Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Phần Không Tên 14

điềm tĩnh mỉm cười đáp:- Hoàng thượng trù tính thật không sai! Quả nhiên Bá Nhan trúng kế, đã dẫn đại

quân đến tấn công núi Bạch Đăng!

Thoạt tiên Chính Đức thấy lạ, nhưng hắn cùng Dương Lăng vốn là đôi bạn học

sinh xấu từng cùng nhau lừa gạt Thái phó ngày xưa, có thể nói là ăn ý vô cùng, nên

chỉ hơi thoáng kinh ngạc liền vỗ tay cười bảo:

- Hay lắm! Đến thật hay!

Bọn Hoa Đáng nghe nói Bá Nhan dẫn đại quân đến tấn công thì sợ đến nhảy

dựng. Khoảng một vạn người ở đây có thể là đối thủ của Bá Nhan sao? Nhưng nghe

hai người một vua một tôi này trò chuyện, mặt đầy vẻ mừng rỡ như cố ý dụ hắn đến

vậy. Hoa Đáng bèn nén lo lắng trong lòng, nghi hoặc hỏi:

- Thiên Khả Hãn, đằng xa kia... là quân đội của Bá Nhan ư? Bọn chúng... sao

bọn chúng đã vào được quan ải rồi?

Chính Đức thoáng ngừng lại, cười khan mấy tiếng, rồi cố làm ra vẻ thần bí bảo:

- Dương khanh, khanh hãy nói cho Thuận Minh vương hay đi.

- Thần tuân chỉ! - Dương Lăng vái một vái rồi đứng thẳng người lại, mỉm cười

nói với Hoa Đáng - Khả Hãn Thuận Minh, ngài nghìn dặm xa xôi đến gặp Hoàng

thượng, Hoàng thượng liền muốn tặng một lễ vật lớn đến cho ngài. Tuy nhiên vốn

chúng ta không biết Bá Nhan có mắc lừa hay không cho nên khi nãy đã không báo

trước cho ngài hay.

Rồi y nâng vạt mãng bào bước lên bậc thềm, đứng trong đình đưa mắt nhìn về

phía đoàn người ngựa đang cuồn cuộn kéo đến mỗi lúc một gần. Y chỉa tay trỏ vào

chúng thản nhiên cười nói tiếp:

- Ngài xem! Bá Nhan xâm phạm biên cương Đại Minh ta, tuy bị hao binh tổn

tướng khá nhiều nhưng vẫn chưa bị thương tổn đến gốc rễ. Hắn vẫn còn binh cường

mã tráng, thêm sức hiệu triệu từ xuất thân hoàng tộc không ai sánh bằng, một khi

hắn trở về được thảo nguyên thì cho dù có nội loạn đi chăng nữa, cũng vẫn sẽkhông dễ đối phó. Tuy nhiên, nếu khiến cho mười phần nhân mã của hắn hao tổn

hết sáu bảy phần, thì Khả Hãn Thuận Minh vừa được khâm phong sẽ có thể đứng

vững. Vì vậy...

Dương Lăng xoay người lại, rất tự nhiên chìa tay mời mọi người vào lều, đoạn

dẫn Chính Đức và các vị thủ lĩnh vừa nghe y nói vừa theo y rời khỏi đình bước vào

trong lều.

Dương Lăng đi đầu, nhân cơ hội nghiêm mắt ra hiệu cho Ngũ Hán Siêu. Ngũ

Hán Siêu hiểu ý, bắt đầu lặng lẽ bố trí đám đại nội thị vệ khống chế cả căn lều.

Đợi mọi người ngồi vào chỗ, Dương Lăng bước ra sau bàn thoải mái nói tiếp:

- Vì vậy, Hoàng thượng cố ý tung tin tức về việc ký kết hiệp ước đồng minh

khắp phố thị Đại Đồng, để gian tế Thát Đát truyền ra ngoài quan ải. Quả nhiên Bá

Nhan không cưỡng được cám dỗ nên dốc hết binh lực mưu đồ tấn công núi Bạch

Đăng, hòng hốt trọn Hoàng thượng và các vị thủ lĩnh một mẻ.

Ha ha, Khả Hãn dâng biếu đức vua trọn con dê nướng tươi ngon, đây hẳn là lễ

tiết cao quý nhất của các vị đúng không? Hôm nay đức vua vạn tuế của chúng tôi sẽ

thưởng lại cả một con sói nướng, mong Khả hãn Thuận Minh và các vị thủ lĩnh vui

lòng nhận cho!

Trong lều liền ồn ào một hồi. Dương Lăng ngồi xuống nghiêm chỉnh, bình tĩnh

như không, phất tay áo cả cười:

- Bá Nhan được xưng là kẻ dũng mãnh của thảo nguyên, nay xem ra cũng chỉ là

phường thất phu sính dũng, có gì mà đáng nói chứ? Chúng ta chỉ cần cười nói

chuyện trò liền khiến hắn tan thành mây khói!

"Ầm... ầm ầm..." mấy quả địa lôi bị giẫm phải phát nổ rất đúng lúc. Tiếng nổ

đinh tai, cùng tiếng người la ngựa hí như chứng minh lời nói của Dương Lăng.

Trong mắt Ngân Kỳ lóe lên vẻ kỳ dị. Đây là lần đầu tiên nàng có dịp nhìn thẳng

vào anh chàng người Hán hào hoa phong nhã không thèm đặt cả đệ nhất anh hùngthảo nguyên vào mắt này.

Ánh mắt Hoa Đáng lập loè, giọng bán tín bán nghi:

- Nói như vậy, Thiên Khả Hãn đã sớm bày bố trọng binh, đặt bẫy nhằm dụ Bá

Nhan vào tròng rồi?

Chính Đức nổi doá trong bụng: "Bá Nhan đã vào quan ải rồi sao? Dương Nhất

Thanh đánh trận kiểu gì vậy? Trở về trẫm sẽ tìm hắn tính sổ tiếp! Có điều... may mà

Dương thị độc giữ được bình tĩnh, giữ mặt mũi cho trẫm. Nếu mà y hoang mang

lúng túng, bối rối chạy vào bẩm báo, chẳng những trẫm sẽ mất sạch mặt mũi oai

phong, mà ngay cả lão cáo già Hoa Đáng này nữa; nếu lão không trở giáo ngay lập

tức thì cũng sẽ sợ đến mất mật, không bao giờ còn dám thiết lập đồng minh với một

láng giềng yếu đuối như trẫm nữa."

Tiếng nổ do người ngựa đạp phải địa lôi không ngừng vọng lại, Hoàng đế

Chính Đức cũng nhoẻn miệng tươi cười, ra vẻ đắc ý nói:

- Dĩ nhiên rồi!

Ánh mắt hắn chạm ánh mắt Dương Lăng, cả hai đều đọc và hiểu được ý tứ của

nhau: "Trận đánh này đã đổ xuống đầu rồi, vậy thì bắt buộc phải đánh thôi, mà còn

phải đánh cho thắng trận. Bằng không, chẳng những về sau đừng mong nói đến việc

thiết lập đồng minh diệt trừ mối họa Bá Nhan, mà ngay trước mắt cái mạng của

mình cũng sẽ khó giữ."

Vẫn còn do dự lẫn nghi ngờ, Hoa Đáng bèn dò hỏi thử:

- Vậy... Binh mã tiểu vương mang theo tuy không nhiều, nhưng vẫn có thể tham

gia chiến đấu. Hoàng thượng có cần tiểu vương dốc chút sức để chống đỡ không?

Dương Lăng đã thu hết vẻ mặt của hắn vào trong mắt, thừa cơ hội này y đứng

dậy bảo:

- Chúng ta đã là đồng minh, cùng dùng binh chung sẽ là chuyện sớm hay muộn

thôi. Hôm nay kề vai tác chiến đúng là có thể bày tỏ thành tâm liên kết đồng minhcủa đôi bên. Tuy nhiên đại quân của Khả Hãn còn phải bảo hộ ngài trở về Đoá

Nhan Tam Vệ nên không thể để hao tổn quá nhiều, xin Khả Hãn hãy sai người

thông tri thuộc hạ tạm thời lên núi. Đợi đến khi quân Đại Minh của ta đã bao vây,

chuẩn bị tiêu diệt kẻ địch mới hãy cho thấy oai phong của Đoá Nhan Tam Vệ!

Nói đoạn y bước tới trước bàn rồng của Chính Đức, giở thảm lên, kéo một cái

móc sắt mở tấm cửa sắt lớn ra, lộ một cái hang bí mật. Trong hang đuốc tỏ sáng

trưng, hiển nhiên là được thông gió từ một mặt khác.

Dương Lăng quay lại bảo:

- Trên chiến trường, tên lạc bay khắp bốn phía. Nhằm phòng ngừa bất trắc, xin

mời Hoàng thượng và thủ lĩnh các bộ lạc vào trong lánh tạm.

Y nghĩ rằng khống chế được thủ lĩnh các bộ lạc vào trong tay thì mới có thể

đảm bảo bất luận xảy ra nguy cấp như thế nào đi nữa, Đoá Nhan Tam Vệ cũng vẫn

không dám trở mặt. Nếu thật sự đã đến lúc lửa xém chân mày thì y cũng sẽ không

cần để ý đến thể diện cái con mẹ gì nữa hết, có phải kề đao lên cổ Hoa Đáng đi nữa

cũng sẽ bắt Đoá Nhan Tam Vệ mang binh tham chiến.

Khi thấy Dương Lăng nói không cần binh sĩ của mình tham chiến thì Hoa Đáng

đã tin được tám phần, lại thấy nơi này còn xây sẵn hang động đề phòng bất trắc thì

tin hết mười phần. Lúc này không theo Thiên Khả Hãn đánh chó đang rớt xuống

nước(*)... không, nướng cả con sói, thì còn lúc nào tốt hơn để mà biểu lộ lòng thành

đây? Xem ra lần này sẽ không đứng nhầm phe rồi. Thật là may quá! Thật là may

quá!

(*: ý là hùa vào đánh hôi kẻ đang yếu thế)

Hoa Đáng lập tức đứng dậy, khẳng khái lựa lời chối từ:

- Thiên Khả Hãn! Tiểu vương may được Thiên Khả Hãn ban tước vẫn chưa lập

được tấc công lao nào. Đôi bên đã kết làm đồng minh thì phải nên cùng chung kẻ

thù, cùng nhau sống chết!Tuy rằng Thiên Khả Hãn dụng binh như thần, sớm đã chuẩn bị sẵn, không để

mắt tới năm nghìn binh mã của Tiểu vương, nhưng Tiểu vương há có thể không tận

chức trách của bầy tôi? Xin Thiên Khả Hãn ân chuẩn cho đại tướng Mã Cáp Lư

dưới trướng Tiểu vương dẫn quân hiệp lực tác chiến. Tiểu vương và thủ lĩnh các bộ

lạc sẽ ở đây bầu bạn cùng Thiên Khả Hãn, chậm rãi chờ đợi thần binh thiên triều

diệt sạch kỵ binh cọp sói của Bá Nhan!

Chính Đức che miệng ho khan một tiếng, rồi hơi nhíu mày, ra vẻ "bất đắc dĩ":

- Nếu đã như vậy... Dương khanh, vậy cứ theo ý tốt của Thuận Minh vương!

Năm nghìn binh mã này, khanh sẽ chỉ huy luôn vậy!

Nói xong hắn bèn quay sang Hoa Đáng, cười nói:

- Năm xưa Đoá Nhan Tam Vệ phò vua dẹp loạn, lập được công trạng lẫy lừng.

Hôm nay vua tôi chúng ta một lần nữa lại tay nắm tay, cũng có thể xem là một giai

thoại đó. Ha! Ha! Ha!...

Nhận được sự động viên to lớn, Hoa Đáng bèn đứng dậy quát:

- Mã Cáp Lư!

Từ trong đám tướng lĩnh thị vệ đứng trước lều, một tay tráng niên mắt cọp râu

rồng dạ một tiếng rồi bước ra, quỳ một gối thưa:

- Xin đại thủ lĩnh dặn bảo!

Hoa Đáng lớn giọng ra lệnh:

- Lập tức điều động binh mã! Mọi hành động tiến lui, tác chiến giết giặc đều

nghe theo lệnh dụ của Dương Lăng Dương đại nhân!NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 209: Vũ Khí Hóa Học

Dương Lăng ung dung dẫn Mã Cáp Lư rời khỏi lều lớn, nhưng vừa khuất tầm

mắt của những người trong lều y đã vội tăng tốc, bước nhanh đến sườn núi. Chủ lực

quân Minh đã rải ra đến nửa ngọn núi, phòng ngự bốn phía, chỉ còn lại một ít quân

binh dưới chân núi chấp hành kế sách bắn hết hỏa pháo là lui, nhằm kiềm chế nhuệ

khí giặc, cố thủ chờ cứu viện của Dương Lăng.

Chiến mã hí vang, ánh lửa nổi lên bốn bề, một mớ bùn đất mang theo tuyết

trắng bắn tung lên trời, trong làn khói mịt mù không ngừng có chiến mã đạp phải

mìn ngã gục kéo theo cả người cưỡi. Thế nhưng dòng nước lũ xung phong vẫn

không mảy may ngưng nghỉ. Cho dù có chiến mã chệch hướng vì sợ hãi thì kỵ sĩ

trên ngựa cũng lập tức cố sức điều chỉnh cho nó xông về phương hướng chính xác.

Theo quán tính được tạo nên bởi hàng trăm hàng nghìn chiến mã cùng lao đi

như tên bắn, tất cả mọi thứ trước mặt chúng đều trở thành mục tiêu bị san phẳng.

Lúc này cho dù là kỵ sĩ cưỡi ngựa cao siêu đến cỡ nào cũng không thể ghìm cương

chiến mã của chính mình. Bất kỳ chiến mã nào dừng lại sẽ lập tức trở thành một

chướng ngại không đáng kể, chỉ trong khoảnh khắc sẽ bị giẫm thành bùn nhão,

không chút lưu tình.

Cờ sói tung bay, vô số chiến mã giẫm tuyết đạp bùn, cuồn cuộn ào tới. Giáo

kích dày đặc như rừng, đao thép sáng bóng như tuyết để lộ mũi đao sắc lạnh đến

thấu xương, tiếng vó ngựa như sấm, đinh tai nhức óc. Hứa Thái mặt xám nghoét,

trán vồng gân xanh, hai tay nắm chặt thanh đao nhìn chằm chằm vào đội kỵ binh

Mông Cổ đang không ngừng tiến sát tới gần. Những kỵ binh xông tới gần nhất đã

rút cung lắp tên, Hứa Thái vẫn chưa hạ lệnh khai hỏa.

"Vù", như một đám ong vàng bay vút lên trên cao, lang nha tiễn mang theo

tiếng rít khát máu lao tới. Tất cả binh sĩ đều cấp tốc tránh ra đằng sau những tấm cựthuẫn to cao bằng đầu người, đồng thời giơ tấm chắn tròn lên bảo vệ đỉnh đầu.

"Cộp... cộp cộp cộp...", trên mặt thuẫn phủ đầy một lớp tên, có một ít tên xuyên

qua khe hở cự thuẫn bắn trúng người binh sĩ, có kẻ rú lên ngã xuống. Chỉ sau

khoảnh khắc, lại có tiếng "cộp cộp cộp..." vang lên. Loạt tên thứ hai đã tới.

Cưỡi ngựa bắn tên là bản lĩnh sở trường của kỵ binh Mông Cổ, có khá nhiều

chiến sĩ có thể bắn được hơn mười mũi tên trong vòng một hơi thở. Nếu như một

đại đội kỵ binh Mông Cổ đang hùng hổ xông tới, bọn họ có thể bắn khoái tiễn dày

đặc vừa xa vừa chính xác ngay trong giây phút tiếp cận địch đầu tiên, lợi hại vô

cùng. Nếu phe địch cũng dùng cung tên đối đầu thì lập tức sẽ phải rơi ngựa quá nửa.

Hứa Thái kiêu dũng thiện chiến, đã từng xâm nhập vào đại mạc nên đã quen

thuộc chiến thuật này của địch. Hơn nữa, tuy Độc Hỏa pháo rất thích hợp để đối

phó với kiểu xung phong nghìn nghịt người ngựa như thế này nhưng tầm bắn không

xa. Nếu như khai hỏa khi đại đội kỵ binh của giặc chưa xông vào tầm sát thương,

tuy có thể khiến một số chiến mã địch trong vùng đạn pháo phải hoảng sợ, nhưng

trong khi quân ta nạp lại đạn, kỵ binh Mông Cổ mau lẹ như gió đã có thể xông tới

trước mặt rồi. Chỉ cần nắm bắt thời cơ không chuẩn thì thứ được gọi là "vũ khí sắc

bén" đó sẽ biến thành que cời lò, không còn đất dụng võ.

Loạt tên thứ ba như mưa trút xuống cự thuẫn, lại có một ít sĩ tốt không kịp đề

phòng bị trúng tên ngã xuống. Lúc này Hứa Thái mới gằng giọng rống to:

- Bắn!

Kỵ binh Mông Cổ đã xông qua khỏi vùng gài mìn dần dần xông đến, chỉ cách

khoảng ba mươi trượng. Từng họng pháo đen ngòm phun ra những ngọn lửa tử

thần. Trong một loạt tiếng gầm đinh tai nhức óc đầy giận dữ, hàng nghìn hàng vạn

viên đạn chì, đá, đinh sắt đã bắn trả lại với tốc độ còn nhanh hơn cả tên sắc, quét

ngang qua luồng đại quân Thát Đát đang ồ ạt xông đến gần.

Dưới nhát quét ngang của cơn mưa sắt thép, những chiến sĩ Mông Cổ kiêu dũng

và chiến mã mạnh mẽ như rồng đã không thể dùng thân thể xương thịt của mình để

ngăn đỡ. Lập tức những kẻ đương đầu đều bị thổi tung! Người ngã ngựa đổ, thuẫngỗ nát tan, thuẫn sắt cũng biến thành cái sàng, tuột tay bay lên không trung. Dưới

uy lực khủng bố như đất rung núi lở của hỏa pháo dày đặc, những binh sĩ Mông Cổ

chỉ mặc áo da, giáp da biến thành một đống lá quay cuồng trong bão táp, tức thì bị

cuốn phăng xuống đất bụi.

Đòn phản kích này thực ác liệt, hỏa pháo bắn thẳng vào giữa đội hình xung

phong dày đặc đã tạo nên tổn thất khủng khiếp: có gần một nghìn dũng sĩ ngã ngựa,

hơn năm trăm thớt ngựa bị mù, toàn thân đẫm máu đang la hí giãy giụa. Khí thế

không thể ngăn trở của kỵ binh Mông Cổ vì thế mà khựng lại.

Nhân thời cơ này Hứa Thái ra lệnh lắp tiếp đạn dược vào hỏa pháo. Đồng thời

hắn vẫn còn hai mươi khẩu vẫn chưa khai hỏa đang sẵn sàng đón địch, điều này

nhằm tránh cho khoảng thời gian giữa hai loạt bắn quá lâu.

Bá Nhan cũng hạ lệnh quyết tử. Hắn quát tháo ra lệnh cho đại tướng thân tín

của mình là Bác Đạt Nhĩ Mô lập tức tổ chức xung phong, nội trong khoảng thời

gian ngắn nhất phải công phá được phòng ngự dưới chân núi.

Trận đánh hôm nay không dùng đến bất cứ mưu lược gì, mục tiêu duy nhất của

hai phe công và thủ đều là ngọn núi này. Quân Thát Đát chỉ cần đánh chiếm được

ngọn núi này thì sẽ thành công toàn diện, bằng không mọi thứ sẽ kết thúc. Bản thân

là đại tướng tâm phúc của Bá Nhan, Bác Đạt Nhĩ Mô biết rõ tầm quan trọng của

thời gian. Hắn lập tức cùng phó tướng là Hất Lâm Đạt Đạt mỗi người dẫn hai nghìn

kỵ binh, bày trận hình cánh nhạn từ hai bên đánh thốc vào chân núi. Được đại tướng

dẫn đầu làm gương xung phong lên trước, đám binh sĩ vừa la hét vừa liều chết xông

lên, hai mắt đỏ ngầu.

Hứa Thái cười nhạt, chờ cho bọn chúng đến gần, độc hỏa pháo vốn không cần

nhắm chuẩn chỉ hơi quay nòng, một loạt đinh sắt, đạn chì tròn dày đặc lại được bắn

ra. Kỵ binh Mông Cổ không chỗ náu thân, thuẫn sắt và áo giáp đều không hề có tác

dụng gì, người ngựa lại ngã rạp một mảng lớn.

Trong đợt xung phong này, phó tướng Hất Lâm Đạt Đạt bỏ mạng tại chỗ, Bát

Đạt Nhĩ Mô mù một mắt, miệng sứt một miếng to lộ rõ hàm răng trắng hếu, song

hắn vẫn dẫn đám binh sĩ còn lại liều mạng xông lên.Trận địa quân Minh cũng có hơn trăm binh sĩ bỏ mạng dưới mũi tên của kỵ

binh Mông Cổ, không kịp nạp thêm đạn dược. Trong khói thuốc mịt mù, số binh sĩ

Mông Cổ chưa chết lại được hai mươi khẩu đại pháo gầm thét khạc lửa đón tiếp, chỉ

kịp bắn được hai loạt tên liền bị quét rơi rụng.

Nhân cơ hội này, Hất Khắc Nông liền tập kết ba nghìn tinh kỵ lại chia làm ba

cánh trái giữa phải, tức tốc xông lên. Bá Nhan rỉ máu trong lòng, đây đều là bộ hạ

chính quy của hắn. Nhưng lúc này không phải là lúc bo bo giữ riêng quân cho mình,

bất kể phải trả cái giá lớn như thế nào, hắn nhất định phải đánh chiếm cho được núi

Bạch Đăng.

Chuyến này hắn điều động tinh binh các bộ lạc với quy mô lớn để cướp bóc

biên quan, đương nhiên trước tiên là để báo thù cho con của hắn, nhưng nguyên

nhân quan trọng hơn đó là: Hoàng đế nhà Minh vừa mới băng hà, thiên tử mới lên

ngôi là một thằng nhóc chỉ mười sáu tuổi; chúa còn nhỏ tuổi thì lòng nước chưa an,

đây vốn là cơ hội tốt nhất để xâm chiếm đất đai trung thổ. Nhưng hắn không hề ngờ

tên tiểu hoàng đế này không hề yếu kém chút nào, thậm chí còn hiếu chiến hơn cả

vua Hoằng Trị cha nó.

Chẳng những tiểu hoàng đế mau chóng điều động trọng binh đến biên quan

phòng ngự mà tướng lĩnh được phái đi còn hữu dũng hữu mưu, đại quân Thát Đát bị

kiềm chân khó thoát, đã hao sạch quân nhu. Càng khiến hắn bất ngờ chính là quân

Minh xưa nay chỉ thủ không công, từ sau trận chiến Thổ Mộc Bảo đã coi đại mạc là

chốn vô cùng nguy hiểm, mà nay lại dám mạo hiểm phái một nhánh kỳ binh quét

ngang qua đại mạc đang trống trải.

Bởi vì ba trăm thân vệ đảm trách việc giam lỏng Mãn Đô Hãi đều bị diệt sạch,

cho nên hiện tại hắn vẫn chưa biết hoàng hậu Mãn Đô Hải uy danh khắp đại mạc đã

rơi vào trong tay Đại Minh. Nhưng trước lúc xuất binh hắn đã âm thầm cài thám mã

giám thị hành vi các bộ lạc. Tin tức các bộ lạc bị tập kích, dê bò bị giết sạch, cỏ khô

tích trữ bị đốt trụi đã lặng lẽ được đưa tới. Tin tức này chẳng khác nào là muối sát

vào vết thương của Bá Nhan vừa mới chiến bại.

Hiện tại hắn vừa mới dùng vũ lực đàn áp, thống nhất đại mạc, một khi hắn phảichịu áp lực nặng nề như thế này, ắt các bộ lạc có dã tâm sẽ rục rịch ngóc đầu dậy,

cục diện đại mạc mới vừa thống nhất ắt sẽ lại sụp đổ tan tành. Con đường thoát duy

nhất chính là giết chết Hoàng đế nhà Minh. Thắng lợi trọng đại về mặt quân sự này

có thể thay đổi toàn bộ những vấn đề đang tồn tại trên thảo nguyên, khiến uy vọng

cá nhân hắn đạt tới một đỉnh cao chưa từng có. Tất cả mọi chất vấn và chỉ trích sẽ

do chiến công lẫy lừng này mà tan thành mây khói.

Gặp thời cơ Di Lặc giáo chủ động hợp tác, trao cơ hội cho hắn nên vốn bị dồn

đến bước đường cùng, Bá Nhan lập tức dấu nhẹm tin tức bên trong đại mạc bị càn

quét, dồn sức dốc sạch vốn liếng đánh núi Bạch Đăng. Công phá quan ải chớp

nhoáng, kỳ binh xuất hiện đột ngột, ai sẽ có thể ngờ được bọn họ sẽ từ trên trời rơi

xuống? Năm xưa, cũng chỉ với năm vạn nhân mã mà Thát Đát đã đánh bại năm

mươi vạn quân Minh, bắt sống Hoàng đế nhà Minh. Hắn là con cháu của Thành Cát

Tư Hãn dũng mãnh, chẳng lẽ nắm gần năm vạn nhân mã còn không giết được

Chính Đức chỉ có hơn vạn nhân mã hộ vệ sao?

Chỉ cần giết được Chính Đức, triều đình nhà Minh sẽ như rắn mất đầu. Hiện tại

các đại thần thân tín nắm quyền của Chính Đức và những bá quan thất thế muốn

chất vấn phản công đang đấu đá nhau túi bụi. Đến khi Chính Dức bị giết, các vương

gia tranh giành thừa kế ngai vàng sẽ khiến triều đình nhà Minh đã loạn càng thêm

loạn. Lúc đó, cho dù chiếm không được Đại Đồng, không thể thừa cơ kiếm chác

chén canh thì hắn cũng vẫn có thể ung dung trở về đại mạc nghỉ ngơi dưỡng sức.

Còn về phần gần mười vạn đại quân của Dương Nhất Thanh, hắn không thèm

để mắt tới. Quân của Dương Nhất Thanh chia ra trú đóng tại các quan ải, vệ sở và

thành lũy rải rác khắp Trường Thành, tổng binh lực tuy hơn hắn, nhưng binh lực có

thể cấp tốc tập trung ở lân cận Đại Đồng không thể hơn. Hơn nữa hoàng đế Đại

Minh đang ở đây, quân Minh không có thời gian để thong thả bố trí, binh mã các lộ

ắt sẽ không tiếc tất thảy mà kéo tới xả thân cứu giá. Khắp quan ải Trường Thành sẽ

đầy chỗ hở.

Cho nên chỉ cần hắn có thể tranh thủ giết được Chính Đức trước khi Dương

Nhất Thanh tập trung được binh mã, thì hắn sẽ có thể lợi dụng ưu thế cơ động của

kỵ binh mà ung dung nhảy ra khỏi vòng vây của quân Minh mà cao chạy xa bay.Hiện tại hắn phải cần tranh thủ thời gian, bởi vì hắn chỉ có cơ hội đánh một trận này.

Cho dù lúc này chính là lúc dùng tấm thân máu thịt để giành đường sống, hắn cũng

không nuối tiếc.

Đại quân của Hất Khắc Nông xông tới, đại pháo vừa được vội vàng lắp đạn lại

khai hỏa, mặt đất rung chuyển, để lại một đống xác chết. Dưới nghiêm lệnh của Bá

Nhan, quân Thát vẫn như thủy triều tràn tới, hết đợt sóng này đến đợt sóng khác.

Hứa Thái lập tức quát ra lệnh cho nhân mã rút lui lên núi. Đám binh sĩ bắt đầu di

chuyển lên núi dưới sự yểm trợ của lính cầm thuẫn và hỏa súng. Pháo thủ kéo ngòi

nổ thật dài vào trong đống đạn dược, rồi rút lui khỏi trận địa sau cùng.

Giặc Thát kéo đến xông lên núi như sói như cọp. Đội quân tiên phong mới vừa

ruổi ngựa lấy đà phi như bay xông lên đến lưng chừng núi thì thuốc súng chôn dưới

núi đã nổ tung. Chân gãy tay cụt, máu bắn như mưa, một cái đầu ngựa to đùng bắn

tung lên giữa lưng chừng núi rồi rơi bộp xuống đất, cặp mắt ngựa trợn trừng khiến

người ta trông thấy phải rét run.

Thiên phu trưởng Ô Châu Mục Sấm ghìm ngựa quay đầu nhìn, đội hình xung

phong bị nổ tung thành một cái hố máu rộng đến chục trượng, bên cạnh mình còn

khoảng hơn ba trăm người. Chỉ cần xông lên được tới đỉnh, cho dù chỉ chiếm cứ

trong khoảng thời gian một chén trà, bộ đội theo sau sẽ có thể không ngừng ùn ùn

xông lên núi. Hắn bèn rống to một tiếng, quát bằng tiếng Mông Cổ:

- Tiến lên! Hãy giết sạch người Hán như giết dê mổ bò!

Liên tiếp những tiếng reo hò trợ oai vừa mới cất lên, kỵ binh xông lên đầu đã

nghiêng trái đổ phải, ngã rạp xuống ngựa. Trên sườn núi được đặt nhiều hố bẫy

ngựa, chôn chông sắt, con đường chính giữa vốn được lót ván gỗ đã bị rút đi, mặc

dù khi xông lên sườn núi tốc độ đã giảm bớt, nhưng chân ngựa bất chợt sa vào hố

vẫn bị gãy ngang. Chiến mã bị chông sắt đâm bị thương cũng giãy giụa khó mà

khống chế.

Ngay vào lúc này, một đội quân Minh giáp trụ sáng choang chợt xuất hiện trên

đỉnh núi, Ô Châu Mục Sấm trông thấy sau lưng bọn họ đeo một lô những cây giáo

có đuôi thì không kềm được hít một hơi dài, lập tức la to:- Xuống ngựa! Nấp sau chiến mã!

Song đã không kịp nữa. Mấy trăm quân Minh đứng trên cao phóng những cây

giáo dài một mét xuống, tạo thành những đường vòng cung tuyệt đẹp. Những cây

giáo mang theo đà phóng mạnh mẽ thậm chí có thể xuyên qua cả đầu ngựa không

chút khó khăn đã cắm xuyên vào thân thể người. Một loạt những tiếng "phập phập"

vang lên, hàng loạt người vừa còn sống mạnh khỏe chỉ trong nháy mắt đã biến

thành những thây ma lạnh ngắt.

A Lặc Thái dẫn đại quân xông lên. Mệnh lệnh hắn nhận được chỉ có một: "Bằng

mọi giá phải mau chóng chiếm lấy ngọn núi, cho dù toàn quân bị diệt sạch." Sự

phản kích của quân Minh mãnh liệt và thảm khốc không kém. Bọn họ cũng không

có đường lui, nếu để giặc Thát xông được lên núi, thứ chờ đợi bọn họ chỉ là cái

chết.

Súng tay của quân Dương Lăng và những tay thần tiễn người Đóa Nhan của Mã

Cáp Lô tạo thành một sự kết hợp hoàn hảo. "Đoàng đoàng đoàng", một loạt đạn bắn

ra, những tay súng lập tức lui về sau lắp đạn, nhường cung tiễn thủ của Đóa Nhan

Tam Vệ và quân Thát Đát cùng sử dụng kỹ xảo thành thạo mà bắn lẫn nhau. Tên

bay vun vút như mưa, có sĩ tốt bị súng bắn lủng lỗ chỗ như cái nia, cũng có người bị

tên nỏ ghim thành con nhím. Song phương lấy sườn núi làm trận địa, thây chất

thành tường, tiếng kêu rên vang khắp núi.

Dương Lăng đứng trên mỏm núi cao quan sát tình hình chiến sự. Chỗ này thế

núi dốc đứng, giặc Thát không có cách nào tấn công lên đây, rất thích hợp để theo

dõi cuộc chiến. Căn cứ vào tình huống binh lực tấn công lên núi của Thát Đát,

Dương Lăng không ngừng đưa ra từng chỉ thị một: điều động chiến sĩ sử dụng vũ

khí tầm xa như lính bắn súng và cung tiễn thủ, đồng thời cho đao thuẫn thủ, lính

cầm thương và cầm côn chuẩn bị đánh giáp lá cà.

Giặc Thát tấn công như cọp điên, quân Minh đứng vững không lùi, hai bên

trông hệt như hai con mãnh thú đang tranh ăn. Giành giật, giằng co, kẻ trước ngã

xuống, người sau tiếp bước, thây chất mỗi lúc một nhiều khắp mặt đất, tiếng la hét

gào thét vang tận mù xa.Mã Cáp Lư căng thẳng nhìn quanh, cất giọng nghi hoặc:

- Dương đại nhân! Bá Nhan bất chấp thương vong, thế tấn công rất rát, Thiên

khả hãn và thủ lĩnh các bộ lạc đều đang ở trên núi, như vậy thật quá nguy hiểm. Tại

sao phục binh còn chưa xuất hiện?

Dương Lăng cười ha hả đáp:

- Mã Cáp Lư tướng quân không cần phải nóng ruột. Ngài hãy xem, nhân mã Bá

Nhan tuy điên cuồng, nhưng trước sau vẫn khó mà vượt qua một bước. Hắn không

ngờ trên núi chúng ta lại có đến hai vạn tinh binh, cứ tiếp tục cố thủ sẽ không thành

vấn đề.

Nơi này đồng không mông quạnh, nếu bố trí phục binh quá gần thì sẽ bị Bá

Nhan phát hiện ra ngay. Hiện đại quân của chúng tôi cần phải mất một thời gian nữa

mới có thể kéo tới được. Đến lúc đó quân Bá Nhan đều người mệt ngựa mỏi, quân

của chúng tôi sẽ quét sạch bọn chúng như lá khô, khiến hắn không thể trốn tránh ở

bất cứ chỗ nào nữa!

Mã Cáp Lư nghe vậy thì hơi yên lòng. Hắn trông thấy sườn núi mé trái đang bị

quân Bá Nhan tấn công rất rát, song phương đã bắt đầu đánh giáp lá cà giữa lưng

chừng núi. Trong đám đông, tiếng gào thét điên cuồng như sấm dậy, theo sau mỗi

tiếng gầm, đao quang lóe lên, bóng thương vun vút, thỉnh thoảng lại có người bị

đâm, bị chém, trong chớp mắt nơi đó đã biến thành một lò mổ đầy máu thịt. Cung

tiễn thủ trên núi vẫn đang bắn tên ngăn trở dòng quân Thát Đát cuồn cuộn xông lên.

Mã Cáp Lư không kiềm được bèn nói:

- Ta qua bên đó xem một chút. Cứu binh chưa tới, nhất định không thể để bọn

chúng lên núi.

Không hề cảm thấy yên tâm, khi nãy Ngân Kỳ cũng đi theo ra khỏi lều soái.

Nàng đang mặc trang phục thị vệ, lại thêm hiện tại Đóa Nhan Tam Vệ đang cùng

quân Minh kề vai tác chiến cho nên Ngũ Hán Siêu không tiện ngăn cản, bèn để mặc

nàng đi theo Dương Lăng ra ngoài.Ngân Kỳ đứng một bên liếc mắt sang, cẩn thận quan sát vẻ mặt Dương Lăng rồi

chợt mở miệng hỏi:

- Nghe nói tướng quân nhà Minh càng ở xa Hoàng đế thì đánh càng hăng, càng

có Hoàng đế bên cạnh thì càng sợ bóng sợ gió, sợ này sợ nọ.

Thiết kỵ Thát Đát lui tới như bay, các người muốn bắt được cái bóng của hắn

cũng khó. Hiện các người lấy Hoàng đế làm mồi dụ đại quân của hắn lại, rồi lại bao

vây từ bên ngoài. Thoạt nghe thì thấy kế rất hay, nhưng nếu như viện quân chậm trễ

không đến kịp, bản thân các người sẽ bị người ta tiêu diệt mà theo tình hình hiện

nay cũng sẽ liên lụy đến cả chúng ta, cũng sẽ bị quân Thát tiêu diệt chung với các

người.

Làm sao mà Dương Lăng chẳng khẩn trương cho được? Vốn ước định cùng

nhau nếu núi Bạch Đăng gặp nguy hiểm thì liền nổi khói hiệu để Đại Đồng phái

quân cứu viện. Hiện tại tổng binh Đại Đồng nhận được tin đã phái Hứa Thái đến hộ

giá, thì không có lý do gì không có quân đội tiếp tục đến chi viện, trừ khi thành Đại

Đồng cũng đã bị tấn công.

Nếu quả là như vậy, chỗ y có thể gởi gắm vào cũng sẽ chỉ còn có nhân mã của

Dương Nhất Thanh. Nhưng binh mã Dương Nhất Thanh chuyên phòng thủ biên

giới, kỵ binh rất ít. Cho dù hắn ta cố sức thúc quân chạy về cứu viện thì cũng phải

cần đến hơn một canh giờ; đến lúc đó quân lính đã thành nỏ mạnh hết đà, còn lại

bao nhiêu chiến lực thật không thể nói trước được.

Sợ nói nhiều sẽ lỡ lời, Dương Lăng không dám trả lời thẳng vấn đề thứ hai. Y

cố ý cười nói:

- Câu bình luận tướng quân càng ở xa Hoàng đế thì đánh càng hăng của cô

nương hình như hoàn toàn không liên hệ gì tới sự lo lắng của cô nương trong câu

thứ nhì thì phải. Không biết cô nói vậy là có ý gì?

Ngân Kỳ trợn tròn cặp mắt to đẹp nhìn y, hoài nghi:

- Bởi vì nó không giống như là ngài đang thực hiện theo mệnh lệnh Hoàng đế.Ngược lại... có vẻ như Hoàng đế không hề có bất kỳ ý tưởng gì, tất cả mọi thứ đều

do ngài chỉ huy vậy. Các vị đã thật sự thương lượng phương cách dụ Bá Nhan đến

thật sao? Không phải là đã trúng kế của Bá Nhan chứ?

Dương Lăng giật thót trong lòng, gượng cười hỏi lại:

- Sao cô nương lại nói như vậy?

Ngân Kỳ trề môi, đáp:

- Người Minh các người hết lòng bảo vệ Hoàng đế vô cùng, sẽ chịu mạo hiểm

như vậy ư? Ta càng nghĩ càng thấy không hợp lý. Ngài xem đi, dưới núi thế công

rất rát, các vị lợi dụng dịp ký kết hiệp ước để dụ Bá Nhan tới, song lại lung lay sắp

đổ như thế này...

Vừa nói cô ta vừa bước tới cạnh vách núi, khom người nhìn xuống tình hình

chiến đấu bên dưới.

Nghe vậy, Dương Lăng chợt nảy ý định giết người. Đóa Nhan Tam Vệ nổi tiếng

là kẻ trở cờ theo gió, một khi biết được sự thật, quả thật không ai đoán được bọn họ

sẽ đâm lao theo lao hay lâm trận trở giáo. Tiểu cô nương này luôn đứng bên cạnh

Hoa Đáng, nhất định là người được hắn ta tin tưởng vô cùng, nếu để cô nàng quay

về bẻm mép thì hơn vạn sinh mạng trên núi này rất có thể sẽ chôn vùi trong tay cô

ả. Thậm chí giang sơn Đại Minh, còn cả những người thân của mình...

Chung quanh đều là thân binh của mình, tình hình chiến sự đang căng thẳng, sẽ

không ai để ý đến bên này, chỉ cần mình đưa tay đẩy một cái...

Dương Lăng đấu tranh dữ dội trong lòng, một tay đã giơ lên cao nhưng không

thể hạ quyết tâm giết người. Ngay lúc đó Ngân Kỳ đã xoay người lại. Vừa trông

thấy ánh mắt của Dương Lăng, nàng đột nhiên cảnh giác bước tránh sang một bước,

tay vịn vào loan đao giắt lưng, quát:

- Ta đã nói đúng rồi? Ngươi muốn giết ta?

Dương Lăng thoáng ngẩn người, gượng cười chống chế:- Sao cô nương lại nói như vậy? Vô duyên vô cớ, tại sao tôi lại muốn giết cô?

Cặp mắt to tròn xinh đẹp vẫn nhìn chằm chằm vào y khiến Dương Lăng cảm

thấy mặt mình nóng rực. Từ trước đến nay đây là lần đầu tiên y nảy ý định giết một

người vô tội, mặc dù là để bảo vệ cho nhiều tính mạng, nhưng chẳng lẽ không phải

y đang lợi dụng Đóa Nhan Tam Vệ ư? Trong lòng y dâng lên một nỗi hổ thẹn khó

tả.

Ngân Kỳ hừ nhạt một tiếng, đáp:

- Bởi vì ngươi sợ chúng ta lật lọng, lâm trận trở giáo. Dương tướng quân, đừng

coi chúng ta quá quắt như vậy. Phụ thân ta tuy đôi lúc ngả về phía Bá Nhan, song

đó cũng là vì sự sống còn của cả bộ lạc mà thôi.

Đoạn nàng lắc đầu, thở dài rồi nói tiếp:

- Ngài yên tâm, hiện tại tôi đã lỡ trèo lên thuyền giặc của ngài, chỉ còn cách

kiên trì tiếp tục theo ngài đến cùng. Lúc này mà trở giáo sẽ phải trả cái giá quá đắt,

thế nên cho dù cha tôi có nghi ngờ, tôi cũng sẽ giúp ngài che giấu. Nhưng... chỉ

mong đại quân của ngài thật sự có thể kéo tới kịp thời, bằng không ngài sẽ hại cả bộ

tộc chúng tôi đấy.

Dương Lăng nghe mà thấy hổ thẹn không thôi. Y chợt quát lớn:

- Người đâu!

Thoáng chấn động cả người, Ngân Kỳ rút soạt thanh loan đao ra khỏi bao, mũi

đao chĩa thẳng vào cổ họng Dương Lăng. Thị vệ nghe gọi xông đến gần trông thấy

vậy lập tức bạt đao chĩa về phía Ngân Kỳ.

Dương Lăng thành khẩn nói:

- Trước kia Đóa Nhan Tam Vệ luôn dao động giữa Đại Minh và Thát Đát,

không rõ chọn lưa bên nào, cho nên bản quan mới không yên tâm. Tuy nhiên cô

nương nói đúng. Đại địch ngay trước mắt, chúng ta nên tin tưởng lẫn nhau, bắt tay

nhau cùng vượt qua ải khó. Nếu như lúc này còn nghi ngờ lẫn nhau, vậy thật sự sẽđồng quy vu tận thôi.

Ngân Kỳ nhìn y thật lâu không chớp mắt, cổ tay thoắt lật, thanh loan đao lại tra

soạt vào trong vỏ. Nàng cười mỉm:

- Người Hán các người thật sự rất giảo quyệt, lời đại nhân vừa nói nghe thật

xuôi tai. Thực ra nói đi nói lại chẳng qua là đại nhân cho tôi biết rằng nếu các người

chết sạch thì chúng tôi cũng sẽ không sống nổi mà thôi.

Hừ! Tôi nói cho ngài biết! Bá Nhan đã từng xin phép cha tôi được cầu hôn, chỉ

cần tôi đồng ý gả cho Bá Nhan, Đóa Nhan Tam Vệ cũng quy thuận Thát Đát thì

chúng tôi còn có đường sống. Cho nên chúng tôi sẽ cố sức giúp đỡ ngài, nhưng nếu

như người của các ngài không kịp thời kéo đến tiếp viện, nếu như toàn bộ thủ lĩnh

các bộ lạc đều bị giết, tộc nhân chúng tôi sẽ bị thôn tính, sẽ bị giáng làm nô lệ.

Cho nên, khi mà núi này bị đánh đổ, nếu phải chọn giữa sự diệt vong của toàn

tộc và quy thuận cầu sinh chúng tôi nhất định sẽ lựa chọn cái sau; còn tôi, tôi cũng

sẽ tình nguyện vì tộc nhân mà dâng hiến thân mình!

Nàng nói một cách hết sức thản nhiên, ánh mắt trong veo như dòng suối. Lấy

trinh tiết của chính mình để đổi lấy sự sống còn cho người trong tộc, điều mà những

phụ nữ người Hán được hun đúc bởi tư tưởng coi trinh tiết to như trời cho dù có

thực hiện được cũng ngượng miệng khi nhắc đến ấy, lại được nàng phát biểu một

cách vô cùng thánh thiện.

Dương Lăng thoáng nghĩ ngợi, rồi trang trọng đáp:

- Được! Chúng ta cùng thỏa thuận một hiệp nghị quân tử. Nếu như có thể giữ

được núi này, chúng ta sẽ dốc hết toàn lực cùng nhau giữ lấy. Khi đỉnh núi bị đánh

chiếm, bản quan sẽ lấy thân đền nợ nước, mọi hành động của quý tộc sẽ do các

người tự mình quyết định!

Ngân Kỳ đưa mắt chăm chú nhìn y, rồi cũng nghiêm túc gật đầu.

Dương Lăng quay sang bảo thị vệ:- Đi nổi khói hiệu, cấp báo cho toàn bộ quan ải phụ cận biết!

Quân tiên phong Thát Đát giống như dùi đục đóng về phía trước, khí thế như

thủy triều, sắc bén không gì cản nổi, chiến đấu quyết liệt với quân Minh ở khắp

sườn núi. Giặc Thát không thể phát huy ưu thế của khoái mã, nhưng lại hơn ở chỗ

đông người, ai nấy đều hung hãn; quân Minh đứng ở trên cao, chiếm được địa lợi,

ai nấy cũng liều mạng, thề chết không lui.

Rừng giáo mưa tên, gươm sắc đầy trời, mấy vạn người quên sống mặc chết hò

hét vang dội, cả chiến trường giết chóc sôi sục. Quân Thát đã xông được tới lưng

chừng núi nhưng muốn bước thêm nửa bước đều phải đánh đổi bởi vô số máu tươi

và tử thi chất đống. Với tình hình này, không quá một canh giờ thì bọn chúng cũng

đừng hòng tấn công lên đến đỉnh núi, đến lúc đó ắt thế nào cũng sẽ có mấy đạo viện

quân nhà Minh kéo tới.

"Vù", tiếng tên bay vút. Khi tiếng thét đập vào tai, một mũi tên nanh sói đã

xuyên qua ngực một viên lính nhà Minh như một tia chớp. Mũi tên lộ ra sau lưng

mang theo một đám hoa máu, lực bắn mãnh liệt vô cùng.

Tên giặc Thát vừa bắn trộm mới vừa lắp mũi tên thứ hai lên cung thì đã bị một

tay hỏa súng bắn vỡ đầu. Hứa Thái và Lưu Đại Bổng Chùy, người cầm thương, kẻ

cầm côn, thủ ở trước núi, binh khí ngầm mang theo tiếng sấm sét, như rồng độc

quay cuồng, quét, đâm, khua... bên cạnh không ngừng có binh sĩ Thát Đát hung tợn

và dũng mãnh ngã xuống. Chỉ hai người bọn họ đã đủ sức khống chế một vùng có

bán kính mười lăm mười sáu bước, không kẻ nào có thể tiến lên. Sự oai hùng của

hai ngưởi khiến sĩ tốt chung quanh nức lòng chiến đấu. Đao thuẫn thủ đã vứt thuẫn,

hai tay cầm chắc thanh đao cùng giặc Thát quyết chiến.

Đây là một trận đánh ác liệt, thắng thua cuối cùng sẽ chỉ được quyết định bởi

binh lực mạnh yếu, khí thế cao thấp của hai bên, mà không liên quan lắm đến việc

điều bình khiển tướng trên chiến trường có hợp lý hay không, sự phối hợp giữa các

tổ đội thuần thục nhiều hay ít, cùng với khí giới hay cách vận dụng mưu lược. Cho

tới hiện tại, vẫn là phe thủ núi chiếm ưu thế.

Người chết chất thành gò trên sườn núi, chân tàn tay cụt khắp nơi, máu nhuộmkhắp mặt đất, mùi máu tanh xộc vào mũi kích thích sát khí của mọi binh sĩ. Cung,

đao, thuẫn, súng cùng triển khai, đao chém tên bắn như sóng vỗ; máu vấy giáp y

cũng vẫn mặc kệ. Tất cả mọi người như trở nên điên rồ, không ngừng vung vũ khí,

quên hết sinh tử, quên cả sợ hãi.

Dưới chân núi, Bá Nhan thúc ngựa chạy qua chạy lại, cổ vũ binh sĩ dũng cảm

xông lên phía trước. Lúc này, mỗi khắc trôi qua thì hy vọng thành công của hắn

càng nhỏ đi một phần, làm sao hắn không sốt ruột như lửa đốt trong lòng?

Lúc này, một tướng lĩnh Thát Đát hổn hển chạy lại bẩm:

- Đại Hãn, đã lắp xong bốn mươi khẩu pháo. Có dùng chúng để công phá núi

không?

Bá Nhan nghe vậy liền cả mừng, lập tức gò ngựa hạ lệnh:

- Mau lên! Lập tức vận chuyển tới trước núi, dùng pháo công núi, phía sau tiếp

tục lắp ráp. Dùng hết cả một trăm hai mươi khẩu đại pháo cho ta, để ta xem Chính

Đức còn có thể trốn ở chỗ nào. Ha ha ha...

Một loạt kèn lệnh cất lên, giặc Thát đang công núi ào ào rút lui. Quâm Minh lấy

làm ngạc nhiên:

- Giặc Thát lui rồi? Bọn chúng không tấn công nữa mà bỏ chạy sao?

Nhưng ngay sau đó bọn họ liền phát hiện quân địch đang đẩy mấy chục chiếc

giá gỗ cao lớn về phía dưới chân núi, đằng sau mỗi chiếc giá là mấy trăm tên lính

Thát Đát cầm dây thừng dài thật dài. Đó là thứ gì vậy? Đám quan binh đến từ Kinh

doanh lấy làm lạ, nhưng quan binh dưới trướng Hứa Thái và chiến sĩ Đóa Nhan

Tam Vệ lại lần lượt hét lên hoảng sợ:

- Pháo Hồi Hồi! Bọn chúng đã vận chuyển pháo Hồi Hồi tới!

Hứa Thái đanh giọng quát:

- Sợ cái gì! Nơi đây bốn mặt là bình nguyên, toàn là đất cát, bọn chúng lấy đá ởđâu mà bắn lên núi chứ?

Binh sĩ chung quanh nghe vậy mới cảm thấy hơi yên tâm.

"Pháo Hồi Hồi"(1) được tạo bởi những thanh gỗ lớn làm giá, kết nối với nhau

bởi đai riềng kim loại. Trên giá đặt một trục pháo có thể chuyển động, trên trục là

một thanh gỗ dài được bắt cố định làm "nòng pháo". Trên thực tế đây là một loại

máy bắn đá, dùng để ném đạn đá, bên dưới hệ thống buộc hơn trăm sợi dây thừng,

mỗi sợi do hai người cùng kéo, tầm bắn có thể đạt tới mấy trăm bước.

Sau khi quân Mông Cổ sử dụng pháo Hồi Hồi ném cự thạch phá hủy tường

thành Tương Dương chỉ sau một loạt bắn, thì cuộc đại chiến Tương Dương kéo dài

suốt ba năm mới tới hồi kết thúc. Loại máy bắn đá tương tự đã từng sớm xuất hiện

vào thời Xuân Thu. Loại pháo Hồi Hồi này rất dễ lắp ráp, vào năm Tĩnh Khanh thời

Bắc Tống, lúc tấn công Biện Lương, quân Kim đã từng lắp hơn năm nghìn khẩu

pháo chỉ trong một đêm. Không ngờ để đánh chiếm núi thành công, Bá Nhan đã cho

xe thồ vận chuyển một số lượng lớn khí giới đến lắp ngay gần chân núi.

Có điều không cách nào bọn chúng kiếm được "đạn" là đá tảng to lớn ngay tại

chỗ để "bắn". Chiến mã Mông Cổ cho dù có khỏe cỡ nào cũng không thể kéo

những tảng đá lớn nặng mấy trăm cân đi mấy chục dặm để tập kích bất ngờ như

vậy. Rốt cuộc bọn chúng sẽ dùng thứ gì để công phá núi?

"Pháo Hồi Hồi" dừng lại dưới chân núi, khoảng cách này đã quá tầm nỏ mạnh,

không thể gây thương tổn cho chúng. Quan binh trên núi chỉ có thể nắm chặt binh

khí yên lặng chờ đợi.

Bá Nhan nhếch mép cười gằn. Hắn vốn không ngờ quân số trên núi lại sai lệch

so với tin tình báo, hình như không chỉ nhiều hơn gấp đôi, cho nên thế công gặp

phải trở ngại. Nhưng hắn có món lợi khí này, quân Minh lại chỉ dùng vũ khí thủ núi

đơn giản thì sẽ còn có thể giữ được bao lâu?

Tuy máy bắn đá chủ yếu được dùng để ném những tảng đá lớn phá hủy tường

thành, đè chết binh sĩ, nhưng lúc đại quân Mông Cổ tây chinh, trong trận chiến Vácxa-va, bọn chúng lại chợt nảy ra diệu kế, khơi mào cho thời đại chiến tranh hóa học.Bọn chúng đã sử dụng pháo Hồi Hồi bắn một lượng lớn bong bóng có chứa khói

độc vào thành, khiến cho toàn thành Vác-xa-va chìm trong thạch tín và khói độc.

Thấy được hiệu quả mới của thứ vũ khí này, lúc đại quân Mông Cổ tấn công

Con-xì-tan-ti-nô-pô-li (nay là thủ đô Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ), nhằm lúc dịch hạch

hoành hành trong quân đội, quân Mông Cổ bèn dùng pháo ném luôn thi thể của

quân sĩ mắc bệnh vào thành, khiến trong thành bùng phát bệnh dịch. Nghe nói

thương nhân nhiễm dịch trong thành chèo thuyền trốn ra ngoài, mang theo khuẩn

bệnh dịch hạch Châu Á này tới Châu Âu, dẫn đến việc gây ra cơn đại dịch "Cái chết

Đen" mà người dân Châu Âu nghe đến là khiếp sợ. Trận đại dịch này đã cướp mất

tính mạng một phần ba dân số Châu Âu lúc bấy giờ.

Sau khi nhà Bắc Nguyên tan rã, giặc cướp cưỡi ngựa tập kích biên giới chủ yếu

chỉ nhằm cướp bóc. Ngoại trừ năm trước, lúc đánh chiếm Đại Đồng bọn chúng có

sử dụng "pháo Hồi Hồi" để ném đá, còn lại rất ít khi dùng, cho nên ngay cả Hứa

Thái cũng không nghĩ ra được ý đồ sử dụng vũ khí hóa học.

Dưới núi, những khẩu "pháo Hồi Hồi" đã được lắp đặt chu đáo. Một quả bóng

lửa khổng lồ bay thẳng lên mỏm núi, rớt ầm xuống đất, một đám khói cay xè tức thì

lan ra. Không biết bên trong bọn chúng nhét thêm những thứ gì mà quả bóng vỡ tan

rồi lại vẫn cháy phừng phừng, bốc ra mùi cay đến sặc người.

Dưới núi, từng quả bóng khói lửa lại được ném lên núi như những ngôi sao

băng...NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 210: Có Quân Đến Cứu

Dù chiến sự thành Đại Đồng quyết liệt nhưng cũng không gian nan, nguy hiểm

bằng ở núi Bạch Đăng. Tổng binh Đại Đồng Đỗ Nhân Quốc, kiêm giữ ấn Chinh tây

Tiền tướng quân, thống lĩnh năm vệ, bảy sở, nhưng giờ đây phần lớn đại quân của

ông ta lại trú đóng bên ngoài Trường Thành. Thành Đại Đồng lại có tường cao vững

chắc nên trong thành chỉ có hai vệ quân coi giữ. Hứa Thái mang bảy ngàn người

ngựa đi, trong thành chỉ còn lại hơn năm ngàn người.

Vốn Hỏa Sư nhận được mệnh lệnh là nội ứng sẽ mở cửa thành phía tây cho đại

quân tràn vào. Với mười lăm ngàn quân tinh nhuệ của hắn thì cả tòa thành Đại

Đồng lập tức sẽ trở thành món đồ trong túi, vì vậy ngay cả khí giới công thành hắn

cũng không thèm mang theo. Nhưng khi quân khinh kị của hắn hào hứng chạy đến

dưới thành phía tây lại bất ngờ bị quân coi giữ Đại Đồng bắn cho một trận mưa tên

phải thối lui, Hỏa Sư tức giận đến mức chửi thầm trong bụng.

Khi thấy Bá Nhan tự mình dẫn đại quân đánh úp núi Bạch Đăng, Hỏa Sư cũng

ghét chuyện tranh cướp công đầu của Khả Hãn, nhưng suy đi nghĩ lại hắn nhận định

cho dù thị vệ bên người Hoàng đế không quá mười ngàn nhưng chắc chắn toàn là

tinh binh, trận chiến đó nhất định sẽ rất khó khăn. Trong khi đó, quân của mình

không cần tốn bao nhiêu công sức cũng hạ được Đại Đồng, thoải mái đốt giết cướp

bóc có thể giúp đám sĩ tốt từng chịu đựng nhiều nỗi gian nan vất vả này kiếm được

một mớ, tính ra cũng lời chán. Nào ngờ việc phòng ngự trên thành Đại Đồng rất

nghiêm, chờ mãi vẫn không thấy nội ứng mở cửa thành, Hỏa Sư cho rằng Bá Nhan

cố ý lừa mình, tuy nổi giận trong lòng nhưng phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Lúc này

lại không thể một mình lui quân làm hỏng đại cục, hắn đành phải cố gắng cho quân

khổ chiến.

Chặt cây tại chỗ đóng thành thang dài, đám binh lính cuồng nhiệt trong mắt chỉcó rượu mạnh, gái đẹp, vàng bạc lẫn tiền của ra sức leo lên không hề sợ hãi. Quân

Minh coi giữ trên tường thành sớm đã bày trận chờ địch, dù gặp đại chiến mà vẫn

ung dung kéo cung bắn tên, vác đá ném xuống, hàng loạt câu liêm vô tình đẩy

những chiếc thang ra khỏi tường thành cao mấy trượng. Tiếng kêu thảm của binh

lính Thát Đát vang lên, những khúc gỗ đóng đầy đinh sắt dài cả thước lại được lăn

xuống dưới thành.

Thành Đại Đồng được xây dựng rất hùng vĩ, tường thành vừa chắc chắn vừa

hiểm trở, các loại thiết bị phòng ngự đều đầy đủ, thân tường thành được xây bằng

gạch, bên trong đổ vữa rồi đầm từng đoạn từng lớp. Tường thành cao khoảng năm

trượng, mặt trên tường thành cũng rộng năm trượng, đủ chỗ cho đại đội nhân mã di

chuyển nhanh chóng. Lỗ châu mai, lầu thành, vọng lâu, vọng canh đan xen nhau, có

thể quan sát địch từ xa, ẩn nấp, bắn tên, tiếp ứng, khống chế điểm cao, tạo thành

một phòng tuyến nhiều tầng nhiều lớp hoàn chỉnh.

Độc hỏa pháo, Oanh thiên phích lịch pháo không ngừng bắn những viên đạn vô

tình xuống dưới thành thu hoạch mạng người. Vô số binh lính qua lại trên tường

thành lăn gỗ, lăn đá, đổ dầu, bắn tên tạo thành một phòng tuyến không thể phá vỡ.

Còn quân Thát thì như từng đợt sóng không ngừng điên cuồng lao vào thành trì.

Tên giặc bắn như mưa, cũng không ngừng gặt hái tính mạng quân Minh.

Xác chất như núi, máu chảy khắp nơi, tiếng chém giết rung trời. Thi thể của

đồng đội bị chà đạp vô tình như những miếng giẻ rách; không ngừng có người ngã

xuống, trở thành một trong những xác chết bị giẫm đạp. Mặc dù thành trì vẫn sừng

sững bất động dưới những đợt sóng tiến công của giặc Thát nhưng trong lòng Hồ

Toản và Đỗ Nhân Quốc lại như lửa đốt, gần như cả hai sắp hộc máu đến nơi.

Núi Bạch Đăng mới là chốn bọn họ thật sự bận tâm lo lắng. Nếu như chỗ đó có

bất trắc gì thì trời mới biết Đại Minh sẽ gặp phải một tương lai u ám như thế nào.

Nhìn thấy một sợi khói đặc quánh bay lên xa xa từ núi Bạch Đăng, Hồ Toản và Đỗ

Nhân Quốc vừa cảm thấy vui mừng lại lập tức sắc mặt trở thành xanh mét.

Núi Bạch Đăng báo tin Hoàng đế không việc gì, đỉnh núi còn chưa bị giặc Thát

chiếm đóng. Nhưng đồng thời cũng cho biết tình thế hết sức ngặt nghèo, nếu nhưviện binh không đến kịp thì đỉnh núi có thể sẽ bị đánh chiếm trong chốc lát.

Hồ Toản giậm mạnh chân, hai mắt đỏ ngầu nhìn Đỗ Nhân Quốc quát:

- Đỗ đại nhân! Ta phải tập hợp toàn bộ người ngựa, bỏ thành đi tiếp viện núi

Bạch Đăng. Hoàng thượng ở đó, nhất định phải bảo vệ Hoàng thượng cho được!

Chỉ cần giữ được đỉnh núi, đại quân của Dương Nhất Thanh kéo tới là chúng ta còn

có thể đoạt lại Đại Đồng!

Ý kiến này thật sự ngu xuẩn. Quân chính quy trong thành không quá năm

nghìn, cho dù cộng thêm binh nghĩa dũng và tráng đinh thì toàn bộ quân binh vẫn

không đông bằng quân công thành. Hơn nữa giặc Thát ở ngoài thành là kỵ binh, nếu

bọn họ thật sự tập hợp binh lính lao ra khỏi thành thì chẳng những thành sẽ bị mất

mà chỉ trong nửa canh giờ toàn bộ binh mã cũng sẽ bị đối phương chia cắt rồi lần

lượt tiêu diệt.

Đỗ Nhân Quốc gian nan nuốt nước bọt. Hắn còn chưa kịp trả lời thì đã nghe

một tiếng gầm giận dữ vang lên:

- Ngu không ai bằng! Quân ta ra thành là trúng gian kế của giặc Thát, nếu

Hoàng thượng gặp nạn mà tòa thành vững chắc này rơi vào tay địch thì còn ai có

thể địch được quân Thát? Toàn bộ Sơn Tây, thậm chí cả kinh thành cũng sẽ gặp

nguy trong sớm tối!

Hai người quay phắt lại, nhận thấy một đội giáp sĩ vây quanh Đại vương điện

hạ đi vào vọng lâu. Tiếng chém giết vẫn vang lên khắp nơi, Đỗ Nhân Quốc và Hồ

Toản vội vàng tiến lên bái kiến. Hồ Toản khóc lóc báo:

- Điện hạ! Núi Bạch Đăng truyền tin báo động, Hoàng thượng gặp nguy hiểm

rồi!

Đại vương cũng biết hắn nói có lý, chỉ riêng chuyện thấy nguy không cứu và

những lời hôm nay, một khi Hoàng đế vị quốc vong thân thì đã đủ để trở thành lý do

vạch tội bọn họ. Ngay cả hắn là dòng dõi hoàng tộc cũng khó tránh khỏi trở thành

vật hi sinh chính trị, nếu chỉ bị tù chung thân thì chắc chắn đó cũng là hình phạt nhẹnhất rồi.

Nhưng cội rễ của hắn ở đây, tất cả con cháu hắn đều ở trong thành. Dòng dõi

Đại vương đã sống ở đây hơn trăm năm, trừ năm trước vào kinh còn những lúc khác

thậm chí hắn còn chưa bao giờ rời khỏi Đại Đồng một bước. Hồ Toản có thể mở

thành chịu chết, không tiếc tính mạng nhằm mưu đồ một hư danh nhưng hắn lại

không thể.

Sắc mặt Đại vương xám như tro tàn, hắn than thở:

- Cô(*) biết! Nhưng quân coi giữ Đại Đồng quá ít, mở cửa thành đánh địch sẽ

vô dụng, ngược lại sẽ đánh mất trọng trấn biên cương này vào tay giặc.

(*: tiếng tự xưng của Vương hầu thời phong kiến)

Hắn đột nhiên xoay người, rút trường kiếm của thị vệ bên cạnh ra đặt ngang

trước ngực rồi quát to:

- Dòng dõi Đại vương thụ phong Đại Đồng, mang trọng trách giữ biên cương

bảo vệ xã tắc. Quân coi giữ Đại Đồng đều phải nghe theo hiệu lệnh của bản vương!

Đỗ tổng binh, Hồ tuần phủ! Toàn lực thủ thành, không được để một binh một

lính giặc Thát công được lên thành. Cô vương ở đây đốc thúc, nếu Hoàng thượng

tuẫn quốc thì là do bản vương không thể cứu viện, cô vương sẽ tự vẫn tạ tội, không

quan hệ gì với các vị đại nhân!

Còn không mau đi!

Đỗ Nhân Quốc và Hồ Toản lộ vẻ xúc động, buột miệng:

- Đại vương gia, ngài...

Đại vương trợn mắt hét lớn:

- Còn không mau đi?

Hai người giậm chân liên hồi ra vẻ chẳng đặng đừng, rồi cũng đành vội vã rờikhỏi vọng lâu, chạy lên lầu thành chỉ huy việc thủ thành. Đại vương đi tới cửa

ngách, chống kiếm quay về hướng đông nhìn núi Bạch Đăng xa xa, lặng lẽ cầu

khẩn:

- Hoàng thượng! Người tốt sẽ được ông trời cứu giúp, nhất định phải giữ vững

cho được nghe!

***

Những khẩu pháo Hồi Hồi to lớn cao tới ba trượng, có thể ném những tảng đá

lớn nặng hai trăm cân ra xa một trăm trượng. Núi Bạch Đăng chỉ cao hơn năm mươi

trượng, đạn bắn ra lại là các loại đạn tạo khói lửa đựng trong chum vò gốm nặng có

sáu bảy cân, cho nên pháo Hồi Hồi được biến đổi rất nhiều, chủ yếu chỉ dùng máy

ném đá cao chưa đến hai trượng, dùng mười một cây gỗ dài ngắn khác nhau kết lại

thành một cái giá đỡ giản dị. Hơn nữa bởi vì phải tập kích thần tốc nên bọn chúng

không thể mang theo những quả tạ làm đối trọng nặng mấy ngàn cân nên đành chỉ

dùng sức người để kéo dây chằng.

Phân trâu, phân sói, các loại cỏ độc ngâm thạch tín bốc cháy phát ra mùi cay

thối sặc sụa làm mọi người buồn nôn. Trên núi có gió nhưng người Thát không

ngừng ném đồ dẫn hỏa lên núi từ phía đầu gió, sau khi rơi xuống đất vỡ tan, những

viên đạn "hóa học" vẫn không ngừng tỏa khói đặc. Khói độc không ngừng bay về

phía cuối gió, rất nhiều sĩ tốt bị hun đến không cầm được nước mắt, không thể mở

mắt ra được.

Còn may đây là một hòn núi đất, không phải tường thành toàn đá hộc. Chúng

tướng lập tức ra lệnh cho binh lính đào đất chôn các bãi chất cháy. Từ trên trời

những quầng lửa liên tục bay xuống, còn tất cả sĩ tốt trên đỉnh núi thì ra sức đào đất

để chôn. Mặc dù rất nhiều sĩ tốt bị hun đến mức hai mắt sưng đỏ, không ngừng chảy

nước mắt nhưng vẫn chưa đến mức không thể chịu được.

Đám người Chính Đức đang ở trong lều lớn cũng không ngờ tới giặc Thát sẽ

dùng tới chiêu này. Dương Lăng vội vã chạy về doanh trướng nhắc Hoàng thượng

và các vị thủ lĩnh chui xuống hang ngầm tạm lánh, nhưng lúc này chính là thời khắc

nguy cấp, đứng trên núi có thể thấy tình thế công thủ địch ta nên còn đỡ sốt ruột.Nếu chui xuống hang, mặc dù không bị khói độc hun nữa nhưng ngọn lửa trong

lòng thì dập tắt bằng kiểu gì?

Thấy đám người Chính Đức và Hoa Đương đều không muốn xuống hang tránh

né, Dương Lăng đành phải gọi người lột khăn trải bàn xuống nhúng nước sạch rồi

đưa cho mọi người che lên mặt. Đôi mắt to xinh đẹp của Ngân Kì cũng đã bị khói

hun sưng húp, nước mắt lưng tròng, ngay cả chiếc mũi nhỏ nhắn cũng đỏ ửng. Đã

giao ước ngầm với cô ta nên Dương Lăng cũng yên tâm hơn với vị cô nương không

biết rõ này. Y đã dặn hai thị vệ đại nội chú ý đến mọi hành vi của cô ta; nay thấy cô

ta chạy qua chạy lại chỉ lo giúp đỡ mọi người kể cả cha cô ta che khói độc, không

có hiện tượng gì khác lạ nên y cũng yên lòng.

Mười mấy khúc gỗ, mấy chục người lắp ráp là đã thành một cái giá ném "đạn

hóa học", tốc độ cực nhanh. Từng chiếc máy ném đá đơn sơ không ngừng được đưa

đến dưới chân núi, càng lúc càng nhiều quả bóng chứa chất cháy độc được ném lên

trên núi. Bá Nhan cũng đã ước đoán trên núi có thể đào đất chôn vật cháy. Cho dù

ông trời phù hộ không có gió, không có tuyết nhưng không thể chỉ dựa vào mấy

ngàn quả đạn khí độc mang theo mà có thể đánh hạ được quân Minh. Mục đích của

hắn chỉ là muốn khiến cho quân Minh bị đau mắt, giảm sức chiến đấu để quân mình

tấn công dễ dàng hơn mà thôi.

Hơn ba trăm quả đạn khói lửa khí độc đã được ném lên núi, khói mù che khắp

đỉnh núi. Bá Nhan vừa sai người tiếp tục ném vừa tổ chức đại quân tiến công núi

lần nữa. Mùi thạch tín cháy quá khó chịu, cung thủ quân Minh và binh lính của Đóa

Nhan Tam Vệ đang không ngừng phải chảy nước mắt, ảnh hưởng rất lớn đến sức

phòng ngự từ xa. Quân Thát nhanh chóng tấn công lên đến lưng chừng núi và bắt

đầu giáp lá cà với quân Minh.

Số lượng máy ném đá không ngừng tăng, càng ngày càng nhiều đạn khói được

ném lên núi. Trong khi đó đa số quân Minh đã băng xuống lưng chừng núi chặn

đánh quân Thát, số lượng quân sĩ đào đất chôn chất cháy càng lúc càng ít. Kết quả

là khói trên núi cũng càng lúc càng nhiều, sức chiến đấu của quân Minh càng trở

nên suy yếu.Mọi người đều thầm biết rõ việc đỉnh núi bị đánh hạ chỉ còn là vấn đề thời gian.

Hi vọng duy nhất trong lòng bọn họ nằm ở chỗ nơi này là địa bàn của Đại Minh,

quân Minh có mấy chục ngàn đại quân đóng ở quan ải Trường Thành gần đó; giờ

đây bọn họ chỉ có thể cố gắng giết địch, cố gắng kéo dài thời gian.

Viện quân mà đến thì có thể hình thành thế trận bao vây quân giặc cả bốn phía

và bọn họ sẽ từ giữa bung ra. Nếu như không thể vây diệt toàn bộ đội kỵ binh tác

chiến của quân Thát tại đây thì cũng có thể khiến Bá Nhan thảm bại, thực lực tổn

thương nghiêm trọng, do đó triều Minh sẽ đạt được một thắng lợi mang tính quyết

định. Nếu như viện quân đến muộn thì chỉ có thể nhặt xác cho mọi người mà thôi.

Đám người Hoa Đáng không hề ngu. Đến lúc này bọn họ cũng đã thấy được cái

gọi là mưu kế lấy chính mình làm mồi dụ dỗ Bá Nhan vào bẫy có đến tám chín

phần mười là giả. Chỉ có điều lúc này chiến sự đã nổ ra kịch liệt bốn bề núi Bạch

Đăng, tất cả binh lính đều chen chúc liều mình chém giết. Cho dù bọn họ có hối hận

cũng không có cách nào tập kết quân đội của mình để chống lại quân Minh hay bỏ

chạy thoát thân.

Quân đội cố thủ núi Bạch Đăng đã tới đường cùng, hỏa mai đã bắn hết, tên

cũng không còn, chỉ có thể dùng đao thương chém giết. Quân Thát đang dần dần

lấn lên đỉnh núi, ép quân Minh vào giữa. Dương Lăng chỉ chia một ngàn đao thuẫn

thủ và hai trăm thị vệ đại nội bảo vệ lều lớn, còn lại tất cả quan quân đều được phái

ra bốn phía chống địch, ngay cả đội dự bị cũng không có.

Quân Minh đang từng bước lui lại, nói chính xác là đám Thát Đát hung hãn liều

mạng đang vừa chém giết vừa giẫm đạp thi thể tiến lên đỉnh núi từng tấc một. Giữa

lúc đỉnh núi đang trong thế chỉ mành treo chuông, bỗng có tiếng vó ngựa từ xa xa

vọng đến. Từ trên cao, những quan binh đang chặn đánh địch ở bên mé tây đã có

thể thấy rõ một đại đội kỵ binh đang phi đến như bay. Áo giáp sáng lòa, cờ bay

phần phật, rõ ràng là quan binh Đại Minh.

Giống như được tiêm một mũi thuốc trợ tim, đám quan binh sức cùng lực kiệt

lập tức reo hò, đao thương mãnh liệt vung lên, càng đánh càng hăng. Cuối cùng

cũng đợi được viện quân đến rồi, còn viện quân có bao nhiêu thì bây giờ còn chưaước lượng được. Nhưng sự kiện viện quân đã đến này lại khiến cho nhuệ khí hai

bên thay đổi rất rõ ràng. Cho dù binh lính Thát Đát cực kỳ dũng mãnh cũng không

khỏi cảm thấy chán nản, toàn quân đều bắt đầu nhụt chí.

Nhận được tin, Bá Nhan thầm rợn người, chuyện hắn lo lắng nhất rốt cục đã

xảy ra. Nếu như đại đội nhân mã quân Minh chạy tới bao vây toàn bộ đội quân của

hắn thì chẳng những nước cờ được ăn cả ngã về không này khó thể thành công, mà

nếu như không kịp thời phá vòng vây, khiến cho bị trong ngoài giáp công thì có thể

toàn quân bị diệt, tất cả đi đời nhà ma.

Chỉ kém một bước, chỉ cần khoảng non nửa canh giờ nữa Chính Đức sẽ trở

thành đồ trong túi của mình. Cứ như vậy mà lui về đại mạc hay sao? Mũi Bá Nhan

cay cay, hắn điên cuồng rống to:

- Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ, dẫn người của ngươi ngăn cản viện quân Minh triều. Ta

chỉ cần nửa canh giờ, chỉ cần nửa canh giờ nữa thôi!

Tiếng gào thảm thiết của hắn làm đám tùy tùng và thủ lĩnh các bộ lạc xung

quanh rối loạn. Đội dự bị có sáu ngàn người, do hai anh em kết nghĩa với Bá Nhan

là Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ và Húc Nhật Cán chỉ huy. Hai người này đã đi theo Bá

Nhan tung hoành thảo nguyên đại mạc không gì cản nổi, là một trong những tướng

quân anh dũng thiện chiến nhất.

Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ cũng biết kéo dài nửa canh giờ có ý nghĩa gì đối với cả

thảo nguyên. Hắn rút thành cương đao sáng như tuyết ra, quát lớn:

- Theo ta chặn địch! Cho dù quân Minh là một trận bão cát cũng phải chặn

đứng bọn chúng. Xông lên!

Ba nghìn tinh kỵ cùng hò hét vang dội, rút loan đao (đao cong) sáng như tuyết

ra, không hề chùn bước xông lên chặn đánh đám quân Minh đang phi đến như bay.

Đối với đại đội quân Minh đang phi nhanh đến, ba nghìn tinh kỵ Mông Cổ giống

như một mũi dao nhọn sắc bén. Nếu như hai quân lao vào nhau, tinh kỵ Thát Đát

lấy khỏe đánh mệt, quyết tâm tử chiến đến cùng sẽ có thể xé đội hình rời rạc của

quân Minh ra một vệt dài, có thể đột nhập thẳng vào sâu nửa dặm, từ giữa tách đôiđội hình địch ra, tiến hành chém giết.

Tuy nhiên quân Minh lại như không nhận thấy dụng ý của Cáp Đan Ba Đặc

Nhĩ, vẫn lao tới với đội hình rời rạc. Dương Lăng, Chính Đức và đám người Hoa

Đáng trên đỉnh núi nhìn thấy đại đội nhân mã quân Minh kéo đến đều cảm thấy tinh

thần phấn chấn. Làm cho bọn họ vui mừng nhất là, đây là một đội ngũ toàn kỵ binh,

hơn nữa từ trên núi có thể thấy rõ nhân số của họ nhiều hơn ba nghìn kỵ binh quân

Thát chặn đánh gấp mấy lần. Đây là đội thiên binh từ đâu xuất hiện?

Một cây soái kỳ trong tay tên lính cầm cờ cường tráng đang bay phần phật do

cuồng phong do đàn tuấn mã phi nhanh tạo nên. Hắn điều khiển ngựa bằng hai

chân, hai tay gồng lên nắm chặt cán cờ được giữ chắc chân bằng một cái vòng cài

bên cạnh yên ngựa. Trên lá cờ chỉ có một chữ rõ to: "Vương"!

Người tiên phong đi trước soái kỳ chữ Vương bỗng nhiên giương cung, một

phát ba mũi tên, lập tức trong đám kỵ binh Thát Đát chạy như bay đối diện có ba kẻ

rơi xuống ngựa. Ba mũi tên này như là hiệu lệnh, tinh binh Mông Cổ cũng lập tức

giương cung đặt tên, một cơn mưa tên rợp trời ngập đất bay tới.

Đại soái của cánh tinh binh này chính là Phó tướng Tam Quan Vương Thủ

Nhân, người dẫn hai vị tướng quân du kích chơi trốn tìm với Hỏa Sư ở quan ngoại.

Bởi vì hắn dẫn quân ra ngoài Trường Thành, không ngừng giằng co với Hỏa Sư,

nếu sức cơ động không đủ thì chắc chắn sẽ thất bại, cho nên Dương Nhất Thanh tập

hợp đại bộ phận kỵ binh của các lộ quân trong tay mình, tạm thời tạo nên một đội

quân toàn kỵ binh giao cho Vương Thủ Nhân chỉ huy.

Tổng binh lực của Vương Thủ Nhân ước chừng hai mươi ngàn người, đông hơn

quân Hỏa Sư, nhưng hắn rất ít khi tiếp chiến chính diện với Hỏa Sư. Dù sao cưỡi

ngựa bắn cung cũng không phải chuyện thành thục trong một sớm một chiều, chiến

lực của quân đội hắn còn chênh lệch so với bộ đội sở thuộc của Hỏa Sư. Có điều

khiến Hỏa Sư đau đầu là vị tướng quân Đại Minh này vẫn bám sát hắn không rời,

bất kể hắn muốn tấn công quấy rối nơi nào cánh quân này cũng luôn đi theo phía

sau cháy nhà hôi của.

Hỏa Sư giận dữ muốn tìm hắn quyết chiến nhưng đối phương lại tránh khôngtiếp chiêu, bất đắc dĩ đành dẫn hắn vào khe núi định sử dụng địa lợi chống lại.

Trong lần duy nhất tác chiến ở đồng bằng này, Hỏa Sư vốn định một đòn đánh

tan đội kỵ binh chủ lực của quân Minh, không ngờ Vương Thủ Nhân đã đào hố bẫy

ngựa, đặt ván chông, thậm chí còn đặt cả những cây gỗ tròn phía trước vót nhọn,

phía sau đóng ván ngang, bên dưới ván ngang đào hố trên đường xung phong của

quân Hỏa Sư.

Chiến mã chạy trước đạp lên ván gỗ, đầu nhọn phía sau sẽ chống lên đâm

xuyên qua chiến mã phía sau. Hai quân chưa gặp nhau, quân Hỏa Sư đã tổn thương

nặng nề, hơn nữa kỵ binh không dám chạy nhanh nữa. Người Mông Cổ vô địch

thiên hạ không phải dựa vào đao thương mà là tên nhọn và khoái mã. Quả thực

khoái mã bị mất ưu thế chính là quân Thát tự phế một nửa sức lực. Sau trận này, chỉ

cần nhìn thấy đại kỳ chữ Vương thì Hỏa Sư đã đau đầu, dứt khoát chuyển sang chơi

trò trốn tìm với hắn.

Hôm nay đang bám theo đại quân của Hỏa Sư đi tới gần Cự Lỗ môn, đột nhiên

Vương Thủ Nhân phát hiện quân địch lại biến mất. Vùng này nhiều núi, lúc đầu

Vương Thủ Nhân cho rằng Hỏa Sư cũng bắt chước mai phục lại mình, nên liền ra

lệnh cho đại quân hạ trại men núi, lưng dựa vào Kháng Hồ Bảo, phái thám mã truy

tìm hành tung của Hỏa Sư.

Một lát sau khói lửa nổi lên, liền sau đó thám mã báo dấu chân ngựa biến mất

trong khe núi hẹp ở Cự Lỗ môn, hoàn toàn không còn bóng dáng, nhưng trên quan

ải Cự Lỗ môn vẫn cắm cờ Đại Minh. Vương Thủ Nhân chợt nghi ngờ: Dù Hỏa Sư

vẫn quanh quẩn gần các quan ải nhưng hắn xảo trá như cáo, nếu muốn mai phục thì

hắn sẽ không mạo hiểm mai phục hàng vạn người ở gần quan ải của Đại Minh. Hơn

nữa, hai bên khe núi kia rất hiểm trở, không thể giấu được đông người, người của

Hỏa Sư bay lên trời hoặc chui xuống đất rồi hay sao?

Nghĩ đến đây, Vương Thủ Nhân lập tức từ bỏ nhiệm vụ bám theo Hỏa Sư, nhổ

trại trở về quan ải, vào quan ải qua Kháng Hồ Bảo cách cửa Cự Lỗ vài dặm. Hỏi

quân canh giữ phong hỏa đài, bọn họ cũng chỉ biết có khói lửa dấy lên nên tăng

cường đề phòng ở quan ải này, nhưng không hề biết quân Thát đang tấn công ở nơinào.

Vương Thủ Nhân nghe tin lập tức chạy như bay đến Đại Đồng, còn tiện tay lấy

vài món lợi khí mang theo. Hắn cũng biết hôm nay Hoàng đế cùng Đóa Nhan Tam

Vệ bàn bạc kết minh ở núi Bạch Đăng, tuy rằng phỏng đoán quân Thát đã dễ dàng

lọt vào quan ải và đang đánh úp núi Bạch Đăng đúng là quá lớn mật, nhưng chuyện

này quá quan trọng, luôn phải đề phòng cho yên tâm. Cùng lắm xem như là mình

lui quân về nghỉ ngơi là xong.

Đại quân vừa chạy tới Thủy Thanh Sách, còn cách thành Đại Đồng vài dặm,

bọn hắn đã nghe thấy tiếng chém giết rung trời từ xa xa, đúng lúc này trên núi Bạch

Đăng cũng dấy lên khói lửa. Hiểu rõ địa hình bản địa, Vương Thủ Nhân lập tức ra

lệnh đại quân bỏ đường lớn đi đường tắt chạy đến núi Bạch Đăng, vừa kịp chạy tới

đúng lúc núi sắp bị công chiếm.

Xa xa nhìn thấy quân lính rợp núi, không biết bây giờ Hoàng đế còn sống hay

đã chết, Vương Thủ Nhân sợ đến mức tái mặt. Vì vậy, hắn lập tức thúc ngựa đi đầu,

dẫn quân lao tới. Cơn mưa tên của giặc Thát bay tới, các binh sĩ đều cầm lá chắn

tròn bên cạnh yên ngựa lên che chắn. Vương Thủ Nhân tay trái cầm cung, tay phải

cầm lá chắn, ngồi trên ngựa hét lớn: "Bắn thần hỏa tiễn!"

Đám binh lính xông lên đầu tiên đều mang những loại vũ khí có hình thù khá

kỳ lạ. Tất cả các loại vũ khí lấy từ Kháng Hồ Bảo này đều là các loại tên lửa gọn

nhẹ. Có tên tổ ong (nhất oa phong tiễn), tên đàn ưng đuổi thỏ (quần ưng trục thố

tiễn), tên lửa sao băng (hỏa nỗ lưu tinh tiễn), tên trường xà phá địch (trường xà phá

địch tiễn). Chỉ trừ hai loại tên phi liêm bốn mươi chín mũi (tứ thập cửu thỉ phi liêm

tiễn) khá nặng nề và loại tên trăm hổ cùng chạy (bách hổ tề bôn tiễn) phải dùng xe

đẩy hoặc phải hai người mới bắn được, còn lại hắn đều vơ vét sạch sẽ. Các binh sĩ

dùng dây đeo buộc trước ngực, có khoảng hai mươi mấy hòm.

Đám binh lính xông lên đầu tiên đội mưa tên đánh đá lửa, trong tiếng xé gió,

từng mũi tên lửa bay vụt ra ngoài. Độ chính xác của tên lửa thì không có gì đáng

chờ mong, nhất là ngồi trên khoái mã mà bắn thì càng khỏi phải nói.

May là kỵ binh Thát Đát phía trước xếp thành đội hình đao nhọn tập trung, quảthực chính là bia ngắm sống. Danh tướng Thích Kế Quang đời sau có một cách nói

rất thú vị để hình dung về tên lửa, đại để là: "Bắn tên lửa giữa vạn kỵ binh, hoàn

toàn không cần ngắm ai, châm lửa rồi mặc cho số phận. Phương hướng bắn chúng

ta không đoán được, địch cũng không đoán được, thật sự vừa thú vị lại vừa kỳ

diệu."

Những mũi tên này chủ yếu là nhanh, bắn liên tục, còn nhanh gấp mấy lần

những xạ thủ cao minh nhất của quân Thát. Vô số mũi tên bay ngang bay dọc, còn

có mũi vừa bay vừa uốn lượn. Hai đội quân càng ngày càng gần, quân Minh ngã

xuống mười mấy tên, quân Thát lại bị bắn chết gần trăm người. Làm mọi người khó

hiểu nhất chính là những mũi tên bay xiêu xiêu vẹo vẹo đó, có mũi còn tránh qua

tên địch phía trước rồi bắn trúng tên chạy phía sau.

Hơn trăm con chiến mã mất người cưỡi lập tức khiến đội hình xung phong sắc

bén của Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ bị lộn xộn. Khí thế phá núi mở đường biến mất, lập

tức hai luồng nước lũ đan xen vào nhau, tiếng hét đinh tai nhức óc, tiếng vũ khí va

chạm không dứt bên tai. Binh lính hai bên điên cuồng mượn đà xông của khoái mã

liều mạng chém giết.

Trong trận chém giết giữa hai đội kị binh lao ngược chiều này không có chuyện

chiến đấu một chọi một. Thường thường kỵ sĩ hai bên vừa chém được một đao thì

hai con ngựa đã lướt qua nhau, họ lại giao thủ với đối thủ mới, giao đối thủ vừa rồi

cho đồng đội đằng sau.

Trong giờ khắc này chỉ có giết người mới có thể tránh cho mình khỏi bị giết.

Những binh lính thường ngày rất nhỏ bé này, bất kể trước kia là ti tiện hay là gian

manh, cương nghị hay là hèn nhát, âm hiểm hay là quang minh, bây giờ tất cả đều

hò hét với khí thế ngất trời, tạo thành một làn sóng xung kích làm mọi người sôi

trào nhiệt huyết đưa mình trong chiến trường xay thịt, nghe thấy từng tiếng ma sát

chói tai ghê răng.

Bởi vì thuật cưỡi ngựa của quân Minh không bằng quân Thát, mà mã đao muốn

phát huy hết ưu thế tấn công thì phải mượn lực cánh tay, lực vặn eo và sức lao của

chiến mã; người cưỡi ngựa kém thì cả ba yếu tố này đều kém theo. Vương ThủNhân tạm thời không thể nâng cao kỹ năng cá nhân của đội quân tổ hợp tạm thời

này nên đành phải giở trò ở binh khí.

Gần năm nghìn kỵ binh đi đầu đều dùng lang nha bổng, lực cánh tay của bọn họ

không đủ để sử dụng lang nha bổng bằng sắt thật sự, cho nên tất cả đều dùng những

khúc gỗ lê trên to dưới nhỏ vừa cứng vừa nặng, trên đầu đóng rất nhiều đinh sắt to

bằng ngón út dài nửa thước. Lang nha bổng va chạm với mã đao sắc bén của đối

phương, tiếng ken két vang lên không dứt, còn có thể lợi dụng những móc câu trên

đinh sắt để giảm tốc độ vung đao của đối phương.

Lang nha bổng nhẹ nhàng vẫy trái cản phải, đâm trước đập sau, triệt tiêu nhược

điểm kỹ năng cá nhân của chiến sĩ. Ưu thế tuyệt đối về nhân số áp đảo sự dũng

mãnh thiện chiến của đội quân Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ tinh nhuệ. Một cơn sóng cuồn

cuộn tràn tới, ba nghìn tinh kỵ Thát Đát rơi vào giữa biển quân gần hai mươi ngàn

người của quân Minh.

Từ đỉnh núi nhìn xuống, đội quân tiên phong và hai cánh quân Minh vẫn đang

xung phong, còn chính giữa đội ngũ lại như xoáy nước cuồn cuộn không ngừng. Ba

nghìn kỵ binh của Húc Nhật Can cũng đã xông lên, sử dụng mưa tên ngăn cản thế

công của quân Minh chỉ trong chốc lát rồi sau đó cũng rơi vào vòng vây của quân

Minh.

Lại là một trận hỗn chiến.

Vương Thủ Nhân chỉ mang mấy trăm người lao ra khỏi đội hình của Húc Nhật

Can, cùng mấy ngàn binh mã hai cánh lao thẳng tới chiếc lều lông cừu phía trước.

Trong lều lông cừu là Đại Hãn Thát Đát và thủ lĩnh các bộ đã không còn đại

quân bảo vệ.

Bắt giặc phải bắt vua trước!

Muốn cứu chỗ phải cứu của ta thì hãy tấn công chỗ phải cứu của địch trước!

Nếu như Vương Thủ Nhân thúc ngựa lên núi thì hắn sẽ không phát huy đượcưu thế của kỵ binh, xông đến lưng chừng núi tất nhiên sẽ phải xuống ngựa khổ

chiến với quân Thát đang tấn công núi. Cho dù rốt cuộc có đuổi tận giết tuyệt được

toàn bộ quân Thát Đát đi chăng nữa thì việc có thể bảo đảm được an toàn của

Hoàng đế trong đám loạn quân hay không lại là một vấn đề khác. Chiêu vây Ngụy

cứu Triệu của hắn nhắm khiến cho quân Thát sắp đánh chiếm đỉnh núi không thể

không lập tức quay lại cứu người, hiểm cảnh trên núi sẽ lập tức được giải khai.

Quả nhiên ngay từ lúc đội kị binh cứu viện của quân Minh lao tới, các đầu lĩnh

quân Thát đang chỉ huy công núi đã phải chú ý theo dõi. Nay vừa thấy tình hình

nguy hiểm, bọn họ liền lập tức tập kết đại quân lao ngay trở lại.

Tất cả thân binh bên người Bá Nhan và các thủ lĩnh cộng lại cũng chỉ được hơn

một ngàn người, nhưng đều là những chiến sĩ dũng cảm. Bọn họ lập tức vung binh

khí chặn trước mặt các thủ lĩnh, bắt đầu chém giết với quân Minh.

Xác người xác ngựa ngổn ngang, tay cụt chân gãy vô cùng thê thảm, máu tươi

trộn lẫn bùn đất, mặt đất vốn phủ tuyết trắng tinh sớm đã đổi màu, không khí tràn

đầy mùi máu tanh khiến mọi người buồn nôn.

Quan sát tình hình trước mắt, Dương Lăng lập tức bảo với Hứa Thái và Mã Cáp

Lư đang máu nhiễm chiến bào:

- Thắng bại là ở lần này! Lập tức tập hợp toàn quân, tấn công quân địch chính

diện, đón binh mã của Vương tướng quân tới gần!

Hứa Thái nhận lệnh, lập tức tập hợp đám quan binh còn chưa thở dốc xong. Trừ

bộ binh, toàn bộ lên ngựa lao xuống núi. Tay cầm cây gậy sắt nặng nề, Mã Cáp Lư

cũng gọi đám binh sĩ ba vệ còn sống sót lại, rồi cùng gào thét lao xuống núi. Hai

luồng đại quân trang phục khác màu, đan xen vào nhau lao xuống, khói bụi bay lên

cuồn cuộn. Trường thương, cương đao lấp lánh đầy sát khí bức người.

Bị Vương Thủ Nhân vây quanh tạo thành hai nửa vòng tròn một lớn một nhỏ là

sáu ngàn thiết kỵ quân hậu bị Thát Đát và một ngàn tinh binh của Khả Hãn Bá

Nhan và các thủ lĩnh bộ minh. Bên ngoài là binh lính Mông Cổ lũ lượt kéo về cứu

viện, theo sát là hơn tám ngàn kỵ binh Đại Minh và Đóa Nhan Tam Vệ lao xuống,cố gắng thừa dịp trận hình phản bao vây của quân Thát chưa kịp hình thành để mở

một lối đón viện quân lên núi.

Vó ngựa rầm rập, mặt đất rung động, các kỵ sĩ xung phong gào thét điên cuồng,

trước sau trái phải khắp nơi đều là chiến sĩ địch ta lẫn lộn. Ngôn ngữ bất đồng

nhưng tiếng gào thét như dã thú lại tương tự nhau.

Chính Đức trên đỉnh núi nhìn mà máu nóng sôi trào, vô cùng háo hức. Có điều,

trừ phi Dương Lăng phơi thây tại chỗ, bằng không, dù chỉ còn một hơi thở y cũng

không bao giờ chịu để hắn lên ngựa tham chiến.

Đúng lúc này tiếng sấm rền vang, tiếng hô xung phong rung trời, từ phía Phi Hồ

Độ xuất hiện một cánh quân điên cuồng đạp tuyết chạy đến. Đội kỵ binh này giáp

trụ sáng ngời, tất cả đều là đại đao cán dài, người như hổ, ngựa như rồng, bốn vó

chiến mã tung bay, bụng ngựa gần như dán sát mặt đất.

Đội kỵ binh này quân số không nhiều, cùng lắm chỉ hơn ngàn người. Đội hình

lại kéo rất dài, chỉ phi như bay chứ không hề quan tâm đến phối hợp, hơn nữa ngay

cả chiến kỳ cũng không có, tỏ ra là một đội quân rời rạc. Nhưng đối với binh lính

Thát Đát đã mất niềm tin tất thắng thì cánh quân xuất hiện đột ngột này đã triệt để

đánh sập chiến ý của họ: Quân đội tiếp viện của quân Minh đã bắt đầu ùn ùn xuất

hiện!

Dưới sự bảo vệ của hơn ngàn thân binh quyết tử, Bá Nhan cùng các đầu lĩnh

đột phá vòng vây hội hợp với một chi hơn năm ngàn người ngựa từ trên núi kéo về

tiếp viện, lúc này đội thân binh đã tổn thất hơn ba trăm người. Lòng đau như dao

cắt, Bá Nhan biết trận tất tay này đã thất bại triệt để, lúc này còn không rút đi thì sợ

rằng toàn quân đều phải bỏ mạng tại đây.

Tiếng kèn thê lương vang lên, đó là tín hiệu phá vòng vây rút lui của quân

Thát...NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 211 Công Phu Trốn Chạy Vô Địch

Quyển năm - Quần ma loạn vũ - Chương 211 Công phu trốn chạy vô địch

------------------------

Mấy vạn quân Thát Đát liều mạng tập kết về phía Bá Nhan Khả Hãn. Quân số

bọn chúng quá lớn, ý chí liều chết chiến đấu cũng trở nên ngoan cường dị thường.

Quân Minh không thể ngăn trở quân đội Thát Đát tập kết, đành thừa lúc đội hình

bọn chúng đang bị chia cắt mà ra sức đâm chém, cố giết được càng nhiều kẻ địch

càng tốt.

Đội kỵ binh quân Minh vừa phi vội tới cũng đã tham gia vào chiến trường đẫm

máu. "Keng" một tiếng, cây thác thiên xoa trong tay một tên giặc Thát bị thanh đại

đao trong tay viên kỵ sĩ phóng nhanh đến thuận thế choảng trúng, một sức mạnh

không thể chống nổi hất tung thanh xoa bay xa hơn hai trượng.

Kỵ sĩ thứ hai đã đến. Lưỡi đao chĩa nghiêng về phía trước, mượn sức xông tới

của khoái mã, dễ dàng vót lấy đầu tên Thát Đát đã mất binh khí. Thi thể không đầu

vẫn đứng sững một lúc rồi mới phun máu ào ào, ngã oặt xuống đất.

Đang ở tư thế gò ngựa nghênh chiến, giặc Thát tự biết không thể đấu sức với kỵ

mã quân Minh đang mượn sức ngựa lao tới. Dưới tình thế cấp bách, có mấy tên

Thát Đát bèn phóng thương và kích trong tay phóng lao, mấy tên đứng xa hơn thì

vội vã giương cung lắp tên bắn liên tục mấy mũi tên nhằm ngăn trở bớt thế xung

phong của quân Minh.

Song bọn chúng còn chưa vững vị trí, thì kỵ binh đằng sau lại ùn ùn kéo qua,

dẫn đầu là một viên tướng lĩnh mặt thanh mày tú, chính là Kinh Phật Nhi. Vốn hắn

phụng mệnh thủ ở Phi Hồ Độ phòng ngừa có người bám theo Đoá Nhan Tam Vệ lénxông qua ải, nay trông thấy trên Trường Thành có khói lửa truyền tin, hắn bèn lập

tức ra lệnh quân bảo vệ Phi Hồ Độ cảnh giới toàn diện, đề phòng giặc ngoài xâm

nhập. Nhưng sau đó lại thấy trên đỉnh Bạch Đăng đốt lửa hiệu, hắn mới phát hiện có

điều không ổn.

Tuy trên núi Bạch Đăng có trang bị lửa hiệu, nhưng vốn không có cơ hội dùng

đến, trang bị chẳng qua cho có mà thôi. Cho dù binh mã Bá Nhan có mạnh cỡ nào

cũng không thể trong khoảng thời gian ngắn như vậy mà có thể xông qua quan ải

Trường Thành, ùa tới núi Bạch Đăng. Còn nếu Di Lặc giáo tụ tập dân chúng làm

loạn, vây công núi Bạch Đăng, thì chỉ cần năm nghìn nhân mã trên núi và bảy nghìn

phục binh cất giấu trong thành Đại Đồng là đủ để tiêu diệt bọn chúng cả chục lần.

Vậy, đã xảy ra chuyện gì khiến núi Bạch Đăng phải nổi lửa hiệu báo nguy?

Phản ứng đầu tiên của Kinh Phật Nhi chính là "Đoá Nhan Tam Vệ giả trá!". Bọn

chúng dẫn quân lên núi ký kết minh ước là giả, thí vua giết chúa mới là thật. Ngoài

năm nghìn tinh binh của Đoá Nhan Tam Vệ ra, còn ai có thể nhanh chóng uy hiếp

đám quân Minh cố thủ trên đỉnh núi đến như vậy? Thế là Kinh Phật Nhi không cần

nghĩ ngợi gì, tức tốc dẫn hơn nghìn huynh đệ của hắn điên cuồng chạy về cứu giá.

Khi đến chân núi trông thấy trận chiến thảm liệt đang xảy ra trước mặt, Kinh

Phật Nhi cũng giật nảy người. Ở đâu ra mà nhiều quân Thát Đát như vậy? Song lúc

này hắn cũng không có thời gian đi hỏi nhiều đến thế; nếu hai bên đang chém giết,

mình cũng đừng khách sáo gì hết mà xông lên giết người mới là chính đạo.

Trong tay Kinh Phật Nhi là một thanh đại khảm đao sống dày. Hắn đâm mạnh

thanh đao tới trước, đại đao lướt qua ngực một tên tướng lĩnh Thát Đát vận giáp sắt

hộ thân, tia lửa bắn lên, áo giáp hộ thân thủng một lỗ lớn kinh người, tức thì thịt

bong máu vãi.

Nhát đao này vẫn chưa trí mạng, nhưng viên tướng lĩnh đó bị đâm ngã xuống

ngựa, đang lăn mấy vòng trên đất. Không đợi hắn kịp bò dậy, vó ngựa cất lên rầm

rầm đã đạp lên người hắn phóng qua. Tiếng la thét lẫn thân người giãy giụa chỉ kéo

dài trong nháy mắt, khi một chiếc vó ngựa to bằng chiếc bát khác đạp lên lưng hắn,

hắn đã không còn chút phản ứng.Từng thanh đại đao điên cuồng vung chém, như bổ dưa thái rau, tước đi máu

thịt một cách vô tình, mỗi khi ánh đao loé xuống, liền có máu tươi bắn lên.

Cuộc đại hỗn chiến đã bắt đầu. Khắp trên mảnh bình nguyên dưới núi Bạch

Đăng là người với người. Toàn bộ vũ khí công kích tầm xa như cung tên, thương

giáo, đều đã mất tác dụng, tất cả mọi người chỉ có thể nhặt lấy đao kiếm, đoản kích

tìm lấy đối thủ mà đánh tay đôi. Đầu người lăn lông lốc, tay cụt bay tứ tung. Tiếng

rên la rợn óc, tiếng vó ngựa hãi hùng, y hệt như chốn Tu La địa ngục.

Đến tận lúc này, Dương Lăng mới có thể thở phào nhẹ nhõm. Y lật đật chạy tới

trước mặt Chính Đức, sụp người quỳ xuống, vui sướng bẩm:

- Chúc mừng Hoàng thượng! Hoàng thượng ngồi trong màn trướng bày kế,

điềm tĩnh chỉ huy, khiến cho Bá Nhan không trộm được gà. Lần này quả thực hắn

đã lỗ vốn lớn rồi!

Khuôn mặt tuấn tú trắng trẻo của Chính Đức cũng bị khói hun như vẽ bùa, hai

con mắt đỏ ngầu, nhưng lại trông rất vui vẻ. Hắn vội bước tới đỡ Dương Lăng dậy,

hớn hở:

- Dương ái khanh mau đứng lên đi. Dưới núi là hai lộ viện binh nào vậy? Bọn

họ đến kịp thời như vậy, trẫm nhất định sẽ ban thưởng hậu hĩnh!

Không bỏ qua cơ hội tốt, Trương Vĩnh và Miêu Quỳ cũng lật đật bước lên ra

sức nịnh hót Hoàng thượng một hồi.

Vừa rồi đám người Hoa Đáng thấy đỉnh núi suýt bị công chiếm, tim cả bọn đã

nhảy lên tới cuống họng. Bọn họ thừa biết đã trúng kế hoãn binh của Dương Lăng,

bị dụ dốc hết tinh binh giúp y giữ núi đợi đại quân tới bao vây Bá Nhan. Thực ra là

Hoàng đế Đại Minh bị người ta lén tập kích, chẳng qua gặp được vận may mới

chuyển nguy thành an mà thôi.

Song dưới tình thế này, hiện tại Chính Đức là bên thắng lớn, ai dám bước ra nói

toạc sự thật để rước họa vào thân chứ? Hai bên đều biết rõ điều này, không cần phải

nói ra.Dù sao thì ván bài này Hoa Đáng cũng đã đặt đúng cửa, hắn bèn vội dẫn các thủ

lĩnh bước tới nịnh hót Thiên Khả Hãn một lúc.

Ngân Kỳ nguýt Dương Lăng, thấp giọng:

- Số ngài thật tốt đấy!

Vòng vây trùng điệp đã được giải, Dương Lăng như vứt được đá tảng trong

lòng, cảm thấy nhẹ nhõm cả người. Nghe vậy, y không khỏi cười nói:

- Số của bản quan lúc nào cũng tốt cả! Chỉ hại cô nương không thể trở thành

Khả Đôn của Đại Hãn, thật là áy náy quá!

- Ngân Kỳ, lại đây ra mắt Thiên Khả Hãn!- Hoa Đáng cất tiếng gọi nàng, rồi

khom người vỗ ngực bẩm với Chính Đức - Thưa Thiên Khả Hãn tôn quý, đây là

đứa con gái Ngân Kỳ Kỳ Kỳ Cách của thần. Nó đòi đi theo tiểu thần để được yết

kiến Thiên Khả Hãn, thần lo nó thất lễ trước mặt ngài, cho nên mới để nó cải trang

làm thị vệ cận thân.

Nghe cha gọi mình, Ngân Kỳ quay sang hừ với Dương Lăng một cái vô thưởng

vô phạt rồi rảo bước tới trước mặt Chính Đức thi lễ.

Sau một trận hỗn chiến, quân Minh đã xông tới dưới chân núi tụ tập thành một

bước tường người, quân Thát Đát đối diện cũng dần co cụm lại, hai phe phòng thủ

nghiêm ngặt. Dương Lăng bèn bẩm:

- Hoàng thượng, thần xin được xuống núi gặp gỡ tướng soái lĩnh binh một

chốc.

Chính Đức gật đầu đồng ý, Dương Lăng lập tức dẫn hơn trăm tên thị vệ chạy

xuống núi. Lúc này đại quân Thát Đát đã tập kết xong, quân số vẫn còn đông hơn

quân Minh hơn một vạn. Vương Thủ Nhân bày nghiêm thế trận đối địch, đề phòng

Bá Nhan tấn công. Còn bên phía đại kỳ của Bá Nhan, trong làn sóng la hò quái dị,

đại quân Thát Đát cấp tốc rời khỏi chiến trường, chạy như điên về phía Đại Đồng.

Dương Lăng chạy tới bên Vương Thủ Nhân. Trong kinh hai người đã từng quenbiết, lúc này cũng không có thời gian chào hỏi. Vương Thủ Nhân chỉ vội gật đầu tỏ

ý chào, rồi liền tức tốc ra lệnh cho trung quân vẫy cờ truyền lệnh cho đại quân đuổi

theo đánh giết những kẻ địch chậm chân.

Vương Thủ Nhân biết Hoàng đế còn ở trên núi, nên không dám xuất hết kỵ

binh. Hơn nữa cho dù có xuất hết binh lực đi chăng nữa thì quân số vẫn còn thua xa

đối phương, không thể tiêu diệt Bá Nhan hoàn toàn. Mà ngoài thành Đại Đồng còn

có người Thát Đát, hai nhóm quân đó tụ hợp lại thì sẽ càng mạnh không thể chống

nổi. Do đó, hắn chỉ hạ lệnh cho hai vị du kích tướng quân bày thế "đuổi sói ra khỏi

ải" từ xa, giữ lại ba nghìn kỵ binh hộ giá dưới chân núi, còn mình đi theo Dương

Lăng lên núi.

Trông thấy giặc Thát bỏ chạy, Kinh Phật Nhi bèn dẫn quân của mình reo hò

đuổi theo chém địch, muốn gọi hắn trở lại cũng không kịp. Vương Thủ Nhân cũng

không thấy mặt hắn trong đám loạn quân nên cũng không rõ đó là đội viện binh

nào.

Bá Nhan đang tháo chạy, theo lý luận bình thường, truy sát bại binh là cơ hội

hiếm có. Lúc giáp chiến với giặc Thát, quân của Vương Thủ Nhân hung hãn vô

cùng, sao đến khi giặc Thát bỏ chạy hắn lại trở nên cẩn thận như vậy? Dương Lăng

bụng đầy nghi vấn, rất khó hiểu sự thu xếp của Vương Thủ Nhân, cho nên giữa

đường lên núi bèn hỏi luôn.

Vốn Vương Thủ Nhân rất có cảm tình với Dương Lăng. Hắn và Dương Nhất

Thanh thì một an nhàn tại nhà, một bị nhốt trong đại lao, nay được tín nhiệm giao

cho trọng trách như thế này là đều nhờ vào Dương Lăng đứng giữa hoà giải. Đại

học sĩ Vương Hoa đã nhắc tới những chuyện này với con mình, vì vậy khi hắn càng

có hảo cảm với Dương Lăng hơn.

Nghe Dương Lăng hỏi vậy, Vương Thủ Nhân mới cười khó xử đáp:

- Nếu như ti chức đoán không lầm, Cự Lỗ Môn đã lọt vào tay quân Thát Đát.

Với tốc độ của kỵ binh bọn chúng, nếu muốn xông qua ải đột phá vòng vây, không

ai sẽ có thể ngăn cản chúng được. Ưu thế của chúng ta là dựa vào binh lực chiến

đấu trực diện, truy kích địch ở xa hậu phương không phải là sở trường của quân ta.Vả lại, cung đánh trận của giặc Thát bắn xa hơn trăm trượng, đặc biệt là tinh thông

"Mông Cổ đãi xạ pháp"...

Trông thấy Dương Lăng nhíu mày nghi hoặc, hắn bèn giải thích:

- Ý là nói thuật cưỡi ngựa của chúng cao siêu, có thể vừa chạy vừa bắn tên ra

phía sau. Đại nhân, tầm bắn của cung tên chúng ta không bằng giặc Thát, hơn nữa

nếu chúng ta đuổi lên, vừa vặn hứng trọn tên bắn của giặc Thát; còn giặc Thát lại

chạy lên phía trước, vừa khớp tránh được tên của quân ta. Chạy đi chạy lại như vậy,

rốt cuộc bên trốn chạy sẽ giành được thắng lợi, ngược lại bên truy sát sẽ bị tổn thất

lớn. Năm xưa thiết kỵ Mông Cổ viễn chinh các nước, nhờ vào phương pháp giả vờ

trốn chạy này mà đã đánh thắng không biết bao nhiêu trận rồi.

Hơn nữa, ngựa Mông Cổ trông thì thấp bé như vậy, song lại dẻo dai vô cùng.

Nó có thể chạy cự ly xa không cần phải nghỉ ngơi, hơn nữa bất kể giá rét hay nóng

bức thế nào nó vẫn có thể sống được nơi dã ngoại. Kỵ binh chúng ta mới vừa đuổi

tới, giờ đã mệt lử, bất luận là so về nhân số hay chiến lực đều kém hơn địch rất

nhiều. Chẳng qua chúng ta chiếm được địa lợi và nhân hoà, cho nên Bá Nhan mới

không còn lòng dạ nào ham chiến mà thôi.

Vả lại ngựa Mông Cổ cũng không đòi hỏi cao về thức ăn, chốn ở. Bất kể cao

nguyên hoang mạc hay là đồng cỏ đất bằng, ngựa Mông Cổ cũng đều có thể tự tìm

thấy thức ăn. Quân Mông Cổ đánh trận không bao giờ mang theo quân nhu. Một là

bởi chúng dựa vào cướp bóc, dùng phương thức lấy chiến tranh nuôi chiến tranh;

hai là bởi ngựa chúng phần lớn là ngựa cái, có thể cung cấp sữa ngựa để duy trì

cuộc sống.

Người đời chỉ biết binh sĩ Mông Cổ cưỡi ngựa bắn cung đều giỏi, mà không

biết rằng thuật trốn chạy của chúng càng đứng đầu thiên hạ. Giỏi nhất là giết địch

trong lúc bỏ chạy, tiêu hao quân địch mà giành lấy thắng lợi. Bởi vậy cho nên trừ

phi nắm chắc có thể ép chúng quyết chiến trực diện; bằng không bất cứ lúc nào, bất

luận ở đâu binh lực chiến đấu cũng sẽ không bằng bọn chúng. Khi không thể ép

chúng quyết chiến trực diện thì vạn lần không thể đuổi theo.

Dương Lăng nghe mà ấn đường chau lại, chợt bảo:- Nghe Vương đại nhân nói vậy, bản quan khiếp sợ vô cùng. Thảo nguyên sa

mạc là bãi săn thiên nhiên của bọn chúng. Nếu như không khiến chúng tự tàn sát

làm hao mòn thực lực của nhau, thì cho dù quân ta gấp mấy lần quân địch, việc đối

phó với mấy vạn thậm chí mấy chục vạn quân Thát Đát cũng đều phải bỏ ra cái giá

không biết sẽ lớn đến dường nào.

Vương Thủ Nhân mỉm cười:

- Chính là như vậy! Cho nên nếu đã không thể tận diệt Bá Nhan và Hỏa Sư

trong biên cảnh Đại Minh ta, chi bằng để chúng cùng nhau chạy về thảo nguyên.

Chờ diệu kế của đại nhân phát huy hiệu quả, chúng ta lại mời chúng quay lại cũng

không muộn.

Hai người đưa mắt nhìn nhau cùng cười, có cảm giác đồng cảm lẫn mến mộ

giữa những người hiểu biết.

Giữa Đoá Nhan Tam Vệ cùng Thát Đát và quân Minh thường xuyên xảy ra

chiến tranh, cho nên bọn họ hiểu rõ chiến lực và tính cơ động của đôi bên. Vì vậy

khi thấy Bá Nhan dẫn quân đột phá vòng vây, quân Minh đang đuổi theo sau lại có

binh lực thua kém Thát Đát thấy rõ thì Bá Nhan đoán rằng trận này khó mà tận diệt

Thát Đát tại đây.

Có điều quân tinh nhuệ Thát Đát có bốn năm vạn quân, nay cả chết lẫn bị

thương nằm lại đây gần một vạn người. Đối với triều đình nhà Minh thì con số một

vạn người này chẳng là gì, song đối với những bộ lạc thảo nguyên, con số này có ý

nghĩa lớn đến thế nào bọn họ đều biết rõ rành rành. Huống hồ phía trước còn có

quân đội Đại Minh trở về cứu viện, nên đến khi quân Thát Đát thực sự xông được

qua quan ải thì không biết sẽ còn tổn thất biết bao nhiêu người ngựa nữa.

Bên này yếu đi thì bên kia mạnh lên. Được Đại Minh chống lưng, Hoa Đáng

dường như thấy được ngôi báu Đại Hãn Mông Cổ đã vẫy tay gọi mình.

Thế là Hoa Đáng mừng rỡ cáo từ Chính Đức. Bá Nhan rời khỏi quan ải ắt sẽ

chạy không ngừng nghỉ trở về đại mạc, vừa vặn chắn ngay trên đường bọn họ trở về

Đoá Nhan Tam Vệ, cho nên bọn họ phải mau chóng ly khai. Ngoài ra cũng cần phảitrở về để sớm chuẩn bị phòng ngừa Thát Đát lại quay sang cướp đoạt lương thảo

của bọn họ.

Chính Đức đồng ý ngay, sai người lấy năm nghìn lạng vàng ròng, năm mươi

rương tơ lụa và bánh trà được chuẩn bị sẵn trong hang ra tặng cho Đoá Nhan Tam

Vệ. Ba nghìn kỵ binh còn lại của Đoá Nhan mang theo giấc mơ trở thành vì vua của

đại mạc phóng ngựa về phía Phi Hồ Độ dưới sự hướng dẫn của kỵ binh quân Minh.

Sau khi bọn họ đi rồi, Chính Đức bèn gọi Vương Thủ Nhân lại, hỏi rõ nhân

thân của hắn. Khi biết được hắn là con của đại học sĩ Vương Hoa, Thái phó của phụ

hoàng mình, thì Chính Đức không khỏi mừng rỡ bảo:

- Tốt lắm! Quả nhiên hổ phụ không sinh khuyển tử. Ái khanh cứu giá kịp thời,

vây hãm Thát Đát, giúp đỡ xã tắc, sau khi hồi kinh trẫm nhất định sẽ luận công ban

thưởng.

Đoạn hắn sa sầm nét mặt, nghiêm giọng:

- Trẫm cùng Dương khanh bày diệu kế diệt trừ cái hoạ trăm năm. Nay mục đích

phân hoá hai đại thủ lĩnh của Thát Đát đã đạt được; mục đích lập minh hữu cùng

Đoá Nhan Tam Vệ, xua sói đấu cọp cũng đã đạt được. Thế nhưng Tam biên tổng

chế Dương Nhất Thanh đang làm gì chứ?

Trẫm có rãnh trời Trường Thành chống giữ, trẫm bày binh mười vạn cho quan

ải! Thế mà ngay ngoài thành Đại Đồng này, Bá Nhan lại có thể lùa toàn bộ đại quân

xâm nhập biên cảnh, suýt nữa lấy đầu của trẫm! Dương Nhất Thanh tội không thể

tha! Trẫm nhất định sẽ xử hắn thật nặng!

Thấy tiểu hoàng đế toát sát khí lẫm liệt, Vương Thủ Nhân rùng mình, thầm nhủ

Dương Nhất Thanh tiêu rồi.

Suy nghĩ một lúc, hắn từ tốn thưa:

- Vi thần vốn dĩ bám theo sau đuôi Hỏa Sư, trông thấy khói hiệu nổi lên liền

chạy vội tới cứu giá, cho nên vẫn không rõ tường tận Bá Nhan xâm nhập quan ảithế nào, vốn không tiện xen vào...

Nhưng trong lúc lùng đuổi Bá Nhan, thấy đại quân của hắn không hề có dấu

hiệu gì là vừa trải qua chiến đấu gian khổ mà lại có vẻ dễ dàng tiến thẳng vào trong

quan ải. Thần nghi ngờ trong tướng lĩnh canh giữ biên giới đã có người tư thông

Thát Đát. Dương tổng chế mới vừa nhậm chức liền đã phải lĩnh quân tác chiến, cho

nên quả thật không kịp chỉnh đốn tướng lĩnh phòng thủ các quan ải. Nếu... nếu như

có người mở cửa dâng ải cho giặc, ấy không phải là tội của Dương tổng chế vậy...

Chỉ huy tác chiến bất lực, gây tổn thương lớn là đủ bị tống vào trong đại lao.

Nay Hoàng đế gặp mặt Đoá Nhan Tam Vệ trên núi Bạch Đăng, đã thông báo cho

Dương Nhất Thanh từ trước, chỉ sử dụng năm nghìn tinh binh thuộc Kinh doanh

nhằm đề phòng giặc trong là Di Lặc giáo, còn hắn thì phòng bị giặc ngoài. Thế mà

đại quân của Bá Nha lại vẫn dễ dàng chọc thủng khu vực phòng thủ của hắn, xuất

hiện dưới chân núi Bạch Đăng một cách đường hoàng, suýt nữa đẩy Hoàng đế vào

chỗ chết, chỉ bị chém đầu đã là xử nhẹ tội lắm rồi.

Không dám trực tiếp ra mặt gỡ tội cho ông ta, Vương Thủ Nhân chỉ giải thích

qua rồi nhìn sang Dương Lăng với ánh mắt khẩn cầu. Hiện tại người có thể thuyết

phục được Hoàng đế đại khái chỉ có Trương Vĩnh và Dương Lăng. Hắn không quen

biết Trương Vĩnh, cho nên chỉ có thể trông mong Dương Lăng ra mặt nói hộ.

Ngụ ý của hắn là, đúng là Dương Nhất Thanh là Tam biên tổng chế phụ trách

việc phòng ngự khu vực này, nhưng lần này Bá Nhan xông qua quan ải không phải

là vì Dương Nhất Thanh chỉ huy không giỏi mà là vì có nội gián tiếp ứng; cho dù

Gia Cát Vũ Hầu sống lại cũng không thể sắp xếp đề phòng chu toàn. Chẳng lẽ lại

đem thay hết toàn bộ tướng lĩnh tam quan bằng tâm phúc của ông ta? Nếu thật sự

muốn truy cứu... có lẽ nên truy cứu kẻ đã đề bạt nội gián đi nhậm chức ở biên ải

hiểm yếu mới phải.

Hiểu được ý trong lời của Thủ Nhân, Dương Lăng bèn vội bước tới rỉ tai Chính

Đức:

- Hoàng thượng mới vừa kế vị liền đã lên núi Bạch Đăng thương thảo với Đoá

Nhan Tam Vệ, kết minh tương trợ lẫn nhau, giúp yên ổn Liêu Đông, ấy là công tíchvăn trị to lớn vậy. Tương kế tựu kế, lấy thân làm mồi, dụ giặc vào tròng, lấy ít thắng

nhiều, giết địch hơn vạn, lập nên chiến tích lẫy lừng nhất từ thuở Vĩnh Lạc đại đế

xua quân bắc phạt, ấy là thành tựu võ công vĩ đại vậy.

Dương tổng chế vừa đến biên thùy liền đã kềm chặt Bá Nhan, lại tách một đạo

kỳ binh tập kích sau lưng địch, giúp Hoàng thượng phân hoá Thát Đát, lập được

công trạng lẫy lừng, thật sự là tướng tài khó được. Bá Nhan vượt ải không phải là

tội Dương tổng chế thua trận. Nếu trách phạt quá nặng, khó tránh tổn thương đến

lòng tướng sĩ biên cương, lại khó tránh bá quan trong triều nảy lòng nghi ngờ. Vả

lại bọn họ vốn phản đối Hoàng thượng đích thân tuần thú, nếu làm vậy chẳng phải

sẽ tạo thêm cơ hội cho bọn họ ư?

"Văn trị, võ công"? "Chiến tích lẫy lừng nhất từ thuở Vĩnh Lạc đại đế xua quân

bắc phạt"? Nghe xong hai câu này, Chính Đức vốn thích được nịnh bợ liền hớn hở

mặt mày, vội bảo:

- Ái khanh nói rất phải, suýt nữa thì trẫm đã tự hủy chiến công... à không... tự

hủy trường thành (ý là Dương Nhất Thanh – Ba_Van) của mình rồi. Dương Nhất

Thanh vẫn là tướng tài canh giữ biên cương hiếm có. Có điều chuyện này tuy không

thể làm lớn, song vẫn phải điều tra biên quân tận tường, phàm là kẻ khả nghi đều

phải thay mới hết. Chuyện này trẫm sẽ giao cho khanh làm. Tướng lĩnh canh giữ

biên quan có nhiều gian tế trà trộn vào như vậy, có trời mới biết lúc nào lúc nào sẽ

trở thành đại họa?

Dương Lăng vội gật đầu khen phải. Vương Thủ Nhân nhìn y đầy cảm kích, rồi

xin phép Hoàng đế quay trở xuống núi. Hắn bắt đầu chỉ huy sĩ tốt kiểm kê thương

vong, quét dọn chiến trường, giam giữ tù binh, đồng thời sai người chạy về Đại

Đồng theo dõi tình hình cuộc chiến để quyết định hành động kế tiếp của Hoàng đế.

...

Khi trông thấy lửa hiệu từ phía Đại Đồng, Trung vệ chỉ huy sứ của Thái

Nguyên vệ là Đặng Học Anh liền lập tức chạy vào trong lều soái của Trương Dần

bẩm báo, tiếp đó Tả chỉ huy sứ cùng các tướng lĩnh cao cấp đưới trướng đều giáp

trụ chỉnh tề lần lượt kéo đến lều soái.Trương Dần thầm cao hứng trong lòng. Đã mấy ngày rồi mà Bá Nhan vẫn chưa

thực hiện cuộc tấn công quan ải có quy mô nào, nay lửa hiệu được đốt lên, tám chín

phần mười là đã tập kích quan ải thành công. Khổ tâm sắp đặt bao năm, rốt cuộc

hôm nay đã có kết quả, bảo sao mà hắn không mừng như điên cho được?

Ý định ban đầu của Trương Dần là đóng quân tại chỗ, lẳng lặng ngồi chờ xem

kết quả cuộc chiến. Dương Nhất Thanh điều đại quân của hắn tới, vốn để đề phòng

Bá Nhan tiến đánh quan ải trong lúc Hoàng đế liên kết đồng minh, cho nên chỉ ra

lệnh cho hắn chi viện thành lũy bị tập kích. Nhưng Dương Nhất Thanh không ngờ

đại quân Bá Nhan lại có nội ứng từ trước, dễ dàng đột nhập vào quan ải tiến thẳng

đến núi Bạch Đăng.

Nếu như hai bên quyết chiến giằng co trên quan ải, thì còn kịp phái người thông

tri cho Trương Dần. Đằng này đã Bá Nhan lao thẳng tới chân núi Bạch Đăng rồi thì

Dương Nhất Thanh mới được bẩm báo, thế là ông ta hồn phi phách tán, lập tức điều

động đại quân từ quan ải lại, đồng thời phái quân dịch trạm điều động gấp Trương

Dần về cứu viện. Còn về phần đại quân hắn có đến kịp để cứu giá hay không thì

ông ta cũng chẳng còn thời gian để mà quan tâm nữa.

Khoái mã trạm dịch mang lệnh tiễn của Dương tổng chế còn chưa tới, nội bộ

tướng lĩnh đội quân của Thái Nguyên vệ đã cãi nhau ỏm tỏi. Trương Dần thì cho

rằng cứ nên tuân theo mệnh lệnh của Dương Nhất Thanh, đóng quân tại chỗ chờ

lệnh rồi mới quyết định hành động kế tiếp. Trung vệ chỉ huy sứ Đặng Học Anh thì

lại cho rằng nên làm theo thông lệ, khi có lửa hiệu nổi lên, quân trú đóng lân cận

phải tức tốc tiếp viện quan ải. Tả vệ chỉ huy sứ Quan Dũng thì lại khăng khăng rằng

"tướng ở ngoài trận không nhất thiết phải tuân quân lệnh", nếu lửa hiệu đã nổi thì

nên lập tức chạy về Đại Đồng để phòng bất trắc.

Trương Dần cố ý kéo dài thời gian, dung túng cho hai tướng tranh chấp, còn

mình thì ngồi ngoài xem, chỉ phái thám mã sử dụng khoái mã đi Đại Đồng dò sát

quân tình. Mãi đến lúc tranh cãi gần được một canh giờ, nhận định cho dù bây giờ

có nhổ trại ngay lập tức thì cũng không kịp tiếp viện núi Bạch Đăng, hắn mới bèn

"quyết đoán" làm theo ý kiến của Quan Dũng, khởi binh tiến về Đại Đồng.Đại quân đi được nửa đường thì gặp được quân dịch trạm do Dương Nhất

Thanh cử đến. Các tướng nghe báo Bá Nhan đã công phá quan ải, đang đánh về

hướng núi Bạch Đăng thì hoảng hốt thất kinh, liền gấp rút chỉ huy đại quân chi viện.

Khi đi qua Kháng Hồ Bảo nơi Vương Thủ Nhân tiến vào quan ải, thám mã của

hắn cũng đã đưa tin báo Đại Đồng và núi Bạch Đăng cùng đang bị bao vây, Vương

Thủ Nhân mang tinh kỵ gấp rút tiếp viện núi Bạch Đăng, đại quân của Dương Nhất

Thanh cũng đang trên đường trở về tiếp viện.

Vốn Trương Dần dự liệu rằng quân giữ ải đều là lính bộ nên không thể chi viện

Bạch Đăng kịp thời, giờ hắn nghe nói đội quân chuyên tìm giặc tác chiến ngoài

quan ải của Vương Thủ Nhân đi sau mà tới trước, không ngờ đã chạy tới núi Bạch

Đăng, thì không khỏi cảm thấy bất an trong lòng. Toàn bộ quân sỹ của Vương Thủ

Nhân đều là kỵ binh. Một vạn sáu, vạn bảy kỵ mã tuy thua xa binh mã Bá Nhan về

số lượng, nhưng nếu dùng để giữ núi thì lại dư giả đến thừa. Nếu như bọn họ chạy

đến kịp, diệu kế tìm thắng lợi trong nguy hiểm của hắn nhất định sẽ thất bại trong

gang tấc.

Thấy Trương Dần bồn chồn lo lắng ra mặt, Tả và Trung chỉ huy sứ lại tưởng đại

nhân trung thành tận tụy, lo lắng cho an nguy của Hoàng thượng nên bèn giục binh

mã vứt bỏ quân trang nặng nề, chỉ đeo hành trang gọn nhẹ chạy nhanh tới Đại

Đồng.

Đại quân mới vừa tới con đường chính dẫn tới Cự Lỗ Môn, mọi người đã nghe

thấy tiếng vó ngựa như sấm vọng lại từ xa, dường như muôn ngựa rong ruổi. Đại

quân của Bá Nhan Khả Hãn ra sức tháo chạy về Đại Đồng, tụ họp với đội binh mã

của Hỏa Sư đang công thành trong vô vọng đã cùng trốn chạy đến...NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 212 Một Chiến Thành Danh

Lúc này, chúng ta chỉ có thể hình dung tâm tình của Trương Dần bằng câu

không biết nên khóc hay nên cười. Vì sao đúng vào lúc này đại quân của Bá Nhan

lại trốn về quan ải? Kế hoạch ám sát hoàng đế Đại Minh đã thành công rồi hay sao?

Bất kể thế nào đi nữa, muốn tiếp tục ẩn giấu trước mắt bao người thì mình cũng

chỉ có thể cố gắng ngăn chặn đại quân của Bá Nhan lại. Nếu như Hoàng đế còn

sống thì Bá Nhan chẳng qua chỉ là một con chó săn đã không còn giá trị sử dụng

giống như Dương Hổ, đội quân của hắn bị tống lên thiên đình chính là đại công của

mình, giúp mình che giấu được triều đình càng tốt hơn nữa.

Nếu như Hoàng đế đã chết thì nhân cơ hội này mình chặn giết một mớ quân Bá

Nhan khiến Thát Đát suy yếu, nâng đỡ Ninh vương lên ngôi. Sau đó dựa vào chiến

công và công phò tá để nắm giữ binh quyền, dần dần mình liền có thể ung dung

giành lấy giang sơn. Thật sự cho rằng ta sẽ cắt nhường Cam Túc, Thanh Hải và

Liêu Đông cho thằng ngu như ngươi sao?

Trương Dần cười lạnh lùng, không đợi tướng lĩnh dưới quyền hỏi lệnh đã lập

tức hạ lệnh:

- Đặng chỉ huy nhanh chóng bố trận bán nguyệt cản địch. Quan chỉ huy dẫn

quân chiếm giữ điểm cao bên cạnh khe núi hẹp. Tướng sĩ bản bộ xếp thành phương

trận!

Lúc này quân Thát cũng đã phát hiện cửa quan ải có đại đội quân Minh ngăn

chặn. Đây là lối thoát duy nhất để bọn chúng chạy ra tái ngoại, vượt qua được thì

chính là lên thiên đường, bị chặn lại thì sẽ có nguy cơ toàn quân bị diệt. Giữa ranh

giới sống chết, đám quân Thát Đát đang liều mạng chạy trốn lại nổi lên bản tính

hung hãn, kỵ binh vừa xông lên vừa bắt đầu nhanh chóng tụ tập lại tạo nên trận hìnhxung phong quyết chiến "đầu lợn rừng".

Loại trận hình này tương tự như trận hình tấn công mũi dùi của Trung Nguyên

nhưng đội hình tập trung hơn, gần như ném bừa một hòn đá vào là có thể trúng

ngay một tên lính hoặc một con ngựa. Đàn khoái mã đồng loạt phi nhanh nhằm

mượn xung lực mạnh mẽ phá tan đội hình của quân ngăn chặn chỉ trong một lần

xung phong.

Nhìn thấy uy thế dũng mãnh của địch đến mức này, Đặng Học Anh cũng không

khỏi thầm hoảng sợ, nhưng lúc này cũng không thể lo nghĩ được nhiều nữa. Dưới

sự chỉ huy của hắn, trường thương binh lập tức lao tới cửa khe núi vội vã lập thành

một trận hình chặn đánh có dạng nửa vòng tròn lồi, sâu chín lớp.

Đối phó với làn sóng xung phong điên cuồng của kỵ binh như vậy, biện pháp

tốt nhất của bộ binh là đứng phía sau chiến xa để ứng chiến. Nhưng nhiệm vụ cánh

quân này khi hộc tốc chạy tới Đại Đồng là tiếp viện cho quan ải bị tấn công, hoàn

toàn không mang theo chiến xa để tác chiến trên đất bằng.

Nếu như chỉ dùng bộ binh được trang bị nặng với trường thương cản địch thì

phải lập ba nhóm quân hình tròn cách xa nhau năm sáu trượng, mỗi nhóm xếp thành

mười sáu lớp chiều sâu, mới có thể chặn được đại đội kỵ binh xung phong. Nhưng

lúc này có muốn cũng không còn kịp nữa.

Đội quân Thát Đát đánh úp núi Bạch Đăng vốn định một trận là thành công nên

đều mang theo rất nhiều tên, mỗi người co cả sáu mươi mũi tên nanh sói, bây giờ

trong túi của mỗi người cũng còn lại hơn mười mũi. Còn cách xa, bọn chúng đã

đồng loạt giương cung bắn như vũ bảo, hàng vạn mũi tên bay lên không, khí thế cực

kì đáng sợ.

Đội trường thương binh cùng hô lên một tiếng, lũ lượt cúi sát xuống đất, tay

phải cầm cán thương dài đến hai trượng buộc tua đỏ, đầu cán chống chắc xuống đất,

tay trái cầm lá chắn tròn che đầu. Lá chắn tròn không lớn nhưng binh lính đều cúi

sát xuống đất nên cũng đủ để bảo vệ các phần yếu hại trên người.

Nhưng loạt tên của quân Thát quá mức dày đặc. Hàng loạt tiếng soạt soạt vanglên, dương như mặt đất trắng xóa bởi tuyết đột nhiên mọc đầy một mảng cỏ dại,

những mũi tên có góc độ xảo quyệt vẫn bắn trúng một vài binh lính. Ngay tiếp đó

đoàn thiết kỵ Thát Đát sải vó như rồng phi đã đến nơi.

Loại thương tua đỏ dài đến hai trượng này có sáp ong làm lõi, thân trúc làm

cán, lại quấn thêm nhiều lớp sợi tơ, các lớp tơ này được kết dính bởi nhiều lớp sơn,

cuối cùng lại sơn đen toàn thân. Cán thương kết hợp cương nhu vô cùng chắc chắn,

đao búa tầm thường khó thể làm sức mẻ, có thể chịu được sức mạnh mà không gãy,

không hề thua kém cán thương bằng sắt thép mà lại hơi nhẹ nhàng hơn.

Thiết kỵ Thát đát đã lao tới. Tuy bọn chúng biết rõ là sẽ phải chết thảm nhưng

cũng không còn con đường thứ hai để chọn, thậm chí chỉ cần hơi chần chừ do dự thì

sẽ lập tức bị đại quân cuồn cuộn không ngừng phía sau đụng ngã, giẫm đạp đến

chết. Bọn chúng chỉ có thể xông lên, bất kể trong lòng có sợ hãi, có thật lòng muốn

vậy hay không.

Mũi thương sắc lạnh lấp lánh chói mắt san sát như rừng đâm chếch lên một góc

khoảng 35 độ. Chiến mã còn chưa chạm đến mũi thương thì kỵ sĩ trên ngựa đã tuyệt

vọng hét điên cuồng, dướn mình lên vung đại đao mãnh liệt bổ xuống.

Tiếng "phụp phụp" , "răng rắc" vang lên không dứt bên tai. Đó là âm thanh

trường thương xuyên vào thân thể máu thịt của người lẫn ngựa cùng với tiếng vũ

khí bị sức mạnh khủng khiếp bẻ gẫy. Kị mã trên ngựa rú thảm, lính trường thương

dưới đất chặn đánh kẻ dịch cũng kêu thảm, người ngã ngựa đổ, hoa máu tung tóe.

Tiếng vó ngựa như sấm, đợt kỵ binh thứ hai đã ùa tới trong nháy mắt. Máu tươi

trên không trung còn chưa rơi xuống đất, vó ngựa của bọn chúng đã giẫm đạp

không lưu tình lên thân xác chiến mã và đồng đội vừa ngã xuống. Lại là âm thanh

nặng nề khi trường thương xuyên vào cơ thể và tiếng kêu thảm tuyệt vọng của binh

lính.

Đoàn ngựa đạp đội quân. Nếu như đội quân này là rừng rậm do thương dài,

kích bén tạo thành thì sao?

Quân Thát tràn tới như thủy triều, các chiến sĩ xông vào trước tiên giống nhưsóng nước vỗ vào tảng đá, đột nhiên tung lên không trong tiếng gầm giận dữ rồi

nặng nề ngã xuống tan xương nát thịt. Làn sóng sau lại tiếp tục quyết đoán tràn tới.

Trận địa trường thương dày chín lớp không thể ngăn cản đại quân Thát Đát liều

mạng xung phong. Rốt cục "đầu lợn rừng" cũng phá vỡ được đội hình ngăn chặn rồi

tiếp tục chạy trối chết vào trong khe núi. Xác người xác ngựa ngổn ngang ngoài cửa

khe khiến tốc độ tháo chạy của đại quân Thát Đát hơi chậm lại.

Lúc này quan binh bản bộ của Trương Dần đã chia ra lập thành bốn phương

trận thật lớn ngoài khe núi không ngừng bắn tên vào đám kỵ binh Tatar đông nghìn

nghịt đang tràn tới. Đây là cửa khe núi, Bá Nhan và Hỏa Sư biết rõ nếu như ham

chiến ở đây thì quân Minh đã chiếm được điểm cao ngoài cửa khe núi sẽ có thể ung

dung bố trí, lúc ấy tình hình không thể vãn hồi được nữa. Các đội truy binh cùng

kéo đến thì chắc chắn phía trước Cự Lỗ Môn sẽ biến thành Diệt Lỗ Cốc. Vì vậy bọn

họ không còn lòng dạ nào ham chiến mà chỉ nghiêm lệnh đại quân tăng tốc, cố gắng

vượt qua rừng thương mưa tên càng nhanh càng tốt để xông qua khe núi, rồi hợp

quân với đội quân đang vất vả phòng thủ Cự Lỗ Môn.

"Soạt! Soạt" Lông trắng đầy trời gào thét ào tới. "A! A!" Tiếng kêu thảm thiết

thê lương vang lên từ trong đội ngũ, thân hình những kẻ trúng tên lộ ra nửa mũi tên

với đuôi lông tới tấp ngã xuống ngựa. Kỵ binh phía sau dựa vào lực quán tính tiếp

tục lao mạnh về phía trước.

Binh lính Thát Đát chưa bao giờ phải tham gia một trận đánh hèn nhát như vậy.

Nếu như tác chiến chính diện thì bốn phương trận quân Minh sắp xếp ngoài cửa khe

núi kia hoàn toàn không chống đỡ nổi thế xung phong của kỵ binh. Một khi đã bị

bọn chúng chia cắt, chém gãy soái kỳ và cờ lệnh thì đám quân Minh không còn tổ

chức và chỉ huy chắc chắn sẽ không đủ để chúng tàn sát trong một canh giờ.

Tuy nhiên ai biết triều đình nhà Minh còn có bao nhiêu viện quân đang lần lượt

chạy tới? Ăn gỏi được đám quân này cũng đồng nghĩa với toàn quân bên mình sẽ

phải chôn vùi ở đây. Khoái mã lao nhanh, người ngựa chen chúc, bọn chúng thậm

chí không thể bắn tên phản kích mà chỉ có thể không ngừng xông, xông, xông lên

dưới làn mưa tên và lửa đạn! Liên tiếp có người rơi xuống ngựa, liên tục có ngườimất mạng.

Đám quân Thát Đát xông được vào khe núi đã nhìn thấy quan ải Trường Thành

xa xa trong tầm mắt. Nhưng vẻ mừng rỡ còn chưa kịp hiện lên mặt thì cơn mưa tên

trí mạng từ đội quân của Đặng Học Anh trên điểm cao đã dội xuống đầu bọn chúng.

- Dựng lá chắn! Dựng lá chắn!

Có người hô to bằng tiếng Mông.

Nhưng quân Minh từ trên cao bắn xuống, cho dù một số kẻ đang phi nhanh vẫn

còn kịp lấy lá chắn gỗ hoặc lá chắn bằng thép ra che chắn thì cũng chỉ bảo vệ được

người chứ không bảo vệ được ngựa. Chỉ trong chốc lát, khu vực mưa tên rải xuống

đã máu chảy thành sông.

- Chia quân công núi, đoạt điểm cao đó!

Có người lớn tiếng ra lệnh.

Hai tướng lĩnh Thát Đát gào thét dẫn mấy ngàn binh mã điên cuồng xông lên

sườn núi. Bọn chúng không mong thật sự có thể đoạt được điểm cao này mà chỉ cần

kiềm chế được quân Minh để che chở cho đội quân chủ lực thuận lợi vượt qua khe

núi.

Cưỡi ngựa trên sườn núi bất lợi nhưng chiến sĩ Mông Cổ nhảy xuống ngựa vẫn

thành thạo cung tên. Bọn họ bắn tên nhanh hơn, tầm bắn xa hơn quânMinh, đội

quân của Đặng chỉ huy tạm thời bị ngăn chặn. Đã dùng mạng người tranh thủ được

chút thời gian quý giá, quân Thát không ngừng xông vào khe núi, lao tới Cự Lỗ

Môn như nước lũ.

Quân Thát đã xông vào hơn nửa. Dưới những đợt tấn công không ngừng của

quân Minh, khắp trong và ngoài khe núi đầy xác chết. Truy binh quân Minh phía

sau cũng đã rượt đến. Trương Dần cưỡi ngựa đứng trên một con dốc nhỏ quan sát

tình thế chiến trường, trong tay là một cây trường thương dài trượng tám, cán

thương chống xuống đất. Đột nhiên nhìn thấy cờ xí quân Minh xa xa, Trương Dầnchăm chú nhìn kỹ,một lúc sau trong mắt hắn không khỏi thoáng qua một tia thất

vọng.

Kinh Phật Nhi thúc quân rượt sát theo quân Thát Đát để kiếm chác, nhưng đuổi

được tới Đại Đồng thì ngựa đã đuối. Hắn dùng thanh đại đao sáu mươi cân, thật sự

là quá mức nặng nề, chiến mã không chịu nổi sức nặng của hắn lẫn vũ khí trên cả

quảng đường dài. Hơn nữa hắn dốc toàn lực chạy một hơi từ Phi Hồ độ về núi Bạch

Đăng, chưa hề ngơi nghỉ, nay thực sự không thể đuổi theo giặc được nữa. Vừa thấy

thành Đại Đồng đã được giải vây, hắn liền xuống ngựa vào thành ra mắt bố nuôi

trước. Lúc này đuổi ở phía sau quân Thát chính là binh mã của hai vị thiên tướng

dưới quyền Vương Thủ Nhân.

Truy binh Đại Minh xa xa đã uể oải dừng lại cách một tầm tên giống như vui vẻ

đưa tiễn tàn binh Thát Đát ra khỏi bờ cõi, đâu có vẻ nào nóng lòng báo thù cho

chúa? Nếu bảo ngựa bọn họ đã đuối sức thì sao khi thấy phía trước có quân đội bạn

chặn địch thì họ lại đột nhiên thúc ngựa nhanh chóng chạy tới? Chỉ cần xem tình

hình này, Trương Dần đã biết Bá Nhan thất bại.

Hắn nặng nề thở dài một hơi trong lòng rồi mới lấy lại tinh thần, giơ trường

thương trượng tám lên, mũi thương chỉa về phía trước lẫm liệt quát:

- Ba quân ra hết! Chặt đứt đội quân đoạn hậu của giặc Thát!Giết!

Ra lệnh xong, hắn thúc ngựa dẫn dội thân binh của mình lao ra.

Tuy Trương Dần được xem như một viên nho tướng nhưng tài cỡi ngựa của hắn

quả thực rất tuyệt. Cây trường thương trượng tám như rắn độc phun lưỡi, gạt trái

đâm phải tung hoành giữa trận địa địch, xuyên qua xuyên lại như con thoi, gạt, đâm,

quét, chọc. Thế thương của hắn loang loáng qua lại khó thấy bóng dáng, trong

khoảnh khắc đã đâm ngã năm sáu binh sĩ Thát Đát rơi xuống ngựa.

Mấy trăm thân binh của hắn theo sát phía sau như một thanh kiếm sắc cắt đứt

đường đi của hơn một ngàn quân Thát đi cuối cùng. Chỉ bị trì hoãn một chút thôi,

đại đội quân Minh đã phong tỏa cửa khe núi. Tiếng vó ngựa phía sau dồn dập vang

lên, hai vị tướng quân du kích cũng dẫn hàng vạn kỵ binh nhanh chóng tràn tới.Phía trước là rừng thương um tùm bày trận chờ địch, cung thủ đã giương cung

tên cùng các tay súng hỏa mai ở hai cánh lạnh lùng nhìn bọn chúng chằm chằm. Chỉ

cần vị tướng lĩnh quân Minh đang hoành thương ngăn ở phía trước kia ra lệnh một

tiếng thì tên súng sẽ cùng bắn.

Lúc này tiếng vó ngựa như sấm nổ phía sau cũng càng lúc càng gần.

Thiên phu trưởng Thát Đát Khoát Khoát Đài giật cương cho ngựa chồm lên, cất

cao hai vó trước, khua loạn trên không. Hắn đưa mắt nhìn quanh, đột nhiên không

cam lòng giơ cao mã đao lên, bi phẫn hát to:

- Trời sao xoay tròn, các nước chinh chiến, đến thời gian lên giường ngủ một

giấc cũng không có.

Giành giật cướp bóc lẫn nhau, thế giới quay vòng, các nước công phạt, ngay cả

thời gian chui vào chăn ngủ một giấc cũng không còn.

Tranh đoạt, sát phạt lẫn nhau, không có thời gian mà suy ngẫm, chỉ có dốc lòng

làm việc.

Không có nơi trốn tránh, chỉ có xung phong đánh trận.

(Tinh thiên toàn chuyển, chư quốc chinh chiến, liên thượng sàng phô thụy giác

đích công phu dã một hữu. Hỗ tương thưởng đoạt, lỗ lược. Thế giới phiên chuyển,

chư quốc công phạt, liên tiến bị oa thụy giác đích công phu dã một hữu. Hỗ tương

tranh đoạt, sát phạt, một hữu tư khảo dư hạ, chỉ hữu tận lực hành sự. Một hữu đào tị

địa phương, chỉ hữu xung phong đả trượng ).

Hơn ngàn kỵ binh Thát Đát đầy người vấy máu tươi cùng giơ binh khí lên cao

đồng loạt hát theo, âm thanh thê lương hùng tráng vang vọng trong khe núi mãi

không thôi.

Mặc dù nghe không hiểu lời nhưng qua vẻ mặt và âm thanh của bọn chúng,

toàn bộ binh lính quân Minh đều hiểu được, đều biết rõ hơn ngàn kỵ binh Thát Đát

này đã quyết tâm tử chiến với mấy vạn quân Minh, thề chết không hàng.- Đã đến nơi ta nói sẽ đến, đập vỡ tan từng tảng đá cứng, đã công nơi ta nói sẽ

công, phá hủy từng tảng đá cứng. Chém vỡ núi cao, cắt đứt nước sâu; dũng cảm như

vậy để giết địch, làm cho cả mặt đất biến thành bãi cỏ của người Mông Cổ!

Không có người phát hiệu lệnh. Câu cuối cùng vừa hát xong, tất cả kỵ binh

Mông Cổ không hẹn mà cùng ghìm cương xoay ngựa trở lại; dương đao, đạp chân,

hơi chồm người lên xông tới kỵ binh Đại Minh vừa đuổi tới nơi! Bọn chúng dĩ

nhiên tàn khốc, khát máu, tham lam, nhưng đồng thời cũng đầy tâm huyết, dũng

cảm và cao ngạo. Bọn chúng thà làm anh hùng trên ngựa quyết chiến đến cùng với

đội kỵ binh của một dân tộc khác!

"Đoàng! Đoàng! Đoàng!" Tiếng súng hỏa mai vang lên. Khoát Khoát Đài vừa

xoay người đã bị bốn năm mũi tên đâm sâu vào lưng, máu phun ra theo thân tên,

cùng lúc đó tấm áo choàng bằng da thuộc cũng bị đạn bắn tan nát.

Hắn không nén được giận trợn tròn mắt:

- Vì sao... Vì sao không cho ta chết trận một cách anh hùng?

Khoát Khoát Đài muốn xoay người lại chất vấn quân Minh, nhưng cánh tay lực

lưỡng của hắn không còn sức mạnh để nắm chắc cương ngựa nữa. Thân thể chỉ hơi

lay động rồi hắn trợn trừng mắt, ngã cắm đầu xuống đất...

- Cường đạo chính là cường đạo, cho dù hắn rất dũng cảm... thì chẳng qua cũng

chỉ là một cường đạo dũng cảm. Ngươi đã bao giờ thấy quan binh giết cường đạo

còn phải tuân thủ luật lệ, qui tắc với chúng chưa?

Hai năm sau, tay lính hỏa súng Lỗ Nhị Ngưu đã thăng đến Bách hộ, nghiêm

khắc giảng giải cho tiểu binh dưới quyền về trận chiến này.

* * *

Hoàng đế đã khởi giá trở về Đại Đồng. Dân chúng toàn thành đều đã nghe đến

sự tích anh hùng của thiên tử thiếu niên định ra diệu kế đại thắng thiết kỵ Thát Đát.

Nếu như lúc chen chúc nhìn lọng vàng rời khỏi thành đến núi Bạch Đăng, dânchúng chỉ tràn ngập tò mò với vị thiên tử sống tại Tử Cấm thành kia thì nay, bọn họ

xếp hàng hoan nghênh lại hoàn toàn xuất phát từ nội tâm.

Hoàng đế là đại biểu của người Hán, quang vinh của hắn chính là quang vinh

của tất cả mọi người Hán. Ai không muốn lãnh tụ của mình là một anh hùng có thể

khiến cho mình tự hào và kiêu ngạo?

Quân Thát đã gây ra bao nhiêu tội ác ở vùng biên giới, bao nhiêu người cửa nát

nhà tan, vợ con ly tán vì chúng, bao nhiêu người phải rời xa quê quán, lo lắng hãi

hùng vì chúng?

Đủ loại tin đồn lan truyền rất nhanh trên phố, mặc dù đều rất ly kỳ, thậm chí

hoang đường không hợp logic. Quân số giặc Thát bị giết chết được tăng lên gấp

mấy lần, thậm chí đã vượt qua tổng dân số của cả đại mạc thảo nguyên nhưng trăm

họ đều tình nguyện truyền bá nó, sẵn sàng tin tưởng nó. Ai dám nghi ngờ một câu

sẽ lập tức bị một đám người mắng nhiếc nước bọt văng tung tóe đành ôm đầu chạy

trốn.

Tốc độ Dương Nhất Thanh kéo quân về cứu viện đã tới cực hạn của bộ binh

nhưng chung quy hai chân vẫn không thể chạy nhanh bằng bốn chân. Đến nửa

đường, mấy vạn đại quân đã nhận được tin Hoàng thượng về thành, bộ đội sở thuộc

của ông ta lập tức tới trước cửa thành Đại Đồng nghênh giá.

Đội quân của ông ta cuồn cuộn kéo đến dưới thành Đại Đồng. Vừa nhìn qua đã

thấy quân uy nghiêm chỉnh, giáp trụ sáng ngời, đâu có chút dáng vẻ gì vừa trải qua

một trận huyết chiến? Dân chúng thấy vậy càng tin tưởng lời đồn Hoàng Đế thân

chinh khiến tướng sĩ dũng cãm như hổ như rồng, lấy một địch trăm, lấy một cản

ngàn, Bá Nhan Khả Hãn quăng mũ cởi giáp,vừa nghe thấy tiếng đã bỏ chạy.

Đại vương, Hồ Toản, Dương Nhất Thanh, Đỗ Nhân Quốc cung nghênh thánh

giá tại cửa thành Đại Đồng. Hoàng đế Chính Đức vừa đến nơi, cả bọn lập tức đồng

loạt quỳ rạp xuống đất không dám ngóc đầu. Trên đường đi, lòng Dương Nhất

Thanh tràn đầy tâm sự nặng nề. Ông ta là Tổng chế tam quan, có trách nhiệm phòng

ngự cả chiến khu. Giờ đây Hoàng đế không bị thích khách ám sát mà là toàn bộ đội

quân chủ lực của hoàng đế Thát Đát đàng hoàng tiến vào quan nội đánh giết lên núiBạch Đăng. Thật sự ông ta không nghĩ ra được bất kỳ lý do gì để bào chữa cho

mình.

Loan giá dừng lại, hoàng đế Chính Đức bước tới trước mặt bọn họ. Gương mặt

nhà vua đã được lau rửa sạch sẽ, đương nhiên dáng vẻ chật vật của Hoàng đế vẫn

không thể để cho bề tôi nhìn thấy.

Hai tay được chăm sóc rất tốt của Đại vương chống trên mặt đất trộn lẫn tuyết

bùn dơ bẩn, lão run giọng tâu:

- Hoàng thượng bị tấn công! Hạ thần khó có thể chối tội, xin Hoàng thượng

nghiêm trị!

Hồ Toản, Dương Nhất Thanh, Đỗ Nhân Quốc đồng loạt dập đầu:

- Tội thần đáng chết vạn lần, xin Hoàng thượng trị tội!

Các nhóm tướng lĩnh và quan chức đến nghênh tiếp cùng đồng loạt quỳ xuống.

Mấy vạn đại quân cũng lũ lượt quỳ xuống kính cẩn, không một tiếng động.

Trong đó thật sự lo sợ chỉ có ba người Đại vương, Hồ Toản và Dương Nhất

Thanh.

Không cần phải nói đến Dương Nhất Thanh hiện đang là Tổng chế tam quan.

Hồ Toản là tuần phủ Đại Đồng. Trước khi Dương Nhất Thanh nhận lệnh thống

lĩnh ba quân, việc quân sự lẫn chính trị Đại Đồng đều nằm trong tay lão, quan chức

cấp dưới thiên tổng đều do lão ký lệnh bổ nhiệm. Tuy lão là quan văn, không rành

quân vụ, hai tên phản tặc Vương Hổ, Lý Nghĩa đều do các lão tướng trong quân đội

tiến cử rồi lão mới bổ nhiệm; nhưng lý lẽ này mang ra phân trần với ai được đây?

Còn Đại vương thân là biên vương trấn thủ Đại Đồng. Dù thường ngày không

can thiệp vào việc quân sự lẫn chính trị quá nhiều, nhưng trên danh nghĩa ông ta

cũng là quan chức có cấp bậc cao nhất, hơn nữa vào thời chiến lại có quyền nắm

tướng, điều binh. Trong quân xuất hiện gian tế thì ông phạm tội tắc trách, Hoàng đế

gặp nạn lại đóng cửa thành không cứu càng là tội lớn, làm sao không sợ hãi chođược?

Lúc bước xuống kiệu, Chính Đức đang cực kì vui vẻ. Vừa nghe mấy lời thỉnh

tội, hắn chợt nhớ lại nỗi nguy hiểm trên núi Bạch Đăng, lập tức sa sầm nét mặt.

Trên đường về, ngồi trong kiệu hắn càng nghĩ càng thấy vui vẻ. Trận này đánh

cho Bá Nhan thảm bại chạy trốn, địa vị Đại Hãn của hắn khó lòng yên ổn được nữa,

ngọn lửa nội chiến dấy lên trên thảo nguyên cũng ít nhất có thể đổi lấy mười năm

an bình cho chốn biên thùy. Hơn nữa có sự hợp tác của Đóa Nhan Tam Vệ, có sự

phân liệt bên trong Thát Đát, nếu như mọi việc phát triển theo đúng trù liệu của

Dương Lăng thì thậm chí ngay trong lúc hắn thống trị giang sơn đã có khả năng

nhất thống đại mạc, đó chính là diện tích của mấy tỉnh cơ đấy!

Chính Đức tuy nhỏ tuổi nhưng cũng biết điều đó có ý nghĩa gì: "khai cương

thác thổ" "mở mang bờ cõi"! Địa vị của hắn trong Tông miếu sẽ vượt qua ông cha

trở thành thánh quân chỉ thua hoàng đế khai quốc! Công nghiệp lớn lao bao nhiêu

đế vương cẩn trọng cầm quyền cả đời cũng không đạt được, còn hắn vừa mới đổi

niên hiệu Chính Đức, trở thành hoàng đế Đại Minh đã làm được rồi.

Tính khí trẻ con, vừa mới hết sợ hắn đã nghĩ đến chuyện hay: không phải Nhất

Tiên rất thích anh hùng hay sao? Không phải cô ấy nói phu quân tương lai của mình

phải là một đại anh hùng đội trời đạp đất, phải có bản lãnh bảo vệ cô ấy, có bản lãnh

bảo vệ trăm họ Đại Minh không bị người khác bắt nạt hay sao? Không phải Trẫm

đã làm được rồi sao?

Ha! Ban đầu cùng Dương Lăng đến Thì Hoa quán, bị đánh một trận được quen

biết Đường Nhất Tiên. Lần này cùng hắn đến núi Bạch Đăng, bị dây đậu với thạch

tín hun nhem nhuốc một hồi lại thu được công lao hiếm có. Y đúng là phúc tướng

của Trẫm. Loại chuyện thua thiệt chút ít mà lợi lộc vô biên như thế này phải nên

xảy ra càng nhiều càng tốt.

Chính Đức càng nghĩ càng thích, lúc xuống kiệu mặt mày vẫn còn hớn hở, nay

vừa nghe đám người Đại vương này thỉnh tội thì nộ khí của hắn chợt bốc lên. Hắn

vừa định phát tác, đột nhiên Lưu Đại Bổng Chùy lớn giọng hô to:- Hoàng thượng bày mưu tính kế anh minh thần võ, đánh bại Khả Hãn Bá

Nhan, kết minh Đóa Nhan Tam vệ, thực là minh quân đương thời, thiên cổ hiếm có!

Ngô hoàng vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!

- Ngô hoàng vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Mấy vạn đại quân đang quỳ gối cùng hô to. Âm thanh chấn động nhà cửa, quả

thực có thể làm chim trên cây phải rơi xuống đất. Tiếng hô chưa dứt, trăm họ xếp

hàng chào đón trong thành cũng nô nức hoan hô theo.

Dương Lăng tiến lên một bước, khẽ ho một tiếng rồi tâu nhỏ:

- Hoàng thượng, toàn thể tướng sĩ biên quân và trăm họ đều đang khen ngợi

công đức của bệ hạ.

Nói xong, y lướt nhìn Đại Bổng Chùy với vẻ khen ngợi. Tuy gã này không biết

chữ nhưng trí nhớ lại tốt. Chỉ cần dạy gã một lần, bất kể có hiểu ý gì hay không thì

gã cũng có thể nhắc lại y chang, không sai chữ nào.

Vừa nghe Dương Lăng nói vậy Chính Đức lập tức hết giận. Chuyện trong quân

xuất hiện gian tế vốn đã không nên để lộ ra ngoài, tránh cho bá tánh hoang mang,

huống chi nếu để mọi người biết công lao này của mình là do đánh bậy đánh bạ mà

thu được thì còn đâu là vinh quang nữa? Không chừng mấy lão già trong kinh lại lợi

dụng việc này mà rêu rao can gián. Tốt nhất vẫn nên xử trí nhẹ nhàng việc này là

hơn.

Nghĩ tới đây, Chính Đức liền đổi qua gương mặt hớn hở, mỉm cười nói:

- Các vị ái khanh đại thắng Thát Đát, có công với xã tắc, nào có tội gì? Nếu

không có Đại vương đốc thúc tử thủ Đại Đồng, không trúng kế dẫn quân ra thành

để tránh bị địch lợi dụng, thì chẳng những Đại Đồng rơi vào tay giặc làm muôn vàn

dân lành gặp nạn mà Trẫm cũng đành phải vội vàng bỏ trốn về kinh.

Còn các tướng như Dương khanh, Trẫm sẽ thưởng phạt phân minh. Cái gọi là

khuyết điểm không che lấp được ưu điểm, công không che lấp được tội. Nào nào!Các vị ái khanh hãy bình thân. Trước hết theo trẫm về thành đã.Tư thông kẻ địch

phản bội tổ quốc đương nhiên phải nghiêm trị, nhưng giờ đây chính là lúc quân dân

toàn thành cùng vui, trước hết cứ gác việc này lại một bên.

Hồ Toản nghe Hoàng thượng chỉ nhắc tới Dương Nhất Thanh và Đại vương,

còn mình thì ngài không hề đề cập tới chữ nào liền biết tám chín phần mười là mình

sẽ phải gánh chịu án oan này rồi. Nhưng hai tướng lĩnh gian tế đó quả thật là do

mình bổ nhiệm khi làm Tuần phủ giám sát quân vụ Đại Đồng, giờ đây Hoàng

thượng chỉ bị kinh sợ chứ không bị nguy hiểm. Quân đội đã đánh bại giặc Thát,

mình được thơm lây nên chỉ bị bãi quan chứ không bị chém đầu đã là ân đức lắm

rồi, còn có gì để nói nữa? Cho nên lão đành lặng lẽ đứng lên không nói một lời.

Tiếng Dương Lăng thì thầm với Chính Đức rất nhỏ, Trương Dần quỳ ở phía sau

không hề nghe thấy, nhưng hắn lại quan sát vẻ mặt của hai người cực kì tỉ mỉ. Thoạt

tiên Chính Đức bất chợt lộ vẻ giận dữ rồi lại lập tức có thể thản nhiên bỏ qua đại tội

lơ là phòng bị khiến cho Hoàng đế gặp nguy hiểm, tất nhiên là vì nghe lời Dương

Lăng. Tầm ảnh hưởng của người này đối với Hoàng đế thật sự là quá lớn.

Kế hoạch mượn tay Dương Hổ ám sát Hoàng đế đã thất bại, kế hoạch mượn tay

Bá Nhan diệt trừ Hoàng đế cũng thất bại nốt. Lần nào trong kế hoạch cũng chỉ xuất

hiện một điều bất ngờ, nhưng chính do một sơ suất này đã làm cho mình thua thiệt

dưới tay người khác, từng bước bị dồn vào thế bị động. Kế hoạch đã được tính toán

tinh vi lại không thể không năm lần bảy lượt sửa đi đổi lại, đúng là không cam lòng.

Là số mệnh của Chính Đức vẫn chưa hết hay là vận may của ta quá kém? Mấy

vạn đại quân của Bá Nhan cũng không thể ám sát được Hoàng đế, xem ra ta phải

thay cung đổi tên rồi. Không thể giải quyết Chính Đức để phò trợ Ninh vương thuận

lợi kế vị thì ta sẽ khơi dậy dã tâm của Ninh vương, khiến cho thời Đại Minh lại diễn

màn kịch chú đoạt quyền cháu lần nữa.

Nghĩ tới đây, Trương Dần lặng lẽ đánh giá Dương Lăng. Hắn thầm nghĩ:

"Người này rất được Hoàng đế tin cậy, có uy tín với Hoàng thượng. Thay vì hao hết

tâm tư diệt trừ y mà không được thì tại sao ta lại không thể lợi dụng y? Dương Hổ

là đệ nhất hảo hán Bá Châu, Bá Nhan là tay kiêu hùng đại mạc mà ta còn có thể lợidụng lòng tham của chúng để đùa bỡn chúng trong lòng bàn tay, chẳng lẽ ta lại

không lợi dụng nổi Dương Lăng? Người có ưu điểm sẽ có nhược điểm! Y thích

quyền, thích lợi, thích danh hay là thích sắc?"

Trương Dần cẩn thận suy tính các thông tin đã biết về Dương Lăng. Hắn khẽ

gật gù: "Người này tuổi trẻ đã được quyền cao chức trọng, chắc chắn những điều y

thích không ngoài quyền, sắc! Y có thể cõng vợ tìm thầy thuốc, kháng cự thánh chỉ,

hiển nhiên là tính khí thiếu niên, hết lòng yêu mến phụ nữ, người như vậy lại không

khó đối phó. Có lẽ ta có thể sắp đặt một tai mắt đáng tin cậy bên cạnh y. Cho dù

không thể có ảnh hưởng đối với y thì cũng nhất định có thể giúp cho ta nắm giữ

những việc cơ mật của triều đình."

Mặt không đổi sắc, Trương Dần ngẫm nghĩ: "Thạch lựu quần hà túy an miên,

tỉnh thời do ức tiểu man yêu. (Rượu say ngủ dưới chân nàng, thức thời tưởng đến

chiếc eo thon mềm). Hoàng đế có thể cho y quyền lợi, còn bản giáo lại có đầy mĩ cơ

tuyệt sắc. Đối phó với tay quyền thần trẻ tuổi như vậy thì lấy sắc đẹp dụ dỗ làm

nước cờ đầu là thỏa đáng nhất!"NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 213: Đụng Độ Quyết Liệt

Quân Thát Đát lúc đến hùng hổ bao nhiêu thì lúc rời đi lại tàn tạ thê thảm bấy

nhiêu. Quân của Bá Nhan bị thiệt hại nặng nhất, tổn thất quá nửa. Vốn Bá Nhan

tưởng rằng Hỏa Sư sẽ làm ầm lên vì lúc hắn tấn công Đại Đồng không hề được ai

tiếp ứng, nào ngờ chẳng những Hỏa Sư không một lời oán thán mà còn giúp Bá

Nhan vận chuyển thương binh. Ngoài ra hắn còn chủ động cung cấp thịt chiến mã

đông lạnh cho quân của Bá Nhan và những bộ lạc khác, lại tích cực đề nghị để quân

bản bộ của mình đoạn hậu. Hàng loạt cư xử rất biết điều như vậy khiến Bá Nhan

cảm thấy rất phiền muộn.

Chủ tướng Dương Nhất Thanh và phó tướng Vương Thủ Nhân đều nhất trí với

nhau rằng tuy giặc Thát đại bại nhưng cũng không thể đuổi tận giết tuyệt. Tuy

nhiên, thừa cơ phần lớn quân lính Thát Đát đều bị thương, lại không còn lương thảo

dự trữ, nếu điều một đội quân hung hậu truy kích, khiến chúng phải gấp rút lui

quân, không cho chúng thong dong thu binh, thì quân số của địch bị suy giảm do

thương tật và đói khát sẽ gia tăng gấp bội.

Vì vậy Dương Nhất Thanh bèn phái vài đạo quân, di chuyển cách nhau vài dặm

để dễ tiếp ứng lẫn nhau, truy đuổi theo tiêu diệt những đám tàn binh nhỏ. Nếu bắt

gặp chủ lực quân Thát Đát thì các đạo quân này cùng tiến hành bao vây, khiến quân

địch không thể không lặn lội hành quân trong tiết trời giá lạnh suốt ngày đêm gấp

gáp rút về sa mạc. Dọc đường xác người chết đói rải rác khắp nơi, binh lính Thát

Đát bị thương không được nghỉ ngơi chữa chạy cũng ngã lăn ra chết vô số.

Toàn thành Đại Đồng đầy hoan lạc. Hoặc thân sĩ nổi danh thết tiệc mời tướng

lĩnh đóng quân, hoặc phủ Đại vương đãi tiệc khoản đãi các đạo viện quân, hoặc các

tướng lĩnh tác chiến có công mời tiệc lẫn nhau, hoặc nhà dân tổ chức ăn mừng. Mọi

quán rượu lớn nhỏ trong thành đều đông nghẹt tửu khách.Tất cả những hoạt động chúc mừng này, đương nhiên mục tiêu hướng đến cuối

cùng chính là đương kim hoàng đế. Nhưng lúc trở về thành, ở nha môn tuần phủ

đón nhận Đại Vương và đám quan lại chúc mừng xong, tiểu hoàng đế liền lập tức

quay trở lại dịch quán rồi đóng cửa không ra. Ngay cả Đại Vương tự mình đến mời

dự tiệc cũng bị từ chối, thử hỏi còn ai có đủ tư cách mời Hoàng đế đến dự tiệc nữa?

Hoàng đế không đến, nhưng cũng phải khéo léo báo cho thiên tử biết lòng

thành của mình chứ! Thế là ba vị "sủng thần trước mặt hoàng thượng" là Dương

Lăng, Trương Vĩnh và Miêu Quỳ liền trở thành đại biểu của Hoàng đế, phải "đi sớm

về muộn", uống đến khi mặt trắng như Tào Tháo cũng thành mặt đỏ như Quan

Công mới có thể trở về.

Danh tiếng Dương Lăng trong quân đội không nhỏ, y lại không hề cậy thế

khâm sai mà kiêu ngạo. Trên bàn tiệc lúc nào y cũng khiêm tốn lĩnh giáo bản lĩnh

đánh trận và tìm hiểu quân tình Thát Đát. Nhờ thế đám tướng lĩnh tay nắm binh

quyền nhưng văn hóa kém được cơ hội hiếm hoi thỏa mãn thói hư vinh trước mặt

thượng quan, nên bọn họ lại càng có cảm tình với Dương Lăng.

Dương Lăng học hỏi được không ít kinh nghiệm từ các lão tướng cầm quân

phòng thủ biên ải nhiều năm này. Nhất là việc trao đổi cũng giúp y hiểu rõ hơn phần

nào về thái độ và tính tình của những vị tướng lĩnh tại đây. Tương lai khi nắm binh

đánh dẹp sa mạc, ít ra y cũng hiểu được tướng lĩnh nào có thể dùng, tướng lĩnh nào

không, như thế đã có lợi không ít.

Bấy giờ đã sẩm tối, Dương Lăng vừa mới vội vã trở về dịch quán. Hôm nay tổ

chức thết tiệc đãi khách là ba vị tổng binh tam trấn do Đỗ Nhân Quốc cầm đầu. Lúc

chiến tranh, bọn họ cùng đóng quân nơi quan ải tiền tuyến Đại Đồng. Nay Đại

Đồng đã được giải vây, ít hôm nữa hai vị tổng binh sẽ phải trở về nơi trú đóng của

mình, vì vậy cả ba cùng đứng tên thết tiệc khoản đãi các vị khâm sai tuần biên.

Bọn họ có ý muốn kết giao với vị Tổng đốc Nội xưởng, viên quan tâm phúc của

Hoàng đế. Vì vậy ngay sau khi tan tiệc rượu, cả ba phái hơn trăm binh mã đưa y trở

về dịch quán. Loại nghi lễ nghênh đón long trọng như thế này, trước kia cũng chỉ có

Binh bộ thượng thư, lão tướng Lưu Đại Hạ mới được hưởng thụ.Dương Lăng dừng trước phủ, khách sáo chào hỏi mấy câu với đội trưởng đội

quân của ba vị Tổng binh xong rồi mới quay vào dịch quán. Qua khỏi cửa chính, y

liền dồn bước tiến thẳng vào phòng sau. Vừa vén rèm cửa lên, mùi nhang thơm pha

lẫn với mùi thuốc bắc nồng đậm xộc vào mũi, Dương Lăng khẽ nhíu mày bước vào.

Y thấy Đường Nhất Tiên đang nằm trên giường, trên người đắp một chiếc chăn

bông dày. Hai cung nữ được vương phủ tạm thời đưa đến phục dịch thấy y bước vào

vội vàng quỳ xuống làm lễ:

- Xin ra mắt đại nhân!

Chính Đức vẫn cải trang làm hiệu úy, đang nhúng ướt một tấm khăn mặt, cẩn

thận vắt sạch nước. Nhìn thấy Dương Lăng đi vào, hắn chần chừ một lúc rồi cũng

khom người thi lễ:

- Xin ra mắt đại nhân!

Dương Lăng gật nhẹ đầu, hỏi:

- Hôm nay Nhất Tiên có đỡ hơn chút nào không?

- Ưm... Biểu ca tới rồi sao?

Hai má Đường Nhất Tiên nóng đỏ rực, nghe tiếng Dương Lăng nàng bèn mơ

mơ màng màng ngồi dậy. Hai cung nữ vội vàng chạy đến nâng đỡ, khoác một tấm

áo lên vai nàng.

Đang lóng ngóng định chườm khăn ướt lên trán nàng, Chính Đức thấy Đường

Nhất Tiên đã ngồi dậy đành phải đặt khăn vào tay nàng. Đường Nhất Tiên cầm lấy

khăn lau qua khuôn mặt rồi ngồi dựa vào đầu giường, vẻ mặt mệt mỏi khiến mọi

người nhìn thấy đều đau lòng.

Nàng thở nặng nề vài hơi, trông thấy rõ sắc mặt Dương Lăng bèn hỏi:

- Hôm nay biểu ca lại uống... say ư? Đã không thích thù tạc thì anh không nên

đi nữa.Dương Lăng đưa mắt liếc nhìn Chính Đức. Lâu nay, khi xuất hiện trước mặt

Đường Nhất Tiên hắn vẫn đóng vai hiệu úy nên Dương Lăng không thể mời hắn

ngồi, y đành phải tự mình kéo ghế ngồi xuống, cười đáp:

- Đã là người ở trong giang hồ thì không thể theo ý mình được nữa. Có một số

việc dù thích cũng không thể làm, lại có một số việc dù không thích cũng phải làm,

không thể chỉ làm theo ý mình được.

Y rờ thử trán Đường Nhất Tiên, nhíu mày:

- Tại sao vẫn nóng hầm hập như vậy? Không phải đã mời danh y của phủ Đại

vương tới chữa trị rồi sao?

Thừa cơ, Chính Đức bèn tố cáo:

- Cô ấy... cô ấy không chịu uống thuốc! Ti chức đã sắc ba lần rồi, còn bỏ đường

vào nữa, nhưng cô ấy vẫn không chịu uống!

Đường Nhất Tiên lườm hắn, sẵng giọng:

- Lắm chuyện, ngươi còn lải nhải nhiều hơn cả ta. Còn không phải tại thuốc

ngươi sắc quá đắng hay sao?

-...Tôi... !

Chính Đức đảo tròn mắt. Làm sao hắn dám thú thực chính hắn sắc ấm thuốc

đầu cạn khô, hai lần sau đành phải nhờ người khác sắc hộ?

Dương Lăng cười nói:

- Thuốc đắng đã tật! Muội không chịu uống thuốc, cứ để sốt mãi như vậy thì

chịu sao được?

Đường Nhất Tiên ngọt ngào cười đáp:

- Chỉ cảm mạo sơ sơ thôi, anh đừng lo! Chẳng qua em cảm thấy đầu hơi váng

vất, hơi hơi chóng mặt mà thôi, không khác khi uống rượu là mấy; còn cả người đaunhức nữa. Em chỉ cần ngủ nhiều hơn một chút thì sẽ khỏe thôi.

Dương Lăng lắc đầu. Ngồi đây y nhận thấy mùi hương trầm càng lúc càng

nồng, thậm chí ngột ngạt. Lúc này mới để ý trên bàn có một vòng Tạng hương,

Dương Lăng buột miệng hỏi:

- Tại sao lại đốt nhang trong này?

Chính Đức ngượng ngập đáp:

- Cô nương Tiên Nhi chê phòng nồng mùi thuốc quá, nên ti chức mới đốt ít

nhang xua bớt mùi thuốc.

Dương Lăng dở khóc dở cười, giải thích:

- Đừng có chuyện gì cũng chiều con bé như vậy! Tiên Nhi bị cảm lạnh, còn bị

nặng như vậy, trong phòng phải để không khí trong lành thoáng đãng mới tốt.

Không phải cứ ngửi mùi nhang nhiều là tốt cho sức khỏe đâu.

Đoạn y nhẹ nhàng nói với Đường Nhất Tiên:

- Tiên Nhi! Em mau nằm xuống nghỉ ngơi đi, không uống thuốc thì uống nhiều

nước chút, bọn anh ra ngoài đây.

Rồi y quay lại dặn dò hai cô cung nữ:

- Hai vị cô nương, xin thu dọn chén thuốc và lư nhang giúp; mở rèm để không

khí trong phòng được thông thoáng một tí. Sau đó hai cô đặt thêm hai lò than.

Nói chuyện một hồi cũng mỏi mệt, Đường Nhất Tiên liền nghe lời nằm xuống.

Dương Lăng đưa mắt ra hiệu cho Chính Đức, hai người cùng rời khỏi phòng.

Vừa về tới thư phòng, Chính Đức xụ mặt, chán nản:

- Dương thị độc, Nhất Tiên cô nương rất yếu, mà cả ngày vẫn trách ta chẳng

làm được chuyện gì ra hồn. Có phải thật sự trẫm quá ngu ngốc hay không? Ngoài

danh vị hoàng đế này, trẫm chẳng có cái gì để khoe với nàng... Chà! Giá như nàngđối xử với trẫm chỉ bằng một nửa đối với người anh họ là khanh, không biết trẫm sẽ

vui sướng biết nhường nào!

Dương Lăng bất ngờ, không khỏi lắc đầu cười đáp:

- Tuy Hoàng thượng có một hậu, hai phi nhưng xem ra vẫn không hiểu về tâm

tư phụ nữ cho lắm. Nhất Tiên luôn đối xử rất khách sáo với các thuộc hạ khác của

thần, chưa bao giờ ra vẻ đại tiểu thư, nhưng chỉ riêng đối với ngài... Ha ha, đối với

một mình Hoàng hiệu úy ngài, nàng lại gọi đến quát đi; ốm đến mức không mở mắt

ra được mà vẫn còn thích trò chuyện với ngài. Hoàng thượng không thấy lạ sao?

Ánh mắt Chính Đức sáng lên, hắn vỗ tay khen ngợi:

- Đúng rồi! Lời của Dương thị độc khiến trẫm vỡ lẽ. Đúng, đúng, đúng rồi!

Trẫm còn cứ tưởng cô nương Tiên nhi rất ghét trẫm thật, nhưng trưa nay trẫm kể

chuyện nữ hoàng hải tặc cho nàng nghe, nàng lại nghe rất say sưa, còn lôi kéo đòi ta

kể mãi nữa. Ha ha ha...

Chính Đức cười ngây ngô một hồi, bỗng lại buồn bực:

- Đều tại hai tên Bá Nhan và Hỏa Sư chết tiệt, đã tấn công thành trì lại còn kéo

quân vây núi. Bọn chúng hại cô nương Tiên nhi lo lắng ngóng trông trên lầu chờ

chúng ta trở về thành, mới khiến nàng lâm bệnh. Hừ! Truy binh của Dương Nhất

Thanh đã trở về chưa?

Dương Lăng đáp:

- Bẩm chưa! Nhưng lần truy kích này cũng chỉ làm cho ra vẻ mà thôi, nếu tiếp

tục truy đuổi đến cùng thì vấn đề lương thảo sẽ rất khó khăn. Thần sẽ lưu ý để mấy

ngày nữa rồi cho đại quân rút trở về thôi.

Chính Đức còn định nói tiếp thì Lưu Đại Bổng Chùy vội vã chạy ùa vào. Thấy

Hoàng thượng và Dương Lăng đều ở đó, hắn vội vàng quỳ bẩm:

- Ti chức... thần ra mắt Hoàng thượng, ra mắt đại soái...Chính Đức bật cười hỏi:

- Ngươi là thần gì?

Lưu Đại Bổng Chùy đỏ bừng mặt. Hắn gãi gãi đầu rồi ngây ngô cười nói:

- Dạ... Dạ.. Tiểu nhân ra mắt Hoàng thượng, ra mắt đại soái.

Bị hắn chọc cuời, Chính Đức vỗ vỗ bả vai hắn, bảo:

- Đứng lên đi! Không được xưng hô loạn như vậy nữa! Chịu khó đánh mấy trận

thật giỏi cho trẫm, rồi sẽ có ngày ngươi được xưng thần với trẫm! Phải rồi, ngươi

vào đây làm gì thế?

- A! - Lưu Đại Bổng Chùy vỗ đầu, vội đứng dậy gào to: - Có hai vị đại nhân từ

kinh thành tới. Một người là Cốc Đại Dụng, người còn lại là Dương Phương, xin

phép được gặp hoàng thượng!

- Cái gì?

Chính Đức và Dương Lăng đưa mắt nhìn nhau, đều hơi giật mình. Cốc Đại

Dụng đến đây cũng không có gì bất ngờ lắm, nhưng Dương Phương... Chẳng lẽ bá

quan trong kinh thành đều đã biết Hoàng thượng rời kinh?

Lấy lại bình tĩnh, Chính Đức nghĩ bụng lần này mình vi hành đến Đại Đồng,

chính trị quân công đều thu hoạch lớn, đủ để kiêu ngạo với quần thần. Huống hồ

chuyện này náo động đến mức cả thành đều biết, vốn không thể giấu được nữa, bọn

họ biết sớm hay trễ một tí thì cũng vậy thôi.

Nghĩ vậy, Chính Đức thờ ơ hạ lệnh:

- Đi gọi bọn họ vào đây!

Chỉ một lát sau Cốc Đại Dụng và Dương Phương đã vội vã bước vào. Vừa

trông thấy Chính Đức, cả hai vui mừng phủ phục xuống đất, khóc không thành

tiếng:- Thần (lão nô) tham kiến Hoàng thượng, Hoàng thượng bình an vô sự, thật

đáng mừng. Dọc đường bọn thần nghe nói Bá Nhan điều quân bao vây núi Bạch

Đăng, thực hoảng sợ đến hồn bay phách tán.

Chính Đức giang hai tay ra vẻ bất đắc dĩ, đoạn hắn đảo mắt, cười khổ rồi đáp

với giọng châm chọc:

- Trẫm còn chưa thăng thiên đâu, các ngươi khóc cái gì chứ? Vả lại, khi các

ngươi nghe chuyện trẫm bị Bá Nhan bao vây trên núi Bạch Đăng thì ắt hẳn đồng

thời cũng nghe tin trẫm đại phá Thát Đát, khiến Bá Nhan chạy trối chết rồi chứ? Cứ

hồn bay phách tán thế này, các ngươi có thể luyện đến nguyên thần xuất khiếu đấy.

Đang khóc lóc nỉ non thể hiện lòng trung thành nào ngờ lại bị Chính Đức châm

chọc, cả hai nhất thời khóc không được mà cười cũng chẳng xong, cứ đờ người tại

chỗ. Chính Đức ngồi xuống ghế dựa, vắt chéo chân vênh váo hỏi:

- Sao các ngươi lại tới đây? Do Thái hoàng Thái Hậu cùng Hoàng thái hậu bắt

hay là ba Đại học sĩ kia ép các người tới đây?

Tuy trước đây Chính Đức hay làm loạn, nhưng dẫu sao hắn cũng đã được lễ

nghi cung đình hun đúc dạy dỗ từ nhỏ, chưa từng có cái tật xấu đứng không ra đứng

ngồi không ra ngồi thế này. Tật xấu hắn học được từ đám binh lính lúc giả làm hiệu

úy khiến cho Dương Phương (vốn xuất thân từ phủ Chiêm Sĩ, phụ trách việc dạy dỗ

thái tử từ nhỏ) trông thấy mà trợn mắt há hốc mồm.

Thấy lão vẫn cứ thô lố mắt không trả lời câu hỏi của Hoàng thượng, Cốc Đại

Dụng liền trả lời thay:

- Hoàng thượng! Sau khi Hoàng thượng rời kinh, nội cung và ba vị Đại học sĩ

đều muốn giấu diếm việc này, nhưng nhiều ngày liên tục Hoàng thượng không thiết

triều khiến cho trong kinh bắt đầu xuất hiện nhiều lời đồn đại hoang đường.

Lúc đầu ba vị Đại học sĩ cũng không để ý tới, nhưng về sau lời đồn đại càng

ngày càng nhiều, lại còn có người đồn rằng... À, đồn rằng Hoàng thượng tin lời

thêu dệt phía Tây có nhiều mỹ nữ nên cải trang chạy đến Đại Đồng nhằm vơ vét mỹnhân, bỏ bê việc triều chánh cùng giang sơn xã tắc. Ngay cả bá quan trong triều

cũng đã bắt đầu hoang mang. Ba vị Đại học sĩ bèn xin chỉ thị của Thái hoàng Thái

hậu phái lão nô và Dương đại nhân tới đây nghênh đón Hoàng thượng. Xin Hoàng

thượng nhanh chóng hồi kinh nhằm ổn định lòng dân.

Chính Đức đứng phắt dậy, khuôn mặt tuấn tú đỏ bừng. Không nén được giận,

hắn mắng lớn:

- Khốn kiếp! Trẫm đến Đại Đồng là để vơ vét mỹ nữ sao?

Vừa mới định thần lại sau khi chứng kiến tư thế ngồi vô lại của Chính Đức,

chiêm sự Dương Phương còn chưa kịp mở miệng đã lại nghe thấy Chính Đức bồi

thêm một câu thô tục như vậy khiến lão khiếp đảm đến nổi hồn vía lên mây.

Mắng xong, chợt Chính Đức nhớ đến Đường Nhất Tiên. Mặc dù bản thân mình

vì chuyện quốc gia đại sự mới mạo hiểm đến chốn biên thùy đang xảy ra chiến trận

quyết liệt này, nhưng còn tiểu mỹ nhân này... Chà! Thật ra lời đồn đãi cũng không

phải hoàn toàn là bịa đặt. Nghĩ vậy, Chính Đức cũng hơi nhụt chí.

Nhíu mày suy nghĩ hồi lâu, đột nhiên Dương Lăng xen vào:

- Hai ngày trước Hoàng thượng mới khởi hành lên núi Bạch Đăng, lúc đó dân

chúng Đại Đồng mới biết chuyện thiên tử tới đây. Tại sao khi Hoàng thượng mới

rời kinh có mười ngày mà trong kinh đã bắt đầu xuất hiện lời đồn? Lời đồn này do

kẻ nào tung ra? Lời đồn nửa thật nửa giả, không dễ để người ta phân trần, chắc chắn

là do kẻ nào đó cố tình nhiễu loạn nhân tâm rồi!

Nghe y nhắc nhở, Chính Đức giật mình:

- Đúng vậy! Chuyện trẫm rời kinh đã sớm bị mật thám Di Lặc giáo dọ biết,

chắc chắn là do bọn chúng tung tin đồn nhảm! Đại Dụng, trẫm đã ra lệnh cho ngươi

điều tra Di Lặc giáo, có tiến triển gì mới không?

Cốc Đại Dụng vội vàng cung kính tâu:

- Bẩm Hoàng thượng! Lão nô phụng thánh chỉ, không dám chần chừ, lập tức ralệnh đến khắp cả nước để thám mã Đông Xưởng điều tra khắp nơi tìm tàn dư của

đám Di Lặc giáo. Ở Cam Túc, Thiểm Tây, Sơn Đông và kinh thành đều tra ra một ít

phản nghịch gia nhập Bạch Liên giáo, đa số đều là hương thân địa chủ. Dường như

Di Lặc giáo đã thay đổi cách thức thu hút giáo chúng, không còn chỉ nhằm dụ dỗ

những người trong cảnh khốn khổ gia nhập nữa. Lão nô đang tìm hiểu nguồn gốc...

Không muốn nghe lão tiếp tục khoe khoang, Chính Đức không kiên nhẫn phất

tay bảo:

- Trẫm biết rồi! Cứ tiếp tục điều tra, các ngươi hãy ở lại đây đã. Hai ngày nữa,

trẫm sẽ theo các ngươi hồi kinh. Hiện giờ...

Hắn đảo mắt nói tiếp:

- Tướng Vương Hổ trấn thủ phía tây thành Đại Đồng, tướng Lý Nghĩa trấn thủ

tại Cự Lỗ Môn đều là gian tế của Di Lặc giáo. Trẫm thấy bọn chúng không chỉ dụ

dỗ đám hương thân địa chủ đâu mà đã bắt đầu nhắm vào đám quan binh rồi. Trẫm

suýt nữa gặp nạn cũng chính là do đám nội gian này quấy phá. Trẫm thấy thành Đại

Đồng này đã thối nát lắm rồi! Ngươi đến rất đúng lúc, trẫm ra lệnh cho ngươi toàn

quyền phụ trách việc này, lùng bắt hết gian tế cho trẫm!

Phán xong, Chính Đức vội xoay người chuồn đi rất nhanh. Hắn chạy ra khỏi

phòng rồi Dương Phương mới kịp bừng tỉnh. Lão cũng không biết người quan trọng

nhất trong lòng Hoàng đế hiện nay chính là cô gái đang đau ốm nằm trên giường.

Lúc này mà muốn hắn bỏ lại Đường Nhất Tiên để lên đường ngay lập tức hoặc để

Đường Nhất Tiên chưa lành bệnh phải tròng trành ngựa xe về kinh, chắc chắn hắn

không đời nào chấp nhận.

Ngẫm lại lời nói hành vi của Hoàng thượng vừa rồi không hề có phong độ đế

vương, hơn nữa trong kinh thành lòng dân đang hoang mang mà hoàng thượng vẫn

lưu luyến bên ngoài, kiếm cớ không chịu hồi kinh, Dương Phương giận dữ bừng

bừng đổ hết trách nhiệm lên đầu Dương Lăng.

Lão đứng phắt dậy, trợn mắt, chỉa tay vào mắt Dương Lăng quát:- Dương Lăng! Hoàng thượng bị ngươi dụ dỗ nên mới rời kinh phải không?

Ngươi... Ngươi... Ngươi chẳng qua chỉ là một Đô Thống Nội Xưởng, bầy tôi của

Hoàng thượng, lại dám cả gan xúi bẩy người đánh què chân ngựa của ba đại học sĩ!

Đẩy Hoàng Thượng vào tình thế nguy hiểm trên núi Bạch Đăng, mặc dù ngươi

cũng không phải là tướng trấn thủ biên ải, nhưng người khởi xướng không phải

ngươi thì là ai?!

Ngươi chỉ chăm chăm giúp Hoàng Thượng mua vui, xúi giục Hoàng Thượng

lưu luyến bên ngoài, không để ý đến giang sơn xã tắc, không làm tròn bổn phận của

thần tử, tội không thể tha!

Cố dằn cơn giận, Dương Lăng nhẫn nại giải thích:

- Dương đại nhân! Bản quan biết ngài có thành kiến với tôi, nhưng tội lỗi ngài

vừa nêu, thứ cho bản quan không thể nhận. Hiện giờ tôi cũng không ngại nói cho

ngài biết Hoàng thượng lên núi Bạch Đăng là vì muốn liên minh với Đóa Nhan Tam

Vệ. Nhờ bọn họ kiềm chế Bá Nhan, chúng ta mới có thể chỉnh đốn binh lực, tích tụ

lực lượng, tìm kiếm cơ hội ra tay giải quyết đại họa này...

Nghe vậy, Dương Phương cười lạnh, khịt mũi coi thường:

- Bọn man di phương Bắc lấy thảo nguyên sa mạc rộng lớn làm nhà, bọn họ về

đến thảo nguyên giống như rồng về biển lớn. Hoàng đế Hồng Vũ hùng tài đại lược

còn không diệt được Bắc Nguyên, hoàng đế Vĩnh Lạc năm lần xuất quân ra biên

cương không diệt được Ngõa Lạt(1). Còn ngươi tuổi còn nhỏ, văn còn chưa từng thi

đình, võ chưa từng lĩnh ấn cầm binh, chỉ là lộng thần giỏi a dua nịnh hót mà thôi!

Nay ngươi dám xúi giục Hoàng Thượng vi hành phương Bắc, muốn học tên thái

giám gian thần Vương Chấn(2) hay sao?

Dương Lăng đã nhịn lão không chỉ một hai lần, lần này rốt cuộc y không thể

kiềm chế được nữa. Lửa giận ngùn ngụt vượt quá giới hạn, Dương Lăng bèn mượn

hơi rượu, giận tím mặt đốp chát:

- Thôi đi! Côn trùng mùa hè sao biết gì về băng tuyết? Ông chỉ luôn mồm lấychuyện xưa để xét việc nay, không hề có sáng kiến, chẳng qua chỉ là một lão hủ nho

mà thôi. Đúng là thừa hơi tôi mới giải thích với ông.

Theo ý kiến của Dương đại nhân ngài thì ta chỉ cần ngồi đó xem giặc Thát Đát

gây họa là được chứ gì?!

Dương Phương cả giận. Từ trước tới giờ Dương Lăng vẫn luôn ẩn nhẫn, cho dù

lão chủ động gây hấn y cũng không bao giờ tiếp chiêu, không ngờ lúc này lại ngang

ngược chống đối lại như vậy.

Nay hai người đã không nể mặt nhau, lão cũng chẳng cần kiêng dè gì nữa, lên

giọng trách mắng:

- Ngươi có bản lĩnh gì mà dám mạnh miệng nói vậy? Liên minh với Đóa Nhan

Tam Vệ gì chứ? Ngu xuẩn!

Trên đường tới đây, bản quan đã nghe tin ngươi xúi bẩy Hoàng Thượng phong

một gã chỉ huy nho nhỏ của Đóa Nhan Tam Vệ làm Khả Hãn, ngươi để thể diện

triều đình ở đâu? Ngươi còn ra sức mở chợ buôn nơi biên ải! Hừ! Người Man có cái

gì? Ngoài ngựa ra, toàn là áo lông cáo, nhân sâm,... Toàn là những thứ đắt đỏ, nào

phải là những vật dụng quan trọng cần cho phát triển đất nước? Có chợ buôn qua

bán lại như vậy rồi thì chẳng lẽ ngươi định dùng thương mãi để làm giàu cho đất

nước hay sao? Chỗ bạc bị tiêu phí ấy, thà để bổ sung quân lương, cho đại quân ta

khống chế Thát Đát, giương cao uy vũ quân ta, khiến cho bọn chúng không dám tới

xâm phạm bờ cõi còn hơn!

- Vớ vẩn, lý luận suông! Không thực tế, ánh mắt thiển cận! - Không hề nể mặt

lão thần, Dương Lăng mỉa mai đáp trả - Ngài nói bạc ư? Đó là tài sản của những

con dân Đại Minh giàu có của ta. Họ không bỏ ra chi tiêu, chẳng lẽ ngài lại đến

cướp để tăng thêm quân lương?

Bọn họ có nhu cầu, dù ngài không mở chợ, bọn họ cũng sẽ mua bán với giá

cao. Mở rộng thông thương, một là để bày tỏ thiện ý với Ngột Lương Cáp, tăng

cường liên minh; hai là do bọn họ ngoài thiên tài địa bảo ra, không biết tự sản xuất

gì nhiều. Bạc kiếm được vào tay, chủ yếu bọn chúng lại dùng để mua đồ dân dụngcủa Trung Nguyên ta; những nông dân bình thường, chủ những xưởng nhỏ có thể

thu được món lãi từ đó. Đây chẳng qua chỉ là mượn tay quân Đóa Nhan đem mớ

bạc sắp mốc meo trong hầm chứa của những hương thân địa chủ rót vào tay dân

chúng mà thôi.

Cốc Đại Dụng thấy hai người thi nhau nổi điên, nhất thời không chen miệng

vào được chỉ đành ngẩn người đứng một bên.

- Gì?

Dương Phương hơi bất ngờ. Tuy lão thẹn quá hóa giận, nhưng đúng là loại

buôn bán sản xuất thấp hèn này thì quả thật lão chưa từng đặt chân vào nên cũng

chẳng biết phải đối đáp như thế nào, chỉ đành trợn mắt há hốc mồm.

Dương Lăng mượn hơi rượu, hăng hái dấn tới:

- Xuất binh, xuất binh! Còn cần bao nhiêu binh nữa? Ông chỉ nhìn thấy nhiều

tiền trước mắt, nhưng mà số bạc đó không trực tiếp ném thẳng vào túi tiền Đại

Minh ta. Ông có biết muốn xuất binh cần phải tốn biết bao nhiêu tiền bạc hay

không? Không đủ hai mươi vạn kỵ binh mà hòng tiêu diệt được đám thiết kỵ Thát

Đát lẩn trốn khắp thảo nguyên hay sao?

Ngựa từ đâu ra? Mất bao nhiêu bạc mới mua được? Chỉ cần mười vạn kỵ binh

tiến vào đại mạc, đội quân vận chuyển lương thảo quân nhu cũng phải đến ba mươi

vạn người. Vừa đi vừa ăn, ba mươi thạch (120 cân gọi là một thạch) lương thực vận

chuyển đến nơi chỉ còn lại khoảng một thạch, cái động không đáy này Đại Minh lấp

nổi được sao? Nay có thể khiến Thát Đát nội loạn, Đại Minh ta có thể bốn lạng bạt

thiên cân, tọa sơn quan hổ đấu. Việc tốt như vậy cớ sao lại không làm?

- Hả?

Dương Phương cứng họng, lời đầy bụng mà không thể nói ra nổi. Nếu bảo

giảng sách thánh hiền thì lão có thể giảng thao thao bất tuyệt ba ngày ba đêm không

hề trùng lắp, nhưng mà quân sự...Dương Lăng phất tay áo:

- Bản quan vừa mới dự tiệc tiễn biệt hai vị tổng binh đại nhân sắp phải quay về

nơi trú đóng, tửu lượng yếu kém nên không thể phụng bồi. Lão Lưu, tiễn khách!

- Dạ!

Đang đứng gác bên ngoài dỏng tai say sưa nghe đại soái mắng người, chợt nghe

sai bảo Lưu Đại Bổng Chùy liền vội chạy ào vào, hô lớn:

- Tuân lệnh dụ của đại soái, cung tiễn đại nhân!

- Ngươi... nhà ngươi...!

Chòm râu bạc của Dương Phương vểnh ngược, lời mắng chửi nho nhã còn chưa

kịp thốt ra khỏi miệng, Lưu Đại Bổng Chùy đã xốc nách "dìu" lão ra ngoài.

* * *

Dương Lăng và Trương Vĩnh theo hầu thánh giá, công lao lần này cũng không

thể thiếu phần hai vị khâm sai đại thần. Miêu Quỳ lại có công dẫn năm ngàn binh

tung hoành đại mạc, vào sinh ra tử. Hôm nay thấy về phương diện tình cảm tuy

Hoàng thượng đối đãi với Miêu Quỳ không bằng mình, nhưng rõ ràng Hoàng

thượng cũng rất coi trọng tài năng của lão. Nếu mình đến Đại Đồng mà không dốc

sức một phen thì khác nào làm xấu mặt tấm mãng bào ngự ban đang khoác trên

người đây?

Cốc Đại Dụng chấn chỉnh tinh thần, tức tốc ra tay điều tra án phản nghịch ở Đại

Đồng ngay lập tức. Từng buôn bán với Vương Long ư? Bắt hết cả lại! Không nhận

tội ư? Đánh đến chết mới thôi! Từng uống rượu hay đi nhà thổ cùng Vương Hổ ư?

Bắt cả lại!

Người tiến cử Lý Nghĩa chính là Chu Tử Nghĩa, phó tướng trấn thủ biên ải Đại

Đồng. Nay lão đã gần bảy mươi, là người hào sảng, có nhiều bạn thân trong quân

doanh. Lý Nghĩa văn võ song toàn, làu thông binh thư, ở giữa đám tướng lĩnh biên

ải không biết chữ chẳng khác nào hạc trong bầy gà. Vốn Chu Tử Nghĩa còn tưởngrằng mình có mắt nhìn người, đã tiến cử lên triều đình được một thiếu niên hiền tài,

rốt cuộc bị liên lụy phải lê xích vào tù; cả nhà cũng mang tội phản nghịch, bị giam

vào ngục chờ xét xử. Những quan viên có quan hệ mật thiết với lão, cùng những

tướng lãnh từng được lão tiến cử đều bị điều tra.

Tuyên phủ Lý gia ham lợi nhỏ, nhận của đút ghi tên Lý Nghĩa vào gia phả giúp

hắn thuận lợi lẫn vào trong quân, cũng bị sai nha bắt trói, trị tội cả nhà.

Cốc Đại Dụng lại tiếp tục dùng phương cách sưu tra dây mơ rễ má, chẳng

những các tướng lĩnh là bạn thân của phạm nhân đều lần lượt bị nhốt vào ngục đợi

điều tra, mà bạn thân của bạn thân họ cũng bị cách chức điều tra. Yến tiệc mừng

công ở Đại Đồng còn chưa ngơi thì cuộc điều tra rầm rộ diễn ra, một loạt quan lại bị

thanh trừng, bắt bớ.

Lập tức lòng dân chấn động, người người cảm thấy bất an, rất nhiều tướng lãnh

vốn chẳng hề quen biết hai người này, cũng vẫn bị liên lụy. Dương Nhất Thanh biết

rõ cuộc điều tra này thật sự quá phóng đại, nhưng tuy rằng ông được lời của Hoàng

Thượng bảo vệ cho, nhưng tội lỗi vẫn còn đấy không bỏ được, đâu còn mặt mũi nào

đi nói giúp người khác. Huống hồ Cốc Đại Dụng cũng chẳng nợ nần gì ông ta.

Những thập trưởng và bả tổng thủ hạ của những tướng lĩnh bị cách chức hoặc

hoán chuyển này có ai không phải là hảo huynh đệ từng vào sinh ra tử với bậc chỉ

huy? Mặc dù bọn họ không dám công khai thể hiện sự bất mãn, nhưng tỏ ra tiêu cực

đình công tập thể thì vẫn được. Thế nên tinh thần toàn quân thấp đến mức thảm hại.

Tướng lĩnh mới có thể được đề bạt ngay tại chỗ, có khi là đổi cho nhau; đổi

nhanh đến nổi quân còn chưa kịp quen mặt tướng. Quan tướng cũ bị cách chức đột

ngột, rất nhiều sự việc không kịp bàn giao nên mọi việc đều bị bê trễ. Người được

đề bạt tại chỗ thì lại bổ nhiệm người của mình, gây khó dễ với đồng liêu từng có

hiềm khích khiến cho tiếng oán than vang dội.

Hiệu suất chỉnh người của Cốc Đại Dụng thật sự rất cao. Chỉ sau ba ngày, từ hai

nhóm lãnh đạo quân sự, chính trị của Đại Đồng lão đã đào ra được rất nhiều "giáo

đồ Di Lặc giáo". Ngày điều tra đầu tiên, Dương Lăng còn chưa để ý. Đến ngày thứ

ba, nhận được nhiều tình báo do tai mắt đưa tới, y mới hoảng hốt.Cùng lúc đó, những tướng lĩnh trong quân doanh quen biết với y trong mấy

ngày qua cũng đều lần lượt tới cầu xin y biện hộ cứu giúp, lúc này Dương Lăng mới

cảm thấy tình hình không ổn. Các tướng lĩnh đều bị liên lụy, cứ thà giết nhầm còn

hơn bỏ sót thế này chắc chắn nguyên khí đại quân bị tổn thương nặng nề.

Y nhanh chóng đi tìm Cốc Đại Dụng trịnh trọng đề xuất việc này. Ngoài miệng

Cốc Đại Dụng khách sáo đồng ý với y, nhưng trong lòng lại cho rằng Dương Lăng

sợ công lao của chính mình vượt qua y, thế là lão càng làm mạnh tay hơn.

Ngày hôm sau, Dương Lăng thấy lão vẫn tiếp tục việc thanh trừng. Thậm chí

trong đám tướng lĩnh truy kích Bá Nhan chưa thu quân cũng có người bị lão phái bộ

hạ phi ngựa đến áp tải trở về, y không khỏi nổi giận. Lúc này đại quân Bá Nhan đã

lui, việc Cốc Đại Dụng tùy ý làm bậy mặc dù không đến mức gây nên mối tai họa

cực lớn nhưng nếu để dẫn đến binh biến cũng gây nhiễu loạn không nhỏ.

Đến thời điểm này, dù có bất hòa với Cốc Đại Dụng cũng đành chịu, Dương

Lăng lập tức đi gặp hoàng đế Chính Đức tâu báo mọi việc. Vốn Chính Đức cho

rằng Cốc Đại Dụng đang tận tụy làm việc, nào ngờ lão lại gây ra hậu quả nặng nề

như vậy. Nghe xong, hắn mới cảm thấy tình thế quá nghiêm trọng, vội vàng đồng ý

lập tức hạ lệnh cho Cốc Đại Dụng ngừng việc bắt bớ, những ai không có bằng

chứng rõ rệt đều được thả, quan viên được khôi phục chức cũ.

Lúc này Dương Lăng mới thấy yên tâm. Vừa về đến thư phòng y đã thấy Ngũ

Hán Siêu cầm một tấm thiệp mời bước vào. Nhiều ngày nay đại quân bị thanh trừng

quyết liệt, các tướng lĩnh đều cảm thấy bất an nên không ai mời dự yến tiệc nữa.

Dương Lăng hơi tò mò, buột miệng hỏi:

- Ai mời vậy?

Ngũ Hán Siêu đáp:

- Bẩm đại nhân, là thiếp mời của chỉ huy sứ Thái Nguyên vệ Trương Dần, mời

đại nhân xem qua!

Vừa mở thiếp ra xem, Dương Lăng đã tròn xoe hai mắt. Trên tấm thiệp chỉ cóvài dòng chữ ít ỏi, do Chỉ huy sứ Thái Nguyên vệ Trương Dần làm chủ, mời y đêm

đó tới dự tiệc mà thôi. Nhưng danh sách quan viên tiếp khách lại dài giống như tấu

chương đám quan văn trong kinh dâng lên cho hoàng đế, vừa thối lại vừa dài. Trên

danh sách kia, dường như đã bao gồm toàn bộ đám quan viên trước mắt còn chưa bị

bắt giam chờ tra hỏi, quan lớn quan bé khoảng chừng hơn một trăm người.

Trương Dần là tướng lĩnh từ Thái Nguyên điều đến, gian tế xuất hiện trong

quân doanh Đại Đồng không liên quan gì đến hắn. Hơn nữa hắn còn đem binh tới

cứu, ở ngoài cửa Cự Lỗ bắn chết hơn ba ngàn quân Thát Đát, lập được đại công, bất

kể thế nào thì việc gian tế thông đồng với địch cũng không ảnh hưởng đến hắn. Cho

nên hiện tại trong đám tướng lĩnh ở Đại Đồng, danh phận của hắn vô cùng cao vời.

Đây cũng là lý do tướng lĩnh trong biên quân nhờ hắn ra mặt mời Dương Lăng, lấy

cớ hắn sắp rời khỏi Đại Đồng.

Dương Lăng khẽ vuốt danh sách, cười khổ trong lòng: "Cốc Đại Dụng sốt ruột

lập công khiến quan binh trong thành Đại Đồng người người đều như chim sợ cành

cong. Chỉ cần nhìn vào danh sách này há lại không biết yến tiệc đêm nay có dụng ý

gì sao?"

Dương Lăng thầm than rồi quay sang bảo Ngũ Hán Siêu:

- Ra cổng trả lời với người nhà của Trương đại nhân rằng bản quan nhất định sẽ

tới dự tiệc đêm nay!

(1) Bộ tộc Ngoã Lạt (thời Minh chỉ các bộ tộc ở Tây Mông Cổ, bao gồm phía

bắc Tân Cương, Trung Quốc và phía Tây nước Mông Cổ ngày nay)

(2) Vương Chấn (?-1449) là hoạn quan, đại thần nhà Minh trong lịch sử Trung

Quốc. Ông đã thao túng chính trường nhà Minh trong những năm đầu thời Minh

Anh Tông và được coi là người chịu trách nhiệm trong sự biến Thổ Mộc bảo khiến

vua Minh Anh Tông bị bộ tộc Ngõa Thích bắt làm tù binh.

Chú thích:

(1) Bộ tộc Ngoã Lạt (thời Minh chỉ các bộ tộc ở Tây Mông Cổ, bao gồm phíabắc Tân Cương, Trung Quốc và phía Tây nước Mông Cổ ngày nay)

(2) Vương Chấn (?-1449) là hoạn quan, đại thần nhà Minh trong lịch sử Trung

Quốc. Ông đã thao túng chính trường nhà Minh trong những năm đầu thời Minh

Anh Tông và được coi là người chịu trách nhiệm trong sự biến Thổ Mộc bảo khiến

vua Minh Anh Tông bị bộ tộc Ngõa Thích bắt làm tù binh.NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 214: Đêm Khuya Văng Vẳng Tiếng Gió Mưa (Phần 1)

Trương Dần ngồi thẳng lưng, mặt đăm chiêu. Dưới ánh đèn bàn, khuôn mặt góc

cạnh của hắn nửa mờ nửa tỏ, ánh mắt hơi lập loè sau ánh nến. Đứng bên cạnh bàn là

người áo xanh từng xuất hiện trên "Thái Bạch Cư" đang bận trang phục Trung quân.

Mãi một lúc sau, gả áo xanh chợt mở miệng:

- Giáo chủ liệu tính như thần, chẳng những không bị liên đới mà còn lập được

công to, càng có vốn liếng để làm quan trong triều đình. Có điều... nay Cốc Đại

Dụng truy lùng gắt gao, mấy tay thân hào mà bản giáo đang phát triển đều bị bắt cả

rồi.

May là bọn họ tuy truy cầu trường sinh bất lão nhưng lại không bứt thiết một

lòng nhập giáo, cho nên người của bản giáo chưa từng biểu lộ nhân thân thực sự với

bọn họ. Bằng không dưới nhục hình tra khảo của Đông xưởng, những mật thám do

bản giáo cực khổ sắp đặt khó tránh sẽ bị moi ra hết.

Trương Dần cười lớn, giọng đầy đắc ý:

- Vậy thì đã sao? Tranh giang sơn, đoạt thiên hạ làm sao tránh được hy sinh?

Nếu khởi binh tạo phản, chúng ta sẽ phải tổn thất bao nhiêu nhân mã mới có thể xử

lý được bấy nhiêu tướng lĩnh? Bại lộ một hai tay nằm vùng mà có thể khiến cho

triều đình tự hủy đi trường thành của bọn chúng, đáng giá lắm chứ!

Như nay Cốc Đại Dụng gần như hốt sạch tướng lĩnh đóng quân tại Đại Đồng.

Nếu không nhờ lão ta nhiệt tình xử án như vậy, ta thật muốn tặng mấy người đã

được thu nạp vào giáo cho hắn để khuấy cho đục thêm, khiến cho cả Đại Đồng loạn

đến long trời lở đất.

Nói xong hắn thu lại nụ cười, thở dài tiếc hận:- Do thời thế, do số mệnh cả! Tiếc là lão ta tới quá muộn. Nếu lão có thể chạy

tới Đại Đồng khi Bá Nhan còn đang bày binh bố trận ở ngoài thành, rồi làm thành

một tuồng hay như vậy, khi ấy lòng quân tan tác, nhuệ khí sĩ tốt sụt giảm, vị tất Bá

Nhan đã thua.

Gã "Quan trung quân" ngạc nhiên hỏi:

- Nếu đã vậy, vì sao giáo chủ còn đồng ý với mấy tay tướng lĩnh Đại Đồng ra

mặt hộ bọn họ mà bày rượu đãi tiệc, nhờ vả Dương Lăng ngăn trở việc này? Cứ để

lão họ Cốc tiếp tục gây loạn khiến tướng lĩnh Đại Đồng càng oán hận triều đình hơn

nữa, há chẳng càng có lợi cho bản giáo ư?

Trương Dần mỉm cười đáp:

- Không thể được! Ngươi cho rằng Dương Lăng sẽ ngồi yên nhìn Cốc Đại

Dụng tiếp tục làm xằng, gây họa như vậy à? Nếu như ta đoán không lầm, dăm ba

ngày nữa y sẽ ra mặt ngăn cản việc này. Huống hồ cho dù ta không ra mặt thì

Dương Nhất Thanh, Vương Thủ Nhân hoặc Đỗ Nhân Quốc, những tướng lĩnh có

quan hệ mật thiết với y, cũng bị bức bách phải chạy đến gõ cửa cậy nhờ y thôi. Thay

vì đợi đến lúc đó mới thêu hoa trên gấm, sao bằng ta đưa than sưởi ấm ngay lúc

này?

Trương Dần nói xong lại hỏi:

- Đại pháp sư, Nghĩa nhi đã rời khỏi đây chưa? Đi đường an toàn chứ?

"Quan Trung quân" vội đáp:

- Giáo chủ yên tâm! Người của Bá Nhan vừa tiến vào quan ải, nhị công tử và

giáo chúng bản giáo ngụy trang làm hoà thượng Ngũ Đài Sơn đã chia nhau trốn

khỏi rồi. Nhị công tử đồ gọn xe nhẹ, thay dung đổi mạo, đã chạy thẳng đến Giang

Nam. Lúc quân đội phát lệnh truy nã thì công tử đã sớm ở ngoài trăm dặm.

- Vậy thì tốt! - Gò má Trương Dần hơi giần giật, chợt hắn lắc đầu cười khổ -

Nghe nói thằng nhỏ Tử Hào phải lòng tiểu thư nhà họ Liễu. Nếu nó vẫn còn ở lạiđây, biết được ta sai phái Liễu cô nương hiến thân cho Dương Lăng, nhất định nó sẽ

gây rắc rối với ta.

Tử Hào là tên tự của Lý Đại Nghĩa, đại pháp sư áo xanh là nghiệp sư của hắn,

cho nên tình cảm có phần sâu đậm. Nghe vậy, trong mắt liền thoáng hiện lên vẻ

không đành lòng, hắn khẽ thưa:

- Nay Liễu Quang là quan viên khá quan trọng duy nhất của bản giáo ở Đại

Đồng. Chẳng qua lão ta chỉ là một quan Chiếu Ma nho nhỏ của sở Chiếu Ma, không

liên quan đến quân sự. Lão bị dính líu do có người tố cáo, khai nhận lúc Nhị thiếu

chủ còn giữ chức Phó Thiên hộ đã từng đến nhà lão viếng thăm mà thôi.

Nhà họ Liễu có cô con gái dung mạo xuất chúng nên quanh vùng có rất nhiều

thanh niên anh tuấn tài giỏi tới nhà viếng thăm, quan phủ cũng không thể vịn vào cớ

đó mà phán Liễu Quang là người trong bản giáo được. Nếu chắc chắn Dương Lăng

sắp nhúng tay ngăn trở, như vậy chẳng mấy hôm nữa Liễu Quang sẽ được thả ra, sẽ

có thể tiếp tục ở lại Đại Đồng dốc sức cho bản giáo. Nhị thiếu chủ có cảm tình với

đứa con gái Liễu Phi Vũ của lão ấy, nếu giáo chủ làm như vậy, sau này nhị thiếu

chủ biết được, khó tránh sẽ ôm lòng oán hận. Giáo chủ có thể tìm một thánh nữ

khác dâng hiến cho Dương Lăng được không?

Trương Dần đưa ánh mắt sắc bén quét ngang qua khuôn mặt của đại pháp sư

khiến hắn khẽ rùng mình. Trương Dần lạnh lùng bảo:

- Sắc đẹp yêu kiều là mồ chôn anh hùng. Nghiệp lớn của bản giáo chưa thành,

há có thể lưu luyến tư tình nhi nữ? Nó có bao nhiêu đàn bà con gái đi chăng nữa,

miễn là chỉ chơi bời qua đường thì ta đều không quan tâm, song nặng tình như vậy

chính là đại kị!

Ánh mắt Trương Dần lập loè, hắn chậm rãi nói tiếp:

- Cốc Đại Dụng và Dương Phương đã đến đây, chắc hẳn chỉ dăm bữa nữa

Hoàng đế sẽ phải hồi kinh. Hiện ta cũng không còn đủ thời gian tìm một đứa con

gái khác có tư sắc và danh phận thích hợp để chậm rãi mà hành động nữa. Phu nhân

của Dương Lăng xuất thân thợ săn, hai ả thiếp thất lại là thanh quan được chuộc vềtừ kỹ viện. Phi Vũ tốt xấu gì cũng là con gái nhà quan lại, nhân thân có không tôn

quý thì vẫn hơn ba ả đó gấp mười lần. Chỉ cần chiếm được lòng yêu mến của

Dương Lăng, không lo Phi Vũ không giành được sự sủng ái riêng của y.

Vả lại, Dương Lăng là do ta mời. Tuy rằng biên tái chinh chiến quanh năm,

rượu chè, gái gú đã quen thành nếp, nhưng nếu để cho y hợp hoan cùng gái tân

trong cơn mê, sáng mai tỉnh lại ắt sẽ nghi ngờ. Với nhân thân hiện tại của cô nương

nhà họ Liễu, nếu lấy lý do là vì muốn cứu phụ thân khỏi chốn ngục tù nên đút lót tú

bà để lấy thân chuộc mạng cho cha, ấy là hiếu nữ do tình thế ép buộc phải làm như

thế. Lý do có thể chấp nhận được, lúc đó Dương Lăng mới sẽ không nghi ngờ

chúng ta. Hơn nữa có làm như vậy thì toàn bộ chuyện này mới hoàn toàn không can

hệ gì với ta. Cho dù Liễu cô nương ngày sau bị lộ đi chăng nữa, với công lao của ta

và sự bảo hộ của Vũ Định Hầu, không có chứng cứ xác thực y sẽ không thể động

được vào ta.

Đại pháp sư thở dài, nín lặng. Trương Dần giả như không nghe thấy, trầm ngâm

một hồi lâu rồi chợt nhướng mày hỏi:

- Ngươi đã thu xếp ổn thỏa cho cô nương nhà họ Liễu rồi chứ?

Đại pháp sư cung kính đáp:

- Dạ rồi! Đệ tử đã sai người truyền đạt ý chỉ của giáo chủ cho cô ta. Có điều..., -

đại pháp sư hơi thoáng chần chừ rồi nói tiếp, - Dù sao thì cô ta cũng là một thiếu nữ

khuê các, muốn cô ta tự mình tình nguyện chung giường với một gã đàn ông xa

lạ..., thật sự là làm khó cho cô ta. Theo hồi báo của người của chúng ta, tuy bị giáo

lệnh ép buộc nên không dám kháng cự, song vẻ mặt cô ta có phần khác thường.

Trương Dần cười nhạt, vung tay áo bảo:

- Hừ! Hiến thân cho thánh giáo có gì mà phải do dự? Căn dặn người tiếp ứng

tùy cơ mà hành sự, nếu ả không đồng ý thì bỏ thuốc vào trà của ả, đến lúc đó ván đã

đóng thành thuyền, ta xem ả còn phản kháng thế nào!

Đại pháp sư kinh hãi can ngăn:- Giáo chủ! Do thời gian gấp gáp nên không thể để cô ả và Dương Lăng gặp gỡ

một cách tự nhiên, nay cưỡng ép cô ả đã rất không ổn, nếu lại bỏ thuốc vào sẽ càng

khiến cô ả vì chuyện này mà sinh lòng oán hận. Đệ tử sợ rằng cho dù cô ả được gả

vào nhà họ Dương đi nữa, e cũng sẽ không chịu hết lòng làm việc cho thánh giáo.

Vậy há chẳng phải...?

- Ồ...

Trương Dần nghe xong bèn vuốt râu gật gù, cho rằng rất phải. Yên lặng trầm tư

một chốc sau, mắt vụt loé lên vẻ ác độc, hắn hỏi:

- Cha của ả, Liễu Quang, hiện đang bị nhốt ở chỗ nào?

Tuy là tâm phúc của hắn song Đại pháp sư cũng không rõ ý tứ của Giáo chủ,

bèn vội đáp:

- Phiên tử do Đông xưởng điều đến nơi này không nhiều, quan viên bị bắt lại

nhốt chật lao ngục, tra khảo không xiết. Còn loại tiểu nhân vật như Liễu Quang thì

bị nhốt trong đại lao của nha phủ, sai năm sáu phiên tử chỉ huy đám ngục tốt tra

khảo.

Trương Dần cười thâm trầm hỏi tiếp:

- Trong đại lao của nha phủ có người của chúng ta không?

Đại pháp sư nghi hoặc đáp:

- Đại lao... nha phủ có mấy tên ngục tốt nho nhỏ đã được bản giáo thu nạp làm

tín đồ, có điều chức vị thấp hèn, bình thường cũng không dùng được vào việc gì.

Trương Dần bật cười ha hả:

- Bình thường không dùng được vào việc gì, vậy bây giờ sẽ dùng chúng vào

việc. Bảo bọn chúng ra tay giải quyết Liễu Quang. Một khi Liễu Quang chết trong

tay quan phủ, ngươi còn lo Liễu Phi Vũ không tận tâm tận lực làm việc cho bản

giáo hay sao?Lúc này đại pháp sư mới hiểu rõ dụng ý của Giáo chủ. Đón lấy ánh mắt như

ngọn lửa dữ dội của Trương Dần, lòng hắn không khỏi rét lạnh, liền vội hoảng sợ

vâng dạ, không dám nói thêm câu gì.

Để mê hoặc dân chúng, giáo phái Bạch Liên không từ bất kỳ một thủ đoạn nào:

tà thuật, bùa chú, kỳ tích, thầy mo, cầu tài, cầu tiên, đủ loại thủ đoạn. Để khống chế

tín đồ, ban đầu phần lớn kỹ thuật được bọn chúng sử dụng là hù dọa dân đen về

nghiệp chướng gì gì đó để dọa dẫm và đe nẹt. Song bây giờ đã bắt đầu vươn vòi đến

tầng lớp trung thượng, thủ đoạn mỹ sắc cũng được bọn chúng sử dụng ngày một

nhiều hơn.

Di Lặc giáo khổ tâm gầy dựng lâu năm. Mỗi khi có thiên tai, nhân họa khiến

xuất hiện dân chạy nạn, bọn chúng đều tuyển chọn và thu nạp nam nữ thiếu niên

đang chạy loạn gia nhập vào giáo phái, ra sức bồi dưỡng, còn tạo vỏ bọc chính đáng

cho chúng. Những đứa trẻ này lớn lên đều hết sức trung thành với Di Lặc giáo. Nam

thì tham gia vào mọi ngành mọi nghề, bán mạng cho giáo chủ, nữ thì dùng ra những

cô gái có nhan sắc xuất chúng để quyến rũ thân hào địa chủ, rồi sau đó khống chế

bọn họ.

Cách làm của Trương Dần tuy chậm chạm, phải mất mấy mươi năm mới có thể

thấy hiệu quả, nhưng lại rất vững chắc. So với cách ban phát chút ơn huệ rồi lợi

dụng thiên tai để lừa gạt dân chạy nạn tạo phản của bọn phản tặc Đường Tái Nhi và

Từ Hồng Nho của Bạch Liên giáo năm xưa, thì thế lực ngầm mà phương pháp này

đem đến lại lợi hại hơn gấp nhiều lần, và càng khiến quan phủ khó diệt trừ hơn.

Nếu không phải do Dương Lăng sắp phải hồi kinh khiến hắn không kịp điều

những nữ pháp sư, tiên cơ hay thánh nữ được huấn luyện tự nhỏ chuyên dùng để mê

hoặc đàn ông, thì hắn cũng sẽ không cần trưng dụng đến nữ tín đồ vẫn còn lòng tự

trọng và không đáng quá tin cậy như Liễu Phi Vũ.

Thấy tâm phúc của mình cũng hơi lộ vẻ bất nhẫn và chùn lòng, Trương Dần mở

miệng định an ủi nhưng không biết phải nói gì, bèn khoát tay bảo hắn lui xuống

truyền lệnh. Hắn vừa đi khuất, Trương Dần mới uể oải ngả lưng ra sau, dựa người

vào tấm tựa lưng ấm áp bằng vải nhung lạc đà, nhắm mắt thở dài.Hắn nào muốn khiến con mình sinh lòng phẫn uất, nào muốn khiến cho tín đồ

tâm phúc theo mình lâu năm sinh lòng cảnh giác và dè chừng! Nhưng không ngồi ở

vị trí của hắn, bọn họ làm sao biết được vị giáo chủ trông như thần thông quảng đại

không gì không thể làm mấy năm qua đã phải dốc hết tâm huyết, trút cạn tinh lực ra

sao, chịu phải biết bao áp lực nặng nề như thế nào?

Lúc Bạch Liên giáo bị tan rã, cha hắn bị người phe mình chém đầu, cậu thì bị

quan phủ thiêu sống, toàn bộ anh em và vợ con đều bị xử trảm. Bao lần gặp phải

trắc trở, thất bại, bao lần bị đàn áp đẫm máu, lòng hắn đã sớm trở nên sắt đá.

Là quân tử thì không câu nệ tiểu tiết, không tàn nhẫn thì không phải là trượng

phu ("Lượng tiểu phi quân tử, vô độc bất trượng phu"). Công việc mình làm nguy

hiểm mất mạng như chơi, sao mình có thể không cẩn thận từng li từng tí như đang

đi trên lớp băng mỏng chứ? Cứ lòng dạ đàn bà thì sao có thể làm được việc lớn?

Khổ tâm gầy dựng lâu năm, nay thế lực đã phát triển lớn đến như vậy, cho dù cả đời

mình không thể thay đổi triều đại, mình tin rằng triều đình cũng không thể thanh trừ

hết giáo chúng trung thành của mình rải khắp từ nam ra bắc. Rốt cuộc sẽ có một

ngày con cháu mình có thể trở thành hoàng đế, thiên hạ rồi sẽ trở thành thiên hạ của

nhà họ Lý. Vì ngày đó, cho dù có phải thí bỏ nhiều mạng người hơn nữa mình cũng

sẽ không nuối tiếc; huống chi chỉ là một ả đàn bà thì có xá gì?

Nghĩ đến đây, một nụ cười ác độc thoáng hiện bên khóe mép Trương Dần. Hắn

ngồi thẳng lưng lại, ánh mắt khôi phục vẻ tinh khôn, lãnh đạm, chỉ còn sự đam mê

quyền lực cháy bỏng. Hắn nhất định phải phấn chấn tinh thần. Nhờ Cốc Đại Dụng,

đêm nay hắn sẽ chiếm được lòng hàm ơn của hơn trăm vị quan viên lớn nhỏ, đồng

thời sắp đặt được một nữ thần báo tin bên cạnh kẻ bầy tôi được tin yêu nhất của

hoàng thượng.

Hắn chợt mỉm cười, một nụ cười vui sướng: trước kia mình thật ngốc xiết bao,

tại sao lại tìm cách giết y chứ? Chỉ cần một câu nói của y liền có thể cứu vớt an

nguy cho vạn giáo chúng của mình, đẩy mấy vạn quân Minh vào địa ngục. Có một

kẻ như vậy, tại sao không khéo lợi dụng cho tốt?

*****Bên trong trạch viện rộng lớn của Vương Long, bụi bám khắp nơi, âm u lạnh

lẽo. Trước đây, nơi này vốn là cơ ngơi của đệ nhất phú hào Đại Đồng, hàng đêm

vang tiếng sênh ca, rượu gái tràn trề, thế mà chưa tới một tháng đã trông như bị bỏ

hoang phế lâu năm.

Ánh trăng từ ngoài cửa sổ chiếu vào phòng, phảng phất như một dải sương

trong.

Thôi Oanh Nhi nhẹ bước đi lại trong căn phòng rộng rãi trống trải như một âm

hồn trong bóng tối...

Vinh hoa phú quý chẳng qua là mây khói thoảng qua, thanh danh hiển hách

cũng chỉ là đầu đề câu chuyện trong miệng người ta sau khi chết đi. Hoàng đế đánh

bại Bá Nhan dưới núi Bạch Đăng, Cốc Đại Dụng lục soát khắp doanh trại, bắt giam

quan viên vô số. Những chuyện này được bá tánh truyền tụng, thêm thắt say sưa,

còn chuyện của Vương Long như thể đã quá trăm năm, thậm chí tửu khách quen

trong "Hâm Thịnh Lâu" và "Thái Bạch Cư" cũng đã lười nhắc tới.

Nghe nói sắp tới Hoàng thượng sẽ cho mở chợ buôn bán toàn diện, như vậy

triều đình sẽ không cần ép buộc bá tánh Bá Châu phải nhà nhà đều nuôi ngựa nữa.

Bá tánh sẽ có thể trồng trọt, có thể buôn bán với người dân quan ngoại để kiếm tiền.

Loại hoa màu mới mà Dương Lăng nói đó nếu thật sự có thể nhân giống trồng trọt,

cuộc sống của bá tánh sẽ tốt hơn nhiều. Dương Hổ cứ mãi u mê không chịu giác

ngộ, rốt cuộc là muốn làm gì? Ôi, chỉ mong lần này hắn có thể thật sự chuyển ý hồi

tâm...

Thôi Oanh Nhi đang khẽ thở dài, bỗng chợt xoay người. Một tiếng "cheng"

ngân lên, trường kiếm giắt hông nàng đã đâm thẳng về phía cửa sổ.

Hoắc Ngũ Gia nhảy vào nhẹ nhàng như một con báo, thấp giọng gọi:

- Oanh Nhi! Ta đây!

- Ngũ thúc!Thôi Oanh Nhi vội vàng thu kiếm, bước tới chào đón.

Hoắc Ngũ Gia hớn hở:

- Oanh Nhi, cơ hội đến rồi. Hôm nay Trương Dần, chỉ huy sứ Thái Nguyên, đãi

tiệc mời Dương Lăng, đã bao cả "Diễm Vân Lâu", có hơn trăm quan viên văn võ

tham dự.

Thôi Oanh Nhi thoáng ngẩn người, hỏi lại:

- Thế sao lại là cơ hội được? Mấy ngày nay Dương Lăng thù tạc các nơi, những

nơi mà y đến dự đều có hộ vệ như mây. Nay có hơn trăm viên quan tụ tập, phòng vệ

há chẳng càng thêm nghiêm ngặt sao?

Hoắc Ngũ Gia cười đáp:

- Với hơn trăm thân binh và hộ vệ bảo vệ nơi ấy, nào ai ngờ được sau bấy lâu

yên tĩnh sẽ có người vào đúng lúc này, ngay chốn tụ tập đông đảo thị vệ như vậy lại

dám xông vào giết người? Cho nên nhân số tuy đông, nhưng phòng vệ ắt sẽ lơi

lỏng. Vả lại, chính bởi có hơn trăm tên quan viên, tùy tùng của các bên rồng rắn lẫn

lộn, không ai biết ai, chúng ta mới dễ lợi dụng cơ hội.

Danh kỹ trong "Diễm Vân Lâu" rất đông đảo. Đêm nay ăn uống lại có kỹ nữ

hầu rượu, phần đông bọn chúng sẽ ngủ lại qua đêm, đến lúc đó, nha hoàn, tì nữ và

thị vệ nô bộc lui tới như thoi đưa. Bên ngoài tửu lâu có lẽ còn hơi khó vượt qua,

song một khi đã trà trộn được vào trong tửu lâu, chúng ta cứ nghênh ngang mà đi, ai

biết chúng ta vào làm gì chứ?

Thôi Oanh Nhi thoáng giật mình, một nỗi lo lắng mơ hồ dâng lên trong lòng.

Giữa nơi hỗn loạn đó không chừng sẽ thật sự có cơ hội thể hành thích được y. Khi

ấy nếu lại nói dối là mình sẩy tay, Ngũ thúc tuy già nhưng mắt chưa mờ, há sẽ

không nhìn ra được hay sao?

Nàng bèn ấp úng phản bác:

- Ngũ thúc! Lúc này đang là lúc đêm, cửa thành đang có cấm lệnh, trên thànhbinh lính đi tuần không ít, một khi động thủ chúng ta sẽ khó bề chạy trốn. Hay là...

hay là chờ tìm cơ hội khác vậy.

Nói xong cảm thấy hai má mình hơi nong nóng, nàng bèn vội đánh lảng sang

chuyện khác:

- Thúc đã mua đồ ăn về chưa? Oanh Nhi hơi đói rồi.

Hoắc Ngũ Gia liếc nhìn nàng với vẻ nghi hoặc. Lợi dụng kẽ hở giữa đám tuần

binh mà lặng lẽ trốn lên tường thành, với thân thủ hai ta há có thể bị bọn lính đó

phát hiện? Sau đó lại dùng móc câu để trốn ra khỏi thành, bọn chúng biết tìm bắt

chúng ta ở đâu? Xưa nay Oanh Nhi làm việc luôn rất lớn mật, sao giờ lại...

Lão thấy nghi hoặc trong lòng song không tiện hỏi. Nghe bảo đói bụng, lão bèn

lôi từ trong ngực ra một bọc gói lá sen, bên trong là tấm bánh bao nhân thịt vẫn còn

nóng hôi hổi, đưa cho Thôi Oanh Nhi. Thôi Oanh Nhi vờ như đang rất đói, vội vã

bước qua một bên, mở bọc lá ra ăn.

Khi quan phủ niêm phong Vương phủ, mọi đồ vật quý giá đều bị dọn sạch

nhưng chăn mền và vật dụng thông thường vẫn chưa bị xử lý, do đó việc nghỉ ngơi

buổi tối của hai người cũng không thành vấn đề. Bầu trời chìm sâu vào trong bóng

tối, Thôi Oanh Nhi ngồi xếp bằng trên đầu giường, nhớ lại ánh mắt nhìn mình một

cách kỳ dị của Ngũ thúc, nàng chợt có cảm giác như ngồi phải bàn chông. Khó

trách Dương Hổ nói bậy nói bạ, hóa ra Ngũ thúc cũng thấy mình như vậy...

Nàng mím môi ngưng vận công, bó gối mơ màng nhìn ánh trăng mờ xuyên qua

song cửa sổ, ngơ ngẩn: " Chẳng qua mình chỉ không muốn giết lầm một viên quan

tốt mà thôi. Hơn nữa hiện nay các giống lương thực mới vừa được đưa vào sử dụng

lẫn việc thông thương mở chợ đều nhờ Dương Lăng dốc sức thúc đẩy. Người này

quả thực là chân quân tử bụng nghĩ sao miệng nói vậy. Nếu như bá tánh đã có

đường sống, chúng ta còn phải tạo phản làm gì? Ôi! Mình nào... nào có tư tình gì

với hắn?"

Đêm khuya tĩnh lặng, ánh trăng như nước, khiến người ta dễ chìm vào suy nghĩ

mông lung. Thôi Oanh Nhi bất chợt nhớ lại cảnh tượng bị Dương Lăng ôm choàng,bám chặt vào mông trong hang động trên núi Bạch Đăng, chợt thấy mông hơi ngưa

ngứa; nụ hôn thoáng qua môi nọ, cái cảm giác tê dại đó dường như vẫn còn vương

vấn trong lòng...

Thôi Oanh Nhi chợt giật mình tỉnh lại, thầm tự mắng một hơi, cảm thấy gò má

nóng bừng, xấu hổ không chịu nổi, bèn nằm xuống kéo chăn trùm kín mặt lại.

Nhưng càng không muốn nghĩ đến, hình ảnh thân mật nọ lại cứ hiện lên, lòng càng

bồi hồi. Nàng bèn thở dốc, bực bội ngồi dậy, ngẩn ngơ một hồi rồi lặng lẽ khoác

quần áo vào, định ra ngoài hành lang dạo bộ một chút.

Hoắc Ngũ Gia ở trong phòng kế bên. Sợ đánh thức lão, Thôi Oanh Nhi rón rén

bước ra khỏi phòng, đi tới bóng khuất nơi cây cột hành lang to tầm một người ôm.

Đang ngắm trăng đến xuất thần, chợt qua khoé mắt nàng cảm giác như có một bóng

đen từ đầu tường đằng xa vụt lướt qua như chim ó.

Thôi Oanh Nhi vụt liếc sang, bóng đen đó vừa vặn biến mất ngoài bức tường,

nhưng nàng cũng kịp nhận được một bóng người vừa vượt tường nhảy ra ngoài.

Thôi Oanh Nhi giật mình thất kinh: "Thám tử? Có người đã phát hiện ra chỗ ở của

chúng ta?"

Nàng tức tốc xoay người, gõ nhẹ cửa sổ phòng Hoắc Ngũ Gia, giọng cấp bách:

- Ngũ thúc! Ngũ thúc! Con Oanh Nhi đây, mau mở cửa!

Trong phòng vẫn lặng ngắt như tờ, Thôi Oanh Nhi cả kinh: "Ngũ thúc là người

từng trải, sao lại ngủ say đến vậy? Chẳng lẽ..."

Nàng phóng tới trước cửa phòng, một tay che mũi, nín thở, tay kia chụm lại như

đao chém nhẹ xuống cửa. Một chưởng ẩn chứa nội lực này vốn có thể bổ gãy chốt

chắn cửa mà không gây nên tiếng động quá lớn, nào ngờ cửa chỉ khép hờ, hai cánh

cửa bung sầm sang hai bên khiến Thôi Oanh Nhi hơi giật mình.

May mà lạc viện này khá lớn, chung quanh không có hàng xóm nào bị kinh

động. Khẽ ngửi nhẹ, thấy trong phòng thoang thoảng hương hoa mai song lại không

giống mê hương, nàng bèn lập tức lắc người vút vào, đứng ở một nơi khuất bóng,nín thở cảnh giác. Một lúc sau, thích nghi với bóng đêm trong phòng, thấy trong

phòng không có người, nàng khẽ gọi:

- Ngũ thúc?

Không có tiếng trả lời, Thôi Oanh Nhi lần mò tới trước giường Hoắc Ngũ Thúc.

Dưới ánh sáng lờ mờ phát hiện thấy trên giường không có người, nàng bèn tìm nến

đốt lên, lấy tay che ánh sáng bước tới trước giường quan sát. Chăn mền vẫn chỉnh

tề, trên giường đốt một cây nhang vòng khá lớn, cuối đuôi nhang buộc một sợi dây

lụa bắt chéo qua tấm màn quấn lên nóc giường.

Thôi Oanh ngước đầu nhìn, trên nóc màn bắt nghiêng một chiếc ghế, một chân

ghế chống trên nóc màn, phần còn lại treo lơ lửng trên không trung bởi sợi dây lụa

nọ. Khi nhang cháy hết, sợi dây lụa dễ cháy sẽ bén lửa, đứt ngang; chiếc ghế ắt sẽ

rơi xuống đất.

Nàng búng người lên, tháo ghế xuống, trên mặt ghế vạch nghuệch ngoạc mấy

nét. Đó là một hình vẽ cổ quái do ngón tay khắc nên, là ám hiệu của sơn tặc dùng để

báo tin. Vừa liếc nhìn Thôi Oanh Nhi liền biết Ngũ thúc bảo nàng trông thấy ám

hiệu thì cứ ẩn náu tại chỗ hoặc lập tức rời thành. Thôi Oanh Nhi tức giận giậm

chân: Ngũ thúc đi giết Dương Lăng rồi!

Giờ phải làm sao đây? Thôi Oanh Nhi mím môi, cảm thấy tiến thoái lưỡng nan,

lòng dạ rối bời. Ngũ thúc đơn thương độc mã xông vào tửu lâu, liệu sẽ có thể an

toàn rút lui được hay không? Nếu như Dương Lăng được bảo vệ không chu đáo,

thật sự bị thúc ấy giết chết thì biết làm thế nào? Một kẻ là người mà nàng không hề

muốn giết, một kẻ lại là người mà nàng tuyệt đối không muốn chết. Bực bội trong

lòng, Thôi Oanh Nhi bèn giậm mạnh chân phóng ra khỏi phòng, đuổi theo hướng

bóng đen biến mất vừa rồi.

*****

Bầu trời trên cánh đồng tuyết dày đặc những ngôi sao li ti. Trời đêm đã trở nên

rét buốt nhưng tất cả binh sĩ trong doanh trại vẫn đứng nghiêm, bất động trong

tuyết. Thân binh chấp pháp cầm đuốc đứng vây quanh viên quan đô ty, ánh lửa đỏrần.

- Bà mẹ nó! Các ngươi muốn ra oai phủ đầu với bản quan à?

Tay cầm roi ngựa vấy máu, Mã đô ty sải chân tới trước đội ngũ quát mắng. Trên

chiếc giá gỗ giữa hai đống lửa dựng đằng trước đám quân binh hàng ngũ chỉnh tề có

sáu binh sĩ mình trần trùng trục đang bị treo lơ lửng. Máu tươi đông lại trên thân

bọn họ thành từng vệt thâm sì, môi tím ngắt vì lạnh.

- Sao hả? Mạnh đô ty có quan hệ mật thiết với gian tế Lý Nghĩa của Di Lặc

giáo, rất có thể cũng là phản tặc, chẳng lẽ các ngươi cũng là đồng lõa của hắn hay

sao? Hừ! Bản quan mới vừa nhậm chức, các ngươi đã dám khinh nhờn, còn tung tin

đồn nhảm, bôi nhọ thượng quan! Ai nói ông đây là lính hậu phương chưa từng đánh

trận, không có bản lĩnh chỉ huy đám hùng binh các ngươi hả? Ông khinh! Các

ngươi có biết quân pháp hay không?

Tên đô ty họ Mã mới nhậm chức ngạo nghễ chỉ tay vào một tên sĩ tốt đang lạnh

run bần bật quát:

- Ngươi! Bước ra khỏi hàng! Trong quân có mười bảy lệnh cấm, năm mươi tư

điều chém, mỗi một điều đều là tội lớn phải chém đầu. Nói ông đây không biết cầm

binh hả? Ông đây thuộc làu binh pháp, sao lại không biết cầm binh? Ngươi nói đi,

điều thứ mười bảy trong mười bảy lệnh cấm là gì?

Tay lính trơn nọ choáng váng cả người, ấp a ấp úng:

- Đại... đại... đại nhân! Tiểu nhân... Cái đó...

Mã đô ty quất vèo một roi, tên tiểu binh bị roi quất trúng giật nảy người, trên gò

má liền xuất hiện một vệt máu. Mã đô ty lại quát lớn:

- Bản tướng gọi ngươi bước ra khỏi hàng, tại sao không báo danh với bản

tướng? Điều thứ mười bảy trong mười bảy điều luật lớn là thấy địch mà không xét

rõ, dò thám mà không kỹ càng, đến mà không báo là đến, có nhiều mà bảo là ít, có

ít lại bảo là nhiều, chém! Biết chưa?Đến mà không báo là đủ để bản tướng chém đầu ngươi rồi, cút về đi!

Tay tiểu binh lảo đảo chạy về hàng, máu chảy ròng ròng trên má song lại không

dám lau. Mã đô ty trông thấy một tay lính trọng tuổi hơi bĩu môi bèn gọi:

- Ngươi, bước ra!

- Dạ! Ti chức Phùng Đại Phú, xin đô ty ban bảo!

Tay lính từng trải nọ dửng dưng bước ra khỏi hàng, ngang nhiên báo cáo.

- Ồ! - Mã đô ty mỉm cười, gật đầu chế giễu - Ừm, là bả tổng à? Nghe nói lần

này ngươi truy đuổi quân địch rất ư là dũng cảm, một tay chém đầu mười bảy thủ

lĩnh quân địch đem về nộp, mới vừa được Mạnh đô ty đề bạt làm bả tổng phải

không? Bản quan hỏi ngươi, điều bốn trong mười bảy điều lệnh là gì?

Tay lính nọ thoáng do dự, rồi ngang ngạnh đáp:

- Ti chức chỉ biết ra trận giết giặc, anh dũng xông pha! Ti chức không biết chữ

nghĩa, không nhớ nổi quân luật!

- Vút!

Lại một roi nữa được quất ra. Tay lính cả giận, trừng mắt quát lại:

- Ông đây ra trận giết giặc, có thể đổ máu, có thể bán mạng! Ta chưa từng vi

phạm quân pháp, cớ gì đánh ta?

Mã đô ty lại vụt tiếp một roi, song bị tay lính chụp lấy đầu roi. Mã đô ty cố sức

giật lại nhưng giật không nổi, gã bèn cười gằn bảo:

- Điều thứ tư trong mười bảy điều là: buông lời oán thán, căm hận chủ tướng

mình, bất tuân quân lệnh, thay đổi giáo điều, chất vấn pháp chế, đó gọi là chia rẽ

lòng quân, kẻ nào vi phạm, chém! Ngươi dám nói những lời như vậy với bản quan?

Người đâu, bắt lại cho ta, đánh cho mạnh vào!

Mấy tay thân quân xông lên đè viên bả tổng nọ xuống, lôi hắn trói lại treo lêngiá gỗ, quất roi vùn vụt lên người. Trên thân thể tráng kiện vốn đã chi chít sẹo của

tay lính lão làng giờ lại có thêm những vết thương mới, máu tươi chảy ròng.

Trút giận xong, Mã đô ty quay lại cười lạnh với đám binh sĩ đang đứng im như

thóc, đe nẹt:

- Ông đây sớm biết cái đám lính lười nhác các ngươi chuyên bắt gà trộm chó,

không việc xấu nào không làm. Toàn bộ đều là một đám lưu manh vô lại. Hừ! Bản

quan mới tới nhậm chức, muốn phủ đầu bản quan để ra oai phải không?

Bản quan là thượng cấp trực tiếp của các ngươi. Muốn đối chọi với bản quan ư,

để xem ai trị được ai?

Cút về ngủ hết cho ta, hôm nay bỏ cơm tối. Sáng sớm mai bản quan ra lệnh tập

trung sớm, nếu không còn gây sự, xoi mói nữa thì mới có cơm ăn. Giải tán!

Đám binh sĩ lẳng lặng không nói gì, từng tốp một kiềm nén lửa giận trong lòng

kéo nhau trở về lều trại. Mã đô ty cười khà khà, liếc xéo mấy tay lính vô lễ bị treo

trên giá, cả tiếng dặn dò:

- Người đâu, nấu cho bản quan con gà! Đem vào trong lều coi!

Nói đoạn, gã xoay người bước vào trong lều.

- Cẩu quan!

Đằng xa có người thừa lúc tối trời mắng nhỏ một tiếng, liền đó gã bị chiến hữu

đưa tay bịt miệng, kéo vội vào trong lều.

- Cẩu quan!

Vào lúc này, Liễu Phi Vũ cũng đang mắng chửi:

- Đồ vô sỉ! Đã bắt cha ta lại còn muốn ta phải hầu hạ mới chịu... mới chịu thả

người. Triều đình này thật đáng bị diệt vong!

Tiểu thư nhà họ Liễu mặc một chiếc áo bông nhỏ nhắn sát thân màu xanh lôngvẹt, bên ngoài khoác một áo chẽn da cá đuối màu đen, lưng thắt một dải lụa hồng,

dưới mặc một chiếc váy màu xanh nhạt, trang điểm tuy nhạt mà nền nhã, nước da

trắng mịn, trên môi phơn phớt lông măng, rõ ràng vẫn còn là một thiếu nữ trong

trắng mười sáu mười bảy. Thêm vào mày đậm khẽ nhíu, sóng mắt nhìn nghiêng,

trông đẹp đến say đắm lòng người.NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 214: Đêm Khuya Văng Vẳng Tiếng Gió Mưa (Phần 2)

- Nói nhỏ một chút! - Nữ pháp sư Hồng Cô, người thấp béo như quả bóng bằng

thịt, đang cải trang làm mụ hầu gái già, cười giả lả, - Cho nên cha cô mới gia nhập

thánh giáo của chúng ta, muốn lật đổ triều đình nhằm xây dựng lại một thế giới

trong sạch đấy.

Mụ lấy ngón tay béo ục như củ cải của mình nhón lấy cây trâm vàng cài lên búi

tóc được tết cao của Liễu Phi Vũ, rồi vỗ tay khen:

- Đẹp, thật là đẹp! Chậc! Giống hệt như hồi ta còn trẻ vậy!

Chà! Phi Vũ cô nương! Đừng có xị mặt u sầu nữa. Hiện tại thánh giáo không có

cách nào cứu cha cô ra được cả. Cô cũng biết đấy, rất nhiều người không liên quan

gì với thánh giáo chúng ta nhưng vẫn bị cái đám gian thần Dương Lăng và Cốc Đại

Dụng đó bắt bớ, doạ dẫm đe nẹt, làm tan cửa nát nhà, huống hồ cha cô thật sự là

người của bản giáo! Chỉ hơi sơ suất liền sẽ bị tịch biên tài sàn, xử trảm cả nhà ngay.

Mụ thủ thỉ:

- Cho nên đại pháp sư mới quyết định kêu cô tương kế tựu kế, giả vờ đón tiếp y.

Một có thể cứu cha cô ra, hai là có thể giành được sự tin yêu và tín nhiệm của y.

Lúc đó cô còn có thể giúp thêm một ít việc cho thánh giáo rồi sau này sẽ trừng trị

thích đáng bọn chúng.

Người Liễu Phi Vũ hơi run lên, lệ viền quanh mi, nàng van nài:

- Hồng Cô, tôi... tôi hơi sợ, tôi vẫn còn là hoàng hoa khuê nữ, sao có thể làm

được chuyện khiến cho gia môn hổ thẹn chứ? Bảo tôi... bảo tôi hiến thân cho y, còn

phải nhoẻn miệng tươi cười, cả ngày hầu hạ bên người tên cẩu quan đó. Tôi... tôi

thật sự làm không được...Nàng chợt nắm lấy tay Hồng Cô, khẩn cầu:

- Tôi... tôi có thể giết y, nhân lúc y say rượu mà giết y. Hồng Cô, đại pháp sư

thần thông quảng đại, cầu xin lão nhân gia người cứu cha tôi ra có được không? Tôi

tình nguyện giết tên cẩu quan đó, cùng y đồng quy vu tận để báo đáp thánh giáo!

- Hoang đường!

Hồng Cô đanh mặt lại, giật mạnh tay ra khỏi tay cô gái. Liền đó ý thức được

mình hơi thất thố, mụ ta bèn vội khoác lại lên bộ mặt tươi cười, an ủi:

- Phi Vũ cô nương, ta biết rằng cô chung tình với Nhị thiếu chủ. Đàn ông ấy

mà, tam thê tứ thiếp là thường! Đàn bà bên cạnh Nhị thiếu chủ còn ít hay sao?

Thiếu chủ nào để ý tới việc cô có còn là xử nữ hay không. Cô vì thánh giáo mà hy

sinh nhiều như vậy, tận tình làm tròn bổn phận thánh nữ, hiến thân cho thánh giáo

tới chết không sờn, Nhị thiếu chủ sẽ chỉ càng yêu cô hơn.

Thôi đừng ngẩn người ra đó nữa, nghe lời Hồng Cô đi!

Ánh mắt Hồng Cô thoáng loé lên, mụ ta lặng lẽ mân mê gói giấy nhỏ trong ống

tay áo, rồi nói với giọng nhẹ nhàng nhưng hết sức lạnh lẽo:

- Cô nên nhớ, nếu Dương Lăng mà chết, cha cô, mẹ cô, cả nhà cô đều sẽ chết

hết!

Liễu Phi Vũ thoáng run lên, cả người đờ đẫn. Hồng Cô thấy lời doạ nạt của

mình đã hiệu quả, không nén được cười mỉm. Ngẫm nghĩ lại, mụ thấy nha đầu này

lâm trận chùn chân, nao lòng dao động, mình lại không tiện xía vào, biết làm thế

nào cho phải? Suy tính một lúc mụ thấy vẫn cho cô nàng uống nhuyễn cốt tán là tốt

nhất.

Nghĩ vậy, mụ ta bèn dịu giọng khuyên nhủ:

- Cô đừng có làm chuyện ngu ngốc nữa. Nè, Hồng Cô đã chuẩn bị ít thuốc có

thể tránh thai, cô có thể tránh phải hoài thai nghiệt chủng của tên gian tặc đó.Mụ đưa một chén trà không tới trước mặt Phi Vũ, xé gói giấy trút bột thuốc

vào, sau đó châm trà, bảo:

- Uống đi! Hồng Cô cũng chỉ có thể giúp được cô bấy nhiêu thôi.

Tiểu thư nhà họ Liễu hoảng sợ:

- Hồng Cô. Tôi... tôi...

Nhác thấy ánh mắt trở nên nghiêm lạnh của Hồng Cô, Liễu Phi Vũ không khỏi

sợ hãi, miễn cưỡng cầm chén trà lên khẽ hớp một ngụm.

Một ngụm trà xanh thoảng thoảng hương thơm, uống vào trong miệng lại như

uống phải chén rượu đắng. Nghĩ đến tình cảnh của chính mình, trong lòng Liễu Phi

Vũ chợt dấy lên nỗi bi thương, nàng bèn đặt chén trà xuống, gục xuống bàn khóc

nức nở.

Đối với loại thuốc "Nhuyễn Cốt" đặc chế bởi Di Lặc giáo này, uống một ngụm

với uống cả chén cũng đều như nhau. Sau nửa nén nhang sẽ tay rẩy chân run, tứ chi

mềm nhũn, có muốn giãy dụa cũng không cách nào thoát được, mà kháng cự yếu ớt

sẽ chỉ càng kích thích dục vọng chinh phục của đàn ông.

Thấy nàng đã uống trà, Hồng Cô khẽ mỉm cười, lấy nắp chén trà đậy lại. Mụ

vừa định mở miệng nói chuyện thì bên ngoài chợt có tiếng người cười to nói lớn:

- Ha ha! Hôm nay trong quân lão tướng như mây, uống thật thoả thích. Dương

đại nhân hình như hơi quá chén rồi thì phải?

Tiếng bước chân ngừng lại trước cửa, liền đó cả hai nghe một giọng đàn ông lè

nhè cười khổ:

- Sớm... sớm biết mấy tay tướng ở biên ải này uống rượu như uống nước lã như

thế này, bản quan thật sự đã không dám phụng bồi rồi. Mấy ngày trước đám Đỗ

tổng binh coi như là còn nhã nhặn đi, ai ngờ... ợ... Chúng ta đang đi đâu.... vậy? Bản

quan phải về... về nghỉ ngơi, quả thực... quá chén mất rồi!Người nọ lại cười bảo:

- Mọi người nghe nói đại nhân đã thỉnh được thánh dụ giúp bọn họ tránh bị bức

hại, đương nhiên cảm kích khôn thôi. Vui sướng như vậy sao có thể không uống

cho thỏa thích chứ? Đại nhân đã uống say tít cung thang rồi, giờ mà trở về lỡ nhiễm

phong hàn, Trương chỉ huy sứ đại nhân và chúng tướng Đại Động sẽ trách tội ti

chức đó. Ha ha, Dương đại nhân, đêm nay hãy nghỉ lại ở Diễm Vân Lâu đi! Tuy

Diễm Vân Lâu không lớn bằng Trạng Nguyên Lâu, song nếu luận về danh kỹ phong

lưu lại có thể nói là đệ nhất của Đại Đồng ấy.

- Cái gì? - Dương Lăng loạng choạng vùng ra khỏi tay quan chỉ huy Thái

Nguyên, trợn tròn mắt - Khi nãy... khi nãy đám phụ nữ hầu rượu trong tiệc suồng sã

như vậy đã làm nhơ nhuốc quan thể (quy chế quan lại phải tuân theo - ND) rồi.

Triều đình vốn dĩ cấm tiệt quan viên chơi gái, làm... làm như vậy sao được?

- Dào! Bây giờ có rượu cứ say, có hoa cứ hái chứ rày đâu lo! - Quan Dũng

không đồng ý, - Quy định trong kinh không thể áp dụng vào nơi chinh chiến quanh

năm như Đại Đồng này đâu! Nhập gia tùy tục mà! Đại nhân rời kinh đã lâu, thi

thoảng mới thỏa thích một lần, cùng lắm chỉ là chuyện gối chăn, có gì nghiêm trọng

đâu chứ? Nghe nói vị cô nương được thu xếp bồi tiếp đại nhân còn là thanh quan

nhân, là mỹ nhân có tiếng ở Diễm Vân Lâu này đó, đây là tấm lòng của các vị đồng

liêu tại hạ. Bọn tướng quân ngủ lại Diễm Vân Lâu đêm nay rất nhiều, nếu như đại

nhân cứ khăng khăng đòi về, khó trách sẽ khiến mấy vị tướng lĩnh sinh lòng kiêng

kị, chẳng phải sẽ khiến mọi người mất hứng sao?

Dương Lăng đang còn do dự, cửa phòng chợt được đẩy ra, Quan Dũng dìu y

vào phòng. Hồng Cô vội vã phe phẩy khăn tay, tươi cười xởi lởi:

- Ui chao, nô tì xin ra mắt đại nhân! Thúy Vân cô nương, còn không mau hầu

hạ đại nhân nghỉ ngơi!

Liễu Phi Vũ len lén lau khô nước mắt, lật đật đứng dậy cố nặn bộ mặt tươi cười.

Dương Lăng chỉ cảm thấy đầu nặng chân nhẹ, đứng không muốn vững, Hồng Cô

vội vàng niềm nở vừa dìu y vừa trộm nháy mắt với Liễu Phi Vũ. Liễu Phi Vũ vội

lấy hết can đảm bước đến gần, cùng Hồng Cô mỗi người một bên đỡ lấy DươngLăng từ tay Quan Dũng, dìu y đến ngồi trước bàn.

Hồng Cô lại cầm lấy một tách trà, rót đầy cho hắn một chén trà nóng, cười nịnh

nọt:

- Đại nhân! Vị cô nương này mới vừa gia nhập Diễm Vân Lâu, tướng mạo dịu

dàng xinh đẹp, khí chất bất phàm, cho nên nô tì mới bảo cô nương đến hầu hạ đại

nhân. Có điều cô nương này vẫn chưa biết cách hầu hạ người khác, nếu có chỗ nào

thất lễ, vẫn mong đại nhân lượng thứ cho!

Nói đoạn mụ cúi đầu khom lưng lui ra. Quan Dũng thấy Dương Lăng đã ngồi,

bèn cười khùng khục như con gà mái, nháy mắt nói:

- Mạt tướng đã ghé thăm Diễm Vân Lâu mấy lần, không ngờ ở đây còn giấu

một vị cô nương bất phàm như vậy. Chậc! Đúng là đến sớm không bằng đến đúng

lúc! Dương đại nhân đêm nay cứ thỏa sức phong lưu, mạt tướng thực không dám

hầu tiếp chuyện này rồi. Ha ha ha, mạt tướng đi đây!

Quan Dũng lách mình ra khỏi phòng, đóng cửa lại. Ngẫm nghĩ thấy mình cũng

đã có một mỹ nhân xinh đẹp mê người đang nằm trên giường chờ mình ân ái, thế là

gã hào hứng xoa tay, miệng ngâm nga một điệu hát dân gian tục tĩu, chân nam đá

chân chiêu rời đi.

*****

- Trương đại nhân, sao đại nhân nhà chúng tôi vẫn còn chưa ra?

Ngũ Hán Siêu đứng dưới hành lang chắp tay hỏi Trương Dần.

Trương Dần mặt say lướt khướt, chân bước liêu xiêu, dường như đã uống quá

chén, cười đáp:

- Ồ! Chắc ngươi là bộ hạ của Dương đại nhân hả? Đêm nay đại nhân ngủ lại

Diễm Vân Lâu rồi. Ha ha! Rượu ngon gái đẹp! Ấy là diễm phúc tề thiên đấy. Theo

ta thấy các ngươi cũng không cần phải chờ bên ngoài nữa. Sáng sớm ngày mai đến

đón đại nhân là được. Híc....Nói rồi hắn nấc rượu một hồi.

- Vậy...

Nghe thế, Ngũ Hán Siêu thoáng chần chừ. Đại nhân đã ngủ lại trong tửu lâu,

nói không chừng còn đang điên loan đảo phượng với một cô gái nào đó, một thị vệ

như mình biết thỉnh giá mời đại nhân về như thế nào? Nhưng chưa có lệnh từ chính

miệng đại nhân, làm sao mình có thể tự tiện ly khai?

Trương Dần thấy vẻ mặt khó xử của chàng ta thì không khỏi lấy làm buồn cười.

Tên thanh niên xuất thân từ núi Võ Đang này có một thân võ nghệ không tệ, không

thua gì ba đứa con mình. Dương Lăng có thể thu nạp được nhân tài như vậy, cũng

thực là có mắt nhìn người. Nếu hắn biết Trương tướng quân mà hắn đang chắp tay

cung kính chính là giáo chủ Di Lặc giáo đầu tóc bù xù đi truyền giáo đã từng giao

đấu với hắn, không biết hắn sẽ có vẻ mặt thế nào??

Trương Dần đang định chọc ghẹo thêm mấy câu, một tướng lĩnh trong quân

mới đi giải về từ xa trông thấy liền cười gọi:

- Trương đại nhân, ngài thật là gian xảo! Lúc bản quan kính rượu thì ngài lại

chạy đi đâu mất. Đi thôi, chúng ta quay lại uống tiếp nào.

Trông thấy Ngũ Hán Siêu đang đứng dưới hành lang, hắn ngẩn người ra hỏi:

- Sao vậy? Trong quân của ngài có chuyện à?

Trương Dần cười đáp:

- Không phải! Đây là thân binh của Dương Lăng Dương đại nhân. Chàng ta

trung thành tận tụy, không chịu rời đi.

Tướng quân nọ trừng cặp mắt say lờ đờ lên, bắn tiếng dọa nạt:

- Chỗ này là chỗ nào chứ? Hử? Có thể xảy ra chuyện gì? Ngươi lui xuống đi,

Dương đại nhân đang nằm trong màn sen tiêu dao khoái lạc đó! Y say đến độ đi

không nổi, đã dặn ta chuyển lời dùm, bản quan nhất thời quên thôi. Đi đi, đi đi!Dương đại nhân bảo ngươi ngày may tới đón, đừng đến sớm quá. Khà khà, đại nhân

hiện đang "tập luyện thể lực" đó, ha ha ha ha...

Đoạn bỏ mặc Ngũ Hán Siêu đứng tại chỗ cười khổ, hắn ta ôm vai Trương Dần

cả cười đi vào sảnh...

Hành lang khúc khuỷu, khắp chốn đầy tiếng sênh ca, có điều lúc này ngoại trừ

một ít tướng quân tham chén vẫn còn trong sảnh la hò cược rượu, phần lớn đã ôm

người đẹp tự đi tìm khoái lạc. Bóng người đi lại trong sân không nhiều, Trương Dần

cùng vị tướng quân nọ sánh vai song hành. Lúc đi qua một ngọn giả sơn, đằng sau

ngọn giả sơn lờ mờ phát ra tiếng tuyết kêu lộp rộp, như bị ai đó giẫm lên. Trương

Dần thoáng sững người, dừng chân, rồi cười mập mờ nói:

- Lão Lưu, khi nãy lão ngắt lời làm ta quên mất. Ta cũng phải đi giải một chút,

lão vào trước đi.

- Ha ha! Được, ta sẽ đợi đại nhân trong sảnh. Ông, ông... ông không được lén

trốn đi đâu đấy.

Lưu tướng quân vừa cười đồng ý vừa đi vào trong sảnh.

Đợi hắn đi khuất rồi, vẻ mặt ngà say của Trương Dần tức thì biến mất. Nhòm

trước ngó sau không thấy có ai, hắn liền vụt nhảy ngang qua khỏi lan can, đáp

xuống mặt tuyết, động tác mau lẹ như báo, liền đó đề khí bước vòng quanh ngọn giả

sơn, trầm giọng hỏi:

- Ai đó?

Do còn ngại đó là một tướng quân vô phép tắc nào đó đã uống quá chén, không

thèm để ý đến danh phận mà chạy ra sau ngọn giả sơn đi giải, cho nên hắn không

dám làm to chuyện. Không ngờ đằng sau giả sơn chợt phát ra tiếng lộp rộp, một loạt

tiếng bước chân di chuyển rất nhanh.

Kẻ bỏ đi có thuật phi thân rất khá, đáng tiếc ở đây toàn tuyết, không ai xóa dấu

chân cho, thế nên bất kể động tác hắn có nhanh nhẹn thế nào cũng đừng hòng đạptuyết chạy đi mà không lưu lại dấu vết. Vừa thấy kẻ đó bỏ chạy, Trương Dần liền

sinh nghi, thế là không thèm che dấu nhân thân, lập tức phi thân đuổi theo.

Đằng sau ngọn giả sơn là cỏ cây ao nước, nay tuyết đọng khắp nơi, ánh trăng

trong vắt như nước, bóng người ấy tuy nhanh nhẹn nhưng khó thoát khỏi tai mắt

Trương Dần. Đuổi đến sau mấy gốc cây hoa bị tuyết phủ trĩu cành, trong bóng tối

chợt có một giọng hiểm ác khẽ mắng vọng ra:

- Cái tên cẩu quan không thức thời này! Vốn ta định tha mạng cho, ngươi lại cứ

không biết sống chết. Vậy lão phu sẽ tiễn ngươi về trời như ngươi mong muốn.

Dứt lời một bóng người nhẹ nhàng phóng ra, tay xòe ra năm ngón bổ xuống,

mạnh mẽ mà hiểm độc, như chim ưng vồ mồi. Trương Dần đứng nguyên tại chỗ,

không tránh không né, ngước nhìn "ưng trảo" có thể phá bia vỡ đá đang bổ từ trên

không xuống, sắc mặt bình tĩnh như thường.

Quả như Hoắc Ngũ Gia đã dự đoán. Bá quan vào tửu lâu uống rượu, hơn nữa

còn là uống rượu có kỹ nữ hầu hạ, thoạt trông nơi này hộ vệ đông đảo, trùng trùng

lớp lớp, song muốn trà trộn vào thì lại dễ vô cùng, quả thực bọn họ khó mà phòng

bị cho đặng.

Thử hỏi những đại nhân đó sao có thể để bọn thị vệ nhìn thấy cảnh mình trên

bàn yến tiệc miệng thì cười đùa cợt nhả, tay thì ôm ấp lần mò khắp người mỹ nữ

chứ? Gần trăm tốp thị vệ, tùy tùng và hầu kiệu không quen biết nhau, ai có bản lĩnh

và quyền hạn đi chất vấn từng người mà mình thấy lạ mắt chứ?

Do đó Hoắc Ngũ Gia đã có thể dễ dàng trà trộn vào tửu lâu. Thế nhưng muốn

tìm người thì lại khó, lão chỉ đành phục một chỗ, đợi một nô bộc nào đi ngang mà

hỏi thăm nơi ở của Dương Lăng, không ngờ lại bị người khác nghe thấy. Hoắc Ngũ

Gia vồ từ trên không xuống, hệt như một con chim ó, năm ngón tay sắc bén nhắm

chộp lấy thủ cấp của viên quan tướng mặc quân phục nọ. Chỉ cần bị lão chộp được

và thuận thế vặn nhẹ, cổ hắn nhất định sẽ bị vặn gãy ngay.

Thế nhưng lúc này gã tướng quân nọ cũng đã ngẩng đầu lên, ánh trăng rọi lên

khuôn mặt của hắn, soi tỏ một khuôn mặt hết sức bình thản song cặp mắt lại lộ ra vẻsắc bén vô cùng. Hoắc Ngũ Gia cả kinh. Một vẻ mặt không chút sợ hãi, một vẻ mặt

tràn đầy tự tin và khinh miệt như vậy, kẻ này không đơn giản chút nào!

Lão định thay đổi chiêu thức, thế nhưng võ lâm so tài kị nhất là nhảy lên không

trung để đả thương người, bởi một khi thân ở trên không, mà võ công đối phương

lại tương đương, khi ấy rất khó có thể đổi công thành thủ. Lão đã quá coi thường gã

tướng quân này rồi.

Bóng của lão che lấp ánh trăng, khuôn mặt của Trương Dần tức thì khuất vào

trong bóng tối. Ngay vào lúc này, hai chân Trương Dần thoáng khuỳnh xuống rồi

búng lên. Hắn đã xuất thủ!

*****

Dương Lăng ngồi đối diện với Liễu Phi Vũ, cả hai đều thấp thỏm bất an. Bởi

lẽ... đây đều là lần đầu tiên của bọn họ. Một người là lần đầu tiên "làm gái", còn

một người là lần đầu tiên "chơi gái".

Y quan sát vị cô nương ngồi đối diện đã được trang điểm kỹ càng. Có điều với

nhan sắc của nàng ta thì rõ ràng cho dù không trang điểm cũng vẫn có thể hấp dẫn

bất kỳ gã đàn ông có giới tính bình thường nào.... Có lẽ ngoại trừ cái tên Vương

Long có mắt như mù nọ.

Dáng người e thẹn yêu kiều, dịu dàng như liễu, khuôn mặt xinh đẹp hơn người,

da trắng hơn tuyết, cặp mắt long lanh nửa khép nửa mở cố tránh ánh nhìn của y, nửa

như thẹn thùng, nửa như khiếp sợ. Nhớ lại tú bà nói nàng gia nhập Diễm Vân Lâu

mới được mấy ngày, y liền có thể lý giải vẻ mặt không giống như đang giả vờ ấy.

Chao ôi, mình đã ôm vợ xinh thiếp đẹp, so với cái thời đại nọ vốn đã trụy lạc sa

đọa lắm rồi, chẳng lẽ còn phải gánh thêm tội, ngay cả người con gái đáng thương

như vậy mà cũng muốn ức hiếp? Nhưng mà... trong lòng rõ ràng đang rục rịch

muốn làm bậy. Tại sao hôm nay mình lại muốn gái đến như vậy chứ. Là bởi rời

kinh quá lâu, hay là do đã uống quá nhiều?

Dương Lăng không biết rằng mấy ả con gái hầu rượu đã lén cho thuốc kích dụcvào chén, hiện tại thuốc đã bắt đầu phát tán dược lực. Y còn tưởng rằng ý chí của

mình không vững, bèn thầm tự trách mình: "Ấu Nương và Liên Nhi đã mang thai

con mày. Bọn họ đều khổ sở ở nhà ngóng trông mày sớm ngày trở về, sao mày lại

có thể phong lưu khoái lạc bên ngoài như vậy được?

Nhưng mà.. vị cô nương này đẹp thật, nếu như cô ta đã gia nhập lầu xanh, hôm

nay mình bỏ qua cô ta, ngày mai chẳng phải cô ta sẽ vẫn phải trải qua cuộc sống

"một đôi tay trắng bao người gác, nửa cánh môi son vạn kẻ hôn" ư. Cô ta là kỹ nữ,

mình lại không phải chịu bất cứ trách nhiệm gì, ngày mai đi rồi, ai còn nhớ được là

ai chứ?

Không... không được..., mình không thể bị người xưa đồng hóa như vậy. Loại

chuyện này giống như thuốc phiện vậy, nếu không có ai ngăn cấm, không có ai

khiển trách, hôm nay bước một bước này, sau này mình há sẽ chẳng càng phóng

túng hơn trong chuyện tửu sắc ư?"

Ngọn lửa dục trong lòng Dương Lăng dâng lên theo men rượu, dần dần không

thể kiểm soát được. Lúc này cho dù chỉ là một thiếu nữ bình thường e rằng cũng sẽ

biến thành giai nhân tuyệt sắc trong mắt y, huống hồ trước mặt lại là mỹ nhân xinh

đẹp động lòng người như vậy. Ý chí của y dần dần tan vỡ.

Y cầm lấy chén trà, uống cạn một hơi, ho khan một tiếng rồi khẽ gọi:

- Cô nương...

Trong lòng Liễu Phi Vũ lúc này cũng đang tranh đấu dữ dội. Nàng từng được

Lý Đại Nghĩa chỉ bảo võ nghệ, cũng võ vẽ học được mấy ngày, trong lòng chỉ muốn

rút cây trâm cài đầu xuống đâm chết tên gian thần này, tránh cho tấm thân trong

sạch khỏi bị ô nhục. Song nhớ tới lời Hồng Cô đã nói, nghĩ tới cảnh tượng đáng sợ

của kẻ phản bội thánh giáo bị hàng vạn con kiến đục khoét khắp người, nàng lại

không rét mà run.

Thấy Dương Lăng ngồi yên thật lâu không có động tác gì, nàng đang mong y sẽ

ngồi vậy hết đêm, đợi sang ngày mai rồi tính tiếp. Chợt nghe Dương Lăng cất tiếng

gọi, nàng liền sợ giật nảy người, trừng mắt cảnh giác hỏi:- Chuyện... chuyện gì?

Dương Lăng cũng không biết phải nói gì. Tâm thì muốn bảo nàng lui ra, tránh

bị mình say rượu không nhịn được mà dâm nhục, nhưng lửa dục từ từ bốc lên sui

khiến thân dưới của y "phất cờ nổi dậy" lại không ngừng cản lời y lại. Y liếm môi,

đang không biết nên làm thế nào cho phải, đột nhiên cửa phòng mở ra, một bóng

người bỗng lách vào.

Nghe thấy tiếng cửa mở, theo phản xạ Liễu Phi Vũ liền đưa mắt nhìn, chỉ kịp

liếc thấy bóng đen nơi khóe mắt, cổ đã bị đánh cho một chưởng, ngã ngục xuống

đất.

Thôi Oanh Nhi đỡ lấy người nàng, nhẹ nhàng đặt ngồi lên một chiếc ghế dựa

tường, rồi quay đầu lại cười nhạt bảo Dương Lăng:

- Hóa ra ngươi cũng chỉ là hạng người như vậy, tham hoa háo sắc, ức hiếp con

gái!

Trông thấy nàng, Dương Lăng tức thì kinh ngạc, lửa dục cũng vì vậy mà tan

biến. Y ngạc nhiên hỏi:

- Là cô? Các người còn chưa đi sao? Cô đến đây làm gì?

Đoạn y liếc sang "Thúy Vân cô nương" đang ngồi hôn mê trên ghế, cười khổ

giải thích:

- Đừng đổ tội bừa cho người khác thế chứ. Cô nói tôi tham hoa háo sắc cũng

được, nhưng còn "ức hiếp" thì... Hình như nghề bọn họ làm là để bị người ta "ức

hiếp" mà, nếu không ai chịu ức hiếp bọn họ, bọn họ sẽ càng khó sống hơn.

Mặt Thôi Oanh Nhi thoáng đỏ lên, nàng sẵng giọng:

- Bớt nói xàm với ta đi! Nếu không phải vì thấy ngươi vẫn còn là vị quan tốt

biết nghĩ cho bá tánh, thì ta đã lười cứu ngươi rồi!

Nói rồi nàng tức giận ngồi phịch xuống chiếc ghế mà Liễu Phi Vũ đã ngồi trướcđó. Dương Lăng nghe nàng nói là cứu mình, thì trong lòng bình tĩnh trở lại. Y ngạc

nhiên hỏi:

- Cứu tôi? Có người muốn giết tôi, hơn nữa không phải là cô?.... À không,

không phải là người của các vị sao?

Thôi Oanh Nhi hừm một tiếng rồi nói:

- Hỏi nhiều vậy để làm gì? Bởi vì ngươi nói chuyện biết giữ lời, cũng coi như là

chính nhân quân tử. Ta đến gặp ngươi, một là để cứu mạng ngươi, hai là muốn nhờ

vả ngươi một chuyện.

Dung mạo Thôi Oanh Nhi vốn đã rất đẹp, lại có thêm vẻ khí khái hào hùng, lúc

này tuy nàng mặc đồ thuần trắng, nhưng dưới ánh đèn trông lại thập phần duyên

dáng. Một vẻ phong nhã của người phụ nữ mãn khai khiến cho chân mày khóe mắt

của nàng luôn toát lên muôn vẻ phong tình. Dương Lăng vốn có dấu hiệu sắp biến

thành sắc lang nhìn mà đỏ cả mắt, thầm mắng mình: "Khi nãy người con gái nọ là

kỹ nữ đã đành! Giờ đầu mày đang nằm trên tay người ta, vậy mà mà... mày còn

nhìn chằm chằm vào mặt vào ngực người ta làm gì?"

Thôi Oanh Nhi cũng không ngờ y to gan đến vậy, lúc này lại dám nảy ý định

xấu xa với mình. Nàng nhíu đôi mày ngài, cố nhẫn nhịn mà thuật lại câu chuyện

một lượt.

Dương Lăng dẫu sao vẫn là người làm quan, nàng không dám nói trượng phu

mình vẫn nung nấu ý định tạo phản, chỉ nói là vì hơn hai trăm huynh đệ chết thảm ở

kinh sư, cho nên Dương Hổ vẫn khư khư ôm lòng báo thù, tuy nàng đã tận tình

khuyên bảo, song vì ngại mặt mũi, nên khó lòng cứ như vậy mà trở về Bá Châu.

Thôi Oanh Nhi nói đến khô miệng, bèn mở nắp chén trà trước mặt, thấy nước

trà vẫn đầy, nghĩ rằng cô gái nọ vẫn chưa động tới, bèn thuận miệng uống cạn, rồi

lại đem kể chuyện mình cùng Ngũ thúc đến Đại Đồng, vẫn luôn mực âm thầm theo

dõi mọi hành động của y. Kể xong, nàng mới cười khổ nói:

- Đại nhân! Chuyện là như vậy đó. Chuyết phu (gã chồng khờ - ND) của tiện nữđã đồng ý cùng tiện nữ quy ẩn núi rừng, tiện nữ cũng không muốn thương tổn đại

nhân, để rồi lại gây nên một kiếp nạn lớn cho bá tánh Bá Châu.

Chốc nữa tiện nữ sẽ rời khỏi nơi này, khi ấy mong rằng đại nhân sẽ lập tức triệu

tập thị vệ làm thật to chuyện, và bảo là có thích khach. Ngũ thúc của tiện nữ thấy

tình thế không ổn, ắt không dám xông bừa, tạo ồn ào như vậy cũng sẽ có thể khiến

cho chuyết phu có đường mà hạ đài.

Cho nên tiện nữ đến đây, chỉ là muốn lập một hiệp nghị quân tử cùng đại nhân

lần nữa. Tuy kẻ muốn giết ngài là người của chúng tôi, nhưng dù sao... tiện nữ chạy

lại mật báo tin tức, mong đại nhân nhất định phải cam đoan có thể để hai người chú

cháu tiện nữ an toàn rời khỏi nơi này, từ nay chúng ta ân oán lưỡng tuyệt, nước

giếng không phạm nước sông.

Tác dụng của thuốc trong cơ thể Dương Lăng càng lúc càng lợi hại, bây giờ

không cần Liễu Phi Vũ dụ dỗ, y cũng muốn chiếm đoạt lấy vị "danh kỹ lầu xanh"

này. Song vẫn còn một tia lý trí mách bảo với y rằng, tối thiểu thì vị Hồng Nương

Tử ở trước mặt này là người mà y vạn lần không thể động tới. Y bèn cắn răng, vịn

bàn nói:

- Được! Ta đồng ý với cô. Cô... cô mau đi đi. Ta sẽ lập tức... lập tức đi triệu...

triệu tập thị vệ. Cô mau đi...

Dương Lăng gắng gượng đứng dậy, chỉ cảm thấy hạ thể cứng ngắc như sắt, tuy

áo bào rộng rãi nên không bị phát hiện, song dẫu sao y vẫn cảm thấy chột dạ, vội

đành ngồi xuống hối thúc:

- Cô mau đi đi! Dương mỗ tôi lời hứa... nghìn vàng...

Thôi Oanh Nhi trông thấy dáng bộ của y như vậy thì nhíu mày bảo:

- Sao ngươi lại uống nhiều rượu như vậy? Nếu ta đi vào lúc này, Ngũ thúc thừa

dịp xông vào hành thích thì sao?

Nàng đảo mắt một vòng, trông thấy xiêm y của Liễu Phi Vũ bèn nhoẻn miệngcười nói:

- Để ta tráo áo quần của ả, dìu ngươi ra sảnh. Sau đó ngươi tự kêu người bảo vệ,

ta sẽ thừa cơ mà trốn đi.

Lúc trước Thôi Oanh Nhi từng thay đồ trước mặt y. Vả lại việc cởi bỏ áo khoác

ngoài trước mặt người khác cũng chẳng có gì là ghê gớm, huống hồ quần áo mặc

mùa đông vốn nhiều, chẳng qua nàng chỉ định khoác thêm áo chẽn mặc ngoài của

Liễu Phi Vũ mà thôi.

Ai dè nàng đứng lên vừa cởi áo khoác da xám ra, hai vai chợt bị siết lại như bị

người nào đó ôm chặt. Vừa hốt hoảng vừa tức giận, Thôi Oanh Nhi còn tưởng rằng

Dương Lăng nuốt lời tính bắt giữ mình. Nàng vừa cảm thấy bực bội vừa cảm thấy

tức cười: chỉ dựa vào ngươi mà cũng muốn bắt ta sao? Đúng là rượu khiến cho

người ta có gan lên hẳn.

Thôi Oanh Nhi vừa dùng sức quẫy ra, tức thì cả sợ, toàn thân túa mồ hôi lạnh.

Cho dù bị xích sắt quấn thân, nàng dùng hết sức giãy dụa cũng chưa hẳn đã không

thoát được, thế mà lúc này... lúc này hai vai nàng lại vô lực, xương cốt tựa như mềm

oặt.

Vừa kinh hoảng vừa tức giận, nàng quay đầu lại thấy Dương Lăng mặt đỏ bừng

bừng, hơi thở phả ra từ miệng nóng rực như lửa, trong hơi rượu lại có mùi thơm

nhàn nhạt. Với bản lĩnh sơn tặc có kiến thức sâu rộng, đương nhiên nàng ngửi được

y uống phải loại thảo dược nào rồi. Thôi Oanh Nhi sợ đến hồn bay phách lạc, mắt

trợn trừng. Lúc này Dương Lăng đã bế thốc nàng lên, lảo đảo bước tới giường.

Thôi Oanh Nhi ức đến ứa gan, vừa khóc vừa run rẩy van nài:

- Thả ta ra, thả ta ra! Xin ngươi... Ngươi bị trúng dâm dược rồi, thả ta ra, ta có

cách... Á!

Trong tiếng thét sợ hãi, áo lót đã bị xé ra, bộ ngực săn chắc của nàng lộ ra một

nửa. Thôi Oanh Nhi tuyệt vọng thét lên:- Đừng đụng vào ta! Ngươi dám đụng vào ta, ta nhất định sẽ giết ngươi. Ta nhất

định... a a a...

*****

Dưới ánh sáng tù mù của ngọn đèn bàn, khuôn mặt xinh đẹp của Thôi Oanh Nhi

đã như hoa đọng sương mai, nước mắt vệt vắn vệt dài. Đã không còn sức để đẩy

Dương Lăng đang sa vào trạng thái điên cuồng, nàng chỉ đành nhắm nghiền hai

mắt, tấm thân mềm mại nhẹ nhàng uyển chuyển nhấp nhô dưới người y....

Có lẽ trong lý trí Dương Lăng vẫn còn nhớ nàng là ai, cũng có lẽ y chẳng còn

biết gì nữa. Y chỉ biết hiện tại y đang khoái lạc biết dường nào. Mỹ nhân đang nằm

bên dưới quả thực là vưu vật mê người đến cực độ.

Đôi chân thon dài mà săn chắc, cặp đùi trơn mượt đến mê ly. Cặp ngọc nhũ tròn

mẩy mà cao vút. Y điên cuồng ép người lên thân Thôi Oanh Nhi, quấn chặt hai

thâm mình vào nhau như áo trời không vết vá. Khoái cảm khôn tả cùng với tiếng

rên rỉ như nỉ như non của Thôi Oanh Nhi mang đến cho y sự mê sướng tuyệt diệu

khó nói nên lời...

Chiếc giường khảm ngà dập dờn như con thuyền nan trên sóng biển. Ánh sáng

của cây đèn trên bàn le lói như hạt đậu non. Hai tấm thân quấn rịt vào nhau trong

tấm màn vui hoan hợp. Trong cơn quay cuồng lờ mờ có thể thấy được từng phần

thân thể trắng phau mềm mại. Dương Lăng đã rơi vào trạng thái điên cuồng, song

Thôi Oanh Nhi lại hết sức tỉnh táo.

Vì tỉnh táo cho nên nàng nhục nhã và giận dữ vô cùng. Cánh môi mỏng của

nàng đã bị cắn đến ứa máu, thế nhưng phản ứng của thân thể nàng lại không chịu sự

khống chế của tâm lý tức giận và nhục nhã ấy. Làn thu ba trong đôi mắt đang mở to

của nàng chợt trở nên mê mang, rồi theo động tác của Dương Lăng, thỉnh thoảng

nàng lại buông ra tiếng rên rỉ đê mê, nghe như tiếng sáo diều khe khẽ.

"Sao lại có thể như vậy chứ? Trời ơi, hãy cho tôi chết đi!" Thôi Oanh Nhi gào

thét trong lòng, nước mắt đã cạn khô. Thế nhưng tấm thân yêu kiều của nàng lại

phối hợp cùng Dương Lăng một cách bất đắc dĩ, thân thể đầy đặn và dẻo dai củanàng nghênh đón lấy những đợt công kích tàn bạo của Dương Lăng.

Một chiếc nhũ hoa mang theo hương thơm mê người lọt thỏm giữa miệng và

lưỡi của Dương Lăng. Thôi Oanh Nhi run bắn người vì xấu hổ và nhục nhã, "Trời

giết tôi đi. Y... y rõ ràng là đã uống phải thuốc mất đi lý trí, vậy mà còn... còn đùa

bỡn mình như vậy...", một cánh tay ngọc vừa đặt lên vai y hòng đẩy y ra thì lại bỏ

xuống. Sự việc đã đến nước này, chẳng lẽ còn có thể giữ lại sự thanh bạch của mình

hay sao?

Đường cong ưu mỹ, mông tròn vểnh cao, sờ vào liền thấy láng mịn như mỡ

đặc, đầy đặn có thừa, mềm như không xương. Cũng chỉ có mỹ nhân như đào chín

trên cây này mới cho người ta cảm giác tuyệt diệu như vậy. Eo nhỏ của nàng lại

thon thả đến lạ, ôm vào lại thấy trơn nhẵn mà chắc nịch...

Gió mưa không ngớt. Muôn vàn ý nghĩ quay cuồng trong đầu Thôi Oanh Nhi,

trong lòng nàng chỉ nghĩ đến ba chữ "phải giết y". Có điều trong cơn khoái lạc đến

cực độ ý nghĩ đó liên tục bị cắt ngang, tạm thời nhường chỗ cho một thứ cảm giác

sung sướng như lên mây. Đến khi "trở lại nhân gian", khi đã thanh tỉnh lại, trong nỗi

tủi nhục và phẫn hận đến cùng cực, nàng lại chỉ nghĩ đến bốn chữ "tự sát cho xong".

*****

Đêm, trong doanh trại nằm trên cánh đồng mênh mông tuyết, rét lạnh mà tĩnh

mịch.

Giữa đất trời, tất cả mọi vật dường như đều ngưng thở.

Thi thoảng có vài con thú nhỏ sinh sống về đêm lại lén chui ra khỏi tuyết, chạy

đi mấy bước, rồi lại lủi vào trong tuyết.

Bên trong đại doanh, tay tiểu tốt bị Mã đô ty quất roi nọ bỗng nhiên thét mớ lên

một tiếng thảm thiết, đầu vã mồ hôi đầm đìa, vung tay đá chân giãy giụa, miệng la

thảm thiết không ngừng.

Binh sĩ nằm bên bị đánh thức bèn đẩy hắn mắng:- La cái gì? Khóc cái con mẹ gì chứ?

Còn chưa dứt lời, một binh sĩ khác nằm ở lều sát bên bị đánh thức bởi âm thanh

khủng bố nọ lây nhiễm, cũng đã bắt đầu thét lên. Lần này thì thôi rồi! Sĩ tốt bị lây

nhiễm bởi bầu không khí cuồng loạn mỗi lúc một nhiều. Áp lực, mệt mỏi và sợ hãi

tích lũy lâu ngày trên người các binh sĩ lúc này đồng loạt bùng phát, người la hét

điên cuồng mỗi lúc một đông; từng đợt từng đợt sóng gào thét điên loạn nhanh

chóng lan khắp cả đại doanh.

Trong bóng đêm lạnh lẽo và đen kịt, rốt cuộc đại doanh đã xảy ra chuyện mà

các tướng lĩnh cầm binh hàng nghìn năm nay khiếp sợ nhất: "doanh khiếu". Cả đại

doanh đầy tiếng la hét như quỷ khóc sói gào. Tiếng la hét càng lúc càng làm cho

nhiều người cảm thấy khiếp sợ, ai nấy đều cầm lấy vũ khí đề phòng bất cứ kẻ nào

đến gần.

Không biết là ai ra tay trước, song hỗn loạn đã bùng phát. Doanh trại chưa hơn

năm nghìn người đã biến thành chiến trường khủng khiếp nhất. Đồng đội chiến hữu

trở thành kẻ thù không đợi trời chung. Bọn họ vừa la hét như điên như dại, vừa cầm

lấy bất kỳ vũ khí nào có thể đánh người mà liều mạng chém giết lẫn nhau.

Những căng thẳng trong chiến tranh cùng với sĩ khí sụt giảm do sự thanh trừng

của Cốc Đại Dụng và nỗi sợ hãi gây nên bởi sự ngược đãi của viên đô ty mới được

bổ nhiệm đã khiến cho những binh sĩ trong cơn "doanh khiếu" không màng hết thảy

mà ra sức phát tiết và phá hoại quân kỷ bằng chính thân thể máu thịt và sinh mạng

của mình. Một hồi đại đồ sát không lý trí đã diễn ra khắp trong ngoài binh doanh.

Xa xa ngoài doanh trại, ban đầu mấy binh sĩ đứng gác trên đài quan sát cao cao

còn giữ được vài phần tỉnh táo mà nổi lửa hiệu, thổi kèn lệnh, hòng thức tỉnh chiến

hữu của mình. Thế nhưng khi cuộc đại đồ sát đã lan tràn khắp doanh trại, rốt cuộc

bọn họ cũng đã trở nên điên loạn, cầm lấy vũ khí lao xuống tháp canh gia nhập vào

cuộc đại đồ sát.

Đằng xa kia vẫn là một bầu yên tĩnh. Rồi trong sự yên tĩnh đó, gió lại giật

không ngừng, mưa giông không dứt...NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 215: Đêm Khuya Thẩm Vấn (Phần 1)

Đêm nay thật tuyệt, ít ra là đối với Dương Lăng.

Rồi không biết thời gian đã trôi qua bao lâu, một tiếng rống khoái lạc kèm theo

tiếng rên khe khẽ như nỉ như non chợt cất lên, gió thôi mưa tạnh, trên khuôn sen

mơn mởn thoắt hiện hạt sương châu.

Đêm khuya canh vắng, tiếng thở dốc vẫn còn chưa điều hòa trở lại, dưới ánh

nến đỏ đong đưa là hai thân thể đang phập phồng ép sát vào nhau.

Mãi thật lâu sau, tấm thân rã rời đến tận đầu ngón tay của Thôi Oanh Nhi mới

khôi phục lại được sức lực. Hơi thở nóng hổi vẫn còn đang phà lên bờ vai thon của

nàng, Thôi Oanh Nhi cố sức đẩy thân thể đầy mồ hôi của Dương Lăng ra. Sau cơn

mê say thỏa chí, men rượu và dược lực đã khiến y mệt mỏi rã rời nên ngủ thiếp.

Hai hàng lệ trong vắt không kiềm được lại trào ra, nàng vừa khẽ thút thít vừa

kéo áo quần mình lại, vội vã mặc vào; có thêm một bộ quần áo trên người mới

khiến cho nàng cảm thấy an toàn hơn.

Một người con gái thân thể loã lồ, cho dù từng có sức vật hổ báo, cho dù hiện

giờ khí lực đã hồi phục mười phần, thì vẫn không dám đối mặt với người đàn ông

mà nàng mới vừa kết duyên hợp thể.

Tóc mai tán loạn, đôi má ửng hồng, áo quần đã che chắn bộ ngực trắng phau

cao vút, mượn sự nương che của tấm chăn lụa, nàng quấn yếm buộc quần. Vận đồ

xong xuôi, nàng vội vã nhảy xuống đất, song loạng choạng suýt ngã. Không ngờ tuy

nàng khoẻ mạnh và đã thành thục nhưng lại vẫn không chịu nổi sự "sát phạt" của

Dương Lăng như vậy. Người phụ nữ cho dù có mạnh mẽ dường nào, khi ở trên

giường họ vẫn là phái yếu.Thoạt tiên Thôi Oanh Nhi kinh hoảng liếc sang vị cô nương Thúy Vân nọ, thấy

cô nàng vẫn đang ngồi dựa nghiêng trên chiếc ghế sát tường, vẫn hôn mê bất tỉnh,

nàng mới hơi yên tâm. Ngầm vận công thử thấy đã khôi phục được ba phần, ba

phần đã quá đủ để giết chết Dương Lăng cả chục lần rồi, nàng hổ thẹn rút thanh

đoản kiếm, đâm vút tới giữa lưng Dương Lăng.

Tấm lưng trẻ trung trơn tuột ấy vẫn đang nằm úp trên giường không chút động

đậy, nhưng Dương Lăng lại khẽ mơ màng rên rỉ, lẩm bẩm gọi:

- Thúy... Thúy Vân cô nương, cô thật đẹp... Tôi... tôi sẽ... chuộc thân cho cô...

Lời còn chưa dứt, y đã lại ngủ khò.

Thôi Oanh Nhi thoáng sững người: y tưởng mình là cô kỹ nữ ư?

Mũi kiếm thoáng run rẩy. Lúc này Thôi Oanh Nhi nhớ lại khi nãy nàng thấy

mắt y dại đi, mặt đỏ bừng, trong hơi rượu loáng thoáng có vị ngòn ngọt, rõ là đã

trúng phải một loại thuốc cực kỳ lợi hại. Loại thuốc hổ lang này không giống với

loại thuốc tráng dương thông thường, thường pha trộn thêm vài vị thuốc khiến cho

thần trí mê mang. Chẳng lẽ khi nãy vì thần trí lơ mơ nên y đã lầm tưởng mình thành

một người con gái khác hay sao?

Vừa nghĩ đến đây, Thôi Oanh Nhi không khỏi phát run lên. Cho dù khi ấy y lầm

tưởng mình là người khác, song khi tỉnh dậy, thể nào không nhớ lại đêm nay mình

đã tới đây?! Tấm thân thanh bạch của mình đã bị ô nhục, sao có thể không giết y

chứ?

Nhưng mà... từng chữ "mau đi đi" đó vẫn còn quanh quẩn bên tai, ánh mắt kiềm

chế một cách thống khổ, ngữ khí thúc giục đầy cấp bách của y, rõ ràng y cũng là kẻ

bị hại. Mình bị người ta lăng nhục, nhưng kẻ khiến mình bị nhục lại bình yên vô sự,

làm sao mình có thể chịu nổi việc này?

Thoáng suy nghĩ, Thôi Oanh Nhi liền đã có thể đoán được đại khái: để đối phó

với những thanh quan nhân không thuần phục hẳn, đa phần vào đêm "khai nụ" bọn

chủ sẽ bỏ chút thuốc "nhuyễn cốt" vào. Thứ thảo dược mà Dương Lăng trúng phảitám phần là vì tú bà muốn lấy lòng đại quan trong kinh thành, vì muốn khiến y thoả

chí tầm hoan mà bỏ thuốc kích thích tính dục. Có điều loại thuốc này có dược tính

rất mạnh, như cọp như sói, bỏ nhiều như vậy, quả thực là "chưa ngắm thân thể cô

nàng, người đã mê mang đầu óc".

Thôi Oanh Nhi muốn khóc mà không ra nước mắt. Đánh giặc Oa, chống giặc

Thát, mở chợ thông thương, cải thiện canh tác, trong tất cả những niềm hi vọng

khiến dân chúng có thể an cư lạc nghiệp đều có bóng dáng của gã này. Giết y? Đâm

một kiếm vào người y? Hàng nghìn cảm xúc ùa vào đầu nàng, nhát kiếm này sao

đâm xuống được đây?

Mũi kiếm sáng loáng run rẩy như chiếc lá non lắc lư trong gió, Thôi Oanh Nhi

cắn chặt môi đến ứa máu. Kiếm này thu về cũng không được, mà đâm xuống cũng

chẳng xong. Nàng cứ đứng ỳ tại chỗ, ngẩn ngơ như bức tượng...

*****

Ngực của Hoắc Ngũ Thúc trúng trọn hai chưởng. Tuy lão cảm giác chưởng lực

không mạnh, song vừa hơi cử động liền thấy ngực đau nhói, một vị tanh tanh ngòn

ngọt trào lên cổ họng, phun bắn thành vòi. Hoắc Ngủ Thúc cả kinh, thuật khinh

công của lão hơn xa Trương Dần nên bèn lập tức phóng người bỏ chạy.

Trương Dần thuận tay vặt một nhánh cây khô, tuyết rơi lả tả. Hắn gập ngón

búng mạnh, nhánh cây khô bắn đi như tia chớp. Hoắc Ngũ Thúc vừa lượn tới dưới

chân tường như chim én thì nhánh cây khô men theo tường thành bắn tới lập tức

cắm ngập vào vai. Lão buột miệng phát ra tiếng kêu đau đớn, nhưng không dám

dừng chân, khom lưng vận lực, chạy nhanh vào trong bóng đêm.

Trương Dần bó tay vào trong ống tay áo, nhếch miệng cười. Kẻ này tu luyện

chính là công phu ngoại môn, không có tuyệt học điều hòa hơi thở để bảo vệ tính

mạng của Võ Đang, đã trúng trọn hai chưởng rồi lại chạy thục mạng như vậy, ông

trời cũng không thể cứu nổi.

Hắn co chân quét một phát, kích tung một đám tuyết che lấp mảnh đất Hoắc

Ngũ Thúc thổ huyết. Nhíu mày suy nghĩ một lúc nhưng hắn vẫn không thể nghĩ rathích khách này có thù oán với kẻ nào trong đám đông quan văn tướng võ trong tửu

lâu. Tiếc rằng hôm nay đại kế sắp thành, mình quyết không thể để kẻ khác làm loạn

mưu đồ, bằng không mình thực cũng muốn khoanh tay ngồi xem trò hay.

Trương Dần thầm cười khổ trong lòng: ngày nào Di Lặc giáo cũng đều nghĩ

cách đối phó với triều đình, ấy vậy mà mấy ngày trước tại Cự Lỗ môn minh lại

không thể không dốc toàn lực đánh một trận với Bá Nhan, hôm nay lại thay quan

viên triều đình mà đối phó với thích khách. Xem ra mình thực không xứng với chức

giáo chủ, có vẻ làm chỉ huy sứ Thái Nguyên thì thành công hơn.

Vừa nghĩ đến đây, hắn chợt nhớ tới Dương Lăng. hẳn tên thích khách này sẽ

không khéo đến nổi có liên quan với y đó chứ? Mong đừng làm hỏng chuyện tốt

của y. Trương Dần liền vội cất bước đi vào đại sảnh.

Trong đại sảnh vẫn còn hơn ba mươi viên quan tướng đang trao ly đổi chén hô

huynh gọi đệ om xòm với nhau. Trông thấy hắn bước vào, vị tướng quân khi nãy đi

giải lấy làm cả mừng. Trương Dần đang định lặng lẽ đi vòng sang đường bên mà

vào, không dè tay tướng quân đó đã lảo đảo bước tới, chộp lấy vai hắn, cười ha hả:

- Trương chỉ huy trốn đi đâu đó?

Tiếng gọi đột ngột đó khiến Trương Dần giật nảy cả mình, song hắn liền vội

nhoẻn miệng cười đáp:

- A! Vi huynh tửu lượng không đủ, cho nên...

Tay tướng quân nọ phá lên cười lớn rồi lè nhè:

- Bớt nói linh tinh với ông đi! Đàn bà thôi mà, lúc nào mà chơi chả được? Bọn

chúng ta khó lắm mới có dịp cùng bàn uống rượu, đêm nay không say không về.

Đặng... Đặng chỉ huy, mau tới dìu đại nhân nhà ngươi này. Phải phạt... ợ... phạt con

mẹ nó ba chén!

Đặng Học Anh cũng đã uống say bí tỉ, nghe thấy vậy thì cười hì hì chạy qua

kéo Trương Dần về bàn tiệc trong tiếng la hò của bọn tướng lĩnh. Trương Dần đànhchịu, hắn phải xốc lại tinh thần cùng bọn họ chơi trò đoán số phạt rượu, rồi tranh

thủ lúc không ai để ý gọi tên đại pháp sư tâm phúc đang cải trang làm quan trung

quân lại. Nghe hắn căn dặn xong, đại pháp sư thản nhiên đi vòng ra ngoài sảnh. Bản

thân gã cũng không tiện chường mặt nên bèn gọi một người khác đi gặp Hồng Cô.

Nghe người nọ dò hỏi, Hồng Cô hé miệng cười đáp:

- Xin hồi âm rằng đại pháp sư cứ yên tâm. Bản thiên sư mới vừa lén lên lầu

thám thính, bên trong ấy mây mưa rất tợn. Bản thiên sư là người từng trải, động tĩnh

ấy không giả được đâu. Ha ha ha!

Trương Dần nghe bẩm báo lại, biết rằng sự đã thành. Sáng mai Liễu Phi Vũ sẽ

quỳ xuống khóc lóc kể lể nội tình, thú thật gia thế tiểu thư con nhà quan lại của

mình, lại thêm lòng hiếu thảo vì cha mà hiến thân, với tính cách thương hoa tiếc

ngọc của Dương Lăng cộng thêm lòng đồng cảm với chúng quan viên đang bị tra

xét, y không nạp Liễu Phi Vũ làm thiếp mới là chuyện lạ.

Rốt cuộc Trương Dần hoàn toàn thả lỏng tinh thần, không còn bất kỳ băn khoăn

lo lắng gì nữa. Hắn bắt đầu yên tâm cạn chén cùng chúng tướng, lôi kéo tình cảm

huynh đệ.

*****

Hoa nến nổ "tách"! Tuy âm thanh nhỏ vô cùng nhưng lại khiến Thôi Oanh Nhi

run người lên.

Khí lực của nàng đã gần khôi phục hoàn toàn, thế nhưng... thế nhưng đùi nàng

vẫn còn bủn rủn không thôi, song nguyên nhân của nó thì không cần phải nói ra.

Đứng ngẩn ngơ lâu như vậy, đùi nàng cũng đã hơi run run.

Kiếm trỏ vào Dương Lăng, song Thôi Oanh Nhi lại ngửa mặt nhìn lên trời đến

thẫn thờ, cặp mắt như xén nước phân ra đen trắng rõ ràng kết hợp cùng khuôn mặt

thanh nhã tuyệt trần tạo nên vẻ đẹp đến kinh người. Bên trong con ngươi ấy mơ hồ

ẩn náu vẻ lúng túng và bàng hoàng khiến người trông thấy phải đau xót.Nàng thở ra một hơi dài dằng dặc, rồi từ từ nhắm mắt lại, khoé mắt óng ánh hai

giọt lệ châu, như thể chực trào.

Lệ rồi cũng rơi. Thôi Oanh Nhi khẽ hít hơi, "chát" một tiếng, kiếm lại tra vào

vỏ: "Thôi bỏ đi! Giết y rồi mình sẽ có thể lấy lại được sự trong sạch sao? Mình đã

có lỗi với trượng phu, thế thì tự vận cho xong, với tính cách của Dương Lăng, quyết

sẽ không khoe khoang khắp chốn, y sẽ giấu giếm việc này giúp mình."

Nàng liếc nhìn Dương Lăng, thấy y vẫn nằm trần trùng trục úp mặt trên giường,

khuôn mặt bất chợt nóng bừng. Nàng bèn hất vỏ kiếm lên, lấy chăn che lại cho y,

cũng không biết là do mình không muốn trông thấy bộ dạng xấu hổ của y như vậy,

hay là do mình sợ y bị lạnh.

Dương Hổ vẫn đang chờ đợi tin tức của mình ở thôn Hình. Nếu việc ám sát

không thành công mà mình lại chết ở nơi này, với tính tình của hắn, nhất định hắn

sẽ bất chấp hậu quả mà tìm tới tận cửa nhà y. Mình làm nốt một việc cuối cùng cho

y vậy.

Thôi Oanh Nhi mím môi suy nghĩ. Nàng không biết chữ, lại không dám lay gọi

Dương Lăng dậy để tiếp tục bàn bạc "hiệp nghị quân tử" gì đó. Do dự hồi lâu nàng

mới chợt xé nửa tấm màn che, cắn đầu ngón tay nguệch ngoạc vài nét vẽ, khẽ bày

tấm vải lên trên bàn, lách người bỏ đi.

Cửa phòng vừa đóng lại, lòng nàng chợt thắc thỏm, hồn trôi lãng đãng không

biết bay về nơi chốn nào. Một thoáng thất thần ấy, với nàng mà nói, như nhoáng cả

nghìn năm.

Thoáng nghe thấy thang gác kế bên có tiếng người bước lên lầu, nàng mới như

choàng tỉnh mộng, vội vã lách người tránh sang một bên.

Lúc cửa phòng vừa đóng lại, vai của Dương Lăng thoáng run lên. Vai, lưng và

trán túa mồ hôi lạnh đầm đìa.

Ban nãy chiến đấu kịch liệt một trận mướt cả mồ hôi, chẳng những men rượu

tan hết, mà sau cơn mê điên cuồng, hiệu quả của thuốc cũng chậm rãi tan đi. Cóđiều loại thuốc nọ có tác dụng gây mê, cho nên y vẫn thấy váng đầu.

Song khi y vừa khôi phục lại ý thức liền lập tức nhớ lại cả thảy. Chăn nệm bừa

bãi khắp giường, mà người con gái vừa mới cùng y giao hoan thoả thích lại là người

mà y không thể động tới, không nên động tới. Giờ y phải đối diện với nàng ta thế

nào?

Nếu như người con gái đó chưa có chồng, cùng lắm thì y sẽ thẳng thắn nhận lỗi,

cưới nàng về. Nhưng giờ biết làm thế nào đây?

Lúc đó Dương Lăng thật sự lo lắng, không biết phải làm thế nào, mồ hôi vã ra

như tắm. Hai người đang lõa thể nằm sõng sượt, cận kề hết sức thân mật, một khi

tỉnh táo trở lại, lõa lồ đối mặt như vậy, có thể nghe được hơi thở của nhau, chẳng lẽ

mở miệng "Xin chào" à?

Cho nên bất đắc dĩ Dương Lăng đành phải giả vờ ngủ tiếp, tạm tránh tình

huống khó xử trước mắt rồi mới tìm cách xử lí sau.

Lúc Hồng Nương Tử đứng cầm kiếm thút thít bên giường, y lén hí mắt nhìn.

Qua hình ảnh phản chiếu trên cột giường được sơn láng bóng nơi góc giường y có

thể nhìn thấy rõ ràng biểu hiện của nàng, cho nên bèn vờ nói mớ lầm tưởng nàng là

Thúy Vân cô nương.

Tuy rằng xử lý thế này hơi dại dột, song năm xưa Trịnh Thiếu Bằng từng đọc

tiểu thuyết võ hiệp, nhớ trong truyện của lãng tử Cổ Long, khi Giang Tiểu Ngư lỡ

thấy tấm thân trần của Mộ Dung Cửu, gã bèn cứ trân mắt nói bừa, vờ như trong

phòng không có người. Nghe đâu cho dù phụ nữ biết rõ đó là lời nói dối, song với

tâm lí trốn tránh hiện thực, nàng ta cũng sẽ có thể giảm bớt nỗi xấu hổ và quẫn

bách. Nay y đành thử một phen.

Nếu như Hồng Nương Tử vẫn cương quyết muốn giết y thì cho dù trong lòng

hổ thẹn, y cũng quyết sẽ không chịu đưa đầu ra chịu chém. Y còn nhớ Hồng Nương

Tử lúc ở trên giường không nhấc nổi tay chân, cũng từng khóc lóc van nài cầu xin y

rằng cả hai đã đều bị đầu độc. Y thầm tính nếu như nàng ta động thủ, mình thừa lúc

nàng ta chưa hồi phục sức lực mà kéo chăn vật lộn một phen, lúc ấy chưa chắckhông chế trụ được một người con gái đã mất hết sức lực.

Y lại không biết lúc đó Hồng Nương Tử đã khôi phục sức lực được ba phần,

nếu nàng vẫn quyết định giết y thì y vẫn sẽ khó thoát cái chết.

May mà lúc ấy Thôi Oanh Nhi chỉ thẫn thờ, ngơ ngẩn. Lúc thì nàng ngửa mặt

lên trời khi lại cúi nhìn xuống đất, chốc thì nghiến răng nghiến lợi, khi lại âm thầm

rơi lệ, sau đó lại buông tay bỏ đi. Dương Lăng vừa ngạc nhiên vừa thở phào nhẹ

nhõm, hiện tại y thật sự chưa sẵn sàng để đối diện với người phụ nữ này.

Nằm úp sấp tại chỗ thêm một chốc, xác định không có tiếng động gì nữa, y mới

quay đầu lại ngó ra ngoài.

Vừa mới quay đầu, y chợt bắt gặp một cặp mắt long lanh đang nhìn mình. Bốn

mắt nhìn nhau, cùng lộ vẻ kinh ngạc.

Hồng Nương Tử vốn định bàn bạc điều kiện với Dương Lăng xong xuôi rồi sẽ

bỏ đi, cho nên nhát chưởng đánh lên gáy Liễu Phi Vũ không mạnh. Lúc hai người

nằm ở trên giường điên loan đảo phượng, triền miên chăn gối, thì vị tiểu cô nương

này đã tỉnh rồi.

Nàng kinh ngạc thấy mình vẫn bình yên vô sự ngồi trên ghế, còn trên giường lại

không biết là vị bồ tát cứu khổ cứu nạn nào đó đang thay nàng hứng chịu sự công

kích điên cuồng của kẻ đó, thế là tròn xoe con mắt.

Liễu Phi Vũ ngơ ngác không biết làm thế nào, nhìn thì cũng không dám nhìn,

chạy cũng không dám chạy, đành phải nhắm mắt ngủ vờ. Tai vẫn nghe rõ những âm

thanh phiền lòng đó khiến cho con tim tiểu thư nhà họ Liễu mới biết yêu không

khỏi loạn nhịp, mặt đỏ bừng bừng. Có điều tuy vẻ mặt cô nàng khác thường, song

đang là lúc cao trào, cho dù cô nàng có đứng dậy châm trà, ung dung ngồi uống rồi

trở về vờ ngủ thì cũng chưa chắc hai người trên giường nhận biết.

Lúc Hồng Nương Tử xuống giường, cầm kiếm chĩa vào sống lưng Dương

Lăng, trong lòng đấu tranh dữ dội, Liễu Phi Vũ không nghe thấy có tiếng động gì

bèn len lén mở mắt ra nhìn, đã trông thấy hết thảy. Tuy rằng cô nàng không biết đãxảy ra chuyện gì, song lại mong sao vị cô nương đó đâm cho một kiếm kết liễu

Dương Lăng, bèn âm thầm cỗ vũ cho Thôi Oanh Nhi, ai ngờ nàng lại thu kiếm bỏ

đi.

Liễu Phi Vũ nghe thấy nàng đóng cửa, lấy làm khó hiểu, bèn mở to hai mắt

quan sát, suy ngẫm. Ai dè sau một lúc lại chạm phải ánh mắt "đang ngủ" của Dương

Lăng. Hai người tròn xoe bốn mắt nhìn nhau hồi lâu, Liễu Phi Vũ mấp máy mấy lần

như muốn nói, rồi bỗng nhắm mắt lại, đầu nghẹo sang bên, "hôn mê" tiếp.

Dương Lăng nhảy xuống giường. Liễu Phi Vũ thoáng run rẩy, mở mắt ra nhìn,

thấy một vật "gớm ghiếc" đang đong đưa trước mặt mình, cô nàng sợ quá bèn vội

nhắm nghiền mắt lại, tiếp tục "hôn mê".

Dương Lăng cũng mặc kệ cô nàng. Y mặc lại áo quần, rồi đi đến trước bàn cầm

chén rượu mình đã uống lên ngửi ngửi, rồi lại cầm lấy chén trà mà Hồng Nương Tử

đã uống ngửi tiếp. Nhưng trong chén của y không hề có mùi thuốc gì, trong chén

của Hồng Nương Tử lại là thuốc do Di Lặc giáo đặc chế, thành phần quý hiếm,

không phải là loại "thuốc mê" thông thường phải bỏ vào rượu mới át mùi, cho nên y

cũng không ngửi được mùi gì lạ.

Lúc này Dương Lăng mới nhấc ghế tới trước mặt Liễu Phi Vũ, đặt xuống đánh

"cộp". Thân thể yêu kiều đang "hôn mê" liền thoáng co rúm lại. Dương Lăng ngồi

nghiêm trên ghế, nén giọng gọi:

- Thúy Vân cô nương!

Tỉnh lại hay bất tỉnh tiếp đây? Liễu Phi Vũ đang đau đầu với vấn đề này thì đùi

chợt bị vỗ "bốp" thật mạnh, nàng la "oái" lên, trợn tròn hai mắt. Ánh mắt của gã đàn

ông trước mặt lạnh tanh, dò xét nàng một lúc mới chậm rãi hỏi:

- Rốt cuộc cô là ai?

- Á? - Liễu Phi Vũ ngớ người, mắt tròn xoe, luống cuống đáp - Thiếp... thiếp là

một kỹ nữ!Dương Lăng khẽ nhếch miệng cười, bảo:

- Đáp án có vẻ không tệ. Vậy thì... mục đích cô tiếp cận bản quan là gì?

- Á?

Liễu Phi Vũ lại há miệng mấp máy như cá đớp không khí, hồi lâu mà vẫn

không nói được câu nào.

Dương Lăng chợt nghiêm sắc mặt lại, lạnh nhạt hỏi:

- Đêm nay bản quan bị trúng phải loại thuốc lạ, đúng không? Cô nên biết rằng

dùng thuốc mê hoặc mệnh quan triều đình, cho dù không phải là thuốc độc hại

người thì vẫn là tội mất đầu! Cô nương! Cô phải biết rằng, thảng như bản quan

muốn giết cô thì chỉ cần một câu. Hiện tại trong thành đang lùng sục người của tà

giáo Di Lặc, chỉ cần gán cho cô một tội danh thì cả nhà già trẻ lớn bé của cô đều sẽ

bị thiêu sống đó!

Liễu Phi Vũ trượt người quỳ sụp xuống đất, bắt đầu khai dối. Việc đã đến nước

này, cô nàng thật không kiếm ra được cái cớ nào khác, đã có người giúp nàng gỡ cái

họa thất thân, nhất thời cũng không còn dũng khí liều mạng giết quan, đành phải vờ

ra vẻ hiếu nữ mà khóc lóc nỉ non...

*****

Lúc xảy ra "doanh khiếu", đại quân của Vương Thủ Nhân đang hành quân đêm

cấp tốc trở về Đại Đồng.

Năm cánh quân lớn đã tiến vững đánh chắc truy kích tàn quân của Bá Nhan,

Hỏa Sư. Đối mặt quân đội Thát Đát đã mất ý chí chiến đấu, lòng quân tan rã, sự

mạnh tợn cá nhân của từng quân sĩ hoàn toàn không phát huy được tác dụng gì nên

cả năm cánh quân lớn đều gặt hái kết quả lớn. Đuổi đuổi được mấy trăm dặm,

Vương Thủ Nhân cảm thấy chiến tuyến đã bắt đầu lan rộng, không tiện chi viện và

tiếp ứng nên hắn bèn quyết đoán hạ lệnh kéo cả năm cánh quân trở về.

Đánh đêm và hành quân đêm đều nguy hiểm cả. Quân đội được chỉ huy bởi cờxí và kèn trống, ban đêm khó truyền đạt mệnh lệnh một cách hiệu quả. Nhất là trên

chiến trường tối đen như mực, rất khó để cho quân sĩ có thể tiếp nhận tin tức chuẩn

xác, cho nên dễ hoảng hốt lúng túng. Vì thế đánh đêm gặp rủi ro về sự bất ổn định

quá cao. Một đội quân chưa được huấn luyện chu đáo mà phải hành quân đêm, cho

dù không gặp phải quân địch trong đêm tối, đôi lúc vẫn tán loạn đội ngũ. Cho nên

tướng lĩnh có tài giỏi cỡ nào cũng không dám tùy tiện hành quân ban đêm.

Vì gần về tới Đại Đồng, khí thế đang lên cao, cộng thêm đêm đó trăng sáng

ngời ngợi, hơn nữa trong khoảng thời gian này quân đội của hắn đã không ngừng

quấy rối Hỏa Sư, kinh nghiệm tác chiến dã ngoại hết sức phong phú, sĩ tốt không dễ

gì rơi vào hoảng loạn, cho nên hắn mới đồng ý cho hành quân thâu đêm quay về.

Không ngờ lúc chạy tới chỗ quân doanh lại nghe thấy tiếng la hét thảm thiết

như ma tru quỷ hú cùng tiếng binh khí va chạm nhau hỗn loạn. Thoạt đầu nghe bẩm

báo lại, Vương Thủ Nhân còn ngỡ rằng trước khi rút lui Bá Nhan đã phái vài tốp

quân nhỏ lưu lại phía sau để quấy nhiễu và tập kích quân doanh, bèn lập tức ra lệnh

cho đại quân bao vây cả doanh trại lại, rồi chậm rãi thắt chặt vòng vây.

Thế nhưng, mãi vẫn không thấy có người bắn tên ngăn trở. Đến khi đại quân

tiến sát đến tường trại quân doanh dựng bởi hàng rào, cọc gỗ và chiến hào, qua ánh

trăng hắn mới thấy được những tiếng la hét chém giết vong mạng bên trong đều của

quân nhân Đại Minh. Doanh khiếu là chuyện không thường hay xảy ra, nhưng

những tay lính lão luyện trong quân đội ít nhiều đều đã từng nghe nói đến việc thần

kỳ ấy, nghe đâu đó là do Tử thần nổi cơn thịnh nộ hay thần Thái tuế bị kinh động,

cho nên lúc doanh khiếu binh sĩ giống như phát rồ, hoàn toàn mất đi lý trí.

Bọn lính trông thấy binh sĩ trong doanh trại mất hết lý trí, không thèm né tránh,

cứ cầm lấy đao thương đâm chém lẫn nhau hết sức dũng mãnh, đều là dùng mạng

đổi mạng, thì không khỏi ớn lạnh cả người, chân tay luống cuống, thế là không dám

tiến thêm.

Vương Thủ Nhân thuộc làu binh thư, biết được trong lịch sử tình huống như

vậy đã từng xảy ra nhiều lần, chủ yếu là do quy định trong quân doanh quá ư hà

khắc. To tiếng lớn giọng, giết! Ruổi ngựa chạy nhanh, giết! Thậm chí tung ít tinđồn, đặt chuyện pha trò cũng có thể bị tội chém đầu.

Đời lính là một cuộc sống đầy rẫy những nơm nớp lo sợ, áp lực về mặt tinh

thần qua năm này tháng nọ khó thể tưởng tượng được. Ngoài ra quan quân mặc ý

chèn ép binh sĩ, lính cũ kết bè kết đảng ức hiếp lính mới, kéo bè kéo phái đấu đá lẫn

nhau, tất cả những mâu thuẫn đó dồn ứ năm này sang năm khác, đều nhờ quân kỷ

nghiêm ghắc đè nén xuống. Một khi ngẫu nhiên có kẻ hoảng sợ thét to giữa đêm sẽ

rất dễ khiến cho toàn quân bị khủng hoảng.

Binh sĩ trong doanh trại đã phải trải qua bao trận đại chiến, vẫn chưa được nghỉ

ngơi chỉnh đốn lại, tâm tình vốn dĩ nóng nảy bất an. Mã đô ti nhậm chức xong lại

quất roi chỉnh quân, không cho phép binh sĩ ăn bữa cơm tối, rất nhiều người vì thế

mà tâm thần bất ổn. Kết quả là một binh sĩ nằm mơ kêu thét đã khiến cho toàn bộ

quân doanh bùng nổ.

Tám chín phần mười những kẻ động thủ đầu tiên là những binh sĩ vẫn còn bảo

trì sự thanh tỉnh, song muốn thừa cơ "có oán trả oán", "có thù báo thù" mà thôi.

Song khi vừa thấy máu, liền cũng sẽ học theo binh sĩ bị mất đi lý trí mà la hét điên

cuồng. Cho nên, dưới trạng thái như vậy, đánh thức tỉnh bọn họ là việc làm hết sức

vô vọng.

Vương Thủ Nhân không dám ra lệnh cho quân đội xông vào ngăn cản, làm vậy

rất có thể sẽ khiến cho những binh sĩ còn tràn trề sinh lực cũng bị kéo vào trong

vòng xoáy điên cuồng, khiến cho bạo loạn càng lan rộng hơn. Vì vậy hắn lập tức hạ

lệnh cho toàn quân phòng bị, bắt đầu phóng hỏa thiêu hủy tường hào ngăn cản

chung quanh, ánh sáng sẽ khiến cho phần đông binh sĩ thanh tỉnh trở lại.

Tiếp đó Vương Thủ Nhân tập trung những xạ thủ giỏi trong quân lại, đi lòng

vòng ngoài doanh trại, chỉ cần thấy binh sĩ nào điên cuồng giết người không ngừng

nghỉ thì sẽ lập tức bắn chết không chút nương tay. Những mũi tên lạnh lẽo vô tình

lấy đi từng tính mạng một, theo đó số lượng những binh sĩ điên cuồng nhất dần dần

giảm bớt, đám binh sĩ dần dần bình tĩnh trở lại. Bọn họ đứng ngây ra đấy trong

doanh trại, bần thần sững sờ, người nhuộm đầy máu.

Vương Thủ Nhân thấy lửa cháy chung quanh sắp tắt, trong doanh cũng đã bìnhtĩnh trở lại, lúc này mới ra lệnh cho đại quân tiến vào doanh, tước vũ khí của bọn họ

rồi tách ra giam giữ, hễ có kẻ nào phản kháng là lập tức giết ngay. Thủ đoạn tàn

nhẫn này rốt cuộc cũng đã dẹp yên "doanh khiếu". Nhưng dưới ánh lửa là thây chất

đầy đất, người chết không dưới hai nghìn, kẻ bị thương nhiều vô số kể, quả thật tổn

hại còn lớn hơn nhiều tổn thất do đại quân Thát Đát tập kích doanh trại mang lại...

Vương Thủ Nhân vừa sai người canh chừng sĩ tốt, xử lí thi thể, băng bó cho

người bị thương, vừa sai thám mã cấp báo về cho Tam quan tổng chế Dương Nhất

Thanh, mời hắn điều tra xử lí.

Lửa cháy trong quân doanh dần tắt, gió thổi khói bay, mùi khói cay nồng mang

theo mùi tanh của máu; khung cảnh thê thảm hoang liêu khôn kể xiết...

*****NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 215: Đêm Khuya Thẩm Vấn (Phần 2)

- Lòng hiếu thuận thật đáng khen! - Dương Lăng gật đầu tán đồng - Cốc Đại

Dụng thanh trừng bừa bãi, quan viên bị bắt bớ rất nhiều khiến cho lòng người dao

động. Sáng sớm hôm nay bản quan đã dâng tấu khuyên can hoàng thượng, xin ngài

tức tốc ngăn chặn và đã được chuẩn tấu. Cũng bởi việc này mà đêm nay gần như

toàn bộ quan văn tướng võ Đại Đồng kéo tới đây dự tiệc.

- Thật ư?

Liễu Phi Vũ ngạc nhiên xen lẫn vui mừng. Mặc dù nàng nghe nói Dương Lăng

mới chính là kẻ chủ mưu của sự kiện này, có điều y là quan lớn như vậy ít nhất cũng

sẽ không dối gạt là đã ngăn chặn việc bắt bớ bừa bãi này.

- Dĩ nhiên!

Ánh mắt Dương Lăng chợt nghiêm lại, y hỏi tiếp:

- Vấn đề là... Cô là một thiên kim tiểu thư, cho dù có dũng khí tự hiến thân

chung gối, cho dù tú bà hám tiền chịu giúp cô đi chăng nữa, thì còn chuyện bản

quan uống phải thảo dược và vị... a hèm... vị cô nương nọ bị trúng nhuyễn cốt tán

là thế nào?

Trong lòng Liễu Phi Vũ thầm nổi lửa. Nàng nhớ lại cái thứ thuốc mà Hồng Cô

bảo là "thuốc ngừa thai" nọ thực chất là nhuyễn cốt tán, do phòng ngừa nàng phản

kháng mà cho vào. Không ngờ vì muốn cài mật thám bên người Dương Lăng mà

thánh giáo lại không từ thủ đoạn như vậy, thật sự khiến người ta phải rùng mình.

Nhưng cả nhà đều là giáo đồ Di Lặc giáo, làm sao nàng dám tự bộc lộ thân thế?

Liễu Phi Vũ đỏ mặt, ấp úng đáp:- Vì... vì đây là nơi ô uế, có mấy thứ đó cũng là bình thường, cho nên tú bà

Hồng Cô bảo tiểu nữ... lấy...

Dương Lăng bật cười thành tiếng, hỏi rõ hơn:

- Ý của bản quan là nếu cô đã tự nguyện hiến thân để cứu cha, chuyện hạ dược

bản quan còn có thể hiểu được, nhưng cớ sao lại còn chuẩn bị một phần thuốc nữa

cho mình?

- Việc này...

Trán Liễu Phi Vũ mướt mồ hôi, mắt nhấp nha nhấp nháy, không biết phải trả lời

thế nào. Quan sát cô nàng một lúc lâu, Dương Lăng chợt cả kinh trong lòng, suýt

nữa đã túa mồ hôi hột đầy người: "Sự tình hôm nay đã trở nên quá phức tạp, vô vàn

khúc mắc không được rõ ràng. Mình chỉ lo thẩm vấn nàng ta mà lại quên mất bên

người mình không hề có lấy một tên thị vệ, nếu như cô gái này có ác ý và lại có bản

lĩnh thì mình biết lấy gì để chống cự đây?"

Liễu Phi Vũ một mực không dám phản kháng chính là vì một khi sự tình bị tiết

lộ thì cả nhà nàng đều sẽ gặp họa mất đầu, cho nên mới ép dạ ẩn nhẫn. Nhưng vừa

nghe thấy Dương Lăng hỏi như vậy, tức thì nàng lo sợ mọi việc sẽ bị bại lộ. Tuy

nàng chỉ luyện chút công phu mèo quào, dùng để cường thân kiện thể thì được, chứ

còn thật sự đánh nhau chưa chắc đã đánh lại Dương Lăng. Nhưng nàng cũng sẽ

không chịu ngồi khoanh tay chờ chết.

Liễu Phi Vũ đang do dự tính rút cây trâm cài đầu tìm cách đâm chết y, Dương

Lăng bỗng bật cười bảo:

- Ta hiểu rồi! Vì muốn cứu cha khỏi chết, bất đắc dĩ cô mới chủ động hạ mình

cầu cạnh ta, lại sợ đến khi đụng chuyện sẽ hoảng sợ chùn chân nên mới bịt kín

đường lui của mình. Cô thực là dụng tâm đến khổ. Ôi! Cô đứng lên đi, qua thêm

một đêm ở đây nữa thì danh tiết của cô sẽ bị hủy hoại hết thôi! Để bản quan đưa cô

về, sáng ngày mai hẳn cha cô cũng sẽ được thả về nhà thôi.

Dẫu sao Liễu Phi Vũ vẫn là một tiểu cô nương chưa trải sự đời, không phải làngười được huấn luyện lâu năm trong Di Lặc giáo, nên không biết được đó là kế

hoãn binh của Dương Lăng. Nghe vậy nàng lập tức mừng rỡ vô cùng, liền vội bái tạ

rồi đứng lên.

Dương Lăng lại đằng hắng bảo:

- Cô cho rằng bản quan giở trò như vậy à? Vị cô nương khi nãy là thị vệ cận

thân của bản quan, chỉ vì bản quan trúng phải phải thảo dược mà mất đi lí trí, cho

nên bản quan mới... Chậc! Xưa nay bản quan luôn giữ lễ với nàng ấy, nay khó trách

nàng ấy hổ thẹn và phẫn nộ như vậy. Việc đã đến nước này, bản quan sẽ tự thu xếp

cho nàng ấy một danh phận. Có điều chuyện này liên quan đến danh tiết phụ nữ, cô

nhớ đừng ra ngoài nói xằng nói xiên, bằng không đến khi truy cứu chuyện cô hạ

dược bản quan, bản quan cũng không bảo vệ được tính mạng cả nhà cô đâu.

Nhớ lại màn nóng bỏng khi nãy, Liễu Phi Vũ liền đỏ bừng hai má, vừa ngượng

ngùng vừa sợ sệt đồng ý ngay.

Dương Lăng bước tới bên bàn, nhặt bức vẽ lên. Y không hề xem kỹ, nhét luôn

vào trong ống tay áo rồi xoay người bảo:

- Đi thôi!

Dương Lăng dẫn Liễu Phi Vũ ra đến đại sảnh. Lúc này đêm đã về khuya, trong

đại sảnh vẫn còn hơn chục tay quan tướng đã say mèm, nằm gục xuống bàn ngủ

thiếp.

Trông thấy ngoài cửa vẫn còn hai tên nô bộc của tửu lâu chầu chực, Dương

Lăng bèn mỉm cười gọi bảo:

- Đi! Bản quan là Dương Lăng, đi gọi thị vệ của bản quan vào, ta có chuyện

muốn nói.

Tên nô bộc đó không dám chậm trễ vội chạy đi. Chỉ chốc sau Ngũ Hán Siêu,

một mực trung thành đứng canh ngoài cửa, đã áo mũ chỉnh tề, dẫn hơn mười tay thị

vệ dũng mãnh xông vào. Trông thấy Dương Lăng chàng ta liền lập tức chắp taychào:

- Đại nhân!

Thấy Ngũ Hán Siêu đã đến, Dương Lăng thở phào nhẹ nhõm, bèn vội bước qua

nói nhỏ vài câu. Ngũ Hán Siêu thoáng nhìn y với vẻ ngạc nhiên xen lẫn nghi ngờ,

liền đó vẫy gọi hai tay thị vệ mặc giáp lại, căn dặn mấy câu. Hai người bọn họ xoay

người chạy biến đi, không lâu sau đã nghe thấy tiếng quân sĩ hò hét nổi lên khắp

nơi, vô số binh sĩ ùa vào toà nhà.

Dương Lăng tức thì nghiêm mặt, đanh giọng quát:

- Bên ngoài đã bị bản quan bao vây. Các thị vệ lập tức đi tìm đại nhân nhà

mình, bảo vệ cẩn thận, không được để xảy ra sơ suất gì!

Hán Siêu, cho quân vây "Diễm Vân Lâu" lại, bắt lấy tú bà Hồng Cô cho ta!

Liễu Phi Vũ cả kinh, giận dữ nói:

- Ngươi... ngươi gạt ta?

Dương Lăng bật cười khanh khách, quay sang Liễu Phi Vũ bảo:

- Cô yên tâm! Nếu như những gì cô nói là thật, bản quan quyết sẽ không trị tội

cô. Thế nhưng bản quan sẽ không tha cho tú bà Hồng Cô trong tửu lâu này!

Nói rồi y lại quay sang Ngũ Hán Siêu dặn dò:

- Liễu cô nương là nhân chứng quan trọng, phái người đưa cô ta về bảo vệ cẩn

thận!

Ngũ Hán Siêu khoát tay, hai thị vệ liền xông tới nhấc bổng Liễu Phi Vũ lên lôi

đi, mặc kệ cô nàng la hét. Lúc này mấy tay tướng quân say rượu trong sảnh cũng đã

tỉnh lại, trông thấy vậy thì trố mắt ra nhìn, không biết đã xảy ra chuyện gì.

Hiện tại Dương Lăng có muốn cũng không dám nghĩ tới Hồng Nương Tử, và

không biết phải đối diện với tình huống hôm nay thế nào. Y lại sợ Liễu Phi Vũ sẽnói xằng nói xiên chuyện ban nãy ra trước mặt mọi người, lúc này thấy cô nàng bị

tâm phúc của mình mang đi khuất mới thở phào một hơi. Y vội vã vừa cười trừ vừa

giải thích với mấy vị tướng quân mấy câu, rằng y bị Hồng Cô hạ dâm dược, cho nên

muốn đưa mụ ta đi tra hỏi.

Mấy tay tướng quân đó không biết sự tình nghiêm trọng thế nào. Nghe xong thì

cả bọn bật cười ha hả, lè nhè nịnh hót nào là Dương khâm sai khoẻ như rồng, mạnh

như hổ, chơi gái còn cần đến thuốc để trợ hứng sao? Tú bà đó rõ là muốn vuốt đuôi

mà vuốt phải đùi! Miệng nịnh nhưng trong lòng các vị tướng quân nọ lại cảm thấy

Dương Lăng làm to chuyện quá đáng, điều động binh mã bao vây tửu lâu như thế

này thì có phần "chuyện bé xé ra to", chẳng qua cả bọn vẫn không dám nói ra miệng

mà thôi.

Đám tướng quân say rượu này đều không phải là loại mê nữ sắc, nay việc đã ồn

ào đến như vậy rồi nên cả bọn bèn loạng choạng lắc lư cáo từ, dẫn thân binh nhà

mình ra về.

Dương Lăng không biết chuyện hôm nay hàm chứa bao nhiêu âm mưu, sợ rằng

quan viên trong tửu lâu có người bị hại, vì vậy cho gọi toàn bộ binh tướng của bọn

họ vào đưa bọn họ về nhà. Nửa đêm bị đánh thức dậy, lại nghe lý do không rõ ràng,

các vị đại nhân đều cảm thấy Dương Lăng làm vậy có phần quá lố. Nhưng nếu vị

khâm sai này đã muốn biểu lộ sự thanh liêm như vậy, bọn họ cũng không tiện nán

lại thêm nữa, bèn lũ lượt cáo từ ra về.

Mấy chục vị quan viên trong toà nhà, cộng thêm thân binh cận vệ khiến cho

khung cảnh trở nên hết sức hỗn loạn. Nhưng Dương Lăng phải lo lắng đến quá

nhiều thứ, vừa sợ quan viên phân tán các nơi sẽ có người bị hại, lại lo tú bà Hồng

Cô nọ sẽ thừa cơ bỏ trốn, nên đâu thể nào trong địa bàn của người khác mà âm thầm

lặng lẽ đưa tiễn đám đại nhân này đi khỏi rồi mới lùng bắt Hồng Cô?

Cho nên hiện tại y cũng chỉ đành dùng tạm lý do này để ứng phó. Lợi dụng lúc

hỗn loạn, Trương Dần âm thầm căn dặn gã pháp sư tâm phúc cải trang làm quan

trung quân nọ mấy câu, rồi cũng tiến lên bắt chuyện với Dương Lăng một hồi, đợi

khi thấy gã quan trung quân nọ trở về gật đầu ra hiệu với hắn, hắn mới chắp tay cáotừ.

Vất vả tống tiễn các vị quan viên xong, đại sảnh liền trở nên vắng vẻ đến thê

lương. Chỉ còn lại binh mã của Dương Lăng và đám nô bộc, tú bà, nha hoàn, kỹ nữ

và chủ kỹ viện bị tập trung dưới sảnh, chỉ có điều vị tú bà Hồng Cô là không biết đã

đi đâu mất dạng. Ngũ Hán Siêu sai thị vệ vốn thuộc Nội xưởng gọi mấy tay nô bộc

dẫn đi lần lượt lục soát khắp nơi.

Dương Lăng quan sát sắc mặt lúc xanh lúc trắng của người chủ kỹ viện. Y thấy

bà này là một phụ nữ luống tuổi có khuôn mặt phúc hậu, da dẻ mịn màng, đeo vàng

xỏ bạc, liền chỉ mụ bảo:

- Ngươi! Tên là gì? Bước lên phía trước trả lời!

Mụ chủ run lẩy bẩy nhào tới quỳ mọp xuống đất, khóc rú lên:

- Đại nhân! Nô tì là Thủy Diệp Tử, là người chủ của Diễm Vân Lâu này, xin đại

lão gia xét hỏi.

Dương Lăng hừ lạnh, hỏi:

- Người là người nơi nào? Kinh doanh Diễm Vân Lâu được bao năm rồi? Hồng

Cô làm cho tửu lâu của ngươi được bao lâu rồi?

Thủy Diệp Tử quệt lau nước mắt nước mũi rồi đáp:

- Đại nhân, nô tì là người Đại Đồng, năm nay năm mươi bảy tuổi, từ nhỏ đã bán

thân làm kỹ nữ cho Trạng Nguyên Lâu. Hai mươi ba năm trước nô tì tự chuộc thân

rồi mở Diễm Vân Lâu này, bấy lâu nay không hề dám làm xằng làm bậy gì cả, đại

nhân! Hồng Cô đó không phải là người bản xứ, hai năm trước đến Diễm Vân Lâu,

vốn nhận làm sai vặt. Do nô tì thấy ả nhanh mồm nhẩu miệng, lại rất biết cách đối

nhân xử thế nên đề bạt ả làm quản sự. Nào ngờ loại trời đánh đó lại ăn phải gan

hùm mật gấu, dám hạ dược với đại nhân. Ôi... hu... hu... ôi...

Dương Lăng nghe bà già này diễn màn khóc lóc nước mắt nước mũi ràn rụa,

không khỏi lấy làm kinh tởm, khoát tay bảo:- Thôi, thôi đi! Đừng khóc lóc ỉ ôi nữa! Chỉ cần việc này không liên quan tới

ngươi, bản quan sẽ không đổ vạ cho người vô tội đâu.

Y nghĩ ngợi một lúc rồi lại hỏi:

- Thủy Diệp Tử! Bản quan hỏi ngươi: việc đãi tiệc hôm nay có những ai biết

được?

Thủy Diệp Tử hầu hạ người khác lâu năm, làm gì thật sự ở bẩn như vậy. Các trò

hề khi nãy đều chỉ nhằm khiến cho Dương Lăng chán ghét, không quở mắng nặng

nề mụ ta mà thôi. Mụ vẫn không dám không đáp thật khi nghe y hỏi, nên vội suy

nghĩ cẩn thận rồi đáp:

- Buổi chiều hôm qua nô tì nhận được thiệp của Trương đại nhân, biết rằng phải

chiêu đãi hơn trăm vị quan lớn, liền vội vã đặt mua các loại đồ ăn thượng đẳng, quét

dọn toàn bộ tửu lâu, bảo đám cô nương chuẩn bị thật tốt, lại thông báo cho khách

quen hôm nay đừng đến...

Dương Lăng nghe xong liền nghĩ thầm: "Thôi! Hơn trăm vị quan viên, trên

nghìn thân binh, rồi toàn bộ trên dưới Diễm Vân Lâu, lại thông báo cho khách làng

chơi của tửu điếm rồi đi mua sắm đồ ăn thức uống,... Tiệc rượu hôm nay e rằng cả

nửa thành Đại Đồng đã biết. Xem ra việc tra hỏi những người nắm rõ tình hình

không có mấy hy vọng rồi.

Việc vị cô nương nọ là con nhà quan lại ắt không giả, bởi một khi tra rõ thì khó

có thể gạt được người khác. Nhưng lạ là lạ ở chỗ quan sát sắc mặt thì trông cô nàng

không giống như đã biết chuyện trong rượu có thuốc nhuyễn cốt. Nếu như thật sự

có một vị tiểu thư nhà quan cầu xin giúp nàng giả làm kỹ nữ, vị Hồng Cô nọ đã lăn

lộn trong kỹ viện ít nhất hai năm, không thể nào mụ ta không biết cô nương đó có

thân thế thanh bạch, cao quí như vậy mà dám dụ dỗ làm kỹ nữ là tội rất lớn.

Cho dù mờ mắt vì lợi lớn, ít nhất cũng không có lý gì mà đã bỏ thuốc khách

làng chơi lại hạ thêm dược cô gái vốn đã tự nguyện hiến thân. Phải chăng trong

quan trường có kẻ muốn bày mưu hại mình? Với tội danh là gì?Chơi gái là chuyện phong lưu mà thôi! Luật Đại Minh đã không còn nghiêm

khắc như năm xưa nữa, huống hồ mình đang được thánh thượng sủng ái, chuyện

cỏn con thế này dứt khoát không thể lật đổ được mình.

Cưỡng dâm tiểu thư nhà quan lại? Bọn họ có thể thuyết phục con gái nhà lành

chịu đóng trò sao? Hơn nữa, đây là nơi nào chứ? Một vị thiên kim tiểu thư con nhà

quan chạy đến nơi đây làm gì? Đầy rẫy những sơ hở lớn như vậy, không tự đào hố

chôn chính mình đã là may lắm rồi còn hòng vu tội cho ai? Người nào lại ngu xuẩn

đến vậy?

Vậy thì lý do thật sự là gì? Hay là mình đa nghi, vị tiểu thư này thật sự muốn

hiến thân cứu cha và mụ tú bà đó thật sự gan lớn trùm trời? Thực tế có rất nhiều

truyện hoang đường và ly kỳ xảy ra trên đời. Có lẽ mình thật sự đã quá đa nghi

chăng?"

Ngay khi Dương Lăng bắt đầu dao động với phán đoán của mình, hai tay thị vệ

chợt chạy ào vào, thở hổn hển báo:

- Bẩm đại nhân! Trong nhà kho nhỏ chứa đồ lặt vặt dưới thang gác sau nhà vừa

phát hiện có một xác chết nữ bị người ta đâm từ sau lưng. Tạp dịch trong toà nhà

đều xác nhận người này chính là Hồng Cô!

Dương Lăng nhảy dựng lên: "Hồng Cô chết rồi? Như vậy chuyện này quả thực

hết sức lạ thường, quyết không đơn giản! Nếu đây không phải là âm mưu lớn, cớ gì

phải giết người diệt khẩu? Mình mới vừa ra lệnh bắt người, kẻ đó liền bị giết chết!

Muốn đụng đến mình, bất kể là xuất phát từ mục đích gì, xem ra nhất định là người

trong quan trường. Nhưng khi ấy trong sảnh ai cũng là kẻ đáng nghi cả, vậy biết bắt

bớ ra làm sao?

Mục đích! Việc đầu tiên cần làm là phải biết được mục đích của bọn chúng. Khi

đó việc truy tìm kẻ địch náu mình trong bóng tối sẽ được khoanh vùng rõ ràng, dễ

phát hiện hơn. Vị cô nương Liễu Phi Vũ đó xem ra rất ấu trĩ, hẳn sẽ không phải là

nhân vật quan trọng nhưng nhất định là một con cờ quan trọng của đối phương. Cô

nàng sẽ không thể nào không biết gì cả!"Chắp tay sau lưng đi lại trong phòng mấy lượt, chợt Dương Lăng ngẩng đầu

quay về phía bà chủ Thủy Diệp Tử cười ngạo nghễ:

- Thủy lão bản, thực có lỗi! Hôm nay tuy được bà chiêu đãi nhưng ngay trong

tửu lâu của bà xảy ra án mạng. Hơn nữa kẻ bị giết lại có quan hệ đến vụ trọng án,

không thể không mời các vị về tra hỏi rồi.

Đoạn y đưa mắt ra hiệu với Ngũ Hán Siêu rồi nói tiếp:

- Ha ha ha! Vất vả cho mọi người rồi. Đóng cửa nghỉ ngơi dăm bữa, không ai

chết đói được đâu! Rồi sẽ trở lại bình thường thôi!

Tức thì đám quan binh hung hãn như cọp như sói xông lên. Trong sảnh là một

bầy gà mái rụt rè, trong đó không ít những thiếu nữ tuổi xuân mơm mởn thướt tha

lộng lẫy. May nhờ kỷ luật Nội xưởng rất nghiêm, không có phiên tử nào dám thừa

cơ giở trò, cho nên không có nhiều cô nương la thét vì sợ hãi lắm.

Dương Lăng kéo ghế ngồi, chợt chạm phải mảnh vải cất vào trong ống tay áo

khi nãy, bèn lặng lẽ lấy ra xem. Thoạt mới nhìn thì y nhíu mày, nhìn kỹ một hồi mới

chợt bật cười phì, cười xong lại nghĩ: "Không ngờ giữa mình và mã tặc phản nghịch

lại có mối quan hệ phức tạp như vậy, hơn nữa người ta còn là phụ nữ đã có chồng".

Thế là sắc mặt không khỏi trở nên u sầu, y thở dài sườn sượt.

Ngũ Hán Siêu thấy đại nhân mình tay cầm mảnh vải, thoạt đầu nhíu mày trầm

tư, tiếp đến thì nhoẻn miệng cười, sau cùng mặt lại như quả mướp đắng, thì cũng tò

mò lặng lẽ sáp lại gần liếc nhòm.

Mảnh vải được bày hờ hững trên vạt áo của Dương Lăng, may nhờ Ngũ Hán

Siêu tinh mắt nên nhìn thấy được rõ ràng. Chàng thấy trên đó vẽ bốn hình vẽ đơn

giản màu đỏ: trên cùng là một đôi môi, kế bên là một trái tim, bên dưới lại là một

đôi môi, bên cạnh lại là một thỏi vàng màu đỏ.

Ngũ Hán Siêu rất lấy làm kỳ lạ: "Thiên thư gì thế này? Không phải là hai cái

miệng, một trái tim, một thỏi vàng sao? Vẻ mặt của đại nhân như vậy, chẳng lẽ đã

nhìn thấy manh mối gì rồi à?"Chàng ta cau mày suy nghĩ thật lâu, nghĩ đến nát óc vẫn không hiểu ra thâm ý

trong đó...

*****

Trốn khỏi "Diễm Vân Lâu", Thôi Oanh Nhi hoang mang đau đớn chạy lang

thang một hồi mới tránh vào bóng râm dưới bức tường cao của một ngôi nhà lớn.

Nàng cảm thấy cả người lạnh run, không dám lộ diện ngay cả dưới ánh trăng.

Sao nay lại ra nông nỗi này? Mình vốn là hảo hán lục lâm tiếng tăm vang dội, là

thủ lĩnh sơn trại người người phục tòng, khắp tam sơn ngũ nhạc có ai không tin

phục? Là nữ trung hào kiệt ra vào Thái Hành sơn, đám cướp đều phải cúi đầu. Xưa

nay mình quang minh lỗi lạc, ngửa mặt không thẹn với đất trời, cúi mặt không hổ

với phu quân, nay còn mặt mũi nào mà đi gặp Dương Hổ, mà đi gặp cha mẹ đây?!!

Mãi thật lâu sau Thôi Oanh Nhi mới bình tĩnh lại. Nàng thầm nghĩ: "Dương

Lăng là người xem trọng lời hứa lại hổ thẹn với mình, ắt sẽ thủ tín. Sau hôm nay,

chỉ cần Dương Hổ không rắp tâm tạo phản nữa, y sẽ không làm gì bất lợi với bá

tánh Bá Châu. Có y chiếu cố, sơn trại cũng sẽ không bị chèn ép quá gắt gao nữa.

Hổ ca chuộng sĩ diện, vạn lần không thể huynh ấy biết được chuyện này. Mình

sẽ đi gặp huynh ấy lần nữa, để cho huynh ấy khỏi đổ cái chết của mình lên người

Dương Lăng rồi lại vướng thân vào mà mất mạng. Rồi sau đó mình sẽ tìm một nơi

nào đó tự sát để chấm dứt mọi thứ."

Thôi Oanh Nhi lau khô lệ nơi khoé mắt. Nàng đoán Hoắc Ngũ Thúc không trà

trộn được vào Diễm Vân Lâu hoặc không tìm được nơi ở của Dương Lăng cho nên

đã không công ra về. Do đó nàng lại cẩn thận né tránh phu canh và quan binh tuần

đêm, trở về trang viên của Vương Long.

Từ đầu đến cuối không đến hai canh giờ. Lúc xuất phát thì Hồng Nương Tử

hăng hái bừng bừng, cho dù đối diện với thiên quân vạn mã cũng không sợ, nay

không ngờ lại có cảm giác không dám gặp mặt ai. Càng gần tới chỗ ở bước chân

của nàng càng do dự, thật lâu sau mới hồi phục tâm tình. Kéo ngay vạt áo, vuốt sơ

tóc tai, nàng khoác lên dáng bộ ung dung chậm rãi bước vào phòng.Thấy trong phòng đang có nến cháy, Thôi Oanh Nhi giật mình thất kinh. Từ lúc

vào ngụ trong này, tuy rằng ở nơi nhà cao cửa rộng này đốt một ít nến cũng sẽ

không bị người ngoài trông thấy, nhưng hai người vẫn không dám tùy tiện thắp nến.

Sao hôm nay Ngũ Thúc lại châm đèn?

Hồng Nương Tử lật đật chạy vào, kinh hãi thấy Hoắc Ngũ Thúc đang ngồi bệt

dưới đất, lưng dựa vào mép giường, trên mặt đất có bãi máu nôn đen thẫm. Nàng cả

kinh, vội hỏi:

- Ngũ Thúc, người bị làm sao vậy?

Vừa hỏi nàng vừa chạy ào tới đỡ lấy lão. Ánh mắt Hoắc Ngũ Thúc đang u ám,

vừa trông thấy nàng vào ánh mắt chợt sáng lên, lão cả mừng gọi:

- Oanh Nhi? Ta còn tưởng con thấy ám ký của ta nên đã rời khỏi Đại Đồng rồi

chứ? Sao con vẫn... vẫn chưa đi?

Thôi Oanh Nhi vội cầm lấy cổ tay lão, vừa bắt mạch vừa đáp:

- Con... con đã thấy kí hiệu của thúc thì làm sao mà yên tâm cho được? Cho nên

con đã ra ngoài... ra ngoài tìm thúc, lòng vòng nửa đêm không thấy bóng dáng của

thúc đâu, bèn trở về... Ngũ Thúc... thương thế của thúc...

Vừa nói đến đây, nàng chợt kinh hãi kêu lên. Mới bắt mạch, nàng liền dò thấy

tâm mạch của Hoắc Ngũ Thúc đã bị phế cả, cho dù là thần tiên cũng khó lòng cứu

được. Hoắc Ngũ Thúc bật cười to, lại thổ ra một búng máu tươi, rồi hổn hển:

- Ngũ Thúc cả đời làm cường đạo, một đôi ưng trảo vặn gãy không biết bao

nhiêu cái cổ, hôm nay có chết cũng là đúng ngày, có gì đáng buồn chứ? Con về thì

tốt rồi! Ngũ Thúc chỉ lo phải chết lẻ loi trơ trọi ở nơi này, không thể được chôn cất

tử tế, trở thành cô hồn dã quỷ lang thang vất vưởng.

Nói rồi lão run rẩy vươn tay vuốt nhẹ mái tóc Thôi Oanh Nhi. Môi Thôi Oanh

Nhi run run, lệ nóng lăn dài trên đôi má ngọc. Hoắc Ngũ Thúc nói tiếp:

- Ngũ Thúc không xong rồi! Con về nói cho đám huynh đệ cũ một tiếng, rằngHoắc Lão ngũ đi xuống âm tào địa phủ trước, đánh cướp lấy mấy ngọn núi, đợi

chúng huynh đệ cùng tới an cư. Ha ha ha! Con đừng khóc nữa! Chốc nữa chôn Ngũ

thúc rồi, con hãy mau chóng rời khỏi đây tới thôn Hình. Sau này... đừng có như con

nít nữa...

Thôi Oanh Nhi rơi lệ gật đầu, thút thít đáp:

- Ngũ Thúc, ai đã khiến cho thúc bị thương vậy? Thúc hãy nói cho con, con

phải báo thù cho thúc. Diễm Vân Lâu kiếm đâu ra cao thủ như vậy chứ?

Nhớ lại võ công xuất thần nhập hoá của tay tướng quân có vóc người hơi mập

nọ, lòng Hoắc Ngũ Thúc vẫn còn cảm thấy rét lạnh. Công phu kẻ nọ so với Thôi lão

đại phải còn cao hơn ba phần. Oanh Nhi tuy là kỳ tài tập võ, nay có thể nói là trò

giỏi hơn thầy, nhưng con bé há có thể là đối thủ của tên tướng quân không rõ tên họ

đó sao?

Triều đình là nơi ngọa hổ tàng long, có trời mới biết được trong quân đội còn có

bao nhiêu cao thủ như vậy, không thể khinh thường được. Oanh Nhi đơn thương

độc mã, lại là một đứa con gái, nếu chẳng may sơ suất rơi vào trong tay đám tửu sắc

đó...

Ánh mắt Hoắc Ngũ Thúc chợt loé lên, rồi lão cố lắc đầu mỉm cười nhằm che

giấu:

- Con bé này, sao biết thúc đã đến "Diễm Vân Lâu" vậy? Ta... ta vốn chỉ muốn

đi xem thử có cơ hội ra tay hay không thôi, nhưng nửa đường... chạm phải một kẻ

dạ hành. Hai bên không rõ lý lịch của nhau, đều sinh địch ý, thế nên... nên đã hồ đồ

đánh luôn. Ngũ Thúc bản lĩnh không bằng người... khụ khụ khụ...

Vết máu đen sì chậm rãi men theo khoé miệng lão chảy ra. Tuy Thôi Oanh Nhi

thấy lão bị thương nặng như vậy nhưng trong lòng vẫn còn mang chút hi vọng, nàng

bèn vội vạch vạt áo của Hoắc Ngũ Thúc ra. Vừa kéo ra, nàng đã thấy trên ngực lão

một dấu chưởng hằn rõ năm ngón đen ngòm.

Thôi Oanh Nhi cả kinh. Ngày trước khi cùng nhị thiếu chủ Lý Đại Nghĩa sochiêu nàng đã từng trông thấy độc chưởng như vậy. Lúc Dương Hổ mang Ngũ Hán

Siêu bị thương vào kinh nàng lại mục kích lần nữa. Ngũ Thúc ẩn náu trong núi rừng

lâu năm, không biết môn võ công này nhưng nàng lại nhận biết rõ ràng. Nàng buột

miệng kêu lên:

- Vết chưởng này... đây là... đây là công phu độc môn Độc Sa Chưởng của giáo

chủ Di Lặc Lý Phúc Đạt!

Lấy hết tinh thần và sức lực để nói những lời đó với nàng, hơi thở Hoắc Ngũ

Thúc càng lúc càng mỏng. Nhưng vừa nghe Hồng Nương Tử nói vậy lão chợt run

bắn người, cố gắng suy nghĩ: "Giáo chủ Di Lặc giáo Lý Phúc Đạt? Hóa ra... Hóa ra

hắn náu mình trong quân đội. Bản lĩnh thật lớn! Khó trách bất luận là người triều

đình hay kẻ thù Di Lặc giáo năm xưa đều không tìm ra được hắn. 'Đại ẩn là ẩn giữa

triều' (1), có ai ngờ được một vị đại quan của triều đình lại chính là khâm phạm

đang bị truy nã chứ?"

Thân thể Hoắc Ngũ Thúc run lên vì kích động. Lão bấu chặt lấy tay Thôi Oanh

Nhi, thở dốc. Lão muốn thổ lộ sự thật với nàng, kể lại phát hiện của mình, nhưng lại

chỉ có thể từ trong cặp môi đang run rẩy thều thào:

- Lý... Phúc Đạt... trốn... trốn... trong "quần"...

Lúc lão nói đến chữ "quân", khí huyết xông ngược khiến cho khí lực mất hết,

chữ "quân" bị phát âm thành chữ "quần" (nghĩa là đám/bầy/nhóm,...). Liền đó lão

"hự" một tiếng, máu miệng trào ra ồng ộc, hai mắt trợn trừng, bỏ mình tuyệt khí.

- Ngũ Thúc! Ngũ Thúc?

Thôi Oanh Nhi gục mặt xuống gối lão khóc rống một trận. Ánh trăng sáng ngời

như ganh đua với tuyết sương, rọi vào trong căn phòng trống rỗng, lạnh lẽo thê

lương. Một người con gái đang gục đầu khóc ngất bên một thây ma.

Trời còn chưa sáng, sĩ tốt đi tuần trong thành đã có phần mệt mỏi. Một đội quan

binh đang ôm trường thương chậm rãi đi trên tường thành. Bỗng trong đội có một

tay binh sĩ trỏ tay về phía xa kêu lên:- Mau nhìn kìa! Mau nhìn kìa! Trong thành cháy rồi!

Đám quan binh chen nhau tới mép tường thành, ngước mắt trông theo. Có

người la lên:

- Úi chao, con đường đó không phải là chỗ phủ họ Vương sao? Là nhà của

Vương bán nhai đó, đã bị niêm phong từ lâu rồi mà, sao lại cháy vậy? Lửa cháy to

quá!

Nhân cơ hội này, một bóng người nhanh nhẹn từ một lỗ châu mai trèo lên, thoắt

cái đã băng qua đầu thành rộng tới mấy trượng. Bóng người nhấn một tay lên lỗ

châu mai, phi thân nhảy ra khỏi tường thành, nằm lại nơi bàn tay ấn xuống là một

chiếc móc câu đen nhánh.

Trên tường thành cao cao, sợi dây thừng chắc chắn buộc vào móc câu nọ khe

khẽ đong đưa. Trên tường thành thẳng đứng như gương cao tới năm trượng, một

bóng người khéo léo như vượn thoắt cái đã leo xuống dưới thành. Người nọ chạy

dọc theo chân tường một hồi rồi náu mình vào trong bóng râm dưới thành...

*****

Chú thích:

(1): Có nhiều dị bản: "Tiểu ẩn ẩn vu dã, trung ẩn ẩn vu thị, đại ẩn ẩn vu triêu"

(Tiểu ẩn là ẩn dật ở núi rừng, trung ẩn là ẩn ở giữa chợ, đại ẩn là ẩn ở ngay chốn

triều đình);

"Tiểu ẩn tại sơn lâm, đại ẩn vu thị triêu" (Tiểu ẩn ở sơn lâm, đại ẩn ở chốn triều

đình).

Có nguồn ghi "Đại ẩn ẩn vu triêu, trung ẩn ẩn vu thị, tiểu ẩn ẩn vu dã" có xuất

xứ từ "Cổ Huấn" của Khổng Tử.NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 216 Trời Sinh Số Khổ

Dương Lăng sai người đưa toàn bộ đoàn tú bà Thủy Diệp Tử về nha môn tuần

phủ. Những người này vẫn có thể bình yên vô sự nên y phỏng đoán có đến tám chín

phần mười là bọn họ không hề liên can gì tới vụ án này. Huống hồ trong dịch quán

cũng không có chỗ nào để bố trí ổn thỏa, mục đích chủ yếu của việc giải bọn họ về

nha môn tuần phủ là để đánh lạc hướng dư luận, khiến đối thủ đoán không ra y đã

nắm được mấy phần tình hình.

Dương Lăng lặng lẽ trở về dịch quán. Lúc này trời hãy còn chưa sáng, y cũng

không muốn kinh động kẻ khác bèn bảo thân quân đi nghỉ ngơi, còn y mang mấy

người Ngũ Hán Siêu trở về thư phòng, thắp đèn, sau đó có thân quân pha trà mang

lại.

Liễu Bưu đã là một trong hai đại thiên hộ của Nội xưởng, phẩm hàm cực cao.

Dương Lăng lại không phải là kẻ thích kiểu cách vênh mặt hất hàm, há có thể bảo

hắn cải trang làm lính hầu đi dự tiệc, cho nên hắn không hề đi theo y. Nhưng Liễu

Bưu là người kiểm soát việc an ninh của cả dịch quán, nên khi Dương Lăng vừa về

lập tức có phiên tử bẩm báo, hắn liền vội khoác áo rời giường, chạy đến thư phòng.

Thấy vẻ mặt đăm chiêu của Dương Lăng, Liễu Bưu bèn cười trêu chọc:

- Đêm nay đại nhân đi dự tiệc, ti chức còn tưởng rằng đại nhân sẽ chăn ấm nệm

êm, tiêu hồn thực cốt, vốn định đợi mặt trời lên ba con sào mới đi giục mời đại nhân

trở về. Sao mới nửa đêm mà đại nhân đã trở về rồi, chẳng lẽ không có cô nương nào

vừa ý hay sao?

Dương Lăng gượng cười mấy tiếng, rồi mới nghiêm mặt lại bảo:

- Liễu Bưu, đừng nói chơi nữa. Diễm Vân Lâu này nguy hiểm trùng trùng, tathực không nghĩ ra kẻ nào muốn đối phó với ta.

Liễu Bưu vừa nghe, thần sắc liền trở nên căng thẳng, vội hỏi:

- Gì chứ? Nơi đó bá quan tụ tập, hộ vệ như mây, chẳng lẽ lại có người trà trộn

vào hành thích? Hán Siêu, chuyện này là thế nào?

Ngũ Hán Siêu hổ thẹn đáp:

- Tại hạ cũng không rõ, chỉ nghe đại nhân nói hình như là bị tú bà của Diễm

Vân Lâu bỏ thuốc, bị đại nhân phát hiện. Song điều kỳ lạ chính là, đại nhân mới vừa

hạ lệnh tra hỏi, kẻ chủ mưu nọ đã bị người ta đâm chết, giấu xác dưới thang gác.

Chuyện này không hề đơn giản chút nào.

Dương Lăng đằng hắng một tiếng rồi kể lại sự tình một lượt, chỉ lượt bỏ quá

trình "vì tình cờ" mà Hồng Nương Tử đã chạy vào "chịu nạn" thay cho người ta.

Nhưng vì y không cách nào thản nhiên đối diện với sự thật rằng cả hai đã phát sinh

quan hệ, cho nên vẫn luôn tránh không nghĩ tới nó. Lúc này kể lại chuyện vừa rồi,

những hình ảnh khiến con tim y đập thình thịch không hẹn mà lại hiện lên: Chiếc eo

thon nhỏ nhắn mềm mại mà khoẻ khoắn khiến tơ liễu phải vài phần ghen tị, bụng

dưới trơn phẳng, xương chậu lượn cong ưu mỹ, hai cặp đùi thẳng tắp mà săn chắc,

phác họa nên phần trung tâm rạng ngời hình chữ V...

Điều khiến y cảm thấy ấm ức đó là y nhớ rất rõ tất cả những gì đã xảy ra: thân

thể mềm mại dẻo dai và trơn nhẵn mà y nằm đè lên như loài rong biển dập dờn theo

sóng, đong đưa theo sự kích thích của y, rồi lại như tờ giấy Tiết Đào trắng tươm toả

ra hương thơm nhàn nhạt, mặc y bôi vẽ lên đó những kích thích của nhục dục.

Tiếng khóc nỉ non nghẹn ngào, tiếng rên rỉ du dương, tiếng van nài khẩn cầu

không rõ, từng âm từng tiết như tiếng suối chảy róc rách trong khe đá, đưa y - vốn

đã ngấm rượu mạnh nay lại càng thêm điên cuồng bởi thuốc - bay thẳng lên thiên

đường...

Liễu Bưu thấy đại nhân mình kể xong rồi ngồi ỳ ngẩn ngơ đến xuất thần thì

tưởng rằng đại nhân mình đang khổ tâm lo nghĩ đến kẻ chủ mưu đằng sau, bèn xắntay áo lên cười gằn:

- Đại nhân, việc ấy có khó gì. Vị Liễu tiểu thư nọ chẳng phải đã rơi vào trong

tay chúng ta ư? Hà hà! Một trăm hai mươi tám cực hình của Nội xưởng một khi sử

ra sẽ khiến xương cốt ả vụn nát không còn gì, ti chức thực không tin một ả con gái

nho nhỏ vẫn có thể kín miệng như bình!

Ngũ Hán Siêu vừa nghe Dương Lăng kể lại vừa ngẫm nghĩ kỹ về chuyện này.

Theo chàng suy nghĩ, nếu như Hồng Cô bị kẻ khác giết người diệt khẩu, vậy lý do

mà Liễu Phi Vũ tiếp cận Dương Lăng tuyệt không chỉ đơn giản như ả nói.

Nhưng nếu đối phương có thể tiếp cận đại nhân song lại không trực tiếp ra tay

hãm hại, vậy tám chín phần mười không phải là phản tặc phản nghịch oán hận triều

đình đến thấu xương, mà rất có thể là kẻ có mưu đồ khác, thậm chí là người trong

giới quan trường.

Bọn chúng dâng tặng một đại cô nương xinh đẹp, trong trắng như nước cho đại

nhân, mưu đồ ắt hẳn là để sắp đặt tai mắt bên người đại nhân, hoặc lấy cớ cưỡng

bức con gái thiên kim nhà quan mà hặc tội đại nhân.

Kẻ nào có năng lực bức bách một vị tiểu thư nhà quan lại thực hiện chuyện

nhục nhã này, lại nắm rõ hành tung của đại nhân như lòng bàn tay, đồng thời có thể

khiến tú bà của Diễm Vân Lâu nghe theo răm rắp, vừa thấy tình thế không ổn liền

có thể lập tức giết người diệt khẩu? Hơn nữa một khi thành công, hắn liền sẽ có thể

sử dụng tin tức tình báo từ phía đại nhân, hoặc mượn lý do này để vạch tội đại

nhân?

Vừa nghĩ đến đây, Ngũ Hán Siêu chợt sáng mắt lên, liền bàn:

- Liễu đại nhân! Tại hạ và ngài đều biết vị tiểu thư đó nói xằng, nhưng cũng

không thể vì mụ tú bà chết rồi mà vô chứng vô cớ buộc tội cô ả muốn mưu hại đại

nhân. Đã dâng hiến tấm thân xử nữ của mình mà lại còn bị nha môn cáo buộc là

phường trộm cướp muốn mưu hại mệnh quan triều đình! Việc như vậy há chẳng quá

hoang đường ư? Nếu ả đủ thông minh liền có thể biết chúng ta sẽ không thể dùng

cực hình với cô ả, ả chỉ cần cắn chặc răng kiên quyết không khai, khi đó chúng ta cóthể làm gì?

Nghe vậy Liễu Bưu mới sực nhớ hiện tại chỉ mới hoài nghi, không hề có bằng

chứng thật sự gì. Hơn nữa, hiện tại quan viên khắp Đại Đồng đang bị Cốc Đại Dụng

trị cho điên đầu, nếu thật sự vô chứng vô cớ mà bọn họ lại tra khảo một vị tiểu thư

con nhà quan lại, thì ngay cả Hoàng thượng cũng sẽ không biết phải trả lời thế nào.

Hắn bèn do dự hỏi:

- Vậy... Ngũ huynh có diệu kế gì không?

Ngũ Hán Siêu cười khổ nói:

- Kẻ đáng nghi quá nhiều cho nên không dễ gì tìm ra kẻ ngấm ngầm lập mưu

bầy kế. Có điều ti chức thấy có một kẻ đáng ngờ nhất, sao chúng ta không thử dùng

kẻ này gạt cô ta? Nếu vẫn không moi ra được chút tin tức gì, thì... chúng ta sẽ lại

nghĩ cách khác cũng không muộn.

Dương Lăng chăm chú:

- Ai là kẻ đáng ngờ nhất?

Ngũ Hán Siêu đáp:

- Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản! Vương Long và Lý Nghĩa đều là tướng lĩnh

dưới quyền của hắn. Hắn ta tuy còn chưa bị Hoàng thượng trách mắng, nhưng ai

sáng suốt đều nhìn thấy cho dù hắn không dâng biểu xin từ quan, thì sau khi Hoàng

thượng hồi kinh ngài cũng sẽ cho quan viên khác thay thế hắn. Hoạn lộ của kẻ này

đã đến nước đường cùng rồi.

Đại vương gia là hoàng thân; Dương tổng chế lại có quan hệ thân thiết với đại

nhân, được đại nhân chiếu cố, Hoàng thượng cũng đã để lộ ý không truy cứu ông ta.

Duy chỉ Hồ Toản là bị vứt sang một bên, hắn há sẽ không ghi hận trong lòng?

Huống hồ hắn cùng đại nhân xưa nay bất hoà.

Vả lại, hắn làm quan ở Đại Đồng nhiều năm, tay chân nhiều như rết, há lại có ít

thuộc hạ trung thành? Cũng chỉ có hắn mới có năng lực nắm rõ toàn bộ hành tungcủa đại nhân, mới có năng lực bức bách thủ hạ có quan hệ lợi ích với hắn và thiên

kim của họ dốc sức cho mình.

Hắn làm vậy có lẽ không nằm ngoài việc muốn nắm thóp đại nhân, ép đại nhân

ra mặt xin tha và giữ chức cho hắn, thậm chí nhất cử lưỡng tiện, trèo lên cùng con

thuyền với đại nhân. Thường nói rằng: "Quen biết với người trong kinh dễ làm

quan", phụ thân của ti chức là quan địa phương, đã nghe nhiều chuyện bẩn thỉu diễn

ra ở nơi biên giới xa xôi này. Hừ! Nếu như Hồ Toản có con gái trẻ tuổi xinh đẹp, e

rằng chuyện tốt lành này đã không đến lượt vị thiên kim tiểu thư nhà quan Chiếu

Ma nọ rồi.

Nghe vậy Dương Lăng thoáng đỏ mặt, ngượng ngập:

- Việc này... hình như không thể nói là "chuyện tốt" gì đâu hả? A hèm, vậy

ngươi có kế sách gì hay, hãy mau nói ra nghe thử.

*****

Liễu Phi Vũ bị nhốt trong một căn phòng trống trải, khắp nơi đầy bụi bặm lẫn

mạng nhện, xem ra đây là một gian nhà kho bỏ không đã lâu. Nàng ngồi ôm gối

giữa phòng, ánh đèn cầy mờ căm. Thỉnh thoảng nghe thấy tiếng chuột chạy lại sợ

giật nảy mình.

Ngoài cửa vang lên tiếng khoá sắt kêu lách cách, "két" một tiếng, một người

đàn ông vận áo quan màu xanh bước vào. Liễu Phi Vũ cuống quít đứng dậy, hoảng

sợ lui một bước về phía sau.

Cửa được đóng lại. Viên quan đó trông rất trẻ, chỉ khoảng hơn hai mươi tuổi,

mỉm cười hết sức hoà nhã. Hắn cất giọng với Liễu Phi Vũ:

- Liễu tiểu thư! Đêm qua uất ức cho cô phải ngủ lại nơi này, ngày mai đại nhân

sẽ đích thân thẩm vấn. Nếu thật sự cô không có âm mưu gì, đại nhân sẽ đích thân

thả cô đi.

Liễu Phi Vũ thoáng bình tâm lại, khẽ khàng chỉnh trang thi lễ rồi đáp:- Đa tạ đại nhân! Không biết tôn tính đại danh của đại nhân là chi?

- Ta à?

Liễu Bưu cười cười, rồi bất thình lình sải bước tới trước. Liễu Phi Vũ kinh hãi

lui vội mấy bước, hai tay ôm ghì lấy cây cột nhà, giọng run rẩy:

- Ngươi... ngươi muốn làm gì? Không được qua đây, còn qua nữa ta sẽ la lên

đó!

Liễu Bưu ngẩn người, có phần khó xử. Đoạn hắn vờ liếc về phía cánh cửa rồi

mới nhỏ giọng bảo:

- Đừng sợ! Ta được cấp trên căn dặn đến đây thăm viếng tiểu thư, cô yên tâm.

Hồng Cô chỉ vì tham cái lợi nhỏ nên mới giúp cô hạ dược, chỉ cần khẩu cung hai

người khớp với nhau. Dương đại... khụ khụ, Dương đại khâm sai cũng sẽ không

làm gì được cô.

Hai mắt Liễu Phi Vũ sáng rỡ, bên bờ tuyệt vọng chợt thấy có cứu viện liền

mừng rỡ như điên, nàng không khỏi cả mừng bước tới níu chặt lấy tay Liễu Bưu hỏi

lại:

- Cái gì? Ngươi cũng là người của chúng ta? Giáo chủ quả nhiên... quả nhiên

thần thông quảng đại.

Tay nõn như sen, chỉ thấy tay áo xanh khẽ lướt, hoa mai bềnh bồng, khiến Liễu

thiên hộ từng dạo xóm làng chơi nhưng chưa từng tiếp xúc với đại thiểu thư đoan

trang trong trắng đỏ ửng cả mặt mày. Hắn nhất thời hoảng hốt không kịp hiểu rõ lời

nàng, lúng túng đáp lời:

- Đương nhiên! Đại nhân chúng ta đương nhiên thần thông quảng đại. Cô và

Dương Lăng đã nói những gì rồi, có từng tiết lộ cơ mật gì chưa? Mau nói cho ta

biết, ta sẽ báo cho Hồng Cô...

- Đại nhân?!- Giáo chủ!?

Hai người đồng loạt la lên, liền buông tay ra, cùng giật lùi lại một bước. Liễu

Phi Vũ tròn xoe đôi mắt, khuôn mặt thanh tú đỏ bừng, giận dữ mắng:

- Ngươi gạt ta!

Liễu Bưu lại trỏ vào nàng, mừng rỡ như điên:

- Di Lặc giáo! Ngươi là người của Di Lặc giáo!

Mặt Liễu Phi Vũ tức thì trắng bệch, cắt không còn hột máu. Trong đầu nàng

tràn ngập cảnh tượng khủng khiếp cả nhà bị tịch biên xử trảm, trói cột thiêu sống,

ngũ mã phanh thây, lăng trì tùng xẻo.

Cánh cửa lại "loảng xoảng" mở ra. Dương Lăng vận mãng bào đai ngọc ngang

nhiên bước vào, hai bên là hai hàng thị vệ hông giắt bội đao, tay cầm bó đuốc

phừng phừng bước theo vào, dàn ngang thành chữ nhất. Dương Lăng vỗ tay cười

bảo:

- Thật lợi hại, Di Lặc giáo quả nhiên nhúng tay vào khắp mọi nơi. Bản quan

thật lấy làm tò mò, rốt cuộc Đại Đồng còn có bao nhiêu người của các ngươi?

Đoạn y nghiêm mặt lại, đanh giọng quát:

- Canh chừng ả! Lập tức đi tới nha môn tuần phủ, bản quan muốn thẩm vấn

Liễu Quang ngay bây giờ!

Đại lao bên trong nha môn tuần phủ lại bị giày vò đến thảm. Nửa đêm nửa hôm

đang say giấc nồng thì Dương Lăng bỗng dẫn một đám phạm nhân đến. Tuy rằng

đám phạm nhân oanh oanh yến yến muôn vẻ yêu kiều, trông hết sức vừa mắt,

nhưng chỉ trong chớp mắt những người đẹp đều bị tống vào trong ngục nữ. Đám cai

ngục bên ngoài vốn bò ra khỏi chăn mền chỉ để thưởng thức quang cảnh này không

khỏi ôm lòng oán thán.

Cực khổ thu xếp cho đám phạm nhân cả nam lẫn nữ đó xong xuôi, bọn họ mớivừa trở về thay đồ đi ngủ, chăn nệm vừa đắp ấm được một tí thì lệnh trên lại đưa

tới. Lần này chính là khâm sai đại nhân đích thân tới đại lao. Quan trên lính dưới

còn ai dám ngủ yên trong nhà, cả bọn lật đật bò ra khỏi giường mà chạy tới chầu

chực.

Quan cai ngục run rẩy nghênh đón Dương Lăng và đám phiên tử Nội xưởng

trông như sói như cọp vào. Vừa nghe mấy đại nhân mình đang giam giữ đích thật là

tín đồ Di Lặc giáo, hắn liền vội dẫn bọn họ vào đại lao.

Mặc dù có nguyên nhân là phiên tử Đông xưởng giám sát nên cai ngục không

dám tự tiện lạm dụng cực hình theo cảm tính, nhưng bản thân đám cai ngục cũng

biết tám chín phần mười những đại nhân đó vẫn còn có thể trở ra ngoài tiếp tục làm

quan, cho nên chỗ ở không thể sơ sài, vì vậy mấy chục vị quan lại lớn nhỏ đều được

sắp cho mỗi người ở riêng một gian. Men theo dãy hành lang âm u, rẽ qua mấy căn

phòng giam, bọn họ trông thấy một người đang nằm co quắp trên chiếc giường lò

đằng sau những chấn song gỗ.

Quan cai ngục gọi to mấy tiếng, không thấy Liễu Quang đáp lời, gã sợ chọc cho

Dương Lăng nổi giận bèn vội giật lấy chìa khoá từ tay một tên cai ngục mở cửa

phòng giam, xông vào vỗ vai viên quan nọ, gọi:

- Liễu đại nhân, Liễu đại nhân, ngài hãy mau tỉnh lại... a!

Hắn la toáng lên, lảo đảo chạy ra ngoài, mất hồn bạt vía thưa:

- Đại... đại nhân! Liễu đại nhân... Ông ấy... ông ấy chết rồi!

- Cái gì?

Dương Lăng cả kinh, liền đó trầm ngâm thật lâu, chỉ còn tiếng lửa cháy lách

tách trên những bó đuốc. Mãi một lúc sau, Dương Lăng mới chợt giận dữ quát:

- Nguyên nhân cái chết là gì? Ngỗ tác ở đâu? Khám kỹ cho ra cho ta!

Tiếng quát của y vang vọng khắp trong phòng không dứt. Đám đại nhân trong

ngục bị đánh thức liền nắm lấy chấn song gỗ vọng nhìn sang. Ai nấy đều có thươngtích trên người, sắc mặt hững hờ, không biết đang có cảm giác gì.

Đêm hôm khuya khoắt ngỗ tạc bị gọi dậy, hớt ha hớt hải chạy lại xem xét một

hồi, song lại không kiểm tra ra được nguyên nhân cái chết của Liễu Quang. Gã đành

dè dặt thưa với Dương Lăng:

- Đại nhân! Hẳn là Liễu đại nhân vì... vì thân thể yếu đuối, không chịu nổi cực

hình, cho nên bị thương nặng mà mất.

Dương Lăng nghe vậy thì chỉ cười nhạt không nói, qua khoảng thời gian chờ

đợi khám nghiệm tử thi y đã bình tĩnh trở lại. Dương Lăng cúi người bước vào

phòng giam, quan sát thi thể của Liễu Quang một lúc, rồi xoay người lại hỏi:

- Trịnh điển ngục (quan cai ngục - ND)! Hôm nay tra tấn Liễu đại nhân bao

gồm những ai? Trông coi những phòng giam này có những ai? Dẫn hết đến đây cho

ta!

Quan cai ngục họ Trịnh vội vàng gọi mấy tên cai ngục bên cạnh lại hỏi mấy

câu, rồi bảo bọn họ đến trước mặt Dương Lăng. Dương Lăng quan sát năm sáu tên

cai ngục trước mắt, rồi lãnh đạm bảo:

- Liễu Quang là phạm nhân quan trọng, là người của Di Lặc giáo. Nhưng thật

khéo làm sao, trong số các quan viên bị bỏ ngục, vị đại nhân Chiếu Ma quan có

phẩm trật không được cao này lại được các vị chăm sóc phải đi đời nhà ma. Bản

quan đành mời các vị theo bản quan trở về trò chuyện một chút. Mang tất cả đi!

Canh năm, gà gáy, trời đã sáng.

Dương Lăng không dám giữ những phạm nhân quan trọng ở lại nha môn tuần

phủ nữa. Lúc này nơi có thể tin cậy được chỉ còn dịch quán đã được biến thành

doanh trại quân đội của y. Nhà kho được sửa sang lại thành phòng giam tạm, mấy

tên cai ngục được tách ra giam giữ, luân phiên đưa ra ngoài tra hỏi. Phiên tử Nội

xưởng cố gắng tìm chỗ mâu thuẫn trong lời khai của những kẻ này để từ đó tìm ra

kẻ khả nghi. Tra hỏi kỹ càng, dùng cả cực hình, không lo sẽ tìm không ra nguyên

nhân chân chính gây nên cái chết của Liễu Quang.Tuy nhiên Dương Lăng cũng không trông mong tìm kiếm được bao nhiêu điều

cơ mật từ những tên cai ngục đã gia nhập vào Di Lặc giáo. Nghĩ đi nghĩ lại, y thấy

cũng chỉ có Liễu Phi Vũ là có thể biết được chút tin tình báo có giá trị, thế là bèn sai

người dẫn cô nàng lên.

Liễu Phi Vũ bị đưa vào phòng thẩm vấn. Trông thấy trong phòng đầy ắp những

dụng cụ tra tấn loang lổ vết máu, khuôn mặt không khỏi lộ ra vẻ sợ hãi, song cô

nàng lại vẫn ương ngạnh hỏi:

- Cha ta đâu? Các ngươi đã làm gì ông ấy rồi?

Dương Lăng không đáp, chỉ bảo:

- Bản quan đã biết nhân thân của cô, cô nên biết triều đình dùng thủ đoạn gì để

đối phó với tà giáo! Liễu cô nương, cô còn nhỏ tuổi, lại thông minh xinh đẹp, đừng

làm lỡ tiền đồ quý báu của mình, hãy ghìm cương trước vực mà lập công chuộc tội,

nếu như vẫn cứ u mê không tỉnh thì sẽ bị chém đầu mất mạng. Hẳn cô sẽ có lựa

chọn thông minh cho mình chứ?

Liễu Phi Vũ lo lắng hỏi:

- Cha ta đâu? Các ngươi đã làm gì ông ấy rồi?

Dương Lăng lại nói tiếp:

- Mạng của cô, và mạng của ông ấy, theo luật đều là tử tội, bọn ta còn cần phải

làm gì? Có điều nếu như cô thành thật cung khai, bản quan có thể tha cho mạng

sống, xét xử khoan hồng. Cô có chịu khai hay không?

Liễu Phi Vũ thầm nghĩ: "Cha đã rơi vào trong tay các ngươi, thân thế của ta

cũng đã bị quan phủ nhận biết, nhưng nếu ta khai báo, y thật sự sẽ chịu bỏ qua cho

chúng ta ư? Y đã gạt ta một lần ở 'Diễm Vân Lâu', kẻ này xảo quyệt như vậy, làm gì

mà sẽ nói thật? Cha không khai, ta cũng không khai, một khi nhị thiếu chủ biết

được tin tức nhất định sẽ đến cứu ta."

Thấy cô nàng lắc đầu không đáp, Dương Lăng chỉ đành khoát tay. Hai tay phiêntử lập tức xông tới, không chút thương hoa tiếc ngọc treo cô nàng lên giá, nhét

những ngón tay thon thả vào trong bộ kẹp tay, chuẩn bị thực hiện cực hình.

Thấy đám phiên tử chuẩn bị tra tấn, Dương Lăng không nỡ nhìn bèn đứng dậy

để đi ra ngoài. Phiên tử sau lưng chợt gọi giật:

- Đại nhân, ả... ả đã ngất rồi...

- Hử?

Dương Lăng vội xoay người. Y thấy Liễu tiểu thư bị cột trên giá treo, đầu rũ

xuống ngực, quả thực đã hôn mê bất tỉnh. Hai tay phiên tử vừa tạt nước lạnh vừa tát

vào má cô nàng; quá tức giận lại siết bộ kẹp tay hòng khiến cô nàng đau mà tỉnh lại,

nhưng vẫn không hề hiệu quả.

Vốn dĩ bí thuật này của Bạch Liên giáo chỉ truyền dạy cho tín đồ cao cấp dùng

để chống lại nỗi đau đớn đến chết đi sống lại do cực hình gây nên sau khi bị quan

phủ bắt được, nhằm tránh bại lộ cơ mật trong giáo phái.

Lý Đại Nghĩa lén truyền lại môn này cho cô nàng, mục đích cũng chỉ là vì tiểu

cô nương không chịu được cực khổ để luyện công. Môn này lại chỉ cần trui rèn tâm

chí, cho nên hắn mang ra dạy để cô nàng chơi cho vui mà thôi. Không ngờ lúc này

lại phát huy tác dụng.

Lúc đầu Dương Lăng tưởng rằng cô nàng vị sợ quá nên ngất đi, nhưng đến khi

tỉnh lại, vừa mới định tra tấn, cô nàng lại hôn mê bất tỉnh. Ba lần như vậy, Dương

Lăng liền đoán rằng cô nàng cũng giống như Vương Long, đều biết bí thuật tự thôi

miên.

Đến khi tỉnh lại lần thứ ba, Liễu Phi Vũ thấy Dương Lăng tự cởi trói đưa mình

xuống giá, trong mắt không khỏi có tia đắc ý. Dương Lăng ngồi trên ghế, vắt chéo

chân, tay cầm chén trà, mỉm cười:

- Khá lắm, biết dùng cách đó để tránh cực hình. Đáng tiếc, bản quan giỏi nhất là

đối phó với phụ nữ như cô.Đoạn y hất hàm sang bên cạnh nói tiếp:

- Khoan hãy ngất đi đã! Đó, có nhìn thấy không, cái thùng nước đó đó.

Liễu Phi Vũ thấy bên cạnh đặt một thùng gỗ cao ngang nửa người, bên trong

chứa đầy nước. Nhất thời nàng đoán không ra dụng ý của Dương Lăng, nhưng bản

năng lại cảm thấy y không hề có ý định tốt đẹp gì, bèn biến sắc hỏi:

- Ngươi muốn làm gì? Ngươi là quan viên triều đình, không phải là sơn tặc thổ

phỉ! Nếu ngươi ô nhục ta, ngôn quan ngự sử cũng sẽ không bỏ qua cho ngươi đâu!

Dương Lăng bật cười thật to một hồi, rồi đáp:

- Mồm mép lợi hại lắm! Thế nhưng bản quan sẽ không để cho kẻ khác có cơ hội

chỉ trích bản quan mượn cớ thẩm vấn mà dâm nhục nữ tù đâu.

Lúc này, hai tay phiên tử bê hai cái sọt thật to được trùm kín bằng vải bố toả

mùi tanh hôi cực kỳ, chạy vào bẩm:

- Đại nhân, ti chức đã mang đồ tới rồi. Hà! Huy động một đám huynh đệ, đã

bươi sạch ở chỗ nước bẩn sau bếp rồi ạ. Ti chức thấy một đống to trên xẻng mà còn

thấy nổi da gà nữa là!

Dương Lăng bịt mũi hạ lệnh:

- Được rồi, được rồi! Mau bỏ nó vào thùng đi. Quả thật là chịu không nổi cái

mùi này.

- Dạ!

Hai tay phiên tử đáp lời, rồi chạy đến trước thùng nước mở bao vải, bắt đầu trút

cái thứ nhìn trông giống như hạt đậu vào thùng. Trong phòng đèn đuốc sáng

choang, Liễu Phi Vũ mở to mắt ra nhìn đã thấy rõ thứ bên trong sọt. Lập tức nàng

liền muốn ói mửa tại chỗ, toàn thân nổi da gà, cả người toát mồ hôi lạnh.

- Trời ạ!Bên trong cái sọt là một nùi những thứ màu đỏ sậm quấn lại với nhau, có cái to

bằng ngón tay út, dài dài, quấn lại như sợi chỉ, có trắng có đỏ. Chúng quấn vào nhau

lúc nhúc, nhơm nhớp. Khi bị thả vào trong thùng nước, chúng mau chóng tản ra, rồi

từ từ chìm xuống.

Vào mùa thu Liễu Phi Vũ từng theo cha ra bờ sông câu cá, cũng từng lấy giun

làm mồi, nhưng nàng thật sự chưa từng nghĩ một sọt nhung nhúc những con giun lại

có thể khiến người ta muốn lộn mửa đến vậy.

Mặt cô nàng trắng bệch, vừa lẩy bẩy chỉ tay vào trong thùng vừa mím chặt môi,

không dám mở miệng sợ rằng sẽ nôn ra hết.

Thấy mình cũng hơi độc ác, nhưng Dương Lăng vẫn vờ ra vẻ biến thái cười to:

- Chẳng phải là cô thích ngất đi lắm sao? Ngất đi rồi sẽ không còn thấy đau

nữa, thống khổ cỡ nào cũng sẽ không còn biết nữa.

Ừm, được lắm! Thấy thế nào? Cô yên tâm, nước không hề nóng, nhưng cũng

không lạnh, cô sẽ không chết cóng đâu. Nếu cô vẫn không khai, bản quan sẽ mặc kệ

cô ngất hay mê mà quẳng cô vào trong thùng, đợi khi cô tỉnh lại, những con giun

này có thể đã chui vào chỗ nào rồi không biết. Có thể lúc đó chúng sẽ bò từ trong

tóc cô ra, cũng có thể sẽ bò vào mũi cô, vào váy cô, vào trong ống giày của cô...

Dương Lăng nháy mắt ra hiệu. Hai tay phiên tử liền nhấc bổng Liễu Phi Vũ lên,

nâng về phía thùng nước. Liễu Phi Vũ gần như phát điên, nào còn dám tự ngất nữa.

Những thứ đó khiến ai thấy cũng đều sợ đến gần như điên loạn, nếu quả thật bị bỏ

vào trong thùng, biết rõ là chúng đang ở trong đó song lại không thể nhìn thấy, nỗi

sợ hãi đó quả thật sẽ có thể khiến cho nàng điên lên ngay mất.

Tấm thân yêu kiều yếu đuối của Liễu Phi Vũ chợt bùng phát sức mạnh kinh

người. Bốn tên phiên tử giữ tay giữ chân cô nàng rồi cũng phải mất rất nhiều sức

lực mới đưa cô nàng lên tới miệng thùng, cố đè cô nàng xuống nước. Khi mông còn

cách mặt nước khoảng gang tay, Liễu Phi Vũ đã hoàn toàn suy sụp. Cô nàng bật

khóc thét, vừa la hét vừa khẩn cầu:- Ta khai, ta sẽ khai hết! Xin ngài hãy tha cho ta, ngài muốn ta làm gì cũng

được, đừng thả ta vào trong đó. Ta xin ngài... hu hu hu...

Dương Lăng gật đầu! Vừa thấy y ra hiệu, đám phiên tử liền thả cô nàng xuống

đất. Liễu Phi Vũ thân thể rã rời, nằm bệt ra đất mà khóc rống, hai tay bấu chặt vào

nền đá không nhúc nhích lấy một bước.

"Ôi!" Dương Lăng than thầm trong bụng. Đứng dậy quay đầu lại, thấy mặt đám

người Liễu Bưu và Ngũ Hán Siêu đều hiện vẻ không đành lòng, ánh mắt nhìn mình

cũng có phần quái dị, y đành vê mũi, nghĩ bụng: "Mụ nội nó chứ, cứ hễ mỹ nữ là

được ưu ái! Cũng là tà giáo mà lại được đối đãi khác nhau, ngay cả một người như

Liễu Bưu cũng nổi lòng thương xót. Chẳng phải là vì mình không muốn tiểu cô

nương hoa mềm lá mịn này bị trầy da tróc thịt nên mới hù dọa một chút thôi sao?

Sao bọn họ lại nhìn mình như một kẻ biến thái vậy trời?"

*****

Dưới sự uy hiếp và hù doạ đáng sợ gấp trăm lần cái chết, Liễu Phi Vũ rốt cuộc

đã thật tình thú nhận, khai hết toàn bộ.

Tuy những gì nàng biết là có hạn, nhưng đối với Dương Lăng lại hết sức hữu

dụng. Mặc dù cô nàng không biết ở Đại Đồng còn có những ai là người Di Lặc giáo

nữa hay không, song từ những cuộc trò chuyện thường ngày với cha và Hồng Cô,

Liễu Phi Vũ cũng biết được rằng những gian tế quan trọng mà Di Lặc giáo cài ở Đại

Đồng đều đã bị trừ bỏ, hiện tại trong đám quan viên văn võ Đại Đồng đã không còn

nhân vật quan trọng của tà giáo nữa. Vì vậy y cũng đã có thể an tâm giục xin Hoàng

thượng lập tức phóng thích toàn bộ quan viên bị bắt.

Còn như dân chúng bình thường ở tầng chót gia nhập Di Lặc giáo thì trải khắp

thiên hạ, không thể diệt trừ hết được. Hơn nữa không có chỉ huy cầm đầu, trừ khi

bọn họ tụ tập tạo phản, còn không cũng khó làm nên trò trống gì, cho nên tạm thời

có thể bỏ qua không tính.

Vả lại, y cũng biết được vì sao Di Lặc giáo lại bày ra mỹ nhân kế với mình. Với

địa vị và danh phận hiện tại của y, nếu biết rõ là có kẻ thù tiềm ẩn nhưng lại khôngbiết đích xác thân thế và mục đích của người ta thì khó tránh làm gì cũng sẽ phải

cẩn thận quá mức. Lúc đó y luôn phải cảnh giác đối với những quan viên khác, sẽ

có nhiều phán đoán sai lầm ảnh hưởng đến mọi hành động của y, thậm chí vì vậy

mà tạo nên nhiều kẻ thù không cần thiết. Còn giờ thì y đã có thể thoải mái hơn rất

nhiều rồi.

Dương Lăng cũng thẳng thắn nói rõ với Liễu Phi Vũ về cái chết của Liễu

Quang và Hồng Cô, đồng thời báo cho nàng ta biết đó là hành động giết người diệt

khẩu của Di Lặc giáo, và y vẫn đang tiếp tục điều tra. Có điều y chỉ nắm được mấy

tên cai ngục trong vòng nghi vấn, rất khó tìm ra hung thủ thật sự đứng đằng sau.

Liễu Phi Vũ biết Dương Lăng không cần phải gạt mình, lại nhớ tới Hồng Cô hạ

độc trong trà vì ngại nàng lâm trận trở giáo nên đã tin y đến tám phần. Thấy cả nhà

mình trung thành với thánh giáo nay lại ra nông nỗi này, bản thân mình lại sa vào

chốn lao ngục, nàng cũng chỉ biết nức nở khóc hận không thôi.

Bệnh của Đường Nhất Tiên vẫn lúc thì tốt lên lúc lại xấu đi. Có điều ban ngày

lúc nào cũng nóng lạnh bất thường, ban đêm ngủ được một giấc, sáng sớm ra là lúc

tinh thần khoẻ khoắn nhất. Chính Đức hết sức quan tâm đến nàng, chăm sóc chu

toàn. Chàng trai luôn được người ta chăm nom và che chở từ bé nay cũng đã biết

quan tâm săn sóc người khác.

Sáng sớm nay hắn đã chạy đến phòng Đường Nhất Tiên, xem hai cung nữ hầu

hạ Đường Nhất Tiên ăn uống. Hắn đang dỗ dành trò chuyện với Đường Nhất Tiên

thì Dương Lăng đã chạy vội chạy vàng tới.

Đầu hôm thì tiêu hồn kiệt sức trên gối, cuối hôm thì lại chạy đông chạy tây

không nghỉ, hai mắt Dương Lăng đã đỏ lừ. Y mới vừa hay tin trong doanh xảy ra

"doanh khiếu" khiến mấy nghìn binh sĩ bị chết và bị thương, biết rằng chuyện này

trọng đại, nếu không mau chóng xử lí sẽ rất có thể dẫn tới phản ứng dây chuyền.

Năm trước mới vừa xảy ra chuyện binh biến, quân sĩ giết chết tổng binh trấn thủ.

Nếu giờ có tướng lĩnh cao cấp bất mãn mà lại xảy ra binh biến, có tướng lĩnh ngấm

ngầm thêm dầu vào lửa thì có trời mới biết sẽ có hậu quả gì.

Y bèn vội vã thăm hỏi bệnh tình của Đường Nhất Tiên, rồi mượn cớ có việcquân cần xử lí mà lôi Chính Đức về thư phòng.

Chính Đức nghe thấy có chuyện "doanh khiếu" thì cũng lấy làm ngạc nhiên.

Dương Lăng đã được quan trung quân do Dương Nhất Thanh phái tới kể rõ việc

này, bèn thuật lại một lượt cho hắn rõ, kèm với ý kiến của Dương Nhất Thanh. Sau

đó, y tâu:

- Hoàng thượng! Lần này đại quân Thát Đát từ xa đến, chẳng những binh lực

vượt xa mọi năm mà thời gian chiến đấu liên tục cũng quá dài. Quân đội phải

trường kỳ ứng chiến, không được nghỉ ngơi và chỉnh đốn, sớm đã mệt mỏi vô cùng.

Nay triều đình đại thắng, lòng quân mới vừa hơi được thả lỏng, nội bộ lại có

chuyện lão tướng trong quân bị bắt bớ gần hết sạch, tân quan nhậm chức đấu đá lẫn

nhau, binh sĩ rất oán hận trong bụng. Rõ là tâm tình mới vừa được buông lỏng thì

lại căng cứng nên rất dễ bề nổi nóng. Vì vậy chỉ cần một binh sĩ nửa đêm thét lên vì

sợ hãi, hoặc thậm chí chỉ một con chuột rớt lên người khiến người ta hoảng hồn tỉnh

giấc, cũng đều có thể khiến cho doanh trại bùng nổ. Do vậy Dương tổng chế cho

rằng trước tình hình hiện tại, không thể không quyết định dứt khoát. Nếu đã để xảy

ra binh biến, việc dẹp loạn sẽ tổn thất khó mà ước lượng được.

Chính Đức vẫn không hiểu được tại sao đang yên lành mà quân đội lại nổi điên,

song thấy Dương Lăng nói một cách thận trọng như thế, hắn lại tín nhiệm Dương

Lăng một cách vô điều kiện bèn vội hỏi:

- Theo ý của ái khanh, trẫm nên làm thế nào?

Dương Lăng đáp:

- Theo ý của thần, hoàng thượng nên lập tức phóng thích toàn bộ quan viên bị

bắt, khôi phục toàn bộ chức tước. Trước hết ra lệnh cho quan viên địa phương khao

thưởng cho những binh sĩ và tướng lĩnh chiến đấu có công, đồng thời ban lệnh sau

khi hồi kinh sẽ lệnh cho triều đình ban thưởng và phong quan tiến tước tùy theo

công trạng!

- Được! Cứ theo ý khanh mà làm, còn gì nữa?Chính Đức nhướng hàng lông mày, gật đầu ưng thuận.

- Thứ hai, điều đại quân vào phía sau trường thành, cho luân phiên nghỉ ngơi và

chỉnh đốn, để những đội quân mệt mỏi có cơ hội nghỉ ngơi.

- Được! Việc này cũng theo ý ái khanh vậy. Còn gì nữa?

- Thứ ba, thứ ba... nên cách chức để xét xử, nghiêm khắc trừng trị người đã gây

nên oán hận và bất mãn của toàn thể quan viên Đại Đồng. Điều này để lòng quân an

ổn và làm dịu sự phẫn nộ của dân chúng, biểu thị rõ thái độ của Hoàng thượng và

triều đình.

- Việc này...,

Chính Đức lưỡng lự hồi lâu, không đáp.

Dương Lăng thở dài:

- Hoàng thượng! Nếu như không thể có thưởng có phạt, thưởng phạt phân minh

thì lòng quân khó mà yên ổn. Dương tổng chế đã chạy đến doanh trại xảy ra

chuyện, lời này là do ông ta bảo quan trung quân mang tới. Nếu không phải do sự

tình quá nghiêm trọng, chắc chắn Dương tổng chết sẽ không đưa ra điều kiện có

phần quá đáng như vậy. Ông ta cầm binh lâu năm, hiểu rõ quân đội hơn chúng ta

nhiều, chúng ta không thể không xem trọng ý kiến của ông ta đâu.

Chính Đức nhăn nhó mặt mày bảo:

- Ái khanh, không phải là trẫm không muốn trừng trị Cốc Đại Dụng. Thế nhưng

nô tài đó đã theo trẫm nhiều năm, nếu cứ vậy mà bắt giữ không trọng dụng lão ta

nữa, há chẳng phải sẽ làm thương tổn tấm lòng của lão? Không phải trẫm không

muốn xử lí lão, trẫm chỉ đang nghĩ cách chức lão ta rồi, sẽ để ai thế vào chỗ này

đây, và sẽ đưa lão ta đi đâu? Mấy người bọn Khấu Tụ ắt sẽ lại tới làm phiền trẫm

cho coi. Lão Đại Dụng ấy... chao ôi!

Dương Lăng ngẩn người: "Hoá ra là Hoàng thượng đang nghĩ đến chuyện này,

còn chưa trừng trị mà đã suy nghĩ làm sao để không khiến lão ta đau lòng rồi.Người này... chậc! Hoàng thượng này, thực không có tí quyết đoán sát phạt của vuatôi gì cả, nặng tình hơn là nặng lý. Nhưng mà... chẳng phải chính bởi tính tình

không giống như một ông vua của hắn mà mình mới càng chân thành quan tâm và

che chở cho hắn đó ư?"

Nghĩ ngợi một lúc, chợt nảy ra ý hay, Dương Lăng bèn thưa:

- Hoàng thượng! Đới Nghĩa nguyên là người trong Ti Lễ giám, quen thuộc sự

vụ của Đông xưởng, lại hết lòng trung thành với Hoàng thượng, song lại bị bọn

người Vương Nhạc làm liên lụy nên mới bị giáng chức lưu lạc Kim Lăng. Sao

Hoàng thượng không điều lão ta về nhậm chức xưởng đốc Đông xưởng? Khi ấy

đám người Khâu Tụ sẽ không thể mò vớt được gì, mà cũng sẽ không nảy sinh hiềm

khích hay có lời oán hận với nhau.

Còn về phần Cốc công công... Một khi triều đình bãi bỏ bế môn tỏa cảng, điều

thiếu thốn nhất chính là người đắc lực mà Hoàng thượng có thể tin tưởng được. Chi

bằng Hoàng thượng phái Cốc công công đi đến đó chủ trì công việc nhằm đoái công

chuộc tội? Công việc đó cũng là một vị trí béo bở, Cốc công công đang mang tội

trên người mà lại có thể tới nơi tốt lành như vậy, lão sẽ chỉ còn biết hết lòng cảm

kích Hoàng thượng, há còn chạy tới khóc lóc van nài hay sao?

Chính Đức nghe xong liền mừng rỡ bảo:

- Hay lắm! Xử lí như vậy rất là thoả đáng! Dương khanh, hãy mau chóng đi tới

quân doanh truyền đạt ý chỉ của trẫm. Việc ủy lạo quân đội, phóng thích quan viên,

trừng phạt Đại Dụng sẽ do khanh toàn quyền phụ trách!NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 217 Con Người Vốn Dĩ Ác Độc?

Nhận được thánh chỉ, trước tiên Dương Lăng liền đi đến nha môn tuần phủ. Y

cho người mời mấy chục vị đại nhân đang ở trong lao ra ngoài rồi tuyên chỉ trước

mặt họ. Chiếu chỉ nói rõ vì Hoàng thượng hay tin Cốc Đại Dụng nghi ngờ vô cớ rất

nhiều quan viên vô tội khiến họ bị bắt vào ngục nên vừa lo vừa giận, nay hạ lệnh

cho Dương Lăng thả các quan ra ngay lập tức, đồng thời khôi phục lại quan tước.

Ngoài ra còn ra lệnh cách chức Cốc Đại Dụng để điều tra.

Bá quan nghe xong thánh chỉ thì hò reo như sấm dậy, vui đến phát khóc. Dương

Lăng nở nụ cười rồi vòng qua bàn xử án nâng các quan viên mình đầy thương tích

dậy, sau đó an ủi hỏi thăm bọn họ một lượt. Bấy giờ, y mới nói rõ quan Chiếu ma

Liễu Quang của Chiếu ma phòng là của người của tà giáo Di Lặc, vì ông đã chết

nên sẽ không truy cứu nữa nhưng gia sản cả nhà vẫn phải bị sung công.

Dương Lăng tiết lộ tin tức này là có ý để bá quan biết rằng việc Hoàng thượng

hạ lệnh bắt giữ giáo đồ của Di Lặc giáo cũng không phải là hành vi cẩu thả mà thật

sự trong quan phủ đã có người của tà giáo này. Chỉ vì Cốc Đại Dụng chưa rõ thánh

ý, vì chuyện nhỏ mà bỏ việc lớn nên mới có những hành động không thỏa đáng mà

thôi.

Vốn là xưởng đốc của Đông Xưởng, Cốc Đại Dụng lại có quan hệ mật thiết với

Lưu Cẩn nên trong số quan lại các cấp ở thành Đại Đồng này thì trừ Đại vương ra

cũng chỉ có mỗi Dương Lăng là đủ can đảm và đủ tư cách dâng tấu tố cáo lão với

Hoàng Thượng mà thôi.

Nhưng mấy ngày trước đây, khi núi Bạch Đăng bị vây, Đại vương chỉ cố thủ

trong thành chứ không xuất quân cứu giá. Tuy người sáng suốt đều có thể nhận ra

Đại vương cố thủ đợi quân chi viện chỉ là tình thế chẳng đặng đừng, chỉ cần đại

quân kéo ra khỏi thành thì Đại Đồng sẽ thất thủ, nhưng dù vậy thì ông vẫn mang tộingồi nhìn quân thượng sa vào hiểm cảnh mà không cứu. Do đó làm sao ông ta có

thể đứng ra vạch tội người khác mà không xấu hổ cho được?

Chúng quan đều có tai mắt ở khắp nơi. Buổi tiệc do đồng liêu tổ chức ngày hôm

qua có mời Dương Lăng đến nhờ hắn ra mặt góp ý với Hoàng thượng đã được

thông tin cho bọn họ từ sớm. Bởi thế nên trong lòng mọi người đều nhận định rằng

chính Dương Lăng đã tâu Hoàng thượng xin tha cho bá quan nên họ mới thoát cảnh

ngục tù.

Đưa than sưởi ấm trong ngày tuyết rơi là việc dễ khiến mọi người cảm kích

nhất. Đã vậy lúc Hoàng thượng đến Đại Đồng thì mọi việc đều do Dương Lăng

chạy tới chạy lui sắp xếp, chuyện này đã rõ như ban ngày. Bây giờ lại kiềm được Bá

Nhan, giữ cho Đại Đồng được bình an vài năm, cả việc công lẫn tư đều bắt nguồn

từ người này, cho nên những quan viên nơi này đã coi Dương Lăng như vị quan lớn

trong triều có thể dựa dẫm, nhờ vả.

Kẻ ngu dốt thì để người khác dắt lừa còn mình đi nhổ cọc hộ, còn Cốc Đại

Dụng thì vừa nhổ cọc lại dắt lừa cho người ta. Được cái lão lại chịu khó, mới sáng

tinh mơ đã vác thân lên công đường để quan sát việc tra khảo, thẩm vấn nghi phạm.

Mặc dù lão chẳng dám sử dụng những hình phạt ghê gớm nhất của Xưởng Vệ

nhưng chỉ cần những dụng cụ tra tấn bình thường cũng đủ để các quan không chịu

thấu.

Những quan viên vô duyên vô cớ bị tra tấn oan ức đều hận lão đến tận xương.

Nhưng vừa nhớ đến câu "Một lần qua ải Đông Xưởng, không chết cũng bị lột da",

bọn họ chỉ đành cắn răng chịu đựng chứ chẳng có gan chửi rủa.

Cốc Đại Dụng vắt chéo chân ngồi trên ghế dựa hình mũ quan. Lão vừa bưng

chén trà, vừa cười vờ rồi bảo người treo hai hàng quan chức lên trên giá gỗ, mỗi

chân buộc một tảng đá lớn cho "tăng chiều cao".

Những quan chức kia chỉ lót dạ bằng một bát cơm tù lạnh như băng, bây giờ bị

trói hai tay, trên mắt cá treo thêm hai tảng đá lớn, dây thừng siết chặt đến nỗi tay

chân đều thấm máu.Lúc này, vài tên nha sai của Đông xưởng lại quát mắng nhằm diễu võ dương

oai:

- Bọn các ngươi nếu không phải là người trong tà giáo phật Di Lặc thì cũng đã

bị bọn chúng mua chuộc. Chỉ cần thành thật nhận tội, khai ra số bạc ngươi thu được

từ Phật Di Lặc giáo và đã giúp bọn họ làm những chuyện gì thì sẽ không còn phải

chịu nỗi đau thể xác này nữa.

Lời còn chưa dứt, hai hàng phiên tử áo xanh mũ đỏ, hông đeo phác đao, chân

mang giày trắng nghênh ngang bước vào rồi chia ra đứng hai bên công đường. Cốc

Đại Dụng ngạc nhiên. Không có mệnh lệnh cũng chẳng thấy thông báo, ai dám to

gan xông vào công đường?

Lão lại không biết rằng sau khi nha sai của Đông Xưởng bị đại pháo và súng

ống của Nội Xưởng tấn công dữ dội thì bọn chúng đã mắc chứng "sợ Nội Xưởng"

nghiêm trọng. Hơn nữa vì muốn che giấu tin Hoàng Thượng rời khỏi kinh đô nên

Cốc Đại Dụng và Dương Phương cũng dùng danh nghĩa khâm sai để vào Đại Đồng.

Cái đó gọi là "Kẻ ác cần phải có kẻ ác trị". Thủ hạ của khâm sai Đông Xưởng

vừa thấy nhân mã của khâm sai Nội Xưởng đã lập tức sợ đến bủn rủn. Lại trông

thấy Dương Lăng đích thân dẫn nhân mã của Nội xưởng đến tuyên chỉ nên nha sai

gác cửa liền im thin thít, chẳng những không dám ngăn cản mà ngay cả cái gan

chạy vào báo tin cũng không có.

Dương Lăng thản nhiên đi vào, theo sau là Liễu Bưu và Ngũ Hán Siêu. Cốc Đại

Dụng vừa thấy y liền giật mình vội vàng bước đến, cười nói:

- Ta mới nói quái sao đám khỉ này không dám thả một cái rắm, hóa ra Dương

đại nhân đã đến rồi. Ha ha ha, đến đây nào, đến đây nào! Mời ngồi! Có phải là

Hoàng Thượng lo lắng chuyện gian tế của Di Lặc giáo không? Dương đại nhân yên

tâm, có ta chỉ huy việc này thì dù có phải đào sâu ba thước đất đi chăng nữa cũng

phải bắt được bọn họ.

Dương Lăng nghiêm mặt, tuyên:- Cốc Đại Dụng tiếp chỉ!

Cốc Đại Dụng thoáng ngẩn người, sau đó lão vội vàng kéo áo bào lên rồi quỳ

xuống, hướng về phía nam tiếp chỉ. Dương Lăng mở thánh chỉ đọc thật lớn một

lượt, sau đó thu thánh chỉ lại. Y liếc thấy dáng vẻ ngây như phỗng của Cốc Đại

Dụng bèn phất nhẹ ống tay áo ra lệnh:

- Người đâu! Lột đai ngọc, áo bào của Cốc Đại Dụng. Lập tức thả các vị đại

nhân ra.

Hai hàng nha sai lập tức xông lên thả các vị đại nhân xuống. Dương Lăng chắp

tay nói:

- Thưa các vị đại nhân, bổn quan đã thông báo cho gia luyến của các vị đến

đón. Xin mời các vị trở về phủ nghỉ ngơi, sau khi vết thương lành lặn sẽ phục hồi

chức cũ. Hoàng Thượng đã hạ chỉ điều tra chuyện Cốc Đại Dụng làm trái thánh

lệnh và lạm dụng tư hình. Hoàng thượng đã ra lệnh điều tra, chắc chắn sẽ cho mọi

người một lời giải thích!

Dương Lăng khoát tay cho gia quyến, tôi tớ của các vị đại nhân đi vào. Trong

cảnh kêu khóc ầm ĩ, dù những vị đại nhân chân trần, vết thương đầy mình này đứng

không vững nhưng vẫn bảo người nhà dìu sang tạ ơn Hoàng Thượng và Dương

Lăng. Sau đó lần lượt từng người xin cáo từ.

Sắc mặt của Cốc Đại Dụng xám xịt, lão vẫn quỳ tại chỗ không hề nhúc nhích.

Cho đến khi phạm nhân trong viện không còn một ai, lão mới giật mình tỉnh lại rồi

kéo ống tay áo Dương Lăng, vừa khóc lớn vừa van vỉ:

- Dương đại nhân! Lão nô muốn gặp Hoàng Thượng, lão nô trung thành và tận

tâm làm việc vì Hoàng Thượng mà.

Từ nãy giờ Dương Lăng vẫn luôn sầm mặt đứng hiên ngang, chẳng thèm nhìn

Cốc Đại Dụng lấy một cái. Cho đến khi thấy tất cả các quan đã đi hết, sắc mặt y

mới thay bằng vẻ tươi cười. Y nâng Cốc Đại Dụng lên một cách thân thiết, vừa mỉm

cười vừa nói:- Cốc công công, ông làm gì vậy? Ông làm việc lỗ mãng dẫn đến văn võ bá

quan Đại Đồng nổi lòng oán hận, khiến lòng quân bất an, đêm qua doanh trại xảy ra

"doanh khiếu" tử thương vô số; khắp đồn quân ở các nơi lòng binh sĩ hoang mang,

có nguy cơ binh biến. Nhưng Hoàng Thượng nhân hậu nên sẽ không thể đối xử bạc

bẽo với ông. Hoàng thượng vẫn coi trọng Cốc công công ông đó, vì vậy hãy bớt sầu

đi thôi.

- Ôi?

Cốc Đại Dụng nghe y nói mới biết mình đã gây ra nhiều họa lớn như thế, vì vậy

mỗi một câu lại khiến sắc mặt của lão tái nhợt một phần. Chỉ khi nghe thấy mình

vẫn còn đường sống, khuôn mặt lão mới hồng hào lại một chút. Vừa lau nước mắt,

lão vừa kéo tay áo Dương Lăng hỏi:

- Dương đại nhân nói vậy là sao? Chẳng lẽ Hoàng Thượng không oán trách lão

nô sao?

Dương Lăng kéo Cốc Đại Dụng vào một góc, nói thầm vào tai lão một lúc. Cốc

Đại Dụng nghe xong liền bật cười:

- Đa tạ đại nhân đã nói giúp cho... Ôi, lão nô chỉ nghĩ đến lập công trước mặt

Hoàng Thượng mà đã coi thường sức mạnh của quan viên nơi này.

Dương Lăng khoát tay, nói:

- Đâu có, đâu có! Đây là do Hoàng Thượng nhân từ. Nói thật nhé, chuyện này

ồn ào đến nỗi khiến tinh thần quân sĩ Đại Đồng suy giảm trầm trọng. Hôm qua

"Doanh khiếu" thương vong mấy ngàn người, ngoài ra còn có dấu hiệu quân đội

muốn làm phản. Ta đây hết cách nên mới dâng tấu nhờ Hoàng Thượng xử lý để trấn

an lòng quân, đó thật là vì không còn cách nào hơn. Không dối gạt Cốc công công,

Dương mỗ cũng khẳng khái trình bày trước mặt Hoàng Thượng chủ trương cách

chức ông để điều tra!

- Hả?Cốc Đại Dụng còn tưởng Dương Lăng đã nói giúp vài lời tốt đẹp, nào ngờ y

cũng bỏ đá xuống giếng. Nhưng khi nhớ tới tương lai và tính mạng của mình đều ở

trong tay y, Cốc Đại Dụng lại không dám phát tác. Nhưng nỗi tức giận cố ghìm lại

trong lòng lại khiến khuôn mặt lão lúc trắng lúc xanh, ngập ngừng mà chẳng biết

phải nói gì cho phải.

Dương Lăng khẽ giọng nói:

- Cốc công công à, Hoàng Thượng đã dần dần trưởng thành. Lần này bị vây ở

Bạch Đăng Sơn, ngàn quân vạn quân đều chĩa mũi giáo về phía một mình Hoàng

thượng, nhưng Hoàng thượng vẫn rất bình tĩnh, không hề sợ sệt. Xem ra Hoàng

thượng đã không còn là một đứa trẻ chẳng hiểu chuyện nữa. Quan hệ của chúng ta

vô cùng tốt đẹp nhưng giờ ông gây mối họa lớn như thế, nếu tôi cứ cầu xin cho ông

thoát tội trước mặt Hoàng thượng thì Hoàng thượng sẽ nghĩ thế nào đây?

Bản quan là Xưởng đốc của Nội Xưởng, ông là Xưởng công của Đông Xưởng,

trong tay đều nắm quyền lực. Nếu Hoàng thượng thấy chúng ta đồng tâm hiệp lực

như tay với chân thì sao có thể không sinh lòng kiêng kị? Lúc đó, cho dù ban đầu

ngài có muốn đặc xá cho ông cũng sợ rằng sẽ cắn răng quyết đoán xử tội ông để

loại bỏ tai họa về sau. Ngoài ra, từ nhỏ công công đã chăm sóc Hoàng thượng nên

tình cảm của Hoàng thượng với ông không hề nhạt nhẽo. Nếu như ngài thấy ta bỏ

đá xuống giếng, yêu cầu nghiêm nghị thì lòng trắc ẩn lại nổi lên... Ha ha ha!

- A!

Cốc Đại Dụng giật mình rồi dựng ngón cái khen ngợi:

- Hóa ra đây là đại nhân lấy lui làm tiến. Diệu kế, diệu kế! Cám ơn đại nhân vì

ta mà đã nhọc lòng! Đúng là quen lâu mới rõ lòng người, Đại Dụng vô cùng cảm

kích!

Mặc dù Dương Nhất Thanh tính tình cương trực nhưng cũng không phải là

người lỗ mãng. Nếu hắn đã yêu cầu Hoàng Thượng nghiêm trị Cốc Đại Dụng mà

không hề băn khoăn đến tương lai của bản thân mình thì Dương Lăng liền đoán

được bầu không khí trong quân ắt hẳn rất căng thẳng, chạm vào là nổ ngay. Nếukhông có một liều thuốc mạnh thì chắc chắn sẽ không giảm được sự phẫn nộ của

binh sĩ.

Nhưng với tính cách bao che khuyết điểm người thân của Hoàng thượng Chính

Đức, nếu bảo hắn xử phạt Cốc Đại Dụng thì quả thật khó như lên trời. Nếu mình

không giúp Dương Nhất Thanh một tay, chắn hẳn Chính Đức sẽ không quyết tâm

xử lý Cốc Đại Dụng, mà tình thế Đại Đồng đã rất nguy cấp. Bây giờ mình giúp

Dương Nhất Thanh, sớm muộn gì Cốc Đại Dụng cũng biết mình nói gì trước mặt

Hoàng Thượng. Thay vì để lão nghi ngờ, oán hận mình vào lúc đó, chi bằng bây giờ

mình nói rõ để tránh tạo ra một kẻ địch không cần thiết.

Thấy dáng vẻ của Cốc Đại Dụng, Dương Lăng thở phào một hơi rồi nói với vẻ

thành thật :

- Công công à! Từ khi Dương mỗ vào kinh đã được ông và Lưu công công

trông nom. Trong nội đình lẫn ngoại đình chỉ có mấy người các vị là người thân

thiết nhất của tôi. Nếu bản quan không giúp ông thì giúp ai bây giờ?

Tiếc là ông vì lỗ mãng trong phút chốc nên để người khác nắm được sơ hở.

Xem ra chức vị Xưởng công Đông Xưởng khó mà giữ được. Sau khi về kinh, bổn

quan sẽ khuyên can Hoàng thượng bỏ lệnh bế môn tỏa cảng. Bản quan đã tiến cử

Hoàng Thượng cho ông đến Giang Nam để chủ trì việc buôn bán trên biển. Hê hê!

Đến lúc đó ngàn vạn quốc gia qua lại, vàng bạc như nước. Công việc béo bở thế này

không biết sẽ khiến bao nhiêu người phải đỏ mắt, xem ra công công mất ở gốc tây

mà thu lại được góc đông à nha!

Cốc Đại Dụng nghe đến đây, liền gật gù liên tục. Dương Lăng lại vỗ vai lão, nói

thật thành khẩn:

- Cốc công công, trên quan trường không thể chỉ dựa vào lòng tin của Hoàng

Thượng mà muốn làm gì thì làm, sau này ông phải cẩn thận hơn. Chỉ cần cố gắng

làm tốt việc buôn bán trên biển, chẳng những vinh hoa phú quý có được dễ như trở

bàn tay mà cho dù là quyền hành kiếp này hay danh tiếng lừng lẫy mấy trăm năm

sau cũng không ai có thể sánh bằng.Y khẽ mỉm cười rồi nói tiếp:

- Ông thấy thái giám Tam Bảo ngày xưa oai phong ra sao? Ngoại đình và nội

đình có ai chẳng nể ông ấy ba phần? Không có công lớn thì không có chỗ dựa,

không có công lớn thì khó có được oai phong như thế

Của cải, danh tiếng, quyền lực, một tương lai tốt đẹp khiến Cốc Đại Dụng hoa

cả mắt. Nỗi buồn vì bị cách chức Xưởng công của Đông Xưởng lập tức biến mất,

chỉ cần đến Giang Nam làm một trận oanh liệt thì cũng đủ rung chuyển trời đất như

Trịnh Hòa.

Lời nhắc nhở của Dương Lăng thật sự rất lọt tai. Lão đã thấy bài học của Lý

Quảng và tận mắt chứng kiến quá trình từ khi Lý Quảng được Hoằng Trị tín nhiệm

đã trở nên kiêu ngạo rồi sau đó gục ngã như thế nào. Vốn dĩ tưởng rằng Hoàng đế

còn nhỏ nên dễ bắt nạt nên sau khi nắm giữ quyền Đông Xưởng, lão đã dẹp lòng

cảnh giác sang một bên và trở nên không coi ai ra gì. Trải qua chuyện hôm nay, Cốc

Đại Dụng mới giật mình thức tỉnh.

Nghe những lời khuyên bảo chân thành của Dương Lăng, Cốc Đại Dụng cảm

động đến rơi nước mắt. Lão ngoan ngoãn theo Dương Lăng đi đến dịch quán, vâng

vâng dạ dạ nghe Chính Đức chửi mắng một trận. Vốn Cốc Đại Dụng đã biết sau khi

về kinh mình sẽ được bố trí đến nơi nào nên lão chỉ cẩn thận mỉm cười, mặc kệ

Chính Đức trút giận mà không hề tranh luận một câu.

Chính Đức mắng xong thì lại cảm thấy Cốc Đại Dụng làm mọi việc chỉ vì

mình. Tuy sự việc đã hỏng bét nhưng lão còn đỡ hơn những viên đại thần chỉ biết

đùn đẩy trách nhiệm trong triều. Đấy là chưa nói không những lão bị cách chức mà

còn bị chửi như đổ máu chó lên đầu, vậy mà lão chỉ im lặng lắng nghe, thật là đáng

thương. Do đó hắn phất tay đuổi lão xuống.

Dương Lăng bàn bạc việc vỗ về lòng quân với Chính Đức, sau đó Chính Đức

hạ chỉ ra lệnh cho Tuần Phủ Hồ Toản thay mặt thiên tử thăm hỏi những quan lại vô

tội bị tống vào nhà lao. Còn Dương Lăng thì mang một thánh chỉ khác đến quan ải

để vỗ về lòng quân.Toàn bộ quan viên quân đội của Đại Đồng bị bắt oan được thả ra và phục chức

ngay lập tức. Xưởng công của Đông Xưởng bị cách chức chờ điều tra, lại khao

thưởng ba quân tướng sĩ, toàn quân rút về quan nội nghỉ ngơi. Sau khi về kinh,

Hoàng Thượng sẽ thăng tấn tấn tước cho tướng lĩnh có công trong chiến đấu.

Tướng sĩ biên quân sẽ vào kinh để thay phiên phòng thủ với Kinh doanh.

Những binh lính phòng thủ ở vùng đất khổ cực, túng thiếu vừa nghe xong tin

tức phấn chấn lòng người này liền vui mừng nhảy nhót, hô vang vạn tuế. Tiếng hô

vang vọng khắp núi rừng, kéo dài đến cả bên trong và bên ngoài Trường Thành.

Tuy lòng quân đã yên nhưng biên thùy là vùng đất quan trọng nên dẫu sao cũng

không thể qua loa. Vì vậy, Dương Lăng và Dương Nhất Thanh sau khi thương nghị

với nhau đã bổ nhiệm hai tướng Kinh Phật Nhi và Hứa Thái đóng quân tại hai quan

ải có trọng binh. Như vậy, thêm vào Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân mỗi

người thủ một phương thì bốn quan ải quan trọng cùng Đỗ Nhân Quốc ở Đại Đồng

có thể tiếp ứng lẫn nhau và kiềm chế quân thù ở những nơi khác. Một khi có binh

biến sẽ có thể chia cắt và tiêu diệt quân phản loạn nhanh chóng, tránh để sự việc lan

quá rộng.

Mất hết hai ngày mọi việc mới yên tĩnh như trước. Việc Hoàng Đế về kinh trở

thành việc cấp bách vào lúc này. Thông qua các kênh thông tin khác nhau, Dương

Lăng cũng đã biết đến những lời đồn thổi khắp nơi trong kinh thành. Tin tức đã lan

rộng, cộng với việc có người cố ý lan truyền nên câu chuyện càng ngày càng thêm

ly kỳ khiến lòng người trong kinh thành đã bắt đầu trở nên hoang mang. Dương

Lăng cũng sợ các lộ Phiên Vương nổi lòng tạo phản . Dẫu sao nếu việc triều chính

bị xao lãng quá lâuthì rốt cuộc cũng chỉ bất lợi cho quốc gia, nếu để xảy ra sự tình

hỗn loạn thì công trạng ở Đại Đồng sẽ chẳng còn. Hơn nữa mấy hôm nay bệnh tình

của Đường Nhất Tiên đã chuyển biến tốt nên y liền thu xếp lên đường về kinh.

Hoàng thượng rời khỏi kinh thành trong tình trạng cải trang vi hành. Bây giờ tin

Hoàng Đế đại thắng Bá Nhan ở Đại Đồng đã được Dương Lăng cố ý tuyên truyền

nên nhờ vào các phương tiện của triều đình và Nội Xưởng đã nhanh chóng lan ra

khắp thiên hạ. Hoàng Đế trở về kinh cũng không thể lẳng lặng mà đi, không có lễ

nghi của đế vương được. Vì vậy, đoàn xe hùng dũng cùng cờ xí phấp phới đườngđường chính chính rời khỏi Đại Đồng, xuất phát về phía kinh thành...

---o0o---

Trốn ngày chạy đêm, đi đường nhỏ nhắm tránh tầng tầng lớp lớp trạm canh

được thiết lập trên đường lớn, sau hai ngày Thôi Oanh Nhi mới đến Hình thôn

trang. Trải qua hai ngày đi đường cùng quyết tâm dùng cái chết để tròn nghĩa lớn

mới khiến tâm trạng của nàng bớt tủi hổ.

Thân thể trong sạch bị người điếm ô, giờ đây Hồng nương tử không còn mặt

mũi nào gặp lại Dương Hổ. Nhưng nếu nàng lặng lẽ giải quyết tính mạng mình, tất

nhiên Dương Hổ sẽ đem mối thù này tính lên đầu Dương Lăng.

Quyền hành của Dương Lăng rất lớn. Bất kể Dương Hổ có giết được y hay

không thì một vùng Bá Châu, thậm chí trại của nhà họ Thôi đều có thể sẽ bị lật tung

lên để bắt bớ, Thôi Oanh Nhi sao dám chết để thân mang thêm tội nghiệt? Thế là

nàng đành kiên trì tìm gặp Dương Hổ.

Dọc đường, nàng từng nghiên cứu tỉ mỉ lời nói lúc Ngũ thúc lâm chung nhưng

rốt cuộc cũng không thể nghĩ ra Lý Phúc Đạt náu thân "Quần Trung" (đám đông)

nghĩa là gì. Mặc dù nàng đã dấn thân vào chốn giang hồ bao năm nay nhưng từ xưa

đến giờ vẫn chưa nghe thấy môn phái hay địa danh nào là "Quần" hoặc "Quần

Trung". Dọc đường nàng từng hỏi thăm nông phu ở quanh đây nhưng cũng không ai

rõ, thế là chuyện này lại trở thành một mối khó hiểu trong lòng.

Có điều nàng hiểu rõ võ công của Hoắc Ngũ Gia. Giờ bình tĩnh lại, nàng cũng

biết rằng nếu không có cơ hội đánh lén thì chỉ dựa vào võ nghệ của mình chắc chắn

không phải là đối thủ của Lý Phúc Đạt. Nàng phải chuyển câu nói của Ngũ thúc

trước khi chết đến mọi người trên núi, có lẽ người từng trải như cha nàng sẽ biết ý

nghĩa trong đó, nhờ thế sẽ tìm ra nơi ẩn thân của Lý Phúc Đạt để báo thù cho Ngũ

thúc. Đây cũng là hai tâm nguyện chưa làm xong của nàng trước khi chết.

Tại Hình thôn trang, khách sạn Tụ Long là một nhà trọ lớn. Ở đây loại người

nào cũng có, tốt xấu lẫn lộn nên dễ che giấu tung tích. Đến nơi này quan sát một

lượt, Thôi Oanh Nhi phát hiện không hề có quan binh hay nha sai để mắt tới kháchsạn này. Nàng bèn trà trộn vào rồi nhờ tiểu nhị lật tra danh dách khách trọ, thế

nhưng lại không thấy bí danh đã ước hẹn của nhóm người Dương Hổ.

Hồng nương tử căng thẳng, chẳng lẽ bọn người Dương Hổ cũng gặp chuyện bất

trắc rồi sao? Từ trước đến nay Thôi Oanh Nhi vẫn là người kiên cường, hào khí.

Khi mới đến kinh thành, nếu cần thiết thì dù là Tử Cấm thành nàng cũng dám xông

vào. Nhưng lần này đến Đại Đồng, hết người thân bỏ mạng rồi chính mình thất thân

khiến nàng như quả hạch đào đã bị lột bỏ vỏ ngoài cứng rắn, quả thật không thể

chịu nỗi cú sốc như thế.

Bước ra khỏi khách sạn, Hồng nương tử đi vòng chung quanh thì phát hiện trên

tường nhà có khắc vài ký hiệu vô nghĩa. Đây chẳng qua là một hình tròn đơn giản,

phương và đường cong của những mũi tên rất mất trật tự, nhìn qua có vẻ giống

những nét nguệch ngoạc do trẻ con vẽ bậy lên tường, chỉ là vẽ hơi cao một chút mà

thôi.

Hồng nương tử cẩn thận kiểm tra một lượt, quay trở lại đầu hẻm. Thế là một cô

gái mặc trang phục dân dã nhanh chóng tan biến trong dòng người...

Đêm đã khuya.

Phía tây Hình thôn trang là một con sông rộng hơn trăm mét. Vào mùa mưa

nhiều, nước sông chia thành mấy dòng chảy nông, giao nhau tại những dòng nước

hơi sâu giữa sông. Chỉ những lúc lũ tới bất ngờ, cả con sông mới bị nước lũ vàng

nâu lấp đầy. Khi nước lũ tràn bờ, những mô đất cao hai bên bờ cũng bị ngập đến

thắt lưng, do đó không hề có người xây nhà định cư nơi đây.

Bây giờ thì cả lòng sông đều đầy tuyết đọng. Do thời tiết dần ấm lại nên nhưng

nơi nước cạn băng đã trở nên vừa mỏng lại vừa giòn. Nếu không cẩn thận giẫm phải

sẽ bị ướt giày.

Đêm nay là đêm trăng khuyết. Vành trăng non cong cong chiếu ánh sáng bàng

bạc xuống cả một vùng đất rộng lớn.

Dưới ánh trăng, một bóng người nhẹ nhàng chạy dọc bờ sông như báo. Sau khinằm ở ven bờ chờ một lúc, thấy không có người theo dõi, người này mới tung người

lên nhanh nhẹn đi tiếp. Chạy được vài đoạn, nàng lại áp người xuống mặt tuyết

quay đầu nhìn lại. Nhờ sự nhạy bén này cùng với ánh trăng mờ ảo, muốn theo dõi

nàng là việc khó như lên trời.

Trên sườn núi có ba lò gạch đã bỏ hoang, một người chống cây gậy gỗ khập

khiễng bước ra ngoài. Hắn ngồi xổm xuống nhìn đám tuyết đọng trong bình gốm đã

vỡ một nửa. Hai bên là nham thạch và gò đất gồ ghề, mặt đất trước mặt bị đào lấy

đất để làm gạch nên khá gập ghềnh. Tất cả tạo ra một bức ảnh loang lổ dưới ánh

trăng

- Đại Chuy, để ta làm cho! Ngươi đi đứng khó khăn, nghỉ ngơi một lát đi!

Dương Hổ đi tới nói với hắn, vươn tay để lấy chiếc bình gốm.

Hồ Đại Chuy hừ một tiếng thật nặng rồi vươn tay lấy bình, có thể là cố ý, cũng

có thể là vô tình vừa khớp chặn lấy tay Dương Hổ. Dương Hổ liền đỏ mặt tức giận,

thấp giọng quát:

- Đại Chuy! Ngươi bị gì vậy?

Hồ Đại Chuy im lặng một lát, sau mới đáp bằng giọng khó chịu:

- Đại đương gia! Khi chị dâu vào thành giết Dương Lăng, chúng ta đã nói thế

nào? Tập kích vài trạm gác để thu hút sự chú ý của quan binh trước, chỉ cần chị dâu

vào thành an toàn, chúng ta sẽ đến Hình thôn trang chờ đón chị dâu, có phải vậy

hay không?

- Đúng, rồi sao?

Ánh mắt của Dương Hổ co rút, khuôn mặt chợt nở một nụ cười cổ quái rồi gã

khẽ hỏi lại.

- Rồi sao? Đại đương gia hỏi ta đấy à? Đại đương gia, tuy rằng các huynh đệ sẽ

theo ngươi vào sinh ra tử không hề nhíu mày nhưng chúng ta cũng không hề hồ đồ.

Nghe nói Hoàng Đế đang ở Đại Đồng kết minh cùng Đóa Nhan Tam Vệ vùng quanngoại để đánh nhau với giặc Thát.

Đây đương là lúc trong thành đầy binh lính, chị dâu muốn tìm cơ hội giết gã họ

Dương dễ dàng lắm sao? Chúng ta cứ ở lại đây chờ chị dâu trở về không được sao?

Hơn nữa khi ngươi dẫn bọn ta đi cướp tiền của nhà ông chủ họ Hồ, trong nhà hắn

nuôi hơn mười con chó săn, chưa tìm hiểu rõ đối tượng ("thải bàn tử" là từ lóng chỉ

đối tượng cần điều tra để cướp bóc – TJ) đã hành động khiến Ngô lão nhị bị chó

chặn đường rồi bị người dân dùng xiên hốt cức đâm chết, chẳng lẽ không uất ức

sao?

Hắn lấy cái nón da chó xuống rồi khóc òa. Đang khóc, hắn bỗng lau nước mắt

rồi nói tiếp:

- Ngay sau đó, lại đến Hoàng Dương vệ sở mà ám sát chỉ huy của vệ sở nơi đó.

Đó không phải là tự tìm chết sao? Chỉ mấy người như chúng ta thì có thể làm được

trò trống gì chứ? Mấy trận này đều là đánh bậy đánh bạ, khiến tất cả các huynh đệ

tốt đều sắp bị giết chết hết, chỉ còn mỗi Hắc Diêu Tử nằm bên trong đấy, không

thầy không thuốc cũng cũng sắp chết rồi. Đã vậy đêm mai ngươi còn muốn đi báo

thù. Đại ca, rốt cuộc ngươi đang làm gì vậy?

Nụ cười trên mặt chợt tắt, khóe môi hơi run rẩy, Dương Hổ lạnh lùng hỏi:

- Đại Chuy! Điều quy định đầu tiên của sơn trại chúng ta là gì? Chẳng lẽ ngươi

đã quên rồi sao?

Hồ Đại Chuy ngẩng đầu, quật cường đáp:

- Ta chưa quên. Đó là phải nghe theo lời Đại Đương Gia, phất cờ đi đánh khắp

thiên hạ, nếu ai trái lời sẽ chém đầu người đó.

Nhưng chúng ta là một bầy hổ cũng được, bầy sói cũng chẳng sao, chỉ cần

người đứng đầu không dẫn mọi người vào đường chết. Chúng ta làm những việc

này có giúp gì được cho chị dâu không?

Đại đương gia à, Hồng Phúc chết như thế nào tại vệ sở? Người nói xem! Rõràng là hắn có thể tránh được mũi tên đó nhưng đúng lúc đó ngươi lại xuất hiện

ngay sau lưng hắn khiến hắn không thể né tránh nên mới bị trúng tên. Lúc ấy ta

chưa hề nghĩ đến, giờ trở về càng ngẫm lại càng thấy không đúng.

Trong con ngươi Dương Hổ bắt đầu lập lòe ánh sáng nguy hiểm, gã cười khanh

khách rồi bảo:

- Đại Chuy, ngươi sai rồi! Ngươi nói xem, ta với hắn là huynh đệ đồng sanh

cộng tử, chẳng lẽ ta lại cố ý hãm hại hắn sao? Ta có lý do gì?

Hồ Đại Chuy gầm gừ trong bi phẫn, căm uất:

- Con mẹ nó, ta nghĩ mãi cũng không ra! Đại Đương gia ngươi đang có ý đồ gì

vậy? Rốt cuộc muốn làm gì? Ngươi không có lý do gì mà đưa tất cả mọi người tìm

đường chết song rõ ràng ngươi muốn mọi người đi chịu chết! Đêm mai ta không đi,

ta muốn tìm đại phu trị thương cho Hắc Diêu Tử rồi cõng hắn về sơn trại. Người mẹ

mù lòa của hắn chỉ có một đứa con trai này, ta phải đưa hắn về bằng mọi giá.

Dứt lời, Hồ Đại Chuy liền bỏ đi về phía lò gạch. Trong mắt Dương Hổ lập lòe

ánh sáng, khi thấy hắn bước đến cửa, Dương Hổ bỗng nheo mắt lại rồi quát khẽ,

cùng lúc nhảy đến nện một đấm thật mạnh vào mạn sườn hắn.

Tuy Hồ Đại Chuy khổ luyện công phu toàn thân nhưng võ công hắn không thể

bằng Dương Hổ. Trong lúc không kịp chuẩn bị, hắn đã bị đánh trúng. Kêu thảm một

tiếng, vài tiếng xương gãy vang lên răng rắc, Hồ Đại Chuy ngã vào tường lò gạch,

xương gãy đâm vào tim, bọt máu trong miệng từ từ tràn ra.

Hắn nhìn Dương Hổ bằng ánh mắt kinh hãi khó tin, giọng khàn đặc:

- Vì sao? Vì sao? Ngươi... ngươi...

Trong mắt Dương Hổ, ánh mắt của Hồ Đại Chuy dưới ánh trăng như mũi tên

lạnh đến thấu xương. Gã không dám nhìn vào mắt Hồ Đại Chùy nữa, nhưng ánh

mắt kia vẫn nhìn gã chằm chằm. Dương Hổ co rúm người. Gã vừa giận, vừa hận,

gầm lên một tiếng rồi tung thêm một quyền thật nặng lên người Hồ Đại Chùy.Xương gãy, ngực lõm, máu trào.

Dương Hổ như phát điên. Một tay gã giữ chặt bả vai Hồ Đại Chuy, một tay nắm

thành quyền cật lực đấm vào ngực hắn. Trong âm thanh "bốp bốp thịch thịch", gã

gầm gừ với giọng run rẩy:

- Đừng nhìn ta! Ta không muốn dính vào máu của các ngươi, vì sao ngươi ép

ta? Vì sao ngươi ép ta? Đám vô lại các ngươi!

Sau những tiếng thùm thụp, thân thể to lớn của Hồ Đại Chuy từ từ lún vào

tường đất. Ngực hắn đã lõm xuống thật sâu, máu chảy ra từ trong miệng không

ngừng chảy xuôi xuống vấy vào nắm tay, cánh tay và phun lên cả trên gương mặt

của Dương Hổ. Còn Dương Hổ dường như đã phát điên, vừa đánh, vừa ràn rụa

nước mắt:

- Các ngươi đều là huynh đệ tốt của ta. Vì sao người làm hỏng chuyện tốt của ta

lại cứ là các ngươi? Đó là các ngươi tự tìm đường chết! Tự các ngươi tìm đường

chết!

Đằng sau khối nham thạch lặng lẽ xuất hiện một bóng người, ngơ ngác đứng

đờ, thân thể mềm nhũn y như thi thể của Hồ Đại Chuy nếu không nhờ Dương Hổ

nắm chặt thì đã ngã xuống đất. Thân hình nàng run bắn theo mỗi cú nện của Dương

Hổ lên thi thể của Hồ Đại Chuy.NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 218: Tìm Thầy Chữa Bệnh

Từng quyền một nện uỳnh uỵch xuống thân hình đã không còn sự sống của Hồ

Đại Chuy, cả bộ ngực của Hồ Đại Chuy đã bị thiết quyền của Dương Hổ đánh lõm

sâu, tròng mắt lồi cả ra ngoài, trắng dã; chúng phát ra một thứ ánh sáng lập loè quái

dị dưới ánh trăng mờ.

Đấm đến mệt lử người, bất chợt ngước lên trông thấy ánh mắt của Hồ Đại

Chuy, Dương Hổ không khỏi rét lạnh trong lòng. Tuy trước mặt hắn là một cái xác

không thể còn làm thương tổn được ai nữa, nhưng khi nhìn vào cặp mắt đó, Dương

Hổ lại như bị sét đánh, không kiềm được kinh hãi phải run rẩy lui về sau mấy bước.

Lưng của Hồ Đại Chuy đã bị đánh lõm vào trong vách lò, song thân thể vẫn

đứng ỳ ra đấy. Ý thức được sự yếu đuối của mình, Dương Hổ chợt rống lớn một

tiếng rồi nhảy bổ tới, tung hai quyền như cuồng phong bão táp tới tấp lên mặt Hồ

Đại Chuy, đánh nát xương cốt trên khuôn mặt hắn, hai hốc mắt đã bầy hầy xương

thịt.

Mãi thật lâu sau, Dương Hổ mới lảo đảo lui về sau như thoát lực, suýt nữa ngã

bệt xuống đất. Hắn nửa ngồi nửa quỳ thở hồng hộc, một lúc lâu sau mới bình tĩnh

lại. Khi tai và mắt đã khôi phục lại sự linh mẫn, Dương Hổ chợt nghe thấy sau lưng

có tiếng "kèn kẹt", tức thì hoảng hồn khiếp vía.

Mặc cho gan lớn đến cỡ nào đi chăng nữa nhưng đã có hành vi độc ác vô lương

như vậy, thật sự trong lòng hắn không thể nào bào chữa gì được. Vì vậy vừa nghe

thấy có tiếng động hắn liền nhảy dựng lên, giữ nguyên tư thế đó mà ngoái nhìn về

sau. Hắn liền sững sờ!

Ánh trăng thoạt mờ thoạt tỏ, người đó lại thay đổi dung mạo, nhưng đã là vợ

chồng mấy năm, làm sao hắn có thể nhận không ra đó là ai chứ? Thôi Oanh Nhirăng run lập cập, ngơ ngác nhìn hắn, nước mắt trong veo chảy dài trên khuôn mặt

nàng, lấp lánh nhàn nhạt dưới ánh trăng.

Dương Hổ kinh hãi đến tột độ, thất thanh kêu lên:

- Oanh Nhi! Là nàng? Sao nàng... sao nàng giờ mới tìm tới? Hắn... Đại Chuy

bán rẻ huynh đệ, phạm vào sơn quy...

Vừa nói đến đây, trông thấy ánh mắt chợt lộ vẻ ghê tởm, khinh bỉ và không tin

của Thôi Oanh Nhi, hắn liền lầm bầm vài tiếng không rõ rồi ngậm miệng lại. Thôi

Oanh Nhi run rẩy:

- Ngươi... sao ngươi lại có thể làm được chuyện này cơ chứ? Đây là đại ca

nghĩa khí đứng đầu lục lâm Bá Châu đó ư?

Dương Hổ phát hoảng. Xưa nay hắn luôn sợ Thôi Oanh Nhi, chưa từng dám

nảy sinh ý nghĩ phản kháng. Huống hồ chẳng những võ công của Thôi Oanh Nhi

cao hơn hắn nhiều, mà nếu nàng đã trở về, Hoắc Ngũ Thúc ắt cũng đang ở lân cận.

Chuyện hôm nay đã bị bại lộ, từ nay về sau khắp thiên hạ còn có chỗ nào cho hắn

dung thân đây?

Thân bại danh liệt, người người chửi đánh, vừa nghĩ đến người hảo hán đứng

đầu lục lâm phương bắc tiếng tăm lừng lẫy lại rơi vào cảnh sau này không thể nhìn

mặt ai, Dương Hổ sợ hãi vô cùng. Hắn bèn lắp bắp chống chế:

- Oanh Nhi, ta không còn cách nào khác, tên đã bắn ra không thể thu lại được

nữa. Nếu để bọn chúng trở về ăn nói bậy bạ, thì nhuệ khí lòng quân ta sẽ mất hết.

Sau không đường lui, trước là tuyệt lộ, nàng sẽ làm thế nào? Ngũ... Ngũ thúc đâu?

Lão nhân gia người nhất định hiểu được nỗi khổ tâm của ta. Kẻ... kẻ làm nên đại sự

không thể câu nệ tiểu tiết.

- Ngũ thúc?

Thôi Oanh Nhi bất giác hỏi ngược lại, trong lòng nhất thời dấy lên nỗi bi

thương.Lúc nãy nàng dựa ám hiệu ngầm do Dương Hổ lưu lại mà lặng lẽ lần lên núi,

càng gần đến nơi càng do dự không dám tiến thêm. Nghĩ đến nỗi phải đối mặt với

trượng phu, mặt nàng liền đỏ bừng, xấu hổ khôn thôi. Trong lúc chần chừ nấp trong

bóng tối không dám tiến thêm, nàng đã nghe rõ mồn một cuộc đối thoại giữa Dương

Hổ và Hồ Đại Chuy.

Lúc Dương Hổ nổi ác ý giết người, thân thủ của hắn mau lẹ vô cùng. Đến khi

Thôi Oanh Nhi từ trong kinh ngạc và khiếp sợ tỉnh lại thì Hồ Đại Chuy đã trở thành

một thây ma. Lúc này nghe Dương Hổ hỏi vậy, kết nối những dữ kiện lại, Thôi

Oanh Nhi mới sực hiểu rằng từ khi Dương Hổ tập kích Lý gia và Ngũ thúc đến Đại

Đồng hành thích Dương Lăng, thì một cái bẫy đã được giăng ra. Một cái bẫy chết

người nhằm diệt trừ toàn bộ những huynh đệ biết được bí mật hắn không phải là

chân long thiên tử chuyển thế!

Một âm mưu thật hoàn hảo! Thông suốt được điểm này, sắc mặt của Thôi Oanh

Nhi càng trở nên bi thảm, nàng nghẹn ngào:

- Ngũ thúc ư? Ngũ thúc đã vì cái nghiệp đế vương của ngươi mà vứt bỏ tánh

mạng của mình, đã chôn thây trong thành Đại Đồng rồi.

Rồi nàng bật cười khanh khách, nói tiếp:

- Nay chỉ còn ta là người biết ngươi chính là một sơn đại vương nhỏ nhen, hẹp

hòi, vô dụng, vốn chẳng phải là Tử Vi chuyển thế gì, chẳng phải là chân long thiên

tử gì sất! Ngươi giết ta luôn đi, như vậy ngươi sẽ có thể an tâm mà thực hiện giấc

làm hoàng đế bất nhân bất nghĩa, tứ đại giai không của mình!

Đoạn nàng rút thanh đoản kiếm từ bên hông ra, lấy hai ngón kẹp lấy mũi, đặt

kiếm vào trong tay Dương Hổ rồi ngửa mặt lên trời nhắm mắt chờ chết.

Nàng đau đớn vì bị người ta lăng nhục, cho dù thế nào đi chăng nữa thì vẫn

thẹn với phu quân. Nay lại phát hiện Dương Hổ vốn quang minh lỗi lạc, trọng tình

trọng nghĩa lại trở nên nham hiểm ác độc như vậy, nàng càng nản chí ngã lòng, chỉ

ôm lòng muốn chết.Vốn không muốn giết nàng, song vừa nghe nàng những lời như thế, Dương Hổ

lại chợt nảy ý nghĩ hung ác. Thế nhưng, tuy đã cầm kiếm trong tay, hắn lại không

dám tin Hồng Nương Tử xưa nay hào khí ngút trời nay vừa trông thấy tình cảnh này

sẽ một lòng đòi chết. Ánh mắt Dương Hổ lập loè, trong lòng lộp bộp, cuối cùng hắn

kết luận rằng Thôi Oanh Nhi đang cố ý thử lòng mình.

Bất kể thế nào thì cô ta cũng là thê tử của mình, mình là trượng phu của cô ta.

Bất luận mình có làm bao nhiêu chuyện có lỗi với người khác, khiến cô ta thất vọng

và đau lòng thế nào đi chăng nữa, thì cô ta cũng không có lý do gì mà đối đầu với

mình, trượng phu của cô ta cả. Hiện tại cô nàng cố ý bày ra dáng vẻ như vậy, rõ

ràng là vì muốn tìm cớ để giết mình, hoặc rời khỏi mình đây.

Nghĩ vậy, Dương Hổ bèn kêu thầm trong bụng: "Nguy hiểm thật, suýt nữa thì

đã trúng kế cô ta rồi! Cô ta rõ ràng là đang gài bẫy mình, tám chín phần mười là

Ngũ thúc vẫn đang nấp trong bóng tối. Mình là chồng cô ta! Mình là anh hùng lục

lâm cũng được, tiểu nhân bỉ ổi cũng được, mọi người trong thiên hạ có thể thóa mạ

truy sát mình, nhưng mỗi cô ta là chỉ có thể cùng mình đồng sinh cộng tử. Sao mình

phải sợ cô ta chứ?

Vả lại, sơn trại đã tổn thất nặng nề, nếu muốn làm nên đại sự, mình còn cần

phải mượn tới sức người, sức của của sơn trại Thôi gia. Nếu như lúc này mỗi người

một ngả, Thôi lão đại còn chịu giúp đỡ mình sao?

Thường có câu: "Con gái khóc thì thật lòng, rể khóc thì như rắm lợn!" Ai lại đi

tin tưởng một thằng rể đã mất vợ kia chứ?"

Vừa nghĩ đến đây, Dương Hổ thả lỏng bàn tay đang nắm chặt thanh kiếm,

"cheng", kiếm rơi xuống đất. Hắn vờ ra vẻ bi phẫn nói:

- Nương tử! Ta và nàng là một thể phu thê, nghĩa nặng tình sâu, dù cho có chết

ta cũng chẳng nỡ làm tổn thương đến một sợi tóc của nàng.

Mạng của những huynh đệ này là mạng, vậy chẳng lẽ mạng của huynh đệ mười

mấy trại lớn mà ta đã liên lạc trong suốt mấy năm nay không phải là mạng sao? Một

khi nhuệ khí mất đi, sao còn là đối thủ của quan binh chứ? Mạng của hơn hai trămhuynh đệ chết trong kinh sư không phải là mạng sao? Mối thù sâu như biển máu

của bọn họ chẳng lẽ không báo?

Ta không biết làm thế nào để bịt miệng bọn chúng lại, nhất thời ngu muội nên

mới phạm phải sai lầm lớn này. Nương tử đau lòng trách mắng như vậy, vi phu đã

biết lỗi rồi. Oanh Nhi, nàng hãy gọi Ngũ thúc ra đi, thi hành sơn quy, mổ bụng moi

tim ta mà tế cho vong hồn các huynh đệ bị chết!

Dương Hổ kể lể đến "đứt ruột đứt gan", vẻ rất đỗi hối hận. Thôi Oanh Nhi

chậm rãi mở mắt, ngơ ngác nhìn hắn hồi lâu, rồi chợt bật cười thê lương, khẽ nói:

- Ngũ thúc... quả thật đã chết rồi... biết bao huynh đệ tốt đi theo huynh, toàn bộ

đều đã chết rồi...

Dương Hổ nghe vậy thì cả mừng: "Thật sự chỉ còn lại mỗi một mình Hồng

Nương Tử sao? Vậy thì dễ xử lí rồi. Một đêm vợ chồng, cả đời ân tình. Nàng ta có

oán hận mình thế nào đi chăng nữa, chẳng lẽ lại quẳng trượng phu mình ra ngoài

làm chuột qua đường cho người đời thoá mạ ư? Trên đời không có phụ nữ như

vậy!"

Lập tức cảm thấy yên tâm, Dương Hổ vội hỏi:

- Ngũ thúc thật sự đã chết rồi ư? Người... võ nghệ của người cao cường như

vậy... Chẳng lẽ... chẳng lẽ hai người đã giết được Dương Lăng?

"Giết... Dương Lăng?" Thôi Oanh Nhi bỗng chột dạ. "Giết Dương Lăng! Giết

Dương Lăng!? Còn chưa động được tới 'chính chủ', Ngũ thúc đã bị Lý Phúc Đạt,

giáo chủ Di Lặc giáo, giết rồi. Mình giết tới giết lui rốt cuộc lại bị y..."

Thôi Oanh Nhi có nỗi khổ mà không thể nói nên lời, chỉ hoảng loạn lắc đầu

đáp:

- Chúng... chúng ta gặp phải giáo chủ Di Lặc giáo Lý Phúc Đạt, trong bóng tối

không rõ thân thế đôi bên nên đã động thủ. Ngũ thúc mất mạng dưới tay hắn. Còn

ta... ta...Vốn lòng nàng đầy phẫn hận, nhưng câu hỏi của Dương Hổ lại động đến tâm

bệnh của nàng, khiến cho khí thế Thôi Oanh Nhi tức thì yếu hẳn.

Dương Hổ không biết vì sao nàng chợt trở nên yếu đuối. Ngỡ rằng vì nhắc đến

cái chết của Hoắc Ngũ Thúc nên nàng bi thương, hắn bèn thừa dịp bước lên nắm lấy

tay nàng, an ủi:

- Không sao đâu! Chỉ cần nàng bình yên vô sự là được rồi. Thù này đã kết với

Di Lặc giáo, sớm muộn gì ta cũng sẽ bắt bọn chúng trả đủ món nợ này.

Thôi Oanh Nhi cười khẩy, giật mạnh tay ra khỏi tay hắn, lạnh lùng quát:

- Buông ta ra, tay của ngươi dính máu huynh đệ của mình! Không sai, phần lớn

bọn họ đều là huynh đệ khấu đầu dâng hương kết nghĩa kim lan, là người của trại

Thôi gia ta, luận thân tình cũng không bằng ngươi với ta. Nhưng ngươi muốn ta giả

vờ như không thấy sao? Cho dù có chết ta cũng sẽ không bao giờ chung giường với

một con sói độc ác!

Dương Hổ đỏ bừng mặt, như giận như nài:

- Oanh Nhi! Nàng... nàng là nương tử của ta. Cho dù ai phản bội ta, rời bỏ ta,

chẳng lẽ nàng cũng muốn rời ta mà đi ư? Ngoài lần này, ta đã từng gạt nàng bao giờ

chưa? Ngoài chuyện này, ta đã từng làm sai chuyện gì chưa?

Nương tử, nàng là phụ nữ, nàng không hiểu đâu! Đại trượng phu sống trên đời,

nếu có cơ hội ai không muốn làm nên một chuyện lẫy lừng! Nàng có thấu hiểu nỗi

khổ trong lòng ta không? Oanh Nhi à, ta hứa với nàng rằng đời này kiếp này ta sẽ

không làm bất cứ chuyện gì có lỗi với huynh đệ nữa. Chuyện hôm nay chỉ có trời

biết đất biết, nàng biết ta biết, nàng đừng rời xa ta có được không?

Nhìn khuôn mặt gã đàn ông đối diện đang trở nên mờ dần, Thôi Oanh Nhi có

cảm giác muốn phá ra cười điên dại: "Đây là trượng phu của mình sao? Đây là đại

anh hùng võ nghệ cao cường, lời hứa đáng giá nghìn vàng, nghĩa nặng như núi mà

mình chọn ra từ hơn trăm hảo hán lục lâm phương Bắc đó sao? Mình muốn tuẫn tiết

vì loại người này ư? Hắn xứng đáng sao!Một kẻ tay vấy máu tanh, có lỗi với huynh đệ; một kẻ mất thân trong sạch, có

lỗi với chồng mình. Chúng ta thực đúng là một cặp trời sinh, tự gây nghiệp chướng,

là món nợ kiếp trước của mình."

Hồng Nương Tử ngừng khóc, đôi mắt xinh đẹp dưới hàng mi cong đỏ au, giọng

lạnh như nước đá:

- Bây giờ, ta còn tin được ngươi sao? Nếu ngươi không chịu viết thư đuổi vợ,

vậy trên danh nghĩa ta vẫn sẽ là con dâu nhà họ Dương của ngươi, nhưng từ đây trở

đi, chúng ta ân đoạn nghĩa tuyệt. Danh nghĩa là vợ chồng, nhưng ngươi làm gì ta sẽ

mặc kệ, ta làm gì ngươi cũng đừng hòng can thiệp. Còn hôm nay ngươi làm chuyện

trời đánh thánh đâm này, tự sẽ có ông trời báo ứng.

Hồng Nương Tử tính nóng như lửa, ghét ác như thù. Nếu Dương Hổ không

phải chồng nàng thì nàng đã sớm rút kiếm lấy cái đầu trên cổ hắn xuống rồi, cho

nên lời nói rất là cay độc.

Dương Hổ nghe vậy thì thở phào nhẹ nhõm.

Chỉ cần vẫn là phu thê trên danh nghĩa, thì mình sẽ có thể lôi kéo được nhân mã

trại Thôi gia. Huồng hồ Hồng Nương Tử cũng từng cãi vã giận dỗi hắn, qua lâu

ngày thì lại hết giận. Bây giờ vờ đồng ý với nàng, sau này cố gắng lấy lòng, sớm

muộn còn không dỗ được nàng ta đổi ý hay sao?

Thôi Oanh Nhi nói xong, bèn nhặt kiếm bước đến bên xác Hồ Đại Chuy, quỳ

sụp xuống vái ba lạy, rồi gạt lệ nâng thi thể hắn lên, nhẹ nhàng đặt ngang trên mặt

đất, lấy kiếm đào đất chôn cất. Dương Hổ định tiến đến giúp đỡ liền bị Hồng

Nương Tử lạnh lùng quắc mắt, hắn sượng sùng lui tránh sang bên.

Thương thế Hắc Diêu Tử hết sức nghiêm trọng, vết đao vết tên trên người vô

số, chân cẳng lở loét đến kinh người. Dương Hổ lại rắp tâm trì hoãn việc chữa trị,

hòng khiến hắn không được điều trị mà chết, cho nên liên tục lần lữa việc chữa

chạy, khiến hắn giờ chỉ còn xót lại chút hơi tàn mà thôi.

Hồng Nương Tử lo Dương Hổ sẽ giết người diệt khẩu, nên chôn cất Hồ ĐạiChuy xong, liền chui vào hầm trú, canh gác và săn sóc cho hắn, định bụng đến khi

trời sáng sẽ cõng hắn xuống núi tìm cách mời thầy chữa trị. Dương Hổ không thể

làm gì khác đành phải tạm thời lánh sang một hầm trú khác.

Đêm tối mịt mù, lửa vẫn bập bùng. Ngồi ôm gối bên cạnh Hắc Diêu Tử, Hồng

Nương Tử đang rơi vào ác mộng....

Nhoáng cái, mạch suy nghĩa của nàng như bay về trại cũ Thôi gia năm xưa.

Tổng biều bả tử (lão đại - ND) của lục lâm phương Bắc là Thôi đại đương gia đang

lập võ đài kén rể cho con gái. Chẳng những hảo hán lục lâm phương bắc tụ tập về

trại Thôi gia, mà thậm chí hào kiệt phương nam các nẻo cũng ùn ùn kéo đến. Thanh

niên tuấn kiệt lần lượt từng kẻ lên đài tỉ võ, song đều bị nàng đánh ngã rạp, đá văng

xuống đài.

Thôi đại tiểu thư đang lấy làm thất vọng, chợt có một thanh niên bước lên đài.

Phần lớn người trong giới lục lâm đều không biết chữ, những kẻ khác thì xưng tên

cho người chủ trì ghi chép, còn hắn lại đi đến tự chấp bút viết tên mình. Hồng

Nương Tử không kiềm được liếc mắt nhìn, vừa vặn chạm phải ánh mắt của hắn. Kẻ

này phong thái hiên ngang, tướng mạo khá là anh tuấn. Hồng Nương Tử thoáng đỏ

mặt, trong lòng có vài phần vừa ý.

Trong giấc mơ, Thôi Oanh Nhi khẽ chau cặp mày thanh tú: "Đáng tiếc, võ nghệ

cũng chỉ có vậy. Ôi, nhưng mà 'Thục trung vô đại tướng'(1), đành nhường hắn mấy

phần vậy."

Thôi Oanh Nhi vờ lộ ra sơ hở, "bị" hắn ta gạt ngã nhẹ xuống đất. Kẻ đó chìa tay

ra, Thôi Oanh Nhi mỉm cười ngọt ngào, đưa tay ra trong tiếng tung hô rầm trời của

quần hùng dưới lôi đài. Nhưng tướng mạo kẻ đó chợt mờ đi, rồi biến thành hình

dáng của Dương Lăng.

Thôi Oanh Nhi vừa kinh ngạc vừa hoảng sợ, đang muốn biết rõ đã xảy ra

chuyện gì, thì bỗng lại bị đưa đến một không gian khác: bờ mông tròn uốn cong,

cặp vú săn mẩy đang mặc sức biến hình dưới bàn tay y, quầng vú màu hồng nhạt bị

y ra sức ngậm chặt, mút lấy mút để khiến nàng rên rỉ không ngừng.Nàng sắp bay lên trời rồi. Thôi Oanh Nhi cảm thấy thân thể của mình như đang

tan chảy. Nàng thở hổn hển, đan mười ngón tay vào kẽ tóc đầm đìa mồ hôi của gã

đàn ông đó của nàng. Nhưng khi nàng nâng khuôn mặt đó lên, nàng thấy nó vừa

thân quen lại vừa lạ lẫm. Nàng nhớ ra rồi! Y tên là Dương Lăng. Lạ thật... mình đã

gả cho người này sao? Y là thủ lĩnh sơn tặc? Hay là quan viên triều đình?

Đầu nàng lâng lâng như say rượu, đã không còn có thể nghĩ gì được nữa. Từng

đợt sóng khoái cảm khiến nàng như đang dập dờn trên mặt nước. Thân thể người

đàn ông nhấp nhô lên xuống, chạm đến linh hồn, như mài nghiền như chà xát, kéo

theo từng đợt run rẩy phát ra từ bờ mông mềm xốp của nàng, hoà cùng khoái cảm

của nàng.

Nàng mặc kệ. Cùng mình thân mật như vậy, chàng nhất định chính là trượng

phu của mình. Thực buồn cười, hai người đang ân ái như vậy, không ngờ mình lại

đi nghĩ rằng chàng không phải là tướng công của mình, Thôi Oanh Nhi chợt muốn

bật cười thành tiếng. Mở mắt ra, cảnh tượng điên loan đảo phượng ướt át đã biến

mất, Ngũ Thúc đang đứng trước mặt nàng với khuôn mặt trắng bệt, cất giọng thê

lương:

- Oanh Nhi! Con đã quên mối huyết thù của Ngũ Thúc rồi sao? Sao con lại có

thể chung đụng với kẻ thù đã giết chết ta chứ?

- Không phải đâu, không phải đâu, Ngũ Thúc, không phải thúc bị Lý Phúc Đạt

giết chết sao? - Thôi Oanh Nhi kinh hoảng lắc đầu.

- Ai nói?! Rõ ràng chúng ta đi ám sát Dương Lăng, ta bị quan binh của y bắn

chết. Con lại đi nghe lời đồn bậy bạ của ai vậy, lại nói là Lý Phúc Đạt giết ta? Oanh

Nhi, chúng ta và quan binh là kẻ tử thù không đội trời chung, sao con lại có thể đi

yêu thích người của triều đình kia chứ?

- Con không có... con không có..., Chuyện này là thế nào? Là ai đang gạt ta?

Tại sao Ngũ Thúc phải nói dối, tại sao ai cũng gạt ta vậy, ta biết tin vào ai đây? Ta

phải tin ai đây?

Thôi Oanh Nhi hốt hoảng ra sức biện bạch, song tìm quanh lại không thấy bóngdáng Ngũ Thúc nữa. Hồ Đại Chuy trợn trừng cặp mắt đáng sợ hét với nàng:

- Chồng của cô là tên tiểu nhân hèn hạ vô sỉ! Hắn bán rẻ chúng ta, hắn giết

huynh đệ kết bái của chính mình! Còn cô? Cô thì đi dụ dỗ đàn ông khác, mê luyến

thông dâm. Chúng ta mù mắt cả rồi, sao lại có thể đi theo các ngươi chứ!

- Không... không...- Thôi Oanh Nhi sợ hãi lui về sau, đột nhiên hụt chân ngã

xuống vách núi. Nàng thét lên một tiếng thảm thiết, giật mình choàng tỉnh giấc.

Thôi Oanh Nhi ngồi thẳng người dậy, day day hai bên thái dương, phát hiện cả

áo ướt nhẹp, lạnh ngắt, đầu mướt mồ hôi lạnh. Bên ngoài sắc trời vừa chạng vạng,

một cơn gió rét buốt thốc vào, nàng rùng mình vì lạnh. Thì ra là một giấc mộng

Nam Kha! Trống ngực Thôi Oanh Nhi đập thình thịch, hơi thở dồn dập, mãi lúc sau

mới bình tĩnh lại.

Nàng quay đầu lại nhìn Hắc Diêu Tử đang nằm ngay đơ không ăn uống được

gì. Gã đàn ông tráng kiện khoẻ mạnh này đã bị bệnh tật thương thế giày vò đến thoi

thóp, mặt mày xám nghoét. Cánh mũi Thôi Oanh Nhi cay xè: chuyến rời khỏi Bá

Châu lần này, từ đầu đến cuối đã mất mạng hơn hai trăm huynh đệ tốt, hắn là người

duy nhất còn sống. Bất luận thế nào, mình phải cứu chữa hắn khỏe mạnh, đưa hắn

về lại Bá Châu!

Thương thế của hắn quá nghiêm trọng, cứ vậy mà đi sẽ không sống nổi đến khi

trở về, nhất định phải tìm thầy thuốc chữa trị cho hắn. Thôi Oanh Nhi đứng dậy, đi

lòng vòng trong hầm, nghĩ cách làm thế nào để đưa Hắc Diêu Tử xuống núi, tìm

lang trung xem bệnh cho hắn.

Dương Hổ thò đầu xuống miệng hầm. Hắn biết Hồng Nương Tử luôn ngủ rất

cảnh giác, nếu có người tùy tiện đến gần, nhất định sẽ bị nàng phát hiện. Nhưng hắn

không biết mấy ngày nay nàng đã hứng chịu nhiều đả kích lớn, tinh thần lẫn thể xác

đều mệt mỏi đến cùng cực, sớm đã gắng gượng không nổi, khi nãy nàng thật sự đã

ngủ thiếp đi.

Thôi Oanh Nhi thoáng nhìn hắn, lạnh lùng bảo:- Ta muốn mang hắn đi tìm thầy thuốc. Trị khỏi thương thế xong sẽ trở về trại

lớn Bá Châu.

Dương Hổ lầm bầm:

- Cả người hắn đầy vết thương, không có thầy thuốc giỏi sẽ chữa không khỏi.

Nhưng mà tất cả thầy thuốc giỏi đều cư trú nơi thành to chợ lớn. Hai người đi đến

những nơi đó thật sự rất nguy hiểm, hơn nữa bọn họ trông thấy người có thân thế

không rõ lại mang thương thế đáng nghi như vậy...

Thôi Oanh Nhi liền ngắt lời hắn:

- Chuyện đó không cần ngươi nhọc tâm, ngươi đi đường dương quan của ngươi,

ta qua cầu độc mộc của ta. Ta làm việc này là để chuộc tội, mặc kệ có bao gian khổ,

ta vẫn cố hết lòng, hết sức của mình. Nếu ngươi còn nghĩ đến chuyện giết người

diệt khẩu thì cứ việc đi theo ta, bằng không thì hãy về mà tiếp tục chiêu binh mãi

mã chuẩn bị tạo phản đi! Dương Hổ, ta sẽ mở to mắt ra nhìn xem ông trời trừng trị

ngươi thế nào!

Đoạn nàng cõng Hắc Diêu Tử lên ngang nhiên bước qua mặt Dương Hổ bỏ đi,

không thèm liếc lấy một cái. Dương Hổ giương mắt nhìn nàng bước qua mặt mình,

sững người một hồi, rồi mới nghiến răng, giậm chân, quay lại thu thập bọc hành

trang, lặng lẽ xuống núi.

* * *

Lúc đội nghi trượng của Hoàng đế đi đến Dương Nguyên, bệnh tình của Đường

Nhất Tiên đột nhiên trở nặng, sốt cao không hạ, mồ hôi ướt đẫm không thôi, khiến

cho Chính Đức và Dương Lăng lo lắng đến chết đi được. Dọc hành trình, Chính

Đức đặc biệt chuẩn bị cho Đường Nhất Tiên một chiếc kiệu xe rộng rãi thoáng

đãng. Bởi nàng bị bệnh phải nằm bên trong, không dám để nàng ra gió, cho nên

nàng vẫn không biết rằng tên tiểu hiệu úy hay hầu hạ mình chính là đương kim

thiên tử.

Chính Đức rời cung đã quen. Hắn cảm thấy mặc long bào gò bó, không tự tạinhư người bình thường, hơn nữa hết mực lo lắng bệnh tình của Đường Nhất Tiên,

cho nên dọc đường hắn lại thay trang phục hiệu úy vào, thường xuyên chạy đến

thăm viếng. Vì vậy trong xe của hoàng đế trống trơn, chỉ bày ra cho có mà thôi.

Thậm chí rời khỏi kiệu xe của Đường Nhất Tiên rồi, hắn cũng lười chẳng thèm

quay về kiệu mình, thoắt lại chen lên ngồi cùng xe Dương Lăng, thoắt lại chen lên

xe lớn ngồi chung với đám sĩ tốt, thong dong tự tại, không câu nệ tiểu tiết.

Bệnh tình Đường Nhất Tiên mỗi lúc một nặng thêm. Chính Đức và Dương

Lăng không dám cho đi nhanh hơn nữa, đội xe vừa vào Dương Nguyên liền dừng

lại để nghỉ ngơi. Huyện lệnh Dương Nguyên thấp tha thấp thỏm chạy đến diện kiến

thánh giá, Chính Đức cũng lười để ý lão ta. Nơi này cách Đại Đồng không xa, dịch

quán đơn sơ. Chính Đức lo Đường Nhất Tiên vào ở không được thoải mái, nhìn

thấy trong huyện có một căn nhà lớn, hoa mỹ bất phàm, hắn bèn hỏi lão huyện lệnh

Dương Nguyên:

- Đây là nhà của ai?

Huyện lệnh huyện Dương Nguyên - Phác Tử Phong - khom người đáp:

- Bẩm hoàng thượng, đó là dinh thự của Hoa đại nhân, nguyên ngự sử Tả đài

Hoa Tử Quy.

Chính Đức bảo:

- Đi! Bảo lão ta dọn dẹp căn phòng tốt nhất, chuẩn bị đồ ăn ngon nhất, trẫm

muốn trọ ở đó.

Theo lý thuyết, đối với bầy tôi, việc hoàng đế trưng dụng dinh phủ của đại thần

đã bãi quan làm hành cung là một chuyện hết sức vẻ vang. E rằng cái ghế mà hoàng

thượng ngồi vào, cái chăn mà hoàng thượng đắp lên đều sẽ được vị Hoa Tử Quy

Hoa đại nhân này lấy giấy vàng bọc lại, mỗi ngày ba nén nhang cúng thờ. Do đó,

sau thoáng do dự Dương Lăng cũng không mở miệng ngăn cản.

Huyện lệnh Dương Nguyên vội vàng chạy đi truyền chỉ. Hoa ngự sử vừa nghexong liền mừng rỡ như điên, lập tức triệu tập cả nhà lớn bé dọn ra biệt viện, dành

toàn bộ nhà chính khoản đãi hoàng đế lão gia.

Mấy phương thuốc mà thần y của phủ Đại vương đi theo chăm sóc kê cho cũng

chỉ có bấy nhiêu. Nay Đường Nhất Tiên bệnh đến thoi thóp, khuôn mặt nhỏ nhắn

gầy đi không ít, khiến cho cặp mắt to tròn trông lớn hơn nhiều. Có điều đôi mắt

xinh đẹp ấy lại trông ảm đạm vô hồn, cả ngày lờ đờ, khiến Dương Lăng trông thấy

mà đau đớn trong lòng.

Đường Nhất Tiên dám nổi cáu với đám người Chính Đức, thuốc đó đắng đến

buồn nôn, nàng ương bướng không chịu uống thì cũng không ai dỗ được. Nhưng

khi Dương Lăng bưng chén thuốc đích thân cho nàng uống, thì tiểu cô nương lại

ngoan ngoãn uống hết. Thế là mỗi khi đến giờ uống thuốc, Dương Lăng lại trở

thành dược quan hầu thuốc cho Đường đại tiểu thư.

Có điều tuy Đường Nhất Tiên cố nhịn đắng nuốt trôi thuốc, nhưng mấy thứ vỏ

cây rễ cỏ nọ đắng không gì sánh được, nuốt vào trong bụng liền như lộn ruột,

thượng thổ hạ tả. Theo lão ngự y của vương phủ đó nói thì làm vậy là để bài tiết hư

hỏa, thanh tràng khử độc, mới đỡ bệnh. Thế nhưng thân thể Đường Nhất Tiên vốn

dĩ yếu đuối, nào chịu nổi giày vò như vậy? Thế là bệnh tình càng thêm nghiêm

trọng, thậm chí Dương Lăng là kẻ ngoại đạo không hiểu gì về y học cũng thấy được

rằng cứ tiếp tục như vậy thì một tiểu cô nương như hoa tươi sẽ bị vần vò cho đến

chết, nên y bèn dứt khoát cho ngưng uống thuốc.

Bên trong Hoa phủ, sau khi uống chút nước đường, Đường Nhất Tiên đã ngủ

thiếp đi. Dương Lăng khẽ lấy khăn lau chút nước dính ở khoé miệng nàng, kéo góc

chăn đắp lại ngay ngắn cho nàng, rồi quay người lại. Chính Đức mặt mày đau khổ

nói:

- Dương thị độc, giờ nên làm thế nào mới phải đây? Bệnh của nàng... bệnh của

nàng càng lúc càng nặng.

Dương Lăng ra hiệu cho Chính Đức rồi dẫn hắn rời khỏi phòng ngủ của Đường

Nhất Tiên, hai người nhìn nhau tiu nghỉu. Im lặng hồi lâu, Dương Lăng mới nói:- Bệnh tình của Nhất Tiên quá nghiêm trọng, đã không thể tiếp tục chịu nổi đi

đường mệt nhọc xóc nảy như vậy nữa.

Chính Đức gật đầu nói:

- Ừ! Trẫm vốn định sau khi hồi kinh có thái y khám và chữa trị, sẽ có thể mau

khỏi, nay xem ra không thể thực hiện được. Cái đám lang băm này, ngay cả bệnh

cảm mạo cũng không chữa được, đúng là vô dụng!

Dương Lăng chỉ biết cười buốn. Tuy y không hiểu y học, nhưng có thể đoán ra

tám chín phần mười là trên người Đường Nhất Tiên mắc phải chứng viêm nhiễm gì

đó. Thời hiện đại thì có truyền dịch để nạp thẳng thuốc điều trị vào trong máu, hơn

nữa còn phải điều trị rất lâu. Cho nên việc một số bệnh mà người thời nay xem

thường lại vẫn lấy mạng người thời xưa là việc rất đỗi bình thường.

Y chợt nghĩ tới Cao Văn Tâm, không biết nàng ta có cách nào trị khỏi cho

Đường Nhất Tiên hay không. Nhưng nghĩ đến lộ trình xa xôi, Đường Nhất Tiên có

thể gắng gượng đến khi ấy hay không còn chưa biết được, thế là y không khỏi nhíu

màu lắc đầu.

Một lúc lâu sau, y mới hơi máy động trong lòng, bèn vội gọi người lại bảo:

- Đi! cho mời Hoa đại nhân tới. Bản quan có chuyện muốn hỏi.

Hoa đại nhân mời khách đến nhà, khách lại đổi thành chủ. Lão muốn gặp mặt

còn phải được người ta cho người mời, chờ người thông báo, song Hoa đại nhân

vẫn vui sướng vô cùng. Nghe tin được mời, lão vội chạy đến hậu sảnh chính viện ra

mắt Hoàng thượng, Dương Lăng, Miêu Quỳ và Dương Phương.

Dương Lăng hỏi:

- Hoa đại nhân, bản địa có lang trung xuất sắc y thuật cao siêu nào không?

Sau thoáng nghĩ ngợi, Hoa Tử Quy vê râu đáp:

- Dương đại nhân, bản địa là một huyện nhỏ, thực không có danh y nào. Khibản quan bị bệnh cũng phải mời danh y từ Đại Đồng đến chữa trị. Hai vị mà Dương

đại nhân mang theo chính là lang trung nổi tiếng Đại Đồng rồi. Bản địa ấy à, thật sự

có một vị thầy mo họ Mã, nghe đâu có vài phép tà môn, thực ra đều là một ít

phương thuốc dân gian, có hiệu nghiệm hay không cũng rất khó nói. Bản quan chưa

mời hắn trị bệnh bao giờ, song nghe phụ lão bản địa kể lại thì có một số bệnh thật

sự là "chữa đâu khỏi đó".

Thầy mo dân gian? Y thuật dân gian không ít điều là thứ rác rưởi phi khoa học,

song cũng có rất nhiều phương thuốc lưu truyền từ xưa không thuộc y thuật chính

quy thỉnh thoảng nếu gặp đúng chứng bệnh thì thật sự lại rất hiệu nghiệm. Mà lý do

phương thuốc của hai vị danh y Đại Đồng không hiệu nghiệm, một phần có thể là

do quả thật y thuật có vấn đề, phần khác Dương Lăng lại đoán là có quan hệ đến

thân thế của Đường Nhất Tiên.

Bọn họ vốn biết Đường Nhất Tiên là biểu muội của tổng đốc Nội xưởng. Nay

ngoài Đường Nhất Tiên ra, ai nấy đều biết gã hiệu úy nho nhỏ lăng xăng chạy tới

chạy lui bên cạnh nàng chính là đương kim thiên tử của Đại Minh.

Thiên tử còn có thái độ như vậy với nàng, còn ai dám xem thường nàng chứ?

Kẻ làm y quan cũng rất am hiểu đạo quan trường. Cho nên khi xem bệnh cho những

nhân vật quan trọng cỡ này, bọn họ không dám mạnh dạn chẩn đoán, nghiêm túc kê

đơn, chỉ sợ một số vị thuốc gây hiệu ứng ngược thì mình sẽ là tội nhân. Do đó bọn

họ chỉ kê một ít vị thuốc vô thưởng vô phạt để gạt người. Nếu những bệnh nhân này

có chết cũng là do số trời, không có can hệ gì đến bọn họ.

Dương Lăng biết những mắc míu trong ấy, có điều nay hết nước phải liều

đường, không bằng mời thầy mo đến chữa trị. Hắn dùng bài thuốc cổ truyền cũng

được, gọi hồn cũng được, chỉ cần có thể thuyên giảm bệnh tình của Đường Nhất

Tiên phần nào vẫn tốt hơn là để bệnh tình trở chứng thất thường, đau khổ mỗi ngày

như thế này.

Nghĩ vậy, Dương Lăng bèn hớn hở nói với Chính Đức:

- Hoàng thượng! Thần xin đích thân đi viếng vị thầy mo này một chuyến, nếu

quả như hơi có phương thức chữa trị, thần sẽ mời hắn về thử xem sao.Hiện tại Chính Đức cũng không còn cách nào khác, hắn bèn vội gật đầu đồng ý:

- Ái khanh mau đi đi, chớ trì hoãn!

Dương Lăng quay sang nói với Hoa đại nhân:

- Bản quan không rành rẽ nơi này, xin đại nhân sai quản gia trong phủ dẫn

đường. Bản quan sẽ đi gặp vị thầy mo họ Mã này một chuyến xem sao!NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 219: Giang Sơn Và Mỹ Nhân

Theo lời dân chúng, Mã thần y không cư ngụ trong thành Dương Nguyên mà ở

tại trấn Đông Dã cách huyện thành không xa mấy. Tin tức hoàng đế đến Dương

Nguyên đã được truyền khắp cái huyện thành nho nhỏ này, song trong trấn vẫn một

bầu yên tĩnh; tin tức vẫn chưa lan truyền tới.

Dương Lăng cùng thị vệ cải trang thường phục, chia thành ba tốp chạy băng

băng về phía Đông Dã. Đây cũng là điều suy tính cẩn thận của y. Nay trong kinh,

thậm chí là khắp thiên hạ đang đầy lời đồn thổi, thế nhưng Hoàng thượng không vội

vã hồi kinh mà lại lần lữa ở lại Dương Nguyên là vì cái gì?

Nếu giương cờ gióng trống chạy đi mời thầy thuốc, bị người ta biết được Hoàng

thượng chùng chình là bởi một người con gái, ắt sẽ tổn hại đến thanh danh của vị

thiên tử trẻ tuổi này. Thành thử Dương Lăng không muốn phô trương, mà tự mình

dẫn Ngũ Hán Siêu, Lưu Đại Bổng Chùy cùng sáu bảy tay thân binh, ai nấy đều đeo

đao, giấu nỏ đồng trong ống tay áo, theo quản gia Hoa phủ tiến vào trấn Đông Dã.

Còn có hai tốp thị vệ hỗ trợ trước sau, giữ khoảng cách chừng nửa tầm tên.

Bất luận là ở thời đại nào, ở địa phương nào, hễ là người thầy thuốc có chút bản

lĩnh đều rất được hoan nghênh. Vị Mã thần y này tuy thuộc loại thầy bùa thầy ngãi,

không nằm trong hàng ngũ y sĩ chính quy được triều đình công nhận, nhưng lại rất

có danh tiếng trong vùng Dương Nguyên này, cho nên nhà cửa của hắn ta bài trí xa

hoa vô cùng, có thể coi là hộ đại phú số một số hai ở trấn Đông Dã này.

Dương Lăng đi đến trước cổng phủ nhà họ Mã. Đám thị vệ đi đến trước đó đã

xuống ngựa tản ra chung quanh, canh gác chung quanh các giao lộ, cửa phòng và

lạc viện. Quản gia Hoa phủ tuy biết vùng này nhưng cũng chưa từng đến nhà gặp gỡ

Mã thần y, nên liền đi cùng đám người Dương Lăng vào trong sân.Căn nhà này được xây theo lối kiến trúc tứ hợp viện, gạch xanh ngói đen, bước

vào cửa liền gặp một bức bình phong nho nhỏ, chính giữa chạm trỗ hình cá chép

hoá rồng và chữ Phúc thật lớn, trang trí đầy vàng ngọc.

Quản gia Hoa phủ khom lưng dẫn Dương Lăng đi vòng qua bức bình phong.

Chưa thấy người ra tiếp đón thì đã nghe thấy trong chính sảnh vọng ra tiếng trống

"thùng thùng". Tiếng trống khi thong thả khi cấp bách, mang theo sự quỷ dị, kích

động vô cùng. Dương Lăng nghe tiếng trống hết sức quen thuộc, rõ ràng là tiếng

trống "gọi hồn" bị người đời sau chỉ trích. Vừa nghe thấy tiếng trống này, niềm tin

của Dương Lăng lập tức tan biến, y chỉ muốn "nổi trống lui quân" ngay, không còn

chút hào hứng gì với vị thầy mo "Mã đại tiên" này nữa.

Nhưng đã đến đây rồi, cũng không thể cứ vậy mà xoay người bỏ đi, Dương

Lăng đành cắn răng cùng quản gia Hoa phủ bước vào đại sảnh. Lúc này y mới trông

thấy một thằng nhóc ăn vận như sai vặt ngông nghênh bước ra, ra vẻ thần bí dẩu

miệng lên bảo:

- Đừng làm ồn, sư phụ ta đang thỉnh thần linh trừ tà.

Quản gia Hoa phủ quả thực không dám làm ồn, bởi tương truyền phép thuật

thầy mo hết sức tà môn. Nghe nói trong lúc làm phép mà bị cắt ngang sẽ rất dễ bị

ma quỷ nhập vào. Thế là bỏ mặc thằng nhóc sai vặt, lão đổi vị trí từ khách thành

chủ mời Dương Lăng sang ngồi một bên, cùng nhau xem Mã thần tiên làm phép.

Mã thần tiên có khuôn mặt béo phị, trên mép còn có hai hàng râu chuột, đầu

buộc chiếc vải điều vẽ bùa, để trần nửa cánh tay, cả người lắc giật như bị động kinh,

miệng tụng liên tục, da thịt béo ục và nhũn nhão trên ngực và hai vai rung theo từng

động tác của hắn. Trông hắn lắc lư hết sức nghiêm túc, đầu cổ vã đầy mồ hôi.

Trước mặt hắn đặt một cái cáng, trên cáng là một người đàn ông gầy đét như

que củi, tóc hoa râm, da bọc xương, có hai tráng niên và một bà lão đứng khúm na

khúm núm một bên.

Dương Lăng nhíu mày, kiên nhẫn chờ hắn nhảy xong. Y thấy hắn sải bước đến

trước bàn thờ, trút từ trong lư hương ra một ít tàn nhang, bỏ vào trong bao giấy, haimắt như mở như không, bước về chỗ cũ, đưa cho bà lão với bộ dạng như ban ơn,

kéo dài giọng bảo:

- Chia làm ba lần, pha nước cho uống. Bản đại tiên đã thỉnh thần linh đuổi cái

con tà ma này đi rồi, có điều hắn vẫn chưa khoẻ lên ngay, cần phải tĩnh dưỡng cẩn

thận.

Xem đến đây, Dương Lăng đã không còn "dũng khí" xem tiếp nữa, y bèn phất

áo đứng dậy, gượng cười nói với quản gia Hoa phủ:

- Đi thôi! Xem ra chuyến đi này của chúng ta công cốc rồi.

Thằng nhóc sai vặt nãy giờ vẫn ngạo mạn đứng bên cạnh, không thèm liếc mắt

để ý đến bọn họ. Song vừa nghe thấy lời này, anh chàng liền không nhịn được lập

tức chen vào:

- Xem bộ dạng nhà ngươi, hình như không phải là người bản xứ! Có phải là

hâm mộ mà đến không? Sư phụ ta bản lĩnh cao cường, khắp làng trên xóm dưới ai

mà không biết. Ngươi chưa thử bao giờ sao dám nói sư phụ ta không có bản lĩnh

thật sự?

Hai con mắt ti hí của Mã đại tiên béo ục ịch vốn chẳng lười mở ra, song vừa

nghe thấy lời này liền tức thì trợn lớn, quét lên xuống khắp người Dương Lăng một

lượt. Dường như phát hiện những người khách trước mặt cũng có danh vọng cho

nên mặt tuy rất giận nhưng ngữ khí của hắn lại không dám kiêu ngạo quá đáng.

Hắn phẩy ta ra hiệu thằng nhóc lui ra, đoạn cười hềnh hệch nói:

- Thuốc không chữa bách bệnh, Phật chỉ độ kẻ hữu duyên. Mã mỗ đây không

phải là lão Diêm Vương, đương nhiên không dám nói trị hết các bệnh, có điều vị

lão gia này trông mặt liền bắt hình dong, quả quyết rằng mỗ không thể chữa bệnh,

có phải là đã quá võ đoán chăng?

Một tráng niên đứng cạnh đang nâng cáng bệnh nhân chuẩn bị ly khai nghe vậy

bèn chen vào:- Vị tiên sinh này! Quả thực Mã đại tiên rất giỏi y thuật. Hè năm ngoái tại hạ ăn

miếng dưa hấu trấn Tỉnh Thủy, bị đau bụng gần chết, nhờ uống tàn nhang của Mã

đại tiên mà đã lập tức khỏi ngay.

Mã đại tiên nghe vậy càng thêm đắc ý. Dương Lăng nghe xong thì đoán chừng

đó là một loại chứng đau bụng khan(*), chứng đó trị không kỹ cũng có thể gây chết

người. Tàn nhang của hắn à..., y tưởng tượng cảnh chiếc miệng chúm chím anh đào

của Đường Nhất Tiên bị trút cả bát nước tàn nhang đen thùi vào, miệng liền méo

xệch.

Đau bụng khan: chỉ đau bụng thôi, bụng quặn đau nhưng không muốn đi cầu,

người hơi ớn lạnh. Nguyên nhân không phải do thức ăn nhiễm khuẩn, mà do cơ thể

bị nhiễm lạnh, thức ăn trong dạ dày không chuyển hóa được, tiêu hóa bị ngưng trệ.

Nhưng sau khi nghe xong lời này, cộng thêm cái tên thô tục bỉ lậu giả thần giả

quỷ Mã "đại tiên" này lại có thể đưa ra kiến giải như vậy, cách nhìn của Dương

Lăng đối với hắn lập tức hơi thay đổi. Y bèn đưa mắt ra hiệu với quản gia Hoa phủ.

Hiểu ý, quản gia Hoa phủ bèn cười khà khà, xoa dịu:

- Mã lang trung chớ nóng! Đại... đại lão gia của ta cũng là lo lắng cho người

bệnh, cho nên có điều nóng nảy. Nếu Mã lang trung thực có bản lĩnh như vậy, xin

mời đến nhà chữa trị cho gia quyến của lão gia nhà ta. Ta là người của Hoa gia

trong thành, nếu chữa khỏi được, phí chẩn bệnh cho ngài quyết sẽ không ít đâu.

Mã thần y nghe xong thì thoáng do dự, rồi lắc đầu đáp:

- Hoa gia? Ồ, nếu là Hoa gia thì mỗ tin tưởng được. Có điều... không biết có thể

mời các vị đưa bệnh nhân đến đây chữa trị hay không? Tại hạ không đến nhà chữa

trị được đâu.

Quản gia Hoa phủ lấy làm phật ý:

- Mã lang trung! Vị gia quyến này của lão gia nhà ta là một thiên kim tiểu thư,

hơn nữa bệnh nằm trên giường, không chịu nổi xóc nảy. Chẳng lẽ mặt mũi Hoa giata còn không mời được ông hay sao?

Mã đại tiên gượng cười đáp:

- Việc này... việc này... Thật sự là trong nhà tại hạ có một vị bệnh nhân khác.

Người nhà đã trả cho rất nhiều tiền chẩn bệnh rồi, điều kiện duy nhất là yêu cầu Mã

mỗ phải túc trực coi sóc cho đến khi nào thương thế bệnh nhân đó khỏi hẳn. Mã mỗ

sao có thể nói mà không giữ lời?

Quản gia Hoa phủ nhíu mày hỏi:

- Thương thể khỏi hẳn? Rốt cuộc là bị bệnh hay là bị thương? Mà thôi, ông cứ

đi theo ta, ta cũng trả ông hậu hĩ, phí chẩn bệnh là mười lạng. Thế nào?

Mã đại tiên khá động lòng, song lại không muốn vơ bẩm nhờ nuốt lời, bèn khổ

sở lắc đầu đáp:

- Sống trong giang hồ, phải lấy tín nghĩa làm đầu. Thật sự là...

Ngũ Hán Siêu chợt chen vào:

- Bạc ròng trăm lạng!

Mã đại tiên vừa nghe xong, tim liền đập thình thịch, liếc về phía rèm cửa phòng

bên một cái, rồi giậm chân, vứt hết tín nghĩa giang hồ lên chín tầng mây, nói ngay:

- Được! Ông không được nuốt lời đấy! Trả tiền chẩn bệnh trước, mỗ sẽ theo

ông đi!

- Không được đi! Đã nhận tiền người thì phải trừ vạ cho người! Người của ta

đến giờ vẫn còn chưa tỉnh, ngươi không được phép đi đâu hết! - Từ phía sau rèm

cửa, tiếng quát lanh lảnh như bình bạc tuôn vỡ của một người con gái cất lên.

Liền đó rèm cửa được vén lên, một người phụ nữ vóc người thon thả bước ra.

Toàn thân áo trắng như tuyết, vòng eo gọn gàng buộc hờ một sợi đai lưng võ sĩ màu

đen, dáng vẻ thướt tha, nhẹ nhàng mà nhanh nhẹn.Nàng bước ra khỏi bóng râm, mặt như sương trắng, song vừa trông thấy Dương

Lăng, cặp mắt trong suốt liền trợn tròn, khí chất oai vũ trên khuôn mặt liền tiêu tan,

dáng như muốn xoay người bỏ chạy.

Dương Lăng không biết người con gái nào phát ra những lời bá đạo như vậy,

bèn vội xoay người liếc nhìn hình dáng người con gái đó. Vừa trông thấy nàng ta,

mặt y cũng thoắt đỏ bừng, tim đập thình thịch, bộ dạng nao nao cũng như muốn

trốn chạy.

Quản gia Hoa phủ nhìn người con gái này. Thấy nàng ta toàn thân võ phục, áo

trắng ống bó ôm sát người, dưới mặc quần có đáy màu trắng thuần, tay buộc bao cổ

tay màu đen, trên sợi đai lưng màu đen buộc hờ một thanh đoản kiếm, ngực vun đáy

thắt, mắt hạnh đen láy, trong vẻ xinh tươi mang theo mấy phần quả cảm, trông hết

sức kích thích.

Vóc người nàng không phải là cao, nhưng mặc bộ đồ võ ôm sát người như vậy,

trông lại cao thon hơn bình thường mấy phần. Đôi chân săn chắc được ống quần lẫn

ống giày thít chặt, trông thon gọn như cột ngọc. Tuy chiếc quần trắng không may

bằng tơ lụa, không được mịn màng, song lại tôn lên đường cong ưu mỹ, mịn màng

và trơn nhẵn của cặp đùi.

Người học võ có địa vị thấp kém, một người con gái ăn vận võ phục xuất hiện ở

nơi này càng không thể nào là con cháu thế gia vọng tộc đang săn bắn mùa thu.

Quản gia Hoa phủ tuy thấy nhan sắc nàng bất phàm, song cho rằng đó là người

giang hồ địa vị thấp hèn, tức thì liền tỏ ý khinh thường.

Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy đều nhận ra nàng ta. Vừa trông thấy

Hồng Nương Tử xuất hiện tại nơi này, Ngũ Hán Siêu liền hoảng sợ hét lên:

- Bảo hộ đại nhân! - Liền đó chàng lách người lên chắn phía trước, tiếng kiếm

ngân lên, thanh kiếm đã được rút ra khỏi vỏ.

Lưu Đại Bổng Chùy không mang theo cây côn sắt dài tám thước của mình, bèn

nắm chặt thiết quyền nhảy phóc lên chắn trước Dương Lăng. Mấy tay thị vệ còn lại

không biết rõ nhân thân của người con gái xinh đẹp đó, song vừa thấy Ngũ HánSiêu và Lưu Đại Bổng Chùy căng thẳng như vậy, tức thì cũng bạt đao giương nỏ,

vây quanh Thôi Oanh Nhi.

Dù cho võ công của Hồng Nương Tử lợi hại thế nào, trong khoảng cách gần

như vậy, cũng đừng hòng lấy thân thể máu thịt để chống lại vũ khí sắc bén được bắn

bằng lò xo. Dương Lăng liền vội la lên khẩn cấp:

- Thả xuống! Bỏ xuống! Mau mau bỏ xuống!

Một tên phiên tử vì quá căng thẳng, vừa nghe xưởng đốc đại nhân nói "Thả",

liền siết cò. May mà gã bên cạnh lanh lợi, vừa nghe thấy không phải liền hất cùi chỏ

tên kia. "Phực" một tiếng, ba mũi tên đồng bắn ra khỏi hộp, găm vào vách tường

bên cạnh kêu "cộp cộp cộp".

Hồng Nương Tử ăn vận xinh đẹp thoát tục, khuôn mặt trái xoan thanh tú trắng

như bông bưởi, mi dài cong cong, ngũ quan óng ánh. Nếu không có thanh đoản

kiếm giắt hông, thực nàng sẽ như tiên nữ bước xuống từ cung trăng, phiêu dật xuất

trần; bên cạnh nên có thêm chú thỏ bạch và cành quế bầu bạn nữa mới phải.

Thôi Oanh Nhi đứng ngây ra đó nhìn Dương Lăng, ánh mắt muôn phần phức

tạp. Nàng không có chút cử động, dường như không hề hay biết mình mới vừa lượn

một vòng ở quỷ môn quan trở về. Dương Lăng bị đám tên nỏ đó làm cho giật cả

mình, y nuốt nước miếng một cách khó khăn, bảo:

- Lui xuống, tất cả lui xuống đi!

Mọi người thoáng ngẩn ra, nhìn về phía Dương Lăng với vẻ kỳ quái. Dương

Lăng thẹn quá hoá giận, quát:

- Không nghe ta nói gì sao? Tất cả lui ra đi!

Đám phiên tử vừa thấy Dương đại lão gia sắp sửa giở mặt, lập tức răm rắp nghe

theo, tiện tay tóm lấy Mã đại tiên và tên sai vặt hống hách nọ, nhanh chóng rút lui.

Ngũ Hán Siêu như rơi vào trong sương mù, chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra làm

sao, nên ngập ngừng:- Đại nhân, chuyện này....

Chàng ta lo lắng trong lòng. Mệnh lệnh của đại nhân không thể không theo,

nhưng dẫu sao người con gái này cũng là hảo hán trong giới lục lâm, ngộ nhỡ ả có

ác ý với đại nhân thì...

Lưu Đại Bổng Chùy tính tình thẳng thắng trung thực, không biết nghĩ nhiều đến

những vấn đề quá phức tạp như vậy. Thế là cái đầu to kềnh của hắn lắc trái lắc phải,

trông thấy đại soái và nữ tướng cướp xinh đẹp lung linh đó đang nhìn nhau chằm

chằm bất động, đầu óc đơn giản của hắn lập tức tìm ra được lời giải thích hợp lý

nhất. Hắn ngoác miệng cười nói với Ngũ Hán Siêu:

- Ngũ đại nhân! Lần trước ta đã nói rồi mà, cái cô nàng... cô nàng Hồng Phất

chạy trốn trong đêm đó, nhất định là bị ta nói trúng tâm sự rồi, ngại ngùng không

dám mặc đồ đỏ nữa, cho nên mặc nguyên cả bộ đồ màu trắng. Ừm ừm, như vậy mới

là tinh mắt, chọn đại soái chúng ta...

Bị hắn nói vậy Dương Lăng nóng ran cả người, hận không thể tìm một cái lỗ nẻ

để chui xuống. Y liền vội cắt lời cái tên hồ đồ này, quát lớn:

- Cút ra ngoài ngay!

Lưu Đại Bổng Chùy giật nảy mình, vội vàng kéo Ngũ Hán Siêu đang lưỡng lự

chạy ra ngoài.

Trong sảnh trống không, yên tĩnh, bầu không khí chợt trở nên lúng túng, mất tự

nhiên.

Trông thấy vẻ mặt Thôi Oanh Nhi bất thiện, Dương Lăng không khỏi rùng

mình: "Không phải nàng ta vì mình đã chiếm đoạt thân thể, càng nghĩ càng nuốt

không trôi cục hận này mà trở về để giết mình chứ? Không đúng à, khi nãy nàng ta

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #ssss