lưng ngựa. Chiến mã chịu đau, phi về trước ba bước, rồi ngã rầm xuống đất.

Mộc Vân thấy Dương Hổ thần uy đến thế. Dù Sở Bá vương có tái thế, chắc cũng chỉ dũng mạnh như thế. Y không khỏi thầm kinh hãi, vội vã nhảy xuống ngựa, chạy tới đỡ Dương Hổ dậy:

- Hổ ca...

Dương Hổ nhìn y với khuôn mặt nhăn nhúm vì giận dữ và một con mắt máu chảy thịt nát, run giọng nói:

- Ta... mắt của ta...

- Núi xanh còn đó, không sợ không có củi đốt. Hổ ca, quân tử báo thù mười năm chưa muộn. Bây giờ quan trọng nhất là quay về chỉnh đốn quân đội, thoát ly hiểm địa. Món nợ này, chúng ta sớm muộn cũng sẽ đòi lại! Nhanh lên, nếu còn không đi, đến khi quan binh vây đánh, với sĩ khí của chúng ta hiện giờ, không thể chiến đấu được đâu.

Dương Hổ đờ đẫn mặc cho gã giúp y sơ cứu, đờ đẫn mặc gã đỡ quay về, đờ đẫn mặc gã đỡ lên chiến mã. Mộc Vân lên ngựa, cao giọng nói:

- Nhanh, lập tức tập họp quân đội, tăng tốc tới Mã gia phụ, nơi đây không thể ở lại lâu hơn nữa.

Tàn binh Dương Hổ không kịp kiểm kê, liền vội vã leo lên ngựa bỏ chạy. Mộc Vân cưỡi trên ngựa, nhìn đại quân thất bại thảm hại này khẽ thở dài một cái. Khi thắng trận thì khí thế ngút trời, khi bại trận thì như thế này, khó trách phụ thân không hề đồng ý với kế hoạch chiếm cứ Sơn Đông, bắc áp Kinh Sư của y. Đội quân của Dương Hổ chỉ có thể kiêu ngạo nhất thời, nói gì đi nữa đây cũng chỉ là một đám ô hợp mà thôi.

Y cảm thấy bụng mình hơi mát mát, khẽ cúi đầu nhìn, đột nhiên ngẩn người.

Bụng y đã nhuốm hết màu đỏ. Máu chảy nhiều thế này từ khi nào thế này? Là máu của người khác sao? Nhưng ta đâu có đích thân giao chiến với địch.

Mộc Vân đưa tay ấn nhẹ bụng mình, hơi hơi thấy đau. Trên áo bào không thấy

có vết rách nào. Y đột nhiên thấy hoang mang, vội cởi áo bào ra, lau hết vết máu trên bụng, nhưng tìm nửa ngày rồi vẫn không thấy vết thương đâu, đưa tay sờ nhẹ, mới tìm thấy một chỗ khá đau. Mộc Vân thở phào một cái, xem ra là y bị thứ tạp vật nào đó trong hỏa khí kì lạ đó của đám quan binh bắn trúng, xem ra cũng không nghiêm trọng.

Y thở dài một cái, thầm nghĩ:

- Xem ra, chỉ đành theo kế hoạch của phụ thân thôi. Dẫn Dương Hổ quân tụ hội với Lưu Lục và Lưu Thất cùng nhau xuống Giang Nam, tạo thanh thế lớn cho Di Lặc Giáo ta khởi nghĩa. Lúc đại sự thành rồi, Lý Thế Hào ta chính là đệ nhất công thần trước mặt phụ thân. Còn Dương Hổ...

Lý Đại Lễ giả danh Mộc Vân lạnh lùng nhìn bóng lưng của Dương Hổ:

- Đợi tới lúc những chuyện cần ngươi giúp làm hết, người của ngươi chắc cũng gần chết hết rồi. Lúc đó xem ngươi thế nào?

Bạch Y quân công thành chiếm đất ở Sơn Đông, không gì cản nổi, và đang ngày càng kiêu căng cuối cùng cũng hứng chịu đả kích nghiêm trọng: Một trận chiến binh bại. Quan binh xung quanh thành Thái An tứ diện giáp công, đặt nhiều cạm bẫy. Đại quân phi ngựa giết qua giết lại, mãi cho đến lúc xác người khắp nơi, máu chảy thành song. Bạch Y Quân tháo chạy tán loạn.

Đại quân Dương Hổ tháo chạy về phía tây nam, trên đường không ngừng có quan binh mai phục. Một cây cầu, vừa mới có mười mấy con ngựa đi lên, thì lập tức rầm một cái rớt hết xuống song. Một con đường núi, thì đột nhiên có mưa tên tập kích từ trong rừng. Khó khăn lắm ra tới đường lớn, đại quân định tăng tốc, nhưng không ngờ ngựa vừa nhảy lên, thì đạp trúng thạch lôi mà quan binh mai phục, nổ cho người đổ ngựa ngã.

Điều khiến Bạch Y Quân kinh sợ nhất, chính là loại Thiên Lôi có tiếng nổ không lớn, nhưng miếng sắt móc sắt mánh liệt bắn ra tứ tung. Một khi nó phát nổ, ít nhất cũng mười mấy huynh đệ bị thương. Người chết rồi thì không nói, thê thảm nhất là những người chưa chết, người thì phá tướng, người thì tàn phế, liên lụy tới

tốc độ hành quân không nói, còn khiến cho sĩ khí thấp tới cực hạn.

Đã bắt đầu có binh sĩ nhân lúc trời tối lặng lẽ bỏ chạy, Bạch Y quân từng rất ngạo mạn bây giờ chỉ như con chim thấy cung gặp cành cong cũng phát sợ. Quan binh vốn không hề để chúng có cơ hội chỉnh đốn quân ngũ, nghỉ ngơi chiến đấu tiếp.

Quan phủ dọc đường thiết lập những đội quân nhỏ ngăn chặn, tạo áp lực to lớn cho bọn chúng từ trên tâm lý, khiến cho sĩ khí ngày càng thấp. Vả lại không được nghỉ ngơi, đại quân vô cùng mệt mỏi, còn bị gần ba vạn kỵ binh của toàn tỉnh Sơn Đông theo đuôi, đảm bảo chúng không thể dừng lại kiếm chuyện với quan phủ địa phương, không thể đả kích báo thù cướp tiền của. Chúng chỉ có thể chạy, không ngừng chạy.

Vị du kích tướng quân từng bị Dương Hổ hắn đánh tới thổ huyết trong vòng một hiệp, nhậm chức chỉ huy kỵ quân. Chỉ huy kỵ quân phân tiến, hợp kích, đuổi địch, truy sát, bao vây. Tài dẫn binh đánh trận cao hơn gã đâu chỉ một phân nửa phân. Dưới tình trạng phía trước có mai phục, phía sau có truy binh, mười vạn Bạch Y quân tổn binh thất tướng, chạy bán sống bán chết ra khỏi Sơn Đông, hợp quân với Lưu Lục và Lưu Thất thẳng về Giang Nam. Chiến cục đột nhiên thay đổi đột ngột.

Mi lộc có ở Trung Nguyên, người ham muốn ắt có mưu đồ. Có người xua đuổi nó đi theo con đường mình định sẵn, người lập sẵn cái bẫy chờ đợi nó tự mình nhảy vào.

Dương Lăng trông có vẻ không hề tham gia trò đuổi hươu này. Hắn ở lại Sơn Đông thanh trừ nhánh tàn quân của Đậu Hủ Lang. Đậu Hủ Lang là chủ soái hậu quân của Bạch Y Quân. Lúc đàn ngựa trong doanh trại nổi điên, y xông ra ngoài từ con đường Từ Gia Lâu. Sau đó tìm kiếm tập hợp tàn binh bại tướng ở các nơi, được khoảng tám ngàn người, định giết về Thanh Châu, quay về núi Thái Hành Sơn.

Dương Lăng vừa truy diệt nhân mã của y, vừa trấn an lưu dân trên toàn cảnh Sơn Đông, giảm thuế miễn lương, thanh toán những người thừa loạn ăn cướp làm hại bá tánh, thanh lý vấn đề sản quyền không rõ ràng, tranh chấp ruộng đất do chiến tranh, tổ chức quan phủ bố thí cháo, kho1ch lệ lưu dân hồi phục công việc. Quan

phủ phân phát thức ăn, nhà cửa vân vân.

Sau chiến tranh, nếu không cứu viện kịp thời, lưu dân ắt sẽ tái khởi chiến loạn.

Dương Lăng một nhát đao một cây bút, vừa chặt cỏ, vừa nhổ gốc.

Hồ Thanh Hải lúc này cũng xông vào một con hươu. Các thế lực quan hệ phức tạp chằng chịt ở khắp các nơi trên Thanh Hải: Thát Đát, Ngõa Lạt, Cáp Mật, đều đang lặng lẽ quan sát tình hình Trung Nguyên. Đồng thời, cũng tập trung chú ý đến chỗ đó. Sự lưu chuyển biến hóa của bố cục thiên hạ, đang lặng lẽ bắt đầu.

- oOo- -

Bờ hồ xanh biếc gợn sóng, mái đình giữa lòng hồ ngói xanh cột đỏ, bốn góc mái nhọn cong vút lên, tựa như một con chim én đang chuẩn bị bay vút lên trời. Chủ điện to lớn nguy nga, có tiền đường, chiếu bích, hồi lang, trung đường, hoa viên trong tứ hợp viện, hậu đường, vườn hoa phía sau, vườn phụ, phòng ốc kề nhau san sát, vườn uyển uốn lượn, thật đẹp đẽ hào hoa vô cùng.

Trước cửa là một tảng đá xanh to lớn, phẳng lì. Bên dưới đó có cống thoát nước, thông thẳng ra đến con kênh cách cổng trước của phủ Uy Quốc Công không xa. Có một cây cầu bắc qua con kênh đó, nối liền hai tòa phủ đệ với nhau. Với một tòa am đường mà nói thì sử dụng hán bạch ngọc để làm kiến trúc cơ bản; sử dụng một tấm bia cửa cao đến hàng trượng thì chỉ e là có phần quá phô trương. Nhưng Ngụy Bân Ngụy Công công đã nói qua rồi, đây đều là những nguyên vật liệu gỡ ra từ Huyền Minh Cung để mang tới đây, cũng đâu thể đập nát ra làm thành từng món nhỏ được, hao tiền hao sức của nhân dân từ đâu mà thành đây?

Ngụy Công công, một trong bát hổ của năm nào, giờ đây lại biết lo cho dân cho nước như vậy thì Dương Lăng còn gì để nói cơ chứ? Chỉ đành mặc kệ ông ta muốn làm gì thì làm. Trước cửa Hoàng am là một con sư tử đá cao to vô cùng, cũng là được mang từ Huyền Minh Cung tới đặt ở đây. Nếu như cưỡi trên lưng ngựa mà nhìn thì còn không thể nhìn thấy cái bờm của nó đâu, vì cái bệ để đặt nó quả thật quá cao lớn.

Tòa Hoàng am này vẫn chưa thi công xong, vẫn còn nhìn thấy đám thợ làm công đang ra ra vào vào vận chuyển đồ đạc. Dưới gốc cây bạch quả nghìn năm tuổi mới được đem từ nơi khác về trồng ở bên cạnh cửa có ba người đang ngồi ở đó, bên cạnh có đặt một chiếc bàn, trên bàn có ấm trà và bát để uống. Ba người đó đều mặc áo vải xanh bình thường, ngồi trên chiếc ghế nhỏ vừa uống trà vừa nói chuyện.

Nhìn bộ dạng của họ thì chắc có lẽ là đám đốc công.

Những người thợ làm ở đây đều phụ trách những phần công việc khác nhau. Người thì phụ trách lầu đình, người thì phụ trách điện vũ, người thì phụ trách giả sơn, người thì phụ trách chăm sóc hoa cỏ, mỗi người một phần công việc khác nhau. Vì vậy nên đám thợ không biết ba người đó cũng không có gì là lạ. Nhưng khi đi ngang qua mặt bọn họ thì ai nấy đều cố gắng tỏ ra vẻ đang làm hết sức.

Ba người đó, một lão nhân tóc bạc và để râu, gương mặt nhân từ thân thiện; một công tử trẻ tuổi, mũi cao miệng rộng, đôi mắt sáng tựa như sao; còn có một người trắng trẻo nõn nà, gương mặt tuy không cười mà như cũng đang có ý tươi vui, tuy đã ngoài năm mươi tuổi nhưng dưới cằm không có đến một sợi râu, xem dáng vẻ tựa như một và lão nhân từ.

Một người đàn ông rách rưới nghèo đói đi quanh quẩn ở đó một hồi, sau cùng mới lấy hết dũng khí tiến lại gần chỗ ba người đó, cười nói:

- Ba vị lão gia, ở đây... có còn tuyển thêm thợ không?

Gã nhìn thấy người đàn ông không có râu trông dáng vẻ hiền lành nhất nên khi nói chỉ hướng về phía người đó. Không ngờ rằng lão nhân xem ra vô cùng thân thiện và không có râu đó tức thì sa sầm mặt, đanh giọng nói:

- Ừm! Ở đây sắp hoàn thiện rồi, không còn cần thêm thợ nữa.

- Ồ ồ, cảm ơn lão gia!

Đôi vai của người đàn ông đó trùng xuống, đáp lại một cách thất vọng.

Gã đang tính quay người bước đi thì chàng công tử trẻ tuổi đột nhiên cười nói:

- Nhị ca, huynh là người Sơn Đông?

Người Sơn Đông khi gặp mặt nhau, nếu là người đàn ông không quen thì sẽ không như những tỉnh khác gọi là đại ca, bọn họ sẽ gọi là nhị ca. Nghe nói đó là vì ở Sơn Đông có hai đại nhân vật nổi tiếng khắp vùng, một văn một võ, hai người đó

đều xếp thứ hai trong gia đình. Hai đại nhân vật đó đương nhiên là Khổng phu tử và Võ Tòng.

Gã đàn ông nghèo đói đó thấy chàng công tử gọi mình là nhị ca thì bất giác thấy vui mừng và kinh ngạc lắm, lại cứ ngỡ là đồng hương Sơn Đông bèn vội vàng cười đáp lại:

- Vâng, tôi là người Sơn Đông.

Nói đoạn trong ánh mắt của gã lại gợi lên những tia hy vọng. Mong rằng chàng công tử này nể tình đồng hương mà sắp xếp cho gã một vị trí nào đó.

- Ồ... ở vùng nào Sơn Đông vậy?

- Liêu thành, Đông Xương phủ.

- Là Liêu thành sao, hà hà, mời ngồi, ngồi xuống cùng nói chuyện. Gã đàn ông nghèo đó không dám ngồi xuống, cười nói:

- Không dám, tôi đứng hầu chuyện cùng công tử và các vị lão gia là được rồi.

Chàng công tử trẻ tuổi đó cũng không miễn cưỡng gã, mỉm cười và nói chuyện với gã một hồi lâu. Hóa ra tổ tiên của người này là người vùng Sơn Tây, thời Thái tổ mới di dân đến Sơn Đông.

Công tử đó cười nói:

- Ha ha, nếu như không có Hồ Đại Hải và đám nhạn bay về hướng Đông thì nhị ca huynh chắc là vẫn ở quê cũ Sơn Tây thôi phải không.

Gã đó nghe xong cũng vui vẻ cười đáp lại:

- Thì đúng là như vậy mà, nói vật thì chắc công tử ngài cũng cũng là đồng hương với tiểu nhân chăng?

Chàng công tử mặc áo xanh đó chỉ cười không nói gì.

Vậy ra năm xưa đã có biết bao nhiêu di dân Sơn Tây ngậm ngùi bỏ quê hương bản quán, bị ép buộc phải rời đi, chính vì vậy nên đem lòng thù hận triều đình. Rõ ràng là vì chiến loạn khiến cho người chết không kể xiết, nhưng bách tính di dân lại đi thêu dệt thành một câu chuyện khác. Nói rằng thuộc hạ dưới trướng Chu Nguyên Chương có một đại tướng tên là Hồ Đại Hải, năm xưa khi phải đi hành khất ở Hà Nam vì bộ dạng xấu xí nên chẳng có mấy người đồng ý bố thí cho y, ngược lại còn phải chịu không ít những lời lăng nhục. Hồ Đại Hải ở Hà Nam đã phải chịu không biết bao nhiêu là khổ nhục, vậy nên trong lòng ôm hận.

Sau này y đầu quân cho Chu Nguyên Chương, liên tiếp lập công, trở thành một đại tướng quân. Sau khi Chu Nguyên Chương đăng cơ thì bèn phong thưởng cho các tướng lĩnh. Hồ Đại Hải chỉ xin được cho phép y quay về Hà Nam để báo thù.

Chu Nguyên Chương bèn hạ chỉ cho phép y về Hà Nam, trả thù mối thù xưa.

Khi Hồ Đại Hải đến Hà Nam thì nhìn thấy trên trời có một hàng nhạn chim nhạn bay ngang qua, trong đầu bèn nảy ra một ý nghĩ, y bắn một mũi tên vào đuôi chim nhạn để nó mang theo mũi tên mà bay đi, mũi tên đi tới đâu thì Hồ Đại Hải sẽ giết tới đó. Chim nhạn bay từ Hà Nam đến Sơn Đông, Hồ Đại Hải chém giết đốt phá dọc một dải Hà Nam đến Sơn Đông, khiến cho cả một vùng đó trở nên hoang tàn ngàn dặm, bách tính chẳng còn lấy một ai, triều đình mới buộc phải di dân đến Sơn Đông.

Bách tính muôn dân muốn mượn câu chuyện này để giải tỏa nỗi bất mãn trong lòng của họ đối với triều đình. Nhưng câu chuyện về những người di dân, Hồ Đại Hải và chim nhạn bay về hướng Đông đều là những chuyện đại kỵ. Tuy quan phủ không quá khắt khe với những câu chuyện truyền miệng như thế này, nhưng mọi người cũng chỉ dám truyền tai nhau chứ không có người nào dám công khai kể câu chuyện này ra. Hơn nữa câu chuyện này chỉ có những người bản địa Sơn Đông mới biết, vị công tử mặc áo xanh này ban nãy nói đùa với gã như vậy thì ắt hẳn cậu ta là đồng hương của gã rồi.

Gặp được đồng hương nơi đất khách quê người, cảm động nước mắt rưng rưng hai tròng. Gã đàn ông nghèo khó đó tức thì cũng trở nên thân thiện hơn, thái độ cũng trở nên tự nhiên hơn, gã thuận tay kéo một chiếc ghế nhỏ và ngồi xuống nói

chuyện vui vẻ với chàng công tử đó.

Khi Bạch Y Quân nổi loạn ở Sơn Đông, gã bèn dắt theo cả nhà lớn bé già trẻ trở về Sơn Tây. Nhưng tuy nói tổ phụ luôn nhắc đến địa danh đó, nhưng dù gì thì cũng đã rời đi hơn trăm năm rồi, giờ còn lấy đâu ra một người họ hàng thân thích cơ chứ? Không lẽ lại đi nương nhờ người khác sao? Hơn nữa Triệu Toại đang ở Sơn Tây, nơi đó cũng chẳng được yên ổn. Vậy nên cuối cùng thì gã đưa cả nhà vào Kinh.

Chàng công tử mặc áo xanh cười hỏi:

- Triệu Phong Tử nha, nghe nói y ở vùng Sơn Tây không hề công thành cướp trại, mà lại chạy trốn vào Trung Điều Sơn chiêu binh mãi mã, thật có chuyện đó sao?

- Đúng là như vậy. Triệu Phong Tử không lưu manh vô lại như đám Dương Hổ.

Y không đi các nơi càn quét cướp bóc, cũng không làm ra những chuyện đại loại như công thành phá trại, chém giết bừa bãi; lại cũng không dựa vào việc mở kho phát lương để thu hút nạn dân. Nghe nói y mở phủ xây nha môn ở trong núi sâu, luyện binh mãi võ, lại còn chiêu nạp lưu manh tứ xứ về trồng trọt. Nay Hồng Nương Tử cũng đã đầu quân về chỗ y.

- Bọn chúng ấy mà, nếu nói là thổ phỉ thì không giống thổ phỉ, còn nếu nói không phải là thổ phỉ thì lại chẳng có chút liên quan gì đến quan binh hết. Tiểu nhân cảm thấy bọn chúng hành động như vậy có cái gì đó không đúng nên mới không dám gia nhập.

Vị công tử đó cười hà hà rồi nói:

- Nhị ca, huynh làm như vậy là đúng rồi. Ừm... Kinh thành có quá nhiều người lưu lạc, muốn tìm được một công việc không phải là dễ. Tuy Sơn Đông đã ổn định

lại tình hình, nhưng vụ xuân năm nay đã gặp phải nạn giặc loạn Bạch Y Quân, từ sớm đã bỏ qua vụ mùa, nay người dân tha hương có quay trở về Sơn Đông thì nha môn cũng chưa chắc có nhiều lương thực như vậy để mà cứu tế.

- Vâng, công tử nói đúng lắm, nếu không phải vì thế thì sao tiểu nhân lại không quay về đó cơ chứ?

Gã đàn ông nghèo dứt lời, mặt mày buồn bã tiu nghỉu nói tiếp:

- Nhưng quay về không còn đường sống, ở lại Kinh thành cũng không tìm được công việc để làm, vợ con gia đình của tiểu nhân làm thế nào mà sống được đây?

- Để ta chỉ cho huynh một con đường sống, huynh thấy sao? Vị công tử đó trầm ngâm một lúc rồi nói:

- Nay triều đình đang khai phá Liêu Đông, xây dựng nông trại, có bao nhiêu người tham gia thì cần bấy nhiêu người. Nơi đó đất đai màu mỡ vô cùng, chỉ cần gieo hạt giống xuống là đến mùa thu có ngay một vụ bội thu. Rừng núi là nơi tốt nhất để nuôi dưỡng con người mà, nào những là gà rừng, hươu béo, thỏ rừng, đôi khi chỉ cần đi dạo trong bụi cỏ thôi cũng có thể bắt được cả một bầy ngay. Huynh ở lại Kinh thành đi làm công, kiếm được từng đó để ấm bụng, nhưng có thể nuôi được cả đời chăng? Theo ta thì nên đi tới vùng Quan Đông, chưa biết chừng còn có cơ đổi đời.

- Đi tới vùng Quan Đông?

Gã đàn ông nghèo tức thì do dự suy nghĩ.

Vị công tử đó khẽ thở dài một cái rồi nói tiếp:

- Nếu huynh chỉ có ý định đi làm công kiếm miếng ăn qua ngày thì kỳ thực có thể ở lại đây tiếp tục sống như vậy. Nhưng còn con cái của huynh thì sẽ ra sao?

Huynh định để cho bọn chúng sau này trưởng thành cũng đi theo con đường như cha chúng hay sao? Ở Liêu Đông trồng trọt, săn bắn, làm việc trong xưởng thuyền, nông trại, thậm chí là những công việc buôn bán nhỏ trong chợ đều được coi là

những công việc đàng hoàng. Cố gắng vài năm tích lũy cho con cái một sản nghiệp rồi dựng vợ gả chồng cho bọn chúng, sinh ra những đứa cháu bụ bẫm đáng yêu, như vậy có phải tốt biết bao nhiêu không?

Đó là nơi nhận được sự quan tâm của triều đình, đi tới đó sẽ được cấp nhà ở, cấp lương thực, hơn nữa huynh còn không phải tự lo lộ phí. Cổng thành phía Bắc đang dựng một cái trại "Tình nguyện đăng ký di dân", huynh tớ đó báo danh, quan gia sẽ sắp xếp thuyền bè đưa mọi người trong nhà huynh đi, dọc đường đi họ lo chu cấp thức ăn và chỗ ở. Huynh thấy sao?

Vì con cái, lý do này quả thật đã khiến cho gã phải rung động, suy nghĩ môt lát, gã tét đùi một cái quả quyết:

- Công tử nói đúng lắm. Tiểu nhân đã sống cuộc đời ăn mày cực khổ thì không để cho con cái của mình sau này cũng theo bước cha chúng được. Công tử ban nãy nói là ở cổng thành phía Bắc phải không? Tiểu nhân... có đến năm đứa con, chẳng hay nha môn có chịu nhận chúng tôi không?

Vị công tử đó nghe thấy thế buồn cười quá bèn đáp lại:

- Yên tâm đi, huynh chỉ cần đi báo danh là được rồi. Chút lương thực cho cả gia đình huynh triều đình vẫn có thể lo được. Nhưng đến nơi đó rồi thì tất cả phải dựa vào sức của mình lao động để mà có được. Muốn kiếm được tiền thì buộc phải chịu khổ.

Gã vỗ ngực kêu lên thành tiếng rồi cảm kích đáp lời:

- Xin công tử ngài yên tâm, tiểu nhân có sức khỏe và cũng không tiếc sức lực của mình. Giờ tiểu nhân sẽ đi báo danh, sau này nếu như tiểu nhân có cuộc sống tốt hơn thì cả đời này sẽ ghi nhớ ơn của công tử.

Chàng công tử nhìn theo bóng dáng gã đàn ông nghèo đang vội vội vàng vàng rời đi đó khẽ mỉm cười.

Những di dân đăng ký đi đến Nô Nhi Can Đô Chỉ Huy Sứ Ti lúc này đã vào đến

đất Hắc Long Giang.

Nô Nhi Can Đô Chỉ Huy Sứ Ti là vùng đất thuộc Hắc Long Giang mà triều đình Đại Minh trực tiếp quản lý, là nha môn cao nhất của lưu vực Ô Tô Lý Giang. Phạm vi thuộc địa bắt đầu từ sông Oát Nan (nay là sông Ngạc Nộn), phía Bắc tới tận bên ngoài Hưng Yên Lĩnh, phía Đông ra đến tận Đại Hải, phía Nam tiếp giáp với sông Đô Môn, Đông Bắc vượt hải mà có Khố Hiệt Đảo. Vùng đất đó là nơi sinh sống của các tộc người Mông Cổ, Nữ Chân, Cát Lý Mê, Khổ Di, Đạt Oát Nhĩ v.v... đa số đều đánh bắt cá để mưu sinh, đại bộ phận đều là thần dân của Đại Minh.

Chư vệ phương Bắc bị Nữ Chân tam bộ và Đóa Nhan Tam Vệ xâu xé. Vùng Nô Nhi Can bị Hải Tây Nữ Chân, Dã Nhân Nữ Chân và Thẩm Dương Vệ phân chia.

Thẩm Dương Vệ và Liêu Đông Vệ bị Kiến Châu Nữ Chân và Đóa Nham Tam Vệ tranh giành.

Hiện tại thế lực của những bộ lạc này đang ngày càng yếu đi, hơn nữa cũng chưa có mưu đồ phản Minh. Giữa các Vệ Sở với nhau vẫn chưa có sự liên hệ với nhau, chỉ cần bọn chúng liên kết lại với nhau thì thế lực sẽ càng ngày càng lớn mạnh hơn, từ đó sẽ sinh lòng tạo phản. Đến lúc đó thì vài đại quân doanh bám trụ tại đây ngay lập tức sẽ bị cô lập, bao vây và bị tiêu diệt.

Bước đầu tiên trong kế hoạch di dân của Dương Lăng chính là chuyển thật nhiều người Hán đến Nô Nhi Can Đô Ti, mảnh đất lùi về phía Bắc nhất của triều đình Đại Minh. Số lượng di dân người Hán ngày càng nhiều sẽ làm thay đổi được kết cấu dân tộc trong khu vực Nô Nhi Can Đô Ti, đồng thời cũng sẽ nâng cao một cách đáng kể sức ảnh hưởng của triều đình đối với vùng đất đó.

Hơn nữa Nô Nhi Can Đô Ti nằm sát cạnh Hải Tây Nữ Chân, là bộ tộc lạc hậu nhất trong số ba tộc Nữ Chân, bọn họ chỉ biết đến săn bắn và bắt cá. Những di dân người Hán biết làm ruộng, trồng trọt, để có thể đồng hóa được cuộc sồng bầy đàn nguyên thủy của các bộ tộc Nữ Chân này quả không phải là chuyện dễ dàng gì.

Một mẫu đất có thể thu hoạch được bao nhiêu lương thực? Một mẫu đồng cỏ có thể nuôi sống được bao nhiêu con bò con dê? Những người dân lạc hậu này không phải là những kẻ ngốc, bọn họ chỉ là không suy nghĩ quá nhiều, ngược lại chỉ cần

biết đến những món lợi thực tế mà thôi. Chỉ cần việc làm ruộng trồng trọt, chăn gia súc có thể mang đến cho họ nhiều lợi ích hơn thì dân tộc của những kỹ sĩ dũng mãnh thiện chiến bẩm sinh này trải qua hai thế hệ sau sẽ trở thành những người nông dân trung thành chất phác bậc nhất của triều đình Đại Minh.

Ở đây từ sớm đã có những người dân tha hương cầu thực tìm đủ mọi cách để đến được nơi này, còn đây là lần đầu tiên quan phủ tổ chức một cuộc di dân với quy mô lớn như vậy, sau này ắt hẳn những cuộc di dân như thế này sẽ liên tiếp diễn ra...

Trên dòng Hắc Long Giang khí thế hùng vĩ ngút trời này, có đến hơn mười đại thuyền đang ngược sóng ngược gió lướt như bay đến gần. Bên trái là đại bình nguyên rộng lớn ngút ngàn, gió thổi nhè nhẹ, dập dờn những thảm cỏ xanh trải dài một màu xanh ngắt như những con sóng. Bên phải là rừng đại ngàn nguyên thủy vô cùng cô tận.

Những cánh rừng nguyên thủy nhìn từ đằng xa tựa như những chiếc nấm màu xanh mọc lên trên đại bình nguyên rộng lớn, nhưng khi đến gần nhìn thì mới phát hiện ra rằng những gì nhìn thấy được đều là những cây cổ thụ khổng lồ cao hơn mười trượng, cây tùng, cây phong, cây bạch dương, cây sồi... mọc xen kẽ san sát bên cạnh nhau, có những cây phải cần đến sáu bảy người mới có thể ôm được trọn thân cây.

Khi thuyền dừng lại đôi lúc để cho những người trên thuyền lên bờ giải quyết vệ sinh cá nhân, bọn họ được đặt chân vào khu rừng nguyên thủy chưa từng có bất cứ một ai trước đó từng tới, khắp nơi tràn ngập những rau dại, tổ ong, bướm bay lượn vòng quanh, nấm, quả hạt dẻ, vô vàn các loại cây quả dại. Đôi lúc vô ý còn giẫm phải những tổ trứng của chim cút hoặc trứng gà rừng.

Ở đây có rất nhiều thú săn, điều khiến cho bọn họ cảm thấy thích thú nhất chính là những con hươu rừng, bọn chúng dường như chưa từng nhìn thấy người bao giờ. Nhìn thấy những sinh vật khác lạ ở trước mắt, bọn chúng không quay đầu chạy đi luôn mà cứ đứng ngây ra đó nhìn một cách lạ lẫm. Chỉ cần mang theo một quả hạt dẻ đi tới trước mặt bọn chúng là đã có thể tóm gọn được một con rồi. Đám hươu đó từ sau khi có con người đặt chân tới đã có thêm một biệt danh nữa đó là: Hươu ngốc. Nhiều năm sau có người đã dùng cái biệt danh đó để ám chỉ những người ngờ nghệch.

Những con cá lớn trong dòng sông này họ cũng chưa từng nhìn thấy bao giờ, những con cá màu xám, trên người có những đốm đỏ, chỉ cần mở miệng ra là đã nhìn thấy những chiến răng sắc nhọn, nhưng thịt của bọn chúng là có mùi vị vô cùng đặc trưng, rất tươi ngon. Người lái thuyền nói lại với bọn họ rằng đó là cá hồi, loài cá này chỉ ở đây mới có.

Khi thuyền đi đến giữa lòng sông thì cùng với những đợt sóng dữ cứ lao đến tới tấp đập vào mũi thuyền, khiến cho cả con thuyền lắc thật mạnh. Thuyền trưởng đã xuất hiện với một đôi chân trần, tựa như một con cua vậy. Ông ta giẫm lên boong tàu đã bạc màu vì bị phơi nắng, đôi vai lắc lư nghiêng ngả, lảo đảo đi về phía đầu tàu, quay phắt người lại, hướng về phía khoang thuyền hỏi lớn:

- Trên thuyền có người Sơn Đông không?

Liêu Đông Vệ là quản hạt thuộc tỉnh Sơn Đông, vậy nên từ sớm những người có thể vượt Liêu Đông để di cư ra bên ngoài đại bộ phận đều là người Sơn Đông. Lâu dần ở đây lưu truyền một câu chuyện kể rằng Hắc Long Giang trước kia có tên là Bạch Long Giang, trong lòng sông có một con bạch long tính khí hung bạo sinh sống ở đó. Sau này có một Long thần mới đến, đó chính là con rồng cụt đuôi mà một người dân Sơn Đông nhà họ Lý sinh ra. Nó đánh bại bạch long và biến nơi đây thành động phủ của mình, từ đó nơi này chuyển tên thành Hắc Long Giang.

Chính vì thế nên khi thuyền đi tới đây, bất luận trên thuyền có người Sơn Đông hay không đều phải gọi lớn một tiếng lên như vậy. Còn những người trên thuyền thì bất luận có phải là người Sơn Đông hay không thì đều phải đáp lại một câu "Đúng". Chỉ có như vậy thì con rồng cụt đuôi họ Lý đó mới biết được là có đồng hương đi qua đây, sẽ bảo vệ cho những người trên thuyền được thuận buồm xuôi gió, không lật thuyền. Đây chính là quy tắc trong nghề đi thuyền.

Những người trên thuyền đại bộ phận đều là người Sơn Đông, ngoài ra thì còn có cả người Hà Bắc, người Hà Nam, nhưng khi nghe thấy người lái đò hỏi như vậy thì tất cả bọn họ tuy giọng địa phương khác nhau nhưng đều không chút do dự đồng thanh trả lời:

- Có! Có tôi là người Sơn Đông!

Trên thuyền còn có vài vị hòa thượng, đạo sĩ và hai người giáo sĩ Tây Dương.

Tin tức Đại Minh xây dựng giáo đường Tây Dương ở trong Kinh sư đã nhanh chóng được thông báo đến sứ thần các nước, loan tìn đến cả Lã Tống, Đông Doanh, có rất nhiều giáo sĩ Tây Dương vui mừng tới Đại Minh. Hai vị này đều hùng dũng xung phong đi đến đại sa mạc phương Bắc để truyền đạo bố thí.

Lúc khởi hành đã hỏi như vậy một lần, đến lúc vào lòng sông lại hỏi một lần nữa, những người ở trên thuyền đã quen với quy tắc đó rồi. Mấy vị hòa thượng và đạo sĩ đều mỉm cười không nói gì. Hai vị hòa thượng mắt xanh tóc vàng cũng quả biết nhập gia tùy tục, thấy vậy bèn nói lên mấy tiếng ngọng ngịu kỳ quái:

- Chúng tôi cũng hệ, chúng tôi hệ người Sơn Đông.

Người lái đò tạm thời này chính là Bành tướng quân Bành Tiểu Dạng, gã trừng cái đôi mắt to lồi như mắt ếch lên nhìn, giận dữ lườm một cái sắc lạnh gia đình lớn bé già trẻ của những người di dân, trong lòng thầm nghĩ: Mẹ nó chứ, đều là lũ ăn no phởn rồi phải không, hét to như thế để làm gì? Chúng ông mày chết cũng là chết ở Sơn Đông nhà chúng mày!

Gã ta quay người thuận tay kéo mái che lên nhìn đăm đăm về phía trước, trong lòng nghĩ thầm: Nơi đây còn cách Khả Mộc Vệ bao xa nữa đây? Dương đại nhân cũng thật tàn nhẫn mà, ta chẳng qua cũng chỉ là bắn một quả đại pháo thôi mà, cũng đâu có gây ra đại loạn gì đâu, có nhất thiết phải đầy ta đi xa xôi như thế này, sung quân đến cái chốn này không?

Nhưng ta không đi cũng không được. Phụ thân coi trọng kính phục Dương đại nhân nhất mà, ta không nghe theo lời Dương đại nhân thì phụ thân không chừng lột da ta ra chứ chẳng chơi à? Binh Bị Đạo Phó Sứ kiêm Tổng Đoàn Luyện Sứ, hai cái chức vụ này sao có thể oai phong bằng lúc trước làm Tướng quân được cơ chứ.

Nhưng nghe nói rằng Thượng mã quản quân, Hạ mã quản dân. Ừm, quản cũng rộng đó chứ.

Nô Nhi Can Binh Bị Đạo không chỉ đơn thuần phụ trách việc chỉnh đốn sắp xếp quân bị. Đối với một khu bán quân sự như thế này thì nha môn của Binh Bị Đạo cũng phải phụ trách việc thu thuế, luyện tập quân đoàn, lương thực ngân tiền, thủy

lợi, đất ruộng, buôn bán muối trà, quản lý dịch trạm thậm chí còn có cả hình danh, gần gũi bình ổn các bộ tộc địa phương, đập tan các âm mưu phản loạn. Nô Nhi Can Binh Bị Đạo chức quan này không chỉ quản lý tất cả các quan văn thuộc phủ, châu, huyện, mà đồng thời còn có thể tiết chế các võ quan của các đô ti, thủ bị, thiên tổng, bả tổng.

Nơi đây chính là cơ cấu hành chính cấp một của Nô Nhi Can Đô Chỉ Huy Sứ và hơn một trăm người bán quân bán dân ở đây. Đô Chỉ Huy Sứ vừa quản lý quân sự vừa quản lý dân sự. Một trọng trách lớn như vậy Bành Tiểu Dạng đương nhiên là không thể hoàn thành được rồi. Gã chỉ là một phân tuần đạo dưới cấp của Binh Bị Đạo mà thôi, chủ yếu là tập luyện binh mã thủy lục quân và tập luyện quân đoàn di dân mà thôi.

Triều đình phái Thiêm Đô Ngự Sử của Đô Sát Viện là Mã Luân nhậm chức Nô Nhi Can Binh Bị Đạo, tăng thêm hàm Tuần Phủ, chủ yếu quản lý nhưng đại sự quan chính dân chính quan trọng. Lại Khoa Cấp Sự Trung Dương Thận được cử đi nhậm chức Binh Bị Đạo Phó Sứ, chủ yếu quản lý dân chính. Bành Tiểu Dạng và hai viên tham tướng mà Đông Bắc Vệ Sở đề cử chủ yếu quản lý quân chính.

Bành Tiểu Dạng thoắt một cái lao đến bên mạn thuyền, ngồi lên trên lan can phía đầu thuyền, hai chân đong đưa, bọt sóng bay vùn vụt qua chân, thi thoảng lại có mấy con cá lớn dài chừng hai ma mét kinh hãi nhảy vọt lên khỏi mặt nước.

Bạch Tiểu Dạng mặt mũi âu sầu ôm lấy lan can, gương mặt đen to của gã áp vào cây trụ gỗ nhẵn nhụi bị nắng chiếu đến nóng bỏng, thở dài đánh thượt một cái thật mạnh: Bảo ta làm thủy sư thì cũng đành, lại còn bắt phải quản kỵ binh, luyện bộ binh, đây chỉ là một đám nạn dân thôi mà, lại còn bắt phải luyện tập đến mức độ lên ngựa thiện chiến, xuống ngựa rành chuyện nhà nông. Haizz! Ở những nơi khác thì coi binh là dân để quản lý, còn Dương đại nhân thì mặc nhiên coi dân là binh để tập luyện, khó quá đi thôi... Ta... còn học cưỡi ngựa trước đã.

Nhớ đến cưỡi ngựa, Bành Tiểu Dạng thót tim sợ hãi: Nếu sớm biết thế này thì ta đã không đi cùng A Đức Ny đến Đức Châu, đều là do đám phụ nữ gây chuyện mà... đều là do đống pháo đốt đó gây chuyện mà!

Gã ôm lấy cột cờ, ngón tay gõ cồm cộp từng hồi, buồn bã nhìn về cánh rừng phía xa, vẻ mặt u sầu.

- Mọi người đều tứ phương đôn đáo tìm công việc để làm, nhưng chưa từng nghe thấy chuyện quan viên tự nguyện di dân. Xem ra quan phủ vẫn còn cần phải thắt chặt thêm việc tuyên truyền cho lão bách tính mới đúng.

Một lão nhân quắc thước gầy gò vừa vuốt râu vừa cười nói. Người này chính là trí sĩ cáo lão hồi hương, tên là Lý Đông Dương, Lý Đại học sĩ.

Thanh Y Công tử Dương Lăng cười khà khà đáp lại:

- Dân vô gia cư không có nơi ở cố định, có một số người biết tin hơi muộn, ngoại trừ quan phủ, phu xe chèo thuyền. Khắp các nơi đều có sắp xếp người đi tuyên truyền. Hôm nay không gặp ta thì những người đó sớm muộn gì cũng nghe phong thanh được tin tức thôi.

Lý Đông Dương gật gật đầu, hơi chau mày lại nói:

- Di dân kiến nghiệp là việc cần phải được duy trì trong một thời gian dài, rất lâu sau mới có thể thấy được kết quả, đồng thời đó là những thành quả ổn định, ưu việt và toàn diện, có liên quan đến cả quân, chính, kinh, văn v.v... tất cả các lĩnh vực. Tương ứng với các vấn đề gặp phải khi thực hiện kế hoạch di dân là cần phải kịp thời có những chính sách liên quan để giải quyết các vấn đề phát sinh. Trong khoảng thời gian ngắn sẽ không có vấn đề gì.

Hiện nhiệm vụ cấp bách vẫn là phải bình định được nạn giặc thổ phỉ làm loạn.

Triệu Toại khí thế đằng đằng tiến quân vào Sơn Tây nhưng lại tạo ra cái vỏ bọc muốn làm Sơn Đại Vương, án binh bất động, lại còn cho binh lính khai phá sơn điền. Theo ta thấy thì người này chí hướng không nhỏ đâu. Đám Lưu Lục, Lưu Thất, Dương Hổ hợp binh, ra khỏi Sơn Đông vào Hà Nam, tiến tới Hồ Quảng, rồi

đến Nam Trực Lệ, dọc đường đi đều là thói ăn cướp ăn hiếp của lũ thổ phỉ. Hiện tại áng chừng bọn chúng có đến năm vạn binh mã, số đó đều là thiên quân vạn mã rèn luyện mà thành, chiến lực có thể mạnh hơn mười vạn đại quân của Dương Hổ.

Nay triều đình đã thực hiện trao trách nhiệm cho từng nơi, từng vùng phải chịu trách nhiệm bảo vệ an toàn cho đất đai dân chúng của mình, không để cho bọn giặc thừa cơ lấn tới. Tuy bọn chúng không có một nơi cố định để xây dựng căn cứ nhưng nếu cứ tiếp diễn theo tình trạng như hiện giờ thì không biết sẽ còn bao nhiêu lão bách tính phải chịu cảnh khốn khổ lầm than. Chỉ cần bọn chúng vào được đến Trung Nguyên thì phạm vi để cho bọn chúng có thể vùng vẫy sẽ trở nên rộng lớn vô cùng. Quân binh triều đình có muốn truy kích tiêu diệt chỉ e là khó khăn không ít.

Dương Lăng gật đầu nói:

- Đại nhân nói phải lắm, bổn quan cũng muốn ra một đòn tiêu diệt sạch bọn chúng, nhưng đám giặc đó lại trốn tránh không đánh, đâu phải chúng ta muốn đánh là được đâu. Nhưng đội quân của bọn chúng có một nhược điểm lớn nhất đó là, quân lực và tướng lĩnh ở hai đầu đều có thực lực tương quan với nhau. Điều này thể hiện rằng giữa bọn chúng với nhau chỉ tồn tại mối quan hệ hợp tác cùng có lợi mà thôi, chứ không phải thực sự cùng sinh tử trên một chiến tuyến.

Bọn chúng chạy ngược chạy xuôi, lấy những thứ đánh cướp được để mà nuôi quân chiến đấu, ban đầu chúng thừa cơ nhân lúc triều đình không kịp trở tay mà hành động mới có được chút ít kết quả. Nhưng nay quân giặc đi đến bất cứ nơi đâu thì cũng đều vấp phải tình cảnh phòng thủ nghiêm ngặt, hoang vu sơ tàn, quân đội bảo vệ, truy binh theo sát, truy đuổi không ngừng. Bọn chúng không còn bất cứ một cánh quân nào được nghỉ ngơi dưỡng sức, liên tục phải chiến đấu trong một thời gian dài đã khiến cho bọn chúng đang ngày lao đến bờ vực diệt vong.

Dương Lăng nhìn thấy sự lo lắng trong cặp mày đang chau lại của Lý Đông Dương bèn an ủi mà nói:

- Một trận chiến đánh lưu động đằng đẵng vô đích như vậy thì cốt lõi là ở thực lực của nhau, không phải chỉ có thể dựa vào một hai viên tướng giỏi là có thể giải quyết được vấn đề. Vì bọn chúng không có được một mục tiêu cụ thể cho nên

chúng ta cũng không có cách nào mà phán đoán được động thái phương hướng của bọn chúng để mà có phương án bủa vây. Hơn nữa tin tức trên chiến trường thì thay đổi theo từng phút từng giây, hoàn toàn chỉ có thể dựa vào sự chủ động chiến đấu của quan binh mà thôi.

Dương Lăng ngây người suy nghĩ một lúc rồi nhấc chén trà lên nhấp một ngụm, thở dài nói tiếp:

- Bọn chúng đang ở Giang Nam, Triệu Toại ở Sơn Tây. Theo tình hình hiện tại thì có vẻ như Triệu Toại đang là kẻ an phận nhất, nhưng ta lại có cảm giác chính bọn chúng mới có sức up hiếp đến triều đình lớn hơn rất nhiều đám Dương Hổ, Dương Lục. Ta muốn tìm cơ hội đi Sơn Tây một chuyến, vừa là để vây binh Triệu Toại, vừa là thăm hỏi để giữ hòa khí, nếu như có thể giải quyết được trong hòa bình thì là tốt nhất rồi.

Lý Đông Dương tán thưởng nói:

- Ừm! Bá Nhan vượt ngàn dặm đến tập kích Hồ Thanh Hải, chém đầu Gia Tư Bố, chiếm lấy bộ tộc của y thành thuộc địa của mình. Một số những bộ tộc du mục không thuộc quyền quản lý của triều đình Đại Minh tuy đã định cư ở Hồ Thanh Hải, ở nơi đó sinh sôi nảy nở ổn định cuộc sống, nhưng bọn chúng không thiết lập một chính quyền chính thức. Triều đình không đủ tinh lực để đối phó, quản lý được vùng Thanh Hải đó, nên chỉ đành làm ngơ cho qua.

Nhưng Bá Nhan thì không giống như vậy, y chiếm được Thanh Hải thì có khả năng sẽ cắt đường lui của Cáp Mật Vệ; phía Bắc là địa bàn của Ngõa Lạt và Hỏa Si, bọn chúng cũng sẽ không ngồi yên làm ngơ để cho Bá Nhan xưng chủ trên mảnh đất quan trọng như vậy. Chỉ cần bọn chúng xuất binh Nam tiến đánh vào Thanh Hải, Cáp Mật Vệ sẽ bị liên đới vào trong trận chiến đó. Đồng thời sẽ làm nguy hại đến Cam Túc và Tứ Chủng, tới lúc đó thì triều đình không muốn xuất binh cũng không được.

Hiện tại thế cục vô cùng nguy hiểm, biên cương bên ngoài Sơn Tây là cửa ngõ phía Tây Bắc của triều đình, đảm nhận trọng trách bảo vệ Kinh sư. Giải quyết được những mối lo ở nơi đây thì triều đình mới có thể xuất binh đánh Thanh Hải được.

Dương Lăng nghiêm nét mặt lại nói:

- Ta cũng nghĩ như vậy đó. Nếu Triệu Toại biết điều an phận thì đó quả là chuyện đại thiện trong thiên hạ, phong cho y một chức đại quan cũng chẳng có gì là không thể. Nhưng nếu y không chịu dừng lại âm mưu của mình thì bất luận như thế nào cũng phải đuổi bằng được y ra khỏi đất Sơn Tây. Tuyệt đối không thể để cho y gây dựng căn cứ ở đó được. Thế cục bao vây Trung Nguyên đang ngày càng bước vào giai đoạn thu lưới, đến lúc đó cứ để cho y cùng với đám Dương Hổ cùng nhau đi đến vực thẳm chết chóc.

Lão nhân trắng trẻo không có râu nhẵn nhụi đó chính là Ngụy công công. Hai người bọn họ đang nói chuyện thật không tiện để xen ngang, thế là kẻ đang đứng ngây giả câm giả điếc ở đằng kia lúc này nghe thấy Dương Lăng hùng hồn nói vậy thì mới nhân cơ hội mà xen ngang khen ngợi một câu:

- Quốc công gia tính toán như thần, quyết thắng thiên lý, đám giặc nhãi nhép đó nhất định sẽ bại dưới tay ngài.

Dương Lăng cười điềm đạm nói:

- Đây cũng là vạn bất đắc dĩ, nếu như không phải vì Thanh Hải đột nhiên xảy ra chuyện thì ta sẽ chuyên tâm đối phó với đám Lưu Lục, Dương Hổ, Triệu Toại muốn ở Sơn Tây nghỉ ngơi dưỡng binh thì cũng tạm để cho y tự do tự tác, triều đình cũng mệt mỏi rồi, cũng cần phải ngưng một thời gian để dưỡng sức.

Nhưng với tình thế hiện tại thì không thể như vậy được nữa rồi. Nếu để mất Thanh Hải thì thông đạo hẹp dài hiểm yếu của Cam Túc vùng Tây Bắc ngay lập tức sẽ bị chặn đứng, vĩnh viễn mất đi hy vọng lấy lại Cáp Mật. Cáp Mật là con đường giao thông quan trọng để qua hành lang Hà Tây ra đến Ngọc Môn Quan, là cuống họng của con đường tơ lụa. Muốn kinh doanh thuận lợi với chư quốc Nam Dương thì Mãn Lạt Gia tuyệt đối không thể để thất thủ; muốn thuận lợi cai trị chư quốc Tây vực thì Cáp Mật cũng tuyệt nhiên không được để bị thất thủ.

Chỉ cần cả khu vực Tây Bắc liên kết lại thành một khối với nhau thì Đại Minh ta sẽ mất đi một vùng đất rộng lớn mà rất khó mới có thể lấy lại được, hơn nữa từ đó trở đi sẽ bị phân cách với Tây vực, sẽ không còn hy vọng lấy lại được các vùng đất màu mỡ xung quanh lưu vực trù phú của sông Hoàng Hà. Nơi đó sẽ trở thành biên duyên kiên cố của người Man, bọn chúng có thể xuất binh tấn công Đại Minh bất cứ lúc nào, công kích vào yếu địa của Đại Minh... Ngụy Công công, thế cục Thanh Hải ở ngàn dặm xa xôi kia còn quan trọng gấp trăm gấp nghìn lần nạn giặc loạn Lưu Lục trong yếu địa Trung Nguyên đó.

Ngụy Bân nghe vậy mới giật mình tỉnh ngộ: Chẳng trách Uy Quốc công khi nghe thấy tin Bá Nhan đã đánh vào đến Thanh Hải thì ngay lập tức từ Sơn Đông vội vã trở về Kinh sư. Bách quan trong triều đại đa phần đều là tài tử Giang Nam, nhìn thấy lũ giặc lan tràn tàn phá quê hương của mình, Uy Quốc Công lại không hề thừa cơ mà truy kích, có người thấy thế thì lấy làm phẫn nộ lắm còn nói ông ta cậy công ngạo mạn. Uy Quốc Công mặc nhiên không bận tâm đến những điều đó, ra là vì lẽ này đây.

Nếu như ta đem những chuyện ở đây kể lại cho Hoàng thượng nghe thì ắt hẳn người sẽ khen ngợi ta hiểu biết sâu xa.

Ngụy Bân nghĩ đoạn bèn vội vàng đứng dậy nói:

- Ôi thôi chết, Quốc Công gia, Lý Đại nhân, hai ngài cứ ngồi nói chuyện tiếp nhé. Tiểu nhân chợt nhớ ra là bên phía trường ngựa còn cần phải trồng thêm một ít cỏ, hàng rào tứ phía cũng phải đóng lại cho chặt chẽ hơn một chút để còn nuôi vài con hươu, con gà rừng gì đó, tiểu nhân phải đi trông nom việc này mới được.

Nhìn theo bóng dáng Ngụy Bân đang vội vội vàng vàng rời đi, Dương Lăng ngây người kinh ngạc một hồi lâu rồi mới thở dài một tiếng, cười khổ nói:

- Đây... là xây dựng Am đường sao? Còn xây trường ngựa, còn nuôi động vật?

Thật không thể tưởng tượng được, ni cô cưỡi ngựa...

Lý Đông Dương cũng chẳng hiểu được nguyên do sự tình ra sao, ông ta chau mày đáp lại:

- Chuyện ni cô cưỡi ngựa thì cũng chẳng có gì là hiếm gặp đáng ngạc nhiên, chỉ là không phải vội vàng gì mà lại đi xây một khu vườn trong Hoàng am để nuôi ngựa thì quả đúng là có hơi cổ quái. Nhưng... khí thế Hoàng gia mà. Hơn nữa Hoàng thượng cảm thấy có lỗi với Vĩnh Phúc Công chúa nên chắc vì thế mà muốn bù đắp hơn nữa.

Mà chưa biết chừng Hoàng thượng muốn nhân cơ hội này để xây riêng cho mình một khu vườn. Dù sao thì cũng là dùng tiền của đám phú hộ trong Kinh quyên góp để xây dựng, lại tiện đó mang lại công ăn việc làm cho những nạn dân vô gia cư, cũng coi như khống chế được bọn họ không sinh chuyện làm loạn... Chỉ có điều cứ nghĩ đến việc xếp mõ tụng kinh xuất Am đường, mặc áo tu hành mà cưỡi ngựa thì quả thật là khiến cho người khác phải cảm thấy nực cười.

Haizz, lão phu ta tính toán cái chuyện này để làm gì cơ chứ! Quốc Công à, lão phu cho rằng xuất binh đánh Thanh Hải là chuyện không nên. Tầm quan trọng của Thanh Hải thì tất cả chúng ta đều đã biết rồi, nhưng ta tin ngài cũng hiểu rằng hiện này nếu muốn xuất binh tiến Thanh Hải thì cần gấp mười lần số lương thực và tiền bạc để đi diệt giặc Bạch Y Quân, triều đình... hiện không còn khả năng để xuất binh nữa rồi!

- Ta biết điều đó, lần này trên đường vội vàng trở về Kinh ta đã nghĩ đến chuyện này rồi.

Dương Lăng cũng chau mày lại nói tiếp:

- Nhưng thế cục chiến sự không nhất định phải phát động chiến tranh để mà giải quyết. Hiện tại vẫn cần phải dốc sức nhanh chóng giải quyết nội loạn Bạch Y Quân, còn về Thanh Hải... Ta muốn dùng một cách khác để đuổi Bá Nhan đi.

Dương Lăng uống ngụm trà rồi nói tiếp:

- Thanh Hải trên danh nghĩa là thuộc về Đại Minh, nhưng trên thực tế thì người thực sự sử dụng mảnh đất đó lại bao gồm rất nhiều các dân tộc du mục. Bá Nhan chiếm cứ Thanh Hải, lấy thân phận Đại Hãn Mông Cổ của mình xưng chủ thì nhất định sẽ khiến cho những quốc gia Tây vực như Cáp Mật, Biệt Thất Bát Lý, Tát Mã Nhĩ Hãn, Hỏa Thổ Lỗ, Vu Điền, Thất Lạt Tư, An Đô Hoài v.v... phải ngấm ngầm dè chừng.

Ngoài ra thì còn bao gồm rất nhiều những du mục dân vùng Thanh Hải, những bộ lộc Mông Cổ không còn chịu sự thống trị của Thát Đát hoặc Ngõa Lạt. Bọn họ chúng là những người lo sợ bị Bá Nhan thâu tóm nhất. Đồng thời tuy là Bá Nhan đột kích Thanh Hải, nhưng đại bản doanh của y vẫn còn đang ở trên thảo nguyên Thát Đát. Sau khi dẫn đại binh mã đến đánh Thanh Hải, đại quân lưu lại làm nghi binh đã nhanh chóng trở về thảo nguyên.

Nhánh quân này đã trúng mai phục của đám Hoa Đương thừa cơ xuất binh thảo phạt, một vạn kỵ binh hoặc thiệt mạng hoặc buộc phải đầu hàng. Nghe nói vị Hoàng hậu mà y sủng ái nhất cũng đã bị rơi vào tay của Hoa Đương. Nỗi nhục đó đối với một kể cao ngạo như Bá Nhan thì y sao có thể chịu được cơ chứ. Đồng thời Bá Nhan cũng không cam tâm từ bỏ mảnh đất thảo nguyên rộng lớn phương Bắc. Dù biết rằng sự lựa chọn sáng suốt nhất vẫn là ở lại Thanh Hải, nuôi quân tích lương nâng cao năng lực chiến đấu, thì nhất định y cũng sẽ có ý định dẫn bộ tộc của mình quay lại thảo nguyên quyết chiến một phen.

Nếu đã vậy thì chúng ta tung ra đòn hiểm, buộc Bá Nhan rời đi, chưa biết

chừng chẳng cần đổ một giọt máu, mất một tên lính nào mà vẫn có thể tạm thời giải quyết được vấn đề ở Thanh Hải, khiến cho chúng ta có tinh lực để tập trung đối phó tiêu diệt bọn đạo tặc Bạch Y Quân.

Ánh mắt Lý Đông Dương rực sáng lên một cái, vuốt râu nói:

- Thượng binh phạt mưu, không đánh mà khuất phục được kẻ địch mới là thượng sách. Chỉ có điều chẳng hay Uy Quốc công có kế sách gì hay chưa?

Dương Lăng đáp lời:

- Chiều nay ta sẽ đi bái kiến Hoàng thượng, thuyết phục Hoàng thượng để cho người mời những Mật tông Pháp vương, Phật sống, những Đại A Bạc Môn đức cao vọng trọng của Hồi Giáo đến trao đổi một chút. Sẽ chở những vị Pháp vương, Phật sống, A Bạc Môn này về Thanh Hải, nơi đó dân du mục rất sùng đạo, sức ảnh hưởng của những người này không thể thua kém người đứng đầu các bộ tộc.

Dương Lăng lại nói:

- Đó mới chỉ là vệ mặt chính trị, còn về mặt kinh tế mà nói thì giao dịch thông thương ở khu vực phía Tây vực luôn thịnh vượng đông đúc. Sau khi phương Bắc mở cửa, phía Tây lại càng trở nên tự do hơn nữa về mặt kinh tế. Tơ lụa, đồ sứ, lương thực, đồ sát, trà bánh, muối dầu, rượu ngon lại còn có cả đồ đạc nạm vàng nạm ngọc từ Trung Nguyên thông qua Thanh Hải mà vào tới Tây vực. Giá cả của vải vóc, muối ăn, trà bánh và những nhu yếu phẩm hàng ngày khác sẽ theo đó mà thụt giảm xuống, người dân Tây vực sẽ trục lợi được không ít.

Đám gia súc trâu, ngựa, dê, lạc đà của bọn họ sẽ lũ lượt được bán về Đại Minh. Những món đồ khác nào là da thú, thịt gia súc, lông gia súc, thảm dệt thủ công đều phụ thuộc vào sức mua của Đại Minh. Chẳng những đám Vương công quý tộc ở đó được hưởng lợi ích hậu hĩnh mà ngay cả bách tính lê dân cũng trở nên giàu có hơn.

Ta sẽ kiến nghị với Hoàng thượng viện lý do vì Bá Nhan đang chiếm cứ Thanh Hải, để đảm bảo cho sự an nguy của thương dân nên hạ chỉ cho Tứ Xuyên và các khu vực có giao thương với Tây vực đóng cửa vô thời hạn các hoạt động buôn bán. Cho đến khi nhân vật nguy hiểm Bá Nhan đó đi khỏi thì lệnh cấm vận đó mới được chấm dứt. Lúc đó ắt hẳn giá muối ăn, lương thực, trà bánh và những nhu yếu phẩm hàng ngày khác sẽ lập tức tăng vọt.

Khổ mà được sung sướng thì nhanh quen, chứ đang sung sướng mà phải chịu khổ thì không phải là chuyện dễ dàng đâu. Chỉ cần đã quen với chất lượng cuộc sông cao, nếu bắt bọn họ phải ăn thịt mà không bỏ muối, trên bàn ăn không có trà sữa, không có gạo nấu thành cơm, thì ắt hẳn bộ tộc của bọn họ nhất định sẽ tập trung lại phản đối mãnh liệt. Đám Vương công quý tộc đang được ngồi trên núi vàng núi tiền kia, bỗng nhiên lại chặn đứt mất con đường làm ăn của bọn chúng. Vậy thì cái tên tội đồ đó số phận sẽ ra sao đây?

Những thủ lĩnh địa vị tối cao của các phe phái tôn giáo phản đối, đám Vương công quý tộc thủ lĩnh của các bộ tộc phản đối, kỵ sĩ của dân du mục phản đối, tất cả đều phản đối sự hiện diện của Bá Nhan. Tới lúc đó chúng ta phái mật thám ở Thanh Hải tung tin đồn khắp nơi trong Tây vực rằng Đại Minh chuẩn bị phát binh, Ngõa Lạt chuẩn bị Nam tiến quyết chiến với Bá Nhan. Tin tức đó sẽ khiến cho chư bộ ở Tây vực bốn dĩ đã phẫn nộ đến cực điểm nhưng lại e sợ châm ngòi chiến đấu làm hại đến bản thân mình, nhận thấy thế cục thay đổi mà sẽ có những hành động kịp thời.

Nếu chư quốc, chư bộ của Tây vực đều coi một kẻ ngoại lai như Bá Nhan là quân địch thì mặc cho y có dũng mãnh kiêu hùng tới đâu cũng không thể đọ lại dược sự tấn công tứ phía của các thế lực, phía Bắc có Ngõa Lạt, phía đông có Đại

Minh, phía Tây, phía Nam thì còn phải đối phó với quan đội các nước như Cáp Mật, Hỏa Đất Lỗ, Vu Điền v.v... Bá Nhan chỉ còn một lựa chọn duy nhất đó là tháo chạy về thảo nguyên phương Bắc, đòi lại tất cả những thứ đã bị mất về tay Hoa Đương, lấy lại sự tôn nghiêm đã bị đánh mất.

Lý Đông Dương trầm ngâm suy nghĩ một hồi lâu rồi gật đầu nói:

- Lão phu cho rằng kế sách này của Quốc công có tính khả thi. Sự sắp xếp đó của chúng ta sẽ khiến cho Bá Nhan cầm chắc tình thế buộc phải rút lui về thảo nguyên phương Bắc. Vậy thì Hoa Đương và Hỏa Si, hai kẻ đang thâu tóm lãnh địa của y, sẽ cùng với Bá Nhan hình thành thế tam hổ đoạt mồi. Chúng ta sẽ có nhiều thời gian và tinh lực hơn nữa để giải quyết nội biến ở trong nước.

Dương Lăng lặng lẽ nhìn Lý Đông Dương một cách chăm chú và nói:

- Lão đại nhân, "Tĩnh Chính Thập Nhị Sớ" của ta đã gửi cho ngài xem qua rồi, ngài thấy... có tính khả thi chăng?

Hai mắt của Lý Đông Dương khép hờ, gương mặt dạn dầy sương gió chốn quan trường chợt lộ ra một nụ cười hàm ý sâu xa:

- Quốc công, quan trường có những quy tắc riêng của quan trường, đó là những quy tắc đã hình thành từ hàng ngàn năm nay. Ngài xông pha chiến trận, trảm tướng diệt giặc lập được công lớn cho triều đình, có sức ảnh hưởng lớn đến triều chính.

Nhưng tiếp xúc với thể chế của chốn quan trường thì bắt buộc phải cẩn trọng vô cùng.

Quam trường, cốt lõi của nó là ở một chữ "Quyền", không có quyền thì không có quan trường. Mà cốt lõi của "Quyền" là ở chữ "Lợi". Chữ lợi này cũng đa nghĩa, lợi là lợi ích của quốc gia, nhưng cũng có lợi ích của cá nhân. Chữ lợi này là lợi ích của giang sơn xã tắc nhưng cũng có lợi ích của chính bản thân mình, lợi ích về một phương diện nào đó của mình. Chỉ khi nào sắp xếp thỏa đáng các mối quan hệ lợi ích đó thì ngài mới có thể đánh đâu thắng đó, bằng không thì ngài có thể được đẩy lên đến đỉnh điểm của quyền lực thì cũng có thể bị đám quan viên lớn bé liên kết lại kéo ngài xuống.

Lý Đông Dương nhìn Dương Lăng một cách thật sâu lắng rồi nhẹ nhàng nói tiếp:

- Đừng coi thường sức mạnh quyền lực của một nhóm những quan lại chức sắc bé hơn mình. Bằng không cho dù ngài có thực hiện được kế hoạch sách lược của mình rồi thì cũng tuyệt đối không thể tiến hành nó một cách hiệu quả nhất. Ngài không có nghìn mắt nghìn tay để giám sát thì nhất định phải suy tính đến lợi ích của nhóm người đó, bao gồm cả những người đang đi theo ngài nữa. Thúc ngựa là để cưỡi ngựa; vậy những người đi theo ngựa thì để làm gì đây?

Lý Đông Dương cười hà hà rồi đứng dậy, vừa cười vừa nói:

- Lão phu đã không còn là người ở chốn quan trường nữa rồi, ta chỉ có thể truyền lại cho ngài những kinh nghiệm đúc rút được từ mấy chục năm lăn lộn chính sự. Quốc công ngài vẫn nên cân nhắc cẩn trọng hơn nữa.

Theo ý lão phu thì tốt nhất ngài nên tìm một nhân vật bình thường nào đó để cho gã trình tấu lên Hoàng thượng cuốn "Tĩnh Quốc Thập Nhị Sách" đó, đừng để chuyện đó có liên quan gì đến ngài. Đợi đến khi chiếu chỉ được công bố, quan sát xem có những người nào phản đối, đều phản đối tập trung vào những vấn đề nào. Tập trung nhắm mũi tên cho trúng đích, chuẩn bị các biện pháp đối phó, thay đổi những phương án không thể điều tiết được. Đôi lúc cần tiến hành những biện pháp thỏa hiệp thì mới có thể nhanh chóng thuận lợi để đạt được mục đích.

Lý Đông Dương vuốt râu cười nói:

- Lão phu xin phép về trước, Quốc công không ngại thì có thể bàn bạc thêm cùng Tiêu Các Lão. Gã đó nhân tình thế sự, quy tắc quan trường đều thuần thục nhuần nhuyễn trong lòng bàn tay, quả đúng là một con cáo già thành tinh, sao ngài cần mà không đến chứ? Ha ha ha...

Tiễn Lý Đông Dương đi khỏi, Dương Lăng ngoảnh đầu lại nhìn công trình Hoàng am đang chuẩn bị kết thúc, trăm nghìn việc to việc nhỏ, nhất thời tất cả các mọi chuyện đều đổ dồn đến khiến cho hắn phải lo lắng:

- Hoa Đương dã tâm không nhỏ, chỉ cần khống chế được địa bàn của Bá Nhan thì khó mà có thể khẳng định rằng y sẽ không quay đầu lại mà đối phó với Đại Minh. Rồi việc di dân đến Quan Đông, Bị quân đang tiến hành mọi việc. Chiến sự vùng Thanh Hải, Giang Nam, Sơn Tây rồi lại còn đại sự xây dựng lại vùng Hà Bắc, Sơn Đông sau chiến sự kết thúc.

Chỉ chưa đầy hai tháng nữa thôi là Hoàng am sẽ được xây dựng hoàn tất, chẳng biết nàng Tiểu Vĩnh Phúc vừa đáng thương vừa đáng yêu đó có cạo trọc đầu mà tới nơi này ở hay không. Sắp mãn hạn quốc tang nửa năm rồi, hôn sự của Hoàng thượng và Nhất Tiên đang ngày càng cận kề. Chuyện quốc gia, chuyện nhà, chuyện thiên hạ, không có chuyện nào là không phải nhọc lòng bận tâm.

Dương Lăng đầy tâm sự trong lòng, mơ mơ màng man quay về phủ, chầm chậm thả bước dưới giàn nho ở hành lang phía sau nhà: Chuyện nước, chuyện nhà... chuyện nhà... Ồ đúng rồi, hành tung của đám Bạch Y Quân nhanh như chớp. Lúc bọn chúng công kích Triết Giang đã bị đại quân vốn được ta sắp xếp, bố trí từ trước phản kích lại, nay đã có những dấu hiệu đang tiến về Nam Trực Lệ.

Chỉ e là Nam Trực Lệ lại có chiến sự, tuy nói rằng thành Nam Kinh phòng thủ kiên cố vững chãi, đám người Dương Hổ bị thất trận ở Thái An chưa chắc đã dám đánh Nam Kinh, nhưng để đảm bảo an toàn thì vẫn nên đón mẹ con Liên Nhi về thì hơn. Mấy ngày tới đây cần phải lệnh cho Ngũ Hán Siêu và Tiểu Ái đi Giang Nam một phen, đón hai mẹ con Liên Nhi đi đường thủy về đây.

Còn cả A Đức Ny, tiểu mỹ nữ Tây Dương xinh đẹp, đó nữa. Lần trước ở trên xe, hai người đều đã thân thiết ân ái đến như vậy rồi, tuy chưa thành đại sự gì nhưng lẽ nào lại bỏ mặc người ta như vậy sao? Làn da bánh mật, thân hình uyển chuyển gợi cảm, sự ngọt ngào hiền dịu đó... Ồ, quốc nạn cận kề mà ta lại nghĩ về phụ nữ, phải chăng là có chút vô sỉ?

"Hẳn cũng không đến nỗi chứ..."

Quốc công đại nhân tự mình lặng lẽ an ủi mình: Việc công việc tư đều không được sao nhãng, chiến sự với phải đánh, ân ái thì... vẫn phải có chứ!

Trên chiếc giường La Hán(1) ở phía bên hông hậu đường, Tuyết Lý Mai đang chơi đùa với con trai, sắp được mười một tháng rồi. Tiểu Dương đại nhân rất là xinh xắn, rất được các dì yêu thích. Cậu vịn vào đồ vật đã có thể đứng dậy đi tới lui. Lúc này, Dương đại nhân (Dương đại nhân này là chỉ con trai của Tuyết Lý Mai, không phải chỉ Dương Lăng) đang đặt tay lên bệ cửa sổ ở đầu sặp, nhón mũi chân nhìn ra ngoài cửa sổ, lúc lắc nhìn mấy cái, liền ngồi phịch xuống.

(1) Một loại giường/sạp của người Hán thời xưa, hơi dài, có ba tay vịn dài ở ba phía, một số người gọi là sạp ba thành.

Tuyết Lý Mai uể oải nằm trên sạp, gối đầu lên chiếu gấm, lộ ra một đôi thiên túc(2) trắng như tuyết, chỉ cần Dương đại nhân vừa ngồi xuống, nàng liền giơ chân đỡ lấy. Tiểu tử này mặc quần yếm, cái mông mềm mịn trắng nõn, mát như ngọc.

Tuyết Lý Mai có lẽ còn mắc di chứng của gia pháp Dương thị, đặc biệt thích chạm vào cái mông đó.

(2) Thiên túc: để chỉ chân của những người phụ nữ chưa bó chân.

Gần đây nàng đã trở nên đặc biệt uể oải, lúc nào cũng thích ăn chua cả. Diệu thủ của Cao đại tiểu thư vừa sờ vào, thì biết cô gái này đã trúng chiêu, đã mang thai rồi. Gia nghiệp to lớn của Dương gia, sinh thêm con cái là chuyện tốt. Hàn Ấu Nương vui mừng khôn xiết, chỉ có Ngọc Đường Xuân khóc không ra nước mắt: Đám tỷ muội thích nhất là theo lão gia chơi ngọc thủ hậu đình hoa đều đã mang thai hết rồi, bụng mình thì lại không có chút động tĩnh, ông trời thật không có mắt.

Hai ngày nay Ngọc Đường Xuân quấn quít lấy Cao Văn Tâm, không ngừng lãnh giáo từ nàng cách để sinh quý tử. Điều dở khóc dở cười, là hai người đều bình thường, phải đợi cơ duyên mà thôi, thế thì muốn nhau sống sao? Nếu có bản lãnh

của Quan Âm Tống Tử, thì bụng mình cần gì phải bằng phẳng như thế này?

Không thể làm gì hơn, nàng đành phải kê mấy thang thuốc bổ cho nam nhân và nữ nhân, tuy nhiên sức khỏe của lão gia nhà mình là quan trọng hơn, nên mấy thang nàng kê đều là điều tinh bổ khí, cường thân kiện thể, không có một vị thuốc hổ lang nào.

Nói đi cũng phải nói lại, lão gia nhà mình không biết luyện khí thế nào, hay là đã học thành hành phòng tam thập bát pháp của Thành Khởi Vận. Sự dũng mãnh đó, hay khiến cho nàng hồn phi phách tán, rụng rời tay chân, lần nào cũng phải liên tục năn nỉ xin tha. Nằm yên cả ngày trời mà đến ngón út cũng không còn sức nhúc nhích, thật sự chưa phải lúc dùng dược vật.

Tiểu tử kia lại lần nữa ngã ngồi lên chân của dì Tuyết Nhi. Cậu sốt ruột xoay người, nhìn thấy dì Tuyết Nhi đang cười mỉm chi lấy ô mai đưa vào trong miệng, hai mắt không khỏi sáng lên, lập tức chỉ vào trong miệng nàng, kêu a a hai tiếng.

Bây giờ cậu vẫn chưa biết nói, ngoài Hàn Ấu Nương ra, bốn người mẫu thân xinh đẹp hằng ngày thay nhau dạy cậu gọi ma ma. Tiểu Dương đại nhân vẫn kiến quyết, không mở kim khẩu. Phàm cần gì, muốn đi đâu, cậu liền ra vẻ lớn lối chỉ tay ra, đơn giản chỉ nói ra chữ "A", lập tức muốn gì được nấy.

Tuyết Lý Mai đưa lan hoa chỉ lên, dùng hai ngón tay như cọng hành nhặt cục ô mai lên trêu đùa cậu. Tiểu Dương đại nhân giơ tay bắt lấy hai lần vẫn chưa lấy được, thế là nhếch miệng lên, chuẩn bị gào thét. Tuyết Lý Mai liền cười nói:

- Bảo bảo ngoan, đừng khóc, cho cho cho này!

Nàng cong miệng lên, nhả ra non nửa cục ô mai đã nát. Tiểu Dương đại nhân vội vàng nhanh chóng bò qua, đưa miệng tiếp lấy, vừa nuốt vào nhấp nhấp hai cái, thì khuôn mặt nhỏ nhắn của cậu liền nhăn nhó, với một vẻ mặt quái dị xuất hiện, cậu liền phun ra ngoài.

Tuyết Lý Mai cười rung rung hết cả người. Nàng vừa dùng tay hứng lấy ô mai Tiểu Dương đại nhân phun ra, vừa cười khanh khách:

- Ai bảo con tham ăn, cái gì cũng khoái, còn ăn nữa hay không? Hả?

Đôi môi anh đào của nàng mở ra, Tiểu Dương đại nhân sợ đến mức quay đầu bò đi, cái mông nhỏ lắc qua lắc lại trông vô cùng khôi hài. Đúng lúc này, Dương Lăng đang suy nghĩ về chuyện băn khoăn trong lòng, đi vào. Hắn đi đến hậu đường phải lách sang trái hoặc phải, bên trái là phòng đàn, bên phải có giường La Hán này chính là nơi phụ nữ ở nhà trọng gặp mặt nữ khách, bình thường là một trong những nơi mấy nữ nhân trò chuyện, cho nên Dương Lăng thường đi bên này.

Thấy Dương Lăng tiến vào, Tuyết Lý mai vội vàng ngồi xuống, chỉnh lại mái tóc hơi bù xù, cười ngọt ngào nói:

- Lão gia đã về. Lý đại nhân đã về thành rồi sao?

- Ừ, đúng vậy. Hầy, nàng không cần đề ý, cứ chơi với con đi. Ta đi đến chỗ Vận Nhi xem thử tư liệu mà cô ta và A Đức Ny đã chỉnh lý như thế nào rồi.

Dương Lăng nói xong liền đi đến bên cạnh giường lò, chơi đùa với con trai:

- Bảo bối ngoan, ngày mai lão tử dẫn con đi câu cá, nào, gọi tiếng ba ba đi.

Đứa bé vẫn chưa biết nói, hắn chỉ là thuận miệng nói ra, nói xong liền xoay người rời khỏi, đi đến bên cửa, chỉ nghe trên giường truyền đến hai tiếng non nớt:

- Ba ba ba, ba ba

Dương Lăng bước đi như bay, cũng đã ra đến cửa rồi, đột nhiên đùng một cái lại nhảy trở về, khinh công Võ Đang "Thê Vân Tung" trong tay hắn có thể nhảy ngược hai mét rưỡi, đã xem như đạt đến đỉnh cao rồi.

Dương Lăng không kìm được vui mừng nhìn con trai, luôn miệng nói:

- Con nói gì? Mau mau, tiếp tục gọi, gọi ba ba.

Trong cái miệng nhỏ nhắn của Tuyết Lý Mai còn một miếng ô mai, đôi mắt cũng trợn lên, kinh hỉ đến trong như ngớ ngẩn.

Đôi mắt đen lay láy của Tiểu Dương Đại Nhân tỏa sáng nhìn cha, một mặt nắm chặt lấy chân của dì Tuyết Nhi, một mặt cười vui vẻ, chầm chậm nói:

- Ba ba, ba ba!

- Ah ha!

Dương Lăng mừng rỡ, hắn chạy sang ôm lấy con trai một cái, hôn lên hai má phúng phính của cậu, sau đó uy phong tám bề mà nói:

- Ai nói con trai học nói chậm? Đó là vì còn phải xem là ai. Con trai ta là người thế nào chứ, giống ta, thông minh lắm nha, ha ha ha ha

Dương Lăng nói xong vui mừng ôm con trai muốn chạy ra, miệng còn dương dương tự đắc:

- Ta mang con trai đi cho các nàng xem thử, ha ha, các nàng dạy hàng ngày, ta thì không cần dạy, mở miệng thì biết gọi ba ba.

Tuyết Lý Mai vội kéo lê giày dưới đất, gắt gỏng:

- Đừng gấp, con chơi đến đầy mồ hôi, cẩn thận gió thổi, xem chàng vui chưa

kìa.

Dương Lăng vội đặt con vào lồng ngực nàng, nói:

- Vậy nàng mang nó theo, ta đi gọi bọn Ấu Nương đến.

Trong chốc lát, chỉ thấy Dương Lăng dẫn theo Hàn Ấu Nương, Cao Văn Tâm, Ngọc Đường Xuân, còn có tiểu nha hoàn Vân Nhi tiến vào.

Trong lồng ngực của Tiểu Vân còn một một con chó Pug (con này các vip có thể tham khảo google để biết thêm.), loài chó này là do một người nuôi chó trong kinh sư vừa đào tạo ra, Dương Lăng vừa nhìn đã biết là chó Pug, nhưng lúc bấy giờ lại là một vật hiếm có. Bá tánh kinh sư cảm thấy loài chó nhỏ này vừa đáng yêu vừa hiếm. Trước mắt vì số lượng ít, nên chỉ có gia đình hoàng thân quý tộc mới mua

được. Còn chó nhỏ này là một trong những bạn chơi của đại thiếu gia Dương gia.

Hàn Ấu Nương kinh hỉ nói:

- Mau để thiếp xem thử, con trai bảo bối thật sự biết gọi cha rồi à?

Chỉ thấy Tiểu Dương Đại Nhân ôm lấy chân của dì Tuyết Nhi, đang không ngừng gọi "ba ba". Tuyết Lý Mai cười nghiêng ngã, cười đến ra nước mắt, thấy bọn họ tiến vào, nàng cười khanh khách nói:

- Lão gia mừng hụt rồi. Tiểu bảo biết gọi ba ba, nhưng chỉ là biết gọi là thôi, nó gặp cái gì cũng gọi.

Quả nhiên, Tiểu Dương Đại Nhân nhìn thấy con chó Pug trong lòng Vân Nhi, liền vui vẻ buông chân của dì Tuyết Nhi ra, chỉ về phía con chó Pug kia, a một tiếng, rồi sau đó gọi "ba ba, ba ba".

Mấy người Hàn Ấu Nương, Cao Văn Tâm không nhịn được cười, còn Dương Lăng thì dở khóc dở cười, đặt mông ngồi ở đầu giường lò, chỉ vào con trai nói:

- Tên tiểu khốn kiếp nhà ngươi, thật sự là làm cho lão tử đẹp mặt đấy, còn không bằng không biết gọi. Được rồi được rồi, không cần gọi nữa.

- Ba ba, ba ba

Mấy người Hàn Ấu Nương càng cười dữ đội hơn. Dương Lăng không thể đỡ được, đành phải cười gượng hai tiếng, nói:

- Tuy rằng không hiểu rõ ý gì, nhưng ít nhất nó còn biết gọi. Ha ha, các nàng muốn nó gọi, nó còn mặc kệ không để ý đến.

Con trai cuối cùng cũng biết mở miệng nói chuyện, đây chính là một chuyện vui lớn, không còn người nào để ý để Dương Lăng hắn. Mấy người Hàn Ấu Nương lập tức vậy quanh Dương đại thiếu gia, mồm năm miệng mười nói:

- Con trai ngoan, bảo bảo giỏi, lại đây, gọi một tiếng ma ma nghe xem nào.

Tên tiểu tử trừng đôi mắt đen như nước sơn, kinh ngạc nhìn nhìn mẫu thân và dì hơi có vẻ kỳ quái, sau đó xoay người lại, lắc cái mông nhỏ bò về phía Dương Lăng, suốt quãng đường cứ gọi ba ba, sà vào trong ngực của hắn, chỉ chổng mỗi cái mông lên, rõ ràng là đã bị các nàng dọa cho sợ rồi.

Ngọc Đường Xuân thở dài, dùng cái chân to chỉ lên cái mông của cậu một cái, giận dỗi nói:

- Con sói con mắt trắng này, rốt cuộc vẫn là người của lão Dương gia người ta mà, đến gọi dì một tiếng cũng không chịu, thật nhỏ mọn!

Dương Lăng ôm con trai thoải mái cười to. Hắn tạm thời gác lại công sự, gọi người lấy dưa hấu ướp lạnh, nước ô mai đến, cùng kiều thê ái thiếp còn có đứa con trai yêu dấu, cười nói tán dóc, vui vẻ ấm áp.

Dương Lăng đi đến ngồi trên giường lò, ăn dưa, hoa quả, trò chuyện cùng cả nhà. Đứa bé cùng với con chó Pug nhỏ, chui đi chui lại giữa hai chân bọn họ, chơi đùa vui vẻ. Tình cờ bốn mắt nhìn nhau với Ấu Nương, Dương Lăng và Ấu Nương nhìn vào mắt lẫn nhau, thỏa mãn, ấm áp, thân tình và ngọt ngào.

Đúng vậy, những năm tháng gian khổ nhất sớm đã qua đi rồi, những chuyện sống chết có nhau trong gian khổ cũng sẽ không xuất hiện nữa, theo thời gian trôi đi, những chuyện chua xót lúc xưa sẽ trở thành những hồi ức đẹp. Có lẽ đến một ngày nọ, lúc hai người già đến không đi nổi, ngồi trên xích đu, con cháu thì giống như bây giờ, có mấy đứa nhỏ chơi đùa ở đó, rồi cứ mãi kể với chúng về những chuyện năm xưa.

Hiện tại, thứ tích lũy được, là tình cảm ngày càng sâu đậm của họ. Cuộc sống của họ, tình cảm của họ, hạnh phúc hơn tuyệt đại đa số người trên thế giới. Hạnh phúc, thế này đã đủ rồi.

Dương Lăng đi đến chỗ Thành Khởi Vận, chỉ thấy hai tiểu mỹ nhân Thành Khởi Vận, A Đức Ny đang tranh cãi đến đỏ mặt tía tai, Sở Linh chống cằm ngồi trước bàn, cười ha ha coi bộ rất thích thú.

Dương Lăng ngạc nhiên nói:

- Chuyện gì mà tranh cãi ghê gớm thế?

Hai người vừa thấy Dương Lăng, lập tức chen lấn nhau cáo trạng:

- Đại nhân, ngài đến phân xử thử xem, có một vấn đề liên quan đến thuế phú

- Dương, Vận Nhi tỷ tỷ quá bảo thủ rồi, chỉ là sửa đổi đối với thể chế cũ, theo ta thấy, phải đao to búa lớn

- Ngừng ngừng ngừng!

Dương Lăng bị các nàng cãi nhau đến đau cả đầu, liền một tay kéo một người đến trước bàn, ấn lên vai của các nàng rồi nói:

- Ngồi xuống hết cho ta.

Hắn liếc mắt nhìn Sở Linh xinh đẹp đang cười khanh khách, nói:

- Không cần giữ lễ tiết, ngươi cũng ngồi xuống đi.

Nói đoạn bản thân hắn cũng ngồi xuống, châm cho mỗi người một ly trà, cười ha ha nói:

- Được rồi, thanh thiên đại lão gia ở đây, có oan khuất gì, cứ việc nói từng cái

một.

Hai tiểu mỹ nhân đồng thời khẽ hừ một tiếng, yêu kiều lườm hắn một cái, sau đó nhìn nhau, nhưng cũng không nói tiếng nào.

Dương Lăng thấy hai khẩu súng máy đã tắt ngúm, liền cười cười nói:

- Sở Linh, ngươi nói đi.

- A! Tiểu nhân tiểu nhân nói à

Sở Linh rụt rè nhìn bà chủ, bà chủ không tỏ vẻ phản đối, nàng đành phải miễn cưỡng nói với ông chủ:

- Là như thế này. Chẳng phải Quốc công gia đã nói hai vị cô nương bàn luận về "Tịnh Chính Thập Nhị Sơ" của ngài đó sao. Cái này về phần lại trị, đất đai, thuế phú, còn có quân chế, à ờ cách nhìn của A Đức Ny cô nương và tiểu thư trái ngược hoàn toàn, tranh luận với nhau chỉ hơi kịch liệt một chút thôi, Quốc công gia cứ yên tâm.

Dương Lăng nghe xong liền hiểu. Kỳ thực hắn bảo hai người thảo luận, chỉ là muốn tham khảo một chút ý kiến của các nàng, chủ ý của hắn là luôn nối liền với đám người Dương Thận, Tiêu Phương, Dương Nhất Thanh, tùy thời mà thay đổi theo ý họ.

Thành Khởi Vận hiểu rất thấu triệt về nhân tính, tâm lý. A Đức Ny đến từ phương tây, đối với chế độ của phương đông không quen từ nhỏ những tập quán ở đây, để nàng giúp xem xét kỹ càng, nói không chừng từ góc độ của một người bàng quan có thể nhìn ra được cấu tứ gì đó. Dương Lăng bảo các nàng nghiên cứu kỹ, là muốn từ góc độ của các nàng mà càng hoàn thiện chế độ hơn một chút, giảm thiểu những lỗ hổng đi một chút, như vậy một khi trình lên, những cản trở gặp phải mới có thể giảm đến thấp nhất.

Kỳ thực lúc bấy giờ bất luận là thể chế chính trị hay là thể chế kinh tế, thậm chí bao gồm chế độ khoa cử tuyển tài bị người đời sau lên án khá nhiều, so với phương

tây đều tương đối hoàn thiện và tiên tiến hơn. Nhưng phương đông duy danh, so với quan niệm giá trị của phương tây duy lợi, không thể nghi ngờ là phương tây thiết thực hơn, về phương diện chế độ dân chủ so với phương đông cũng tiên tiến hơn một chút.

Dương Lăng chỉ là bảo hai người tùy ý xem xét, cho vài ý kiến, không ngờ hai người thật tình như thế. Hắn vừa cảm động, vừa cảm thấy buồn cười. Dương Lăng ngẫm nghĩ một hồi, rồi nói với Thành Khởi Vận:

- Ừ, ta hiểu rồi. Được, trước tiên chúng ta nói về lại trị. Nàng nói thử xem, sự khác nhau của các nàng tập trung chủ yếu ở chỗ nào?

A Đức Ny cướp lời nói:

- Ta cho rằng chọn hiền tài để bổ nhiệm, phải giải quyết vấn đề từ căn nguyên. Việc cấp bách bây giờ là cắt giảm người thừa, tuyển chọn nhân tài. Chọn nhân tài phải không hỏi xuất thân, lai lịch, mạnh dạn đề bạt quan viên trẻ tuổi, bọn họ có tầm nhìn sâu rộng, dám đổi mới, tinh lực dồi dào. Ở địa phương, người tuổi quá năm mươi chỉ có thể thu làm tạp quan, không được làm trưởng của một châu huyện.

Thưởng người ưu tú, trừng trị tham quan, yêu cầu phải làm hết bổn phận.

Dương Lăng xoa xoa cằm, trầm ngâm một hồi rồi nói:

- Ừm, nói thì nói như thế, nhưng thi hành cụ thể, làm sao nắm chắc được thước đo này? Ai sẽ đi phán định người trẻ tuổi nào là người ưu tú? Rồi còn ai không phải là người hợp cách? Hơn nữa hơn năm mươi tuổi lại không được làm chủ quan chính đường, nhất định sẽ ảnh hưởng đến quan viên địa phương, dẫn đến sự cản trở của bọn họ, mà quan viên gần ngũ tuần, rất nhiều người cũng sẽ không yên tâm về chính sự, mà chuyên đầu cơ luồn cúi, kiếm lợi cho bản thân. Mấy vấn đề này làm sao giải quyết đây?

Khuôn mặt của A Đức Ny đỏ lên, Dương Lăng cười cười, an ủi:

- Nếu như thân làm người ngồi ngôi trên thanh liêm tài đức, sau đó chủ quản mỗi phủ một con đường, với cách chỉnh đốn như vậy, thì có thể dùng. Đặt vào một

quốc gia rộng lớn, tin tức truyền cực kỳ chậm chạp, đó là chỗ không thích hợp. A Đức Ny căn cứ theo tình hình của quốc gia các cô mà nghĩ ra cách, mà quốc gia các cô không lớn hơn một phủ của nơi này, hạn chế như thế, chẳng trách cô được.

A Đức Ny tuy là thiếu nữ bác học đa tài, nhưng đối với việc hiểu rõ về cổ quốc phương đông, hiểu rõ chi tiết về quan trường và văn hóa hình thành qua mấy ngàn năm của nó, đương nhiên không bì được với Thành Khởi Vận, cho nên lời nói ra không khỏi hơi xa rời thực tế. Thành Khởi Vận nghe ra được hắn không đành khiến cho A Đức Ny khó chịu, không khỏi hé miệng cười.

Dương Lăng trừng mắt nhìn nàng, hỏi:

- Vậy nàng nói xem, nàng có cao kiến gì? Thành Khởi Vận mỉm cười nói:

- Thiếp cho rằng, chính sách thi hành, là từ trên xuống dưới, muốn chỉnh đốn lại trị, thì phải lấy pháp trị làm hạt nhân lý chính, cộng thêm quyền lực khống chế của triều đình, mới có thể đảm bảo tân pháp thi hành được. Cách làm cụ thể, đại nhân đã lót một con đường đi thật tốt, thực hiện cũng dễ hơn.

- Đô Sát viện, Hàn Lâm viện, những Ngôn quan của mười ba đạo Ngự sử, không phải vừa được chỉnh đốn lại đó sao? Hiện tại quan viên được giữ lại và người mới được đề bạt lên, bất luận là phẩm chất hay là năng lực đều tương đối tốt. Đại nhân trước tiên phải tăng mạnh sức mạnh khoa đạo, lấy lục khoa Cấp sự trung chế ngự lục bộ, tầng tầng khống chế, tầng tầng khảo hạch, thưởng phạt phân minh, trách nhiệm rõ ràng, đề cao mức độ các bộ các ti chấp hành chính lệnh.

Dương Lăng thầm gật đầu: "Trước mắt ở xã hội phong kiến đại nhất thống như thế này, nếu muốn cải cách thành công, chỉ có làm từ trên xuống dưới, làm cho được chức quyền quy về một. Nếu như không gia tăng sức khống chế đối với các cấp cơ cấu của triều đình, thì cải cách chỉ là nói suông. Bên trên hao tổn tâm cơ chế định ra chính sách, thì bị bên dưới sắp xếp theo ý mình, căn bản không thể thực thi một cách quán triệt.

Cho nên, tăng cường trung ương tập quyền là điều tất yếu. Kỳ thực tập quyền cũng được, phân quyền cũng được, đều có một thời đại bối cảnh phù hợp với nó. Trên cơ sở chính trị, kinh tế, văn hóa trước mắt, và với trình độ khoa học kỹ thuật năng lực truyền tin lúc bấy giờ, nếu như muốn phân quyền, muốn dân chủ, thì thật sự là đưa đầu cho lừa đá rồi. Đem chủ nghĩa không tưởng ra mà thực hiện, không làm cho thiên hạ đại loạn mới lạ.

Đương nhiên, tập quyền như thế này lại có chỗ khác. Nếu như đại quyền toàn bộ nằm trong tay Hoàng Đế, lúc Hoàng Đế là minh quân, vậy thì hằng ngày phải xử lý trăm công nghìn việc rồi, có thể khiến cho ngài mệt chết. Còn nếu như đó là hôn quân, vậy thì thiên hạ ai nấy cũng đều hủ bại.

Trên thực tế, đề nghị của Thành Khởi Vận là tăng cường năng lực cầm quyền trong Nội các, mà năng lực này, lại đặt dưới sự giám sát của hệ thống giám sát. Cứ như vậy, Nội các không phải là ở dưới một người, chính tích của các quan viên và phẩm tính cá nhân lại chịu sự khống chế khá mạnh mẽ, đích thật là biện pháp tốt để đề cao hiệu suất của đội ngũ quan liêu.

Quan trọng nhất là, điều này hoàn toàn phù hợp với phân tích về quyền lực mà Lý Đông Dương nói. Mặc kệ là cải cách gì, nhất định phải tổn hại đến quyền lợi của một bộ phận, mấu chốt của vấn đề là ngươi có thể tranh thủ sự ủng hộ của một bộ phận quan liêu khác hay không. Dựa theo phân tích này, quyền lực của Nội các được gia tăng, quyền lực của khoa đạo được gia tăng, vậy thì đầu tiên mình sẽ tranh thủ cả hệ thống giám sát, trở thành người ủng hộ kiên định bất di bất dịch của cuộc cải cách của mình.

Trước khi Dương Thận đi Nô Nhi Can, từng đề cập những kiến giải tương tự với hắn, hiện tại không mưu mà hợp với những điều mà Thành Khởi Vận nói, Dương Lăng không khỏi khen ngợi không ngớt lời. Hắn và Thành Khởi Vận lại tỉ mỉ thảo luận vài điểm, về phương pháp khảo hạch của khoa đạo quan đối với quan viên, như trưng thu thuế phú, kiểm tra cuối nhiệm kỳ, chế độ bổ nhiệm và miễn nhiệm của chính tích khảo hạch.

Trong quá trình phân tích, một vài điều vừa hay chính là cái mà lúc trước Lưu

Cẩn từng làm, chẳng qua Lưu Cẩn làm như vậy hoàn toàn chỉ là vì chỉnh đốn mọi người, mượn việc khảo hạch để tuyển tài cho mình, kết quả là khiến cho lão nghĩ sai lệch. Giờ nhắc lại chuyện xưa, nhớ đến Lưu Cẩn, Dương Lăng không khỏi xúc động thật lâu, đồng thời cũng cảnh tỉnh bản thân:

Dùng thái độ nhập thế mà làm việc, dùng thái độ xuất thế mà làm người.

Cái quyền lực này mình không thể cần, cũng quyết không thể giao cho một cá nhân nào. Quyền lực thi hành này, nhất định phải thật sự buông bỏ, đưa vào tay lục khoa thập tam đạo, nhiều khoa đạo quan như vậy, giữa bọn họ có thể chế ước lẫn nhau, phòng ngừa có người quyền lực tập trung quá nhiều, huống hồ bên trên còn có Nội các kiềm chế lẫn nhau nữa.

Khảo hạch đối với quan viên tập trung vào trưng thu thuế phú, kiểm tra cuối nhiệm kỳ, thì đảm bảo khảo hạch có căn cứ, có chừng có mực, mà không phải là do quan viên giám sát nói ra. Lại trị chỉnh đốn là gốc, hiển nhiên là do nó có liên quan đến rất nhiều phương diện khác, tỷ như vấn đề đả kích những cường hào phạm pháp, truy kích cường hào nợ thuế. Từ đó cứ kéo dài ra, hai người lại vừa nhớ vừa viết một hồi, thì đến vấn đề khiến người ta đau đầu nhất.

Thành Khởi Vận nói:

- Kỳ thực, tất cả những cải cách này, đều là những mắt xích đan xen nhau, bổ trợ lẫn nhau. Lại trị chỉnh đốn, ảnh hưởng đến trưng thu thuế phú và pháp luật, về phương diện liêm chính, vấn đề đất đai lại lại liên quan đến hình danh liêm chính và trưng thu thuế phú. Nói đến vấn đề đất đai bị kẻ quyền quý thâu tóm, đây lại phải nhắc đến một phần công lao của Lưu Cẩn Lưu công công.

- Lão đo đạc đất đai là vì làm nổi bật chính tích cá nhân, vì lấy hết đất đai nằm trong khả năng để tranh công, hại rất nhiều người nhà tan cửa nát, nhưng hiện tại sau khi kiểm tra đối chiếu thực tế đất đai của những khổ chủ đó rồi trả về, số lượng đất đai còn lại thật sự là đúng số lượng.

- Quan lại thân sĩ bá tánh thật sự có bao nhiêu đất đai hợp pháp, bị lũ cường hào địa phương giấu nhẹm đi không báo cáo hoặc đã chiếm lấy bao nhiêu đất đai của triều đình, cũng đều đã ghi chép trong án rồi. Chỉ mỗi đất đai giấu giếm không báo thì đã có một trăm bốn mươi bẩy vạn khoảnh, có đến tám mươi vạn khoảnh trốn thuế, đúng không? Có những số liệu này, trưng thu thuế phú, thậm chí là là cải cách thuế phú cũng dễ dàng hơn nhiều.

Thành Khởi Vận hé miệng cười nói:

- Đại nhân đã liệt kê ra một số địa phương đang làm thăm dò thử phương pháp thuế phú hợp lý hơn, tỷ như "Lý giáp ngân" thi hành ở Ứng Thiên phủ, "Quân bình ngân" ở Chiết Giang, Quảng Đông, "Cương ngân" ở Phúc Kiến, còn có "Thập đoạn gấm" ở Giang Nam. Nhưng phương pháp thuế phú này phần lớn đã thay đổi thuế phú bằng hiện vật truyền thống, đổi thành dùng bạc để nộp, vừa thuận tiện cho triều đình trưng thu, mà vận chuyển hay bảo quản, cũng không cần lo lắng về khâu bảo

quan cho khỏi bị hư hao.

- Nhưng thiếp cảm thấy trong những phương pháp này, vẫn là phương pháp gom nhiều loại thuế thành một hay nhất. Thực hiện phương pháp này, tất cả các lao dịch, tạp phí, đều nhập lại làm một thứ, sai dịch quy vào thuế ruộng, tất cả đều tính theo thuế ruộng đất, vừa không giảm ngạch, lại không tăng thuế, dân nghèo không có đất không cần nộp thuế, mà phú hào không thể được ưu tiên, lao dịch công bằng, nên sẽ không có ai oán thán là bất công nữa.

Dương Lăng gật đầu nói:

- Đúng, hơn nữa lấy ngân lượng thay cho thuế bằng hiện vật, lao dịch, sẽ mở rộng lưu thông tiền tệ, làm suy yếu mối quan hệ phụ thuộc của nông dân đối với các giai cấp khác, đồng thời những người bán hàng rong và thợ thủ công cũng được tự do. Việc này rất quan trọng đối với phát triển công thương.

Điều này, Dương Lăng đã âm thầm thảo luận với một vài đại thần trong triều, cũng đã được sự tán thành của bọn họ. "Nhất Điều Tiên" pháp (tập hợp tất cả các loại thuế vào thuế đất), đảm bảo thuế phú triều đình sẽ ổn định, sẽ không khiến người giàu càng giàu, người nghèo càng nghèo, cho đến lúc túng quẫn tạo phản. Tăng cường phát triển công thương, nông dân có đất vui cày cấy, phú hộ trong thành vui bán buôn, cũng sẽ không xâm phạm quá nhiều đến lợi ích của quan lại thổ hào, nên tránh được phản đối mạnh liệt ở địa phương, làm cho tâm huyết của mình đổ sông đổ biển.

Nhất Điều Tiên pháp khiến cho quan viên khó có thể tiếp tục lợi dụng thuế phú để tham ô, giảm bớt gánh nặng cho dân nghèo, gia tăng thu vào cho triều đình, hơn nữa những quan lại thổ hào có thể tiếp nhận trong phạm vi. Đây là sách lược cải cách khá thiết thực, nếu như thật sự nóng nảy, muốn cưỡng ép trả đất cho dân, đánh thổ hào chia ruộng đất, thì mình trước tiên đã dẫn một đội ngũ lên núi đánh du kích rồi.

Hai người càng nói càng vui vẻ. Suy nghĩ trong lòng Dương Lăng cũng càng lúc càng rõ ràng, hắn vui mừng nói:

- Nói rất hay, hiện tại mấy người Tiêu Các lão, Dương Nhất Thanh có lẽ đã đặt nha môn. Ta đi vào thành xem thử, thảo luận với bọn họ một chút, hai ngày nữa sẽ trình lên Hoàng Thượng.

Dương Lăng chỉ lo mừng rỡ, mà không chú ý đến chuyện lời khuyên của A Đức Ny không được coi trọng khiến nàng oán giận. Thấy hắn vội vàng đứng dậy rời khỏi, A Đức Ny lại càng tỏ vẻ lạc lõng

- Kỳ thực Hoàng Thượng đã từng nhìn thấy những điều này, chính thức dâng thư chẳng qua chỉ là cho đưa ra một tín hiệu cho thiên hạ, một tín hiệu cải chế mà thôi. Bổn Quốc công phụ trách quét sạch cường đạo, an trí lưu dân, mắt thấy tai nghe ở những địa phương, biết rõ nếu không thể khiến nước giàu binh mạnh, bá tánh lạc nghiệp, thì diệt phỉ sẽ không hoàn thành được, mà không thể loại bỏ tệ nạn, thi hành chính sách mới, thì không thể nước giàu binh mạnh.

- Đương kim Hoàng Thượng tuổi còn trẻ, đang muốn có một phen thành tựu. Các vị đại nhân đều là thần tử trụ cột của nước nhà, xin hãy tận tâm tận lực, phát biểu ý kiến của mình, sau cùng ta lại cân nhắc một lần nữa về những tờ sớ can gián này, để giúp cho chính sách mới có thể thực hiện thuận lợi. Lưu đại nhân, ngài có ý kiến gì không?

Dương Lăng đảo mắt nhìn quanh, cao giọng nói. Trong phủ của Tiêu Phương, mấy vị đại nhân được mời đến ngồi xung quanh, đang tiến hành bước cân nhắc cuối cùng đối với chính sách cải cách mới.

Thứ mang lên bàn tiệc vĩnh viễn là món đã nấu xong. Việc thực hiện và quyết sách của một chính sách, chẳng thể nào không phải là kết quả có từ điều tra, nghiên cứu tỉ mỉ, cân bằng các thế lực, và được cân đối trước đó. Giống như hiện tại, Dương Đình Hòa và Dương Nhất Thanh không hợp, nhưng thế lực của y đã chiếm hai ghế trong Nội các, đối với việc thi hành quyết sách đều có ảnh hưởng hết sức quan trọng.

Mặc dù cải cách lại trị đã định cực kỳ có lợi đối với Nội các, sẽ không đụng chạm đến quyền lợi của y, ngược lại còn tăng thêm quyền lợi, nhưng trước đó cứ giấu diếm không nói, gạt y ra ngoài khó tránh sẽ khiến y sinh lòng ngăn cách, cho

nên Dương Lăng cũng mời Hộ bộ Thượng thư Lưu Trung đến. Y là người của Dương Đình nha, y có mặt, thì coi như bất cứ lúc nào cũng có thể kể lại cho Dương Đình Hòa về những việc y nghị định.

Ý kiến mà Lưu Trung nói ra, mọi người đều hiểu ngầm với nhau, đương nhiên biết đó chính là đại diện cho ý kiến của Dương Đình Hòa. Cho nên Dương Lăng nói xong, liền nhìn y đầu tiên, muốn biết ý kiến của Đại học sỹ Dương Đình Hòa, Lương Trữ.

Lưu Trung khiêm tốn cười nói:

- Lúc hạ quan ở Hàn Lâm viện, chỉ biết cổ vũ văn tự, đả kích tệ nạn đương thời, đối với một số chuyện chính trị thấy mà như không thấy, không ai thay đổi, cảm thấy không thể tin nổi, chỉ cho rằng quan trong triều không lo làm việc, không làm đúng chức vụ, mãi cho đến khi làm được chức Hộ bộ Thượng thư này, hữu tâm vô lực, bước đi gian nan, mới biết tệ nạn đã ăn sâu, không dứt khoát thì khó mà đạt hiệu quả.

- Trước mắt việc sát nhập đất đai quan trọng, lưu dân bốn phía, dịch họa nổi lên, quốc khố trống rỗng, chi phí thiếu thốn; bắc có Thát Đát, tây có Thanh Hải cũng có dị động, Cáp Mật đóng quân tiến thoái lưỡng nan, phía nam thổ ti tranh quyền đoạt lợi, cải chế cách tân là vô cùng cấp bách, hạ quan vô cùng tán đồng.

Đây chính là kết quả của việc phân phối quyền lực, nếu như không làm như vậy, ngay cả Dương Đình Hòa đồng ý trong lòng, cũng khó tránh khỏi bị làm khó dễ. Dương Lăng nghe vậy rất vui, chỉ nghe Lưu Trung nói:

- Hạ quan chỉ có một đề nghị, những người tay to mặt lớn chiếm cứ đất ruộng, có thể ép họ phân phát lại cho nông dân. Bên cạnh đó không quan tâm đất đai bọn họ chiếm cứ là bao nhiêu, bao gồm điền sản giấu diếm chưa đóng thuế, chỉ có thể tăng mạnh quản lý, thu thuế phạt tiền, mà không thể tịch thu chia cho bình dân.

- Nhất Điều Tiên pháp, có chỗ tốt cực lớn đối với bần dân, nhưng lại không hướng về nông dân không có đất. Lưu dân là căn nguyên của tai họa, lại không thể giải quyết vấn đề này. Hạ quan cho rằng, hiện tại công thương phát triển, mở thông

đường biển, thông thương lẫn nhau, Quan Đông di dân có thể giải quyết một bộ phận lớn lưu dân, đất đai chiếm cứ đo đạc ra được còn có thể giải quyết một bộ phận.

- Ngoài ra, phải mời Binh bộ Lục đại nhân nhọc lòng hơn nữa, cải cách binh chế, triệt tiêu Vệ Sở, phải chú trọng quản lý đo đạc quân điền đồn điền thanh lý. Mảnh đất lớn này còn có thể sắp xếp cho một bộ phận lưu dân. Đến lúc đó, ngay cả có còn lưu dân đi nữa thì số lương vẫn hữu hạn không thể làm nên trò trống gì, trừ phi xuất hiện thiên tai nhân họa cực lớn, mà triều đình không đủ sức cứu tế. Bằng không cũng sẽ không xuất hiện cục diện, một người hô cao, vạn chúng hưởng ứng tạo phản đâu.

Dương Lăng khẽ vuốt cằm, thầm nghĩ: "Đây nhất định là trù tính của Dương Đình Hòa rồi. Người này rất thực tế, có thể bao quát lợi ích các phương diện, phản đối mà chính sách nhận được về các phương diện không quá kịch liệt, lại có thể giải quyết các vấn đề một cách hữu hiệu, quả nhiên là tài năng."

Lục Hoàn lo lắng nói:

- Nhất Điều Tiên pháp tuy sẽ khiến đám quyền thân bị chút tổn thất, nhưng các thân sỹ tiến bộ, thân sỹ giữ đúng pháp luật vốn dĩ là chiếu theo ruộng đất nộp thuế, cơ bản là không có ảnh hưởng gì. Vì dùng bạc nộp thuế, không cần dùng lượng lương thực tương đương do quan phủ quy định để nộp, bọn họ thu hoạch còn nhiều hơn, sẽ ủng hộ sách này. Hạ quan cho rằng ảnh hưởng chỉ là những thân hào quyền quý xưa nay giấu diếm đất để trốn thuế.

- Bộ phận này bất mãn là điều chắc chắn, nhưng thông qua chỉnh đốn lại trị có thể triệt tiêu sự cản trở của một bộ phận quan lại thế gia, lại thêm sự khuấy động của lần lưu dân tạo phản này, đại bộ phận bọn họ sẽ hưởng ứng. Phải nói rằng, người khó có thể chạm đến, có lẽ là vương hầu công khanh. Thật sự muốn thực hiện, Quốc công gia, nhất định có người sẽ động tay chân.

Dương Lăng thản nhiên cười nói:

- Điều này, ta đã đoán ra rồi. Một tay cầm cà rốt, một tay cầm gậy to. Ta vốn

không trông cậy nói hay thương lượng hay khiến mọi người đồng ý. Có mấy người, chẳng qua chỉ cần giết gà dọa khỉ. Vậy thử đao từ đâu đây?

Lục Hoàn gật đầu nói:

- Quốc công gia diệt phỉ thì chỉnh đốn chính trị trước, đây là kế sách quét sạch từ gốc. Hoàng Thượng cũng có lòng làm, thì hạ quan đương nhiên dốc hết toàn lực. Chỉ có điều hiện tại đang dụng binh, lúc này cải cách binh chế dễ khiến quân tâm dao động, không thể không lo. Mà quân đội hủ bại, đồn điền thất thoát, lại liên quan đến lại trị và cải chế đất đai, việc trọng đại. Hạ quan lao tâm khổ tứ, cảm thấy có thể dùng cách dung hòa

Y vê râu nhìn Binh bộ Thượng thư tiền nhiệm Dương Nhất Thanh, nói:

- Về cải cách binh chế, hạ quan cho rằng có thể tách ra từ trong Thập Nhị Sơ, chậm rãi tiến hành, lửa chậm nấu nhừ, làm không ầm ĩ. Hiện tại sức chiến đấu của đoàn luyện các nơi không dưới Vệ Sở binh, thậm chí còn muốn mạnh hơn mấy phần. Triều đình không ngại đưa chiếu lệnh đến tuần phủ các nơi, mở rộng đoàn luyện, chỉnh đốn quân bị.

- Hiện tại chẳng phải lưu dân nổi lên bốn phía sao? Có thể thay đổi quy định đoàn luyện chỉ chiêu mộ binh sỹ bản địa, tiếp nhận một bộ phận binh sĩ là lưu dân nhập ngũ, như vậy tố chất binh sĩ được bảo đảm, lại khiến phản tặc không có lưu dân để dùng. Sau khi chiến sự kết thúc, lại tuyên bố đổi đồn điền nuôi binh làm mộ binh. Những Vệ Sở binh từ lâu đã không muốn tham gia quân ngũ thậm chí còn tìm cơ hội bỏ trốn đương nhiên sẽ vui vẻ phục tùng. Lỗ hổng binh sĩ trong quân đội cũng có thể lập tức dùng đoàn luyện binh đã huấn luyện để bổ sung vào. Mộ binh chế có thể tiến hành vừa nhanh vừa ổn định rồi.

Dương Nhất Thanh cầm binh đã lâu, trước giờ y luôn đảm nhiệm chức vụ trong đội ngũ biên quân, mà đại bộ phận biên quân dùng mộ binh chế, binh sĩ vốn dĩ

không hạn chế là người bản địa, cho nên y suy nghĩ một hồi lâu, liền gật đầu tán thành nói:

- Từ nhi đồ chi, tòng dung binh bị (từ từ mà đạt được, ung dung chỉnh đốn quân), bổn quan cho rằng có thể làm được. Chỉ có điều phải lệnh cho Binh bị đạo, Đoàn luyện sứ các nơi phải gia tăng thăm dò binh sĩ, đừng chiêu mộ kẻ vô lại, có tiền án vào đội ngũ.

Lục Hoàn cười nói:

- Dương đại nhân yên tâm. Hiện tại loạn phỉ nổi lên bốn phía, sau khi đoàn luyện mới được thành lập, phải tham dự bao vây tiễu trừ lưu phỉ. Trong chiến sự, binh sĩ có đủ tư cách hay không, tự sẽ được khảo nghiệm phù hợp.

Tiêu Phương thấy không ai phản đối nữa, liền ghi chép điều này vào hồ sơ. Lễ bộ Thượng thư Vương Hoa nói:

- Đạo trị quốc không ngoài mưu cầu phú cường, nhưng sĩ tử văn nhân tôn sùng, đa phần là lý học Tống Chu, coi trọng tâm ngoại vô vật, bất giả ngoại cầu (ngoài tâm không có gì cả, không cần phải cầu từ bên ngoài). Những người thế này đã làm quan thì không trọng quốc kế dân sinh đâu. Bọn họ bốc phét, ba hoa, xem thường thực tế dân sinh, dùng lời nói suông làm hại đất nước.

- Hạ quan cho rằng, có thể tập trung một đám Hồng học đại nho, quan viên thoái sĩ, giáo huấn về hưng vong thịnh suy, đề xướng học thuyết pháp chế vô thường, cận dân vi yếu, cổ kim dị thế, tiện tục vi nghi (một học thuyết trong biến pháp của Trương Cư Chính), khiến quan viên các cấp từ bỏ quy tắc cũ, lấy nước giàu binh mạnh làm nhiệm vụ hàng đầu, quét sạch những lời lẽ suông vô dụng, đòi hỏi hiệu quả thực tế trong thực hành, đem trị học lý chính và giải quyết quốc kế dân sinh kết hợp lại, quét sạch áp lực dư luận.

Dương Lăng vui mừng đồng ý, nói:

- Đúng vậy, lời Vương Thượng thư nói chí phải. Thi hương năm nay, khoa cử phải gia tăng phần thời sách chính luận, giảm bớt thi từ ca phú, sau này đề thi cũng

phải như vậy. Để có thể thi đậu, các học sinh sẽ chú trọng hiện thực, quan tâm đến dân sinh quốc sự. Theo ta thấy chuyện này mới là đại sự hàng đầu của Lễ bộ, nhất định phải thay đổi thói nói suống không thực tế từ tận gốc, bồi dưỡng nhiều năng thần có tài thật sự cho triều đình, mà không phải là đạo học hủ lậu.

Các quan viên hợp mưu hợp sức, trau chuốt lại sách lược tân chính chuẩn bị thi hành lần sau cùng, rồi mới cáo từ.

Tiêu Phương ghi chép lại ý kiến về các phương diện, các đoàn thể lợi ích, rồi nói với Dương Lăng:

- Quốc công, tân sách đưa ra không khó, khó ở chỗ thi hành. Sách lược chính trị lớn này, Nội các và Lục bộ còn có Khoa đạo đều tán đồng, hơn nữa Hoàng Thượng vô cùng ủng hộ, lại là vì giải quyết ảnh hưởng chính trị của các phương diện trong triều đình, lý do đường hoàng, người phản đối rất khó có thể đưa ý kiến phản đối của mình ra.

- Nhưng biến cách này, bất kể là điều nào cũng liên quan đến lợi ích của rất nhiều người. Mỗi con đường đều có mấy con cọp lớn. Cọp lớn chặn đường không bị đánh gục, người rảnh rỗi sẽ đều bắt chước theo. Vậy thì bất luận quốc sách có hoàn thiện bao nhiêu, cũng chỉ có một đường thua mà thôi.

Dương Lăng nói:

- Ừm, điều này ta đã tính trước. Đừng thấy Hoàng Thượng tán thành, Nội các thực hiện, mỗi con đường có vẻ đều rất thông thuận, nhưng khó tránh có vài người trong lòng ôm suy nghĩ cầu may, hơn nữa sẽ đẩy ra mấy đại nhân vật đến gánh vác. Cửa ải này, đừng bàn đến nữa.

- Ta vội vã trở về kinh đích thân tọa trấn. Một là lo lắng thế cục Thanh Hải, cũng chính là do suy nghĩ này. Mặc kệ hổ lớn gì, đều phải nghĩ cách quật ngã nó. Ta sẽ ở trong kinh chờ thêm mấy ngày nữa, đợi các sách lược bước đầu thi hành, ta lại đi Sơn Tây.

- Khụ khụ khụ!

Tiêu lão đầu ho khan mấy tiếng, ngữ diệu có hơi quái dị, nói:

- Có một con hổ lớn, nhất định sẽ bị người ta đẩy ra trước làn tên. Dương Lăng trầm giọng nói:

- Là người nào?

- Đương kim Diễn Thánh Công gia. Dương Lăng khẽ giật mình:

- Diễn Thánh Công? Y lại làm gì rồi à?

Loại thế gia đã không còn tiếp diễn được bao nhiêu triều đại này, giỏi nhất là khiến người khác đau đầu. Năm Thành Hóa bính tuất, tháng ba, Diễn Thánh Công Lỗ Hồng Tự cưỡng hiếp hơn bốn mươi phụ nữ, cưỡng sát bốn người bá tánh vô tội, chỉ bị đoạt tước vị, do đệ đệ thay thế, mà sau khi y sinh con trai, vẫn muốn đòi tước vị về. Giết người hại mạng, Hoàng Đế trừng phạt cũng là lẽ thường.

Chân nhân được kế thừa duy nhất của Sơn Tây Long Hổ sơn Trương Nguyên Cát đã vi phạm quyền hạn sử dụng khí vật, cướp đoạt phụ nữ, vì lợi lộc trước sau đã hại chết hơn bốn mươi bình dân bá tánh, trong đó có một nhà ba người đều bị mưu hại. Kết quả là cũng bị tước đi phong hiệu. Cái gì gọi là đặc quyền? Đặc biệt đến nỗi Hoàng Đế cho rằng ảnh hưởng đối với giang sơn của việc giết một phạm nhân còn hơn cả giữ gìn tôn nghiêm của luật pháp. Lực lượng thế gia như thế này đã lên đến tột cùng rồi.

Chỉ nghe Tiêu Phương nói:

- Diễn Thánh Công về quê còn chưa đến nửa tháng, hiện tại đã có hai vụ án cáo đến kinh. Tam ti không dám quản, Lục bộ không dám nhận, liền đẩy qua chỗ ta.

Đây chỉ là một chuyện nhỏ, nhưng triều đình muốn chỉnh đốn lại trị, muốn thanh lý ruộng đất bị chiếm, nhất định sẽ có người làm lớn chuyện này để khiến triều đình khó xử, cho nên phải sớm nghĩ cách.

Hóa ra sau khi Diễn Thanh Công hồi hương thấy phủ đệ bề bộn, lương thực đều tịch thu, thực căm hận không nguôi. Quãng thời gian đó, tính khí y không tốt lắm.

Đất của nhà y, hơn trăm vạn mẫu thẳng cánh cò bay không thấy bờ, kéo dài đến mấy huyện.

Vừa lúc huyện lân cận có một mảnh đất của nhà y, ở giữa có một con rạch chảy qua, mà thượng du là mấy mươi mẫu đất của một tiểu địa chủ. Lúc này triều đình đã phân phát loại lương thực dễ trồng sớm chín, các nhà đều gấp rút gieo trồng. Khổng gia chê nguồn nước sử dụng không tiện, liền có gút mắc với hộ gia đình nọ, Khảo lão thái gia tính khí không tốt cho lắm chỉ cần bày mưu một chút, tự nhiên sẽ có người lấy tội danh qua lại với giặc phỉ hại dân đi kiếm chuyện với gia đình nọ, cuối cùng dùng cái giá vô cùng rẻ để cưỡng ép "mua" đất của nhà nọ.

Một chuyện khác là trong nhà y có tên hạ nhân, là tiểu quản gia có địa vị coi như cũng khá cao. Huynh đệ của y có công diệt phỉ trong quân, thăng làm Bách hộ, đi Khổng phủ thăm đại ca. Hai người nói rất vui vẻ, muốn về nhà thăm cha mẹ một chuyến, đi về chẳng qua chỉ mất thời gian không quá ba ngày. Khổng lão thái gia không đồng ý. Bách hộ kia đụng chạm mấy câu, lão thái gia giận dữ, lập tức lôi từ nhà bếp lên tận nhà trước, đè tên Bách hộ này và ca ca của gã xuống đất, đánh mỗi người sáu mươi đại côn, đánh đến hai người mình đầy thương tích.

Lúc này là thời chiến, tàn phỉ Sơn Đông còn chưa diệt sạch, chỗ dựa của quan binh khá vững chắc. Vị Tham tướng lãnh binh chính là Kiều Tứ Hải. Y đau lòng cho quan tướng của mình. Quan viên Sơn Đông Tam ti không dám quản, y liền cáo trạng lên kinh. Thuận theo đó, sẽ đem chuyện Khổng lão thái gia chiếm phi pháp hơn mười vạn mẫu đất mà quản gia nọ biết báo lên trên không sót chút nào.

Dương Lăng nghe rõ chân tướng, cẩn thận suy nghĩ một hồi, mơ hồ đã có một chủ ý hay để xử lý. Hắn cười mà như không, nói:

- Ta biết rồi. Chuyện này, dù sao cũng phải để các tướng sĩ đang đổ máu đánh trận dùng ác khí nói ra mới được. Về phần đất đai chiếm cứ không hợp pháp, cũng phải khiến cho y nhả ra. Chuyện này ta sẽ bắt đầu chuẩn bị ngay bây giờ, không thể để cho y trở thành chướng ngại vật cho công cuộc cải chế cách tân của ta.

Tiêu Các lão ừ một tiếng, lại nhỏ giọng nói:

- Quốc công gia, môn hạ có thể nghĩ đến, còn có một người, không chắc ngài có gan đủ lớn để lôi người đó ra.

Dương Lăng cười ha ha, lạnh nhạt nói:

- Nói đi, lại là con hổ lớn nào? Tiêu Các lão lắc lắc đầu, nói:

- Vị này không phải là hổ, mà là rồng, một con rồng thật sự!

- Hả?

Dương Lăng trố mắt ra, nói:

- Đương kim Hoàng Thượng! Hoàng Thượng có cái thóp nào? Tiêu Các lão kề tai hắn, nhỏ giọng thủ thỉ

Dương Lăng từ chỗ của Tiêu Phương trở về phủ, vào gian phòng của Ấu Nương. Hài tử chơi mệt hiện đang nằm ngủ, lộ ra đôi chân trần nhỏ bé mũm mĩm tựa như hai cái ngó sen, trên bụng đắp một tấm chăn mỏng, khuôn mặt đỏ hồng hây hây, chóp mũi lấm tấm mồ hôi.

Hai người ngồi ở bên giường thì thầm hồi lâu, Hàn Ấu Nương nghe xong câu chuyện của Dương Lăng lo lắng nói:

- Tướng công, đó là tấm gương của vạn thế, hậu duệ của Khổng Thánh, không thể khinh động được. Thiên hạ này chỗ nào mà chẳng có người đọc sách làm quan, đến lúc đó đắc tội với ai còn không biết chừng.

Dương Lăng cười nói:

- Nàng yên tâm đi, ta sẽ không hành động theo cảm tính đâu. Chuyện sảy ra với y đến thật là đúng lúc, ta muốn bố trí một chút, lợi dụng sức ảnh hưởng của Khổng gia nhà y để thổi thêm sức gió vào con thuyền cải cách, cũng coi như giúp y lấy công chuộc tội vậy.

Ta sẽ không làm to chuyện của y ra đâu, tuy nói quyền của y to cỡ nào cũng không thể bằng quyền lực của vua, có điều, chiếm đất của dân, ỷ lớn hiếp nhỏ là chuyện sảy ra nhan nhản, cũng không thể coi là chuyện to tát gì. Nếu thực sự đem y ra thử đao, quả thực có chút chuyện bé xé ra to, lại khiến y cảm thấy ta có ý đối phó

y. Muốn thử đao, ta cũng sẽ không chọn miếng thịt khó chặt như vậy.

Trách người làm việc xấu không nên quá cay nghiệt, phải xem họ có thể tiếp thu đến đâu, khuyên người làm việc thiện không nên quá kỳ vọng, phải xem họ có thể làm được đến đâu. Tướng công đây hiểu đạo lý này chứ, ha ha! Không phải xem

tướng công giống như tiểu tử chưa ráo máu đầu không hiểu sự đời đấy chứ.

Hàn Ấu Nương liếc mắt nhìn hắn một cái, cười như không cười, nói:

- Ồ? Tướng công rất hiểu sự đời sao, ha ha, vậy chuyện gì lại khiến cho cô nương A Đức Ny phải buồn như vậy chứ?

Dương Lăng ngẩn ra, hỏi ngược lại:

- Sao lại nói như vậy? Nàng ấy sao lại không vui chứ? Ấu Nương khẽ cười nói:

- Thiếp thấy nàng ấy rầu rĩ không vui, suốt cả buổi chiều chỉ ở hậu hoa viên, nhìn thấy thiếp cũng chỉ miễn cưỡng giả bộ vui vẻ. Chuyện này nha, bọn thiếp khuyên không được, ngoại trừ chàng ra, nghĩ tới nghĩ lui cũng không tìm được nguyên nhân thứ hai. Ôi! Quê nhà của người ta xa ngoài vạn dặm, vậy mà vẫn toàn tâm toàn ý đi theo chàng. Chúng ta cũng không thể để người ta phải chịu ủy khuất. Chàng thấy có đúng không?

Dương Lăng cười khổ nói:

- Nàng đó nha, lúc nào cũng chỉ biết cảm thông người khác, tướng công của nàng là người như vậy sao? Thôi được rồi, ta đi xem sao, xem nàng ấy có tâm sự gì.

Ấu Nương "Ừ" một tiếng, ôn nhu khoác lên người hắn chiếc áo choàng nhẹ.

Dương Lăng thản nhiên đi về hướng hậu viên.

Nơi này bởi vì tăng cường xây dựng phòng ốc, nên lại mở rộng thêm một mảnh lớn. Chỗ luyện võ của Ấu Nương được chuyển đến bên trên Noãn Diếu, còn mảnh đất bên cạnh Quả Lâm vẫn đang trồng rau xanh, còn có mấy luống ngô, khoai lang, khoai tây, cà chua và gần đây có thêm cây lạc là cây được du nhập vào Trung thổ sau khi đường đi Nam Dương được khai thông.

A Đức Ny đang ngồi trên một tảng đá bên cạnh luống cà chua, trong tay cầm một cây gỗ gõ một cách bâng quơ xuống mặt đất, vẻ mặt cô đơn, si ngốc xuất thần.

Dương Lăng rón ra rón rén đi đến bên cạnh của nàng, A Đức Ny cả kinh, bờ vai giật nhẹ một cái, nhìn thấy là hắn, vừa muốn đứng lên. Dương Lăng đã đặt tay lên bờ vai của nàng, mỉm cười ấn nàng ngồi xuống, dịu dàng nói:

- Làm sao vậy, có tâm sự gì ư? A Đức Ny lắc lắc đầu, nói:

- Không có.

Dương Lăng vẫn chăm chú nhìn nàng, ánh mắt của A Đức Ny dần dần hoảng loạn lên, rốt cục, nàng hơi nghiêng đầu, than nhẹ một tiếng nói:

- Muội phát hiện ra, những hiểu biết của muội lại không có đất dụng võ ở Đại Minh, ngoại trừ chế tạo vũ khí giết người. Muội không hiểu về Đại Minh, rất nhiều sự việc cũng chỉ đành cho là đương nhiên phải vậy. Những điều muội tưởng là đúng, thì đôi khi lại trở thành hành vi rất buồn cười.

Dương Lăng hơi ngẩn ra, lập tức tỉnh ngộ:

- Hẳn là thiếu nữ thiên tài xinh đẹp người Tây Ban Nha này từ nhỏ đã là người cao ngạo được mọi người tán tụng, hơn nữa sự cao ngạo của nàng không phải đến từ dung mạo, mà là tài học của nàng. Tri thức mà nàng thông hiểu không chỉ vẻn vẹn giới hạn ở lĩnh vực vũ khí, nhưng hiện tại là ở Đại Minh, một khi rời khỏi chiến trường, rời khỏi lĩnh vực chế tạo vũ khí sở trường của nàng, những ý tưởng hết sức tinh vi và phức tạp đều bị phủ định một cách dễ dàng, khiến cho lòng tự trọng của nàng bị tổn thương đến mức chịu không nổi nữa rồi.

Dương Lăng cười rộ lên, vóc dáng của người phương Tây trưởng thành sớm, hơn nữa nàng nhiều lần trải qua biến cố, tính cách lại càng kiên cường độc lập, bản thân mình đã quên mất nàng vẫn còn là một tiểu cô nương, trên phương diện tâm lý vẫn còn rất yếu đuối. Không nghĩ tới nàng bởi vì một phen tranh luận thất bại với Thành Khởi Vận, bản thân hắn lại vội đi gặp vài vị trọng thần của triều đình, đối với nàng có chút sao nhãng, khiến cho nàng sinh ra cảm giác mất mát.

- Nha đầu ngốc, ai nói muội vô dụng hả! Ha ha..., chỉ có muội mới có ý nghĩ kỳ quái như vậy, nữ nhân Đại Minh chúng ta còn tin tưởng mù quáng rằng nữ tử mà vô tài thì hẳn là đức độ nữa đó, ha ha...

Dương Lăng vô cùng thân thiết ôm nàng vào trong lồng ngực cười phá lên. A Đức Ny nhíu mày, rất chân thành nói:

- Muội nói thật mà, nữ công muội không biết, làm bếp muội không thạo, chốn quan trường muội cũng không giúp được huynh, đợi đến khi gả cho huynh, chẳng lẽ lại chuyên môn phụ trách chế tạo súng đạn cho Dương gia? Trên phương diện là một nữ nhân, muội quả thực là vô dụng!

- Ai nói muội vô dụng?

- Vậy hữu dụng ở chỗ nào?

- À thì...không tạo ra súng đạn, muội vẫn có thể tạo ra...người mà, trước tiên sinh cho Dương gia một hài nhi ngoại quốc đã!

A Đức Ny run người trong khoảnh khắc rồi mới có phản ứng, hai ráng mây hồng tức thời ửng lên trên đôi má của nàng, nàng ngượng ngùng đánh Dương Lăng hai cái, sau đó áp sát vào trong lồng ngực của hắn, u uẩn nói:

- Dương, không nên gạt muội, huynh thực sự yêu thích muội sao?

- Sao kỳ vậy! Chúng ta đã... như vậy như vậy rồi, nếu không thích muội, sao huynh lại làm... như thế như thế với muội?

Hai má A Đức Ny nóng bỏng, rúc vào lồng ngực của hắn, gắt giọng:

- Vậy thì chưa chắc, nam nhân các ngươi phong lưu chơi bời quen rồi. Muội... Muộn vốn cũng nghĩ rằng huynh nhất định sẽ yêu thích muội, nhưng tới nhà huynh rồi, muội mới phát hiện, không chỉ có Khởi Vận tỷ tỷ xinh đẹp tuyệt trần, Ngọc Nhi, Tuyết Nhi, còn có Ấu Nương phu nhân, mỗi người đều xinh đẹp đáng yêu, hơn nữa làn da của các nàng thật mềm thật trắng, người đã xinh đẹp, lại giỏi việc nội

trợ, muội thật sự cảm thấy tự ti.

- Ha ha..., Muội cũng có sở trường của mình, thông minh, tự lập, thân hình bốc lửa... Hài...! Đừng lúc nào cũng nghĩ rằng nhất định phải trợ giúp được gì cho sự nghiệp của huynh thì mới chứng tỏ được giá trị của muội, hãy nghĩ đơn giản một chút. Muội xem, Ấu Nương, Ngọc Nhi, Tuyết Nhi, các nàng ấy không phải là rất vui vẻ sao?

A Đức Ny ôm chặt lấy hắn, hạ giọng nói:

- Dương, muội ở Viễn Đông, chỉ có thể yêu mình chàng, chỉ có mỗi chàng để mà nương tựa. Vận nhi tỷ tỷ nói, đây... chính là lo được lo mất vậy, muội cứ lo bản thân mình không xứng để được chàng yêu, hễ về tới kinh thành là thấy điểm nào cũng đều kém mấy vị phu nhân, khiến muội cảm thấy...cảm thấy chàng quả thực sẽ lãng phí cuộc đời nếu chung sống cùng với muội.

Dương Lăng vỗ trán một cái:

- Ôi trời ơi! Càng nói càng nghiêm trọng, không đến mức như vậy chứ? Ài...

Muội mắc chứng tự kỷ phải không? Lãng phí cái gì chứ? Sinh mạng, nên lãng phí ở chỗ người đẹp và vật tốt, muội ở trong lòng của huynh, là bảo bối mà người khác không thể thay thế được, sao cứ phải tự làm khổ mình như vậy.

A Đức Ny nghe xong, đôi con ngươi như bảo thạch phát ra tia sáng rạng rỡ, vui vẻ nói:

- Dương, lời huynh nói là thật chứ?

Dương Lăng ôn nhu đem nàng ôm vào lồng ngực, nhẹ nhàng ngửi ngửi mái tóc của nàng nói:

- Đương nhiên là thật. Các nàng đều là bảo bối trong lòng ta. Ấu Nương là bến cảng của ta, mặc kệ ta ra khơi xa cỡ nào, đều phải trở về bên nàng ấy ta mới an tâm; Vận Nhi là trợ thủ của ta, cùng nàng ấy sóng vai đi thuyền, ta mới yên tâm; Tuyết Nhi là một loại quả vui vẻ, nàng ấy lúc nào cũng nghĩ ra mọi biện pháp để khiến ta vui; Ngọc Nhi là một dòng suối nước nóng, hai ba ngày không hưởng thụ một chút sự dịu dàng của nàng ấy, ta liền cảm thấy ngứa ngáy.

A Đức Ny nghe xong ánh mắt trở nên mông lung, ôn nhu khẽ nói:

- Dương, muội ở trong lòng huynh thì là cái gì?

- Nàng?

Đang ôm ấp nàng, Dương Lăng cũng bị câu hỏi này làm cho rạo rực, hắn ghé sát vào một bên tai của vưu vật rực lửa này, khe khẽ nói:

- Nàng...Nàng chính là một viên hợp hoan tán của ta. Nàng đến ngồi ở đây, khiến ngay cả cà chua ở trên kệ cũng trở nên gợi cảm rồi đó.

Từ 'Hợp Hoan Tán' này, hắn vốn tưởng rằng A Đức Ny nghe không hiểu, lại không biết rằng A Đức Ny ở trên thuyền hải tặc từng làm huấn luyện viên, những thuyền viên này hễ cứ lên bờ liền điên cuồng tầm hoan tác lạc, đến khi lên thuyền lại điên cuồng bàn tán về nữ nhân. Mưa dầm thấm lâu, đừng nói hợp hoan tán, những thứ mà nàng nghe được còn nhiều hơn thế. Nếu không một nữ tử chưa bao giờ đụng chạm với nam nhân như nàng, khi ở trong xe ngựa trên đường đi Tế Nam làm sao lại biết dùng loại phương pháp này để thỏa mãn hắn?

A Đức Ny nghe vậy thì vô cùng xấu hổ, nàng cắn môi nhõng nhẽo đánh hắn mấy cái, nghĩ tới cách hắn so sánh, lại không kìm nổi phì cười. Nét mặt A Đức Ny cuối cùng cũng khôi phục được thần thái vui vẻ, tự tin trở lại.

Nàng nhẹ nhàng quàng tay vào cổ của Dương Lăng, bằng vào thanh âm ôn nhu, ngọt ngào, thần thái kiều mỵ nói:

- Vậy thì....Dương thân yêu, chàng chuẩn bị khi nào thì ăn viên hợp hoan tán là ta đây thế?

Dương Lăng do dự một chút. Nếu là chiếu theo nghi lễ nạp thiếp, chỉ sợ nàng không quen, hơn nữa cô nhỏ này có lòng tự trọng rất cao, hiện tại có thể nhập gia tùy tục mà làm tới được bước này đã là quá khó cho nàng rồi, không thể để nàng quỳ bái từng vị phu nhân được, nhất là cái nghi lễ quỳ lạy kia, nàng chắc chắn không thể thích ứng.

Chi bằng, Dương Lăng linh cơ vừa động, thầm nghĩ:

- Tổ chức hôn lễ theo kiểu phương Tây được không nhỉ? Dường như đạo của phương Tây chỉ cho phép một vợ một chồng thôi. Kệ, nhập gia tùy tục, cha sứ mà không thay đổi quy củ, vậy cứ đợi năm trăm năm sau hãy quay lại đi, nam nhân thời đại này có ai mà chịu gia nhập đạo giáo của ông ta chứ. Hẳn là không thành vấn đề, đám cha sứ này ngay cả giáo điều 'Thượng Đế tạo ra thế giới' mà cũng dám sửa để có thể lấy lòng người dân Đại Minh, sửa mỗi cái nghi thức chủ trì hôn lễ cũng chẳng nhằm nhò gì.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng nói:

- Ờ..., mấy ngày nay đang bận quốc sự, như vậy đi, để lát nữa huynh nói với cha sứ Nhã Các Tư một tiếng, bảy ngày sau, sẽ tổ chức cho chúng ta một hôn lễ kiểu phương Tây, muội thấy thế nào?

Ráng chiều lan khắp trời, trong tiếng chim hót ve kêu, hai bóng người đang tựa vào nhau:

- Thật sao? Dương thân yêu!

- Quân tử nhất ngôn!

- Quất ngựa truy phong!

Lần này, A Đức Ny nghe không hiểu.

*************

Báo Viên, một gian phòng lớn, nơi Hoàng đế Chính Đức kết hợp tất cả chức năng làm việc, vui chơi, nghe kinh, thưởng thức ca múa vào làm một, một đội ngũ đông đảo gồm pháp vương, Phật sống, cao tăng, ăn mặc long trọng đang ngồi khoanh chân, mặc trên người tăng bào và pháp bào màu đỏ sẫm và vàng sẫm, trên đầu đội mũ có chóp đỏ của giới tăng ni hoặc mũ hộ pháp khảm bảo thạch của đạo gia.

Hoàng đế Chính Đức cũng đang mặc y phục làm phép, khoác áo cà sa, đội mũ ráng mây, ngồi ở vị trí trên cao, hai bên là hai cây nhang cỡ bự quý giá đang cháy, tỏa ra khói hương bện vào thân thể ngài, bảo tướng trang nghiêm, y hệt như Phật sống tại thế.

Ngài vốn cũng là phật, tự phong là Đại Khánh Pháp Vương Đại Định Tuệ Phật, được đám cao tăng này tôn làm thủ lĩnh. Thường ngày khi cùng đám Lạt Ma này đàm kinh luận đạo, ngài cũng ăn mặc như vậy, hiện tại đương nhiên là phải trang phục chỉnh tề.

Chỉ có điều, ngài hiện tại đang nói tới lại không phải là phật pháp, mà là chính

sự.

- Vùng đất Đóa Cam (bao gồm Thanh Hải) kể từ sau khi Trung Sơn Vương Từ Đạt của bản triều tiễu trừ tàn dư của triều Nguyên là Vương Bảo Bảo, chính là biên giới của Đại Minh ta, triều đình đã thiết lập ra Hà Châu Vệ, Tây Ninh Vệ, An Định Vệ, A Đoan Vệ, Khúc Tiên Vệ và Hãn Đông Vệ, Tất Lý Vệ, là vì sự tiện lợi cho dân chúng, đồng thời cũng thể hiện sự tin tưởng của triều đình. Quan viên các Vệ này đều là do người đứng đầu các bộ tộc ở địa phương đảm nhiệm.

Hoàng đế của triều ta thậm chí còn coi trọng các Pháp Vương, Phật sống thuộc các giáo phái như Ninh Mã Ba (Hồng giáo) do Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền lại, Cát Cử Ba (Bạch giáo), Tát Ca Ba (Hoa giáo), Cách Lỗ Ba (Hoàng giáo), tại Cù Đàm Tự, triều đình đã lập ra Tây Ninh Tăng Cương Ti, tại Dân Hòa Hoằng Hóa Tự cũng đã lập ra Tăng Cương Ti.

Đối với các thủ lĩnh địa phương, tăng lữ, triều đình ta còn gia tăng sự tôn kính, ngay cả đối với dân chúng địa phương, triều đình cũng nỗ lực để phát triển đồn điền, xây dựng trường học, khuếch trương buôn bán, ân đức không thể nói là không sâu dầy.

Nhưng hiện tại trẫm rất thất vọng, vô cùng thất vọng, vô cùng khiến trẫm thất vọng rồi. Trẫm giao Đóa Can cho các thủ lĩnh trông coi, Trẫm đem Thanh Hải Hổ phì nhiêu giao cho bọn họ để làm mục trường, bọn họ lại ngồi yên nhìn Gia Tư Bố, Bá Nhan Mãnh Khả trước sau xâm lấn. Hồ Thanh Hải là của Trẫm ban cho các bộ

tộc của Đại Minh, chứ không phải là nơi để nuôi dưỡng loại ác lang như Bá Nhan Mãnh Khả.

Hôm nay, Trẫm mời gọi các vị Pháp vương, Phật sống, Đại đức cao tăng tới đây là muốn nói cho các vị biết, nếu các thủ lĩnh ở Đóa Cam đã không thể chống đỡ được sức tiến công của đám ác lang đó, giáo hóa phật pháp cũng không thể cảm hóa được hung tính và dã tâm của kẻ địch, vậy thì chỉ còn cách là Trẫm đóng vai Nộ mục Kim Cương (vị Kim cương có ánh mắt hung ác). Trẫm nhất định sẽ không ngồi yên nhìn Đóa Cam rơi vào tay Bá Nhan đâu.

Trẫm có trong tay đại quân hai trăm vạn, lẽ nào lại để Bá Nhan Mạnh Khả chiếm đoạt Thanh Hải làm của riêng được? Hắn nghĩ rằng Đại Minh đang có nội chiến nên có thể thừa cơ sao? Nực cười! Của cải của Trẫm rải khắp bốn phương, ngân khố quốc gia sung túc, đừng nói hai mặt khai chiến, cho dù có khai chiến thêm nhiều nơi nữa thì đã làm sao? Bắc đánh Bá Nhan, Đông bình Oa Khấu, Nam đuổi Phật Lang Cơ, chỉ một vài trận là thành công, hễ chiến là thằng, không gì không phá được.

Trẫm hiện giờ đang bị đám quân ô hợp không tới năm vạn người ở Hà Bắc, Sơn Đông cầm chân thật sao? Sơn Đông cướp, Hà Bắc trộm! Những địa phương này từ xưa đã vậy, chẳng có gì đáng phải bận tâm. Nếu các thủ lĩnh, Phật sống ở Thanh Hải không có năng lực đuổi đám ác lang Bá Nhan này đi, Trẫm thông cảm cho cái khó của các ngươi, Trẫm sẽ tự mình phát binh để đánh đuổi hoặc tiêu diệt bọn chúng.

Chính Đức uy phong lẫm lẫm, đảo mắt qua bốn phía, chỉ thấy các vị Phật sống, Pháp vương trên mặt lộ vẻ vẻ bất an, xì xào bàn tán, khóe miệng của y không khỏi lộ ra một tia cười ranh mãnh.

Địa khu Thanh Hải đa số là bộ lạc, giữa các bộ lạc đều không phục nhau. Chính vì nguyên nhân này, bọn họ trước sau không thể hình thành được một chính quyền tập trung có đủ sức mạnh, cho nên đối với Đại Minh càng thêm nhún nhường. Từ khi Đại Minh lập quốc đến nay, bọn họ hàng năm đều đến triều cống, hàng tháng đều lên triều nghị sự, tuy nói chỉ là hình thức, nhưng có được lợi ích thực sự lại chính là bọn họ, chí ít cũng thể hiện ra là mình phục tùng.

Triều đình ở địa khu Đóa Cam thực hiện chế độ tự trị. Tướng lĩnh và binh lính các Vệ đều là người của các bộ tộc ở địa phương. Bọn họ ở xa Hoàng đế, tự do tự

tại, sao mà không thoải mái cho được? Nhất lại là có sự hợp nhất giữa chính trị và tôn giáo, nhóm người Pháp vương và Phật sống thân phận tôn quý, lại càng hiểu được chỗ lợi ích ở bên trong.

Triều đình phát binh? Đại quân Triều đình vừa đến, trong lúc chiến loạn, nhà của vườn tược của bọn họ sẽ ra sao? Mấu chốt nhất chính là, nếu như binh mã của các Vệ sở thuộc sự quản lý của các bộ tộc địa phương đã khiến cho Hoàng đế Đại Minh kiêm Quốc Khánh Pháp vương Tây Thiên Giác Đạo Viên Minh Tự tại Đại định Tuệ phật tiên sinh rất thất vọng, rất không vui, vậy đại quân của ngài một khi tiến vào Thanh Hải, liệu có rút đi nữa không?

Những Phật sống này đều thuộc tầng lớp cao nhất, được sinh ra trong một xã hội mà ở đó chính trị và tôn giáo là đồng nhất, suy xét vấn đề cũng vô cùng tỉ mỉ. Hậu quả lâu dài sau chiến tranh lập tức được họ cân nhắc tới.

Nếu chẳng may Hoàng đế tiểu Phật gia ngại việc đi tới đi lui quá tốn kém, chỉ mua vé một chiều, đánh trận xong nhân tiện hủy bỏ chức vụ chỉ huy của tộc trưởng thuộc sáu Vệ sở kia, đem binh mã cũng đổi thành kiêu binh mãnh tướng người Hán vừa mới thắng trận, toàn bộ đều lưu lại không đi nữa, khả năng này không phải là không có, kế "Mượn đường phạt Quắc" chẳng phải là một trong ba mươi sáu kế mà người Hán đã nghĩ ra sao.

Nếu Hoàng đế Đại Minh thật sự vừa phát cỏ vừa bắt thỏ, thực hiện cùng lúc hai mục tiêu, vậy thì bọn họ còn có thể duy ngã độc tôn ở Thanh Hải sao? Các vị lãnh tụ tôn giáo, mỗi người đều có lòng riêng, khẩn trương nhẩm bảng cửu chương, tính toán lợi ích được mất của bản thân mình.

Hoàng Đế Chính Đức đảo mắt, lại gia tăng thêm áp lực:

- Theo trẫm được biết, sau khi Bá Nhan xâm lược Hồ Thanh Hải, bộ lạc Ngõa Lạt và Hỏa Si đối với việc Bá Nhan chiếm giữ vùng đất vào sâu trong lãnh thổ của họ cảm thấy vô cùng bất an, các nước ở Tây Vực lo lắng một khi thế lực của Bá Nhan lớn mạnh sẽ tôn tính bọn họ, nên cũng đang tích cực liên kết, chuẩn bị phát binh tới Hồ Thanh Hải. Hồ Thanh Hải nha, sắp sửa biến thành nơi nước sôi lửa bỏng rồi, trẫm thương yêu bách tính, nhưng trẫm cũng không còn cách nào khác rồi.

Hôm nay mời chư vị Pháp vương, Phật sống đến, là muốn nói với các vị phải lập tức trở về, quản lý cho tốt tín đồ, đệ tử của mình, bảo bọn họ rời xa nơi nguy hiểm, tránh bị tai bay vạ gió trong khói lửa chiến tranh, thảm hoạ chiến tranh cũng khốc liệt như lửa vậy.

Đồng thời, trẫm thông báo trước cho các vị một quyết định của mình. Để phòng ngừa hàng hóa vật tư của Đại Minh trong quá trình vận chuyển bị Bá Nhan đoạn được, phòng ngừa tin tức tình báo về sự điều động quân đội của Đại Minh bị thám mã của Bá Nhan biết được, trước khi Bá Nhan Mãnh Khả rút khỏi Hồ Thanh Hải, trẫm sẽ phong tỏa biên giới, đình chỉ hết thảy hoạt động giao dịch chà và ngựa giữa các thành thị.

Cái gì? Các nước Tây Vực kết bè kết phái kéo tới đánh giết, bộ tộc Ngõa Lạt, Hỏa Si cũng muốn đến góp vui, Đại Minh cũng gấp rút xuất binh, lại còn đình chỉ giao thương giữa các thành thị. Đây đúng là biến Hồ Thanh Hải thành điểm tập kết của các phương rồi.

Vở 'Quần Anh Hội' này một khi đã xướng lên, vậy thì Thanh Hải liệu còn có thể bình yên nữa sao? Bản thân bọn họ đều là Trụ chì, Viện chủ, Pháp vương Phật sống, dưới trướng có cả ngàn người trực tiếp phục vụ, có thể chốn đi đâu được đây. Chỗ phồn hoa nhất thì lại gặp phải chiến tranh, giao thương lại bị đình chỉ, vậy bản thân mình phải dẫn người nhà tới nơi hoang vắng nghèo khó để hít gió Tây Bắc sao?

Đến lúc này đám Phật sống quả thật đã rất sốt ruột, bọn họ châu đầu ghé tai, lời nói vừa nhanh vừa gấp, sóng âm dần dần cao lên, cũng không biết là đang tranh luận những gì.

Hoàng Đế Chính Đức ngồi nghiêm trang, vẻ mặt từ bi bác ái, từ bi một lúc lâu, chư vị Phật gia phía dưới còn chưa thương lượng xong Tử Ngọ Dần Mão. Chính Đức liền thở dài một tiếng, thủ kết "Bất động căn bản ấn", tiến nhập vào trạng thái minh tưởng, động mà không động...

Cũng không biết trải qua bao lâu, tiếng nghị luận trong đại sảnh dần dần lắng xuống, xem ra đám Phật sống này đã đạt thành hiệp nghị rồi, Hoàng Đế Chính Đức

vẫn đang ngồi đả tọa, đám Phật sống cũng không dám quấy rầy y, cũng may ngồi thiền đối với những người này thật sự không thành vấn đề, thế nên mọi người đều kết thủ ấn, dứt khoát cùng Hoàng thượng tu hành.

Hoàng đế Chính Đức cuối cùng cũng thu công, đám Phật sống cùng y tịnh tu, nhưng thực tế trong lòng lo lắng vạn phần kia, lập tức cũng đều tỉnh lại.

Một vài vị Phật sống ngồi ở hàng đầu, địa vị tôn quý thì thầm vài câu, Phật sống Ôn Già cung cung kính kính thi lễ nói:

- Đại Hoàng đế bệ hạ, chúng ta đều nhất trí cho rằng, lao sư viễn chinh, chiến hỏa liên miên đối với chúng sinh mà nói không phải là chuyện may mắn. Chúng tôi khẩn cầu xin được lập tức trở lại Đóa Cam, tận một phần tâm sức, dùng lực lượng của Phật môn chúng tôi để trục xuất Bá Nhan Mãnh Khả khỏi Hồ Thanh Hải. Xin Đại Hoàng đế bệ hạ hãy tạm hoãn việc phát binh, nếu như chúng tôi thất bại, lúc đó mới xuất binh cũng chưa muộn.

Hoàng Đế Chính Đức xúc động nói:

- Binh đao vốn vô tình. Trẫm hết lòng tin theo ngã phật, sao lại muốn sát sinh chứ? Nhưng Bá Nhan vào Thanh, hậu hoạn vô cùng, trẫm cũng vì bất đắc dĩ mà thôi. Chư vị Phật sống tình nguyện đi làm việc thiện có ý nghĩa như vậy, trẫm sao có thể không đồng ý đây? Như vậy đi, trẫm lập tức phái người hộ tống các vị Phật sống trở lại Thanh Hải, nếu như có thể biến can qua thành bạch ngọc đó là tốt nhất, còn nếu không thể, các vị Phật sống cũng đã tận tâm tận lực, chuyện còn lại cứ để cho trẫm gánh vác đi.

Chúng Phật sống nghe xong lộ ra vẻ mừng rỡ, làm gì còn tâm tư lưu lại, lập tức người người đáp ứng, cáo từ rời đi, lập tức chuẩn bị thu thập hành trang để trở về Thanh Hải.

Gian phòng rộng lớn như vậy trong thoáng chốc đã trống trơn, Hoàng đế Chính Đức rướn cổ ra nhìn trái nhìn phải, nhịn không nổi phì cười, y vội nghiêm mặt lại, một tay lật hướng lên trời, một tay hướng xuống đất, chỉ Thiên họa địa, bệ nghễ chúng sinh, miệng niệm "Úm Mạ Ni Bá Mê Hống...", tùy ý kết xuất Đại Uy Đức Kim Cương Ấn, quả thực là vô cùng thành thục.

Cửa bên chợt mở, hai bóng người nhanh như thiểm điện lướt vào bên trong, người đi đầu nhìn thấy bộ dạng của Chính Đức, cười khanh khách nói:

- Coi ngài kìa, diễn cũng giống lắm, ngồi tê cả chân rồi phải không, mau đứng dậy đi.

Đường Nhất Tiên vừa cười vừa đá đá chiếc bồ đoàn nơi Chính Đức đang ngồi, gắt giọng nói:

- Làm cái gì thế, mau đứng dậy đi. Chính Đức mặt mày nhăn nhó nói:

- Đừng đụng vào, đừng đụng vào, cái bàn này mà để lâu cũng chịu không nổi nữa là, chân của ta tê rần rồi, ai da, nàng đừng có động vào ta.

Y nhăn nhó đặt chân xuống phản, cẩn thận ruỗi ra, vừa ngồi yên chờ cho huyết mạch lưu thông, vừa cười nói:

- Thế nào, ta diễn kịch cũng có nghề đấy chứ? Dương Lăng tiến đến gần điện thi lễ:

- Thần tham kiến Hoàng thượng, Hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn...

- Ta nói rồi Vạn Niên huynh, đã nói ở chỗ này không cần câu thúc nghi lễ quân thần, ta sắp thành hôn rồi, sau này, đây chính là nhà của ta và Nhất Tiên. Ở nơi này, ta sẽ sống một cách bình dị dân dã. Ái dà, huynh đừng giận ta, Ta không động đậy được, đúng là không thể so được với người cả đời ngồi đả tọa, ái, tê quá, huynh tự tìm chỗ ngồi đi.

Đường Nhất Tiên cười hì hì đem một cái ghế đến, Dương Lăng thấy Hoàng thượng ngồi trên bồ đoàn, bản thân mình ngồi ghế sẽ cao hơn y, liền cầm lấy một cái bồ đoàn, ngồi đối diện với Chính Đức, Đường Nhất Tiên thấy vậy, tự mình cũng cầm cái bồ đoàn đến, lại lấy thêm một đĩa nho từ trên thư án của vua đặt ở giữa ba người.

Chính Đức vỗ nhẹ lên đùi nói:

- Bá Nhan chiếm cứ Hồ Thanh Hải, cứu tế ở Sơn Đông, dân di cư khai hoang ở Liêu Đông, tên điên họ Triệu ở Sơn Tây chiêu binh mãi mã tại Trung Điều Sơn, lại còn Bạch Y quân ở Giang Nam...có sống có chết, có hy vọng và cả thất vọng, trẫm cũng vừa buồn lại vừa vui.

Dương Lăng thản nhiên cười nói:

- Chính là muốn bọn chúng Nam tiến. Miền Bắc cưỡi ngựa, miền Nam đi thuyền, một khi đến Giang Nam, bọn chúng sẽ phát hiện nơi ấy đích thực là giàu có vô cùng, nhưng ưu thế trên ngựa của bọn chúng cũng không còn nữa. Tận lực phân hóa chia rẽ, tập kích và làm suy yếu, sau ba bốn tháng thì đem đám tàn binh còn lại đuổi về phía Bắc. Trời đông giá rét mặt đất đóng băng, lại thiếu y phục và lương thực, từ lúc khởi sự đến khi cáo chung, bọn chúng ồn ào không được tới một năm, Hoàng thượng cứ việc yên tâm.

- Về phía Thanh Hải, cứ chờ xem năng lực của đám Phật sống kia thế nào, nếu bọn họ không giải quyết được Bá Nhan, khi đó chúng ta cũng đã giải quyết xong Bạch Y Đạo, có thể rảnh chân rảnh tay rồi. Chuyện ở Liêu Đông cũng không khó giải quyết, đây là chuyện cần giải quyết lâu dài, giống như dò đá để vượt sông vậy, phát hiện ra vấn đề gì thì giải quyết ngay vấn đề đó, triều đình chỉ cần quan tâm nhiều hơn, đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ hơn là được.

Về phần Triệu Toại ở Sơn Tây, đợi những việc ở đây có chút kết quả, thần muốn đích thân đi một chuyến, nếu có thể chiêu an được thì tốt, bằng không tuyệt đối không để cho y phát triển lớn mạnh. Đám phỉ lưu lạc này một khi có được căn cơ vững chắc, vậy thì rất khó để trấn áp, nhất định phải đuổi y đi.

Chính Đức gật gật đầu, vẻ mặt nghiêm chỉnh lại:

- Nói rất đúng. Trải qua việc này, những khiếm khuyết của công tác Triều chính đều đã bộc lộ ra, đây chẳng phải là một chuyện tốt sao. Giải quyết kịp thời có thể tránh cho mâu thuẫn bị đẩy lên cao trở nên gay gắt. Trẫm cũng muôn văn có thể an bang, võ có thể định quốc, làm nên một phen sự nghiệp, nhưng vấn đề của bản thân mình còn cả một đống chưa giải quyết xong, đã nghĩ đến việc mở mang bờ cõi, đó là tham vọng viễn vông, đúng là có thực mới vực được đạo.

Dương Lăng nghe vậy rất mừng, nói:

- Kiến giải của Hoàng thượng rất hay, thần và mấy vị đại nhân Nội các, Lục bộ thương nghị một phen, đem mười hai điều trong sách lược cải cách tinh giản xuống còn mười điều, cảm thấy đã vô cùng ổn thỏa rồi, chuẩn bị trong hai ngày tới trước hết cử người dâng tấu chương lên, trước tiên lộ ra một chút tin tức, để cho mọi người trong lòng có sự chuẩn bị, sau đó sẽ chính thức do Nội các tấu lên Hoàng thượng xin được thực thi. Thần xin nói trước một cách vắn tắt cho Hoàng thượng nghe kết quả thương nghị của chúng thần để ngài có sự cân nhắc.

Dương Lăng nhặt ra những điểm quan trọng nhất thuật lại một lượt, về phương diện cải cách chế độ thuế khóa, chúng quan viên sau khi trải qua thực hiện thí điểm các chính sách thuế mới tại địa phương, như "Lý Giáp Ngân", "Quân Bình Ngân", "Cương Ngân", "Thập Đoạn Gấm", cuối cùng chọn ra chính sách có tính ưu việt

nhất là "Nhất Điều Tiên Pháp". Chính Đức nghe đến đó, phun ra một nhúm vỏ nho, liên tục gật đầu nói:

- Được! Được! Được! Những chính sách lạc hậu về thuế khóa của Đại Minh cũng nên sửa đổi rồi, Nhất Điều Tiên Pháp rất phù hợp.

Giang Sơn Đại Minh to lớn như vậy, Trẫm muốn dùng binh mà không có ngân lượng, Trẫm muốn cứu tế mà không có ngân lượng, đến quốc khố cũng vét sạch sành sanh, đáng thương đến mức độ như vậy, bách tính nghèo khổ vẫn còn nói bị thuế má đè tới nỗi không thở nổi, chẳng lẽ Đại Minh thật sự nghèo đến như vậy ư? Chỉ là vì đánh thuế không đúng đối tượng thôi, người giàu thì bỏ ra không tới một sợi lông bò, nhưng dân nghèo thì lại phải nộp thuế tương đương nửa năm thu nhập.

Kết quả là nuôi một số người não toàn những mỡ, đánh rắm cũng có thể chảy ra dầu. Ta nghe nói Giang Nam có phú thương muốn ăn cháo lưỡi vẹt, liền giết hơn một trăm con vẹt, loài vật cảnh này thực sự ăn rất ngon sao? Sĩ diện thôi. Muốn ăn râu cá liền mua về trăm con cá chép, chỉ cắt lấy râu để dùng, xa xỉ như vậy, trẫm còn chưa được hưởng nha.

Dương Lăng có chút kinh ngạc, phần kiến giải này điểm đúng chỗ mấu chốt, chỉ là không hiểu sao Hoàng thượng hiện tại lại nói nhiều từ thô tục như vậy, hơn nữa đối với chuyện trong dân gian lại biết cũng không ít, nếu nói là do Xưởng Vệ báo cho y biết, thì cũng không thể dùng những từ thô tục như vậy để nói với Hoàng thượng, đại bất kính nha.

Hắn đưa mắt nhìn Đường Nhất Tiên, trong lòng có chút hiểu ra:

- Tám chín phần mười là do cái miệng toang toác của tiểu ni tử này nói xằng nói bậy với Hoàng thượng rồi, Hoàng thượng cũng tình nguyện để cho nàng ta làm vậy, thích được người ta đối đãi với mình như đối với người thường, hai người đó, một tình nguyện đánh một tình nguyện bị đánh, bản thân mình cũng không phải là thày dạy giáo dục công dân, loại chuyện nhỏ nhặt này cũng chẳng đáng để mà can ngăn.

Những lời này nếu để cho đám người Vương Quỳnh, Lưu Kiện thậm chí hiện tại cả Dương Đình Hòa, Lương Trữ nghe thấy, chỉ sợ đều sẽ thất kinh biến sắc, lập tức tận lực khuyên ngăn, yêu cầu vua của một nước cần phải thận trọng từ lời nói đến hành vi cử chỉ, thậm chí sẽ phát động quần thần tổ chức một cuộc nghị sự lớn tại triều đình, kiến nghị Hoàng thượng cần kiểm điểm môt cách sâu sắc. Cũng chỉ có Dương Lăng căn bản không quá coi trọng chuyện này, Chính Đức ở trước mặt hắn càng thoải mái tự tại, làm người càng đỡ mệt mỏi, chẳng trách có chuyện gì cũng tình nguyện nói với hắn.

Dương Lăng vừa nói đến cải cách trong tổ chức quân đội, Chính Đức lúc này huyết mạch đã lưu thông, vỗ đùi tràn đầy đồng cảm nói:

- Điều này rất hay, có phải do Lục Hoàn đề xuất không? Ừm, chủ ý này của ông ta không tệ. Hiện tại liền chiếu theo phương pháp luyện binh trong dân, vừa giúp triều đình luyện binh lại không phải tốn chi phí của triều đình. Đợi đến thời điểm thích hợp, trực tiếp thay thế quân tại các Vệ sở. Đúng là một chủ ý hay nha, nói thực lòng, Trẫm hiện giờ không có tiền, chế độ trong quân đội lại không thể không sửa đổi, cần phải nghĩ ra biện pháp khôn khéo thôi.

Hiện tại hễ xem báo cáo của bộ Binh là Trẫm lại tức giận, nói là Trẫm có hai trăm vạn quân, nhưng trong đó có bao nhiêu người chỉ biết làm ruộng đây. Nếu không phải là ái khanh ngươi lãnh binh giúp Trẫm chút giận, không hiểu trận đó đã đánh ra cái con bà nó tình trạng gì rồi? Người muốn nhập ngũ thì lại không được tuyển, người không muốn nhập ngũ thì lại bị bắt phải đi, như vậy liệu có tâm lý đánh trận sao? Cần phải thay đổi!

Dương Lăng dần dần nói đến mục đích thực sự của hắn lần này, hắn nói tới tính nghiêm trọng và nguy hại của tình trạng thôn tính đất đai, sau đó liếc trộm Chính

Đức một cái, thấy y vẫn đang nghe một cách nghiêm túc, Dương Lăng thở dài một hơi, lo lắng nói:

- Hoàng thượng, có sự ủng hộ của Hoàng thượng, việc cải cách nhất định có thể được phê duyệt, lực cản trong triều cũng sẽ không quá lớn, điều thần lo lắng chính là, sau khi phê duyệt mười điều cải cách này, việc triển khai thực hiện liệu có được nghiêm túc hay không?

Những người thôn tính đất đai, không phú thì quý, bảo bọn họ nhả miếng thịt đã ở trong miệng ra, ai mà cam tâm chứ? Đám người quyền quý đó lại có lớn có nhỏ, tất sẽ bắt trước so bì với nhau. Người đại hiển đại quý không chịu tuân theo chế độ của triều đình, người tiểu hiển tiểu quý sẽ học theo, chính lệnh của triều đình ban bố xuống sẽ bị đem gác xó, chỉ trở thành một kiện công văn được lưu giữ mà thôi, như vậy chẳng phải là kiếm củi ba năm thiêu đốt một giờ sao.

Chính Đức đảo mắt, cười ranh mãnh nói:

- Ha ha, muốn Trẫm nghe mười điều cải cách? Sau khi tấu chương trình lên chẳng lẽ Trẫm lại không xem được sao? Biết ngay là khanh có chủ ý khác. Khanh yên tâm đi, không cần biết hắn là Vương Hầu Khanh Tướng, hay là Hoàng thân Quốc thích, hoặc giả là quan viên nhất nhị phẩm, nếu dám không tuân chính lệnh, Trẫm sẽ đứng sau chống lưng cho khanh, nhất loạt trừng trị!

Dương Lăng vẻ mặt đau khổ, lắc đầu nói:

- Vô ích thôi. Nếu người này... chức quan quá lớn, quyền hành quá lớn, thì dù Hoàng thượng có chống lưng, thần cũng không dám đắc tội hắn.

- Ha...!

Chính Đức bật cười:

- Được rồi, khanh cũng đừng vòng vo với Trẫm nữa, Khanh cứ chỉ đích danh là ai, Trẫm muốn xem xem là ai mà oai phong như vậy.

- Người này, chính là Hoàng thượng ngài!

- Trẫm?

Hoàng đế Chính Đức ngẩn người, hơi giận:

- Trẫm có thôn tính đất đai sao? Đất trong thiên hạ đều là của vua, Trẫm cần gì phải thôn tính của ai? Trẫm chỉ muốn mở mang bờ cõi, dùng sức mạnh đối với ngoại bang, chỉ là chưa đúng thời điểm thôi. Khanh nói đi, Trẫm như thế nào lại trở thành kẻ đầu sỏ thôn tính đất đai vậy?

Đường Nhất Tiên thấy vậy, vội vàng cầm lấy hai chùm nho đưa cho mỗi người:

- Nào nào, ăn nho đi.

Không ai để ý tới cô ta. Dương Lăng nhìn thẳng vào mắt của Chính Đức, rất chân thành nói:

- Hoàng Trang (Trang viên của Hoàng gia)! Hoàng thượng đã quên mất Hoàng Trang rồi sao?

- Hoàng Trang?

Hoàng đế Chính Đức kinh ngạc không hiểu:

- Khanh nói tới Hoàng Trang? Khanh thử nói xem Hoàng Trang như thế nào mà lại tính là thôn tính đất đai hả?

Dương Lăng nói:

- Hoàng thượng lựa chọn Hoàng Trang cho tới nay đã có hai mươi mốt nơi được khoanh vùng, ước tính khoảng hai triệu mẫu đất, Hoàng thượng như thế, các Phiên Vương ở địa phương lại càng như vậy, Phiên Vương trên lãnh địa của mình thông qua sự chỉ định của Hoàng thất, mỗi người đều sở hữu không dưới mấy trăm vạn mẫu đất, số lượng khổng lồ, khiến người người kinh sợ,...

Hoàng đế Chính Đức tức đến sắp bể phổi, nhất thời có chút bi phẫn, y quát lớn:

- Trẫm còn gây ra tội ác tày trời cơ đấy! Khanh đã từng thay Trẫm quản lý bảy

cái Hoàng Trang, chắc cũng biết sự tình trong đó, cái gì mà Trẫm sở hữu mấy vạn hecta đất, rồi Phiên Vương sở hữu bao nhiêu vạn hecta đất, đây đơn thuần chỉ là tin đồn bậy bạ, cụ thể thế nào, chẳng lẽ Khanh lại không rõ sao?

Đường Nhất Tiên căng tròn con mắt, liếc bên trái một cái, liếc bên phải một cái, thấy hai huynh đệ sắp tranh luận đến mức đổ vỡ rồi, vội vàng lại cầm lấy hai chùm nho khuyên nhủ:

- Nào nào, ăn nho đi.

Hai người vẫn không hề để ý tới nàng ta, Đường Nhất Tiên oán hận ngắt một quả nho xuống, ném vào miệng.

Dương Lăng khẽ cười nói:

- Khi thần thay mặt Hoàng thượng quản lý Hoàng Trang, ngài cũng biết, đấy chẳng qua chỉ là để ngụy trang, có điều lần này vì sự cải cách, thần đã điều tra lại một cách tỉ mỉ, hiện tại đương nhiên đã hiểu.

Chi phí của Hoàng thất, vương thất, vốn là do tài chính của triều đình chi trả, số tiền này từ đâu mà có? Từ tiền nộp thuế của dân chúng. Dân chúng mọi nơi đều phải nộp thuế, đây là điều hiển nhiên. Những vùng đất mà Phiên Vương được phong, Hoàng thất chỉ định (hay còn gọi là Vương Điền), không phải có ý nghĩa ở chỗ vị Vương gia này có bao nhiêu ruộng đất, mà là ở chỗ thuế thu được trên những vùng đất này không phải giao nộp lại cho Hộ bộ, mà do người của Vương thất cử ra để quản lý, trực tiếp do Vương thất sử dụng. Hoàng Trang của Hoàng thượng cũng là như vậy.

Chi tiêu của Hoàng thất, Vương thất vốn chính là do tài chính của triều đình cung ứng, phần đất đai được quy hoạch thành Hoàng Trang, phía Hộ bộ liền căn cứ vào số lượng để cắt giảm tiền cung ứng, sự tồn tại của Hoàng Trang và Vương Trang, chỉ là khiến tiền thuế của dân chúng không phải nộp qua khâu trung gian là Hộ bộ, mà trực tiếp giao nộp cho đối tượng vốn nên hưởng dụng nó là Hoàng thất, Vương thất sử dụng.

Nộp Hoàng thuế, Vương thuế, thì không phải nộp Quan thuế, không hề có sự trùng lặp về thu thuế. Vì vậy, gọi đó là Quan thuế hay Hoàng thuế cũng đều như nhau, chỉ khác ở khâu quản lý, đối với bách tính mà nói, kỳ thực không có gì khác biệt.

Sắc mặt của Chính Đức từ từ dịu xuống, Dương Lăng tiếp tục nói:

- Hơn nữa, thuế đất mà Hoàng trang, Vương trang trưng thu được ấn định theo tỉ lệ là một mẫu đất thu ba phần thuế, so với tỉ lệ trưng thu bình thường của địa chủ còn ít hơn một chút, gánh nặng mà nông dân canh tác trên ruộng của Hoàng trang phải chịu nhỏ hơn so với nông dân canh tác trên ruộng đất thông thường.

Hoàng đế Chính Đức hừ một tiếng, giọng buồn bực nói:

- Khanh biết rồi mà còn nói như vậy? Ban nãy đúng là làm Trẫm tức chết mà. Dương Lăng khẽ mỉm cười, nói:

- Hoàng thất dù thế nào cũng cần phải có nguồn thu để ứng phó với chi tiêu hàng ngày, không thu từ Hoàng trang, thì lại thu từ Quan địa (đất đai do quan lại quản lý), không trực tiếp thu, thì do Hộ bộ cấp, như vậy thì đất đặt tên là Hoàng trang và Quan địa có gì khác biệt?

Thuế thu trên một triệu mẫu đất mỗi năm ước khoảng một vạn lượng, một số Thân hào, Thương nhân buôn muối, Thương nhân buôn bán trên biển, mỗi năm kiếm lời lớn hơn rất nhiều so với con số này. Thuế mà Hoàng gia thu nạp xem ra cũng không thể khiến người nghe cảm thấy kinh sợ, cũng không thể tính là thôn tính đất đai, khiến dân chúng không có đường sống.

- Nhưng...,

Dương Lăng trở nên nghiêm túc, nói:

- Dân chúng thấp cổ bé họng ai sẽ tính toán những khu đất này một năm phải nộp bao nhiêu? Hoàng gia trưng thu bao nhiêu? Bọn họ chỉ nghe nói hoàng gia tự mình giữ lấy mấy trăm vạn mẫu đất, đã cảm thấy kinh thế hãi tục rồi. Hơn nữa nghe nhầm đồn bậy, ăn nói bừa bãi, vốn là chuyện thường tính của con người. Người dân cũng thích được trò chuyện tán gẫu, thổi phồng sự việc.

Thân sĩ thì lại thích những tin truyền bá như vậy, khi truyền bá những tin như vậy, chính là tạo ra cái cớ để bọn họ tiến hành thôn tính. Người truyền tin càng

nhiều, người tin vào nó cũng sẽ càng nhiều, thậm chí còn lưu truyền hậu thế, khiến cho người đời sau không rõ chân tướng sự việc sau khi nghe rồi cũng cảm thấy lòng đầy căm phẫn.

Những lời thần vừa nói vẫn chỉ là tình huống bình thường, trong điều kiện bình thường, không hề có chuyện bức hại nhà nông, việc khoanh vùng lựa chọn Hoàng Trang, Vương Trang đã vô cùng bất lợi đối với Hoàng thất như vậy. Vậy rốt cuộc liệu có chuyện Hoàng Trang bóc lột hay không? Những nông dân canh tác trên ruộng đất của Hoàng Trang có thật sự được nộp thuế ít hơn so với nông dân canh tác trên đất của Quan phủ quản lý hay không, được ưu đãi thực sự hay không? Kỳ thực là rất ít, vô cùng ít.

Hắn đón lấy ánh mắt có phần kinh ngạc của Chính Đức, giải thích:

- Nguyên nhân rất đơn giản, vì Hoàng Trang nằm ngoài sự quản lý của Quan phủ, tự lập ra bộ máy nhân sự để quản lý. Tiền công của những người này đến từ đâu? Lông cừu được lấy từ thân cừu (mỡ nó rán nó), cuối cùng vẫn là lấy từ tiền thuế đất. Vì thế công thêm tiền công của bọn họ, thì thuế đất từ Hoàng Trang đã không còn thấp hơn so với thuế đất giao nộp cho Quan phủ nữa rồi.

Ngoài ra, những người làm quản sự của Hoàng Trang, các sư gia, chính là đang làm thay nhiệm vụ của Quan phủ. Bọn họ, trên thì đối diện với nhóm Hoàng thân Quốc thích thân phận cao quý mà những người tá điền vĩnh viễn không có khả năng giáp mặt, dưới thì đối diện với những tá điền canh tác trên ruộng đất của Hoàng Trang. Địa tô nhiều hay ít chẳng phải là xuất phát từ một câu nói của bọn họ sao?

Bọn họ có điều kiện thuận lợi như vậy, có thể không tham sao?

Hoàng thượng cho rằng bản thân mình định ra thuế suất là một mẫu đất ba phần thuế thì dân chúng sẽ được bảy phần lợi tức, nhưng trên thực tế, trăm họ cực khổ cả một năm, chân chính nhận về đến ba phần còn chưa được, phần lớn nhất ở giữa đó bị tầng tầng quản sự, sư gia và đám tay chân tham ô chia nhau hết. Dân chúng có biết là ai là người bóc lột bọn họ như vậy không? Món nợ này đương nhiên là tính cho Hoàng thất rồi.

Ngữ khí của Dương Lăng trầm trọng hẳn lên, tiếp tục nói:

- Thần nói đây mới chỉ là Hoàng Trang của ngài, về phần Phiên Vương các nơi... Khụ khụ! Thần không dám giấu Hoàng thượng, Ngài chắc cũng biết, trong các Phiên Vương cũng có kẻ hiền người ngu, không phải ai cũng biết thương xót dân chúng địa phương. Nếu Phiên Vương nào đó bản thân ham tiền tài, liều mạng áp bức, nâng cao thuế suất, cộng thêm tầng tầng quản sự ở giữa bóc lột, dân chúng năm được mùa thu về may ra cũng chỉ dư được một phần lợi tức, miễn cưỡng có thể duy trì cuộc sống, một khi thiên tai mất mùa, bọn họ nếu không làm dân lưu vong, không tạo phản, làm sao có thể sống được?

Chính Đức nghe đến đây, liền hít vào một hơi khí lạnh, kinh ngạc nói:

- Lại...lại có thể có chuyện này sao? Dương Lăng nghiêm nghị nói:

- Đúng vậy, cho nên Hoàng Trang, Vương Trang là kiểu thôn tính đất đai nhưng không tước đoạt quyền sở hữu đất đai, còn kiểu thôn tính của đám thân hào quyền quý bọn họ là ngay cả quyền sở hữu đất đai cũng tước đoạt nốt, thoạt nhìn có một chút khác biệt, kỳ thật hai loại này đều nguy hại độc nhất vô nhị.

Chính Đức nghe xong cúi đầu không nói, vẻ mặt vô cùng uể oải.

Y tuy rằng thích chơi đùa càn quấy, nhưng từ trong đáy lòng cũng muốn làm một minh quân, làm một Hoàng đế tốt, không thể tưởng được việc mình trực tiếp lập ra Hoàng trang để tạo nguồn cung ứng chi tiêu của Hoàng cung, trung gian bị người tầng tầng lợi dụng để bóc lột, không ngờ lại làm hại dân chúng nhiều như vậy, lần này dân lưu vong tạo phản, nói không chừng có một phần dân chúng là bị mình bức bách, cho nên trong lòng vô cùng khổ sở.

Khóe miệng đột nhiên mát lạnh, từ trong trầm tư Chính Đức đảo mắt nhìn sang, chỉ thấy Đường Nhất Tiên đang cầm một trái nho, đưa đến bên miệng của y, ôn nhu cười với y, trong mắt chan chứa sự an ủi, cổ vũ. Trong lòng Chính Đức cảm thấy ngòn ngọt, bất giác mở to miệng, đem trái nho kia ngậm vào miệng.

Đường Nhất Tiên lại đưa cho Dương Lăng một chùm nho, sẵng giọng:

- Đại ca, huynh đã có biện pháp hay thì nói đi, chớ để Hoàng thượng phải khổ

sở.

Chính Đức ánh mắt sáng lên, nói:

- Dương khanh, khanh có kế sách gì hay không? Dương Lăng nói:

- Không cần kế sách gì cả. Chỉ cần bỏ hết nhân viên quản sự, tiền thuế đất của Hoàng Trang Vương trang vẫn tiến hành thu và giao cho Hộ bộ quản lý, cuối năm Hộ bộ kết toán trích ra để giải ngân cho việc chi tiêu. Về danh mục đất đai, cần thay thế sổ mới và đổi tên thành Quan địa, không đặt tên là Hoàng trang nữa là được.

Chính Đức trố mắt nói:

- Chỉ đơn giản như vậy sao? Dương Lăng cười nói:

- Đối với Hoàng thượng mà nói thì đúng là đơn giản, đối với người thay Hoàng thượng quản lý điền trang mà nói, lại cực kỳ khó khăn. Thần đang làm đây là cắt đứt đường tài lộc của người ta, tin rằng không đến bao lâu, sẽ có tấu chương tố lên Hoàng thượng về việc hoàn trả Hoàng trang sai lầm chồng chất như thế nào, rồi Hộ bộ giải ngân chậm chễ và tham ô ra sao, chi bằng Hoàng thượng tự mình trông coi đất đai, đề nghị điều trần chắc phải phủ kín Long án của ngài mất.

Chính Đức ngẩn ra, bật cười nói:

- Không vấn đề gì, để trẫm xem ai đến, kẻ nói với trẫm như vậy khẳng định là phường đại tham ô, trẫm kêu Xưởng Vệ trước tiên tra xét tổ tôn ba đời, họ hàng hang hốc nhà hắn, nếu quả thật không có tham ô, lại đến khuyên can cũng chưa muộn.

Dương Lăng nói:

- Còn có một chỗ khó xử nữa, chính là Vương trang. Về mặt lý thuyết, bổng lộc mà Hoàng gia ban cho Vương thất không hề giảm bớt, chỉ là chuyển đổi từ trực tiếp thu thành quan phủ cấp cho. Nhưng những Phiên Vương tự ý nâng cao thuế suất để vơ vét kiếm lời tất nhiên cũng muốn phản đối, có điều, lý do để phản đối này thì không thể nói ra miệng.

Hoàng thượng đi tiên phong trong việc trả lại đất đai, làm gương cho người khác, những Phiên Vương hiền đức tự khắc sẽ noi theo bệ hạ, một số Phiên Vương có lòng tham nhưng biết cân nhắc nặng nhẹ, không có người chống lưng, cũng sẽ tuân theo mệnh lệnh của Hoàng thượng. Chỉ sợ một số Phiên Vương to gan lớn mật, kiên quyết không trả lại ruộng đất, cản trở việc thi hành chính sách mới. Bọn họ không trả, vậy thì các công hầu khanh tướng cũng sẽ không trả, cường hào thân sĩ cũng sẽ không trả. Vấn đề thôn tính đất đai liền khó giải quyết rồi.

Hoàng đế Chính Đức cười lạnh nói:

- Không tới phiên bọn họ quyết định, triều đình hoạch định một năm cho bọn họ bốn vạn lạc bạc tiền thuế từ bốn triệu mẫu đất, hiện tại đất đai qui về Hộ bộ quản lý, một năm vẫn cấp cho bọn họ bốn vạn lượng, bọn họ lấy lý do gì để bất tuân thánh chỉ? Những trò xấu xa của bọn họ chẳng lẽ lại đem ra nói với Trẫm? Khanh yên tâm, cửa ải này, Trẫm cầm chắc! Trẫm lập tức hạ chỉ từ bỏ Hoàng trang, trả lại Hộ bộ.

- Chậm đã, Hoàng thượng chậm đã. Dương Lăng vội vàng nói:

- Hiện tại không vội, việc từ bỏ Hoàng trang phải chọn thời điểm thích hợp thì mới hiệu quả tốt.

Chính Đức ngây ra nói:

- Việc này... mà cũng phải chọn ngày hoàng đạo sao?

Dương Lăng lộ ra vẻ tinh quái, ghé sát tai Chính Đức nói thầm mấy câu. Chính

Đức vỗ đùi mừng rỡ, mặt mày hớn hở nói:

- Hay! Hay! Hay! Cái này hay, Trẫm rất muốn xem dáng vẻ chật vật không chịu nổi của bọn họ, ha ha!

Y cười gian hai tiếng nói:

- Chẳng phải là đào sẵn cái hố cho người ta nhảy xuống sao, Trẫm chính là thích lừa người, hô hô hô, chuyện này thì Trẫm chính là chuyên gia.

Y duỗi duỗi chân, đứng lên nói:

- Trời nóng quá, chuồng thú ở đằng sau bốc mùi khó chịu, hôm nay không xem đấu hổ nữa, đi, chúng ta...

- Chậm đã Hoàng thượng, thần còn có việc phải khởi tấu với Hoàng thượng, nếu Hoàng thượng duyệt rồi, thần còn phải xin Hoàng thượng hạ chỉ.

Chính Đức nghi hoặc nói:

- Còn chuyện đại sự gì nữa?

Dương Lăng đem chuyện của Diễn Thánh Công kể lại một lượt. Chính Đức cau mày nói:

- Chiếm đất của dân, những cường hào địa chủ như vậy số lượng cũng không ít, quốc cữu Trương Hạc Linh vì chuyện này mà không chỉ một lần bị đám người Lý Đông Dương buộc tội, thân phận của ông ta lại khá đặc thù, vì một chuyện nhỏ thế này mà khiển trách nặng, sợ khiến người ta chê cười. Công tước đánh mệnh quan triều đình, vốn là một chuyện không nhỏ, đáng tiếc....

Chính Đức cười khổ nói:

- Nếu Dương khanh ngươi hiện tại không được giao nhiệm vụ, lại tự tiện tra tấn mệnh quan triều đình, thì mắc phải tội lớn rồi. Nhưng duy chỉ có Diễn Thánh Công là có thể làm vậy, đây là quy củ truyền lại từ đời Tống, phủ của ông ta tam Đường

đủ cả, ngay cả nhà tù cũng có, còn tuyển mộ cả quân lính riêng. Trẫm nhìn cũng không thuận mắt, nhưng nhiều lắm cũng chỉ có thể trách ông ta dùng hình quá nặng, còn có thể như thế nào nữa? Nếu như hạ một đạo thánh chỉ, cũng chỉ có thể giáo huấn hai câu, chẳng phải trở thành trò cười à?

Dương Lăng cười nói:

- Thần biết chuyện này nói lớn không lớn nói nhỏ không nhỏ, Hoàng thượng mà ra mặt thì có vẻ chuyện bé xé ra to, Hoàng thượng không ra mặt thì không ai dám quản lý ông ta. Chuyện này nếu cứ mặc kệ, đến khi thực hiện cải cách nhất định sẽ có người đưa ông ta ra làm bia đỡ đan, chi bằng xuống tay trước giải quyết luôn.

Thần muốn mượn chuyện này để buộc ông ta cũng phải vì sự cải cách của triều đình mà có sự đóng góp và cống hiến. Diễn Thánh Công vẫn còn có chút lực hiệu triệu đấy, hơn nữa ông ta là hậu duệ của Khổng Thánh, nếu ông ta đồng ý đứng lên hô hào, nếu không có tác dụng lớn thì chí ít cũng khiến cho đám hủ nho, học sĩ thủ cựu phải ngậm miệng, khiến bên tai Hoàng thượng thanh tĩnh, bớt ồn ào hơn.

- Hả? Vậy thì khanh muốn làm như thế nào?

Dương Lăng lại ghé sát tai giải thích một phen, Hoàng đế Chính Đức liên tục gật đầu nói:

- Được! Được! Được! Khanh muốn có thánh chỉ, trẫm liền viết cho khanh. Y đấm nhẹ lên ngực Dương Lăng một quyền, cười ha hả nói:

- Khanh cũng không tồi, rất biết lừa người nha, chủ ý xấu xa cũng không ít.

- Ha ha ha ha...

Hai người đang cười một cách kỳ quái, Đường Nhất Tiên hai tay chống lên eo thon, oán hận lườm bọn hắn một cái nói:

- Nhìn các huynh xem, ra dáng một chút có được không? Các huynh một người

là Hoàng thượng, một người là Quốc công, lại ở đây bàn cách để lừa người ta, không thấy xấu hổ, ngược lại cảm thấy đắc ý! Ôi! Muội thực là phục hai tên dở hơi các huynh rồi!

Nàng hừ một tiếng, xoay người rời đi.

Hoàng đế Chính Đức xoa xoa lên chiếc quai hàm, nói:

- Đi, cùng trẫm đi Bắc Hải Tử tránh nắng, chúng ta chèo thuyền câu cá, câu mấy con cá chép tươi về cho Nhất Tiên làm súp cá, tay nghề của nàng cũng rất được đấy.

- Hoàng thượng không dỗ nàng sao? Hoàng thượng sợ nhất chính là tiếng rống của sư tử Hà Đông đó nha.

- Hài! Nàng cũng không giận thực sự, Trẫm mà cứ lúc nào cũng khẩn trương, nàng cũng sẽ chán. Chúng ta không phải lúc nào cũng có thể gặp nhau, hơn nữa, nữ nhân mà, buồn vui thất thường, chính là như vậy.

- Đúng vậy nha, đúng vậy nha, Hoàng thượng nói quá đúng, không gặp được thì còn muốn, gặp nhiều quá thì phiền phức đến phát hoảng... À, đúng rồi, Hoàng thượng, thần hai ngày nữa sẽ kết hôn, dùng nghi lễ của Tây Dương để tổ chức, biết Hoàng thượng thích xem náo nhiệt, Người có đi hay không?

- Đi chứ, đi chứ, náo nhiệt thế này thiếu Trẫm làm sao được? Thuận đường đi xem Hoàng Am, Hoàng Am sắp xây xong rồi...Hoàng Am...Hoàng muội sắp dọn tới rồi...

Một đôi huynh đệ gian trá, vừa trò chuyện, vừa ngất nga ngất ngưởng đi xa dần.

Công cuộc cải cách được Chính Đức gióng trống khua chiêng sau khi kế vị rốt cuộc đã bắt đầu rồi. Kỳ thật trước đó Lưu Cẩn đã đã tiến hành cải cách một lần, chỉ có điều, lần cải cách đó xuất phát từ trong quan lại, hơn nữa căn bản không thông qua thảo luận của triều thần, nội dung cải cách cũng không có trọng điểm, sao có thể khiến mọi người thực thi, còn lần này tuy rằng chỉ có mười điều, nhưng mỗi điều đều bao hàm những vấn đề nóng hổi nhất của toàn bộ xã tắc: Lại trị (chế độ cai trị hành chính), chế độ thuế, đất đai, chế độ tổ chức quân đội cùng với một phần chế độ giáo dục.

Khi Lưu Cẩn còn đương chức, nắm toàn bộ quyền hành, phàm những ai phản đối cải cách của y lập tức bị đổ cho các loại tội danh rồi bị giam cầm hoặc bãi chức. Còn lần cải cách này được sự ủng hộ của Nội Các, Lục Bộ và toàn bộ hệ thống Khoa Đạo (ban khoa học kỹ thuật), hơn nữa Dương Lăng và người của Nội Các thảo luận nhiều lần, nhằm vào những vấn đề có khả năng bị chất vấn, để hoàn thiện chính sách và bổ sung vào những chỗ còn thiếu sót. Mỗi điều khoản đưa ra, đều thuyết minh một cách chi tiết những khuyết điểm của chế độ chính sách cũ, chính sách mới nhằm vào những đối tượng nào, vì sao lại có sự đổi mới, khiến cho những ai phản đối không thể biện hộ được. Vì vậy, ngay sau khi được Hoàng thượng phê chuẩn, việc đưa ra chính sách mới cực kỳ thuận lợi.

- "Đại Minh khám loạn pháp ", " Pháp luật về chiêu mộ binh lính của Đại Minh ", " Pháp luật về thuế của Đại Minh ", " Pháp luật về công thương của Đại Minh ", "Pháp luật về di dân của Đại Minh ", " Pháp luật về thi cử của Đại Minh", "Chế độ thi cử Quan lại " lần lượt được công khai, nó giống như một dòng suối mát rót vào một triều đình khô cứng và hủ bại trong thời điểm nội bộ Đại Minh đang phát binh tiễu phỉ, Giang sơn Tây Bắc đang nổi lên phong ba bão táp.

Những sĩ phu có nhận thức trong triều cũng không ít, nhất là lần tạo phản này của dân lưu vong đã trở thành một động lực vô cùng lớn cho sự cải cách. Những người tạo phản chỉ trong một thời gian ngắn đã tập hợp được nhiều người hưởng ứng như vậy, vô số gia đình thân hào ở mấy trọng trấn lớn phía Bắc không chỉ tan cửa nát nhà mà còn bị diệt môn, tài chính triều đình chỗ nào cũng gặp cảnh túng quẫn, những chuyện như vậy đã thức tỉnh bọn họ từ trong ảo cảnh về một thế giới thái bình thịnh trị. Vô số những bi kịch như vậy đã khiến cho bọn họ tràn đầy xúc động, bọn họ cũng biết ý dân không thể trái, triều đình cũng nên tiến hành một phen cải cách rồi.

Hoàng đế Chính Đức hạ chỉ, một lần nữa làm rõ việc miễn thuế lương thực cho các địa phương như Kinh kỳ, Sơn Đông, Hà Nam, Hà Bắc... Đồng thời tuyên bố đối với những dân lưu lạc muốn khôi phục cơ nghiệp, quan phủ sẽ cấp lương thực, nhà cửa, ruộng đất, trâu bò nhằm an ủi lòng dân lưu lạc, đồng thời đối với di dân ở Quan Đông thi hành vô số chính sách ưu đãi, đất đai được khai hoang sẽ thuộc quyền sở hữu cá nhân, trong ba năm không phải nộp tiền thuế...Cứ như vậy, rất nhiều người dân bình thường cũng bắt đầu động tâm suy nghĩ.

Đặc biệt là đối với những gia đình có nhiều con cái, bao gồm cả những hộ gia đình có người trong quân đội, vì theo thông lệ của dân gian, gia sản do con trưởng đích tôn kế thừa, những người con trai khác đều phải tự tìm cho mình sinh lộ, thừa dịp tuổi còn trẻ ra quan ngoại lập nên một mảnh cơ đồ, có được đất đai, điền trang cho riêng mình, sao lại không vui vẻ mà làm cơ chứ? Huống hồ, những người này không có nỗi lo ở hậu phương, một khi thất bại có thể quay lại chốn cũ. Vì thế rất nhiều thanh niên trẻ tuổi không phải là con cả trong gia đình đều đến báo danh, trong đám di dân tiến vào ba Vệ ở Đông Bắc bắt đầu có sự gia tăng số lượng người không mang theo gia quyến để đi khai hoang. Những người này tương lai sẽ trở thành lực lượng chủ chốt để rèn luyện thành binh lính.

Nội bộ triều đình cũng tiến hành chỉnh đốn, hiện tại trong Nội Các thì Tiêu Phương đứng đầu, nhưng sự hăng hái như dòng nước xiết của Lý Đông Dương đem lại cho vị Tiêu Các Lão tuổi cao rồi mới có cơ hội thi triển tài năng này rất nhiều động lực và cảm xúc, Ông chủ động xin chỉ, dùng tấm thân già nua đi tuần tra Sơn Đông, Hà Nam, Hà Bắc, Sơn Tây...

Những địa phương này có tổng cộng hơn ba mươi vạn dân tị nạn do chiến loạn mà phải rời bỏ quê hương. Đám người này giống như cỏ khô có thể bị đốt cháy bất cứ lúc nào, hiện tại bọn họ đi ăn xin khắp nơi, vẫn chưa nhìn ra được mầm mống phản loạn, nhưng chỉ cần mùa đông năm nay những người này vẫn chưa tìm được nơi an cư, không chốn nương thân, không quần áo, không lương thực, thì chuyện tạo phản lúc nào cũng có thể phát sinh.

Tiêu Phương xin thánh chỉ dùng thân phận khâm sai đi tuần tra các địa phương, đốc thúc các nhà kho ở châu phủ tích trữ lương thực, hạ thấp giá cả, thu nạp ngân phiếu, bán cho nông dân. Đồng thời lệnh cho các Bố Chính Sử ở những địa phương nói trên tại những nơi có đông dân tị nạn tiến hành biên chế thành những Lý giáp (một Lý giáp tương đương với một trăm mười hộ), lập làng xã mới, an trí tại chỗ, phòng ngừa người dân tiếp tục chạy loạn.

Những địa phương có dân lưu vong rải rác, thì địa phương đó thu xếp vào những hộ tịch sẵn có tại các hương thôn phụ cận của các Châu Huyện, nhưng cũng phải lập ra Lý trưởng mới để tăng cường quản lý, lại tiến hành phân phối trâu cày, hạt giống cho các nơi có đồng ruộng bỏ hoang hoặc vùng bồi đắp của sông Hoàng Hà, khiến dân lưu vong có thể tự mình sản xuất. Nông dân có nhà, có đất, có hy vọng để sinh tồn, thì tuyệt đối sẽ không đem thủ cấp của mình treo ở đai quần để đi tạo phản.

Đại sự trong triều do Dương Đình Hòa chủ trì, trở thành người chấp chưởng triều chính trên thực tế. Đây cũng là sự điều chỉnh quyền lực tinh tế, nhằm tranh thủ sự ủng hộ hết mình của Dương Đình Hòa và phe cánh của ông ta. Dương Đình Hòa loại bỏ những ảnh hưởng chính trị xấu, giảm nhẹ việc trưng thu lương thực và thuế khóa tại những địa phương nghèo khó, cho hồi hương cung nữ và nhạc công, phóng thích tù nhân vô tội, thanh tra các khoản quân lương khống. Chỉ bằng vào những hoạt động này hàng năm là có thể tiết kiệm được cho triều đình cả trăm vạn lượng.

Thân sĩ Giang Nam nhân cơ hội này cổ súy người đại diện cho lợi ích của bọn họ, thỉnh cầu triều đình giảm thuế cho Giang Nam. Đối với yêu cầu này, Dương Đình Hòa kiên quyết từ chối. Giang Nam chính là trọng điểm để tiến hành cải cách của Dương Lăng, những quan viên kia thỉnh cầu Dương Đình Hòa không được bèn

tìm đến thỉnh cầu Dương Lăng, đương nhiên là kèm thêm rất nhiều lời dèm pha dành cho Dương Đình Hòa, lại đem nỗi khổ của người dân Giang Nam nói tới mức sắp không chịu nổi.

Giang Nam giàu có nhất thiên hạ, điều này Dương Lăng biết, người dân Giang Nam giàu có hơn người dân các địa phương khác, về điểm này hắn hai lần đi Giang Nam cũng đã biết rất rõ. Dương Đình Hòa giảm thuế cho địa phương nghèo, tăng thuế tại những địa phương giàu có, chính sách này cũng giống như thuế điều tiết thu nhập cá nhân của thời nay vậy, là môt đòn bảy để cân bằng cán cân thu thuế rất hiệu quả, vì thế Dương Lăng hoàn toàn ủng hộ ông ta, những quan lại đi du thuyết kia đều bị đuổi về.

Hai người tuy vì Dương Nhất Thanh mà quan hệ cá nhân không được tốt, nhưng đều lấy đại cục làm trọng, ngầm phối hợp với người kia để hành động. Kỳ thật, nói thuế hiện tại áp cho dân chúng Giang Nam nặng là không sai, nhưng căn nguyên không phải do thuế suất của triều đình cao, mà là do sự thôn tính đất đai và chế độ thuế khóa cũ gây nên.

Việc thôn tính đất đai bản thân nó không phải là có hại, nếu đất đai toàn bộ do nhà nước sở hữu, đó liệu có thể coi là một dạng thôn tính đất đai quy mô lớn? Đất đai thuộc nhà nước cũng tốt, thân hào cũng được, đều cần có người để canh tác. Cứ cho là có một quyền lực nào đó có thể đem toàn bộ đất đai trả về cho nông dân, khiến người người đều có ruộng đất của riêng mình, nông dân, bất luận là làm công việc quản lý tài chính gia đình, hay trồng chọt buôn bán, tố chất mỗi người có cao có thấp, trải qua hơn trăm năm, người khôn thì sống, kẻ yếu kém sẽ bị đào thải, cuối cùng đất đai cũng sẽ quy về tay một bộ phận thiểu số một cách hết sức tự nhiên.

Vấn đề là ở chỗ, người thôn tính đất đai đều là Hoàng thân Quốc thích, các thế gia giàu có và quyền năng. Một khi bọn họ độc chiếm đất đai vào trong tay mình, thì sẽ lợi dụng đặc quyền để luồn lách trốn thuế, đất đai bị thôn tính càng nhiều, thuế mà triều đình thu được càng ít. Hoàng thân Quốc thích, bao gồm công thần có tước vị cao, thái giám có quyền thế, thân hào danh tiếng ở địa phương, đều dựa vào đặc quyền, hối lộ quan phủ, chiếm dụng hộ khẩu phi pháp, giấu đất trốn thuế, lẩn tránh sai dịch.

Như vậy là, thuế của triều đình đều đè hết lên đầu người nông dân, chế độ thuế đinh cũ của triều đình là tính thuế trên đầu người. Những người nông dân không có đặc quyền kia, ruộng đất chẳng có là bao, thuế phải nộp lại ngày một nhiều hơn, kết quả là càng ngày càng nghèo đi, ruộng đất còn lại không thể không mang đi cầm cố

ở chỗ người giàu, cuối cùng bản thân trở thành tá điền. Vì thế nguồn thu thuế của triều đình ngày càng giảm đi.

Nhất Điều Tiên Pháp, chia đinh nhập mẫu, đã giải quyết được nan đề này của chế độ thuế khóa lao dịch. Đả kích những đặc quyền phi pháp của Thân hào, đồng thời căn cứ vào tình hình giàu nghèo, đất đai phì nhiêu hay bạc màu ở các nơi, quan lại định ra mức trần địa tô, không cho phép bọn họ bóc lột quá mức người nông dân, do đó đã giải quyết được vấn đề khó khăn nêu trên.

Những điều lệ mới về đất đai, thuế khóa của triều đình đã vạch ra một cách rõ ràng những khiếm khuyết của chính sách cũ, hơn nữa luật lệ mới về thuế cũng chỉ khiến cho những khoản trốn thuế của Thân hào được truy thu về Quốc khố của triều đình, và không thể kiếm tiền phi pháp được nữa. Bọn họ dù sao cũng giàu có một phương, cho nên không cần thiết phải bức họ đến mức phải tạo phản, đồng thời cũng khiến họ không dám coi thường chính sách mới đã được trên dưới triều đình thống nhất. Những cây bút của Khoa Đạo chính là đang trừng mắt theo dõi chờ nắm được sai lầm của bọn họ.

Đám người này phẫn hận không biết kêu ai, liền chút giận lên người đề xướng là Dương Lăng, không ngừng dâng biểu công kích hắn vi phạm chế độ tham chính, tự ý can dự vào công việc của triều đình. Dương Lăng đối với tình huống này sớm đã chuẩn bị, lập tức cáo ốm ở nhà.

Dương Lăng vừa 'ốm', lập tức dâng tấu thỉnh cầu Hoàng thượng thu hồi lại ý chỉ đã ủy quyền cho hắn phụ trách những việc như tiễu phỉ, cải cách triều chính..., nói hắn mắc phải bệnh nặng, cần nghỉ ngơi để dưỡng bệnh, điều này khiến cho những quan viên chỉ trích hắn chỉ biết dương mắt nhìn. Tiếp sau đó lại truyền ra tin Dương Lăng nạp thiếp, khiến đám người này dở khóc dở cười: Thân lâm trọng bệnh ư? Bệnh cô đơn ư?

Vậy nhưng, ngươi công kích ta can dự triều chính, ta liền về nhà lấy vợ bé chơi đùa nha...Ngươi còn muốn thế nào nữa?

Đấu pháp vô lại của Dương Lăng khiến những người này trong nhất thời thật sự là nghĩ không ra sách lược để đối phó.

Hoàng đế Chính Đức của hiện tại cũng không còn giống như năm xưa. Triều đình được y khống chế chặt chẽ trong tay, Nội Các, Lục Bộ, Khoa Đạo, tất cả đều ủng hộ chính sách mới của Hoàng đế, y chẳng thèm quan tâm tới sự phản đối của một số ít quan viên.

Hoàng đế Chính Đức liên tiếp hạ ba chiếu thư trong ba ngày, hơn nữa không phải dùng phương thức hạ chiếu thông thường, mà dùng nghi thức chính thống, thông qua Nội Các truyền đạt xuống, yêu cầu Dương Lăng phò giúp việc triều chính, xử lý công việc. Chiếu thư loại này cần phải chép lại trên bảng thông báo để cho quần thần xem, Chính Đức biểu thị thái độ rất rõ ràng cho người trong thiên hạ: Trẫm ủng hộ hắn!

Theo lời một số thái giám trong nội cung, cả ba đạo chiếu thư trên, Hoàng thượng khi đọc lời cho chiếu thư toàn dùng từ chửi mắng, có điều thông qua ngòi bút mượt mà của Dương Đình Hòa, đã trở nên văn nhã hơn nhiều.

Sáng sớm ngày thứ nhất, Ti lễ thái giám Đỗ Phủ mang theo đạo thánh chỉ thứ nhất tới tuyên:

- Kỷ cương bại hoại, sức nước yếu đuối, quân đội hủ hóa, tài chính túng quẫn, đều là do quan viên lợi dụng những lỗ hổng của chính sách cũ mà gây nên. Dương Lăng một lời chấn động, tựa như hạn hán lâu ngày gặp mưa, Trẫm vô cùng tán thưởng. Nay việc nước rất gấp, là lúc Quốc công cần đưa vai gánh vác, lập chí tiến thủ, lấy lợi ích chung làm trọng, cùng đồng tâm hiệp lực với quần thần, không nên vì lời thị phi mà chùn bước.

Dương Lăng tiếp chỉ, tạ ơn, và từ chối khéo.

Rạng sáng ngày thứ hai, Đỗ Phủ mang đạo thánh chỉ thứ hai tới tuyên:

- Ngày nay quốc gia nguy nan, cần người có tài cứu thế giúp đời nhìn xa trông rộng như khanh, để cùng hóa giải, sao có thể dùng lời thoái thác, kiên trì buông xuôi. Khanh là trụ cột của nước nhà, là cánh tay đắc lực của Trẫm. Quốc công không được tham chính, không phải là quy định của pháp luật Đại Minh, chẳng qua chỉ là quy ước đã lạc hậu. Đại thần Dương Lăng khẩn trương ra trông coi việc nước,

chớ phụ ân Trẫm.

Những lời này, Hoàng thân Quốc thích, Huân thần Công khanh toàn bộ đều nghe thấy, như vậy chẳng phải bản thân họ sau này sẽ có cơ hội lộ mặt ở triều đình rồi? Ngay cả những người kiếm được ít tiền hơn do chính sách cải cách mới cũng vỗ tay khen hay, đương nhiên rồi. Hiện giờ Dương Lăng khai thông đường biển, bọn họ tiền nhiều thế lớn, chở thành đại phú hào buôn bán với ngoại quốc, lợi nhuận khổng lồ, cũng không còn quan tâm tới chút lợi ích từ đất đai nữa rồi.

Dương Lăng tiếp chỉ, tạ ơn, tiếp tục từ chối khéo.

Sáng sớm ngày thứ ba, Đỗ Phủ tiếp tục mang thánh chỉ tới tuyên:

- Lời thị phi lại có trọng lượng hơn mệnh lệnh triều đình? Kỷ luật nhà nước còn đâu? Việc tiễu phỉ rất gấp, cải cách rất gấp, an dân rất gấp, chấn hưng giang sơn rất gấp, Dương Lăng nên sớm quay lại triều đình trông coi việc nước. Cửu Khanh Khoa Đạo không được phép nghị luận mù quáng, nếu còn người nào gièm pha quấy nhiễu, nhất loạt giao cho Trấn Phủ Ti nghiêm trị.

Dương Lăng lĩnh chỉ, tạ ơn, tâu lại với Hoàng thượng:

- Quân thượng coi trọng như vậy, vi thần cảm động đến rơi nước mắt, đợi bệnh của thần chuyển biến tốt hơn một chút, nhất định lập tức vào triều, hết lòng tận tụy để chia sẻ nỗi lo với Hoàng thượng.

Hoàng đế nghe vậy vô cùng vui mừng, ngày hôm sau sau buổi lâm triều liền khởi giá ra ngoài thành, đi thăm hỏi bề tôi đắc lực của mình, nhằm biểu thị ân sủng.

Những quan viên công kích trong triều sau khi nghe ngóng, biết Uy Quốc công hôm nay nạp thiếp, cái mũi của bọn họ thiếu chút nữa thì xẹp xuống:

- Cái này cùng với sự kiện Thái tử gia đăng cơ, bá quan văn võ ba lần thỉnh cầu liệu có gì khác biệt? Đây chẳng phải là cố tình trọc tức người ta sao?

Người bị chọc tức chính là bọn họ. Cử trọng nhược khinh (xử lý việc khó một cách nhẹ nhàng), đùa với người đời, trong chò đùa tưởng như hoang đường ấy, lại chính là lúc chỉnh đốn đám hủ nho, tham quan ô lại, đây đúng là trò hay quen dùng của vua tôi nhà này.

Dương gia cũng không tổ chức quá long trọng, tuy rằng thân phận của Dương lăng cao quý, nhưng nạp thiếp thì vẫn là nạp thiếp, chiếu lý mà nói, căn bản không cần phải quá phô trương. Hoàng thượng nạp phi cũng chỉ là rước kiệu đi qua cửa ngách vào cung là xong. Dân thường cưới vợ cũng là chuyện bình thường, tổ chức long trọng quá ngược lại khiến người cười chê.

Có điều, hôm nay Dương Lăng tổ chức hôn lễ theo nghi thức phương Tây, hơn nữa Hoàng thượng cũng tới tham dự, đây phải nói là một điều cực kỳ vinh dự.

Vinh dự không chỉ là toàn gia Dương phủ, đám cha sứ Nhã Các Tư bọn họ cũng cảm thấy vô cùng vinh dự. Đây còn là lần đầu tiên chủ trì hôn lễ kể từ khi bọn họ tới Đại Minh, cho nên giáo đường từ trên xuống dưới trang trí mới hoàn toàn, các cha sứ đều mặc những tấm áo choàng mới tinh

Lần trước giáo đường khánh thành, Hoàng đế đến thăm quan, khiến cho ở Kinh sư dấy lên một hồi chấn động rất lớn. Hiện tại bọn họ đã phát triển được hơn hai ngàn giáo đồ, tuy tuyệt đại đa số đều là những phụ nữ ở vào độ tuổi già và trung

niên, nhưng thành tích trong một năm này cao hơn nhiều so với vài năm trước, thời bọn họ lăn lộn tựa như những tên ăn mày, cộng lại. Hiện tại, Hoàng đế lại một lần nữa đến thăm, hơn nữa chủ nhân của hôn lễ lại chính là Công tước của Đại Minh, sức ảnh hưởng là vô cùng sâu xa.

Bọn họ hiện tại đã liên hệ được với người ở quốc gia của mình, thậm chí Giáo Hoàng nơi đó cũng nghe nói bọn họ ở Phương Đông có được sự tiến triển vượt bậc. Các giáo sĩ đang tổ chức lại thành tùng nhóm, mua sắm thuyền bè, kêu gọi tình nguyện viên, thu thập các tài liệu về khoa học, văn hóa, tôn giáo..., chuẩn bị tiến hành phái thêm giáo sĩ tới Trung thổ truyền giáo với quy mô lớn hơn trước.

Những giáo sĩ rải rác ở những nơi khác như Đông Doanh, Lã Tống...thông qua thương nhân biết được sự phát triển của đồng nghiệp ở Đại Minh cũng nhanh chóng tới đây. Bởi vì việc truyền giáo của bọn họ tại những nơi đó là vô cùng khó khăn so với ở Đại Minh, hơn nữa người dân ở những nước như Đông Doanh, Lã Tống...khi tranh luận thường rất thích vận dụng những câu nói, tư tưởng của cổ nhân Trung Quốc và coi đó như là một dạng quyền uy.

Thậm chí trong lúc truyền giáo, bọn họ còn bị dân địa phương ở đó mỉa mai, đều nói đại ý là: "ngay cả người của Đại Minh còn không tin vào Chúa của các ngươi, không tin vào giáo lý của các ngươi, đừng lấy nó ra để lòe người". Đại Minh có ảnh hưởng về văn hóa hết sức sâu đậm đến các nước nhỏ xung quanh, nên bọn họ cho rằng chỉ cần công phá được thành lũy kiên cố này, việc truyền bá tín ngưỡng và giáo lí ở địa phương khác liền dễ hơn nhiều.

Dương Lăng cũng không dám khinh thường vai trò của bọn họ. Các giáo hội phương Tây vào thời đó luôn nắm giữ những kiến thức tiên tiến nhất về văn hóa và khoa học kỹ thuật của phương Tây. Ba trụ cột của Thiên Chúa giáo vào cuối thời Minh là Từ Quang Khải, Lý Chi Tảo và Dương Đình Quân chính là tiếp thu rất nhiều tri thức của phương Tây, nên trên các phương diện toán học, thiên văn, lịch pháp, quân sự, chắc đạc, nông nghiệp và thủy lợi đều có những thành tích đáng kể.

Duy trì chặt chẽ mối liên hệ với bọn họ, đồng thời thường xuyên thu hút giáo sĩ phương Tây đến đây, sẽ đem lại rất nhiều những quan niệm mới, kiến thức mới của

phương Tây. Đặc biệt khi họ dừng chân ở Kinh sư của Đại Minh, việc truyền bá sẽ phát triển rất nhanh, rồi bị dung hợp trong vô thức, sẽ ảnh hưởng tới một Đại Minh đang trong thời kỳ manh nha hình thành những tư tưởng mới, khoa học kỹ thuật mới và văn hóa mới.

Do đây là hôn lễ, nên bên ngoài giáo đường không có bố trí quan binh, nhưng lại có khá nhiều bách tính đến chúc mừng. Trong đám người này đa phần đều là thanh niên ngoài hai mươi tuổi, dáng người khôi ngô dũng mãnh, trong người giấu đao sắc bén. Có câu ba tầng trong, ba tầng ngoài, đám người này quả thật được phân làm ba tầng, tầng trong cùng chính là Đại nội Cẩm Y Vệ, ở giữa là thị vệ của Ngự Mã Giám, tầng ngoài cùng chính là người của Đông Xưởng. Hoàng đế đang ở đây, không thể không cẩn thận.

Cái gọi là khách quý trừ người của ba Xưởng một Vệ ra cũng chỉ có người nhà của Dương gia. Giờ phút này ở Dương phủ đang loạn thành một cục, Dương Lăng tức giận hổn hển nói:

- Ta biết ngay mà, ta biết ngay mà ta biết ngay không nên nói cho y biết. Các ngươi nhìn xem, ngay cả hình mẫu ta cũng đã vẽ cho y rồi. Đây mà gọi là áo đuôi én sao? Đuôi én...cũng không nên để cái đuôi vểnh lên như vậy chứ.

Một đám thê thiếp cười khanh khách, Đường Nhất Tiên hất khuôn mặt xinh đẹp

nói:

- Khụ khụ! Không được báng bổ quân vương, đây là bộ lễ phục được nhất trong mười sáu bộ mà Hoàng thượng tự mình tìm người để may đấy, huynh coi, đội thêm cái mũ này lên liền giống như...con dơi nha.

Dương Lăng tức giận trừng mắt nhìn nàng, lầm bầm:

- Ta đã nói rồi mà, hôn lễ không cần Hoàng thượng xử lý, y chỉ việc tới dự là được rồi, khụ! Y cứ nhất quyết muốn một mình ôm lấy mọi việc, còn nói nhất định khiến ta vừa lòng, kết quả, đến tận bây giờ mới cho ta xem, Cái này... cũng kịp sửa nữa rồi, đi thôi, đi thôi, nhanh đến giáo đường.

Dương Lăng mặc một bộ lễ phục màu đen, trên đầu đội một chiếc mũ thóp cao có đuôi, vểnh lên như đuôi chim yến, khí độ hiên ngang đi ra ngoài. Tuyết Lý Mai che miệng cười khanh khách:

- Muội nhìn thế nào cũng không thấy lão gia nhà ta giống như chim yến, mà giống con chồn mới đúng.

Hàn Ấu Nương trừng mắt nhìn nàng, nhưng bản thân mình cũng không nhịn được cười.

Cao Văn Tâm nửa đùa nửa thật nói:

- Nữ nhân như nước mà, có nước thì sẽ có cá, cho nên trên người của nữ nhân còn có mùi tanh, nam nhân họ chính là người đi ăn vụng vị tanh, cho nên Chồn thì thích hợp hơn so với chim yến, thích vị tanh.

Nàng luôn miệng nói đến chuyện ăn vụng vị tanh, người nói vô tâm, người nghe hữu ý. Thành Khởi Vận dáng người thướt tha yểu điệu tựa như nhánh hoa mảnh khảnh đứng ở gần đó, khuôn mặt chợt hồng, nàng liếc trộm sang, thấy Cao Văn Tâm vừa nói vừa cười, không giống như là đang châm chọc mình, trong lòng mới âm thầm thở phào nhẹ nhõm.

Nữ nhân không ai là không ghen, ghen tuông vốn là chuyện bình thường. Thê thiếp trong Dương gia sở dĩ hòa thuận, thứ nhất là do Dương Lăng đối xử bình đẳng, không thích nữ nhân trong nhà mình lục đục với nhau, thứ hai là bởi các nàng đều là người thông minh, biết việc tranh giành sự sủng ái không những không khiến cho Dương Lăng vui vẻ, ngược lại còn trở thành cái đích cho mọi người chỉ trích.

Hơn nữa, các nàng thích bầu không khí hiện tại, cho nên cũng cố gắng hết sức để duy trì nó, không muốn làm cho cả nhà bất hòa, Cao Văn Tâm quả thật không hề có ý châm biếm nàng.

May quá! May là không có nhiều người đến tham dự, bằng không với bộ dạng này hẳn là xấu hổ chết đi được.

Dương Lăng vuốt vuốt chiếc đuôi cứng ngắc đang vểnh lênh do được một sợi thép cố định, căn bản không hề để ý tới đám đồng liêu đang cười trộm ở hiện trường.

Dựa theo thông lệ cưới hỏi của người theo đạo Thiên Chúa ở Tây Ban Nha, hôn lễ là do phụ mẫu của cô dâu tiến hành tổ chức, thời gian tổ chức hôn lễ tại giáo đường là vào buổi chiều, vì vậy việc Chính Đức đợi khi tan triều mới đến cũng không bị muộn thời gian. Hôm nay là một ngày vui, Dương Lăng trong bối cảnh ở giữa một đám đặc vụ mặt thì nghiêm nghị miệng thì cười to chạy đến giáo đường, đám cha sứ nhìn thấy bộ dạng của chú rể như vậy cũng không nhịn được mà bật cười. Chỉ có đám đặc vụ của Xưởng Vệ là có thể tự chủ, người nào cũng cố nhịn, vờ như không nhìn thấy.

Phù rể Chính Đức thân phận đặc thù, cho nên không theo Dương Lăng đi Dương phủ, y đang đứng trên lễ đường tranh luận cùng với Nhã Các Tư, hy vọng có thể tự mình kiêm nhiệm vai trò cha sứ, điều này có vẻ hơi hoang đường, Nhã Các Tư cười khổ liều mạng lắc đầu. Nhìn thấy Dương Lăng tiến vào, Chính Đức lập tức bỏ mặc Nhã Các Tư, hớn ha hớn hở chạy tới, nhìn một lượt từ trên xuống dưới, chậc chậc khen:

- Xem nào, bộ y phục Trẫm may cho khanh quả thật là rất vừa nha...À, có điều y phục của người phương Tây quả thật có chút kỳ quái.

Dương Lăng cười gượng hai tiếng, hận không thể lập tức kết thúc hôn lễ, để có thể cởi bỏ cái bộ đồ chết tiệt này ra, hắn vội vàng hỏi:

- Hoàng thượng, hôn lễ có thể bắt đầu được chưa?

- Được! Được! Được! Bắt đầu đi!

Hoàng đế Chính Đức mặc trên người một bộ võ phục tay áo bó sát kiểu Trung Quốc, mi thanh mục tú, môi đỏ tựa chu sa, cũng là một mỹ thiếu niên anh tuấn phong độ, so với một Dương Lăng với chiếc mũ chóp cao kèm thêm đuôi yến quả thật là có thần hơn nhiều. Y vội vàng chạy vào một góc, quơ lấy một thanh đao và một tấm khiên rồi chạy trở về.

Dương Lăng ngạc nhiên, giật mình nói:

- Hoàng thượng, cái này là có ý gì? Chính Đức trang nghiêm nói:

- Dựa theo tập tục của phương Tây, chẳng phải sẽ có ác long và ma quỷ cướp đoạt tân nương, phù dâu phụ trách mê hoặc ma quỷ, phù rể hiệp trợ bên cạnh chú rể diệt trừ yêu ma sao? Trẫm cảm thấy, dùng mỹ nhân kế hơi mất thể diện của nam nhân, trách nhiệm này nên để cho Trẫm một mình gánh vác đi, không thể để cho Nhất Tiên mạo hiểm!

Dương Lăng không biết nên khóc hay nên cười, hắn ngẩng đầu nhìn Nhã Các Tư, Nhã Các Tư nhún vai một cái, dang hai tay, bĩu môi, lắc đầu, ông ta cũng hết cách, ai bảo người ta là Hoàng thượng chứ. Lần này thì nhường, kế tiếp tiến hành chủ trì hôn lễ cho người ta, quyết không thể như thế này, bằng không đợi Giáo Hoàng tổ chức đại đội nhân mã đi tới Đại Minh, nhìn thấy bản thân mình thay đổi nghi thức như vậy thì mặt mũi để đâu...

Ông ta và Dương Lăng ngơ ngác nhìn nhau, trong lúc nhất thời có cảm giác không quen...

Tân nương bắt đầu tiến vào giáo đường. Việc tân nương tự mình may lễ phục sẽ không đem lại may mắn, hơn nữa phải đợi đến lúc xuất phát đi tới hiện trường tổ chức hôn lễ mới được hoàn tất đường may cuối cùng, vì vậy y phục của tân nương

cũng đều do một tay Chính Đức lo hết.

Cũng may, váy cô dâu không giống như y phục đuôi yến (măng tô), có thể khiến cho y mặc sức phát huy chí tưởng tượng của mình. Lụa thưa thượng đẳng dùng may áo cưới trắng tinh đại khái cũng có vài phần thánh thiện giống như lễ phục của phương Tây, hơn nữa không hề xấu chút nào mà cô cùng xinh đẹp.

Viền áo xõa tung, eo nhỏ xiết chặt, thánh khiết tựa như một thiên sứ, mặt được che bởi một tấm khăn màu vàng sáng, tay cầm hoa tươi trước ngực, trên đầu đội vòng hoa, dưới lớp khăn che mặt không thấy được tâm trạng của A Đức Ny như thế nào. Nàng khoan thai đi tới, từng bước từng bước một, dáng đi vô cùng tao nhã khoáng đạt, Dương Lăng nhìn mà vô cùng sốt ruột.

A Đức Ny không dám đi nhanh, vốn dĩ khăn che mặt có màu vàng da cam, mỏng và thưa, nhưng Chính Đức lại lý giải vấn đề theo kiểu của phương Đông, tức giống như khăn voan đỏ. Để tỏ ra long trọng, y còn đặc biệt dùng vải gấm tốt nhất màu vàng sáng của Hoàng thất chuyên dùng để làm một chiếc khăn chùm đầu hình bát giác có điểm xuyết thêm đá ru-bi cho A Đức Ny.

Y vốn định điểm xuyết bằng tám viên trân châu, nhưng nghe cha sứ nói trân châu giống như nước mắt tân nương, mang điềm xấu. Cho nên tạm thời lấy tám viên đá ru-bi đính lên. Chỉ đáng thương cho A Đức Ny, căn bản là không nhìn thấy gì ở phía trước nên nào dám đi nhanh, chỉ đành nhìn xuống mũi chân, từng bước từng bước đi về phía trước.

Dải áo dài phía sau của váy cưới được một đôi Kim đồng, Ngọc nữ nhỏ tuổi nâng đỡ, Đường Nhất Tiên một thân y phục diễm lệ, cười dịu dàng đi bên cạnh A Đức Ny. Ngũ Hán Siêu, Tống Tiểu Ái khuôn mặt đỏ bừng, cố gắng nín cười đi phía sau A Đức Ny, liên tục lấy hoa tươi từ trong giỏ rải ở phía trên đầu của nàng. Bọn họ vốn dĩ là phù dâu và phù rể do Dương Lăng chỉ định, không ngờ Chính Đức lấy việc công làm việc tư, nhất định cùng với Đường Nhất Tiên giành lấy vai này, hai người bọn họ trở thành thất nghiệp, bị rớt xuống làm hoa đồng (người rải hoa)

Đôi vợ chồng xui xẻo gặp phải một Hoàng đế Chính Đức không thể lay động, thật sự là dở khóc dở cười. Hai người đều ước hôn lễ mau mau kết thúc. Vị phù rể

nhiệt tình thành phá hoại kia còn tưởng mình thiên phú kì tài, chỉ cần nghe người ta nói qua một chút là có thể bắt trước giống y như thật.

Y hùng dũng hiên ngang đứng bên cạnh Dương Lăng, tay trái cầm khiên gỗ vẽ hình miệng hổ, tay phải giơ một thanh đao sáng loáng lên, trong tiếng nhạc thánh ca có phần lạc điệu của Nhã Các Tư, thưởng thức kiệt tác do chính mình sáng tạo ra.

Nhã Các Ti với vai trò là người dẫn chương trình bắt đầu tuyên đọc:

- Lạy Chúa, Chúng con ở trước mặt người. Xin hãy chúc phúc cho đôi nam nữ đang tiến đến lễ đường hôn lễ thần thánh này. Chiếu theo ý nguyện của người, hai người hòa hợp làm một, làm lễ thành hôn, bách niên giai lão, đời đời kiếp kiếp. Kể từ giờ phút này, cùng trải qua kiếp nhân sinh, thương yêu, đùm bọc, bảo ban, tin tưởng lẫn nhau. Chúa trời ban phúc, cho đôi vợ chồng được hưởng hồng ân, Thánh linh cảm hóa, tôn kính đấng cứu thế, trọn đời trọn kiếp ca tụng người.

Mắt của Dương Lăng mở to muốn rách ra mà cũng không nhìn thấy nét mặt của tân nương, đành phải từ bỏ, chuyển sang nghe cha sứ làm lễ:

- Á Lỵ A Đức Ny, con có nguyện ý lấy người đàn ông này làm chồng, cùng anh ấy ký kết hôn ước? Bất luận khi đau yếu hay mạnh khỏe, hay trong mọi hoàn cảnh khác, đều yêu thương, chăm sóc, tôn trọng anh ấy, chấp nhận anh ấy, suốt đời chung thủy với anh ấy cho đến khi nhắm mắt xuôi tay?

Lời này nghe rất quen thuộc. Dương Lăng không kìm lòng nổi nhìn về phía Ấu Nương, Ấu Nương cười khẽ nhìn hắn, trong ánh mắt có sự ngọt ngào và chua xót đan xen, hiển nhiên là đang cùng với hắn nghĩ tới những ngày tháng khó khăn trước đây.

- Ta đại diện cho Thánh phụ, Thánh tử, và Thánh linh...

- Còn có Thánh Thiên sứ.

Hoàng đế Chính Đức vội vàng lên tiếng nhắc nhở.

Thánh Thiên sứ? Liên quan gì đến Thánh Thiên sứ? Dương Lăng hơi ngạc

nhiên, hắn ngẩng đầu nhìn xem, chỉ thấy Nhã Các Tư nhếch nhếch miệng, dường như sắp khóc, cha sứ hàm hồ nói theo một câu, sau đó mới cất cao giọng nói:

- Tuyên bố các con đã chính thức là vợ chồng, cầu chúa ban phúc, nhẫn cưới sẽ đại biểu cho lời đính ước của các con.

- Nhẫn! Hoàng thượng, nhẫn!

Hả? À à! Hoàng đế Chính Đức ưỡn ngực đứng ở một bên, đang tính toán ưu khuyết điểm của nghi thức hôn lễ kiểu này với kiểu của Trung Quốc, hòng áp dụng cho hôn lễ của bản thân, chợt nghe cha sứ nhắc nhở, lúc này mới giật mình trở về thực tại. Keng! Cạch! Một tiếng, y vội vàng ném đao và khiên xuống, thò tay vào trong ngực, chỉ nghe âm thanh "Đinh Đang" vang lên, đã thấy một chuỗi nhẫn liên hoàn khá dài được y móc từ trong ngực áo ra.

Mọi người trong giáo đường đều bị sáng kiến của Hoàng đế Chính Đức làm cho đứng hình, Dương Lăng giờ mới hiểu được vì sao y lại thêm vào cả sự chúc phúc của Thánh Thiên sứ. Hóa ra, người phương Tây thời đó khi kết hôn rất chuộng nhẫn vàng nguyên chất, vàng là đại biểu cho sự hồn nhiên, bởi vậy không dùng kim cương. Hình thức được ưa chuộng của thời đó là một chuỗi hai hoặc ba chiếc nhẫn được lồng vào nhau.

Đáng lẽ chỉ cần hai chiếc nhẫn là vừa cho cặp vợ chồng. Sở dĩ có ba chiếc liên hoàn là để đại biểu cho Thánh linh, Thánh phụ, Thánh tử tam vị nhất thể. Chiếc nhẫn thứ ba dùng để tặng cho một nhân vật đặc biệt trong hôn lễ, ví dụ như bà mối hoặc người làm chứng cho hôn nhân. Chính Đức cảm thấy như vậy không tốt lắm, người này có, người kia không có thì thật là khó ăn nói, những người đến dự chẳng phải đều có giao tình sao?

Cho nên vị nhân huynh này mới làm ra một chuỗi nhẫn vàng thật lớn, nặng trình trịch cho vào trong ngực áo. Chẳng phải đã nói mỗi chiếc nhẫn phải đại biểu cho một vị thần sao? Vậy thì thêm vào một vài Đại thiên sứ, thiên sứ chẳng phải là được rồi sao?

Hôm nay trên sân khấu có một vị "Chúa" như vậy, một người đa mưu túc trí

như Dương Lăng cũng hết bài, đành phải cắn răng tháo hai chiếc nhẫn từ chuỗi liên hoàn xuống để cùng với A Đức Ny tiến hành trao nhẫn. Chính Đức và Đường Nhất Tiên vừa cười tươi, vừa bắt đầu phân phát nhẫn cho mọi người, mỗi người một chiếc, không thiếu một ai.

Dương Lăng nhân cơ hội này gỡ khăn che mặt của A Đức Ny xuống, tân nương được trang điểm kỹ càng, xinh đẹp cuốn hút, tựa như một trái dâu tây thơm ngon, kiều diễm ướt át, cực kỳ sexy. A Đức Ny cười ngọt ngào với tân lang của mình, đôi mắt đẹp đảo một cái, nhìn Đường Nhất Tiên cười nói:

- Nhất Tiên, bắt lấy!

Vừa nói xong, liền vung tay ném bó hoa bay đi.

Đường Nhất Tiên theo bản năng bắt được bó hoa, nhưng không rõ nguyên nhân.

Chính Đức cũng chưa hề nghe qua thủ tục này, vẫn cứ nghĩ trao đổi nhẫn xong thì coi như nghi thức kết thúc, thấy thế, y vội vàng chạy tới cạnh Dương Lăng, oán giận nhỏ giọng nói:

- Ngươi xem, hoa tươi không cần nữa thì ném sang một bên, tuy nàng là nghĩa muội của ngươi, nhưng cũng không thể coi như người hầu như thế được.

Dương Lăng đảo cặp mắt trắng dã, giải thích nói:

- Hoàng thượng của thần ơi, điều này...điều này có ý là, ai nhận được bó hoa, người đó sẽ là tân nương kế tiếp...

- Ngươi trừng cái gì mà trừng, ta có nói là làm tân nương của ta đâu. Dương Lăng thầm rên rỉ một tiếng nói:

- Ý của thần là: đó là người con gái tiếp theo sẽ kết hôn, sẽ trở thành cô dâu, là một lời chúc đối với cô gái ấy, thần còn cố ý dặn A Đức Ny, phải tặng hoa cho Nhất Tiên. Hoàng thượng, thần... có chút hơi đau đầu.

Chính Đức bừng tỉnh đại ngộ, vui vẻ nói:

- Thì ra là thế, ha ha. Hay hay, cái này hay. À...vậy...vậy còn Trẫm? Trẫm cũng phải có cái gì chứ? Nàng sắp làm tân nương rồi, vậy trẫm sao có thể không làm chú rể đây?

Dương Lăng lập tức nghẹn lời, vật đưa cho tân nương chính là quả cầu hoa, vật đưa cho chú rể kỳ thật cũng có, Hắn là vì nửa đùa nửa thật thuận miệng hỏi A Đức Ny một câu mới biết được. Thời đó, phương Tây đã xuất hiện nịt tất, hơn nữa quý tộc nam càng thích sử dụng nịt tất hơn so với nữ, bọn họ sử dụng nịt tất đủ mọi màu sắc, miệng tất có đường viền tơ khá tinh xảo. Đồng thời, ở vị trí mặt bên của đầu gối còn trang trí nơ hình con bướm.

Trong hôn lễ, nếu chủ rể cởi nịt tất của cô dâu ra, người bị nịt tất ném trúng chính là nam nhân tiếp theo nhận lời chúc sẽ trở thành chú rể kế tiếp. Dương Lăng đương nhiên là không nói ra điều này, giỡn à! Học hỏi người ta thì cũng phải chắt lọc, không phải cái vớ vẩn gì cũng nhắm mắt tiếp thu. Thời đó, khi quý tộc Châu Âu kết hôn, cô dâu còn phải mặc nội y, nằm ở trên giường để quan khách đến hôn hít nữa cơ. Điều này là không thể được.

Dương Lăng lắc đầu quầy quậy, giống như đang đánh trống:

- Không có, không có, nam nhân không có. Chính Đức gấp quá nói:

- Sao có thể như vậy được, dựa vào cái gì mà nam nhân lại không có, ài! Chi bằng để Trẫm hỏi A Đức Ny.

- Đừng! Đừng! Đừng! À...thần nhớ ra rồi, Ha! Ha! Ha! Dương Lăng cười gượng hai tiếng, thuận tay cởi cúc áo, đem cái áo có đuôi vểnh lên như đuôi yến trên người cởi ra:

- Hoàng thượng, ngài mặc vào, còn có mũ nữa, người mặc bộ đồ này, chính là chú rể kế tiếp đấy.

Chính Đức mừng rỡ, lập tức nhận lấy, đem tấm áo choàng dài đó mặc lên trên

người, sau đó lại đội chiếc mũ thóp cao lên đầu. Dương Lăng rốt cuộc cũng lừa được y một vố, chút được cơn ấm ức trong lòng.

Nghi thức kết thúc, tiếp theo là về phủ bày yến tiệc. Giáo đường cách Dương phủ không xa, có thể đi bộ. Đôi vợ chồng mới cưới sóng vai đi phía trước, phù rể phù dâu đi kèm hai bên.

Mặt trời chiều ngả về Tây, ánh dương quang vàng rực phủ xuống. Với chiếc mũ thóp cao tựa như ống khói, vạt áo phía sau vểnh lên nghênh ngang tựa như đuôi chim yến, tay trái cầm khiên, tay phải giơ đao, Đương kim Thánh thượng Chu Hậu Chiếu trở thành một điểm nhấn hoa lệ nhất trong đội ngũ tham gia hôn lễ.

Gia yến của Dương phủ bởi vì Hoàng đế đến tham dự cho nên tổ chức rất long trọng. Các nữ quyến tự bày một bàn ở hậu đình, Chính Đức và Dương Lăng, Trương Vĩnh thì uống rượu tại tiền đường. Chỉ có tân nương tử thì theo quy củ lễ nghi Trung Quốc trở về Dương phủ, trong tân phòng của nàng đã có một hỉ nương chờ sẵn để hầu hạ, không thể ra ngoài.

Chính Đức Hoàng Đế bởi rằng bên mình đều là những cận thần thường gặp hằng ngày, cho nên vô cùng thoải mái vui vẻ, mọi người uống rượu trò chuyện rất vui. Lúc họ trở về sắc trời cũng đã muộn. Trời đã tối, tuy nói xưa nay Hoàng thượng ở lại Báo viên, không ngại cấm cung đã đóng, nhưng trở về thành cũng không thể quá muộn.

Dương Lăng liền mỉm cười khuyên nhủ:

- Hoàng thượng, sắc trời đã muộn, thần cũng không dám giữ bệ hạ lâu, nếu không sẽ bị Khoa Đạo khiển trách. Hoàng thượng ngài nên trở về cung rồi.

Chính Đức Hoàng Đế đã uống ngà ngà, nghe vậy nói:

- Hài, không sao không sao, muộn một chút kêu cửa thành mở là được. Dương Lăng cười nói:

- Hoàng thượng, tuy nói hưởng mã đạo Bạch Y Phỉ đã đuổi tới phía nam, nhưng khó tránh khỏi sẽ có một số ít du binh nhân loạn mà chạy thoát, vẫn còn ở phương bắc. Hoàng thượng thân thể vạn kim, không thể nhất thời mà mạo hiểm. Chim mệt về tổ nha, chúng ta uống cũng đã tận hứng rồi, nếu Hoàng thượng không khởi giá, bọn thần sẽ lo lắng, rượu này không thể uống nổi nữa.

Chính Đức dương dương tự đắc, không chút cảm giác mình mũ cao đuôi én, mà giống như một người chim rất lớn, nghe vậy còn cười ha hả không chịu đi về. Đám Mâu Bân lo lắng an nguy của Hoàng đế, bọn họ cũng không dám mạo hiểm phiêu lưu, đừng nói là có người gây tổn thương cho Hoàng thượng, dù chỉ là có người va đụng vào thánh giá, cũng đã đảm đương không nổi rồi.

Mâu Bân đảo mắt, dán tai Hoàng thượng thì thầm vài câu. Chính Đức nghe xong ôm bụng cười to, cái đuôi lớn phía sau run rẩy không ngừng vô cùng quỷ dị. Chính Đức tươi cười nói với Dương Lăng:

- Hóa ra chim mệt về tổ là thế. Ha ha, khanh tự về tổ đi, trẫm sẽ khởi giá về cung, tránh làm lỡ việc tốt của khanh. Hà hà hà...

Dương Lăng nghe vậy không nói gì, thấy Hoàng thượng nâng cao đuôi to lảo đảo đứng lên. Nữ quyến hậu đường nghe được cũng bận rộn đi ra chào, cả nhà tiễn Chính Đức lên kiệu, Ngự lâm quân bảo vệ bốn phía khênh kiệu trở về thành.

Tiễn con chim lớn này đi rồi, mọi người mới thở phào nhẹ nhõm, tôi tớ thu dọn đống chén bát hỗn độn ở tiền đình. Dương Lăng đi vào phòng khách hậu đường với các thê thiếp và Đường Nhất Tiên, Thành Khởi Vận, gọi người châm trà mang đến. Dương Lăng vừa mới giả vờ giả vịt ngồi xuống, đã bị Đường Nhất Tiên và Tuyết Lý Mai cười hì hì bước đến, đẩy hắn ra.

Dương Lăng cười cười, hé mắt nhìn, tất cả mọi người đang dùng trà trò chuyện ở trong sảnh, lúc này mới thản nhiên đi đến chỗ ở của A Đức Ny. Sắc trời mờ tối, hôm nay có việc vui, đan lồng treo sáng ở viện tử. Lúc này đã qua thời kỳ để tang Thái Hoàng Thái Hậu, đèn lông đã đổi một loạt thành màu đỏ, nhìn mà tâm tình thoải mái vui vẻ.

Vừa vào phòng ngủ của A Đức Ny, chỉ thấy sắc màu rực rỡ, nến đỏ long phượng đang cháy, hỉ nương thấy lão gia tiến vào, cười khanh khách cúi chào, sau đó lui ra ngoài. A Đức Ny ngồi ở bên giường, trên người mặc trang phục màu trắng, ngọt ngào nhìn Dương Lăng.

Dương Lăng đóng cửa phòng, đi đến ngồi bên nàng, cầm tay nàng cười nói:

- Ăn gì chưa?

A Đức Ny e lệ gật đầu nói:

- Rồi, hỉ nương có cho muội ăn chút điểm tâm, cháo nóng, đã ăn rồi. Nàng nhẹ nhàng rút tay ra, đi đến bên bàn, rót ly trà nóng hổi đưa đến cho

Dương Lăng. Dương Lăng nhận lấy, thấy là dầu trà sáng bóng, lóe hồng nhuận sáng, không giống bình thường, liền tò mò uống một hớp, căn bản không phải trà, rất ngọt, giống như trà pha mật ong.

Dương Lăng ngạc nhiên nói:

- Đây là mật ong?

A Đức Ny ngọt ngào nhìn phu quân, dịu dàng nói:

- Đúng vậy, hằng ngày muội và huynh đều uống loại nước mật này. Nàng đảo đôi mắt, ngọt ngào nói:

- Mật ong là tượng trưng của sinh mệnh, khỏe mạnh, và sinh dục. Sau hôn sự của chúng ta ba mươi ngày, cần phải uống mật ong hằng ngày để cầu nguyện cuộc sống của chúng ta sẽ ngọt ngào như mật ong. Đây là 'Tuần trăng mật' của chúng ta đó.

Giờ Dương Lăng mới biết căn nguyên của câu "Tuần trăng mật.". Hắn uống thêm một hớp, ngậm mật ong trong miệng, đặt chén xuống, sau đó ôm eo nhỏ của A Đức Ny, đón lấy miệng nàng. A Đức Ny xấu hổ nhắm hai mắt lại, dâng đôi môi mọng đỏ như đóa hoa lên. Hai người chia sẻ mật ngọt qua miệng, thân hình hai người từ từ ngã xuống giường, nến đỏ vẫn cháy rực, hơi thở hổn hển, tiếng rên rỉ mềm nhẹ đầy quyến rũ.

Qua rất lâu sau đó...

Dương Lăng bỗng nhiên ngồi dậy, tức giận hổn hển nói:

- Cái váy này, muội nói xem váy này cởi thế nào đây?

A Đức Ny quần áo hỗn độn, hai má hồng nhuận làm người ta tai nóng máy mắt, nhưng dây rợ của chiếc váy kia thật sự là không thể tháo ra được, vẫn thít chặt tấm lưng thanh nhã từ ngực xuống eo.

A Đức Ny xấu hổ tự cởi váy, nhưng mất nửa buổi cũng không cởi được. Dưới chiếc váy là dây thép dài thành từng vòng từ nhỏ đến lớn chống đỡ, nằm như vậy ở giường, bên trong lộ ra đôi chân thon dài đi tất màu đen khiến người khác nhìn mà nhiệt huyết sôi trào, nhất là lại không động đậy được.

Hai người chiến đấu với chiếc váy trên người A Đức Ny, chiếc váy này cũng không biết Chính Đức Hoàng thượng chế tác như nào, lúc trước một đám tôi tớ ba chân bốn cẳng giúp nàng mặc vào đấy, sau khi bị Dương Lăng vừa túm vừa giật vừa xé thì căn bản bây giờ không thể cởi ra nổi. Hai người vã mồ hôi hột, cuối cùng đã hết hy vọng rồi.

Ủ rũ nhìn nhau chốc lát, hai người không khỏi phì cười, sau đó thì phá lên cười

to.

Dương Lăng nhảy bật dậy, vỗ vỗ bờ vai nàng an ủi:

- Đừng nóng vội, mật đường của ta. Ha hả, ta có cách.

Dương Lăng quay người mở cửa đi ra ngoài, nhìn nhìn chung quanh, sau đó nhanh như chớp biến mất trong bóng đêm. Đám người Hàn Ấu Nương, Cao Văn Tâm ở phòng khách cắn hạt dưa trò chuyện vẫn chưa tan, thấy Dương Lăng quần áo không chỉnh tề chạy vào, không khỏi ngạc nhiên.

Dương Lăng không ngờ các nàng ấy vẫn còn ở đây trò chuyện, hắn cười gượng hai tiếng nói:

- Ầy, ta tìm...đúng rồi, chính là nó.

Dương Lăng sáng mắt lên, bổ nhào qua chụp lấy cái kéo lớn cắt cành hoa ở trên bệ cửa sổ, làm động tác "soẹt soẹt" hai cái, hài lòng cười nói:

- Tốt lắm, muộn rồi, mọi người về ngủ đi, ta cũng đi ngủ đây.

Dương Lăng giơ kéo nghênh ngang đi. Một đám thê thiếp hồng nhan ngơ ngác nhìn nhau: Đêm tân hôn, hắn...cầm kéo lớn để làm gì?

Tuyết Lý Mai đảo mắt, kéo tay Đường Nhất Tiên nói:

- Đi, chúng ta đi xem, xem lão gia chơi trò bí mật gì.

Đường Nhất Tiên mặc dù hiếu kỳ, nhưng là loại chuyện nghe trộm này, nhỡ nghe phải động tĩnh xấu hổ gì đó, mình lại là cô nương chưa lấy chồng thì nào dám gặp người khác? Nàng ngượng ngùng giãy tay ra nói:

- Không đâu. Ta không đi.

Tuyết Lý Mai trời sinh tính hoạt bát, xưa nay không sợ Dương Lăng, từ lúc có bầu lại càng yên tâm có chỗ dựa chắc, nàng càng không sợ. Nghĩ nghĩ, nàng lại kéo tay Ngọc Đường Xuân:

- Đi, Ngọc nhi đi theo ta.

Hai người cầm tay nhau vừa đi đến cửa, Đường Nhất Tiên ở phía sau kêu lên:

- Hài, có trò hay, lát quay về nhớ kể lại cho ta nha.

Tuyết Lý Mai hếch mũi lên, hừ một tiếng, kéo Ngọc Đường Xuân đi thật nhanh.

Trong phòng tân hôn, một bộ áo cưới bị Dương Lăng cắt tán loạn, lộn xộn, cuối cùng đã lộ ra thân thể của A Đức Ny, cặp tất chân cũng không có tâm tình thưởng thức nữa, bị hắn buồn bực cắt đi. Dương Lăng vừa cắt vừa thở dài nói:

- Ôi mẹ ơi, xem như...xem như...

Dương Lăng miệng nói mà mắt nhìn chằm chằm. Bởi vì thấy Dương Lăng chợt im bặt, A Đức Ny hơi bất an, nàng không biết tư sắc của mình có khiến phu quân vừa lòng không, đôi chân thon dài theo bản năng xoắn lại. Chân của nàng lúc ở trên biển thường lộ ra ngoài, bắt nắng biến thành mầu mạch nha, rắn chắc, mượt mà trơn

bóng như ngà voi, càng toát lên vẻ yêu mị khó diễn tả.

Dương Lăng bị đôi chân rắn chắc kia vặn vẹo làm cho bừng tỉnh, hô hấp hắn dồn dập, khuôn mặt anh tuấn nổi lên ý cười tà mị, quần áo lót bị hắn vội vàng lột đi, sau đó cười gian xảo với A Đức Ny:

- A Đức Ny.

- Vâng?

Thanh âm từ trong mũi đi ra.

- Có nhớ ta nói gì với muội không, quân tử nhất ngôn, thượng mã dương tiên?

Hắc hắc hắc, ta tới đây, em yêu!

Dương Lăng nói xong, như con hổ nhào lên giường. "Rầm!"

Sau một lúc lâu, A Đức Ny vô cùng lo lắng:

- Dương, huynh làm sao vậy?

- Không... Không sao.

Dương Lăng cắn răng, trong con ngươi sắp phun ra lửa:

- Đau quá, đầu gối ta đau quá. Đập đến xuất huyết rồi!

Hắn oán hận nhìn thắt lưng đồng dài vẫn còn một nửa rũ ở bên giường kia, khóc không ra nước mắt:

- Sao lại dẫm lên nó chứ?

Bên ngoài Tuyết Lý Mai, Ngọc Đường Xuân lén lút đứng ở cửa, dán tai vào lắng nghe động tĩnh trong phòng.

- Ôi chào, còn nói không sao, huynh bị chảy máu rồi, trời ạ, làm sao đây?

- Không sao, không sao. Đừng loạn nữa, đêm tân hôn, ta chảy máu mất phong độ quá.

Tuyết Lý Mai khẩn trương cắn ngón tay:

- Sao ...sao lại là lão gia chảy máu chứ? Đây cũng quá dọa người rồi!

Nàng liếc Ngọc Đường Xuân, cũng thấy khuôn mặt xinh đẹp của Ngọc Đường Xuân trắng bệch.

Trong phòng, A Đức Ny đã nhặt lên kéo lớn kia lên, cắt chiếc áo cưới của mình thành một miếng vải, nhanh chóng băng bó đầu gối cho Dương đại nhân. Dưới tình thế cấp bách, nàng cũng bất chấp mình bị lộ cảnh xuân.

Dương Lăng nhìn tiểu mỹ nhân gợi cảm động lòng người này, bất chợt ôm chầm lấy thân hình mềm mại của nàng, kéo nàng đến ngồi lên người mình, cười nói:

- A Đức Ny. Tướng công ta nghĩ lên ngựa không được rồi. Tuy nhiên "'Nhất trụ kình thiên" vẫn còn miễn cưỡng được. Tối nay, đành phải thiệt thòi cho muội hát bài "Nữ nô trở mình" rồi.

Cùng đêm hôm đó.

- Sở Yến, không cần quá lo lắng, Bạch Y Phỉ đột nhiên trở về Sơn Đông, từ Tú Thiên cướp lấy hai mươi ba thuyền lớn qua Hoàng Hà, tránh quan binh chủ lực Giang Nam tập kích bất ngờ thành Kim Lăng, chỉ có thể đánh xuất kỳ bất ý. Quân đội bố phòng các nơi sẽ nhanh chóng khép về, bọn họ không thể ngang tay giở mánh cũ, lợi dụng ưu điểm hành động nhanh chóng lại bỏ trốn mất dạng.

Sở Yến chà xát tay, cười khổ nói:

- Tỳ tử sao có thể không lo lắng được cơ chứ? Tiểu thư đã giao an nguy của ngài cho ta, lại nói Quốc công gia đã truyền lệnh đến, sắp tới sẽ phái người tiếp ngài Bắc tiến, nếu ngài có một sơ suất gì, quốc công gia sẽ lột da ta đó.

Mã Liên Nhi cười khanh khách, dùng nhung thảm ngăn tai con gái lại, tránh cho con gái bị tiếng hét làm tỉnh dậy.

Mã Liên Nhi vẫn xinh đẹp như trước, nhưng lại chín chắn thành thục hơn, cử chỉ chân thành, tiếng cười thoải mái, trên người nàng toát lên một vẻ quyến rũ rung động tâm hôn:

- Sẽ không đâu. Vị Quốc công gia chúng ta là người vô cùng thương hoa tiếc ngọc đấy, chỉ biết lột xiêm y nữ nhân, sẽ không lột da nữ nhân đâu.

Sở Yến đỏ mặt lên. Nàng từ nhỏ đã sống ở thanh lâu, dù sao vẫn là thanh quan.

Mã Liên Nhi trêu chọc, nàng cũng không biết nên nói gì.

A Đức Ny xung phong nhận việc vận chuyển hỏa khí bắc tiến, Mã Liên Nhi thông minh làm sao không hiểu ý tứ của nàng ấy? Hiện giờ trong lời nói rõ ràng lộ

ra ý ghen tuông. Đây là chuyện nhà của người ta, nàng cũng không dám thêm lời.

Mã Liên Nhi đi đến bên cửa sổ, nhìn bầu trời lóe lên ánh lửa và tiếng pháo, đôi mày thanh tú cong lại:

- Đám người Dương Hổ, Lưu Lục này thật đúng là có thể gây sức ép. Nơi nơi tập kích đến thì thôi, vậy mà lại dám tấn công Kim Lăng. Thủ đô thứ hai có đóng trú trọng binh, hơn nữa tường thành cao dày, pháo vô số, dựa vào bọn chúng có thể tấn công đến được sao? Thật không hiểu đám lưu phỉ này nghĩ gì muốn gì.

Sở Yến hé miệng cười nói:

- Tiểu thư chớ xem thường bọn họ. Nghe nói đám lưu phỉ này công phu trên lưng ngựa rất cao cường. Dù là ở dưới thành Thái An bị Quốc công gia cho ăn quả đắng, nhưng tung hoành bắc quốc vẫn chưa gặp đối thủ. Tới Giang Nam Hà Xuyên tung hoành, tuy rằng bất lợi đối với đại đội binh mã tác chiến, nhưng nam Binh so với quân phương bắc ít có chiến sự, chiến lực mệt mỏi. Bọn chúng tự nhiên không để vào mắt rồi.

Mã Liên Nhi nửa cười nửa không gật đầu, nói:

- Xoa dịu ta chính là xoa dịu bản thân? Yên tâm đi. Ca ca ta tốt xấu là vị Du Kích tướng quân, dưới tay đông binh mã, hơn nữa công phu trên đất liền huynh ấy đều không kém, không có việc gì đâu.

Sở Yến nghe vậy sắc mặt càng đỏ, tựa như quả vải đỏ, miệng nhỏ nhắn há ra, khẩn trương vân vê vạt áo nhưng nhưng lại không biết nói cái gì cho phải. Mã Ngang này công lợi tâm mặc dù lớn chút, tuy nhiên võ nghệ quả thật không tầm thường, hơn nữa chiến không sợ chết, Giang Nam bình Oa y bị điều đến Kim Lăng không thể kiến công, trong lòng vẫn canh cánh. Lần này có cơ hội tác chiến, sao hắn không đắc chí chứ.

Ngăn cách giữa Mã Ngang và muội muội đã được hóa giả, tình cảm của hai người lại tốt đẹp như ban đầu. Sau khi Mã Liên Nhi sinh con gái Mã Ngang đã đặt mua một tòa nhà ngay trong thành cho muội muội, xưa nay vẫn chăm sóc rất tốt, y

cũng rất yêu thương cháu ngoại của mình.

Sở Yến đi theo Mã Liên Nhi, thường xuyên có cơ hội nhìn thấy vị Du Kích tướng quân này. Sở Yến mặt mày như vẽ, sóng mắt hồ lệ, môi đỏ mọng một đường, thanh xuân xinh đẹp, là một cô gái rất thanh tú, Mã Ngang vừa gặp đã thương. Mã Ngang nhân tài xuất chúng, quan chức không thấp, Sở Yến cũng rất có tình ý với y. Cho nên hiện tại mặc dù nàng vẫn mở miệng xưng tỳ tử với Mã Liên Nhi, nhưng thật ra trong lòng hai người hiểu rõ, sớm muộn gì nàng cũng sẽ gả vào Mã gia làm đại tẩu đấy, tình cảm giữa hai người dĩ nhiên không giống tầm thường nữa.

Mã Liên Nhi hít vào một hơi, đi trở lại bên bàn, cầm bút cười nói:

- Đánh giặc là chuyện của nam nhân, ngươi đứng ở đằng kia xem cũng sốt ruột thôi. Nào, chúng ta tiếp tục sửa sang lại sổ sách, việc buôn bán của Giang Nam rất quan trọng đối với tên vô lương tâm kia. Ta muốn trở về kinh, đôi hồ ly Thành tỷ tỷ và A Đức Ny kia chắc chắn sẽ không đến Giang Nam. Phỏng chừng đến lúc đó khả năng lớn sẽ là ngươi và Sở Linh tiếp nhận. Đại chưởng quỹ, chúng ta tiếp tục làm việc đi.

Đầu thành lửa đạn mấy ngày liền, Sở Yến thấy nàng vẫn bình thản thong dong, không khỏi vui lòng phục tùng. Nàng chạy đến bên bàn, cũng cầm một quyển sổ sách, khẽ thở dài:

- Tiểu thư tu dưỡng tâm tính thật là tốt. Quốc công gia cũng thật là người may mắn nhất thiên hạ. Nữ tử hiền tài trong thiên hạ này đều bị quốc công gia lấy rồi.

Mã Liên Nhi nghe nàng nói vậy, không khỏi đặt bút xuống, ngây ra một lúc lâu, nghĩ cũng đã đến lúc xua mây mờ nhìn trăng tỏ, sắp được quay về kinh, ở bên người mà mình vừa yêu vừa hận vừa tương tư kia, đôi mắt xinh đẹp cong lên thành hình trăng khuyết, trong lòng ngọt ngào hơn cả uống mật ngọt.

Trên đầu thành, lửa đạn mù mịt.

Bạch Y Quân thay nhau tiến hành công kích tường thành, binh lính kéo lá chắn xe thang mạo hiểm lửa đạn lao tới dưới thành. Nam trấn phủ ti trấn phủ sứ Tiền

Ninh, trấn thủ thái giám Nam Kinh Phùng Thừa Dực mặc giáp trụ đích thân tới đầu thành đốc chiến. Chỉ huy tướng sĩ liều chết đánh trả.

Bạch Y Quân tử thương vô số, trước mắt lại không hề tiến triển, bọn họ tuy rằng giết hồi mã thương, đột nhiên dọc Hoàng Hà trở về Sơn Đông. Một đường đi nhanh, lợi dụng cơ hội khoái mã nhanh hơn dịch trạm truyền tin của quan quân, đoạt trước tấu báo quân tình mà bất ngờ đột kích Túc Thiên, đoạt được hơn hai mươi chiếc thuyền lớn đưa đại quân qua Hoàng Hà, lập tức tiến vào địa cảnh Giang Tô, tránh được quan binh Đại Cổ của biên giới Hà Nam Giang Tô, tập kích bất ngờ thành Nam Kinh, không ngờ thành Nam Kinh đã có phòng bị từ sớm.

Chu Đức An mới nhậm chức Phó tổng binh Nam Kinh nghe nói Bạch Y Quân bắt đầu một đường hoạt động hướng Giang Nam, ngay tại ngoài thành Nam Kinh đào vài đạo hào sâu. Tin tức Bạch Y Quân tập kích bất ngờ vừa đến, y lập tức dẫn quân ra khỏi thành, lấy chiến xa, Bách Hổ Tề Bôn Tiễn, hỏa súng, khinh hình pháo và cung nỏ bày liệt xa trận ở sau một đạo chiến hào cuối cùng nghênh địch.

Dương Hổ bịt một bên mắt, chỉ trợn trừng mắt còn lại đằng đằng sát khí, suất lĩnh cấp dưới đầu tàu gương mẫu vọt ra. Mấy vạn thiết kỵ Bạch Y Quân ở phía sau giống như hồng thủy vỡ đê lao đến trận địa quân Minh. Đây là lần xung phong thứ sáu rồi.

"Oanh! Rầm rầm!" Đại pháo đầu thành Nam Kinh bắn về phía trước. Các loại vũ khí trước xa trận chiến hào cũng đồng loạt phóng ra. Cung nỏ, khinh pháo, hỏa súng, hỏa khí dày đặc có hiệu quả tác dụng trong cận chiến hơn so với dùng cung nỏ. Từng hàng Bạch Y Quân trong tiếng nổ vang ngã xuống.

Chu Đức An lãnh binh tác chiến quả thật có bản lĩnh. Y không phải là bị động thủ thành, mà là chủ động ra khỏi thành tác chiến. Quan thủ bị tại thành đầu chỉ huy chiến pháo viễn trình uy lực cực lớn, không ngừng trút lựu đạn xuống giữa và sau Bạch Y Quân, mà tặng tiên phong cho Chu tổng Binh. Bọn họ lợi dụng đại pháo ngăn cách thế công liên miên không ngừng của Bạch Y Quân. Mà Bạch Y Quân vọt tới tiên phong khuyết thiếu quân đội phía sau tiếp viện, lại có vài đạo hào sâu ngăn trở tốc độ đột tiến của mã đội bọn họ, bọn họ chỉ có thể chưa kịp công đã chết uổng

trong tay quan binh sau xa trận.

Bạch Y binh ôm tấm ván gỗ, khiêng hào kiều, được kỵ binh yểm hộ liều mạng đột tiến về phía trước, ý đồ biến chiến hào thành đất bằng phẳng có thể thông hành, để kỵ binh phát huy, hậu phương trận đi lên. Lưu Lục thấy Dương Hổ dũng mãnh vô địch tự thân chỉ huy, từng hàng binh lính vẫn không ngừng ngã trong khói thuốc súng tràn ngập, chiến mã mất chủ chạy tứ tán bốn phía, trận địa công kích tử thương vô số, không khỏi lòng nóng như lửa đốt.

Mộc Vân sắc mặt tái nhợt đứng bên cạnh gã, khom người không ngừng ho khan, qua hồi lâu mới thở hào hển đứng lên, thấy Lưu Lục chau mày, liền nói:

- Lưu đại ca, công thành cũng thế, đoạt chiếm ưu thế trước đối phương cũng vậy, nhất định phải dùng mạng người để lấp đấy. Chúng ta không có trọng pháo nha. Tuy nhiên quan binh thiện thủ không giỏi công, hơn nữa Nam quân sợ chiến, hơn nữa chiến mã cực ít, chỉ cần đột phá đạo phòng tuyến này, quan binh sau xa trận nhất định tan tác.

Lưu Lục thở dài nói:

- Ta biết. Có điều thấy nhiều huynh đệ chết vô nghĩa như vậy, lòng ta sợ hãi đau đớn.

Mộc Vân cười lãnh đạm, không nói gì thêm. Y đỡ yên ngựa, lại cong người ho khan. Mấy ngày nay không biết y mắc bệnh gì, luôn ho khan không ngừng, tim khó thở. Trên đường đi y đã mời người xem, lúc công hãm thành trấn còn tìm danh y khám và chữa bệnh, đáng tiếc đều không thể chẩn đoán chính xác, thuốc uống thì nhiều mà lại hoàn toàn không có hiệu quả.

Mộc Vân chính là Lý Đại Lễ, võ nghệ siêu phàm dưới trướng Kỳ huynh Lý Đại Nghĩa. Y giả mạo hộ săn bắn trà trộn vào Bạch Y Quân, vẫn chỉ hiển lộ võ nghệ thô thiển. Nhưng hiện giờ bỡn quá hoá thật rồi. Nói hành công vận khí, chỉ cần khí lực hơi lớn, sẽ đau như đao cắt. Không thi triển đại thần thông được, mà ngay cả võ nghệ giả mạo hộ săn bắn cũng chỉ có thể thi triển được ba bốn phần.

Nhưng hiện tại Bạch Y Quân đang đi hướng nam, dần dần dựa theo hướng đi mà Thánh giáo thiết kế ra. Tuy y võ lực đã kém nhiều, nhưng lại rất được Dương Hổ tín nhiệm, trước mắt loại thế cục này y thật sự đi không được còn thật sự cần y hỏi thuốc.

Lấy tử vong làm cái giá, Bạch Y Quân rốt cục phá tan từng đạo chiến hào, tiếp cận được trước trận hàng chiến xa cuối cùng rồi. Khoảng cách đánh gần như vậy, tốc độ đạn dược nhét vào hỏa khí theo không kịp, Mộc Vân không khỏi cười thoải mái: Quân Minh sắp tan tác rồi, đánh Kim Lăng đủ để chấn động nửa bên Giang Nam. Nếu binh lính quân Minh đang chạy tứ tán trực tiếp giết vào thành, vậy càng thú vị.

Nhưng nụ cười của y chợt cứng lại, bởi vì quân Minh hề chạy trốn. Trong mắt y, chiến lực Nam quân vốn yếu, hơn nữa quân Minh trước mắt chỉ cậy vào địa lợi và hỏa khí, quân đội thì toàn bộ là bộ tốt, sao đối phó được kỵ binh đang tiếp cận?

Kỵ binh có ưu thế tốc độ. Có thể phản phục cướp giết, một vạn thiết kỵ đối kháng hơn mười vạn bộ binh đúng là bình thường. Khi Sở Hán chi tranh, ba vạn thiết kỵ của Hạng Võ trên cơ bản đã toàn diệt bốn mươi vạn bộ tốt của Lưu Bang. Đó chính là trận chiến điển hình trong lịch sử. Tướng lĩnh quân Minh này là ai?

Cũng quá ngu xuẩn đi.

Chỉ thấy quân Minh bỏ cung nỏ hỏa thương xuống quay người lui lại, nhưng chỉ lui xa hơn mười trượng, liền cúi người, nhặt trường thương sắp xếp dưới đất lên. Khi Giang Nam kháng Oa dùng trường thương tre trúc, cây trẩu ngâm, dây thừng quấn cán, vừa chắc chắn lại nhẹ. Đại mao thương dài bốn xích hai trượng cương khó đoạn rậm rạp xông lại.

Nếu đám người Mộc Vân, Lưu Lục có thể đứng ở lầu nhìn, bọn họ sẽ phát hiện quan binh nhìn hỗn loạn nhưng lại rất có quy luật, năm sáu cán trường thương, nhất định là đâm một người theo bốn phương tám hướng đấy, trong đó ít nhất có một người cầm chính là cơ nỏ hoặc là đoản súng. Đây căn bản là biến chủng của Choang gia uyên ương trận

Chu Đức An đào chiến hào đã đổ toàn bộ đất đắp thành đống, chiến mã căn bản khó có thể phát huy uy lực, lại thêm đấu pháp binh sĩ này, Bạch Y Quân xung phong tới lập tức lâm vào khổ chiến.

Đầu thành đại pháo vẫn không ngừng nã pháo về hướng trung hậu Bạch Y Quân như cũ. Lúc này bên sườn vọng ra tiếng hò hét, Mã Ngang vung một cây trường thương, lĩnh một đám Phiêu Kỵ mãnh tướng mãnh liệt xông lại. Bọn họ vẫn là thương binh, tuy nhiên có một số thương binh dùng câu liêm thương, phía trước có nhọn, phía sau cong như lưỡi hái, chẳng những đánh người, còn có thể chém đùi ngựa.

Trong đó một ít binh lính trong mệnh lệnh của Mã Ngang bắt đầu phá hỏng ván gỗ bắc qua hào sâu, ném vào trong khe rãnh, chặt đứt liên hệ của mã đội Bạch Y Quân. Kỵ binh của Bạch Y Quân ưu thế ở chiến xa bát địa, nếu đánh ở nơi không bằng phẳng sẽ hoàn toàn mất đi ưu thế nên có, ngồi trên lưng ngựa lại trở thành mục tiêu sống.

Một trận chiến này song phương đều thương vong thê thảm và nghiêm trọng, tuy nhiên Bạch Y Quân rõ ràng chịu thiệt nhiều hơn. Dương Hổ bị trúng hai phát, da tróc thịt bong, máu tươi chảy ròng. Điêu Linh tiễn cắm trên đầu vai vẫn rung lên, được người khác đỡ thất tha thất thểu đến trước mặt Dương Hổ, chiến mã của gã đã bị bắn chết rồi.

Lưu Lục đỡ gã, nói:

- Dương huynh, ngươi thế nào? Dương Hổ lau mặt, lắc đầu nói:

- Chạy đi. Tập kích bất ngờ thất bại, chúng ta nên trốn ngay, không nên liều chết công thành nữa. Tiếp tục xuôi nam, có thể vào Chiết Giang thì đi Chiết Giang. Nếu không được thì đi Giang Tây cũng được. Hôm nay bị nhục, muốn lấy thành sẽ khó, quan binh nghe tin đang trên đường cứu viện tới, chớ để người ta diệt toàn quân.

Mộc Vân nghe vậy mừng thầm, vội hỏi:

- Đúng vậy, Lưu đại ca, tiếp tục xuôi nam đi. Chỉ cần chúng ta quay lại như gió, quan binh sẽ không làm gì được.

Lưu Lục dẫm chân, căm giận nói:

- Thôi, gõ kẻng thu binh, nhanh chóng xuôi nam!

Trong lửa đạn ù ù, tiếng đồng la đơn bạc vang lên, vô cùng chói tai. Dương Lăng được Hoàng đế liên tục mời cuối cùng đã quay lại triều rồi.

Trải qua buộc tội thất bại, lại bị Hoàng thượng thông qua "chỉ tang hòe mạ" quở trách, đám quan viên phản đối cải cách đã sửa cung dịch thương, không công kích Dương Lăng tham gia vào chính sự nữa mà quay sang tích cực ủng hộ cải cách.

Việc đầu tiên bọn họ ủng hộ, chính là vào ngày đầu tiên Dương Lăng lên triều, liền dâng tấu buộc tội Sơn Đông Diễn Thánh Công lợi dụng quyền lực thôn tính thổ địa người khác, trốn thuế lậu thuế, người người chống đối. Liền tự tiện vận dụng trọng hình đánh vào đít mệnh quan triều đình, thỉnh cầu Hoàng thượng nghiêm trị.

Mỗi người đều biết rằng, Uy Quốc Công Dương Lăng hồi triều, là muốn cùng Dương Đình Hòa chủ trì việc cải cách và tiêu diệt phỉ. Đây rõ ràng chính là cho hắn

một uy thế phủ đầu, không khỏi đồng loạt nhìn về phía hắn.

Dương Lăng sớm đã cho người cầm mật chỉ Hoàng đế và tự mình viết hai phong thư mang đến Sơn Đông. Mật chỉ là dành cho Diễn Thánh Công đấy, mật thư còn lại là gửi cho Học chính Trương Thái An đã soái sĩ cùng với Tham tướng Kiều Tứ Hải lúc tiêu diệt phỉ thì kết giao hảo với Sơn Đông Phủ Dân. Trương Đa Khí chính là vị lão gia từng từ Thái An phá vây, chạy đến Tế Nam buộc học trò của mình Lã Bố chính sứ xuất binh.

Trương Đa Khí khôi hài hài hước, tính cách rộng rãi chính trực, cũng không phải là hủ nho, rất có uy vọng trong sĩ lâm Sơn Đông. Dương Lăng ở Sơn Đông hơn một tháng, từng có giao tiếp với ông ta, giao tình không tệ. Người này cũng có chút giao tình với Diễn Thánh Công phủ, Dương Lăng muốn lợi dụng Diễn Thánh Công để tăng thêm lực cho cải cách, liền nghĩ đến lão nhân kia.

Hiện giờ tấu chương của Diễn Thánh Công phủ còn chưa đến kinh thành. Phía Trương Đa Khí cũng còn chưa có hồi âm. Tuy nhiên bên Kiều Tứ Hải cũng đã có cấp báo thông qua quân dịch truyền đến, từ trong thư đã biết đủ việc của y. Vị Diễn Thánh Công kia đã bị gây sức ép không còn dám làm gì, bên Sơn Đông nhất định là không có vấn đề.

Cho nên những người này đứng ra buộc tội Diễn Thánh Công, Dương Lăng chỉ cười lạnh lùng, lập tức đứng ra tấu:

- Hoàng thượng. Thiên hạ quyền hoạn tranh nhau chiếm thổ địa, theo kết quả đo đạc của triều đình năm nay cho thấy, Đại Minh ta từ mấy trăm năm khai quốc đến nay, đất vườn nạp thuế từ tám trăm vạn khoảnh giảm xuống còn bốn trăm vạn khoảnh, trong đó vẻn vẹn một vùng Hà Nam đã từ một trăm bốn mươi vạn giảm xuống còn đến bốn mươi vạn khoảnh.

Nhiều thổ địa như vậy là biến thành đất hoang sao? Cũng không phải, là bị huân thích quan lại, thân hào địa chủ thôn tính rồi. Họ không nộp thuế, đem số thuế chưa nộp lên triều đình phân chia cho đám người trung nông, khiến bọn họ phải nộp thuế má gấp đôi, đem đất của mình giả gửi trốn hộ, nhằm giấu tên tuổi, tội lớn vô cùng.

Hiện giờ triều đình nộp thuế thổ địa mới chỉ bằng một nửa của ban đầu lập quốc, từ đó đến nay số thuế nộp lên triều đình chỉ có một thành, vậy bốn thành kia đi đâu? Tất cả đều là giao cho dân chúng nghèo khổ quấn lưng buộc bụng phải nộp lên. Vì tiền thuế nộp không đủ, quan điền hại dân, nhà giàu được điền dân nạp tô, hàng năm thuế cũ kết khoản nợ mới, nông dân sản đi thuế tồn, tình cảnh bi thảm, đây là việc lớn dao động nền tảng lập quốc, bất kể người nào phạm phải, đều nên nghiêm trị không tha.

Diễn Thánh Công là thần tử của hoàng thượng, là con dân của Đại Minh, hơn nữa là hậu duệ của Thánh nhân, càng nên cẩn thận, tự làm gương. Thần đã nghiêm túc điều tra, nếu thật sự có việc phạm pháp, cũng sẽ trừng phạt nghiêm minh. Đối mặt với quốc pháp, tất cả đều bình đẳng, trước mặt quốc pháp, đối đãi bình đẳng.

Lời này nói có khí phách, chính khí nghiêm nghị, xem như là một câu trả lời cho mọi người trên triều đình: Đừng có tiếp tục ảo tưởng trong lòng nữa. Cho dù là Diễn Thánh Công, nếu làm việc phạm pháp, triều đình cũng sẽ nghiêm trị không tha. Thể diện của ngươi có lớn hơn Diễn Thánh Công không?"

Hình Bộ Thị lang Triệu Giản Chi ho khan một tiếng, nhướn mày nhìn hắn, chợt đứng ra tấu:

- Hoàng thượng, thần có một vụ án, thần không dám vọng nghị, đặc biệt trình báo Hoàng thượng, mời Hoàng thượng cân nhắc quyết định.

Chính Đức Hoàng Đế thấy quả nhiên có mấy người lấy Diễn Thánh Công ra để đè ép, nghe ngữ khí của Dương Lăng, hiển nhiên là đã giải quyết Diễn Thánh Công xong rồi nhưng vẫn không thiếu kẻ không biết lúc này bị ăn thiệt phải ngậm miệng lại. Y đang âm thầm buồn cười, lại nghe có bản tấu, không khỏi buồn cười, không chút để ý nói:

- Ái khanh có bản tấu gì, cứ nói.

Triệu Giản Chi liếc Dương Lăng, khóe miệng hiện ý cười:

- Hoàng thượng, có Kinh Châu pháp ti chuyển tới một hồ sơ vụ án, cáo trạng

Hồ Bắc Kinh Châu Liêu Vương điện hạ ức hiếp ở xã, gây nhục bách tính, tham chiếm trang ấp, đánh chết mười mấy bách tính sau khi nghe nói triều đình thi hành tân chính hậu tiền đi tác điền, lời nói ngông cuồng Phượng Tử Long tôn, không coi trọng tân pháp. Liêu Vương điện hạ thân phận quý trọng, chỉ có trình lên ngự tiền, mời hoàng thượng xử trí.

Chính Đức nghe xong lời của Triệu Giản Chi, không khỏi giật mình, y vội nhìn về phía Dương Lăng, gương mặt hắn cũng hơi biến sắc. Phiên Vương Phượng Tử Long Tôn các vùng, cậy đặc quyền mà lộng hành làm chuyện bất hợp pháp chắc chắn là có, không thể trông cậy vào từng người trong số họ tuân theo luật pháp, làm người như Thục Hiền Vương.

Bất kỳ thời đại nào, xã hội nào cũng đều phải ngầm đồng ý sự tồn tại của một vùng đất xám, nhưng lộ liễu phát ngôn bừa bãi chống lại chính sách mới của triều đình như thế này, đánh chết hơn mười dân thường vô tội, đó không còn là chuyện nhỏ nữa. Nếu hôm nay dễ dàng tha thứ cho hành động của vị Thân vương này thì những Phiên vương khác sẽ học theo, trên làm dưới theo. Cải cách vừa có chút khởi sắc đã vì chuyện này mà dần bại hoại, cuối cùng không thể thực thi quyết không thể nào.

Sắc mặt của Dương Lăng chìm xuống, xử lý một vị Thân vương không phải chuyện hắn làm chủ được. Dương Lăng lặng lẽ đưa mắt nhìn Chính Đức Hoàng đế đầy thâm ý. Trước bao nhiêu con mắt dõi theo, hắn không có cách nào bàn bạc thêm với Chính Đức. Bây giờ, Hoàng đế phải đứng ra nói những lời nên nói, làm những điều nên làm, không thể chuyện gì mình cũng gánh vác thay cho Hoàng đế được.

Nhưng xử lý một Thân vương không phải là chuyện nhỏ, y có thể quyết định được sao?

Những quan viên phản đối cải cách đó nhìn sắc mặt, thầm đắc ý: không phải ngươi muốn cải cách sao? Không phải ngươi muốn dẹp sạch thôn tính thổ địa, làm trong sạch đội ngũ lại trị, thay đổi chế độ thuế phú sao? Được! Một người là hậu duệ Khổng thánh gương tốt muôn đời, một người là hoàng thân quốc thích, con cháu của lão Chu gia, ngươi hãy xử lý đi!

Kinh Châu còn có tên là Giang Lăng, nơi này vốn phong Thái tổ đệ thập nhị tử Tương Vương Chu Bách, Kiến Văn đế tước phiên đã tìm một lý do, nói cung điện ông ta xây dựng đã vượt quá quy mô của Vương gia, phái Cẩm Y Vệ đến tra hỏi, trong nỗi hoảng sợ, Chu Bách đã dẫn cả nhà lớn bé chạy tới núi Khê Nga – Quan Nam tự thiêu tỏ ý chống cự.

Nhất mạch Bách Vương đã tuyệt, Yến Vương Tĩnh Nan giành được đất nước, Liêu Vương cũng từng tung lực. Chu Lệ đã làm Hoàng đế, đã đem Thập ngũ đệ Liêu Vương Chu Thực từ vùng đất lạnh giá Quảng Ninh Liêu Đông di phiên tới Kinh Châu, Hồ Bắc, nhất mạch Liêu Vương đã dừng lại ở Kinh Châu.

Chính Đức không có ấn tượng gì với vị Vương gia này, tuy nhiên biết đó là một vị hoàng thúc, y chần chừ một lát mới nói:

- Sự việc liên quan đến Thân vương? Chuyển hồ sơ tới Tông Nhân Phủ, trẫm phải xem qua tội trạng của ông ta, sau khi hiểu rõ tình hình mới định đoạt.

Triệu Giản Chi dương dương đắc ý, chắp tay đáp:

- Thần tuân chỉ.

Chính Đức Hoàng đế vội vàng xử lý xong công sự, tuyên bố tan triều. Dương Lăng dừng bước, cho đến khi quần thần lui ra khỏi cung điện, trên kim điện yên tĩnh chỉ còn lại hai người, Chính Đức mới lên tiếng:

- Dương khanh, bọn họ mang Diễn Thánh Công ra, là muốn dùng danh để dọa trẫm, mang Liêu Vương ra, là dùng tình để dọa trẫm.

Dương Lăng chắp tay nói:

- Hoàng thượng anh minh!

Chính Đức phẩy tay áo, giả vờ cả giận nói:

- Anh minh cái gì, trẫm hỏi khanh phải làm sao đây?

Dương Lăng vẫn chắp tay đáp:

- Trước tiên khám tội, nếu tội trạng là thật, xử trí thế nào chính là ý của hoàng thượng.

Chính Đức do dự một lúc, nói:

- Ông ta dù sao cũng là hoàng thúc của trẫm, nếu trẫm cởi tội cho ông ta thì sao?

Dương Lăng thản nhiên đáp:

- Vậy cũng không có gì, hủy bỏ chế độ cải cách mới, tất cả khôi phục chế độ cũ, tệ nạn như cũ, dân chúng nổi dậy như cũ là được.

Chính Đức Hoàng đế trợn mắt hỏi:

- Trẫm chẳng phải đang bàn bạc với khanh sao? Khanh nghĩ trẫm nên làm thế nào?

Dương Lăng cười nói:

- Thần là Quốc công, dựa vào uy danh của bệ hạ, thần có thể xử phạt Diễn Thánh Công, chỉ thế thôi.

Chính Đức giật giật lông mi, cười khan nói:

- Trẫm hiểu rồi. Khanh chỉ có thể xử phạt Diễn Thánh công, vậy thì tên Liêu Vương này phải chờ trẫm ra tay?

Dương Lăng lại chắp tay:

- Hoàng thượng anh minh! Chính Đức hừ hai tiếng, nói tiếp:

- Đả hổ thân huynh đệ! Khanh một tên, trẫm một tên, mau về làm việc đi!

Hoàng thượng đi được hai bước, đột nhiên dừng bước, kỳ quái hỏi:

- À, chân khanh sao thế?

Nhớ tới giây phút tươi đẹp vừa đau vừa sung sướng của đêm động phòng, Dương Lăng cười gượng đáp:

- Hồi bẩm Hoàng thượng, hai ngày trước cưỡi ngựa, không cẩn thận bị đạp phải.

Chính Đức Hoàng đế bĩu môi, vênh mặt lên, vẻ mặt kiêu ngạo tỏ vẻ 'thuật cưỡi ngựa của ta mạnh hơn ngươi', dương dương tự đắc bước đi.

Một vị là Liêu Vương, một vị là Diễn Thánh Công.

Một người là dựa vào quan hệ, một người là dựa vào danh vọng, đều là nhân vật cực khó dây dưa, bất cứ sự xử lý không tốt nào cũng đều dẫn tới một loạt những hậu quả khó xử lý. Thế nhưng không xử lý hai người này thì giống như hai chướng ngại vật, chuyện cải cách rất khó tiến hành.

Sau khi Chính Đức hồi cung lập tức lệnh cho Xưởng Vệ điều tra việc phạm pháp cụ thể của Liêu Vương, Dương Lăng cũng ở trong nhà sốt ruột chờ đợi tình hình ở Sơn Đông. Lúc này, thư hồi âm của Thái An học chính Trương Đa Khí và tấu chương của Diễn Thánh Công đã ở trên đường tới kinh thành.

Dương Đình Hòa thờ ơ lạnh nhạt ở trên triều cũng nhìn ra được, đây là một chiêu cuối cùng của phe phản đối. Hai vị Vương gia này, Quốc công cũng đều không dễ dây vào, buộc tội họ ở trên triều đường, cho dù thành công hay không, trước tiên đã là đắc tội với hai thế lực lớn, nếu không phải bị ép tới đường cùng, họ cũng không dùng thủ đoạn ấy, do đó giờ chỉ cần giải quyết thành công hai chuyện này thì lực cản trên triều cơ bản không tồn tại.

Nhưng mà sát khí của Dương Lăng quá nặng, mỗi lần làm chuyện gì đều là gió tanh mưa máu, ông ta rất sợ huyết khí phương cương của Dương Lăng, hay hành động theo cảm tính, làm hỏng chuyện. Triều đình cải cách là chuyện có lợi cho

giang sơn xã tắc, có lợi cho lê dân bách tính, cũng phù hợp với quan niệm chính trị của ông, ông quả thực không muốn nhìn thấy chuyện tốt như thế lại chết yểu giữa đường, vậy nên sau một hồi suy nghĩ, cuối cùng quyết định tới nhà thăm Dương Lăng.

Đây đã là hai ngày sau, Dương Đình Hòa ngoại trừ trước đây phụng hoàng mệnh đến nhà thăm một lần ra thì chưa bao giờ tới Dương phủ. Dương Lăng đang chơi đùa với con trai ở bên cạnh lò sưởi, chợt nghe nói ông ta tới, Dương Lăng vô cùng kinh ngạc, hắn vội cởi áo, thay khinh bào, giao con lại cho Vân Tâm, sau đó vội tới trung đường gặp khách.

Dương Đình Hòa hàn huyên mấy câu, liền nói thẳng ý đồ đến đây, ý tứ rất đơn giản: hai nhân vật lớn này nhất định phải xử lý, kể cả hoàng thượng không muốn, cũng phải nỗ lực khuyên giải, phải khuyên Hoàng thượng hạ quyết tâm trừng phạt.

Tuy nhiên cách trừng phạt phải có sự khác biệt, vụ Liêu Vương nếu là thật, nhất định phải nghiêm trị, khi đang ở đầu gió, phải trừng phạt gấp đôi mới thu được hiệu quả. Còn Diễn Thánh Công thì phải uyển chuyển hơn, tránh lỡ miệng để người đời đàm tiếu.

Ý kiến của ông ta không hẹn mà rất hợp ý của Dương Lăng. Dương Lăng thực ra cũng không phải nhất định cần dùng đại sát đại phạt để uy hiếp lòng người, chỉ là chuyện hắn gặp phải trước đây thực sự là thiên hạ đều căm ghét, không nghiêm trị bằng trọng hình không đủ dẹp nỗi căm phẫn của dân chúng, còn cải cách là một chuyện lâu dài, phải cho phép một số người có ý kiến bất đồng, hoặc dần thay đổi quan niệm, không thể dùng dao bức người phải phải tán đồng. Chỉ cần phục tùng, ý kiến cá nhân theo hắn đi.

Thế nhưng Dương Lăng lại có một trực giác đối với việc xử lý Liêu Vương và Diễn Thánh Công, một người cứng rắn, một người nhu hiền, không có nguyên nhân trật tự rõ ràng. Dương Đình Hòa phân tích thấu đáo hơn: Liêu Vương tội nặng, Diễn Thánh Công tội nhẹ, đây là điểm thứ nhất; Liêu Vương là hoàng thân, Diễn Thánh Công là ngoại thần, hoàng thân khinh xử còn ngoại thần trọng xử, dễ khiến người đời đàm tiếu, đây là điểm thứ hai; Điểm thứ ba chính là tâm lý căm thù giàu có, ái

mộ danh tiếng.

Diễn Thánh Công cũng không nghèo, nhưng Khổng gia quá nổi tiếng, mọi người đều chú ý tới tên tuổi của ông ta, mà không để mắt tới danh lợi của ông ta, còn Liêu Vương thì ai cũng biết lão ta giàu có, trừng phạt lão ta chỉ sẽ ai nấy vỗ tay khen hay, còn nói Hoàng thượng đại nghĩa diệt thân, nghiêm luật.

Về phần Khổng gia, người trong thiên hạ dù sao đều là những vị quan đọc sách của Khổng lão phu tử, làm nhà ông mặt xám mày tro thì mặt mũi mọi người đều rất khó coi. Danh khí của Khổng Thánh quá lớn, các triều đại xưa đều rất hậu đãi hậu nhân của ông, cho nên xử phạt thì phải chú ý mức độ, phải suy xét đến thể diện của những người đọc sách trong thiên hạ.

Dương Lăng không ngờ ông ta phân tích rõ ràng như vậy. Dương Lăng vẫn không nói ra ý kiến của mình tương đồng với ông ta từ lâu, ngược lại luôn miệng tán thưởng và nói lời cảm tạ ông ta. Tỏ vẻ nhất định tôn trọng ý kiến của ông ta.

Dương Đình Hòa thấy hắn quyền cao chức trọng nhưng vẫn khiêm tốn như thế. Cảm thấy mình từ trước đến nay cố ý xa lánh bởi chuyện hắn thân thiết với Dương Nhất Thanh đúng là có phần nhỏ mọn. Ngươi kính ta một thước, ta trả lại ngươi một trượng, Dương Đình Hòa cũng thư thái hơn, chuyện trò vui vẻ, không nghiêm túc như lúc mới tới.

Hai người trò chuyện cực kỳ vui vẻ, cho đến khi Cao quản gia tiến vào nhỏ giọng bẩm báo có người đưa thư tới, Dương Đình Hòa lúc này mới mỉm cười đứng đậy cáo từ. Dương Lăng không để ý tới chuyện người đưa thư, trước tiên cung kính tiễn ông ta, nhìn thấy ông ta lên kiệu rời đi, lúc này mới hỏi quản gia:

- Người đưa thư từ đâu tới? Cao quản gia vội đáp:

- Nói là người của phủ Trương đại nhân Trương Đa Khí của Thái An học chính ở Sơn Đông.

Dương Lăng khẽ biến sắc, vui vẻ nói:

- Sơn Đông có tin sao? Mau mau, dẫn gã tới gặp ta!

Người đó là gia đinh thân tín của Trương phủ, dáng người cao lớn, còn có võ công rất giỏi, thấy Dương Lăng gã cung kính dâng lên phong thư giấu trong người, Dương Lăng mở ra đọc kỹ một lượt, bèn vỗ tay cười to, hắn gọi quản gia cầm mười

lượng bạc ban thưởng cho tên gia đinh này, còn dặn dò một lát, phái gã rời đi, lúc này mới cười sằng sặc đi vào hậu viện.

Sáng nay trời mưa sũng nước, tới giờ vẫn còn khá mát mẻ, một đám nữ nhân đang đá cầu ở hậu hoa viên.

Theo Dương đại quan nhân nói, đá cầu có lợi cho sức khỏe và bồi đắp tinh thần đoàn kết, có thể hun đúc tình cảm sâu đậm, mở mang tầm nhìn, vì thế hắn rất tán thành. Đương nhiên, kiểu vận động này có thể giúp những người phụ nữ của hắn giữ được khí lực khỏe mạnh, rèn luyện tính dẻo dai của tứ chi và độ đàn hồi rắn chắc của mông eo đùi, có lợi cho việc tăng cường tình thú khuê phong, đánh chết hắn cũng không công khai điều này.

Bởi vì Dương Lăng đồng ý, nữ nhân trong nhà lại khá đông, Hán Ấu Nương bèn may một bộ võ phục ngắn cho tất cả mọi người trong nhà chỉ dùng ở hậu hoa viên, khi mọi người đá cầu, tư thế hiên ngang, vô cùng quyến rũ.

Cỏ xanh được cắt ngắn trên mặt đất, váy lụa trắng như tuyết của mấy nàng, chân đạp phượng đầu ủng thô nhỏ, thân trên cũng là áo ngắn cùng màu,ống tay áo lụa màu trắng hẹp mà bó sát, hai tay đều được bó cổ tay, thắt dây thêu kim, ai nấy đều thắt eo bé xíu, bộ ngực tròn trịa, trông hết sức hấp dẫn.

A Đức Ny cũng thích kiểu vận đọng do người phương Đông phát minh này, dáng nàng cao nhất, bắp đùi thon dài được bó sát bởi ống quần, tỉ lệ cực đẹp, trông càng động lòng người. Hàn Ấu Nương, Ngọc Nhi, Thành Khởi Vận, Sở Linh ai nấy đều có thân hình cân đối, dáng người tuyệt đẹp, trên bãi cỏ chỉ thấy toàn eo thon, chân dài, khiến cho người ngoài không nỡ nhìn theo bóng, cứ nhìn chằm chằm vào người là đủ rồi.

Dương Lăng thấy các nàng đang đá bóng, bước chân liền chậm lại, ngồi xuống bàn đá, cầm một chiếc chén sứ không ai dùng để châm trà, mỉm cười nhìn họ đá cầu. Thành Khởi Vận nghiễm nhiên là huấn luyện viên bóng đá, một quả bóng cao su bay lên bay xuống quanh người nàng, thắt lưng mềm mại như cành liễu, đùi ngọc móc bóng tự nhiên, các loại tuyệt kỹ làm cho một đám mỹ nữ duyên dáng gọi to mãi.

Thành Khởi Vận nhìn thấy Dương Lăng tới, quả bóng cao su bị mũi chân nàng chấm một nhát, bỗng nhiên đưa lên trước, đùi duỗi thẳng tắp, tạo thành một đường thẳng với mũi chân, quả bóng đó bắn vù một cái về phía Dương Lăng. Dương Lăng cười ha hả, đặt chén trà xuống giơ tay ra, dùng chiêu Thái cực đẩy "dẫn tự quyết" trong tay, quả bóng cao su liền chuyển đến đầu ngón tay của hắn. Dương Lăng thuận tay phất một cái, quả bóng bèn bắn về phía A Đức Ny.

A Đức Ny học đá bóng trong thời gian ngắn nên trông thấy đã kinh hãi, vội vàng ra sức đón bóng, một chân đá quả bóng lên không trung, khi hạ xuống đã lệch năm đến sáu trượng, Sở Linh chạy gấp tới, móc ngược bắn quả bóng về. Đám Hàn Ấu Nương và Ngọc Đường Xuân lần lượt đi tới, quả bóng đó từ đầu đến giờ chưa hề rớt xuống.

Tuyết Lý Mai có bầu không thể đá bóng, cầm một gói quả mai khô ngồi bên cạnh xem rất hào hứng. Thành Khởi Vận tiện tay giật khăn tay bên dây lưng xuống, vừa lau sạch mồ hôi trên trán, vừa thong thả bước tới ngồi xuống bên cạnh Dương Lăng, cười khanh khách hỏi:

- Hôm nay sao lại có thời gian rảnh rỗi tới hậu hoa viên đi dạo thế?

Dương Lăng lôi ra một phong thư từ trong tay áo, cười hì hì đưa cho nàng, đáp:

- Nàng xem đi.

Thành Khởi Vận nhận lấy bức thư, chăm chú đọc., Dương Lăng vừa thưởng thức trà, vừa thưởng thức vẻ xinh đẹp của các thê thiếp. Thành Khởi Vận xem xong, ưỡn bộ ngực căng đầy, liếc mắt nhìn hắn, mỉm cười vừa quyến rũ lại ngọt ngào, nói:

- Thành công rồi sao? Ha ha, đây mới là tú tài gặp binh, có lý nói không rõ. Nói đạo lý với văn nhân, thật giống với phụ nữ buồn nôn, đó là tự mình chuốc lấy cực khổ, hay là biện pháp của đại nhân người hay nên Diễn Thánh Công ngạo mạn một đời cuối cùng cũng phải cúi đầu.

Dương Lăng cười nói:

- Cậy vào bóng của Khổng Tử, trong mắt ông ta ngoài Hoàng đế ra đâu có người nào khác. Ta cũng sai người truyền mật chỉ của Hoàng đế cho ông ta, nghiêm khắc răn dạy thêm, đầu tiên làm tiêu tan điệu bộ kiêu ngạo hống hách của ông ta đã. Lúc này mới để đám đại binh và tên chủ giàu có đó dùng những thủ đoạn vô lại để sửa chữa. Cuối cùng lại để Trương lão phu tử ra mặt khuyên răn, con cá lớn này ngoan ngoãn mắc câu. Ha ha, Diễn Thánh Công ra mặt tán đồng cải cách chế độ, con cháu đích hệ của thánh nhân ủng hộ nền chính trị mới, khiến cho không ít hủ nho đạo học câm miệng ở đây.

Hóa ra, Dương Lăng xin một thánh chỉ, sai người truyền nhanh tới Khổng phủ, Diễn Thánh Công cậy quyền thế, cấu kết quan phủ, bắt buộc người khác bán ruộng, làm nhục nề nếp gia đình của thánh nhân, còn có người buộc tội ông ta chuyên dùng đại hình, bức đánh các tướng lĩnh dẹp thổ phỉ có chiến công, lạm dụng ân thưởng triều đình, khiển trách hỏi ông ta có phải muốn lập quốc gia khác trong quốc gia hiện giờ không? Tội danh này có chút tàn nhẫn, vừa nghe Hoàng đế cực kỳ phẫn nộ, khiến Khổng lão tiên sinh sợ toát mồ hôi lạnh.

Cuối cùng trong ý chỉ lại lạnh lùng nói, lỗi lầm của ông ta đã làm nhục nề nếp gia đình thánh nhân, nể mặt của Khổng thánh tiên sư, Hoàng đế không công khai khiển trách, lần này cũng không nghiêm trị, muốn ông ta tự mình suy nghĩ, từ nay về sau biết kiềm chế.

Hoàng đế hạ thánh chỉ nghiêm khắc như thế, Diễn Thánh Công sao không hoảng hốt chứ? Mà ý chỉ này lại là trung chỉ, người ngoài không ai biết, chuyện xấu này bản thân ông ta đương nhiên sẽ không tung hô ra ngoài, lẽ nào khua chiêng gõ trống nói mình ngang ngược làm Hoàng đế nổi giận nên bị Hoàng thượng khiển trách sao?

Nhận ý chỉ này trong tay, Diễn Thánh Công ngang ngược giống như quả cà bị phơi sương, an phận hơn nhiều. Ông ta an phận rồi, Kiều Tứ Hải nhận được mật thư của Dương Lăng đã có người tâm phúc, nhưng ông ta không an phận. Ông ta cũng không tới Khổng phủ gây rối, chỉ là trong vùng bắt đầu lan truyền tin tức nói Bạch Y Phỉ Đậu Hủ Lang ở núi Thái Hành Sơn đã lẻn tới Khúc Phụ, hơn nữa trong đêm còn có một nhóm Bạch Y Phỉ len lỏi khắp nơi, mặc dù không trộm cướp, nhưng

người khác nhìn thấy cũng đủ dọa người.

Khi Đậu Hủ Lang phá vây cùng đại đội bỏ chạy, chưa cùng Dương Hổ xuôi nam thì kết quả đã bị Dương Lăng lập phục binh khắp nơi giết chóc tán loạn, chúng phải tự chia thành các tiểu đội chạy tan tác.

Đậu Hủ Lang cuối cùng chỉ dẫn theo ba trăm người đi tới bình nguyên, ở nơi Lưu Bị tai to từng làm Huyện lệnh lại trúng mai phục của đoàn luyện dân tráng, Đậu Hủ Lang dẫn người tháo chạy, tới chỗ khúc sông của phủ Trương Sĩ, lúc này bên mình chỉ còn lại sáu bảy người, y thấy tình thế không ổn, bèn chạy trốn bằng đường thủy.

Kỹ năng bơi của Đậu Hủ Lang không tốt, nhưng cách đó không xa là một bãi cỏ lau, đoán rằng nơi đó nước không quá sâu, y nín thở lặn đến đó sẽ có thể mượn địa lợi trốn thoát. Không ngờ nước ở đó quả nhiên không sâu, nước rất đục, không nhìn rõ đáy, Đậu Hủ Lang lao mạnh xuống, cắm đầu vào trong bùn nước.

Cả huyện bình nguyên Sơn Đông là một vùng đất rộng lớn, rất ít khi nhìn thấy đá, nếu trẻ con đào đất cát chơi có thể đào được tảng đá đều có thể dẫn tới đánh nhau vì gặp đồ hiếm lạ, tới mùa hè trẻ con thường tới chỗ đất bùn phát sáng đen thui trên bờ sông để xối nước, là có thể cởi truồng làm thang trượt, không cần phải lo va đập bị rách ra.

Trong khúc sông đó toàn là bùn nước vừa sâu vừa mềm, Đậu Hủ Lang vừa đâm đầu xuống, muốn leo ra nhưng rất khó khăn. Y muốn rút đầu ra, nhưng chỗ hai tay chống đất đều là bùn nước nhão nhoét, không lấy sức được, hơn nữa khi muốn rút lên trên thì lực hút của bùn đặc biệt lớn.

Các thanh niên trai tráng trong phủ đuổi mấy tên tàn binh bại tướng đến khúc sông, chỉ thấy một đôi chân lớn trôi dập dềnh trên mặt nước, hai thanh niên cường

tráng thắt dây thừng vào chân y. Khi rút y lên giống như rút củ cải, trong lồng ngực của Đậu Hủ Lang đáng thương toàn là bùn nước, người đã tắt thở. Vị nhân huynh này đúng thật là sống thì uất ức, chết lại nghẹn khuất.

Tuy nhiên mặc dù y đã chết, nhân mã của y chỉ bị đánh tan tác mà thôi, bọn đạo phỉ dần tụ hợp, lại tổ chức thành một đội ngũ bảy tám trăm người, bắt đầu len lỏi khắp nơi trong vùng Sơn Đông. Tạm thời vẫn chưa bị diệt trừ.

Bạch Y Phỉ xuất hiện ở Khúc Phụ, khiến cho lòng dân trong vùng bàng hoàng.

Tri phủ Khúc Phụ lập Tri huyện Khúc phủ, tri huyện Khúc Phụ này thường do người của Khổng gia đảm nhiệm, đây là quy tắc của triều đình. Bởi vì Tri huyện là vị quan nha môn của triều đình trực tiếp cai quản chuyện sinh hoạt và sinh lão bệnh tử của dân chúng trong vùng, thường gọi là quan phụ mẫu, thử hỏi quan viên trong thiên hạ, có người đọc sách nào không phải là môn sinh của Khổng thánh? Họ có thể quản được người nhà Khổng thánh không? Đương nhiên phải để cho người của Khổng gia tự quản.

Cho nên Khổng gia này không những phải phụ trách an toàn của gia viên, mà còn phải quản lý cả một huyện, lần trước thế lực của lưu phỉ lớn, xưng là mười vạn đại quân, bọn họ lấy danh nghĩa bảo vệ di vật của tiên thánh để tiến vào kinh, lần này chỉ có mấy trăm đạo phỉ nhưng không thể chạy trốn được nữa.

Tri huyện Khúc Phụ cũng là người của chi trưởng Khổng gia, vừa nghe nói thổ phỉ len lỏi khắp vùng, để sắp xếp phòng vụ địa phương bèn tới gặp Kiều tham tướng đang đóng quân ở địa phương, thỉnh cầu đại quân hiệp trợ.

Kiều tham tướng khá nhiệt tình với ông ta, xếp hàng chào đón, mời ông ta vào trong soái trướng. Quát mắng ầm ĩ tên Bách hộ thuộc hạ của mình bị Khổng gia đánh đập tàn nhẫn kia có mắt như mù, đã đắc tội với Lão quốc công gia, sau đó không đợi ông ta nói rõ ý đồ tới đây, đã nói để không làm cho đám đại binh không hiểu quy củ này lại làm Quốc công gia tức giận nữa, chúng sẽ lập tức rời khỏi Khúc Phụ.

Khổng tri huyện vừa nghe vậy đã nóng nảy, ông vội vàng nói ra tin tức Bạch Y Phỉ xuất hiện ở trong vùng, yêu cầu Kiều tham tướng không rời quân đi. Kiều tham

tướng lại muốn ông ta đưa ra chứng cớ. Nếu không muốn gần vạn đại quân đóng quân lâu dài ở đây, trừ khi có quân lệnh của Binh bộ. Khổng tri huyện nào có chứng cứ gì đưa cho gã?

Kiều tham tướng tiếp đãi long trọng với Khổng tri huyện, tính cách rất tốt, nhưng không có chứng cứ thì gã vẫn kiên quyết nói sẽ rời đi ngay trong ngày. Bạch Y Phỉ ấy cũng kỳ lạ, buổi tối đến quấy rầy quan phủ và Khổng phủ, nhưng trời vừa sáng đã không thấy bóng dáng.

Mọi người trên dưới trong Khổng phủ đều sợ hãi, đạo tặc để ý tới ai trong người nhà Khổng thánh nhân? Từ khi Bạch Y Phỉ xuất hiện, số nhà quyền quý bị phá cửa diệt tộc nhiều vô số kể. Gia sản bị quét sạch sẽ, phụ nữ bị chịu đủ lăng nhục. Khổng gia có thể không sợ sao, hàng đêm đều không được yên ổn.

Khổng lão thái gia là chủ của một gia đình, bị nạn thổ phỉ làm cho sứt đầu bể trán, tên chủ đất bị lão ép bán với giá thấp sao có thể ăn gan hùm gan báo, còn dám công khai đối đầu. Vị nhân huynh này đã xây một cái miếu nhỏ bên cạnh mảnh đất bị lão ép bán, bên trong cúng bài vị của Khổng thánh nhân, hàng ngày chạy đến khóc lóc kể lể oan khuất, có người qua đường là gã kéo lại kể lể, kể thành chuyện cổ tích. Thanh danh quan trọng nhất của Khổng gia lần này sao chịu được chứ!

Nhưng Diễn Thánh Công vừa mới nhận được mật chỉ khiển trách của Hoàng thượng, đâu dám sử dụng lực lượng quan phủ? Người ta lại cúng cả lão tổ tông nhà mình, còn đập vỡ khắp nơi, một tên vô lại như thế, để mặc cho gã qua lại kể lể khắp trong làng xã, làm bại hoại thanh danh của mình, mà ông không có cách nào.

Lúc này, Thái An học chính Trương Đa Khí đến nhà thăm hỏi, nói rằng nghe nói Diễn Thánh Công trở về từ trong kinh nên đặc biệt tới thăm. Lão là nhân vật nổi tiếng trong sĩ lâm Sơn Đông, có kết giao thân thiết với Khổng gia, thường cùng với rất nhiều trưởng lão đích tôn và các quản sự của Khổng phủ uống rượu chơi cờ, cũng được coi là bằng hữu trong sỹ lâm.

Nghe hảo hữu kể những phiền não này của Diễn Thánh Công, Trương Đa Khí liền âm thầm tùy cơ hành động với mấy vị hảo hữu của Khổng gia: Đương kim Hoàng thượng đang cải cách chính sách mới, mặc dù nói Hoàng thượng có lòng ủng

hộ nhà ngươi, không công khai khiển trách, nhưng cây to đón gió, những hào môn bị tổn hại lợi ích đó nghe được phong thanh nhất định sẽ lôi Khổng gia ra làm lá chắn.

Hiện tại đã mất lòng Hoàng thượng, lại bị những người đó ép bức, khó nói Hoàng thượng sẽ không khai đao với Khổng gia, như vậy chi bằng làm đẹp một chút, đặt công phu lên trước, vừa không để mọi người mang chuyện sơ hở của Khổng gia ra kể lể, lại có thể cứu vãn được long ân của Hoàng thượng, chẳng phải là tốt sao? Mấy vị quản sự lão gia của Khổng gia biết vị lão phu tử này tâm nhãn sâu xa, nghe nói vậy liền mừng rỡ, lập tức mời ông ta ra nghĩ kế.

Trương lão phu tử nói:

- Chuyện huyện lân cận mua đất cực dễ làm, Khổng gia nhà to nghiệp lớn, cũng không kém chút đất đấy, tuy nhiên đám hạ nhân vì tranh nguồn nước đã nổi lên tranh cãi, Diễn Thánh Công muốn giáo huấn họ một chút mà thôi. Khổng thánh nhân nói "bảo vệ dân", "yêu dân", ngài nhường một bước, tuyệt đối sẽ không ai nói ngài sợ chuyện, trái lại sẽ thánh phục di phong thánh nhân của Diễn Thánh Công.

Vùng đất đó hãy trả lại cho gã đi, thân phận Diễn Thánh công gia tôn quý, trước đây ra mặt chẳng qua là chuyện nhỏ, cũng là do gã làm việc không chu toàn gây động tĩnh quá lớn, Diễn Thánh Công trăm công ngàn việc, đâu biết những chuyện nhỏ nhặt này? Rõ ràng là hạ nhân làm việc tắc trách, trách phạt họ một phen, đối với hương lý và với Hoàng thượng đều có thể giải thích.

Các trưởng lão của Khổng gia nghe vậy liên tục gật đầu đồng ý. Trương Học Chính lại nói tiếp:

- Về phần quan binh, mấy vị cũng biết, đám đại binh đó biết được mấy chữ?

Lời nói không lễ phép không phải là trong lòng thật sự muốn mạo phạm Khổng gia, mà do thiếu dạy dỗ mà thôi, người thô kệch mà thôi, so đo với bọn họ chẳng phải tự hạ thân phận hay sao?

Huống chi bọn họ chinh chiến sa trường, ném đầu lâu vẩy máu nóng, nhân lúc triều đình dụng binh, Diễn Thánh Công lão nhân gia phạt nặng tướng sĩ có công, làm họ đau lòng, điều này khó trách làm Hoàng thượng để ý.

Tuy nhiên đã thăng công đường rồi, người cũng đánh rồi, đường đường là Diễn Thánh Công gia đâu có chuyện xin lỗi gã, hơn nữa ca ca của gã là người quản sự trong phủ của Khổng gia. Theo lệ xưa, lén lút đưa cho huynh đệ của gã một số vàng bạc, liền nói là chi phí chữa trị, chẳng phải thể hiện được sự từ bi của Công gia sao? Đồng thời còn đề bạt ca ca của gã, bọn họ đâu có không thức thời thế.

- Những chuyện này chỉ là vỗ về họ một chút, tránh bị người khác lợi dụng công kích Khổng gia. Nếu muốn lấy lòng Hoàng thượng, trước mắt còn có một cơ hội lớn, Đương kim Hoàng thượng chí hướng cao xa, dốc lòng cách tân, để Đại Minh chấn hưng uy danh. Triều đình nếu uy gia vũ nội, tứ hải thần phục, là hậu duệ của Khổng thánh sẽ có thể đem uy danh truyền bá khắp nơi, giáo hóa tám phương, đây là chuyện tốt.

Không bằng mấy vị khuyên bảo Diễn Thánh công, tập trung công việc trong phủ lại, dọn dẹp vùng đất đó, tạo ra một địa sách khác, không phải ở tốt xấu, mà là số lượng, sau đó dâng tấu chương lên. Nói Khổng phủ dù chưa thôn tính đất đai, tuy

nhiên từ xưa đến nay, triều đình đã ban thưởng vô số, giờ triều đình thi hành chính sách mới, Khổng gia cảm ân Hoàng thượng, nguyện hiến một ít đất đai dùng để sắp xếp cho lưu dân.

Đó là tầm ảnh hưởng lớn biết bao của Khổng gia, làm xong chuyện này, chính là trọng thần có công ủng hộ chính sách mới của Hoàng thượng, nói mấy lời hay, một số vùng đất hoang có cũng được không có cũng chẳng sao này đã lấy lòng được được Hoàng thượng lần nữa, các vị nói xem như thế có được không?

Mấy vị quản sự thấy rất có lý, vì thề liền đổ xô đi thuyết phục Diễn Thánh Công. Diễn Thánh Công cũng đang lo lắng vì mất thánh sủng, dù sao Khổng gia là hào môn nhiều đời, lợi ích ở chỗ lâu dài. Đại Minh mở cửa phong khí, từ lâu dân gian đã có cuồng sĩ nói rằng Khổng thánh danh không xứng với thực, Khổng gia hưởng thụ nhiều ban ân như thế thực không thể chấp nhận, yêu cầu hủy bỏ tước vị thừa kế của Khổng gia.

Nếu mất thánh ân, những danh hiệu này chưa chắc đã bị bác bỏ, nhưng rất nhiều đãi ngộ đặc thù là chuyện chỉ cần một lời của Hoàng đế, vì cái nhỏ đánh mất cái lớn thực không thể chấp nhận, vậy nên ông ta quả quyết chọn dùng chủ ý của Trương Đa Khí, chuẩn bị thể hiện tốt một chút trong cuộc cải chách chế độ mới do Hoàng đế đích thân chủ trì.

Trương Đa Khí thấy đạt được mục đích, trong lòng vui vẻ, ở lại Khổng phủ mấy ngày mới cáo từ. Tuy nhiên ông chỉ viết thư đơn giản kể lại sự tình, phái người nhà thân tín lập tức đưa đến kinh. Dương Lăng thấy thư của ông, biết ít ngày nữa tấu chương của Diễn Thánh Công sẽ đến kinh thành, hiển nhiên vô cùng vui sướng.

Dương Lăng kể lại các chi tiết trong thư chưa viết, thở phào một hơi nói:

- Người phản đối chính sách mới cũng chỉ có một chiêu như vậy, tấu chương của Diễn Thánh Công vào kinh sẽ giáng một đòn vào bọn họ, có hậu duệ Khổng thánh tán thành chính sách mới, bọn họ không còn gì để nói về pháp lý đạo nghĩa nữa.

Phía Hoàng thượng đã quyết định nghiêm trị Liêu Vương, những phiên vương

có phần nhanh nhạy đã viết tấu chương hoặc trực tiếp phái trung quan vào kinh, giao địa sách ủng hộ chính sách mới, triều đình cải cách chế độ đã trở thành xu thế tất yếu. Nói đến những chuyện cụ thể, điều phối phối hợp, ta thật không bằng nội các, mấy vị lão thần kinh nghiệm phong phú trong lục bộ, những việc cụ thể vẫn phải do họ làm.

Ta chuẩn bị mấy ngày nay đợi trong triều hoàn toàn ổn định lại, sẽ lập tức đi Sơn Tây, trên núi Trung Điều, Sơn Tây, Triệu Phong Tử chiếm núi lập trại, đặc biệt là ở khu biên giới, còn ngoại cảnh lại cực kỳ yên tĩnh, không được để gã bắt rễ ở đó.

Thành Khởi Vận gật đầu, trầm tư chốc lát nói:

- Ừ, đại nhân nếu đi Sơn Tây, e rằng không thể quay về trong chốc lát, ta sẽ nhân cơ hội đi Liêu Đông một chuyến, ở đó chúng ta có bãi cỏ chăn nuôi, xưởng vũ khí, xưởng da lông, xưởng thuốc sâm nhung, dệt nhuộm, dầu thực vật, còn có vô số ruộng tốt còn chưa mở rộng.

Vu Vĩnh vẫn đang thu xếp ở bên đó, gần đây gã phải đi đường biển tới Di Châu, nhìn thấy bến tàu đường biển và đội tàu của chúng ta được xây dựng ở đó, việc làm ăn ở Đông bắc vẫn chưa hoạt động thành thục, ta không yên lòng. Huống hồ xưởng đóng tàu ở sông Tùng Hoa còn có cổ phần lớn nhất của chúng ta, ta cũng muốn đi xem một chút.

Dương Lăng gật đầu, hạ giọng nói:

- Ta ở trong triều, thật sự không quan tâm được những chuyện này. Vận nhi, những việc này nàng phải vất vả rồi.

Thành Khởi Vận tự nhiên cười nói, ánh mắt đong đưa, thân thiết nói:

- Chuyện của huynh không phải chuyện của ta sao? Ta không vất vả vì huynh thì bận rộn vì ai đây?

Vẻ mặt vô cùng quyến rũ, tình cảm nồng nàn, giọng điệu mềm mại, rung động đến tâm can, khiến người nghe lay động tâm tình. Dương Lăng bất giác rung động

trong lòng.

Thành Khởi Vận để ý đôi mắt nồng nhiệt của hắn, không khỏi mỉm cười đắc ý vì sự hấp dẫn của mình. Nàng chuyển ánh mắt nhìn sang đám mỹ nữ đang vui vẻ đá bóng trên bãi cỏ, hơi nghiêng người, Dương Lăng chỉ cảm thấy mùi hương cây cỏ thoang thoảng qua.

Cùng với hơi thở thơm dịu, còn truyền đến một giọng nói nhẹ nhàng:

- Hai ngày nay thiếu nữ xinh đẹp mà huynh mới nạp thêm đã vào cửa rồi, người ta cũng không quấn chàng. Ít ngày nữa ta phải đi Liêu Đông rồi. Lần này đi mấy tháng liền, người ta nhớ huynh lắm. Tối nay... huynh có tới không? Người ta muốn... muốn tối nay huynh tặng hết "cổ phần" cho người ta.

Dương Lăng thấy trong lòng nóng lên, khẽ đáp:

- Được, cho nàng hết cổ phần, ha ha. Ta nhất định cắm vừa sâu vừa chắc, không hoàn vốn gốc.

Thành Khởi Vận che miệng cười nói:

- Huynh dùng từ gì thế, chẳng phải huynh nói...một dòng, một dòng lại một dòng sao?

Dương Lăng vui đùa cười nói:

- Vận nhi, giờ nàng theo ta học cái hư rồi. Ha ha ha.

Thành Khởi Vận cắn môi, mỉm cười quyến rũ với hắn, nói:

- Đàn ông không hư, phụ nữ không yêu mà. Trong khuê phòng, huynh càng hư, người ta càng thích.

Dương Lăng ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy đôi mắt dịu dàng quyến rũ của Thành Khởi Vật rõ ràng sắp rơi lệ, khóe mắt ươn ướt, giống như ánh trăng trong sương mù. Chỉ lộ ra một tia sáng chọc người, chút xuân tình nhè nhẹ, hết sức chọc người.

Tấu chương của Diễn Thánh Công đã vào kinh, tất cả kẽ hở đều được bịt lại, còn chủ động lấy mấy vạn mẫu đất quyên góp cho triều đình, chiêu đẹp này vừa hóa giải vừa phản công, phản thủ vi công, chẳng những không có tội mà còn có công.

Lần này ai còn dám lấy chuyện Khổng gia ra nói. Đó chẳng phải là sự phản đối chính sách mới quanh co lòng vòng, xung địa là Hoàng thượng sao? Quan viên phe phản đối lập tức choáng váng.

Bọn họ dâng tấu chương kết tội mới chỉ có hai ngày. Dương Lăng thần thông quảng đại thế nào cũng không thể thông báo được cho Diễn Thánh Công trong thời gian ngắn như thế, bảo ông ta xử lý hết hậu họa, chủ động hiến đất bày tỏ sự trong sạch, tấu chương cũng không thể nhanh truyền đến kinh như thế. Chỉ có thể nói Diễn Thánh Công đi nước cờ cao, đa mưu túc trí, quan sát triều hướng trong triều kịp thời dẹp bỏ ẩn họa, tác thành cho Dương Lăng.

Tình thế hiện giờ, Thánh Công nghiễm nhiên là người tiên phong của phe cải cách, không thể buộc tội ông ta nữa, ánh mắt của mọi người đổ dồn hết vào Liêu Vương, chỉ xem Hoàng đế sẽ xử phạt huyết thống chí thân nhà mình ra sao.

Chính Đức Hoàng đế cũng không hàm hồ, Dương Lăng đã giải quyết Diễn Thánh Công, y quả nhiên phải xử lý Liêu Vương.

Xưởng Vệ dâng kết quả điều tra lên, Chính Đức Hoàng đế lập tức hạ chiếu: Liêu Vương chèn ép hương lý, ức hiếp dân chúng, chống lại pháp luật, giết người, đúng là tội ác tày trời, ra lệnh lột tước làm thứ dân, con trai trưởng của ông ta sẽ kế nhiệm Vương tước.

Quyết định này thật nhanh gọn, dứt khoát, quả nhiên dấy lên nỗi kinh hoàng.

Một vị Thân vương hoàng tộc bị lột bỏ tước vị, người khác có gì không dám chứ?

Dương Lăng vốn nghĩ còn có kẻ không thức thời, tiếp tục khuyên ngăn lấy hoàng trang làm ví dụ, bèn tấu mời Hoàng thượng thoái hoàng trang. Hoàng thượng nghe theo yêu cầu cải cách, tác dụng làm gương này tất lập tức phá hủy sự bố trí công kích của người phản đối, không ngờ nửa đường giết Trình Giảo Kim, Liêu Vương không chịu nổi cô đơn nhảy ra, chẳng những giết bừa hơn mấy chục dân lành, còn ngông cuồng nói Vương hầu không cần phục tùng chế độ mới, lần này đã thành con gà được nuôi trong chuồng, đám Vương hầu đó không ai dám lấy hoàng trang làm cái cớ nữa.

Mặc dù như thế, hoàng trang vẫn phải trả đất, Dương Đình Hòa dâng tấu lên triều, liệt kê từng lý do sinh ra hoàng trang hoàng điếm, thỉnh cầu Hoàng đế hủy bỏ hoàng trang hoàng điếm, giải tán quản sự hoàng trang hoàng điếm, dùng chính luật pháp làm gương. Chính Đức Hoàng đế lập tức đồng ý, hạ chiếu thi hành.

Ngay sau đó, một số phiên vương bắt đầu dâng tấu lên Hoàng thượng bày tỏ sự ủng hộ chính sách mới. Thục Vương phủ hoàn thành việc điều tra điền trang trước tiên, toàn bộ chuyển giao cho Hộ bộ quản lý. Ninh Vương càng coi trọng hơn, phái trung quan vào kinh, mang danh sách điền trang vương điếm ra, còn hiến hai trăm

ngàn lượng bạc ròng, ủng hộ triều đình tiêu diệt thổ phỉ, Chính Đức mừng rỡ, lập tức biểu dương hai vị phiên vương này.

Đến lúc này, cải cách chính sách mới đã là xu thế tất yếu, ai còn có ý kiến thì chỉ có bị đập nát, cũng không ai ngăn cản được.

Ninh Vương phái người vào kinh, trong lòng Dương Lăng thầm cảnh giác, hắn lập tức sai người theo dõi chặt trung quan trong phủ Ninh Vương, chú ý nhất cử nhất động của gã, kết giao với ai, có mục đích gì. Ninh Vương rất biết làm trò, nếu không phải nắm trước được sơ hở thì cho đến giờ, tất cả hành động của gã, ai dám nói gã muốn tạo phản?

Khi hoàng đế đang cần tôn thất ủng hộ cải cách, gã lại xuất hiện như thế, cho dù thế nào, bây giờ không phải lúc có hành động nào với hắn, chủ động xuất kích chính là tự vùi lấp bất nghĩa. Hiện giờ không những không thể đối phó gã, mà còn phải ca ngợi thêm. Dương Lăng cũng chỉ có thể âm thầm đề phòng, gặp chiêu phá chiêu.

Cùng lúc đó, ánh mắt của hắn bắt đầu hướng về Sơn Tây nhìn thì bình yên, hướng về núi Trung Điều. Nơi đó có một kẻ điên chí hướng rất lớn, còn có một nương tử cố chấp quật cường.

Lúc này, ở hồ Thanh Hải xa mấy ngàn dặm, Bá Nhan Mãnh Khả cũng đang ngắm nhìn phương xa, nhìn về thảo nguyên phương bắc. Nơi đó có Hoa Đương mà y hận không thể ăn thịt uống máu, còn có một vị Hoàng hậu ngày đêm mong nhớ.

Hồ Thanh Hải là thủ phủ của địa bàn Ngõa Lạt, hơn nữa hiện giờ thế lực của Bá Nhan tổn thất hơn phân nửa, chính là lúc đuổi cùng giết tận, tiêu diệt hoàn toàn cái đinh trong mắt, họ sẽ không để tuột mất thời cơ. Thám mã truyền tin về, Ngõa Lạt và Hỏa Si đang tập kết binh mã, xem ra chuẩn bị xuôi xuống phía nam.

Nước và cây cỏ ở hồ Thanh Hải dồi dào tươi tốt quả không sai, tuy nhiên quá nhiều bộ tộc phản đối y, không có địa lợi nhân hòa, cộng với thảo nguyên nơi đây dù sao cũng có hạn, đường sống có thể di chuyển được không lớn, sẽ rất khó đối phó với liên quân Ngõa Lạt và Hỏa Si. Đồng thời các nước Tây Vực cũng nóng

lòng muốn thử. Biên giới Đại Minh bị phong tỏa, dường như cũng có vẻ khởi động xuất binh, cục diện hiện tại quả là tứ bề khốn đốn.

Đám Pháp vương, Phật sống của Thanh Hải đã trở về, dưới lời hiệu triệu của họ, các bộ tộc vốn xé lẻ đã bắt đầu liên minh lại, chuẩn bị chống lại tên cường địch Bá Nhan, Thanh Hải không còn trụ nổi nữa.

Lại là hoàng hôn mênh mông, đám mục dân nhốt dê bò lại, mùi thịt và tiếng ca bắt đầu phiêu đãng.

Doanh trướng của Gia Tư Bố giờ đã đổi thành doanh trướng Đại Hãn của Bá Nhan Mãnh Khả, trong trướng tập trung các tướng lĩnh thân tín của y và các thủ lĩnh bộ tộc, trường án được bày ra, thảm đỏ rải xuống đất, mọi người ngồi vây quanh trong đại trướng, ở giữa có một chậu lửa to, trên khung sắt treo mấy con dê nướng vàng chảy mỡ, mọi người bưng bát to uống rượu, mồm ăn nhồm nhoàm thịt dê, hưởng thụ đồ ăn ngon của tối nay.

Trong những người này có thuộc hạ của Gia Tư Bố đầu hàng tới, còn có một số bộ lạc vốn trung thành với gia tộc Mãn Đô Hải, khom lưng trước tình thế, không những không cúi đầu. Bá Nhan Mãnh Khả biết bọn họ chưa chắc đều một lòng một dạ, nhưng giờ y phải đoàn kết tất cả lực lượng có thể lợi dụng được, đành tạm thời khoan nhượng cho sự tồn tại của họ.

Mãn Đô Hải Hoàng hậu lại mất tích, đương nhiên, thuyết pháp đối ngoại bà căn bản chưa từng xuất hiện. Người phụ nữ vận mệnh làm nhiều điều sai trái này đã chủ định là người thừa trong trận đấu quyền lực. Bà là bậc tiền bối của Bá Nhan, chẳng sao cả, bà lớn hơn Bá Nhan hơn ba mươi tuổi, cũng chẳng sao, nhưng người phụ nữ này quá hùng mạnh, chỉ cần bà tồn tại, anh hùng dũng mãnh vô địch như Bá Nhan Mãnh Khả cũng không còn là duy nhất trên thảo nguyên.

Người chịu cúi đầu nghe lệnh với bà quá nhiều, cho dù bà tuyệt đối không gây bất lợi cho Bá Nhan, nhưng anh hùng như Bá Nhan sẽ không dễ khoan nhượng cho trường hợp có thể dễ dàng đoạt lấy quyền lực của mình, đến nỗi y có bất kỳ quyết định trọng đại nào đều phải được sự cho phép của người phụ nữ này, đó là một sự nhục nhã.

Chuyện trên thảo nguyên phương bắc y đã biết, bộ tộc bị Hoa Đương tiêu diệt, nữ nhân yêu thương trở thành đồ chơi trên giường của Hoa Đương, khiến Bá Nhan Mãnh Khả nhục nhã và đau đớn. Thế nhưng tin tức được thuộc hạ bị y đánh tan đưa tới.

Hơn một vạn binh sĩ hoàn thành nhiệm vụ dương đông kích tây đã chạy về thảo nguyên trong đêm tối, mục đích là mau chóng bù đắp thực lực phòng vệ của bộ tộc trước khi các bộ lạc nghe được tin tức chính xác rằng y xuất binh, từ đó xuống tay với bộ tộc của y, nhưng họ vẫn đã đến muộn, không những bộ tộc của mình bị Hoa Đương chiếm hữu toàn bộ, mà con hồ ly già nham hiểm đó còn sắp xếp đại binh ở trong doanh trướng bộ tộc của mình, thực hiện một cuộc phục kích hoàn mỹ với đám binh lính mệt mỏi vừa quay về của y.

Thế lực của y ở phương bắc đã tan tành mây khói, nhưng nếu muốn đứng lên lần nữa, y không thể làm con rùa rụt cổ, phải mau trở về, giết chết Hoa Đương, uy danh của y sẽ được xây dựng lại, y vẫn có hy vọng trở thành vua của thảo nguyên.

Tin tức truyền về thảo nguyên phương bắc đã bị y phong tỏa. Chỉ có mấy tướng lĩnh thân tín nhất của y biết được tình hình cụ thể, y không thể nói thẳng toàn bộ sự việc cho đám thuộc hạ biết, nếu không sẽ có một số bộ tộc từ chối theo y trở về thảo nguyên phương bắc đã mất đi đó để liều mạng. Chỉ có dẫn họ về, đưa đến chiến trường, để họ buộc phải chiến đấu vì sinh tồn.

Bá Nhan Mãnh Khả dùng bàn tay lớn bóng nhẫy cầm một chiếc đùi dê béo ngậy nặng khoảng ba cân, vừa nuốt thịt dê luộc thơm ngon, vừa bê bát rượu lớn lên uống. Xem ra, giờ y rất thoải mái, nhưng ánh mắt của y lại liên tục lướt qua mặt đám thuộc hạ, như thể đang quan sát nét mặt và hành động của họ.

Mọi người ăn ướt đẫm mồ hôi, mặt đỏ phừng phừng, sáu nữ tì ở giữa múa hát, nhìn mọi người ăn uống say sưa. Bá Nhan Mãnh Khả đón lấy khăn tay từ người hầu, xoa xoa tay, sau đó bưng một chén rượu lớn, chậm rãi đứng lên.

Trong doanh trướng đã dần bớt huyên náo, có người phất tay, đám vũ nữ dừng nhảy múa và ca hát, khom người lui ra. Nhạc công cũng ôm nhạc khí lui ra ngoài. Bá Nhan Mãnh Khả nhìn lướt qua một lượt với ánh mắt nghiêm nghị, cao giọng

nói:

- Hồ Thanh Hải rất đẹp, nguồn nước và đồng cỏ ở đây cũng rất phong phú, nhưng đây không phải nơi chúng ta có thể ở lâu, bầy lang sói đang rình rập nơi này từ bốn phía, có ý định tấn công chúng ta.

Hồ Thanh Hải nhỏ bé không nuôi nổi hùng ưng trên thảo nguyên, trời đất rộng lớn của chúng ta ở phương bắc, nơi đó có thảo nguyên rộng hơn, chúng ta có thể đứng trên đó, biến nó thành bãi cỏ chăn nuôi của chúng ta. Nhưng trước tiên chúng ta phải mài sắc dao đối phó với ác lang, vì thế chúng ta phải quay về. Tiêu diệt tất cả kẻ thù phản đối chúng ta ở phương bắc.

Trong đại trướng yên tĩnh, mọi người đều đang nghe y nói.

Bá Nhan Mãnh Khả ưỡn thắt lưng, ánh mắt kiên nghị, trang trọng nói:

- Gia Tư Bố dẫn các ngươi ra ngoài, đưa các ngươi tới đây làm kẻ nhu nhược.

Ta muốn dẫn các ngươi về, các ngươi đều là những chiến sĩ anh dũng, rời khỏi lưng ngựa và chiến đao, vinh quang và của cải của các ngươi từ đâu mà có?

Y nhìn quanh một vòng, cất cao giọng:

- Trường Sinh Thiên khí lực lý, đại phúc ấm hộ trợ lý. Ta ra lệnh cho các ngươi, dũng sĩ của ta hãy trở về thảo nguyên của chúng ta, giết chết kẻ địch của chúng ta, chiếm đoạt nữ nhân và dê bò của họ!

"Trường sinh thiên khí lực lý, đại phúc ấm hộ trợ lý", đây là chiếu mệnh của Hoàng đế, chiếu mệnh của Đại Nguyên Hoàng đế, tương đương với câu "Phụng thiên thừa vận Hoàng đế, chiếu viết" mà người Hán thường nói, câu đầu tiên trong thánh chỉ mà người Hán nghe nhiều thành thuộc chính là do Chu Nguyên Chương viết ra sau khi lập quốc.

Câu trong thánh chỉ Nguyên đình này dịch thành văn ngôn của người Hán là Thượng thiên quyến mệnh, sau khi Đại Minh lập quốc chuẩn bị chọn dùng cái này, Chu Nguyên Chương cho rằng không đủ khiêm tốn, ông trời dựa vào cái gì chỉ

chiếu cố mình ngươi? Tự mình đa tình mà thôi, cuối cùng còn không phải bị lão tử đuổi về thảo nguyên chăn dê sao?

Ông ta bèn đổi thành phụng thiên thừa vận, tuân theo ý chỉ của ông trời, gánh vác sứ mệnh ông trời ban cho, vì thế mới thống trị thiên hạ, cung kính như vậy, ông trời không dùng ông ta thì còn dùng ai? Mà với Khả Hãn trên thảo nguyên, mở rộng đất đai vẫn là cách thức chiếu mệnh của triều đình Đại Nguyên, Bá Nhan Mãnh Khả là hậu duệ gia tộc hoàng kim, là Khả Hãn trên thảo nguyên, tự cho mình là triều đình Bắc Nguyên, y đương nhiên có thể hạ mệnh lệnh như vậy.

Bá Nhan Mãnh Khả chiếu mệnh một lát, tướng lĩnh thân tín của y và đầu lĩnh bộ thuộc lập tức quỳ lạy tiếp chỉ, các thủ lĩnh của các nước chư hầu vừa tới phục tùng đang ngơ ngác nhìn nhau, cũng đành cúi đầu nghe lệnh. Bá Nhan Mãnh Khả đánh mắt, lướt qua một tia hào quang sắc như đao run sợ mãnh liệt, nếu Hoa Đương giờ đứng trước mặt Bá Nhan, cùng với ánh mắt sắc bén của y, một ánh đao như dải lụa xẹt qua bầu trời, chém xuống đầu y.

- Mọi người về chuẩn bị sớm đi, sáng sớm ngày mai, chúng ta nhổ trại quay về phương bắc!

Bá Nhan Mãnh Khả thu lại hung quang trong mắt, thản nhiên hạ mệnh lệnh cuối cùng.

Kinh sư đã chuẩn bị chiêng trống rùm beng, Uy Quốc phủ công đèn đuốc sáng trưng. Dương Lăng cũng sắp khởi binh tới Sơn Tây, bắt đầu chiến dịch thứ hai tiêu diệt Bạch Y quân!

Trong kinh tràn trề sức sống, Lại bộ đang thi hành luật thi cử của quan lại, Hộ bộ đang di dân, thực hiện cải cách diện tích lớn về đất đai và thuế phú, còn tiến hành định lượng toàn bộ những thành tích chính trị này, liên hệ với thi cử của Lại bộ.

Cùng lúc đó, Lễ bộ liền tổ chức thi hương và nội dung của phần sách luận thời thế tăng cường học cung của các nơi trong cả nước cũng đang được luận chính cẩn thận. Đây chỉ là bước đầu tiên, cùng với việc đám học tử chui ra từ trong đống giấy giấy lộn mốc meo, hướng tầm nhìn vào xã hội hiện thực, chúng sẽ nhận ra rằng ngôn luận của thánh hiền xưa không thể giải quyết tất cả vấn đề trước mắt, chúng tự nhiên sẽ suy nghĩ, sẽ nghiên cứu những thứ hiện thực hơn.

Cải cách giáo dục mới là thứ quan trọng và nền tảng nhất, cũng là thứ không dễ vì con người mà phế bỏ chính sách nhất. Đồng thời, nó cũng là thứ thâm căn cố đế nhất khó lay động được, vậy nên Dương Long đã phải dùng cách vòng vèo này, phong khí của Đại Minh mở ra, trong đám sĩ tử vốn có nhiều người bắt đầu nghi ngờ Trình chu Lý học, việc tăng cường sách luận thời thế sẽ tăng tốc độ ham học hỏi, nó là một dẫn chứng.

Qua dẫn chứng này, dần dần có ngày càng nhiều người có học thức thông qua chú trọng và hiểu biết về thời thế để dẫn ra những suy nghĩ cho tương lai, từ đó diễn sinh rất nhiều học thuyết và lý luận mới, mà thông thương đường biển mở cửa lúc này liên tục mang thông tin và học vấn nước ngoài về, mà những kiến thức mới này sẽ có tác dụng thúc đẩy, dẫn dắt và bổ sung cho nhau.

Trí tuệ cổ nhân, tuyệt đối không được khinh thường. Sĩ tử xưa mới là sức mạnh trung kiên của thời đại này, họ mới là người quen thuộc nhất với các câu chuyện ân tình thời đại này, người phát triển xã hội về phương hướng lớn sửa chữa một chút,

xúc tiến một chút, giống như sửa kênh trị thủy, họ tự sẽ đi theo con đường thông suốt nhất, đây là cách của Dương Lăng.

Trong lục đại nha môn ngoài ba nha môn này cũng chỉ có Bộ binh là bận rộn nhất, khiển binh điều tướng, bay vây chặn đánh, một mặt dần thu hẹp vòng vây, ngày càng nhu nhỏ phạm vi hoạt động của Bạch Y quân để dồn ép, một mặt bắt đầu bố trí chuyện tiêu diệt thổ phỉ Sơn Tây. Thám tử phái đi quan ngoại cũng liên tục đưa tin tình báo của phương bắc và Tây vực về, để Bộ binh bất cứ lúc nào cũng hiểu được động hướng của người Mông Cổ.

Thái Hành, Lã Lương, Lạc Dương, Đồn Quan, Bồ Tân Độ, Long Môn Độ, những con đường sông Thái Hành liên tiếp này cùng với cửa ải hiểm yếu của đường núi và thành trì trọng yếu bắt đầu liên tục tăng binh đóng quân, sắp xếp đại pháo.

Dãy Trung Điều Sơn cây cối rậm rạp, cửa ải hiểm yếu có thể thông tới đông tây nam bắc đều bắt đầu tập kết trọng binh, Dương Lăng còn chưa ra khỏi kinh thành đã bắt đầu thiết binh bố phòng, lặng lẽ khép kín vòng vây.

Chiêu hàng là thượng sách, có thể không động binh đao là tốt nhất. Tuy nhiên nếu Triệu Phong Tử không chịu đi vào khuôn khổ thì đành phải động binh. Một tay mềm, một tay cứng, hai tay đều phải chuẩn bị. Còn một khi động binh, chung sống như thế nào với Hồng Nương Tử đó, Dương Lăng có muốn cứng rắn cũng không làm nổi, mềm cũng không mềm được, đành đi một bước nhìn một bước, tùy cơ ứng biến.

Thành Khởi Vận đi Liêu Đông trước một bước, A Đức Ny cũng không phải là người bó buộc trong nhà cao cửa rộng, nên đã cùng nàng đi Liêu Đông, nếu không phải là đang mang thai thì có lẽ Tuyết Lý Mai cũng sẽ đi theo, đàn bà trong Dương gia ngày càng không an phận.

Sự dung túng của Dương Lăng, cùng với thành tựu của Thành Khởi Vận, Mã Liên Nhi, A Đức Ny khiến các nàng không còn cho rằng phụ nữ một khi gả cho người khác rồi thì không được bước chân ra khỏi cửa, ở nhà giúp chồng dạy con, bây giờ thì ngay cả Hàn Ấu Nương luôn tuân thủ nghiêm ngặt chuẩn mực đạo đức, coi là điều luật hàng đầu của thê tử cũng nóng lòng muốn thử.

Các nàng thực ra đều chỉ là những cô gái mười sáu mười bảy tuổi, khí thế bừng bừng, Dương Lăng cũng không muốn các nàng cả ngày buồn bã ở nhà. Vậy nên trong lúc rời khỏi kinh thành, hắn đã giao việc kinh doanh dược phẩm từ đông bắc tới kinh thành cho Cao Văn Tâm, giao việc buôn bác hàng da, lương thực cho Hàn Ấu Nương xử lý, để các nàng thử làm quen trước.

Tuy nhiên đường đường là Uy Quốc Công phu nhân thì không thể nào xuất đầu lộ diện làm việc này, đại chưởng quỹ kinh nghiệm phong phú sẽ xử lý phía trước, các nàng chỉ đứng sau rèm mà thôi, Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai là kế toán trưởng, kinh doanh hiện tại là của nhà mình, đương nhiên phải là người nhà kiểm soát khâu cuối cùng.

Dương Lăng phát binh đi Sơn Tây. Vốn định đồng thời sắp xếp đôi tình nhân Ngũ Hán Siêu và Tống Tiểu Ái xuôi xuống phía nam theo đường thủy tới thành Kim Lăng đón Mã Liên Nhi hồi kinh, đúng lúc này nhận được thư của Mã Liên Nhi từ Nam Kinh gửi tới. Việc buôn bán của họ ở Giang Nam thực ra quá đồ sộ, giờ Vu Vĩnh ở Di Châu, Thành Khởi Vận ở Liêu Đông, Giang Nam chỉ còn lại một mình nàng, muốn giao cho rõ ràng rất nhiều việc như thế này, không thể kết thúc trong chốc lát.

Dù sao việc kinh doanh này không phải của riêng mình nhà Dương Lăng, rất nhiều hoàng thân quốc thích, hào môn ở Giang Nam đều tham gia cổ phần chia hoa hồng, hoặc góp vốn kinh doanh. Là người kinh doanh chính trong đó, nếu như không trình bày rõ ràng đã đi mất, thì trong lúc Bạch Y Quân đang gây rối Giang Nam, có lẽ những cổ đông góp vốn này sẽ càng ngờ vực vô căn cứ, vì thế nàng còn phải ở lại thêm mấy ngày, làm rõ sổ sách, cũng phải căn dặn rõ ràng với các đại chưởng quỹ trong các mối làm ăn ở Giang Nam xong thì mới đi được.

Bạch Y Quân tấn công Kim Lăng gặp thất bại, chuyển hướng Giang Tây, nhất thời chưa chắc sẽ quay về, hơn nữa thành Thạch Đầu có viên mãnh tướng Chu Đức An, cũng không phải dễ phá, người này mặc dù sát khí nặng, cũng quá khát khao danh lợi, nhưng là một kiêu tướng rất giỏi đánh giặc.

Đến lúc này tiểu Ngũ và tiểu Ái sẽ không phải vội vã xuôi nam nữa, vậy nên

Dương Lăng liền dẫn họ đến Sơn Tây. Hai người này đều có kinh nghiệm nhất định trong chiến đấu trên mặt đất và trên núi, trong lúc khẩn cấp nói không chừng có đất dụng võ.

Ngựa kêu gió thổi ào ào, mặt trời đỏ soi chiếu đại kỳ!

Trên vách núi phía trước có một quan ải, quan ải xây bên cạnh núi, tường thành phía bên phải chính là đỉnh núi, bên trái là vách đá, nhìn nghiêng cực kỳ hiểm trở, dường như thành lầu của quan ải đó xiêu vẹo bất cứ lúc nào cũng có thể rơi xuống, thực là nơi hiểm yếu một người canh giữ vạn người không thể khai thông.

Cửa thứ chín của Vạn Lý Trường Thành, đến Nương Tử quan rồi. Qua quan ải này coi như đã vào đất Sơn Tây.

Vũ khí leng keng, tinh kỳ tung bay, Dương Lăng vẫn chỉ huy ba ngàn thiết kỵ. Tù và kêu ù ù trên quan ải, cửa chính mở rộng, tướng lĩnh canh giữ nghênh đón từ xa, Dương Lăng cưỡi ngựa đi đầu, hắn không mặc giáp trụ, đầu đội khăn vấn, mặc áo choàng bằng lụa mỏng xanh, thắt dây lưng da, trông tự nhiên phóng khoáng như một thư sinh.

Chí điểu tương kích, ti phi liễm dực; Mãnh thú tương bác, nhị nhĩ phủ phục. Chiêu bài đánh đã là chiêu an, vậy thì phải lấy chút thành ý hòa bình ra. Vì thế, Dương Lăng mới dẫn binh tới.

***********************

- Triệu tú tài, sao lại thu binh thế?

Hồng Nương Tử bước nhanh vào sơn động, bước chân nhẹ nhàng, thắt lưng uyển chuyển, Phong Lôi đi theo sau, nhìn chằm chằm vòng eo thon nhỏ của nàng, ánh mắt khi thì lơ lửng, khi thì đăm đăm.

Đột nhiên chú ý tới ánh mắt đầy hàm súc của Triệu Toại, Phong Lôi mới giật mình tỉnh lại, mặt gã không khỏi nóng bừng, ngượng ngùng chắp tay nói:

- Tham kiến Triệu Nguyên soái!

Hình lão hổ là chủ soái mã đạo ở Sơn Tây, Triệu Toại là phó soái, sau khi Hồng Nương Tử lên núi hợp binh cùng bọn họ, cũng đảm nhiệm chức Phó nguyên soái.

Thôi Oanh Nhi mặc dù tạo phản, nhưng vẫn không có giác ngộ tranh giành giang sơn, nắm giữ thiên hạ, vì thế cảm thấy không được tự nhiên với cách xưng hô Nguyên soái. Thấy Hình lão hổ và Triệu Phong Tử đều gọi là Hình đại ca, Triệu tú tài. Có lẽ trong lòng nàng, chỉ có tên thư sinh trên núi Bạch Đăng kia mới xứng là Nguyên soái.

Hồng Nương Tử mặc quần áo nam nhân, hơn nữa là quần áo ngắn, đầu chít khăn vải, đai vải quấn thắt lưng, cắm nghiêng một thanh đoản kiếm. Chân đi giày leo núi, trên đùi buộc xà cạp cuộn ngược nghìn lớp, oai hùng hiên ngang.

Hồng Nương Tử hiên ngang ngồi trên một chiếc ghế đá, vịn đầu gối nhìn Triệu Toại, uy phong lẫm liệt nói:

- Hứa Thái, Giang Bân đều là kiêu tướng trong triều đình, tuy nhiên chúng ta chiếm cứ địa lợi, đất có thể tấn công, lui có thể phòng thủ, hiện giờ còn chiếm thế thượng phong, không dễ thu hẹp quân đội.

Mấy tháng nữa tuyết lớn sắp bịt kín núi rồi, giờ phải cố gắng dự trữ lương thực, cho nên các con đường giao thông chính không được để cho quan binh chiếm cứ ngăn chặn. Nhân mã của ta vẫn đóng ở Sơn Tây, còn chưa tung sức đâu. Tú tài nếu quân mỏi tướng mệt rồi thì hãy đổi phòng ngự, để nhân mã của ta đóng ở hướng đông bắc.

Triệu Toại thở dài đáp:

- Thôi soái, triều đình đã đổi người tới, chủ tướng không phải là Hứa thái nữa. Thôi Oanh Nhi nhướn cặp chân mày lá liễu lên:

- Thế thì sao? Binh đến thì chặn, nước đến đất ngăn, quan binh lâm trận đổi tướng, đúng là bọn họ tự gây loạn trạn cước, còn sợ gì nữa chứ?

Triệu Toại cười nhạt một tiếng, nói:

- Lần này thì khác, người triều đỉnh cử tới là Dương Lăng!

- Dương... Dương Lăng?

Thôi Oanh Nhi giật mình, bỗng nhiên cảm thấy chỗ ngồi không thoải mái, nàng

khẽ động đậy người, rồi mới nói:

- Hắn... ấy, chẳng phải ngươi nói hắn ở trong kinh chủ trì cải cách chế độ mới mà, sao... sao triều đình lại cử hắn tới chứ?

Hồng Nương Tử mặc võ phục toàn thân, tám phía oai phong. Vốn rất có khí khái nam nhi, lúc này bờ vai đổ xuống, lông mày cụp lại, giọng nói cũng nhỏ hơn.

Triệu Phong Tử bùi ngùi thở dài đáp:

- Dương Lăng chắc chắn khám phá ra chiến lược chúng ta thao quang mù mịt tới nay, ung dung mưu mưu tính đại kế, vì thế mới vội vã xuất binh thảo phạt.

Dương Lăng vừa đến liền trói buộc quan binh không tiến công nữa, không biết hắn án binh bất động là có dụng ý gì, người tới không mạnh, nhưng ta cũng phải cẩn thận hơn chút.

Gã tiếc nuối thở dài nói:

- Hình thế Sơn tây vững chắc nhất, bên ngoài có các ngọn núi Thái Hành, Lã Lương và Vương Ốc, Tích Thành, Trung Điều... tạo nên bình phong ngăn cách bên ngoài, phía trong có các núi Hằng Sơn, Ngũ Đài Sơn, Quản Sầm Sơn, Hệ Chu Sơn, Thái Nhạc Sơn, Vân Trung Sơn, Hoắc Sơn, Tắc Vương Sơn đều phân bố đan xen, tạo thành hiểm yếu vòng trong.

Nơi này là nơi cực tốt cho tác chiến nội tuyến, chỉ cần cho ta một đến hai năm để kinh doanh lớn mạnh ở đây, thu được toàn cảnh Sơn Tây, sau đó thì ra Việt Lâm Tấn, Bạc Long Môn, xuống vùng Kinh Vị; Cũng có thể ra Thiên Tỉnh, xuống Hồ Quan, Hàm Đan, sang phía đông tới Tỉnh Hình, hướng vào quân tiên phong, chỉ thắng tới kinh thành, khi bất lợi lại dựa vào địa thế hiểm yếu mà phòng thủ. Làm gì chứ, thời gian không chờ ta mà.

- Dương Lăng thì sao? Hắn cũng chỉ là trên vai gánh cái đầu ăn cơm mà thôi?

Ta nhổ vào! Sợ hắn làm gì chứ? Hắn là cái đếch gì!

Phong Lôi trừng mắt, ấm ức quát to.

- Đầu heo! Ta và tú tài nghị sự, ngươi chõ miệng vào làm gì chứ? Tránh sang một bên nghỉ ngơi đi!

Thôi Oanh Nhi không vui, liếc mắt sang, Phong Lôi ngoan ngoãn ngậm miệng, cúi đầu xuống, rắm cũng không dám đánh một cái.

Triệu Phong Tử nhíu mày nói:

- Tên Dương Lăng này dụng binh đánh giặc cực kỳ mưu lược, mặc dù chưa chắc đã là danh tướng đệ nhất thiên hạ, nhưng nhìn tổng quát hắn xuôi phía nam ngược phía bắc, thủy chiến, lục chiến, sơn địa chiến đều có cả.

Quan trọng nhất là, đánh nhau không chỉ dùng chiến thuật, trong triều có người cản trở hay không, chiến lược đề ra có được tán thành hay không, đại tướng dưới tay có nghe theo mệnh lệnh của mình hay không, lương thảo cung cấp có kịp thời không, tất cả đều là điểm máu chốt của thắng bại. Nếu không làm được những điểm then chốt này, dù có là Vũ Mục tái sinh, Võ Hầu tái thế cũng phải chịu thất bại.

Dương Lăng là sủng thần của đương kim Hoàng thượng, muốn binh được binh, muốn tiền cho tiền, các nơi trong triều tích cực hưởng ứng. Hắn là kiêu binh mãnh tướng, thuộc hạ của hắn đều phải lẫm liệt quên mình phục vụ, cho nên Dương Lăng xuất chiến, chỉ cần không ra hôn chiêu, nhất định giành thắng lợi. Ứng phó được với tinh binh bách chiến của Miêu Quỳ, Hứa Thái, nhưng ứng phó không lại với uy thế kẹp Thái Sơn tới của Dương Lăng.

Ánh mắt Thôi Oanh Nhi chợt lóe sáng, thốt lên:

- Ngươi chuẩn bị...đi?

Triệu Toại trầm mặc một lát, đáp:

- Đại nguyên soái bị bệnh, đang có xu hướng nặng thêm, ở Trung Điều Sơn thiếu thầy thiếu thuốc, thật sự không chống cự nổi. Ngoài ra, Lưu Lục huynh đệ hô ứng từ xa với chúng ta, đôi bên phối hợp với nhau, chúng ta mới có thể an tâm phát triển, giờ họ đã dần dần bị quan quân ép vào một góc, rơi vào tình cảnh gian nan ở

Giang Nam. Lưu Lục đã viết thư tới, yêu cầu chúng ta điều quân xuôi xuống phía nam giải vây cho gã, Hình đại ca cũng có ý này...

Triệu Toại nói tới đây liền dừng lại, Hồng Nương Tử đã hiểu ý của y. Triệu Toại túc trí đa mưu nên được đề cử làm người chỉ huy thật sự của nhóm nghĩa quân.

Nhưng nòng cốt trong quân và tướng lĩnh cấp cao của y bao gồm Đại nguyên soái Hình lão hổ trên danh nghĩa, đều là người của Lão Lục, có câu Dương Lăng binh hùng tướng mạnh, túc trí đa mưu hẳn là một lý do, y muốn xuôi nam, hẳn là vì áp lực mạnh mẽ từ trong nội bộ.

Phong Lôi vừa nghe nói muốn xuôi nam tụ hợp với đám Lưu Lục, Lưu Thất thì không khỏi hưng phấn xoa xoa tay, gã đang định phát biểu ý kiến liền thấy Hồng Nương Tử đang trầm tư, vội ngậm chặt miệng lại.

- Ngươi chuẩn bị làm thế nào?

Hồng Nương Tử đã định lại suy nghĩ, ý của nàng vốn không ở giang sơn, mà là mượn thực lực giúp đỡ của nghĩa quân tạo phản để đối phó với thẻ thù giết cha là Chu Đức An, tuy Dương Hổ giờ đang ở Giang Nam, đó là người nàng cực kỳ không muốn gặp, nhưng Triệu Toại chỉ huy quân xuôi phía nam, rõ ràng là một cơ hội tốt.

Triệu Toại phất tay bảo hai bên lui, thì thầm nói rõ suy nghĩ của mình với Hồng Nương Tử, nàng nhận lệnh đi, Phong Lôi đang định lui ra theo, Triệu Toại chợt nói:

- Phong Tướng quân dừng bước.

Đợi Hồng Nương Tử rời đi, Triệu Toại đến trước mặt Phong Lôi. Ánh mắt nhìn chằm chằm vào gã một lúc lâu, mới khẽ nói:

- Phong Lôi, ngươi lập tức tuyển chọn ba đến năm trăm thuộc hạ võ nghệ cao cường, tinh nhanh trung thành từ trong binh mã của chúng ta, sau đó rẽ đường nhỏ xuống núi, qua Hà Nam để vào Trung Nguyên trước.

Phong Lôi ngạc nhiên hỏi:

- Ta? Chỉ dẫn vài trăm người đi trước?

Triệu Toại gật đầu, nói:

- Đúng, ngươi và Lưu Nhập Thất cùng đi, hiện giờ có rất nhiều người hành thương để trục lợi vận chuyển lương thực từ phía đông sang tây, ta đã chuẩn bị vàng bạc cho ngươi, đi Thiểm Tây trước, sau đó mua một số xe la chở gạo, đóng giả làm hành thương đi về phía đông, ta muốn ngươi đi...

Phong Lôi nghe xong chợt hiểu ra, gã hưng phấn nói:

- Triệu Nguyên soái đúng là có diệu kế, tại hạ xin đi chuẩn bị ngay. Phong Lôi nói xong chắp tay, hào hứng rời đi.

Triệu Toại dõi theo Phong Lôi rời đi, khẽ thở dài rồi lại lắc đầu. Từ khi Hồng Nương Tử lên núi, vẻ mặt của Phong Lôi có chút khác thường, bản thân gã che giấu rất giỏi, thực ra không chỉ mình Triệu Toại nhìn ra, có lẽ Hồng Nương Tử cũng cảm nhận được, nếu không sẽ không bỗng nhiên thay váy đỏ, cả ngày mặc quần áo nam nhân.

Tên Phong Lôi này năm xưa cũng là một trong những người cạnh tranh mạnh mẽ đấu võ chiêu thân với Thôi gia lão trại, võ công không thua kém Dương Hổ, đáng tiếc gã không có chống lưng, so sánh thì không có ưu thế bằng Dương Hổ. Võ nghệ của gã dù cao, nhưng vẫn không bằng được Hồng Nương Tử, Thôi đại tiểu thư không thả nước, sao gã qua được cửa ải này?

Phong Lôi bị đánh bại bởi vẻ xinh đẹp mạnh mẽ của Hồng Nương Tử, từ đó trúng tiếng sét ái tình với nàng, nhớ mãi không quên, gã không muốn nhìn thấy cảnh vợ chồng Dương Hổ ân ái, lại càng không muốn dưới thế Dương Hổ, Dương Hổ là Bắc lục lâm Tổng đà cầm, gã liền rời khỏi lục lâm, nhập vào nhóm cướp đường.

Cho đến khi nghe nói vợ chồng Dương Hổ bất hòa, Thôi Oanh Nhi sau khi chuyển về nhà thôi gia lão trại ở, tâm tư của Phong Lôi bỗng lanh lợi lên hẳn. Khi ở Bá Châu, đám Trương Mậu và Lưu Lục nghị sự, Phong Lôi động chút là cổ xúy mọi người kéo đội ngũ đi làm sơn tặc, tới Thái Hành Sơn nương tựa Dương Hổ, thực là có dụng ý khác.

Dương Hổ không bỏ vợ, như thế Hồng Nương Tử mãi mãi là con dâu của Dương gia, trong lục lâm đạo phạm vào tội dâm từ sẽ bị trừng phạt cực nặng, Phong Lôi cũng không có suy nghĩ gì xấu, chỉ là Hồng Nương Tử đã rời khỏi Dương Hổ, trong mắt gã vẫn là Thôi đại tiểu thư mà gã thầm yêu thương sâu sắc trước đó.

Nghĩ đến nàng trong lòng đã thấy rất ngọt ngào rồi, nếu có thể ở bên cạnh bầu bạn lâu dài, nhìn nàng cười một tiếng, nghe nàng nói đôi câu thì đã là hạnh phúc mà gã tha thiết mơ ước rồi. Hồng Nương Tử đột nhiên tới Trung Điều Sơn, hàng ngày Phong Lôi đều nhìn thấy bóng hình xinh đẹp, không khỏi vui mừng, lời nói vẻ mặt khó tránh khỏi đôi lúc thất thố.

Triệu Toại nhìn trong mắt, sợ rằng viên mãnh tướng dưới tay của mình sẽ nhất thời sai lầm làm ra chuyện đại nghịch bất đạo, hơn nữa Hồng Nương Tử không những là đàn bà đã có chồng, còn là thê tử thủ lĩnh của một nhóm nghĩa quân khác, một khi thật sự gây ra chuyện dây dưa. Bạch Y Quân đại chiến với bọn cướp đường, Trương Phi giết Nhạc Phi, xác chết bay đầy trời thì hay rồi.

Thế nhưng chuyện này thực sự không thể mở miệng ra nói, suy đi tính lại, hiện giờ cũng chỉ có cách để gã tới Giang Nam xử lý việc quan trọng, tạm thời điều gã đi, đợi đến khi quân đội của mình cũng tới Giang Nam, hợp binh cùng với quân của Dương Hổ thì trước mặt tướng công của người ta, Phong Lôi hẳn có thể dẹp bớt chút tà niệm nhớ nhung này chăng? Nếu không, đây chính là ẩn họa từ bên trong.

Bộ tướng không nhìn xa, không đếm xỉa tới việc ngoài lỏng trong chặt của triều đình, vẫn đang từng bước thu nạp, ý đồ vây khốn hiện thực của Bạch Y Quân ở Giang Nam, mù quáng yêu cầu hợp binh với Dương Hổ và Lưu Lục. Còn đứng chưa vững ở Sơn Tây đã xuất hiện kẻ địch mạnh là Dương Lăng tới, suy trước tính sau, Triệu Phong tử vỗ đùi, thở dài nói:

- Ôi, đàn bà là kẻ gây tai họa. Cổ nhân thật sự không gạt ta! Triệu Phong Tử bùi ngùi, tên thị vệ chạy vào thở hồng hộc nói:

- Triệu Nguyên soái, quan binh lên núi rồi. Triệu Phong Tử kinh ngạc, bỗng đứng lên nói:

- Mau mau nghênh địch!

Thị vệ kia ngẩn người, vội đáp:

- Là quan binh phái người... lên núi, muốn gặp Đại nguyên soái và ngài.

Triệu Phong Tử tức giận, hận không thể vả vào mồm cái tên ngu xuẩn này, gã trừng mắt nói:

- Bọn họ phái người lên núi làm gì?

- Chiêu hàng!

Trong thư phòng của Thái Nguyên vệ, Chỉ huy sứ đại nhân, bồi rượu bên bếp, thức ăn đủ vị, Lý Phúc Đạt và Giang Nam Nhạn đang ngồi đối diện nhau nâng chén. Lý Phúc Đạt đắc chí nói:

- Đại lễ đã đầu độc Dương Hổ, đám Lưu Lục đi Giang Tây rồi. Lần này Ninh Vương nắm binh quyền đã có thể danh chính ngôn thuận rồi.

Đại Nhân bày mưu cho Ninh Vương tiên phong hưởng ứng việc cải cách chế độ của Chính Đức, còn quyên góp rất nhiều ngân lượng, việc này cũng rất hợp ý ta, hành động này có thể dẹp bỏ sự cảnh giác của Chính Đức. Người của ông ta hoạt động thật tốt trong kinh, những viên quan trong kinh đó chỉ cần mắt nhắm mắt mở trước việc Ninh Vương can thiệp quân vụ, như vậy Ninh Vương có thể nắm chắc binh lực đủ để khởi sự rồi.

Giang Nam Nhạn nhắc nhở:

- Giáo chủ, Dương Lăng đã đến Sơn Tây rồi. Lần trước tới Đại Đồng. "Kế hoạch buộc rồng" của chúng ta bị hắn phá hoại, thế lực mà bổn giáo phát triển nhiều năm ở Đại Đồng bị quét sạch sẽ. Người này không đơn giản đâu. Giáo chủ nhất định không được xem nhẹ.

Lý Phúc Đạt bình tĩnh nói:

- Sao phải căng thẳng, những người như Miêu Quỳ, Hứa Thái, Sơn Tây tiêu diệt thổ phỉ vô công, thế lực của Phong Tử ngược lại ngày càng lớn mạnh, Dương Lăng không thể không đến. Tuy nhiên hắn đến là lao tới chỗ Triệu Phong Tử ở Trung Điều Sơn, có ảnh hưởng gì tới chúng ta?

Giang Nam Nhạn vội la lên:

- Giáo chủ, ý của thuộc hạ là... người này thực ra là một mối họa lớn của giáo phái ta, hắn đã đến Sơn Tây rồi, có phải nên tìm cơ hội giết hắn không?

Lý Phúc Đạt ngưng ánh mắt lại, trầm giọng nói:

- Hắn giờ là Quốc công, tùy tùng ra vào nhiều như mây, ra tay thế nào? Một khi sắp thành lại bại, nếu chẳng may rò rỉ ra dấu vết, tất cả những nỗi vất vả tổ chức của ta ở đây chẳng phải đều chảy hết sạch sao? Còn nữa, Thái Nguyên là khu vực phòng thủ của ta, nếu hắn xảy ra chuyện ở đây thì chính Tấn Vương cũng phải chịu

trách phạt, một Vệ chỉ huy sứ như ta còn có thể giữ được quan vị, giữ được binh quyền sao? Chớ làm chuyện ngu xuẩn!

Thấy vẻ mặt không cam lòng của Giang Nam Nhạn, khẩu khí của Lý Phúc Đạt chậm lại, nói tiếp:

- Dương Lăng năm lần bảy lượt phá hỏng đại sự của bản giáo, Đại Nghĩa lại..., ngươi cho rằng ta không hận hắn sao? Ta hận không ăn thịt, uống máu được hắn!

Thế nhưng càng như vậy, càng không thể vì cái nhỏ mà đánh mất cái lớn. Nếu có cơ hội làm ta khoát khỏi can hệ, ta đương nhiên sẽ không bỏ qua cho hắn, nếu không thì không thể hành động thiếu suy nghĩ.

Giết chết một đối thủ tiềm ẩn mạnh mẽ, nhưng lại mất đi cơ hội tốt vấn đỉnh giang sơn, chẳng phải vì cái nhỏ mà lỡ cái lớn sao? Khiêu chiến đặt nền móng hơn trăm năm, triều đình Đại Minh như cây lớn rễ sâu có khó không? Ta đây đều không sợ, ta sẽ kiêng dè như hổ với Dương Lăng? Chỉ có điều giết cũng được, không giết cũng được, phải suy xét toàn diện, tính toán xem cái chúng ta đạt được và mất đi, cái nào nhiều hơn. Nam Nhạn, nhịn, đặc biệt khó khăn!

Nghe thấy giọng nói hơi run của Lý Phúc Đạt, Giang Nam Nhạn vội nói:

- Giáo chủ, đại cục làm trọng, là do thuộc hạ làm theo cảm tính. Lý Phúc Đạt bùi ngùi thở dài, trầm mặc một lúc lâu mới nói:

- Triều đình hạ chiếu, lệnh cho các địa phương nỗ lực tổ chức và thành lập đoàn luyện dân cường tráng tham gia tiêu diệt thổ phỉ, chắc là ngân khố đã không còn tiền, đành phải dùng dân đoàn thay cho quân đội. Xì! Tổ chức và thành lập đoàn luyện quy mô lớn, người của lão Chu sẽ tính toán xem làm thế nào chiếm được ưu thế, Chu Nguyên Chương dồn điền nuôi binh, Chu Hậu Chiếu càng có tiền đồ hơn, xây dưng dân đoàn thay thế cho quân đội tiêu diệt thổ phỉ.

Nam Nhạn, hôm nay tìm ngươi tới đây là vì chuyện này. Triêu đình không phải đã dặn dò địa phương nỗ lực tổ chức và thành lập đoàn luyện, cùng sử dụng tiêu diệt thổ phỉ sao? Ta cố ý tới Phủ Tấn Vương hoạt động một phen, lại tặng cho Đô

chỉ huy sứ một phần hậu lễ, kiếm được chức vị Đoàn luyện sứ binh bị đạo Sơn Tây cho ngươi.

Giang Nam Nhạn nghi hoặc nói:

- Tổ chức và thành lập đoàn luyện dân cường tráng? Lý Phúc Đạt lạnh lùng cười nói:

- Đúng vậy, tổ chức và thành lập đội dân cường tráng, triều đình chẳng phải vì tiết kiệm tiền mà không muốn nuôi quân sao? Lý Phúc Đạt ta nuôi thay cho họ.

Y nắm chặt chiếc cốc trong tay, thản nhiên nói:

- Hiện giờ tổ chức và thành lập đoàn luyện, nguồn gốc dân cường tráng không cần câu nệ ở một nơi, Nam Nhạn, ngươi vẫn không hiểu ý của ta sao?

Giang Nam Nhạn sáng ngời hai mắt, bỗng nhiên thất thanh nói:

- Thuộc hạ hiểu rồi! Giáo chủ là muốn thuộc hạ triệu tập chúng đồ của giáo phái ta, minh kiến đoàn luyện, ngầm xây dựng...

Gã mới nói đến đây, Lý Phúc Đạt đã đưa ngón tay vào môi, ra hiệu im lặng, y mỉm cười nói:

- Hiểu rồi thì đi làm. Ta muốn gió, Chính Đức sẽ đưa ta gió, ta muốn mưa, Chính Đức sẽ đưa ta mưa, Hoàng đế Đại Minh thức thời biết điều như thế, bổn giáo lo gì không thành đại sự chứ?

Nghĩ thông suốt các điểm mấu chốt trong đó, Giang Nam Nhạn cũng không khỏi hớn hở:

- Giáo chủ anh minh, chúng ta...

- Chớ có lên tướng, có người tới.

Quả nhiên, ngoài cửa vang lên tiếng bước chân, thân binh thị vệ của Lý Phúc

Đạt nói:

- Khởi bẩm đại nhân, Uy quốc công truyền quân lệnh tới.

Lý Phúc Đạt và Giang Nam Nhạn ngơ ngác nhìn nhau, vội vàng bước nhanh ra thư phòng, chỉ thấy một vị Trung quân đứng ở trước đường, người mặc áo giáp trụ, bụi bặm mệt mỏi, thấy Lý Phúc Đạt xuất hiện, vị Trung quân đó lập tức bước nhanh về phía trước, tay phải giơ binh phù lệnh tiễn trong tay, trầm giọng nói:

- Thái Nguyên vệ Trương Dần, thấy quân lệnh này, lập tức thống lĩnh binh mã hai vệ, tấn công tới Đông Hoa Sơn.

- Mạt tướng tiếp lệnh!

Lý Phúc Đạt khom người nhận lệnh, cao giọng trả lời, lập tức tiến lên giơ hai tay lên trước nhận binh phù lệnh tiễn, sau đó xoay người uy nghiêm hạ lệnh:

- Người đâu, đánh trống tụ họp! Kẻ nào ba trống vẫn chưa tới, chém!

Ánh mắt của y chạm vào ánh mắt của Giang Nam Nhạn, trong lòng đã hiểu.

Lần trước Dương Lăng truyền quân lệnh rằng: "Thẩm định thế lực lũ đạo tặc, phân bố chiến thủ. Phòng thủ vững chắc, khôi phục tiêu diệt".

Rõ ràng, bây giờ đã đến lúc thực hiện chiến lược bước thứ hai rồi.

- Chiêu an...lần trước chiêu an bọn chúng đã làm phản rồi. Lần này liệu còn nghe lời triều đình nữa không?

Cho dù đã phái người lên núi, Miêu Quỳ vẫn rất nghi ngờ, không kiềm chế được lại mở miệng nói.

Trong doanh trại đại quân Triều đình dưới chân Đông Hoa Sơn, mấy vị tướng chủ chốt ngồi theo thứ tự. Đám người Miêu Quỳ, Hứa Thái toàn thân mặc áo giáp, vẻ mặt Miêu Quỳ bất cần, kiếm đeo ở sườn, nói với sắc mặt u ám.

Cũng khó trách y tâm trạng không vui, trong vòng ba trăm dặm Đông Hoa Sơn cửa ải trùng trùng, Triệu Phong Tử ngồi trên đỉnh Ngũ Lão, cậy vào địa thế hiểm trở mà cố thủ, đại quân triều đình tổn binh hao tướng, không làm được gì, bị Hoàng đế Chính Đức khiển trách nghiêm khắc.

Trên ý chỉ khiển trách bọn họ "Thảo tặc hơn một tháng mà chưa được, ngược lại để cho thổ phỉ chiếm giang sơn, chiêu binh mãi mã. Không có kinh lược, phần lớn là các tướng ham chơi, giữa lại có đố kỵ, thực là khiến trẫm thất vọng quá, niệm tình nay là lúc cần dùng binh, đều không thể thiếu, quân đội sở thuộc do Dương Lăng điều khiển, lấy công chuộc tội"

Những lời này đã xóa sạch chiến công trước đây ở Đại Đồng của y, đương nhiên trong lòng thấy bất bình.

Dương Lăng cười nói

- Miêu công công, thắng bại là chuyện thường tình của nhà binh, huống chi đám loạn phỉ này sức chiến phi phàm, lại có địa lợi nữa? Ta tập trung toàn lực của Sơn Đông cũng chưa chắc đã tiêu diệt tận gốc loạn phỉ áo trắng, chạy vào trung nguyên

có năm vạn dân, hai vị có thể ép Triệu Toại lên Trung Điều Sơn, khiến thế lực của y không thể nào mở rộng thêm đã là một công lớn rồi.

- Quan trọng nhất là, bọn họ muốn cố thủ Trung Điều Sơn, nhất định phải giải quyết vấn đề lương thực, các ngươi chặn các ngả giao thông quan trọng và phủ huyện trọng yếu xung quanh, vườn không nhà trống khiến chúng không có lương thực để cướp, số lương thực hiện có khó có thể qua được mùa đông, như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc ép chúng rời khỏi núi.

- Trong lòng Hoàng thượng biết rõ về những công tích của các ngươi, cũng rất hiểu cho chỗ khó của mọi người. Chỉ là trong triều các quan luôn chỉ vì cái lợi trước mắt, vừa thấy việc tiêu diệt thổ phỉ không có gì tiến triển lập tức đưa ra luận tội mà không biết rằng cái khó của dùng binh là phải đi một bước xem ba bước, phải suy tính toàn diện. Hoàng thượng hạ chỉ trách cứ, chỉ là để bịt miếng đám người bọn họ, đồng thời nhân cơ hội này thị uy, trấn áp quân đội địa phương Sơn Tây thôi.

Các tướng lĩnh khác đều đã bị cho lui, trong trướng chỉ còn lại ba người Miêu Quỳ, Hứa Thái, Giang Bân, cho nên Dương Lăng mới mạnh dạn nói, trấn an. Miêu Quỳ nghe vậy, sắc mặt dần dần dịu xuống. Dương Lăng nói tiếp

- Lần này ta đến với nguyện vọng làm hòa, tính sẽ đánh. Hoàng thượng ban cho ra thanh Thượng Phương bảo kiếm, có thể chặt đầu trước quân, các ngươi nói điều này chỉ giống như mong đợi chiêu an thôi sao?

Hắn đứng dậy, bước đi chậm rãi trong trướng, nói

- Đỉnh Ngũ Lão cách Hoàng Hà và Hoa Sơn tương đối, cũng được gọi là Đông Hoa Sơn, Tây Hoa Sơn là một đường của Hoa Sơn từ xưa đến nay, Đông Hoa Sơn này cũng dễ thủ khó tấn công. Triều đình muốn lấy Đông Hoa Sơn không ngoài hai con đường. Một là tấn công núi bất chấp cái giá phải trả. Một con đường khác chính là tập trung binh lực bao vây tứ phía, thiết lập thành cố thủ, lấy hiểm chế hiểm.

- Cách thứ nhất, thương vong quá lớn. Cách thứ hai lại kéo dài, triều đình không đủ sức chịu nhiều tiền bạc và lương thực như vậy. Cho nên, nếu có thể thuận lợi chiêu an là tốt nhất, nếu không được mới dùng đến vũ lực. Trong vòng ba trăm

dặm Đông Hoa Sơn không giống như núi rừng phía Nam nơi chốn rậm rạp, hỏa công không có tác dụng, đường núi gập ghềnh, dùng pháo cũng khó. Nếu thực sự phải dùng vũ lực tấn công, cái giá phải trả không cần nói cũng biết, thắng bại cũng khó đoán trước.

Giang Bân lớn tiếng nói

- Quốc công nói phải, Giang Bân tôi đánh trận thực sự là ra sức, nhưng đánh Đông Hoa Sơn này tôi có lực mà không có chỗ dùng, cường cung lợi nỏ cách xa đã bắn tới rồi, có khi hai bên giao chiến kịch liệt nửa ngày mà vẫn còn cách cả khe sâu, khe núi, sườn núi, muốn tấn công mà khó như lên trời

- Thật sự đã không màng đến thương vong mà tấn công rồi. Bọn giặc thất thủ lùi về phòng tuyến phía sau, lại mất nửa ngày bắn qua bắn lại. Kết quả vừa đến đêm, bọn chúng nhân trời tối lại tấn công lại. Cứ giằng co như vậy, đỉnh Ngũ Lão này cưa không đổ.

Hứa Thái nghe vậy không nhịn được, mặt lộ vẻ tươi cười nói

- Lời của Giang Bân thô nhưng không thô, đỉnh Ngũ Lão trên Đông Hoa Sơn, đỉnh Ngọc Trụ ở giữa, bốn đỉnh Đông Cẩm Bình, Tây Cẩm Bình, Thái Ất Bình, Kỳ Bàn Sơn xung quanh. Nơi này núi non trùng điệp, vách đá hiểm trở, ngọn núi cao và kỳ dị, chi chít như sao trên trời, thực sự là nơi dễ thủ khó công.

Dương Lăng gật đầu nói

- Cho nên ta mang thành ý lớn nhất đến chiêu an Triệu Toại đấy, nếu có thể thành công thì công đức vô lượng. Nếu không thành, dùng sách lược chiêu an và tiêu diệt cùng lúc, trước chiêu an sau tiêu diệt, nhất định cũng có thể làm dao động thế lực trong nội bộ bọn chúng, mượn chiêu an Triệu Toại chia rẽ chúng, để tiện kích phá chúng.

Giang Bân ngạc nhiên nói

- Mạt tướng càng đánh dữ bọn chúng càng đoàn kết, làm sao mà chiêu an lại có

thể chia rẽ chúng được? Mong Quốc công chỉ rõ.

Dương Lăng đi trở về soái án ngồi xuống, nói theo án

- Thế lực trên đỉnh Ngũ Lão chia làm ba phái rõ ràng, phái lớn nhất là Triệu Toại, phái thứ hai là ...Hồng Nương Tử, phái thứ ba là Lý Hoa vốn là người chiếm núi làm vua ở Trung Điều Sơn. Trong nội bộ phái lớn nhất lại chia thành hai phái, một là ba anh em Triệu Toại, một là Hình Lão Hổ, Dương Nhập Thất, Phong Lôi.

- Triều đình chiêu an, trong nội bộ bọn họ chắc chắn có người đồng ý hàng, có người muốn đánh, có người muốn đi, giữa các thế lực này sẽ nảy sinh ngăn cách.

Triệu Toại tuy rằng thực tế chỉ huy đội quan này, nhưng trên danh nghĩa trên y còn có một đại ca Hình Lão Hổ, như vậy gã muốn chuyên quyền độc đoán sẽ danh bất chính, ngôn bất thuận.

- Hơn nữa, thời gian ngắn như vậy, y không có khả năng tập hợp các nhánh quân nghe theo mệnh lệnh của mình, cho dù không có Hình Lão hổ, y cũng khó mà quyết đoán. Ta thực hiện chiêu an là hi vọng dưới sự bao vây của đại quân có thể ép nội bộ bọn chúng có thể thống nhất ý kiến, hiện nay ta đang điều động đại quân từ các nơi như Thái Nguyên đến viện trợ bao vây núi, tạo thành thế tấn công hùng mạnh, chính là xuất phát từ mục đích này.

- Nhưng nếu trong tình huống này mà chiêu an vẫn không thành công thì sao? Thì làm như vậy cũng không phải là hoàn toàn không có hiệu quả. Chiêu an nhất định sẽ khiến nội bộ chúng không hợp, đỉnh Ngũ Lão sẽ không còn bền chắc như thép nữa, còn chúng ta sẽ có cơ hội rồi.

Giang Bân gật đầu, nghi hoặc nói

- Quốc công, đại quân chúng ta tiếp cận, tấn công núi thường xuyên, đám loạn phỉ trên núi liều chết chống cự, giống như một khối thép chắc chắn, chẳng lẽ một phong thư, một đôi môi có gươm lưỡi có kiếm lại có thể đọ được với uy lực của thương pháo binh mã sao?

Miêu Quỳ như bừng tỉnh, vuốt cằm nói

- Đúng vậy, Quốc công nói không sai. Bọn chúng là một khối thép cũng được, là một đống cát cũng tốt, cũng chỉ là do chữ Lợi mà tụ hợp thôi. Cùng chung mối thù là vì một khi phá núi tổn thất của bọn chúng là giống nhau, kế chiêu an có thể chia rẽ tan rã bọn chúng, còn vì tiếp nhận hoặc không tiếp nhận chiêu an mà lợi ích của bọn chúng cũng khác nhau nữa.

Hứa Thái vui vẻ nói

- Từ xưa đồng hoạn nạn dễ, cùng phú quý khó. Như vậy xem ra, tin Quốc công chiêu an đưa lên núi, trên đỉnh Ngũ Lão hiện tại hẳn là có một phen tranh chấp rồi.

Trên đỉnh Ngũ Lão. Hội nghị vừa tan trong không khí không vui.

Hình Lão Hổ cũng ôm bệnh mà tham gia hội nghị quan trọng về việc chiêu an này. Bọn hưởng mã quân Trung Điều Sơn quả nhiên vì tờ giấy chiêu an của Dương Lăng mà lâm vào đấu tranh nội bộ.

Hai anh em Triệu Phan, Triệu Hạo vốn là thiếu gia nhà giàu, tuy rằng tập võ từ bé, nhưng chưa từng nếm qua trái đắng, sau khi lăn lộn một thời gian dài ở Trung Điều Sơn bọn họ mới biết được quá trình đấu tranh giành thiên hạ nắm chính quyền không đơn giản và thoải mái như trong sách viết, khi phong quang thì nắm quyền lớn, sinh sát trong tay, khi nghèo túng thì cũng vào sinh ra tử, cơm áo lúc có lúc không.

Hai người này nghe được lời bình, đùa giỡn, đại thiếu gia bị du hiệp liệt truyện đầu độc đã hối hận rồi. Vừa nghe nói triều đình chiêu an, không khỏi mừng rỡ, lập tức mạnh mẽ tán thành tiếp nhận triều đình chiêu an. Bọn họ bây giờ tiếng nói cũng có trọng lượng, hưởng mã đạo trong quá trình chạy trốn đã chiêu binh mãi mã, những binh lính mới tuyển mộ đều giao cho hai người này dẫn dắt, hai người hợp lại cũng có hơn vạn tên lính trong tay.

Phong Lôi và Lưu Nhập Thất tuyển chọn tinh binh, đang chuẩn bị đào đường nhỏ thoát ra Trung Điều Sơn, lấy đường qua Hoàng Hà. Người vẫn chưa đi, triều đình đã đến chiêu an, thế là hai người liền quay về để tham dự hội nghị. Vừa nghe ý kiến của anh em nhà họ Triệu, hai người lập tức đứng ra phản đối, đặc biệt Lưu Nhập Thất cũng là thân tín của Trương Mậu. Trương Mậu bị Giang Bân làm hại, Lưu Nhập Thất hận Giang Bân tận xương tủy, muốn hắn đầu hàng về cùng một phương với Giang Bân đúng là chết cũng cũng không chịu.

Hình Lão Hổ vốn là thuộc hạ của Lưu Lục Thất. Người này không có dã tâm và chí lớn gì, trước giờ chưa từng nghĩ sẽ nắm hết quyền hành, nếu không cũng sẽ không đem binh quyền giao hết cho Triệu Toại, hơn nữa gã rất coi trọng nghĩa khí giang hồ, cho nên ý kiến của y là đem quân phá vây, xuôi về phía nam hợp nhất với Dương Hổ, Lưu Lục. Hình Lão Hổ mặc dù chỉ là đại soái trên danh nghĩa, nhưng ý kiến của hắn lại không thể khinh thường, ý niệm mỏng manh tiếp nhận chiêu an trong đầu Triệu Toại lại bị tiêu hao đi vài phần.

Lúc này, Lý Hoa ngồi trên Trung Điều Sơn trong đầu lại xuất hiện ý niệm chiếm núi làm vua, đầu hàng triều đình y không chịu, chuyển sang Giang Nam y cũng không đồng ý, Lý Hoa kiệt lực khuyên bảo Triệu Toại ở lại Trung Điều Sơn, căn bản không cần lo triều đình vây khốn. Theo gã lý giải, gã ở Trung Điều Sơn nhiều năm như vậy, quan binh cũng không làm gì hắn được, hiện tại binh hùng tướng mạnh, càng không cần lo lắng quan binh bao vây tiêu diệt. Đầu quân cho triều đình nếu chẳng may bị phản công, muốn chạy cũng không chạy được, đi Giang Nam thì không có căn cứ, lại quá mạo hiểm.

Hồng Nương Tử không có ý kiến gì, lúc đầu gia nhập Bạch Y Quân tạo phản chỉ là vì muốn khống chế nhân mã của Thôi gia lão trại tránh bị Dương Hổ thâu tóm hoặc lợi dụng, nàng không có hứng thú với tranh đấu giành thiên hạ, giết kẻ thù giết cha Chu Đức An có thể mượn dùng nghĩa quân liền mượn dùng nghĩa quân, nếu không được thì hành thích ám sát cũng là nghề của nàng, nhưng Thôi phó soái không nói lời nào, mấy vị thúc phụ bề trên của nàng lại mồm năm miệng mười, ý kiến gì cũng có.

Triệu Toại bị làm cho choáng váng đầu óc, người này tính tình ngay thẳng, không có sở trường cân đối mối quan hệ phức tạp như vậy, gã tuy có dã tâm nhưng không có uy vọng và quyền lực tuyệt đối, đến lúc liên quan đến lợi ích cá nhân thân thiết thì căn bản không thể giải quyết được các thế lực.

Triệu Toại bất lực, đành phải thương nghị với Hình Lão Hổ, Thôi Oanh Nhi, quyết định đàm phán với triều đình trước, nhân cơ hội này làm rõ bố trí và thực lực của đại quân triều đình sau khi Dương Lăng đến, sau đó mới quyết định là đánh hay là hàng hay là đi. Đáp án lập lờ nước đôi này cuối cùng cũng tạm thời trấn an được

đám thuộc hạ.

Lý Hoa sắc mặt u ám trở về đỉnh Kỳ Bàn Sơn nơi mình cố thủ, phó trại chủ Chu Bàn nhìn thấy sắc mặt y không tốt vội tiến lên phía trước nghênh đón, nói

- Đại ca, Triệu nguyên soái mời huynh sang đó để thương nghị chuyện quan trọng gì thế?

Lý Hoa ngồi xuống một cách uể oải, nói

- Còn có thể có chuyện gì nữa? Haiz! Triều đình chiêu an.

- Chiêu an?

Chu Bàn giật mình.

- Triều đình muốn chiêu an chúng ta? Thế... ý của Triệu Nguyên Soái thế nào? Lý Hoa nói

- Y không nói thẳng, nhưng ta nghĩ là ý đó, Triệu Nguyên Soái có chút dao động rồi, cũng may đám người Hình đại soái và Phong Lỗi, Lưu Nhập Thất đều biểu thị phản đối, Triệu Nguyên Soái mới quyết định tạm thời nghị hòa với triều đình, tùy cơ hành sự.

Chu Bàn nghe vậy mới yên lòng lại, nếu tiếp nhận chiêu an thì người khó xử nhất chính là bọn họ, vì bọn họ kết một mối thù hận lớn với Bồ gia - hào môn thế gia của Sơn Tây, Cơ gia- võ lâm thế gia ở Bồ Châu.

Bồ gia có người con gái, gả đến Cơ gia ở Bồ Châu. Đám người của Chu Bàn khi xuống núi cướp đã cướp cả vị thiếu phu nhân nhà Cơ gia đang đi dâng hương trên chùa Phổ Tế lên núi, vơ vét hết tiền bạc cũng không thả người, lăng nhục một thiếu phụ đang sống sờ sờ đến chết.

Thiên hạ các nơi đều có một số hào môn thế gia, gia nghiệp to lớn, thế lực vững chắc. Bồ gia Sơn Tây chính là một hào môn như thế, nếu thực sự chấp nhận triều

đình chiêu an, cho dù bọn họ làm quan cũng làm sao mà đấu lại được với thế lực của Bồ gia? Huống chi Cơ gia lại là võ lâm thế gia, hiện nay Cơ gia đã có người làm tham tướng võ quan ở ngoại tỉnh. Trong núi bọn chúng là to nhất, ra khỏi núi sớm muộn gì cũng bị chúng tiêu diệt.

Chu Bàn vừa mới thở phào nhẹ nhõm lại nghe Lý Hoa nói

- Nhưng ý Hình Đại Soái là rời khỏi Trung Điều Sơn, dẫn quân đi trung nguyên. Lưu Lục Lưu Thất và Dương Hổ bọn họ bị quan binh bao vây khắp nơi, ở trung nguyên giống như là chó mất nhà. Nếu chúng ta mất đi nơi hiểm trở Trung Điều Sơn này, chạy đến Trung Nguyên, chỉ sợ không những không cứu được y, ngay cả chúng ta cũng rơi vào đó, chiêu này quá ngu xuẩn, Hình đại soái và anh em Lưu Lục tình thâm, chúng ta dựa vào cái gì mà đi theo bán mạng?

Lý Hoa hối hận nói

- Biết vậy chẳng làm, chúng ta làm sơn đại vương, tiêu diêu tự tại. Đều tại ta nhất thời quỷ mê tâm hồn còn thực sự cho rằng bọn họ có thể thành đại sự, lập tức khởi binh hưởng ứng, kết quả dẫn lửa thiêu thân. Hiện giờ bọn họ phải chấp nhận chiêu an hoặc bỏ núi mà đi, chúng ta làm thế nào? Đi theo đám bọn họ làm giặc cỏ sao?

Chu Bàn nói

- Đại ca, lão muốn đi Giang Nam, chúng ta cùng lắm chia đôi ngả, tiếp tục ở lại Trung Điều Sơn này. Tâm trí quan binh đều ở Hình Lão Hổ, Triệu Phong Tử, bọn họ muốn đi thì để họ đi, dụ quan binh rời đi chúng ta sẽ an toàn.

- Haiz! Nếu bọn họ chấp nhận chiêu an thì sao? Thế lực của bọn họ lớn hơn chúng ta, bốn đỉnh còn lại đều do bọn họ đóng. Chỉ cần chấp nhận chiêu an, bọn họ lập tức biến thành quan binh, chúng ta có thể trốn vào hướng nào?

- Cái này...đại ca, bọn lão định đàm phán ở đâu?

- Trên thư quan phủ nói nếu Triệu nguyên soái đồng ý nghị hòa sẽ do chúng ta

chọn thời gian, địa điểm định trên cầu Tiên Nhân ở Lưu Vân Độ, cầu này là một cây cầu dài ở giữa đèo sâu, gai bên đèo các nhau tương đối, không sợ đối phương cho binh mai phục

Chu Bàn đảo mắt, ghé sát vào lỗ tai y nói

- Đại ca, huynh đệ nghĩ ra được một biện pháp ngăn cản Triệu nguyên soái chấp nhận triều đình chiêu an, xem đại ca có cái gan này không

- Biện pháp gì?

- Lão tam là thần tiễn có tiếng, nhân xưng Kim nhãn điêu, trong rừng rậm bắn hồ thỏ cũng là trăm phát trăm trúng, hơn nữa lực tay gã siêu quần, có thể khiến ngũ thạch cung xuyên qua Dương Lăng cách đó trăm bước. Hội đàm ngày đó, nếu không ngại thì để gã ở trong rừng rậm trên đỉnh núi dùng ám tiễn bắn chết Dương Lâm, như thế việc chiêu an tất nhiên sẽ bị hủy bỏ.

- Cái gì?

Lý Hoa giật mình kinh hãi Chu Bàn vội an ủi

- Đại ca yên tâm, ai có thể đoán được là chúng ta động tay chân? Nói về thù hận, Hình đại soái, Phong Lôi, Lưu Nhập Thất bọn họ có mối thù với triều đình sâu hơ chúng ta nhiêu. Hơn nữa, cho dù đoán được nhưng không có chứng cứ ai có thể làm gì được chúng ta?

Lý Hoa suy nghĩ một lúc lâu, cắn răng một tiếng nói

- Được, cứ làm như thế, tuy nhiên nhất quyết không được ngộ thương Triệu nguyên soái. Lão tam đâu?

- Lão tam gác ở trước núi rồi, đệ đi gọi hắn về?

- Đi đi, cẩn thận chút, không được để lộ ra điều gì

- Huynh đệ hiểu ý

Chu Bàn nói xong vội vàng đi ra khỏi cửa phòng, nhìn tứ phía sau đó vội vàng đi về phía trước núi

Hai vệ binh mã của Lý Phúc Đạt đã chạy đến thành Bồ Châu, đồng thời bắt đầu di chuyển địa điểm đóng quân về hướng Đông Hoa Sơn theo lời dặn của Dương Lăng.

Lúc này, phụng mệnh Dương Lăng, các vệ sở binh quan và bộ phận biên quân vốn đóng giữ các nơi, phòng ngừa Triệu Phong Tử chạy khắp nơi đều lần lượt tiến về phía Đông Hoa Sơn, bọn họ trấn giữ ở hết thảy cửa ải giao thông thủy bộ hiểm yếu, đóng vững đánh chắc, từng bước bố trí phòng vệ, vòng vây càng ngày càng nhỏ.

Những chuyện này là do Dương Lăng trước khi xuất kinh đã an bài trừ trước, cho nên làm đâu ra đấy. Binh vệ của Thái Nguyên Vệ không tham gia vào việc bố trí từng bước từng bước thành lũy tấn công, hắn điều hai vệ binh mã đi trước hiển nhiên là vì tăng cường lực lượng tấn công núi.

Lý Phúc Đạt cưỡi một con ngựa cao lớn, ánh mắt gã mơ hồ, tâm trạng đang suy đoán kế hoạch thông bàn của Dương Lăng một cách căng thẳng, căn bvản không chú ý đến cảnh đẹp núi non thanh tú ở bên đường.

Giang Nam Nhạn trợ thủ đắc lực của gã bị lưu lại Thái Nguyên tổ chức dân đoàn, Di Lặc giáo cần người có người, cần tiền có tiền, khuyết điểm từ xưa là không thể hoạt động công khai, tập trung tín đồ trung thành huấn luyện thành một chi đoàn quân đội trung thành với mình.

Mượn thế lực của Vũ Định Hầu Quách Huân, hiện tại gã thành công nắm giữ Thái Nguyên Vệ, hơn nữa ngoài sứ tả vệ, trung vệ chỉ huy ra, gã còn lợi dụng chức quyền và cơ hội khi Lưu Cẩn loạn chính, hoặc tặng lễ đút lót, hoặc gây hấn bãi chức, đem quan tướng trung hạ tầng thay hết thành người của mình. Gã chắc rằng một khi khởi sự có thể nhanh chóng giết chết hai chỉ huy sứ, nắm tam vệ trong tay.

Nhưng chỉ là lực lượng vũ trang này suy cho cùng cũng rất yếu, hơn nữa độ trung thành của binh sỹ vẫn là một vấn đề, cơ hội lợi dụng sức mạnh triều đình tổ

chức bộ đội huấn luyện thành vũ trang tư nhân của mình thì phần nắm chắc sẽ lớn hơn nhiều.

Ở Sơn Tây gã có rất nhiều tín đồ trung thành, trong đó có một số tài chủ giàu có một vùng, tấn thương chi phú, thiên hạ đệ nhất. Dựa vào của cải do những tín đồ trung thành này cống hiến để mua ngựa, binh khí, giáp trụ, lương thảo. Tập trung những tín đồ trung thành với bổn giáo lập thành một chi quân đội hoàn toàn trung thành, dựa vào đại pháp sư, pháp sư, các vị trưởng lão, hương chủ tiến hành huấn luyện, nghiệp lớn có hi vọng rồi.

Tuy nhiên có hai việc gã không ngờ đến. Một là Dương Lăng từ trong kinh thành đến, không đến Thái Nguyên trấn thủ trung tâm chỉ huy mà nửa đường chuyển hướng trực tiếp đến Bồ Châu. Hai là Dương Lăng sẽ điều binh của hắn đến trợ chiến.

Từ khi Triệu Toại chạy trốn vào Sơn Tây đến nay, vùng này đã nhận được lệnh của Dương Lăng: để tránh tự loạn trận cước, các phủ đạo ai chịu trách nhiệm của người đấy, phòng vệ địa phương. Ngăn chặn giao thông, không được để thoát ra ngoài cùng bọn thổ phỉ, bọn họ chỉ phụ trách bao vây, truy binh do kinh sư phái tới phụ trách tiêu diệt. Như vậy Lý Phúc Đạt muốn đục nước béo cò, khiến Triệu Toại nhân cơ hội làm loạn Sơn Tây cũng không được rồi.

Nay Dương Lăng điều gã đến, đề nghị của Giang Nam Nhạn trong lòng y lại trỗi dậy. Trong tâm y, giang sơn là số một, vì giang sơn y có thể từ bỏ tình thân, nhẫn chịu mối thù với Dương Lăng. Nhưng hiện nay Dương Lăng không ở trong khu vực phòng thủ của y, ý niệm tìm cơ hội xử lý họa lớn trong lòng này lại trở nên tha thiết.

Còn nữa, đó chính là Dương Lăng muốn nghị hòa, tuyệt đối không thể ngồi chờ Triệu Toại nương nhờ vào Dương Lăng, khiến hắn rảnh tay ra tập trung toàn lực đối phó với Dương Hổ vừa chạy đến Giang Tây, việc nghị hòa này nhất định phải phá. Hai chuyện này dường như có thể giải quyết cùng lúc.

Nghĩ đến đây, Lý Phúc Đạt lóe lên tia sáng hung ác trong mắt, y ngẩng đầu lên, gọi to

- Tiểu Sở

Một thị vệ trẻ khôi ngô tuấn tú thúc mạnh ngựa, tiến nhanh lên hai bước, chạy đến bên cạnh y.

Người này là một nghĩa tử trẻ tuổi được y chọn từ trong Di Lặc giáo, võ nghệ tương đối phi phàm, Lý Phúc Đạt cúi đầu căn dặn một hồi. Tiểu Sở trên mặt lộ ra vẻ hưng phấn nóng lòng muốn thử, chắp tay nói nhỏ

- Nghĩa phụ yên tâm, con nhất định hoàn thành mệnh lệnh Lý Phúc Đạt đảo mắt nhìn bốn phía, thản nhiên cười nói

- Ừm...bây giờ đi chuẩn bị đi. Nhớ lấy, nhất định không được làm thương Triệu Phong Tử, người này còn hữu dụng

- Tuân lệnh

Tiểu Sở quất ngựa, chạy về phía sau đội ngũ hành quân dài. Lý Phúc Đạt thúc ngựa đi về phía trước

- Trung quân, truyền lệnh đi, toàn quân tăng tốc đi về phía trước, đi tới điểm đóng quân lập tức đào chiến hào, sừng hươu, an bài tốt tất cả phòng ngự mới dựng trại đóng quân, chôn nồi nấu cơm, ai dám làm nhỡ việc quân cơ của quốc công xử theo quân pháp

Quan trong quân lập tức truyền lệnh xuống, toàn quân đột nhiên tăng nhanh lộ trình. Lý Phúc Đạt nhìn đội ngũ đang gấp rút hành quân, trên mặt tràn đầy vẻ cười như không cười

- Năm ngoái hao binh tổn tướng, mọi việc không thuận, một năm trôi qua rồi nhiều điều đã khác, đầu tiên là Bạch Y Quân, sau đó là bọn giặc cỏ, Chính Đức vội vàng đưa quân bến, Dương Lăng vội dẫn xác đến, phải chăng năm nay xoay chuyển vận thế rồi?

Vừa vào Sơn Tây đã toàn núi, dọc đường Dương Lăng nhìn thấy cũng nhiều rồi, nhưng đặt chân lên núi thì đây là lần đầu. Ngoài ba trăm dặm chạy dài Đông Hoa Sơn, là một trong những nơi hiểm yếu nhất của mạch chính Trung Điều Sơn, núi cao hiểm trở, thác nước Lưu Vân có thể nói là đẹp không sao tả xiết.

Nhưng cảnh đẹp của núi nằm ở kỳ lạ. Nếu là du sơn ngoạn thủy thì đương nhiên thế núi càng kỳ lạ càng hiểm càng tốt, nhưng dùng binh đánh trận thì làm người ta phải đau đầu rồi. Dương Lăng nhìn những dãy núi trùng điệp liên miên không đứt, rừng rậm chỗ nào cũng thông reo cuồn cuộn như cột sống của thú lớn, cây hiếm đá thạch kỳ quái lởm chởm, dễ phòng thủ khó tấn công, cũng không khỏi âm thầm kinh hãi.

Mặt trời mới lên ở hướng đông, đỉnh Ngũ Lão chập chùng liên miên giống như đang ngủ trong mông lung, ngàn kênh vạn suối phơi bày ra nét đẹp lỳ lạ của nó giữa đất trời. Lưu Vân Độ là thung lũng nhỏ ở giữa hai ngọn núi, trong hẻm thung lũng có ẩn giấu bóng hình màu xanh đậm. Khói khí bồng bềnh làm tăng thêm mấy phần thần bí cho không khí yên ắng. Nhìn kỹ lại, mới nhìn ra đó là khói khí sương mù, bị ánh mặt trời khúc xạ, hơn nữa trong thung lũng âm u nên thành ra màu đó.

Cầu Tiên Nhân là một cây cầu treo bằng xích sắt trên Lưu Vân Độ, hai đầu đóng đinh thật sâu vững chắc vào trong nham thạch, những tấm ván được cố định trên xích sắt. Hai bên là lan can bảo hộ cao hơn người. Lan can bảo hộ hai bên trái phải dùng ba dây xích sắt cộng thêm tre gỗ bện thành, mắt lưới nhiều, hướng về hai bên, thân cầu hơi đung đưa, dường như không có gì che chắn treo ở giữa không trung. Nhát gan mà bám vào lan can cầu cũng không dám qua.

Quái thạch hai bên đầu cầu dựng đứng, muôn hình vạn trạng, mỗi khi mây mù bao phủ, lúc đi qua cầu như đi giữa sương mù, lâng lâng như tiên, cho nên cầu này được gọi là "cầu Tiên Nhân". Dưới cầu vách đá dựng đứng thông thiên, quái thạch sừng sững, mơ hồ có thể nghe được tiếng nước, nhưng lại không nhìn ra chỗ suối chảy, chỉ có đám rêu xanh trên vờ vực, mờ mờ ảo ảo mà ớn lạnh.

Cây cầu dài hẹp lắc lư, căn bản không thể dùng binh sĩ xung phong. Bốn phía lại không thể bố trí mai phục, có thể nói là một nơi đàm phán vô cùng an toàn. Ngũ Hán Siêu vì sự an toàn của Dương Lăng có thể nói đã tốn công tốn sức, tướng lĩnh của đối phương ai ai võ nghệ cao cường, mà võ nghệ của vị Quốc công gia này, tuy hắn luôn đắc chí, nhưng trong mắt của Tiểu Ngũ này chỉ là mèo ba chân, vẫn không ăn thua.

Trên người hắn mặc dù có hỏa khí, nếu bị đột kích ở gần, chung quy lại không nhanh bằng rút đao ra, cho nên Ngũ Hán Siêu liền nhanh chóng lên núi, sắp đặt ở trên cầu Tiên Nhân. Dùng xích sắt vắt lên nhau kết thành một tấm lưới ngang ở giữa cầu, chia cầu thành hai, phân tách người đàm phán của hai bên ra.

Từ trên cây cầu lắc lư này muốn trèo sang đây, bên này lại có cao thủ hộ tống đúng là tìm đến cái chết. Trên bờ rừng rậm rạp, nếu có ẩn nấp thích khách bắn tên cũng phải suy nghĩ đến, cho nên Ngũ Hán Siêu mặc áo giáp hộ thân cho Dương

Lăng, ngoài khoác mãng bào, bản thân mình và Giang Bân thì mang đao kiếm và khiên chắn, giấu nỏ trong tay áo, về mặt hộ vệ có thể nói là làm đến cực hạn rồi.

Bên bờ kia thị vệ san sát, bắt đầu có đoàn người hướng đến cầu Tiên Nhân, Dương Lăng phóng tầm mắt nhìn ra xa, trong đám người không có bóng dáng của Hồng Nương Tử, bất giác hắn thở phào nhẹ nhõm.

Dương Lăng hướng nhìn Ngũ Hán Siêu khẽ gật đầu. Bốn người Ngũ Hán Siêu, Hứa Thái, Giang Bân, Tống Tiểu Ái hộ tống hắn, cũng bắt đầu hướng về đầu cầu. Ở giữa cầu, cách tấm lưới sắt có hai chiếc ghế vịn, lẳng lặng đặt yên ở đó, nhịp nhàng đung đưa theo bề mặt cầu, xa xa Triệu Toại cùng với Phong Lôi, Lưu Nhập Thất, Lý Hoa, Triệu Cao từ từ đi lên đầu cầu.

Triệu Toại làm phản, tin tức truyền về kinh sư, Dương Lăng liền điều tra rõ y là Triệu tú tài mà hắn kết giao ở trấn Thắng Phương, tết Nguyên tiêu hai người còn gọi nhau là huynh đệ, cùng nhau thưởng thức hoa đăng, hôm nay gặp lại đã là kẻ địch cầm binh, Dương Lăng cảm khái không thôi, bước chân cũng trở nên chậm dãi.

Chỗ núi cao rừng sâu, Kim Nhãn Điêu lau mồ hôi, chặt bụi gai, nhét Khai Sơn Đao vào bên hông, sau đó nằm phục trên một khối đá kỳ dị nhô ra, hướng về phía cầu quan sát.

Núi cao rừng rậm, quản nhiên không dễ bị người khác phát hiện, nhưng cũng gây bất lợi cho bản thân, không phải đứng chỗ nào cũng có thể nhìn rõ ràng tình hình ở trên cầu Tiên Nhân, lại còn dễ dàng bắn tên. Kin Nhãn Điêu vốn là thợ săn trong núi, ánh mắt tinh tường, tất nhiên sẽ nhìn ra vị trí nào có thể nhìn thấy rõ ràng hết thảy cầu Tiên Nhân, lại dễ ẩn nấp không bị phát hiện.

Nơi y chọn là một chỗ quái thạch lởm chởm trên núi, cây cối cỏ dại đan xen ở giữa, từ trên nhìn xuống có thể nhìn không xót một cái gì, hơn nữa từ dưới nhìn lên chỉ có thể nhìn thấy một tảng đá, do vấn đề tầm mắt, đừng nói nằm sấp bên trên, cho dù ngồi lên trên, ở dưới cũng không dễ gì phát hiện ra. Kim Nhãn Điêu xuất thân trong giới thợ săn, giỏi nhất là ngụy trang, y mặc bộ quần áo màu sắc rực rỡ, nằm ở chỗ đó càng bị che khuất.

Vũ khí y sử dụng là Ngũ Thạch Cung. Ngũ Thạch Cung có thể xuyên đá xuyên tường, muốn bắn thủng tấm chắn cũng như bẻ gẫy cành khô, có thể sử dụng loại cường cung này thiên hạ không mấy người, đám người Triệu Toại cũng không biết y có công phu này, nhưng một lão tam tầm thường của sơn trại lại có được tuyệt kỹ kinh người như vậy.

Có điều cho dù y có thần lực trời sinh, Ngũ Thạch Cung này nhiều nhất cũng chỉ có thể bắn ra sáu tên, nhiều hơn cũng không có khí lực nữa. Kim Nhãn Điêu vốn không để ý đến điều này, với tài bắn cung cực kỳ chuẩn xác của y, đoán rằng một mũi tên là có thể xuyên qua Dương Lăng từ trên xuống, khiến cả người hắn dính lên trên cầu, quan binh ôm tấm chắn bằng sắt trong tay cũng giống như một khối đậu phủ đối với Ngũ Thạch Cung này, căn bản không có gì trở ngại.

Kim Nhãn Điêu lấy thiết bản chỉ đội lên, từ trong túi đựng tên lấy ra một mũi tên Điêu Linh Lang Nha, từ từ khoác lên dây cung. Giữa cầu Tiên Nhân cách một tấm lưới sắt có hai người đang ngồi, như đang đàm phán gì đó. Phía sau hai người có bốn người, đứng cách ghế khoảng năm sáu bước chân.

Ghế dựa đã cho y mục tiêu chỉ thị tốt nhất, ngồi ở đó, tự nhiên sẽ trở thành mục tiêu săn bắt của y, mũi tên lạnh lùng từ từ hướng về phía cầu, di chuyển đến chiếc ghế đối diện với tấm lưới, con người đó.

- Dương Lăng, ngươi ở trên cầu Tiên Nhân này thăng thiên thành tiên đi Kim Nhãn Điêu nở một tia cười lạnh lùng nơi khóe miệng.

Đối diện trên núi, Tiểu Sở cũng vào vị trí tấn công.

Toàn thân gã mặc quần áo màu xanh, lưng đeo đơn đao, khăn đen che kín mặt, bộ dạng của người đi trong đêm. Đây là một cây đại thụ, cây tách ra làm hai nhánh ở giữa không trung, nhánh dựa vào núi vẫn kín đáo, nhưng nhánh hướng về vách núi này lại thưa thớt hơn, cây này cũng không biết là cây cổ thụ bao nhiêu năm rồi, nhánh cây mọc ra giữa không trung cũng to đến kinh người.

Tiểu Sở ngồi vững trên một cành ngang rộng như ghế dựa, lấy cung từ trên vai

xuống. Đàm phán không chỉ vài lời nói là kết thúc nên gã không vội. Tiểu Sở giết người trước giờ đều rất có nhẫn nại.

Vũ khí gã dùng là tam thạch cung. Tam thạch cung là tiêu chuẩn trang bị trong quân đội, trên thực tế ngoài trừ số ít tinh anh trong những tay cung thủ chuyên nghiệp ra, phần lớn không ai dùng được tam thạch cung. Đại đa số người trong quân đội phía Bắc chỉ có thể sử dụng lưỡng thạch cung, còn vệ sở binh phía Nam, ví như loại cung mà khi Dương Lăng ở Tiền Đường kinh ngạc chứng kiến đám vệ sở binh biểu diễn thần công "cung tên bất nhập" cũng chỉ coi như chuyện cười mà thôi.

Tiểu Sở là cao thủ võ thuật, nhưng khí lực không phải là sở trường, cung tiễn là khi gã cùng nghĩa phụ đặc trách chỉnh quân ở Thiểm Tây mới đắt đầu học. Gã biết nghĩa phụ sau này sẽ giành thiên hạ, giành thiên hạ phải nhờ vào công phu trên ngựa, cung tiễn là vũ khí tất yếu dùng đến, võ thuật đánh ngắn thuộc sở trường của mình chỉ e sau này không dùng đến, từ đó gã bắt đầu khổ luyện thuật cưỡi ngựa, binh khí dài và cung tiễn, đến nay cũng được coi là một tay thần tiễn có tiếng trong vệ quân Thái Nguyên.

Ngồi vững trên đỉnh cây, bắn vào tấm bia không nhúc nhích, gã chắc chắn rằng một mũi tên bắn trúng hậu tâm của Dương Lăng. Nhưng gã nhất định phải chờ, Dương Lăng không thể cứ ngồi yên bất động ở đó, gã phải chờ đến khi Dương Lăng đứng dậy đi lại, khi hắn quay người mũi tên đột nhiên bắt đi, mũi tên như tia chớp, chờ khi hắn ngã xuống sẽ không ai biết mũi tên được bắn ra từ hướng nào.

Dương Lăng bỗng nhiên đứng dậy, Tiểu Sở mắt sáng lên, nhanh chóng lau tiễn, lên dây, quỳ bắn đúng tư thế.

Cung giương lên như trăng tròn, sát khí ngập tràn, mũi tên này sắp phải bắn đi.

Dương Lăng thản nhiên đi đến giữa cầu treo. Triệu Toại dẫn bốn mãnh tướng cũng đến đối diện, Dương Lăng mỉm cười chắp tay, nói

- Triệu đại ca, đã lâu không gặp

Triệu Toại hơi kinh ngạc, định thần nhìn hắn chăm chú, có chút quen mặt, nhưng chưa nghĩ ra mình quen biết Quốc công gia khi nào. Gã đáp một tiếng, chắp tay đáp lễ:

- Quốc công gia xưng hô như thế tại hạ không dám nhận Dương Lăng cười ha hả nói:

- Có gì mà không dám nhận, hội đèn Nguyên tiêu, huynh đệ chúng ta trò chuyện vui vẻ với nhau, lúc đó còn làm huynh tốn kém, mua bát bánh trôi cho tiểu đệ ăn đêm. Triệu huynh quý nhân nhiều việc, vậy mà lại quên mất sao?

- A! Người đó...người đó là ngươi ư. Triệu Toại kinh ngạc nói.

Dương Lăng cười dài hành lễ, nói:

- Đúng là tiểu đệ, từ biệt ở Thắng Phương, không ngờ hôm nay gặp lại lại là binh tặc gặp nhau trên đỉnh Ngũ Lão này, thế sự biến hóa khôn lường, khiến người ta nghẹt thở.

Triệu Toại đã định thần, cười lạnh một tiếng, nói:

- Hôm nay Quốc công gia đến không phải là muốn ôn lại chuyện cũ với ta đấy

chứ?

Dương Lăng thoải mái tự nhiên nói:

- Cố nhân gặp lại, ôn lại chuyện cũ trước cũng không sao. Ha ha, mời Triệu huynh ngồi.

Triệu Toại hừ nhạt một tiếng, quay người trở về vị trí. Dương Lăng cũng ngồi xuống phía đối diện, nhấc chân bắt chéo, gió cuồn cuộn, thổi áo bào tung bay, tứ trảo kim long trên áo bào như muốn xuyên mây bay lên. Dương Lăng nhìn xung quanh vui vẻ nói:

- Ở trấn Thắng Phương, chợ hoa như ban ngày. Hôm nay, trên cầu Tiên Nhân ở Lưu vân độ này cũng rất thú vị. Ta với Triệu huynh gặp nhau thật đúng là tình thơ ý họa.

Triệu Toại trên mặt hơi lộ ra vẻ mất kiên nhẫn, Phong Lôi, Lý Hoa, Lưu Nhập Thất càng lộ vẻ nghi ngờ, ánh mắt nhìn Triệu Toại mang theo chút khác thường.

Triệu Toại quay đầu lại, đột nhiên nhìn thấy, không khỏi rùng mình trong lòng:

- Phải chăng bọn họ nghi ngờ mình?

Nhân lúc này, Dương Lăng nhìn hai mặt đại kỳ ở đầu cầu đối diện, cao giọng

nói:

'Hổ bí tam thiên, Trực để Y Yến chi địa Long phi cửu ngũ

Trọng khai hỗn độn chi thiên'

Triệu huynh thật chí hướng lớn, bài thơ này là Thái tổ của triều đình ta dùng khi phản Nguyên khôi phục giang sơn người Hán, Triệu huynh muốn noi theo Thái tổ, làm khai quốc chi quân sao?

Đám người Phong Lôi nghe vậy càng kinh sợ, bọn họ đại đa số không biết chữ, mấy người biết chữ thì nào biết được câu đối này là Chu Nguyên Chương đã dùng qua, còn tưởng rằng Triệu tú tài nghĩ ra được, bọn họ đích thực rất bái phục tài văn thao võ lược của Triệu Toại. Nhưng nói làm hoàng đế, bọn họ vẫn hướng về Lưu Lục Lưu Thất, thảo nào mà Triệu Phong Tử đề nghị Hình Lão Hổ Giang Nam ra sức khước từ như vậy, chẳng lẽ gã lại có ý dụng ủng binh tự trọng?

Triệu Toại vừa tức vừa vội, gã tức giận nói:

- Nói láo! Đương kim triều đình bất công, chúng ta đúng là phải lật đổ hôn quân, đề bài thơ này chỉ là lên án Đại Minh nếu có ngày lừa dân tàn bạo như năm đó, chúng ta phải thay đổi lại càn khôn. Họ Dương kia, hôm nay ngươi đến đây chẳng lẽ chỉ vì lời lẽ khiêu khích, châm ngòi thị phi hay sao?Nếu như thế, ta xin thất lễ.

- Khoan đã, khoan đã, haha. Tiểu đệ chỉ đùa một chút, Triệu huynh đâu cần tức giận thế.

Dương Lăng tươi cười chân thành, Triệu Toại tức đến nỗi gân xanh nổi lên trên trán. Nếu cứ vậy quay đầu bỏ đi, không khỏi lộ vẻ chột dạ, nếu không đi lại sợ Dương Lăng nói ra những lời nào khác, thuộc hạ dưới tay mình nếu đều là người mưu trí thì không sao, nếu không những lời nói của Dương Lăng không khiến bọn họ đem lòng sinh nghi mới là lạ.

Triệu Toại cố nhịn, phủi tay áo, quắc mắt nói:

- Quốc công hôm nay đến là vì chiêu hàng sao? Dương Lăng cười cười nói:

- Đúng vậy. Nếu không ta đích thân đến nơi nguy hiểm này làm gì? Triệu Toại ngửa mặt lên cười to:

- Hahaha...Dương quốc công, lẽ nào ngươi không nhìn thấy sao, ta khởi nghĩa vũ trang, đến nay chưa tròn một năm đã quy tụ mấy vạn người, tại sao? Quan bức

dân phản, dân không thể không phản; tâm dân muốn phản, không phản thì phải chịu. Hành động này của ta chính là thiên đạo, chính là lòng người, nhìn thấy tiền đồ bừng sáng trước mắt. Ngươi đến chiêu hàng làm sao có thể thành công?

Dương Lăng bật cười nói:

- Tiền đồ tươi sáng? Ha ha, buồn cười! Thật sự buồn cười! Phong Lôi tiến tới một bước cả giận nói:

- Ngươi trẻ người non dạ, lão tử ta một quyền đánh cho ngươi mồm miệng đầy răng!

Tống Tiểu Ái mày liễu dựng lên, bước nhanh đến phía trước nói:

- To gan! Dám vô lễ với Quốc công gia như thế, nếu không phải cách tấm lưới này, bản cô nương ta một đao chém cái đầu chó của ngươi!

- Ấy ấy ấy, đừng thể hiện nữa. Cái lưới này không thể hủy đi đâu!

Dương Lăng đứng dậy cười khuyên giải, sau đó tiến về phía trước hai bước, trong lòng đã có dự tính mà nói:

- Triệu huynh, ta và huynh cũng xem là quen biết nhau, cho nên huynh có đại nạn đến đầu, tiểu đệ ta không dám thấy nguy mà không báo. Đệ dám chắc, các ngươi mà tạo phản, chưa đến một năm chắc chắn sẽ sụp đổ, tan thành mây khói. Bạch Y Phỉ, hưởng mã đạo, tất bại!

Triệu Toại cũng đứng bật dậy, đằng đằng tiến về phía trước ba bước, ngạo mạn

nói:

- Chúng ta tay cầm trọng binh, bách chiến bách thắng, không gì không đánh được. Quan binh hủ bại, chỉ có thể cậy vào nhân chúng bao vây chặn đánh, chỉ có thể dựa vào địa lợi, cố thủ theo hiểm trở. Ta tung hoành ngang dọc, hai lần qua kinh sư, không gì cản nổi, quan binh nghe tin đã sợ mất mật. Sụp đổ? Hahaha, quốc công gia phải chăng đang nói đùa?

Ở phía trên cao bên phải, Kim Nhãn Điêu đứng đằng sau quái thạch đang giương cung lắp tên nhắm bắn, từ từ thả lỏng. Mũi tên kéo căng lên như trăng tròn bắn ra, tên này mà bắn đi sẽ nhanh tựa tia chớp. Tuy gã nhìn thấy đằng sau Dương Lăng bỗng nhiên có một tiểu tướng đi qua, tiếp đến lại có một người đi qua kéo tới kéo lui với hắn, nhưng góc độ đứng của kẻ đó cũng không thể ngăn cản đường bắn, hơn nữa tên của ngũ thạch cung cho dù võ công kẻ đó có cao cường thì cũng chưa chắc đã kịp ngăn lại.

Không ngờ lúc này Triệu Toại cũng đứng lên, bước nhanh đến phía trước nói chuyện qua tấm lưới với hắn. Từ góc độ này của hắn nếu mũi tên phát ra có thể sẽ xuyên qua cổ của Triệu Toại trước, mới có khả năng bắn tới Dương Lăng. Tuy gã không biết chữ, nhưng từ việc điều hành chỉ huy hàng ngày cũng có thể nhìn ra, trên núi này các mãnh tướng chỉ biết đánh không biết thủ, việc điều binh khiển tướng vẫn phải dựa vào Triệu Toại, người này trên núi thực sự là quá quan trọng. Đại ca cũng giao phó không được đả thương y, làm sao mà bắn tên đây?

Cường cung của ngũ thạch cung cho dù có thần lực kinh người thì nhiều nhất cũng chỉ có thể bắn được sáu mũi, phải tổn hao tinh lực lắm rồi, mũi tên này phí sức rồi, gã phải thả lỏng dây ra, thư giãn một tý.

Phía sau đá chỉ có một khe hở có thể đứng thẳng được, bên cạnh có nhiều cỏ mọc ra, đằng sau là khe hở giữa núi và tảng đá lớn. Bên dưới sâu không lường được, gió núi thổi đến đây do bị tảng đá lớn chặn lại nên phát ra tiếng vọng dữ dội, gã không dám đứng lâu, lại nằm lên nham thạch, nhìn ra xa chờ cơ hội.

Kim Nhãn Điêu vừa mới nằm lên tảng đá, khóe mắt chợt lóe lên ánh sáng. Kim Nhãn Điêu không khỏi giật mình kinh hãi:

- Đây là ánh sáng phản quang của binh khí!

Y không chút nghĩ ngợi, lập tức nghiêng người sang bên cạnh, nằm trên mặt đá phơi nắng hầm hập, tim đập bình bịch. Bầu trời xanh thẳm một vùng, có mây trắng bay qua, nằm ngửa mặt như vậy mới nhìn thấy, quan người gió núi gào thét, thậm chí có chút cảm giác choáng váng.

- Ai vậy? Đối diện bên trong rừng có người ẩn nấp, chẳng lẽ là người của quan binh an bài? Không biết gã có phát hiện ra ta hay không. Nếu....không đúng! Phải chăng Dương Lăng nghị hòa chiêu an là giả, muốn ám sát nguyên soái của ta mới là thật?

Nghĩ đến đây, trong lòng Kim Nhãn Long lo lắng, lập tức nhẹ nhàng di chuyển vị trí, ngẩng đầu nhìn phía đối diện. Gã hàng năm đi săn bắn trong núi, tiễn thuật thần thông, nhãn lực đương nhiên cũng vô cùng tốt, có người khen gã săn bắn hồ thỏ trong rừng rậm cũng là bách phát bách trúng. Đó là loại nhãn lực như thế nào? Vừa rồi ánh sáng lóe lên gã đã nắm rõ vị trí.

Phía đối diện trên cây cổ thụ ngàn năm, Tiểu Sở cũng dùng sức hạ cung tiễn xuống. Tống Tiểu Ái chạy lên phía trước mắng người và Ngũ Hán Siêu vội vàng đuổi theo kéo tay nàng đã vô tình trở thành lá chắn, vừa khít đứng chắn ở trước mặt Dương Lăng. Tài bắn cung của y không xuất thần nhập hóa như Kim Nhãn Điêu, bóng người bất ngờ xuất hiện trước mặt Dương Lăng, mũi tên này của y đã không kịp thu lại.

Ám tiễn đả thương người tối kỵ nhất là làm bại lộ mình, nếu mũi tên này bắn trúng phó xe thì làm sao còn có cơ hội xuống tay? Tiểu Sở không kịp thu tên, đành phải hướng cung xuống phía dưới, mũi tên dời cung, hướng thẳng xuống phía dưới thâm cốc, trong chốc lát đã không thấy bóng dáng.

Tiểu Sở sợ toát mồ hôi lạnh, tay y vịn lên cây gỗ, tim đập thình thịch, một lúc lâu sau mới bình tĩnh trở lại.

Nơi này trước sau vẫn có cây cối mọc nghiêng ra đến trong cốc, xanh um tươi tốt che đi bóng dáng của y. Nhưng trên đỉnh nhánh cây tương đối thưa thớt, ánh mặt trời xuyên suốt xuống, ánh sáng sặc sỡ, vừa rồi y đột nhiên ấn tiễn nằm rạp người xuống, ánh sáng chiếu xuống từ giữa các lá cây chiếu chính diện vào mặt đơn đao trên lưng y, khúc xạ ánh sáng, lóe lên qua mắt Kim Nhãn Điêu, y lại hoàn toàn không biết.

Trên cầu, Dương đại quan nhân vẫn đắc chí nói:

- Cử binh khởi sự, quan trọng ở việc xem xét thời thế, khéo léo dẫn dắt, quan trọng ở việc biết người biết ta, tinh tường thuận nghịch, mà các ngươi, mọi thứ đều hành sự theo chiều nghịch, nói gì thành công?

Bốn tướng phía sau Triệu Toại đều chạy lại, bốn người đám Giang Bân thấy thế cũng vội vàng tiến lên phía trước nghênh đón, vây hai người ở chính giữa. Triệu Toại cười lạnh, khinh thường nói:

- Mời quốc công gia chỉ giáo. Dương Lăng vui vẻ cười nói:

- Ngươi gọi ta là quốc công gia? Xem ra còn biết chính thống thiên hạ ở nơi nào. Hổ bí tam thiên, trực để Y Yến chi địa; long phi cửu ngũ, trọng khai hỗn độn chi thiên. Nghe thì tráng lệ, nhưng các ngươi muốn thay thế nhà Minh, quân lâm thiên hạ lại không biết thời gian qua đi cảnh vật thay đổi, thế cục hiện nay và thời Mông Nguyên hoàn toàn khác nhau.

- Ta nói một chút về xem xét thời thế. Mông Nguyên là dị tộc, đối với thiên hạ người Hán thì bạc bẽo vô cùng, đem người trong thiên hạ chia thành bốn loại, người Hán trong mắt người Mông Cổ giống như nô lệ, cho nên bách tính chưa bao giờ quy thuận. Tới cuối thời nhà Nguyên, thiên hạ đã đổ nát cực kỳ, mất hết lòng người, triều chính khó có thể duy trì.

Vào lúc này tể tướng Mông Nguyên Bá Nhan lại đưa ra hôn chiêu, góp lời với hoàng đế Nguyên Thuận, để tiêu trừ thế lực nhà Hán, giết hết thiên hạ năm họ lớn Trương, Vương, Lý, Triệu, Lưu. Năm dòng họ lớn lúc đấy chiếm một phần tư thiên hạ người Hán, những người này lại có bạn bè chí cốt, hành động này không khác nào tàn sát hết tất cả người Hán.

Các lộ hào kiệt lúc này lòng người bàng hoàng hết sức, đều khởi binh chống quân Nguyên, hoàn toàn thuận theo lòng dân, cho nên chưa đến mấy năm, tựa như bẻ gãy cành khô, dễ dàng lấy được thiện hạ, kết quả như thế vừa do con người tạo ra, cũng là ý trời.

- Nhưng hiện nay thì sao? Đại Minh lập quốc hơn trăm năm, căn cơ vững chắc, tiên đế Hoằng Trị cũng là vị quân vương sáng suốt hiếm có. Trong 18 năm tại vị, chọn hiền tài đảm nhiệm, cần chính yêu dân, càng là theo lòng dân. Đương kim hoàng đến sau khi kế vị, tuy tuổi trẻ ham chơi, đã từng để gian nịnh gây loạn triều cương, nhưng gian nịnh cũng chỉ hai năm là đã bị thanh trừ. Đại Minh quốc gia vận mệnh chưa suy, hiện tại hoàng đế chăm lo việc nước, cải cách triều chính.

- Giảm miễn tiền lương thuế ở Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Đông, các người biết không? Thanh lý thôn tính thổ địa, cai trị anh minh, cải cách quân chế, di dân Liêu Đông, mở biển thông thương, khuyến khích nông canh, có việc nào không phải là việc tốt lợi quốc lợi dân? Những biện pháp này, một khi phát đi, bách tính có hi vọng, ai còn theo các ngươi tạo phản?

- Các ngươi hiện tại mặc dù quy tụ mấy vạn binh mã, nhưng sau này khó mở rộng quy mô, binh sĩ càng ngày càng ít, không tin sao? Ngươi xem Lưu Lục, Dương Hổ, vốn quy tụ được mấy vạn binh sỹ trong vòng mấy tháng, đến nay chu du Giang Nam, nơi chốn vấp phải trắc trở, còn lại bao nhiêu dân chúng hưởng ứng nữa? Các ngươi ếch ngồi đáy giếng, không biết thế gian biến hóa, vẫn còn ngồi đây tự cao tự đại!

Triệu Hạo, Lý Hoa nghe thấy mặt như màu đất. Phong Lôi, Lưu Nhập Thất tức giận bất bình. Hai tay Triệu Toại hơi run rẩy, những lời Dương Lăng nói, câu nào cũng giống như đao kiếm, cứa vào tim y. Y không phải là không suy nghĩ đến việc

tiếp nhận chiêu an, dù sao giành giang sơn nắm chính quyền cũng chỉ là một giấc mơ từ sau khi y bị ép buộc làm thổ phỉ. Bây giờ, cùng với phản ứng rất nhanh của triều đình, cái ý nghĩ này đã dần dần phai nhạt.

Ban đầu triều đình chỉ muốn tiêu diệt thổ phỉ, càng tiêu diệt, bách tính càng gánh nặng, gánh nặng tăng lên người đầu quân cho thổ phỉ càng nhiều, cho nên Lưu Lục, Triệu Toại bọn họ căn bản không sợ quan binh tiêu diệt, thiên hạ sẽ đại loạn, nỗi oán ghét và thất vọng với triều đình càng ngày càng lớn, không những làm khổ dân chúng, thậm chí một số sỹ tử cũng đầu quân dưới trướng bọn họ.

Nhưng sau khi Dương Lăng rời núi, một trận đánh lớn đã khiến Dương Hổ quân tan rã, đuổi gã ra khỏi Sơn Đông nơi mà triều chính thối rữa, bất kỳ lúc nào cũng có thể chiêu mộ được binh mã, liền sau đó hắn tổng chỉ huy tiêu diệt thổ phỉ, xoay mình biến hoá trở thành lý chính đại thần. Trở về triều đình tiến hành cải cách, trước đuổi thổ phỉ, sau chỉnh đốn gia viên, nhân cơ hội dọn sạch đám trầm tích ảnh hưởng triều đình.

Tình cảnh này quả thực giống Bạch Y quân phía trước khai hoang, triều đình phía sau gieo giống, không những bách tính có hi vọng, cho dù những vệ sở binh không muốn đánh trận nhất khi nghe triều đình hai năm nữa sau khi thiên hạ thái bình chuẩn bị "chế độ mộ lính", bản thân không muốn đời đời kiếp kiếp làm lính, đánh trận cũng có tinh thần, cứ theo đà này, hi vọng trước đây đúng thật là rất khó thực hiện.

Nhưng...tự mình có thể làm chủ của thuộc hạ được không?

Trừ phi hạ quyết tâm hại chết mấy tên chủ tướng như Hình Lão Hổ Phong Lôi, Lưu Nhập Thất, nhưng Triệu Toại ta làm sao có thể làm ra những chuyện bất nghĩa thế được?

Triệu Phong Tử cảm xúc mênh mông. Sau một hồi lâu, hít một hơi dài, trầm lặng nói:

- Đúng là giỏi mồm mép, ngươi tiếp tục nói, chúng ta như thế nào là không biết mình biết ta?

Hồng Nương Tử ở trong phòng vui đùa với đứa nhỏ. Khí Cừu từ sau khi uống thuốc do nàng hao tâm tổn sức làm ra đã hoàn toàn bình phục. Có bí phương luyện võ gia truyền của Thôi gia bồi dưỡng nguyên khí, thằng bé đã trở nên chắc khoẻ.

Mùa đông năm ngoái, ở Đại Đồng trời đưa đất đẩy làm sao mà đã sinh ra nghiệt duyên với Dương Lăng. Không ai ngờ tới thành thân với Dương Hổ lâu như vậy, trước giờ chưa từng có thai, chỉ qua một đêm xuân phong, không ngờ âm thầm kết trái lại có thai.

Nàng lợi dụng cơ hội trở mặt với Dương Hổ, sống một mình ở trại cũ của Thôi gia ở sau núi, sau khi đến đó thân mình mang thai đã dần dần không giấu được nữa, mượn cớ xuống núi giải khuây, len lén trốn đi, cho đến khi sinh con xong mới quay về núi, chỉ là đáng thương cho đứa bé, chỉ có thể nói trên đường nhặt được đứa trẻ bị vứt bỏ để tránh tai mắt người đời, Thôi Oanh Nhi lần đầu làm mẹ, mỗi lần nhìn thấy con mình đều không khỏi thấy áy náy.

Hiện giờ đưa trẻ đã bảy tháng tuổi, mắt nhìn thấy cốt nhục của mình càng lớn càng đáng yêu, trong lòng nàng tràn đầy tình yêu và sự thoả mãn của một người mẹ. Không biết có phải là tác dụng của tâm lý không, nàng luôn nhận thấy con mình càng lớn càng giống cha của nó, Dương Lăng-cái người mà khiến nàng thương nhớ, vừa yêu vừa hận.

Khẽ vuốt vuốt khuôn mặt non nớt của Dương Khí Cừu, Thôi Oanh Nhi thở dài:

- Mẹ cả ngày chém chém giết giết, đúng là vất vả cho con rồi. Ôi!..người cha đáng hận của con...

Thôi Oanh Nhi buồn bã im lặng, không nói thêm gì nữa. Với tính cách kiên

cường cao ngạo của nàng, cho dù là yêu Dương Lăng đi nữa, với thân phận hổ thẹn là vợ người khác cũng không tự làm mất mặt đến cầu xin tình cảm, tình nguyện làm vợ người khác. Tất cả đều là vì đứa trẻ nàng mới nhẫn nhục đi tìm Dương Lăng, mong hắn có thể giúp mình báo thù giết cha, mượn cớ đó thể lưu lại bên cạnh hắn.

Đáng hận thay, con người đó công tư phân minh như vậy. Rõ ràng là một người tham quyền lợi, hắn lại nói một phen đạo lý, chính là không chịu giúp đỡ. Nếu là từ nay không được gặp hắn thì đã đành, đằng này bản thân đến Sơn Đông, hắn liền đến Sơn Đông diệt thổ phỉ, bản thân đến Sơn Tây, hắn lại giết đến Sơn Tây, đúng là không chịu để cho nàng yên tĩnh. Nhưng Hồng Nương Tử lại làm sao lừa dối mình quên được người đàn ông khiến nàng suốt đời khó quên này?

- Ngoại trừ hai huynh đệ Triệu tú tài ra, trong sơn trại không có ai muốn tiếp nhận chiêu an, lần nghị hoà này của Dương Lăng nhất định sẽ không thành công. Hình đại ca muốn xuống Giang Nam, y là chủ soái, Triệu tú tài không thể kháng lại ý của người. Xem ra từ sau ngày hôm nay, đại quân sẽ phải chuẩn bị đi Giang Nam sao?...Nhưng hi vọng...hắn sẽ không đuổi đến, triều đình nhiều quan như thế, sao hắn cứ xuất hiện thế?

Thôi Oanh Nhi vừa nghĩ, không khỏi chợt có chút lo sợ. Nghĩ là mong hắn đừng có đuổi đến nữa, nhưng ở sâu trong nội tâm thì nghĩ từ này về sau núi cao nước xa không được gặp lại hắn, trong lòng lại thấy trống trải, có một cảm giác không nắm bắt được.

Tuy rằng không thể ở bên nhau mãi, nhưng lúc nào cũng biết nhất cử nhất động của hắn như vậy, biết hắn đang gần trong gang tấc, trong lòng yên tâm hơn nhiều, nếu thực sự từ giờ về sau xa ngút ngàn dặm...Thôi Oanh Nhi phun ra một ngụm, bị sự mắc cỡ của chính mình làm đỏ mặt.

Đứa bé tỉnh ngủ rồi, mở đôi mắt đen như điểm sơn, ngoan ngoãn nhìn nàng. Mẹ tuy mặc trang phục nam nhân, nhưng trong mắt đứa trẻ không biết thế sự này, không biết là có cái gì kỳ quái, cho dù đang mắt nhắm mắt mở, ngửi thấy mùi lạ của nàng. Nó cũng hiểu được đó là mẹ ruột của nó sẽ lập tức bình tĩnh trở lại.

Nhìn vẻ mặt đứa trẻ ngây thơ hồn nhiên, trên mặt Thôi Oanh Nhi lộ ra nụ cười

ngọt ngào, lông mày cong môi vểnh, cười như một dòng nước:

"Có con là đã mãn nguyện. Bản thân mình lãnh binh tạo phản, xông pha gây ra đại hoạ, cho dù hắn thân là quốc công, cũng không thể còn có biện pháp tự mình giải thoát? Chỉ cần giết Chu Đức An, báo thù cho cha và những người thân chết thảm trong trại, ta sẽ mang theo con ẩn cư chân trời, nuôi dưỡng nó thành người, Dương Lăng...chúng ta kiếp này vô duyên."

Cười mà lòng có chút chua xót, nước mắt trong suốt chậm rãi tràn ra khoé mắt, đứa bé vẫn không rõ sự tình, nó chỉ có thể nói "bi bô", xoè hai bàn tay ra, hi vọng mẹ có thể ôm nó.

Đúng lúc này, Tam Thẩm vén một bên rèm bước đến, nói lầm bầm:

- Hình như bệnh của Hình Lão Đại càng ngày càng nặng rồi, ôi, cả ngày hành quân đánh trận, cũng không có thời gian điều trị, thật đúng là phiền toái.

Thôi Oanh Nhi vội vàng ôm lấy đứa con, lấy tã của nó lau nước mắt của mình.

Nhìn từ phía sau giống như nàng đang ôm hôn đứa con.

Tam Thẩm cười ha hả:

- Đứa bé càng lớn càng đáng yêu chứ? Đứa trẻ này, tuấn tú đấy, khiến người khác yêu mến. Thẩm thẩm cũng yêu thích nó lắm. Tam thúc của cô cứ muốn hôn nó, bị ta đạp cho mấy đá không dám nữa rồi, cái mi mắt kia thảm lắm, miệng đầy râu mép, con nhỏ da thịt mềm làm sao chịu nổi? Mà cái lão ấy còn không vui đâu.

Thôi Oanh Nhi cũng cười rộ lên, nàng thuận thế đem con giao cho Tam thẩm,

nói:

- Thẩm à, người trông cháu trước, con ra ngoài một lát. Tam thẩm nghi hoặc nói:

- Đi đâu đấy? Hôm nay nghỉ binh nghị hoà, quan binh đã lui khỏi núi rồi, thám mã mười mấy đường, còn sợ có người cướp?

Thôi Oanh Nhi thắt khăn eo thật chặt, thuận tay đeo đoản kiếm lên, nói:

- Ồ...không phải, con đi xem Hình Lão Đại.

Thôi Oanh Nhi ra khỏi nhà cỏ, đón lấy mặt trời đỏ hoa lệ hít một hơi dài, rảo chân đi về phía trước núi, nghiệt duyên của hai người, vốn là xấu hổ, nay lại gây thành quan và thổ phỉ, chưa nói chuyện ở bên nhau, cho dù gặp mặt cũng khó hơn lên trời. Hôm nay hắn đi Lưu Vân Độ cùng Triệu tú tài nghị hoà, lén đi nhìn hắn một cái...có lẽ cả đời này đây là lần cuối cùng gặp hắn.

Kim Nhãn Điêu lặng lẽ thò đầu ra từ phía sau nham thạch, chỉ nhìn thấy đối diện xanh um tươi tốt, một vùng xanh đậm, lắm cành nhiều lá, gió thổi cây đung đưa, giống như sóng xanh đồng thời không có chỗ nào bất thường.

- Chẳng lẽ do mắt mình nhìn nhầm sao?

Kim Nhãn Điêu âm thầm nghi hoặc, thị lực của gã kinh người. Người này dù nổi tiếng bởi thần lực và tài bắn cung, nhưng biệt danh lại gọi là Kim Nhãn Điêu, do đó có thể nhìn ra điểm mạnh nhãn lực của gã, vào lúc cảnh giác cao độ này, làm sao có thể sơ suất nhìn nhầm được?

Kim Nhãn Điêu quay đầu nhìn một cái, nhìn trên cầu hai bên đang chen vào một chỗ đang bàn chuyện hăng say, không có một chút cơ hội để xuống tay, liền kiên nhẫn, chuyển sang tìm kiếm ở bên trong rừng phía đối diện, đặc biệt chú ý quan sát nơi vừa rồi loé sáng. Đột nhiên, lại một trận gió đến, lay động cành bụi rậm, Kim Nhãn Điêu ánh mắt sáng lên, đã có phát hiện rồi.

Tiểu Sở mặc bộ y phục đi đêm, nếu gã mặc quần áo màu sắc sặc sỡ như Kim Nhãn Điêu, mượn rừng cây yểm hộ, Kim Nhãn Điêu chưa chắc đã phát hiện ra, nhưng bây giờ gã phục trên tàng cây không có động tĩnh gì, Kim Nhãn Điêu vẫn chú ý tới nơi này có gì bất thường, gã chăm chú nhìn nơi đó, cây cối lắc lư, bóng dáng khả nghi của Tiểu Sở ở trên cây cũng lúc ẩn lúc hiện.

Làm lại một trận gió đến, khi nhánh cây lay động vừa đúng lúc Tiểu Sở chuyển mình một cái, mặt của Kim Nhãn Điêu lập tức lộ ra nụ cười đầy sát khí:

- Nơi đó quả nhiên có người. Xem ra quan binh là muốn ám sát Triệu nguyên soái.

Y không biết hai bên đàm phán trên cầu Tiên Nhân bao giờ mới quay về vị trí ngồi xuống, thích khách của đối phương bất cứ lúc nào cũng có thể phóng tên ám sát Triệu nguyên soái, lúc này không thể chờ được nữa, y lập tức lấy một mũi tên ra, âm thầm hướng về phía bên phải một chút. Tảng đá lớn nhô ra này không phải bằng phẳng gì, nghiêng về một bên, cao hơn một đầu của cầu, như thế di chuyển một hướng, quỳ trên đá giương cung lắp tên cũng không sợ bên kia có người phát hiện.

"Ti ta ta", dây cung rung lên, Kim Nhãn Điêu nheo mắt, giống như một mãnh cầm đi săn, lẳng lặng chờ đợi cơ hội tốt nhất.

Lại một trận gió thổi qua...

Cành lắc lư, người xuất hiện, ào ào một mũi tên!

Tên bắt đi, Kim Nhãn Điêu liền quay người trên tảng đá, chửi thầm một tiếng.

Y lập tức xoay tay lại rút ra một mũi tên nữa, lắp lên dây cung, nhanh chóng nhìn vị trí mục tiêu, nín thở định thần, không nhúc nhích. Nhìn từ xa, tựa như trên đá có đúc một người sắt vậy, màu sắc rực rỡ như bị gỉ đục khoét nhưng mặc kệ gió thổi mưa rơi, sừng sững bất động.

Mũi tên này trước khi rời cung, y nhìn thấy người mặc áo xanh ở phía đối diện di chuyển sang bên cạnh một chút, từ động tác mà nói, chắc là hành động vô thức,

có thể là nhìn bóng người trên cầu, di chuyển vị trí thích hợp để tìm vị trí bắn tên, nhưng thời cơ này rất đúng lúc, Kim Nhãn Điêu theo kinh nghiệm liền lập tức biết mũi tên này bắn vô ích rồi.

Mũi tên bắn vào cây, ngoại trừ đối phương là kẻ điếc, nếu không tuyệt đối không có khả năng không phát hiện ra. Kim Nhãn Điêu căng thẳng chăm chú, chờ đội đối phương có phản ứng. Bất luận đối phương phản kích, né tránh đều đừng hòng tránh khỏi mũi tên thứ hai. Vừa rồi là trùng hợp trước khi mũi tên bắn ra di dời khỏi vị trí ban đầu, nhưng lúc này kẻ kia đã không kịp làm gì để ứng biến.

Cung của ngũ thạch, tiễn phá dây cung mà bắn ra. Nhãn lực khó lường, tốc độ nhanh hơn tia chớp, chính là ở trên đất bằng cũng khó tránh né được, huống chi là trên tàng cây?

Vả lại là y có chuẩn bị tâm lý, có thể dự đoán phương hướng hành động của đối phương?

Cây kia cao tới 15~16 trượng, muốn nhảy xuống tất phải chết hoặc là tàn phế.

Mũi tên thứ hai này, gã chết chắc rồi!

"Rào!", "leng keng" gió thổi bên tai, lực gió chà xát cổ nóng bỏng, Tiểu Sở còn chưa phục hồi tinh thần lại, một âm thanh "Ong ong" truyền đến, khiến gã hoảng sợ, còn tưởng rằng không cẩn thận đụng phải tổ ong vò vẽ. Quay đầu nhìn lại, Tiểu Sở lập tức bị dọa đứng người, một mũi tên nhọn đâm vào cây hơn thước, thân tên thô thô mà to như ngón cái, rung động gấp gáp, vung ra một quang ảnh hình quạt, đây là mũi tên nhọn đáng sợ đến mức nào.

Tiểu Sở cứng lại, gã nắm chặt cung, mồ hôi thấm ướt lòng bàn tay, thân mình cứng ngắc vẫn không nhúc nhích. Qua hồi lâu, gã mới chậm rãi ngẩng đầu nhìn theo hướng đuôi tên chỉ, khi ngẩng đầu dường như khớp xương cổ đều bị mắc kẹt kêu thành tiếng. Góc độ này, đầu cành vừa hay có một lùm lá cây che đi tầm mắt của gã, có thể nhìn thấy tảng nham thạch đối diện, cũng đoán chừng đã có người bắn tên từ nơi ấy, nhưng không cách nào thấy rõ vị trí người đó.

Tài bắn cung như vậy, cường cung như vậy, thật là đáng sợ. Có lẽ đối diện đánh

giáp lá cà, người này không phải đối thủ của gã, nhưng đối bắn cung tiễn như thế này, tự mình có thể có bao nhiêu phần chắc chắn?

Là chiến! Hay là đi?

Tiễn từ đối diện phóng tới... Chẳng lẽ là Triệu Toại bố binh mai phục, chuẩn bị ám sát Dương Lăng? Nếu như là như vậy, bằng công phu thần xạ thủ này, Dương Lăng hôm nay mười phần chín phần chạy không thoát, đỡ phải tự mình động thủ.

Nhưng bây giờ đối phương rất rõ ràng coi gã là người của Dương Lăng phái tới ám sát người của Triệu Toại, lặng lẽ chuồn đi như vậy sao? Giáo quy nghiêm khắc, bản thân nhận lệnh mà đến, nếu chẳng may đối phương lỡ tay, mình lại một mũi tên chưa bắn, giáo chủ sẽ bỏ qua cho mình sao?

Phải làm sao bây giờ? ứng phó với cái người đáng sợ này như thế nào đây, không thể giải thích ý đồ thật của mình? Giết thần tiễn thủ có uy hiếp sinh mạng đối với mình sau đó tự mình hoàn thành nhiệm vụ ám sát Dương Lăng, tự mình có thể làm được sao?

Từng giọt mồ hôi lớn như viên trân châu chảy xuống từ trán Tiểu Sở... Là chiến...hay là đi...

- Ta nói ngươi không biết mình, là bởi vì trên đỉnh núi của các ngươi đông người, phe phái nhiều, căn bản không thể thống nhất hiệu lệnh, trên dưới một lòng.

Trong rừng rậm đang tiến hành một cuộc so tài bắn cung ám tiễn, trên cầu Tiên Nhân Dương Lăng cũng đang lấy lời lẽ làm đao kiếm, đánh vào tâm lý.

- Lưu Lục, Dương Hổ, Lý Hoa, Hồng Nương Tử. Còn ngươi nữa Triệu huynh, tự dẫn đội ngũ, chiếm các đỉnh núi, tự lập cờ hiệu, các ngươi thật sự hiểu làm được không tranh quyền đoạt lợi, cùng chung mối thù sao? Cho dù các ngươi chịu, ngươi một mình khuất phục dưới người khác, thủ hạ của ngươi toàn bộ phải khuất phục dưới người khác, những người đến góp sức cho các người, bọn họ đồng ý sao?

Dương Lăng hai tay sau lưng, cười lạnh nói:

- Lực lượng tập hợp do khốn cảnh tạm thời, Nói gì lâu dài? Chỉ cần các ngươi có chút đắc thế, liền nảy sinh lòng tranh quyền đoạt lợi, khi khổ chiến bảo tồn thực lực của mình; khi có lợi ích, đảm bảo mình được lợi; những chuyện này các ngươi không tránh khỏi, tất nhiên dẫn đến toàn bộ đội ngũ lòng người chia rẽ, khinh nghĩa trọng oán, khó ra hồn.

- Ta nhổ vào! Các ngươi người trong triều đình biết cái gì là nghĩa khí giang hồ? Huynh đệ chúng ta trên dưới một lòng, lý nào lại như thế? Tề đại ca vào tù chịu đủ khổ hình, nhất mực không chịu tiết lộ một chút bí mật nào của chúng ta; Trương Mậu đại ca nghĩa khí ngất trời, là hảo hán số một của Bá Châu. Tên quan chó nhà ngươi, không cần lấy lòng tiểu nhân, đo bụng quân tử!

Phong Lôi tức giận mắng, hung hăng trừng mắt nhìn Giang Bân. Ánh mắt kia như đao, nếu không phải cách một tấm lưới sắt, thì đã xông qua cùng hắn quyết chiến một trận rồi.

Giang Bân nhún nhún vai không có vấn đề gì, rũ mặt nói:

- Nhìn ta làm chi? Từ xưa trung nghĩa không thể lưỡng toàn. Ta là quan tướng triều đình, nên lấy giang sơn Đại Minh làm trọng?

Lưu Nhập Thất khinh miệt gắt một cái, mắng:

- "Phì! Đồ chó cũng không ăn, ngươi là quan, chúng ta là phỉ, chúng ta sạch sẽ gấp một vạn lần so với ngươi!

- Ngươi nằm mơ đi, giữa huynh đệ với nhau nói nghĩa khí đã cảm thấy tự mình rất giỏi rồi hả? Các ngươi công thành cướp trại, đốt giết đánh cướp, cưỡng hiếp phụ nữ. Không có điều ác nào không làm, nói là thay trời hành đạo, bị các ngươi đốt giết, không biết bao nhiêu khổ, gia đình hạnh phúc cũng không còn, người cũng đã chết, ta nhập mẹ ruột ngươi, các ngươi công kích Bá Châu, đem vợ nhỏ của ta đi đâu rồi?

- Súc sinh các người đáng giết nghìn đao. Một tiểu mỹ nhân yểu điệu như vậy, các ngươi cũng nỡ giết? Đám khốn khiếp các ngươi trời không thu đất không dung,

thần ghét quỷ ghét, tội ác chồng chất, chết chưa hết tội, chém thành trăm ngàn mảnh, đầu óc ngu muội vô tri, kỹ nữ nuôi dưỡng!

Giang Bân nhảy chân mắng to, càng mắng càng phẫn nộ. Lưu Nhập Thất bị y mắng cho tức giận trong lòng, rút đao ra, lớn tiếng quát:

- Có gan ngươi lại đây, lão tử ta một đao chém ngươi!

Giang Bân cũng không hàm hồ, hai thanh Trảm Mã Đao keng một tiếng giữ trong bàn tay, cười lạnh liên tục mà nói:

- Chỉ bằng ngươi? Lăn lại đây, lão tử một cước đá ngươi xuống cốc làm tên ngốc!

Dương Lăng và Triệu Toại tất cả đồng thanh địa quát:

- Im miệng cho ta!

Hai người vẫn không chịu phục, một bên thu đao lui về phía sau, một bên hung hăng trừng mắt nhìn đối phương.

Dương Lăng nói:

- Triệu huynh mưu lược hơn người, là một viên mãnh tướng, đáng tiếc, ngươi chỉ có một chi hưởng mã đạo, khó có thể chỉ huy các bộ phận, bọn hưởng mã đạo một khi lớn mạnh, để sáp nhập các phái thế lực, lật quân giết tuớng là không thể tránh được. Trương Mậu? Trương Mậu chẳng qua chỉ là Tiều Thiên Vương trên Thủy Bạc Lương Sơn thôi, như vậy ai mới là Tống Công Minh giả nhân giả nghĩa, bán bạn cầu vinh đây?

Dương Lăng nhìn Phong Lôi liếc mắt một cái, cười nói:

- Ngươi là một viên mãnh tướng, nhưng ngươi chỉ hiểu đánh đánh giết giết, tranh đấu giành thiên hạ cho ngươi một mình làm anh hùng cũng làm không được. Uống máu ăn thề, nâng nghĩa đàn đám, từ xưa tạo phản ai là không phải như vậy mà nên? Nhưng một khi thành thế? Đã hợp vì lợi, ắt vì lợi mà phân. Những người từ dân thường lên làm hoàng đế, có ai không trăm phương nghìn kế tìm kiếm tội danh, có mới nới cũ, được chim quên ná, đặng cá quên nơm, tại vì sao?

- Nguyên nhân chính là những huynh đệ kết nghĩa uống máu ăn các ngươi hiểu nhất lai lịch của cái người trở thành Hoàng đế kia, biết hắn không là cái gì mà chân long thiên tử, hắn cũng chẳng qua là xuất thân từ một lớp người quê mùa, các ngươi đối với hắn là trở thành huynh đệ tốt, chứ không phải trở thành một chủ tử được kính sợ....

Dương Lăng nói đến đây đột nhiên cảm giác không ổn, như thế nào lại quên mất Thái tổ bổn triều cũng là xuất thân bình dân? Mặc dù nói đối phương là kẻ tặc, bốn viên võ tướng bên người cũng không sợ, nhưng loại chuyện này vẫn ít nói thì hơn, cho nên lập tức lại vòng sang chuyện khác.

Hắn vốn muốn nói, lấy các vương hầu đại hào cát cứ các nơi khởi binh, ngay từ đầu danh vọng và thế lực của mình cũng đã rất lớn, đầu quân cho người đó vốn đã đối đãi như chủ công, một khi được nước, chỉ là làm từng bước, phong vương phong hầu, người làm Hoàng đế sẽ không cảm thấy có uy hiếp, tự nhiên cũng sẽ không thực thi đồ sát.

Mà người bình dân làm đế vương, lại có ý chí như vậy đấy, bởi vì bọn họ đi đúng theo đám người Lưu Lục bây giờ đang đi, xưng hô huynh đệ lẫn nhau, hoàn toàn dựa vào nghĩa khí và tình cảm huynh đệ duy trì loại quan hệ tổ chức này, mỗi người đều có thế lực khá độc lập, mà khuyết là một đại thủ lĩnh có đầy đủ sự khâm phục.

Như vậy, khi người đó làm Hoàng đế, uy hiếp lớn nhất sẽ đến từ huynh đệ ngày xưa này, những người còn chưa rõ mà chuyển hóa thân phận mình và Hoàng đế từ huynh đệ thành quân thần phụ tử, hơn nữa lại là người tay trong cầm trọng binh.

Bình thường lúc này người mới chiếm giang sơn làm Hoàng đế, tuổi cũng cũng

không trẻ nữa rồi, không có thời gian khiến kiêu binh mãnh tướng thích ứng với thân phận mới của bọn họ, thành lập trật tự mới của riêng mình. Vì củng cố giang sơn, vì hậu thế, hoàng đế có thể áp dụng biện pháp tốt nhất, chính là giết công thần.

Cái vòng lẩn quẩn này, cũng là biện pháp của việc không có cách nào. Ai có thể cam đoan những công thần chết uổng mạng này thực sự chưa từng có dã tâm muốn làm hoàng đế? Nước có thiếu chủ, mà đại tướng cầm binh là khai quốc người có công lớn, ví dụ kết quả bị thay thế, từ xưa đến nay quá nhiều rồi....

Công thành vi hạ, công tâm vi thượng (Đánh vào thành trì chỉ là kế dở, đánh vào lòng người mới là kế hay), Dương Lăng tin tưởng lấy sử làm gương, những hiện thực đẫm máu này có thể làm động lòng những con người này, mở ra trong lòng bọn họ những vết nứt. Rủ rỉ nói tới những chuyện này, chẳng những khiến ba huynh đệ Triệu Toại thông hiểu văn sử sinh lòng cảnh giới, từ nay về sau không còn hoàn toàn tín nhiệm đối với đám người Lưu Lục, Dương Hổ nữa. Dù là mấy đại tướng thiếu đầu óc như Phong Lôi trung thành một cách mù quáng cũng phải tính toán, hiện giờ đành phải lấy lí do khác thoái thác. Có điều tuy rằng thu lại lời nói kịp lúc, nhưng xem bộ dạng kia, ba huynh đệ Triệu thị, hiển nhiên đã nghe hiểu rồi, mục đích cũng coi như đã đạt thành một nửa

Dương Lăng thở dài nói:

- Vài vị an tâm một chút chớ vội, Dương mỗ này đến thành tâm chiêu an. Phân tích lợi hại, cũng là hy vọng các ngươi có thể suy nghĩ thật tốt, nếu như có thể hoà hợp êm thấm, đó là tốt nhất. Nếu các ngươi vẫn đang quyết định gặp nhau bằng binh đao, nói đã nói tận, chúng ta cũng không thấy uổng trong lòng. Lại nói biết người...

Trên cầu lời lẽ đanh thép, trong rừng ngấm ngầm cuộc chiến bắn tên. Trên cầu giằng co, Tiểu Sở và Kim Nhãn Điêu trong rừng cũng giằng co. Kim Nhãn Điêu là một thợ săn có kiên nhẫn. So với sự kiên nhẫn giết người của Tiểu Sở thì y còn kiên nhẫn hơn, mặt trời rực rỡ xuống, gã lẳng lặng quỳ một gối xuống ở trên tảng đá, híp mắt không nhúc nhích.

Y từng ở trong mùa đông tuyết lớn, ở dưới một thân cây nâng tiễn kiên nhẫn

chờ gần hai canh giờ, đợi cho con Tuyết Hồ giảo hoạt kia xuất hiện, một mũi tên bắn xuyên hai lỗ tai nó, giữ nguyên vẹn bộ Tuyết hồ da, bán được giá cao. Hiện tại, y chính là coi Tiểu Sở đối diện trên cây kia giống như Tuyết Hồ giảo hoạt, hắn đang lẳng lặng chờ đợi săn thức ăn.

Có lẽ y chỉ là một nhân vật hèn mọn. Nhưng mũi tên trên tay, lại cách một khoảng không thể vượt qua lạch trời, y sẽ không sợ bất kỳ một cao thủ nào, bất cứ người nào, trong lĩnh vực đắc ý của y, cũng có thể cười ngạo nghễ, ta tự xưng hùng. Tiểu Sở mặc dù ở bóng cây che đậy, nhưng lại thấy hồi hộp hơn so với đối phương, kinh nghiệm săn bắn và kiên nhẫn của gã kém quá xa so với đối phương.

Trên tay không ngừng toát mồ hôi, gã rốt cục quyết định sáng suốt rời khỏi trận.

Chân chậm rãi hướng về phía sau, từng tấc một di chuyển, hai mắt chăm chú nhìn đối diện, phía sau là phải dựa sát vào thân cây rồi, đồng thời bên trên cũng không có bóng cây che đậy, phải hoàn toàn bại lộ ra trong tầm mắt đối phương.

Chỉ cần vọt người nhảy lên, vòng qua đằng sau cây cổ thụ lớn, có thể mượn thân cây yểm hộ, nhảy xuống một cành ngang khác. Gã hít sâu một hơi, di chuyển thật mạnh, toàn thân bắn ra, buông ngược hướng thân cây, xoay người hoàn mỹ giữa không trung, một tay giơ ra, ở trên cành cây vừa tìm vừa trượt, chỉ cần đi vòng qua, vậy an toàn.

Màu xanh bóng người giống như sợi khói nhẹ, chỉ loé một cái, Kim Nhãn Điêu ở đối diện liền từ trạng thái hóa đá chợt sống lại, mở cung, rời cung, loong coong một tiếng, tiễn giống như sao băng chợt lóe lên.

Thân thể của Tiểu Sở vừa mới trượt ra một thước khỏi thân cây thô to, một dòng không khí dữ dằn đã cướp tới, cái tốc độ này cho dù là ở trên đất bằng cũng làm người ta khó có thể né tránh, huống chi gã là đang trên không trung. Một người luyện công phu Thập Tam Thái Bảo, ở vạn mũi tên bắn chụm cũng không thoát khỏi một chiếc, khinh công dù cho giỏi cũng không nhanh bằng cung rời tiễn.

"Phù" tiễn từ sườn trái đâm vào, xuyên thấu trái tim, tự trước ngực đóng vào thân cây cổ thụ, thân mình Tiểu Sở chấn động, thân hình cứng đờ bay vút, sau đó chậm rãi buông xuống dưới, thân mình gã liền giống như một bộ phận của cây cổ thụ kia, vĩnh viễn đóng tại nơi này.

Không có ai biết sự tồn tại của gã, chẳng sợ ngẫu nhiên có người hái thuốc đi qua dưới tàng cây. Tiểu Sở vô danh vĩnh viễn biến mất.

Rất nhiều năm sau, cây này đúng dịp bị lôi hỏa đánh gãy rơi xuống cốc đi. Rất khéo, nó bị người ta nhặt đi làm hàng mộc mỹ nghệ. Cưa điện lướt qua một cái, vừa khéo trong đầu gỗ toác ra đầu một tên sắt, bắn trúng cổ họng tên chủ vô lương kia, chết rồi.

Cái tên thợ mộc xui xẻo kia bị quan thẩm tra một trận rồi đuổi đi, tiểu học đồ của y từ đó chuyển nghề. Lấy "Nằm mộng cũng muốn làm ông chủ" làm bút danh, lấy chuyện đầu tên sắt viết chuyện có liên quan sinh tử luân hồi, tiểu thuyết kinh dị nhân quả báo ứng nổi tiếng trên một website tiếng Trung lớn nhất, trong một năm liên tục là quán quân bảng vé tháng.

Về lai lịch đầu tên sắt, trong sách nhắc tới những nhân vật thần thoại như Trương Quả Lão, Lã Động Tân, cũng nhắc tới Đường Huyền Tông phái Đại tướng quân đến Hoàng Hà Cổ Độ Khẩu đúc trâu sắt, người sắt trấn sông. Đương nhiên cũng nhắc tới Dương Kế Nghiệp đời Tống, Tôn Phi Hổ binh vây Phổ Cứu tự trong "Tây Sương Ký ". Còn có Dương Lăng, Tiểu Sở của Đại Minh triều vẫn là không ai hay biết.

Lịch sử, không phải do tiểu nhân vật viết.

Kim Nhãn Điêu một mũi tên bắn trúng, lại bán thân nằm nghiêng lên trên đá, thở phào một hơi dài. Y đã bắn ba tiễn rồi, mũi tên thứ ba trước khi kéo dây cung lại ngưng thần nín thở chờ đợi thật lâu, tinh thần khí lực hao tổn quá lớn, y nhất định phải nghỉ ngơi một chút.

Y nhìn phía trên cầu. Chỗ Triệu Nguyên soái đứng đã xuất hiện một đường khe hở, y chỉ cần thở gấp mấy hơi thở, khiến cơ bắp căng lên, cánh tay hơi hơi phát run trầm tĩnh lại, là có thể bắn ra một mũi tên trí mạng rồi. Trên cầu cái tên Dương Lăng kia so với thích khách trong rừng cái còn nguy hiểm hơn, hắn nhất định phải chết.

- Thở gấp hai cái nữa là tốt rồi

Kim Nhãn Điêu nghĩ, hít vào, thở ra...

Bầu trời chậm rãi, mênh mông ngàn dặm, xanh đến mức khiến người muốn bay vào. Mây trắng mềm nhẹ, như sương như sa, một góc tầm mắt, là một thân cành nghiêng ra từ thân núi, khiến cái yên tĩnh sâu thẳm ngày hôm đó trở nên sinh động.

- Không thể đợi lâu, cho dù bọn họ đàm phán còn thật lâu nữa, cơ hội còn nhiều, nhưng qua một hồi nữa. Góc độ ánh nắng đối với mình rất bất lợi.

Kim Nhãn Điêu hoạt động một chút, nắm chặt thiết thai cung của y, sau đó thăm dò nhìn một cái: "Tốt lắm, góc độ này vẫn đang rất tốt, trăm phần trăm một mũi tên trúng mục tiêu".

Y cẩn thận di chuyển hướng bên, hai chân đủ đến phía dưới nơi chỉ còn lại một đường nham thạch trên mặt đất. Từ đằng xa trông lại, nơi này chỉ là nham thạch gãy nhô ra và một đường khe hở nho nhỏ ở giữa thân núi. Trong khe hở tràn đầy cỏ dại, nảy sinh ra những nhánh cây. Đo đỏ, vàng vàng, lục lục, màu sắc rực rỡ.

Từ khe hở nho nhỏ này nhìn ra ngoài, lại trời cao đất rộng, nhìn qua thấy hết, bao gồm mục tiêu Dương Lăng.

Kim Nhãn Điêu cười lạnh, quay tay sờ bao tiễn sau vai. Trong bao còn có bốn

mũi tên, loại Điêu linh lang nha tiễn đặc chế tỉ mỉ này chế tác không dễ, hơn nữa một trận chiến nhiều lắm bắn ra 6 tiễn phải hai vai thoát lực, thực không cần phải quá nhiều.

Vừa sờ, không có cảm giác lông quen thuộc, Kim Nhãn Điêu kinh ngạc sờ xuống, vỏ da sói, bình tiễn đai hoàn bằng thiếc đồng vẫn còn, lại hướng lên trên, miệng bao không có cái gì.

Tên dài lộ ra miệng bao không đến một phần tư, không có lý nào rơi xuống, Kim Nhãn Điêu kinh ngạc quay đầu lại, vừa nhìn đã kinh hãi xuýt thì nhảy xuống vách núi. Vì y quá chăm chú vào phía trên cầu, cũng không nghĩ tới sẽ có người lặng yên không một tiếng động đến phía sau y, vừa nhìn chỉ nhìn thấy một đôi mắt sáng rực, đầy ý cười.

Cặp mắt lạnh lùng hỏi:

- Kim Nhãn Điêu? Ngươi tới nơi này làm gì?

Kim Nhãn Điêu hai mắt mở to như muốn rơi ra, sau một lúc lâu mới lắp bắp mà

nói:

- Thôi... Thôi phó soái, người... Người tới nơi này làm gì?

- Triệu huynh, với sức lực triều đình, càn quét Trung Điều Sơn có gì không thể?

Dương mỗ tiên lễ hậu binh, thành ý chiêu an, phải không muốn gây sinh linh lầm than, mà không phải là triều đình tiêu diệt thổ phỉ vô lực. Các vị hảo hán, các ngươi tạo phản, có đủ loại nguyên nhân, hoặc do quan lại hủ bại, hoặc do trôi giạt khắp nơi, hiện tại triều đình đang chăm lo việc nước, cải cách đổi mới hoàn toàn, nhất định phải tạo phản sao?

- Theo đại nghĩa đã nói, phá rồi lại lập, nói dễ hơn làm? Giang sơn Đại Minh dễ dàng lay động như vậy sao? Lưu Lục, Dương Hổ nói là vì thiên hạ dân chúng, vì nhân nghĩa làm đại sự, chí ở tế thế cứu dân, thật ra lại đi đánh cướp giết chóc, muốn thành đại sự, phải hại bao nhiêu dân chúng lâm vào trong nước sôi lửa bỏng?

- Đội quân này của các ngươi, cấm giết cấm cướp, đương nhiên được nghĩa quân khen ngợi, nhưng các ngươi có thể thay được bọn Hưởng mã quân, Bạch Y Quân sao? Người nổi bật thì dễ bị ghét, bọn họ dung nạp được các ngươi như vậy sao? Theo tư lợi mà nói, các ngươi hoặc vì cuộc sống bức bách, hoặc bị kích do lòng căm phẫn, lúc này mới cử binh tạo phản.

- Hiện giờ triều đình đang từ bỏ ảnh hưởng chính trị, câu nói quan bức dân phản, không thể không phản của các ngươi đã không tồn tại, cưỡng ép khởi binh tạo phản, chỉ có thể tự chịu diệt vong. Quy thuận triều đình, về công, đại nghĩa khắp thiên hạ, về tư, có thể mưu lợi cho mình, làm quan một phương, công và tư cùng có lợi, cớ sao mà không làm?

- Triệu huynh và mấy vị đầu lĩnh, các ngươi đều là người thông minh. Hy vọng các ngươi có thể suy nghĩ thật kỹ lời mà ta nói..., thật muốn đem cả tính mạng toàn gia ra, đi cầu mộng Hoàng đế hư vô mờ mịt kia sao? Chính là cái gọi là nên ngừng không ngừng, phản chịu loạn này, các vị vẫn nên thật sự suy nghĩ một chút sau này đi con đường nào.

Những lời này như là một cây trường thương như kích. Cho dù là đám người Phong Lôi, Lưu Nhập Thất cũng im lặng không nói. Triệu Toại thầm kêu một tiếng "Lợi hại!"

Gã chắp tay, cười lớn nói:

- Quốc công một lời tâm huyết, Triệu mỗ ghi nhớ trong lòng những việc này. Trở lại sơn trại, Triệu mỗ còn phải bẩm báo với Hình đại nguyên soái, mới có thể định đoạt.

- Được! Dương mỗ ta thành tâm chiêu an, đương nhiên lấy thành ý mà gặp, lấy thời hạn ba ngày, trong vòng ba ngày, quan binh vây mà không công, Dương mỗ lặng chờ tin lành của Triệu huynh!

Triệu Toại nhìn hắn thật sâu, chắp tay nói:

- Cáo từ!

Dương Lăng cũng vừa chắp tay, Triệu Toại đem ống tay áo phủi một cái, xoay người đạp mạnh đi.

Dương Lăng yên lặng dừng nhìn bóng lưng của bọn họ, trong lòng thầm than:

- Triệu Toại có thể là anh hùng một phương, không phải là nhân tài xưng bá.

Người này tự phụ khoe khoang, có tâm bi thương, không có ý đề phòng người khác, có hành động khẳng khái, không có lực tàn nhẫn quyết đoán, vừa có ý tự lập, lại do dự, đắm mình trong nghĩa khí, không thể quyết đoán cướp lấy binh quyền bộ đội sở thuộc, làm sao được trên dưới một lòng, như thế nào thành được đại sự?

- Ta quá coi trọng năng lực của hắn rồi, người này còn không làm chủ được đám cướp Trung Điều Sơn. Ôi! Ta tự trở về chuẩn bị thôi, chỉ mong Hình Lão Hổ có thể bị hắn nói động, nếu không, ba ngày sau, vẫn là khó tránh khỏi một trận chiến!

Dương Lăng quay người đi về, Giang Bân, Hứa Thái vội vàng bảo vệ tả hữu, Ngũ Hán Siêu, Tống Tiểu Ái cản phía sau, một mặt cảnh giới hành động của Triệu Toại, một mặt lui về phía sau coi rừng cây xanh um tươi tốt gió đưa sóng lớn, cho đến khi tới gần đầu cầu, hai người mới vội vàng quay người, vây quanh Dương Lăng tiến vào đại đội quan binh bên trong.

Tại đây trên cầu nghị hoà, Ngũ Hán Siêu có thể làm công tác phòng vệ được như thế đã là đáng quý rồi. Hơn nữa gã là kẻ tài cao gan cũng lớn, Dương Lăng trên người là mặc một lớp da giáp một lớp khóa tử giáp đấy, cung tiễn khó làm thương tổn. Bọn Hưởng mã đạo dù có hỏa khí, cũng không thể dùng, bởi vì đồ vật kia, trừ phi thợ thủ công tốt nhất Quân khí cục, tốn thời gian nửa năm tỉ mỉ tạo ra một hai tinh phẩm chuyên dụng, chính xác đều kém nhiều lắm. Về phần đầu mặt Dương Lăng, bằng thanh kiếm trong tay hắn tự có thể bảo hộ kín không kẽ hở.

Dương Lăng vừa vào đoàn người, gã cuối cùng cũng yên tâm một chút. Có thể sử dụng ngũ thạch cung xuyên phá giáp, trên đời chẳng mấy ai. Nếu Ngũ Hán Siêu biết ở phía đối diện bên trong khe nham thạch còn có một người có tài bắn cung cao thủ như vậy, không biết còn có thể tiếp tục yên lòng hay là trầm xuống tận cùng đây...

Thôi Oanh Nhi lặng yên đứng ở khe hở tảng đá nhô ra, đầu cành lá cây xanh biếc lay động thấp thoáng dung nhan nàng, vẻ ngoài tâm lý luôn luôn cứng rắn, tại đây bốn bề vắng lặng, trong hoàn cảnh chỉ có nham thạch cứng rắn, rốt cục bóc đi rồi, lộ ra trái tim mềm yếu của nàng.

Bốn bề vắng lặng, người chết không tính là người, Kim Nhãn Điêu đã bị chết.

Hồng Nương Tử cũng là từ nhỏ trèo đèo lội suối quen sống ở trong núi, chỉ hơi đánh giá, nàng liền chọn trúng nơi này, đây là nơi có thể nhìn thấy rõ ràng hết thảy trên cầu nhất, lại không dễ bị người phát hiện, vì thế nàng liền từ trong rừng lặng yên đến đây. Nàng thầm nghĩ trộm lén nhìn mặt hắn, sau đó lại lén chạy trở về.

Gần đến chỗ nham thạch, nhìn thấy trên đá có người, Hồng Nương Tử phản ứng đầu tiên chính là khẩn trương né ra, bởi vì... chuyện nữ nhi của mình làm sao mà cho người khác biết, làm sao mà nhìn người khác được? Nhưng nàng nhìn thấy trong tay người kia có cung, trên lưng có tiễn, chậm rãi di chuyển về hướng vách đá.

Ẩn giấu ở cái nơi này, tay cầm cường cung mũi tên nhọn, hắn muốn giết ai? Hồng Nương Tử vừa nghĩ đến đây, cũng không suy nghĩ nhiều, lập tức thi triển khinh công thuở nhỏ luyện tập ở núi non trùng điệp, chân không dính bụi, bay vút qua đó.

Nàng cũng không muốn giết Kim Nhãn Điêu, tuy rằng cái tên khốn đáng chết một vạn lần này suýt nữa thì đả thương Dương Lăng. Có điều nếu đã đến kịp thời, Dương Lăng không việc gì, giết chết Kim Nhãn Điêu đều là người trong sơn trại coi như không có lập trường rồi. Biệt tài của Kim Nhãn Điêu một thân thần lực, Thôi Oanh Nhi quyết định, bắt y sau khi trở về không đợi cầu xin lập tức gán tội vi phạm sơn quy phế đi hai cánh tay y.

Không ngờ người không có ý giết 'điêu', 'điêu' lại muốn mổ lòng người. Đám người Lý Hoa tuy là hổ ở Trung Điều Sơn, nhưng sau khi đám người Triệu Toại, Hồng Nương Tử đến đây, bất kỳ một thế lực nào cũng đều lớn hơn bọn họ, sớm biến thành ba phái. Triệu Toại lấy danh nghĩa nghĩa quân tự xưng, hiện tại tự mình chạy tới hành thích ám sát, khiến Hình Lão Hổ, Triệu Toại một đám chủ soái vào

thế bất nghĩa, Triệu Toại trị quân lại xưa nay chú ý quân quy, có thể tha được cho mình sao?

Thêm nữa, một khi nghị hoà thành công, ai sẽ quan tâm lợi ích của đám thổ phỉ trên Trung Điều Sơn nữa? Bọn họ không bị Bồ gia và Cơ gia hai nhà quyền quý Sơn Tây này giết chết mới là lạ. Vừa nghĩ đến đây, Kim Nhãn Điêu chợt nảy sinh ác niệm, người trong võ lâm quyền thuật chú ý tránh chỗ thực, tìm chỗ hư, thân pháp phối hợp, kẽ hở nham thạch này bọn họ loay hoay cũng không mở ra được.

Mình thần lực vô cùng, Hồng Nương Tử danh khí tuy lớn, rút cuộc cũng là tiểu mỹ nhân yểu điệu, có thể có bao nhiêu khí lực? Không bằng một phen bóp chết nàng ta, thần không biết quỷ không hay, vừa có thể hoàn thành mệnh lệnh của đại ca, cũng sẽ không bị người khác phát hiện.

Kim Nhãn Điêu nghĩ đến liền làm, quên mất người có cơ bắp vạm vỡ đều có đay gân, cũng có huyệt đạo, khi bị cao thủ có chỉ lực siêu quần công kích sẽ bị tê liệt không có sức lực. Cho nên, người trên đời có thể dùng được ngũ thạch cung lại mất đi một rồi.

Hồng Nương Tử thay thế vị trí Kim Nhãn Điêu, nàng cũng đang dùng tiễn ngắm chuẩn lấy Dương Lăng, dùng ánh mắt chỉ có ở nơi này mới có thể không kiêng nể gì, chính là biểu hiện tình ý và yêu say đắm của mình, phóng ra mũi tên tình cảm du dương.

Ánh mặt trời, từ trên cây cỏ xanh um chiếu xuống, chiếu vào khuôn mặt diễm lệ hao gầy kia, nhìn bóng dáng Dương Lăng dần xa khuất một cách si tình. Ánh nhìn quyến luyến vẫn đuổi theo, đuổi đến khi thân mình hắn hoàn toàn bị người khác che khuất.

Người đẹp như trăng, như tuyết, nhẫn nại xem ánh tà dương thanh thu. Cùng chung trăng sáng, dáng cô bồng, cùng chân trời với lang quân. Khí nuốt hổ, kiếm như cầu vồng, cười nhìn mây nhẹ gió thanh. Ngư Dương trêu đùa, già khuyến khích, giáo dài hét gió tây.

Hai tròng mắt nhẹ nhàng hợp nhiễu, lông mi xinh đẹp chỉnh tề hơi hơi nháy mắt

động lên, hai dòng nước mắt lặng lẽ chảy xuống, rơi vào dưới chốn vực sâu không người. Nàng xoay người, bóng dáng thản nhiên nhảy nhẹ nhàng, chớp mắt chợt lóe lên nhập vào núi rừng rậm rạp.

Trên tảng đá, Kim Nhãn Điêu ngửa mặt nhìn trời, dưới ánh mặt trời, chỉ có một đôi con ngươi còn mơ hồ lộ ra một chút sáng bóng. Không trung, đang có một con điêu đang xoay quanh...

Đông Hoa Sơn rơi vào khoảng yên bình tạm thời, nhưng tin tức từ thám mã báo về, quan binh ở ngoại vi không ngừng điều động quân đội, đóng quân trọng binh ở các nơi cửa ải hiểm yếu, xây dựng công sự, thiết lập khu vực phòng thủ, hiển nhiên đang chuẩn bị chiêng trống rùm beng để tiến đánh. Triệu Phong Tử đang không ngừng do dự giữa tiếp nhận chiêu an và phá vây chạy xuống hướng Giang Nam.

Lời nói của Dương Lăng, giống như thương kích, thật đã chọc trúng chỗ yếu của gã. Suy trước tính sau, Triệu Phong Tử vốn kiên quyết phản ý, thậm chí một chút dã tâm bắt đầu nảy sinh kia cũng tan thành mây khói. Lực lượng nhân mã trung kiên của hắn đến từ phái của Lưu Lục, mà những gì Lưu Lục đã làm, chưa có một chút chí lớn hướng nào, làm sao giống người có thể thành đại sự?

Nhưng do lực lượng nhân mã chủ yếu của mình có khuynh hướng về họ Lưu, gã căn bản không thể cắt đứt mối liên hệ với Lưu Lục, trong mấy con đường, dường như lựa chọn duy nhất chỉ có nhận chiêu an. Nhưng, Hình Lão Hổ, Phong Lôi bọn họ đồng ý sao?

Bóng đêm xuống, con dế mèn không sợ làm phiền người khác kêu to "chi chi", ngẫu nhiên có đom đóm ở bóng cây bay lượn, cuộn ra một đám quầng sáng mê ly, Hồng Nương Tử nhìn chằm chằm đom đóm một cách xuất thần, ánh mắt cũng có chút mơ màng rồi.

Ánh mắt của Lý Hoa cũng có chút mơ màng, chỉ có điều phần gay gắt dưới đôi mày rậm khi mơ màng có chút hơi ngây ngô, không mỹ cảm như đôi mắt quyến rũ linh hoạt của Thôi Oanh Nhi.

Cuộc đàm phán trên cầu bình yên chấm dứt, đầu cuối chưa từng xuất hiện một chút nhiễu loạn nào, là y biết Lão Tam đã xảy ra vấn đề, vốn sau khi trở về muốn

gọi gã tới để hỏi rõ ràng, không ngờ Kim Nhãn Điêu lại như chim phi xa ngút ngàn dặm, từ đó không bóng dáng. Trong lòng Lý Hoa hoảng hốt, lại lệnh Nhị đệ Chu Bàn dẫn người lặng lẽ tuần sơn, tra tìm xung quanh tung tích của gã, nhưng hiện giờ đã là buổi tối ngày hôm sau, vẫn không có tin tức gì.

Y âm thầm quan sát Hình Lão Hổ, thần sắc đám người Triệu Toại, cũng nhìn không ra chút khác thường, chắc là không biết chút nào đối với chuyện này. Hơn nữa hôm nay nghị sự, vẫn coi y như thủ lĩnh một phương mà mời đến. Căn bản chưa từng khiển trách, cũng không giống đã biết chuyện y ngấm ngầm ra tay.

Lý Hoa nghĩ bể đầu cũng nghĩ không ra Lão Tam đi đâu, tâm khó tránh khỏi có chút hoảng hốt. Người có thể đi chỗ nào đây? Dù sao lấy thân thủ sắn bắn điêu luyện trong núi từ thuở nhỏ của Lão Tam sẽ không cẩn thận trượt chân tự mình rớt xuống vách núi chứ?

Còn những lời nói của Dương Lăng kia, cũng khiến Lý Hoa trở lên tính toán: đám người Lưu Lục, Dương Hổ này không giống người thành đại sự, không thể theo đám bọn lão đi Giang Nam, đó là tự tìm đường chết. Nhưng rõ rằng giải tán cũng không được, Hình Lão Hổ, Triệu Phong Tử không phải là ngọn đèn cạn dầu. Bọn họ nếu muốn đi, lão tử phải nghĩ biện pháp giữa đường lẻn, Sơn Tây là nơi chốn núi, chắc chắn có nơi dung cho ta sống tiêu dao.

Triệu Toại nhìn nhìn hai người nghĩ như muốn xuất thần, hơi hơi nhíu mày.

Hồng Nương Tử đã đem sự tình Kim Nhãn Điêu nói cho y nghe, Triệu Phong Tử nghe xong lập tức sai nhị đệ Triệu Phan mang theo vài tên tâm phúc đi xử lý thi thể, cũng nghiêm dặn bảo Hồng Nương Tử không thể nói ra việc này.

Nghị hòa một khi không thành, sẽ có một phen đại chiến. Lúc này tuyệt đối không thể nội bộ bất hoà, lại xảy ra tranh chấp, chuyện này chỉ có thể hồ đồ nhất thời. Gã không hiểu chính là, thời khắc sống còn, Hồng Nương Tử sao cũng là một bộ dạng mất hồn mất vía thế kia? Đây là Dương Khóa Hổ đại danh đỉnh đỉnh hay sao?

Triệu Toại lắc đầu. Lại nhìn hướng Hình Lão Hổ. Hình Lão Hổ vỗ về ngực, đang không ngừng ho khan, qua hồi lâu, lão mới thở hổn hển nói:

- Triệu phó nguyên soái, ý kiến của ngươi thì sao? Ngươi muốn lựa chọn tiếp nhận chiêu an?

Triệu Toại thành khẩn nói:

- Không, ra đi, cố thủ hoặc tiếp nhận chiêu an, cũng là vì tìm một đường ra cho các huynh đệ. Những lời vừa rồi, đó chỉ là phân tích của ta, rốt cuộc lựa chọn như thế nào, ta nghe lời người.

Hình Lão Hổ im lặng sau một lúc lâu. Mới nhẹ nhàng thở dài nói:

- Triệu huynh đệ, ngươi vốn là tú tài, nhà có ruộng tốt, phòng có kiều thê, là Lưu đại ca kiên quyết ngươi kéo vào đám này. Nói vậy ngươi ban đầu là có chút không tình nguyện đấy, tuy nhiên... Lão Lưu đối đãi ngươi không tệ, từ khi ngươi nhập bọn, liền càng tín nhiệm ngươi. Cho ngươi độc lĩnh một nhánh đại quân.

Ngươi đề nghị phân binh phát triển, hắn cũng không chút do dự. Ta... Chỉ hỏi ngươi một câu. Chúng ta thật có hy vọng không? Lưu Lục thật sự đáng cho ngươi phò tá không?

Triệu Toại nhìn phía Hình Lão Hổ, sau một lúc lâu không nói một lời. Hình Lão Hổ lại nói:

- Dương Lăng nói có lẽ có đạo lý, ta đọc qua một ít sách, lại không học vấn không nghề nghiệp, là người thô kệch. Ta chỉ biết là, nếu chúng ta thực sự như vậy...không chịu nổi một kích, hắn đường đường Quốc công gia, làm gì người có địa vị cao lại đầu hàng nhân nhượng trước người có địa vị thấp, chạy đến Trung Điều Sơn chiêu an?

- Không sai, Dương Hổ ở Sơn Đông đích xác đại bại, hơn nữa mười vạn đại quân tổn thất quá bán, quan binh thương vong lại cực kỳ bé nhỏ. Nhưng sau lại thăm dò nghe được tin tức, nghe nói là trong quân hỏa dược vô ý bùng nổ, làm cho chiến mã phá doanh trại, tự giẫm lên nhau, tử thương vô số, không phải do quan binh tấn công, nếu không Sơn Đông chiến sự thắng bại như thế nào, ta xem còn không thể biết đâu. Dùng một trận chiến này, liền có thể luận thành bại, luận anh

hùng?

Lông mày rậm của ông ta nhướng lên, tuy rằng vẻ mặt thần sắc có bệnh, vẫn lộ ra khí khái ngạo mạn dũng cảm:

- Từ xưa người thành bá nghiệp cũng đâu có thuận buồm xuôi gió, thời điểm bọn họ thất bại, đánh cho bên người chỉ còn lại hơn trăm người, cuối cùng cũng vẫn chỉnh đốn hàng ngũ lật ngược thế cờ sao? Ta cũng không tin, trên Đông Hoa Sơn có năm vạn tinh binh, Lưu Lục, Dương Hổ ở Giang Nam cũng có năm sáu vạn người, sẽ giống như Dương Lăng hắn nói không chịu nổi như vậy ư!

Triệu Toại nhắm mắt lại, thở dài trong lòng một tiếng: xem ra Hình Lão Hổ vẫn là kiên trì ý kiến của mình, ý muốn nghị hòa như vậy từ bỏ rồi!

Gã đột nhiên mở hai mắt ra, trầm giọng nói:

- Như vậy Đại nguyên soái là muốn thủ vững Trung Điều Sơn, hay là muốn phá vây nam hướng, thẳng đến Trung Nguyên?

Hình Lão Hổ nói:

- Ngươi nói rất đúng, chúng ta năm vạn binh mã, nếu theo nơi hiểm yếu mà thủ, quan binh chưa chắc công được đến, nhưng nơi hiểm yếu có thể giúp bọn ta, thiên uy cũng có thể giết ta. Sợ nhất chính là mùa đông, chúng ta hiện tại lương thảo không đủ, nếu Dương Lăng phong toả núi, mùa đông đến, một phần ba chúng ta đói lạnh mà chết, như vậy người còn lại cũng không cần đánh, chỉ có thể bó tay chịu trói, cho nên thủ chỉ có thể bảo mệnh nhất thời, kì thực là con đường chết.

Hình Lão Hổ một mạch nói dài như vậy, thở hổn hển mấy cái, nói:

- Khi Hình Lão Hổ ta và Lưu Lục, Lưu Thất bọn họ kết nghĩa kim lan, từng nói không thể sinh cùng năm cùng tháng cùng ngày, nhưng mong được chết cùng năm cùng tháng cùng ngày, bọn họ chiến đấu liên tục ở các chiến trường Giang Nam, ta lại một tự mình mang mũ ô sa trên đầu, đầu quân cho quan phủ, chuyện như vậy ta không làm được.

- Cho nên ta quyết định đi Giang Nam, đánh cược một lần với đám huynh đệ thề sống chết, giang sơn này chỉ định họ Chu? Haiz! Ta lại không tin! Lão Triệu, từ khi vào nghĩa quân, ngươi hao hết tâm tư, chỉnh quân sức võ, Hình Lão Hổ ta là nhìn ở trong mắt, nhớ ở trong lòng. Hai vị huynh đệ của ngươi có tâm ra đi. Chuyện này ta có nghe nói.

- Như vậy đi, ta thay Lão Lưu làm chủ, Triệu huynh đệ ngươi muốn rời khỏi, có thể mang theo vàng bạc đồ tế của ngươi rời khỏi, ta phái người đưa ngươi rời núi, đi ở tự do, tuyệt không ngăn trở, mỗi người đều có chí hướng của riêng mình mà.

Nhưng ngươi không được mang đi bất kỳ một quân nào làm loạn tâm quân ta. Thế nào, ngươi có bằng lòng hay không?

Triệu Toại thầm nghĩ: "Từ khi hưởng mã đạo, công thành chiếm đất, phá ngục cướp tù, xử phạt tham quan, xử tử thân hào, chưa một sự kiện thiếu ta? Không mang theo người nào đi tiếp nhận chiêu an, đây không phải là chuyện cười lớn sao? Triều đình muốn dùng ta làm gì? Lại đồng ý tha ta?"

Hình Lão Hổ lại nói:

- Ta thân thể này từ nhỏ khoẻ mạnh, chưa bao giờ bị bệnh. Nhưng bệnh này mãi không thấy khá, hành quân đánh giặc ta không xuất hiện giúp được gì, đại nguyên soái thực là danh không hợp thực, mà ngươi chỉ huy đội ngũ, cũng luôn kém một tầng. Triệu huynh đệ tài học thắng ta mười lần, lại không thể tận sức thi triển, đây là chỗ không phải của ta.

- Nếu Triệu huynh đệ ngươi vẫn nguyện ý đi theo chúng ta, ta nguyện ý nhượng ngôi nguyên soái. Đội ngũ này của chúng ta, trên dưới một lòng, hết thảy nghe theo chỉ huy của ngươi. Về phần cái gì mà ai làm hoàng đế, Hàaa...! Còn chưa có chút

dấu hiệu nào đâu rồi, so đo làm chi? Đại trượng phu oanh oanh liệt liệt kệ con mẹ hắn chứ, lật đổ thiên hạ Chu Minh trước, chúng ta thương lượng sau, ngươi có bản lĩnh, khi đó thiên hạ sẽ do ngươi. Dù sao ta là không tranh giành, ngươi xem coi thế nào?

Trong lòng Triệu Toại nóng lên, nhất thời trong lồng ngực huyết khí cuồn cuộn.

Không cần phỏng đoán, những lời này của Hình Lão Hổ có vài phần thành ý, lão nói rành mạch, đây là thời cơ tốt nhất cướp lấy binh quyền. Đừng nhìn Hình Lão Hổ nói hào khí ngất trời, nhưng lão xuất thân là bọn cướp đường giết người không chớp mắt, bản thân nếu thật là lựa chọn rời khỏi Trung Điều Sơn đầu quân vào quan phủ, lão không lập tức trở mặt chém đầu mình mới là lạ.

Nhưng mà thời thế bắt buộc. Nếu tự mình lựa chọn lưu lại, làm điều kiện trao đổi, trước mắt gã không thể không đem toàn bộ binh quyền giao ra. Về phần tới Giang Nam rồi có hay không bị đám người Dương Hổ thâu tóm, hiện tại không kịp nghĩ đến, cũng không có lựa chọn khác rồi. Tới Giang Nam rồi nói sau, chỉ cần vượt qua bước tiếp theo, Triệu Phong Tử ta còn đấu không lại lớp người quê mùa này?

Nghĩ đến đây, Triệu Toại cắn răng một cái, nói to:

- Hình đại ca, người đừng nói nữa, tiểu đệ hổ thẹn. Ngựa tốt không ăn lại cỏ cũ, tất nhiên đã vào đường này, ta cũng không nghĩ lại có một ngày quay đầu lại, ngươi nói làm như thế nào ta sẽ làm như thế đấy, chỉ cần có Hình đại ca, người vĩnh viễn là đại ca của ta.

- Huynh đệ tốt!

Hình Lão Hổ kích động khuôn mặt đỏ lên, lão đứng dậy, đỡ lấy vai Triệu Toại,

nói:

- Thế thì huynh đệ chúng ta cùng sánh vai đánh qua Hoàng Hà, quân tiên phong đến thẳng Giang Nam, làm cho hắn long trời lở đất. Chờ hội hợp với Lưu Lục, Dương Hổ, chúng ta mới thảo luận chiếm đất nơi nào, chỗ nào, ung dung mưu tính phát triển, tranh một chuyến thiên hạ giang sơn này!

"Ngươi đã có tư tâm, cũng đừng trách Hình Lão Hổ ta trở mặt vô tình, chỉ cần qua được Hoàng Hà, lão tử ngay lập tức làm thịt ngươi!"

Trong lòng Hình Lão Hổ âm thầm cười lạnh, vẻ mặt lại dõng dạc, hai "huynh đệ tốt" kích động nắm bàn tay to lại với nhau, sau đó bọn họ cùng nhau chuyển hướng sang Hồng Nương Tử và Lý Hoa.

- Thôi gia muội tử, Lý lão đệ, các ngươi cho rằng như thế nào?

- Thôi phó Nguyên soái, Lý tướng quân, ý các ngươi như thế nào?

-...

- Hồng Nương Tử?

- À? Được, được được, ta đồng ý. Cứ làm như thế đi!

- A! Huynh đệ ta cũng không nói, Hình đại soái ngươi nói làm ta làm, Lý Hoa ta lên núi đao xuống biển lửa, mày cũng không nhăn một chút, chúng ta cứ làm như vậy đi! Ách... Hình đại ca ngươi nói gì?

-...

Hành dinh khâm sai chuyển từ thành Bồ Châu đến quân doanh dưới chân Đông Hoa Sơn.

Ngày mai chính là thời hạn ba ngày, nếu Triệu Phong Tử không đưa ra câu trả lời, quan binh sẽ phát động thế tấn công, cho dù không thể một tiếng trống phá huỷ đám đạo tặc Trung Điều Sơn, chí ít cũng phải đánh hạ đỉnh núi ở phía ngoài, để phong toả núi hoặc tạo cơ sở tốt cho bước phát động thế tấn công tiếp theo.

Cuộc chiến Trung Điều Sơn nếu không thể tốc chiến tốc thắng, thì đành phải điều hành đại quân, hao tổn vô số tiền lương, vây bọn họ sống chết ở chỗ này.

Chiến trường Giang Nam theo sự bố trí của hắn, các phủ các đạo quan binh đang tầng tầng bố trí phòng vệ, tiến sát từng bước, từng bước thu nhỏ lại vòng vây, ý đồ đẩy Bạch Y Quân của Dương Hổ vào tử địa, bức gã quyết chiến chính diện. Trong

điều kiện thời cơ chiến đấu vạn biến, hắn không thể thực thi hành mệnh lệnh từ Sơn Tây xa xôi, ở đó, cần hắn tự mình đến điều phối, toàn diện chỉ huy.

Màn trướng vén cao, trong trướng vải đèn đuốc sáng trưng. Dương Lăng và đám người Miêu Quỳ đang bố trí công việc tiến công toàn diện sau khi chiêu an thất bại, Dương Lăng cầm gậy chỉ huy, Hứa Thái ở gần giơ một chén đèn dầu chiếu sáng. Rất xa đột nhiên có người hô to:

- Báo

! Quân tình khẩn cấp!

Theo tiếng vó ngựa vang lên, một gã đang mặc áo giáp của quan binh, sau vai cắm cở đỏ của tin khẩn như bay tới, ngựa tới trước trướng vịn yên ngựa, người nọ vội vã xông vào trướng lều lớn, lập tức bị vài tên thân binh ngăn lại. Qua một lát, xác minh thân phận người đó, bốn gã thân binh vội đem gã dẫn vào.

Người đó thấy Dương Lăng liền cúi đầu bái lạy, gấp giọng nói:

- Khởi bẩm quốc công gia! Thổ phỉ Đông Điều Sơn đã phá vòng vây theo hướng Đông Nam.

Dương Lăng nói lớn:

- Phá vây? Bao nhiêu người? Lính đưa tin khởi bẩm:

- Chạy ra hơn bốn trăm người, mỗi người dũng mãnh thiện chiến, bọn họ thừa dịp lúc ban đêm chia nhỏ đánh bất ngờ, thoát khỏi vòng vây xong chạy đén ngã ba trước, sau đó men theo Dương Can, Dương Tổ chạy đến Hoàng Hà trốn thoát. Bồ Châu vệ đã phái Tôn Thiên hộ dẫn binh đuổi theo.

- Chỉ có hơn bốn trăm người?

Dương Lăng có chút kinh ngạc, nếu Triệu Toại không muốn nhận chiêu an,

đương nhiên có khả năng phá vây trước khi đại quân hợp vây, nhưng hắn chỉ phái ra bốn trăm người từ đường nhỏ phá vây. Đây coi là cái gì? kế nghi binh sao?

Hứa Thái vội vàng trở về trước án cúi xuống xem bản đồ, nghi hoặc nói:

- Bọn họ chạy trốn theo hướng Hoàng Hà, phải chăng muốn qua sông xuống phía nam?

Miêu Quỳ nói giọng the thé:

- Quốc công, xem ra Triệu Toại là không muốn uống rượu mời rồi. Bọn họ men theo Dương Can, Dương Tổ mà đi, đích thị là phải công kích Phong Lăng độ, phải từ nơi ấy trốn về hướng Thiểm Tây hoặc Hà Nam.

Dương Lăng bình tĩnh, cẩn thận suy tư một lát hỏi:

- Ngoại trừ bốn trăm người này, trên núi còn có những người khác xuống núi không?

Lính đưa tin lắc đầu nói:

- Chỉ có bốn trăm người này phá vây. Ngoài ra không có động tĩnh gì nữa.

Giang Bân cẩn thận đi lên phía trước nói:

- Quốc công, theo cách nhìn của ty chức, đám nhân mã này có lẽ là binh lẻ thấy tình thế không ổn một mình chạy ra. Nếu không y phái ra một nhóm một mình như vậy ý muốn như thế nào? Chiếm trước bến sau đó yểm hộ đại quân qua sông?

Dương Lăng thần sắc mặt ngưng trọng, lắc đầu nói:

- Nếu là binh lính một mình khiếp đảm chạy tán loạn, không có chiến lực mạnh như vậy, một khi đột phá ra khỏi trùng vây tất nhiên đều tự chạy tứ tán, không có thể có tổ chức cùng hành động như vậy, ta còn chưa đoán được dụng ý của Triệu Toại, nhưng y phái ra một nhóm một mình như vậy, tất có mục đích.

Giang Bân gật đầu nói:

- Quốc công, ta cũng có chủ ý, bọn họ có thể phái ra một nhóm nhân mã tránh tai mắt của quân ta, tìm đường nhỏ phá vây, như vậy chúng ta cũng có thể phái ra một nhóm nhỏ lên núi, giết đến trung tâm bọn họ, trong phạm vi ba trăm dặm Đông Hoa Sơn, nhất định có đường lên núi đấy, bọn họ có bao nhiêu nhân mã có thể coi chừng qua được? Quốc công không bằng giao cho ta một đội nhân mã, ta thẳng giết Ngọc Trụ đỉnh.

Dương Lăng hừ một tiếng, nói:

- Trên núi có năm vạn người, mà không phải năm trăm người, bọn họ phái ra bốn trăm người là phá vây, ngươi lĩnh vài trăm người đi làm gì, vào vây sao? Bọn họ theo hiểm mà thủ, quân ta tấn công núi khó khăn rất lớn, căn bản không thể cùng ngươi hô ứng, ngươi dẫn một nhóm một mình xâm nhập trùng vây, cho dù võ công của ngươi cao đi chăng nữa, cũng bị bọn họ giết sạch toàn bộ, có ích gì với hành

động của đại quân ta?

Giang Bân á khẩu không nói lời nào. Dương Lăng trầm ngâm một chút, quyết đoán mà nói:

- Truyền lệnh xuống, các đạo nhân mã theo kế hoạch cũ lập tức tấn công núi! Nếu Triệu Phong Tử phái binh phá vây, chiêu an đã không có khả năng, chúng ta cũng không phải chờ đợi đến thời hạn ngày mai.

Hứa Thái hỏi:

- Quốc công, có cần phái người bao vây chặn đánh đám cô binh chạy dọc theo sông hướng tây bắc hay không?

Dương Lăng lắc đầu nói:

- Chỉ là bốn trăm người, Tôn Thiên hộ một đường truy binh là đủ. Phong Lăng độ, Bồ Tân độ một vùng đều có bố trí trọng binh canh gác, qua sông Đồng Quan lại là đại quân tập hợp, bọn họ không qua sông thì thôi, nếu không chính là tự tìm đường chết. Chúng ta tập trung binh lực tiêu diệt bọn giặc Đông Hoa Sơn, bây giờ bắt đầu, toàn lực chiếm trước các cứ điểm cửa ải hiểm yếu. Phía nam dọc theo các bến sông, toàn bộ đều trong trạng thái đề phòng, đã phòng địch thừa dịp.

- Tuân lệnh!

Hứa Thái, Giang Bân hai tay chắp vào, bước nhanh đi ra ngoài.

Trống trận nổ vang, cuộc chiến Trung Điều Sơn rốt cục khai hỏa rồi. Tiếng kêu trắng đêm không dứt, phạm vi ba trăm dặm mọi chỗ chiến hỏa lần lượt dấy lên, nhóm nhân mã mà chạy khỏi núi, trở thành ngòi nổ khai hỏa cuộc chiến, quan binh theo kế hoạch đã định, bắt đầu toàn lực tấn công núi.

Chiến báo nơi nơi không ngừng mang đến trung quân của Dương Lăng, trên sa bàn, các màu cờ xí không ngừng luân phiên thay nhau, khi thì chen vào hồng kỳ, khi thì thay lam kỳ, đó là mọi chỗ hiểm yếu được tạo thành không ngừng khi quan binh và đám cướp chém giết nhau.

Bên ngoài công kích được mất không ngừng, một số đỉnh núi đã khống chế chặt chẽ trong tay quan binh. Tốc độ đợt công kích này có chút nằm ngoài dự đoán của Dương Lăng, nhíu mi nhanh nhìn chăm chú sa bàn sau một lúc lâu, chỉ vào mấy chỗ nói:

- Nơi cửa ải khe sâu hiểm yếu này, nhất định phải chiếm trước điểm cao mới có thể đột tiến, bây giờ tiến triển quá là nhanh.

Miêu Quỳ vui sướng mà nói:

- Ha hả, chắc là đại quân chúng ta vây kín lại, làm cho cường đạo quân tâm mất đi, các lộ đại quân tiến triển thần tốc.

Dương Lăng ngưng thần nhìn từng đạo hồng kỳ sơn lĩnh trước sau chen vào kia. Vẫn thấy nghi ngờ nói:

- Quá là nhanh, tiến triển quá là nhanh, các lộ tướng lĩnh rất tham công, một khi cướp lấy đỉnh núi lập tức đột tiến, trận địa đều chưa vững chắc, phải lập tức ra lệnh cho bọn họ đánh chắc tiến chắc, cẩn thận Triệu Phong Tử vồ đến.

Hứa Thái lắc đầu nói:

- Quốc công, không kịp đâu. Kể cả bình thường, muốn đem quân lệnh truyền đạt một lần cũng không biết mất bao lâu, hiện tại trong núi địch ta đang giao nhau, khắp nơi đều chém giết đẫm máu, chiến sự một khi mở ra, đánh như thế nào phải trông cậy vào tướng lĩnh tuyến đầu tự phát huy, chúng ta căn bản không kịp truyền đạt mệnh lệnh quân lệnh, điều động bất cứ lúc nào.

Dương Lăng thở dài một hơi, đi lại khẩn trương ở trong trướng: "Thật sự đánh giá cao đối thủ sao? hay là chiêu an phân hoá làm ra tác dụng lớn như vậy? Các lộ đỉnh núi lấy huyết trải đường, chiến sự kịch liệt tuyệt đối không giả. Bọn cướp cũng không giống là có ý buông tha cho trận địa dụ ta xâm nhập.

Hơn nữa, thật sự lo lắng kẻ thù phục binh phản kích cũng không có khả năng. Ngang dọc Đông Hoa Sơn Trung Sơn lĩnh, khe rãnh phập phồng, người mai phục

dễ dàng, muốn đem nhân điều đến hình thành trận công kích thì khó khăn rồi, hơn nữa triều đình đại quân theo các lộ đồng thời đột kích, tuy nói tiến triển có chậm, vẫn có thể tạo được hiệu quả tiếp ứng lẫn nhau, bọn cướp muốn tập trung binh lực ăn luôn một đường là khả năng không lớn."

Giang Bân gặp chiến trong lòng vui mừng, nóng lòng muốn thử. Vội la lên:

- Quốc công vừa đến, bọn cướp đường lòng người chia lìa, hơn nữa lần này quốc công điều động lượng lớn quân đội Sơn Tây theo bốn phương tám hướng đồng thời khai chiến, bọn cướp chiến lực so với mấy lần trước không thể so sánh nổi, theo mạt tướng xem, bọn họ cũng không có gì để chơi, Quốc công cho ta một tốp binh, để cho ta cũng xông vào núi đi xả một chút ác khí này đi.

Dương Lăng cười cười. Nói:

- Không cần cấp. Trận sẽ có cho ngươi đánh, ngươi và người của Hứa tổng binh không thể động. Ở trong núi, không có khả năng tiêu diệt bọn họ, Triệu Phong Tử thấy tình thế không ổn, nhất định sẽ phá vây...

Hắn nói đến đây mà đồng tử đột nhiên chặt lại:

- Phá vây... Phá vây..., chẳng lẽ Triệu Phong Tử một trận đánh ác liệt cũng không đánh, trực tiếp đã nghĩ phá vây?

Dương Lăng lập tức quay người, nhìn chằm chằm sa bàn nhìn ra ngoài một hồi, từ từ nói:

- Chư vị, liệu có phải là Triệu Phong Tử vốn không muốn tiếp tục tử thủ núi, mà là quyết đoán buông tha cho nơi hiểm yếu này, chủ động phá vây?

Miêu Quỳ nghi nói:

- Bọn họ vẫn luôn thủ, vẫn luôn lui, muốn phá vây việc gì phái ra một đám người trước làm kinh động quan binh thúc chúng ta phát động tiến công các lộ đại quân? Trực tiếp tập trung nhân mã, bất chợt chọn một đường giết ra trùng vây chẳng phải càng thêm dễ dàng?

Dương Lăng cười gượng hai tiếng nói:

- Như vậy giết ra trùng vây cố nhiên dễ dàng, nhưng vận sức chờ phát động các lộ triều đình đại quân bao vây chặn đánh cũng dễ dàng. Mất đi nơi hiểm trở Đông Sơn Hoa để dựa, bọn họ ngăn cản hơn mười vạn đại quân ta như thế nào?

- Nếu Triệu Phong Tử ngay từ đầu liền quyết định phá vây, lại lấy thủ thế mê hoặc tai mắt ta, dụ các lộ đại quân ta vào núi? Chủ động phá vây, trước thu sau ra, sau khi dẫn quan binh vào núi, quyết đoán bỏ cứ điểm hiểm yếu, nhảy ra trùng vây chạy ra, các lộ đại quân nhận được tin tức, chỉnh đốn binh ngũ, xong rồi mới ra khỏi núi, có thể bằng được tốc độ hành động của bọn cướp có chuẩn bị sẵn?

- Khá lắm Triệu Phong Tử! Hứa Thái nói khí lạnh nhạt:

- Theo kinh nghiệm vài lần giao thủ, ta cũng hiểu chiến lực bọn cướp không nên để cho các lộ đại quân ta đạt được như thế, quốc công phân tích không sai, ta cũng hiểu được khả năng này rất lớn.

Ánh mắt Dương Lăng chớp động lên, không ngừng vòng quanh trên toàn bộ sa bàn, băn khoăn:

- Như vậy... Bọn họ hẳn là có một địa đạo bí mật có thể khiến đại quân thông hành, khiến cho bọn chúng nhanh chóng nhảy ra vòng vây đợi thu lưới ở trong núi, lợi dụng cơ hội ngoại tuyến hư không nghênh ngang rời đi. Y chọn phương hướng nào?

Ánh mắt hắn và của Hứa Thái không hẹn mà cùng dời về phía Hoàng Hà trên sa bàn.

Từ Phi Lăng độ bắt đầu, hạ du Hoàng Hà thay đổi hẹp, cho nên một mảng lớn khu vực này bến tàu qua sông rất nhiều, đám quân Triệu Phong Tử dẫn đầu men theo hướng nam là có ý gì? Nếu Triệu Phong Tử đúng là muốn nghĩ ra cách mới, dụ quân vào núi sau đó nhảy ra vòng vây, như vậy mục đích của y không cần nói cũng biết, hẳn là lựa chọn bến Hoàng Hà vượt sông bằng sức mạnh Hoàng Hà.

Đây cũng có thể là lựa chọn duy nhất của y, Hà Bắc, Hà Nam trọng binh ở biên giới, các nơi ở Sơn Tây thành trì bế quan tự thủ, đại quân tập hợp ở Đông Hoa Sơn. Nếu đi đường bộ, dưới sự bao vây chặn đánh của quan binh, đâu có con đường sống?

Dương Lăng thẳng lưng lên liếc nhìn Hứa Thái, đồng thời khẽ gật đầu.

Từ tham tướng đoạn đường này tấn công thong thả, mắt thấy các lộ đỉnh núi khác ẩn hiện ánh lửa, hiển nhiên quân đội đang tiến triển nhanh chóng. Từ tham tướng không khỏi lòng nóng như lửa đốt. Võ tướng thăng quan không nhanh bằng lập nhiều chiến công. Lần này là Uy Quốc công tự mình chỉ huy tác chiến, trận này

nếu đánh đẹp, thì đúng là tiền đồ giống như gấm. Nhưng hiện nay mình rõ ràng là lạc hậu hơn so với mấy lộ quan binh khác.

Từ tham tướng cầm theo đơn đao, đứng ở một chỗ trên tảng đá, chỉ vào tiền phương chi chít địa rừng cây nói:

- Phóng hỏa tiễn, mẹ nó, nhất định phải bắt nó lại cho ta. Lưu Thiên hộ, cung tiễn yểm hộ. Diêm Thiên hộ xung phong cho ta lần nữa.

Hai viên đại tướng thủ hạ còn chưa kịp trả lời, trong trời đêm bỗng nhiên vang lên một trận phong thanh dồn dập phá không gian, bầu trời đêm lắng xuống, nhưng không trung bỗng nhiên địa tối sầm lại, vẫn lập tức khiến người ý thức được chuyện gì xảy ra. Từ tham tướng hoảng hốt. Gã cực kỳ nhanh nhảy xuống phía sau tảng đá trốn tránh, đồng thời hô lớn nói:

- Thuẫn bài thủ... A!

Một mũi điêu linh bắn trúng đầu vai gã, khóa tử giáp xích ngăn trở không cho mũi tên tiếp tục vào sâu, tuy nhiên vẫn bắn thương da thịt. Ngàn mũi tên lông vũ rơi xuống ào ào theo tiếng gió. Những sinh mạng càn quét vội vàng không kịp chuẩn bị, khắp nơi truyền ra tiếng kêu thảm thiết thê lương.

Từ tham tướng không nghĩ tới đoạn đường này bọn hưởng mã có nhiều cung tiễn thủ như vậy, mới vừa rồi đã xung phong ba hiệp, từ đầu đến cuối không thấy đối phương bại lộ thực lực như vậy. Gã vừa sợ vừa giận, nhổ mũi tên ra, đang muốn thét ra lệnh quan binh phản kích, tiền phương trong rừng đột nhiên vang lên tiếng kêu long trời lở đất địa, nương thế núi, vô số nhân mã lao ra khỏi rừng cây, hướng về phía quân của gã.

- Ô!

Cho dù vừa rồi bị mưa tên tập kích, cung tiễn thủ xuất hiện sau tấm chắn vẫn đang phản ứng cực nhanh, ngàn hàn tinh đánh về phía trong bóng đêm hạt mưa, sát khí ngút trời. Bọn Hưởng mã đạo mộc lá chắn, chỉ nghe "Soạt soạt" bên tai không dứt, đại đội nhân mã dừng lại trong nháy mắt, một nhóm người trúng tên ngã

xuống, nhưng người khác lấy tốc độ nhanh hơn mãnh liệt xông lên về phía trước.

Phía sau bọn gã cũng không ngừng có mưa tên phóng ra. Lướt qua bọn họ đổ lên trận địa quân Minh. Gần rồi, càng gần. Từ tham tướng vung đơn đao lên hét lớn một tiếng, dẫn sĩ tốt xông tới chính diện.

Tuy nói đầu vai bị thương, nhưng hai tay của gã cầm đao, trái bổ phải chém, như lang như hổ, trong khoảnh khắc bọn hưởng mã đạo bị gã chém bay. Từng đợt rồi lại từng đợt sơn tặc hung hãn không sợ chết địa mãnh liệt xông lại, bọn quan binh cũng nắm đao thương lên reo hò tiếp đón, nhân mã hai bên giống như sóng lớn bờ biển đụng vào nhau, sóng người quay cuồng, máu chảy như suối.

Nhóm binh lính đầu tiên nghênh diện với bọn hưởng mã đạo ngã xuống, nhóm thứ hai, nhóm thứ hai liền đạp thi thể của bọn họ không chút do dự để tiến lên, vô số binh lính, reo hò hướng về phía tử vong, tìm kiếm sức sống. Hương vị máu tanh tràn ngập thung lũng.

Binh lực của kẻ thù trú đóng ở tại đây nhiều lắm, Từ tham tướng giết đến nỗi cánh tay bủn rủn, gã lảo đảo lui hai bước dưới sự tùy tùng của thân binh, lau mồ hôi máu loãng trên mặt, hắn chú ý tới, nhân mã của mình trận tuyến đã loạn, gấp gáp đổi công thành thủ hình thành ba đạo phòng tuyến, đạo thứ nhất đã bị công phá, đạo thứ hai nơi gã đang ở giằng co chiến đấu kịch liệt, mà địch nhân càng đánh càng hăng, càng đánh càng nhiều, đang hướng tới gần đạo phòng tuyến thứ ba.

Các nơi đều đang toàn lực tấn công núi, không có khả năng có người đến trợ giúp gã, cũng không kịp trèo đèo lội suối tới tương trợ, Từ tham tướng khẽ cắn môi, đang muốn mệnh lệnh đội hậu bị toàn bộ tham gia chiến đấu, trong trời đêm một trận đồng chiêng vang lên, tiền phương trong rừng lại là một loạt tiếng hò hét long trời lở đất địa, sơn tặc đang kịch liệt chém giết nghe được tiếng chiêng liền vừa chiến vừa lui, dần dần tránh đường ra, lại một tốp quân đầy đủ sức lực mãnh liệt lao đến, giống như thái rau chém dưa. Bởi vì mãnh liệt chém giết, quan binh tinh tàn lực tận, động tác chậm chạp mệt đổ ngã ra một đống.

Từ tham tướng khóc không ra nước mắt:

- Điều này sao có thể?

Triệu Phong Tử tổng cộng mới năm vạn binh mã, bố phòng khe rãnh sơn lĩnh bốn phương tám hướng, mỗi chỗ căn bản không thể vượt qua hai ngàn người. Bọn họ tại nơi cửa cốc này làm sao có thể an bài nhiều nhân mã như vậy?

Hỏa tiễn dẫn cháy cây khô, bụi rậm cây cỏ, ánh sáng mới vừa từ xuất hiện trong rừng, một đại kỳ màu đen chữ to chiếu vào mắt Từ tham tướng, lập tức gã cả kinh cứng họng. Quân đội của gã tiến triển thong thả, từ đầu đến cuối chuyển động bên ngoài Đông Hoa Sơn. Nhưng mà chữ Hình trên mặt đại kỳ giơ lên trước mặt khiến gã kinh ngạc.

Ai cũng biết lão đại bọn cướp Trung Điều Sơn là Hình Lão Hổ, nhưng người này khởi binh không lâu liền sinh bệnh, đội ngũ quân tạo phản này vẫn là Triệu Phong Tử chỉ huy, hôm nay đen thật, không ngờ hổ bệnh xuất núi rồi, hơn nữa xông đến nơi này, bọn chúng... bọn chúng muốn phá vây rồi. Hơn nữa cửa khẩu lựa chọn đột phá chính là khu vực phòng thủ của ta!

Ý nghĩ này như điện quang hỏa thạch loé hiện lên trong lòng của gã. Nhưng đã chậm, Hình Lão Hổ ôm bệnh lãnh binh, tự mình suất lĩnh từ Bá Châu đi ra, nhiều lần trải qua sát phạt, tinh nhuệ còn sống sót trong sóng cát, dùng sức tấn công điên cuồng muốn huỷ diệt tất cả để xông đến...

Khi Dương Lăng nhận được tin tức, phòng tuyến Từ tham tướng đã bị công phá, Từ tham tướng, Lưu Thiên hộ chết trận. Diêm Thiên hộ chỉ dẫn ba trăm tàn binh thoát được tính mạng. Người chạy đến bao tin mang đến tin tức chuẩn xác, Hình Lão Hổ tự mình dẫn đội, khoảng một vạn năm ngàn người đột phá ra khỏi trùng vây thẳng đến Phi Lăng Độ. Nơi bọn họ lựa chọn lại là phòng ngự nghiêm nhất, cũng là độ khẩu khó công phá nhất.

Giang Bân phụng mệnh dẫn bộ đội sở thuộc vội vã đến Phi Lăng Độ trợ giúp.

Miêu Quỳ vội la lên:

- Quốc công, binh mã trong núi đã không kịp rút lui, nên đem nhị tuyến phòng thủ bên ngoài toàn bộ hướng về Phi Lăng Độ, vây chết người của Hình Lão Hổ ở

đó, một trận chiến toàn diệt.

Dương Lăng ngồi ở trong ghế, trầm tư sau một lúc lâu mới hít vào một hơi thật dài, chậm rãi nói:

- Triệu Phong Tử đâu? Hồng Nương Tử đâu? Ai có thể nói cho ta biết, bọn họ... bây giờ đang ở đâu? Là ở trong quân Hình Lão Hổ, hay là còn đang ở trong Trung Điều Sơn?

Chiến tranh dấy lên khắp nơi, trong núi Đông Hoa Sơn binh phỉ hỗn tạp, đâu đâu cũng đều đang đánh nhau, Hình lão hổ phá vòng vây ra ngoài đã bao vây Phi Lăng Độ, vòng ngoài lại bị quan binh triều đình vây đánh, cuộc chiến ngày càng kịch liệt.

Hứa Thái cũng không nén được tức giận, đề nghị Dương Lăng:

- Quốc công, mặc kệ bọn hưởng mã đạo còn có âm mưu quỷ kế gì, nhưng một vạn năm ngàn quân tinh nhuệ xuất hiện ở Phi Lăng Độ là sự thực, hơn nữa Chủ soái Hình lão hổ lại đang ở trong quân, hẳn là chủ lực của bọn hưởng mã đạo. Nhìn từ tình thế chiến trường, vượt sông xuôi xuống phía nam cũng là đường ra duy nhất của chúng.

- Theo mạt tướng thấy, thời cơ không thể bỏ qua, nhân mã của Giang Bân phối hợp với thủ quân ở Phi Lăng Độ chưa chắc có thể tiêu diệt kẻ địch này, kể cả Phi Lăng Độ không mất, chủ lực của chúng trốn thoát ra ngoài sẽ tiếp tục men sông đi về phía đông, rời khỏi khu vực bố phòng chính của chúng ta, điều động lại thuộc hạ sẽ khó khăn hơn nhiều.

Dương Lăng luôn cảm thấy sự việc không đơn giản như thế, cho nên trong lòng do dự không quyết. Phi Lăng Độ đương nhiên không thể để mất, nhưng chủ lực trong núi thật sự toàn bộ chạy trốn tới Phi Lăng Độ sao? Hắn trầm ngâm một lúc mới chậm rãi nói:

- Không được, đội dự bị của ngươi vẫn chưa được hành động, ở đây, chúng ta vừa khống chế được núi Đông Hoa Sơn, vừa tăng tiếp viện tới Phi Lăng Độ bất cức lúc nào. Một khi chạy tới bến tàu hết, nếu đám hưởng mã đạo trong núi lại xuất kì binh mà nói, phòng tuyến thứ hai của chúng ta quá hư không rồi.

Hắn suy nghĩ một chút bèn nói:

- Binh mã của Thái Nguyên Vệ bố phòng ở ngọn núi Thương Bách lĩnh, lệnh cho Trương Dần chỉ huy Thái Nguyên Tả vệ, Thái Nguyên trung vệ trợ giúp Phi Lăng Độ, cần phải tiêu diệt toàn bộ thuộc hạ của Hình lão hổ, Thái Nguyên Hữu vệ vẫn đóng quân tại chỗ.

- Vâng!

Lính truyền tin chắp tay lại, gấp rút rời đi.

Phòng tuyến thứ nhất của Phi Lăng Độ đã bị công phá, hai bên đang giằng co nhau, Giang Bân dẫn dắt thuộc hạ phi ngựa chạy tới, quan binh trước sau bao vây nhóm hưởng mã đạo ở chính giữa một cuộc huyết chiến.

Hình lão Hổ lệnh cho một đội nhân mã bao vây viện quân, còn mình dẫn người công kích trực tiếp phòng tuyến thứ hai. Bốn quan binh reo hò giơ thương lao đến, bị Hình lão hổ phi đao đâm chết một tên. Sau đó thân binh bên cạnh liền chiến đấu với ba tên khác.

Tùy tùng của Hình lão hổ đều là bọn hưởng mã đạo Bá Châu, võ nghệ cao cường, máu lạnh thích giết chóc, hai thanh đơn đao không hề thua kém thanh trường thương kia, chưa kịp tam hợp thì đã xông đến gần, một tên quan binh bị đâm một đao vào ngực, tên khác bị chặt mất năm ngón tay, kêu gào thảm thiết không thôi. Ánh đao sáng loáng, cổ đã bị rạch ra rồi.

Người thứ ba vung thương tới, vừa mới xoay người định trốn thì đã bị một gã hãn phỉ đoạt thương trong tay đâm ngã từ phía sau. Lúc này một gã Bách hộ cưỡi ngựa vọt tới, thương trong tay đâm xéo Hình lão hổ một cách lặng lẽ, nhanh như gió. Tả hữu đều kinh sợ, định nhào tới cứu viện, nhưng Hình lão hổ đã hít thở sâu, xách đao lên đỡ đòn.

Hai người gặp nhau, thân hình thấp bé của Hình lão hổ lập tức dựng người lên, thân đao chọc nghiêng, quát to một tiếng:

- Mở!

"Keng" một tiếng, trường thương trước mặt đâm tới nhờ vào thế lao của ngựa đã bị một đao này của lão đập văng ra, bay trong không trung, chiến mã lướt qua sát người, thân hình của Hình lão hổ rơi xuống, vặn người lướt qua giữa không trung, mã đao trong tay mang theo một trận cuồng phong, chém qua bên hông tên Bách hộ đó.

Máu tươi "phụt" lên trời cao, nửa thân mình rơi xuống đất, phần chân tay còn lại bị chiến mã lôi đi thật xa, vũ lực kinh người này khiến quan binh xung quanh hoảng sợ hét lên. Mặc dù Hình lão hổ vung ra một đao rồi lập tức chống đất ho sặc sụa, nhưng không ai dám lại gần.

Đại chiến của mấy vạn binh mã, đâu đâu cũng thấy cảnh chém giết tùy ý như vậy, phóng tầm mắt ra xa, khắp nơi đều là ánh đao kiếm, tiếng kêu giết không ngớt, xa gần đều là người vung đao thương liều mạng chém giết, giống như sóng biển trong bãi đá ngầm, đập vào nhau đánh ầm ầm. Hình lão hổ thở dốc một lát, lạnh lùng nói:

- Người đâu, xông lên cho ta, nhất định phải chiếm được Phi Lăng Độ!

Nói xong, Hình lão hổ vung đao thép nhỏ máu lao tới chỗ đám quan quân tập trung dầy đặc nhất, tùy tùng của lão ai nấy dũng mãnh theo sát phía sau, giống như một cơn gió xoáy làm người tan tác, quan binh phòng thủ ở Phi Lăng Độ nhìn thấy đại kỳ chữ Hình của lão thì căn bản không dám đơn độc đối phó với lão, lập tức tránh ra hai bên.

Chiến mã của Hình lão hổ bị bắn chết, vì thế lão dẫn theo tùy tùng bộ chiến, chủ yếu là đích thân chỉ huy đội ngũ, đốc thúc khích lệ những tân binh mới ra nhập ngũ không lâu này, còn bên kia là một nhóm hơn trăm kỵ binh do bọn hưởng mã đạo Bá Châu tổ thành chịu trách nhiệm cắt đường, trung phong. Bọn họ lợi dụng đặc điểm khoái mã khinh kỵ, đao pháp tinh xảo để đột tiến trên đường, phá phòng tuyến thứ hai của quan quân, đám hãn phỉ theo sát phía sau cầm trường thương, xiên sắt, gậy răng sói bằng gỗ áp sát, dồn quan binh tiếp tục lùi về phía sau.

Tổng binh lực quan binh ở vùng núi Đông Hoa Sơn bờ bắc sông Hoàng Hà gấp ba lần bọn hưởng mã đạo, nhưng binh lực cục bộ có hạn, hiện giờ cùng với sự gia nhập của quân chủ lực Giang Bân, sĩ khí quan binh vốn đang e sợ nay đã được chấn hưng, quan binh đã bị xé toạc lỗ hổng không ngừng chen chúc lên thôi thúc một tuyến quan binh không ngăn được chiến lực mạnh mẽ của hãn phỉ mà có ý muốn lui về phía sau lại bị phản công về. Nhưng tóm lại tình thế cực kỳ nguy cấp.

Hình lão hổ quyết định thật nhanh, lập tức bỏ qua kẻ địch trước mặt, phát động tấn công từ hai cánh hướng về phía chủ công. Đại kỳ của lão tung bay, Triệu Phan, Triệu Hạo lập tức cũng dẫn quân lao tới, mấy nhóm quân hưởng mã đạo chia ra tác chiến đã hình thành một trận hình tấn công tam giác, quan binh bị bao vây ở giữa họ trở nên tứ cố vô thân, nhanh chóng bị tiêu diệt.

Viện quân đã tới, tướng lĩnh thủ quân Hạ Thủ Bị ở Phi Lăng Độ đã định trong lòng, vội vàng sai người vung tín hiệu đèn, hiệu lệnh cho binh lính lui về giữ thành lũy cuối cùng, lấy cung nỏ hỏa khí ngăn địch, tránh để thương vong lớn hơn.

Thế nhưng binh mã của Hình lão hổ phần lớn xuất thân từ lục lâm, khi đánh nhau thì hung hãn không sợ chết, đặc biệt là khi sống chết ở trước mắt, đoạt được Phi Lăng Độ mới có hy vọng sống, nên ai nấy càng dũng mãnh hơn, máu toàn thân họ dường như đều bị đốt cháy bùng lên bởi tiếng kêu giết, làm như không thấy những xác chết liên tục ngã xuống kia, chỉ lo giơ binh khí vọt về phía trước.

Quan binh lui xuống phòng tuyến cuối cùng có một số đang giằng co tác chiến, đám hưởng mã đạo lui sát đuổi theo không rời nửa bước, mặc dù cái giá phải trả là thương vong rất lớn, nhưng có mấy nơi đã có chiến hào bọn hưởng mã đạo tiến đánh quan binh, mặc dù chúng nhanh chóng bị quan binh chen chúc ào tới chém nát tan tành, nhưng cuộc hỗn loạn tạm thời đã khiến cung nỏ hỏa khí ở mấy nơi này không thể phát huy, kỵ binh của bọn hưởng mã đạo lập tức thừa thế tiếp tục tấn công mấy nơi này, ý đồ chiếm lĩnh triệt để bến tàu.

Hạ Thủ Bị thấy thế kinh hãi, vội vàng tổ chức nhân mã tăng viện trợ tới những chỗ hổng bị xé rách này, đồng thời bắn đèn tín hiệu với viện quân ở đằng xa, Giang Bân thúc ngựa vung đao, lao lên trên cùng, hai thanh trảm mã đao múa may giống như bánh xe, ra tay giết người vô số, vừa nhìn thấy tín hiệu cờ phía xa, trong lòng càng thêm lo lắng. Gã hét lớn một tiếng, song đao tung lên không chém xuống, chém ngữa tên cướp phía trước, gào to:

- Các huynh đệ, xông lên cho ta, phía sau còn có viện quân, bọn hưởng mã đạo chạy không thoát. Giết! Giết đi!

Nói xong thừa dịp quan binh bên cạnh vọt mạnh lên phía trước, y ghìm ngựa, xách hai thanh mã đao máu chảy đầm đìa lên, nói với thân binh bên cạnh:

- Đi! Báo với Quốc công gia, bọn hưởng mã đạo quyết tâm chiếm lấy Phi Lăng Độ, quan binh ở bến tàu quá vô năng, chỉ biết phòng thủ, không biết phối hợp vây đánh.

Nói được một nửa chợt nhớ lúc này tố cáo không ổn, Giang Bân vội sửa lời:

- Không. Nói với Quốc công, bọn hưởng mã đạo có chủ lực vô cùng dũng mãnh, thỉnh cầu tiếp tục phái viện binh, nếu không dù cho giữ được Phi Lăng Độ thì cũng không cản được bọn chúng chạy trốn.

Hai tiếng gào to ban nãy của gã trong tình hình tiếng kêu giết ầm ĩ trong vạn mã quân này mặc dù không rõ lắm, nhưng vẫn bị người cản đường phía sau của bọn hưởng mã đạo nghe thấy. Thủ lĩnh chịu trách nhiệm cản ở phía sau chính là Lưu Nhập Thất, gã đang nhìn quanh cảnh tượng giết chốc lẫn lộn, chỉ thấy viên mãnh tướng trên ngựa đó chính là kẻ thù giết chết đại ca kết nghĩa Trương Mậu của mình,

hai mắt đều đỏ rực.

Lưu Nhập Thất vung đao mạnh mẽ, gào to mấy tiếng rồi liên tiếp chém xuống năm sáu quan binh, sau đó bay lùi lại mấy bước, kêu một tên hưởng mã đạo xách cung lại, sau đó lấy cung trong tay, nhìn chằm chằm Giang Bân.

Nhân mã trên chiến trường tung hoành, kỳ phiên phấp phới. Lại là đang lúc trời đêm, rất nhiều nơi bùng cháy dữ dội, tiễn pháp của Lưu Nhập Thất mặc dù không tệ, nhưng trong hoàn cảnh này cũng không dám khinh thường, gã nín thở chăm chú nhìn, chờ cơ hội vừa bắn ào một mũi tên ra là lập tức lại rút lấy một tên cho lên dây cung chuẩn bị.

Giang Bân vội vàng căn dặn, lính liên lạc thúc ngựa rời đi. Giang Bân vừa mới quay đầu lại thì thình lình lóe lên một tia sáng trong trời đêm, y né tránh theo ý thức, đôi vai rung lên, một mũi tên lạnh cắm trúng vào bả vai. Giang Bân hiếu chiến thích giết chóc, lúc này lại đúng vào tháng tám trời nóng bỏng, y không chịu mặc trọng giáp, không ngờ giờ lại trúng mũi tên của người ta.

Giang Bân đau đớn kêu "a" một tiếng, tinh thần chấn động vẫn chưa kịp có phản ứng, Lưu Nhập Thất lạnh lùng mỉm cười, mũi tên thứ hai lại không chút do dự được bắn ra. Giang Bân đang lúc quay đầu xem bả vai thì mũi tên thứ hai đã "phập" một tiếng, cắm vào má phải của y rồi xuyên ra phía má trái, cắm sâu đến tận đuôi mũi tên.

Lần này Giang Bân muốn hét to cũng không nổi, y cúi gập mạnh người xuống, thúc ngựa đi, đám thân binh ào lên bảo vệ y ở giữa. Giang Bân nhịn đau ngẩng đầu lên, chỉ thấy một người đằng xa đang giơ đao thương bốn phía, đứng sừng sững bất động trên chiến trường không ngừng tiếng kêu giết kia, trong tay giơ một thanh đơn đao, cười hô hố với y:

- Giang Bân bất nhân bất nghĩa, mũi tên này của ông mày là bắn thay cho Trương Mậu đại ca, tên gian tặc nhà ngươi có gan thì đấu với ta một trận?

Giang Bân phẫn nộ, một cơn tức giận mạnh mẽ xông lên đỉnh đầu y khiến y run

lên.

Y chưa từng chịu thua thiệt lớn như thế, đôi mắt nhất thời vằn đỏ. Mũi tên nhọn xuyên má, Y không gào thét được, cơn tức giận dâng đầy trong lồng ngực không có chỗ giải phóng, Giang Bân như con sói bị thương kêu rống lên một tiếng buồn bã, quân phục trước ngực rung theo, cơ ngực rắn chắc cường tráng dường như cũng xoay mình trở nên càng lớn hơn.

Y rút mũi tên ở vai trái ra, trên mũi tên móc rách một miếng thịt, đau nhức vô cùng, nhưng y lại không hề để ý, hai mắt chỉ chăm chú nhìn theo bóng người duy nhất đứng im trong chiến trường chém giết như nước tuôn ra kia, sau đó giơ song đao lên, đạp ngựa thật mạnh, hai mắt trợn lên im lặng vọt mạnh về phía đó.

Ngựa phi nhanh như rồng, bọn hưởng mã đạo đang chém giết đột ngột nhìn thấy các quan tướng triều đình đang lao tới, vội không kịp chuẩn bị, đợi vung đao vung thương đâm chém, Giang Bân vẫn không quan tâm lao tới, đám thân binh sợ tới mức suýt mất hồn tiếp tục theo sát phía sau, chém chúng ngã lộn xuống đất.

Chiến mã xông thẳng tới trước mặt Lưu Nhập Thất, hai tên thân binh của Lưu Nhập Thất ra ngăn cản, Giang Bân cũng không thốt một tiếng, vung đao trong tay nhanh như chớp, đẩy binh khí của hai người ra. Chém ngang một cái mũi tên lông vũ phất phơ lên mặt, rồi lại lao về phía Lưu Nhập Thất.

Thấy khí thế kinh người này, Lưu Nhập Thất cũng hoảng sợ, gã vội vã lót bước xoay eo, dùng hết lực toàn thân, giơ đao đỡ đòn.

"Keng! Keng keng! Keng keng keng!" Tia lửa văng khắp nơi, binh khí hai bên va vào nhau liên tiếp, "cạch" một cái, thanh trảm mã đao trong tay Giang Bân bị đứt làm đôi, Lưu Nhập Thất giẫm chân lui lại mấy bước, vấp phải một xác chết phía sau nên ngồi phịch xuống đất, đơn đao tuột khỏi tay rơi keng xuống đất, trên đó đã đầy chỗ mẻ.

Giang Bân cười dữ tợn, giống như âm hồn không tiêu tan nhảy từ trên ngựa xuống, xách đao nhào mạnh tới, tùy tùng hai bên người Lưu Nhập Thất thấy thế vội vã tiến lên cản lại. Hai tay Giang Bân cầm đao, một chân làm trụ, thân hình thấp bé xoay như gió lốc bổ xuống người chúng, người chết kẻ bị thương, còn cả binh khí bị đánh bay, cả người ngã xuống.

Trên đùi Giang Bân trúng một thương, lồng ngực bị dao nhọn rạch một nhát, máu tươi túa ra, trông ghê như ác quỷ, y cũng không thèm để ý, chỉ nghe thấy tiếng thở dốc nặng nề, đao trong tay y đã giơ lên nhanh như chớp, hai khuỷu tay không gập lại, đao này đã bổ xuống thật nhanh!

Không ai nghe thấy âm thanh như sấm rền này, tiếng mũi đao xâm nhập vào cơ thể, tiếng xương cốt gãy rời, tiếng kêu thảm thiết đột nhiên dừng lại hòa cùng một chỗ, một đao của Giang Bân chém xuống, người đứng trên một gối trụ, hai tay nắm chặt chuôi đao, cơ cánh tay căng lên như quả bóng, rách toạc cả bộ quân phục.

Một đao này đã dùng hết toàn lực của y, mũi đao có lẽ đã chém xuống đất. Dưới sự theo dõi chăm chú của những người bên cạnh đang trợn mắt há hốc mồm, đao đó bỗng nhiên đứt gãy, lại nhìn thấy Lưu Nhập Thất đang ngồi trên xác chết đối diện, hai mắt trợn trừng nhìn Giang Bân kinh ngạc, bỗng nhiên, hai bóng người đổ gục sang hai bên, một đao đã chặt hết xác chết của gã thành hai nửa.

Người Đông Doanh đúc luyện đao mới, thường là khi bốn năm mươi tuổi, chọn người chết hay tử tù có cơ bắp cứng rắn để thử đao. Chặt chém vào giáp vai hoặc xương chậu của gã, chém đứt một thân người gọi là nhất đỗng đao, hai thân gọi là lưỡng đỗng đao, thông thường sẽ không vượt quá tam đỗng, kỉ lục cao nhất là Thập lang binh vệ đã lập nên thành tích kinh người là thất đỗng. Chỉ có điều không biết đao bổ từ sọ xuống, chặt dọc người thành hai nửa, rồi lại vung ngang chém đứt người phía dưới mình, đao dài cắm sâu vào bùn đất một thước như của Giang Bân thì nên gọi là mấy đỗng.

Giang Bân lắc lư đứng dậy, khắp đầu và mặt toàn là máu, miệng cũng chảy ào ào máu tươi, nhưng y lại nhếch miệng khẽ cười, một mũi tên rung bần bật trên mặt, tình hình đó giống như hung thần ác ma giáng thế, dù bọn hưởng mã đạo bên cạnh đều là hãn phỉ giết người không chớp mắt, nhưng tận mắt thấy tình cảnh này cũng khiếp vía. Bọn chúng hô lên một tiếng, lập tức bỏ chạy rầm rầm.

Thân binh của Giang Bân ùa tới dìu y, người còn lại thì liều mạng đuổi giết đối thủ. Giang Bân bẻ gãy thân mũi tên trên má, dùng mũi tên gãy đó đâm vào phần đùi của Lưu Nhập Thất đã bị chặt thành hai nửa, cũng không làm tổn thương, y cướp lấy một thanh đao từ trong tay thị vệ, lại lao vào trong đám người như cơn lốc. Đám quan binh mắt thấy tướng lĩnh thần uy như thế, nhất tề hò hét xung phong liều chết, bọn hưởng mã đạo phía sau bắt đầu liên tục tháo chạy.

Lính liên lạc của Giang Bân báo cáo tình hình chiến đấu ở Phi Lăng Độ cho Dương Lăng. Dương Lăng xem bản đồ, dùng ngón tay chỉ mạnh vào một điểm, nhíu mày nói:

- Truyền lệnh tiếp, lệnh cho Trương Dần tăng tốc rút quân từ đỉnh núi, chi viện Phi Lăng Độ.

Hứa Thái nói:

- Quốc công, phía Trương Dần đại đa số là bộ tốt, hơn nữa trên núi thiết lập trận thế phòng thủ, tránh cho bọn hưởng mã đạo lợi dụng những dãy núi liên miên chạy trốn về phía Thái Hành, bảo gã tập hợp binh mã xuống núi chạy tới Phi Lăng Độ, thực sự từ nơi này không thể phát binh nhanh chóng. Bây giờ trận địa bên ngoài vẫn không có động tĩnh, quân đội các đường trong núi Đông Hoa đang tấn công bọn hưởng mã đạo tiêu diệt đỉnh Ngũ lão, cuộc đánh giết cướp đoạn từng tấc đất cũng

vô cùng kịch liệt, theo mạt tướng thấy, bọn chúng đang bỏ tốt để bảo vệ tướng soái, yểm hộ cho Hình lão hổ phá vòng vây.

Miêu Quỳ cũng nói:

- Quốc công, không thể do dự nữa, để Bồ Châu phát binh nhanh tới đỉnh Thương Bách lĩnh. Giang Bân mặc dù dũng mãnh nhưng cũng không ngăn được Hình lão hổ, hơn một vạn nhân mã đã là một miếng thịt mỡ, tuyệt đối không được để chúng trốn thoát lần nữa.

Dương Lăng trừng mắt nhìn bản đồ sa bàn:

- Nhóm hưởng mã đạo nhỏ đi trước phá vây men theo Hoàng Hà, rõ ràng là đang tìm kiếm bến tàu. Hình lão hổ là chủ soái của bọn cướp, lại dẫn theo gần một phần ba quân tinh nhuệ, nếu nói gã muốn dụ địch, dùng nhiều binh mã như vậy thậm chí lôi theo cả chủ soái, căn bản không có khả năng. Lẽ nào ta đã đoán sai, Triệu Toại lại hết hy vọng như vậy, cam tâm tình nguyện chịu chết ở Trung Điều Sơn, thu hút trọng binh yểm hộ Hình lão hổ phá vây?

Hắn kéo mạnh đầu sa bàn, nói:

- Nhổ trại, chia làm hai đường bọc đánh trái phải Phi Lăng Độ, không cần toàn diệt nhân mã của Hình lão hổ, truyền lệnh cho nhân mã của Trương Dần tăng tốc hành quân, bịt kín trung lộ.

Hứa Thái cuối cùng đã có cớ để đánh, tinh thần lập tức phấn chấn, vội vàng chắp tay đồng ý.

Kèn lệnh kêu liên tục trong quân doanh, đám quan binh chờ xuất phát từ lâu nhanh chóng tập kết, bắt đầu bọc đánh về phía Phi Lăng Độ.

Trên Nguyệt Bình lương, Lý Hoa vội tới sứt đầu mẻ trản, các nơi thất bại, tin tức quan binh đã tập kết bao vây đỉnh núi chính là Ngũ Lão đã khiến y thất kinh. "Làm sao như vậy được? Làm sao lại thế chứ? Hình lão hổ, Triệu Phong Tử lần lượt dẫn quân phá vây, chúng mới là khâm phạm, chúng mới là chủ lực, tên khốn

Dương Lăng kia tại sao vẫn không rút quân? Mẹ nó chứ, sao cứ gây khó dễ cho ông mày?"

Chu Bàn xách quỷ đầu đao sợ hãi xông vào, vẻ mặt như đưa đám, nói:

- Đại ca, đỉnh Kỳ Bàn đã thất thủ rồi.

- Hả?

Lý Hoa quá sợ hãi, giậm chân nói:

- Ba Lục Tử giữ núi thế nào vậy? Mau. Lập tức phái người tiếp viện, nếu quan binh đứng vững chân rồi thì bốn đỉnh núi còn lại cũng càng khó giữ hơn.

Chu Bàn ghé sát vào, đè thấp giọng lo lắng nói:

- Đại ca, hai vạn nhân mã trong núi mà qua một phen đại chiến đã tổn thất bảy ngàn, hơn nữa quan binh căn bản không có ý rút lui đi, đệ thấy chúng ta đã trúng kế của Triệu Phong Tử rồi. Lão tam mất tích có lẽ cũng là do y giở trò quỷ. Chắc là y biết chúng ta có tính toán khác, thành tâm để cho chúng ta phải chịu chết.

Lý Hoa nhìn đám tâm phúc trong sơn động, sau đó kéo Chu Bàn đến một góc, thì thầm nói:

- Làm sao lại như vậy? Triệu Phong Tử không trọng nghĩa khí như thế sao? Hơn nữa sơn trại của chúng ta vốn chưa tới năm ngàn người, Triệu Phong Tử lại cho ta một vạn năm ngàn địa binh, vì nói dối ta sao? Y nỡ bỏ ra vốn gốc lớn thế sao?

Chu Bàn dậm chân nói:

- Đại ca ơi, vậy huynh nói xem, nếu gã thật sự hành động theo kế hoạch thì quan binh sao có thể không theo không buông lỏng tấn công núi? Y nếu không phải là hào phóng như thế, ngớ ngẩn để lại cho chúng ta nhiều binh mã thế, ai tin được y chứ!

Nghĩa khí? Ta thấy từ khi Dương Lăng chiêu hàng, người nối nghiệp này bắt đầu có dự định riêng, nghĩa khí gì chứ, bây giờ là cha chết mẹ gả cho người khác, thân ai người đấy lo!

Lão Đại, chúng ta không thể ngu ngốc chờ đợi, còn đợi nữa thì quan binh bốn phía đã bị bao vây, vây chặt như thùng sắt, muốn chạy cũng không nổi. Theo ta thấy, chúng ta rút lui đi, men theo rừng núi đi về phía núi Vương Ốc Sơn.

- Nhưng nhân mã có kịp triệu hồi không? Quan binh đó vẫn chưa đuổi kịp mà? Chu Bàn thấy lòng như lửa đốt, gượng cười nói:

- Lão Đại, còn chiêu nhân mã gì chứ, đám lính mới chiêu mộ từ các sơn trại khác chạy tới đó rõ ràng là một sự vướng víu. Triệu phong tử cho quả táo ngọt, bảo bọn chúng bán mạng cho gã. Chúng ta sẽ không thể lợi dụng được chúng bán mạng cho chúng ta? Còn để lại rừng xanh, sợ gì không có củi đun, dẫn nhân mã của chúng ta lập tức đi tới Lịch Sơn, lên núi Vương Ốc Sơn, mấy ngọn núi kia cũng đành phải vậy.

- Báo...! Đỉnh Thái Ất đã bị quan binh công hãm. La đầu lĩnh xin Đại trại chủ lập tức phát viện binh.

- A! Đỉnh Thái Ất cũng thất thủ rồi sao? Mau mau, các ngươi đều lại đây! Lý Hoa vội vàng hô to.

Một đám thân tín lâu la chen chúc tới, mồm năm miệng mười nói:

- Đại ca, làm sao bây giờ?

- Con mẹ nó chứ, cái tên họ La đúng là loại vô dụng. Đại ca, đệ đi đoạt lại đỉnh Thái Ất!

- Đúng vậy, đúng vậy, chúng ta trước đây có năm ngàn nhân mã, đều không coi quan binh ra gì cả, bây giờ đại ca có tới hai vạn quân, binh hùng tướng mạnh, sợ ông ta gì chứ? Đại ca, Hồ lão thất ta, nhất định...

- Đừng làm ầm nữa!

Lý Hoa hét lớn một tiếng, quát đám thuộc hạ, sau đó nhìn lướt bốn phía, trầm giọng nói:

- Nhanh lên, thứ gì mang được đều mang hết, đi theo ta!

- Đại ca, huynh nên ngồi trấn thủ trung quân mới phải, có việc gì cứ để tiểu đệ làm thay huynh, không thể để lão Đại đích thân phải đi giành lấy đỉnh Thái Ất đâu, đại ca.

Lý Hoa quê quá hóa khùng, vung tay lên, quát lớn:

- Đại cái đít ấy! Tất cả dọn dẹp một chút, chúng ta lập tức chạy trốn về núi Lịch Sơn, ta không tin quan binh có thể đuổi kịp lên Vương Ốc Sơn!

- Hả?

Trong đêm, không biết có bao nhiêu nhân mã cứ lẳng lặng đứng đợi ở trong sơn cốc. Nơi này thực sự là một vùng đất chết, hai bên là vách núi đá, một bên là con đường dốc cực kì hiểm trở, phía sau là khe núi sâu, vì thế chỉ có thể tiến vào từ phía trước, bên sườn kia là con đường hướng lên núi.

Nếu quan binh tiến vào tiêu diệt nơi này, chỉ cần binh lực hơn một vạn nhân mã cũng đủ bị tắc nghẽn tại khe cốc không có đường sống rồi. Binh đi nước cờ hiểm, hôm nay chỉ vì đối phó với đại quân của Dương Lăng, bảo toàn thực lực của mình mà Triệu Toại đã hết sức lo lắng và sử dụng hết khả năng có thể có của mình rồi.

Y phải phá vòng vây, nhưng lại chọn phòng thủ trước, mạo hiểm mang binh mã mà mình định chuẩn bị cho việc phá vòng vây ẩn trốn trong khu rừng rậm rạp trong tuyệt cốc. Sau đó để Phong Lôi dẫn một tiểu đội nhỏ sử dụng kế nghi binh, đồng thời đột phá vòng vây đi Giang Nam hoàn thành kế hoạch mà y đã định ra trước đó. Thực chất, nhân mã của y cũng cùng hành động với Phong Lôi. Phong Lôi phá vòng vây, còn nhân mã của y tiến đến phía trước sơn cốc nhưng không tiếp tục tiến về phía trước nữa mà chuyển sang một lối đi bí mật đã được dọn trước quay ngược trở lại, tiến vào trong rừng sâu.

Sau khi dụ cho quan binh chủ động công kích, chiến hỏa dấy lên ở khắp đỉnh núi, chỗ tuyệt địa này không có người canh gác, cũng như không có giá trị để chiếm đoạt. Quan binh tấn công vào sơn cốc chỉ là vào rừng làm trinh sát sau đó rất nhanh sẽ tiến thẳng tới cửa ải hiểm yếu. Còn hơn một vạn binh mã ẩn náu trong rừng cây vẫn yên tĩnh chờ đợi ở nơi đó.

Hình Lão Hổ đích thân dẫn một đội tinh binh công kích Phi Lăng Độ, thế công mạnh mẽ, đồng thời Lý Hoa được y cấp cho một vạn năm người, dưới khí thế bừng bừng, quyết tử chống cự ở những cửa ải hiểm yếu trong núi. Với những biểu hiện

trên, cho dù là ai đi chăng nữa cũng không thể nghĩ ra rằng Triệu Toại sắp xếp một con đường thứ ba nữa, huống chi y đem binh mã để trong rừng, tuy rằng có thể ẩn nấp, nhưng cũng mang tính nguy hiểm cao rồi.

Triệu Toại dụng binh hết sức lớn mật. Đại quân nhân mã ngậm tăm, ngựa đeo hàm thiếc, vẫn đang lặng yên chờ đợi ở đằng kia. Triệu Toại hạ tử lệnh, ai dám phát ra một tiếng động nhỏ nào sẽ bị bắn ngay. Cho dù đây là trong rừng sâu, có phát ra chút tiếng động nhỏ thì ở các nơi đang chém giết kịch liệt trên núi kia cũng không chắc có thể nghe được, nhưng y vẫn không dám mạo hiểm.

Giờ phút này, y rốt cục quyết định hành động. Nghe được tin tức của người đi thám thính báo lại, Triệu Toại từ dưới tàng cây đứng lên, Hồng Nương Tử một thân trang phục màu đen, khăn đen trùm đầu, thấy y hành động vội bước tới. Triệu Toại liếc nhìn nàng một cái, nói:

- Thôi phó soái, sự sống chết của vợ con ta và toàn quân, toàn bộ phải giao cho ngươi rồi.

Thôi Oanh Nhi khẽ nhướng cặp mày liễu lên, nghiêm nghị ôm quyền nói:

- Tú tài yên tâm, trừ phi Hồng Nương tử ta chết trên chiến trường, nếu không nhất định sẽ bảo vệ an toàn cho người nhà của ngài, nhất định giành lấy được bến tàu.

Triệu Toại cười, cũng chắp tay nói:

- Bây giờ ta sẽ hành động, sẽ mau chóng tụ hợp lại với ngươi, nửa canh giờ sau ngươi hãy xuất phát, bảo trọng.

Y quay đầu nhìn lại, cách đó không xa, hơn mười vị tướng lĩnh và thân binh đang lo lắng chờ đợi, hít vào một hơi thật sâu, bước nhanh tới. Hai huynh đệ của y đều được Hình Lão Hổ mang theo bên người, không hẳn là có ý tứ bắt làm con tin. Hơn nữa hơn mười vị tướng lĩnh được điều tới để cho y sai bảo đều là người trung thành với Hình Lão Hổ. Mặc dù Hình Lão Hổ nghe theo kế hoạch mạo hiểm của y, nhưng đối với chủ tướng là y đã từng có ý nghĩ nhận chiêu an, vẫn phải phòng bị

chắc chắn thì hơn.

Những người này lẳng lặng đứng đợi ở đó. Không gian im ắng chỉ nghe thấy tiếng chém giết từ xa vọng đến, trong lòng hết sức lo lắng, nhưng chưa tới thời gian công kích, nên bọn họ chỉ có thể chờ đợi. Lúc này thấy Triệu Toại đi tới, bọn họ lập tức đứng lên. Triệu Toại cúi đầu chỉ bảo vài câu, hơn mười tướng lĩnh lập tức chia nhau ra hành động.

Từng đám bụi gai dùng để che lấp con đường cây cối bị đốn ngã trước đó được mang đi. Nhanh chóng dọn ra một con đường. Binh mã trong thung lũng dưới sự chỉ huy của các vị tướng, bắt đầu tiến quân ngay ngắn và trật tự và nhanh chóng dọc theo con đường bí mật đó tiến ra bên ngoài. Trong bóng đêm, ngoại trừ tiếng động do những chú chim bị dọa kêu to và tiếng sàn sạt do bước chân dẫm lên cỏ tạo thành thì gần như không nghe thấy bất cứ âm thanh nào khác. Lúc này liệu có ai sẽ chú ý đến tiếng vỗ cánh bay lên và tiếng kêu của những chú chim đó?

Triệu Phong Tử đi từ rừng rậm ra, quay đầu nhìn lại ánh lửa phía ngọn núi xa xa, khẽ khoát tay, bước nhanh về phía chân núi.

Thôn Bắc Ngô có một hồ nước, bên trong hồ nước nông này có rất nhiều hoa sen mọc. Giữa đêm khuya, lá sen giống như bị mực nhuộm, ánh trăng yếu ớt kia dao động trên mặt nước ngẫu nhiên tạo nên một tầng ánh sáng bạc như những làn sóng.

Nơi này là nơi đóng quân của đội quân quan binh. Đây cũng không phải là nơi phòng thủ trọng điểm, ngoại trừ lực lượng chủ lực tấn công sơn cốc và đội quân dự bị của Dương Lăng đóng giữ ở đất Bồ Châu ra, thì đại quân của triều đình chủ yếu ngăn ở chân núi phía nam dọc theo bờ sông và các quan ải trong yếu như Thái Hành, Vương Ốc, Tắc Sơn. Nếu quân của bọn hưởng mã đạo không đi theo đường thủy đột phá vòng vây phía nam thì chắc chắn sẽ đi đường núi, chọn đi theo mặt khác của dãy núi để chạy xuống núi và tiến vào vùng trung tâm.

Cho nên nơi đóng quân này của quan binh chính là phương án dự bị để phòng bị và chặn đường bọn tàn binh bại tướng của bọn hưởng mã đạo từ trên núi chạy xuống. Vì thế mà binh lực và chiến lực đều hết sức bình thường. Bởi vì trọng binh

tập trung khẩn cấp, nên nơi này binh lính không đủ, thậm chí còn phải lấy cả tuần kiểm của các thị trấn phụ cận đây.

Bọn họ cũng biết tự mình làm ra vẻ có tác dụng lớn một chút, nếu vận khí tốt thì có thể bắt được vài tên tiểu binh tép riu chạy trốn từ trên núi xuống, còn nếu vận khí không tốt thì có thể cho đến khi cuộc chiến chấm dứt cũng vẫn chỉ làm vật bài trí mà thôi.

Cho nên cho dù Dương Lăng đã có lệnh, khi đêm đến tất cả đội quân phải canh phòng nghiêm cẩn, người không được ngủ, ngựa không tháo yên. Nhưng trong đại doanh, quân lính mặc dù có thể không ngủ, nhưng nhân mã lại phân tán rải rác, không ra đội hình gì cả. Những người được phái đi tuần tra ở cảnh giới ở bên ngoài hai ba trăm dặm không ai trông chừng, vì thế hồn nhiên không thèm để ý canh gác, đi vòng vo vài vòng đến lúc nửa đêm, bọn họ cũng mệt, vì thế tên lính cảnh giới liền ôm đao, tìm một gốc cây hoặc là chui vào trong bụi cỏ ngủ.

Một trận tiếng động ầm ầm đã đánh thức những tên lính cảnh giới. Bọn họ từ dưới tàng cây và trong bụi cỏ nhô đầu ra, tiếng kêu sợ hãi còn chưa kịp thốt ra khỏi miệng đã bị bọn họ đưa tay bịt miệng cứng rắn nuốt trở lại.

Ông trời ơi! Không thể đếm rõ được có bao nhiêu chiến mã điên cuồng chạy qua. Đội quân ngồi trên lưng ngựa giơ cây đao bằng thép sáng như tuyết lên cao không một tiếng động. ngay tại nơi bụi đất cuộn lên mù mịt đó, có một tên lính trinh sát đang kinh hoàng thất kinh nằm ngủ ở ven đường. Tên đó vội vội vàng vàng bật dậy, còn chưa tìm được đường chạy trốn đã bị những cây đao sắc bén của tên lính trên ngựa lướt qua, nhờ vào tốc độ phi của ngựa mà chặt đứt đầu của gã một cách nhẹ nhàng.

Một tên lính trinh sát khác kêu to một tiếng chạy vào trong bụi rậm sâu, không ai thèm để ý đến gã. Bầy ngựa như điên cuồng chạy về phía trước giống như một trận gió, chỉ cần diệt những vật cản đường phía trước của chúng mà thôi.

Đây không phải là chỗ đóng quân của đại quân triều đình. Quan binh đang tấn công vào ngọn núi, làm sao có thể xuất hiện ở đây nhiều như vậy, chẳng lẽ quân của bọn hưởng mã đạo, hơn nữa tất cả đều là kỵ binh?

May mắn còn một tên lính trinh sát của quan binh có thể chạy thoát được, có dùng hai chân chạy như bay về báo tin thì cũng không còn kịp nữa, vì thế liền lập tức đổi hướng chạy về phía thành Bồ Châu.

Không gian yên lặng, hồ nước dao động có quy luật bống trở nên hỗn loạn, phía trước có người điên cuồng chạy đến, vừa chạy vừa lớn tiếng kêu:

- Mau mau đề phòng, bọn hưởng mã đạo đến...A!

Gã túm lấy một tên người hầu rồi ngã xuống đất, trên lưng có một chùm mũi tên giống như cái gai trên lưng con nhím. Lập tức vô số vó ngựa giẫm qua lưng gã mà chạy, thi thể mềm nhũn không một chút phản ứng nào. Ngựa giẫm qua, đây chỉ

là cái giá phải trả cho hành động của gã.

Lãnh binh Thiên tổng Đan Hùng từ trong doanh trướng chạy ra, vội vàng rống lên, thắt áo bào lại. Y mặc dù không ngủ, nhưng lại tự nghĩ rằng không có việc gì nên đã đặt lưng nằm xuống.

- Mau mau chuẩn bị cung tiễn...ách!

Chân của y bị ghim bởi một mũi tên lông vũ, người thì đã bị tên bắn chi chít như lông nhím, tảng đá xanh bên cạnh bị mũi tên sắc bén bắn trúng khẽ "cách" một tiếng téo ra tia lửa. Đan Hùng nằm ngửa trên mặt đất, yên tĩnh bất động.

Binh ở những địa phương này quân kỷ tản mạn, lực chiến đấu thấp, nhưng Dương Lăng không có nhiều binh để có thể sử dụng, vì thế mà không thể không điều bọn họ đến đây. Bởi vì để gia nghiêm kỷ luật quân đội, hắn luôn nhắc đi nhắc lại quân lệnh, thậm chí còn mang theo Thượng Phương bảo kiếm, nhưng những tướng sĩ đó không thèm để ý, ném quân kỷ ra sau đầu, rốt cuộc vẫn uổng phí tính mạng của mình, y chết, ngược lại lại có thể giảm đi thiệt hại của Dương Lăng.

Triệu Phong Tử thu cung lại, xách đao lên, thúc ngựa, động tác lưu loát liền mạch, mang theo binh lính xung phong tiến về phía trước. Y cũng không ham chiến, cũng không quan tâm đến đám lính ô hợp chỉ hơn hai nghìn người này. Cây đao trong tay dưới ánh trăng lóe lên ánh sáng bạc mông lung, phàm là những vật cản chắn trước mặt y, cho dù có chạy trốn hay là tiến lên nghênh chiến, không một ai là không bị y chặt thành hai đoạn cả.

Triệu Phong Tử cùng tướng sĩ dưới trướng vội giục ngựa xông lên. Tản ra xông về phía trước đánh lén. Những vũ phu mãnh tướng này không phải là người xuất thân từ quân đội chính quy, đặc biệt là mấy viên hổ tướng, binh khí thường dùng của họ đều là kỳ môn dân gian, thiết giản hai ba mươi cân, rìu chiến cán dài, Đại khảm đao của Quan Công, họ múa nhẹ nhàng giống như là cây quạt vậy, căn bản chính là lấy sức mạnh để đánh người, đừng nói một đội quân ô hợp như vậy, ngay cả tướng sĩ biên quân chính quy cũng sợ rằng không thể chống lại sự tiến công mãnh liệt của bọn họ.

Tiếng kêu vang trời, toàn bộ doanh trại của quan binh chỉ trong vòng nửa khắc đã bị chém chết hơn một nửa, nhân mã của Triệu Phong Tử không ngừng một khắc nào. Lá cờ có chữ "Triệu" bay phần phật trong gió, như hòa vào trong bóng đêm.

- Phía trước là nơi nào?

Nhìn thấy thám mã đánh tín hiệu trở về, Hồng Nương tử buông cung tiễn trong tay xuống hỏi, đợi người nọ chạy đến trước mặt, bình tĩnh hỏi.

- Khởi bẩm phó nguyên soái, đã tới thôn Thường Lý rồi, đi về hướng bờ sông chính là thôn Thuấn Đế.

- Được! Tăng nhanh tốc độ, không cần đi đường bờ sông, ven bờ sông Hoàng Hà đều có quan quân đóng binh, đi lách qua thôn, tăng nhanh tốc độ đi về phía trước.

Hồng Nương tử vừa dứt lời, quay đầu lại nhìn bóng đêm nặng nề dày đặc trên con đường núi, kéo cương ngựa, chiến mã lao nhanh về phía trước. Ba nghìn nhân mã xoay mình tăng tốc lặng lẽ hướng về phía tây nam mà đi.

Trong số nhân mã của nàng chỉ có chưa đến hai nghìn người là binh sĩ thực sự, còn lại chính là nhóm tướng lĩnh già yếu, phụ nữ và trẻ em, còn có hơn tám trăm người hiểu rõ kỹ năng bơi, biết điều khiển thuyền, những người này cũng không phải binh lính chiến đấu, bọn họ là nhân vật bảo vệ chính của Hồng Nương tử.

Đoán chừng quan binh sẽ bố trí phòng vệ ở dọc bờ sông vì thế bọn họ không những không tới gần sông Hoàng Hà mà ngay cả thôn trấn cũng không tiến vào. Ba nghìn người yên lặng không một tiếng động, lặng lẽ hành quân, từ chỗ đóng quân của quan binh đi xuyên qua thông Chu Ngô, thôn Thượng Đậu Thị, Giác Bôi, Quá Trác, Nam Ngô một đường thẳng tiến, vượt qua Giáp Mã Khẩu, thôn Ngô Vương, chùa Nam Đôn, miếu Tiền Phổ, liên tục đi qua mấy bến tàu lớn nhỏ vẫn không hề ngừng nghỉ, thẳng đến thôn Quang Hoa ở thượng du sông Hoàng Hà bọn họ mới dừng lại nghỉ ngơi một chút, sau đó kị binh nhẹ xông ra chiếm lấy bến tàu La Trì.

Đó là một bến tàu nhỏ, hơn nữa lại cách bến Phi Lăng có hơn một trăm dặm.

Nơi ở ở thượng du sông Hoàng Hà, mặt sông cực rộng, Hồng Nương tử muốn chiếm lấy chính là cái bến tàu nhỏ này. Hai nghìn kị binh do nàng và tứ thúc Chân Dương Qua, lục thúc Tạ Chủng Tài thống lĩnh, chạy như bay đến bến tàu. Khi Triệu Phong Tử dẫn hơn một vạn thiết kị quét qua tổng doanh của Đan Thiên, cũng là lúc người của nàng cũng bắt đầu cuộc chiến kịch liệt với quan binh thủ vệ bến tàu.

***************

Lúc binh mã của Dương Lăng đuổi đến nơi, đội quân quyết tử của bọn hưởng mã quân đã dựa vào sĩ khí đột phá được phòng tuyến cuối cùng. Người của Giang Bân cũng đánh vào chính giữa đội quân của bọn họ, lính thủ hộ phòng lũ ở bến tàu và quân của Giang Bân, cùng với bọn hưởng mã quân đều ở trong vòng chiến đấu hỗn loạn, chém giết không ngớt. Đại quân của Dương Lăng vây kín hai bên, rồi nhanh chóng đánh vào giữa, người của Hình Lão Hổ lập tức không chống đỡ nổi nữa, bị dồn vào giữa.

Hình Lão Hổ vừa nhìn thấy tình hình không ổn, lập tức đánh về hướng đông nam, tránh đội hữu lộ quân của Dương Lăng, hướng về con đường bên trái đột phá vòng vây. Dương Lăng chỉ huy đại quân đánh giáp công hai mặt trước và sau, gắt gao chặn lại lỗ hổng, lần lượt đánh lùi đội quân quyết tử của Hình Lão Hổ, hai bên đều bị thương vong thê thảm.

Phía bên trái do biên quân của Hứa Thái và một nửa đội lính phòng lũ đánh bọc sườn lại đây, hình thành thế gọng kìm, ngăn chặn hướng đi của Hình Lão Hổ.

Nhưng nhóm binh lính phòng lũ bình thường chỉ bắt những bọn trộm cát và những kẻ vận chuyển muối lậu, giờ đây đứng trước trận chiến sống còn thế này, làm sao chịu dùng mạng đổi mạng với bọn hưởng mã đạo chứ?

Dương Lăng đứng trên cao, nhìn thấy điểm yếu khi tấn công của đội lính phòng lũ, trận địa dần dần yếu đi, hiển nhiên là nhìn thấy đội quân tiếp viện đến rồi nên có ý muốn giao lại trọng trách cho người khác. Dương Lăng không khỏi tức giận, lập tức lệnh cho Ngũ Hán Siêu cầm Thượng phương bảo kiếm đến đốc chiến.

Mặc dù như vậy, nhưng cuối cùng cũng vẫn muộn một bước. Hình Lão Hổ tổ chức nhân mã, cưỡng chế chọc thủng trận địa của đội quân phòng lũ mở ra một con đường thoát. Nhận được tử lệnh của Dương Lăng đội quân phòng lũ lại kiên trì thống lĩnh nhân mã liều mạng quay về phòng giữ, tuy rằng đã chặt đứt được đội quân trốn chạy của bọn hưởng mã đạo, nhưng Hình Lão Hổ vẫn dẫn hơn bốn nghìn người đột phá ra khỏi vòng vây, chạy thẳng về phía dãy núi Hồ Lô.

Ở phía dãy núi Hồ Lô có quân lính canh gác, tuy rằng số quân lính chưa chắc đã bằng được số quân của Hình Lão Hổ, nhưng dựa vào thế hiểm để phòng thủ, cho dù không thắng được, nhưng Hình Lão Hổ cũng đừng mơ tưởng có thể dễ dàng vượt qua được. Dương Lăng khẽ cân nhắc, rồi quyết định tạm thời buông tha cho ông ta, trước hết tiêu diệt toàn bộ bọn hưởng mã đạo bị chặn lại đã.

Trải qua cuộc chém giết, Hình Lão Hổ thống lĩnh được hơn một vạn năm nghìn người chạy thoát ra ngoài. Trừ số người đã thoát thoát khỏi vòng vây và những người đã chết hoặc bị thương thì trong vòng vây giờ đây còn lại khoảng sáu nghìn người, số người ít hơn binh lính của Dương Lăng, lại còn bị mất đi người thống lĩnh, vì thế mà Dương Lăng có thể tiêu diệt bọn chúng dễ như trở bàn tay, nhưng hắn đã đánh giá thấp ý chí và sức chiến đấu của những sơn tặc này.

Bọn họ không giống quan binh, những binh lính của quan binh nếu bị đánh bại thì hoặc là chạy trốn hoặc là đầu hàng, còn bọn hưởng mã đạo này thì ngược lại, khi bọn chúng bị đánh bại, lại không có đường để chạy trốn thì lựa chọn duy nhất chính

là quyết định tử chiến. Khẩu hiệu của bọn chúng là: giết được một người là hòa, giết được hai người là lãi.

Đối mặt với một đám sơn tặc mặc dù thua trận nhưng ý chí chiến đấu lại không hề tiêu tan, luôn miệng hô khẩu hiệu đòi bỏ mạng như vậy, quan binh triều đình mặc dù có số lượng nhiều hơn bọn chúng, nhưng lại thua xa ý chí quyết tâm dùng một mạng đổi một mạng của bọn chúng. Tuy có Dương Lăng đích thân áp trận, hai tướng Hứa Thái, Giang Bân dẫn đầu xung phong liều chết, nhưng để tiêu diệt được bọn chúng cũng mất rất nhiều sức lực.

Cuộc chiến đấu vẫn tiếp tục, kéo dài mãi đến khi trời hửng sáng, lúc này nhóm hưởng mã đạo bị vây lại mới bị tiêu diệt hoàn toàn.

Trên sa trường là vô vàn thi thể và tiếng rên rỉ của những người còn sống sót, có người lăn lộn một chỗ, y phục trên người bị lửa đốt cháy, da cháy thịt bong, có người nắm chặt trường thương, hai đôi mắt vô thần trợn trừng. Những cánh tay bị chắt đứt, những thi thể mất đầu la liệt trên mặt đất.

Khói thuốc súng tràn ngập không khí, đám binh lính chiến thắng cũng không có nhảy nhót vui mừng, suốt cả đêm chém giết và không ngừng có người ngã xuống khiến cho vẻ mặt bọn họ đều có vẻ đờ đẫn.

Đại quân của Trương Dần khi trận chiến diễn ra được một nửa mới chạy tới tiếp viện, tuy có chậm trễ, hơn nữa đường đi dài khiến thể lực của binh lính không chống đỡ nổi, nhưng vừa nhìn thấy tình thế trên chiến trường, Trương Dần lập tức hạ lệnh cho đội quân của mình tham gia vào cuộc chiến, việc này có tác dụng lớn trong việc nhanh chóng tiêu diệt được bọn hưởng mã đạo bị vây lại đó.

Lúc này Trương Dần mới cầm kiếm đến gặp Dương Lăng. Trương Dần đội nón trụ, mặc áo giáp, mồ hôi đầm đìa, hiển nhiên là vừa rồi cũng tham gia chiến đấu.

Vừa nhìn thấy Dương Lăng, y lập tức chắp tay nói:

- Khởi bẩm quốc công, mạt tướng vừa nhận được quân lệnh đã lập tức bố trí quân phòng ngự, rồi dẫn hai vệ binh đến tiếp viện, không ngờ vẫn đến muộn một bước, xin quốc công giáng tội.

Dương Lăng mệt mỏi khoát tay một cái, nói:

- Điều động quân đội của ngươi quá gấp, lại phần lớn là bộ binh, có thể đến nhanh như vậy đã là đáng quý rồi, trước tiên hãy cho cả đội nghỉ ngơi một lát đi. Hình Lão Hổ dẫn mấy nghìn quân chạy thoát, nhất định phải tận lực đuổi theo, không thể để cho bọn chúng thoát, hãy đi chuẩn bị lương khô cho binh lính đi.

- Cái gì? Hình Lão Hổ chạy thoát rồi?

Lúc Trương Dần tới, Hình Lão Hổ đã phá được vòng vây, y còn tưởng rằng đội quân của Hình Lão Hổ đã bị tiêu diệt gọn rồi, lúc này nghe Dương Lăng nói như vậy, trong mắt không khỏi chợt lóe lên tinh quang.

Y lập tức cúi đầu, che dấu biểu tình kì lạ trên mặt, chắp tay nói:

- Mạt tướng tuân lệnh!

Lúc này, Giang Bân dẫn một viên quan lảo đảo bước thẳng đến, Ngũ Hán Siêu với vẻ mặt bất đắc dĩ đi theo đằng sau. Hai bên má của Giang Bân đều bị thương chảy đầy máu, nếu không phải thân hình sừng sững và ánh mắt nhìn có chút ngốc nghếch nhưng lại mang theo chút xảo quyệt kia, thì Dương Lăng thật sự không thể nhận ra y, nhìn thấy như vậy khiến hắn không khỏi hoảng sợ.

Dương Lăng cả kinh nói:

- Giang Bân? Ngươi sao lại bị thương thành như vậy? Bị thương ở đâu, mau mau băng bó tạm vào.

Giang Bân nhếch miệng cười khiến cho khóe miệng đau đến mức nhe răng, trong miệng giống như ngậm cái gì trượt đi trượt lại, lời nói có chút thều thào:

- Không sao, trên mặt có hai lỗ thủng.

Giang Bân dùng sức kéo cổ áo của tên quan khiến cho hắn ta ta lảo đảo một chút, suýt nữa thì ngã sấp xuống:

- Quốc công, kẻ này nhu nhược bất tài, hẳn là nên trị theo quân pháp. Ta lãnh binh đến tiếp ứng, hắn ta không những không dẫn đội dự bị xông lên để trong ngoài hô ứng, ngược lại lại muốn lui quân về phòng thủ, hắn ta lui về phòng thủ rồi thì ta còn đánh cái rắm gì được? Đây không gọi là tên ngốc thì là gì?

Cho dù quốc công ngài đã tới, hắn ta cũng không thèm dốc sức, lại con mẹ nó muốn lui về phòng thủ. Hình Lão Hổ đúng là lão hổ. Giang Bân ta không sợ gì, chỉ sợ có chiến hữu ngu như heo giống hắn ta. Nếu không phải như vậy thì lúc quốc công chạy tới giải vây, một mình Giang Bân ta tiến vào trùng vây, tất cả phải chết ở chỗ đấy, có chết ta cũng không nhắm mắt.

Hắn kích động và tức giận nói khiến cho hai má khẽ chuyển động, máu trên vết thương lại chảy ra đầm đìa. Dương Lăng nhìn thấy vậy khiếp sợ, vội vàng nói:

- Người đâu, nhanh đến băng bó cho Giang đại nhân. Giang Bân, ngươi không cần phải nói nữa. Tên này sợ tham chiến mà lùi bước, bổn quốc công đều đã nhìn thấy rồi.

Hắn liếc nhìn tên Hạ thủ bị đang run rẩy kia, cười lạnh một tiếng, nói:

- Ngươi rất sợ phải không? Ta thấy ngươi sợ Hình Lão Hổ như vậy, còn sợ hơn cả quốc pháp quân kỷ, hiện tại Hình Lão Hổ đã đi rồi, việc gì mà phải sợ hãi như thế nữa?

Hạ thủ bị hai đầu gối mềm nhũn, rầm một tiếng quỳ xuống, biện bạch:

- Quốc công thứ tội, Quốc công lệnh cho mạt tướng tử thủ Phi Lăng Độ, mạt tướng đã dùng toàn lực tử thủ ở đó, chưa từng buông bỏ, mạt tướng....

- Khốn khiếp!

Dương Lăng giận giữ nói:

- Hạ thủ bị, ngươi là một viên tướng chứ không phải một tên tiểu tốt chỉ biết nghe lệnh mà làm việc. Thân là tướng phòng thủ Phi Lăng Độ thì xem xét thời thế để quyết định tấn công hay phòng thủ là trách nhiệm của ngươi. Giang Bân đến tiếp

viện Phi Lăng Độ, ngươi lại lấy cớ là bọn hưởng mã đạo thế mạnh, vì lo sợ được mất nên quyết định rút binh. Bổn Quốc công dẫn binh đánh tới, bốn phía vây chặt bọn hưởng mã đạo nhằm tiêu diệt toàn bộ bọn chúng, các tướng sĩ đều liều mình chiến đấu, chỉ có mình ngươi là co vòi lại, thấy nguy hiểm là trốn tránh khiến cho Hình Lão Hổ chạy thoát, ngươi có biết tội của ngươi không?

Hạ thủ bị hàm răng va vào nhau, run giọng nói:

- Mạt tướng biết tội, mạt tướng nhất định sẽ lấy công chuộc tội, xin Quốc công cho mạt tướng một cơ hội để sửa chữa!

Dương Lăng lạnh lùng nói:

- Muốn bổn Quốc công lấy ra Thượng Phương bảo kiếm thì mới bằng lòng dốc sức nghênh địch. Cơ hội là do ngươi tự đánh mất, muốn bổn Quốc công tha cho ngươi ư? Có thể! Trừ phi quay ngược lại thời gian, lúc Hình Lão Hổ chưa trốn thoát. Nếu không, với tội của ngươi thì tội chết là không thể miễn. Hán Siêu, chém hắn cho ta.

Hạ thủ bị sợ đến nỗi liên tục dập đầu cầu xin không ngừn. Trương Dần thấy vậy, đảo mắt một cái, lập tức tiến đến trước mặt Dương Lăng nói nhỏ:

- Quốc công gia bớt giận, dù sao thì Hạ thủ bị cũng đã gắng sức tác chiến rồi, hơn nữa...em gái của hắn ta lại là ái thiếp của Tấn Vương điện hạ, không nể mặt tăng thì cũng phải nể mặt phật, xin quốc công hãy cho hắn ta một cơ hội!

Trương Dần đứng ở bên này nhỏ giọng nói. Giang Bân thoạt nhìn hình dáng to lớn thô kệch, nhưng nội tâm lại rất nhanh nhạy, y ghét nhất những người tham sống sợ chết như tên Hạ thủ bị kia, vừa thấy tên quan mặt trắng râu ria đầy mặt kia chạy đến nói thầm với Quốc công thì biết ngay là hắn ta đang cầu xin cho Hạ thủ bị.

Y sợ Dương Lăng đổi ý, cánh tay khẽ động, "soạt" một tiếng rút Thượng Phương bảo kiếm từ trong tay Ngũ Hán Siêu ra, giơ cao lên không trung, quát to:

- Thời gian làm sao có thể quay lại được nữa? Hổ làm sao có thể quay lại cũi?

Ngũ tướng quân, không khiến ngươi phải bẩn tay, bản tướng quân sẽ xuống tay hộ ngươi.

- Ôi, Giang đại nhân...

Ngũ Hán Siêu vội kêu lên một tiếng, nhưng đã muộn. Mặc dù thân thủ của Giang Bân không nhanh bằng gã nhưng cũng không phải là kẻ yếu. Hơn nữa gã căn bản không có phòng bị, bảo kiếm bị Giang Bân nhanh tay rút ra, vẽ một vòng trên không trung rồi xẹt qua cần cổ của Hạ thủ bị. Thịch một tiếng, một cái đầu người rơi xuống đất, chỉ nghe thấy Giang Bân lớn tiếng khen:

- Đúng là một thanh bảo kiếm sắc bén!

Dương Lăng không khỏi ngẩn ngơ, Trương Dần há miệng ngây ra trong chốc lát, rồi mới ngậm miệng lại, đầu người đã rơi xuống đất rồi, thì còn cầu xin cái gì nữa?

Hạ thủ bị thật ra cũng không phải là lâm trận chạy trốn, lúc công kích hắn ta cũng có thể liều chết chống cự được, chỉ có điều tâm tư của hắn ta quá nặng nên làm hỏng quân cơ, nếu không thì Hình Lão Hổ làm sao có thể mang theo hơn bốn nghìn quân chạy thoát khỏi vòng vây. Chỉ có điều hiện giờ đã biết tên Hạ thủ bị này có quan hệ với Tấn vương, cũng không thể đắc tội với Tấn Vương chỉ vì tên tiểu tướng này.

Thấy sự việc đã không thể xoay chuyển được, Dương Lăng liền trách mắng:

- Lỗ mãng! Ai cho phép ngươi hành quyết thay Hán Siêu? Có điều...người này quả thật là chết vẫn chưa hết tội, vốn nên tử hình trước mặt quân lính. Người đâu, xách đầu của hắn ta đi để cảnh tỉnh quan binh phòng lũ, lệnh cho phó thủ bị tạm thời giữ chức thủ bị này.

Ngũ Hán Siêu cười khổ nói:

- Quốc công, Phó thủ bị đã chết trận. Đội quân phòng lũ còn có một viên quan Thiên tổng.

Dương Lăng khoát tay nói:

- Vậy để người đó tạm thời giữ chức thủ bị này. Cho đại quân nghỉ ngơi một lát, lát nữa còn phải vây quét Hình Lão Hổ.

Lúc này, xa xa có một người cưỡi ngựa phi nhanh tới, trên vai cắm lá cờ tam giác đỏ, chứng tỏ là trạm cấp báo quân dịch. Dương Lăng ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy người nọ phi ngựa tới, vội vàng nhảy xuống ngựa, cách ba trượng liền quỳ xuống đất, ôm quyền, cao giọng bẩm báo:

- Báo! Quốc công gia, quân tình khẩn cấp, Triệu Phong Tử bất ngờ dẫn một đội quân đột phá phòng tuyến ở thôn Bắc Ngô, tiến về phía Lâm Y và Văn Hỉ.

Trong lòng Dương Lăng trầm xuống, chiến đấu kịch liệt một hồi mà vẫn không thấy tung tích của Triệu Toại, hắn thật sự không nghĩ ra tên này đã đi đâu. Thậm chí hắn còn hoài nghi, nếu Triệu Phong Tử không phải là ở lại trong núi nhằm thu hút quân chủ lực của quan binh, thì chính là đã xảy ra tranh chấp trong nội bộ bọn hưởng mã đạo, và Hình Lão Hổ đã giết chết Triệu Phong Tử, cho nên ông ta mới có thái độ khác thường như vậy, có bệnh mà vẫn tự mình dẫn quân tác chiến, lại không thể tưởng tượng được lúc này Triệu Phong Tử lại đột ngột xông ra.

Hắn vội hỏi:

- Triệu Phong Tử dẫn theo bao nhiêu binh mã? Tên lính trinh sát vội nói:

- Không thể xác định chính xác số binh mã. Ước chừng ít nhất cũng phải đến một vạn binh mã, hơn nữa tất cả đều là kỵ binh, một đường phá thành đoạt doanh, không hề ngừng lại, tiến thẳng về phương bắc.

Trương Dần ngạc nhiên nói:

- Triệu Phong Tử có ý gì vậy? Đi về phía lục địa là muốn tự tìm đường chết sao? Nương Tử quan, hắn không thể phá được, đi về hướng bắc là muốn đi đến cửa khẩu Cư Dung Quan sao? Nơi đó cũng vẫn là nơi đóng quân của trọng binh.....

Lúc này một tên lính trinh thám lại phi ngựa như bay đến, gần như là lăn xuống ngựa, từ xa đã hô to:

- Báo! Triệu Phong Tử dẫn kỵ binh thẳng tiến đến Hầu Mã, trên đường đi gần như là không hề giao chiến với quan binh. Hiện nay không rõ bọn chúng đã đi đến đâu rồi.

Dương Lăng hít một ngụm khí lạnh:

- Hơn vạn thiết kỵ, đây hẳn là toàn bộ kỵ binh của bọn hưởng mã đạo sau khi bọn chúng rút vào núi rồi. Đây mới chính là thực lực thật sự, là quân chủ lực của bọn hưởng mã đạo. khiến cho người ta không ngờ đến là, bọn họ lại lấy Hình Lão Hổ là mồi nhử, mạo hiểm như vậy, rốt cuộc là bọn chúng có ý gì đây?

Giang Bân ngồi ở trên mặt đất bên cạnh, vừa được lang trung thoa một lớp kim sáng dược dày lên vết thương ở mặt, dùng vải bố quấn vào như xác ướp. Nghe xong thông tin cấp báo về quân tình, cười nói:

- Văn Hỉ, Hầu Mã, tiếp tục đi về phía trước sẽ là Lâm Phần, Hồng Động. Tên điên kia không phải là điên đến mức muốn đi Thái Nguyên chứ?

- Thái Nguyên!

Dương Lăng và Trương Dần đồng thời kêu lên một tiếng kinh sợ.

Chủ ý này đại khái là chỉ có kẻ điên mới có thể nghĩ ra. Dưới sự vây hãm của trọng binh, không đi đến Hà Nam mà lại đi ngược lên phía bắc, một đường tiến vào trung tâm vùng Sơn Tây để chiếm lấy Thái Nguyên?

Trương Dần đột nhiên nói:

- Nếu kỵ binh tập kích bất ngờ, nhằm đánh lạc hướng tin tức, sau đó đánh chiếm Thái Nguyên...Thành Thái Nguyên lương thảo sung túc, tường thành kiên cố, lại có Tấn Vương gia làm con tin, như vậy...

Khi đó tin tức truyền về kì thật đã quá chậm so với hành động. Hiện tại tin tức

truyền về bọn họ đã đến Hầu Mã rồi, đợi đến khi quan binh đuổi tới Hầu Mã, nói không chừng chúng đã đến được Hồng Động rồi. Sự lợi hại của kỵ binh không phải toàn bộ là ở việc đánh trận trên chiến trường, mà còn ở chỗ có thể hoàn toàn nắm giữ sự chủ động trên chiến trường. Chiến đấu hay rút quân, khi nào chiến, hay chiếm vùng đất nào cũng đều do bản thân làm chủ. Đấy mới là vũ khí lợi hại của kỵ binh.

Tin tức này vẫn là đã đến muộn một bước. Nếu sớm hơn một chút nữa thì chỉ sợ là vào lúc đang vây hãm Hình Lão Hổ, đây chính là sấm sét giữ trời quang giáng xuống đầu rồi. Đội binh mã ở phủ Thái Nguyên hiện nay, tuy nói dùng để thủ thành thì có chút dư dả, nhưng chỉ sợ Triệu Phong Tử đánh bất ngờ khiến cho trở tay không kịp, tự mình chạy đến Sơn Tây giệt giặc, lại bị giặc đi tắt chiếm lấy phủ Thái Nguyên, vậy chẳng phải là chuyện nực cười sao?

Nếu Triệu Phong Tử chiếm được và đóng quân tại thành Thái Nguyên, lại bắt Tấn Vương làm con tin, thì việc này nhất định sẽ kinh động thiên hạ. Nghĩ đến hậu quả nghiêm trọng của việc này, Dương Lăng lập tức hạ lệnh:

- Trương chỉ huy, ngươi dẫn binh tiến về phía nam, truy kích đội quân của Hình Lão Hổ, nếu không thể tiêu diệt thì cũng phải tận lực kìm chân hắn, không cho hắn ta trốn thoát. Hứa Thái, tập hợp binh mã, triệu tập tất cả kỵ binh, nhanh chóng đến phủ Thái Nguyên.

Một bên là quan, một bên là thổ phỉ. Thổ phỉ muốn chuyển thủ thành công, tìm ra nhược điểm của quan binh, đây đúng là một phương án tốt nhất. Chỉ có điều phương án này cũng quá lớn mật rồi, nếu thất bại thì bọn chúng khó lòng nào mà trốn thoát được. Dương Lăng thật sự tin rằng chúng sẽ làm theo cách được ăn cả ngã về không như vậy, nhưng hiện tại bất kể mục tiêu công kích cuối cùng của Triệu Phong Tử có phải là Thái Nguyên hay không, thì hắn đều phải hành động như vậy, bởi nếu muốn đợi đến khi xác nhận lại chính xác thì đã quá muộn rồi. Phương án tấn công như thế này của Triệu Phong Tử là điều tất yếu, cho dù bất luận như thế nào cũng phải thành công, không thể quay lại căn cứ cũ được nữa.

Giang Bân không nghĩ tới mình chỉ nói đùa một câu mà lại trúng, vì thế không

khỏi nở một nụ cười, sau đó lại nhe răng nhếch miệng vì đau. Vết thương trên mặt y nặng như vậy, được băng lại bằng vải, vừa chặt vừa nặng giống như đầu heo, nhưng y không thèm để ý đến, lập tức đứng lên gọi người chuẩn bị ngựa và binh khí, muốn theo Dương Lăng đi Thái Nguyên giết giặc.

Trương Dần cũng không nghĩ đến Triệu Phong Tử lại dùng cách đấy, đây đúng là "loạn quyền đánh chết thợ cả" mà, thật sự khiến người ta phải bất ngờ. Dương Lăng để cho y truy kích Hình Lão Hổ, Trương Dần như được gãi đúng chỗ ngứa, vội vàng nhận lệnh rồi quay trở về bản doanh.

Dương Lăng vội vàng tập hợp binh mã. Kỵ binh ước chừng có đến hơn tám nghìn người, hắn để Miêu Quỳ ở lại để phòng thủ. Nắm trong tay tình hình chiến sự ở Đông Hoa Sơn, tự mình dẫn quân đi không ngừng nghỉ thẳng đến Vận Thành, rồi theo đường nhỏ tiến về phương bắc.

Bến La Trì đã thất thủ, đó là một bến tàu nhỏ, vốn không có nhiều thuyền, ước chừng chỉ có hơn mười chiếc thuyền cỡ trung loại nhỏ. Hồng Nương Tử dẫn quân tập kích bất ngờ, quan binh bị giật mình một lúc, sau mới phản ứng lại được, nhưng cũng chỉ sau hai đợt tên, khoái mã liền vọt thẳng vào, vài trăm người trấn giữ bến thuyền trong khoảnh khắc bị giết sạch.

Hồng Nương tử một mặt sắp xếp người canh chừng khắp nơi, phòng ngừa tin tức bị tiết lộ ra bên ngoài, hoặc có người chạy đi báo tin cho quan binh, một mặt tự mình chọn ra hơn một trăm thủ hạ võ nghệ cao cường, sau đó lại mang theo những người có kỹ năng bơi lội, biết sử dụng thuyền, một bộ phận thay y phục của quân binh địa phương, những người còn lại đều ẩn núp trong khoang thuyền. Tất cả đã sắp xếp xong xuôi, con thuyền nhanh chóng rời bến chạy thẳng về hướng hạ du, mục tiêu chính là đền Tư Mã Thiên ở bờ bên kia.

Đền thờ Tư Mã Thiên cách bờ sông hơn hai dặm, bến tàu có tên gọi là Tư Mã Thiên, nơi này là Long Môn, là bến tàu trọng yếu của trấn Chi Tam Xuyên, cũng là một trong những bến tàu quan trọng vận chuyển lượng thực lên phía bắc của Thiểm Tây, đây là một bến tàu lớn. Sau khi ngụy trang thành thuyền chuyên chở lương thực bình thường, con thuyền liền xuôi dòng lướt nhanh đến bến Phi Lăng hoặc bến

Phổ Tân ở Sơn Tây để dỡ hàng, nơi đó chủ yếu là thuyền vận chuyển hàng hóa của thương nhân. Tuy là bến tàu dân vận, nhưng bởi vì chiến sự ở Sơn Tây căng thẳng nên bến tàu cũng có quan binh tới quản chế, không cho thuyền xuất bến, bến tàu tạm thời bị đóng.

Mục tiêu của Hồng Nương Tử chính là đến bến tàu này, cướp lấy thuyền rồi chạy về bờ phía bắc.

Đoàn quân của Triệu Phong Tử đã tới trấn Cổ Nam cách thành Tương Phần hai mươi dặm về phía nam. Đại quân dừng lại nghỉ ngơi. Dân chúng trong trấn mới sáng sớm đã nhìn thấy một đội quân hưởng mã đạo lớn như vậy tiến vào trấn, tuy rằng chúng không giết hại bách tính, không hà hiếp phụ nữ nhưng trong lòng dân chúng vẫn không tránh khỏi sợ hãi, vội vàng trở về nhà khép chặt cửa, rồi kéo rèm lên nhìn ra bên ngoài.

Trên đường cái, ngoại trừ binh mã của Triệu Phong Tử ra, thì không thể thấy được một người dân bản địa nào cả. Hơn một vạn binh mã của Triệu Phong Tử không thèm để ý chút nào, bọn họ chiếm cứ quán trà và nhà trọ của người giàu, bắt họ phải nộp gạo để cho binh sĩ ăn. Nghỉ ngơi hơn nửa canh giờ, đại quân mới bắt đầu khởi hành rời khỏi thôn trấn tiếp tục tiến về phương bắc.

Còn chưa tới Liên thôn, Triệu Phong Tử hạ lệnh một tiếng, đại quân rời khỏi đường chính, ngoặt về hướng tây nam, men theo Tây Cổ, Bắc Cổ, Cổ Cương bắt đầu tăng tốc tiến về hướng tây nam. Khắp thiên hạ, những cổ trấn này được mệnh danh là những thị trấn nhỏ giàu có, nhưng đại quân của Triệu Toại vẫn không hề dừng lại lần nào nữa.

Tuy chiến mã có chút mệt mỏi, nhưng bọn họ họ cũng không hề có ý thương xót cho những con chiến mã đó, vẫn giục ngựa chạy nhanh như thường, phương hướng mà bọn họ hướng tới là bến sông, cách Hà Nam năm mươi dặm, nơi đó chính là La Trì. Quân du kích của Bạch Y Quân vận động chiến từ trước đến nay không hề có mục đích, thích đâu đánh đấy. Lần này, Triệu Phong Tử cũng đã có dự tính, minh tu sạn đạo (ngoài mặt thì làm việc này), dụ địch xâm nhập, vây Ngụy cứu Triệu, dương đông kích tây, vận dụng hết sức nhuần nhuyễn.

Bến Tư Mã Thiên, quan binh giả tập kích quan binh thật, thuận lợi đoạt được hơn một trăm chiếc thuyền lớn nhỏ, trận chiến gần như là không cần đánh mà thắng. Hồng Nương Tử trang phục gọn gàng đứng ở trên bến tàu, nhìn binh lính không ngừng điều khiển thuyền đi về bờ phía nam, trong mắt của nàng bỗng hiện lên ý đùa nghịch, giống như Tôn Ngộ Không nhảy khỏi lòng bàn tay của Phật Tổ Như Lai, dương dương đắc ý.

- Dương Lăng, ngươi luôn bách chiến bách thắng, giờ lại bị chúng ta qua mặt, phải chịu thiệt hại lớn rồi chứ?

Đôi mắt cười chỉ mới khẽ cong lên, đôi mi lại không khỏi nhíu lại:

- Tên đó, trước kia chưa từng bị ai đánh bại, bây giờ lại bị Triệu Phong Tử lừa thảm như vậy, không biết hắn có thẹn quá hóa giận hay không?

- Haiz!

Thở dài một tiếng đầy lo lắng. Nếu suy nghĩ này bị Triệu Phong Tử một đường chạy như điên mà đến đang lo lắng nàng thành bại như nào mà biết, không biết có thật sự tức điên lên không.

Triệu Phong Tử bỏ binh giữ tướng, cấp cho Lý Suất một vạn tám nghìn người, bảo gã thủ vững đỉnh Ngũ Lão để dụ đại quân triều đình xâm nhập, cùng lúc đó Hình Lão Hổ làm chủ soái tam quân tự mình dùng kế dụ địch, cường công Phi Lăng Độ, Dương Lăng bị ép phải tập trung vào đội hậu bị. Lúc này Triệu Phong Tử mới lấy ra lá bài tẩy của mình, lệnh Hồng Nương Tử cướp lấy bến thuyền thượng du của Hoàng Hà, đồng thời vượt sông vơ vét thuyền bè, giả vờ như chuẩn bị tập kích Thái Nguyên ép Dương Lăng phải rút quân về, sau đó lợi dụng sự linh hoạt của kỵ binh và nhược điểm của quan quân là tin tức chậm chạp mà rút về bến thuyền chạy ra khỏi vòng vây thành công

Hơn mười vạn quân đội vây quanh phạm vi ba trăm dặm Đông Hoa Sơn chỉ có thể trấn thủ con đường trọng yếu. Nguyên bản Dương Lăng cũng không nghĩ có thể tiêu diệt toàn bộ phỉ tặc Trung Điều Sơn, nhưng không nghĩ tới Triệu Toại có thể sử dụng kế sách tốt như vậy khiến cho quân chủ lực của phỉ tặc được bảo toàn. Nhờ có kế hoạch phá vây xuất sắc của Triệu Toại mà gần một vạn kỵ binh của y gần như đã vượt qua được Hoàng Hà, sau đó một nửa đi đường thủy, một nửa đi đường bộ đi xuôi xuống hạ du, giống như thiên binh giáng phàm. Ven bờ Thiểm Tây căn bản chưa từng đoán được hưởng mã đạo xuất hiện ở nơi này đã bị cướp đoạt rất nhiều đò.

Theo trăm nghìn chiếc thuyền trùng trùng điệp điệp đi Hà Nam, chia binh tại Phong Lăng Độ, Hồng Nương Tử dẫn thuyền đi thẳng về hướng tây, vượt qua khu vực trọng binh đóng quân tại Đồng Quan, tới Vị Nam thì lên bờ. Lúc này toàn bộ đường sông của Vị Nam phủ đang bị tắc nghẽn bởi trăm nghìn thuyền hàng tụ tập. Người qua đường dù mang theo trẻ nhỏ chỉ cần đi dọc theo thân thuyền cũng có thể thoải mái qua sông, giống như một tòa cầu nổi đồ sộ vậy.

Triệu Phong Tử tự mình dẫn hơn trăm chiếc thương thuyền có lớn có nhỏ nghênh ngang vượt qua bến thuyền trong sự ngạc nhiên và bất ngờ của bọn quan binh, thuyền tới Thái Gia Câu thì thả neo, đem Hình Lão Hổ vừa mới hành quân dọc theo bờ sông lên thuyền chở tới bờ nam.

Trương Dần dẫn quân truy kích sai đường, mãi cho đến khi gặp được quân trịch trạm đang chạy trốn mới biết được tin tức. Lúc này y mới dẫn người chặn đường, sau một phen chém giết, hai ngàn quân cản hậu của Hình Lão Hổ bị đánh bại, chỉ có không tới một ngàn tám trăm người qua được sông

Giữa đường Dương Lăng mới nhận được tin Triệu Phong Tử trốn về hướng bến thuyền, hắn lập tức mang quân quay lại nhưng lúc này Triệu Phong Tử đã dẫn quân vượt sông, dùng thương thuyền mang binh xuôi theo dòng sông bất ngờ đánh cướp thuyền bè lương thực liên tục thành công.

Dương Lăng nghe tin giận dữ, định dẫn quân quay về, lúc này Trương Dần bèn khuyên:

- Quốc công chớ giận, việc lần này không trách được quân phòng thủ sông.

Quân lính ven bờ Hoàng Hà, phòng thủ là sông nhưng lính lại là lục quân (lính bộ), có thể qua lại trên sông Hoàng Hà chỉ có mấy chiếc thuyền nhỏ của Tuần Kiểm Ty, căn bản không có thủy sư nói gì đến chuyện ngăn địch trên sông?

Dương Lăng bị kế hư binh của Triệu Phong Tử lừa cho choảng váng, vừa nghe lời này mới nghĩ muốn trách cũng phải trách lão gia tử Chu Nguyên Chương. Hắn cười khổ, thở dài nói:

- Là ta xem thường Triệu Toại rồi, người này quỷ kế đa đoan, thật là một viên tướng tài.

Miêu Quỳ cảm thấy hơi thoải mái trong lòng, không phải gã muốn nhìn Dương Lăng xấu mặt, chỉ là gã tấn công lên núi hai tháng không thấy hiệu quả, nếu Dương Lăng một trận chiến bình định phỉ tặc, mặt mũi gã biết để đâu. Hiện tại chủ lực của Triệu Phong Tử đã trốn thoát, nếu phải đối mặt với hoàng thượng gã cũng bớt lo lắng phần nào.

Hứa Thái khuyên nhủ:

- Quốc công không cần phải lo lắng, theo chiến tích vừa mới báo lên, bọn phỉ tặc lưu thủ Trung Điều Sơn ngoại trừ Lý Hoa dẫn hơn nghìn người chạy đến Vương Ốc Sơn trốn vào rừng thì quân ta diệt phỉ tặc hơn bảy nghìn tên, bắt sống một vạn hai, đội ngũ của Hình Lão Hổ cũng chỉ chạy thoát hai nghìn tên, năm vạn phỉ tặc liều chết phá vây chỉ có mười tám nghìn tên chạy thoát. Lần này quân ta dùng mười lăm vạn quân bao vây ba trăm dặm đông Hoa Sơn, lấy được chiến tích như vậy đã có thể nói là thành công lớn.

Dương Lăng gật đầu, sau đó lại lắc đầu nói:

- Mặc dù nói như vậy không sai, tuy hiện tại quân số của bọn phỉ tặc không nhiều nhưng chúng hành động lại trở nên linh hoạt hơn, vấn đề lương thực cũng trở nên dễ dàng giải quyết. Bây giờ quân ta muốn tiêu diệt bọn chúng không còn dễ dàng như trước nữa rồi.

Dương Lăng suy nghĩ một chút, lạnh lùng cười:

- Tiểu Ngũ, đi thống kê tỉ mỉ chiến báo của các bộ phận cho ta. Đối với các đạo nhân mã tham gia tiêu diệt phỉ tặc lần này, có công thì thưởng, có lỗi phải phạt, sau đó một lữa nữa bố trí lại bọn họ. Đối với tù binh phỉ tặc cần an bài thỏa đáng. Nhớ kỹ tra khảo đấm thủ lĩnh phỉ tặc, xem có thể moi ra tin tức gì có giá trị hay không.

Nhìn Tiểu Ngũ, Tiểu Ái vội vàng ra ngoài, Dương Lăng lại lẩm bẩm:

- Ha ha, Triệu Phong Tử ơi Triệu Phong Tử, nước cờ này ngươi đi vô cùng tốt.

Nếu như ngươi muốn đi gặp Lưu Lục cùng Dương Hổ để hội quân, ta sẽ đem các ngươi một lưới bắt hết tại Giang Nam.

Trương Dần nghe thấy mắt sáng lên, vội vàng hỏi:

- Quốc công ... ngài muốn giải quyết hoàn toàn lũ phỉ tặc Bạch Y quân ở Giang Nam sao? Ngài có kế hoạch gì sao?

Dương Lăng lạnh lùng nhìn y, Trương Dần vội vàng cúi đầu nói:

- Quốc công thứ tội, là mạt tướng lắm miệng. Dương Lăng thản nhiên nói:

- Ngươi cũng dẫn binh nhiều năm, vậy mà không quen thuộc địa hình bản địa, truy kích địch cũng không dẫn theo binh lính địa phương dẫn đường, kết quả là dẫn binh đi nhầm đường, may mà gặp được quân lính đào ngũ từ bến thuyền đến báo tin nếu không toàn bộ binh mã của Hình Lão Hổ đã có thể qua sông an toàn. Nể tình người nhận được tin tức sau toàn lực truy kích địch, ra sức tiến công, tiêu diệt nhân mã lưu lại phòng thủ của Hình Lão Hổ nên lần này bản Quốc công không tiếp tục truy cứu. Lập tức mang binh mã quay lại Thái Nguyên, Sơn Tây đóng quân bất động để phòng ngừa Triệu Toại dùng kế hồi mã thương.

Trương Dần không dám lên tiếng lần nữa, vội vàng tuân lệnh lui ra.

Dương Lăng nhớ mang máng trong lịch sử từng có vài chiến dịch quan trọng nhưng bởi vì viện quân lạc đường mà hỏng việc, đây chính là việc thường xảy ra khi hành quân thời xưa. Hắn vừa mới giết một tên Hạ thủ bị, hiện tại lại là bản thân mình phán đoán sai mới khiến toàn quân bị động, không thể lại trách cứ Trương Dần, lúc này chỉ có thể khiển trách vài câu, sau đó nói với Hứa Thái:

- Ngươi lập tức chỉnh đốn nhân mã, sau đó tìm thuyền qua sông, đồng thời phải người nhanh chóng xác định tung tích của bọn phỉ tặc.

Hứa Thái lĩnh mệnh, vội vàng ra ngoài. Dương Lăng thấy Giang Bân mặt quấn vải trắng chỉ lộ ra một đôi mắt trâu đang đừng ngây ngốc ở đằng kia, bất tri bất giác nở nụ cười ôn hòa, lên tiếng trêu ghẹo:

- Đi xuống nghỉ ngơi một chút đi, ngươi chiến đấu dũng mãnh, bản Quốc công sẽ hướng hoàng thượng thỉnh công cho người, chỉ là có chút đáng tiếc, một mũi tên này xuyên quan xương hàm phá hủy tướng mạo, Giang du kích anh tuấn uy vũ của chúng ta lại kém uy vũ rồi.

Giang Bân thấy trong lều không còn người ngoài, liền nháy mắt cười nói:

- Thân nam nhi, khuôn mặt xem giống người là được, còn sợ dung mạo xấu xí sao? Ta cũng không phải dựa vào khuôn mặt ăn cơm.

Dương Lăng sờ sờ mũi, trừng mắt nói:

- Nói nhảm ít thôi, đi xuống nghỉ ngơi đi.

Giang Bân vội vàng đáp ứng lui ra. Được một lúc, chợt nghe thấy tiếng gào thét của Giang Bân ở bên ngoài:

- Tiêu Ngũ ca, ngài đi chậm một chút, ngài ... ngài tìm mấy tên đầu lĩnh thổ phỉ, giúp ta tra hỏi xem cô vợ bé của ta có phải bị bọn họ bắt đi hay không, nàng còn sống hay đã chết.

Dương Lăng nghe xong lắc đầu cười khổ:

- Cái thằng ngốc này, không sợ đau quai hàm sao.

Dương Lăng gióng trông khua chiêng sắp xếp giải quyết hậu quả. Bố trí truy kích Triệu Phong Tử, Hình Lão Hổ thì lại lên bờ ở Tiêu Phong Khẩu, tính cả bốn nghìn nhân mã Triệu Phong Tử mang theo dọc sông xuống, tự xưng có hai vạn nhân mã, xuyên qua Duyên Linh Bảo, Lạc Ninh, Nghi Dương bày ra tư thế muốn tấn công Lạc Dương. Lúc này ở Hà Nam, quân đội mới đang tập kết ở ven sông Hoàng Hà, bị bọn phỉ bỏ lại phía sau.

Lúc này Giang Hoành Dật – Tri phủ Lạc Dương vô cùng khẩn trương. Vội vàng điều động tất cả binh lực vào thành, đóng chặt cửa thành. Sau đó triệu tập sĩ tộc

trong thành thuyết minh tình hình, động viên mọi người có người góp người, có tiền góp tiền hợp lực chống cự phỉ tặc, thanh niên trai tráng đều phải lên tường thành tác chiến.

Giang tri phủ vừa than thở vừa khóc lóc, giống như đang trăn trối trước lúc lâm chung khiến đám thân sĩ sợ đến mức hồn vía lên mây. Vậy mà thật sự bị gã dọa cho mang rất nhiều tiền tài sung làm quân quỹ, lại lệnh cho gia đinh nam phó trong nhà tập trung lại nghe hiệu lệnh của tri phủ đại nhân lên tường thành chuẩn bị chiến tranh.

Toàn bộ thành Lạc Dương đều hoang mang, sợ hãi. Không ngờ Triệu Phong Tử lại không công thành mà lại vượt qua tấn công hướng Y Xuyên, Nhữ Dương. Cùng lúc đó, Hồng Nương Tử bỏ thuyền lên bờ, Duyên Lam Điền, Thương Lạc, Đan Phương nhanh chóng vòng vào Hà Nam, tấn công Tây Hạp, Chiết Xuyên.

Hồng Nương Tử thân mặc nam trang, dính hai hang râu cá trê trên mặt, cũng tự xưng là Triệu Phong Tử. Hai nhánh quân thay nhau hô ứng khiến quan phủ trong lúc nhất thời cũng không thể phân biệt được đâu mới là nhánh quân Triệu Phong Tử tự mình chỉ huy. Thấy hai tên Triệu Phong Tử có ý định hợp binh ở Nam Dương, lúc này Đường Vương vừa mới đến Nam Dương vô cùng hoảng sợ, vội vàng yêu cầu Đô Chỉ Huy Sứ Ty phải binh tiếp viện nhưng quan binh chậm chạp không đến. Triệu Phong Tử lại tiếp dục dọc theo Bảo Phong, Nam Triệu đi xuống làm cho Đường Vương lo lắng bồn chồn như con kiến bò trong chảo nóng

Trận chiến sinh tử tại Trung Điều Sơn khiến vị trí lãnh đạo của Triệu Phong Tử trở nên vững chắc. Hiện tại rất nhiều thủ lĩnh trong đám phỉ tặc đều phục tùng y.

Sau khi qua sông, bệnh tình của Hình Lão Hổ ngày càng nặng thêm, lão chỉ có thể ngồi xe đi tiếp, hơn nữa quân chủ lực của lão gần như bị tiêu diệt hoàn toàn, thực tế Triệu Toại đã nắm trong tay chi đội ngũ này.

Ngọn lửa chiến tranh lại một lần nữa bùng lên ở Hà Nam

Mùng ba tháng chín, Dương Lăng dẫn theo binh mã của Hứa Thái, Giang Bân vượt sông tới Lạc Dương. Giang Hoành Dật – Tri phủ Lạc Dương thấy viện quân đến, rốt cuộc không còn lo lắng, vội vàng dẫn dăt sĩ tộc toàn thành tiến lên nghênh

đón Dương Lăng vào thành.

Giang Hoành Dật kích động nói:

- Quốc công gia, cuối cùng ngài cũng đến đây, Bạch Y Quân vừa mới làm loạn Hà Nam sau đó rời đi, bọn hưởng mã đạo lại tới, dân chúng ai ai cũng hoang mang lo sợ. Triệu Phong Tử lại cực kỳ càn quấy, chỉ có Quốc công ngài mới có thể đánh bại chúng. Hiện tại ngài đã đến đây, cuối cùng dân chúng cũng nhìn thấy hi vọng.

Dương Lăng cười thản nhiên, không để ý đến những lời nịnh bợ này, chỉ thản nhiên hỏi:

- Giang tri phủ, bọn hưởng mã đạo làm loạn kiêng kị nhất chính là làm cho rất nhiều dân chúng lưu lạc, mặc dù người là quan văn nhưng nội chính mới là nền tảng của chiến tranh cho nên nhiệm vụ của ngươi là khó khăn nhất. Không phải cứ hô to thay trời hành đạo là được, không phải chỉ dựng cờ khởi nghĩa là có thể tự xưng nghĩa quân.

Hắn nhìn thoáng qua quan viên, tướng lĩnh và đám nhà giàu đang ngồi dưới

nói:

- Nếu nói về ưu thế, ưu thế của triều đình không phải là chiến lực của quân đội, tuy vệ sở đã trải qua chỉnh đốn nhưng chiến lực kỳ thật vẫn không cao hơn là mấy, triều đình có đại phảo tuy rằng mạnh mẽ nhưng đối mặt với đám phỉ tặc lưu động nhanh và linh hoạt lại không có bao nhiêu tác dụng. Về phần cung tên, đao thương thì quan binh có, dân chúng cũng có.

Vì sao Bạch Y tặc ở Hà Bắc, Sơn Đông lại được nhiều người ủng hộ, nhiều người đi theo đến vậy? Bởi vì dân nghèo rất nhiều, đám tài chủ phú thương lại áp bức bóc lột quá đáng, sau khi phỉ tặc làm loạn lại không trấn an đúng lúc, dân chúng không thể sống nổi mới vậy.

Dương Lăng tới thời đại này, tận mắt nhìn thấy mọi chuyện phát sinh mới biết được khởi nghĩa là người đời sau đánh giá đặt tên. Nếu cho rằng chỉ cần hô to khởi nghĩa thì dân chúng sẽ đem theo mồ hôi xương máu đến ủng hộ thì đó chỉ là quan

điểm duy tâm mà thôi.

Nói cho cùng thì dân chúng chỉ vì sống sót mà thôi, ngươi cần phải có quan điểm chính trị rõ ràng, phải làm cho dân chúng tin tưởng mới được. Mà điểm này chính là thứ mà bọn Hưởng mã đạo, Bạch Y Quân thiếu, chỉ thắng được vài trận chiến liền đắc ý, cơ bản không thể quyết định được thắng lợi cuối cùng thuộc về ai. Dân chúng chỉ quan tâm tới sự thật, người làm gì khiến cho bọn họ có lợi, bọn họ sẽ ủng hộ người, đối với bọn họ không có lợi gì, bọn họ sẽ phản đối người, tất cả chỉ đơn giản như vậy mà thôi.

Cho nên sau khi kết thúc việc tiêu diệt phỉ tặc Sơn Đông, Dương Lăng lập tức tại triều thỉnh cầu hoàng đế tiến hành cải cách, rất nhiều chính sách an dân đều có hiệu quả, lưu dân được bố trí hợp lý, dân chúng thấy được hy vọng. Sau khi Bạch Y Quân đến Giang Nam chẳng những không được dân chúng ủng hộ để nhanh chóng phát triển mà còn khắp nơi gặp trở ngại. Cùng với nói quan binh thành công trên chiến trường quân sự không bằng nói các chính sách chính trị phát huy tác dụng mạnh mẽ.

Huống chi quan niệm chính thống đã xâm nhập sau trong lòng dân. Đại Minh lại còn lâu mới tới mức đánh mất dân tâm. Tại thời đại phong kiến này, quan niệm chính thống ở thời điểm đấu tranh vũ trang có thể sinh ra lực lượng vật chất rất lớn. Rất nhiều cuộc khởi nghĩa mà đời sau cho rằng là khởi nghĩa anh hùng, ở trong mắt phần lớn dân chúng thời bấy giờ đều là đám phỉ tặc làm loạn mà thôi. Quân Triệu Toại danh tiếng vẫn tương đối tốt nhưng vừa tới Hà Nam đã khiến cho dân chúng hoảng sợ đủ để chứng minh điểm này.

Dương Lăng nói:

- Dân chúng rất dễ dàng thỏa mãn, bọn họ phải sinh con đẻ cái, chỉ cần cơm no áo ấm thì bọn họ sẽ không đi tạo phản. Hà Nam vốn đã nghèo, mấy năm nay lại thiên tai liên miên, các ngươi là quan phụ mẫu, là danh gia vọng tộc, phải yêu thương dân chúng, tích cực hưởng ứng chính sách mới của triều đình. Như vậy dù Triệu Toại có đến cũng chỉ như sao băng chợt lóe trên bầu trời, cơ bản không thể làm nên trò chống gì.

Giang tri phủ vội vàng cười tiếp lời:

- Vâng vâng vâng, Quốc công nói quá đúng, danh gia vọng tộc địa phương đều rất yêu thương dân chúng. Tiêu Các Lão đã khẩn cầu hoàng thường miễn thuế ba năm cho Hà Nam. Lần này Bạch Y phỉ cho dù náo loạn long trời lở đất ở Hà Bắc, Sơn Đông nhiều lần muốn giết đến Hà Nam nhưng dân chúng chưa từng tạo phản, tất cả đều do bọn họ cảm động với ân huệ triều đình ban cho.

Giang Tri phủ vội vàng cười nịnh nói.

Dương Lăng ngẩn người, chợt nhớ tới chuyện Hà Nam tam bảo Tiêu Phương, Dụng Tri Liễu, Hạt Tử dâng tấu khuyên can hoàng thượng. Chẳng trách lần này Bạch Y Quân gióng trống khua chiêng làm loạn như vậy mà ở Hà Nam hầu như không có người đi theo tạo phản. Không nghĩ tới là nhờ có Tiêu Phương vì phụ lão quê nhà làm chuyện tốt lại có hiệu quả như vậy

Quan viên sĩ tộc đang ngồi nghe Giang tri phủ nói đều cảm thấy thấm thía.

Thiện Thiên – Lạc Dương Thông Phán Sứ khen:

- Quốc công gia văn võ song toàn, cương nhu đều đủ. Ty chức tin tưởng tiêu diệt lưu tặc chỉ là vấn đề thời gian. Buồn cười là là Triệu Phong Tử vẫn còn kiêu ngạo, ngông cuồng vô cùng, đi qua Lạc Dương lại không dám tấn công, lại lưu lại thơ ở chùa Bạch Mã ngoài thành tự đề cao mình, rõ ràng là từ Sơn Tây chạy trốn đến đây nhưng lại đắc chí tự dưng mình là anh hùung, thật là buồn cười.

Dương Lăng nghe vậy hiếu kỳ nói:

- Ồ, Triệu Phong Tự lưu lại thơ ở chùa Bạch Mã? Hắn viết những gì?

Sử Thông Phán biết mình nói lỡ miệng, vội vàng nhìn về phía Giang tri phủ.

Giang tri phủ vội vàng cười nói:

- Ha ha, chỉ là vài lời ngông cuồng kiêu ngạo của phỉ tặc thôi mà, Quốc công cần gì phải để ý chứ.

Dương Lăng nhìn Giang tri phủ, cười nói:

- Đã biết chỉ là mấy lời ngông cuồng vô căn cứ, sao không nói ra để mọi người cùng chê cười?

Giang tri phủ vô cùng lúng túng, do dự một chút rồi trừng mắt nhìn Sử Thông Phán mới cười ha ha nói:

- Sau khi Triệu Phong Tử vòng qua thành nghỉ tạm tại chùa Bạch Mã, y từng viết một bài thơ trên bức tường màu trắng. Trong thơ là...là "Kỷ hồi nguyệt hạ xao kim đăng, Đa thiếu anh hùng tang đảm hàn. Túng hoành lục hợp thùy cảm bộ. Bình khi địch tương hổ cầm dương!'

Gã nói xong liền không dám thở mạnh. Từ trước đến này quan lại đều rất coi trọng mặt mũi, quan tâm nhất chính là thanh danh của mình. Tướng coi thành phòng thủ nghiêm mật không xuất chiến nhưng chỉ cần gửi cho một bộ quần áo của đàn bà liền kích động không để ý hết thảy mang binh xuất chiến. Vấn đề này nếu đặt ở hiện đại thì chỉ là trò cười, nhưng ở cổ đại nhiều lúc lại vô cùng hiệu quả. Gia Cát Lượng mắng chết Vương Lang, chung quy tức giận cũng chỉ vì thanh danh.

Dương Lăng thiếu niên khí thịnh, thân là Quốc công lại trăm chiến trăm thắng, hiện tại bị một tên giặc cỏ cười nhạo như vậy, không có lý nào lại không giận dữ.

Tất cả mọi người đều nơm nớp lo sợ, chuẩn bị nghe hắn tức giận chửi mắng, không ngờ Dương Lăng nghe xong sắc mặt không đổi, hắn lẩm nhẩm đọc lại một lần nhưng lại vui vẻ cười nói:

- Triệu Phong Tử chẳng những vũ lược xuất chúng, tài văn chương cũng không tệ, lại làm được một bài thơ hay.

Hắn ánh mắt xoay chuyển, thấy sắc mặt mọi người khác thường, lúc này mới hồi thần nói:

- Hổ cầm dê, hổ cầm dương. Ha ha, Triệu Phong Tử, con mãnh hổ này lại muốn phản bắt ta Dương Lăng hay sao?

Lúc này Giang tri phủ thấy hắn không tức giận mới yên lòng cười nói:

- Quốc công lòng dạ thật rộng lượng, Triệu Phong Tử ăn nói ngông cuồng chẳng qua chỉ là tự mình khen mình, hoang tưởng mà thôi.

Giang Bân cười hắc hắc nói:

- Một con ếch ngồi đáy giếng mà thôi, lại còn lớn lối, tung hoàng lục hợp ai dám bắt? Tướng quân nhà ta lại vốn là họ Dương, hừ tên Triệu Phong Tử này, sớm muộn gì ta cũng đem hắt lột da.

Mọi người đang nói chuyện, Ngũ Hán Siêu vội vàng đi tới, thì thầm vào tai Dương Lăng vài câu. Dương Lăng cười cười nói:

- Bản Quốc công mới đến Hà Nam, còn cần biết hướng đi của bọn hưởng mã đạo mới có thể quyết định điều binh. Quân vụ bận rộn, hiện tại còn có chuyện cần phải làm, đành phải mời chư vị trở về rồi.

Giang tri phủ vội vàng đứng lên nói:

- Quốc công vất vả vì nước, hiện tại binh mã đã tới Lạc Dương, quan viên sĩ tộc Lạc Dương đã chuẩn bị mấy bàn tiệc rượu vì Quốc công đón gió tẩy trần, hiện tại

...

- Không cần, Hà Nam đang bị lưu phỉ gieo tai họa còn cần quan viện và sĩ tộc địa phương hợp sức ổn định dân tâm. Chỉ cần làm tốt việc này đã là hoan nghênh lớn nhất với bản Quốc công rồi. Hiện tại thật sự có quân vụ quan trọng cần xử lý, ý tốt của Giang tri phủ, bản Quốc công tâm lĩnh.

Giang tri phủ thấy thế, đánh phải dẫn đám quan viên sĩ tộc cáo từ rời đi. Dương

Lăng tiễn bọn họ ra đại sảnh, sau đó mang theo Ngũ Hán Siêu quay lại thư phòng hỏi:

- Tiêu Các Lão gửi đến tin tức khẩn cấp?

Ngũ Hán Siêu từ trong tay áo lấy ra một phong thư nói:

- Vâng, người đưa tin còn ở bên ngoài. Tuy nhiên ty chức đã hỏi qua, gã chỉ phụ trách truyền tin, cụ thể nội dung bên trong gã không biết gì cả

Dương Lăng gật đầu, vội vàng mở thư ra xem, lông mày dần dần nhíu lại. Ngũ Hán Siêu nhìn sắc mặt hắn nhỏ giọng hỏi:

- Quốc công, trong kinh xảy ra đại sự gì sao? Dương Lăng lắc đầu nói:

- Trong kinh không có đại sự gì. Tiêu Các Lão đã hồi kinh, đem một ít triều đình đại sự gần đây chỉnh lý lại báo cho ta biết. Bá Nhan bỗng nhiên lãnh binh giết hồi thảo nguyên phương bắc, nhưng xem ra tình hình cũng không tốt, Hoa Đương đã đạt được tiên cơ. Hiện tại thế lực lớn mạnh đủ để chống lại Bá Nhan, Hỏa Si.

- Hỏa Si và liên quân bộ tộc Ngõa Lạt biết được địa bàn của Bá Nhan đã mất, hiện tại cũng đã xé rách da mặt, ba bên chém giết liên miên trên thảo nguyên. Tạm thời đều có thắng có bại, tuy nhiên phe Bá Nhan là yếu nhất, hơn nữa lại là kẻ địch chung của Hoa Đương và Hỏa Si. Tuy nhờ vào danh vọng của hậu duệ gia tộc Hoàng Kim, triệu hồi được một bộ phận bộ lạc trở về nhưng tổng hợp thực lực vẫn nằm ở hạ phong.

Hiện tại tình hình tái ngoại là như vậy, ở đây chúng ta đang loạn, bọn họ ở đó cũng đang loạn. Tạm thời không cần phải để ý đến uy hiếp từ phía bọn họ. Chính sách mới trong triều thi hành cũng rất thuận lợi, chỉ có điều Tiêu Các Lão nhắc đến chiến cuộc Giang Tây làm ta rất lo lắng

Dương Hổ, Lưu Lục giết đến Giang Tây, nhưng bởi về quan binh các nơi không đều tự hành động, lại lần nữa làm cho Bạch Y Quân được lợi. Quan lại trung với

Ninh Vương vào kinh tỏ thái độ ủng hộ tân chính sách, đồng thời đề nghị hoàng thượng bổ nhiệm Ninh Vương tạm thời tiết chế các lộ binh mà Giang Tây, cùng Giang Tây tuần phủ chung tay tiêu diệt phỉ...

Ngũ Hán Siêu kỳ quái nói:

- Việc này có gì đáng giá lo lắng sao? Trong thời gian chiến tranh, nếu liên hệ giữa địa phương và triều đình bị cắt đứt, Phiên vương có quyền tự mình lãnh binh bình định. Các phiên vương vùng biên giới như Tần vương, Đại vương, Thục vương đều có quyền lực này. Mặc dù Ninh Vương ở đất liền nhưng vẫn phải có trách nhiệm đảm bảo an ninh khu vực Giang Tây. Tạm tời điều khiển binh mã, thống nhất chỉ huy là chuyện bình thường mà.

Dương Lăng muốn nói nhưng lại thôi, tuy rằng Ngũ Hán Siêu là tâm phúc của hẳn, nhưng có những lời kinh thế hãi tục lại không có căn cứ làm sao có thể nói với gã được? Hắn trầm ngâm rồi nói:

- Ta chỉ lo là Ninh vương chưa từng chỉ huy tác chiến lần nào, sợ hắn loạn chỉ huy ngược lại làm rối loạn tuyến phòng ngự của Giang Tây. Hiện tại không có việc gì rồi, ngươi lui xuống trước đi.

- À còn có việc, ta thấy gần đây Tiểu Ái rất ít nói chuyện, hai người các người đang giận dỗi nhau phải không?

Ngũ Hán Siêu cười trừ nói:

- Làm gì có chuyện đó. Nàng nóng tính hơn ta, chức quan cũng lớn hơn ta, làm sao ta dám chọc giận nàng.

Dương Lăng cũng cười, hắn vung tay, Ngũ Hán Siêu liền yên lặng lui ra, lúc này trên mặt Dương Lăng mới lộ ra một chút lo lắng.

Hắn thở dài, ngồi vào bàn mở bản đồ Đại Minh, trong lòng lại vô cùng lo lắng: Ninh vương sẽ không tạo phản vào lúc này chứ? Nếu y thừa dịp loạn thế khởi binh tạo phản thì không biết triều đình phải trả giá bao nhiêu mới có thể bình định được phản loạn.

Ninh vương đối với tân đế luôn luôn kính cẩn nghe lời, mỗi lần ngày hội ngày lễ đều gửi quà, lại lấy lòng quan viên trong kinh, chiêu hiền đãi sĩ. Theo tin tình báo mà hắn biết, ngay cả Dương Đình Hòa đều nhận quà của Ninh vương, bởi vậy nếu không có chứng cớ chính xác chỉ ra Ninh vương tạo phản mà phiên vương lại có quyền cầm binh bình loạn, cơ bản hắn không thể ngăn cản Ninh vương cầm binh

quyền.

Dương Lăng trầm tư thật lâu, bắt đầu trải giấy viết tấu chương cho hoàng đế Chính Đức. Việc liên quan đến Giang Tây hắn không nhắc đến một câu nào, chỉ nói chuẩn bị tiêu diệt toàn bộ Bạch Y Quân ở Giang Tây, các bố trí về mặt quân sự đã có hiệu quả, Dương Hổ, Lưu Lục bị vây khốn ở Giang Nam, mà Triệu Toại xuôi nam thì binh lực có hạn, không nhấc nối sóng gió. Tuy nhiên vì phòng ngừa vạn nhất có chuyện, mà Giang Nam phần lớn là quân vệ sở, binh yếu tướng kém, thời khắc mấu chốt khó có thể phát huy tác dụng, thỉnh cầu hoàng thượng tiến hành đổi nơi đóng quân của các tướng lĩnh

Dương Lăng suy nghĩ một chút, nhấc bút viết:

- Thần đề nghị, do Hà Bính Văn - Đô Chỉ Huy Sứ Ty Phúc Kiến thống soái binh mã hai tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông để thống nhất điều động, phòng ngừa Bạch Y Quân vượt qua Giang Tây tiếp tục xuôi nam. Lý Sâm – Đô Chỉ Huy Sứ Tứ Xuyên kinh nghiệm tác chiến phong phú, có thể đổi nơi đóng quán với Lưu Trung – Đô Chỉ Huy Sứ Hồ Nam, tăng cường phòng tuyến Hồ Nam.

Dương Lăng suy nghĩ một chút, an bài như vậy có thể nói là phòng ngừa chu đáo. Tự hắn vượt qua Hà Nam, nam Trực Lệ, lại có Bạch Trọng Tán ở Chiết Giang, người này dũng mãnh thiện chiến, lại quen với chiến đấu chống giặc Oa, có thể trọng dụng. Mấy viên tương lĩnh này vây quanh Giang Tây, Ninh vương nếu dám khởi binh phản loạn, chỉ cần hắn ngắn cản đường lên phía Bắc, có thể bắt ba ba trong chậu, Ninh vương có vạn phép thần thông cũng chạy không thoát lòng bàn tay của hắn.

Trong phòng Tống Tiểu Ái, Ngũ Hán Siêu nhỏ giọng nói:

- Tiểu Ái, muội cần phải chú ý một chút. Vừa rồi Quốc công đã hỏi thăm muội, đừng để ngài phát hiện ra.

Tống Tiểu Ái chu mỏ ngồi ở đầu giường, cầm gối ném tới:

- Xem xem cái đầu huynh ý, bây giờ không bị phát hiện, mấy tháng nữa cũng sẽ

phát hiện ra, khi đó muội làm gì còn mặt mũi nào nữa? Đều tại huynh, nói ngon ngọt lừa gạt muội. Huynh nói bây giờ muội phải làm gì?

- Ta ... Ta ta...

Ngũ Hán Siêu đỏ mặt gấp đến mức bước loạn trong phòng, vẻ mặt như đưa đám nói:

- Ta cũng không biết phải làm sao bây giờ? Làm sao có thể trùng hợp như vậy

...

Tống Tiểu Ái trợn tròn mắt, tức giận nói:

- Huynh nói cái gì? Cái gì mà trùng hợp, cái gì mà không có khả năng, chẳng nhẽ trừ huynh ra muội còn có người đàn ông thứ hai? Huynh là đồ vô lương tâm, huynh ...

- Suỵt! Suỵt suỵt... bà cô của ta ơi, muội nói nhỏ một chút đi, ta cũng chưa nói rằng đứa bé không phải của ta mà. Ta muốn nói ta đã dừng cương trước bờ vực rồi, làm sao lại... làm sao lại có được chứ, ha ha

Ngũ Hán Siêu cười gượng gạo, nhưng trong tiếng cười lại trộn lẫn một chút đắc

ý

- Huynh dừng cái rắm ý, chỉ biết tự mình sung sướng mà không chịu lo nghĩ cho muội.

Tống Tiểu Ái trề môi gấp suýt khóc:

- Đều tại huynh, không biết lấy ở đâu ra can đảm, ban ngày ở thành Bá Châu ôm ôm hôn hôn còn chưa đủ, buổi tối còn trộm chui vào phòng muội, làm bây giờ muội mới mất mặt như vậy, muội hận huynh chết đi được.

Ngũ Hán Siêu cúi đầu dẫm dẫm đất than thở:

- Còn trách ta, lúc đấy không phải muội cũng rất ra sức sao?

Tống Tiểu Ái tai thính, nghe vậy bèn nói:

- Tiểu Ngũ, huynh vừa nói gì?

- Không ... ta chưa nói ... à ta đang nghĩ phu nhân của Quốc công rất tốt bụng, ta định thỉnh cầu nàng ấy làm chủ cho chúng ta thành hôn. Muội thử nghĩ xem, nếu phu nhân của Quốc công làm chủ hôn cho chúng ta, cha ta nghe thấy cũng không thể nói được gì, nhưng ai mà nghĩ đến Quốc công lại đến Sơn Tây tiêu diệt phỉ tặc, hiện tại không thích hợp để ta nói chuyện này, bây giờ ta mà nói thì còn ra thể thống gì nữa.

- Tốt! Huynh còn muốn thể thống đúng không? Muội không cần đứa bé nữa, muội sẽ uống thuốc đem nó bỏ đi, huynh là đồ vô lương tâm, Miêu công công là thái giám không làm được giám quân, huynh Ngũ Hán Siêu làm hái hoa tặc không làm được đàn ông...

Tống Tiểu Ái vừa nói vừa cầm đồ trên bàn trang điểm ném tới, Ngũ Hán Siêu lập tức thi triển võ công khoa chân múa tay đón đỡ, cuối cùng một chân vểnh lên đỡ lấy bình hoa, miệng ngậm một cây bút long, tay trái cầm hộp phấn, tay phải giữ gương đồng, đũng quần kẹp một chiếc lược sừng trâu, dưới nách kẹp chặt một cây trâm cài đầu sang bóng giống như làm xiếc khỉ, dở khóc dở cười ngượng ngùng nói:

- Tiếu Ái, đừng ném đồ nữa, muội ném nữa ta không có cách nào đỡ được nữa

rồi.

Tống Tiểu Ái hừ một tiếng, lườm hắn nói:

- Vậy huynh nói xem phải làm sao bây giờ

- Không được phép bỏ đứa bé, muội cũng không phải lén lút quan hệ với đàn ông ... Không phải, không phải ý của ta là nhà ta có một mình ta là con trai, nếu cha của ta biết ta đem cháu của ông ấy bỏ đi rồi, ống ấy sẽ đánh chết ta mất.

- Vậy huynh nhanh chóng viết một bức thư cho cha huynh, tranh thủ hiện tại vẫn chưa có ai phát hiện, sớm ngày cưới muội về nhà đi.

- Nhưng làm sao ta có thể mở miệng đây, hiện tại còn đang đánh trận, nói nàng có thai sao? Cha ta là người đọc sách, ông ấy coi trọng nhất là nề nếp gia đình, nếu ông ấy biết chuyện này cũng sẽ đánh chết ta.

Tống Tiểu Ái nhăn mày quát:

- Thế này không được, thế kia cũng không được, bản sự của huynh lúc huynh leo lên giường của bản cô nương chạy đi đâu rồi? Tức chết ta mất, để ta đi tìm Quốc công..

- Đừng đừng, đừng làm vậy, nàng thân con gái làm sao có thể mở miệng nói ra vấn đề này?

Vừa nói, Ngũ Hán Siêu như làm ảo thuật, bộ dáng đáng thương lúc trước biến mất không thấy đâu, đồ đạc treo trên người lập tức bị quẳng lên không trung, sau đó y xoay người lấy áo choàng bắt lấy toàn bộ, động tác không những linh hoạt mà còn vô cùng đẹp mắt

Tống Tiểu Ái mắt sáng ngời, vui vẻ nói:

- Đây là công phu gì vậy? Huynh phải dạy cho muội, huynh giỏi lắm, đối với muội cũng giấu nghề, mau dậy muội, muội muốn học.

Ngũ Hán Siêu dở khóc dở cười nói:

- Bà cô của ta ơi, nàng thật không lo nghĩ gì sao, bây giờ còn muốn học gì nữa?

Lửa đều cháy đến mông rồi.

- Ồ!

Lúc này Tống Tiểu Ái mới nhớ ra mình đang giả vờ đáng thương để ép Ngũ Hán Siêu cưới mình, vội vàng xụ mặt nói:

- Muội không nói vậy huynh đi nói nhé, nếu không thể cho cha huynh biết thì phải cho Quốc công biết mới được, giữa đàn ông với nhau còn dễ nói chuyện.

Chẳng phải ở Nam Kinh Quốc công cũng âm thầm có một người phụ nữ sao? Huynh nói thì ngài ấy nhất định sẽ thông cảm cho huynh. Chúng ta làm hôn lễ trong quân thật lãng mạn làm sao.

Tống Tiểu Ái ôn nhu cười, nhẹ nhàng ôm lấy cánh tay Ngũ Hán Siêu, để cho cánh tay gã nhẹ nhàng cọ vào ngực mình, dịu dàng nói:

- Tiểu Ngũ, huynh phải đi nói cho Quốc công, sau khi thành thân chúng ta không cần phải lén lút nữa. Muội thân mỗi ngày đều ở cùng huynh, uyên ương cùng gối, đầu bạc răng long, bách niên giai lão...

Ngũ Hán Siêu toàn thân xương cốt đều mềm xuống, lỗ tai ngưa ngứa, hai tay

ôm một đống đồ trong áo choàng, hớn hở nói:

- Được rồi được rồi, muội ... muội để cho ta suy nghĩ một chút, ta nghĩ phải tìm một cơ hội tốt mới mở miệng được.

Tống Tiểu Ái mặt biến sắc, giơ chân đạp thẳng vào mông của gã, tức giận nói:

- Huynh là đồ vô lương tâm!

Dương Lăng ngồi trong phòng suy nghĩ một hồi, đem tấu chương xem kỹ lại một lần, cân nhắc thật lâu, ánh mắt dừng ở phủ Khánh An nằm trên con đường đi thông từ Sơn Tây đến thành Nam Kinh. Tay của hắn chỉ vào địa đồ, chớp mắt liền cầm bút viết lên giấy tên của một người: Thần thỉnh cầu hoàng thường điều Ngũ Văn Định – Đồng Tri của Thành Đô đến đảm nhiệm tri phủ của phủ Khánh An – Nam Trực Lệ...

Hồng Nương Tử không thể công hạ Nam Dương bèn dẫn quân vòng qua thành, đi thẳng tới Bí Dương. Huyện lệnh Bí Dương mang theo đại ấn bỏ trốn, Hống Nương Tử không đánh mà thắng lấy được Bí Dương chờ Triệu Toại tới, không ngờ khi Triệu Toại đến, toàn quân đều mặc đồ trắng khiến nàng vô cùng giật mình.

Hóa ra tại trận chiến ở bến thuyền, Hình Lão Hổ mang bệnh vẫn tự mình lãnh quân tác chiến, bệnh tình càng nặng hơn, dọc đường lại không nhận được điều trị tốt, tới Phương Thành thì qua đời. Triệu Phong Tử toàn quân mặc đồ tang, đem lão chôn tại một nơi bí ẩn trong núi, sau đó mới dẫn quân tới đây.

Hồng Nương Tử cùng Hình Lão Hổ đã quen biết nhau từ lâu, giao tình của hai người tuy chỉ bình thường nhưng nghe tin lão qua đời cũng cảm thấy bi thương, nghe rõ mọi chuyện xong Hồng Nương Tử mềm giọng quát:

- Người đâu, sắp xếp án hương để ta tế điện Hình đại nguyên soái.

- Vâng, vâng.

Lập tức có người bối rối từ trong đại sảnh đi ra lĩnh mệnh, Triệu Phong Tử thấy người nọ mặc một thân ngoại bào, tuổi khoảng ba mươi, da thịt trắng mịn, giống

như rất ít lao động bèn nhíu mày nói:

- Người kia là ai vậy? Hồng Nương Tử nói:

- Một tòa nhà xa hoa to lớn như vậy, hiển nhiên là gia đình giàu có, người này còn là quan lại nữa, là một Thị Độc. Ngươi thử đoán xem gã là công tử của vị đại nhân nào?

Triệu Phong Tử nghĩ ngợi nói:

- Công tử sao? Ồ, trước cửa treo tấm biển của Tiêu phủ, Tiêu sao ... Gã là con trai của Tiêu Phương hả?

Hồng Nương Tử nói:

- Đúng vậy, nơi này chính là Tiêu phủ, nếu không phải vậy thì địa phương nhỏ bé này làm sao có thể có tòa nhà lớn như vậy xuất hiện chứ?

Tiêu Phương có tất cả năm đứa con, con cả, con thứ ba, con thứ tư đều đã qua đời, hiện tại ông ta chỉ có hai đứa con trai. Con thứ Tiêu Thụy là phán quan của Võ Định Châu – Sơn Đông, còn gã này là con út Tiêu Hoàng, vừa tròn ba mươi tuổi, hai năm trước thi đỗ tên đầu nhị giáp, vào Hàn Lâm Viện, năm nay vừa mới được đề bạt làm Thị Độc.

Khi Tiêu Phương tuần tra các tỉnh và an bài lưu dân thì gã cũng xin nghỉ để đi theo hầu hạ phụ thân, khi Tiêu Phương hồi kinh thì gã quay lại quê nhà, vốn định qua vài ngày nữa lại hồi kinh, không ngờ Hồng Nương Tử hành quân nhanh như vậy. Mà cái tên huyện lệnh Bí Dương hằng ngày vẫn xưng huynh gọi đệ với gã không hề có nghĩa khí, không thông báo một tiếng liền bỏ chạy. Hồng Nương Tử lại chuyên chọn các gia đình giàu có hạ thủ trước, kết quả là gã lập tức bị Hồng Nương Tử bắt giữ.

Triệu Phong Tử hừ lạnh, cao thấp đánh giá Tiêu Hoàng vài lần khiến cho Tiêu Hoàng sợ hãi tái mặt.

Triệu Phong Tử lạnh lùng cười nói:

- Tiêu Phương ở kinh thành, cũng không có làm bao nhiêu việc xấu, gã này chỉ là một Thị Đọc của Hàn Lâm Viên, nếu giết thì mang danh bất nghĩa, dùng để uy hiếp quan binh lại không đủ trọng lượng, tạm thời làm cái người hầu cũng khá thích hợp, mau lui xuống đi.

Tiêu Hoàng như nhận được đại xá, mặt đỏ bừng lui xuống. Hồng Nương Tử nhăn mày nói:

- Tú tài, chúng ta có thể phá vây đều dựa vào mưu kế của ngươi, hiện tại đã tới Hà Nam, nhưng phía sau Dương.. Dương Lăng lại truy đuổi rất nhanh, chúng ta phải đi về đâu, đi Giang Tây cùng Lưu Lục hội binh sao?

Triệu Toại lắc đầu nói:

- Không, hiện tại Dương Lăng đang điều động binh mã, dần dần ép sát hướng Giang Nam, hắn muốn ép chúng ta đến khu vực bất lợi cho kỵ binh tác chiến, đem chúng ta vây lại chờ chết đói, hoặc tìm cơ hội tiêu diệt toàn bộ, chúng ta không thể đi Giang Tây, nơi đó là tử địa.

Gã liếc mắt nhìn Hồng Nương Tử sau đó nói:

- Ngươi không phát hiện ra sao, chúng ta ở khu vực Hà Bắc, Sơn Đông nhiều dân nghèo thì trăm trận trăm thắng, chiêu binh mãi mã vô cùng nhanh chóng, cho dù bị đánh tan chỉ mười ngày nửa tháng lại có thể tụ được đại quân một lần nữa. Chỉ cần có tiền, không thiếu dân nghèo không sống được nguyện ý đi theo liều mạng, nhưng tới phía nam thì lại không làm được như vậy.

Dân chúng ở nơi này tương đối giàu có, cho dù đối với triều đình có chút bất mãn nhưng còn xa mới tới mức ủng hộ chúng ta, đám người mà trong mắt bọn họ chỉ là phỉ tặc. Đại Minh trị vì hơn trăm năm, căn cơ đã vững chắc, quan niệm chính thống xâm nhập lòng dân, quan niệm này chính là binh mã, chính là tiền tài, chúng ta đi về phía nam thì không thể sử dụng sách lược giống ở phía bắc nữa rồi.

- Nếu ta đoán không sai, Lưu Lục, Dương Hổ xuôi nam đến Giang Tây, tổn thất binh lính rất khó có thể bổ sung. Thực lực sẽ càng ngày càng yếu, chúng ta nhất định phải tìm ra một chỗ, trước tiên ổn định lại, tranh thủ thời gian thở dốc sau đó tìm đường phát triển.

Hồng Nương Tử rất muốn hướng Nam Trực Lệ tìm Chu Đức An báo thù, nhưng lúc này lại không có cách nào mở miệng, nàng nhẫn nhịn nói:

- Việc này tú tài so với ta hiểu biết nhiều hơn, ta chỉ hỏi người, hiện tại chúng ta phải làm thế nào?

Triệu Toại nói:

- Khi ta ở Trung Điều Sơn liền đoán được bọn họ xuôi nam tất gặp khó khăn, đáng tiếc chúng ta ở cách nhau quá xa nên không thể khuyên can được. Trước khi phá vây, ta đã phái người đi Giang Tây liên lạc với Lưu Lục, Dương Hổ, trước mắt chúng ta hoạt động ở quanh vùng này, chờ bọn họ phái người tới đây sau đó cùng nhau thảo luận tìm một đường ra.

Hiện tại, chúng ta nên hồi quân tấn công Nam Dương, thừa dịp Dương Lăng mới tới Hà Nam không kịp điều binh khiển tướng, bằng mọi giá phải đánh chiếm thành Nam Dương, bắt sống Đường vương Chu Di Ti, chờ chúng ta chọn được địa điểm thích hợp liền đưa hắn lên làm hoàng đế bù nhìn. Đều là con cháu Chu gia cả, có một kẻ như gã ở đây, dân chúng phản đối chúng ta sẽ yếu đi rất nhiều, xuất binh cũng sẽ danh chính ngôn thuận.

- Con cháu Chu gia?

Hồng Nương Tử đảo mắt, bỗng nhiên cười nói:

- Chỉ cần là con cháu Chu gia là có thể được hả? Vậy thì không cần cố sức tấn công Nam Dương, khi ta vòng qua Nam Dương thuận tay bắt được một gã, mà gã này lại là một tên chính thống phượng tử long tôn (con phượng cháu rồng)

Triệu Phong Tử ngẩn người, chợt mừng như điên đứng lên hỏi:

- Mau nói xem, gã này là ai? Hồng Nương Tử cười cười nói:

- Gã này hả? Gã là một tên hòa thượng!

Triệu Toại nghe Hồng Nương Tử nói xong liền ngạc nhiên hỏi:

- Hòa thượng? Tại sao lại có một tên hòa thượng ở đây? Hồng Nương Tử nhịn cười nói:

- Ta thấy không thể công chiếm Nam Dương liền chuyển sang hướng đông, cách Nam Dương ba mươi dặm có một tòa Pháp Nguyên Tự, người của ta đang định tới đó nghỉ chân nhưng không nghĩ đến lại thấy hai tên hòa thượng cùng vài người phụ nữ đi ra, nhìn cử chỉ của bọn họ với nhau ta liền đoán nơi này là một tòa thanh lâu trá hình nên tức giận mang binh vào miếu điều tra.

Nói đến đây Hồng Nương Tử cười có chút cổ quái. Hóa ra nàng đến trước miếu đúng lúc bắt gặp hai tăng nhân cùng vài người phụ nữ đi ra, thấy quân áo của bọn họ không chỉnh tề bèn nghĩ không phải người tốt. Hồng Nương Tử tức giận liền bắt người tra hỏi tình hình trong miếu.

Đám phụ nữ thấy nhân mã phỉ tặc vây quanh, sợ hãi nói năng lắp bắp, khai ra trụ trì trong chùa là đại sư Đức Tĩnh, hiện tại đang mở đại hội Vô già. Hơn nữa còn khai ra mỗi tháng đại sự Đức Tĩnh đều mở mội một lần, các nàng chỉ là bọn họ tiêu bạc mời tới, cầu xin Hồng Nương Tử tha mạng cho các nàng.

Hồng Nương Tử mặc dù không biết chữ, nhưng lúc này ở Trung Thổ phổ biến nhất là Phật Giáo, Đạo Giáo, mà ở Bá Châu lại bị một đám hòa thượng giả lừa gạt dân chúng làm cho chướng khí mù mịt, tuy bọn chúng niệm kinh giả, bái lạy phật giả nhưng không dám bóp méo kiến thức cơ bản của Phật Đạo. Cho nên Hồng Nương Tử ở Bá Châu lâu dần cũng biết một chút, nào là đầu tháng tư có Bát Long Hoa Hội, đầu tháng bảy có Thất Vu Lan Hội.

Đại hội Vô già là một ngày hội ăn chay được Phật Giáo cử hành để mở rộng thiện duyên, không phân biệt giàu nghèo, thông minh hay ngu ngốc, thiện hay ác đều đối xử bình đẳng. Nhưng mà mở đại hội Vô già lại còn tiêu bạc mời người là cớ làm sao, chẳng nhẽ còn phải lập sạp mời đoàn kịch đến hát trợ hứng hay sao? Hồng Nương Tử nghi hoặc trong lòng bèn gọi tứ thúc Chân Dương Qua, hai người xông thẳng vào Đại Hùng bảo điện, lúc này cảnh tượng xuất hiện trước mắt nàng khiến cho nàng xấu hổ đỏ bừng mặt.

Đúng là hòa thượng trong miếu đang mở Đại hội Vô già, người người trần như nhộng, từ hòa thượng béo ú đến mỹ nữ xinh đẹp, cả đám đang làm trò vô cùng khó coi. Hồng Nương Tử vừa thẹn thùng vừa tức giận vội vàng xoay người chạy ra ngoài, lệnh cho tứ thúc bắt hết tất cả mọi người lại

Đám hòa thượng và đàn bà này ở trong miếu đã thành quen, dân chúng xung quanh đều biết cả, chẳng qua trụ trì trong chùa được Đường vương điện hạ ở trong thành Nam Dương chống lưng, hơn nữa gã mời đến đều là kỹ nữ cho nên cũng không làm hại đến phụ nữ nhà lành. Cùng lắm chỉ tính là tội làm hỏng thuần phong mỹ tục, cho nên dân chúng không dám quản, quan phủ cũng mắt nhắm mắt mở coi như không thấy. Bọn chúng đang vui đùa thích thú cũng không biết rằng hưởng mã đạo đã đến thành Nam Dương, thậm chí còn chạy đến tận Pháp Nguyên Tự.

Lão lưu manh Chân Dương Qua nghe thế mừng rỡ, cầm đơn đao sang bóng, dùng vỏ đao lạnh lẽo một đường đánh từ mông to đến mông nhỏ. Đánh cho mông đám hòa thượng cùng kỹ nữ đỏ như đít khỉ, đau cũng không dám hé răng nói nửa lời, chỉ vội vàng mặc quần áo lên.

Hồng Nương Tử đứng dưới cây Cổ Bách trong đình viện, khuôn mặt đỏ bừng vừa mới đỡ một chút, đám hòa thượng và phụ nữ đã mặc quần áo chỉnh tề bị bắt ra ngoài. Những người này đều không mặc đồ lót, chỉ khoác một cái tăng bào rộng thùng thình hay mặc cái váy mỏng tang lên người liền đi ra.

Hồng Nương Tử hỏi ra đám phụ nữ này đều đến từ thanh lâu trong thành, thật sự không có ai bị ép buộc đến liền đuổi đám phụ nữ này ra khỏi miếu, gọi Chân Dương Qua dùng lửa thiêu trụi tòa miếu này. Còn đám hòa thượng tụ tập kỹ nữ để

tầm hoan tác lạc chắc chắn chẳng phải người tốt lành gì, liền ra lệnh bắt trị trì Đức Tĩnh lôi ra chém đầu thị chúng.

Hòa thượng Đức Tĩnh chưa bao giờ gặp hưởng mã đạo, cho dù Bạch Y Quân đến Hà Nam cũng chưa đi qua chỗ này, gã gặp đám người này cầm gậy cầm đuốc, lại không phải quan binh, còn nghe nói bọn họ là sơn tặc đến từ Phục Ngưu Sơn, Đồng Bách Sơn, lại nghe bọn họ muốn giết gã, hòa thượng Đức Tĩnh lập tức quỳ xuông ôm chân Hồng Nương Tử khóc lóc:

- Đại vương tha mạng, tiểu tăng có vàng ngọc châu báu dân tặng ngài. Cầu xin đại vương khai ân bỏ qua mạng chó của tiểu tăng.

Hồng Nương Tử đá gã ra, không nghĩ tới hòa thượng béo này còn có chút linh hoạt, lăn vài vòng lại bật dậy chính xác ốm lấy giầy của nàng, lúc này Hồng Nương Tử đang giả mạo Triệu Phong Tử, trên mồm còn dính hai chòm râu, gã cũng không phân biệt được là nam hay nữ, liên mồm gọi "Gia gia", khóc lóc thảm thiết nước mắt nước mũi giàn dụa cầu xin tha mạng.

Hồng Nương Tử cố gắng nhịn cười, gã hòa thượng béo thấy vị 'Sơn đại vương' đẹp trai này không mở miệng, lập tức nâng cao bảng giá. Hống Nương Tử nghe vậy lại tức giận mắng:

- Miếu của nhà ngươi vô cùng tục tĩu làm gì có khách hành hương nào chịu quyên tiền, người có nhiều vàng bạc châu báu như vậy không lẽ là giết người chiếm đoạt tài sản tích góp được?

Hòa thượng béo run rẩy nói là Đường vương ở Nam Dương ban tặng. Hồng Nương Tử làm sao có thể tin gã. Hòa thượng béo bất đắc dĩ phải khai ra, hóa ra tên hòa thượng béo tròn này là con riêng của Đường vương Chu Di Ti.

Khi Đường vương phi mang thai lần đầu tiên, Đường vương tiếp nàng đi dâng hương ở am Tĩnh Nguyệt ngoài thành đông, vô tình gặp một tiểu ni có có chút nhan sắc. Đường vương tính dâm nổi lên, vừa ép buộc vừa dùng lợi dụ dỗ lấy thân thể của cô ta, nhưng bản thân y đường đường là một Vương gia, hiện tại chỉ nhất thời hứng thú mà thôi, làm sao có thể thu một tiểu ni cô vào trong vương phủ, thỏa mãn

dục vọng xong liền rời đi.

Nhưng y không ngờ tiểu ni cô lại mang thai, nếu chuyện Đường vương có tư tình với một ni cô, lại còn sinh đứa bé mà lan truyền ra ngoài thì vô cùng mất mặt. Cho nên Đường vương chối bỏ đứa con này, nhưng dù sao cũng là cốt nhục của y, y không đành lòng làm hại, liền lệnh cho quản gia tiếp tiểu ni cô kia ra khỏi am, an trí tại một tòa tiểu viện. Sau khi sinh con xong thì sử dụng quan hệ đưa đứa bé vào một ngôi chùa các đó trăm dặm, cũng không bộc lộ thân phận, chỉ góp một số lớn tiền hương khói rồi cắt đứt liên lạc.

Không biết có phải tại Đường vương làm nhiều điêu khuất hay không mà đứa con trai y không muốn sinh thì lại sinh ra, muốn đám vương phi, trắc phi sinh con thì lại không sinh nổi một đứa trai. Hiện tại tuổi đã lớn, không có nổi một đứa con trai để kéo dài hương khói, lúc này Đường vương mới bắt đầu lo sợ, bởi vậy mới bỏ tiền xây một tòa miếu ở đây, trước hết đem con trai chuyển đến đây, sau đó vắt óc suy nghỉ tìm cách an bài cho gã một người mẹ ruột và một lý do để có thể đường hoàng đón gã vào phủ.

Hòa thượng theo căn tại ngôi chùa Đức Tĩnh này căn bản chỉ là một tên trộm đạo, chẳng qua gã không làm điều gì quá gian ác, trụ trì ngôi chùa kia đối với đứa bé thần bí này cũng không dám mạnh tay nghiêm trị, cho nên đành phải mặc gã.

Đến khi gã ở trong ngôi miếu này, khoác lên áo cà sa làm trụ trì, liền bộc lộ bản chất cũ, chiêu mộ một đám lưu manh làm đệ tử, cũng có chút mặt mũi.

Hồng Nương Tử nghe xong nửa tin nửa ngờ, hòa thượng Đức Tĩnh vì nâng cao thân phận của mình, tránh cho đại vương gia gia coi hắn thành một tên dâm tăng thông thường lôi ra chém xuống cái đầu trọc của gã, liền xin Hông Nương Tử phải người đi cùng y đến phòng phương trượng, đem vàng bạc châu báu cùng với thư từ giữa Đường vương và gã đều dâng lên.

Hồng Nương Tử mặc dù không biết chữ, nhưng thấy tình cảnh như vậy cũng biết rằng không phải gã giả vờ. Nàng nghĩ binh mã của nàng đến Hà Nam còn chưa có điểm dừng chân. Đường vương nếu chỉ có một đứa con trai duy nhất này thì dù không thể dùng gã để ép Đường vương dâng ra thành trì, tương lai cũng có thể âm

thầm vơ vét được chút tài sản, lương thực Đường vương cũng không dám không cho. Nghĩ vậy bèn mang đại sư Đức Tĩnh này theo quân cùng đi.

Lúc này nàng đang nghĩ, nếu Đức Tĩnh không chết, có khi năm năm sau tên hòa thượng này lại có thể lên làm Đường vương, dần dần làm xằng làm bậy, đem tây nam Hà Nam giày xéo không ra hình thù gì luôn. Mãi đến mười năm sau, Dương Lăng mới phát hiện ra, dâng sớ tố cáo đến trước mặt Chính Đức. Lúc này Chính Đức mới phải Cẩm y vệ đem gã giải về kinh, cho gã chơi cờ cùng mấy tên Liêu vương rảnh rỗi vì bị tước bỏ quyền lực đang ở trong kinh thành.

Triệu Toại nghe xong mừng rỡ vội vã hỏi:

- Hiện tại người này đang ở nơi nào? Nhất định phải canh phòng gã nghiêm mật, không thể để gã chạy thoát.

Hồng Nương Tử cười nói:

- Tiểu vương gia – đại sư Đức Tĩnh hiện đang múc nước tắm cho ngựa ở trong viện, hiện tại gã là tên chăn ngựa cho tứ thúc của ta.

Triệu Toại nghe xong bước vài bước tới cửa, chỉ thấy một Đại hòa thượng mập chừng trên hai mươi tuổi, mặc áo vải, kéo ống quần, người để trần, làn da trắng hồng, nhìn là thấy từ nhỏ không hề bị khổ sở.

Gã đang cầm thùng nước giếng, ra sức múc nước tắm cho chiến mã. Xem ra gã không phải là người chăn ngựa dành riêng cho Chân Dương Qua. Bởi vì con hắc mã mà gã đang tắm rửa chính là tọa kỵ của Triệu Toại.

Đúng lúc này, con trai bảo bối của Tiêu Phương là Tiêu Hoàng ôm bó hương từ hành lang đi ra, thấy y và Hồng Nương Tử đứng ở cạnh cửa, vội đứng lại, cười nói:

- Hai... Hai vị tráng sĩ, hương án đã chuẩn bị tốt rồi.

Câu nói này từ một Thị Độc Học sĩ Hàn Lâm Viện, cũng thật làm khó gã.

Triệu Phong Tử đột nhiên ngửa mặt lên trời cười to, thanh âm chấn động mái nhà, cười cực kỳ vui sướng:

- Ha ha ha ha...con trai của Đại học sĩ đương triều, Hàn Lâm Thị Độc, tiến sĩ đầu danh nhị giáp làm người hầu cho Triệu Phong Tử ta. Phượng tử Long tôn, Đường Vương thế tử làm kẻ chăm sóc ngựa cho Triệu Phong Tử ta, phần phô trương này dù là Hoàng đế cũng không có, nhân sinh khoái ý như thế, đáng giá!

- Ây, còn có thằng nhãi Dương Lăng kia nữa, đuổi theo sát sau không bỏ. Hắn thích theo ta như vậy, thế thì bắt hắn, làm tiểu thư đồng cho bố mày, ha ha ha...

Hồng Nương Tử vốn cười cười, nghe vậy trong lòng không khỏi ảo não, ánh mắt bi thương, liếc y một cái.

***********

- Hứa Thái, Giang Bân, lấy Kinh Doanh Ngoại tứ gia quân làm chủ lực, tập hợp đội ngũ kỵ binh Hà Nam giao cho các ngươi. Ta yêu cầu các ngươi dựa theo yêu cầu biên quân gia tăng huấn luyện, mau chóng chỉnh hợp, để có thể đầu nhập chiến đấu, cũng đầy đủ phát huy chiến lực! Bổn Quốc công giao hết ba nghìn thiết vệ cho các ngươi, hy vọng hai vị tướng quân không phụ ta phó thác của ta.

- Quốc công yên tâm, chúng tôi sẽ huấn luyện ra một đội kỵ binh có năng lực cao!

Hứa Thái ôm quyền thi lễ, phóng ngựa mà đi, vô số thiết kỵ đi theo y chạy đến ngoại ô diễn võ. Giang Bân vốn chính là bộ dáng tùy tiện, hiện tại hai má xuất hiện

thêm hai lúm đồng tiền sâu hoắm, lại không thể nhếch miệng cười được. Gã chắp tay về phía Dương Lăng, chân đạp bàn đạp, cũng đuổi theo đại đội.

Lúc này đã là hơn mười ngày sau khi Dương Lăng đến Hà Nam, hắn cũng không vội vã truy kích Triệu Toại, mà là lệnh quân phòng giữ các nơi giữ nghiêm thành trì, cửa ải hiểm yếu, cùng lúc chặn phương hướng Triệu Phong Tử có thể lẻn trốn, đồng thời phòng ngừa thành phụ trọng đại bị y công hãm, tiếp tục điều động binh mã, phối hợp bố trí, tiến hành chỉnh hợp. Nhiều việc vô số không phải chốc lát là có thể làm xong đấy, đồng thời hắn cũng đang ở đây chờ tin tức trong kinh.

Triệu Toại ở Sơn Tây một lần hoàn mỹ phá vây, khiến cho hắn ý thức được đầy đủ tình thế chiến trường thay đổi trong nháy mắt. Trước mắt tình báo quân sự đối với cơ biến của chiến trường hoàn toàn lạc hậu thiếu hụt, muốn nắm chặt thời cơ chiến đấu, bắt giữ đối thủ quá mức khó khăn. Hơn nữa triều đình nơi chốn phải thủ, binh tuy nhiều mà nhất định phải chia, kẻ tặc tuy ít lại có thể tập trung, giống như đinh sắt xuyên mộc, nhưng hướng đinh này như nào thì không thể dự đoán được, đến nỗi nơi chốn đánh mất tiên cơ.

Một trận chiến ở Sơn Đông Thái An, là Dương Hổ lấy Thái An làm mồi nhử dụ Tế Nam xuất binh, Dương Lăng lại nhân cơ hội phản lấy Tế Nam làm mồi nhử hấp dẫn chủ lực Dương Hổ, sau đó phân lộ cùng đánh đả thương nặng Bạch Y Quân.

Một trận chiến ở Sơn Tây Trung Điều Sơn, cũng là nội bộ Triệu Toại do dự, là thủ hay đi thủy chung không quyết đoán, mới khiến cho Dương Lăng thong dong bố trí hình thành vây kín.

Nếu hai trận chiến này tất cả đều là cơ động dã chiến thì sao? Dương Lăng căn bản không dám tưởng tượng. Sợ là bản thân mình cũng chỉ rập khuôn theo Hứa Thái, đi theo mông Bạch Y Quân để hít đất rồi. Cái gì mà đại gia binh pháp, mưu lược trù kế, đánh với lưu phỉ căn bản không dùng được. Người ta không có chiêu, ngươi thì chiêu chiêu, bọn chúng căn bản chính là đông một cái búa tây một gậy mờ mịt không căn cứ mà chạy thoát.

Dương Lăng lúc này chuẩn bị kế gậy ông đập lưng ông. Quân phòng thủ thủ công các nơi, tận lực ngăn chặn phương hướng phản tặc có khả năng trốn thoát,

khiến cho lưu tặc không ổn định thất thường lưu động các nơi dần dần bị đè ép không nhận được hình dạng, lộ ra dấu vết.

Đồng thời tạo ra một đội quân phản ứng nhanh, giống như lan can đuổi dê tiến vào, cắn chặt chúng, liên tục tác chiến, tốc chiến tốc thắng, lấy mau đánh mau, chiến sự phát sinh ở đâu, quân coi giữ ở đó tham chiến. Đấu pháp như thế, kéo cũng kéo sụp bọn chúng.

Miêu Quỳ là giám quân, từ lúc Dương Lăng đến đây về sau, Hoàng thượng cũng không phái giám quân khác đến, như vậy gã vẫn là giám quân. Nhưng đúng như lời Tống Tiểu Ái nói, gã hiện giờ là không làm Giám quân chỉ có thể làm thái giám, điều này cũng hết cách, vẫn bị Dương Lăng đè đầu, bất kể là trong triều hay là trước mặt Hoàng thượng gã cũng không có cách nào so với Dương Lăng cả, cũng chỉ có thể sáng suốt mà tự coi mình là vật bài trí.

Nhưng hiện giờ thấy Dương Lăng còn luyện binh, Miêu Quỳ thật sự nhịn không được, thấy Hứa Thái và Giang Bân lãnh binh ra sàn đấu võ, Miêu Quỳ càng không nhẫn nhịn được đến trước mặt Dương Lăng nói:

- Quốc công, Triệu Phong Tử vẫn thẳng tới một vùng Tín Dương, Bí Dương, Chính Dương, Đồng Bách. Chúng ta hẳn là nên suất quân xuôi nam. Theo ta thấy, chiến lực của hắn dù đã lớn mạnh trở lại, hiện giờ cũng không đến hai vạn nhân mã, đại quân triều đình nào sợ hắn chứ?

Dương Lăng vừa mới vừa lấy được hồi âm trong kinh, Chính Đức hoàn toàn đồng ý với ý kiến của hắn, cũng đã lệnh Binh bộ, Lại bộ phân công nhau làm việc rồi cho nên trong lòng rất vui mừng. Không có người trong triều cản tay, hắn đề nghị điều vài quan to địa phương thay quân mà thôi, lại không tồn vấn đề nhân sự ai thăng ai giáng. Lấy sức nặng của hắn dĩ nhiên mã đáo thành công.

Dương Lăng cười dài nói:

- Đại quân triều đình dĩ nhiên không ngại hai vạn nhân mã của Triệu Phong Tử, vấn đề là hắn ta sẽ tác chiến chính diện với ngươi sao? Chúng ta còn chưa tới, chúng đã bỏ trốn mất dạng rồi, đợi khi ngươi biết hắn tới nơi nào, ngươi còn chưa

tới, hắn lại dời đi. Loại cách đánh mục nát này đánh cũng chẳng có tác dụng. Hiện tại chúng ta nhất định phải chuẩn bị tốt, nắm quyền chủ động trong tay.

Mặt trời rực rỡ từ trên cao chiếu xuống, nắng cuối thu vẫn gay gắt khiến mặt người như chảy mở. Dương Lăng khoát tay ra hiệu, dẫn Miêu Quỳ vào đại sảnh của hành dinh, cầm quạt lên phe phẩy nói:

- Miêu công công, ngươi nhìn dư đồ Đại Minh này đi, vị trí của Triệu Phong Tử tây có thể đi Thiểm Tây, nam có thể xuống Hồ Quảng, đông có thể xông đến Nam Trực Lệ, thật sự không được còn có thể tránh sang vùng Đồng Bách Sơn. Triệu Phong Tử vẫn lưu luyến ở khu vực này nhưng không có nghĩa là hắn không nghĩ tới đấy.

Lại nói tiếp, từ giao giới giữa hai tỉnh Nam Trực Lệ và Hồ Quảng, bọn chúng dễ dàng có thể đi xuyên qua và hội hợp với Dương Hổ ở Giang Tây. Mà hắn phá vây đến nơi đây, vốn chính là mục đích này. Vì sao hiện tại hắn chậm chạp không hành động chứ? Chẳng lẽ là chờ chúng ta đi bao vây tiễu trừ?

Miêu Quỳ không biểu cảm nói:

- Xin Quốc công chỉ rõ, hay là Triệu Phong Tử ở địa phương này là còn có âm mưu gì sao?

Dương Lăng ung dung cười, ha hả nói:

- Âm mưu chưa nói tới, là dương mưu trắng trợn đấy. Hắn thu lại nụ cười, sắc mặt thâm trầm, chậm rãi nói:

- Nếu ta đoán không sai, Triệu Phong Tử lựa chọn băn khoăn ở khu vực này mà chưa tiến, chỉ có hai mục đích, một là ủng binh tự trọng. Hiện tại Hình Lão Hổ đã chết, đội quân hưởng mã đạo chủ lực đã hoàn toàn nắm trong tay hắn, nếu tướng lĩnh dưới tay Hình Lão Hổ không chịu phục tùng, hắn rất dễ dàng mất quyền lực thậm chí bị loại bỏ.

Hắn dừng mà không tiến, là muốn ở trước mặt hai thủ lĩnh chủ yếu của Bạch Y

Quân, Hưởng mã đạo là Lưu Lục, Dương Hổ, tranh thủ cho mình một vị trí nho nhỏ, dù không thể độc lĩnh tam quân, cũng phải cùng ngồi cùng ăn.

- Vậy mục đích thứ hai thì là gì?

- Mục đích thứ hai, là mục đích thứ nhất thỏa đàm xong thì mới tiếp tục làm, cái này giống như cưới thê thất thiếp thất vào cửa, dù sao cũng phải lập danh phận mới an bài xong ai ở đông sương ai ở tây sương. Định danh vị xong rồi, bọn chúng phải làm, chính là đưa ra chiến lược mục tiêu thống nhất.

Dương Lăng giơ quạt hương bồ lên, chỉ vào vòng tròn đánh dấu trên bản đồ:

- Quyết định hướng đến nơi nào. Dương Lăng cần chén trà lên, cười nói:

- Chúng ta phải làm đấy, chính là chờ ba phương bọn chúng đưa ra ý kiến thống nhất, xem chúng chuẩn bị đến đâu. Cho tới nay, phương diện triều đình thua thiệt nhất, chính là bọn chúng hành động nhanh chóng, mà quan binh luôn tới muộn một bước. Hiện tại chúng muốn đổi từng người tự chiến thành liên hợp dụng binh, hỗ trợ lẫn nhau, khiến chúng ta hai mặt dụng binh.

Nhưng điều này cũng khiến cho thượng lệnh thống trị của chúng phân ra ba hướng, trên quan hệ kiềm chế lẫn nhau, trên hành động cần trao đổi nhược điểm lẫn nhau, cần có liên hệ. Có nhược điểm chúng ta sẽ có cơ hội, lúc này chúng ta lại có một đội quân linh hoạt cơ động không kém đội kỵ binh của chúng chút nào. Khi đó sẽ là bọn chúng bị thất bại rồi.

Dương Lăng nheo mắt lại, nhìn bản đồ treo tường, chậm rãi nói:

- Giờ ta chỉ hơi tò mò, chúng chọn đi hướng nào?

Ở cửa chốc chốc lại có người thò đầu vào, lại rụt ra. Dương Lăng thị lực tốt, thoáng nhận ra người này, hắn ho khan một tiếng, cất giọng nói:

- Đi ra đi, thấy cả rồi.

Tống Tiểu Ái mặc quân bào, thắt lưng eo, thong thả từ bên cửa đi vào, đứng ở cửa vân vê vạt áo.

Dương Lăng kỳ quái nói:

- Vừa rồi ta còn thấy cô lén lút theo ta, có chuyện gì không? Tống Tiểu Ái nhìn Miêu công công, ấp a ấp úng nói:

- Ta...không có việc gì cả.

Miêu Quỳ là người gì chứ? Đó là một người rất giỏi nhìn sắc mặt người đấy. Hơn nữa nghe nói vị Tống đại cô nương thanh tú đáng yêu trước mắt này có quan hệ mật thiết với Kiêu Kỵ Tướng Quân Ngũ Hán Siêu, hiện tại đang ở trước mặt Dương Lăng lại có vẻ mặt ám muội như vậy, khả năng giữa ba người có gì đó khó nói. Miêu công công giật nảy mình, lập tức nhạy bén ngửi được mùi nguy hiểm, gã quyết định thật nhanh, lập tức chạy là thượng sách, bèn cáo từ bỏ trốn mất dạng.

Dương Lăng bất đắc dĩ nhìn lão Miêu đầu chạy còn nhanh hơn thỏ, cười khổ

nói:

- Chuyện gì mà thần bí thế, giờ còn không nói. Nói đi.

Tống Tiểu Ái ửng đỏ mặt, xấu hổ dùng giày nhọn đá khóa cửa nói:

- Người ta..... Người ta thật không có việc gì, chỉ là muốn xem ngài có nhà hay không. Ồ, là Tiểu Ngũ có việc quan trọng tìm ngài, nhưng hắn lại ngượng không nói.

- Tiểu Ngũ?

Dương Lăng không hiểu ra sao cả, nói:

- Vậy thì có sao, việc công việc tư, toàn bộ đều có thể. Đi, đi gọi hắn tới cho ta.

- Tốt quá.

Tống Tiểu Ái vui vẻ ra mặt, kích động xoay người đi.

Dương Lăng nhấp ngụm trà, đang nhắm mắt hưởng thụ mùi hương thơm của trà, Ngũ Hán Siêu vội vàng đi tới, ôm quyền thi lễ nói:

- Quốc công, ngài tìm ta?

Dương Lăng mở mắt ra, nhổ lá trà trong miệng ra, đặt chén trà xuống, nói:

- Ừ. Ngồi đi, ấy, ngươi muốn tìm ta có việc à? Ngũ Hán Siêu ngạc nhiên nói:

- Không phải Quốc công tìm ta có việc sao? Dương Lăng khoát tay, nói:

- Không phải ta có việc, là ta nghe tiểu Ái nói ngươi có việc, cho nên mới gọi ngươi tới hỏi một chút ngươi có chuyện gì.

- A! A.... A..., không có việc gì. Ngũ Hán Siêu khẩn trương.

Dương Lăng yên lặng nhìn gã rất lâu, thấy Ngũ Hán Siêu bất an. Dương Lăng lắc đầu nói:

- Không muốn nói thì thôi, ngươi đi xuống trước đi. Ngũ Hán Siêu thở phào, vội vàng chắp tay nói:

- Vâng!

Gã quay người lại, hai bước xa nhảy tới cửa. Dương Lăng đột nhiên nghĩ tới một chuyện, vội gọi:

- Từ đã. Ha hả, Hán Siêu à, ta có một tin tức tốt nói với ngươi. Ngũ Hán Siêu vội vàng dừng lại, trở lại nói:

- Chuyện tốt? Chuyện gì?

Dương Lăng lại cầm chén trà lên uống, nói:

- Lệnh tôn đại nhân văn võ toàn tài, khôn khéo có khả năng, ta tiến cử ông ấy đến Nam Trực Lệ Khánh An phủ đảm nhiệm tri phủ, Hoàng thượng đã phê chuẩn rồi. Quân dịch đã khoái báo qua Tứ Xuyên, qua ít ngày nữa ông ấy đi Nam Trực Lệ trình diện. Đợi sau khi kỵ binh chỉnh hợp xong, ta cung muốn xem phòng ngự Nam Trực Lệ, cha con các ngươi sẽ được gặp nhau.

Ngũ Hán Siêu vừa nghe sắc mặt đã biến đổi. Trong nhà gã nghiêm phụ từ mẫu điển hình, sợ nhất là cha. Giờ vừa nghe ông ấy sắp tới Nam Trực Lệ, Tiểu Ngũ không khỏi

Dương Lăng nói xong dời ánh mắt nhìn chằm chằm bản đồ trên tường, chợt thấy người trước mắt nhoáng lên một cái, bèn nhìn lên, thấy Ngũ Hán Siêu đã thình thình quỳ gối trước mặt, vẻ mặt đưa đám nói:

- Quốc công, niệm tình Hán Siêu nhiều năm theo ngài, ngài nhất định phải giúp tôi vượt qua việc này...

**********

"Con cá thoát khỏi cần câu, vẫy vây vẫy đuôi chạy đi. Tú tài này hiện tại hăng hái, nghiễm nhiên tự cho mình là bá chủ một phương rồi."

Mộc Vân thản nhiên thoáng nhìn Triệu Phong Tử không chút nào khiêm nhường tự cho mình là thủ tọa, trong lòng thầm nghĩ.

Đang ngồi có Triệu Phong Tử, Hồng Nương Tử, Lưu Huệ, còn có Lý Thế Hào gã dùng tên giả Mộc Vân. Bốn người này phân biệt đại biểu cho bốn lực lượng chủ yếu của tổ chức nghĩa quân, luận kinh nghiệm lý lịch, luận địa vị, tự nhiên lấy Triệu Toại cầm đầu.

Chuyện thứ nhất rất dễ giải quyết, Triệu Phong Tử trên thực tế đã là thủ lĩnh chi nghĩa quân này, trong đó nhân mã của Hồng Nương Tử mặc dù chiếm một phần ba, nhưng nàng căn bản không có ý định tranh giành quyền vị. Mà trong ba phương khác, cũng rõ ràng ủng hộ Triệu Phong Tử. Lưu Lục, Dương Hổ cho dù trong lòng có không đồng ý, nhưng cũng phải thừa nhận địa vị của Triệu Toại, không bằng hào phóng một chút, thừa nhận địa vị của gã.

Điểm này, trước khi phái người đến thương thảo kế hoạch hành động, bọn họ đã bày mưu đặt kế phái thân tín tới, thừa nhận địa vị của Triệu Toại rồi. Hiện tại bọn họ thảo luận, chính là đại quân thoát về hướng nam sau đó liên tục thất bại, phải làm thế nào để thoát khỏi khốn cảnh.

Triệu Phong Tử thản nhiên nói:

- Lưu huynh, Mộc huynh, hai vị đại biểu cho Lưu đại thủ lĩnh, Dương đại thủ

lĩnh, ta hy vọng nhị vị thảo luận với chúng ta, mau chóng đưa ra một sách lược dụng binh. Hiện tại Dương Lăng trấn thủ Lạc Dương. Không ngừng điều binh khiển tướng, ý muốn vây kín ta. Chần chừ lâu ngày, tiên cơ tất mất.

Mộc Vân ngồi ở ghế không nói gì, chỉ khẽ vỗ về suy nghĩ trong lòng, chậm rãi điều hòa hô hấp. Gã không biết đã xảy ra chuyện gì, chỉ có điều hiện tại khó có thể sử dụng đại lực, có thể hành công vận khí. Nếu không lúc nào cũng đều có cảm giác hành công xóa khí, tẩu hỏa nhập ma. Điều này khiến cho Mộc Vân rất là sợ hãi.

Trong ba huynh đệ, luận ngoại công Đại Nghĩa là đứng đầu, luận tạp học Đại Nhân đứng đầu. Nói đến công phu dưỡng khí gã đứng đầu. Nhưng hiện tại nội công xảy ra sự cố, tựa như kinh mạch bị tắc, vốn không thể tìm ra nguyên nhân cụ thể.

Lưu Huệ tính tình nóng nảy, đoạt hỏi trước:

- Vậy Triệu Nguyên soái có kế sách gì? Triệu Phong Tử gật gật đầu, nói:

- Chúng ta vừa mới khởi sự, đã cướp rất nhiều chiến mã, cơ động hơn quan binh triều đình nhiều. Nhưng chiến đấu với thất bại. Bởi vì chúng ta chỉ có thể liên tục chạy, mà không thể nghỉ ngơi lấy lại sức, chưa có căn cơ tốt. Theo ý ta, là hai lộ binh mã, ta theo đường bộ, hai vị đại thủ lĩnh Lưu, Dương theo thủy lộ, cùng tấn công thành Nam Kinh.

Lời này vừa nói ra, Mộc Vân, Lưu Huệ nhất tề cả kinh, hai mắt Hồng Nương Tử lại sáng ngời, chỉ thấy Triệu Phong Tử điềm tĩnh tự nhiên nói:

- Chiếm lĩnh Nam Kinh, sau đó lấy Nam Kinh làm kinh thành, lập một con cháu lão Chu gia làm con rối, đối ngoại công khai Chính Đức ham chơi, không vụ quốc sự, để mặc gian nịnh làm bại hoại triều cương.

Tân chính vừa mới được hắn cho thi hành, còn chưa xâm nhập vào dân chúng, vẫn còn có nhiều người âm thầm phản đối, có lợi cho chúng ta sống yên ở Giang Nam. Ngoài ra, còn có thể phái người rải tin tức, Chính Đức không phải là Hoằng Trị thân sinh lúc trước đã đồn đại xôn xao dư luận sao? Ba người thành hổ, chúng ta

lại lan truyền ra, làm suy yếu lực lượng phản kháng chúng ta ở Giang Nam.

Gã hít vào một hơi, mắt hổ giương lên, cao giọng:

- Các vị, kế hoạch của ta đã suy nghĩ rất tỉ mỉ, vì sao chúng ta ở phương bắc dễ dàng tụ binh như vậy? Bởi vì phương bắc nghèo, cho dù là kinh sư, là nơi tụ tập thiên hạ phú quý quan lại, nhưng cũng dựa vào thủy vậy, dựa vào Giang Nam cung ứng, cho nên dân chúng hoàn toàn không có con đường sống, chỉ có lựa chọn theo tặc làm tặc.

Đây là chỗ thành công của chúng ta, cũng là điểm thất bại của chúng ta. Tụ binh dù dễ, sau khi tụ binh thì sao? Có bao nhiêu lương thảo đủ cung ứng cho chúng ta? Chu Nguyên Chương chính là trước chiếm Nam Kinh, sau đó diệt Trần Hữu Lượng Hồ Quảng, Giang Tây; diệt Trương Sĩ Thành, Minh Ngọc Trân của vùng Chiết Giang, Nam Trực Lệ, tận đoạt Giang Nam. Sau khi không lo tiền lương, lúc này mới xuất binh bắc phạt đại đô, một đòn mà định ra thiên hạ. Ta cho rằng lấy Nam Kinh chính là thượng sách, tiếp tục lẻn đi xuống, chỉ có thể càng ngày càng yếu.

Lưu Huệ nhíu mày:

- Chiếm Nam Kinh, đoạt Nam Trực Lệ, sau đó lấy Hồ Quảng, Giang Tây, Chiết Giang? Nói dễ dàng, nhưng làm thì khó. Chỉ riêng củng cố Nam Trực Lệ, sẽ không biết phải đánh bao nhiêu trận ác liệt rồi.

Triệu Toại cười khổ nói:

- Lấy thiên hạ sao lại dễ dàng như vậy, đánh hơn vài chục năm cũng thuộc bình thường.

Lưu Huệ khoát tay chặn lại nói:

- Muốn ta nói cũng không khó, Triệu Nguyên soái không ngại ở lại Hà Nam, cuốn lấy Dương Lăng, chúng ta ở Giang Tây, người mệt mỏi ngựa hết hơi, chỗ kia căn bản không thích hợp kỵ binh lưu chiến, nhưng tới phương bắc rồi, chúng ta liền

như lang như hổ, không người có thể địch, chờ chúng ta qua sông bắc thượng, hội hợp cùng các ngươi, lợi dụng sở trường khoái mã chúng ta tập kích bất ngờ đánh hắn trở tay không kịp, thẳng đến thành Bắc Kinh, nếu không thành cũng có thể ở lại phương bắc, ở chỗ này mới là như cá gặp nước.

Triệu Toại hơi oán giận nói:

- Hiện giờ phương bắc chấp hành tân chính đắc lực nhất, chúng ta đã mất dân tâm, đi hướng bắc, một khi chưa đứng vững gót chân, Dương Lăng truy ở phía sau, chúng ta có thể lui về phía nam được sao? Nếu đại quân Thiểm Tây lại ra Đồng Quan, chúng ta sẽ bị tuyệt đường lui rồi.

Mộc Vân chỉ cảm thấy hơi thở hỗn loạn, thở dốc một lúc, gã phiền não nhíu mày, sau đó nói:

- Một khi đã như vậy, vậy sao chúng ta không đi Thiểm Tây? Chiếm lĩnh Tây An, lấy Quan Trung là gốc rễ, phía bắclà Hoàng Hà hiểm yếu, mặt đông là quan ải trùng trùng, chỉ cần tận lấy Thiểm Tây, chúng ta có thể công có thể thủ.

Chỉ cần chiếm Tây An, mà ngay cả Ninh Hạ, Cam Túc đều chiếm, khi đó chúng ta binh hùng tướng mạnh, muốn công thì bắc qua Hoàng Hà, hoặc đi Đại Đồng Dương Hòa xu thế Cư Dung Quan, hoặc đi Thái Hành Sơn đến Bảo Định, lui thì lấy thuỷ bộ nơi hiểm yếu bế quan, lấy Quan Trung màu mỡ tự cấp. Như thế nào?

Gã cười cười nói:

- Biện pháp này, bây giờ đều hơi xa chút. Trước tiên chúng ta đánh hạ trọng thành pháo đài này đã rồi nói sau. Khụ khụ, mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, muốn thành đại sự, cần phải thực hiện những điều trước mắt đã. Đi một bước này tiến thêm bước nữa, Triệu Nguyên soái nghĩ thế nào?

- Sống yên Quan Trung...

Triệu Toại do dự một chút, cảm thấy gã nói cũng có lý, dù sao sự việc không thể do mình quyết định toàn bộ, cần phải khiêm nhường đấy. Lý do Mộc Vân vừa

nói, cũng rất có khả thi.

Ý niệm gã vừa động, Hồng Nương Tử nãy giờ không nói gì, chỉ nhìn bọn họ biện luận lúc này chợt nói:

- Ta có ý...

Mọi người lúc này mới sực tỉnh bên mình còn có một vị độc lĩnh một đội nhân mã, chính là Thôi Phó nguyên soái, ánh mắt không khỏi đồng loạt nhìn về phía nàng. Hồng Nương Tử lãnh binh đánh giặc dũng mãnh như hổ, ý kiến mưu lược cũng rất sắc bén. Vừa thấy ánh mắt mọi người đều nhìn mình, Hồng Nương Tử thoáng chần chừ, sau đó nói:

- Ý của ta là, lấy Nam Kinh!

Lưu Huệ nhướng mày, cao giọng:

- Lý do?

- Lý do...Triệu Nguyên soái đã nói mà!

-...

Mộc Vân do dự một chút:

- Gây loạn Nam Kinh vừa lúc ngăn trở Ninh Vương Bắc thượng, vốn định dẫn bọn họ đi Thiểm Tây, dụ dỗ quan binh qua, đi Nam Kinh...

Hồng Nương Tử ho một tiếng, cố lấy dũng khí nói tiếp:

- Mộc huynh mới vừa nói đấy, Nam Kinh cũng có thể làm được, Trường Giang hiểm yếu gần ngay trước mắt, có thể ngăn quân phương bắc, Giang Nam giàu có, có thể đủ quân lương. Tú tài vừa nói đấy, Chu Nguyên Chương chính là trước lấy Nam Kinh làm Hoàng đế, ông ta làm được, chúng ta có gì mà không thể?

Lưu Huệ suy nghĩ một chút, vỗ đùi nói:

- Các ngươi đều không đồng ý trực tiếp lấy kinh sư? Tốt lắm, ta đây đồng ý đi Nam Kinh, đi Nam Kinh dù gì cuộc sống cũng khá hơn là đi hoàng thổ cao pha.

Tiểu Mộc, ngươi thì sao? Mộc Vân khó xử nói:

- Nam Kinh cực kỳ hiểm yếu, lại là thủ đô thứ hai có trọng binh tướng tài. Lần trước chúng ta không công được, hao binh tổn tướng, còn lại đi đánh Nam Kinh lần nữa ư?

Triệu Toại khẽ mỉm cười, nói:

- Nếu chư vị đồng ý giành Nam Kinh, vậy thì, ta đây có một kế!

Nhân mã của Dương Lăng và Triệu Phong Tử giao phong với nhau ở Hà Bắc, thường là ngươi tới ta đi, đánh lớn thì không có nhưng đánh nhỏ không ngừng.

Quan binh ép tới thì lẩn tránh vào trong những ngọn núi chồng chéo lên nhau, chưa đợi hợp vây đã bỏ trốn mắt tăm, nên hai bên cũng không nói đến thắng thua gì to tát.

Dường như Triệu Phong Tử rất yên tâm về tình hình hiện tại, cũng không công kích các thành lớn giàu có như Nam Dương, Nhữ Ninh, Nhữ Châu, Quy Đức, Khai Phong, chỉ dạo quanh huyện nhỏ xung quanh, trọng điểm dựa vào một vài sơn trại.

Mấy sơn trại này không phải là trải của cường đạo sơn tặc, mà là địa chủ thân hào làm theo lệ thường, vừa gặp chiến loạn liền tập hợp cả gia tộc, mang theo toàn bộ tài sản tị nạn vào núi, tự lập sơn trại võ trang lâm thời. Chỗ như vậy vừa dễ đánh vừa có nhiều vật tư dùng được.

Thân hào, đại tài chủ có thể dễ dàng tổ chức đội ngũ gia đinh hộ viện mấy ngàn người, tiền tài tích cóp được khiến người khác khó mà tưởng tượng nổi, chỉ cần phá được một sơn trại, lương thực thu được cũng đủ để đáp ứng số lương thảo mà đội một vạn năm ngàn người của Triệu Toại dùng gần một tháng.

Quan binh giống như trước đây, vẫn lấy xa doanh bộ doanh làm chính, kỵ binh cực kỳ ít, điều này khiến Triệu Phong Tử rất yên tâm. Chỉ cần quan binh chưa có đại đội kỵ binh, thêm nữa mình không chủ động quyết chiến, thì chúng đừng phòng đối phó được chiến pháp tới lui như gió của mình.

Dương Lăng cũng biết kiềm chế. Trước khi Bạch Y quân chưa có hành động cuối cùng, đội kỳ binh chủ lực tạm thời được hắn tổ hợp, được huấn luyện đột kích chung quy vẫn chưa lộ diện. Không đến thời điểm cuối cùng, lá bài tẩy của hắn sẽ

không lật ra. Hắn đang đợi Triệu Phong Tử, mà Triệu Phong Tử lại đang đợi Dương Hổ và Lưu Lục, đã sắp đến ngày bọn họ ước định rồi.

Dương Hổ và Lưu Lục cuối cùng đã quyết định hành động. Bọn họ xuôi nam một mạch, càng đi về phía nam càng không thích hợp cho kỵ binh của bọn họ tác chiến. Đường gập ghềnh chưa nói, nếu không phải là núi thì là sông, còn không thì là từng mảnh ruộng nước. Ưu thế chiến đầu của bọn họ hoàn toàn biến mất.

Không có năng lực công chiếm những thành trì tập trung nhiều lương thảo, nên nguồn cung cấp lương thực ít ỏi, đến nỗi binh yếu ngựa gầy, hiện tại trong quân chỉ còn lại một nửa chiến mã, ảnh hưởng nghiệm trọng đến khả năng cơ động của quân đội. Quân tâm cũng bắt đầu dao động. Bọn họ đang gấp rút tìm một lối thoát. Vì vậy sau khi Mộc Vân và Lưu Huệ mang về tin tức Triệu Phong Tử chia đường giáp kích, thủy bộ cùng tiếng để lấy Nam Kinh, mấy người liền lập tức gật đầu đồng ý.

Ngày hai mươi lăm tháng chín. Dương Hổ, Lưu Lục đột nhiên chia binh hai đường tập kích Hồ Khẩu. Dương Hổ dẫn một lộ quân men theo hồ Phiên Dương thu thập tàu thuyền. Lưu Lục, Lưu Thất đánh thẳng tới huyện Hồ Khẩu, đây là nơi hiểm yếu trấn thủ con đường hồ Phiên Dương vào sông Giang.

Một dải thành trì ven sông làm theo căn dặn của Dương Lăng đều đóng trọng binh, do Lục bộ Nam Kinh phái quan viên đến đốc chiến. Người trấn thủ Hồ Khẩu là Ngự sử Nam Kinh Bành Trạch. Tiếng chém giết kéo dài từ rạng sáng vẫn không dừng, máu tươi nhuộm khắp tường thành đổ vỡ. Khí giới công thành của Bạch Y quân tuy đơn sơ, nhưng huyện thành Hồ Khẩu cũng không lớn, tường thành thấp bé, gạch đá lâu năm hư hỏng nghiêm trọng, rất khó ngăn cản sự tiến công điên cuồng của bọn cướp.

Song phương bắn mưa tên liên miên, bay đầy trời. Từng đội phỉ binh Bạch Y quân bắn nhau với quân trên đầu thành. Quan binh trên thành có ba khẩu đại pháo khá lạc hậu, thường phun ra những ngọn lửa giận dữ, nhưng hỏa khí chậm chạp như vậy, tác dụng uy hiếp còn lâu mới có hiệu quả thực tế.

Bạch Y quân lấy thang, phi câu, xe phá thành liên tục tổ chức từng đợt tiến công. Người nấp ở dưới mấy cỗ phún uẩn (một loại xe phía trên có ván gỗ, binh sĩ

thì nấp ở dưới để tránh tên bắn, cây lăn hoặc đá tảng ném xuống) được chế tạo gấp gáp thì đang tiến về phía tường thành dưới sự yểm hộ của kỵ xạ. Phún uẩn to lớn bị cây lăn đá tảng của quân phòng thủ trên đầu thành ném rầm rầm, nhưng cột trụ phía dưới vẫn vững chắc chống chọi.

Dưới mỗi chiếc phún uẩn có tám đến mười người, người được chọn đều là dũng sĩ có khí lực lớn. Một khi xông đến dưới tường thành, bọn họ liền dùng thiết chùy đập, dùng gậy để nạy, dùng cuốc để đào, liều mạng đập, nạy, đào vào tường thành.

Gạch đá trên tường thành cũ kỹ vỡ vụn ra.

Một chiếc phún uẩn bị dầu sôi lửa lớn đốt cháy. Quân cướp bỏ chạy lập tức bị tên nhọn từ trên đầu thành bắn chết, nhưng mưa tên ngày càng điên cuồng của Bạch Y quân cũng bắn lên đầu thành, tiếp đó liền yểm hộ một chiếc phún uẩn mới tiến lên. Có chiếc phún uẩn hình thù kỳ quái, căn bản không ra hình dạng gì, hoàn toàn là dùng xà nhà và ván giường tạm thời đóng nên.

Tuy Bành Ngự sử là văn nhân, nhưng mắt thấy Bạch Y quân công thành mạnh mẽ, trong tay cầm một thanh trường kiếm mũi nhọn đứng trên đầu thành mà mặt không đổi sắc.

- Báo Bành đại nhân, Nhạc Thủ bị tử trận rồi.

Bành Ngự sử lấy kiếm chống xuống, uy nghiêm nói:

- Thủ bị chết thì phó Thủ bị lên, phó Thủ bị chết thì Thiên tổng lên, báo tang cái gì chứ? Muốn làm tang sự thì cũng phải bảo vệ thành trước đã. Quay về, nói cho tướng sĩ thủ thành rằng, người còn thành còn, người chết thành mất, nhất định phải tử thủ!

Tên tiểu giáo nọ trả lời một tiếng, loạng choạng quay về, trên chân gã chảy đầy máu, không biết là trúng tên hay là bị phi câu của lũ cướp ném lên thành làm bị thương, vẫn không thèm lo đến vết thương của mình.

Bành Ngự sử thầm thở dài một tiếng. Trường Giang vạn dặm, thành trì quan ải vô số kể. Bạch Y quân bất ngờ đánh tới. Nếu bọn chúng đã chọn nơi này, thì mình

có trách nhiệm phải giữ. Tuy huyện nhỏ này chưa chắc có thể chống đỡ được bọn chúng, nhưng cũng không oán trời trách đất. Chỉ có Ngự sử tử trận, chứ không có Bành Trạch bỏ trốn, đành làm tận chức trách của trung thần liệt sĩ mà thôi.

Bên cạnh Bành Trạch có mấy thị vệ đứng nghiêm cầm giáo, toàn bộ đều thẫn thờ không nói. Mới sáng hôm nay bọn họ đã nhìn thấy cái chết. Bất luận là binh hay tướng, thì tính mạng lúc này đều rẻ mạt như nhau, dù người chết là Thủ bị hay Đại binh. Bọn họ đã không còn xúc cảm gì nữa rồi.

Lại là một loạt mưa tên dữ dội bắn lên thành, lập tức có hai binh sĩ cầm thuẫn xông lên. Chỉ nghe soạt soạt liên tiếp, tên đã dính trên thuẫn.

Một người ăn mặc như sai dịch vội vàng chạy đến:

- Ngự sử đại nhân, Vương Huyện lệnh trúng tên lạc, đã bất tỉnh nhân sự rồi!

Bành Trạch đi qua thì thấy, Vương Huyện lệnh ngã ở dưới tường thành, vai ngực mỗi nơi trúng một mũi tên, tên cắm sâu vào thịt, trông có vẻ không còn sống nữa.

- Khiêng xuống đi!

Bành Trạch cắn răng một cái, từ khe hở giữa các tường chắn trên thành nhìn xuống, bỗng thấy dưới thành có một người đứng ở đằng xa đang chỉ chỉ trỏ trỏ, bên cạnh y có mấy người đang nghe theo mệnh lệnh của y.

Chợt trên thành có tên bắn tới, có lẽ vì trong tay có tấm chắn, hoặc là bị đao trong tay y vung lên, đánh bay ra. Bành Trạch liếc mắt, liền nói:

- Người đâu! Người đâu! Mang kình nỏ đến, mau, mang toàn bộ kình nỏ tầm xa đến đây cho ta!

Trong chốc lát, mười mấy kình nỏ thủ và trợ thủ ở đầu thành các nơi khiêng nỏ lớn chạy hồng hộc đến. Bành Trạch chỉ về phía người đang đứng dưới thành đằng kia, nói:

- Kẻ này chắc chắn là thủ lĩnh của phản tặc. Các ngươi tập trung tất cả kình nỏ lại đây, bắn một mình hắn. Ta muốn xem thử hắn né tránh như thế nào!

Kình nỏ thủ nghe lệnh liền đến trước kình nỏ, lên dây lắp tên, tất cả đều ngắm vào người đang hồn nhiên không để ý quân thủ trên thành, đến nỗi càng lúc càng tiến lại gần tường thành.

Ra lệnh một tiếng, hơn mười mũi tên dài không có lông đuôi phát ra âm thanh xa xăm như quỷ khóc, đồng thời rời dây bay đi

Quân cướp đến công thành ngã xuống từng mảng. Để đề phòng quan binh các huyện phụ cận nghe tin đến viện trợ, bọn chúng nhất định phải mau chóng đánh hạ Hồ Khẩu, thả thuyền vào sông, bất kể thương vong thế nào.

Chủ soái Lưu Lục dẫn con trai Lưu Trọng Hoài đích thân đi côngth ành. Lưu Thất áp trận ở trung quân, đang gấp rút điều quân. Dương Hổ vác một thanh đơn đao sáng loáng bước nhanh tới. Dây tua đao phất phơ trên vai, cùng với dáng vẻ hùng tráng cùng con mắt độc nhất của y, khiến y trong vô cùng hung ác.

- Sao vậy, Thất ca, vẫn chưa lấy được Hồ Khẩu à? Lưu Thất cắn răng cười dữ tợn, nói:

- Yên tâm! Quan binh không gắng gượng được nửa canh giờ nữa đâu. Tường thành phía nam đã đào được kha khá rồi. Bên phía đệ thế nào?

- Ha ha, yên tâm. Hai bờ cùng đổ xuống, cướp đoạt được không dưới năm trăm chiếc thuyền lớn nhỏ, đủ cho các huynh đệ không có chiến mã như chúng ta rồi.

Lưu Thất nghe vậy rất vui. Lúc này Lưu Huệ loạng choạng chạy trở về, mang theo tiếng khóc, nói:

- Thất ca, Thất ca, việc lớn không xong rồi. Lục ca và Tiểu Hoài Tử tử trận rồi.

Lưu Thất, Dương Hổ lập tức kinh hãi. Lưu Thất ngạc nhiên một hồi, nhảy lên một bước, nắm lấy áo Lưu Huệ hét to:

- Ngươi nói bậy gì đó? Lục ca làm sao chết được? Làm sao chết được? Lưu Huệ rơi nước mắt nói:

- Lục ca đến phía tây thành đốc chiến, trúng kình nỏ trên đầu thành, Tiểu Hoài Tử đi cứu huynh ấy, cũng bị loạn tiễn bắn chết rồi.

Lưu Thất buông tay, hét lớn một tiếng, nhanh chóng rút đao ra, quát:

- Mẹ nó, đợi ta công được thành, sẽ giết tên cẩu quan trong thành

Y vừa nói đến đây, thì đằng xa đã tràn ngập tiếng hoan hô vang lên, bụi đất tung lên cao nửa tầng trời, vô số quân cướp hoan hô.

Lưu Thất giơ đao, mông lung nhìn về phía đó, nói:

- Đã xảy ra chuyện gì?

- Tường thành sập rồi, tường thành sập rồi.

Tiếng hoan hô mơ hồ truyền vào tai, Lưu Thất lập tức nhảy cẫng lên, mừng rỡ

nói:

- Tường thành sập rồi, theo ta vào thành, giết hết cẩu quan, báo thù cho Lục ca!

Đoạn tường thành bị bắn phá đã sập xuống rồi, quân cướp cuồng loạn hoan hô chen chúc đi qua chỗ tường thành bị sập để vào thành. Quân coi giữ trong thành cũng mãnh liệt xông về phía tường thành sập. Hơn một ngàn chiến sĩ chen chúc ở chỗ tường thành đó huyết chiến với nhau, tiếng binh khí va chạm vào nhau vang lên liên tiếp.

Lưu Thất, Dương Hổ cầm hai thanh đao vung trái vung phải, nơi nào cũng như sóng lớn trở mình. Đầu lâu, tay chân, thịt nát, đao và mâu gãy vung vãi khắp nơi.

Quan binh bại trận rồi, bắt đầu tháo chạy vào trong thành.

Lúc Bành Ngự sử đến đã không khống chế nổi đám quan binh rút lui. Y giơ kiếm hét to ra lệnh cho đám quan binh bại lui, giọng nói đã khản đặc.

Không ai quan tâm y, y muốn chém tướng lập uy, nhưng bốn phía toàn là bại binh, thì còn giết cho ai xem. Trong lúc thất thần ngỡ ngàng, một đại hán mặc áo bào trắng thấm đẫm máu tươi đã xông đến trước mặt y. Thanh đơn đao say máu vung lên. Trong khoảnh khắc đầu của Bành Ngự sử bay lên, mới nhìn rõ đại hán đó chỉ có một con mắt, dữ tợn như hung thần!

- Ai biết lái thuyền? Ai biết lái thuyền? Người nào biết lái thuyền thì đứng ra đây cho lão tử!

Lưu Huệ quấn vải trắng trên đầu để tỏ rằng mình đang để tang.

Y khàn giọng hét nửa ngày trời, mới có mấy binh sĩ do dự đứng ra, có tên còn nhỏ giọng nói:

- Thất gia, chúng ta đều là người phương bắc, không có mấy ai biết lái thuyền.

Tiểu nhân biết một chút. Lúc nhỏ ở quê từng theo ông nội chèo thuyền bắt cá ở trong vịnh.

Một người khác liền nói:

- Tiểu nhân từng lăn lộn trên Hoàng Hà, biết lái thuyền giương buồm. Lưu Huệ mừng rỡ, nói:

- Vậy thì được rồi, cho các ngươi lái thuyền, sao cả, dòng sông này chảy xuôi, chỉ cần chỉnh bánh lái ngay ngắn thì không sao cả. Quan binh không có thủy sư tuần tra trên sông. Chúng ta xuôi dòng thẳng xuống, giết một mạch đến thành Nam Kinh thôi.

Người xứ này ai cũng biết bơi, nhưng Dương Hổ một mực muốn đoạt thuyền, căn bản không nghĩ đến nhân mã của mình đều là vịt cạn phương bắc. Dân đi thuyền nhìn thời thế sớm đã lên thuyền trốn đi mất, người đi không kịp đều bị thủ hạ của Dương Hổ chém một đao, còn có thuyền phu nào để dùng.

Đám thuyền phu gà mờ tạm thời này bắt đắc dĩ được phân phối nhiệm vụ của

thủy thủ. Lưu Huệ nói với Dương Hổ:

- Hổ Tử, chiến mã toàn quân đều để lại cho đệ, ta dẫn hai vạn người đi đường thủy, đệ dẫn số người còn lại cưỡi ngựa đi đường bộ.

- Quan ải trên bộ trùng trùng khó đi hơn, nhưng đệ không cần để ý đến chúng. Quan binh xưa nay đều chia binh phòng thủ. Lo tốt việc của mình, không cần ham chiến, chỉ cần xông qua bọn chúng sẽ không quấy rối. Đệ phải đuổi theo thật nhanh đến thành Nam Kinh, phối hợp đoạt thành

Một chiếc xe tiến lên từ phía sau, Mộc Văn ho sù sụ một tràng. Lý Dạ Ẩn cau mày, nhìn xung quanh thấy không có người ngoài, mới nhẹ nhàng nói:

- Đại Lễ, bệnh tình của cháu đang nghiêm trọng hơn đó, cứ đi theo quân nữa, thì vô cùng nguy hiểm.

Mộc Vân vỗ ngực, thở hổn hển nói:

- Thúc, cháu biết rồi, với lại bọn họ không nghe cháu khuyên, bỏ Thiểm Tây mà lấy Kim Lăng, đó là tự chuốc lấy khổ. Cho dù có thật sự đoạt được thành Nam Kinh e cũng không đứng vững chân. Cháu thấy bọn họ không chống chọi được bao lâu đâu.

- Hôm qua cháu nhận được tin tức của phụ thân, Ninh Vương đã có được đại quyền tiết chế binh mã Giang Tây, quân khởi nghĩa phương bắc chúng ta cũng đã tổ chức thành, giá trị lợi dụng của đám người Lưu Lục, Dương Hổ cũng không còn nhiều. Trước tiên cứ đi Nam Kinh đi, nếu như tình hình không ổn, thì trên đường cháu sẽ nhìn thời cơ mà rời khỏi, đi tìm phụ thân chữa bệnh cho cháu, nơi này phải giao cho thúc rồi. Nếu như việc không thành, cứ vứt bỏ mà đi. Cục diện rối rắm này, để cho bọn họ tự đi mà thu dọn lấy.

Lý Dạ Ẩn vừa cảnh giác nhìn bốn phái, vừa khẽ gật đầu.

Bên bờ sông, Dương Hổ nghe xong lời căn dặn của Lưu Thất liền mỉm cười, thầm nghĩ: "Lưu Lục vừa chết, lão Thất liền dùng thân phận cua lão Đại để chỉ bảo

ta. Ha ha, hành quân đánh giặc chung quy vẫn cần sức ngựa. Hiện tại chiến mã đã về hết tay ta. Đợi đến lúc lấy được thành Nam Kinh, trong chúng ta là đương gia, còn phải xem nắm đấm của ai cứng hơn. Bây giờ là lúc đại nạn lâm đầu, tạm thời nhẫn nhịn ngươi."

Y ôm quyền thi lễ, kính cản nghe theo, nói:

- Vâng, Thất ca yên tâm lên đường, đệ lập tức đi chỉnh đốn nhân mã, tập kích Nam Kinh!

Lưu Thất hài lòng gật gật đầu, cẩn thận bước trên tấm ván đang lắc lư, đi lên một con thuyền lớn, lớn tiếng hô to:

- Khởi hành! Khởi hành!

Một hồi rối loạn, chỉ thấy thuyền lớn có nhỏ có, có thuyền buôn, du thuyền, thuyền hoa, thuyền lầu, còn có sà lan đáy bằng, thuyền đánh cá nho nhỏ, đang được mấy con vịt cạn không giỏi bơi lội bì bõm trong nước, nói chung cũng chầm chậm rời khỏi bờ bơi ra giữa sông.

Sông lớn có dòng chảy phía đông, thuyền vào sông thuận theo dòng nước trôi đi, hơn nữa tốc độ càng lúc càng nhanh, càng lúc càng ổn định. Lưu Thất mừng rỡ, suất lĩnh hai vạn quân cướp men theo bờ sông, trùng trùng điệp điệp mà đi.

Dương Hổ cũng lên ngựa, suất lĩnh đám kỵ binh chỉ còn vỏn vẹn hai vạn theo đường bộ đi thẳng về phía nam.

Khoái mã truyền tin báo, Dương Lăng đang ở Nhữ Ninh, nghe tin tức hai lộ thủy bộ truyền đến. Không cần Dương Lăng nói, đám người Miêu Quỳ, Hứa Thái đã đồng thanh nói:

- Thật to gan, bọn chúng muốn lấy thành Nam Kinh!

Dương Lăng căn cứ theo tin tức xem bản đồ thật tỉ mỉ, rồi nói:

- Vốn dĩ cho rằng bọn chúng sẽ tháo chạy về Thiểm Tây, không ngờ bọn chúng

lại lấy Giang Nam. Về ngắn hạn lợi ích của việc lấy Giang Nam quả thật hơn Thiểm Tây nhiều, nhưng bọn chúng có thể đứng vững ở đó sao?

Hứa Thái nhướng mày, nói:

- Quốc công, Triệu Phong Tử lại đang chơi trò giương đông kích tây phải không?

Lời vừa nói ra, Dương Lăng cũng trầm ngâm, suy nghĩ một hội lâu. Hắn chỉ chỉ lên bản đồ, nói:

- Đi về phía nam, bọn chúng sẽ chịu nhiều đau khổ, tuyệt sẽ không xuống nữa. Lối ra ở đâu? Một là về tây lấy đất Thiểm Tây Quan Trung ung dung phát triển. Hai là bắc thượng trở về Hà Bắc, Sơn Đông kéo dài chút hơi tàn. Ba là sang đông lấy Giang Nam. Con đường này mạo hiểm nhất, nhưng ảnh hưởng lại lớn nhất.

- Từ biểu hiện của Triệu Phong Tử ở Sơn Tây có thể thấy, người này tính thích đầu cơ, thích mạo hiểm. Tính tình nhất định có ảnh hưởng cực kỳ lớn đến quyết định của hắn. Đặc biệt là sự thật hắn đã thành công phá vây dưới vòng vây bốn phía ở Trung Điều sơn, khiến cho lòng tin của hắn tăng cao. Chưa chắc hắn không dám lấy Nam Kinh. Nếu như thất bại, lại chọn con đường phía tây lấy Quan Trung cũng nằm trong khả năng.

Dương Lăng thở dài, nói:

- Lúc trước vì phòng ngừa Bạch Y quân lẻn vào Giang Đông, phá hủy kho lương thực của Đại Minh, vùng Nam Trực Lệ, Chiết Giang sớm đã tập kết trọng binh, đủ để ứng phó với sự tiến công của bọn chúng, không cần quá mức lo lắng. Quan binh các vùng Hà Nam, Thiểm Tây cần đóng quân ở những cứ điểm quan trọng, lúc nào cũng phải chuẩn bị chiến đấu, phòng ngừa Triệu Phong Tử đột nhiên tập kích.

- Bạch Y quân tiến công thành Nam Kinh theo hai đường thủy bộ. Truyền lệnh xuống, lập tức triệu tập thủy sư chiến hạm đi ngược dòng, ngăn chặn đại quân Lưu Thất đang ngồi thuyền đi xuống. Phía đường bộ, để cho các cứ địa tự phòng thủ, tự

mình đưa ra chiến lược. Những nơi Dương Hổ đi qua, khi đại quân của hắn vừa qua, lập tức phá hủy cầu, chặn đường đi. Quân đồn trú các nơi toàn bộ tập kết, rập khuôn làm theo, từng bước bố trí phòng vệ, hô ứng hướng bắc, hình thành một vòng vây nghiêm mật.

Dương Lăng ụp hai tay lại với nhau, nói:

- Thả hổ vào cũi! Đường thủy thì lợi dụng đặc điểm không giỏi thủy chiến của bọn chúng, phát huy sở trường của quan binh, nhấc tay một cái thì đánh bại được bọn chúng. Đường bộ thì thực hiện thu hẹp vòng vây, ép hắn phải quyết chiến chính diện.

Húa Thái chắp tay trả lời vâng. Dương Lăng nói ra ý đồ tác chiến, việc thực thi cụ thể thì phải do y, vị quan Tổng binh thân kinh bách chiến, bắt tay vào thực hiện. Dương Lăng lại nói:

- Truyền lệnh. Nam Trực Lệ phó Đô chỉ huy sứ, quan Tổng binh phòng ngự Nam Kinh Chu Đức An, trọng binh thủ thành, không hành động gì, chỉ cần thủ vững thành trì, không để cho Bạch Y quân thừa dịp, đó là một đại công.

- Triệu Phong Tử

Dương Lăng gật gật đầu, như cười mà như không, nói:

- Bất luận là đánh nghi binh hay đánh thật, hắn nhất định sẽ đổi hướng sang Giang Đông. Hứa Thái, Giang Bân, lần này kỵ binh của hai người các ngươi sẽ có tác dụng lớn. Chúng ta theo hắn qua sông, tiêu diệt bọn chúng ở Giang Đông.

- Ta sẽ hạ lệnh cho tất cả thuyền ở bờ đối diện toàn bộ đều chạy qua, mặt nước còn một mảnh ván gỗ cũng phải đục chìm. Đồng thời triệu tập thủy sư tuần tra trên sông. Nhưng hiện tại quá nửa thuế phú triều đình đều dựa vào buôn bán trên biển, bọn họ phải chịu trách nhiệm giữ an toàn hải phận, số lượng thủy sư chiến hạm có thể điều động có hạn, hơn nữa mặt nước Trường Giang quá lớn, bọn họ chỉ có thể tuần tra những đoạn thành trì quan trọng, không thể hoàn toàn bao phủ hết. Miêu công công, Phòng ngự vòng ngoài Giang Bắc phải nhờ cậy ngươi rồi.

Trường Giang uốn lượn như rắn, cơ man nào là dài, sao không thể lên bờ? Thật sự nói muốn phòng thủ Trường Giang quả khó như lên trời. Nhưng thuyền bờ đối diện toàn bộ dời về phía bên này, lại thêm đại quân triều đình quấy rối không ngớt, bọn chúng còn rảnh rỗi đóng thuyền hay sao?

Nhiệm vụ của Miêu Quỳ đơn giản nhất. Chuyện này không phải công lao to tát gì, đương nhiên không thể so với Hứa Thái Giang Bân theo Dương Lăng sang sông. Cho nên Miêu Quỳ cảm thấy rất vọng. Nhưng y lại không dám biểu lộ ra, đành phải chắp tay bảo vâng.

Dương Lăng căn dăn xong xuôi, thở phào một hơi, chậm rãi nói:

- Bên phía Bạch Y quân, do quân đội bốn tỉnh Nam Trực Lệ, Chiết Giang, Giang Tây, Hồ Quảng phụ trách. Chúng ta chỉ chăm chú vào Triệu Phong Tử là được! Thả hắn sang sông, sau đó đóng cửa thật chặt.

Lưu Thất chỉ huy năm sáu trăm thuyền lớn có nhỏ có, đủ mọi chủng loại men theo dòng sông đi xuống. Thủy sư nhận được quân lệnh khẩn cấp cũng đã phái sáu chiếc chiến hạm, do lão tướng Bành Sa Ngư đích thân suất lĩnh, đi ngược dòng sông, khí thế hùng hổ nghênh đón.

Tuy không có hải tặc tập trung đông trên mặt biển Đông Hải, nhưng những đám hải tặc nhỏ mãi mãi giết không hết. Vì khuyến khích bá tánh vùng biển buôn bán, đặc biệt là khi Đại Minh xảy ra nội loạn, thương nhân của các nước nhỏ bốn phía đều có chút ngại ngần, lo rằng ngàn dạm xa xôi đi đến lại xảy ra chuyện nguy hiểm, nên nhiệm vụ hộ tống của thủy sư vô cùng gian khổ.

Tuổi của Bành Sa Ngư đã cao, vận tải trên biển trước giờ không phái lão đi. Lão đầu đang rảnh rỗi hai tay bức bối, vừa nghe có nhiệm vụ diệt phỉ liền phấn chấn, lập tức chủ động xin dẫn hạm đội đi chi viện. Để chứng tỏ lão vẫn chưa già, không biết lão Sa Ngư đã nghe được chủ ý từ đâu, lại cầm một cặp hổ trảo, khiêng một thùng cơm lớn, chuẩn bị biểu diễn "Liêm Pha đã già, nhưng còn làm thùng cơm được" cho các chỉ huy đại nhân xem, làm cho Bạch Trọng Tán dở khóc dở cười, đành phải phái lão đi.

Lưu Thất xuôi theo dòng nước, Bành Sa Ngư ngược dòng mà thuận gió, thuy

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #ssss