Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Phần Không Tên 12

Quách Huân cười đáp:

- Hôm nay ba mươi tháng chạp, là ngày phong ấn, nha môn không phải mở cửa

làm việc. Vị bạn tốt này của bản tướng lại phải vội vã rời kinh đi nhậm chức, vì vậy

ta tiễn y ra ngoài thành.

Dương Lăng thấy Quách Huân trỏ vào người đàn ông tuổi ngũ tuần trông nho

nhã và thân thiện bên cạnh, nghe nói ông ta đi nhậm chức quan, lại là bạn thân của

Quách Huân nên hẳn không phải là một chức quan nhỏ, bèn vội chắp tay chào:

- Hân hạnh hân hạnh! Vị đại nhân này thực lạ mặt, đã sắp đến Tết rồi, sao

không ở lại kinh ăn Tết rồi hẵng đi nhậm chức vậy?

Quách Huân cười nói:

- Không phải đâu! Đại nhân tưởng vị hảo hữu hào hoa phong nhã này của bản

tướng là quan văn ư? Vị này họ Trương tên Dần. Chỉ huy sứ Thái Nguyên vệ gặp

cơn bạo bệnh mới qua đời, vị hảo hữu này của bản tướng nhận lệnh kế nhiệm vận

chuyển vũ khí trang bị và lương thảo từ các nơi đến Đại Đồng. Y đã đến Thái

Nguyên nhiều lần, trọng trách nặng vai, cho nên không thể không đi ngay.

Chú thích:

(1) trỏ quan lại truy nã tội phạm(2) loại đao lưỡi hẹp của Cẩm Y Vệ, xem hình trang phục Cẩm Y Vệ ()

(3) nguyên văn "hưu mộc"', nghĩa là "nghỉ để tắm gội". Lệ xưa làm quan cứ

mười ngày được nghỉ một lần để tắm gội, cho nên sau này ngày lễ nghỉ được gọi là

'hưu mộc nhật'

(4) "sắc" nghĩa chiếu thư của vua; "kiến" nghĩa xây dựng, trỏ công trình dựng

nên theo chiếu mệnh vua banNGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 184: Mồng Sáu Lên Đường

------------------------

Thái Nguyên và Đại Đồng nương tựa lẫn nhau, tạo thành thế ỷ giốc. Giặc Thát

nhiều lần tấn công biên ải, đa phần đều tấn kích trước vào Tuyên Phủ Đại Đồng.

Thái Nguyên tựa vào đất liền, không phải là mục tiêu công kích chính nên binh mã

Thái Nguyên đã trở thành một cánh quân quan trọng để kiềm chế Thát Đát. Mỗi khi

Đại Đồng gặp phải hiểm nguy triều đình đều điều động binh mã từ Thái Nguyên

đến cứu viện.

Trước khi đại quân của Dương Nhất Thanh tiến đến Đại Đồng, do tình thế biên

quan nguy cấp nên Chỉ huy sứ của vệ Thái Nguyên đã dẫn đại quân gấp rút chi

viện. Trên chiến trường ông bị trúng phải tên lạc, bệnh tình vốn không quá nghiêm

trọng, nhưng không ngờ sau khi trở về Thái Nguyên, vết thương lại đột nhiên diễn

biến xấu, thế là ô hô thương thay. Không ngờ Chỉ huy sứ tân nhiệm của vệ Thái

Nguyên lại chính là vị Trương đại nhân Trương Dần này.

Nhà họ Quách rất có ảnh hưởng trong quân đội, xem ra vị Trương Dần này hẳn

là thân tín do Quách Huân đề bạt. Dương Lăng bèn vội chắp tay chào ông ta:

- Ngưỡng mộ đã lâu, ngưỡng mộ đã lâu! Đêm giao thừa mà Trương đại nhân

vẫn phải bôn ba trên đường, thực sự là cực khổ cho ngài rồi.

Trương Dần ôm quyền thi lễ, mỉm cười đáp:

- Hoá ra là Dương đại nhân ở ngay trước mặt. Hạ quan nghe uy danh của đại

nhân đã lâu, như sấm bên tai, hôm nay được gặp thật là may mắn ba đời. Thân đã

gửi vào nơi binh nghiệp, vốn chính là nuôi quân nghìn ngày, dùng quân một chốc,

lúc này cực khổ cũng là lẽ đương nhiên thôi.Lão ta vừa nói vừa quét mắt sang những người bên cạnh Dương Lăng, lúc thấy

Ngũ Hán Siêu ánh mắt lão dừng lâu hơn một chút, rồi lại dời mắt về phía Dương

Lăng như thể không có việc gì. Dương Lăng thấy lão nhã nhặn nho nhã, hai mắt có

thần, nói chuyện đúng chừng đúng mực, cũng bất giác nảy sinh hảo cảm.

Đôi bên trò chuyện mấy câu, thấy người đứng ở cổng thành càng lúc càng

đông, đã hơi bị ùn tắc, Quách Huân bèn khẽ chau mày nói với Dương Lăng:

- Không quấy rầy Dương đại nhân nữa. Trương huynh nóng lòng nhậm chức lo

liệu chính sự, xin phép cáo từ tại đây.

Dương Lăng cười đáp:

- Được! Có dịp chúng ta sẽ lại trò chuyện, cung tiễn Quách tướng quân, Trương

đại nhân!

Trương Dần mỉm cười gật đầu, cất giọng sang sảng:

- Dương đại nhân, hạ quan cáo từ!

Dương Lăng dõi mắt tiễn bọn họ phóng ngựa rời khỏi kinh thành. Lúc quay lại,

y mới thấy mấy người Hàn Ấu Nương và Tô Tam đang đứng ở một bên tươi cười

ríu rít. Thấy y quay đầu lại, Hàn Ấu Nương đi đến hớn hở khoe:

- Tướng công! Hôm nay là ngày ba mươi rồi, thiếp và mấy tỷ muội đang nói

không biết khi nào tướng công mới trở về đây, không ngờ chàng lại về sớm như vậy

rồi.

Dương Lăng trở người nhảy xuống ngựa đi đến chỗ bọn họ, đưa mắt nhìn các

cô Tô Tam rồi mỉm cười hỏi:

- Không phải các nàng đi miếu dâng hương sao? Chạy đến cổng thành để làm

gì?

Hàn Ấu Nương thoáng đỏ mặt, Tô Tam và Tuyết Lý Mai cũng có phần ngượng

nghịu còn Cao Văn Tâm đứng ở phía sau che miệng cười khẽ. Dương Lăng cũngkhông nỡ vạch trần, bèn cười nói:

- Đã gặp rồi thì cùng nhau trở về thôi.

Kiệu của các cô dừng lại bên đường cho mấy vị cô nương lên kiệu. Dương

Lăng cưỡi ngựa chậm rãi theo cạnh, vừa nhìn không khí đón tết tưng bừng trong

kinh sư, vừa cách rèm trò chuyện cùng Hàn Ấu Nương. Lúc gần đến rìa thành tây,

mọi người trông thấy bên đường có một đám đông đang túm tụm, người của Binh

mã ty cũng đã kéo đến.

Sau việc Xưởng đốc bị bắt cóc lần trước, chỉ cần có chút biến động nhỏ là đám

phiên tử dưới quyền của Dương Lăng ai nấy liền như lâm phải đại địch, mấy chục

người trong tối ngoài sáng liền lập tức bảo hộ kiệu và ngựa, cách ly toàn bộ bá tánh,

lặng lẽ thò tay vào ngực, nắm chặt lấy nỏ cứng và súng ngắn.

Ngũ Hán Siêu cũng không để ý đến chốn om sòm ở đằng trước. Hắn vừa ghìm

ngựa đến gần Dương Lăng, vừa liếc nhanh quan sát chung quanh, để ý đến bá tánh

bên đường. Dương Lăng hơi nhổm người, ngó vào trong đám đông, vừa nhìn thấy

người đứng giữa, y không khỏi khẽ chau mày. Vẫy tay gọi Liễu Bưu lại, y thấp

giọng bảo:

- Đi xem thử đã xảy ra chuyện gì!

Liễu Bưu hiểu ý, buông cương nhảy xuống ngựa, chen vào trong đám đông

đang xem chuyện náo nhiệt. Hắn thấy ông chủ một tiệm may vừa lôi kéo một gã

đàn ông tuổi trạc tứ tuần vừa rống họng tru tréo với tuần bộ của Binh mã ty:

- Hồ tứ gia đến thực tốt quá, kẻ này thực không biết lý lẽ gì cả. Hôm trước hắn

đến, bỏ một lạng bạc ra đặt cọc, nói rõ là muốn thảo dân may một bộ áo bào Cô

nhung hảo hạng. Hôm nay đến thử thấy vừa vặn, hắn lại chối bay bảo là ban đầu nói

chỉ mua đồ nhung hạ phẩm. Thảo dân đưa ký ước ra cũng bị hắn xé vụn, nói là thảo

dân vu cáo hắn.

Lão đây tự nhận xui xẻo, vốn định nhân nhượng cho khỏi phiền, hắn lại nói

ngày mai là năm mới, thảo dân đã may nhầm áo bào của hắn, phải lấy áo nhung nàyra để bồi thường. Lão đây mở tiệm ba mươi năm, xưa nay mua bán công bằng, chưa

từng khinh già gạt trẻ, láng giềng phố phường đều có thể làm chứng, đã từng gạt

người bao giờ? Kẻ này thật quá ư ngang ngược đi!

Đứng cạnh gã đàn ông tuổi trạc tứ tuần đó là một thư sinh tuổi trạc độ hai mươi,

đang đỏ mặt níu áo hắn. Gã đàn ông trung niên gạt tay hắn vùng ra, thấy quan binh

chẳng những không sợ mà ngược lại còn nghênh ngang tự đắc. Gã liếc xéo tay thủ

lĩnh Tuần bộ rồi cười nhạt:

- Ngươi không lừa gạt? Ngươi không lừa gạt chẳng lẽ đại gia ta lại lừa gạt sao?

Buông tay!

Đoạn gã hừ một tiếng, vùng khỏi tay thợ may già, phủi phủi vạt áo, thong thả

nói tiếp:

- Ngươi có biết ta là ai không? Đại gia ta là đường huynh của Đề đốc nội

xưởng, thống lĩnh ngự tiền thân quân của hoàng thượng, Uy Vũ bá gia Dương

Lăng!

Người thợ may già nghe xong thì sợ run cầm cập. Tay thủ lĩnh Tuần bộ được

gọi là Hồ tứ gia nọ cũng không khỏi biến sắc, bốn bề im phăng phắc. Gã ta vẫn ung

dung nói tiếp:

- Là đường huynh! Hồ tuần bộ, người nói đại gia ta có giống phường lừa bịp

không?

Nói đoạn, gã vênh mặt nhướng mắt. Không ngờ làm vậy, vừa khéo khiến gã

trông thấy bên ngoài đám đông, Dương Lăng được vây quanh bởi mấy thớt ngựa to

lớn, đang sầm mặt nhìn gã. Cả người gã không khỏi run lên, vẻ mặt lập tức trở nên

lo lắng.

Hồ tuần bộ khổ sở gật đầu khom người đáp:

- Không giống không giống! Đại gia ngài dáng vẻ đường đường, quả là huynh

trưởng của Dương bá gia Dương đại nhân rồi, nào sẽ lại ức hiếp ông chủ tiệm maynho nhỏ như lão ấy chứ. Hề hề, hề hề.

Cười nịnh bợ xong, hắn liền thẳng lưng quát lão thợ may:

- Lão Bùi à, rõ ràng là lão già rồi lẩm cẩm, nghe lầm lời căn dặn rồi. Dương đại

gia là người có danh phận, lẽ nào lại so đo tính toán với một thợ may nho nhỏ như

lão chứ? Đã có lỗi với đại gia, ông tự nói nên làm sao đây?

Người thợ may già ấp úng:

- Vậy... vậy..., lão đây đưa bộ áo bào này cho đại gia xem như là nhận lỗi vậy!

Nói xong câu này, lão cảm thấy rất đau lòng, nhưng mà xưởng vệ thực sự

không thể trêu vào.

Thường có câu "bắc có Cô nhung, nam có Nữ cát(1)", nhung quý Lan Châu cực

phẩm chỉ có thể thấy trong cống phẩm hoàng cung. Chiếc áo khoác lụa vàng lót Cô

nhung màu mận tía mà Dương Lăng đang khoác chính là mới được hoàng đế Chính

Đức ban thưởng hai ngày trước, trị giá trăm lạng bạc ròng.

Cô nhung của lão thợ may tuy không phải là cống phẩm, nhưng cũng trị giá gần

mười lạng bạc ròng, là thứ mà gia đình giàu có thường mặc cả mấy mươi năm, thậm

chí truyền xuống đời con đời cháu. Đem thí bộ áo bào này rồi, coi như lão làm

không công mấy tháng.

Dương Tuyền nhìn Dương Lăng lom lom, miệng môi trắng bệch, nào còn dám

nhận lấy chiếc áo bào Cô nhung đó chứ. Liễu Bưu quay đầu nhìn Dương Lăng, y

nén giận, gật đầu tỏ ý, Liễu Bưu bèn gật đầu, xoay người chen vào trong đám đông.

Hắn lấy từ trong tay áo một thỏi bạc nặng, nhét vào trong tay người thợ may già,

mỉm cười nói:

- Sao Dương phủ có thể tiếm lợi ích của ông được? Tam gia vốn định may một

bộ thường phục mặc thường ngày, cũng không lo bị dơ hoặc sờn. Nếu bộ áo này đã

dùng vải tốt, vậy chúng ta nhất định sẽ mua. Thỏi bạc này đủ mười lạng, cộng với

một lạng đặt cọc trước, hẳn là đã đủ chứ?Lão thợ may họ Bùi mừng khôn kể xiết, liền gật đầu cảm ơn rối rít:

- Đủ rồi đủ rồi! Khấu trừ tiền vải và tiền công, còn phải trả lại cho ngài năm

phân bạc nữa.

Liễu Bưu cười hà hà:

- Không cần đâu, làm lễ tế trời(2) không thể sơ sài, coi như tam gia nhà ta

thưởng cho ngươi đó.

Nói đoạn, hắn cầm lấy bộ áo bào rồi nói với Dương Tuyền:

- Tam gia, chúng ta về phủ thôi.

Dương Tuyền giật mình, vội "à, ờ" mấy tiếng rồi ngoan ngoãn bước theo hắn ra

khỏi đám đông. Dương Lăng mặt nặng như chì, hờ hững nhìn gã rồi giật cương

ngựa đi trước. mặt Dương Tuyền trờ thành tím ngắt. Liễu Bưu làm việc hết sức

khéo léo, tuy biết Dương Lăng rất giận, song suy cho cùng chú cháu Dương Tuyền

là người nhà họ Dương, có xa cách mấy vẫn gần hơn hắn rất nhiều. Hắn biết hai

người không thể cưỡi ngựa, bèn vội gọi một viên phiên tử lại thuê kiệu ngựa đưa

hai người về.

Thành Khởi Vận vén rèm kiệu, trông thấy hết mọi chuyện, đôi mắt đen láy của

nàng đảo một vòng, ra vẻ đăm chiêu.

Về đến phủ, Dương Lăng hầm hầm bước vào trong trung đường, cởi áo khoác

ra. Hàn Ấu Nương biết hiện tại tâm tình y không tốt nên bèn ngoan ngoãn cầm lấy

áo, trộm nháy mắt với mấy vị tỷ muội, mọi người lặng lẽ trở về nhà sau.

Dương Lăng chỉ vận áo cổ bó ống tay hẹp màu xanh thẫm, mới vừa vào thư

phòng trong trung đường ngồi, Dương Tuyền và Dương Vân Long đã lo lắng bước

theo vào. Dương Tuyền ngượng ngập mở miệng:

- Lăng đệ...

Dương Vân Long cũng sợ sệt gọi:- Lão thúc!

Trong nhà dán đầy câu đối cùng chữ Phúc lẫn tranh tết, tràn ngập một không

khí hân hoan. Khắp nơi trong thôn thi thoảng lại có tiếng pháo rộn ràng. Hôm nay

đã là ba mươi tết...

Nhớ đến điều đó, Dương Lăng chỉ thở dài, đứng dậy bảo:

- Nếu như thường ngày không đủ chi dùng, tam ca cứ nói với Ấu Nương một

tiếng là được. Làm sao nhà chúng ta lại có thể làm những chuyện khiến người ta

đàm tiếu sau lưng như vậy chứ?

Dương Tuyền vừa xấu hổ vừa bực tức nhưng lại không dám phát tác, chỉ biết

vâng vâng dạ dạ. Dương Lăng liếc qua Dương Vân Long nói:

- Đã sắp sang năm mới, ta đã báo cho bộ Lại, qua ngày mười lăm sẽ thu xếp

cho Vân Long một công việc. Ngươi biết viết biết tính, đừng chỉ dựa vào cái danh

hiệu nhà họ Dương, hãy dựa vào bản lĩnh của mình mà làm cho tốt, đừng có được

voi đòi tiên.

Dương Vân Long mừng rỡ cảm ơn:

- Đa tạ lão thúc! Chỉ cần có công việc ở trong kinh là được, Vân Long nhất định

sẽ không gây thêm phiền phức cho thúc đâu.

Dương Lăng ừ một tiếng, rồi ngó sang Dương Tuyền bảo:

- Cho dù làm một tiểu tốt ở nha môn trong kinh cũng không phải là dễ. Tam

ca... ờm... chốc nữa đệ sẽ giúp huynh tìm một vị trí ổn thỏa.

Dương Tuyền hơi thất vọng nhưng không dám biểu hiện ra mặt, chỉ đành vâng

dạ; thấy Dương Lăng không muốn nói thêm gì với gã nữa, bèn cáo từ lui ra.

Ngồi trên ghế dựa, Dương Lăng day ấn đường nhắm mắt nghỉ ngơi một lúc.

Dương Tuyền văn dốt võ dát, phẩm hạnh tồi tệ, thực sự y không muốn dây dưa với

gã. Nhưng mà quan hệ họ hàng thân thuộc như một cái lưới vô hình khổng lồ baotrùm lấy y, loại áp lực ngầm ấy khiến con người ta không thể nào phản kháng. Sóng

to gió lớn cỡ nào y cũng đã đều trải qua, thế nhưng y lại không biết nên làm thế nào

cho phải với cái tên tiểu nhân vật bé tí như con kiến này.

Ban đầu y còn định thu xếp cho gã công việc cai ngục trong đại lao bộ Hình,

song xem ra cũng không thể sử dụng tên này được. Dương Lăng thở dài, tạm thời

không nghĩ đến gã nữa, y lại cân nhắc kỹ lưỡng việc thu xếp để năm sau hoàng đế

xuất kinh một lượt, rồi mới đứng dậy đi về phía nhà sau.

Trên khuôn mặt Thành Khởi Vận đọng một nụ cười ngọt ngào, nàng vừa mới

chào hỏi ba vị phu nhân và Cao Văn Tâm xong. Vừa rẽ vào trong thư phòng, nụ

cười trên gương mặt lập tức tan biến, nàng uể oải thỏng vai, rì rì bước vào chỗ ở của

mình.

Đám người Hàn Ấu Nương đều là con gái tuổi còn khá trẻ, tinh lực dồi dào, trò

chuyện cũng ăn ý. Nàng lớn hơn bọn họ cả chục tuổi, kinh nghiệm và tuổi tác khiến

nàng khó lòng cảm thấy hứng thú với những đề tài mà bốn người con gái nọ nói

chuyện say sưa. Buổi sáng đi dạo trong thành, đám người Hàn Ấu Nương vẫn tràn

trề tinh lực, trong khi sự nhạt nhẽo và vô vị lại khiến nàng cảm thấy cả người rã rời.

Thành Khởi Vận sợ lạnh, cho nên Dương Lăng đặc biệt căn dặn đặt nhiều lò

sưởi trong phòng nàng, ban ngày đốt lò sưởi, buổi tối giường lò và tường kép sưởi

ấm cũng được đốt lửa khiến cho căn phòng trở nên ấm áp. Lúc này mặt trời mới vừa

qua chính ngọ, bởi đêm nay là giao thừa, cho nên lò sưởi trong phòng vẫn được đốt,

cả phòng ấm áp như tắm trong gió xuân.

Thành Khởi Vận lười nhác cởi váy lụa, áo kép, thay giày da hươu bằng giày

thêu, ngồi duyên dáng trước gương; khuôn trăng đầy đặn trong gương, mày như lá

liễu mắt như sao trời, má đào môi hạnh sáng ngời, vẫn là một vẻ rạng ngời như hoa.

Nàng vận chiếc áo cánh ống hẹp cân vạt, quần dài xanh nhạt chấm đất, chiếc

"yếm kha tử"(3) màu đỏ tươi mặc bên trong ôm chặt lấy bộ ngực đầy đặn, rãnh

ngực hõm sâu, như chực bung ra ngoài, phác hoạ nên đường cong mê người.

Thành Khởi Vận khẽ thở dài một hơi, ngón tay như ngọc trắng vuốt nhẹ bộngực mềm mại và mịn màng. Thân thể nàng vẫn kiều mị mê người như trước, cặp

mắt hạnh to và sáng như sao trời vẫn có sức hút mê hoặc chúng sinh như trước,

nhưng sẽ còn được bao nhiêu năm tháng thanh xuân? Hết hôm nay, sẽ lại già thêm

một tuổi.

Không khí vui mừng rộn rã khắp Dương phủ và tiếng pháo giòn giã thi thoảng

truyền đến từ thôn trang khiến nàng cảm thấy lạc lõng và cô quạnh, chán chường và

mệt mỏi với hết thảy mọi thứ mà nàng đã theo đuổi trước đây. Lúc này nàng chỉ

muốn tìm kiếm một người để nàng có thể tựa vào, có thể cuộn vào trong lòng thủ

thỉ chuyện trò. Nhưng yêu cầu tối đơn giản đến vậy cũng không kiếm dễ bằng kim

tiền và quyền thế.

Lười nhác chùng vai, Thành Khởi Vận ngước nhìn hình ảnh mình trong gương

rồi thở dài chán nản. Nàng vừa định leo lên giường nghỉ ngơi một chút, chợt có

tiếng Dương Lăng từ ngoài cửa vọng vào:

- Thành cô nương, cô đã đi nghỉ chưa?

Thành Khởi Vận giật mình, ánh mắt chợt loé lên tia vui mừng, cảm giác mệt

mỏi đau nhức lập tức tan biến, tinh thần thoắt đã trở lại. Nàng vội đáp:

- Vẫn chưa ạ! Đại nhân chờ một chút, ti chức sẽ ra ngay.

Thành Khởi Vận lật đật nhặt lấy quần áo mặc vào, kéo lê đôi giày thêu đế mềm

vội vã chạy ra nghênh đón. Dương Lăng đang chắp tay đứng bên cạnh bàn ngắm

bức tranh do Thành Khởi Vận tiện tay vẽ nguệch ngoạc nên. Trông thấy nàng kéo

rèm bước ra, y mỉm cười hỏi:

- Chắc mệt hả? Tôi cũng ghét nhất là đi dạo phố, mùa hè thì thà thả câu dưới

bóng dương liễu, buông cần xuống nước, nằm trên chiếu nghe gió mà chìm vào giấc

ngủ; mùa đông thì ngả trên đầu giường đọc quyển sách hay. Các cô Ấu Nương còn

nhỏ, hiếm khi được dịp ra ngoài cho nên ham thích náo nhiệt. Mọi người lại không

phải người ngoài, cô không cần thuận theo bọn họ, không muốn đi thì cứ đợi trong

phủ cũng được.Thành Khởi Vận vụt cười duyên dáng:

- Thì bởi khó có dịp ra ngoài, ti chức sao nỡ làm mọi người cụt hứng? Mấy

ngày nay đại nhân công việc bộn bề, ti chức cũng không tiện hỏi han, có điều nghe

nói đại nhân thường đến chỗ trú đóng của ba xưởng một vệ và mười ba đoàn doanh,

phải chăng vẫn là vì chiến sự phương bắc?

Dương Lăng gật đầu đáp:

- Ừ! Sự việc trọng đại, trong Nội xưởng cũng chỉ có một mình Ngô lão biết rõ

tình hình tường tận mà thôi, những người khác chỉ biết nó như vậy, chứ không biết

rõ nguyên do. Ha ha, lúc đầu vốn định vào kinh thu xếp ổn thoả rồi sẽ quyết định

thời gian để cô trở về Giang Nam. Không ngờ, trước tiên là vì dỡ bỏ lệnh cấm biển

mà phải toan tính đến chuyện nông canh, vì nông canh mà lo toan đến giống cây

trồng, rồi lại sơn tặc vào kinh, giặc Thát tác loạn biên cương, khiến cho chuyện của

cô cứ bị hoãn lại. Cô ở đây đã quen chưa?

Thành Khởi Vận khẽ hé môi cười đáp:

- Phương bắc gió như dao cắt, ban đầu thì chưa quen, bây giờ cảm thấy nó cũng

có ý vị khác. So với nhà cửa phương nam trong ngoài đều ẩm thấp lạnh lẽo, ở đây

khi bước vào lại có cảm giác ấm áp như xuân. Đại nhân và phu nhân cũng hết mực

quan tâm ti chức, cứ tiếp tục như vậy, ti chức thực sẽ vui đến quên quê nhà đấy.

Dương Lăng mỉm cười:

- Như vậy sao được, muốn quên quê nhà cũng phải làm xong đại sự giải trừ

lệnh cấm biển rồi mới được.

Ánh mắt Thành Khởi Vận vụt sáng, nàng hỏi:

- Đã nắm chắc rồi sao?

Dương Lăng gật đầu:

- Ừ, có điều phải cực khổ cho cô rồi. Mồng sáu tôi sẽ phải rời kinh lên bắc, côcũng sẽ đồng thời vào nam xuống Kim Lăng, bắt đầu chuẩn bị hết thảy mọi việc.

Thượng tuần tháng hai, nhất định cô phải dẫn được người vào kinh. Về phía các

quan viên đại biểu cho quan lại vùng duyên hải đó, tôi đã nắm thóp được một ít rồi,

Hoàng thượng cũng đã gật đầu đồng ý. Hiện tại khó nhai nhất chính là đám hại

nước, hại dân đã bảo thủ mà lại cứ hùng hồn mượn thể diện thiên triều thượng quốc

làm lá chắn. Đánh thì không đánh được, chửi cũng không chửi nổi, thực phải phiền

đến phương cách của Thành cô nương để bịt miệng bọn họ lại thôi.

Thành Khởi Vận chậm rãi ngồi xuống chiếc ghế dựa đối diện, cười duyên dáng:

- Đại nhân yên tâm, Khởi Vận nhất định sẽ không làm nhục sứ mệnh. Tháng

giêng về Kim Lăng, tháng hai ti chức nhất định sẽ về kinh phục lệnh đúng hẹn.

Đầu ngón tay Dương Lăng mơn trớn miếng chặn giấy trơn nhẵn bằng ngọc

thạch, y đáp:

- Được! Tuy cô thể chất yếu ớt, nhưng lại là nữ trung hào kiệt, chưa từng lừa

dối bản quan. Cô làm việc, ta tuyệt đối tin tưởng.

Y thoáng trầm ngâm, rồi đứng dậy nói tiếp:

- Hôm nay là giao thừa, đến giờ cơm chiều cô hãy đến phòng khách, mọi người

tề tụ cho náo nhiệt, đừng trốn ở đây nữa.

Thành Khởi Vận mỉm cười dạ đáp lời, trông thấy y bước ra cửa, chợt hỏi:

- Đại nhân! Vị bà con Dương tam gia vào kinh nương nhờ, dường như đại nhân

đang lo nghĩ không biết nên bố trí như thế nào cho ổn thỏa thì phải? Không bằng để

ti chức dẫn gã đến Giang Nam xem sao?

Dương Lăng do dự:

- Việc này... quả thực khiến người ta lo nghĩ. Cũng không giấu gì cô, người này

văn dốt võ dát, thói xấu lại có đủ, tuy không phải là một mầm họa lớn, song thực sự

khiến người ta khó ưa. Do có huyết thống họ hàng nên đuổi thì không được, giữ

cũng không xong. Bản quan nhìn tên lưu manh này, thực như chó cắn phải nhím,không biết nên mở miệng thế nào. Cô dám rước cái của phiền phức này theo bên

mình sao?

Thành Khởi Vận nghe y nói với giọng điệu tự giễu, không khỏi che miệng cười

nói:

- Đại nhân thật! Nói hắn không biết phấn đấu là được rồi, sao còn so sánh mình

với... với... Ha ha, ti chức có gì mà không dám chứ, có điều đương nhiên phải xin

đại nhân một cây Kim Phê lệnh tiễn(4). Dương tam gia là người chí thân của đại

nhân, từ xưa việc quản lý thuộc hạ khó nhất chính là vướng phải quan hệ thân thích.

Ti chức xa cách một tầng, chỉ cần công chính vô tư, vẫn dễ nói chuyện với gã hơn

đại nhân nhiều.

Dương Lăng nghĩ ngợi một lúc rồi nhoẻn miệng cười nói:

- Được, vậy tôi sẽ giao cho cô cái của nợ này. Cô phải nghiêm khắc không được

dung túng gã, nếu tôi nghe nói gã cậy vào quyền thế của tôi làm điều xằng bậy thì

tôi sẽ chỉ hỏi tội cô thôi đó!

Thành Khởi Vận cười đáp:

- Ti chức tuân lệnh!

***

Mùng một tết, Hoàng đế không phải lâm triều, tuy nhiên đám cận thần trong

cung vẫn phải vào cung viếng thăm theo lệ. Cả nhà Dương Lăng quây quần trong

phòng sưởi, chơi đùa trò chuyện đến quá trưa. Ước chừng đại thần vào cung đều đã

về hết rồi, y mới dẫn theo người hầu thân cận vào cung gặp Hoàng đế.

Chính Đức bận bịu suốt cả buổi sáng: sớm ra vừa thức dậy đầu tiên là đến tẩm

cung thỉnh an Thái hoàng thái hậu và Thái hậu, nhận lì xì, sau đó trở về cung Càn

Thanh ngồi ngay ngắn đón một đám hoàng thân quốc thích và đại thần văn võ đến

thỉnh an, phát bao lì xì. Hiện hắn đã làm xong tất tần tật những công việc cần làm,

đang cùng Giải Ngữ và Tu Hoa ở trong điện thi ném thẻ vào vò. Lưu Cẩn đứng mộtbên cười vỗ tay ủng hộ.

Dương Lăng bước vào điện, đứng một bên đợi Chính Đức ném hết thẻ trên tay

xong, mới bước đến làm lễ, chúc mừng năm mới. Diễn xong màn hỏi han chúc

mừng xong, hai người vua tôi bọn họ mới cùng thở ra một hơi thật dài.

Chính Đức bảo Dương Lăng và Lưu Cẩn vào nội thư phòng, rồi không thể đợi

thêm nữa, hắn lập tức hỏi ngay:

- Dương thị độc, mọi thứ chuẩn bị thế nào rồi?

Dương Lăng đáp:

- Mọi việc đã chuẩn bị đầy đủ, chỉ đợi có cơ hội thích hợp, mời Hoàng thượng

hạ chỉ, lệnh cho thần đến biên cương ủy lạo, sau đó sẽ có thể thực hiện kế minh tu

sạn đạo...

Khi nói đến đây, y chợt nhớ đến một chuyện, mặt liền biến sắc.

Chính Đức cũng rất lanh trí, trông thấy mặt y cứng lại, liền hỏi:

- Đã xảy ra chuyện gì vậy?

Dương Lăng lưỡng lự một lúc rồi hỏi:

- Hoàng thượng, chuyện ngài xuất kinh, ngoại đình chỉ có thần, Tiêu đại học sĩ

và Nghiêm Tung của bộ Hộ rõ, Nội xưởng có Ngô Kiệt biết, nội đình ngoài Lưu

công công ra còn có ai nghe nói đến nữa không?

Chính Đức thoáng do dự rồi gượng cười nói:

- Chuyện thú vị như vậy mà phải đem giữ ở trong lòng trẫm thực sự cảm thấy

khó chịu, cho nên... ta đã từng nhắc đến với hai vị cô nương Giải Ngữ và Tu Hoa.

Có điều chỉ nói sẽ đi về phía bắc, cuối cùng sẽ đến Đại Đồng, ngoài ra chưa từng

nói với bọn họ điều gì khác. Có chuyện gì sao?

Dương Lăng chau mày thưa:- Thần nhớ đến một chuyện, hai trăm đại đạo lục lâm Bá Châu bị Di Lặc giáo

mê hoặc đột nhiên vào kinh, mục đích ban đầu là gì, chỉ có mấy thủ lĩnh trong đám

sơn tặc đó biết, chứ hiện tại chúng ta vẫn chưa tường tận. Hoàng thượng xuất kinh

là chuyện lớn biết dường nào, người biết được thực không nên quá nhiều.

Đoạn y cười khan hai tiếng, làm bộ nói đùa bảo tiếp:

- Từ dạo thần bị Di Lặc giáo "dạy dỗ", đến giờ vẫn còn khiếp sợ chưa vơi. Nhớ

lần đầu gặp cô nương Giải Ngữ, từng thấy trên người nàng ấy đeo một miếng ngọc

bội khắc tượng phật Di Lặc. Nữ tử đeo tượng phật trên người chẳng phải kỳ quái

sao? Ha ha, đương nhiên, có thể là thần đã suy nghĩ quá nhiều, thực có hơi vô lý...

Chính Đức thoáng ngẩn ra, rồi bật cười nói:

- Khanh đó nha, đúng là hoang đường! Khanh nghi ngờ hai vị mỹ nhân Giải

Ngữ và Tu Hoa là người của Di Lặc giáo à? Làm sao có khả năng đó chứ, hơn nữa,

nam đeo quan âm nữ đeo phật, tượng phật mà cô gái đeo ngẫu nhiên lại là phật Di

Lặc thôi. Nếu như vậy liền coi là Di Lặc giáo, các cô gái trong thiên hạ mười phần

sẽ có đến bảy phần bị chém đầu rồi.

Dương Lăng nghe vậy thì ngớ ra. Nghe Chính Đức nói, y mới nhớ trước đây

mình cũng từng nghe nói nam đeo quan âm nữ đeo tượng phật, chỉ là nhờ Chính

Đức nhắc nhở mới nhớ lại. Ngẫm kỹ lại, tri thức về lịch sử của mình có hạn, mặc dù

biết Ninh Vương tạo phản, song lại chưa từng nghe nói có liên quan gì với Di Lặc

giáo cả. Hay là mình đã quá đa nghi?

Dương Lăng ngượng ngập đáp:

- Chuyện này... cẩn thận một chút vẫn tốt hơn. Thần vốn cũng không phải vì

vậy mới sinh lòng nghi ngờ, có điều khi ấy bái kiến Hoàng thượng, hai vị cô nương

biết tránh sang một bên để không phải tội nhận xằng đại lễ của quan viên. Người

dân quê mùa lại hiểu biết lễ nghi như vậy, thần mới cảm thấy hơi kỳ quái.

Lưu Cẩn đứng một bên nghe xong cũng bật cười ha hả, nói:- Dương đại nhân, bọn họ tuy xuất thân quê mùa, nhưng trước khi được đưa vào

trong cung, phủ Ninh vương sẽ phải dạy dỗ đủ mọi lễ nghi cung đình hết ba tháng.

Trước khi tiến cung, Ty Lễ giám lại phái người dạy thực tập hết năm ngày, những lễ

nghi này mà còn không biết thì mới là lạ đó.

Bọn họ được Ninh vương bảo đảm đưa đến. Ninh vương là hoàng thúc, là

hoàng tộc Đại Minh, Di lặc giáo phản lại chính là hoàng triều của Đại Minh chúng

ta, hai bên vốn không thể nào đồng loã. Huống hồ trước giờ Ninh vương vẫn luôn

trung thành với Hoàng thượng!

Chính Đức nhớ lại lúc làm đại lễ đăng cơ, trong số phiên vương đến tặng lễ vật

thì Ninh vương trú đóng ở nơi xa nhất, lễ vật đem tặng cũng nhiều nhất, hợp với

tâm ý của mình nhất. Nay lại tặng thêm Giải Ngữ và Tu Hoa, có thể thấy được sự

kính cẩn và nể sợ của hắn. Huống hồ trong tay hắn lại không có một binh một tốt,

sao có thể có ác ý chứ. Thế là Chính Đức bèn gật đầu kêu phải.

Dương Lăng nói:

- Có lẽ là thần đã đa nghi. Có điều vì an toàn của Hoàng thượng, thần sẽ quyết

định đường đi, hành tung, phương thức xuất kinh và thời gian xuất kinh, vẫn mong

Hoàng thượng đừng đề cập chuyện này với bất cứ người nào khác, bao gồm cả hai

vị nương nương.

Chính Đức bất đắc dĩ cười bảo:

- Theo ý khanh, theo ý khanh đi! Chỉ cần có thể xuất kinh, trẫm sẽ theo ý khanh

hết, được chưa?

Dương Lăng thấy Chính Đức vẫn chưa thực tâm đồng ý với mình, bèn nghiêm

mặt thưa:

- Hoàng thượng, vua không nói lời đùa giỡn, ngài đã đồng ý thì vạn lần phải giữ

lấy lời. Hoàng thượng phải đến Đại Đồng, ấy là vì tận trách nhiệm của thiên tử với

thiên hạ, thần cũng sẽ vì sự an nguy của Hoàng thượng mà tận trách nhiệm của

thần!Chính Đức nghe xong bèn nghiêm túc trở lại, nghiêm nghị:

- Được, ra khỏi miệng khanh, chỉ vào tai trẫm! Đừng nói là Giải Ngữ và Tu

Hoa, - hắn liếc sang Lưu Cẩn rồi nói tiếp, - Cho dù là lão Lưu, trẫm cũng sẽ không

nói cho lão biết. Như vậy được chưa?

Chú thích:

(1) vải thô, làm bằng dây đay, dùng may áo mặc mùa hè

(2) nguyên văn "đại quá niên", xuất phát từ câu "quá đông đại quá niên". Ý

nghĩa của nó là: ngày xưa, vào ngày đông chí, từ đế vương ở trên cho đến bá tánh ở

dưới đều phải mổ gia súc và lấy trái cây tế trời hết sức trang trọng để cảm tạ ông

trời năm qua đã ban ơn, và đồng thời khấn cầu năm sau ông trời tiếp tục cho dân

gian được mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, vân vân.

(3) loại áo nịt ngực thời xưa

(4) xem hình giữa

Lệnh tiễn: còn gọi là cờ lệnh, ý TKV xin DL cho phép TKV toàn quyền trị tội

Dương Tuyền.NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 185: Rồng Ra Biển Lớn

Năm mới đã qua được ba ngày, tuy vẫn còn non nửa văn võ bá quan chưa hồi

kinh chấp hành nhiệm vụ nhưng tới mồng bốn hoàng đế vẫn lâm triều xử lí chính

sự. Ngay khi thượng triều, Chính Đức liền ban một ý chỉ, bảo rằng bởi Dương Nhất

Thanh và Vương Thủ Nhân lần đầu thắng trận, làm tiêu tan nhuệ khí của quân đội

Thát Đát nên đặc biệt bổ nhiệm Dương Nhất Thanh làm Tam biên tổng chế, Vương

Thủ Nhân làm phó tướng, toàn bộ tổng binh của ba trấn đều phải theo sự điều

khiển, dưới quyền của hai người.

Thát Đát tập kích biên giới cũng giống như người Hán đón tết, mỗi năm đều

tới. Lúc đầu quân Minh chiếm thượng phong, sau nữa thì hai bên thế lực ngang

bằng, đến mấy năm gần đây phàm là Thát Đát phái trọng binh tiến đánh, nếu không

có binh mã đông gấp đôi trở lên thì quân Minh không thể nào chống lại nổi.

Dương Nhất Thanh tính tình chính trực, cương nghị thanh liêm, rất được đại

học sĩ Lý Đông Dương xem trọng lại vốn xuất thân từ quan văn, cho nên khi giành

được trọng dụng với chiến quả ấy, văn võ cả triều cũng không ai dị nghị gì. Thừa

dịp mọi người cao hứng, Chính Đức lại tuyên bố để khao thưởng tướng sĩ cực khổ ở

tam quan, nay ban đặc chỉ cho Thống lĩnh ngự tiền thân quân thị vệ là Dương Lăng

sẽ dẫn quân đến Đại Đồng ủy lạo, khởi hành vào mồng sáu.

Sáng mồng năm, mấy chục tay thị vệ cường tráng mặc đồ đen đứng im phăng

phắc trước cổng phủ Uy Vũ bá của họ Dương. Hai cỗ xe ngựa tam mã đỗ bên cạnh,

mấy thớt ngựa lực lưỡng sốt ruột cào vó, phì phì thở ra sương trắng.

Dương Lăng và ba vị phu nhân cùng Cao Văn Tâm đưa Thành Khởi Vận và

chú cháu Dương Tuyền ra ngoài. Thành Khởi Vận khoác áo choàng lông chim rộng

màu đỏ, nổi bật giữa mảng đất trời trắng xóa, dung nhan thùy mị như sóng nước,

tựa hoa mai ngạo nghễ trong tuyết trời; trong vẻ xinh tươi khiến tim người ta đậpthình thịch đó lại mang theo mấy phần hào khí.

Dương Lăng ghé mắt nhìn sang, không khỏi cười nói:

- Trông bộ dạng của cô y hệt như một Hồng Nương Tử vậy. Chuyến nam hạ

này, nếu không có đám thị vệ này đi cùng, không biết cô sẽ bị quan phủ tróc nã mấy

lần đây?!

Thành Khởi Vận bó tay vào trong ống tay áo, tay áo gấm hoa lộ bên dưới chiếc

áo choàng, lông chồn trắng trên viền tay áo khẽ lay trong gió.

Có thể trở về với vùng đất phương nam quen thuộc, được làm một số việc, quả

thực nàng có phần hào hứng. Đưa mắt nhìn Dương Lăng, thật tâm nàng cũng có

phần quyến luyến. Nàng liếc nghiêng Dương Lăng, rồi như trêu ghẹo mà "nghiêm

túc" đáp rằng:

- Lo gì?! Cùng lắm thì ti chức sẽ lệnh cho bọn thị vệ bắt Dương đại nhân ngài.

Có ngài làm hộ tống, dù là chân trời góc biển, có nơi nào mà không thể đến chứ?

Dương Lăng nhìn Thành Khởi Vận. Tuy nàng chỉ buột miệng nhưng trong ánh

mắt lại lộ tình ý miên man thắm thiết. Dương Lăng không khỏi giật thót trong lòng,

y vội ho khan mấy tiếng rồi dời mắt đi, đánh trống lãng:

- Còn chưa hết tết mà đã bắt cô phải vội vã lên đường, quả thực là chuyện đặng

chẳng đừng. Chuyện của Kim Lăng xin nhờ vào cô vậy.

Thành Khởi Vận thầm buông tiếng thở dài, khoé môi cố nặn một nụ cười, khẽ

giọng đáp:

- Đại nhân yên tâm, ti chức... lo liệu được.

Hàn Ấu Nương có thai chưa được hai tháng, lưng bụng vẫn chưa thấy có gì

thay đổi, nhưng một khi nàng ra khỏi nhà liền trở thành đối tượng bảo hộ trọng

điểm. Khoác áo choàng vải nhung lạc đà mềm mại ấm áp, đeo đôi găng tay da chồn,

nàng đang nói chuyện phiếm với Cao Văn Tâm, nghe thấy hai người trò chuyện bèn

quay sang Thành Khởi Vận mỉm cười nói:- Tỷ tỷ, mấy ngày qua sống chung với nhau, thực không nỡ để tỷ đi xa. Tướng

công nói cần tỷ đi làm một việc hệ trọng, vậy Ấu Nương không thể ngăn tỷ rồi.

Tướng công thường nói rằng Ấu Nương một thân võ nghệ, Văn Tâm tỷ tỷ y thuật

diệu kỳ, Tuyết Nhi và Ngọc Nhi thông minh ngoan ngoãn, cầm kỳ thi họa đều tinh

thông; nhưng nếu luận về mưu kế và trí tuệ, thì cho dù là nam nhi trong thiên hạ

cũng không có mấy người bằng được tỷ tỷ. Tướng công được tỷ giúp đỡ rất nhiều,

cho nên làm xong đại sự rồi, mong rằng tỷ tỷ có thể trở về phương bắc sớm một

chút.

Trong lòng Thành Khởi Vận chợt có một cảm giác ấm áp ùa vào: cô bé này

đúng thật là vị cô nương tốt, cô nàng ấy làm bạn khuê phòng với Cao Văn Tâm,

nhất định đã sớm biết xuất thân và lai lịch của mình, đã từng... Cho dù mình ăn

ngon mặc đẹp, những thôn phụ bên đường vẫn ném về phía mình những cái nhìn

miệt thị, thế nhưng vị Cáo Mệnh phu nhân này lại không hề có ý gì là xem thường

và khinh bỉ mình. Nàng ấy thực sự coi mình là người đáng được tôn trọng.

Mắt Thành Khởi Vận rơm rớm, nàng vuốt nhẹ tay Hàn Ấu Nương, khẽ giọng:

- Đa tạ phu nhân quan tâm! Lần này Khởi Vận đi đến khoảng thượng tuần tháng

hai là sẽ trở về. Phu nhân đang mang thai, xin hãy bảo trọng thân thể. Khởi Vận

mong ngóng đến trung thu năm nay, khi cây quế tỏa hương, được ôm tiểu Uy Vũ bá

gia trắng trẻo và bụ bẫm vào lòng đấy!

Hàn Ấu Nương đỏ mặt, vừa ngượng vừa thích, liếc Dương Lăng rồi lại lay nhẹ

tay Thành Khởi Vận trách:

- Tỷ tỷ đừng nói vậy! Người ta còn chưa biết mà, nhỡ đâu... nhỡ đâu là con gái

cũng không chừng.

Vừa nói nàng vừa lo lắng liếc sang Dương Lăng. Dương Lăng mỉm cười:

- Con gái thì sao chứ? Tướng công nhà nàng thích con gái mà.

Nói đoạn Dương Lăng vẫy tay gọi lão quản gia đến, cầm lấy một gói đồ rồi nói:- Thành cô nương, ở đây có mấy món lễ vật mà tôi và Ấu Nương tặng cho Mã

Liên Nhi cô nương ở quán rượu Trường đình trong xóm Trường Can. Sau khi đến

Kim Lăng, phiền cô hãy giúp tôi chuyển đến cho cô ấy nhé!

Thành Khởi Vận nghe xong thì lấy làm ngạc nhiên, "Dương Lăng đến từ Tuyên

Phủ, không hề có thân thích gì ở phương nam, mình cũng từng nghe nói đến việc

này. Vị Liên Nhi cô nương này là gì của y?" Thành Khởi Vận liếc nhanh sang Hàn

Ấu Nương, bèn lờ mờ đoán ra mấy phần, thế là ngoài sự kinh ngạc còn có chút

ghen tị.

Nàng không biết về quá khứ của Dương Lăng và Mã Liên Nhi, còn tưởng rằng

đây là một vị cô nương mà khi Dương Lăng xuống Giang Nam vừa gặp đã yêu

ngay. Vị cô nương này có thể khiến y nhung nhớ không quên như vậy, phải là mỹ

nhân xinh đẹp tới dường nào?

Chung quy thì Thành Khởi Vận vẫn là phụ nữ, một người phụ nữ xinh đẹp và

tự phụ, lại mang lòng yêu mến Dương Lăng. Cho dù nàng có rộng lượng đến đâu,

việc có liên hệ đến đức lang quân của mình thì làm sao mà nàng không để ý đến

được?

Nhìn toàn bộ số nữ nhân bên cạnh Dương Lăng: Ấu Nương như đóa tường vi,

Tô Tam tựa hoa bách hợp, Văn Tâm như loài u lan, Tuyết Nhi lại giống đỗ quyên,

tuy ai nấy muôn vẻ yêu kiều, đều có sở trường riêng, song luận về sắc đẹp và vẻ

phong tình thì không một ai có thể sánh bằng nàng. Vị cô nương này có thể khiến

cho Dương Lăng bận lòng như vậy, chẳng lẽ lại là quốc sắc thiên hương? Thành

Khởi Vận âm thầm ghi nhớ trong lòng, việc đầu tiên phải làm khi trở về Kim Lăng

là đi gặp vị Mã cô nương này thử một chuyến.

Nàng giữ vẻ mặt điềm tĩnh cầm lấy gói quà rồi mỉm cười đáp:

- Đại nhân yên tâm! Ti chức nhất định sẽ không làm nhục sứ mệnh.

Thành Khởi Vận lễ phép gật đầu chào với từng người trong đám phụ nữ xong

xoay người bước lên kiệu, rồi vén rèm cửa sổ từ biệt:- Đại nhân! Tiết trời lạnh lẽo, xin các vị hãy trở về, Khởi Vận lên đường đây!

Dương Tuyền nghe vậy liền như được đại xá. Hiện nay Dương Lăng ra vào đều

mang theo một đám thị vệ trùng trùng, loại khí thế mỗi lúc một oai nghiêm đó khiến

ngay cả gã vốn là kẻ ngu ngốc hồ đồ cũng cảm nhận được rất rõ. Từ lúc đến Dương

phủ gã đều luôn tuân thủ khuôn phép, không ngờ mới vừa lần đầu định tác oai tác

phúc, thử làm ra vẻ đại lão gia một chuyến thì lại bị Dương Lăng phát hiện.

Mấy ngày nay gã đều co đầu rụt cổ không dám lộ diện, lần này có thể rời khỏi

Dương Lăng đi đến tận Giang Nam trù phú nhất thiên hạ, gã liền thấy nhẹ nhõm cả

người, như thể đã trút được gánh nặng. Với thân phận hiện tại của gã, nếu chỉ quanh

quẩn bên người Dương Lăng thì sẽ chẳng là gì, nhưng một khi rời khỏi Dương

Lăng, dựa vào tấm chiêu bài là "đường huynh của Xưởng đốc Nội xưởng", thì đi

đâu cũng sẽ thuận tiện. Đánh chó cũng phải ngó mặt chủ chứ, đúng không?

Huống hồ vị Thành cô nương này thực sự là mỹ nhân hiếm thấy. Mặc dù bình

thường nàng ta trông có vẻ lạnh lùng, nhưng khi nàng thi thoảng nhoẻn miệng cười,

vẻ xinh đẹp vụt thoáng qua ấy thực khiến cho gã đầu váng mắt hoa, thần hồn ngơ

ngẩn. Có thể theo cạnh mỹ nhân như vậy... nghe nói nàng ta còn là thuộc hạ của

đường đệ mình? Khà khà...

Dương Tuyền lật đật cáo từ vợ chồng Dương Lăng, rồi lập tức trèo lên chiếc xe

thứ hai. Dương Lăng thoáng chau mày nhìn theo bóng lưng gã. "Cuối cùng cũng đã

nuốt trôi được miếng thuốc cao này." Nhưng mà, cậy vào quan hệ với mình, nếu gã

đến Giang Nam tác oai tác phúc, liệu Thành Khởi Vận có dám quản chế gã không?

Dương Lăng cảm thấy hơi lo lo, song hiện tại y cũng không còn cách nào khác.

Cho dù Dương Tuyền có khiến người ta chán ghét đến đâu, thì dựa vào quan hệ họ

hàng và địa vị thấp kém của gã, vẫn sẽ là tấm bài ngụy trang dễ thu hút được sự

đồng cảm của mọi người nhất. Nếu mình chiếu cố gã không chu đáo, thì sẽ bị coi là

kẻ bất chấp cương thường, khinh họ hàng chê nghèo khó, là loại người xấu xa mà từ

vương hầu công khanh cho đến bá tánh lê dân ai nấy đều căm ghét và khinh bỉ.

Trông thấy vẻ mặt lo lắng của Dương Lăng, khóe môi Cao Văn Tâm bất giác

nhếch nụ cười nhẹ.Hàn Ấu Nương chỉ có nàng là chị em có tuổi tác lớn hơn một chút, nên hễ có gì

trong lòng đều đem kể cho nàng nghe. Nàng sớm đã được nghe kể chuyện vị Dương

tam gia này chòng ghẹo đe dọa em dâu như thế nào, cho nên khi biết Thành Khởi

Vận muốn mang Dương Tuyền xuôi nam, nàng bèn lén khéo léo tiết lộ thông tin đó

cho cô ta biết.

Không ai có thể thấu rõ tâm tư của Thành Khởi Vận đối với Dương Lăng như

nàng, nàng tin tưởng Thành Khởi Vận sẽ không tiếc sức lực, thậm chí cả thủ đoạn

để bảo vệ y.

Ai mà có ý định làm tổn hại đến uy vọng, quyền lực và hạnh phúc của Dương

Lăng, thì mỹ nhân muôn vẻ phong tình ấy lập tức sẽ cởi bỏ tấm da vẽ(*), nhe nanh

giơ vuốt ra ngay. Ngay dưới tầm mắt của Dương Lăng, vị Dương tam gia này vô

tình đã được y che chở, người ngoài cũng không ai dám làm gì gã. Nhưng nếu gã

đến phương xa làm loạn, bằng vào tâm tư của Thành cô nương mà không trừng trị

khiến gã phải ngoan ngoãn thành thật được thì mới là chuyện lạ.

(*): nguyên văn "họa bì", nhắc đến truyện Họa Bì trong Liêu Trai Chí Dị

Xem

Thành Khởi Vận buông rèm, ngồi vào chỗ mới đột nhiên phát hiện trong kiệu

xe bài trí hết sức thoải mái: đệm ngồi bằng da gấu trắng, thảm nhung tuyết Ba Tư

lộng lẫy, xa hoa, áo bông mỏng cổ lông chồn, một bên là bếp lửa bằng đồng, trên

cái giá ở bên kia là mấy quyển sách cùng điểm tâm và rượu ngon các loại.

Con tim Thành Khởi Vận thoáng trở nên loạn nhịp, nàng chợt vươn tay về phía

rèm cửa, ngón tay chạm vào rèm, hơi vén ra một chút thì liền ngưng lại. Kiệu xe

khẽ lắc lư di chuyển. Một chốc sau, nàng lặng lẽ rút tay về, day nhẹ khóe mắt, rồi

uể oải cuộn người vào trong tấm chăn lông mềm mại và ấm áp. Thân thể dần ấm

lên, con tim cũng thêm phần ấm áp, một nụ cười ngọt ngào vụt thoáng trên khuôn

trăng, chân mày khóe mắt chợt toát ra một vẻ dịu dàng mê hồn khôn xiết.

Ngựa xe bắt đầu lên đường, nụ cười trên khuôn mặt Hàn Ấu Nương cũng dần

biến mất: "Chao ôi! Hôm nay Thành cô nương xuôi nam, ngày mai tướng công lạiphải đi đến Đại Đồng." Phu quân đi xa, bảo sao nàng có thể không bận lòng lo

lắng?

Bọn họ ai nấy mang theo tâm tư của mình dõi nhìn theo chiếc xe ngựa lộc cộc

chạy đi, tiếng vó ngựa vang lên giòn giã, chớp mắt đã rẽ qua góc đường...

Mồng sáu tháng giêng. Trên thao trường điểm binh.

Cờ phướn tung bay rợp trời, trên đài cao treo đầy bảng đỏ, dưới quảng trường

kiếm rìu đao kích kín mít như rừng.

Năm nghìn tinh binh chọn ra từ trong mười vạn quân đều cưỡi chiến mã khỏe

mạnh được mua về từ địa khu Hà Sáo. Ai nấy đều mặc giáp nhẹ, chia ra làm đội

cung nỏ, đội phi lao, đội trường thương, đội đao thuẫn cưỡi ngựa, đội thiết côn, đội

hỏa súng và năm trăm thị vệ hạch tâm.

Đội quân này được trang bị giáp nhẹ, khinh kỵ và vũ khí công kích sắc bén

khác hẳn với trang bị mà các binh đoàn lớn của quân Minh sử dụng để tác chiến và

công thủ thành trì. Thứ mà đội ngũ này đòi hỏi chính là "ứng biến nhanh, công kích

lẹ, rút lui mau", chẳng những sức chiến đấu phải hơn người Mông Cổ, mà tính cơ

động cũng được yêu cầu rất cao, có thể nói là rất hao tâm tổn huyết.

Các tướng lĩnh của bộ Binh, Ngũ quân đô đốc phủ và mười hai đoàn doanh

trong kinh trông thấy kiểu cách như vậy đều không khỏi cười thầm. Một vị đô đốc

thuộc Ngũ quân đô đốc phủ thấp giọng cười bảo:

- Dương xưởng đốc thực là người tâm tư. Bảo y đến Đại Đồng ủy lạo binh sĩ

mà thôi chứ đâu phải kêu y ra chiến trường đâu, thế mà y lại tuyển chọn ra đám tinh

binh trải qua muôn vàn trui luyện từ trong hơn vạn người của mười hai đoàn doanh

này. Bộ y muốn chuẩn bị chạy thoát thân hay sao chứ?

Mấy vị tướng quân đứng cạnh nghe xong đều khẽ cười hắc hắc. Dương Lăng có

danh vọng rất cao trong quân đội, cho nên đám tướng lĩnh này mới không hề có ác

ý với y, bằng không sẽ không hợp tác tuyển chọn tinh binh từ các bộ như vậy. Tuy

nhiên có cơ hội trêu chọc Dương xưởng đốc, biểu hiện oai phong của bậc tiền bốitrong quân đội thì đương nhiên bọn họ sẽ không bỏ qua.

Khoác trên người bộ tỏa tử giáp(1) màu bạc, chiến bào màu đỏ, dải tua đỏ trên

mũ tung bay, Dương Lăng bước vào thao trường dưới sự bảo hộ của tám viên hiệu

úy cầm thương. Thao trường lập tức im phăng phắc, hàng nghìn cặp mắt đồng loạt

đổ dồn về phía y.

Đã lâu Dương Lăng chưa trải qua khung cảnh này: trên thao trường năm nghìn

tinh binh chẳng những sát khí đằng đằng, hình thành một loại sát khí và nghiêm

trang vô hình, mà vây quanh dưới điểm tướng đài là những quan quân cao cấp trong

quân đội. Y nín thở, trang nghiêm bước ra khỏi đám người, bước lên điểm tướng

đài, ủng giáp kêu lộp bộp.

Thoáng cái, tiếng trống trận vang rền, lọng vàng từ phương xa từ từ kéo tới.

Hoàng đế Chính Đức đích thân đăng đài điểm tướng, tiễn biệt Dương Lăng. Hoàng

đế đích thân ngự giá, mọi tướng sĩ trong thao trường rào rào quỳ xuống nghênh đón.

Tiểu hoàng đế Chính Đức vận áo bào thêu hình rồng cuộn màu đen tuyền, tôn

lên môi hồng răng trắng, khí phách bừng bừng. Khi hắn bước lên đài, viên minh

châu gắn trên mũ Dực Long khẽ rung rinh. Hắn vừa đến chính giữa điểm tướng đài,

Dương Lăng liền vội quỳ xuống nghênh giá.

Theo sau Chính Đức là Lưu Cẩn và bốn tên tiểu thái giám, dâng chiếc khay sơn

son thếp vàng đựng thánh chỉ, lệnh tiễn, ấn tín và Thiên Tử kiếm. Trên tấm thảm đỏ

trải chính giữa điểm tướng đài, long thư án (cái bàn họa khắc hình rồng -ND) và

long ỷ bề mặt phủ bởi vải lĩnh màu vàng đã sớm được bày biện ngay ngắn. Hoàng

đế Chính Đức bước tới ngồi sau chiếc bàn, cao giọng tuyên:

- Chúng khanh bình thân!

Giáp bào lào xào, hơn năm nghìn viên tướng sĩ đồng loạt đứng dậy. Ba tiếng

pháo vang lên rền rã khắp trời, tiếng kèn lệnh réo gào cùng tiếng trống trận gầm gừ

như sấm dậy lần nữa được vang lên, khiến hoàng đế Chính Đức nghe thấy cũng

dâng trào nhiệt huyết.Khuôn mặt anh tuấn như ngọc của hắn đỏ bừng vì kích động, vừa định đứng lên

nói mấy lời, hắn chợt sực nhớ nơi đây cũng có quy củ riêng của nó, bèn hướng mắt

sang Lưu Cẩn. Lưu Cẩn vội hô to:

- Tướng lĩnh phụng chỉ tuần biên bước lên nghe chỉ!

Dương Lăng bước lên mấy bước, quỳ lạy:

- Có mạt tướng!

Lưu Cẩn cầm lấy thánh chỉ, cao giọng tuyên:

- Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu rằng: Nay phương bắc có Thát Đát xâm

phạm Đại Minh ta, quấy nhiễu nhân dân ta, khiến cho tiếng oán dậy trời, thế nên

trẫm xuất binh đánh chúng. Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân lần đầu lập

chiến công, đáng nên khen thưởng. Ý trẫm trao cho Dương Lăng chức Uy Vũ tướng

quân, đặc biệt ban cho Thiên Tử kiếm, thay trẫm tuần thú(*) biên thùy, ủy lạo tướng

sĩ, và quyết định chiến sự tiền phương; đồng thời cử đề đốc Kinh doanh là Trương

Vĩnh làm phó sứ, thưởng cho mãng long bào. Hai người lập tức lên đường, không

được trì hoãn. Khâm thử!"

(*: thiên tử đi tuần, xem xét các đất nước chư hầu thì gọi là tuần thú)

Dương Lăng lĩnh chỉ tạ ơn, Trương Vĩnh cũng vội quỳ dưới đài, cung kính thưa

lĩnh chỉ.

Dương Lăng cầm lấy Thiên Tử kiếm giắt bên hông, tiếp nhận kim ấn và lệnh

tiễn, rồi lệnh cho đại quân lên đường, năm nghìn tinh binh hùng dũng rời khỏi thao

trường. Trước đây Chính Đức đã ban thưởng mãng long bào cho Dương Lăng, Lưu

Cẩn và Cốc Đại Dụng, duy chỉ Trương Vĩnh là chưa có phần, khiến lão trông thấy

mà phát thèm. Lần này phụng chỉ tuần biên, cuối cùng lão cũng đã được ân thưởng

mãng long bào, Trương Vĩnh hớn hở không thôi. Tiếp nhận lấy áo bào mặc vào

chỉnh tề, lão cũng trèo lên ngựa, cung kính ôm quyền thực hiện quân lễ với Chính

Đức, rồi quay đầu ngựa đi theo đại quân.Hoàng đế Chính Đức tủm tỉm cười nhìn theo Dương Lăng bước xuống điểm

tướng đài, vịn yên nhảy lên ngựa tung bụi rời đi, liền như không thể chờ được nữa

mà hắn lập tức khởi giá hồi cung. Thao trường này đặt trong Thần Cơ doanh, vốn

nằm bên ngoài kinh thành. Hôm nay Chính Đức đòi bày ra nghi thức xuất binh long

trọng như vậy, văn võ trong triều chỉ nghĩ tiểu hoàng đế lại thích vẽ chuyện cho nên

cũng không ai để ý.

Hắn không thể thượng triều, nhưng đại sự trong triều vẫn phải có người xử lí,

cho nên đại học sĩ nội các và Lục Bộ Cửu Khanh đều phải yên phận ở lại trong kinh

xử lí công việc. Hoàng đế ngự giá rời khỏi thao trường, các võ tướng bèn quỳ

xuống đưa tiễn, không ai dám sóng vai cùng hắn rời khỏi viên môn. Mãi khi lọng

vàng khuất xa khỏi góc núi, các viên tướng mới lần lượt bảo đám thân binh dắt

ngựa đến, rồi chắp tay cáo từ nhau.

Đội nghi trượng ngự giá dài cuồn cuộn, bám đuôi theo đại quân của Dương

Lăng. Ngã ba phía trước có một con đường rẽ về kinh sư, một đi tuốt đến Xương

Bình. Hai đội ngũ mỗi đội tiến về một hướng. Đang lúc từ từ tách ra, trong đội nghi

trượng của Hoàng đế Chính Đức mà hôm nay trông long trọng một cách dị thường

chợt có hơn mười tay hiệu úy hông giắt bội đao phóng ngựa tách ra, lặng lẽ gia

nhập vào trong đại quân của Dương Lăng.

Đội nghi trượng của Hoàng đế Chính Đức vẫn thong thả túc tắc trở về kinh sư.

Xa xa ở phía sau đám võ tướng không dám vọt lên vượt qua đội nghi trượng của

Hoàng đế, bèn nhẫn nại chống đầu ngựa chờ ở ven đường. Ở hai bên đường, cứ ba

bước một đội, năm bước một tiêu (đồn), binh sĩ đứng canh gác nghiêm ngặt, không

cho bất kỳ kẻ vô phận sự nào đến gần trong phạm vi mười trượng.

Giữa đại quân, có mấy chục tay tiểu hiệu kè kè bên người Dương Lăng, trong

đó có một hiệu úy theo sát y, mặt mày hăm hở, hết nhòm đông lại ngó tây, rất không

yên phận.

Dương Lăng ghìm cương, đợi hắn lên cạnh rồi mới nhỏ giọng khuyên:

- Hoàng thượng! Cỗ xe ngựa ở phía trước tuy bề ngoài chỉ dùng để vận chuyển

quân nhu nhưng bên trong bài trí rất là thoải mái, hay là Hoàng thượng hãy vàotrong xe nghỉ ngơi đi. Trời lạnh gió rét, xin ngài chớ để nhiễm lạnh.

Năm nghìn quân tinh nhuệ chỉ biết phải theo Dương Lăng đến Đại Đồng tuần

thị, ủy lạo quân sĩ. Ngoài ba trăm đại nội thị vệ được điều vào trong quân trước đó,

cũng chỉ có mấy tướng lĩnh hạch tâm như Dương Lăng và Trương Vĩnh mới thật sự

biết Hoàng đế đang trà trộn vào trong quân đội. Chung quanh bọn họ, ngoài vài

người là tâm phúc của Dương Lăng, còn lại đều là thị vệ cao thủ của đại nội, cho

nên Dương Lăng mới dám gọi thẳng hắn là Hoàng thượng.

Chính Đức cười khì khì, vung vẩy chiếc roi ngựa trong tay, liếc xéo Dương

Lăng nói:

- Muốn đi thì ngươi đi đi! Ngươi là đại tướng quân phụng chỉ tuần biên mà, ta

chỉ là hiệu úy thủ hạ cỏn con của ngươi, đương nhiên phải có đãi ngộ giống những

sĩ tốt cùng đi cùng nghỉ rồi. Vả lại, luận thân thể và xương cốt, ta còn cường tráng

hơn ngươi nhiều đó. Phù... thì ra không cần phải cứ hễ mở miệng thì phải xưng

"trẫm" lại thoải mái đến như vậy, ha ha ha ha...

Chính Đức cười toe toét, quất mạnh roi lên mông ngựa phóng thẳng về phía

trước. Mấy chục tay cao thủ đại nội chung quanh khiếp sợ lập tức vung roi phóng

ngựa vọt lên theo sau.

Dương Lăng chỉ đành lắc đầu cười khổ sở. Hoàng đế xuất kinh vi hành như vậy,

còn cải trang làm một tiểu tốt thấp hèn, trong mắt đám sĩ phu, hẳn là một hành động

đánh mất tôn nghiêm đáng hổ thẹn của thiên tử. Xem ra vị Hoàng đế này hãy còn

rất ham chơi, rời khỏi kinh sư rồi mà cũng không chịu thay quần áo, ngược lại còn

hào hứng như vậy, quả là lạc quan yêu đời.

Đại quân tiến về phía trước, Dương Lăng tổ chức nhân mã của Xích Hầu(*)

doanh của Nội xưởng thành mười đội thám mã, ở phía trái và phía phải mỗi bên có

ba đội giữ khoảng đi cạnh ở xa xa, đằng sau đặt thêm hai đội, đằng trước là bốn đội

luân phiên hồi báo tin tức. Đại quân đều là thiết kỵ, ngay cả vật tư mang đi cũng

được xe tứ mã kéo theo, cho nên hành quân rất nhanh.

(*: 'xích' nghĩa là trinh sát, hiểu là đội quân chuyên trách trinh sát)Đi được hơn hai canh giờ, đến giữa trưa, đoàn quân dừng lại dưới một triền núi

chôn nồi nấu cơm. Nơi đây, một bên là triền núi hướng mặt trời, chung quanh được

bao bọc bởi rặng núi dài, cho nên ấm áp vô cùng. Dương Lăng phái bốn đội, mỗi

đội trăm người chia ra đồn trú bên ngoài một dặm để phòng ngừa bất trắc. Y xuống

ngựa, cùng Trương Vĩnh đưa Chính Đức lên triền núi nghỉ chân.

Ánh nắng chói chang, khí hậu ôn hoà, thảm đỗ quyên mọc trên triền núi đã hé

lộ những nụ hoa tươi tắn. Tuy cây vẫn khô lá, nhưng những cành cây khô ấy cũng

đã hút đủ nước, vỏ cây đã hơi nhuốm sắc xanh nhưng dưới khóm hoa vẫn còn một

màu trắng xoá.

Chính Đức lấy làm lạ:

- Nơi đây thực kì quái! Hoa này chẳng phải là hoa mai, song lại có thể đâm chồi

trong tuyết, xem ra, có lẽ qua mấy ngày nữa hoa tươi sẽ nở rộ đây.

Dương Lăng cười đáp:

- Đúng vậy! Hoa này tên là đỗ quyên. Lúc trời thoắt nóng thoắt lạnh, mọi loài

hoa đều thần phục trước cái oai đáng sợ của cái rét mùa đông, là lúc đỗ quyên bắt

đầu nở bung trong tuyết trắng. Chờ khi Hoàng thượng thành công trở về, khắp triền

núi này sẽ phủ một màu đỏ rực như lửa, vừa khéo chúc mừng Hoàng thượng.

Chính Đức thích thú cười ha hả. Hắn đứng trên triền núi dõi mắt nhìn về

phương bắc xa xăm, một hồi lâu sau mới ngoái lại nói với Dương Lăng:

- Trẫm đang nghĩ, vị Bá Nhan Khả Hãn được tôn sùng là hùng ưng chốn thảo

nguyên cùng dũng sĩ Hỏa Sư hung mãnh như một con ngựa hoang kia đang dẫn

thiên quân vạn mã quét ngang thảo nguyên, rong ruổi sa trường, hẳn là oai phong và

mãn nguyện lắm. Trẫm thua kém bọn họ sao? Không!

Lần này đi là vì mưu lược chính sự. Rồi sẽ có một ngày, trẫm sẽ đích thân dẫn

binh gặp gỡ cái tên Bá Nhan và Hỏa Sư đó. Hoàng đế Hồng Vũ đã đuổi bọn chúng

rút về đại mạc, hoàng đế Vĩnh Nhạc đánh đuổi bọn chúng phải trốn đông núp tây,

hiện tại đến phiên trẫm làm Hoàng đế, chẳng lẽ phải ngồi nhìn giang sơn Đại Minhtrở thành bãi chăn thả của bọn chúng, con dân Đại Minh trở thành bò dê của bọn

chúng ư?

Rồi hắn quả quyết:

- Khanh hãy xem đi! Sẽ có một ngày trẫm sẽ đích thân nói với bọn chúng rằng,

thiên tử của người Hán là thần long hô mây gọi mưa, ngao du khắp chín tầng trời,

chứ không phải là một con giun đất, mặc cho bọn chúng tha mổ, gặm rỉa!

Dương Lăng mừng thầm, giảng trăm đạo lý không bằng để Hoàng đế tận mắt

nhìn thấy giang sơn và nhân dân của mình mà cảm ngộ ra đạo lý riêng. Đại Minh

đồi bại là ở điểm này, là ngay ở lãnh tụ của bọn họ. Nếu như vua nhà mạt Tần thời

bảy nước không phải là Doanh Chính, liệu sẽ có Tần Thủy Hoàng Đế? Nếu như

Hoàng đế đời thứ bảy của nhà Tây Hán không phải là Lưu Triệt, liệu sẽ có câu "Kẻ

nào xâm phạm đến Đại Hán hùng mạnh của ta, cho dù chạy xa cách mấy cũng sẽ bị

đuổi giết"?

Dương Lăng mừng rỡ đáp:

- Hoàng thượng nói rất phải, hùng ưng ngựa hoang gì đều sẽ phải thuần phục

Hoàng thượng hết thảy! Đến lúc đó, Hoàng thượng cao hứng muốn đi săn, sẽ cưỡi

con ngựa Hỏa Sư, dẫn con ưng Bá Nhan, tiêu dao tự tại biết dường nào!

Trương Vĩnh chen vào phụ họa:

- Hỏng rồi! Như vậy há chẳng phải Hoàng thượng trở thành phường áo gấm ác

ôn ư?(2)

Dương Lăng thõng tay "than":

- Biết làm sao được! Thiên hạ thái bình rồi, không có gì để cai trị, Hoàng

thượng không cưỡi ngựa dẫn ưng dạo chơi thì còn việc gì để làm nữa chứ?

Chính Đức được bọn họ kẻ tung người hứng sướng đến nở mặt nở mày, thế là

liền nổi hùng tâm, phấn khởi bảo:- Ai nói không có việc gì làm chứ? Đến lúc đó, trong nước đã thái bình, trẫm sẽ

thả thuyền đến Đông Dương, căng buồm giong biển!

Mặt mày hoan hỉ, Dương Lăng liền thưa:

- Quả nhiên Hoàng thượng hùng tài đại lược! Phải chăng ngài muốn Đại Minh

chúng ta xây dựng hạm đội thủy quân vô địch, oai truyền bốn bể, trở thành bá chủ

thiên hạ?

Chính Đức trợn mắt:

- Bậy bạ! Làm vậy có gì là thú vị? Trẫm muốn giống như trong truyện mà

khanh đã kể với trẫm vậy:

"Tay trần cầm chắc Quỷ Đầu đao,

Đầu quấn lên thêm tấm vải đào,

Mắt đeo miếng bịt cho hung bạo,

Đi làm hải tặc sướng biết bao!"

Chú thích:

((1) xem hình

(2) ngày xưa có câu "giá ưng khiên cẩu" (架 狗) nghĩa là dẫn theo chim

ưng dắt theo chó săn, nhằm trỏ phường ác bá cậy quyền cậy thế. Trương Vĩnh trêu

Chính Đức là dựa trên câu nói này.NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 186: Tú Tài Gặp Phải Ông Lính

Sau bữa cơm, đại quân nhổ trại tiếp tục lên đường. Tuyết đọng trên đường bị

bánh xe lừa, ngựa cày xới khiến cho quan đạo lầy lội không thể tả, tốc độ của đội

ngũ vì thế bị chậm lại rất nhiều. Không lâu sau, bọn họ đuổi gặp một đội quan binh

áp tải đội xe lừa ngựa dài hun hút, đang gian khổ lặn lội trên đường.

Thám mã hồi báo với Dương Lăng rằng đây là đội xe vận chuyển lương thực và

rơm cỏ đến Đại Đồng. Lương thảo và trang bị vận chuyển từ nam lên bắc thường đi

trên con đường này, ngựa xe liên miên không dứt khiến con đường đất bằng phẳng

được đầm chặt chẻ, dễ đi nay đã bị tàn phá nghiêm trọng. Đã lồi lõm gập ghềnh lại

thêm tuyết đọng phủ dày, đường quan đạo nay rất trơn trợt khó đi.

Thấy đại quân giáp trụ chỉnh tề, hành trang gọn ghẽ đi tới, đội quân nhu tự giác

tránh sang bên đường. Đại quân của Dương Lăng tu chỉnh lại đội hình, từ từ vượt

lên.

Chính Đức kẹp hờ lưng ngựa, cả người hơi nhấp nhô, ánh mắt chậm rãi quét

vào dòng người của đội xe. Đội xe chen chúc ở một bên, đám dân phu áo quần lam

lũ, có người tu bổ mặt đường, có người vai khiên chân đạp, ra sức nâng đẩy bánh xe

đang lọt vào hố tuyết.

Phu dịch đánh xe thì ngồi trên xe điều động, còn những dân đinh trai tráng đang

ra sức bắc cầu sửa đường, vai khiên tay gánh này đều là những người dân lưu lạc

cùng với tá điền và thôn phu tự nguyện tham gia vận chuyển lương thảo. Những

người dân lưu lạc lo kiếm miếng cơm manh áo, những tá điền gia cảnh bần hàn,

mùa đông không có gì làm, dựa vào chút sức khoẻ ra khỏi nhà tìm ít công việc, vừa

kiếm cơm nhằm giảm gánh nặng cho gia đình, vừa có thể kiếm thêm mấy văn tiền

lớn.Nhìn những người dân nghèo khổ mày mặt xanh xao này, nụ cười ung dung

trên khuôn mặt của Chính Đức vụt tắt. Khi đoàn quân vượt lên khỏi đội xe quân

nhu tiếp tục tăng tốc tiến về phía trước, Chính Đức vẫn không ngừng ngoái đầu

nhìn về phía "con rồng" dài đang chầm chậm di chuyển đó.

Đại quân dừng ở Xương Bình nghỉ một đêm. Huyện lệnh của Xương Bình

không hề biết đương kim Hoàng đế đang ở trong quân, tuy nhiên chỉ nội hai tấm

chiêu bài tiếng tăm vang dội là đề đốc Nội xưởng và đề đốc Kinh doanh đã đủ khiến

lão ta bận đến túi bụi rồi.

Đại quân của Dương Lăng đồn trú tạm trong Dịch thừa quán của huyện thành

nho nhỏ, toàn bộ sai dịch và đầu bếp trong quán Dịch đều bị đuổi ra ngoài, gọi

người do Trương Vĩnh dẫn tới. Huyện lệnh của Xương Bình chỉ cho rằng hai vị đề

đốc đại nhân quyền thế ngút trời này muốn bày vẽ xa hoa(1) nên cũng không hề

nghi ngờ gì, chỉ vội vàng đưa mấy chục con lợn béo đến. Thấy hai vị đại nhân cũng

không nhiệt tình bắt chuyện cùng, lão bèn biết điều mà cáo từ rời đi.

Bên trong chiếc lều lớn dựng tạm trong quân doanh, ngay khi Dương Lăng vừa

an bài ổn thoả việc trực đêm và hành trình hôm sau xong, hai viên thân quân dẫn

theo một thanh niên mặc y phục thường dân bước vào. Người này ăn mặc không có

gì bắt mắt nhưng cử chỉ và khí độ lại khá uy nghiêm, Dương Lăng trông thấy gã

liền vui vẻ cười gọi:

- Liễu Bưu lại đây, mau ngồi đi! Có tin tức gì không?

Dương Lăng phái Dương Nhất Thanh đi theo Thành Khởi Vận xuống phương

nam, thu thập nhược điểm của những quan viên được các thân hào sĩ tộc duyên hải

ủng hộ và giúp đỡ mà bọn họ đã phái người điều tra từ trước. Y điều Tam đáng đầu

Nội xưởng là Bành Kế Tổ dẫn theo đội năm nghìn tinh binh này; Liễu Bưu phụ

trách việc chỉ huy và phối hợp thám mã trong tối lẫn ngoài sáng dọc đường; Ngũ

Hán Siêu chạy trước đến Tuyên Phủ và Đại Đồng, chủ động liên lạc và âm thầm

phối hợp với Hàn Lâm đang trú đóng ở đó.

Liễu Bưu thực hiện quân lễ, rồi ngồi xuống bên cạnh. Dương Lăng mỉm cười

châm cho gã một chén trà, Liễu Bưu khom người cảm ơn, rồi cảnh giác quét mắtmột vòng, mấy viên thị vị đứng chung quanh hiểu ý lui ra. Lúc này Liễu Bưu mới

thấp giọng bẩm báo:

- Đại nhân! Thám mã trong kinh đã đưa tin đến: hai vị cô nương mà đại nhân

muốn chúng ti chức để ý đến tịnh không có hành động gì bất thường. Hai người đã

được đưa đến Báo phòng, dường như rất biết yên phận. Ti chức đã cho người tiếp

tục giám thị.

Ngoài ra, tin tức từ thám mã tiền phương đưa về, báo rằng đường đến Cư Dung

Quan, Tuyên Phủ rất thái bình. Do đội xe chở thương binh về và đưa quân nhu đến

Đại Đồng nối nhau không dứt nên quân lính và dân phu hoà lẫn vào nhau. Dưới tình

hình đó, nhằm phòng ngừa gian tế của Thát Đát, dọc đường đều thiết lập trạm kiểm

soát, không có lệnh dụ và giấy thông hành do quân đội ban hành thì tất cả những

nhóm năm người trở lên đều không được phép qua, vì vậy dọc đường tuyệt sẽ

không thể xuất hiện nhân mã số lượng lớn. Nếu quả thật có mấy trăm lục lâm muốn

gây hấn trước sự bảo vệ của năm nghìn quân chúng ta, bảo đảm bọn chúng sẽ chỉ có

đi không về.

Dương Lăng khẽ gật đầu, hơi yên tâm. Y thả bước trong lều, trầm ngâm:

- Ngũ Hán Siêu đi sớm hơn bản quan một ngày, hiện tại vẫn chưa có tin tức đưa

về, dọc đường không có hung hiểm gì thì tốt. Đợi vào đến Tuyên Phủ, Đại Đồng,

nơi tập hợp trọng binh, sẽ an toàn hơn. Liễu Bưu, tạm thời huynh hãy lui xuống

dùng bữa, chuyến đi này nhất định phải tập trung hết tinh thần. Bây giờ đã không

như trước đây, chỉ cần Hoàng thượng mất một cọng lông, huynh và ta cũng đều sẽ

có thể mất đầu đó!

Liễu Bưu đứng dậy nghiêm trang đáp:

- Ti chức hiểu được, xin đại nhân cứ yên tâm! Ti chức xin phép cáo từ!

Dương Lăng gật đầu, Liễu Bưu xoay người rời đi. Một viên thân binh bước vào

bẩm báo:

- Đại nhân, bữa tối cho Hoàng thượng đã chuẩn bị xong rồi ạ!Dương Lăng đáp:

- Ừ, để coi thử! Bản quan đi thăm Hoàng thượng một chút.

Trong cung Hoàng đế có Ngự thiện phòng chuyên phụ trách ẩm thực. Tuy bên

người Trương Vĩnh vẫn có tiểu thái giám hầu hạ nhưng lão không thể mang ngự trù

ra khỏi kinh. Dương Lăng đã hao tổn nhiều tâm tư mới tìm được một vị đầu bếp

nghỉ hưu của Ngự thiện phòng. Y cũng không nói rõ mọi sự với ông ta, chỉ nói rằng

cần chế biến món ăn cho mình dọc đường, rồi kiếm mấy thị vệ trung thành đáng tin

cậy cho đi cùng với lão phụ trách bữa ăn cho Hoàng đế.

Cho dù là phụ nữ khéo tay cũng khó mà nấu được bữa trưa ngon dọc đường,

hoàng đế Chính Đức cũng ăn vội mâm cơm trà đơn giản, đây cũng là bữa cơm

chính thức đầu tiên của hắn. Dương Lăng đến nơi trọ của Chính Đức sau hậu viện,

toàn bộ đại nội thị vệ canh gác đều nhận ra vị Dương đại nhân này, một quan thị vệ

vội bước lên nghênh đón:

- Dương đại nhân!

Dương Lăng khẽ gật đầu, hỏi:

- Hoàng thượng xuất kinh lần đầu, đi đường tròng trành hẳn là đã mệt? Có phải

người đã nghỉ ngơi rồi không?

Viên võ quan cũng đã cải trang thành một hiệu úy bình thường, nghe hỏi bèn

cười đáp:

- Đại nhân đoán sai rồi! Hoàng thượng rất cao hứng, vừa mới tắm rửa xong liền

đã dẫn Trương đề đốc ra ngoài rồi.

Dương Lăng giật nảy mình, biến sắc, hỏi ngay:

- Lúc này trời đã tối, đêm lạnh gió buốt, Hoàng thượng còn đi đâu?

Viên võ quan vội vàng giải thích:- Đại nhân không cần phải lo! Hoàng thượng chỉ đi dạo trong doanh, thăm hỏi

tướng sĩ thôi, chắc chắn không đi xa.

Lúc này Dương Lăng mới yên tâm, y vội xoay người vừa đi ra ngoài vừa nói

vọng lại:

- Bản quan đi xem một chút, ngươi hãy nghỉ ngơi đi.

Dương Lăng đi vội ra khỏi dịch quán. Dịch quán của toà thành nhỏ này nằm ở

đầu thành phía đông, ngoại viện vốn là nơi dừng chân và trú đóng của những đội xe

quân nhu thường xuyên lui tới, chung quanh xây tường bao bọc, bên trong tường trú

đóng gần nghìn tay quan binh, số còn lại trú đóng bên ngoài. Lúc này lửa trại được

đốt lên khắp nơi, không khí tràn ngập mùi thịt nướng.

Dương Lăng đưa mắt nhìn quanh, trông thấy mấy đống lửa bên phải có rất đông

người lui tới, bèn vội vã đi qua. Quanh đống lửa có một đám sĩ tốt đang ngồi, bên

trên bắc một nồi cơm to; đồ tể mổ xong mấy chục con heo mập thì cũng đã bắc nồi,

từng miếng thịt lớn chìm nổi trong nồi nước sôi sùng sục. Bọn sĩ tốt vừa rôm rả nói

cười vừa nhai bánh bao, gặm xương; ăn rất ngon miệng.

Dương Lăng vẫn đang mặc trang phục tướng quân, khi đám sĩ tốt trông thấy y,

tiếng nói cười lập tức dần nhỏ lại rồi lần lượt đứng dậy hành lễ. Dương Lăng mới

vừa đi qua hai đống lửa, chợt có bóng người vụt sát tới gần kéo lấy tay y, khẽ giọng

hỏi:

- Dương đại nhân! Đi đâu vậy?

Dương Lăng định thần nhìn kỹ, ánh lửa soi rõ ngân quang lấp loé trên mình

người đó: một bộ mãng quan bào mới cáu, đai lưng ngọc bích sáng lung linh có vài

phần oai phong lẫm liệt, chính là vị đề đốc Trương Vĩnh.

Dương Lăng mừng rỡ, vội nắm lấy tay lão hỏi ngay:

- Người đâu?

Y đang ở bên ngoài, tuy gần đó không có ai khác, nhưng "gió đưa lời người",chỉ sợ bị người khác nghe được nên không dám nói đến hai chữ "Hoàng đế".

Trương Vĩnh nháy mắt, kéo y đi mấy bước sang một bên, khẽ hất hàm về phía

trước, nói nhỏ:

- Kìa! Đang ở bên đó đó, không cho ta theo. Ta thấy ngài chơi vui vẻ như vậy

nên cũng chỉ đành đi tuần chung quanh, không dám đến gần.

Dương Lăng nhìn sang bên ấy, thấy rõ ánh lửa rừng rực soi sáng một khuôn mặt

anh tuấn trẻ tuổi. Hoàng đế Chính Đức vận bộ đồ hiệu uý ngồi cùng một đám binh

sĩ, vai kề vai, lấy cây gỗ xuyên qua bánh bao rồi hơ trên lửa, một tay cầm một khúc

xương to, thi thoảng lại cắn một miếng, chuyện trò rất vui vẻ.

Một tay lính lão làng râu ria xồm xoàm đấm xuống vai Chính Đức một quyền,

khiến vai hắn trùng hẳn xuống. Tên đó cười lớn bảo:

- Tiểu tử! Lần này Xưởng đốc đại nhân xuất binh, huynh đệ chúng ta được chọn

ra từ hơn mười vạn đại quân trong mười hai đoàn danh, ai nấy đều biết cưỡi ngựa

bắn cung, múa đao đi quyền, năm bảy tên lực lưỡng cũng không thể sáp lại. Xem

thằng nhóc ngươi này: da thì trắng thịt thì mềm, làm quái được gì? Sao là đối thủ

của giặc Thát được?

Nghe vậy Chính Đức cũng không nổi cáu, chỉ cười hề hề đáp:

- Đại ca chớ coi thường tiểu đệ! Tuy đệ chưa từng ra chiến trường, thậm chí

trước đây đã từng đánh nhau với một tên lưu manh không biết võ nghệ trong thanh

lâu, tiểu đệ còn bị hắn bất ngờ đấm cho một quyền vào mặt, suýt nữa thì trẹo cả

mũi. Nhưng đó là lúc đệ còn ngu muội, chưa biết gì. Nếu thực sự luận bàn võ nghệ,

nay tiểu đệ đã được mấy vị sư phụ võ công nhất đẳng đích thân chỉ dạy, sợ rằng đại

ca chưa chắc đã là đối thủ của tiểu đệ đâu.

- Ồ, ồ, ồ! Tiểu tử ngươi thực biết khoác lác nhỉ! - một binh sĩ khác bộ dạng uể

oải song thân thể cứng cáp cười nói, - thì ra ngươi là thân binh của đại soái, còn

tưởng ngươi là con cháu phú gia chạy ra ngoài kiếm chút công danh. Nhưng ngươi

lại không có vẻ gì là thiếu gia vọng tộc cả. Với bộ dạng này của ngươi, dù biết chút

võ vẽ múa may thì có tác dụng gì chứ? Trên chiến trường chính là chém giết bằngđao thật thương thật, mà tiểu ca ngươi trông tuấn tú như vậy, chớ để giặc Thát bắt đi

làm "thỏ tướng công"(2) đó.

Chính Đức rút chiếc bánh bao đã bị nướng cháy xém về, xé một miếng cho vào

trong miệng, vừa nhai say sưa, vừa tò mò hỏi:

- Thỏ tướng công? Thỏ tướng công là gì?

Đám binh sĩ ngồi bên đống lửa cười phá lên. Tên binh sĩ có bộ râu xồm vỗ vai

hắn cười ha hả:

- Ngươi không biết sự đời như vậy, thực không biết làm sao lại lăn đến bên

người Dương đại soái được nữa! Đám người bên phía giặc Thát ai nấy đều cao lớn

hung tợn, lưng hùm vai gấu, cho dù là đàn bà cũng không dễ nhìn hơn đàn ông bao

nhiêu. Những tiểu ca nhi tuấn tú như ngươi bị bọn chúng bắt đi, sẽ không lo phải bị

bắt làm nô lệ, mà không chừng sẽ được tù trưởng bọn chúng đưa về ân sủng làm ái

thiếp đấy. Ha ha ha!!!...

Trương Vĩnh nghe vậy liền nổi giận, lông mày chau lại, sát khí ùn ùn định xông

qua. Dương Lăng vươn tay giữ lão lại, quát khẽ:

- Bình tĩnh chớ nóng! Kẻ không biết không có tội. Hoàng thượng còn chưa nổi

giận, ông nổi giận làm gì?

Trương Vĩnh bình tĩnh nhìn lại, lão thấy dường như Chính Đức chỉ hơi mắc cỡ.

Tay binh sĩ đó nói như vậy thì hắn đương nhiên biết "thỏ tướng công" chính là "ái

nhi" rồi. Nhưng Chính Đức không hề nổi giận, lần đầu tiên trong đời có người nói

chuyện thô tục như vậy với hắn, ngoài sự mới lạ hắn còn cảm thấy rất... hay.

Chính Đức không đồng ý, phản bác:

- Giặc Thát bắt trẻ em phụ nữ ta, trẫm... trong trấn tiểu đệ cũng thường nghe

khách buôn phương bắc nhắc đến. Có điều hình như bọn chúng cướp bóc lương

thảo là nhiều, chứ chẳng lẽ cũng cướp nhiều người lắm hay sao?

Binh sĩ chung quanh dần thu lại nụ cười. Lúc lâu sau một Ngũ trưởng tuổichừng hơn ba mươi, mặt đỏ bầm, thở dài một hơi rồi bảo:

- Đó là lẽ đương nhiên! Nhiều năm qua, giặc Thát tấn công Tuyên Phủ, tấn

công Đại Đồng, tấn công Kế Xương không biết đã bắt đi bao nhiêu là bá tánh.

Một quan binh trông có vẻ văn nhã hơn vỗ đùi đánh bộp, căm tức mắng:

- Cái đám chó đẻ đó! Dân đen sợ bị giặc Thát cướp bóc, có chạy cũng chỉ có thể

chạy vào Trung Nguyên. Còn những người dân nhiều đời vẫn sống dựa vào mấy

mẫu ruộng tổ tiên để lại thì không chốn nương thân, chỉ có thể mặc cho bọn chúng

lăng nhục. Hễ là ông già hay tráng niên đều sẽ bị chúng giết chết. Còn thiếu niên và

phụ nữ thì bị bắt làm nô bộc và thê thiếp, giúp chúng thả dê, vắt sữa, may vá, nấu

rượu, tính toán. Ngươi nói chúng bắt đi có nhiều không?

Hắc hắc! Giặc Thát ít dân, một gia đình chăn thả bò dê thì mấy chục dặm chung

quanh sẽ chỉ có gia đình này, không còn nhà nào khác. Bộ lạc Cát Nang ở địa khu

Hà Sáo bắt đi nhiều người Hán nhất, một gia đình Mông Cổ không quá năm sáu

người song lại có đến sáu bảy nô lệ người Hán.

Ngũ trưởng mặt đỏ nọ cười gằn rồi an ủi:

- Lão Đoạn, lại nhớ đến chuyện đau lòng à? Chẳng phải Dương tổng chế đã

thắng một trận lớn đó sao? Người Man ít tráng đinh, vị phó tướng Vương Thủ Nhân

nọ đánh một trận hạ độc chết ba nghìn giặc Thát, những gia đình giặc Thát đó chỉ

còn lại người già phụ nữ và trẻ em, chẳng bao lâu sẽ phải sa vào cảnh làm nô bộc

cho các bộ tộc khác. Đó gọi là báo ứng!

Chính Đức liếc sang tay lính từng trải trông có vẻ nho nhã nọ, hỏi:

- Đoạn... Đoạn đại ca, gia đình của huynh đã từng bị giặc Thát hại sao?

Người lính từng trải nọ im lặng không nói gì. Gã lính râu xồm ngồi bên cạnh kề

tai Chính Đức nói nhỏ:

- Lão Đoạn là người dân ở bảo Trợ Mã, Đại Đồng. Huynh đệ tỷ muội toàn tộc

của lão có sáu mươi lăm người, bị giặc Thát cướp giết sạch, chỉ còn lại năm ngườilão ấy bị bắt đến thảo nguyên làm nô lệ, trồng trọt thả dê.

Hai năm sau, bộ lạc đó xảy ra chiến tranh với một bộ lạc khác, mấy thân nhân

của lão Đoạn đều bị loạn mã giẫm chết trong chiến trận. Lão ấy giả chết, sau đó

chạy từ nghìn dặm xa xôi về quan nội. Vì lão ấy cưỡi ngựa giỏi, cho nên mới gia

nhập Thần Cơ doanh, chuyên việc huấn luyện cưỡi ngựa.

Chính Đức nghe kể vậy thì giận lắm, song lúc nghe nói đến trồng trọt lại lấy

làm kinh ngạc, hắn bèn hỏi:

- Giặc Thát cũng biết trồng trọt sao? Bọn chúng trồng những gì?

Gã lính râu xồm đáp:

- Năm xưa người Nguyên thống trị Trung Nguyên hơn trăm năm cũng không

học trồng trọt cấy cày mà cũng không nghĩ đến việc trồng trọt canh tác. Nhưng đến

khi bọn chúng bị đuổi về đại mạc rồi, không còn ai cung cấp lương thực sẵn cho

nữa, thì mới lại muốn học cách cày cấy.

Hiện tại người Mông Cổ lấy việc chăn thả làm chủ, song cũng trồng trọt ở một

số nơi. Tuy nhiên người Mông Cổ không biết nông canh, những việc này đều do

những người Hán bị bắt cóc làm cả. Nhân thủ không đủ dùng, thi thoảng giặc Thát

còn chiêu mộ người dân lưu lạc ở biên tái nữa.

Người Mông Cổ cũng bắt đầu học tập người Hán trồng trọt rồi ư? Chính Đức

thật sự không biết tin tức ấy. Năm xưa mật thám Cẩm Y Vệ tới lui vùng quan ngoại

cũng chỉ chú ý đến tình báo quân sự và chính trị, cho dù có thấy người Mông Cổ

khai phá một ít ruộng đồng thì cũng chả ai để ý. Chính Đức nghe xong trong lòng

như chợt loé linh cơ, hắn định nắm bắt lấy nó, song lại như một giấc mơ, không thể

nhớ được gì nữa.

Gã lính râu xồm rút từ trong dây thắt lưng ra một con dao nhỏ chọc một miếng

thịt nhễu nước từ trong nồi ra, cắn một miếng ngon lành, rồi nhoẻn miệng cười nói:

- Đừng ủ rũ nữa! Nào, ăn miếng thịt to đủ gom lấy sức. Đợi đến Đại Đồng rồi,ngộ nhỡ giặc Thát vẫn chưa bị Dương tổng chế đuổi chạy hết, không chừng huynh

đệ chúng ta vẫn có thể xuất chiến đó!

Chính Đức cũng bắt chước theo, rút một con dao nhỏ chọc lấy ra một miếng

thịt, cười vang:

- Nói phải lắm, gom góp sức lực, sẽ có một ngày chúng ta sẽ đoạt lại hết những

gì giặc Thát đã cướp. Chê bọn chúng tay chân thô kệch không thể đun trà ngâm

nước, chúng ta sẽ bắt chúng làm những công việc nặng nhọc.

Dương Lăng mỉm cười, hỏi nhỏ Trương Vĩnh:

- Trương công công! Vị đó ra ngoài chưa được một ngày, ông xem thử có phải

là người đã thay đổi gì không?

Trương Vĩnh nghe vậy bèn quan sát Chính Đức kỹ lưỡng một lượt, rồi gật đầu

bảo:

- Ừm! Thực không phải mà, mặc quần áo vải thô đó, sao cứ thấy chướng mắt

thế nào! Còn nữa, còn nữa... xem cái tướng ngồi tướng ăn đó, ôi chao! Bình thường

ta chán nhất là cái đám đại nhân già ấy cứ vung tay vung chân bảo Hoàng... bảo

người phải thế này, phải thế kia! Thế mà hiện tại ngay cả ta cũng thấy vị đó không

vừa mắt đây.

Dương Lăng liếc mắt nhìn quanh, thấy đại nội thị vệ cải trang làm quân sĩ bình

thường ra vẻ như đang đi dạo khắp nơi. Bên cạnh Chính Đức sợ không ít hơn bốn

mươi tay cao thủ đại nội bảo vệ, chung quanh cũng toàn là binh sĩ đáng tin cậy do

chính mình đích thân tuyển chọn, y bèn yên tâm vỗ vai Trương Vĩnh mỉm cười nói:

- Tôi lại cảm thấy hiện tại vị đó đã có khí phách nam tử hơn, và cũng đã hiểu

chuyện hơn nhiều.

Trương Vĩnh đưa mắt nhìn theo Dương Lăng đang khoan thai bước đi, đoạn

quay lại quan sát Chính Đức kỹ thêm lần nữa, rồi nghi hoặc lẩm bẩm:

- Vẫn vậy mà! Chẳng lẽ lúc đầu ngài không có khí phách nam tử, không hiểuchuyện sao?

* * *

Sáng hôm sau, đại quân lên đường rời Xương Bình tiến đến Cư Dung Quan.

Hôm nay trời âm u, gió bắc kéo tới ùn ùn, thổi tung những hạt tuyết trên mặt

đất, hất vào mặt đến lạnh. Dương Lăng khoác áo choàng Cô nhung lớn còn cảm

thấy lạnh muốn chịu không thấu, một góc tỏa tử giáp lộ ra dưới tấm chiến bào; khi

tháo găng tay da dê ra, bàn tay nóng hổi liền sẽ bị cóng ngay.

Y thấy Chính Đức vẫn ở chung với đám thị vệ, mặc quần áo hiệu úy bình

thường, nheo mắt chống chọi với gió rét mà đi, thì liền tới gần khuyên:

- Hoàng thượng! Bất luận thế nào ngài cũng phải vào trong xe... nghỉ ngơi. Mặc

dù thân thể Hoàng thượng cường tráng, nhưng dẫu sao vẫn chưa từng chịu qua cái

rét lạnh đến bực này, nếu thực sự bị cảm lạnh sẽ lỡ đại sự đó.

Trên đồng hoang bát ngát, gió rít rợn người, phía trước sắp đến một sơn ải, gió

lùa từ trong sơn khẩu ra ngoài cuốn cho tuyết bay mù trời, chỉ cần hơi há miệng là

tuyết sẽ ùa ngay vào, khiến cho Dương Lăng cứ nói một hai câu lại phải dừng lại.

Chính Đức bướng bỉnh đáp:

- Không đi! Năm nghìn binh lính chịu được cái lạnh buốt xương này, bá tánh

phương bắc bao năm phải chịu cái rét cắt thịt này, chẳng lẽ chỉ có mấy ngày mà ta

cũng không chịu nổi? - Nói đoạn hắn lấy tay che mặt, rồi quay sang Dương Lăng

đùa giỡn: - Hơn nữa gió tuyết thổi vào mặt thế này, vừa tê lại ngứa, ta chưa từng có

cảm giác này bao giờ. Khó khăn lắm mới được ra ngoài một chuyến, ta nhất định

phải tự mình thể nghiệm một phen.

Dương Lăng nghe hắn nói vậy thì cười khổ không thôi, đang tính mở miệng

khuyên thêm thì chợt có một thớt khoái mã từ sau phi nước đại đến. Kỵ mã thúc

ngựa chạy đến gần mới ghìm cương dừng lại, thở hổn hển kêu to:

- Khải bẩm đại nhân! Đằng sau... đằng sau có mấy chục thớt khoái mã đuổitheo. Tuân theo quân dụ của tướng quân, chưa có mệnh lệnh, bất cứ ai cũng không

được tự ý gia nhập vào trong quân. Những người đó bị ngăn ở bên ngoài, liền ra

lệnh cho thuộc hạ lập tức phi báo cho tướng quân hay. Xin tướng quân hãy lập tức

đi ra phía sau gặp bọn họ!

Dương Lăng sửng sốt hỏi:

- Ai đuổi theo?

Khuôn mặt binh sĩ đó lộ vẻ hết sức kỳ quái, hắn ngượng ngập đáp:

- Chuyện đó... Vị đại nhân kêu thuộc hạ báo tin nói rằng, phía sau là ba vị đại

học sĩ Lý Đông Dương, Tiêu Phương và Dương Đình Hòa. Những người còn lại...

hẳn là tùy tùng của ba vị.

Dương Lăng nghe vậy liền đưa mắt nhìn sang Chính Đức, ánh mắt cả hai đều lộ

vẻ thất kinh. Như một đứa trẻ trốn học bị thầy giáo bắt quả tang tại trận, khuôn mặt

Chính Đức hiện rõ nét sợ hãi. Hắn bối rối nhìn Dương Lăng cầu cứu:

- Làm sao đây? Phải làm sao đây? Ta... ta phải trốn đâu bây giờ?

"Chẳng phải đã dự tính đại quân đến Tuyên Phủ rồi mới công bố mật chỉ Hoàng

đế xuất kinh cho Nội các và Lục Bộ Cửu Khanh sao? Sao đã bị phát hiện sớm như

vậy, đuổi kịp tới nơi rồi?" Dương Lăng thoáng nhíu mày trầm tư, rồi hạ thấp giọng

hỏi Chính Đức:

- Có phải là Hoàng thượng đã sợ?

Chính Đức nghe vậy liền ưỡn ngực, liếc nhìn tay kỵ mã, rồi cũng thấp giọng nói

với Dương Lăng:

- Sợ cái gì? Ta sợ chẳng qua là biết mấy vị đó mà mở miệng thì cho dù ta có

làm thế nào cũng sẽ không cãi lại bọn họ. Bọn họ đã đuổi đến sát ngay sau mông

rồi, ta có thể làm gì đây? Nhưng mà... ta nhất định phải đi Đại Đồng, cho dù bọn họ

ngăn cản ta thế nào đi nữa, trẫm nhất định phải đi! ..., Khanh hãy giúp trẫm nghĩ

cách nhé!Dương Lăng cười lớn đáp:

- Nếu đã như vậy, việc này xin cứ giao cho thần.

Y quay đầu ngựa, phi ngược về phía hậu quân. Hai mươi thị vệ tùy thân và

Trung quân quan đuổi sát theo sau. Ánh mắt Dương Lăng quét nhanh hai bên, đột

nhiên y phát hiện trong đội ngũ có một binh sĩ đang cưỡi một thớt ngựa béo màu

vàng. Da hắn đen nhẻm, mắt đậu xanh, mũi củ tỏi, râu ria xồm xoàm kéo dài từ

dưới cằm theo hai má lên tới tận đầu, trông như một con nhím. Nếu thanh thiết côn

đen thui dài tám thước trong tay hắn đổi thành thanh bát xà mâu dài cả trượng, thì

hắn sẽ y hệt Trương Phi tái thế.

Trông thấy người này có vẻ quen quen, y lục nhanh lại ký ức liền nhớ ra rằng

đây chính là gã lính to con ngồi sóng vai với Chính Đức gặm xương bên đống lửa

đêm qua. Mắt Dương Lăng liền sáng rỡ: chính là hắn! Dương Lăng quay đầu ngựa,

chiến mã hí vang tràng dài, y dừng lại trước mặt người đó, quát hỏi:

- Ngươi tên là gì?

"Trương Phi" giật nảy mình. Y là binh sĩ do Dương Lăng đích thân chọn lựa,

tuy Dương Lăng không nhận ra hắn, nhưng hắn lại biết Dương Lăng. Tuy tính tình

thô lỗ nhưng trước mặt Dương Lăng hắn nào dám làm càn, "Trương Phi" vội ghìm

cương ngựa, cung cung kính kính đáp:

- Hồi bẩm đại soái! Thuộc hạ là Lưu Đại Bổng Chùy(*), hiệu úy của Thiết Côn

doanh!

(*: Đại bổng chùy nghĩa là cây chày lớn)

Dương Lăng đực mặt ra, lấy làm lạ bèn hỏi:

- Đó là cái tên gì vậy? Chẳng lẽ ngươi không có cả một cái tên nghiêm chỉnh

sao?

Khuôn mặt đen đúa của "Trương Phi" thoáng đỏ bừng, hắn ngại ngùng bẩm:- Đại nhân! Chính cha mẹ của tiểu nhân đặt cái tên này, nói rằng tiểu nhân sinh

ra vừa đen lại vừa cứng cáp, giống y như một cây chày sắt nên mới gọi là Lưu Bổng

Chùy.

Dương Lăng thấy hắn hào sảng, ngây ngô chất phác thì rất vừa lòng. Y cười hắc

hắc, bảo:

- Bản quan nhận thánh dụ đi đến Đại Đồng tuần sát chiến sự. Ở hậu phương có

mấy vị quan văn trong kinh sư đuổi theo, định sẽ dùng trăm phương nghìn kế

khuyên bản quan trở về. Bản quan lệnh cho ngươi cầm cây Thượng Phương Bảo

Kiếm, dẫn theo hai mươi thân binh của bản quan đến hậu phương ngăn bọn họ lại,

chờ đại quân qua khỏi Cư Dung quan rồi ngươi mới được trở về. Làm xong việc

này, ngươi sẽ là thân binh của bản quan, thế nào?

Nghe vậy Lưu Đại Bổng Chùy mừng rơn, lập tức vui sướng chắp tay thưa:

- Thuộc hạ tuân lệnh!

Dương Lăng cởi thanh bảo kiếm được vua ban thưởng ra trao cho hắn, dặn:

- Đám quan lớn đó đều là kẻ đọc sách, nói chuyện ba hoa xích thố, miệng lưỡi

trơn tru. Mặc kệ bọn họ nói cái gì, ngươi chỉ cần nói với bọn họ rằng: "Tuân thánh

dụ, tuần biên kết thúc xong, tự nhiên rồng về biển lớn, gió êm biển lặng. Xin các vị

đại nhân hãy yên tâm mà ở lại kinh xử lý công việc, chớ có nhớ mong!".

Lưu Đại Bổng Chùy cắm bảo kiếm vào dây đai lưng, vắt ngang thanh thiết côn

dài tám thước lên trên yên ngựa, ôm quyền bẩm:

- Thuộc hạ tuân lệnh! Mặc kệ bọn họ đánh... nói lời gì, thuộc hạ quyết không để

bọn họ tiến được nửa bước!

Lưu Đại Bổng Chùy cầm cây thiết côn đen thủi lên, không nói thêm tiếng nào,

lập tức dẫn hai mươi tay thân binh 'đánh' về phía hậu quân.

Dương Lăng cười hắc hắc: "Để cái đám tú tài đó đi mà nói lý lẽ với ông lính

này."Rồi y quay đầu lấy hơi quát lớn:

- Trung quân quan! Hạ lệnh toàn quân tăng tốc tiến về phía trước! Cho nghìn

quân thám mã đi đến Cư Dung Quan kêu cửa trước, qua khỏi ải liền thẳng tiến

Tuyên Hóa, không được chậm trễ!

- Tuân lệnh!

Trung quân quan hô lớn, cây cờ nhỏ trong tay phất mấy cái, cờ xí trong tay

quan hiệu lệnh chung quanh liền không ngừng biến đổi. Năm nghìn thiết kỵ chợt

như hồng thủy tràn đê, xe lộc cộc, ngựa rền vang, chạy băng băng về phía Cư Dung

Quan như nước lũ chảy xiết.

Thực sự Tiêu Phương đã rất tận tâm và trung thành, lão tận lực muốn giúp

hoàng đế Chính Đức và Dương Lăng che giấu chuyện này, và nguyên cả ngày hôm

qua lão đã thực sự kiếm cớ che giấu được. Ai ngờ đến tối, khi ba vị đại học sĩ sắp

xuất cung, nội cung lại cho thái giám của cung Nhân Thọ đến điện Văn Hoa hỏi

thăm rằng vì sao Hoàng thượng vẫn chưa đến hậu cung, rằng Thái Hoàng Thái hậu

và Hoàng Thái hậu muốn mời Hoàng thượng đến ngắm đèn lồng, vân vân.

Đến lúc đó thì bị lộ tẩy. Bình thường hai vị Thái hậu rất hiếm khi chủ động tìm

hoàng đế Chính Đức, song bởi đang dịp năm mới, hoàng thân quốc thích kéo vào

đầy cung thăm viếng. Nhân lúc cao hứng, Thái Hoàng Thái hậu và Hoàng Thái hậu

mới nhớ rằng Chính Đức rất ưa náo nhiệt, bèn sai người đi tìm.

Hoảng sợ đến hồn phi phách tán, Lý Đông Dương bèn tìm đến Dương Đình

Hòa, hai người cùng tìm đến điện Văn Hoa, đầu tiên là động khẩu, kế đó liền động

tay động chân. Thái giám lẫn thị vệ nghe ồn ào kéo đến, trông thấy ba vị đại học sĩ

đang tiến hành "thi đấu quyền anh" mừng năm mới, bọn họ không biết phải khuyên

can ai thế là đành đứng ngây ra đó cả.

Lý Đông Dương và Dương Đình Hòa không biết rốt cuộc Hoàng đế đã xảy ra

chuyện gì, thực sự muốn phát điên lên. Ba đại học sĩ vứt sạch sự nho nhã: Tiêu

Phương ăn phải một đấm của Dương Đình Hòa, râu thì bị Lý Đông Dương bứt đi

mấy cọng; một cước của lão cũng khiến Lý Đông Dương suýt nữa bỏ mạng.Thái Hoàng Thái hậu, Hoàng Thái hậu, Thái hậu, và đám công chúa, hoàng phi

hay tin lập tức đều chạy lại. Tiêu Phương thấy không giấu giếm được nữa đành phải

thưa thật; lại bảo rằng Hoàng đế đã hạ mật chỉ nên lão cũng không thể không tuân

chỉ mà hành sự. Tam cung cả kinh, bọn họ cũng biết phái người tầm thường đi thì sẽ

hoàn toàn không quản được Chính Đức, thế là bèn xua luôn cả ba đại học sĩ ra khỏi

Bắc Kinh, đuổi gấp rút một ngày một đêm mới bắt kịp.

Lưu Đại Bổng Chùy dẫn hai mươi tay thiết vệ oai phong lẫm liệt xông đến phía

cuối đoàn quân. Thiết kỵ sắp thành một hàng, hai mươi cây thương bạc chỉa xéo lên

trời, Lưu Đại Bổng Chùy hông giắt bảo kiếm, tay cầm thiết côn, mặt mày dữ tợn.

Hắn từng nghe kể về Thượng Phương Bảo Kiếm trong lời kịch, nghe nói có vật

ấy thì gặp chức quan nào mình cũng sẽ đều lớn hơn một cấp, thực oách quá đi. Hơn

nữa cấp trên của hắn đã được trời định sẵn là võ tướng, hắn lại càng xem thường

đám mọt sách này.

Lý Đông Dương thấy một đám thị vệ kéo đến, còn Chính Đức và Dương Lăng

thì chẳng một ai lộ diện, không khỏi thầm nổi giận trong lòng.

Hoàng đế bí mật xuất kinh, hiện tại còn chưa khuyên được người trở về, lão

cũng không dám tùy ý nói toạc ra, đành phải nén giận hô lớn:

- Dương Lăng, Dương tướng quân đang ở đâu? Bảo hắn ra gặp bản quan, bản

quan có đôi lời muốn...

Lão chưa kịp dứt lời, Lưu Đại Bổng Chủy đã vung cây thiết côn lên trời một

cách đắc thắng. Hắn rút xoạt thanh bảo kiếm từ trên đai lưng ra, giơ cao lên trời,

quát một tiếng như sấm nổ, khiến ba đại học sĩ run cầm cập, thiếu chút nữa thì ngã

khỏi ngựa.

Lưu Đại Bổng Chùy cố trợn thật to đôi mắt bé như hai hạt đậu xanh, cao giọng

quát:

- Tuân thánh dụ, tuần biên kết thúc xong, tự nhiên rồng về biển lớn, gió êm biển

lặng. Xin các vị đại nhân hãy yên tâm mà ở lại trong kinh xử lí công việc, chớ cónhớ mong!

Chú thích:

(1) nguyên văn "Quan phổ nhi" (官 儿), "phổ nhi" nghĩa là tiêu chuẩn hoặc

quy củ, trỏ những nghi lễ rườm rà chốn quan trường, nay thường dùng để châm

biếm các buổi họp, lễ rườm rà và tốn kém của quan chức Trung Quốc.

(2) chỉ nam sủng vị thành niên, đối tượng tình dục cho những kẻ thích trẻ em

nam (vừa ấu dâm vừa đồng tính luyến ái).NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 187: Quân Đến Đại Đồng

Chương 187 - Quân đến Đại Đồng

Dương Đình Hòa hơi ngẩn người, rồi lão lập tức đùng đùng nổi giận, giục ngựa

lên trước quát lớn:

- Lớn mật! Có biết trước mặt ngươi là ai không?

Đừng thấy ba người này xuất kinh ban đêm, bộ dạng tả tơi khốn đốn mà tưởng

có thể coi nhẹ. Chỉ nhìn trang phục và khí thế của bọn họ, Lưu Đại Bổng Chùy cũng

cảm thấy cả ba đều là những vị quan lớn khó dây vào. Nghe đối phương quát xong,

tròng mắt gã thoáng xoay chuyển, hỏi lại:

- Các vị là ai?

Dương Đình Hòa thấy đại quân đã tăng tốc tiến đi mà gã lính khốn kiếp trước

mặt này lại đưa hai mươi thị vệ dàn hàng chữ nhất chặn kín cả đường đi nên không

khỏi lo lắng vô cùng. Lão liền nghiêm giọng bảo:

- Ba người trước mặt ngươi là tam đại học sĩ của Nội Các từ kinh sư tới, có việc

cực kỳ quan trọng cần gặp Dương tướng quân. Mau mau tránh đường! Kẻo làm lỡ

quân cơ ắt ta sẽ chém cái đầu của ngươi xuống.

Vừa nghe lai lịch của đối phương ghê gớm như vậy, khí thế của Lưu Đại Bổng

Chùy cũng không khỏi kém hẳn đi. Nhưng gã lại nghĩ Dương đại soái đã trọng dụng

một tên tiểu tốt như mình như vậy, nếu mình cứ để mặc bọn họ đi qua như thế này,

một là sẽ phụ lòng tin tưởng của đại soái, hai là sẽ bị các chiến hữu chê cười. Thế là

gã bèn lấy hết can đảm trả lời:

- Vâng lệnh đại soái, mời ba vị đại nhân mau mau về kinh! Tiểu nhân có quânlệnh trên người, không dám làm trái!

Không ngờ chỉ một viên hiệu úy cỏn con mà cũng dám cãi lại mình, Dương

Đình Hòa giận dữ không kềm được nên chỉa roi ngựa về phía Lưu Đại Bổng Chùy,

tức giận quát lớn:

- Ngươi... Ngươi lớn mật lắm! Ngươi nghĩ trên cổ ngươi có mấy cái đầu?

Lúc này Lưu Đại Bổng Chùy cũng đã quyết liều một phen, gã bèn hếch mũi lên

trời nghênh ngang đáp:

- Quân lệnh như núi! Dù là ông Trời cũng đừng hòng qua chỗ này được.

Tiêu Phương không ngờ Dương Lăng lại phái một tên lính chẳng hiểu biết gì

cản đường bọn họ, dù Dương Đình Hòa đầy bụng kinh văn cũng chẳng thể giải

thích được gì với cái gã võ biền không thông lý lẽ này, quan uy thì lại càng chẳng

dùng được. Thấy Dương Đình Hòa gặp cảnh như vậy, Tiêu Phương cũng thầm

khoái chí trong lòng.

Lý Đông Dương đưa tay ra ngăn Dương Đình Hòa lúc này đang đùng đùng nổi

giận nóng nảy vung roi lia lịa, lão vuốt râu cười nói với Lưu Đại Bổng Chùy:

- Vị hiệu úy này! Người không biết không có tội. Ngươi là sỹ tốt trong quân,

chắc không biết ba người bọn ta đồng thời xuất kinh là chuyện quan trọng đến cỡ

nào.

Ngươi hết lòng với nhiệm vụ, điều ấy hết sức đáng khen. Nhưng chuyện này có

liên quan đến giang sơn xã tắc và muôn vạn dân chúng Đại Minh, bản quan khuyên

ngươi mau mau tránh đường để bọn ta đi qua, bằng không ít nhất cũng nên chuyển

lời của ta cho Dương tướng quân, xin y thay đổi suy nghĩ. Còn nếu như để lỡ việc

của bọn ta, một hiệu úy nho nhỏ như ngươi không gánh vác nổi đâu. Ngươi phải

biết là dù đương kim thánh thượng ở đây, một khi nghe nói có ba người bọn ta cùng

tới ắt cũng biết là có chuyện động trời cần bẩm báo, ngàn vạn lần không thể chậm

trễ chút nào.Lưu Đại Bổng Chùy nghe xong không khỏi cảm thấy tức cười. Thấy vị lão tiên

sinh này nói năng văn chương như vậy, bất giác gã nhớ đến một câu thoại trong vở

kịch nào đó bèn ngẩng cao đầu, xổ luôn một tràng:

- Tướng ở ngoài biên cương, có lúc không cần theo lệnh vua!

Dương Đình Hòa giận đến bật cười, nói:

- Lý đại nhân! Gã tiểu tốt này thô bỉ dốt nát, không thông thời thế, nói chuyện

với gã thực chẳng khác gì đàn gảy tai trâu. Người đâu, xông cả lên cho bản quan!

Ta phải xem thử một tên hiệu úy cỏn con như hắn dám làm gì bọn ta nào!

Dương Đình Hòa vừa ra lệnh, lập tức đám thủ hạ tùy tùng giục ngựa xông lên.

Còn Tiêu Phương thì lại quay đầu ngựa tránh sang bên cạnh, ngầm nháy mắt ra hiệu

cho các thị vệ thủ hạ của mình lùi về phía sau.

Lưu Đại Bổng Chùy nóng ruột, vội giơ Thượng Phương bảo kiếm lên cao, lớn

tiếng quát:

- Thượng Phương bảo kiếm ở đây có thể tiền trảm hậu tấu! Xem thử ai dám tiến

lên?!

Thấy đám tùy tùng bắt đầu do dự, Dương Đình Hòa bèn nghiêm giọng quát lớn:

- Chuyện này liên quan đến vận mệnh quốc gia! Đừng nói chỉ là một thanh

kiếm cỏn con, dù là đương kim thánh thượng ở đây cũng vậy, có gì mà không dám

xông lên chứ? Mau xông lên hết cho ta!

Lưu Đại Bổng Chùy thấy đám thị vệ tùy tùng này định thúc ngựa xông tới thật,

gã cũng không dám thật sự vung kiếm chém người. May quá, đột nhiên cái khó ló

cái khôn, gã bèn cắm bảo kiếm vào ngang hông, cầm cây côn sắt đen thui dài tám

thước của mình lên, "vút" một tiếng đánh trúng ngay vào đùi ngựa của gã thị vệ đi

đầu. Con ngựa hí lên một tiếng thảm thiết, ngã gục xuống đất. Gã thị vệ đang cưỡi

ngựa cũng ngã lăn quay, ngăn cản đường đi của những người ở phía sau.

Lưu Đại Bổng Chùy cười lạnh một tiếng, quát lớn:- Đánh người phải đánh ngựa trước, đánh gãy hết đùi ngựa của bọn chúng cho

ta! Để ta xem thử hai cái chân của bọn chúng có chạy nhanh hơn bốn cái chân được

không?!

Hai mươi viên thị vệ nghe vậy bèn vung trường thương chuyên nhằm vào chân

ngựa mà phang. Thị vệ của ba vị đại học sỹ đều là những binh lính bình thường, lúc

vội vã rời kinh chỉ kịp mang theo thanh đao, quần áo trên người cũng mỏng manh,

cả bọn không kịp mặc áo da dùng khi ra ngoài nên chân tay đều lạnh cóng, hành

động không linh hoạt. Hơn nữa vốn kỵ thuật của bọn chúng cũng thua kém hai

mươi viên thị vệ kia rồi nên làm sao có thể điểu khiển ngựa né tránh được?

Cán thương không so được với côn sắt nên không thể đánh gãy chân ngựa

nhưng cũng khiến cho đám ngựa đau đớn vô cùng. Sau khi nhảy loạn một hồi bọn

chúng liền không để ý đến sự điều khiển của chủ nhân nữa mà quay đầu chạy như

điên về phía sau. Qua khỏi mấy chục trượng các thị vệ mới ghìm cương lại được,

nhưng bất luận bọn họ hò hét thúc giục thế nào, bọn ngựa cũng không dám quay về

phía trước nữa.

Hai bên đã trở mặt với nhau rồi, thói quen lỗ mãng của Lưu Đại Bổng Chùy

cũng lập tức phát tác, thấy Dương Đình Hòa đích thân giục ngựa xông tới gã liền

vung côn đuổi ngựa đi. Sau khi náo loạn một hồi, ngựa của ba vị đại học sỹ và mấy

chục viên tùy tùng đều bị đánh cho không gãy cũng bị thương, khó thể đi tiếp được.

Lưu Đại Bổng Chùy quay đầu lại thấy đại quân đã đi xa vào trong rặng núi, chỉ còn

thấy một mảng cờ xí phất phơ, gã không kìm được cười lên ha hả, dẫn theo hai

mươi viên thị vệ thúc ngựa bỏ đi.

Dù lòng dạ rộng rãi nhưng Lý Đông Dương cũng bị đám lính thô lỗ này khiến

cho tức giận đến run người. Ông đứng trên mặt đất, tay dắt con ngựa chân thấp chân

cao đang không ngừng rên rỉ đau đớn của mình, nhìn về hướng đại quân đang dần

đi xa, hồi lâu vẫn chẳng thể nói được lời gì.

* * *

Tham tướng trấn thủ ải Cư Dung nhận được tin báo, từ sớm đã đội mũ mặc giáp

lên cổng thành, đợi đại quân của Dương Lăng; sau khi xác nhận ấn tín khâm saixong xuôi liền lập tức mở rộng cửa thành. Dương Lăng cũng không hề khách sáo,

lập tức hạ lệnh cho đại quân đi qua.

Dương Lăng sợ Lưu Đại Bổng Chùy không ngăn nổi ba đại học sỹ nên chờ ở

phía sau đoàn quân. Đến khi hai mươi mốt chiến mã phi nhanh tới nơi, hỏi rõ đầu

đuôi câu chuyện, biết ba đại học sỹ đều không bị thương, y mừng rỡ vô cùng, lập

tức dẫn theo những bộ hạ còn lại rời khỏi ải Cư Dung.

Đến khi thấy tham tướng giữ ải lại cho đóng chặt cửa thành, trái tim vốn còn

thấp thỏm của Dương Lăng mới coi như yên ổn trở lại. Tham tướng giữ ải không

thể nhận biết ba vị đại học sỹ, mà bọn họ ắt cũng không mang theo văn điệp thông

quan do quân đội cung cấp. Như vậy cho dù có đuổi kịp đến đây thì ba vị cũng

đứng hòng thuyết phục được tướng giữ ải Cư Dung mở cửa cho qua.

Đại quân đi vòng theo hướng tây nam, tiến nhanh hết cỡ, trên đường không rẽ

vào tiểu huyện nào, mỗi khi nghỉ ngơi đều cắm trại tại chỗ. Hôm ấy đại quân đang

đi trên cổ đạo Linh Khâu. Vùng huyện Linh Khâu này chính là nơi do Triệu Vũ

Linh Vương ra lệnh khai hoang mở đất. Sau này, Hán Vũ Đế Lưu Triệt xua quân lên

mặt bắc đánh Hung Nô, Tào Tháo thời Tam Quốc đóng quân mở đồn điền, Dương

gia tướng thời Tống chống cự quân Liêu, tất cả đều diễn ra tại đây.

Trên đường bắc tiến, bất kể là hành quân hay ngủ nghỉ, Chính Đức đều ở chung

một chỗ với sỹ tốt, đường bằng cưỡi ngựa, gặp núi leo trèo, thủy chung không chịu

bước vào kiệu xe. Dù chỉ là một vị thiếu gia được nuông chiều từ tấm bé e rằng

cũng không chịu được nỗi khổ sở này, huống chi là Chu Hậu Chiếu từ nhỏ đã được

bao bọc hết mức.

Không ngờ hắn lại có được nghị lực như vậy, hoàn toàn khác hẳn với vẻ ham

chơi biếng làm thường ngày. Không chỉ Dương Lăng, ngay đến Trương Vĩnh cũng

hết sức kinh ngạc.

Đại quân đi dọc theo cổ đạo đến một ngọn núi nằm giữa những rặng núi bao

quanh, đột nhiên nhìn thấy phía trước có một đội quân, nhìn thoáng qua e phải có

tới hơn ba ngàn người.Tuy nơi này cách huyện Linh Khâu chưa tới mười dặm, nhưng giữa nơi núi non

thế này lại đột nhiên xuất hiện một đội quân, mà nhìn lều trại thì dường như họ đã ở

đây được một thời gian rồi nên ai cũng nghi hoặc. Dương Lăng không dám sơ xuất,

một mặt hạ lệnh cho đại quân dừng lại nghỉ ngơi, tăng cường phòng bị, một mặt sai

tùy tùng đi dò hỏi.

Chẳng mấy chốc, viên tùy tùng dẫn theo một vị tướng quân vội vã đi vào trong

lều lớn ở trung quân, Chính Đức đóng giả làm thị vệ đứng sau lưng Dương Lăng

thầm quan sát. Vị tướng quân nọ chừng hơn bốn mươi tuổi, dáng vẻ cao lớn quắc

thước, từ xa nhìn thấy Dương Lăng đã tươi cười cung tay thi lễ:

- Hạ quan là Tả vệ chỉ huy sứ Đại Đồng Điêu Hóa Thần, bộ hạ của Tuần phủ

Đại Đồng Hồ Toản đại nhân, bái kiến Dương đại nhân! Dương đại nhân đi đường

vất vả rồi.

Dương Lăng thầm ngạc nhiên, hiện giờ chiến sự ở tiền phương đang căng

thẳng, Hồ Toản phái ba nghìn quân đóng ở đây là để làm gì chứ?

Hai bên nói chuyện đôi câu, Dương Lăng bèn mời hắn ngồi xuống, hỏi:

- Điêu chỉ huy, đây là nơi nào vậy? Tiền phương đang giao chiến với Thát Đát,

là lúc cần dùng người, tại sao lại cho đóng đại quân ở đây? Có việc gì quan trọng

hay sao thế?

Việc cơ mật quân sự thì dù là đại thần trong triều cũng không tiện hỏi, nhưng

Dương Lăng ngoài việc đến ủy lạo quân đội còn kiêm cả tuần tra, có quyền quản lý

toàn bộ cuộc chiến ở tiền phương. Lúc cần y có thể dùng Kim phê lệnh tiễn và

Khâm sai kim ấn để điều động đại quân, do đó y hỏi câu này cũng không có gì là

quá phận.

Điêu Hóa Thần là thân tín của Hồ Toản, việc kinh sư phái Đề đốc Nội xưởng và

Kinh doanh đến tuần tra vùng biên cảnh đã được truyền tới qua đường dịch trạm rồi

nên hắn cũng biết nội tình. Tất nhiên hắn không dám nói dối, vội vàng đáp:

- Đại nhân có điều không biết! Từ nơi này đi đến Đại Đồng, giữa vùng núi noncó rất nhiều cửa ải, duy có men theo cổ đạo này là không có cửa ải hiểm trở nào.

Thát Đát đã bị Dương tổng chế kìm chân, muốn rút cũng không rút được, nay

quân lương cạn hết lại không thu được lợi ích gì. Không biết gian tế Thát Đát làm

thế nào mà lần ra được con đường này, bọn chúng phái hơn ngàn người ngựa men

theo con đường nhỏ trong núi lách qua các cửa ải để tập kích Linh Khâu, cướp đi

một lượng lớn tiền tài lương thảo. Hồ tuần phủ hay tin liền sợ giặc Thát nếm được

trái ngọt sẽ còn đến nữa, do đó lệnh cho hạ quan đóng quân tại đây.

Tới lúc này Dương Lăng mới biết nguyên nhân. Lại nghĩ đến tình hình vừa rồi,

nơi này là một khe núi giữa vùng núi non, nếu muốn một đội ngũ hơn ngàn người đi

xuyên qua rặng núi thì cũng chỉ có khe núi này là không có phòng bị nên có thể dễ

dàng vượt qua được. Thật là làm khó cho đám gian tế Thát Đát kia, không biết đã

phải hao phí bao nhiêu công sức mới tìm ra được con đường này cho quân đội cướp

bóc.

Đừng coi nhẹ tác dụng của một con đường trong chiến tranh. Nếu quân Thát

Đát lợi dụng con đường bí mật này không ngừng đi vòng đến phía sau đại quân

cướp bóc lương thực, cuộc chiến cứ kéo dài tiếp sẽ khó mà dự liệu được việc thắng

bại. Ngăn con đường này lại, nhuệ khí quân địch ắt sẽ giảm mạnh, ngay đến đám

tướng lĩnh Thát Đát cũng sẽ mất dũng khí tiếp tục chiến đấu. Chẳng trách lúc tháng

chạp giữa mùa đông này mà còn có ba nghìn người ngựa đóng ở đây, vất vả canh

phòng trên ngọn núi này.

Dương Lăng gật đầu:

- Thì ra là vậy! Đại quân của ta đêm nay cũng đóng lại đây thôi, ngày mai sẽ

khởi hành tiếp tục đến Đại Đồng. Đúng rồi, nơi này gọi là gì nhỉ?

Điêu Hóa Thần đáp:

- Nơi này thời xưa gọi là Bình Hình Trại, đến thời Tống, Nguyên thì gọi là Bình

Hình Trấn. Bởi vì trên ngọn núi này có một khoảng đất rộng hơn chín trăm trượng

vuông, trời sinh đã bằng phẳng vuông vức, do đó sau khi Đại Minh ta lập quốc, nó

được đổi gọi là Bình Hình Lĩnh (Chữ "bình" ở đây nghĩa là bằng phẳng, khác vớichữ "bình" trước đó là cái bình, cái lọ - ND).

Hai bên tán gẫu một phen, rồi Dương Lăng đưa Điêu Hóa Thần ra ngoài lều,

đứng trên đỉnh ngọn núi đưa mắt nhìn về hướng xa. Lúc này mặt trời vừa lặn xuống

sau dãy núi, chỉ còn lại chút ánh tà dương mờ nhạt, lớp tuyết trùng trùng điệp điệp

được phủ lên bởi một tầng ánh sáng hồng nhạt.

Chính Đức đi đến bên cạnh Dương Lăng, đưa tay che bớt ánh sáng, nheo mắt

nhìn về hướng xa một hồi, rồi nói:

- Ừm, giữa rặng núi này quả nhiên chỉ có hẻm núi này là đại quân có thể đi qua.

Nhìn từ trên đỉnh núi xuống, huyện thành Linh Khâu như ở gần ngay trước mắt, nơi

đó thành nhỏ tường thấp, không có chỗ nào hiểm yếu để phòng thủ, thực là nguy

hiểm.

Chỉ là đóng quân lâu dài tại nơi này thì không khỏi vất vả quá. Trương Vĩnh,

ngươi ghi nhớ lấy! Ngay khi về kinh hãy kêu bộ Binh xây một cửa ải trên Bình

Hình Lĩnh này để cản đường quân địch, rồi liệt nó vào danh sách các cửa ải trọng

yếu chốn biên cương, lấy tên là ải Bình Hình.

Trương Vĩnh vâng dạ liên hồi. Dương Lăng nghe đến đây thì không khỏi lấy

làm ngạc nhiên liếc nhìn Chính Đức, nghĩ bụng: "Bình Hình Lĩnh, ải Bình Hình,

vừa rồi sao mình không nghĩ ra nhỉ, thì ra... ải Bình Hình nổi tiếng lại là do chính

Chính Đức hạ chỉ cho xây dựng."

Chính Đức thấy ánh mắt y có điều khác lạ, không kìm được cười hỏi:

- Sao Dương khanh lại nhìn trẫm như thế? Trẫm nói có gì không đúng sao?

Dương Lăng vội vàng cười đáp:

- Hoàng thượng nói đúng lắm! Xây dựng một cửa ải ở chỗ hiểm yếu này quả

thực có tác dụng rất lớn trong việc ngăn chặn giặc Thát. Có điều phòng ngự bị động

thì không có cửa ải nào mà không bị phá, chúng ta còn cần phải...

Chính Đức cả cười, cướp lời:- Chúng ta còn cần phải phú quốc cường binh, chủ động xuất kích, tiêu diệt giặc

mạnh ở ngay bên ngoài biên ải, phải vậy chăng?

Nói rồi vua tôi đưa mắt nhìn nhau, không kìm được cùng vỗ tay cười lớn.

***

Đại quân cuối cùng cũng đã tới Đại Đồng. Tổng chế Tam biên Dương Nhất

Thanh điều quân đóng tại các cửa ải hiểm yếu trên Trường Thành, trước mắt ông ta

đang ở Trấn Khương Bảo. Nơi đó vốn có chợ chuyên buôn bán ngựa giao dịch với

quan ngoại, được xây dựng ngay sát mặt ngoài của Trường Thành.

Để tiện cho việc chỉ huy vùng lân cận nên Dương Nhất Thanh cho lập quân

doanh tại đây, Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản đích thân áp tải lương thảo đến Trấn

Khương Bảo, hiện đang cưỡi ngựa vội vã trở về. Hay tin kéo tới nghênh tiếp đón

đại quân của Dương Lăng vào thành là quan viên các cấp ở nha môn Tuần phủ.

Trên đường hành quân, bọn Dương Lăng thấy tòa thành lớn vốn phồn hoa này đã

trở nên tiêu điều hơn không ít, quan binh trên đường còn nhiều hơn dân chúng.

Các quan viên nghênh đón khâm sai đến dịch quán. Dịch quán ở nơi này so với

dịch quán Xương Bình nơi Dương Lăng từng ngụ lại tất nhiên là hoàn toàn khác

hẳn. Khu nhà hào hoa nằm ở lớp thứ ba của dịch quán dành riêng để nghênh tiếp đại

thần, được bố trí cực kỳ xa hoa. Dương Lăng vào ở trong dịch quán, phía ngoài dịch

quán thì để cho hai trăm thân binh của bản thân và ba trăm thị vệ đại nội cư trú, các

quan binh còn lại thì được sắp xếp đến học cung (trường học thời xưa - ND) hoặc là

cho cắm trại ở thao trường.

Bận rộn một hồi mọi việc mới xong xuôi, Dương Lăng liền tiễn các vị đại nhân

ra đi. Y trở về dịch trạm, nghênh đón Chính Đức vào trong thu xếp cho hắn ở phòng

của mình, rồi cười nói:

- Hoàng thượng! Trên đường ngài cũng đã phải chịu vất vả rồi, nay rốt cuộc

cũng có nơi thoải mái hơn một chút. Ngài cứ nên ở lại đây mà nghỉ ngơi dưỡng sức

đi, đợi sau khi thần thông báo cho Hoa Đáng, tất cả mọi việc được an bài ổn thỏa

rồi ngài sẽ lên núi Bạch Đăng đàm phán với y là xong.Chính Đức gật gật đầu, rồi lại hỏi:

- Dương Nhất Thanh đang ở Trấn Khương Bảo, lúc nào mới có thể trở về?

Trẫm muốn tìm hiểu một chút về tình hình chiến sự cụ thể.

Dương Lăng nhíu mày suy nghĩ một lúc rồi đáp:

- Bá Nhan nóng lòng thoát thân, nhưng lần này hắn trộm gà không thành còn

mất nắm gạo, các bộ lạc tổn thất nặng nề. Vốn nội bộ Thát Đát đã không ổn định

rồi, bây giờ chưa chiếm được chút lợi lộc nào ắt hẳn hắn chẳng cam tâm rút về. Nay

hắn đang cùng Dương Nhất Thanh có công có thủ, chiến sự kịch liệt, thần nghĩ

đừng nên thông báo cho Dương Nhất Thanh biết việc Hoàng thượng đến đây thì

hơn. Để thần đến Trấn Khương Bảo thăm y là được.

Chính Đức cả mừng:

- Hay lắm! Trẫm đang muốn đến quan ải xem cảnh chém giết ngoài chiến trận,

đến lúc đó trẫm sẽ đi với khanh. Đúng rồi, Đại vương là phiên vương ở Đại Đồng,

khanh đã đến đây rồi, theo lễ phải đi bái kiến. Khanh chuẩn bị lúc nào thì đi?

Dương Lăng đáp:

- Hôm nay trời đã tối, không tiện đến phủ Đại vương bái kiến, thần định ngày

mai sẽ đi. Hoàng thượng cũng muốn đi sao?

Chú thích:

(1) nguyên văn "Quan phổ nhi" (官 儿), "phổ nhi" nghĩa là tiêu chuẩn hoặc

quy củ, trỏ những nghi lễ rườm rà chốn quan trường, nay thường dùng để châm

biếm các buổi họp, lễ rườm rà và tốn kém của quan chức Trung Quốc.

(2) chỉ nam sủng vị thành niên, đối tượng tình dục cho những kẻ thích trẻ em

nam (vừa ấu dâm vừa đồng tính luyến ái).NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 188: Mỗi Người Một Suy Nghĩ

Chính Đức hơi do dự:

- Năm kia Thát Đát thiếu chút nữa đánh chiếm được Đại Đồng, Đại vương liền

chạy đến kinh sư khóc lóc kể lể với phụ hoàng nên từng gặp trẫm một lần. Nếu mà

gặp lão...

Rồi hắn đột nhiên nhướng mày, cười nói:

- Đi thì đi! Ta là thị vệ, chẳng gặp được lão đâu! Nếu cả ngày phải ở trong này

thì có khác gì lúc ở kinh sư chứ?

Hai người đang nói cười, chợt có một viên thị vệ đi tới bẩm báo:

- Bẩm đại nhân! Tuần phủ Hồ đại nhân về thành rồi, đang tiến vào trong phủ.

Viên thị vệ này cũng biết thân phận của Chính Đức, có điều Dương Lăng sớm

đã dặn dò tất cả những người nhìn thấy Chính Đức đều không được lộ vẻ gì khác lạ,

kẻo lại khiến người hữu tâm nảy lòng cảnh giác. Vì vậy hắn cũng không dám bái

kiến Hoàng thượng, chỉ hơi liếc nhìn về phía Chính Đức.

Dương Lăng ngẩn người ra, Hồ tuần phủ đã đến tận đây rồi? Tuy phẩm cấp của

lão cao hơn của mình, nhưng dù sao mình cũng có cái mác Khâm sai, hơn nữa xét

về thực quyền thì lão hoàn toàn không bằng mình được, tại sao lại không thông báo

trước một tiếng? Thế này thì không khỏi hơi thất lễ rồi.

Đang định đến thư phòng gặp Hồ Toản, chợt Dương Lăng nghe từ bên ngoài

vang lên tiếng quát lớn:

- Nơi ở của Khâm sai, không được tùy tiện xông vào.Kế đó lại nghe một giọng khác cũng quát to không kém:

- Cặp mắt chó của ngươi mù rồi hả? Ta là Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản. Nơi

này ngoài Đại vương điện hạ ra, Hồ mỗ ta là người cao nhất, có nơi nào mà ta

không xông vào được?

Hừm! Vị Tuần phủ này kiêu căng quá rồi thì phải? Dương Lăng không biết Hồ

Toản làm quan như thế nào, nhưng nghe giọng điệu này của đối phương, ấn tượng

đầu tiên của y chính là vị Tuần phủ này quá hống hách ngang ngược.

Dương Lăng đưa mắt liếc nhìn Chính Đức, rồi đẩy cửa bước ra bảo:

- Cho ông ta vào đây! Hồ tuần phủ, bản quan tuy phẩm cấp thấp hơn ngài,

nhưng hiện là Khâm sai. Hành dinh của Khâm sai cũng là nơi mà ngài có thể xông

bừa vào hay sao?

Y vừa nói vừa đưa mắt nhìn ra cửa, thấy các thị vệ đại nội đang ngăn cản một

viên quan văn. Lúc này bọn họ đang tách qua hai bên nên y có thể nhìn thấy rõ hình

dạng của viên quan. Y thấy người này dáng vẻ nho nhã, mặt mũi trắng trẻo, tuổi tác

dường như chưa tới năm mươi, cũng không giống một kẻ kiêu căng hống hách, cơn

giận của Dương Lăng liền giảm đi vài phần.

Nào ngờ vị Hồ tuần phủ này vừa nhìn thấy y, khuôn mặt lại càng tỏ ra giận dữ.

Hai nắm tay siết chặt, ông ta rảo bước tiến thẳng tới, không đợi chủ nhân dẫn đường

mà đã nghênh ngang bước vào phòng khách ngay.

Dương Lăng cảm thấy rất khó hiểu, không biết mình đã đắc tội với ông ta ở chỗ

nào. Y cố giữ bình tĩnh, khoát tay ra hiệu cho các thị vệ lui ra, rồi sau đó xoay người

theo Hồ Toản đi vào phòng khách. Trong phòng chỉ có hai người Chính Đức và

Trương Vĩnh. Tuy Chính Đức đang mặc trang phục hiệu úy nhưng lại đang đứng ở

phía trước.

Hồ Toản thi đỗ tiến sỹ, sau được thăng làm Tả thị lang bộ Hộ, kế đó lại được

điều đến Đại Đồng nhậm chức Tuần phủ. Đó đều là chuyện của thời Hoằng Trị, sau

khi tân đế đăng cơ ông ta còn chưa gặp thiên tử bao giờ. Hồ Toản cẩn thận quan sátChính Đức một hồi, do dự không dám tùy tiện bái kiến. Thấy Dương Lăng bước

vào, ông ta lập tức quát hỏi:

- Thánh giá ở đâu?

Sắc mặt Dương Lăng biến đổi, y kinh hãi thốt:

- Hồ đại nhân! Ngài nói gì thế?

Hồ Toản cười lạnh, rút từ trong ống tay áo ra một bức thư, hậm hực:

- Dương tướng quân! Ngài chặn ba vị Đại học sỹ ở ải Cư Dung, bọn họ không

đi qua được, nhưng tốc độ của dịch trạm lại nhanh hơn quân đội của ngài mấy lần.

Lá gan ngài lớn thật, không ngờ lại dám đưa Hoàng thượng đến nơi hiểm địa này.

Ta hỏi ngài, thánh giá ở đâu?

Dường như vừa ăn phải thuốc súng, Hồ Toản nổi giận bừng bừng, trợn trừng

cặp mắt đỏ rực lên nhìn Dương Lăng. Chính Đức thấy vậy liền khẽ ho một tiếng,

nói:

- Trẫm ở đây! Hồ ái khanh đừng chất vấn Dương Lăng nữa, chính trẫm muốn

xuất kinh. Chẳng qua Dương khanh chỉ làm theo ý chỉ của trẫm mà thôi.

Hồ Toản ngoảnh đầu nhìn qua, thấy vị thái giám mặc áo mãng long bào đứng

sau lưng viên hiệu úy khẽ gật gật đầu với mình, liền vội bước lên một bước sụp lạy,

thưa:

- Vi thần Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản, khấu kiến Hoàng thượng.

Chính Đức cười nói:

- Ái khanh bình thân! Trẫm cải trang xuất kinh, người biết rất ít, khanh đừng

nói ra ngoài. Trẫm biết ba vị Đại học sỹ đều có lòng tốt, cũng do ba vị lo lắng cho

sự an toàn của trẫm. Nhưng lần này trẫm đến Đại Đồng do có chuyện quốc sự cực

kỳ quan trọng, chuyện này vốn cũng không định giấu khanh và Dương Nhất Thanh,

chỉ là muốn đợi một thời gian nữa mới nói mà thôi.Hồ Toản đứng dậy, nghiêm trang đáp:

- Bất luận là chuyện lớn thế nào thì cũng nên để bọn thần chia xẻ âu lo thay

Hoàng thượng, há có lý nào để thiên tử đích thân đi tới nơi hiểm địa? Hiện Đại

Đồng đang lúc chiến tranh loạn lạc, không tiện ở lâu, khẩn cầu Hoàng thượng lập

tức khởi giá hồi kinh!

Chính Đức thầm tức cười, vị Tuần phủ này cũng thật thú vị! Văn võ khắp triều

ngay cả khi Lưu Kiện, Tạ Thiên còn tại vị, ba Đại học sỹ cũng không dám trực tiếp

ra lệnh cho Hoàng thượng như thế. Hóa ra ông ta không chỉ nói năng khó chịu với

vị Khâm sai Dương Lăng, mà đối với Hoàng thượng cũng vẫn dùng giọng điệu kiểu

như vậy.

Chính Đức thản nhiên ngồi xuống ghế, vắt chân chữ ngũ bảo:

- Trẫm đã nói rồi. Lần này trẫm đến đây là có chuyện quốc sự cực kỳ quan

trọng, chưa làm xong trẫm không muốn về kinh. Nếu Hồ ái khanh muốn biết rõ mọi

chuyện có thể hỏi Dương Lăng, bằng không thì hãy về đi!

Khuôn mặt Hồ Toản trở nên đỏ bừng hệt như con gà chọi, ông trừng mắt nhìn

Chính Đức:

- Chủ lo thì thần cần dốc sức, chủ nhục thì thần phải lấy cái chết báo đền. Để

mặc Hoàng thượng đi vào nơi nguy hiểm, thần dù chết vạn lần cũng không chuộc

hết tội. Nếu Hoàng thượng không chịu về kinh, thần sẽ chết trước mặt Hoàng

thượng ngay!

Chính Đức ngẩn người, hồi lâu sau mới cười nói:

- Thế này... Thế này là cái lý gì chứ? Không phải ngươi đang lấy cái chết để uy

hiếp trẫm sao? Trẫm không về kinh, cũng không cho ngươi chết, ngươi lui xuống

đi!

Hồ Toản lớn tiếng đáp:

- Hôm nay thần đến đây ắt phải khuyên được Hoàng thượng về kinh. Hoàngthượng mà không đi tức là thần không làm tròn bổn phận, chỉ đành chọn cái chết

mà thôi.

Vừa nói ông vừa đưa tay vào trong ngực. Chính Đức cả kinh, quát lên:

- Ngươi dám mang dao đến kiến giá?

Dương Lăng cũng lao nhanh đến chắn trước mặt Chính Đức, đưa tay nắm chặt

chuôi đao của mình. Hồ Toản nói:

- Chưa được cho phép mà mang đao kiến giá là đại tội phản nghịch, thần quyết

không dám. Cổ nhân mang lòng trung can gián đều húc đầu vào cột tìm cái chết...

Hồ Toản vừa nói vừa đưa mắt nhìn xung quanh, không thấy trong phòng có cây

cột nào, ông ta bèn nói tiếp:

- Quân tử yêu vua không yêu tấm thân mình. Thực ra có nhiều cách chết lắm,

thần đã có chuẩn bị sẵn rồi.

Vừa nói ông ta vừa móc từ trong ống tay áo ra một gói giấy, mở ra định dốc chỗ

thuốc bột vào miệng. Dương Lăng cả kinh, y còn chưa kịp xông đến thì Chính Đức

đã phản ứng trước rồi. Hắn lao vọt tới bên cạnh Dương Lăng, đoạt ngay lấy gói giấy

trong tay Hồ Toản.

Chỗ thuốc bột rơi cả vào tay Chính Đức. Trương Vĩnh cũng không biết đó là

loại độc dược gì, dính vào da liệu có hại gì hay không nên sợ hãi la ầm lên. Lập tức

có mấy viên thị vệ xông vào khống chế Hồ Toản. Trương Vĩnh vội kêu người mang

nước tới, trước dùng khăn bông lau sạch tay Chính Đức, sau đó rửa đi rửa lại vài

lần.

Dương Lăng cau mày:

- Tuần phủ đại nhân! Hoàng thượng đích thân đi tuần tra biên cảnh cũng là vì

giang sơn xã tắc. Chuyện lớn lần này không có Hoàng thượng thì ắt chẳng thành,

sao ngài có thể tùy tiện lấy cái chết ra can gián như thế chứ?Hồ Toản cả giận:

- Tấm thân tôn quý của Hoàng thượng há có thể tùy tiện đi đến nơi hiểm địa?

Việc "Thổ Mộc chi biến" hãy còn sờ sờ ra đó, ngươi muốn hại Đại Minh, hại bản

thân bị chém cả nhà hay sao?

Dương Lăng cũng không khỏi cả giận, lẫm liệt trả lời:

- Câu nào cũng nhắc tới năm xưa, tại sao không nói xa hơn một chút? Sao

không nhắc đến Hồng Vũ hoàng đế máu nhuộm chiến bào đánh lấy giang sơn vạn

dặm? Sao không nhắc đến Vĩnh Lạc hoàng đế năm lần đánh Tái Bắc, một đời chiến

chinh? Từ xưa đến nay, phàm là lúc đất nước bên trong nguy nan, bên ngoài chịu

nhục, có vị thiên tử tài đức nào mà chỉ trọng văn trị mà không trọng võ công?

Dương Lăng sục sôi chí khí cao giọng nói tiếp:

- Kẻ làm bầy tôi trung với vua là tấm lòng, phò trợ vua là trách nhiệm, ngài có

một trái tim trung với vua, nhưng còn cần phải dốc sức phò trợ vua nữa. Ngài muốn

phò tá đương kim Hoàng thượng trở thành bậc đế quân văn trị võ công, anh minh

thần vũ hay là muốn đương kim Hoàng thượng được bảo vệ kỹ càng trong Tử Cấm

Thành, muốn thiên tử còn trẻ không được xuất cung một bước, không hiểu nhân

tình thế thái, làm vật tượng trưng trên danh nghĩa cho triều đình, làm một con rối

cho vạn dân triều bái?

Những lời này của Dương Lăng không ngờ đã khiến Hồ Toản chấn động, nhất

thời ông không nói được tiếng nào.

Dương Lăng thở ra một hơi, nói tiếp:

- Tuần phủ đại nhân đã biết Hoàng thượng ở đây, hãy nên hiệp trợ bản quan làm

tốt việc phòng ngự Đại Đồng, ắt Hoàng thượng sẽ an toàn rất mực. Hoàng thượng

đến đây là do có một chuyện cực kỳ quan trọng cần làm, hiện giờ Hồ tuần phủ có

bằng lòng nghe bản quan kể lại tường tận mọi việc không?

Hồ Toản im lặng hồi lâu, cuối cùng mới cung tay hậm hực đáp:- Xin được nghe rõ!

Giọng đã không còn cứng rắn như trước nữa.

Dương Lăng khẽ mỉm cười, khom người thưa với Chính Đức:

- Hoàng thượng hãy nghỉ ngơi đi! Thần xin tạm lui ra trao đổi với Hồ đại nhân

một lát.

Chính Đức nghe vậy bèn vội xua tay bảo:

- Các khanh cứ đi đi, đi đi!

Nhìn thấy hai người đã ra khỏi cửa, Chính Đức mới ngồi phịch xuống ghế, thở

phào nói với Trương Vĩnh:

- Cái gã họ Hồ này cũng đáng sợ quá đi! Không có việc gì thì ngàn vạn lần

đừng để trẫm nhìn thấy hắn nữa!

Dương Lăng và Hồ Toản nói chuyện với nhau trong phòng suốt nửa canh giờ,

cuối cùng Hồ Toản mới hiểu được mục đích của Chính Đức khi tới đây. Tuy là quan

văn nhưng đã quen thuộc với việc quân sự ở Đại Đồng, tất nhiên Hồ Toản hiểu rằng

nếu có thể lôi kéo được Đóa Nhan Tam Vệ thì không những Đại Minh bớt đi một

mối nguy hiểm bên ngoài Trường Thành, mà xét về mặt lâu dài còn thu được lợi ích

cực lớn.

Nếu thật sự có thể thay đổi loại chợ mậu dịch nhỏ lẻ như trước kia, cùng Đóa

Nhan Tam Vệ thực hiện những cuộc giao dịch lớn về trà và ngựa thì khu vực Hà

Sáo sẽ trở thành nơi cung cấp ngựa tốt cho Đại Minh. Từ đó hoàn toàn thay đổi cục

diện chiến lược hiện nay mà quân đội Đại Minh đang chỉ giỏi phòng thủ không giỏi

tấn công.

Có điều nghĩ đến việc Hoàng đế đích thân đi vào nơi nguy hiểm, Hồ Toản liền

cảm thấy hãi hùng khiếp vía. Lão do dự:

- Đại Đồng thành cao tường dày, ngoài thành có mấy vạn đại quân của Dươngtổng chế, theo suy nghĩ của bản quan, hẳn sẽ không đến mức bị Thát Đát xâm nhập.

Nhưng gần đây giặc Thát thiếu thốn lương thảo nên chúng thường phái những đội

quân nhỏ lẻn qua giữa những khe hở của đại quân ta mà tới hậu phương cướp bóc,

hơn nữa vừa tấn công xong liền rút đi ngay, khiến người ta hết sức đau đầu. Việc

này thường ngày thì cũng chẳng sao, nhưng nhất thiết không được để Hoàng thượng

rời khỏi dịch quán.

Dương Lăng đáp:

- Việc này thì tất nhiên ta hiểu rõ. Ngàn vạn lần không được để Hoàng thượng

tùy tiện đi vào nơi hiểm địa.

Hồ Toản lại nói:

- Đại vương điện hạ chấp chưởng Đại Đồng. Việc Hoàng thượng ở đây là việc

quan hệ trọng đại, có nên thông báo với Đại vương không?

Năm xưa Chu Nguyên Chương phân đất phong vương cho các con, con trai thứ

mười ba là Chu Quế được giao cho đất Đại Đồng, là một trong Cửu vương vùng

biên ải. Sơn Tây có ba vị vương gia: Tấn vương ở Thái Nguyên, Đại vương ở Đại

Đồng, Thẩm vương ở Lộ An.

Khác hẳn với các vị vương gia ở trung nguyên, bọn họ đều có quyền can dự vào

việc chính trị và quân sự ở địa phương, chính là lên ngựa quản quân, xuống ngựa

quản thần, thay Hoàng đế thống trị vùng biên ải.

Do đó đừng cho rằng nơi này có Tổng chế Tam biên, có Tuần phủ đại nhân là

đầu não cao nhất về quân sự chính trị. Thực ra người thống trị và chỉ huy tối cao ở

Đại Đồng chính là Đại vương; ngoài ra Đại vương và Thẩm vương còn chịu sự

quản hạt của Tấn vương.

Dương Lăng thoáng ngập ngừng:

- Chuyện này tạm thời đừng nói với Đại vương thì hơn. Đại vương mà hay tin

ắt sẽ trở nên bồn chồn lo âu, mà trong phủ Đại vương đông người, phức tạp. Lỡ màđể lộ tin trước khi Đóa Nhan Tam Vệ phái người đến thương nghị, tất Bá Nhan

Mãnh Khả sẽ ra sức ngăn cản.

Hồ Toản suy nghĩ một lúc rồi giậm chân đáp:

- Được! Vậy bản quan xin cáo từ.

Hồ Toản nhíu chặt đôi mày, tràn đầy ưu lo cáo từ rời đi. Ngay cả nha môn Tuần

phủ ông cũng không về mà ngay lập tức chạy thẳng lên tường thành phái thêm

người tăng cường phòng ngự.

* * *

Cửa hàng da họ Hàn là một cửa hàng buôn bán da vừa thành lập không lâu ở

Đại Đồng, nhưng chỉ sau nửa năm đã trở thành một trong những số ít cửa hàng

buôn bán da lớn ở nơi đây.

Từ khi đoạn tuyệt việc giao dịch ngựa với Thát Đát, đặc sản của hai vùng Nam

Bắc đều phải dựa vào vận chuyển thủ công để buôn bán, gần như là một nửa buôn

lậu, một nửa hợp pháp. Do đó lượng hàng hiển nhiên khó có thể cung ứng cho

những nhà buôn có nhu cầu lớn ở các nơi.

Mà Hàn Lâm lại có thể đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người, bất kể là hàng da

chất lượng loại nào, muốn có bao nhiêu thì cửa hàng da họ Hàn đều không hề do

dự. Hơn nữa chủ tiệm Hàn Lâm là người hào sảng, mua bán công bằng, rất có tác

phong của người trên chốn giang hồ, do đó việc làm ăn càng ngày càng phát đạt.

Phần lớn những thương nhân buôn bán da miền Nam khi lên phương Bắc buôn bán

đều chọn giao dịch với y.

Cửa hàng của họ Hàn nằm trên con đường Đông Đại Nhai phồn hoa nhất Đại

Đồng, cách phủ Đại vương không xa, bên trái là một cửa hàng xe ngựa, bên phải là

khách điếm kiêm tửu lâu tên "Trạng Nguyên lâu" cực kỳ hào hoa.

Bởi vì chiến tranh và tuyết lớn thường xuất hiện vào mùa đông, do đó theo quy

luật của các cửa hàng da ở đây, vừa đến mùa đông thì tất cả liền lập tức dừng làmăn. Tuy nhà họ Hàn vẫn có một số ít khách hàng tìm đến, nhưng phần lớn nhân

công đã trở về nhà tránh rét, trong cửa hàng vắng vẻ hiu quạnh vô cùng.

Một người lùn thấp mặc áo da dê, đi đôi ủng da chống trơn trượt bước lộp cộp

lên lầu, đẩy cửa bước vào rồi tiện tay lột chiếc mũ da dê giữ ấm che kín cả mũi và

miệng xuống, để lộ ra một khuôn mặt tròn xoe đỏ bừng. Đây là một thiếu niên mày

rậm mắt to trông khỏe mạnh kháu khỉnh.

Em cầm chiếc bình trà lớn để trên bàn lên tu ừng ực một ngụm, sau đó mới lau

miệng hào hứng kể:

- Cha! Con nhìn thấy anh rể rồi, hiện giờ anh ấy đã vào ở trong dịch quán.

Trên lò than đặt một chiếc nồi đất, những miếng thịt dê tươi ngon đã được thêm

gia vị đang sôi sùng sục không ngừng, hương thơm tỏa ra khắp phía. Trên bàn còn

bày một số món ăn để nhắm rượu như lá sen khô, nhân hạch đào.

(té ra lá sen khô có thể nhắm rượu!!)

Một người đàn ông chừng hơn bốn mươi tuổi, thân hình tráng kiện, ngũ quan

thô kệch bỏ chiếc hồ lô rượu màu nâu vàng xuống, trừng mắt rầy:

- Thằng nhóc con, ta còn cần ngươi nói sao? Chúng ta cắm rễ ở đây quyết

không được để người ta biết là có quan hệ với anh rể của ngươi, ngươi không để lộ

tẩy gì đấy chứ?

Chú nhóc kia tất nhiên chính là Hàn Mãn Thương, em cười hề hề, đắc ý đáp:

- Làm gì có chứ cha? Con nhìn thấy anh rể rồi bèn đi theo đội quân của anh ấy

một đoạn, nhưng anh ấy không nhìn thấy con. Cha! Cha nói xem lúc nào thì anh rể

sẽ đến thăm chúng ta? Con thật nhớ anh ấy quá, lại càng nhớ tỷ tỷ. Hì hì! Tỷ tỷ sắp

sinh em bé rồi, con sắp được làm cậu rồi, nghĩ thật là vui.

Ngoài miệng thì mắng con, nhưng đôi mày Hàn Lâm lại giãn hẳn ra, hiển nhiên

ông cũng rất vui vẻ. Ông ta ồ một tiếng, đáp:- Vị công tử Ngũ Hán Siêu do anh rể con phái tới mãi đến hôm kia mới rời

thành. Bên ngoài đang đánh trận, y phải đi theo đường nhỏ, tuy rằng có người

chúng ta phái đi dẫn đường, nhưng e là lúc này vẫn chưa đến được nơi cần đến đâu.

Chắc anh rể ngươi còn phải ở lại đây một thời gian nữa.

Ông ta khẽ giơ ngón tay cái lên:

- Lăng nhi đi theo vị đó đến đây, đó là chuyện lớn bằng trời e là y không thể lập

tức đến gặp chúng ta. Con đừng nôn nóng, cứ kêu đám người làm đi nghe ngóng tin

tức, chú ý tất cả động tĩnh của các hạng người trong thành, đừng làm hỏng chuyện

lớn của anh rể con.

Hàn Mãn Thương thất vọng ngồi phịch xuống một chiếc ghế dài, chụp lấy hồ lô

rượu của cha nhấp một ngụm rượu nhỏ. Bé lại vội vã cầm đũa gắp một miếng thịt

dê nóng hổi từ trong nồi lên, khẽ thổi mấy hơi rồi bỏ vào miệng rồi đáp:

- Dạ, chuyện này cha không cần quá lo lắng đâu! Trong thành mà có người lạ

nào ra vào ắt là không thể giấu được cặp mắt của đám người làm đó. Có ai lại nảy

lòng cảnh giác với những thằng nhóc chạy loạn xạ khắp thành đó chứ?

- Đúng rồi! - Hàn Mãn Thương nằm bò xuống bàn, vừa đung đưa chân vừa nói

tiếp - Mấy tay thương nhân ở Trạng Nguyên lâu cha đã điều tra rõ chưa? Người

chạy đến đây làm ăn vào khoảng thời gian này không nhiều, vậy mà ông chủ của

bọn họ còn ở phía sau!? Họ đã ở liền một mạch tới bảy tám ngày rồi, đúng là lạ

thật!

Hàn Lâm lắc đầu đáp:

- Còn chưa điều tra được gì cả. Có lẽ đó là những thương nhân mới vào nghề,

không hiểu thời vụ với tình hình ở nơi này. Bà chủ và những người hầu đó đều ở

trong khách điếm cả ngày, không giống như là người có mưu đồ gì.

Trong thời chiến tranh loạn lạc này, phải mang theo một lượng lớn tiền bạc và

hàng hóa xông pha nam bắc nên có đám người hầu tinh thông võ nghệ cũng là việc

bình thường. Hơn nữa quan sát giấy thông hành và hộ tịch của bọn họ đều khôngthấy có gì đáng nghi, nhưng để đề phòng tình huống bất ngờ, ta vẫn kêu tiểu nhị ở

khách điếm chú ý đến bọn họ hơn.

* * *

Trạng Nguyên lâu là khách điếm lớn nhất Đại Đồng, đã có lịch sử hơn trăm

năm. Vương phi của Chu Quế, Đại vương đời đầu tiên, là thứ nữ của danh tướng Từ

Đạt. Bà này khá có phong thái như phụ thân, tuy tướng mạo bình thường nhưng lại

một thân võ nghệ. Khi được gả vào phủ Đại vương, bà dẫn theo một nha đầu tùy

thân họ Tống cũng tinh thông võ nghệ. Về sau, cô tỳ nữ này rời vương phủ gả cho

người khác, rồi thành lập nên Trạng Nguyên lâu ở đây.

Có mối quan hệ này với phủ Đại vương, tửu lâu càng ngày càng mở rộng, dần

dần phát triển thành một tổ hợp quán rượu, khách điếm, sòng bạc, kỹ viện. Trạng

Nguyên lâu chiếm diện tích rất lớn, tuy làm ăn rất nhiều ngành, nhưng mỗi loại đều

có khu vực riêng. Ngay đến khách điếm cũng phân ra làm ba tòa lầu có cấp bậc cao,

trung, hạ khác nhau, do đó các hạng tam giáo cửu lưu đều muốn ở trọ tại đó. Rồng

rắn hỗn tạp, đây là nơi dễ nghe ngóng tin tức nhất.

Tuy Đại Đồng là nơi chiến loạn nhưng đồng thời cũng là nơi dễ phát tài nhất.

Qua hơn trăm năm, các đời chủ nhân của tửu lâu này kiếm được rất nhiều tiền của.

Năm kia, thiếu chút nữa thì giặc Thát đánh được vào thành khiến cho chủ nhân tửu

lâu vô cùng sợ hãi không muốn tiếp tục ở lại đây. Nhưng số người có thể bỏ ra một

khoản tiền lớn mua lại Trạng Nguyên lâu quả thực không nhiều, do đó họ đành phải

một mực kéo dài việc làm ăn mãi. Khi thế lực của Nội xưởng mở rộng đến đây, bọn

họ liền ngấm ngầm mua lại Trạng Nguyên lâu, bề ngoài vẫn tuyên bố đây là việc

làm ăn của nhà họ Tống, nhưng bên trong thực ra là do Hàn Lâm chưởng quản.

Cập Đệ lâu là khách điếm hạng trung của Trạng Nguyên lâu, cũng phù hợp với

thân phận của vị thương nhân buôn da đó. Hiện giờ mới chỉ có phu nhân và vài

người làm của vị thương nhân chưa thấy mặt đã đến đây ở trọ. Bọn họ thuê ba gian

phòng khách liền nhau ở chỗ rẽ ở tầng hai, căn phòng ở giữa để cho phu nhân, hai

căn phòng hai bên dành cho người hầu.

Vị phu nhân này đi lại hùng hùng hổ hổ, hành sự nói năng rất giống đàn ông,cực kỳ thô lỗ. Tuy có thân hình quyến rũ động lòng người, nhưng trên khuôn mặt bà

ta lại đầy tàn nhang, hơn thế nữa còn thích trang điểm lòe loẹt. Bà ta vẽ hai hàng

lông mày mỏng dính, nhưng dưới mũi thì lại là cái miệng to như chậu máu. Ngay

đến mấy người làm thuê biết nhiều hiểu rộng của khách điếm cũng chẳng muốn

nhìn lâu.

Khi tới thuê phòng ở trọ, bọn họ đã báo vì có việc nên ông chủ đến chậm, phu

nhân không quyết định mọi việc được nên ở lại đây chờ ông đến, đã ở suốt bảy, tám

ngày rồi. Vừa rồi vị thương nhân buôn da đó mới dẫn theo một vị tiên sinh tính toán

sổ sách và sáu người làm thuê đến khách điếm. Người làm của khách điếm đã được

Hàn Lâm dặn dò từ trước, vừa sai người lén đi thông báo cho Hàn Lâm vừa bưng

một chậu nước đưa lên lầu.

Trong phòng, Dương Hổ vòng tay ôm chặt ái thê, mãi một hồi lâu sau mới

buông ra, kích động:

- Thật là lo đến chết ta mất! Hôm đó không ngờ lại trúng phải mai phục của tên

cẩu quan Dương Lăng, ngay đến chỗ giấu ngựa cũng đã bị mai phục sẵn, ta liền biết

ngay là không hay. Sợ y đã sớm tra rõ gốc gác của ta với nàng, ắt căn nhà lớn trong

kinh cũng có phục binh nên ta chỉ đành dẫn theo mấy huynh đệ bị thương bỏ trốn.

Sau đó ta phái người vào kinh nghe ngóng tin tức của nàng, lại nghe nói nàng

đã bắt được Dương Lăng, dùng hắn làm con tin để trốn ra ngoài thành, tới lúc ấy ta

mới yên tâm. Nàng không trở về đại trại tránh mặt một thời gian, còn giả trang

thành bộ dạng quái quỷ này rồi chạy đến Đại Đồng làm gì? Huynh đệ đưa thư cũng

không nói rõ.

Khi mới nhìn thấy trượng phu, Thôi Oanh Nhi cũng hết sức xúc động, nhưng

lúc này đã dần bình tĩnh trở lại. Nghĩ đến việc trượng phu hám lợi khiến đầu óc lú

lẫn, không nghe theo lời khuyên của mình mà lại theo lời xúi bẩy của Lưu lão đạo

tiến đánh Cao Lão Trang, khiến tổn thất hai trăm huynh đệ thân tín; nàng không kìm

được trừng mắt nhìn hắn một cái, sắc mặt cũng lạnh hẳn đi.

Nàng ngoảnh đầu qua nhìn thấy ông lão ăn mặc theo lối người hầu ở bên cạnh

đang cười híp mắt nhìn mình, vội bước tới thấp giọng thưa:- Ngũ thúc!

Đại trại mà Dương Hổ vừa nhắc tới chính là trại của nhà họ Thôi. Phụ thân của

Thôi Oanh Nhi cùng một đám huynh đệ năm xưa tung hoành chốn núi rừng, là một

nhân vật cực kỳ hiển hách trong giới lục lâm phương Bắc. Đến khi về già không

muốn tiếp tục phiêu bạt nữa, lại chỉ có một mụn con gái, lão liền giao cho thủ hạ

thân tín nắm lấy mười mấy tòa sơn trại tự lập môn hộ. Còn bản thân lão và một đám

huynh đệ lui về ẩn cư tại Bàn Long lĩnh trong rừng sâu, sinh sống dựa vào của cải

tích lũy được trong thời trẻ và việc tự trồng trọt cây thuốc, lương thực trong núi để

dưỡng già.

Ngũ thúc mà Thôi Oanh Nhi vừa chào hỏi là người của đại trại nhà họ Thôi,

hơn nữa còn là huynh đệ kết nghĩa với Thôi lão đại, tinh thông Ưng trảo công. Lão

đã trông nom Thôi Oanh Nhi từ nhỏ đến lớn, coi như là người ruột thịt.

Lão khẽ vỗ vai Thôi Oanh Nhi, cười nói:

- Đừng đau lòng! Ngũ thúc đã nghe kể cả rồi, cháu có thể gây nên việc kinh

thiên động địa như thế là giỏi lắm! Tất cả các thúc thúc bá bá ở sơn trại đều đã biết

hết cả rồi, tất cả đều cảm thấy vinh dự lây.

Dương Hổ bị Thôi Oanh Nhi mỉa mai quen rồi nên cũng không cảm thấy tức

giận, gã vẫn nôn nóng:

- Nương tử! Nàng đã trốn được khỏi kinh thành, tại sao không tiện tay giết luôn

tên Dương Lăng đó mà còn thả cho y quay về. Ta nghe chuyện cảm thấy rất khó

hiểu, việc gì phải nói đạo nghĩa với đám quan binh đó chứ?

Thôi Oanh Nhi lạnh lùng liếc mắt nhìn gã, không đáp mà hỏi ngược lại:

- Ta gọi chàng đến Đại Đồng, chàng lại tìm cả ngũ thúc đến làm gì? Người của

sơn trại nhà họ Thôi đã lui khỏi giang hồ, gân cốt không còn được như hồi trẻ, ngũ

thúc tuổi tác đã cao, chàng còn muốn để thúc ấy phải cùng bôn ba nữa hay sao?

Dương Hổ cứng họng, ngũ thúc vội cười giàn hòa:- Xem hai đứa các cháu kìa, vừa gặp mặt đã cãi nhau rồi! Chuyện này không

trách Dương Hổ được! Các cháu gây náo loạn ở kinh sư như thế, quan binh vùng Bá

Châu liền trở nên điên cuồng hơn, rất nhiều sơn trại đã bị nhổ bật cả gốc rễ. Nếu

không phải đại trại của chúng ta ở sâu trong rừng, e rằng cũng khó tránh khỏi bị ảnh

hưởng.

Cháu Hổ thoáng cái đã tổn thất hai trăm trợ thủ đắc lực nhất, còn phải di

chuyển sơn trại, chỗ nào cũng cần dùng người, nghe cháu truyền tin kêu y nhanh

đến Đại Đồng, y không thể tìm được trợ thủ đắc lực nữa. Hoắc lão đại thương con

rể, lại lo cháu sẽ xảy ra chuyện gì, ta bèn xung phong đi theo...

Lão nói đến đây, đột nhiên bước nhanh đến bên cửa mở toát cánh cửa ra. Gã

tiểu nhị vừa rón ra rón rén bước đến ngoài cửa sợ đến giật nảy mình, chậu nước trên

tay thiếu chút nữa thì đổ cả ra đất. Gã vội cười nịnh:

- Á! Lão gia tử mở cửa thế này thực khiến tiểu nhân sợ quá. Ông chủ đến rồi,

ngài đi đường vất vả nên tiểu nhân đưa nước đến đây.

Bên trong chợt có một giọng nữ chói tai vang lên:

- Chớ có làm bộ hồ đồ nữa! Nói là chỉ đến muộn ba ngày, tại sao tận bảy, tám

ngày mới đến? Nói mau, chàng bị con hồ ly tinh nào mê hoặc rồi? Còn cả ngươi

nữa, đừng có giấu giếm giúp y, nếu để lão nương biết ngươi lừa lão nương, chốc

nữa ta sẽ đánh gãy cái cẳng chó của ngươi!

Thoáng liếc mắt nhìn vào bên trong, tiểu nhị thấy vị phu nhân mặc áo bông màu

đỏ trông rất thô lỗ đó đang một tay xách tai vị đại hán thân cao bảy thước kia, một

tay chỉ về phía một gã người làm đang cười nịnh không ngừng vâng vâng dạ dạ ở

trước mặt. Cái miệng to như chậu máu của bà ta đang giận dữ mắng mỏ không

ngừng.

Ngũ thúc cải trang thành vị tiên sinh trông nom sổ sách ho khan hai tiếng, nháy

mắt ra hiệu với tên tiểu nhị, bảo:

- Khi cần nước thì tự nhiên chúng ta sẽ gọi ngươi, hãy đi xuống trước đi! Lãogia và phu nhân đang bàn chuyện làm ăn.

Gã tiểu nhị cố nhịn cười, vội vâng một tiếng rồi hấp tấp bưng chậu nước rời đi.

Ngũ thúc đợi gã đi khuất qua chỗ rẽ mới khép cửa phòng lại, ghé sát tai vào cửa

nghe ngóng thêm một lúc rồi mới đưa tay ra hiệu cho Dương Hổ và Hồng Nương

Tử, thấp giọng bảo:

- Trong khách điếm đông người, phức tạp. Đi! Vào phòng trong nói chuyện, hai

người các ngươi canh gác bên ngoài!

Hồ Đại Chùy và Hắc Diêu Tử gật gật đầu, đi đến đứng cạnh cửa với vẻ đầy

cảnh giác; Dương Hổ, Thôi Oanh Nhi và đám người ngũ thúc đều đi vào phòng

trong. Hồng Nương Tử bắt đầu kể lại việc Lưu lão đạo và Thúy Nhi là người của Di

Lặc giáo, cố tình xúi bẩy Dương Hổ vào kinh ám sát Hoàng đế, sau đó lại nghe nói

Hoàng đế muốn đến Đại Đồng tuần tra, vì sợ đả thảo kinh xà nên lại bán đứng nàng.

Hai tin tức này chẳng khác gì tiếng sấm nổ giữa trời quang. Dương Hổ trợn mắt

há mồm, ngẩn người suốt một hồi lâu mới hầm hầm đứng dậy, nghiến răng nghiến

lợi đau đớn tột cùng:

- Di Lặc giáo! Di Lặc giáo! Đám trời đánh này, ta không ngờ lại bị bọn chúng

lợi dụng! Ôi! Hai trăm huynh đệ tốt cùng vào sinh ra tử với ta!

Hắn đấm mạnh một cái vào cây cột trong phòng, sắc mặt tái xanh, da thịt trên

mặt co giật liên hồi.

Mấy vị huynh đệ vừa từ sơn trại tới đây đến lúc này mới biết rõ nội tình, cũng

đều căm hận nghiến răng ken két. Căn phòng nhất thời trở nên tĩnh lặng, mãi một

lâu sau, một vị huynh đệ đột nhiên biến sắc thốt lên:

- Lưu tiên... Lưu lão đạo đó là người của Di Lặc giáo ư? Chó chết thật! Vậy...

Vậy lão nói Hổ ca là Tử Vi chuyển thế, có tướng đế vương gì gì đó cũng đều là

những lời giả dối hay sao?

Mấy người bên cạnh nghe thế đều biến sắc, đưa mắt nhìn nhau hồi lâu. DươngHổ thầm kinh sợ trong lòng, tới lúc này gã mới nghĩ đến tính nghiêm trọng của vấn

đề. Người vô tâm nói ra điều yếu hại này tên là Phùng Phúc Chí, cũng là một huynh

đệ tốt một lòng một dạ đi theo Dương Hổ. Thấy sắc mặt mọi người khó coi như thế

hắn không khỏi ngượng ngập vô cùng, không nói ra được lời nào nữa.

Dương Hổ hơi tức giận nhưng không tiện phát tác; rốt cuộc vẫn là ngũ thúc già

đời thành tinh, lão vội nói:

- Giang sơn đều là do con người đánh chiếm được cả, có ai nghe nói Hoàng đế

được vận mệnh định sẵn thì không cần phải tự mình đi đánh thiên hạ mà có thể ngồi

hưởng giang sơn đâu? Trừ phi đó là Thái tử của Hoàng đế đương vị.

Cả Tống Thái Tổ, Chu Hồng Võ đều cùng các vị hảo huynh đệ của mình kề vai

sát cánh đánh lấy giang sơn vạn dặm; cái gì mà sớm có tướng đế vương, chẳng phải

là việc thành rồi mới có kẻ bịa đặt ra hay sao? Chúng ta đều là hạng cường đạo mã

tặc, sớm đã giắt cái đầu bên thắt lưng quần rồi, chẳng ai là hạng đớn hèn. Liều một

phen vị tất đã không thể chiếm được giang sơn!

Được rồi, chúng ta cứ nên thương nghị kỹ càng trước đã. Vừa nãy Oanh Nhi đã

nói rồi, Di Lặc giáo cũng muốn tạo phản, có câu loạn thế xuất anh hùng, phải xem

ai mới là kẻ mạnh. Nay không phải Dương Lăng đã dẫn quân vào thành rồi sao?

Theo lời Oanh Nhi, gã Hoàng đế Chính Đức đó hẳn cũng ở trong quân rồi. Chúng ta

cứ nên nghĩ xem làm sao mới có thể báo thù cho các huynh đệ đã chết, nghĩ xem

làm thế nào mới có thể giết được Chính Đức trước đã!

Dương Hổ thầm cảm kích trong lòng, vội vàng tiếp lời:

- Ngũ thúc nói đúng lắm! Xem ra Di Lặc giáo cũng đã tới đây rồi, chúng ta nên

chú ý tới những hoạt động của Dương Lăng hơn nữa. Di Lặc giáo có thể xua lang

đấu hổ, hảo hán lục lâm chúng ta há lại không hiểu trò này hay sao? Hiếm khi

Hoàng đế ra khỏi kinh thành, chúng ta nên nhân lúc biến loạn mà thủ lợi, tìm cơ hội

giết chết hắn!

Hồng Nương Tử phản đối:- Ta không đồng ý. Trên đường tới Đại Đồng nạn dân nhiều vô số, ta đã nghĩ kỹ

rồi. Di Lặc giáo nấp ở chỗ tối, còn chúng ta đang ở ngoài sáng, quan binh đang bao

vây tiêu diệt sơn trại chúng ta. Nếu Hoàng đế xảy ra chuyện gì ở đây, món nợ này ắt

sẽ bị tính lên đầu chúng ta. Đến lúc đó cho dù là triều đình dốc hết binh lực cả nước

đi đối phó với chúng ta, quyết tâm trảm thảo trừ căn thì hãy còn là nhẹ.

Nàng liếc nhìn mọi người lúc này đã biến sắc, nói tiếp:

- Hơn nữa... Giặc Thát đang đại chiến ngoài quan ải, chúng ta khởi sự là vì

thay trời hành đạo, nếu lúc này Hoàng đế mất mạng, giặc Thát nhân loạn xâm nhập

vào quan ải thì phải làm sao? Dân nghèo Bá Châu chúng ta sẽ là người gặp nạn đầu

tiên, hơn nữa...

Cặp mắt nàng trở nên mông lung, hồi lâu sau mới rầu rĩ nói tiếp:

- Chúng ta có thể thật sự đánh chiếm được thiên hạ sao? Nếu chiếm được,

chúng ta có thể trị vì thiên hạ sao? Chúng ta vốn cho rằng chỉ cần cướp của nhà

giàu, không ép dân nộp thuế, không ép dân nuôi ngựa là được, nhưng đó là vì chúng

ta là người ngoài cuộc, không đi chợ chẳng biết gạo, dầu, mắm, muối đắt tiền. Nếu

thật sự đánh được thiên hạ rồi, liệu có thể không làm như vậy được không?

Mọi người đều kinh ngạc nhìn nàng, không hiểu tại sao nàng lại nói đến luận

điểm này. Dương Hổ hậm hực lên tiếng:

- Nếu theo lời nàng nói, hai trăm huynh đệ của ta phải chết một cách vô ích

sao? Mối thù này chẳng lẽ không báo nữa sao?

Hồng Nương Tử cắn chặt bờ môi, thấp giọng:

- Chúng ta đi giết người ta, chẳng lẽ lại bảo người ta vươn cổ ta cho chúng ta

chém sao? Chúng ta cảm thấy cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo là thay trời

hành đạo, nhưng quan phủ bắt giặc há lại không phải là đúng lẽ hay sao? Mà huống

chi, y cũng chỉ vì tự bảo vệ bản thân mà thôi.

Oan có đầu, nợ có chủ! Nếu không phải Lưu lão đạo nói dóc cái gì mà thiêntượng sinh biến, đế tinh sắp tàn, chúng ta cũng sẽ không dẫn người lên kinh. Ta

hận! Hận mình đã để cho Di Lặc giáo lợi dụng. Nhưng Di Lặc giáo ẩn trong bóng

tối, tổng đàn ở đâu chúng ta không biết, giáo chủ ở đâu chúng ta không biết, muốn

báo thù cũng chẳng biết bắt đầu từ đâu.

Nàng thoáng quắc mắt, gằn giọng:

- Chúng ta chỉ có mấy người thế này, có thể giết được Hoàng đế giữa thiên quân

vạn mã sao? Huống chi Di Lặc giáo cũng muốn giết Hoàng đế. Bọn chúng căn cơ

thâm sâu nên ắt đã sớm có chuẩn bị, Hoàng đế vừa chết, bọn chúng nhất định đã có

kế hoạch chu toàn để mưu đoạt thiên hạ rồi.

Thế lực của chúng ta bị quan phủ đánh phá, tổn thất quá lớn, rất khó tranh hùng

với bọn chúng. Nếu chúng ta giết chết Hoàng đế há chẳng phải là giúp đỡ cho bọn

chúng hay sao? Di Lặc giáo và chúng ta có mối thù sâu như biển, bọn chúng muốn

làm gì, ta quyết không để chúng thành công. Ta muốn đợi khi Di Lặc giáo ra tay sẽ

ngầm động chân động tay một chút, chứng thực chuyện này là do Di Lặc giáo làm,

dẫn ngọn lửa này lên đầu Di Lặc giáo.

Dương Hổ vừa giận dữ vừa buồn bực. Hắn cho rằng cái đám yêu đạo suốt ngày

giả thần giả quỷ mê hoặc ngu dân kia thì có gì là ghê gớm. Mã tặc ở Bá Châu đi qua

nơi nào, ngay đến quan binh vệ sở cũng đều nghe gió mà sợ hãi, huống chi là một

đám dân chúng chỉ biết cầm cuốc cầm cày, dựa vào bọn họ mà có thể giành được

thiên hạ hay sao?

Trong lòng hắn luôn cho rằng triều đình hiện nay mới là chướng ngại vật lớn

nhất ngăn cản mình hoàn thành đại sự. Giết chết Hoàng đế, triều đình Đại Minh ắt

sẽ như rắn mất đầu, phiên vương có dã tâm ở các nơi nhất định sẽ nổi lên tranh

đoạt, cho dù Di Lặc giáo có thừa cơ khởi sự, hắn vẫn cảm thấy mình chiếm nhiều

phần thắng hơn.

Hiện nay thê tử lại nói ra những lời nhụt chí như vậy ở trước mặt tâm phúc của

mình, còn muốn bảo vệ Hoàng đế, mượn sức của quan binh để đối phó với Di Lặc

giáo, đúng là thiển cận hết sức! Phụ nữ mà căm hận một người nào, chẳng lẽ đều trở

nên bất chấp lý lẽ như vậy hay sao?Dương Hổ không kìm được, gắt gỏng:

- Đúng là kiến thức đàn bà! Bị bọn chúng lợi dụng thì sao chứ? Cho dù không

có chúng, sớm muộn chúng ta cũng phải đối phó với triều đình. Nay bọn chúng

đang có ý đồ ám sát Chính Đức, vừa hay chúng ta có thể thừa nước đục thả câu.

Đây là cơ hội ngàn năm có một, sao lại có thể bỏ lỡ?

Hồng Nương Tử đứng dậy giận dữ đáp:

- Kiến thức đàn bà thì sao nào? Ngươi có kiến thức sao lại bị người ta lợi dụng?

Ngươi đã đọc được mấy quyển sách rồi? Ta cảm thấy dự định ban đầu của chúng ta

thực quá nông cạn. Đánh đánh giết giết chúng ta còn làm được, nhưng những đạo lý

lớn đó ta không hiểu, chẳng lẽ ngươi hiểu được sao?

Dương Hổ cũng đã nổi giận, lập tức phản bác:

- Cái lý lẽ gì như thế chứ? Sao lại đột nhiên nói đến chuyện đọc sách rồi?

Chẳng lẽ những đạo lý lớn này của nàng là gã thày đồ dạy học nào nói cho nàng

biết hay sao?

- Ta... - Hồng Nương Tử nhất thời cứng họng, hậm hực giậm chân, - Thứ khác

ta không biết. Ta chỉ biết Di Lặc giáo là kẻ thù của chúng ta, bọn chúng muốn giết

Hoàng đế, ta muốn lợi dụng Hoàng đế để giết bọn chúng. Ta chỉ biết nếu ngươi thừa

cơ ra tay, các huynh đệ trên sơn trại, còn cả cha mẹ vợ con của bọn họ nữa, toàn bộ

đều sẽ vì ngươi mà không còn chỗ nương thân. Ngược lại bọn Di Lặc giáo sẽ được

lợi vô cùng, ta không nuốt cái cục tức này xuống được.

Ngũ thúc thấy hai người lại sắp cãi nhau, vội vã can:

- Hôm nay Dương Lăng vừa tới Đại Đồng, chắc sẽ không rời đi ngay. Bất kể

chúng ta có động thủ hay không thì cũng đều không gấp, đợi sau khi chúng ta thăm

dò rõ nội tình của bọn chúng rồi hãy bàn bạc tiếp cũng không muộn. Hai vợ chồng

các cháu trải qua cửu tử nhất sinh, vừa mới gặp mặt nhau, đừng nên làm tổn thương

tình cảm thêm nữa!Nói xong lão bèn khẽ nhếch mép ra hiệu cho Dương Hổ, nói tiếp:

- Chúng ta đi vội đến đây, còn chưa được ăn no. Đi nào, chúng ta mau tắm rửa

một chút rồi đi ăn vài miếng, uống vài chén cái đã!

Hồng Nương Tử hừ mạnh một tiếng, xoay người ngồi phịch xuống giường,

giận dỗi ngoảnh đầu đi hướng khác không nói gì.

Dương Hổ bị ngũ thúc kéo ra ngoài, mấy huynh đệ khác thấy tình hình không

hay, liền cũng đi theo sau. Phùng Phúc Chí thấp giọng nói với một huynh đệ bên

cạnh:

- Ta thấy lời của đại tẩu có lý lắm, hơn nữa... sơn môn đã bị hủy rồi, có một số

sơn trại đã bắt đầu hoài nghi việc đại ca là chân mệnh thiên tử, nếu Lưu lão đạo là

người của Di Lặc...

- Suỵt...

Một người khác nhận biết vợ chồng Dương Hổ đều đang kìm nén một bụng đầy

lửa giận, nên vội vàng giựt vạt áo gã, Phùng Phúc Chí lập tức ngậm miệng. Có điều

tai Dương Lăng rất thính nên hắn đã nghe rõ những lời của hai người bọn họ. Đang

trong cơn tức giận nên vừa nghe thấy những lời xúi quẩy này hắn liền chỉ hận

không thể quay lại tát cho gã Phùng Phúc Chí kia một cái.

Dương Hổ cố nén giận đi về phía trước. Ngẫm nghĩ đến lời của Phùng Phúc

Chí, bất giác hắn thầm kinh hoảng. Huynh đệ trên sơn trại của mình tất nhiên không

có gì để nói, nhất định đáng tin, nhưng hai năm nay chiêu binh mãi mã, thế lực

khuếch trương rất nhanh. Các sơn trại mình thu phục được có một phần là sợ hãi

trước vũ lực của mình, một phần là vì tin lời đồn mình là chân mệnh thiên tử, nếu

tin tức này mà lộ ra ngoài...

Nếu ngầm dặn dò mấy huynh đệ giấu giếm chuyện này đi, vậy chẳng rõ ràng là

mình đang lừa gạt người khác, mà ngay đến cả mình cũng hoài nghi mệnh tướng

của mình ư? Giới lục lâm có ai không biết Dương Hổ là một trang hào kiệt quang

minh lỗi lạc, những lời này phải nói với bọn họ thế nào đây chứ?Dương Hổ vừa đi vừa cúi đầu thầm nghĩ cách giải quyết chuyện này. Đột nhiên,

một ý nghĩ tà ác lướt qua trong đầu hắn, khiến bản thân hắn cũng phải thầm kinh sợ.

Hắn vội vã ngẩng đầu lên, hoàn toàn không dám suy nghĩ tiếp nữa.

* * *

Vừa sáng sớm Dương Lăng và Trương Vĩnh đã dẫn theo hai trăm tùy tùng đến

phủ Đại vương bái kiến. Chính Đức trà trộn trong đám thị vệ nên ung dung đắc chí

vô cùng. Trước đây đi đâu hắn cũng là nhân vật chính, mỗi hành vi cử chỉ đều phải

chú ý đến phong thái của bậc đế vương, nay thì hoàn toàn không bị câu thúc gì.

Nhìn những căn nhà thấp bé bên đường, nhìn những sỹ tốt nhàn tản đi qua, nhìn

những tiểu thương nhân dịp năm mới gánh hàng, đẩy xe rao bán trên đường, Chính

Đức cảm thấy hết sức mới mẻ.

Dù đường đường là bậc cửu ngũ chí tôn, chủ nhân của thiên hạ, nhưng ở lẫn

trong đám thị vệ này, Chính Đức cũng chẳng khác gì một thị vệ bình thường cả.

Nhìn từ bên ngoài, liếc sơ qua vị tất có ai nhận ra được hắn có gì khác thường.

Phủ Đại vương tọa lạc trên Đông Đại Nhai, tổng cộng có bốn cửa, cửa phía

đông là Đông Hoa Môn, phía tây là Tây Hoa Môn, phía bắc là Hậu Tể Môn, phía

nam gọi là Đoan Lễ Môn. Đoan Lễ Môn là cửa chính của vương phủ, bốn phía xung

quanh đều được bao quanh bởi tường cao vững chắc khiến nó trở thành một khu

vực độc lập hoàn toàn cách biệt với bên ngoài, trăm họ đều gọi nó là "Hoàng

Thành".

Phía trước Đoan Lễ Môn có một bức bình phong lớn dài hơn mười trượng, cao

gần ba trượng, xây bởi các loại gạch lưu li màu lam khổng tước, lục, vàng sậm,

vàng, vàng nhạt. Bên trên là bức bích họa có hình chín con rồng lưu ly vô cùng đẹp

mắt.

Phần bên dưới bức bích họa là sóng nước màu xanh biếc cuộn trào dữ dội, phần

bên trên là mây mù màu xanh lam và mây lành màu vàng. Những con rồng lớn

được ngăn cách và nối liền với nhau bởi mây mù, mây lành, sóng nước, vách núi,

cây cỏ; màu sắc rực rỡ, hết sức tráng lệ.Bức bình phong chín rồng này so với bức bình phong ở Hoàng cung trong kinh

thành còn lớn hơn nhiều. Hoàng tử thứ mười ba Chu Quế và Yên vương Chu Đệ

đều do cùng một mẹ sinh ra, quan hệ rất tốt, thêm nữa vương phi của cả hai lại đều

là con gái của Từ Đạt, do đó lại càng thân thiết hơn. Năm xưa vua Kiến Văn muốn

tước quyền của các phiên vương đã chọn Đại vương để ra tay đầu tiên, đem bắt nhốt

ông ta lại, khi Yên vương tạo phản thành công liền thả ông ta ra.

Về sau Đại vương phi tính cách ngổ ngáo vào kinh nhìn thấy bức bình phong

trong kinh, đến khi trở về liền nhất quyết bắt Đại vương phải xây một bức bình

phong lớn hơn bức ở kinh thành. Đại vương sợ vợ liền vội vàng đồng ý, kết quả là

có bức bình phong chín rồng này.

Dương Lăng và Trương Vĩnh đưa thiếp bái phỏng, chẳng mấy chốc tổng quản

vương phủ đã dẫn theo hai tiểu thái giám từ bên trong đi ra. Dương Lăng và Trương

Vĩnh vội vàng xuống ngựa, tổng quản vương phủ mặt mày niềm nở cười nói:

- Vương gia nghe nói hai vị Khâm sai đại nhân đến đây nên hết sức mừng rỡ,

lệnh cho nô tì ra ngoài nghênh đón. Hai vị đại nhân, xin mời!

Dương Lăng và Trương Vĩnh vội mỉm cười đáp lời, mỗi người dẫn theo tám thị

vệ theo sau viên tổng quản đi vào Đại vương phủ. Bọn họ đi qua Thừa Vận Môn,

Thừa Vận Điện, Sùng Tín Môn, Tồn Tâm Điện, lại rẽ về phía tây thì tới Ngân An

Điện, đây là điện chính của phủ Đại vương.

Trên mặt đất, những viên gạch xanh mài nước đều rất vuông vức chỉnh tề, bằng

phẳng hệt như mặt gương. Đại vương mặc áo mãng long bào tươi cười bước ra đón,

lão đã hơn năm mươi tuổi, mặt trắng ít râu, dáng người béo lùn, thoạt nhìn có vẻ rất

ôn hòa nhã nhặn.

Tuy rằng hai người là Khâm sai, nhưng Đại vương thuộc dòng hoàng tộc, vốn

lão chẳng cần khách sáo như vậy. Có điều hai người này lại là đại thần hiện đang

được Hoàng thượng tin tưởng nhất, Đại vương đời này là người đằm tính, lão không

muốn chọc giận bọn họ.

Đại Đồng tuy trở nên tiêu điều hơn bình thường rất nhiều vì mùa đông và chiếntranh, nhưng cảnh tượng trong phủ Đại vương lại hoàn toàn khác. Từng điện, từng

sảnh, từng viên gạch, từng cây cột, từng cành hoa, từng ngọn cỏ đều có sự độc đáo

riêng. Ngân An Điện được sơn màu đỏ và quét vôi màu trắng, rường cột chạm trổ,

thực là vàng son lộng lẫy, hào hoa tôn quý đến cực điểm.

Hai người là Khâm sai nên trước tiên vương gia dùng lễ thần tử khấu bái để vấn

an Hoàng thượng, hai người hiên ngang đứng nhận lễ thay Chính Đức, sau đó lại

khấu bái Đại vương. Hai bên khách sáo chào hỏi nhau một phen rồi mới lần lượt

ngồi xuống.

Hàn huyên hồi lâu, Đại vương hỏi:

- Hoàng thượng phái hai vị đại nhân đến Đại Đồng úy lạo quân đội và tuần tra

việc chiến sự ở biên quan, không biết lúc nào thì hai vị gọi Dương Nhất Thanh về

thành?

Dương Lăng khom người đáp:

- Bẩm vương gia! Hạ quan nghe nói chiến sự ở tiền phương đang vào hồi cam

go, Dương tổng chế thân là chủ soái, không thể tùy tiện rời khỏi chiến trường. Do

đó, hạ quan định ngày mai sẽ cùng Trương công công cùng đến bảo Trấn Khương

thăm Dương đại nhân, đồng thời thị sát việc phòng ngự ở đó.

Đại vương khẽ cười hà hà, cặp mắt nheo lại thành một đường thẳng, không

ngừng gật đầu bảo:

- Rất tốt, rất tốt! Năm nay giặc Thát tập hợp quân lực hùng hậu, bản vương quả

thực lo lắng vô cùng, may mà Hoàng thượng phái tới đây một viên tướng tài như

Dương Nhất Thanh, đánh trận rất giỏi, cần khen thưởng thật hậu mới được.

Lão nâng chén trà lên, khẽ nhấp một ngụm rồi mỉm cười nói tiếp:

- Tuy gặp lúc chiến tranh, nhưng bản vương muốn nạp trắc phi, Hoàng thượng

cũng đã đồng ý rồi, chuyện này không thể chậm trễ thêm. Năm ngày sau bản vương

sẽ nạp trắc phi, đến lúc đó hai vị Khâm sai đại nhân nhất định phải đến vương phủuống chén rượu mừng đấy nhé!

Nếu vương gia nạp một người thiếp bình thường thì không cần bẩm rõ với

Hoàng đế. Nhưng trắc phi cũng là vương phi, nhất định ông ta phải xin Hoàng

thượng ban thánh chỉ xuống, cho ghi vào tộc phổ của hoàng thất mới được. Vị

vương gia này tuổi đã trạc ngũ tuần, vậy mà vẫn bỏ công làm lớn chuyện như vậy

để nạp một vị có danh phận phi tử qua cửa, xem ra là rất yêu mến vị cô nương đó.

Vừa thấy Đại vương bưng chén trà lên, Dương Lăng và Trương Vĩnh đều đã

đứng dậy, nghe xong lời mời liền không khỏi đưa mắt nhìn nhau cười khẽ, nhất tề

khom người thưa:

- Thì ra vương gia còn có chuyện vui như vậy. Chúc mừng! Chúc mừng! Năm

ngày sau hạ quan nhất định sẽ đến tham gia. Vương gia bận rộn sự vụ, bọn hạ quan

không dám làm phiền thêm, xin được cáo từ!

Chú thích:

(1) nguyên văn "Quan phổ nhi" (官 儿), "phổ nhi" nghĩa là tiêu chuẩn hoặc

quy củ, trỏ những nghi lễ rườm rà chốn quan trường, nay thường dùng để châm

biếm các buổi họp, lễ rườm rà và tốn kém của quan chức Trung Quốc.

(2) chỉ nam sủng vị thành niên, đối tượng tình dục cho những kẻ thích trẻ em

nam (vừa ấu dâm vừa đồng tính luyến ái).NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 189: Vua Lên Biên Ải

Đội nghi trượng của Khâm sai chậm rãi đi về phía dịch quán, dân chúng trong

thành đã quen với các đội quân lớn nên chẳng để tâm lắm tới đám chỉ hơn hai trăm

quan binh này, vẫn tiếp tục bận rộn cùng hưởng thụ cuộc sống của bản thân.

Yêu cầu của những người dân sống tại tầng đáy của xã hội không hề cao, chỉ

cần giặc Thát tránh xa đi một chút, gió nhẹ đi một chút, ánh mặt trời ấm áp hơn một

chút, đó đã là những chuyện đáng để bọn họ cảm thấy may mắn và vui mừng rồi.

Tại Đại Đồng có hơn trăm ngôi chùa chiền, am ni cô hay đạo quán, có thể thấy

khắp nơi trong thành là tòa viện liền kề, am miếu san sát, hương khói vờn quanh,

tiếng tụng kinh vang lên không ngớt, khiến nơi sát phạt này vẫn là một thắng địa

của Phật giáo.

Theo lệ thường, khoảng đất trống phía trước các chùa chiền, đạo quán là nơi tập

trung của các quầy hàng. Bởi vì Đại Đồng là con đường huyết mạch từ Mông Cổ

thông đến Tấn Ký Lỗ Dự (Tên gọi tắt của 4 tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc, Sơn Đông và Hà

Nam – ND), nên tuy hai bên chém giết không ngừng nhưng phần lớn chủng loại

hàng hóa được bày bán trong chợ vẫn là da lông, thuốc men, vật dụng cho ngựa của

người Mông Cổ.

Trong chợ cũng có rất nhiều người Mông Cổ nhưng không người Hán nào có

thái độ thù địch với bọn họ. Hai bên ở gần nhau như thế, có rất nhiều người Mông

Cổ không thể sống tiếp ở quê mình nữa đã lén chạy tới địa phận của người Hán làm

nhân công lao dịch, buôn bán. Một số gia đình người Hán giàu sang còn có thêm

một nhóm võ sỹ Mông Cổ vừa trung thành vừa dũng mãnh. Những người này đã

nhiều năm sinh sống ở đây, tình cảm đối với người Hán còn sâu sắc hơn đối với bộ

tộc mình.Hơn nữa thời đó còn chưa có phương thức truyền tin nhanh nên căn bản gian tế

chẳng có bao nhiêu tác dụng. Dù thật sự nghe ngóng được tin tức tình báo nào đó

thì đợi đến khi gửi được về đến nơi thì cũng sớm đã mất đi tác dụng rồi, còn kém xa

một trinh sát được phái đi trên chiến trường. Do đó nha môn Tuần phủ cũng không

trông chừng bọn họ quá chặt, chỉ cần có người bảo lãnh, trên người không mang

theo vũ khí thì quyền tự do nhân thân của bọn họ cũng chẳng khác gì của người

Hán cả.

Phía trước một ngôi chùa đang có một gánh hát đang biểu diễn, tại ngã tư phía

trước lại có một đội xe ngựa rất dài đang vận chuyển lương thảo. Hoàng đế Chính

Đức đang ở trong quân, Dương Lăng không dám đi thẳng tới sợ trong lúc hỗn loạn

có kẻ thừa cơ hành thích Hoàng đế, nên y bèn hạ lệnh cho toàn quân dừng lại nghỉ

ngơi tại chỗ.

Thời đó hí khúc đã dần hình thành phong cách riêng biệt của từng vùng, nhưng

loại gánh hát nhỏ ở địa phương thế này tất nhiên chỉ hát mấy bài dân ca vùng quê,

hơn nữa phần lớn còn chứa những lời thô tục.

Năm Hồng Vũ thứ 22, Chu Nguyên Chương từng đích thân hạ lệnh phàm tướng

sỹ nào trong quân mà học những lời hát dâm ô sẽ bị cắt lưỡi; đáng tiếc có một số

chuyện dù là Hoàng đế hạ lệnh cũng vô dụng. Những năm trở lại đây, nếp sống dân

gian ngược lại còn càng ngày càng cởi mở hơn. Chính Đức ngồi trên lưng ngựa,

cùng một đám thị vệ ngoảnh đầu nhìn về phía gánh hát, xem với vẻ rất hứng thú.

Câu chuyện kể về một vị Tiết độ sứ thời Đường, trong tay có tới mấy chục vạn

quân, nhưng lại sợ vợ như sợ cọp, ngay một người thiếp cũng không dám nạp. Về

sau khó khăn lắm ông ta mới dụ dỗ được một tiểu nha hoàn xinh đẹp, nhưng vì quá

sợ vợ nên mãi chẳng dám bước nốt bước cuối cùng. Vị đại tướng quân oai phong

lẫm liệt đó đang đứng trên đài mặt mày sầu khổ hát:

- Gió nhẹ mây trong trời gần sáng, bà xã phạt ta quỳ trước giường. Hàng xóm

đâu tỏ tường nổi khổ, còn tưởng (ta) thanh nhàn hóa ẩm ương.

Chính Đức và đám thị vệ đều ôm bụng cười vang, vô cùng vui vẻ. Gánh hát

diễn tiếp đến đoạn Tiết độ sứ hẹn hò với tiểu nha hoàn ở hậu hoa viên, vừa gặp mặtliền vội vã nhào tới ôm ấp hôn hít cô nàng, rồi lại hát:

- Nha hoàn xinh đẹp, muốn giết ta ư, sao mãi lúc này nàng mới tới, mừng lắm

thay, quần áo y nguyên ngồi ôm ấp, toàn thân trên dưới nàng đều thật đẹp, dù không

thể chung giường ân ái, ta sờ chút thôi cũng đỡ thèm.

Khi hát đôi tay gã diễn viên còn không ngừng lên lên xuống xuống, bộ dạng hạ

lưu vô cùng.

Người dân dưới đài lớn tiếng khen hay, có vài người lấy ít tiền đồng vứt lên

trên đài. Gã diễn viên đóng vai tên lính quèn canh gác vội vàng cúi người xuống

nhặt, đồng thời còn nháy mắt với người xem dưới đài, độc thoại rằng:

- Tiểu nha hoàn chỉ được mẽ xinh đẹp, hơn mười lăm tuổi rồi còn chưa từng lên

đỉnh; phải biết là lão gia nhà ta sợ vợ, nếu không còn tưởng là thạch nữ(*) ở hậu

hoa viên. Hê hê hê, xấu hổ thay, chẳng biết thiếu nữ hoài xuân làm sao chịu được

cơn ngứa ngáy này!

(*): Phụ nữ bị dị tật bẫm sinh, có dị vật che chắn âm hộ;

Dưới đài lập tức vang lên vô số những tiếng huýt sáo, tiếng cười đùa, lại càng

có nhiều tiền đồng được vứt lên đài hơn. Những người dân vùng biên ải cả ngày

phải lăn lộn giữa sự sống và cái chết này quả biết hưởng thụ cuộc sống hơn người

Trung Nguyên.

Nghe thấy những lời dâm dật đó, Trương Vĩnh cảm thấy hơi không ổn bèn

ngoảnh đầu nhìn qua Chính Đức, thấy hắn đang nghe một cách say mê, nếu không

phải còn nhớ mình đang ở trong hàng ngũ, e cũng sớm đã lao đến dưới đài cùng

đám thảo dân kia hò hét không ngừng rồi. Lão hơi khó xử, nói với Dương Lăng:

- Đại nhân! Những lời hát này thực tục tĩu quá, để Hoàng thượng nghe thấy rất

không ổn! Ngài xem... có nên kêu người đuổi bọn họ đi không?

Dương Lăng ngoảnh đầu nhìn lại, y thấy Chính Đức đang mặt mày hớn hở,

không ngờ nghe đến chỗ thích chí còn quên cả địa vị mà đưa tay vỗ vai gã thị vệbên cạnh, tiếng cười vang lên không dứt. Trong lòng y đột nhiên cũng cảm thấy vui

vẻ, đưa mắt nhìn Chính Đức với vẻ cưng chiều, rồi ngoảnh đầu lại mỉm cười:

- Thôi, mấy điệu hát này tuy đúng thực là bất nhã, nhưng cũng chưa đến mức

dạy hư được người ta đâu.

Y thầm nghĩ: "Nhớ khi xưa mình còn xem av đạt đến cảnh giới tối cao, không

gì là không tỏ tường, vậy mà bây giờ cũng có bị dạy hư gì đâu. Những kẻ phạm tội

đó có người là nông dân chẳng hiểu gì về đồ điện tử hay máy móc, có kẻ là con ông

cháu cha tiền chất đầy nhà; đây hoàn toàn là vấn đề nhân phẩm mà thôi!

Cái gì mà xem phim heo nên bị biến chất, chẳng qua là mấy kẻ bị bắt lại kiếm

cớ nói càn mà thôi. Ngay đến mấy câu hát hơi phóng đãng này mà cũng không nghe

được thì tiểu Hoàng đế làm sao chịu nổi sự chinh phạt của ba ngàn giai lệ chốn Hậu

cung chứ?"

Trương Vĩnh nghe y nói như vậy bèn không nói gì thêm. Vì trích đoạn kịch này

chuyên diễn cho người đi dường xem nên không hề dài, chẳng mấy chốc đã diễn

đến đoạn thủ hạ của viên Tiết độ sứ đó hiến kế cho ôn ta giương cờ làm phản lại bà

xã, rồi lấy tiểu mỹ nhân kia về làm vợ. Đại tướng quân toàn thân giáp trụ, tay cầm

Thanh Long Yển Nguyệt đao, sát khí đằng đằng đi vào phòng trong, phía sau có

bốn gã tiểu tốt vào vai thiên quân vạn mã.

Bà vợ xấu xí của Tiết độ sứ ở trên giường tỉnh giấc, nhìn thấy bộ dạng đó của

trượng phu thì trừng mắt lên hỏi:

- Kêu chém kêu giết cái gì, ông muốn giết ai?

Viên Tiết độ sứ lập tức rùng mình, rồi quỳ ngay xuống trước giường cười nói:

- Chuyện này... Vi phu định giết gà cho nàng ăn.

Xem đến đây, Chính Đức liền cười nghiêng ngả, chảy cả nước mắt.

Đội xe ngựa chở lương thảo phía trước đã đi hết, đội quân của Dương Lăng tiếp

tục tiến lên, Chính Đức ngoái đầu nhìn lại phía sau vẻ không nỡ. Lúc đó, bà vợhung hãn kia đã biết rõ ý đồ của trượng phu khi mang đao tới phòng bèn nổi giận

đùng đùng. Đại tướng quân phải chạy ra khỏi phủ, nhảy lên lưng ngựa bỏ trốn, còn

hiềm ngựa chạy chậm nên vội rút cờ hiệu sau lưng ra quất lấy quất để vào lưng

ngựa. Bộ dạng thảm hại đó khiến Chính Đức không kìm được lại bật cười.

Thì ra cuộc sống của người dân lại thú vị như vậy, tuy vấn đề ăn mặc có hơi

kém một chút, nhưng thật là nhẹ nhàng thoải mái biết bao.

Chính Đức hệt như một đứa nhóc ở vùng quê nghèo khó vừa vào thành, nhìn

thấy cái gì cũng cảm thấy mới mẻ. Người ở đây nhìn thấy gã cũng không quỳ

xuống, còn gã thì không cần cả ngày căng mặt ra không nói lời nào, chú ý giữ gìn

sự uy nghi của thiên tử. Một cuộc sống như vậy chính là điều mà gã mong ước bấy

lâu.

Chính Đức hơi thúc ngựa, đi nhanh tới bên cạnh Dương Lăng, trên mặt vẫn còn

nét tươi cười, hào hứng cất tiếng:

- Dương... Dương đại soái! Cuộc sống của những người dân bình thường này

thật thú vị! Tuy có hơi khổ, nhưng bọn họ vẫn có thể tìm được rất nhiều niềm vui.

Dương Lăng gật đầu đáp:

- Đúng rồi, cho nên mới nói trăm họ là những người dễ đối đãi nhất. Nếu không

có thiên tai khiến bọn họ chịu cảnh đói rét, khó có thể sinh tồn; nếu không có đám

tham quan ô lại chèn ép bọn họ khiến bọn họ nhà tan cửa nát; thì chỉ cần có cơm ăn,

có nơi ở, được đối xử đàng hoàng tử tế một chút, trăm họ ắt sẽ là những người dân

tốt hết sức biết vâng lời.

Chính Đức cẩn thận ngẫm nghĩ về những lời này, trên đường trầm tư suốt một

hồi lâu, sau đó mới thúc ngựa đuổi theo Dương Lăng, nở nụ cười nhẹ, trịnh trọng

gật đầu nói với y:

- Ta hiểu rồi!

Đội nghi trượng đi qua cửa hàng da nhà họ Hàn. Dương Lăng ngoảnh đầu lạinhìn về phía đó một lần nữa, một thiếu niên đang đứng ở cửa nhìn thấy y liền không

kìm được hé miệng cười. Bộ dạng tinh nghịch đó khiến y thầm cảm thấy ấm áp, bất

giác nhớ đến người vợ yêu dấu Ấu Nương ở kinh sư.

Y thoáng gật đầu chào thật kín đáo với Hàn Mãn Thương rồi thúc chân vào

bụng ngựa, tăng tốc độ lên. Cửa hàng da họ Hàn vừa là nơi y an bài để cha con Hàn

Lâm kiếm sống vừa là tai mắt ngầm quan trọng nhất mà y sắp đặt ở Đại Đồng, quan

hệ giữa hai bên không thể để lộ. Trước mắt bao người, y không tiện đi gặp nhạc phụ

của mình.

Thêm vào đó lần này y xuất kinh với nhiệm vụ quan trọng. Trước khi đạt thành

hiệp nghị với Đóa Nhan Tam Vệ, thân phận của Hoàng đế Chính Đức và mục đích

thật sự của hắn khi tới đây càng để ít người biết tới thì càng tốt. Muốn đi gặp người

thân, xem ra chỉ có thể đành phải đợi đến sau khi gặp đại thủ lĩnh của Hoa Đáng

mới được.

***

Trong một căn phòng ở tầng hai của một ngôi tửu lầu bên đường, một gã trung

niên thân hình cao lớn mặc bộ quần áo da nghiêng đầu ra ngoài cửa sổ quan sát

đoàn quân Dương Lăng đi qua. Sau đó hắn quay trở lại ngồi xuống bàn, nhấp một

ngụm rượu, cau mày:

- Dương Lăng vâng chỉ tuần tra vùng biên cảnh, tuy lần này đội ngũ hơi lớn hơn

bình thường một chút, nhưng dù sao hắn cũng vừa bị bắt cóc ở kinh sư nên việc

phòng vệ nghiêm ngặt hơn cũng chẳng có gì là khó hiểu. Thật chẳng nhìn ra là

Hoàng đế đang ở đây!

Hắn nở một nụ cười khinh miệt, quắc cặp mắt sắc bén lên nhìn về phía đối diện:

- Hoàng đế của người Hán các ngươi giống như một bông hoa yếu ớt, giống

như một con chim lông vàng được nuôi trong lồng, chỉ có thể nấp trong Tử Cấm

Thành mà đưa hiệu lệnh. Chả được như Khả Hãn của bọn ta, đó là hùng ưng của đại

mạc, anh hùng trên thảo nguyên. Thông tin Giáo chủ của các ngươi vừa báo không

phải là giả đấy chứ?Đối diện hắn là một thương gia béo tròn trắng trẻo tuổi chừng hơn năm mươi,

trên người mặc một chiếc áo gấm dung tục, khuôn mặt nở một nụ cười đầy hòa khí,

cứ tựa như là phật Di Lặc.

Tên thương gia nghe thế liền cười hà hà:

- Khất Khắc Nông tướng quân! Di Lặc giáo thần thông quảng đại, đệ tử của bọn

ta có mặt ở khắp nơi, cho dù là tin tức của Hoàng đế cũng có thể thăm dò được.

Chính Đức nhất định đang ở trong quân của Dương Lăng, tuyệt đối không giả!

Ánh mắt của kẻ được gọi là Khất Khắc Nông quắc lên nhìn chằm chằm vào gã

hồi lâu, cuối cùng mới xoa tay bảo:

- Nhưng bọn hắn định gặp mặt Hoa Đáng ở đâu chứ? Lúc nào thì gặp mặt?

Chúng ta rốt cuộc có cơ hội nào để lợi dụng không? Bọn ta đã không thể đợi tiếp

nữa rồi.

Đại quân của Khả Hãn là những võ sỹ dũng mãnh nhất trên thảo nguyên, nhưng

bọn họ không phải là thần, cũng cần có thức ăn. Hiện nay lương thảo của bọn ta đã

dùng hết; không chỉ những con ngựa chết mà ngay đến những con ốm yếu hay bị

thương cũng đều bị giết để ăn thịt cả rồi. Cứ tiếp tục như thế này nữa thì bọn ta chỉ

có thể ăn thịt người thôi!

Gã Phật Di Lặc ngồi đối diện hoàn toàn chẳng hề quan tâm đến vẻ hung hăng

của đối phương. Híp đôi mắt mọng nước lại, từ trong hai cái khe hẹp dài kia lộ ra

những tia sáng rực, thân hình hơi ghé về phía trước, gã cười nhạt nói:

- Khất Khắc Nông tướng quân! Hãy nghĩ xem người các ngài muốn giết là ai?

Là Hoàng đế! Hoàng đế của Đại Minh! Cơ hội này còn không đáng để các ngài đợi

tiếp ư?

Hiện nay khác với thời Anh Tông ở Thổ Mộc Bảo; Anh Tông còn có anh em,

Chính Đức thì không có. Chính Đức mà chết, những kẻ nắm binh quyền được hắn

tin tưởng như Dương Lăng, Lưu Cẩn, Trương Vĩnh đều sẽ vì tội xúi giục Hoàng đế

tới biên cảnh mà bị xử tử hết. Lý Đông Dương, Tiêu Phương và Dương Đình Hòathân là Đại học sỹ, nhất định sẽ vì không làm tròn bổn phận, hộ chủ bất lực mà bị

bãi chức.

Người của bọn ta sẽ thừa cơ xúi giục khiến các phiên vương nổi dã tâm, triều

đình nhà Minh ắt sẽ đại loạn. Đến lúc đó bản giáo thuận theo ý trời, chọn lúc ấy mà

khởi binh, sẽ dễ dàng đoạt được thiên hạ. Khi đó... tất nhiên cần tới sự giúp đỡ của

thiết kỵ Thát Đát. Thử nghĩ mà xem, chúng ta sẽ giúp các vị thôn tính Đóa Nhan

Tam Vệ; vùng Liêu Đông cũng thuộc hết về Khả Hãn, còn cả các vùng Cam Túc,

Thanh Hải mà bọn ta đã đồng ý cắt nhượng nữa, những thứ này còn không đáng để

các vị đợi tiếp sao?

Gã mỉm cười dựa lưng vào chiếc ghế, ung dung nhấp một ngụm rượu, lại gắp

lấy một miếng thức ăn, nheo mắt nói tiếp:

- Người Hán bọn ta có câu "nhất tướng công thành vạn cốt khô". Để có một

viên danh tướng còn mất cả vạn tính mạng như thế, huống chi điều các vị muốn đạt

được còn lớn hơn nhiều, kiên nhẫn chờ thêm một quãng thời gian nữa thì có sao?!

Hoàng đế Đại Minh chuẩn bị gặp thủ lĩnh của Đóa Nhan Tam Vệ, loại hoạt

động ngoại giao lớn như thế thì bọn chúng có muốn giấu cũng khó. Nhất định bọn

ta sẽ thăm dò được những thông tin tiếp theo. Xin trở về hồi báo với Khả Hãn: bọn

chúng đã tới đây rồi, thời cơ cũng không còn xa nữa.

Khất Khắc Nông nghiến răng đáp:

- Được, Du hộ pháp, ta sẽ chuyển lời về. Các ngươi hãy giúp bọn ta thăm dò rõ

ràng xem xung quanh những thôn trang nào ở phía trước Đại Đồng không có phục

binh, trong thôn còn có trâu ngựa lương thực không. Bọn ta... bọn ta nhất định phải

phái dũng sỹ đi vòng qua đại quân nhà Minh, cướp lấy một ít lương thảo ở vùng

phụ cận mới được.

Du hộ pháp vui vẻ đáp:

- Điều này thì bọn ta có thể làm được. Việc phòng ngự ở phía Liêu Đông của

các vị cũng cần buông lòng hơn một chút, để các thủ lĩnh của Đóa Nhan Tam Vệ cóthể bình an đến đây. Ha ha ha! Hoàng đế Đại Minh và tướng quân thân tín nhất của

hắn, còn cả những thủ lĩnh bộ lạc có uy vọng nhất của Đóa Nhan Tam Vệ nữa. Khi

bọn chúng đột nhiên bị giết chết thì đó chính là lúc bọn ta hô mưa gọi gió rồi.

Khất Khắc Nông nghe xong những lời đầy mê hoặc ấy, trong mắt không khỏi

thoáng qua một nét hưng phấn và tham lam. Hắn uống một ngụm rượu lớn, đứng

dậy nói:

- Được! Có tin tức gì hãy lập tức thông báo cho bọn ta, còn cả chuyện lương

thảo cũng không thể chậm trễ! Để có thể vững chân tại đây, ngày mai bọn ta sẽ đại

chiến với quân Minh một trận nữa!

Hắn túm lấy chiếc mũ da chó đội lên đầu, hậm hực mắng:

- Tên Dương Nhất Thanh đáng chết, bọn ta lùi hắn liền cắn chặt không buông,

bọn ta đánh hắn liền rút vào trong thành, làm tiêu hao lương thực của bọn ta. Vương

Thủ Nhân thì lưu manh vô lại, chuyên chơi mấy trò xấu như dùng độc, đặt bẫy. Hừ!

Tướng quân người Hán các ngươi chẳng kẻ nào là hảo hán hết!

***

Ngày hôm sau, Dương Lăng và Trương Vĩnh dẫn binh ra ngoài thành, đến Trấn

Khương Bảo ủy lạo sỹ tốt.

Tiền phương đang có chiến tranh, Dương Lăng và Trương Vĩnh không dám để

Hoàng đế mạo hiểm nên lưu lại ba trăm thị vệ đại nội canh gác dịch quán. Y biết

Chính Đức hiếu động, e hắn không nhịn nổi mà lại chạy ra ngoài chơi bèn phái

người đi tìm luôn gánh hát nhỏ kia đến biểu diễn, hy vọng có thể giữ chân được vị

tiểu Hoàng đế này.

Đại quân bắt đầu tiến đi. Mặt đất hơi chấn động, tiếng vó ngựa vang lên như

sấm rền. Dân thường và binh sỹ đang tản mạn trên đường đều cố gắng tránh qua hai

bên, mấy ngàn kỵ binh ào ạt đi qua, khôi giáp sáng ngời, đao thương bóng loáng.

Dương Lăng thúc ngựa đi trên con đường lớn bằng phẳng trong thành, thânquân hộ vệ ai nấy đều anh dũng mạnh mẽ, đi sát theo ở bốn phía trước sau phải trái

y và luôn giữ vững cự ly nhất định.

Đại kỳ của Khâm sai thêu hình rồng màu vàng đen, chiến kỳ màu đỏ máu, soái

kỳ thêu chữ Dương màu xanh sẫm, tất cả cùng tung bay trước gió, phát ra những

tiếng phần phật. Cả đội ngũ đều là khinh kỵ tinh nhuệ, đội ngũ chỉnh tề uy nghiêm,

đao thương bóng loáng tỏa ra ánh sáng lạnh ghê người, nhất thời sát khí ngợp trời,

thể hiện rõ vẻ dũng mãnh thiện chiến của đội ngũ này.

Tất cả sỹ tốt đều mặc giáp nhẹ. Đi đầu tiên là đội lính ném lao, mỗi người đều

mang theo năm cây lao dùng khi đánh bộ, cán lao được làm bằng gỗ mềm, dài

chừng hai mét, trước to sau bé, đầu được bọc sắt, trọng tâm nằm ở phía trước. Loại

lao này không thể ném xa, nhưng trong phạm vi mấy chục bước ắt có thể xuyên qua

cơ thể người, giáp trụ cũng khó mà khăn cản, có sức uy hiếp rất lớn với kỵ binh

Mông Cổ dũng mãnh.

Dù loại lao này không thể ném xuyên qua lá chắn, nhưng khi bị ném trúng rồi

thì đối phương cũng không thể sử dụng lá chắn tiếp được nữa, chỉ có thể bỏ lá chắn

đi mà chiến đấu. Còn nếu ném trúng cơ thể người hay ngựa, dù có thân thể to lớn

như chiến mã cũng phải gục ngã ngay, khi đó kỵ binh phía sau sẽ khó mà tăng tốc

tiếp cận quân mình, ngăn cản được ưu thế của kỵ binh.

Tiếp sau đó là đội súng ống, còn đội cung nỏ thì được xếp cuối cùng ở phía sau

đội lính mang đao thuẫn và lính cầm côn sắt. Toàn bộ đội cung nỏ đều sử dụng

những chiếc nỏ rất cứng, phải dùng chân mới có thể trương dây, có thể bắn tên xa

tới năm sáu trăm mét, tên xuyên thủng giáp trụ là chuyện dễ như trở bàn tay.

Vốn kỵ binh sử dụng loại nỏ cứng này không thích hợp, nhưng Dương Lăng

dẫn binh xuất kinh thì tác dụng chủ yếu của đội quân là phòng thủ, do đó y đã sắp

xếp thêm tám trăm người sử dụng nỏ cứng bắn tầm xa. Thử nghĩ mà xem, khi khinh

kỵ của đối phương đang ào ào xông tới, bầu trời phía trên đỉnh đầu bọn chúng đột

nhiên xuất hiện một loạt tên dày đặc, rồi mấy trăm người ngựa bị bắn xuyên cơ thể

gục ngã xuống đất, ngay sau đó lại là từng hàng từng hàng lao được ném tới.

Kế sau đó là loạt đạn đầy trời, rồi côn sắt và đoản đao cùng phát ra như mưa,trong thời gian ngắn đủ khiến cho bất kỳ đội tiên phong dũng mãnh nào của đối thủ

cũng phải tan vỡ. Đợi khi đội ngũ chính của đối phương kịp xông tới thì đám khinh

kỵ bọn họ đã quay đầu bỏ chạy xa rồi.

Trong hành dinh Khâm sai, Chính Đức cười híp mắt ngồi trên một chiếc ghế

lớn bọc vải nhung, trước ngực ôm một đống lớn đồ ăn vặt, dáng vẻ rất khoan khoái,

chẳng khác gì một đứa bé ngoan được dỗ dành nên hết sức vui vẻ. Để giữ bí mật

thân phận của gã, người của gánh hát không được báo cho biết họ đang diễn cho ai

xem, cũng không nhìn thấy Chính Đức. Trong sảnh treo rèm, hắn ngồi ngay sau bức

rèm nên có thể nhìn rõ mọi thứ bên ngoài, nhưng đứng bên ngoài thì lại không thể

nhìn rõ người bên trong.

Trên đài vừa mới bắt đầu biểu diễn, Chính Đức liền cười hà hà một tiếng, nhảy

xuống bảo gã thị vệ bên cạnh:

- Ban thưởng cho bọn họ ra sức hát tiếp, sau khi trở về sẽ còn có trọng thưởng.

Chúng ta đi thôi!

Viên thị vệ đại nội hơi ngẩn người, vội thấp giọng hỏi:

- Hoàng thượng! Chúng ta đi đâu?

Chính Đức trừng mắt nhìn gã, cười mắng:

- Đồ ngốc! Dương thị độc và Trương Vĩnh đi đâu thì trẫm tất nhiên cũng phải

tới đó. Ở kinh thành thì không có cách nào cựa quậy được, nhưng đến đây rồi mà

trẫm còn không thể tận mắt xem đại quân tác chiến, há lại chẳng nuối tiếc ư?

Sắc mặt viên thị vệ biến đổi hẳn, gã kinh hãi thưa:

- Hoàng thượng! Dương đại nhân đã dặn đi dặn lại xin Hoàng thượng ngàn vạn

lần đừng rời khỏi dịch quán. Đang lúc có chiến tranh với giặc Thát ngoài biên cảnh,

sự an toàn của Hoàng thượng quan trọng vô cùng, không thể đi được!

Chính Đức bất mãn:- Lời của Dương Lăng thì ngươi nghe, lời của trẫm ngươi không nghe sao?

Muốn kháng chỉ chắc? Hừ! Cứ nói là muốn phò tá trẫm làm một thiên tử anh minh;

trông cái trò này, Dương khanh cũng muốn dỗ dành trẫm như dỗ dành trẻ con chắc,

tức quá!

Thị vệ đã quen nghe mệnh lệnh của Hoàng đế, hai vị Khâm sai lại không ở đây,

gã nào dám khảng chỉ nhưng vẫn thấp giọng van vỉ:

- Hoàng thượng! Sự an nguy của người quan trọng vô cùng, nếu người bị tổn

thương gì thì dù róc xương lóc thịt bọn thuộc hạ cũng không bù đắp được.

Chính Đức đắc ý đáp:

- Ngươi không đoán được là trẫm muốn đi theo, Dương khanh cũng không đoán

được là trẫm muốn đi theo. Ngươi tưởng trên đời này thật sự có thần tiên đoán được

suy nghĩ nhất thời của trẫm hay sao chứ? Huống chi trong thành Đại Đồng có rất

nhiều binh mã, một hiệu úy nhỏ nhoi như trẫm đi lại giữa thiên quân vạn mã, trên

đầu lại không hề che lọng vàng, ai nhận ra ta được?

Hơn nữa ra khỏi Đại Đồng còn có Trường Thành, kế đó là hơn hai mươi công

sự đóng quân như Hồng Tứ bảo, Trấn Xuyên bảo, Đắc Thắng bảo và hơn trăm

phong hỏa đài. Trong thành thì có hơn mười vạn quân, giặc Thát vẫn còn ở ngoài

Trường Thành, trẫm lại sợ đến nỗi không dám ra khỏi cửa ư? Bớt lằng nhằng, đi

thôi!NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 190: Cuộc Chiến Tại Trấn Khương Quan

Thành Đại Đồng cao lớn và hùng vĩ, kiên cố và hiểm trở, được trang bị đủ các

loại công cụ thủ thành, có thể nói là điển hình cho sự "sống trong yên ổn nghĩ ngày

gian nguy" của Đại Minh. Đương nhiên, tính an toàn của nó còn cần phải chờ được

thảo luận.

Toàn bộ tường thành Đại Đồng đều được xây trên cơ sở sử dụng đá thanh(*), đá

phiến, đá khối và cột đá rồi trét "vữa" gắn kết; bên ngoài lại đắp thêm gạch xanh,

loại gạch trung bình một viên nặng 35 cân (khoảng 18 kg). Như vậy, chúng ta có thể

thấy được tường thành được xây dựng kiên cố và gian khổ đến chừng nào. (*: loại

đá hình chữ nhật dẹp và dài)

Dương Lăng đến dưới chân thành ngửa mặt nhìn lên, không khỏi tán thán:

"Hùng vĩ, quả là hùng vĩ! Tường thành hùng vĩ như vậy thực khiến người ta nhìn

thấy liền mất hết tinh thần để đánh chiếm! Thật không biết trước đây giặc Thát làm

thế nào mà suýt nữa thì đánh chiếm được toà thành lớn như thế này, hại khiến Đại

vương phải chạy như bay về kinh thành khóc lóc, kể khổ với vua Hoằng Trị nữa."

Tường chính của thành Đại Đồng cao ba trượng, trên tường chính còn có tường

chắn mái, trên tường chắn mái xây thêm tường gạch, lỗ châu mai trong tường gạch

là nơi quan sát và là chỗ bắn cung nỏ của tướng sĩ thủ thành. Trên tường thành xây

thêm lầu thành, chòi gác, vọng lâu, đứng cách nhau. Mái lầu xây kiểu "cửu tích hiết

sơn"(*), bên ngoài có cột mái hiên vây quanh, nhìn thẳng xuống đường cái.

(*: xem hình )

Những công trình kiến trúc cao thấp chập chùng trên tường thành dựng nên một

phòng tuyến đa tầng: quân sĩ có thể quan sát, ẩn náu, di chuyển, bắn tên, tiếp ứng,

khống chế từ trên cao; nó cũng cung cấp cao điểm cho tướng lĩnh chỉ huy, điều phốibinh sĩ từ trên cao.

Hôm qua Dương Lăng đã phái người thông báo cho vị tuần phủ Đại Đồng là vị

quan văn Hồ Toản mà động một tí là đòi sống đòi chết ấy, vì vậy tướng thủ thành

trông thấy đại quân của khâm sai đến thì liền vội cho mở rộng cổng thành, thả cầu

treo xuống. Đội quân thiết kỵ ào ào chạy ra; Dương Lăng đi giữa đoàn Hỏa Súng

doanh.

Tiền quân và trung quân đã ra khỏi cổng thành, hậu quân đang ùn ùn kéo đến.

Dương Lăng ghìm ngựa tránh sang một bên, ngoái đầu nhìn vọng lại về phía tường

thành nguy nga và đồ sộ. Bên ngoài dãy tường thành hình răng cưa đặc thù đó, y

còn trông thấy bốn vọng quân đài(1) đứng lẻ loi và cô độc. Chúng không có lối đi

hay thang leo lên, chỉ có thể bắc ván gỗ giữa nóc đài với tường thành để đi lại; có

thể dùng để công kích từ sau lưng quân giặc, phối hợp tác chiến và quan sát địch

tình. Dương Lăng không khỏi tặc lưỡi cảm thán: "Tường đồng vách sắt có lẽ cũng

chỉ thế này mà thôi".

Trong thành, ba trăm đại nội thị vệ đeo phác đao chuôi dài bọc thép và trường

cung lợi tiễn đang phóng băng băng về phía cổng thành.

Từ thời Tống đến nay, binh chủng trong quân đội đều được phân định rạch ròi,

không giống như quân đội thời Đường: bất kể là trường thương thủ hay đoản đao

thủ, ai nấy đều đeo cung tên, bắn xa đánh gần đều được. Còn những binh sĩ mà

Dương Lăng chọn ra, cưỡi trên lưng ngựa, đi dưới đất bằng, bắn xa hay đánh gần

đều có thể tác chiến, cho nên mỗi người đều mang một cây cung cứng. Những tay

đại nội thị vệ này không những võ nghệ tinh thông mà thuật cưỡi ngựa bắn cung

càng không phải nói, cho nên bọn họ không chỉ đeo cung trên lưng, mà còn là loại

tam thạch cung; đó là một loại cung khá cứng, tên loại cung này có nghĩa là cần

phải dùng lực ba thạch (mỗi thạch # 60kg) mới kéo nổi.

Ở phía sau đại quân của Dương Lăng, mấy chục cỗ xe chở những vật phẩm

được vận chuyển từ kinh sư và mua ở bản địa để khao thưởng ba quân nối nhau liên

miên không ngớt, tốc độ cũng chậm, cho nên lúc này mới vừa ra khỏi cổng thành.

Tì tướng thủ thành còn chưa hạ lệnh đóng cổng thành thì chợt thấy lại có mộtđội kỵ binh giáp trụ sáng ngời xuất hiện. Trong đội kỵ binh đó có người quát lớn:

- Khoan đóng cổng thành, hậu quân chưa ra hết!

Không để vị tì tướng kịp truy hỏi, ba trăm thiết kỵ cùng hò hét xông qua, tiếng

vó ngựa giẫm lên cầu treo vang rền. Ba trăm thị vệ này và những quan binh ở cuối

đoàn đều đồng hành cùng nhau đến Đại Đồng, cho nên đã rất quen mặt nhau.

Những tay ngạnh nỏ thủ xếp hàng ở cuối không biết chuyện Hoàng đế đang ở trong

quân đội, càng không biết Dương Lăng ra lệnh cho ba trăm thiết kỵ đó ở lại, nay

trông thấy bọn họ đuổi theo còn tưởng là đại soái thu xếp riêng cho bọn họ áp trận

tại hậu doanh, cho nên cũng không hề dị nghị gì.

Tì tướng thủ thành thấy cả bọn ăn mặc và trang bị tương đồng, sĩ tốt hai bên lại

quen biết nhau thì không hỏi thêm gì nữa. Đợi kỵ binh xông hết ra khỏi thành hắn

mới cho kéo cầu treo lên, cánh cổng thành nặng trình trịch được đóng lại.

Dương Lăng hoàn toàn không hề hay biết hậu quân lại âm thầm có thêm hơn ba

trăm tinh binh; giữ tin tức bí mật quá đôi khi cuối cùng lại trở thành sơ xuất lớn.

Đại quân tiến về phía trước, hơn một canh giờ sau thì đến phụ cận của Trấn Khương

bảo (*). (*: những thành trấn hoặc thôn làng có tường đất bao quanh thời xưa đều

được gọi là "bảo")

Thám mã tiền quân đưa tin về, báo rằng Bá Nhan Khã Hãn của Thát Đát đang

dẫn thiết kỵ chiến đấu với đại quân của Dương tổng chế bên ngoài quan ải. Dương

tổng chế hiện không rỗi để trở về, xin đại quân của khâm sai hãy lên trên ải trước để

quan sát chiến trận.

Dương Lăng nghe xong liền phấn chấn tinh thần, lập tức hạ lện tăng tốc tiến

lên. Trấn Khương bảo cũng là một quan ải được xây dựa vào núi, chung quanh là

trường thành uốn lượn như rồng, cứ cách quan ải hơn hai dặm đường lại có một con

đường rẽ dành cho quân tăng viện chạy thẳng lên phong hỏa đài trên núi.

Còn chưa kéo đến Trấn Khương quan mọi người đã nghe thấy tiếng chém giết

vang trời ngoài núi. Ngay bên hông lại xuất hiện một con đường rẽ đi lên phía

phong hỏa đài. Đài này được xây trên mỏm núi hiểm trở, dễ thủ khó công, cho nêngiặc Thát không công kích nó, nhưng từ nơi này đã có thể nghe thấy tiếng chém giết

đinh tai.

Dương Lăng lập tức xuống ngựa, hạ lệnh cho đại quân ở nguyên vị trí chờ lệnh,

còn mình tự dẫn hai trăm thị vệ lên ải. Lên đến phong hoả đài, một bả tổng chỉ huy

lật đật chạy đến ra mắt khâm sai. Dương Lăng vội vàng hỏi:

- Tình hình chiến sự thế nào?

Vị bả tổng này cũng đã đánh giặc đến chán chê. Mặc dù rất kính sợ khâm sai và

bên tai là tiếng chém giết rền trời nhưng khi nhắc đến chiến sự, gã vẫn điềm nhiên

như không:

- Khâm sai đại nhân! Xin ngài chớ bận tâm, cứ cách hai ngày giặc Thát sẽ lại

đến đánh một trận. Sấm to mưa rào cỏn con thôi, bọn chúng không công vào được

đâu.

Lúc này Dương Lăng và Trương Vĩnh mới yên tâm, bèn vội vàng chạy đến lỗ

châu mai nhòm xuống. Lúc này mặt trời lên cao, ánh nắng rọi thẳng xuống mặt đất,

tuyết phủ trắng xoá cả dãy núi, soi rõ hẻm núi lớn bằng phẳng trước ải Trấn

Khương, từ trên mỏm núi này nhìn xuống có thể thấy rõ hết mọi thứ.

Giữa núi cao hẻm thẳm vang vọng những tiếng thét gào liên miên không dứt,

Dương Lăng và Trương Vĩnh không khỏi khiếp sợ sững sờ bởi khung cảnh trước

mắt. Không chỉ bọn họ, mà thậm chí là trong hai trăm chiến sĩ thân quân vốn dũng

mãnh không sợ chết có những quan binh chưa từng tham gia chiến trận nơi biên ải

cùng với Chính Đức lén dắt theo hai mươi thân binh lên núi nằm ghé mắt vào lỗ

châu mai đều tròn mắt líu lưỡi.

Đây chỉ mới là trận chiến sấm to mưa rào cỏn con sao?

Trường thành được xây dọc theo dãy núi quanh co uốn khúc, trước ngọn núi

hiểm trở này còn có một hòn núi nhỏ khác, dưới nữa là một khe núi vắt ngang, xa

hai dặm về phía trước chính là Trấn Khương quan. Trường thành nơi này hơi vòng

nhô ra ngoài, cho nên ở đây có thể quan sát rõ mọi thứ trước quan ải.Tiếng la hét, tiếng binh khí chạm nhau và tiếng ngựa hoà trộn thành một âm

thanh vang trời vọng đất bất tận, âm thanh của từng đợt sóng người và binh khí va

chạm lọt rõ vào màng nhĩ, mọi thứ như đang diễn ra ở ngay trước mắt. Do thế núi

đặc thù, trên này lăn đá xuống cũng không thể nào đập trúng giặc Thát nên quân

Minh trên phong hỏa đài chỉ có thể trơ mắt nhìn bọn chúng ồ ạt xông đến cổng

thành ở bên phải của mình.

Hàng nghìn hàng vạn nào người nào ngựa, lúc nha lúc nhúc, lớp trước ngã

xuống lớp sau tràn lên công kích quan ải, thi thoảng những tia sáng sắc lạnh của

binh khí lại lọt vào tầm mắt. Dương Lăng nín thở, chăm chú quan sát mọi thứ, lặng

im thật lâu không nói lời nào. Thậm chí Trương Vĩnh lâu nay quen thói khom lưng,

miệng cười siểm nịnh giờ đây vẻ mặt cũng trở nên trang trọng.

Chính Đức siết chặt hai nắm tay, tim như muốn nhảy khỏi lồng ngực, thì thầm:

- Đây là chiến tranh sao?

Lâu nay, những câu chữ trong sách binh thư đã dần hình thành trong lòng Chính

Đức tâm lý cho rằng chỉ huy thiên quân vạn mã là cực kỳ oai phong, cực kỳ huy

hoàng. Nay trước cuộc chiến tàn khốc trước mắt, tâm lý đơn giản này bị rúng động

dữ dội. Đó là sự huy hoàng được tô điểm bởi máu tươi và tính mạng, tàn khốc biết

dường nào: mấy vạn nhân mã đang chém giết nhau trong hẻm núi và giữa băng

tuyết hoang vu ngoài quan ải.

Trên thế giới này, chỉ có loài người là bậc tinh anh trên hết muôn loài mới có

năng lực huy động bấy nhiêu sinh mạng, mới có năng lực hủy diệt bấy nhiêu con

người. Vậy loài người đáng tự hào hay là đáng thương?

Dưới ải tiếng la hét chém giết inh ỏi, kỵ binh đông nghìn nghịt tung vó rong

ruổi, sử dụng thuật bắn tên trác tuyệt không ngừng bắn lên đầu thành, yểm trợ cho

đội bắc thang và chiến xa công thành tiến về phía trước.

Trên thành dưới đất, cờ quạt vờn bay, quân Thát Đát dùng đủ loại vũ khí công

thành: máy bắn đá, xe bắn nỏ,... bắn lên đầu thành những tảng đá, những quả cầu

lửa khổng lồ. Chúng đập vào tường thành phát ra những tiếng nổ đinh tai.Trên thành cũng cho dưới thành 'biết tay': xa thì bắn đá, bắn tên bằng nỏ cứng,

bắn hoả pháo, gần thì lăn cây, ném đá. Nhìn từ xa, liên tục có người leo lên được

một nửa bức tường thành thì la hét ngã xuống dưới chân thành, biến thành đống thi

thể máu thịt bầy hầy. Tản mác khắp nơi là những chiếc thang mây bị phá gãy và xe

công thành bị bốc cháy.

Trên quan ải, bọn sĩ tốt đang không ngừng chạy đi chạy lại hoặc vận chuyển khí

giới, hoặc bắn tên rồi di chuyển, hoặc hoặc cầm móc câu đẩy ngã thang mây, không

ngừng ném cây gỗ và quăng đá tảng. Dưới sự công thủ với hỏa lực dày đặc như vậy,

vẫn có từng tốp giặc Thát hung hãn không sợ chết trèo lên đầu thành, nhưng chỉ sau

một đợt phản công thì chúng biến thành một đống thịt vụn.

Một chiếc xe công thành to lớn và bền chắc được mấy chục tên sĩ tốt đẩy đến

cổng thành. Đầu xe nhô ra một cây cọc nhọn hoắc, dài hơi một trượng, nện vào

cánh cổng thành rắn chắn. Trên xe trang bị mái che hình quạt, đá và tên bắn trúng

đều không thể tổn thương giặc Thát bên dưới.

Từng cú nện khiến tim Dương Lăng cũng nảy lên theo. Lúc này trên đầu thành

ném xuống từng chiếc vại gốm, đập vào nóc xe (công thành) vỡ tan từng mảnh, liền

đó một cây đuốc được ném xuống, một tiếng nổ đinh tai phát ra, cả chiếc xe bùng

cháy. Do mấy tên giặc Thát đều mặc áo lông thú dày cộm, bị dầu bắn trúng, trong

chớp mắt bọn chúng đều biến thành những 'cây đuốc sống', vừa la hét vừa lăn lộn

trên mặt đất để dập lửa. Dương Lăng đứng trên tường thành nhìn thấy cảnh đó mà

chấn động trong lòng.

Ngay vào lúc này, một cánh quân khác bất ngờ tấn công quân Thát Đát đang

hùng hổ công thành.

Nơi đây núi non nhấp nhô chập chùng, trong dãy núi có hai hẻm núi thông đến

Trấn Khương quan, một rất rộng và thoáng, rộng ba mươi trượng có đủ, chính là

con đường giặc Thát tấn công quan ải. Con đường còn lại chỉ rộng hơn chục trượng,

ngoằn ngoèo, dẫn sâu vào trong dãy núi, thông với Trường Thành nhấp nhô trên núi

xa; đây hẳn là con đường bên ngoài duy nhất thông với một cửa ải khác.

Trong ải vốn có thể điều quân đi thẳng trên Trường Thành, không cần phải điqua sơn cốc phủ tuyết trắng xoá. Nhưng lúc này nơi đó lại xuất hiện một cánh quân

lớn đang di chuyển cấp tốc, đồng thời nhanh chóng hình thành trận hình công kích

dạng góc nhọn.

Là cờ xí của quân Minh! Cánh quân này đa phần là bộ binh, đằng trước chỉ có

mấy tay kị sĩ. Đối mặt với dũng sĩ Thát Đát ai nấy đều cưỡi ngựa tác chiến, ý định

của bọn họ hiển nhiên là quấy nhiễu quân địch. Trong trận, một viên chiến tướng,

quân đánh trống, quân kèn lệnh, quân cồng chiên, và quân cờ lệnh đều đứng đầu

hàng ngũ, sau lưng là một cây soái kỳ, trên viết một chữ "Vương".

Bả tổng canh giữ phong hỏa đài mừng rỡ reo lên:

- Vương phó tướng từ Thanh Ngưu lĩnh đến chi viện rồi!

Dương Lăng nghe vậy thì máy động trong lòng, vội hỏi:

- Có phải là vị Vương phó tướng nọ?

Bả tổng đáp:

- Đại nhân, chính là phó tướng Vương Thủ Nhân dưới trướng Dương tổng chế,

phòng thủ Thanh Ngưu quan, cách nơi này không quá ba dặm đường núi.

Dương Lăng khẽ ồ, liền vội vịn lỗ châu mai đưa mắt nhìn xuống phía dưới lá cờ

chữ Vương. Y thấy rõ một vị tướng quân mặc giáp, khoác áo choàng xanh, điềm

tĩnh ghìm ngựa đứng ở trong đội quân, từ xa nhìn không rõ tướng mạo.

Đao thương san sát, chiến sĩ mặc giáp cung kính trang nghiêm. Nhóm cung tiễn

thủ được yểm trợ bởi những tấm thuẫn lớn, lắp từng mũi tên dài lên trường cung,

mũi tên chìa ra khe hở của những tấm thuẫn như một hàng nanh sói.

Phát hiện có quân Minh tập kích từ sườn bên, đám giặc Thát la hét quay đầu

ngựa xông về phía bọn họ đồng thời rút cung lắp tên ra bắn.

Vị tướng quân cưỡi ngựa vẫn bình tĩnh đứng dưới soái kỳ. Loạt tên đầu tiên bay

tới cắm bộp bộp lên những tấm thuẫn cao tới đầu người. Toán quân Minh nàykhông có nhiều kỵ binh, bọn họ nấp dưới những tấm thuẫn cao như vậy thì rất khó

bị trúng tên tập kích, nhưng nếu để cho kỵ binh kẻ thù tiếp cận thì gần như sẽ trở

thành một cuộc chiến nghiêng hẳn về phía địch.

Kỵ binh giặc Thát phi rất đến nhanh. Khi hàng kỵ sĩ đầu tiên cách quân Minh

chưa đến hai tầm tên bay, vị tướng quân đột nhiên vung mạnh cánh tay, dường như

quát khẽ một tiếng. Một trận mưa tên dày đặc như đàn châu chấu bay trùm tới, tên

bắn mạnh, ngựa phi nhanh, hai bên tranh hơn đua kém. Khi kỵ binh phi đến một

tầm tên bay thì vừa lúc đón lấy trận mưa tên đầu tiên, nhất thời người la ngựa hí, kỵ

binh khiếm khuyết trang bị bảo hộ tốt liền giống như vướng phải dây giăng cản

ngựa, lập tức ngã rạp một mảng lớn.

Lúc này, đợt mưa tên thứ hai lại ập đến...

Trong hẻm núi chỉ có năm nghìn quân Minh, quân Thát Đát công kích Trấn

Khương bảo lại có ít nhất ba vạn người. Mặc dù đội binh này tạm thời chiếm chút

thượng phong, nhưng một khi giặc Thát tiến đến gần, bọn họ sẽ bị đồ sát dễ dàng.

Dương Lăng không hề phát hiện trong quân có đội trường thương binh cầm trường

thương to và dài mấy mét, vả lại khi nãy bọn họ vội vã chạy tới nên hiển nhiên

không thể nào bố trí kịp cọc chống ngựa, hố bẫy ngựa lẫn dây cản ngựa.

Từ trên dãy núi nhìn xuống, y thấy một màu trắng mênh mông, gió thổi lồng

lộng mãnh liệt. Khe sâu, đồi núi, đồng hoang đều đóng một lớp tuyết, vẫn là cảnh

"non uốn phau phau, đồng vươn bàng bạc"(*) khiến lòng người thanh thản mông

mênh, thế nhưng trong sơn cốc lại là tiếng ngựa hí người la, chém giết rung trời. (*:

trích từ bài Thấm viên xuân tuyết của Mao Trạch Đông, Nam Long dịch)

Một tay thủ lĩnh của Thát Đát chĩa xéo trường thường, chiến mã dưới hông lướt

đi băng băng như chớp, một người một ngựa dẫn đầu đội quân Mông xông thẳng

vào phía quân Minh. Trường thương trong tay hắn xoay như gió lốc, gạt bay mọi lợi

tiễn bắn đến. Quân Thát phía sau tựa như cuồng phong cuốn phăng mọi thứ, như lửa

cháy lan khắp cánh đồng. Vó ngựa gầm vang, mặt đất rung chuyển, kỵ sĩ xung

phong hò hét dọa người, thanh thế vô cùng đáng sợ.

Thế trận của giặc Thát công thành đã loạn, càng ngày càng bắt đầu có nhiều sĩtốt tràn về phía miệng hẻm núi chật hẹp. Đội cung tiễn thủ của quân Minh lùi lại,

"đoàng! đoàng! đoàng!", một trận khói mịt mù bao trùm cả miệng hẻm núi. Lính

mang thuẫn rẽ ra, tiếng hỏa súng vang lên rợp trời, từng khẩu pháo liên châu lớn

bắn ra từng loạt đạn lửa chi chít, tạo thành một đợt sóng công kích dày đặc.

Giặc Thát lại ngã rạp một mảng. Khói súng còn chưa tan hết, mọi người đã thấy

mấy nghìn nhân mã trong hẻm núi được tướng quân cưỡi ngựa dẫn chạy vào sâu

trong khe núi. Quân Thát Đát giận đến phát điên thúc ngựa điên cuồng đuổi theo.

Bọn chúng vừa phóng ngựa vào đến sơn khẩu, đã thấy đám quân Minh trước mặt

đang "hoảng loạn" chạy trối chết vụt cái đã đều nằm rạp xuống đất.

"Ầm ầm ầm!!!", tiếng đại pháo điếc tai nổ vang, hai mươi khẩu pháo tướng

quân to bằng miệng bát, mỗi khẩu bắn ra cả trăm hạt bi sắt. Loại tấn công tầm ngắn

này hết sức đáng sợ: mưa đạn che phủ khắp trời, gần bốn trăm tên giặc Thát tiên

phong, bao gồm cả tay tướng quân cầm thương cực kỳ kiêu dũng nọ đều biến mất

hoàn toàn sau khi loạt đạn pháo quét qua. Chỉ còn mấy thớt chiến mã thân thể đẫm

máu chưa chết hẳn đang rên rĩ giãy giụa trên chiến trường rải đầy thi thể.

Trên ải Trấn Khương, tiếng trống trận vang rền, cửa quan ải được mở ra, xe

công thành vẫn chưa cháy hết bị đẩy sang một bên, kỵ binh xuất hiện như hồng thủy

vỡ đê. Kỵ binh giáp nhẹ bắn ra một loạt mưa tên, mỗi người cứ bắn ba phát tên lại

cưỡi chậm lại, tránh sang một bên. Kỵ binh giáp nặng theo sau, đánh thốc tới, nhất

tề va chạm với thiết kỵ của giặc Thát.

Từ trên quan ải nhìn xuống, hai đoàn quân như hai làn sóng lớn ập vào nhau

trong nháy mắt, thoáng khựng lại, sau đó là người ngã ngựa đổ, máu thịt tung toé,

thỉnh thoảng có người bị chém, đâm, máu thịt vương vãi khắp chiến trường. Mỗi

một người đều liều mình tiêu diệt một sinh mạng khác; vừa rồi còn mặc sống quên

chết đồ sát kẻ khác, lúc này có thể đã là đống thịt nát dưới chân ngựa.

**************************************************

************************************

Lều soái của vua Khả Hãn đủ chứa năm sáu mươi ngồi xếp bằng, nhưng lúc này

bên trong lại chỉ có bảy tám người, nhưng bảy tám người này chính là những chúatể tối cao của cả đại mạc và thảo nguyên. Trên tấm thảm lông lạc đà dày cộm trong

góc lều lớn đặt tám chậu than cháy hừng hực, nhưng ở chính giữa lều chỗ mọi

người ngồi lại hơi u ám.

Hai con mắt của Bá Nhan Khả Hãn đỏ hằn như máu vì phẫn nộ. Hắn ngồi ở vị

trí chủ trì, hai tay chống gối, đầu đội mũ da hươu, người mặc áo da lộn, trợn mắt

quát đám người trước mặt:

- Đừng nói thêm nữa, dũng sĩ của chúng ta đến chỗ của người Hán săn bắn, đã

uống cạn rượu mạnh trong nhà, ăn sạch dê bò trong nhà. Nay chưa đánh cướp được

con mồi nào mà cứ rút lui như vậy thì biết ăn nói thế nào với người trong bộ tộc

chúng ta đây?

Bá Nhan Khả Hãn quét cặp mắt hùm, đám người ngồi trước mặt hắn đều khẽ

cúi đầu, không dám đối mặt, chỉ có một viên tướng vạm vỡ tuổi trạc tứ tuần, nét

mặt phong sương, mắt ưng lẫm liệt khoanh gối ngồi bất động thờ ơ không nói gì.

Bá Nhan Khả Hãn tuổi hơn ba mươi, đương là độ trẻ trung khỏe mạnh. Hắn khó

chịu duỗi thân hình khôi ngô vạm vỡ của mình, bất mãn liếc người đàn ông ngồi

chống gối không tỏ vẻ gì, hỏi:

- Nhân mã quân Minh và chúng ta ngang nhau, bọn chúng phải chia quân trấn

giữ, chúng ta lại chỉ tấn công một điểm của chúng. Tuy bọn chúng có quan ải hiểm

yếu để phòng thủ nhưng nhân mã công thành của chúng ta lại đông hơn, địa điểm

và thời gian công thành lại do chúng ta chọn. Thế mà hiện tại đánh nhau đã mấy

chục trận lớn nhỏ mà chúng ta vẫn không hề chiếm được một chút lợi thế là thế

nào?

Người đàn ông mắt ưng trông cao ngạo kiên cường nọ miễn cưỡng quay đầu

lại. Bá Nhan quét cặp mắt hùm, lạnh lùng hỏi:

- Hỏa Sư, ngươi có nhận định gì?

Người đàn ông mắc ưng thờ ơ đáp:- Đại Hãn! Người của chúng ta thiếu ăn thiếu mặc, ngay cả chiến mã cũng

không còn sức lực thì làm sao có thể phát huy sức chiến đấu của bọn họ đây?

Một gã nãy giờ cúi đầu lặng thinh lập tức ngẩng đầu cười khẩy nói:

- Quân Minh giao chiến với chúng ta, các nhóm bộ lạc đều tổn thất nặng nề, chỉ

có nhân mã của ngươi không hề bị tổn thất gì. Hình như quân Minh sợ cái tên 'Hỏa

Sư vũ dũng' của ngươi, ai nấy đều tránh không dám đánh nhau với ngươi cả. Hỏa

Sư là người anh hùng ân oán phân minh, nhận giò đương nhiên phải thò lại chai

rượu rồi.

Hỏa Sư tím mặt quát:

- Mông Lực Khắc! Ngươi nói vậy là ý gì? Lúc chiến đấu với quân Minh, nhóm

bộ lạc(2) của ta chưa từng đứng sau kẻ nào, đã bao giờ có lòng riêng?

Bá Nhan trừng mắt lườm hắn một hồi, rồi bật cười thật lớn, quát:

- Mông Lực Khắc đừng nói bậy! Hỏa Sư là anh hùng thảo nguyên chúng ta, là

đại tướng bản Hãn tin yêu nhất, sao có thể mang lòng riêng mà thỏa hiệp với quân

Minh để bảo vệ thực lực của mình cơ chứ?

Gã thủ lĩnh có tên Mông Lực Khắc nọ chỉ cười khẩy mấy tiếng rồi không nói gì

nữa. Khuôn mặt Hỏa Sư tái lại. Ngay vào lúc này, một gã mặc áo da thú vén lều rảo

bước tiến vào. Bá Nhan trông thấy người đó không khỏi mừng rỡ hỏi:

- Khất Khắc Nông! Ngươi về rồi à, có phải đã gặp được người của bọn họ?

Khất Khắc Nông nhìn quanh lều một lượt, thấy mọi người đều là nhân vật đầu

não của các nhóm bộ lạc Thát Đát, bèn yên tâm thưa:

- Dạ! Đại Hãn, tôi đã gặp hộ pháp của bọn họ.

Đoạn gã bước lên khom người thi lễ, sau đó thuật lại tin tức do Du hộ pháp của

Di Lặc giáo thông báo cho mọi người. Mọi người có mặt nghe xong liền chấn động

tinh thần. Bá Nhan hít một hơi thật sâu, rồi đứng bật dậy, nghiêm nghị lạnh lùng:- Bất luận thế nào, chúng ta phải tiếp tục kiên trì. Mục tiêu hiện tại của chúng ta

là Chính Đức chứ không phải cố tranh đoạt thắng bại như trước nữa!

- Thiên tử người Hán chỉ giống như một con gà con, trông thấy bóng dáng hùng

ưng bay liệng liền sẽ sợ đến phát run, trốn vào lòng gà mẹ. - Bá Nhan ngửa mặt lên

trời cười lớn một tràng dài đoạn vung tay - Ra lệnh cho đại quân rút lui, tạo hiện

trường giả là đại quân ta muốn từng bước rút khỏi chiến trường trở về thảo nguyên.

Hoa Đáng không phải là ngốc, hắn sẽ không chui vào trong túi triều đình nhà Minh.

Chúng ta phải chừa cho hắn một địa phương an toàn để gặp mặt triều đình nhà

Minh bàn chuyện kết liên. Bỏ Trấn Khương bảo, đưa quân về hướng Bình Thuận,

Hồ Quan.

Mỉm cười nói xong, hắn quay sang bảo Hỏa Sư:

- Hỏa Sư, người nhóm bộ lạc của ngươi sẽ đoạn hậu. Một mặt ngăn cản quân

Minh truy kích, một mặt chờ Di Lặc giáo đưa tin đến xong sẽ phái một tốp tinh binh

cướp bóc lương thảo, kiềm chân khiến quân Minh phải đóng giữ ở nơi này, tránh

phải lưỡng bề thọ địch!

Hỏa Sư cười khẩy trong bụng. Bá Nhan nói đường hoàng như vậy nhưng rõ

ràng là đã không còn tín nhiệm mình lắm. Chỉ có điều xem ra hắn ta chỉ nghi ngờ

mình vì bảo tồn thực lực nên đã có thỏa thuận ngầm với quân Minh, chứ không nghi

ngờ mình đã nương nhờ vào triều đình nhà Minh. Cho nên hắn ta mới giữ mình lại

đơn độc chiến đấu với quân chủ lực của nhà Minh, bức mình phải đánh một trận với

quân Minh, bằng không thì đã không giữ mình lại phía sau để đoạn hậu.

Vả lại Hỏa Sư cũng không nguyện chạy đi làm tiên phong cho Bá Nhan đánh

trận chiến ngu ngốc và hèn nhát này nên bèn vừa cung tay vâng lệnh, vừa âm thầm

tính toán làm thế nào tránh quyết chiến cùng quân Minh, chỉ thừa cơ cướp đoạt chút

lương thảo lắp đầy bụng binh sĩ của mình thôi.

Bá Nhan lại nói:

- Ra lệnh cho nhân mã công kích quan ải lập tức rút lui, cứ để quân Minh đắc ý

thêm mấy ngày nữa đi.Thủ lĩnh các nhóm bộ lạc khác nghe thấy mình có thể tránh được hai ôn thần

Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân khiến người ta nhức đầu đó, kéo nhau đến

những huyện chưa bị đánh cướp để kiếm bữa cơm no thì cũng rạng rỡ mặt mày, vội

vã đứng dậy tuân lệnh thi hành.

Đợi mọi người cáo từ ra hết, nụ cười trên mặt Bá Nhan mới dần dần tắt. Hắn

thả người ngồi xuống chiếc ghế lớn lợp nhung, thở dài mệt mỏi. Màn trướng bỗng

vén lên, một thiếu nữ yểu điệu vận áo quần màu trắng lặng lẽ bước vào. Trong lều

hơi âm u, cô nàng rón rén đi đến trước hai ngọn đèn mỡ bò treo thòng phía trước

vương tọa, rút bên hông ra một cây loan đao nhỏ khơi nhẹ hoa đèn.

Ngọn lửa cháy cao hơn, trong lều sáng sủa hơn rất nhiều. Phần lớn người Mông

Cổ có vóc dáng cao to vạm vỡ, nhưng thân thể yêu kiều của cô nàng lại rất là thon

thả lả lướt. Ngọn đèn sáng tỏ soi rõ khuôn mặt cô nàng; chiếc cằm trơn nhẵn mịn

màng đón lấy ánh đèn, gò má cong cong bên sáng ngời bên u ám phác họa nên một

vẻ thanh tú cùng mỹ lệ bất phàm.

Hai gã thị vệ đứng bên Bá Nhan vội chắp tay trước ngực, cung kính thưa:

- Sát Tất Khả Đôn!

Trong tiếng Mông Cổ, "Sát Tất Khả Đôn" để chỉ Hoàng hậu, chỉ có chánh phi

của Đại hãn hoặc Vương gia mới có thể xưng là Sát Tất Khả Đôn. Người đời đều

biết lúc bảy tuổi Bá Nhan đã cưới bà thím họ hàng xa là Mãn Đô Hải Tư Cầm làm

vợ, nhờ bà phò tá và lời hiệu triệu với thân phận hậu duệ trực hệ của gia tộc cao quí

Thánh Cát Tư Hãn mới trở thành vua của thảo nguyên.

Thế nhưng người thiếu nữ thanh tú trước mặt lại trông chưa tới đôi mươi, tuyệt

không thể là hoàng hậu Mãn Đô tuổi phải tới lục tuần. Sự thật thì sau khi Bá Nhan

thành niên, Mãn Đô Hải Tư Cầm đã dần biến mất khỏi tầm mắt của mọi người, và

người ta cũng rất tránh nhắc đến nơi ở của bà.

- Các ngươi lui xuống đi!

Bá Nhan vung tay cho hai gã người hầu lui xuống, rồi âu yếm nói với ngườithiếu nữ:

- Tái Lý Mộc Trác Nhĩ của ta, đến đây cho ta ôm nào.

Thiếu nữ áo trắng cười ngọt ngào, bước nhẹ nhàng đến bên hắn, được hắn ôm

lấy liền nhảy lên ngồi trên đùi phải của hắn. Vị Hoàng hậu trẻ tuổi mỉm cười nói:

- Đại Hãn của thiếp, chiến sự không thuận lợi thì chúng ta rút về thảo nguyên là

xong, cớ chi phiền não vậy? Chẳng phải là người Hán đã bị chàng dọa sợ đến nỗi

không dám ló ra khỏi ải sao?

Bá Nhan cười ha hả, ôm ấy tấm eo thon của cô nàng:

- Trác Nhĩ à, xưa nay ta chưa hề lo lắng về triều đình nhà Minh, mà là lo về

những bộ lạc dưới quyền ta. Lúc đánh thắng, cướp được dê bò và nô lệ về thì ai nấy

đều nói cười rạng rỡ; nếu thua trận, mọi tù trưởng đều tính toán lợi ích cho riêng

mình, kẻ có dị tâm nào chỉ một mình Hỏa Sư?

Tái Lý Mộc Trác Nhĩ dịu dàng vòng tay ôm lấy cổ, hôn lên khuôn mặt săn chắc

của hắn, khẽ cười nói:

- Đừng lo lắng, đại vương của thiếp! Dưới sự trông coi của con hùng ưng như

ngài, còn có ai dám nảy lòng bất tuân chứ?

Bá Nhan cười to, luồn một bàn tay to tướng vào trong người cô nàng, bóp lấy

bầu vú mềm mại mà đầy đặn, kề tai nói nhỏ:

- Nói rất phải, cho nên... mặc kệ hiện tại phải tổn thất bao nhiêu nhân mã, mặc

cho cái đám hèn hạ đó bàn tán sau lưng, ta sẽ làm theo chủ định của ta.

Bị hắn sờ nắn đùa bỡn, vị hoàng hậu trẻ tuổi nằm trong lòng hắn giảy nảy như

cá mắc cạn, thở dốc không nói được gì. Hai người lăn từ trên ghế xuống thảm

nhung, đai lưng được cởi ra, từng tấm y phục bị vất trên mặt đất; rất nhanh, một

thân thể cường tráng màu đồng trùm lên một tấm thân trắng trẻo và mềm mại...

Hơi thở nóng hừng hực của Bá Nhan phà lên bộ ngực cao vút và căng tròn củacô nàng. Hắn cúi đầu nhìn đôi gò tuyết lê đầy đặn mịn màng, thấp giọng nói:

- Giết xong Chính Đức, đoạt được Liêu Đông, Cam Túc và Thanh Hải, kế đó sẽ

đoạt cả thiên hạ, xây dựng lại Đại Đô! Hoàng hậu của ta, nàng sẽ theo ta đánh thẳng

đến thắng lợi!

Ưm một tiếng, cặp đùi săn mẩy và mềm mại liền kẹp lấy hông hắn. Bá Nhan

hừm khẽ rồi mạnh mẽ "đánh" vào...

**************************************************

***********************************

Trên tường thành, Dương Nhất Thanh mỉm cười sánh vai bước đi cùng Dương

Lăng và Trương Vĩnh, quan binh đứng nghiêm trên quan ải Trường Thành, trải dài

không thấy điểm cuối. Khói súng vẫn chưa tan, mùi máu tanh vẫn còn rất nồng,

nhưng nhuệ khí binh sĩ dâng cao. Đối với bọn họ, có thể thắng trận, có thể sống sót

trở về chính là điều hạnh phúc nhất.

Dương Lăng nói với Dương Nhất Thanh:

- Dương tổng chế! Nghe báo đại quân thắng trận, Hoàng thượng rất ư vui mừng

thanh thản. Trước tiên ngài hạ thánh chỉ phong Dương đại nhân làm Tổng chế tam

biên, sau lại ra lệnh cho bản quân đích thân vận tải một ít vật phẩm để ủy lạo quân

sĩ. Mọi thứ như gạo mì, thịt rau, trái cây, cá trứng, chăn mền quần áo; các loại thuốc

men phòng chống và chữa trị các loại bệnh sương lạnh, ôn dịch, đau bụng thổ tả;

dầu mỡ, bao tay, than củi để chống rét sưởi ấm đều có. Chúng tôi đều đã đưa mỗi

thứ một ít đến, hiện đang để dưới ải, vẫn xin đại nhân phái người kiểm nhận.

Trương Vĩnh cũng cười bảo:

- Còn có ngân lượng ban thưởng cho ba quân, bạc và một ít nhu yếu trợ cấp cho

sĩ tốt thương tật. Cũng xin đại nhân mau chóng liệt kê danh sách, bảo quan thư ký

thẩm tra rồi báo lên. Hoàng thượng rất hài lòng với lần đại thắng này và chiến sách

tiêu hao quân Thát Đát, khiến chúng không trộm được gà còn mất gạo của đại nhân.

Đúng rồi, sao không thấy Miêu công công đâu?Trương Vĩnh thích cầm quân, Miêu Quỳ cũng mê đánh trận, hai người này một

người nắm Ngự Mã giám, một kẻ giữ Binh Doanh, tính tình cũng khá hợp nhau.

Tuy Miêu Quỳ lần đầu đốc chiến gặp xui nên phải đoái công chuộc tội, song vẫn

đảm nhiệm chức giám quân của ba quân, theo lý thì lão nên có mặt trên quan ải mới

phải.

Không ngờ Dương Nhất Thanh nghe hỏi lại hơi sững người rồi mới đáp:

- Bản quan đã cho trạm dịch quân đội đưa tin về kinh. Với tốc độ của bọn họ,

hẳn là Hoàng thượng nhận được từ lâu rồi chứ, chẳng lẽ Hoàng thượng chưa thông

báo cho hai vị khâm sai sao?

Trương Vĩnh và Dương Lăng trố mắt nhìn nhau. Dương Lăng lắc đầu bảo:

- Việc đó... hẳn là trên đường bị trì hoãn, chúng tôi chưa từng nhận được công

báo trong kinh.

Đáp xong, y hơi chột dạ. Hoàng đế đang ở trong quân, tấu chương được đưa

vào kinh cũng chỉ có ba đại học sĩ mới được xem. Chính Đức lại bí mật lẻn đi, để

tránh tiết lộ tin tức, e rằng trừ phi là chuyện vô cùng khẩn cấp, ba đại học sĩ cũng

không dám phái người đưa tấu chương đến trình lên Hoàng đế.

Dương Nhất Thanh nói:

- Ồ! Miêu công công cùng với Tổng binh Hứa Thái đã..., - nói đến đây hắn chợt

ngưng lại, thấp giọng - Đợi vào trong quan lầu(3) hẵng nói. Quân vụ mà Miêu công

công và Hứa Thái chấp hành hết sức cơ mật, không nên để quá nhiều người biết.

Dương Lăng hiểu ý gật đầu. Trông thấy dưới cửa ải sĩ tốt vẫn đang bận bịu dìu

đỡ thương binh và dọn dẹp chiến trường, Dương Lăng lại nói:

- Dương tổng chế! Mục đích chia rẽ Bá Nhan và Hỏa Sư và tiêu hao lương thảo

của bọn chúng đã đạt được, sắp đến đây hẳn sẽ tăng cường thế tiến công, đánh đuổi

chúng về. Áng chừng một hai tháng nữa là xuân ấm tuyết tan, trăm họ cũng phải

cấy cày, không thể kéo dài tiêu hao chiến với chúng ở đây.Dương Nhất Thanh gật đầu đáp:

- Dương khâm sai nói rất đúng! Bản quan cũng đang lo nghĩ chuyện này, có

điều tạm thời vẫn phải kìm chân bọn chúng thêm mấy ngày. Về phần nguyên nhân,

ha ha, nó cũng có liên hệ với chuyện ban nãy. Bản quan thấy mấy ngày nữa hẳn là

sẽ có tin tức trở về rồi, kéo dài thêm nữa thì bản quan cũng chịu không nổi đâu.

Mấy trăm vạn nhân khẩu ở vùng biên giới, còn hơn mười vạn đại quân; lương

thảo chiến mã sử dụng càng lớn hơn nữa. Thảng như chiến sự kéo dài, nếu không có

đồn điền quân binh mà chỉ dựa vào quân nhu lương thảo của triều đình, e rằng triều

đình sẽ gánh không nổi, quân dân cũng sẽ bị đói. Đó là chuyện lớn!

Dương Nhất Thanh thân là Tam quan tổng chế, không chỉ phụ trách chiến sự,

mà còn phải phụ trách công việc có liên quan đến quân chính, đồn điền. Mỗi năm

đồn điền quân binh có thể giải quyết được một số lượng khẩu phần khá lớn, tầm

quan trọng của nó không kém gì tác chiến.

Dương Nhất Thanh nói đến đây thì không nén được thở dài. Hắn là Tam quan

tổng chế, binh mã dưới tay là do binh lính từ các trấn Đại Đồng, Thái Nguyên và

Tuyên Phủ tập hợp mà thành, những kiêu binh mãnh tướng lâu năm trấn thủ biên

thùy nào có dễ nghe lời.

Mấy năm trước Tổng binh Đại Đồng ngược đãi sĩ tốt, đám quân binh đánh trận

không sợ chết này nào biết kính sợ quyền uy là gì, bèn nổi loạn làm thịt luôn gã

Tổng binh, gây loạn một hồi. Triều đình muốn bắt kẻ đầu têu gây rối nhưng cũng

không thể lần ra.

Tuy Dương Nhất Thanh xuất thân từ quan văn nhưng đã gia nhập quân đội từ

lâu nên biết rõ quân đội là một tổ chức tương đối độc lập. Trong quân đội coi trọng

nhất là uy danh, lai lịch, địa vị, hoặc là chiến công to lớn, hoặc là sự từng trải đủ

lâu; nói chung là phải trấn áp được tình hình, bằng không sẽ rất khó điều khiển quân

đội hay bố trí công thủ theo ý muốn.

Dẫn lính, cầm binh, điều khiển, tác chiến đều chú trọng đến quan hệ, tín nhiệm

và ủng hộ của tướng sĩ, nếu chỉ dùng hình phạt nghiêm khắc sẽ không thể trấn ápđược đám người lăn lộn trong đống xác chết này. Nếu không có cơm ăn, đó thực sẽ

là chuyện lớn.

Cuộc chiến lần này đã kéo dài quá lâu. Tuy rằng Bá Nhan bị tổn thương lớn

hơn, nhưng chẳng lẽ tiền bạc và lương thực mà Đại Minh đã tiêu hao mất lại không

phải là vấn đề lớn?

Dương Nhất Thanh khẽ thở dài, nói tiếp:

- Nơi đây núi nhiều đất ít, ruộng đất cằn cỗi, nếu gặp thêm nạn hạn hán hay nạn

châu chấu, thu hoạch mùa màng sẽ giảm súc nghiêm trọng. Tam quan có đông quân

dân, nhiều chiến mã súc vật như vậy, một khi thiếu lương thực thì lòng quân lẫn

lòng dân đều sẽ không yên. Bản quan đang cân nhắc sang xuân mất mùa sẽ cho

quan binh bổ núi khai khẩn thêm ít ruộng núi. Có điều là... chút muối bỏ bể, có còn

hơn không mà thôi.

Chợt máy động trong lòng, Dương Lăng liền mừng rỡ nói:

- Nếu như những mảnh đất cằn cỗi này khó xơi như gân gà, không ảnh hưởng

mấy đến việc chuẩn bị lương thực thì bản quan có vài giống cây trồng cho sản

lượng rất cao, không biết Dương tổng chế có bằng lòng cho trồng thử không? Trước

hết sẽ cho trồng thử trong quân điền, năm sau nếu được mùa, sẽ tặng giống ấy cho

trăm họ, tam quan cũng có thể trở thành kho lương của Tây Bắc vậy.

Dương Nhất Thanh ra vẻ xúc động, vội hỏi:

- Có giống cây trồng như thế ư?

Dương Lăng gật đầu đáp:

- Phải! Bản khâm sai có thể đảm bảo mấy giống cây trồng khoai lang, khoai tây,

ngô từ Tây dương mà bản quan tiến cử. Hiện tại lúa mạch trồng trên một mẫu đất

cằn đất cỗi, cho dù ông trời nể mặt giúp cho mưa thuận gió hoà thì cố lắm cũng chỉ

có sản lượng từ ba đến năm trăm cân là cùng, còn loại khoai lang này có thể đạt đến

ba nghìn cân trở lên. Tuy chỉ là ít lương thực phụ, nhưng là thứ cây trồng rất tốt đểlót dạ lót dày, lại không tranh ruộng tốt với lúa mì lúa mạch. Dương tổng chế thấy

thế nào?

Dương Nhất Thanh nghe xong thì kinh ngạc vô cùng, vội đáp:

- Một mẫu cho ba nghìn cân? Thực không dám nghĩ, thực không dám mơ! Ở cái

địa phương này, nếu không tranh ruộng tốt, không phải để ý sắc mặt ông trời, một

mẫu cho được nghìn cân đã đủ khiến bản quan cảm ơn trời đất rồi. Còn về phần

lương thực phụ, bà mẹ nó chứ, người đói còn gặm cả rễ cây, ai còn đi so đo mấy thứ

đó?

Dương Lăng nghe vị danh tướng có xuất thân tiến sĩ này thốt ra một câu thô tục

như vậy thì không khỏi bật cười. Lúc này ba người đã đi đến cạnh thành lầu phía

trên cửa quan của bảo Trấn Khương, Dương Nhất Thanh dừng bước cười nói:

- Nơi đây rất đơn sơ nhưng dẫu sao cũng có thể che chắn gió tuyết. Xin mời hai

vị khâm sai vào!

Dương Lăng cười nói:

- Tổng chế đại nhân khách sáo rồi.

Đoạn y quay đầu lại ra lệnh cho hai trăm thân quân thị vệ:

- Các ngươi không cần phải chờ ở đây, cứ xuống quan ải giúp đỡ quân thủ vệ

mang gạo mì thịt để ăn... ăn... ăn...

Lúc y xoay lại, một bóng người đứng sau đám đông chợt vội vã nấp vào sau

lưng mấy tay thị vệ. Có điều người này y quá quen thuộc đi, nên y chỉ mới liếc sơ

qua liền khiếp đảm đến trợn tròn hai mắt, thiếu chút nữa thì lòi cả tròng.

Vẻ kỳ lạ của Dương Lăng khiến toàn bộ sĩ tốt đều quay đầu lại nhìn, trên cổng

thành nhất thời lặng ngắt như tờ. Tay "tiểu hiệu úy" đó đứng nấp sau lưng một thị

vệ cao to một chốc, rồi lại rì rì lấp ló đi ra.

Dương Nhất Thanh và Trương Vĩnh vừa trông thấy, sắc mặt cũng lập tức trắngbệch. Ba người cùng trố mắt nhìn hắn, nhất thời không dám tin vào mắt mình. Theo

ánh mắt của ba vị đại nhân, đám thị vệ liền dạt sang hai bên, dẹp đường cho viên

tiểu hiệu úy khôi ngô tuấn tú nọ.

Tuy Chính Đức đi đến đâu là vạn cặp mắt đều dồn về phía đó, nhưng chưa từng

có nhiều người dám trợn tròn mắt nhìn hắn chằm chằm như vậy, khiến hắn cũng

cảm thấy không thoải mái.

Chính Đức ngại ngùng cười vẻ xấu hổ với ba người, rồi chậm rãi bước tới, lúng

ta lúng túng như một đại cô nương, tướng đi hệt như một con búp bê rối.

(

Chú thích:

1) còn được gọi là "khống quân đài", dùng để quan sát, bắn ngang, phối hợp tác

chiến, đề phòng quân giặc xuất hiện nơi điểm mù, lại có thể quan sát sự biến hoá

của địch tình mà mau chóng áp dụng lấy biện pháp ứng biến phù hợp. Xem hình ()

(2) nguyên văn là "minh", trỏ nhóm các bộ lạc Mông Cổ gộp lại thành một liên

minh, tạm dịch chung là "nhóm bộ lạc".

(3) lầu quan sát trên thànhNGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 191: Thư Nhà

Trong đám thân quân thị vệ của Dương Lăng cũng chỉ có vài người biết được

thân thế thực sự của Chính Đức, cho nên đa số thân quân trông thấy đại nhân nhìn

chăm chăm một vị tiểu hiệu thì đều rất kinh ngạc.

Nhìn vị tiểu hiệu úy tuấn tú trẻ măng đó, rồi lại trộm nhìn ánh mắt chằm chằm

của đại nhân, Lưu Đại Bổng Chùy, vừa mới trở thành thân quân thị vệ của Dương

Lăng, liền bừng tỉnh ngộ.

Vào thời Minh, "nam phong(*)" rất được ưa chuộng, được xem là tục phong

lưu thời thượng, không ai bài xích hoặc khinh thường. Song song với việc bầu bạn

cùng mỹ nữ, phần lớn vua chúa công khanh và danh sĩ tài tử đều có nam sủng tuấn

tú và dịu dàng kề cận, bình thường thì mang theo làm thư đồng, đến tối thì trở thành

bạn nô giỡn trên giường. (*: đồng tính nam)

Thời đó, quan hệ tình dục giữa hai người đồng giới được gọi là "ngoại giao(*)",

giữa đàn ông và đàn bà thì gọi là "nội giao". "Ngoại giao" chẳng những được đạo

đức, pháp luật, phong tục và tập quán đương thời thừa nhận mà những ái nhi (luyến

đồng) được sủng ái còn được hưởng quyền lợi như là thị thiếp: bình thường thì

được trợ cấp tiền bạc, đến khi hơi lớn tuổi cần phải rời chủ nhân đi cưới vợ thì sẽ

còn được chủ nhân tặng thêm cho một món tiền. (*: "giao" ở đây là giao phối)

Sớm đã nghe nói đến phong tục của thượng tầng xã hội này, Lưu Đại Bổng

Chùy trông thấy Dương đại soái và viên tiểu hiệu úy da dẻ mịn màng như đại cô

nương nọ mờ mờ ám ám, hơn nữa, lúc này tướng đi của Chính Đức lại hơi ngượng

nghịu khiến hắn càng nhìn càng sởn gai ốc. Xem ra gã tiểu hiệu úy tuấn tú này ắt

hẳn là nam sủng của đại soái rồi!

Xoa xoa bộ râu quai nón của mình, Lưu Đại Bổng Chùy không khỏi thầm cảmthấy may mắn. May mà được mẹ già đẻ ra mình mặt xấu tướng thô, bằng không

một đại nam nhân như mình mà bị đại soái nhìn trúng thì sẽ chướng biết dường

nào?

Dương Lăng không hề hay biết vị thuộc hạ khù khờ ngốc nghếch mới tuyển của

y lại còn có sức liên tưởng phong phú đến như vậy. Y cũng mặc đám thị vệ không

rõ nội tình đang suy nghĩ những gì, đợi Chính Đức đi đến bên cạnh liền lập tức nắm

lấy tay hắn kéo vào trong thành lầu. Dương Nhất Thanh và Trương Vĩnh đưa mắt

nhìn nhau rồi cũng vội vã bước theo vào.

Đám Tham tướng, Phó tướng, Tì tướng bởi chức quan còn thấp nên chưa từng

tận mắt nhìn thấy thiên nhan, mà cho dù mở rộng đầu óc ra gấp đôi thì bọn họ cũng

không thể tưởng tượng được chàng trai trẻ mặt mày trắng trẻo này lại chính là thiên

tử Đại Minh, là đương kim hoàng đế. Mặc dù bọn họ ai nấy đều nghi vấn đầy bụng,

nhưng vốn từ một tiểu tốt lăn lộn đến chức vị ngày hôm nay nên cả bọn vẫn còn có

đủ định lực, tất cả bèn giả tảng như chẳng có gì lạ thường, cùng thản nhiên bước

theo vào.

Nhìn từ ngoài vọng lâu trông rất đơn giản, bên trong cũng chia ra làm ba gian là

ngoài, giữa, và trong. Gian ngoài là nơi tiếp khách và chỉ huy chiến đấu hằng ngày.

Gian giữa tương đối trống trải, ngoại trừ một tấm bản đồ lớn treo trên tường và một

tấm sa bàn lớn đặt chính giữa phòng thì không còn thứ gì khác. Đây là nơi mà Tổng

chế Tam quan Dương Nhất Thanh cùng các tướng bàn bạc quân vụ và hoạch định

sách lược. Gian trong là thư phòng và phòng ngủ của Dương Tổng chế. Dương

Lăng kéo hoàng đế Chính Đức bước băng băng vào thẳng gian trong, Dương Nhất

Thanh và Trương Vĩnh cũng quýnh quáng chạy theo vào.

Các tướng vừa mới bước theo vào thành lầu thì Dương Nhất Thanh lại vụt ló

đầu từ sảnh giữa, quát:

- Các tướng lĩnh đợi ở đây! Bản tướng có việc quan trọng phải thương nghị với

hai vị khâm sai.

Nói đoạn hắn kéo tấm rèm nỉ dày cộp che lại, rồi đóng sập thêm cửa trong.Mặc kệ chúng tướng bên ngoài trố mắt kinh ngạc, đằng sau cánh cửa Dương

Nhất Thanh lật đật chạy thẳng vào gian trong, quỳ xuống trước mặt Chính Đức, nén

giọng thưa:

- Thần Dương Nhất Thanh khấu kiến Hoàng thượng!

Chính Đức liếc sang Dương Lăng, thấy y mặt chảy xệ, không nói tiếng nào thì

không khỏi bật cười hì hì. Hắn tuy nông nổi, song không phải là hôn quân không

biết phải trái, đương nhiên hiểu rõ sự quan tâm và lo lắng của Dương Lăng đối với

hắn, cho nên sắc mặt hắn không hề có vẻ bất cần.

Hắn ngồi lên chiếc ghế dựa mà Dương Nhất Thanh thường ngồi, cười bảo:

- Đứng dậy đi! Ở đây không cần phải đa lễ.

Dương Nhất Thanh vừa vội vã đứng dậy liền mở miệng hỏi ngay:

- Hoàng thượng! Sao ngài... sao ngài lại đến đây?

Mặt Trương Vĩnh cũng trắng bệch, giọng run rẩy:

- Phải đó Hoàng thượng! Ngài thực dọa chết nô tài rồi! Khi nãy bên ngoài còn

có thiên quân vạn mã, may mà giặc Thát không mạnh bằng quân Nguyên năm đó,

trong tay không có trọng pháo để dùng, nếu không ngộ nhỡ... ngộ nhỡ..., - lão nói

đến đây thì không khỏi rùng cả mình.

Chính Đức cười nói:

- Lại nữa rồi! Trẫm biết, thân trẫm gắn liền với thiên hạ nên phải vì thiên hạ mà

yêu tiếc lấy thân, thế nhưng già quá sẽ hóa non, mọi việc không thể lo quá nhiều.

Đại Hãn của giặc Thát có thể đích thân lên ngựa chinh chiến sa trường, chẳng lẽ

ngay cả dũng khí lên lầu trên tường thành xem giặc liệu trận mà trẫm cũng không

có? Khanh muốn trẫm làm Hoàng đế thế nào?

Lời hắn tuy nói đùa, nhưng ý oán trách trong lời rất nặng, Trương Vĩnh nghe

xong lập tức nín bặt, không dám nói thêm điều gì. Dương Lăng thấy vậy lại địnhdâng lời, Chính Đức trông thấy biết ý bèn nhảy tót dậy, sải bước đến sảnh giữa

ngắm nghía tấm sa bàn lớn có sông ngòi đồi núi, sa mạc thảo nguyên.

Dương Lăng không biết phải làm thế nào, đành đi theo sang bên ấy. Dương

Nhất Thanh vội vã bước theo y, thấp giọng hỏi dồn:

- Ôi trời ơi! Sao Hoàng thượng lại theo đến đây vậy? Hoàng thượng đến Đại

Đồng làm gì? Dương đại nhân ơi, ngài hãy làm ơn mời Hoàng thượng mau trở về

kinh sư đi. Mới vừa nhìn thấy Hoàng thượng mà tôi đã cóng hết cả chân tay, sợ đến

muốn ngất rồi. Hoàng thượng mà ở đây, tôi thực sẽ không biết đánh trận như thế

nào nữa đâu!

Dương Lăng cười khổ sở, nhất thời cũng không biết phải bắt đầu giải thích từ

đâu. Chính Đức chắp tay đứng trước sa bàn, chăm chú quan sát một hồi, vui sướng

khen:

- Tốt, địa hình, địa thế, địa mạo thật chi tiết! Biết người biết ta, trăm trận trăm

thắng.

Nói đến quan ải thành trấn của Đại Minh thì ai nấy đều rõ như lòng bàn tay.

Thế nhưng đối với kẻ giặc lâu năm như là Thát Đát, chúng ta lại chỉ biết rằng

bọn chúng chia làm sáu nhóm bộ lạc và địa hình đại khái của chúng, mà nói một

cách cụ thể, cũng không ngoài một mảng sa mạc và thảo nguyên rộng lớn. Trong

khi đó tấm sa bàn này lại thể hiện rõ cả sông ngòi, nếu giao phong cùng Thát Đát

trên thảo nguyên, chỉ riêng tấm bản đồ này đã đáng giá mười vạn đại quân rồi.

Dương khanh nghĩ sao?

Tính cách ham chơi và bốc đồng của Chính Đức che mắt rất nhiều người, đến

nỗi rất nhiều bậc túc nho thầm đau xót vì thiên tử bất tài vô năng mà không ai thèm

để ý đến trình độ về Phật học, âm nhạc và binh pháp của vị tiểu hoàng đế mới chỉ

mười sáu tuổi này. Tuy rằng về mặt binh pháp hắn chỉ mới ở mức dụng binh trên

giấy, nhưng không có nghĩa là hắn không có kiến thức tương ứng. Một tấm bản đồ

tác chiến chi tiết, đặc biệt là tấm bản đồ đó lại ghi chú những khu vực, đồng núi,

sông ngòi, thảo nguyên và ao đầm xa lạ một cách tỉ mỉ đến như vậy, tác dụng củanó nào chỉ mười vạn quân.

Không kịp trả lời Dương Nhất Thanh, Dương Lăng bèn vội gật đầu cười đáp:

- Lời của Hoàng thượng rất phải. Quan ải có kiên cố, Trường Thành có hùng vĩ

và hiểm trở đến đâu, nếu chỉ biết thụ động chờ người Thát Đát lấn hiếp đến cửa, thì

cũng có ngày sẽ bị công phá. Trường Thành được xây từ đời Tần, tuy rằng không

phải không có tác dụng, nhưng dẫu cho triều này nối tiếp triều kia, chuyện man tộc

xâm phạm trung thổ vẫn xảy ra liên miên. Chỉ khi nắm rõ nội tình của chúng, có

một ngày lấy công thay thủ, tiêu diệt hoàn toàn con hổ dữ nằm ở đầu giường này thì

mới là lẽ phải.

Chính Đức vỗ tay khen:

- Chính hợp ý trẫm! Dương tổng chế, tấm bản đồ này là do trinh sát của khanh

vẽ à? Đáng được trọng thưởng!

Dương Nhất Thanh liếc sang Dương Lăng rồi đáp:

- Hồi bẩm Hoàng thượng, đó là... bản đồ do mật thám Nội xưởng dùng việc

buôn bán đồ da, trà và ngựa làm vỏ bọc, đi khắp đại mạc vẽ ra, rồi giấu dưới yên

ngựa mang về. Dương xưởng đốc trình bản đồ lên cho Bộ Binh, Lưu thượng thư sai

biên quan chế tạo ra đấy ạ.

- Ồ? - Chính Đức có phần bất ngờ, hắn vui sướng nói với Dương Lăng: - Nhìn

không ra! Thật là nhìn không ra! Trẫm còn tưởng Nội xưởng chỉ biết kiếm bạc cho

trẫm thôi chứ. Ừm, làm rất tốt, so với mật thám Cẩm Y vệ thực mạnh hơn gấp trăm

lần.

Dương Lăng mang máng nhớ đến chuyện này. Khi Ngô Kiệt trình giao tấm bản

đồ cho y. lão cũng cao hứng một hồi, nhưng khi ấy công tác nghiên cứu chế tạo hỏa

súng của Nội xưởng vừa được mốt số kết quả khả quan cho nên y đặt toàn bộ sự

chú ý lên phương diện đó. Vả lại tạm thời Đại Minh cũng không thể đi đánh Thát

Đát cho nên y bèn căn dặn Ngô Kiệt lưu giữ một bản, sao chép cho Bộ Binh một

bản, không ngờ Lưu Đại Hạ đã đưa đến biên quan.Y nhìn kỹ tấm bản đồ. Các quan ải dọc tuyến quân Minh đều được đánh dấu rõ

ràng, nhưng ba phần tư hình ảnh trên tấm sa bàn là đại mạc thảo nguyên. Thiết nghĩ,

hiện tại quân Minh là thủ, Thát Đát là công, hành tung của đại quân chẳng qua chỉ

trong vòng trăm dặm, đặt một tấm bản đồ sa bàn của Thát Đát trong căn phòng

Dương Nhất Thanh nghiên cứu chiến sự hằng ngày để làm gì?

Nghĩ đến đây, Dương Lăng bỗng máy động trong lòng, trong đầu thoáng hiện

lên một ý nghĩ. Lúc này Dương Nhất Thanh đã trả lời xong câu hỏi của Chính Đức,

hắn tiếp tục khổ sở khuyên nhủ:

- Hoàng thượng! Mọi việc lớn trong thiên hạ đều cần có ngài quyết định! Một

khi tin tức không có ngài tọa trấn kinh sư lan truyền ra ngoài, lòng dân ắt sẽ không

yên. Thần nghĩ Hoàng thượng nên sớm hồi kinh mới phải ạ!

Chính Đức xua tay đáp:

- Không vội không vội! Trẫm đến đây cũng vì có đại sự phải làm. Việc ấy mà

thành sẽ đáng giá như được năm mươi vạn quân vậy. Ha ha! Chốc nữa hãy bảo

Dương khanh nói rõ cho khanh nghe. À đúng rồi, vừa nãy khanh bảo Miêu Quỳ đã

đi làm việc gì?

Vừa nhắc đến việc này, sắc mặt Dương Nhất Thanh liền trở lên ngưng trọng,

hắn bước lên thưa:

- Hoàng thượng! Bởi cần thực hiện gấp trước khi Bá Nhan Mãnh Khả lui binh,

thời gian khẩn cấp, tấu chương đưa lên kinh thành lại cần đại thần các bộ thảo luận

và thông qua, đi hết một vòng sẽ mất phải hơn nửa tháng, vuột mất thời cơ. Do đó

thần đã lệnh cho đại quân xuất chinh.

Hoàng thượng đã âm thầm đến Đại Đồng, vậy ắt chưa nhận được tấu chương

của thần, thần đành bẩm tấu với Hoàng thượng một lần nữa vậy.

Rồi hắn liếm môi, chỉ vào sa bàn diễn giải:

- Năm nay Thát Đát gặp phải tuyết to, cộng thêm Bá Nhan Mãnh Khả manglòng báo thù cho con, cho nên hắn đã tập hợp các bộ lạc xâm phạm Trung Nguyên.

Bảy vạn thiết kỵ đã là toàn bộ số tinh binh trên thảo nguyên.

Khi xưa tác chiến, đánh bại quân giặc xâm phạm, đuổi nó ra khỏi quan ngoại đã

là đại thắng, nhưng thần nghĩ rằng, ta ở biên quan giết một vạn quân giặc sẽ không

khiến lòng quân lòng dân của chúng bị đả kích bằng xâm nhập vào ngay bản thổ, ở

ngay trong nhà chúng mà giết một trăm. Khi xưa chúng ta không nắm rõ tình hình

lẫn địa thế của chúng ra sao, mạo muội xuất binh chẳng khác nào kẻ lòa dắt ngựa

mù, nhưng nay thì không như vậy nữa.

Dương Nhất Thanh nhìn Dương Lăng với ý khen ngợi, rồi nói tiếp:

- Nội xưởng của Dương đại nhân hoạt động ở quan ngoại rất hiệu quả, thông tin

tình báo đưa đến ùn ùn, vi thần nắm chắc mọi việc trong lòng mới dám to gan vạch

ra kế này.

- Hoàng thượng ngài xem!

Dương Nhất Thanh vừa nói vừa trỏ vào bản đồ thảo nguyên nhấp nhô trập

trùng. Chính Đức, Dương Lăng và Trương Vĩnh cùng nhìn chăm chú vào chỗ hắn

trỏ:

- Chỗ này là nhóm bộ lạc Tích Lâm Quách Lặc, nhóm Sát Cáp Nhĩ Bộ, chỗ này

là nhóm bộ lạc Y Lặc Hô Lý, nhóm Nhĩ Nhã Phạm, nhóm Ngạch Nhĩ Hoàn Nạp và

nhóm Triết Lý Mộc, chỗ cắm cây cờ xanh này là nhóm bộ lạc Chiêu Ô Đạt.

Dương Nhất Thanh đắc ý nói tiếp:

- Phái một đội quân đơn độc xâm nhập vào sau lưng giặc vốn là điều đại kỵ

trong binh pháp. Nhưng theo tình báo mà chúng ta nhận được, lần này Thát Đát dốc

toàn bộ tinh binh ra chiến trường, hậu phương cực kỳ trống trải, người còn lại của

mọi nhóm bộ lạc đều là người già phụ nữ và trẻ con, số binh sĩ ở lại trấn giữ có khả

năng chiến đấu ít ỏi vô cùng.

Người Thát Đát lấy du mục làm lẻ sống, không có thành trì. Trước đây, cho dùchúng ta biết doanh trại bọn chúng trống rỗng cũng không cách nào tìm được vị trí

của chúng trên đại mạc thảo nguyên rộng mênh mông, nhưng hiện tại đã có tình báo

chính xác. Ta lại dựa vào bản đồ chi tiết, trước hết định rõ một con đường rút lui rồi

thu xếp đại quân tiếp ứng khi cần. Cái kế hoạch một vốn bốn lời đầy rẫy nguy cơ

này đáng để mạo hiểm.

Trương Vĩnh rùng mình, kích động hỏi:

- Dương tổng chế phái một cánh quân đơn độc xâm nhập vào sau lưng quân

địch để tác chiến?

Dương Nhất Thanh gật đầu đáp:

- Đúng vậy! Đó là một đạo khinh kỵ gồm năm nghìn người, hoàn toàn là quân

tiên phong lấy phá hoại làm mục đích mà không lấy chém giết làm nhiệm vụ. Đạo

quân đơn độc này không nhận được chi viện và cung ứng từ quân nhà cho nên nhất

định phải cướp đoạt lương thảo và cấp dưỡng từ các bộc lạc của người Thát Đát,

dùng chiến tranh nuôi chiến tranh.

Người Thát Đát kiêu dũng thiện chiến, nhưng những bộ lạc sâu tận trong thảo

nguyên ở hậu phương của bọn chúng lại không hề có sức chiến đấu. Mệnh lệnh của

bản quan là giảm thiểu việc tàn sát những người già phụ nữ và trẻ con đến mức thấp

nhất, sự sống sót của bọn họ chính là đồng minh của chúng ta và là gánh nặng của

Bá Nhan Mãnh Khả. Nhưng phải cố hết sức phá hủy mọi thứ.

Mỗi khi đến tháng chín tháng mười, giặc Thát lại bắt đầu cắt cỏ phơi khô và

tích trữ một lượng lớn cỏ khô chất cao như núi, đến đông sẽ lấy cỏ khô để nuôi bò

nuôi dê, lấy dê bò nuôi người. Mệnh lệnh của bản quan là: ăn hết dê bò của chúng,

đốt sạch cổ khô của chúng, giống như một đàn châu chấu quét ngang thảo nguyên

của bọn chúng vậy.

Điều này nhằm đẩy các nhóm bộc lạc này vào tình thế phải đến nhóm bộ lạc

khác cướp bóc; để bọn chúng có giàu có nghèo, có người sống có kẻ chết đói. Dân

tộc du mục coi cướp bóc là chuyện thiên kinh địa nghĩa, tin rằng khi Bá Nhan Mãnh

Khả trở về thảo nguyên, trừ phi hắn có thể cung cấp đủ lương thực cứu tế nạn dâncác bộ lạc, bằng không nội bộ bọn chúng sẽ nổi lửa chiến tranh bốn bề. Cho dù là

hắn cũng không thể đàn áp nổi!

Dương Lăng nghe xong bèn liếc nhìn vị nho tướng này. Khuôn mặt đen đúa và

gầy còm của Dương Nhất Thanh chứa đầy sát khí, dưới ngọn đèn mỡ bò mặt lão

trông có phần nanh ác. Dương Lăng không khỏi thầm khen: "Hay cho một gã bại

hoại trong vẻ nho nhã, một gã lưu manh trong lốt tướng tài!"

Chính Đức thoáng ngẩn người một lúc rồi đột nhiên hít sâu vào một hơi, hỏi:

- Chiến sách này là do khanh quyết định?

Dương Nhất Thanh không biết tâm ý của Hoàng thượng thế nào. Dứt khoát

chiến pháp này sẽ giúp giảm nhẹ áp lực cho quân Minh rất nhiều: cho dù quân Minh

không chủ động công kích Thát Đát, nhưng chỉ cần bọn họ nghiêm cẩn chống giữ,

không để quân Thát Đát chiếm lợi thế thì vẫn có thể ngồi nhìn Thát Đạt bị nội loạn,

ít nhất cũng có thể đảm bảo cho dân chúng vùng biên ải sống yên ổn được ba năm.

Nhưng suy cho cùng, chiến lược này khó tránh có phần quá vô lại, động đến hòa khí

của đất trời; cho nên Dương Nhất Thanh vẫn chưa dám nói rõ chiến sách này do ai

nghĩ ra.

Lúc này hắn trộm liếc thấy sắc mặt của Hoàng thượng bình tĩnh, không giống

như tức giận. Với cá tính dễ kích động của tiểu Hoàng đế, nếu thật có điều gì bất

mãn thì e rằng đã sớm biểu hiện ra bên ngoài rồi. Suy luậnnhư vậy nên hắn mới có

can đảm thưa:

- Hồi bẩm Hoàng thượng! Đây là biện pháp do phó tướng Vương Thủ Nhân của

thần sau khi nhận được tình báo chi tiết của Nội Xưởng đã nghĩ ra.

Thần cùng các tướng lĩnh trong quân lại cùng nghiên cứu kỹ lưỡng, cố sức hoàn

thiện rồi mới cho thi hành. Vì để được ổn thỏa nên đòi hỏi toàn bộ thời gian hành

động của bọn họ chỉ có hai mươi ngày, nhắm đến khi thư cầu viện đến tay Bá Nhan,

đại quân Mông Cổ rút về cứu viện thì bọn họ đã theo con đường đã dự định sẵn mà

trở về an toàn rồi.Dương Lăng cười hắc hắc khen:

- Hay cho một kế sách hiểm độc, phản khách vi chủ, qua cầu rút ván!

Y là bầy tôi được Chính Đức yêu mến nhất, thấy y mở miệng khen Dương Nhất

Thanh càng thêm vững tin, vội cười nói:

- Kế này có hay chăng nữa cũng là nhờ có tin tình báo chuẩn xác và tỉ mỉ của

đại nhân. Bằng không năm nghìn nhân mã này sẽ như lấy bánh bao đi đánh chó, lạc

vào trong đồng tuyết mịt mù, e là chưa tìm được bộ lạc nào thì đã chết đói, chết

cóng ở đó rồi.

Chính Đức ngơ ngẩn một hồi, rồi chợt khẽ thở dài, lắc đầu nhè nhẹ. Dương

Nhất Thanh hơi rét trong bụng, lúng túng thưa:

- Thần cũng biết kế này ác độc, tổn hại đến lẽ thuận hòa của thiên triều thượng

quốc...

Hắn chưa nói xong, Chính Đức đã thở dài:

- Đáng tiếc! Chỉ tiếc là bảy vạn đại quân Thát Đát vẫn đang ngông nghênh

trước quan ải, bằng không phải bắt hết đám vương tử, công chúa quý tộc Mông Cổ

về làm thái giám và cung nữ.

Dương Nhất Thanh sững sờ nhìn vị thiên tử của Đại Minh còn vô sỉ hơn hắn

đang lẩm bẩm, không biết phải nói gì. Vốn hắn định nịnh hót Hoàng thượng vài

câu, nhưng khen ngợi Hoàng đế anh quân nhân đức như Tam Hoàng Ngũ Đế(1)

hình như không thích hợp cho lắm.

Trong lúc Hoàng đế Chính Đức luôn ôm mộng làm cường đạo còn đang lắc đầu

"nuối tiếc", Dương Lăng đã nhịn cười hỏi:

- Dương tổng chế! Lúc này đại quân đã xuất phát được mấy ngày rồi? Người

nào dẫn quân?

- Hả? À ờm....,Dương Nhất Thanh đang mãi lo tiểu hoàng đế chưa từng trải qua sự tàn khốc

của chiến tranh, được các vị đại nho một bụng Kinh thư bắt học theo sách thánh

hiền sẽ không đồng ý với mưu kế này, nghe Dương Lăng hỏi mới sực tỉnh.

Hắn vội đáp:

- Đã đi được chín ngày. Vốn Vương phó tướng định đích thân cầm quân nhưng

Miêu công công tự thẹn đốc quân không tốt đã phụ thánh ý, nên khăng khăng đòi

đích thân chỉ huy, chỉ mong đoái công chuộc tội. Vì vậy bản quan đã phái tham

tướng Hứa Thái cùng ông ấy dẫn năm nghìn tinh binh xuất phát.

Dương Lăng thoáng ngớ ra, liền đó minh bạch dụng ý của Miêu Qùy. Miêu Quỳ

không bằng được mấy người Lưu Cẩn và Trương Vĩnh theo chăm nom thái tử gia từ

nhỏ đến lớn, đôi bên rất yêu quí nhau. Mà Hoàng đế Chính Đức lại không phải là

một vị vua vô cảm, hắn rất coi trọng tình cảm cá nhân, cho nên trừ phi phạm phải

tội đại nghịch bất đạo, bằng không Chính Đức quyết sẽ không lạnh nhạt với bọn họ.

Song Miêu Quỳ thì khác, lão là bầy tôi được tiên đế tin yêu, lại không có tình

nghĩa riêng gì với Chính Đức. Trong đám bát hổ, những kẻ chưa "mò vớt" được

chức lớn gì như đám Khâu Tụ và Ngụy Bân vẫn luôn thèm rỏ dãi cái chức Đề đốc

Tây Xưởng của lão. Lần này xuất binh chỉ huy không tốt, sau khi trở về nếu đám

người đó hơi dâng lời gièm tấu, chẳng những lão không vớt được chút chiến công

nào mà ngay cả quyền lực vừa có được cũng sẽ bị mất, cho nên lão mới bất chấp

mạo hiểm mà theo quân xuất chinh.

Vốn cướp biển Tây Ban Nha ban đầu cũng là một đám Bá tước, tướng quân thất

bại trong tranh chấp nội bộ, mạo hiểm chạy ra biển mưu cầu lối thoát mới. Bọn

chúng cũng có dã tâm giống như Miêu Quỳ vậy, tuy cách thức khác nhau song mục

đích thì giống hệt: nhằm vơ vét quyền lực. Hiện tại lão cũng vậy, nhoáng cái đã "lắc

mình hoá thân" thành mã tặc thảo nguyên.

- Hứa Thái?

Chính Đức thoáng nghĩ ngợi rồi cười nói:- Có phải là Hứa Thái đã đổ Võ trạng nguyên năm Hoằng Trị thứ mười bảy?

Lúc võ cử trẫm còn là thái tử, khi ấy từng cải trang đến khoa trường để xem các bên

tranh tài. Người này giỏi võ vô cùng, cũng cực kỳ tinh thông binh thư chiến sách.

Dương Tổng chế dụng tướng rất thỏa, nếu hắn có thể đại thắng trở về, trẫm sẽ tấn

phong hắn làm Tổng binh!

*****

Sau khi được Dương Lăng thuật lại chuyện mật nghị cùng Đoá Nhan Tam Vệ,

Dương Nhất Thanh suy xét mấy lượt rồi cũng không khuyên Hoàng đế hồi kinh

nữa. Nhưng sau khi phái thêm năm nghìn binh mã hộ tống và đích thân đưa đám

người Dương Lăng về lại Đại Đồng, hắn lập tức phóng ngựa trở về bản doanh, triệu

gấp Vương Thủ Nhân vừa trở về Thanh Ngưu quan đến họp gấp. Cả hai cùng

thương nghị quyết định cải biến chiến lược, điều trọng binh trấn giữ các quan ải bên

ngoài Đại Đồng; chiến công có lớn chừng nào cũng không bằng bảo vệ Hoàng đế

được chu toàn.

Nghe tin Bá Nhan Khả Hãn dời trọng binh về vùng Bình Thuận, Hồ Quan,

Vương Thủ Nhân lo ngại bọn chúng sẽ thừa dịp thoát ly khỏi chiến trường chính,

trở về thảo nguyên Mông Cổ. Hiện tại đại quân của Miêu Quỳ và Hứa Thai đang di

chuyển giữa các bộ lạc của Thát Đát, ngộ nhỡ không kịp rút về thì toàn quân sẽ bị

tiêu diệt ở thảo nguyên, thế là hắn bèn tỏ lộ nỗi lo lắng của mình với Dương Nhất

Thanh.

Dương Nhất Thanh liền lập tức bác đi mà không thèm nghĩ ngợi gì. Trước khi

xảy ra buổi gặp gỡ kết minh với Đoá Nhan Tam Vệ thì tin tức Hoàng đế đang ở

trong quân càng ít người biết đến chừng thì càng hay chừng nấy. Tuy biết Vương

Thủ Nhân tuyệt đối là người đáng tin cậy và còn là tâm phúc của chính mình, song

Dương Nhất Thanh vẫn chưa dám tiết lộ sự thật với hắn. Điều này khiến Vương

Thủ Nhân cảm thấy hết sức nghi hoặc với chiến lược của Dương Nhất Thanh.

Có điều hắn không chỉ khâm phục Dương Nhất Thanh mà còn thật lòng kính

trọng vị thượng quan này. Sau một lúc trầm tư, hắn liền đề xuất cho phép mình dẫn

một đội quân bám theo đại quân của Bá Nhan Khả Hãn. Nếu quả Bá Nhan giươngđông kích tây để thừa dịp thoái lui, hắn sẽ bám lằng nhằng, trì hoãn hành trình của

bọn chúng nhằm tranh thủ thời gian cho Hứa Thái và Miêu Quỳ.

Sau thoáng cân nhắc, Dương Nhất Thanh bèn gật đầu chấp thuận, hạ lệnh cho

tham tướng Đại Đồng là Lư Cương và du kích tướng quân Phạm Hữu Thời dồn

binh với đội quân của Vương Thủ Nhân, tổng cộng là một vạn tám nghìn người,

gấp rút chi viện cho Bình Thuận, Hồ Quan.

Được thoả tâm nguyện, trở về đến dịch quán Đại Đồng xong Chính Đức an

phận hơn rất nhiều. Trải qua chuyện này Dương Lăng cũng không dám lơ là nữa, cả

ngày ở trong dịch quán cùng hắn, chờ Ngũ Hán Siêu đem tin từ quan ngoại trở về.

Sợ tiểu Chính Đức ở trong dịch quán buồn chán, y bao gánh hát nọ diễn suốt ba

ngày. Gánh hát dân gian này vốn cũng có chút tiếng tăm ở đây, không những chỉ

biết diễn hí khúc mà còn biết chút tạp kỹ và xiếc thú. Nghe đâu vào ngày Đại vương

nạp trắc phi, ông mở tiệc lớn mời khách, khắp vương phủ chỗ nào cũng là sênh ca,

có chín gánh hát lớn nhỏ cùng được mời đến hát hò biểu diễn tại phủ thì gánh hát

này cũng nằm trong số đó. Chẳng qua là bọn họ chỉ có thể biểu diễn ở gian lạc viện

thứ hai của vương phủ, không có tư cách vào sâu trong đại viện mà thôi.

Vở mà bọn họ diễn hôm nay là câu chuyện về Dương gia tướng. Năm xưa

Dương gia tướng kháng Liêu đã để lại nơi đây rất nhiều truyền thuyết. Trăm họ

không ngừng chế biến cho phong phú hơn, thay đổi và hư tấu nên thành rất nhiều

câu chuyện thú vị. Màn đầu tiên là Xà lão thái quân dẫn đám nữ tướng Dương môn

xuất chinh, ngay trước trận lại có một viên tiểu tướng đến nhận tổ quy tông, xưng là

con của thất nương(*) Đỗ Kim Nga. (*cô bảy)

Năm xưa Đỗ Kim Nga cùng Dương Thất Lang chỉ làm vợ chồng có một đêm,

chưa hề báo là có con, nhất thời khiến cho chị em bạn dâu trong nhà nghi ngờ. Viên

tiểu tướng nọ đứng dưới quan ải rút ra bức huyết thư mẫu thân để lại trong tã lót,

Đỗ Kim Nga mới nhớ lại chuyện xưa.

Năm đó quả thực bà từng mang thai, trên đường tìm Dương gia thì gặp phải

phiên binh. Lúc giao chiến bị động thai, bà phải sinh con trong đám sậy rồi để nó ở

đó, nén đau lên ngựa đánh tiếp. Sau khi đánh lui phiên binh quay lại thì không thấycon đâu nữa, bà ngỡ rằng con bị sói tha đi mất, bèn khóc to một hồi rồi bỏ đi. Bởi

chuyện quá đau lòng nên bà cũng chưa từng báo với Lão thái quân.

Thời đó gánh hát toàn là đàn ông cải trang thành nữ. Sở dĩ "nam phong" thịnh

hành thì do một là bắt nguồn bởi đi thuyền trên biển không cho phép chở phụ nữ,

cho nên đất Mân Giang thịnh hành "nam phong" nhất, còn hai là bởi sắm vai thanh

y hoa đán(2) trong gánh hát đều là đàn ông. Ai nấy đều diễn rất duyên, từng động

tác đều phong lưu hết mực: má đỏ môi hồng, tôn lên cặp mắt hoa đào biết thu hồn

hớp phách; chả trách có rất nhiều đàn ông đâm quàng vào đấy.

Trên sân khấu con hát sắm vai Đỗ Kim Nga vận phượng bào lớn màu đỏ, dáng

người dịu dàng như cành liễu, diễn hát rất duyên, lúc Đỗ Kim Nga liếc mắt xuống

dưới sân khấu liền khiến đám thị vệ bên ngoài la hét um lên. Hai ngày nay xem hí

kịch, động một tí Chính Đức lại cầm đầu bọn họ hò hét om sòm làm bọn lính của y

bị hỏng hết; đám đại nội thị vệ này hoàn toàn không còn vẻ cẩn trọng nghiêm túc

như lúc ở trong cung nữa.

Dương Lăng ngồi hầu gần Chính Đức, bị cặp mắt lẳng đó liếc sang, trong lòng

liền nổi sóng, không nhịn được thầm nghĩ: "Hình dáng diễn viên chuyên nghiệp này

đúng là đặc biệt à, cặp mắt lẳng đó diễn thật tự nhiên, còn tự nhiên hơn bất cứ đại

mỹ nhân chuyển giới nào khác nữa. Nếu đang ở thời hiện đại, nhất định sẽ là một

đại minh tinh đây!"

Trên sân khấu vẫn tiếp tục diễn! Chàng kép sắm vai Đỗ Kim Nga đang cầm bức

huyết thư nức nở vừa khóc kể vừa nhớ lại mối tình xưa, giọng hát trong trẻo êm tai,

trên dưới sân khấu đều nghe rõ mồn một; xem ra đúng là đã được luyện giọng hát.

Con hát sắm vai Lão thái quân run rẩy bước lên sân khấu, thở dài rồi độc thoại:

- Bà già ta tưởng rằng cả nhà họ Dương đều là quả phụ, nam nhân không có lấy

một người. Ha ha, thực tốt quá! Té ra trời già vẫn chưa vứt bỏ đám con dâu của bà

già này.

Một tràng cười lại nổ ra dưới sân khấu, Chính Đức ngoái đầu cười hỏi Dương

Lăng:- Dương khanh! Nghe nói khanh là con cháu Dương gia tướng, không biết tổ

tiên thuộc chi nào nhỉ. Chẳng lẽ chính là vị tiểu tướng bị bỏ rơi này?

Tuy Dương Lăng không biết gia phả nhà mình là thật hay giả, nhưng y lại biết

nhân khẩu họ Dương rất vượng, con cháu đầy đàn, chưa từng có chuyện có một

đám quả phụ mà hiếm nam đinh như trong hí kịch diễn. Nghe Chính Đức trêu, y

không khỏi cười gượng, cũng không biết nên giải thích thế nào.

Trên sân khấu đang diễn đến màn nhận tổ quy tông. Dương Lăng ngồi sau rèm

nửa bước hầu Chính Đức xem kịch. Sau lưng chợt có một phiên tử hộ vệ lặng lẽ

bước vào, khẽ ra hiệu với Dương Lăng.

Dương Lăng hiểu ý, vội đứng dậy nói nhỏ với Chính Đức mấy câu rồi bước ra

ngoài. Đi đến dưới hành lang sảnh, y liền hỏi viên phiên tử:

- Thế nào, có phải đã có tin tức từ quan ngoại rồi không?

Viên phiên tử thấp giọng thưa:

- Đại nhân! Không phải có tin từ quan ngoại mà là có một bức thư nhà do khoái

dịch đưa đến cho ngài ạ.

Dương Lăng nghe xong thì trong lòng không khỏi run lên, "Trong nhà đã xảy ra

chuyện gì? Ấu Nương đang có thai, chẳng lẽ là...?" Nghĩ đến đây, tim y không khỏi

đập dồn dập.

Hàn Ấu Nương sống nội tâm và kín đáo. Vô luận nhớ nhung y thế nào đi chăng

nữa, cô nàng thà đợi y trở về, sẽ vào khuê phòng tham lam ôm chặt lấy y trò chuyện

suốt đêm; chứ lúc y còn ở bên ngoài, Hàn Ấu Nương quá ngượng ngùng để có thể

viết một bức thư thổ lộ tình cảm. Nếu nàng viết thư thì hẳn trong nhà đã xảy ra

chuyện lớn.

Dương Lăng vội vã xé bì thư, rút phong thư ra. Y lại thấy trong thư còn kẹp

một phong thư khác được niêm kín, bên trên cũng ghi là "Dương Lăng thân khải (tự

mở)". Y lấy làm lạ bèn giở thư ra xem trước, thấy nét chữ đúng là bút tích của ẤuNương. Trong thư chỉ nói trong nhà mọi việc đều ổn, lại chúc y ở bên ngoài nhớ

chú ý ăn uống mặc ấm, vùng biên tái chiến sự đang căng thẳng, ra vào y nhớ phải

chú ý thị vệ này nọ. Suốt thư đều chỉ nhắc đến những việc bình thường, trong thư

không hề có ý gì là làm nũng.

Cuối thư nàng mới nói rằng nhận được một bức thư mật của Mã Liên Nhi ở

Kim Lăng nhờ phiên tử Nội xưởng mang hộ về. Bởi thư ghi "Dương Lăng thân

khải" cho nên Ấu Nương không dám tự tiện chạm vào, vì vậy sai người chuyển giao

ngay cho y, chỗ này thì đúng là có vẻ hơi hờn dỗi và ghen tị.

Dương Lăng cảm thấy ấm lòng, khoé môi không khỏi hé ra một nụ cười.

Y trầm ngâm suy nghĩ, dựa vào lộ trình bức thư này được đưa đến mà tính toán

thì lúc Mã Liên Nhi nhờ người đưa thư hẳn là Thành Khởi Vận chưa tới Kim Lăng.

Mã Liên Nhi chưa nhận được lễ vật Thành Khởi Vận đưa đến mà đã gửi một bức

thư đi trước, có phải bởi vì nhớ mình không?

Trong lòng Dương Lăng thoáng xao động, bất chợt y lại nhớ đến một màn xuân

sắc vô biên dưới tán phong lá đỏ. Trên phong thư như hãy còn vương mùi thơm

nhàn nhạt trên người Liên Nhi, cũng có lẽ là ảo giác?.... Đúng là tiểu yêu tinh nhu

mì quyến rũ chết người không đền mạng à.

Mở tiếp phong thư thứ hai, y cẩn thận giở tờ giấy ra, một hàng chữ liền đập

ngay vào mắt: "Phu quân đại nhân ở trên cao, Liên Nhi xin vái người trăm lạy."

Dương Lăng vừa xem thấy thì bật cười to, cô bé đã chính thức gả thân cho

mình này thật đúng là đã thay đổi rồi. Liên Nhi như thớt ngựa hoang cao ngạo bất

thuần nay cũng ngoan ngoãn nhũn nhặn hơn rồi đây, cũng đã hiểu lễ nghi, biết kính

trọng mình ba phần rồi.

Nhưng khi xem xuống tiếp, nụ cười của Dương Lăng liền đông cứng lại:

"Dương Lăng, huynh thực là lợi hại! Thực oai phong! Thực giỏi quá! Huynh sắp

chóng có một tiểu Liên Nhi hoặc tiểu Dương Lăng hoành không xuất thế gọi huynh

là cha rồi. Huynh có vui không hả đại nhân của muội? Liên Nhi thực muốn đợi

thêm hai năm nữa mới đi gặp phu quân của mình, nhưng mà ý trời như vậy, chồngsẽ trả lời thế nào đây?

Đại nhân hãy nghĩ ra diệu kế mà đón lấy thiếp thân, hoặc là lệnh cho thiếp thân

uống thuốc giết chết hậu nhân của họ Dương đi, Liên Nhi sẽ nghe theo an bài của

phu quân hết. Đúng rồi, Quan Quan công tử mê Liên Nhi. Mê lắm lắm đó, thực là

ghét quá.

Tái bút: Hình như có người nào đó mắc bịnh kín trên người mới mang theo

người đẹp thần y xuống Giang Nam thì phải. Vụ án này cho gác lại chờ xử sau."

Chuyện lớn kinh thiên, song ngữ khí lại thờ ơ như không; dí dỏm, đắc chí, lại

thêm mấy phần hài hước. Dương Lăng đứng đờ tại chỗ, tai nghe ở phòng bên kia

con hát đang nức nở nghẹn ngào: "Đứa con... tội nghiệp của mẹ, lần biệt ly đó...

mười mấy năm rồi, mẹ giữ kín trong lòng, không biết lệ tuôn đẫm áo đã bao đêm..."

Chú thích:

(1) Tam Hoàng gồm Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhân Hoàng; Ngũ Đế có

Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn. Xem thêm tại

(2) "thanh y" trỏ vai đào; "hoa đán" trỏ vai nữ có tính cách hoạt bát hoặc phóng

đãng, đanh đáNGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 192 Đại Vương Nạp Phi

Dương Lăng vừa đọc thư vừa nghe tiếng diễn viên vọng đến từ sân khấu, lòng y

rối bời, chốc thì hoan hỉ, chốc lại lo âu. Mã Liên Nhi cư tang chưa đủ ba năm, nếu

lúc này mà rước nàng về nhà sẽ không hợp với lễ tục, không tránh khỏi bị người ta

chỉ trích.

Không biết giữ lễ tục thực chẳng phải chuyện nhỏ, đủ để trở thành công cụ

nguy hiểm trong tay những kẻ hữu tâm, cho dù được Hoàng đế che chở nên không

vì vậy mà bị bãi quan, song lúc nào cũng sẽ bị người ta lấy nhược điểm đó ra công

kích, vô luận làm gì cũng sẽ khó tránh bị cản trở tay chân.

Còn nếu để mặc Liên Nhi sống một mình ở Giang Nam, tìm cớ giấu nàng ấy rồi

lén sinh con thực không khó, có điều làm như vậy khó tránh quá bạc đãi nàng ấy.

Phải sống một cuộc sống lén lút, mai danh ẩn tánh thêm hai năm nữa nhất định sẽ

tạo thành tổn thương sâu sắc cho Liên Nhi.

Lòng rối như tơ vò, lúc thì Dương Lăng muốn bất chấp tất cả mà phái người

đến Giang Nam đón Liên Nhi về phủ ngay lập tức, lúc thì lại nghĩ đến nay mình

muốn lợi dụng quyền thế và địa vị của bản thân để làm một số chuyện cho Đại

Minh, cho trăm họ, chứ không còn như lúc trước mà muốn làm gì thì làm không

phải lo nghĩ gì.

Trầm ngâm một hồi lâu y mới sực nhớ hiện tại Liên Nhi mang thai chưa được

ba tháng, đến khi bụng to dần không thể che giấu được nữa thì ít nhất cũng phải hơn

hai tháng nữa, lúc đó mình đã trở về kinh thành. Chuyện này quả thực cần phải bàn

tính kỹ lưỡng, không nên vội đưa ra quyết định ngay.

Y gọi viên phiên tử cùng vào trong thư phòng rồi vội vàng viết liền ba bức thư.

Bức đầu viết cho Ấu Nương, trong thư không hề giấu giếm chuyện của Liên Nhi,căn dặn Ấu Nương thông qua Nội xưởng gửi cho nàng ấy một số bạc và vật phẩm

bồi bổ. Bức khác y viết cho Mã Liên Nhi, nói với nàng rằng hiện tại mình đang bận

tuần tra biên tái, khi trở về kinh thành nhất định sẽ mau chóng giải quyết ổn thoả

chuyện nàng đi hay ở, nàng cứ yên tâm đợi ở Giang Nam, chăm sóc bản thân cho

tốt.

Bức thứ ba y lại viết cho Thành Khởi Vận. Hiện tại nàng ta là đầu lĩnh tối cao

của Nội xưởng tại Kim Lăng còn Liên Nhi đang sống một thân một mình trong nhà

bá phụ, nếu không thu xếp thủ hạ đắc lực để săn sóc nàng chu đáo, y thực không

yên tâm.

Dương Lăng niêm thêm xi đóng lên ba bức thư, căn dặn viên phiên tử cấp tốc

giao cho dịch trạm quân sự chuyển về kinh thành. Vừa đưa mắt nhìn viên phiên tử

bước ra khỏi cửa, y vừa thừ người nghĩ ngợi, rồi chợt bật cười thành tiếng:

Vốn dĩ chỉ lo không có con, giờ thì tốt quá rồi. Ấu Nương và Liên Nhi như thể

đang thi nhau đẻ vậy. Ấu Nương thì đúng rồi, mình siêng năng "cày cấy" một tháng

hơn, dẫu sao cũng phải trúng một lần. Nhưng còn Liên Nhi, "một tên trúng đích"

hình như hơi quá may mắn rồi thì phải? Chẳng lẽ mình thật sự mang gien tốt của

Dương gia tướng?

Chính Đức ban thưởng rất hậu hĩnh, trang phục biểu diễn và trống chiên chất

đầy hết mấy chiếc hòm to, người của gánh hát cứ ngỡ là của khâm sai Dương đại

nhân thưởng cho. Mấy ngày nay diễn hát trong dịch quán, thu nhập của bọn họ so

với lúc dựng rạp ca hát ở đầu phố cao hơn không chỉ hai lần. Sau khi trở về mỗi

người đều kiếm thêm được vài nén bạc, cho nên ai nấy cao hứng vô cùng.

Gánh hát thuê một cỗ xe ngựa lớn chở trang phục và đạo cụ về cổng chùa Phổ

Độ nơi bọn họ đã thuê một dãy nhà trệt để trọ. Chủ gánh hát tên là Bình Đại Đầu

ngồi xổm trên một chiếc cối xay đá, mặt mày hớn hở nói với mọi người:

- Mấy ngày nay đã cực khổ cho mọi người rồi! Ngày mai nghỉ hát một ngày,

mọi người nghỉ ngơi cho khoẻ. Nhưng mà đừng quên luyện công đấy! Ngày kia

biểu diễn tại phủ của Đại vương gia sẽ phải kéo dài đến tận năm ngày lận đó.Đoạn lão cười tủm tỉm nói tiếp:

- Ai cũng bảo chúng ta là một gánh hát cỏn con. Đúng thật, nếu không phải do

Đại Đồng đang lúc chiến tranh, khó mời được những đào kép danh tiếng thì phủ

vương gia đời nào có chỗ cho gánh hát chúng ta đứng? Luận tài nghệ chúng ta thua

kém bọn đào kép có tiếng sao? Chẳng qua chúng ta không có cơ duyên thôi. Lần

này chúng ta đã hát ở phủ Dương đại nhân ba ngày, sau đó lại trở về từ phủ của Đại

vương gia, thanh danh của gánh hát chúng ta sẽ tăng cao ngay thôi.

Trước đây khung cảnh lớn nhất mà chúng ta được gặp qua là hậu hoa viên của

Huyện thái gia, nay chúng ta đã được gặp khâm sai giống như gặp thiên tử đích thân

giá lâm; mấy ngày nữa cao quý như con rồng cháu phượng chúng ta cũng sẽ được

gặp, cho nên mọi người hãy phấn chấn lên cho ta đi! Vương gia ban thưởng sẽ còn

nhiều hơn khâm sai lão gia nữa đó.

Nghe thế, một người con gái trong đám người đang đứng chung quanh chợt

chớp mắt, cặp mắt nhạy bén có thần liếc lão một cái thật sâu, đoạn chen người ra tới

trước mặt lão, ôm quyền hỏi:

- Phải chăng ngài đây là chủ gánh hát?

Bình Đại Đầu hơi sững người đoạn quan sát cô ta một lượt: tuy người con gái

trước mặt lão mặc áo quần giản dị bằng vải thô, nhưng với nhãn lực của mình, Bình

Đại Đầu lại nhìn ra ẩn giấu dưới lớp áo quần thùng thình sơ sài này là một dáng

người cực kỳ yểu điệu, dung mạo ngũ quan của cô nàng cũng quyến rũ vô cùng,

đáng tiếc là trên làn da trắng mịn lấm chấm những vết rỗ làm hỏng vẻ đẹp của nàng

ta.

Bình Đại Đầu nhảy xuống đất đánh xoạt, thân hình thấp tè của lão cao chưa đến

vai cô gái nọ, rồi lão cũng chắp tay theo nghi lễ giang hồ đáp:

- Không dám! Tiểu lão nhi chỉ là người dẫn một đám nghèo khó đi kiếm miếng

ăn mà thôi. Cô nương là?

Cô gái nọ hơi mỉm cười, đáp lời hết sự tự nhiên:- Tiểu nữ chỉ là một tiểu thương đơn lẻ mới xông pha giang hồ mãi võ. Nay

kiếm chút cơm ăn không dễ, thấy đại gia đây mặt mày phúc hậu, có thể chèo chống

gánh hát lớn như vậy, ắt phải là người có nghĩa khí, có tài cáng đáng, nên tính gia

nhập vào gánh hát của ngài. Không biết đại gia thấy thế nào?

Bình Đại Đầu cười nói:

- Nào có! Nào có! Chẳng qua gánh hát này của lão diễn hí khúc là chính, mà nữ

nhân thì không thể bước lên sân khấu, tuy rằng có tạp kỹ và xiếc thú, bất quá là

phần dạo trong lúc rỗi để đàn ông giải sầu thôi. Cô nương biết làm những gì?

Cô gái nọ cười lớn đáp:

- Cưỡi ngựa, bắn tên, đánh võ, món nào tiểu nữ cũng tinh thông.

Bình Đại Đầu lắc đầu:

- Không được, không được rồi! Gánh hát này của chúng ta không nuôi nổi

ngựa, hơn nữa hiện đã có mối làm ăn ở phủ khâm sai và phủ vương gia, sau này

thanh danh tăng vọt, những nơi đi đến nhất định sẽ đều là nhà cao cửa rộng. Mấy

trò phóng ngựa bắn tên, vung đao múa thương sẽ không mang được vào nhà người

ta đâu.

Cô gái nọ liền đảo mắt, cười nói:

- Đi trên dây thừng, nhào lộn trên sào cao, mấy trò mua vui cho người ta đó tiểu

nữ cũng biết.

Bình Đại Đầu lại lắc đầu, chợt một giọng nói trong trẻo chen vào:

- Mấy trò này khách giang hồ mãi võ có ai mà không biết? Thấy một người phụ

nữ như cô đi lại một mình trên giang hồ cũng không dễ, vậy cô hãy biểu diễn nhào

lộn thử xem! Nếu làm tốt, ta sẽ làm chủ mà thu nhận cô.

Người này vẫn đang mặc đồ diễn rườm rà, ống lụa như mây, mày ngài má hồng,

mắt hạnh long lanh, chính là Trình Tiểu Vân, diễn viên chính của gánh hát Bình gia.Tuy hắn là nam nhân nhưng đã quen sắm vai nữ, không chỉ nói chuyện dịu dàng

mềm mỏng mà cử chỉ hình dáng cũng khá là thanh tú.

Trước mặt hắn, tuy là chủ gánh hát song Bình Đại Đầu cũng phải nể mặt mấy

phần, bèn vội cười phụ họa:

- Đúng rồi! Vậy cô hãy thử tài nghệ chút xem.

Đám nhạc công chuyên gõ chiêng, đánh trống, thổi sáo, khảy đàn nghe vậy đều

hỉ hả kéo sang, quây lại thành một vòng tròn. Cô gái nọ mỉm cười gật đầu đồng ý:

- Vậy đa tạ chủ gánh và vị lão bản này, tiểu nữ tử sẽ lộ dốt đây.

Cô nàng thoải mái bước đến chính giữa sân, ôm quyền bước một bước tuồng,

rồi chợt đứng sững lại hít sâu một hơi, liền sau đó búng người nhào lộn. Màn nhào

lộn của cô không có gì là đặc sắc: lấy tay chống đất, hai chân liên tục đá ra sau, tuy

thân thủ hết sức gọn gàng, song cũng chẳng có chỗ nào là kỳ diệu. Bình Đại Đầu và

Trình lão bản không khỏi lộ vẻ thất vọng.

Không ngờ sau khi búng người nhào lộn mấy vòng, cô gái nọ đột nhiên tăng tốc

lộn vòng vừa nhanh vừa dứt khoát, như thể biến thành một bánh xe tròn xoay tít;

động tác mềm mại liên miên trông mỹ cảm cực kỳ; eo thon mềm mại mà có lực.

Cặp mắt Bình Đại Đầu không khỏi sáng rực, bên cạnh đã có người thốt lên khen

giỏi.

Xoay người trên không, lộn một vòng trên không rồi tiếp đất, búng người ưỡn

thân vút lên cao rồi tiếp đất nhẹ nhàng,..., đủ loại động tác khó không ngừng được

thể hiện, liên miên không dứt, không thấy lúc nào ngừng nghỉ. Giữa những tràng

khen ngợi của đám đông, Bình Đại Đầu cười lớn bảo:

- Đủ rồi! Đủ rồi! Không cần nhào lộn nữa. Thu dọn một chút rồi ăn cơm cùng

mọi người đi. Bắt đầu từ hôm nay, cô sẽ là người của gánh hát Bình gia.

Cô gái nọ lộn trên không thêm hai vòng nữa, rồi mỉm cười tiếp đất, mặt không

đỏ, hơi vẫn đều. Nàng ta phủi bụi trên tay rồi chắp tay nói:- Đa tạ chủ gánh!

Trình Tiểu Vân mỉm cười chào hỏi:

- Tại hạ tên là Trình Tiểu Vân, tỷ tỷ tên là gì?

Ánh mắt cô gái thoáng loé lên, nàng ta mỉm cười đáp:

- Ta tên Liễu Oanh Nhi, sau này vẫn mong Trình lão bản chiếu cố nhiều hơn.

Trình Tiểu Vân nhoẻn miệng cười nói:

- Ừm, Liễu Oanh Nhi, tên rất đẹp! Oanh oanh yến yến xuân xuân, hoa hoa liễu

liễu chân chân, sự sự phong phong vận vận. Kiều kiều nộn nộn, đình đình đương

đương nhân nhân(1). Với tư thái và dáng điệu như vậy, nếu tỷ tỷ lại mặc đồ diễn

vào, vẽ mặt bôi son lên, trông sẽ rất đẹp đấy!

Hồng Nương Tử hoá thân thành Liễu Oanh Nhi nghe hiểu được là hắn đang

khen tên mình hay, song lại không biết nó có nghĩa gì cho nên chỉ cười gượng gạo,

không dám đáp lời.

Đám Dương Hổ vốn là đại đạo lục lâm. Bình thường nếu muốn bắt cóc kẻ nhà

giàu thì cùng lắm là phái vài người đi dò xét tình hình, nắm rõ gia cảnh, thế lực và

kết cục bố trí trong nhà con "dê béo", rồi mới thừa lúc đêm tối đến nhà bắt người.

Bọn chúng chưa từng kiên nhẫn xây dựng và bố trí cơ sở thám tử lâu dài, nay muốn

đối phó với Hoàng đế Đại Minh song hai mắt lại như mù, muốn biết hắn ở đâu

nhưng lại không cách nào dò hỏi.

Hồng Nương Tử thấy trượng phu bị lợi che mờ mắt, biết rõ bị Di Lặc giáo lợi

dụng song vẫn u mê không chịu từ bỏ giấc mơ làm Hoàng đế, nên nàng không dằn

được lửa giận trong lòng. Nhiều lần khuyên nhủ không kết quả, nàng bèn thổ lộ nỗi

khổ với Ngũ thúc, song không ngờ Ngũ thúc lại đáp lại một thôi một hồi khiến lòng

nàng hoàn toàn nguội lạnh.

Cho dù nói thế nào thì cuối cùng nàng vẫn là một người phụ nữ, trong mắt một

thủ lĩnh thổ phỉ cực kỳ trọng nam khinh nữ như Thôi lão đại, đứa con rể Dương Hổcòn quan trọng hơn con gái mình nhiều. Thấy mấy năm nay Dương Hổ chiêu binh

mãi mã khá giỏi, nhiệt huyết trong lòng Thôi lão đại cũng dâng trào. Lão lại bắt đầu

trông mong con rể mình có thể đánh chiếm lấy giang sơn, một nhà họ Thôi cũng có

thể được phong vương phong hầu.

Cho nên lần này mười mấy sơn trại bị tiễu trừ, thế lực Dương Hổ bị tổn thương

lớn, huynh đệ những sơn trại cũ đã bắt đầu nảy lòng nghi ngờ về lời lan truyền

"chân mệnh thiên tử" của hắn, mấy người tâm phúc của Thôi lão đại như Ngũ thúc

đã thầm bàn riêng với lão về chuyện này. Thôi lão đại ngầm gợi ý rằng, vô luận lời

đồn này là thật hay giả cũng phải dốc sức phò trợ con rể, thay vì làm sơn tặc đời đời

kiếp kiếp chi bằng đánh một trận nhằm kiếm chút tước vương hầu công khanh mà

hưởng.

Sau khi nghe Dương Hổ kể chuyện, Thôi lão đại biết được vì chuyện tập kích

phủ Uy Vũ Bá mà con gái và con rể mình hục hặc với nhau. Do đó lần này lão chủ

động sai người của mình đến giúp Dương Hổ, một mặt là để biểu lộ thái độ của

chính mình; mặt khác cũng bởi e ngại con mình sẽ phác tác cơn giận đại tiểu thư mà

làm khó Dương Hổ, nên mới phái cả Ngũ thúc đến để áp chế nàng.

Nghe biết thái độ của cha như vậy, Hồng Nương Tử không khỏi thất vọng vô

cùng. Chỉ có điều tuy có vị trưởng bối là Ngũ thúc này áp chế nên nàng không thể

gây lộn với Dương Hổ nhưng Hồng Nương Tử tính tình cứng cỏi, trong lòng đã có

chủ ý rồi thì cho dù là Thôi lão đại cũng đừng hòng thay đổi. Nghe xong lời giải

thích của Ngũ thúc, nàng không nổi nóng gây gổ tại chỗ mà chỉ quay về thu thập

hành trang rồi lặng lẽ bỏ đi.

Nàng biết đám người Dương Hổ không có kế sách nào khác, bọn họ muốn tìm

được Chính Đức thì chỉ có cách theo dõi Dương Lăng cho nên nàng cũng cải trang

rồi chú ý mọi động tĩnh trong dịch quán. Gánh hát này mỗi ngày đều đến hành dinh

quan khâm sai diễn hí khúc, nàng đã sớm lần tra tỏ tường. Trong suy nghĩ của nàng,

Đại vương là vương thúc của Hoàng đế Chính Đức, ngày lão nạp phi nếu như Chính

Đức còn ở Đại Đồng, thì chín phần mười hắn sẽ phải đến chúc mừng.

Vậy Di Lặc giáo và cả đám người Dương Hổ rất có thể sẽ hạ thủ vào lúc này.Nàng phải ngăn cản Dương Hổ bị kẻ khác lợi dụng, phá hỏng kế hoạch của Di Lặc

giáo. Như thế nàng cũng phải nghĩ cách trà trộn để vào phủ, do vậy nàng mới cải

trang làm người giang hồ mãi võ, trở thành một thành viên trong gánh hát Bình gia.

Ngày hai mươi hai tháng giêng, Đại vương nạp trắc phi.

Hay tin đại quân Bá Nhan đã dời sang vùng Bình Thuận, Hồ Quan, dân chúng

Đại Đồng thở phào nhẹ nhõm. Từ nay, đêm ngủ không phải ăn mặc chỉnh tề, đặt sẵn

túi hành trang bên gối để bất cứ lúc nào cũng có thể chuẩn bị trốn chạy. Trong phủ

Đại vương tràn ngập một bầu không khí vui mừng, giăng đèn đón khách.

Từng chiếc kiệu xe, từng thớt tuấn mã chở quan văn tướng võ vùng Tuyên Phủ,

Đại Đồng kéo đến phủ Đại vương gia để chúc mừng. Do Hoàng đế đang ở Đại

Đồng nên Tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh hết sức coi trọng việc phòng ngự

biên quân. Vốn dĩ hắn đã đưa thư và lễ vật chúc mừng đến phủ Đại vương, tỏ ý rằng

vì vướng bận việc quân nên không thể đích thân đến dự, điều này đã khiến cho lão

Đại vương không vui trong lòng. Không ngờ hôm nay hắn bỗng nhiên đổi ý, vội vội

vàng vàng dẫn theo ba trăm thân quân chạy đến phủ Đại vương chúc mừng.

Chung quanh phủ Đại vương vẫn đầy giáp sĩ kề vai san sát, song trong vương

phủ lại ắp tiếng sênh ca, Hồng Nương Tử cũng theo gánh hát mới gia nhập mà tiến

vào trong. Song nằm ngoài dự liệu của nàng chính là vương phủ rộng lớn hơn nhiều

so với những gì mà nàng tưởng tượng, hơn nữa vương phủ cho gánh hát của nàng

diễn ở hậu điện. Gánh hát lớn được vời tới thì diễn ở trung điện, tám gánh hát có

quy mô như của nàng chỉ có thể dựng rạp biểu diễn trong sân khu ngoại điện quanh

phủ, căn bản không thể tiếp xúc với khu vực trung tâm.

Cả phủ Đại vương lọt trong tiếng nói cười, tiếng chúc mừng rộn rã, những chỗ

yên tĩnh hơn chỉ có Ngân An điện, Xã Tắc đàn, Phong Vân Lôi Vũ Sơn Xuyên đàn,

Hoàng miếu, từ đường và Tích Thiện tự. Điển Thiện sở cung cấp rượu ngon và đồ

ăn, Đại Phủ điếm tiếp đãi tân khách, đăng ký tiếp nhận lễ vật, còn những vị khách

quan trọng sẽ do tổng quản vương phủ đích thân đón vào.

Chỗ gánh hát của Hồng Nương Tử biểu diễn nằm bên trong Đoan Lễ môn và

phía ngoài Thừa Vận môn, đại thần các bộ ra vào đều không thoát khỏi mắt nàng.Trong sân, các rạp diễn đã sớm được dựng xong, trên sân khấu rèm giăng, màn hoa

và đèn treo đã đâu vào đấy. Theo quy củ thì vở diễn đầu tiên khi diễn tại tư gia đều

sẽ là "Thiên quan tứ phước" (lễ quan trời ban phước bốn phương).

Một lòng mong muốn biến gánh hát Bình gia thành gánh hát nổi tiếng nhất Đại

Đồng, đợi khi biên cảnh bình định xong còn phải nêu chiêu bài đã từng được mời

đến hành dinh của khâm sai và vương phủ Đại vương để được lưu diễn khắp cửu

biên, Bình Đại Đầu đương nhiên cũng phải tuân theo quy củ này. Tuy rằng gánh hát

của lão không chính quy lắm, vở này cũng chưa được học đầy đủ, nhưng cũng may

xem kịch trong sân đều là thị vệ, thư đồng và gia bộc hạ nhân của đám quan văn

tướng võ đến mừng lễ cưới, cho nên khi biểu diễn cũng không bị bọn họ soi mói gì.

Nhất là sau khi vở "Thiên quan tứ phước" được diễn xong, các vở hí kịch hơi

"mặn" mà lại không phạm vào những điều kiêng kị của vương phủ như là "Lữ động

tân tam hí bạch mẫu đơn", "Trương thiên sư đại họa phù" được trình diễn, thì càng

được đám người hầu và gia tướng đó mê thích.

- Khâm sai phụng chỉ tuần biên kiêm Thống lĩnh thân quân thị vệ của Hoàng

thượng kiêm Đại đô đốc Nội xưởng Dương Lăng Dương đại nhân và Đốc quân

Kinh doanh Trương công công đến!

Vừa mới biểu diễn giữa giờ nghỉ xong, nghe tiếng xướng sang sảng của quan

xướng lễ, Hồng Nương Tử thoắt ngẩng đầu nhìn lại. Nàng thấy một vị thư sinh mặt

như thoa ngọc mỉm cười bước vào. Y mặc một bộ áo dài lông chồn sang trọng,

ngoài khoác áo choàng lớn lợp Cô nhung, thân hình cao thon, nổi bật vô cùng.

Mười hai viên hiệu úy trẻ tuổi anh tuấn dằn đao theo sát sau lưng y. Vị Trương

công công Trương Vĩnh đi cạnh tuy mặc mãng bào chỉ vàng màu xanh da trời, song

lưng vai hơi còng, bước chân lại nhanh, trông thực giống nô tài thân cận một vị

công tử con vua cháu chúa.

Hồng Nương Tử thoáng nhếch môi, lộ ra một nụ cười nhàn nhạt. Hôm nay đến

chúc mừng, vị tướng quân này lại không mặc quân trang, y phục nho nhã xứng với

khuôn mặt thanh tú của y, áo choàng rộng bay, trên chiếc đai gấm ngũ sắc quấn

hông cài một miếng ngọc bích đang đong đưa khe khẽ. Cái khí phái ấy... nếu hômnay nàng đến nhằm bắt một con dê béo mang về thì chỉ cần nhìn vào dáng vẻ ấy,

đương nhiên "con dê béo" chỉ có thể là y.

Được tổng quản vương phủ đưa vào, Dương Lăng và Trương Vĩnh đi qua khỏi

cổng Thừa Vận, vừa đến cổng Sùng Tín, bước chân Dương Lăng hơi khựng lại, y

ngoái đầu liếc về phía sau. Khi ánh mắt y chạm ánh mắt viên tiểu hiệu đứng giữa

mười hai viên thị vệ của y, viên tiểu hiệu đó liền nở một nụ cười tinh nghịch.

Dương Lăng kín đáo gật nhẹ đầu với hắn, rồi tiếp tục cùng Trương Vĩnh sóng vai đi

vào.

Thị vệ của khâm sai cũng không được phép bước vào nội điện của vương phủ,

sẽ có chấp dịch (người hầu, cấp cao hơn đầy tớ bình thương) dẫn bọn họ sang điện

bên kế cổng Sùng Tín. Nơi đây bày dọc các mâm tiệc lưu thủy(2), rất đông người

hầu của các tướng quân và quan văn đang ăn ham uống tục.

Bởi Đại Đồng là nơi trú quân trấn giữ biên thùy, cho nên ngay cả vương phủ

cũng không chỉ chú trọng về vẻ nguy nga tráng lệ mà kiến trúc lẫn sân tường cũng

đều được xây cao lớn và kiên cố. Trên bốn góc tường cao của vương phủ đều có

thành lũy và thị vệ đồn trú. Có điều khi bước vào trong "yến tử cư" (tổ chim én),

hoa viên vương phủ chốn phương bắc này vẫn có giả sơn uốn lượn quanh co, hành

lang khúc khuỷu mái uốn cong cong; tuy nhỏ nhưng vẫn có đủ.

Men theo lối nhỏ quanh co xuyên qua "Yến tử cư", vừa bước vào điện Cẩn Đức

tổng quản vương phủ liền khom người cười nói:

- Hai vị đại nhân! Lễ nạp phi của vương gia vẫn chưa cử hành, mời hai vị đến

điện bên nghỉ ngơi trước. Đến giờ lành, cha gia sẽ dẫn đại nhân đến điện Ngân An

tuyên đọc chiếu thư của Hoàng thượng, thỉnh mời vương gia và vương phi làm lễ.

Dương Lăng và Trương Vĩnh mỉm cười gật đầu, rồi xoay người đi vòng sang

tòa điện ở chái bên. Trước cửa điện có hai tiểu thái giám đang đứng, thấy bọn họ đi

tới bèn vội vén rèm nỉ nhung lạc đà lên. Hai người vừa bước vào liền sững người.

Ánh sáng trong điện hơi u ám, vừa bước vào liền lập tức cảm thấy không thoải

mái. Khi khôi phục thị lực lại bình thường, hai ngườimới phát hiện trong điện đangcó mấy vị đại nhân đang đứng: tuần phủ Hồ Toản của Đại Đồng, tam biên tổng chế

Dương Nhất Thanh, một vị quan văn đứng bên cạnh vận bổ phục(*) giống tuần phủ

Hồ Toản; nhất thời y không nhớ Đại Đồng còn có vị quan văn nào có cùng phẩm

hàm là tòng nhị phẩm như lão ấy. (*: xem lại chú thích chương 27)

Trong điện, phía bên trái là bộ bàn nhỏ uống trà và ghế dựa hình mũ quan, bên

phải là một chiếc giường sưởi, trên giường đặt một chiếc bàn chân thấp. Chính diện

ở trước điện là một bức bình phong, lúc này phía sau bình phong cũng có hai người

chợt bước ra, một người vận hoàng bào hình mãng long, dáng người to béo, chính là

chú rể Đại vương gia, trên khuôn mặt núc ních chứa đựng vẻ trang nghiêm hiếm

thấy.

Vị đại nhân bên cạnh khoảng tứ tuần, dưới cằm lưa thưa mấy cọng râu, khuôn

mặt gầy guộc, hai mắt sáng quắc như sao, thân vận một bộ bổ phục hình tiên hạc,

không ngờ chính là đại học sĩ được gia phong nhất phẩm đương triều - Dương Đình

Hoà.

Vừa trông thấy vậy, Dương Lăng và Trương Vĩnh liền nghĩ bụng: "Hỏng bét!

Bữa yến tiệc mừng cưới hôm nay sắp biến thành Hồng Môn Yến rồi. Dương Đình

Hoà mà đến, thể nào cũng sẽ có màn kiếm sương đao gió khóc lóc can gián hoàng

thượng hồi cung đây."

Hai người đưa mắt nhìn nhau, trong mắt đều có ý nói với đối phương: "Huynh

đệ, ông (cậu) lên trước đi!"

*****

Chính Đức đang ngồi trên một chiếc băng ghế dài, tiện mồm ăn vài món. Hắn

cảm thấy cải trang làm hiệu úy tuy cũng thú vị, nhưng trong vương phủ này có quá

nhiều phép tắc, còn lâu mới bằng tự do xem kịch ở đầu phố. Hắn ngồi rảnh rỗi một

hồi, nghe thấy bên ngoài không ngừng có tiếng reo hò, tiếng hát du dương trầm

bổng như hớp hồn, nhịn không được bèn đứng dậy bước ra ngoài.

Mười một tay thị vệ kia đều là cao thủ nhất đẳng của đại nội, danh nghĩa là thị

vệ của khâm sai nhưng kỳ thực chức trách chính là bảo vệ Hoàng đế. Vừa thấy hắnđứng dậy, đám người đó cũng đều lập tức kín đáo đứng dậy theo, lặng lẽ xúm lại

quây lấy hắn.

Một viên thủ lĩnh thị vệ nhỏ giọng hỏi:

- Hoàng thượng, ngài muốn đi đâu vậy, có phải là đi ngoài không?

Chính Đức trợn to mắt, nén giọng mắng:

- Đi ra ngoài(*)! Ra khỏi cung rồi mà vẫn không được tự do, đi đến đâu cũng

thấy mặt các ngươi hết. Nơi này là phủ Đại vương, còn có thể có giặc cướp hay

sao? Đi cách xa ra một chút đi, đừng làm phiền trẫm, trẫm đi xem náo nhiệt một

chút.

(*: nguyên văn là "xuất cung". Thị vệ hỏi Chính Đức có phải là muốn đi đại

tiện, Chính Đức bảo là y muốn rời khỏi chỗ này (cung điện của Đại vương))

Dứt lời hắn bèn hừ một tiếng rồi đi vào mảnh sân đằng sau cổng Đoan Lễ.

Trình Tiểu Vân đang cất giọng ngâm nga trên sân khấu. Hắn mặc một bộ đồ

trắng, trên mái tóc mềm đen như tơ mực cài một đoá hoa mẫu đơn tươi thắm; tay áo

như mây, điệu múa nhẹ nhàng, mĩ miều hệt như một đoá mẫu đơn sống động.

Chính Đức đi đến dưới sân khấu, bên ngoài người đông như kiến, hai tay thị vệ

đã tranh bước lên trước, thấy đông người nên âm thầm chặn không cho hắn đi qua.

Chính Đức đang không biết làm thế nào, chợt thấy một cô gái vận đồ đoản đả (đồ

chẽn của diễn viên võ) màu đỏ, thắt đáy lưng ong, một chân đạp lên chiếc ghế thấp,

đang buộc chặt xà cạp lại thành nhiều vòng, bèn mỉm cười đi tới hỏi:

- Vị tỷ tỷ này, có phải tỷ biểu diễn võ công không?

Thôi Oanh Nhi ngẩng đầu lên. Chính Đức thầm tiếc rẻ, cô nương có vóc dáng

đẹp mê người như vậy lại bị mặt rỗ. Khi thoa phấn lên sân khấu, mặt ngọc trông rất

mịn màng óng ánh thì còn không thấy gì, song nhìn gần như vậy thực thấy kém quá

đỗi.Thấy hắn là hiệu úy quân đội, tuổi trông không quá mười lăm mười sáu, trên

mép môi còn lún phún lông măng nhưng mặt mày ngũ quan trông mười phần anh

tuấn, nói chuyện cũng khách khí thân thiện, không có vẻ bất lương giả dối như

những tên lính bình thường nên Thôi Oanh Nhi tăng thêm mấy phần hảo cảm. Nàng

quấn chặt xà cạp, đưa tay vén tóc mai, rồi cười duyên dáng đáp:

- Trong vương phủ, tỷ tỷ biểu diễn võ công cho ai coi đây? Chẳng qua chỉ là

mấy trò tạp kỹ đi dây, leo sào, nhào lộn mà thôi.

Ánh mắt Chính Đức sáng rỡ, hắn hào hứng:

- Tạp kỹ hả? Vậy càng đáng xem hơn võ công rồi! Lúc nào thì tỷ tỷ sẽ biểu diễn

tiếp vậy, tiểu đệ sẽ vỗ tay hò hét cổ vũ cho tỷ.

Cảm thấy hắn khá thú vị, Hồng Nương Tử không nhịn được cười khúc khích

đáp:

- Tiểu huynh đệ, đệ thực vui tính đó! Vương phủ thưởng bạc có quy tắc cả, đệ

có hét đến khản cổ cũng vẫn không tăng thêm tiền thưởng được đâu.

Chính Đức đáp bằng giọng không phục:

- Như vậy hả? Vậy để Dương... để khâm sai Dương đại nhân nhà đệ thưởng cho

tỷ là được rồi. Đệ là thân binh của Dương đại nhân, nếu như tỷ diễn hay, đệ sẽ nói

với đại nhân, người nhất định sẽ mời tỷ qua phủ biểu diễn và ban thưởng hậu hĩnh

đó.

Hồng Nương Tử bị kiểu nói trẻ con của hắn chọc cho cười khanh khách, nàng

ráng nhịn cười vái chào hắn, rồi bảo:

- Vậy tiểu nữ tử cảm tạ quan gia trước! Nếu thực được Dương đại nhân ban

thưởng, tiểu nữ tử nhất định sẽ chia cho quan gia một nửa.

Chính Đức khoát tay ra vẻ hết sức trượng nghĩa:

- Không cần khách khí! Không cần khách khí! Tiểu đệ theo đại nhân ăn uống,không phải lao tâm lo lắng không có tiền tiêu.

Trên sân khấu vang lên tiếng chiêng "chập cheng", Trình Tiểu Vân lướt ra khỏi

sân khấu như một đám mây, Lữ Đồng Tân (một trong Bát Tiên) và yêu đạo Hoàng

chân nhân bước lên sân khấu trong tiếng chiêng trống vang rền. Nhận được sự reo

hò của khán giả, Trình Tiểu Vân hiển nhiên cũng có vài phần đắc ý. Hai má đỏ

bừng, hắn nhấc váy bước xuống vũ đài tiến đến chiếc lều dùng để hóa trang và thay

y phục được bắc phía sau sân khấu. Trình Tiểu Vân cất giọng gọi Hồng Nương Tử:

- Liễu đại tỷ, giúp tôi thay y phục với.

Thôi Oanh Nhi ừ một tiếng, rồi quay lại cười tươi tắn nói với Chính Đức:

- Tiểu huynh đệ, tỷ tỷ phải đi làm việc đây! Chốc nữa màn hát này xong, tỷ tỷ

sẽ lên sân khấu biểu diễn nhào lộn, đệ nhớ đến xem nhé.

Chính Đức liền gật đầu đồng ý. Thấy người con gái áo đỏ này lách người tiến

vào trong lều, hắn bèn nhìn đông ngó tây một lát, rồi xoay người đi về phía gian

điện ở cánh phải cổng Thừa Vận. Đám đại nội thị vệ hầu hạ trong cung nhiều năm,

không dám làm trái thánh ý cho nên không dám đi sát hắn quá, chỉ đồng loạt đi theo

sang phía bên phải.

Một thị nữ vận cung trang dáng cao gầy, vẻ mặt cao ngạo, được hai thị nữ khác

theo kèm đang vừa bước ra khỏi cổng Thừa Vận. Vốn Chính Đức tính nôn nóng, lại

bởi dòng người trên đường nườm nượp, hắn lo tránh trái né phải để vòng qua đám

người đi vào trong cổng nên vô ý giẫm phải vạt váy sau của cô thị nữ nọ.

Thị nữ đó la lên "ui da" một tiếng, liền vội nhấc váy lên, đỏ mặt quay lại. Thấy

chẳng qua chỉ là một tiểu hiệu uý cỏn con, ả liền quắc mắt trừng hắn, mắng nhiếc:

- Mù cái mắt chó nhà ngươi rồi à? Đi đường trong vương phủ mà cũng không

mang theo mắt sao?

Chính Đức bị người ta mắng té tát như thế song lại không hề nổi giận, chỉ cảm

thấy cô ả lúc bước ra thì ngửa mặt ưỡn ngực, dáng vẻ cao ngạo, hiện tại lại lúng talúng túng không thôi thì thấy rất thú vị. Hắn bèn nén cười chắp tay thi lễ xin lỗi:

- Mong cô nương thứ lỗi! Là kẻ hèn lỗ mãng rồi, thực có lỗi quá.

Thị nữ giũ giũ váy, thấy vạt sau bị in một dấu chân thật to thì càng thêm nổi

giận. Căm hận lườm Chính Đức, ả phỉ phui:

- Ta khinh, còn bày đặt kẻ hèn! Ngươi tưởng ngươi là công tử hay thiếu gia

vậy? Chỉ là một tên lính, còn bày đặt kẻ hèn, đồ ngựa không biết mặt mình dài!

Ngươi mà cũng là người có danh phận, có sự nghiệp sao? Hừ!

Dứt lời ả quay ngoắt đầu đi như một con công kiêu ngạo rồi lại nghênh ngang

bước đi.

Bị ả mắng cho không nói được tiếng nào, hoàng đế Chính Đức chỉ biết rờ mũi

cười khổ. Mấy tay thị vệ chạy qua thấy Hoàng thượng bị một thị nữ của vương phủ

mắng mỏ, chế giễu cho một trận thì đều không nhịn được cười trộm.

Một giọng nói dịu dàng mang theo nụ cười của một thiếu nữ từ bên cạnh cất

lên:

- Đừng trách tỷ ấy! Vũ tỷ tỷ là thị nữ được yêu mến bên người Vương phi

nương nương, ngay cả đại tổng quản cũng phải nhường tỷ ấy ba phần đó. Tuổi

ngươi nhỏ như vậy, lại đã làm đến thân binh của đại tướng quân, tương lai nhất định

sẽ có sự nghiệp. Anh hùng không sợ xuất thân kém, đợi khi ngươi làm tổng binh

Đại Đồng rồi, khi ấy lại đến bái kiến vương gia, Vũ Nhi tỷ tỷ nhất định sẽ nhìn

ngươi với con mắt khác đó.

Đừng nói là tổng binh Đại Đồng, cho dù là làm đại nguyên soái nắm binh mã cả

nước, Chính Đức vẫn không để vào mắt. Có điều người con gái này hiểu ý người ta

như vậy, hơn nữa lại không hề quan tâm đến xuất thân của hắn, khiến nghe được lời

này hắn cảm thấy ấm áp trong lòng. Đây đúng là người con gái đầu tiên không biết

hắn là đương kim Hoàng đế mà lại xem trọng hắn như thế.

Chính Đức xoay người lại, định cất tiếng cảm ơn người con gái đó, nhưng mớivừa đưa mắt nhìn liền như thể ba hồn bảy vía của hắn đều bay mất sạch, cả người

như được nặn bằng đất sét cứ đứng đực ra đó, cứng mồm cứng lưỡi không thốt

được tiếng nào.

Người con gái trước mắt hắn không hề ăn vận giống như thị nữ trong vương

phủ. Nàng mặc một chiếc áo chẽn da chồn lợp nhung màu xanh, trong mặc áo đơn

màu xanh nhạt, trên chiếc eo thon thắt chiếc váy hồng màu xanh nhạt sáu mảnh

phơi phới như nước sông Tương. Cho dù là tiểu thư khuê các, song lại xinh đến nỗi

da trắng thịt thơm, hữu tình quyến rũ như nàng vẫn là rất hiếm. Vóc người thon thả

lung linh, khuôn mặt sáng ngời rực rỡ, trên khóe môi cười mỉm yêu kiều chấm một

nốt ruồi mỹ nhân. Nàng đang ôm trong lòng một con chim anh vũ lớn, lông đuôi sặc

sỡ.

Thấy Chính Đức mấp máy cả buổi vẫn không ra tiếng, người thiếu nữ xinh đẹp

trạc mười bốn mười lăm đó ngạc nhiên nhìn xuống người mình một lượt rồi cười hì

hì, nghiêng đầu nói với hắn bằng giọng dí dỏm:

- Thế nào? Có phải là ta rất xinh đẹp không?

Chú thích:

(1) Người con gái đang độ xuân sắc, lả lướt diễm lệ như liễu như hoa, từng lời

nói từng cử chỉ đều vô cùng thùy mị, mà thiếu nữ trẻ tuổi xinh đẹp như vậy, thì ở

chỗ nào cũng đẹp.

(2) mâm tiệc bày sẵn, ai đến lúc nào thì ăn lúc đó, ăn xong rồi đi, người hầu lại

dọn lên tiếp cho đợt khách mới; bởi hình tượng như nước chảy nên xưa có tên này.NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 193 Tri Âm Khó Gặp

193 Tri Âm Khó Gặp

Cô nương đó vuốt ve bộ lông con chim anh vũ, thấy viên lính cứ đứng ỳ ra đó

ngẩn ngơ nhìn mình chằm chằm thì không khỏi bật cười khúc khích, rồi bảo:

- Một chốc nữa sẽ rước Trắc vương phi vào phủ rồi, ngươi đừng có chạy lung

tung đó! Nếu lại giẫm phải váy của vương phi thì sẽ không chỉ bị mắng một trận rồi

thôi đâu.

Dứt lời, nàng nhoẻn miệng cười duyên dáng rồi xoay người đi về phía các tòa

đình viện ở chái tây. Kiến trúc trong vương phủ nguy nga và lộng lẫy, hào hoa và

tráng lệ; hành lang nối liền phòng ốc, nhà cửa đan xen; phía trước là nhà chính, phía

sau là phòng ngủ, cung điện sâu hút bên trong. Các tòa đình viện ở chái tây này

gồm cả thảy mười tòa nhà, là nơi ở của đám người hầu và tạp dịch, cho nên không

có ai canh gác.

Chính Đức vừa giơ tay lên kêu "này" thì người thiếu nữ xinh đẹp đã bước qua

khỏi cánh cửa cao cao, hắn bèn vội rảo bước đuổi theo. Thị vệ xung quanh đưa mắt

nhìn nhau, đều nghĩ bụng rằng Hoàng thượng đã chấm người con gái xinh xắn này

rồi, thế là nhất thời trở nên khó xử. Hoàng thượng theo đuổi con gái nhà người, bọn

họ làm sao dám đuổi theo quá sát, nhưng dẫu gì thì nơi này cũng không phải là

hoàng cung đại nội, ngộ nhỡ Hoàng thượng gặp phải chuyện gì thì biết làm thế nào?

Thế là mấy viên thị vệ chỉ đành cắn răng bám theo cách một khoảng. May mà

khu vực này là chỗ ở của đám tôi tớ nên cũng không được trông giữ nghiêm ngặt

lắm, vả lại hôm nay có nhiều gia bộc và thân binh của các vị tướng quân và đại

nhân mới đến vương phủ lần đầu, chỗ nào cũng cảm thấy mới lạ nên thỉnh thoảng

cũng có người chạy sang chỗ chái điện bên này ngắm nghía. Thêm nữa bởi hôm naylà ngày vương gia nạp phi, nô bộc đều ở bên ngoài đón khách nên chốn này cũng

không có mấy người, vì vậy bọn họ có thể vào trong sân của khu nhà ngang một

cách thuận lợi.

Chính Đức vội vã đuổi theo, hắn thấy người thiếu nữ bước khoan thai nhẹ

nhàng đến trước một căn phòng, vừa lúc có một bà lão đi ra ngoài lấy mấy bó rau

phơi ngoài khung cửa. Người thiếu nữ đó liền cất giọng thưa:

- Mẹ, con đã về.

Bà lão có vẻ mặt hiền hậu ngẩng đầu lên, trông thấy con mình liền lập tức nở

một nụ cười vui vẻ, bảo:

- Lương Nữ đó à, nương nương lại thưởng cho chim anh vũ à? Mau đem nó vào

phòng sưởi đi, đừng để nó bị lạnh. Mẹ làm một ít thịt heo hầm rau khô, chốc nữa

nhớ gọi cha con về ăn nhé.

Người thiếu nữ dạ một tiếng giòn tan, đoạn rẽ sang một căn hầm sưởi nhỏ bé ở

bên cạnh, mở cửa bước vào. Bà lão cũng mang mớ rau khô trở về phòng. Chính

Đức thoáng ngừng bước: "Lương Nữ? Mẹ? Nàng ấy... nàng ấy không phải là Đường

Nhất Tiên sao?"

Chính Đức cố nhớ kỹ lại. Tuy bình thường khi nhớ về vị cô nương này trong

đầu hắn chỉ thấy một bóng hình xinh đẹp mờ ảo mang theo một chút ấm áp và

hương thơm nhàn nhạt, nhưng khi vừa trông thấy nàng, Chính Đức lại nhớ rõ hình

dáng của nàng ngay: tuổi tác, vóc người, giọng nói, còn cả nốt ruồi duyên trên mép

môi nàng. Trên đời có sự trùng hợp đến vậy ư?

Chính Đức lại cất chân đuổi theo rồi cũng chui vào trong phòng sưởi. Đám thị

vệ đưa mắt nhìn nhau, không nói mà ngầm hẹn tản ra, đứng vây lấy căn phòng sưởi

đó lại. Bước vào căn phòng sưởi,người thiếu nữ nhón chân mở một cái lồng tre thả

con chim anh vũ vào rồi cài chốt đóng lại. Nghe thấy tiếng cửa cót két, nàng vội

quay đầu nhìn lại, ngạc nhiên hỏi:

- Là ngươi? Ngươi đuổi theo ta làm gì?Hơi thở của Chính Đức có phần gấp gáp. Hắn định thần lại, đỏ mặt nói:

- Đường cô nương, cô có thể không nhớ ra ta, nhưng chắc cô phải nhớ Dương

Lăng chứ? Y vẫn luôn phái người tìm cô suốt, sao cô lại đổi tên họ và vào phủ Đại

vương vậy?

Người thiếu nữ vận bộ đồ trắng trang nhã, càng làm nổi bật vẻ xinh đẹp hữu

tình. Nàng nghiêng người dựa cạnh một dãy lồng trúc, lấy tay vén tóc mai, hơi đảo

mắt, mỉm cười:

- Dương Lăng? Ngươi nói đề đốc Dương Lăng của Nội xưởng hả? Ta biết chứ,

con hát đạo tình(1) khắp Đại Đồng đều biên các câu chuyện của y thành từ khúc để

hát, đương nhiên là ta từng nghe qua. Y tìm ta...

Nói đến đây, khuôn mặt xinh xắn đột nhiên biến sắc, nàng bước vội đến trước

mặt hắn hỏi dồn:

- Ngươi nhận ra ta? Ngươi biết ta tên gì sao? Ngươi hãy mau nói cho ta biết đi.

Ta là ai? Dương đại tướng quân tìm ta để làm gì?

Chính Đức ngơ ngác hỏi lại:

- Cô... cô không biết tên mình sao?

Người thiếu nữ nguýt một cái dài thượt rồi sốt sắng đáp:

- Ta mà biết thì còn hỏi ngươi à? Ta được vương phi nương nương cứu về,

nương nương nói lúc tìm thấy ta thì ta đang nằm ven bờ sông, mặt mày đầy máu,

sau khi tỉnh lại thì không nhớ gì cả. Ta cũng không biết mình là ai, không biết trong

nhà có còn cha mẹ anh em gì không. Ngươi bảo... ngươi bảo ta họ Đường hả?

Nói đến khúc sau, giọng nàng đã trở nên run run. Mặc dù vợ chồng Lưu Lương

đối xử với nàng như con ruột, song muốn tìm lại người thân máu mủ của mình là

bản tính con người. Ai cũng nói nàng có lai lịch không rõ ràng, nay có cơ hội biết

được xuất thân của mình thì sao tâm tình nàng không kích động và hưng phấn cơ

chứ?!Chính Đức lẩm bẩm: "Chứng mất hồn?" Hắn bỗng vỡ lẽ. Ngày đó khi Dương

Lăng bẩm báo với hắn từng kể rằng trên vách núi phát hiện thấy một chiếc chuôi

đao và và một tảng đá dính máu, bên trên còn bệt tóc và máu tươi. Ắt hẳn là do

Đường Nhất Tiên bị đập mạnh vào đầu, lại rơi xuống nước nên mới mắc phải chứng

bệnh mất hồn.

Biết người con gái trước mặt này đúng thật là Đường Nhất Tiên, Chính Đức

mừng rỡ như điên. Hắn liền nắm lấy cổ tay Đường Nhất Tiên nói nhanh:

- Vậy thì đúng rồi! Quả nhiên cô là Đường Nhất Tiên. Cô chính là Đường Nhất

Tiên, cô là... là...

Nói đến đây hắn chợt nghẹn lời. Hiện hắn đã không còn ngây ngô như khi còn

làm thái tử, cũng biết phụ nữ chốn thanh lâu có thân phận rất thấp hèn, nếu hắn nói

thật chỉ sợ sẽ khiến Đường Nhất Tiên xấu hổ và nhục nhã. Hắn ấp a ấp úng một lúc

rồi buột miệng nói bừa:

- Cô là em... em gái của Dương Lăng Dương đại tướng quân.

Cái miệng chúm chím anh đào của Đường Nhất Tiên há ra tròn vo, cặp mắt

sáng như sao trời ngây ra, nàng chăm chú nhìn Chính Đức thật lâu, vẻ vui mừng

trong mắt bỗng dần biến mất. Nàng giật mạnh tay ra khỏi tay Chính Đức, lui về sau

mấy bước, thuận tay quơ lấy một cây móc tre dùng để treo lồng chim rồi cảnh giác

trừng mắt với Chính Đức, giận dữ bảo:

- Ngươi nói mấy lời ngon ngọt đó để làm gì? Tính gạt ta hả?

- Hả! Tôi gạt cô? - Chính Đức có phần hốt hoảng, - Chẳng lẽ tôi lại không có

thiên phú nói dối đến như vậy sao?

Đường Nhất Tiên cười khẩy, mũi ngọc hếch lên, đắc ý như thể đã phát hiện

được quỷ kế của hắn:

- Dương đại nhân họ Dương, vừa rồi ngươi lại bảo ta họ Đường, vậy còn không

phải là buột miệng nói liều sao? Đồ lừa đảo, thấy sắc nổi lòng!Đường Nhất Tiên vừa nói vừa tức giận vung mạnh cây gậy, "vù" một tiếng, cây

móc tre quất trúng bắp đùi Chính Đức. Hắn la lên "ui da" rồi ôm chân nhảy lò cò tại

chỗ. Đường Nhất Tiên thấy vậy thì không nhịn được bật cười phì. Dứt tiếng cười,

nàng liền đanh mặt quát khẽ:

- Tiểu tử thúi, mau cút ra ngoài đi! Xui cho ngươi nghĩ ra cái cách láo khoét

như vậy để gạt bản cô nương. Có điều... Đường Nhất Tiên... ừm, cái tên ngươi buột

miệng nói liều lại nghe hay hơn Lưu Lương Nữ một chút. Hi hi!

Nghe thấy tiếng la oai oái của Hoàng thượng, hai gã thị vệ đang đứng sát ngoài

cửa liền như mèo hoang bị giẫm phải đuôi, họ vội giật bung cả cánh cửa, cùng chen

nhau xông vào, hốt hoảng gọi:

- Hoàng... Hoàng hiệu úy, đã xảy ra chuyện gì vậy?

Chính Đức thẹn quá hóa giận, liền quát lên:

- Cút ra ngoài cho ta, không phải chuyện của các ngươi!

Hai viên thị vệ trông thấy tình hình liền biết Hoàng thượng tán gái không thành,

đích thực là một chuyện cực kỳ mất mặt của vị nam nhân đứng đầu thiên hạ. Hai tay

cao thủ nhất lưu võ công cao cường ngay cả rắm cũng không dám đánh liền lập tức

chui trở ra ngoài, tiện tay xách cánh cửa ra luôn.

Đường Nhất Tiên tặc lưỡi khinh thường:

- Ơ này! Hoá ra ngươi nhỏ như vậy mà đã là quan hiệu úy à! Nhưng mà nơi đây

là phủ Đại vương, không cho phép người làm càn, bản cô nương mà la lên là tiểu tử

thúi nhà ngươi sẽ bị tống vào đại lao đó. Đi ra mau lên!

Chính Đức khổ sở trần tình:

- Đường cô nương, tôi không có gạt cô đâu! Cô là... cô là biểu muội của Dương

đại nhân, đương nhiên không cùng họ với y rồi.

- Hả?Đường Nhất Tiên nhìn y chằm chằm, bán tín bán nghi, một lúc sau mới từ từ hạ

cây gậy tre xuống, ấp úng:

- Ngươi... ngươi nói có thật không? Ta... ta là biểu muội của Đề đốc Nội xưởng

Dương Lăng Dương tướng quân ư?

Chính Đức gật đầu lia lịa:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Cô thử nghĩ xem, đây là vương phủ, tôi sao dám nói

càn? Cho dù tôi gạt cô đi nữa thì chốc nữa Dương đại nhân đi ra gặp cô, y cũng sẽ

không giúp tôi gạt cô, đúng không?

Đường Nhất Tiên ngây người tại chỗ, hai mắt nhìn vào khoảng không, cũng

không biết miệng nàng đang lẩm bẩm cái gì. Một lúc lâu sau nàng mới vứt cây gậy

tre đi rồi reo lên:

- Mau, ngươi mau đưa ta đi gặp biểu ca! Hoá ra ta có biểu ca là đại tướng quân

oai phong như vậy.

Đường Nhất Tiên vui sướng định chạy ra cửa, Chính Đức giật mình đánh thót.

Nếu bây giờ đưa nàng đi gặp Dương Lăng, đảm bảo sẽ bị lộ ngay. Tuy rằng với

quyền lực Hoàng đế của mình, không người con gái nào hắn muốn mà không thể

triệu được vào cung. Nhưng hắn lại không muốn gây nên chuyện khiến Đường Nhất

Tiên không vui. Huống chi hắn thà mong Đường Nhất Tiên cứ lớn giọng nói chuyện

với hắn, chứ không mong nàng khép na khép nép như những người con gái khác.

Chính Đức vội tìm lời ngăn cản:

- Hiện tại hẳn là Dương đại nhân đang tham gia lễ nạp phi của Đại vương trên

điện Ngân An, lúc này mà đi đến trước mặt vương gia sẽ thất lễ, Dương tướng quân

cũng sẽ bị trách phạt. Tôi là thân binh của y, có dịp tôi sẽ đích thân đi gặp y. Các

người li tán đã lâu như vậy, có lâu thêm một chút cũng đâu sao!

Trong lòng dạt dào niềm vui sướng, Đường Nhất Tiên gật đầu nhoẻn miệng

cười tán thành:- Ừm ừm! Ngươi nói cũng đúng. Đúng rồi, Hoàng... hiệu uý, cha mẹ ta đâu?

Các vị đang làm gì? Nghe nói biểu ca là người Tuyên Phủ, ban sơ gia cảnh bần hàn,

vậy cha mẹ ta chắc cũng là người dân bình thường hả?

- À... chuyện đó,... Mấy năm vừa rồi chiến loạn liên miên, lệnh tôn và lệnh

đường sớm đã... Họ Đường hiện chỉ còn mỗi mình cô thôi, là... là Dương đại nhân

nuôi dưỡng cô.

Chính Đức vừa trả lời vừa lén quệt mồ hôi trên trán.

- Ồ...!

Đường Nhất Tiên cảm thấy hơi mất mát, có điều trong ký ức của nàng không hề

có chút ấn tượng gì về cha mẹ, cho nên cũng không thể nói là đau lòng.

- Ta lớn lên trong nhà của biểu ca sao? Đúng rồi, tại sao ta lại bị thương vậy.

Ngươi là thân binh của biểu ca, ngươi có biết không?

- Khụ khụ! Chuyện này... nói ra thì dài lắm...

Chính Đức kể đến độ nước bọt văng tứ tung, bịa chuyện càng lúc càng quá đà.

Hắn chợt cảm thấy hoá ra mình cũng có thiên phú tán hươu tán vượn đến thế.

*****

Vui sướng lâng lâng một lúc thật lâu, Đường Nhất Tiên chợt lưu luyến nói:

- Than ôi! Gặp biểu ca rồi, ta sẽ phải theo huynh ấy trở về kinh sư. Cha mẹ đối

đãi với ta tốt như vậy...

Trông thấy vẻ mất mát của nàng, Chính Đức chợt mềm lòng liền vội dỗ dành:

- Dương đại nhân cũng đối xử với cô rất tốt! Chỉ cần cô nói một tiếng, nhất

định y sẽ cho phép cô mang vợ chồng Lưu thị về kinh ngay.

- Thật không? - Đường Nhất Tiên mừng rỡ, - Vậy tốt quá rồi, cha và mẹ đối đãi

với ta như con ruột của mình, ta thật không nỡ xa rời các vị. Chao ôi, có điều mấycon chim này đã bầu bạn với ta lâu như vậy, bọn chúng đều là bảo bối yêu của

nương nương, sau này ta đi rồi sẽ không gặp lại chúng nữa.

Đường Nhất Tiên buồn bã ngước nhìn những chiếc lồng chim muôn hình muôn

vẻ; từng con chim đang nhảy nhót líu lo ríu rít trong lồng.

Chính Đức say mê nhìn nàng đi đến bên từng chiếc lồng chim đang treo, chốc

chốc lại chúm môi lại huýt sáo. Tiếng huýt sáo phát ra nghe êm tai hệt như tiếng

chim hót, khiến đám chim nhảy chồm về phía trước vui hót không ngừng. Hai má

nàng đỏ bừng; má đào da ngọc, cặp mắt lanh lợi, quyến rũ không nói nên lời.

- Nè, Hoàng hiệu úy! Giúp ta mang nước lại đây.

Như nhận được chiếu chỉ, Chính Đức liền vội xắn tay áo chạy đến góc tường

xách một thùng nước to vui sướng mang lại cho Đường Nhất Tiên.

Đường Nhất Tiên ngoái đầu lại nhìn, thấy vậy thì bật phì cười, mắng:

- Ngươi thật là ngốc! Thật không biết sợi thần kinh nào của biểu ca bị bất

thường nữa mà lại để cái tên ngốc nhà ngươi làm thị vệ. Mấy con chim này cộng lại

cũng uống không hết một gầu nước, sao ngươi xách cả thùng qua đây làm gì?

Chính Đức cười ngây ngô mấy tiếng, chỉ cảm thấy người con gái này khi cáu

gắt cũng có vẻ phong tình khác lạ, thế là hắn càng cảm thấy yêu thương hơn. Trong

vườn thượng uyển của hoàng cung, hắn suốt ngày sinh sống trong ổ của đám nữ

nhân, ngay cả lúc đi ngoài cũng có cung nữ xinh đẹp hầu hạ. Hắn lớn đến chừng

này, ngoại trừ thái giám thì gặp nữ nhân là nhiều nhất; thái giám và nữ nhân vây

quanh hắn thường xuyên như việc mặc quần áo mỗi ngày vậy. Hắn cũng đã quen

đối xử với đám người đấy như một vật trang trí rồi.

Nhưng Đường Nhất Tiên lại tạo cho hắn một cảm giác hoàn toàn khác biệt. Ở

trước mặt nàng hắn không cần phải giả đò ra vẻ cao quí, cả người thoải mái thong

dong. Trong thâm cung đại viện, bề ngoài thì hắn luôn vui đùa không nghỉ, song khi

tuổi tác lớn dần, hắn cũng thường xuyên cảm thấy rất ức chế và cô đơn.Mỗi khi trên trời có chim ưng hay hồng nhạn bay qua, hắn liền bó tay vào tay

áo mà ngữa đầu ngước nhìn bầu trời, ánh mắt dõi theo thật xa. Hắn vừa nhìn vừa

hâm mộ, mãi đến khi không thấy bóng dáng con chim ấy đâu nữa. Mặt trời lặn trên

sông dài, cuối thu giữa đại mạc, ... thật là thong dong biết bao,... còn trong tòa nhà

to lớn, quanh co và hùng vĩ ấy, khắp chỗ đều là những cấm kị và lễ nghi; Hoàng đế

còn không bằng cả một con chim tự do.

Đường Nhất Tiên trông bộ dạng lóng ngóng tay chân của hắn thì cười bảo:

- Xem ngươi kìa, sao giống như thường ngày không phải làm gì hết vậy?

Chính Đức liền đáp:

- Đúng đó! Từ nhỏ tôi ở trong một căn nhà lớn ơi là lớn, chỗ đó không cho đi

lại, suốt ngày bị nhốt bên trong, quy củ nhiều ơi là nhiều. Mãi đến khi gặp được

Dương... đại nhân, tôi mới được ra ngoài mở mang kiến thức.

- Ồ? Nghe ra vẻ ngươi còn là con cháu thế gia vọng tộc à?

Đường Nhất Tiên khẽ nhíu đôi mày thanh tú, đưa tay vin đầu như có điều suy

nghĩ

- Ta nhớ... nhớ lúc nhỏ cũng ở trong một căn nhà lớn. Cả ngày ở đó cũng không

được đi đâu, hàng ngày đều bị nhốt ở trong đó, chỉ có thể ngẩng đầu ngước lên nhìn

một mảnh trời, bị nhốt đến mụ mị cả người. Lạ thật, sao ta lại có cảm giác này nhỉ?

Cặp con mắt Chính Đức sáng ngời:

- Vậy sao? Hoá ra cô và tôi đều thê thảm như nhau. Nhưng mà tôi thực sự đáng

thương hơn cô nhiều! Chẳng những bọn họ không cho tôi ra ngoài, mỗi ngày còn

bắt tôi học này học nọ, mặc kệ tôi thích hay không, luôn ép tôi phải học...

Đường Nhất Tiên chợt vỗ tay la lên:

- Ta nhớ ra rồi! Ta cũng vậy đó, thứ gì cũng phải học, ăn thế như nào, mặc ra

làm sao, đi đứng phải thế nào, hệt như con rối vải mặc cho người ta đưa đẩy vậy.Còn phải học nào là cầm kỳ thi họa, thi từ ca phú, rất là chán, ta lại không được đi

thi Trạng Nguyên... Ui da, lại nhức đầu rồi. Ta chỉ có thể nhớ bấy nhiêu.

Chính Đức hào hứng nói theo:

- Đúng đó, tôi cũng vậy! Tôi thì lại không muốn thi Trạng Nguyên, học nhiều

như vậy để làm gì, nhức đầu lắm!

Hắn càng nói chuyện càng thấy ăn ý, cảm thấy tri âm trong thiên hạ chỉ có Nhất

Tiên cô nương mà thôi. Đoạn hắn ngẫm nghĩ, thấy nỗi khổ của một người đường

đường làm vua như mình thế mà lại giống nỗi đau của một người kỹ nữ được thanh

lâu bồi dưỡng để lấy sắc mua vui đến thế, thì lại cảm thấy dở khóc dở cười.

Đường Nhất Tiên nghe xong thì bật cười, liếc nhìn hắn mỉm cười bảo:

- Này tên lười! Ta là nữ nhân mà, đương nhiên không cần thi Trạng Nguyên.

Ngươi là nam nhân, đáng ra nên đọc sách cho tốt. Thấy chưa, không lo đọc sách

cho tốt, giờ chỉ có thể làm thị vệ mà thôi.

Chính Đức cười khan hai tiếng rồi rờ mũi nói:

- Như vậy càng tốt, tự do tự tại. Làm trạng nguyên có gì hay chứ? Nhiều quy

củ, lắm lễ nghi. Chậc, cô không biết đâu, cả ngày phải nói những lời giả dối với rất

nhiều người, nghĩ một đằng nói một nẻo, giả vờ giả vịt, cho dù trong lòng không

vui cũng phải ngoác miệng mà cười...

Đường Nhất Tiên kinh ngạc:

- Thật đó! Ngươi nói như vậy ta mới nhớ, hình như ta cũng vậy...

Vừa nói đến đây, nàng chợt biến sắc hỏi:

- Tại sao lại có những chuyện này? Có phải là biểu ca của ta đối xử với ta

không tốt?

Chính Đức liền vội đáp:- Không đâu, không đâu! Dương đại nhân rất yêu thương cô, những chuyện đó

nhất định là xảy ra khi cô còn rất nhỏ, lúc cô còn ở trong nhà mình rồi.

Đường Nhất Tiên nghiêng đầu suy nghĩ một lúc rồi gật đầu hài lòng:

- Ừm! Có lý, hình như là chuyện lúc ta còn rất nhỏ. Đúng rồi, ngươi nói cho ta

biết trước biểu ca ta bao nhiêu tuổi, diện mạo thế nào đi. Hình như ta có một ít ấn

tượng về anh ấy.

- Dương đại nhân ấy à?

Chính Đức ưỡn ngực, vuốt lại vạt áo, nghiêm mặt nói:

- Y năm nay mới tròn hai mươi, anh tuấn bất phàm, phong lưu lịch lãm, khí vũ

hiên ngang , phong lưu phóng khoáng,. .. Đại để cô thấy bộ dáng tôi thế nào thì đại

khái có thể tưởng tượng được bảy tám phần rồi đó. Dương đại nhân là bầy tôi đắc

lực bên cạnh Hoàng thượng, mưu sâu kế rộng, cơ mưu nhanh nhạy, gặp loạn không

hoảng, rất có phong độ đại tướng...

*****

Vào lúc này, vị Dương Lăng Dương đại khâm sai "mưu sâu kế rộng, cơ mưu

nhanh nhạy, gặp loạn không hoảng, rất có phong độ đại tướng" trong miệng Chính

Đức đang bị Dương Đình Hoà, Hồ Toản và vị tuần phủ Uông Dĩ Hiếu của Tuyên

Phủ mà ban đầu y không nhận biết xô đẩy đánh đập mắng chửi trong điện Cẩn Đức,

bộ dạng nhếch nhác khôn thôi. Tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh đứng một

bên, mặt mày khó xử, cũng không biết nên khuyên ai cho phải.

Trương Vĩnh cũng biết võ, trong lúc hỗn loạn không biết bị ai đạp cho một phát

nên lão định xông lên báo thù nhưng bị Đại vương gia quát bảo dừng lại, nên đành

nhặt chiếc đai ngọc bị giật đứt từ dưới đất lên rồi căm tức đứng sang một bên.

Dương Lăng trẻ trung khoẻ mạnh, cộng thêm mấy ngày qua theo Ngũ Hán Siêu

luyện tập võ công, được danh sư chỉ điểm cho nên y cũng biết chút kỹ xảo quyền

cước thông thường. Nếu thực sự động thủ thì ba vị quan văn này cũng không phảiđối thủ của y, nhưng mà người trẻ nhất trong ba vị này cũng đã bốn lăm bốn sáu

tuổi rồi, sao y dám ra tay?!

Lần trước Dương Đình Hoà bị cái gã Lưu Đại Bổng Chùy của y lỗ mãng đánh

gãy chân ngựa, đành đưa hai vị "thầy đồ" lo lắng ủ rũ trở về kinh thành. Lão lại bị

ba vị đại mẫu nghi thiên hạ già lớn trẻ trách mắng cho một chập, thế là bèn vác một

bụng tức khí đến bộ Binh, lấy giấy thông quan cho phép vượt quan ải, tiện đường

qua Tuyên Phủ lại mang theo cả vị tiến sĩ đồng khoa là tuần phủ Tuyên Phủ Uông

Dĩ Hiếu đi cùng.

Trước tiên lão bí mật gặp mặt Đại vương, nói rõ ngọn ngành việc Hoàng đế bí

mật đến Đại Đồng, định tập hợp sức mạnh của chúng quan để đàn áp thói kiêu ngạo

của Dương Lăng. Chính Đức đến được Đại Đồng đều là do Dương Lăng xúi bẩy,

nếu như y cũng thay đổi ý kiến, chịu khuyên nhủ Hoàng đế hồi kinh thì Dương

Đình Hoà cũng sẽ chẳng thèm so đo mối hiềm khích đánh gãy chân ngựa với y nữa.

Ai dè sau khi Dương Đình Hoà trần tình, thuyết phục hết nước hết cái mục đích

đến đây của mình rồi, Trương Vĩnh lại bước lên. Trước tiên, lão phán một câu

"Hoàng thượng có chỉ, nô tài không dám không theo", sau lại một câu "dưới khắp

gầm trời không chỗ nào không phải là đất của nhà vua", rằng Hoàng thượng tuần tra

xem xét giang sơn cũng là việc thiên kinh địa nghĩa, vừa nói vừa cười toe toét, đùn

đẩy hết mọi thứ sang cho Hoàng thượng, hoàn toàn không hề nhượng bộ.

Tuần phủ Uông Dĩ Hiếu của Tuyên Phủ nghe xong thì nổi giận đùng đùng. Lão

không ở trong kinh thành, Trương Vĩnh lại mới nhậm chức đề đốc Kinh doanh mới

được mấy tháng, tính tình lại không hống hách như Lưu Cẩn, nói một cách tương

đối thì lão ta khá là khiêm nhường, cho nên Uông Dĩ Hiếu không biết sự lợi hại của

lão. Thế là Uông tuần phủ bèn xông lên phía trước mắng cho một câu:

- Bề tôi chúng tao trực ngôn khuyên can báo quốc, cái tên hoạn mày nhiều

chuyện cái gì?

Dứt lời liền cho mặt Trương Vĩnh ăn một quả đấm già.

Trương Vĩnh nào chịu bỏ qua, thế là hai người tức thì túm lấy nhau mà đấm đá.Dương Lăng vốn định nhẫn nhịn để đặng yên thân, tính bước lên khuyên giải cùng

đám người Dương Đình Hoà, nào ngờ hai bên đều ôm đầy bụng lửa giận, chưa nói

được mấy câu thì cũng đã lao vào tham chiến.

Đại vương giận đến run rẩy chòm râu, mắt trợn trừng. Lão sớm nghe kể quan

viên kinh sư được Hoằng Trị lão gia tử nuông chiều đến độ hồ đồ, hở một tí lại xúm

vào diễn vai võ phụ(*) trên triều đình, Lý Đông Dường còn từng giật lấy kim qua

của võ sĩ mà rượt đánh Thọ Ninh Hầu trên kim điện. Chuyện này truyền đến kẻ sĩ

trong dân gian lại được đám người đọc sách xem đó là giai thoại đáng được ca tụng

mà cổ vũ cho cái tập tục đó. Nay xem ra quả nhiên là đúng thật. (*: vai quần chúng

đánh nhau trong kịch)

Đại vương quát to:

- Lẽ nào lại vô lý như thế? Tất cả hãy dừng tay lại cho bản vương! Các ngươi

đều là quan lớn nhất phẩm nhị phẩm của triều đình, nay ra tay đánh nhau ở đây thì

còn ra thể thống gì nữa?

Tuần phủ Uông Dĩ Hiếu của Tuyên Phủ chắp tay thưa với Đại vương:

- Vương gia! Hoàng thượng mới kế vị ngôi vua, chưa con nối dõi, thân quý

nghìn vàng sao có thể xem nhẹ mà dấn thân vào nơi nguy hiểm? Trước kia cho dù

thiên tử ở tại cấm cung, bốn phía cũng vẫn được canh gác cẩn mật. Dương Lăng

luôn miệng vì xã tắc giang sơn, song lại coi Hoàng thượng như quân cờ của hắn,

dẫn bừa đến vùng đất đao thương này. Ngộ nhỡ xảy ra bất trắc gì, cái họa người

đánh chùy ở bãi Bác Lãng(2) hãy còn đó, hạ quan sao có thể không lo như có lửa

đốt trong lòng?

Hôm đó Hồ Toản ở thế bị Hoàng đế và Dương Lăng ép buộc nên không thể

không ngầm bằng lòng cho vua đến Đại Đồng, nhưng trong lòng vẫn hết mực phản

đối chuyện này. Nay có chỗ dựa lớn là Dương Đình Hoà nên đương nhiên lão cũng

muốn khuyên nhủ Hoàng thượng sớm ngày hồi kinh.

Lão giũ giũ chiếc quan bào nhăn dúm dó, cũng không thèm nhặt chiếc cánh

chuồn bị vặt đứt vứt lăn lốc trên mặt đất, chỉ đội chiếc mũ một cánh mà thưa vớiĐại vương:

- Vẫn mong vương gia làm chủ chuyện này. Hoàng thượng là thiên hạ chí tôn,

đáng nên chuộng chánh học(3), thạo ngôn lộ(4), giữ danh hiệu, cai vui chơi, bỏ tiểu

nhân, tường kẻ nghịch; làm cả sáu điều thì mới có thể ngăn họa, mới có thể dẹp

loạn vậy. Thay vì dấn thân tôn quý vào chốn hiểm nguy, chi bằng chuộng tích đức,

dưỡng nhân tâm, thì mới rũ tay không làm mà vẫn yên trị.

Ở đây Đại vương có thân phận cao nhất, nhưng bởi thế lão nói chuyện càng

phải kiêng dè nhất, không thể ăn ngay nói thẳng như mấy ngoại thần này. Lão là

người trong hoàng tộc, nếu can thiệp vào quá sâu sẽ khó tránh bị Hoàng đế kiêng kị,

song nếu bỏ mặc bàng quang, lỡ mà thật sự Hoàng thượng xảy ra chuyện gì trên đất

của lão thì khi đó lão có muốn khóc cũng sẽ không kịp nữa.

Đại vương bèn ho khan mấy tiếng, vừa định trù liệu chút lời mềm mỏng để

khuyên nhủ hai vị khâm sai, thì Dương Lăng đã cười khẩy nói:

- Dưỡng nhân tâm? Dưỡng nhân tâm như thế nào? Cái kiểu dưỡng nhân tâm

giống như Lưu A Đẩu vui quên nước Thục(5) đấy ư? Hay là dưỡng nhân tâm như

Lý Hậu Chủ vui vầy với trăng hoa gió tuyết(6)? Hai kẻ nhu nhược đó dưỡng nhân

tâm đến mất cả nước đó!

Giặc mạnh ở ngay sát bên người, thiên tử không biết việc quân, không thạo việc

võ, liệu có được không? Hoàng đế giặc Thát thì ở ngoài Trường Thành cưỡi ngựa

bắn tên, dẫn đại quân tác chiến, thiên tử chúng ta hiện còn ở trong thành Đại Đồng

mà các người đã run rẩy sợ hãi, đó là trung ái hay là chiều hỏng?

Uông Dĩ Hiếu cố cưỡng từ đoạt lý:

- Đại Minh ta quốc thái dân an, ca múa thanh bình, một đám rợ Hồ không biết

nông canh ngẫu nhiên vượt qua biên cảnh mà là họa tâm phúc cái gì? Nó chỉ là mụn

ghẻ, hà tất vì mong kết đồng minh mà Hoàng thượng phải hạ thấp thân phận đi đến

biên thùy!

Lời này nói ra khiến Hồ Toản và Dương Đình Hoà không khỏi thoáng nóngmặt, cảm thấy có phần thẹn với lòng. Dương Lăng nghe xong thì cười lớn hai tiếng,

đáp trả:

- Mụn ghẻ? Nói chi xa, chỉ nói mấy năm gần đây, năm Hoằng Trị thứ bảy, Thát

Đát quấy nhiễu Tuyên Phủ, vây Xích thành, sát hại hàng trăm bá tánh, toàn bộ dân

chúng trấn Phụng Nghĩa đều bị giết sạch.

Năm Hoằng Trị thứ tám, Thát Đát tập kích Ứng châu, cướp đi hơn ba trăm đinh

tráng.

Năm Hoằng Trị thứ chín, chúng tấn công Kế châu, thiêu hủy hết hoa màu và

rừng cây ngoài thành, phụ nữ bị bắt có đến chín trăm.

Năm thứ mười, chúng xâm lược Túc châu, Cam châu, lừa ngựa bò dê bị cướp

có mấy nghìn, hơn năm trăm đinh tráng và phụ nữ bị bắt, người già trẻ nhỏ bị giết

có gần ba nghìn, thây chất đầy đồng, nước xanh hoá đỏ. Cùng năm đó, chúng cướp

Úy châu, thiêu rụi hơn nghìn thôn làng, nạn dân vô số.

Năm thứ mười hai...

Năm thứ mười ba...

Mặt Uông Dĩ Hiếu trắng bệch, mồ hôi túa ra đầm đìa. Thát Đát xâm lược biên

cương là chuyện năm nào cũng có, hơn nữa năm sau luôn hung hãn hơn năm trước.

Bò ngựa và phụ nữ bị chúng bắt đi cũng mỗi năm một nhiều hơn, quan binh bị giết

hại cũng từ mấy trăm lên đến hàng nghìn, hàng vạn. Rõ ràng thế lực Thát Đát càng

lúc càng lớn, thế mà lại trợn mắt nói mò, hồ đồ nói rằng bọn chúng bất quá chỉ là

mụn ghẻ, sao mà chính mình lại cứ nhai nhải mãi như thế?

Trong lúc đó Dương Lăng vẫn chưa tha:

- Năm thứ mười bảy, Thát Đát tấn công Vạn Toàn vệ, Bạch Dương khẩu, Ninh

Vũ quan và Hoa Mã trì, quân sĩ chết hơn mấy nghìn. Giặc Thát lại tập kích Tuyên

Phủ, Đại Đồng, quân tiên phong vào đến sát kinh đô và vùng lân cận, giết hại và

cướp mất vô số dân chúng và bò dê. Mà năm nay, chúng lại xua bảy vạn quân thiếtkỵ, ồ ạt kéo sang xâm lược. Uông tuần phủ, những chuyện mà ông nhìn như không

thấy này, chẳng lẽ không phải hại nước hại dân?

Dương Nhất Thanh thấy sắc mặt đám người Hồ Toản tím tái, bèn thở dài một

hơi, mở lời hoà giải:

- Dương đại nhân! Ý của các vị đại học sĩ đây là Hoàng thượng là chủ của tông

miếu xã tắc, nên coi nhẹ việc chinh phạt, mà xem trọng xã tắc. Ngự giá thân chinh

là chuyện rất không ổn thỏa.

Dương Lăng biết vị Dương tổng chế này trong lòng tán thành việc Hoàng đế ra

mặt kết minh với Đoá Nhan Tam Vệ cùng phân hoá và làm tan rã thế lực Thát Đát.

Hơn nữa hắn cũng thấy được lợi ích về lâu dài trong đó.

Nhất là Dương Nhất Thanh đã dùng một kế cực kỳ hiểm độc, phái một cánh

quân đơn độc theo kế sách "gậy ông đập lưng ông" lẻn vào đất giặc. Giặc Thát

không có thành cao tường vững để thủ, không có trăm vạn sĩ tốt để cậy nhờ, một

khi bị người khác xâm nhập vào ngôi nhà không được phòng vệ, thiệt hại của chúng

sẽ hơn xa dân chúng Đại Minh.

Hắn kìm chân Bá Nhan ở biên quan, tiêu hao lương thảo và binh mã bọn chúng,

lại dựa theo kế sách của mình mà phân hoá quan hệ giữa Bá Nhan và Hỏa Sư.

Chính quyền người Thát Đát như tuyết lạnh thêm sương, trải qua một cuộc chiến

này nhất định sẽ đại thương nguyên khí. Lúc này việc kết minh cùng Đoá Nhan

Tam Vệ sẽ càng tỏ rõ tầm quan trọng của nó: có sự khống chế và phối hợp của bọn

họ, Thát Đát sẽ suy yếu dần mà không có cơ hội và thời gian để khôi phục nguyên

khí. Tầm quan trọng sâu xa của nó quả thực hấp dẫn vô cùng, vì vậy rất đáng để

mạo hiểm.

Từ điểm này có thể suy ra Dương Nhất Thanh đang đứng về phía y. Có điều

hắn là người thuộc phe Lý Đông Dương, mà lúc này Dương Đình Hoà đang đại

diện cho ba đại học sĩ đến khuyên bảo Hoàng đế hồi kinh, cho nên hắn không tiện

công khai đứng ra bày tỏ thái độ cá nhân mà thôi.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng dịu giọng lại, như thể nói chuyện với Dương NhấtThanh nhưng thật ra là nói với đám người Dương Đình Hoà:

- Vương gia, các vị đại nhân! Vừa rồi hạ quan đã nói rõ tầm quan trọng của việc

Hoàng thượng đến đây. Hoàng thượng năm nay mười sáu, có trải luyện nhiều một

chút mới có thể trở thành minh quân thiên cổ.

Phàm là minh quân, có ai mà sợ chiến sự? Hán Cao Tổ ngự giá thân chinh dẹp

loạn Trần Hi, Anh Bố. Đường Thái Tông ngự giá thân chinh chế ngự Cao Ly. Hồng

Vũ của bản triều bắt Trương Sĩ Thành, diệt Trần Hữu Lượng, có lần nào mà không

ngự giá thân chinh? Càng không nói đến việc Vĩnh Nhạc Hoàng đế tự mình năm lần

chinh phạt đại mạc phương bắc.

Giờ đây thiên tử tự đến biên ải chỉ là để bày tỏ thành ý với Đoá Nhan Tam Vệ.

Nếu không làm vậy, đừng nói gì đến hùng tài đại lược; nếu quan binh chỉ rút cổ sau

Trường Thành mà lấy đó là sự quang vinh, Hoàng thượng trốn chui ở Tử Cấm

Thành lại coi đó là lẽ phải, thì sao xứng danh minh chủ muôn đời?

Y chậm rãi thở ra một hơi, thành khẩn nói tiếp:

- Vương gia và các vị đại nhân lo cho an nguy của Hoàng thượng, hạ quan sáng

tỏ trong lòng. Đợi khi nhận được thư hồi âm của Hoa Đáng rồi, tại hạ nhất định sẽ

đích thân đến Bạch Đăng sơn dò thám địa hình, bày quân ổn thoả, đảm bảo cho sự

an toàn của Hoàng thượng. Mong các vị đại nhân hãy giúp Hoàng thượng hoàn

thành một mảnh hùng tâm này.

Dứt lời Dương Lăng vái Đại vương và mấy người Dương Đình Hoà một vái

thật dài. Mấy vị này nghe xong thì đưa mắt nhìn nhau. Dương Nhất Thanh và Hồ

Toản thì hơi động lòng, Dương Đình Hoà lộ thần sắc do dự, Đại vương lại có vẻ

trầm tư, chỉ riêng Uông Dĩ Hiếu vẫn trợn trừng đôi mắt dữ.

Nếu kết minh cùng Đoá Nhan Tam Vệ mà Hoàng đế dẫn theo mười vạn đại

quân, tiền hô hậu ủng, cuồn cuộn ngút trời, cách Đại Đồng chỉ hơn mười dặm, thì

đương nhiên bọn họ sẽ không thèm sợ quân Thát Đát đến tập kích. Khó là khó ở

chỗ các tướng giữ biên ải đã nhiều lần thất tín với Đoá Nhan Tam Vệ lắm rồi, tín

nghĩa và danh dự của Đại Minh hầu như chẳng còn sót lại chút gì trong mắt BáNhan Tam Vệ. Nếu tụ tập đại quân, Hoa Đáng và thủ lĩnh các bộ lạc dám đến gặp

hắn sao?

Còn muốn Đoá Nhan Tam Vệ cũng mang theo vài vạn nhân mã? Một là bọn họ

không có nhiều tinh binh đến như vậy, hai là dọc đường ắt sẽ khó giấu được tai mắt

của Thát Đát; cho nên binh sĩ mang theo tuyệt không thể quá nhiều. Năm nghìn

quan binh mà quân Minh có thể điều động lên núi đã là cực hạn để Đoá Nhan Tam

Vệ không nảy lòng e dè mà bỏ kết minh.

Nhưng năm nghìn quan binh thì chẳng chống chọi nổi được bao lâu với đại

quân Thát Đát. Chẳng trách bọn họ lo lắng như vậy.

Trong điện yên tĩnh đến độ có thể nghe rõ tiếng kim rơi. Dương Đình Hoà trầm

ngâm hồi lâu, đột nhiên trợn trừng mắt quát:

- Dương Lăng! Nếu Hoàng thượng xảy ra chút ít bất trắc gì thì ngươi đừng

trách bản quan không nể tình riêng mà xin ý chỉ diệt cửu tộc ngươi đó!

Lời lẽ nghiêm khắc, song ý tứ trong đó đã chính thức đồng ý với chuyến đi Đại

Đồng của Hoàng đế. Dương Lăng nghe xong nhẹ nhõm cả người, trên mặt không

khỏi lộ nét vui mừng. Đúng vào lúc này, bên ngoài chợt có một tiếng gọi vào nho

nhỏ:

- Vương gia, giờ lành làm lễ đã đến, mời ngài đến điện Ngân An làm lễ.

Chú thích:

(1) hình thức diễn xuất lấy hát làm chính, đệm bằng trống và phách, chuyên

diễn các tích của đạo giáo

(2) xem tích Trương Lương và người lực sĩ cầm chùy hành thích Tần Thủy

Hoàng ở bãi cát Bác Lãng.

(3) học thuyết được cho là phù hợp với "chánh đạo". Vào thời Tây Hán, Hán

Vũ đế đã ra lệnh dẹp bỏ học thuật của nhiều nhà, tôn sùng mỗi học thuật Nho gia

(bãi truất bách gia, độc tôn nho thuật), từ đó coi Nho học là chánh học.(4) lắng nghe lời phê bình và kiến nghị

(5) Hán Thục sau khi bị diệt vong, hậu chủ là Lưu Thiện bị giam lỏng trong

kinh thành Lạc Dương của Ngụy. Một hôm, Tư Mã Chiêu dò hỏi ông ta có nhớ Tây

Thục không, Lưu Thiện đáp rằng :"Ở đây vui lắm, không nhớ gì Thục nữa".

(6) Lý hậu chủ Lý Dực người nhân hậu và khá nhu nhược. Ông thường bị anh

Lý Hoằng Ký đố kỵ truy sát, phải trốn chạy nhiều lần, do đó ông tỏ ra không quan

tâm đến chính trị, không muốn tranh chấp. Hằng ngày, Tòng Gia dành phần lớn thời

gian ngao du sơn thủy và hoạt động nghệ thuật.NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 194 Hoa Đáng Đến Rồi

Trên điện Ngân An, các vị đại nhân rành nhìn sắc diện phát hiện thấy vẻ mặt

của hai vị khâm sai, hai vị tuần phủ và cả Tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh

đang đứng hàng đầu rất xấu, ngay cả Đại vương thiên tuế trông thấy vị tân nương

mười sáu mười bảy thướt tha cũng dường như không cao hứng lắm. Mấy quan lớn

địa phương này không biết chuyện gì đã xảy ra, ai nấy đều cẩn thận không dám to

tiếng nói cười.

Vương gia nạp phi khác hẳn người thường cưới vợ, nghi thức lại gần giống như

là quan viên nhậm chức vậy. Đầu tiên tổng quản thái giám tuyên đọc thánh chỉ của

Hoàng thượng, tờ thánh chỉ này là do Dương Đình Hoà thảo ra, Chính Đức chỉ việc

đóng kim ấn lên mà thôi. Có điều vị đại học sĩ làm văn hộ người khác này lại không

lộ diện. Mặc dù lão không giấu giếm việc mình đến Đại Đồng, nhưng kẻ biết tin

cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay, vì lẽ đó nên lão tránh mặt ở hậu điện.

Hoàng thượng cũng đã đến Đại Đồng, trừ phi ngài tự nguyện trở về, bằng

không sẽ không thể trói gô ngài lôi về được. Dương Lăng không chịu phối hợp nên

lão cũng không còn cách nào khác đành ngồi trong hậu điện khổ sở suy nghĩ mãi.

Dương Đình Hoà vẫn chưa nghĩ ra được phương cách gì thì đã nghe trên điện Ngân

An tấu lên tiếng nhạc cung đình hân hoan, lão chỉ biết lắc đầu cười khổ.

Cử xong đại lễ nạp phi rườm rà, bái lạy Vương gia và Vương phi xong, được sự

gợi ý của vương gia, tân nương chậm rãi đi đến, tay ôm tước ngọc(*), kính rượu hai

vị khâm sai. Tuy đối với vương gia, phẩm hàm của bọn họ không tính là cao nhưng

họ đã cầm thẻ bài phụng chỉ tuần biên thì vương gia cũng không thể thất lễ trước

mặt hai người này. Cũng không phải là Đại vương kính trọng bọn họ, mà là cung

kính Hoàng đế sau lưng bọn họ mà thôi. (*: chén uống rượu ba chân bằng ngọc)

Trắc vương phi tên là Trác Đình, dáng người thon gầy, vận áo dài đỏ, khănquàng vai, đầu đội mũ phượng, rèm châu đong đưa trước khuôn mặt xinh xắn

nhưng lại không đeo khăn trùm mặt. Dáng người cô nàng mềm mại lả lướt, tuổi tuy

chỉ mười sáu mười bảy song lại chất chứa muôn vẻ phong tình, có đủ ý vị, trông

thanh nhã thoát tục, tự nhiên trang nhã, dịu dàng thanh tú, rất khác với con gái trong

đất liền. Khó trách Đại vương lại ưu ái cô nàng như vậy, đã bỏ công xin chỉ ban cho

nàng ta danh phận trắc phi.

Trắc vương phi kính rượu khâm sai xong, lại nhận rượu kính của quan viên văn

võ, rồi dìu vương phi nương nương trở về hậu điện. Tiệc rượu được bày ra, các

quan viên bắt đầu ăn uống linh đình, lúc này không khí mới trở nên sôi nổi.

Hai vị tuần phủ Hồ Toản và Uông Dĩ Hiếu nâng chén kính rượu Đại vương gia,

xong lại sánh vai đến bàn của Dương Nhất Thanh, Dương Lăng và Trương Vĩnh,

tươi cười nói:

- Chưa hết tháng giêng mà hai vị khâm sai đại nhân đã phải đi xa đến Đại Đồng

thay vua tuần thú, tuy vất vả nhưng công lao to lớn. Dương tổng chế đích thân ra

trận, dụng binh như thần, khiến cho đầu lĩnh quân giặc là Bá Nhan liên tiếp thất bại.

Trăm họ Tuyên Phủ Đại Đồng có thể được bình yên đều nhờ các tướng sĩ quên

mình phục vụ. Quan viên địa phương chúng ta đáng nên kính các vị đại nhân một

chén, tỏ chút lòng ngưỡng mộ vậy, nhé? Ha ha ha...

Các quan viên nghe vậy liền đồng loạt nâng chén ủng hộ:

- Đúng thế! Đúng thế! Chúng tôi kính hai vị khâm sai, kính Dương tổng chế,

mời ba vị đại nhân uống cạn chén này.

Dương Nhất Thanh mặt mày rạng rỡ cười đáp:

- Nào dám nào dám! Nói đến việc Dương mỗ phụng mệnh trấn thủ tam quan thì

từ nay về sau cũng sẽ là tướng thủ Đại Đồng, là thuộc hạ của Đại vương thiên tuế,

đáng nên cùng các vị đại nhân kính hai vị khâm sai, chúc Hoàng thượng chúng ta

thiên thu vạn tuế, vận nước thiên hạ Đại Minh được hưng thịnh.

Hồ Toản và Uông Dĩ Hiếu đều mỉm cười, như thể hoàn toàn không có can hệ gìvới mấy kẻ hồi nãy xúm lại đánh Dương Lăng và Trương Vĩnh ở hậu điện vậy.

Dương Lăng và Trương Vĩnh đưa mắt nhìn nhau cười khổ một tiếng, liền cũng vội

trương bộ mặt cười vờ vịt, nâng chén đáp lại.

Quan viên văn võ kính rượu vương gia xong thì phải kính rượu hai vị khâm sai

và ba vị văn võ biên quan có phẩm hàm cao nhất. Loại thù tạc quan trường này tuy

nhàm chán, nhưng là chuyện nể mặt nể mũi, vì vậy hai người Dương Lăng cũng chỉ

có thể tươi cười mà bồi tiếp.

Qua ba tuần rượu, một vị thái giám vương phủ lặng lẽ đi vào ghé tai nói mấy

câu với Đại vương. Đại vương gật đầu, tên thái giám đó liền đi về phía Dương

Lăng, ghé tai nói nhỏ:

- Khâm sai đại nhân, thống lĩnh thị vệ của ngài có chuyện quan trọng muốn

bẩm.

Dương Lăng hơi ngẩn người. Tuy đội nghi trượng thị vệ y mang theo gồm ba

trăm người, song được vào vương phủ lại chỉ có mười hai, ở đâu ra thống lĩnh thị

vệ? Nếu có thể ra lệnh cho đám đại nội thị vệ này như thế thì cũng chỉ có thể chính

là hoàng đế Chính Đức mà thôi. Y bèn đứng dậy cáo lỗi với vương gia rồi vội vã

bước ra ngoài.

Đám người Đại vương tuy biết Chính Đức đang ở trong quân, nhưng có nghĩ tét

đầu cũng không tưởng tượng ra Chính Đức đường đường là thiên tử sẽ lại cải trang

thành thị vệ theo hầu Dương Lăng đi dự tiệc, hơn nữa còn ở một mình chung với

đám hạ nhân, tạp dịch, gia bộc và thân binh ở ngoại điện nữa.

Cho dù là Hồ Toản từng tận mắt gặp Chính Đức vận trang phục thị vệ thì cũng

chỉ nghĩ đó là trang phục nhằm che tai mắt trên đường. Lão không tin hoàng đế

Chính Đức là con rồng cháu phượng hậu duệ của thiên hoàng sẽ cứ mặc đồ sĩ tốt

thấp hèn mãi, càng không ngờ Dương Lăng dám đại nghịch bất đạo đẩy Hoàng

thượng xuống địa vị thấp như vậy, cho nên mấy người bọn họ không chút nghi ngờ.

Dương Lăng đi cùng tên thái giám đó ra khỏi điện Ngân An, qua hàng loạt cánh

cổng cùng hàng hàng lớp lớp căn nhà mới đến ngoài cổng Thừa Vận. Quả nhiên ytrông thấy Chính Đức đang cùng hai tay thị vệ đứng trước cổng, hai mắt sáng ngời,

mặt mày đỏ au, chừng như đã uống rất nhiều rượu.

Dương Lăng mỉm cười khách sáo với viên thái giám nọ, nói khéo:

- Đã làm phiền công công rồi! Còn xin công công đợi tạm ở chỗ này, bản quan

ra ngoài một chốc.

Dương Lăng ra khỏi cổng điện, vòng ra sau cây cột cạnh cổng. Chính Đức liền

nắm lấy tay y lắc lấy lắc để, giọng run rẩy vì hào hứng:

- Dương thị độc, trẫm không mơ, trẫm đã gặp được nàng ấy rồi. Ha ha ha, trẫm

thật vui.

Dương Lăng thấy mặt hắn đỏ au lại nói chuyện không đầu không đuôi, liền vội

đảo mắt nhìn quanh, thấy không ai chú ý mới ngạc nhiên hỏi:

- Hoàng thượng đã uống say rồi à? Ngài đã gặp được ai mà vui như vậy?

Chính Đức mặt mày hớn hở, cười toe toét nói:

- Đường Nhất Tiên! Trẫm đã gặp lại Đường Nhất Tiên! Nàng ấy đang ở trong

vương phủ. "Vào cửa vương hầu sâu tựa biển", khó trách thám tử của khanh tìm

khắp nơi đều không thấy nàng ấy.

Dương Lăng thoáng sững người, rồi cũng thoắt trở nên phấn chấn, giọng run

rẩy:

- Đường Nhất Tiên? Cô ấy chưa chết sao? Cô ấy còn sống?

Dương Lăng nắm chặt tay Chính Đức, chợt nhắm mắt ngửa mặt lên trời, sau

một hồi mới thở ra một hơi thật dài, giọng kích động:

- Cảm ơn trời đất! Cô ấy bình yên vô sự thì tốt rồi. Cô ấy đang ở đâu?

Dương Lăng vừa nói vừa đưa mắt tìm quanh. Ngày đó quen biết với Tô Tam,

Đường Nhất Tiên và Tuyết Lý Mai ở Thì Hoa quán, chính nhờ vào mối quan hệ củaĐường Nhất Tiên mà Mã Vĩnh Thành mới đem bạc tới để y chuộc thân cho ba vị cô

nương, nhờ vậy mà Tô Tam và Tuyết Lý Mai mới trở thành ái thiếp nghĩa nặng tình

thâm với y.

Mà vị tiểu cô nương Đường Nhất Tiên vì giúp y bảo vệ cuốn sổ làm bằng

chứng phạm tội của Bào tham tướng lại bị người ta đánh ngã xuống vách núi, sống

chết không rõ, khiến y vẫn cảm thấy hổ thẹn khôn thôi.

Đường Nhất Tiên chịu cảnh tai bay vạ gió đều do y mà ra. Trong khi ân nhân

thật sự cứu vớt Đường Nhất Tiên ra khỏi chốn trăng hoa ấy lại là Chính Đức, còn

bản thân y chưa hề bỏ ra công sức hay ơn huệ gì; ngược lại còn nhờ nàng hy sinh

tính mạng mới bảo vệ được cuốn sổ ấy, nhờ có chứng cứ hùng hồn đó mà y đã lật

đổ được Bào tham tướng, nhờ vào quan hệ của nàng ấy mà y mới có cơ duyên cưới

được hai người con gái tư dung xinh đẹp, tính tình dễ thương là Tô Tam và Tuyết

Lý Mai. Vì vậy mỗi lần nhớ tới cảnh ngộ bất hạnh của nàng, trong lòng Dương

Lăng đều nặng như đeo đá, giờ nghe nói nàng không có chuyện gì, có thể tưởng

tượng là y vui sướng lẫn kinh ngạc biết dường nào.

Chính Đức vội lo lắng bảo:

- Nói nhỏ chút đi! Nàng ấy đi gặp cha mẹ nuôi của mình rồi, chốc nữa dự xong

tiệc khanh hãy đón nàng ấy về như thế nào? Nhưng mà... nàng ấy đã mắc phải

chứng mất hồn rồi, có lẽ do lúc ngã từ trên vách núi xuống bị va đập, đã hoàn toàn

quên hết những chuyện trước kia rồi.

Dương Lăng nghe vậy thì ngẩn người ra, cảm thấy hơi buồn. Y ngơ ngác hỏi:

- Mất... hồn? Mất trí nhớ sao? Sao lại như vậy được? Không còn nhớ bất cứ thứ

gì ư? Vậy thần sẽ dẫn cô ấy về thế nào đây, mà cô ấy chịu tin lời Hoàng thượng à?

Chính Đức vò đầu cười gượng đáp:

- Việc đó... nàng ấy không tin trẫm lắm, còn nghĩ rằng trẫm là tên bịp. Đùi trẫm

bị ăn một gậy chắc là bầm cả rồi.Có điều nàng ấy không tin lời của một hiệu úy cỏn con như trẫm song lại không

có lý do gì mà không tin lời của kẻ đường đường là Dương đại tướng quân, cho nên

trẫm mới nói với nàng ấy rằng nàng là biểu muội của khanh, cha mẹ mất cả, từ nhỏ

đã ở cùng với khanh. Chốc nữa gặp nàng ấy khanh vạn lần chớ nói toạc ra đấy.

Đường cô nương đã quên những chuyện trước đây, trẫm... không muốn để nàng biết

những quá khứ không vui đó.

Nói đến đoạn cuối sắc mặt Chính Đức trở nên hết sức chân thành, hết sức

nghiêm túc, trong mắt có thứ gì đó sáng long lanh. Dương Lăng khẽ gật đầu rồi

chợt vỗ nhẹ vai Chính Đức, tuy y không nói gì song khoé môi lại nở một nụ cười

thấu hiểu.

Trên mái hiên nhà, gió thổi tuyết rơi, tuyết vẩy lên cổ nghe lành lạnh, hai người

bọn họ lại cảm thấy ấm áp trong lòng. Nếu đám quan văn trong triều trông thấy cử

chỉ kích động gần như vượt quá khuôn phép của Dương Lăng, chắc chắn sẽ khó

tránh lại giống như lần trước Vương Quỳnh trông thấy Dương Lăng ngồi cùng với

vua mà nổi cơn thịnh nộ. Nhưng Chính Đức lại chẳng hề để ý đến chuyện này, hắn

đọc hiểu được vẻ tán thành và cảm kích trong mắt Dương Lăng, trong lòng không

khỏi cảm thấy vui vẻ và sảng khoái vô cùng.

*****

- Biểu... biểu ca!

Đột nhiên có thêm một biểu ca vừa xa lạ vừa anh tuấn, Đường Nhất Tiên gọi

mà vẫn có chút chưa quen, nên ngượng ngùng cùng bẽn lẽn, gò má cũng hơi ửng

hồng.

- Sao? - Dương Lăng gò ngựa chậm lại, ngoái đầu nhìn Đường Nhất Tiên đang

ngồi trong kiệu xe, mỉm cười dịu dàng - Có chuyện gì?

- Biểu ca, nhà chúng ta có lớn không? Biểu tẩu... có thích muội vào ở hay

không?

Đường Nhất Tiên nhíu đôi mày xinh xắn lo lắng hỏi.Dương Lăng cảm thấy buồn cười, song thấy Chính Đức đang đi cạnh y mỉm

cười đưa mắt âu yếm nhìn Đường Nhất Tiên, y bèn đáp:

- Yên tâm đi! Biểu tẩu của muội rất tốt, hơn nữa... trước khi xảy ra chuyện cũng

đã rất hoà thuận với muội rồi. Chừng gặp lại muội, không biết ba vị biểu tẩu của

muội sẽ vui biết chừng nào đây?

- Oa! Ba vị biểu tẩu cơ à? - Đường Nhất Tiên giật mình lè lưỡi, cười dí dỏm -

Biểu ca thật là lợi hại, ba vị chị dâu nhất định đều là đại mỹ nhân trong kinh sư phải

không? Muội không nhớ nổi biểu ca, cũng không nhớ được các chị ấy, kinh sư có

hình dáng thế nào muội cũng chẳng có ấn tượng gì cả.

Nàng tựa cằm vào cửa sổ xe ngẩn ngơ đưa mắt nhìn người đi đường trên phố,

chợt hỏi:

- Biểu ca, cha mẹ ở đời ở kiếp tại nơi này, không nỡ rời xa thân bằng lão hữu,

không muốn dọn đến kinh thành. Mấy ngày này... muội vẫn muốn thường xuyên

đến thăm hai vị, có được không?

Chính Đức thấy nàng rụt rè xin ý kiến Dương Lăng, trong lòng rất đỗi lấy làm

thương xót, liền thúc ngựa đến gần xe ngựa, vỗ ngực cao giọng cam đoan:

- Tiên Nhi cô nương, cô không cần lo lắng! Cô muốn về vương phủ, chỉ cần báo

một tiếng, ta... thuộc hạ bảo hộ cô trở về là xong!

Đường Nhất Tiên lườm hắn, mắng:

- Không nói thì cũng không ai bảo ngươi câm đâu, chẳng biết cái gì cả! Nếu ta

mà là biểu ca thì sẽ chẳng bao giờ cho ngươi làm thân binh, lo biết điều mà đi quét

sân giữ cổng cho ta đi! Vương phủ là chỗ ngươi muốn vào thì vào à? Cho dù biểu

ca là khâm sai cũng phải xin phép vương gia mới được, người ta lo là sẽ mang đến

phiền phức cho biểu ca thôi.

Bị Đường Nhất Tiên mắng cho một trận trước mặt người khác, xương cốt

Chính Đức tức thì nhẹ tênh, mặt mày hớn ha hớn hở như thể rất có tiềm chất khổdâm!

Thấy Hoàng đế lão gia hứng chịu sỉ vả một cách sung sướng như vậy, bọn đại

nội thị vệ liền tự giác vứt bỏ sứ mạng "bảo vệ an nguy cho Hoàng thượng, che chở

tôn nghiêm của Thiên tử" sang một bên, rồi cứ thực hiện theo đúng nguyên tắc

"không nhìn điều sai, không nghe lời tầm bậy"(1), ai nấy cắm đầu đi nhanh, vờ như

không thấy.

*****

Đường Nhất Tiên được thu xếp trọ ở nhà trên (phòng thượng hạng) của dịch

quán. Thu xếp thoả đáng cho nàng xong, Dương Lăng lại chạy về thư phòng soạn

một bức thư sai người đưa về kinh thành, một là để báo sớm cho bọn Ngọc Nhi cái

tin mừng này, hai là để các cô chuẩn bị trước, tiện bề đón tiếp tiểu biểu muội về

kinh.

Dương Đình Hoà bí mật đến gặp Chính Đức. Lão là thầy coi việc giảng sách

cho Hoàng thượng nên vẫn được Chính Đức kính trọng vài phần. Hay tin lão đến,

sợ rằng sẽ bị lão khuyên bảo mình trở về kinh thành, hắn bèn vội lôi hai ông thần

giữ cửa(2) của mình là Dương Lăng và Trương Vĩnh đứng sau lưng để thêm phần

can đảm, rồi mới cho vời Dương Đình Hoà vào.

Dương Đình Hoa quen quan sát thời cơ, cân nhắc tình thế, tuy dám ra tay đánh

đập Dương Lăng và Trương Vĩnh vì tội xúi giục Hoàng đế rời kinh, nhưng khi đối

diện với Hoàng đế thì lão lại ẩn nhẫn và bền chí hơn Lý Đông Dương vài phần. Khi

đến trước cửa thư phòng, nhìn thấy trận thế được bày sẵn ở bên trong lão liền biết

rõ quyết tâm của Hoàng đế, thế là lão không nói những câu chữ đã chuẩn bị sẵn

nữa, tránh rước vạ vào thân.

Dương Đình Hoa thuật lại một lượt tình hình sau khi Chính Đức rời kinh: trong

cung đã phong tỏa tin tức nghiêm ngặt, mọi thái giám và cung nữ biết chuyện đều

nhận được nghiêm lệnh ai dám đồn xằng chuyện Hoàng đế cải trang xuất kinh sẽ

lập tức bị xử tội chết, cho nên tin tức vẫn chưa bị loan truyền ra ngoài. Ngoại trừ

Lục Bộ Cửu Khanh và tam đại học sĩ, văn võ cả triều đều nghĩ rằng Hoàng đế đã

mắc bệnh, không thể lâm triều.Thế nhưng Hoàng đế không lâm triều xử lí chính vụ liên tiếp mười mấy ngày

thì nào phải là chuyện đùa. Hoàng đế là vua một nước, thể chế triều đình không

phải là chuyện giỡn chơi, mấy ý tưởng hoang đường như tìm người giả mạo hoặc

nói dối rằng tấu chương Đại học sĩ phê duyệt là của Hoàng đế phê duyệt đều không

thể dùng được.

Cho nên trong mắt bá quan, chắc chắn Hoàng đế đã mắc bệnh nặng đến nỗi

không thể phê duyệt tấu chương; chỉ cần suy đoán bệnh tình Hoàng đế nghiêm

trọng thế nào cũng đã đủ khiến lòng người hoảng sợ, dù là ba đại học sĩ cũng không

cách nào ứng phó nổi việc ấy. Lúc tường thuật việc này với Chính Đức, Dương

Đình Hoà không khỏi lộ vẻ khổ sở.

Chính Đức nhíu mày suy nghĩ một chút rồi phán:

- Nếu đã như vậy, khanh hãy chọn những tấu chương quan trọng nhất, hằng

ngày đưa khoái mã chuyển đến cho trẫm, trẫm xem và phê duyệt xong sẽ lại chuyển

về kinh. Về đối ngoại thì cứ bảo trẫm đang khỏi dần, có điều vẫn chưa thể ra nắng

gió nên chưa thể lâm triều, thiết nghĩ có thể ổn định lòng dân một chút vậy.

Dương Đình Hoà thở dài bảo:

- Kế này... cũng chỉ đành vậy!

Lão buồn lòng lo lắng đứng dậy tâu tiếp:

- Thái hoàng thái hậu, Thái hậu và Hoàng hậu nương nương rất mong nhớ

Hoàng thượng, Lục Bộ Cửu Khanh cũng đang ngóng tin ngài! Nếu như Hoàng

thượng đã quyết chí ở lại Đại Đồng, thần cũng không dám trì hoãn thêm nữa, xin

phép trở về kinh sư báo tin ngay vậy.

Thi lễ với Chính Đức xong, lão lại liếc sang Dương Lăng, nghiêm nghị bảo:

- Dương đại nhân! An nguy của Hoàng thượng và an nguy của Đại Minh đều

giao cho ngài đó, mong đại nhân vạn lần để ý cẩn thận, nhất định phải bảo vệ

Hoàng thượng chu toàn.Dương Lăng trịnh trọng đáp:

- Đại nhân yên tâm, hạ quan biết cân nhắc nặng nhẹ, tuyệt sẽ không lơ là.

Dương Đình Hoà gật đầu, lại thở một tiếng rõ dài rồi mới chán nản lui ra.

Lại qua hai ngày, hằng ngày khi Chính Đức không có việc gì làm thì lại chạy

đến cửa phòng Đường đại tiểu thư làm thân binh, cùng nàng đánh quay trong sân,

lại rủ thêm hai đứa nha hoàn chuyên hầu hạ tiểu mỹ nhân họ Đường cùng chơi mã

điếu(3), vừa giúp Đường Nhất Tiên giải sầu vừa thỏa tâm nguyện mình.

Mã điếu đã tồn tại từ lâu, nghe nói từ thời Hán-Đường đã có, từ triều đình đến

dân chúng, bất luận vương hầu công khanh, danh sĩ tài tử, thục nữ nổi danh hay con

buôn bình dân đều rất thích trò này, thậm chí nhiều tăng ni cũng rất thích chơi.

Mã điếu giống như mạt chược thời hiện đại, lúc rảnh rỗi Thái hoàng thái hậu,

Thái hậu và đám phi tần cũng rất thích chơi trò này, thi thoảng Chính Đức cũng

chơi cùng. Hắn vốn thông minh nên chỉ cần học một chút là hiểu rõ.

Đường Nhất Tiên và hai nha hoàn nọ nào phải đối thủ của hắn, dần dần số bạc

tiêu vặt mà Dương Lăng đưa cho Đường Nhất Tiên và số trang sức rẻ tiền của hai

tiểu nha hoàn đó đều bị hắn ăn hết một đống. Chính Đức vui khôn kể xiết, cất giữ

cái đống phế phẩm đó như của báu, mặc kệ hai tiểu nha hoàn đó đá mắt nheo mày

thế nào, vị "lính ca ca" anh tuấn cũng không trả lại cho bọn họ.

Thân phận của hắn là thị vệ của Dương Lăng, song Đường Nhất Tiên không

phải là loại người mê luyến quyền quý, không vì hắn có thân phận thấp hèn mà

không thèm kết giao. Mặc dù nàng vẫn mắng nhiếc hắn như cũ nhưng ngữ khí đa

phần lại khá thân thiết.

*****

Chiều hôm đó, một kỵ mã vội vã phi ngựa từ xa đến dịch quán, đến trước cổng

thì nhảy xuống ngựa. Bình thường dịch quán chỉ có hai tay dịch tốt canh gác, nay bề

ngoài thì có hai vị khâm sai, nhưng thực sự lại có thêm một Hoàng thượng, cho nênđám dịch tốt canh phòng đã được thay bởi đám thân quân của Dương Lăng, cả dịch

quán được bảo vệ kín như bưng, hệt như một doanh trại vậy.

Người nọ đi đến trước cổng, rút trong người ra tấm ngân bài chứng minh thân

phận Nội xưởng. Phiên tử gác cổng kiểm tra cẩn thận xong liền có một phiên tử

khác dẫn hắn đi vào trong sân. Trên một quán rượu nhỏ treo một lá cờ cũ rách nằm

đối diện với dịch quán, một vị tửu khách vụt ngẩng đầu khi thấy ngựa phóng đến

trước cổng dịch quán, ánh mắt sắc bén lướt nhìn về phía kẻ mới đến.

Vị tửu khách này vận áo da chó ngắn, quần ấm ống suông, đầu đội một chiếc

mũ lông sói màu nâu, dưới vành mũ rậm là một đôi mày kiếm toát lên vẻ khí khái

hào hùng, không ngờ lại là một chàng trai vô cùng tuấn tú.

Lúc vào cổng dịch quán người cưỡi ngựa nọ thoáng nhìn quanh, người tửu

khách thấy được một bên mặt của hắn thì không khỏi hơi giật mình, thầm nghĩ:

"Ngũ Hán Siêu? Hừ, 'học được một thân văn võ, bán mạng cho bậc đế vương,' quả

nhiên hắn đã nương nhờ Dương Lăng. Với võ công của hắn đáng ra phải là thị vệ

cận thân cho Dương Lăng mới phải, nhưng trông bước chân ngựa mệt mỏi như vậy,

hẳn là hắn vừa mới vượt đường dài tới đây. Dương Lăng không giữ hắn bên người,

y đã phái hắn đi làm gì?"

"Chàng trai tuấn tú" nọ trầm tư một chốc, trong lòng mang máng cảm thấy

dường như Dương Lăng sắp có hành động gì đó, trong mắt không khỏi loé lên vẻ

hào hứng, ngay sau đó lại biến thành vẻ mù mờ.

"Hắn" đưa mắt nhìn quanh, cặt mắt trong veo lướt qua tốp người đang tụm năm

tụm ba trên phố: "Nếu Di Lặc giáo tìm cách ra tay với Hoàng đế, nhất định sẽ giám

sát dịch quán nghiêm ngặt. Nhưng bọn chúng đang ở đâu?

Còn tên khốn Dương Hổ đó nữa! Từ ngày mình bực tức bỏ đi, cũng không biết

hắn và Ngũ thúc đã đi đâu rồi, chỉ mong bọn họ lạ nước lạ cái mà đừng lỗ mãng

định ra tay với Dương Lăng. Nhìn tình hình dịch quán như vậy, bên trong hẳn có

trọng binh bảo vệ, nguy cơ trùng trùng. Dương Lăng đi đâu một tí là có vài trăm cao

thủ bảo vệ, muốn động thủ với y thì khác nào đưa dê vào miệng cọp?""Chậc!" "Chàng trai anh tuấn" khẽ thở dài, hàng mày hơi nhíu lại, thực có phần

duyên dáng như con gái.

* * *

- Được! Rốt cuộc cũng đã đến rồi, Hoàng thượng nghe tin nhất định cũng sẽ rất

vui!

Dương Lăng phấn khởi nói. Thấy Ngũ Hán Siêu mặt đầy vẻ phong sương, y

liền bảo:

- Mau đi rửa ráy, ăn uống một tí rồi nghỉ ngơi đi! Tối nay bản quan sẽ lại bàn kỹ

với ngươi.

Vốn Đoá Nhan Tam Vệ yêu cầu kết minh cùng Hoàng đế triều đình nhà Minh

với một thái độ có cũng được không có cũng chẳng sao, do bọn họ cũng cho rằng

Hoàng đế Đại Minh sẽ không hạ thấp dịa vị mà chạy tới gặp mặt bọn họ.

Bọn họ biết triều đình người Hán coi trọng nhất là mặt mũi và thích tiếm lợi kẻ

khác, nhưng triều đình nhà Minh lại thà giữ thanh danh chứ không cần ích lợi, ngay

cả khi thông thương với nước khác cũng đều đòi đối phương phải dùng phương

thức triều cống của nước lệ thuộc mà tiến hành. Hoàng đế Đại Minh sẽ vì một thế

lực còn chưa đáng được gọi là "quốc gia" như Đoá Nhan Tam Vệ mà từ bỏ tư thế

cao ngạo của hắn ư?

Ai ngờ vị thiên tử của nước lớn phương đông này lại đến thật, khiến Hoa Đáng

và các thủ lĩnh bộ lạc vừa thấy bất ngờ lại vừa mừng vừa lo. Hoa Đáng lập tức

tuyển chọn bốn nghìn thiết kỵ, đi tối ngủ ngày, bí mật xuất phát tiến về phía Đại

Đồng.

Trương Vĩnh nhìn theo Ngũ Hán Siêu lui ra ngoài, chợt cũng trở nên lo lắng.

Lão nói với Dương Lăng:

- Dương đại nhân! Hoa Đáng đã đến thật rồi, nếu Bá Nhan mà biết tin ắt sẽ gây

bất lợi cho Hoàng thượng. Chúng ta... chúng ta thật sự phải gặp mặt bọn chúng sao?Dương Lăng cũng hơi lo, nhưng nếu y để lộ ra sự do dự và lo lắng há chẳng

khiến kẻ khác càng thêm sợ hãi? Thế là y bèn đè nén sự hồi hộp lo âu trong lòng lại

rồi gật đầu đáp:

- Phải gặp! Phóng lao phải theo lao thôi! Nếu lúc này mà lùi bước, chẳng những

chúng ta sẽ bị người Mông Cổ chê cười mà nghìn đời sau cả ông, tôi lẫn Hoàng đế

đều sẽ trở thành người bị người ta nhạo báng đó!

Đoạn y đứng dậy, tản bộ trong phòng mấy bước, rồi nói:

- Hoa Đáng chỉ mang theo bốn nghìn nhân mã. Số lượng người này nếu nói ít

thì không ít, nhưng một khi tản vào trong đại mạc thảo nguyên sẽ như muối bỏ biển,

không thấy bóng dáng đâu nữa. Huống hồ thám mã của Bá Nhan chỉ để ý đến

hướng đi của quân đội Đại Minh ta, không lý do gì mà bố trí thám mã ở tại hậu

phương của mình, vì vậy chưa hẳn là sẽ phát hiện.

Dương Lăng bước tới bàn, cầm lấy ấm trà rót cho Trương Vĩnh và chính mình

mỗi người một chén trà nóng, rồi nói tiếp:

- Đoá Nhan Tam Vệ cũng thường đến biên giới cướp bóc, cho dù Bá Nhan có

biết tin bọn chúng di chuyển về biên giới cũng sẽ tưởng rằng bọn chúng thừa dịp

mà đánh cướp. Người Thát Đát không thể biết được tin tức Hoàng đế rời kinh sư đi

đến Đại Đồng đâu.

Nói đến đây Dương Lăng chợt nhớ đến lời mà người con gái cưỡi ngựa có bóng

hình xinh đẹp rực đỏ như lửa trong gió tuyết đã nói với y. Y thầm nghĩ: "Quái lạ,

đến đây lâu như vậy sao vẫn chưa thấy Di Lặc giáo có động tĩnh gì? Là Hồng

Nương Tử gạt mình, hay là Di Lặc giáo không biết Hoàng đế đến Đại Đồng, hay là

đã biết nhưng chưa có cơ hội ra tay?"

Hiện tại vẫn chưa đến lúc Di Lặc giáo công khai tạo phản, nhất là Đại Đồng

hiện giống như một doanh trại quân đội, ngoài thành là lính, trong thành cũng là

lính. Cho dù Di Lặc giáo có vọng tưởng giết Hoàng đế cũng sẽ không có cơ hội

động thủ ngay tại chốn này.Nghĩ đến đây, Dương Lăng vứt bỏ mối uy hiếp không thể nào xảy ra giữa thiên

quân vạn mã sang một bên rồi tiếp tục lo nghĩ về chiều hướng của Bá Nhan Khả

Hãn. Hiện tại đại quân của hắn đang tấn công và cướp bóc vùng Hồ Quan, Bình

Thuận, xem ra không hề hay biết gì về tin tức Hoàng đế đang ở Đại Đồng. Nhưng

ngộ nhỡ có gian trá, đội thiết kỵ có thể phi về trong một ngày của hắn quả thực sẽ là

uy hiếp lớn nhất.

Nghĩ vậy, Dương Lăng vỗ nhẹ tay, một tay phiên tử lặng lẽ bước vào. Dương

Lăng nói:

- Đi, báo cho người của Nội xưởng tại bản địa tăng cường thu thập mọi tin tức,

chú ý đến tất cả những kẻ khả nghi, khi có tin tức phải lập tức bẩm báo!

Phiên tử nọ dạ một tiếng rồi xoay người đi ra. Dương Lăng quay trở lại bàn, lấy

giấy và nghiên mực ra, nói:

- Đại quân của Dương Nhất Thanh đóng gần trong gang tất, không cần vội báo

tin cho y, đợi Hoa Đáng đến gần kề mới lại sẽ bảo Dương Nhất Thanh điều động

quân đội. Bây giờ tôi sẽ soạn một bức mật thư, đóng kim ấn khâm sai, lệnh cho chỉ

huy sứ Thái Nguyên đưa quân đến Đại Đồng làm quân dự bị. Sáng sớm ngày mai

tôi sẽ đích thân mang người cải trang lên núi Bạch Đăng khảo sát địa hình, chuẩn bị

trước.

Trương Vĩnh lo lắng hỏi:

- Cải trang? Đại nhân mang theo ít người rất có thể gặp phải nguy hiểm, hay là

mang theo hai nghìn thiết kỵ vậy.

Dương Lăng lắc đầu cười bảo:

- Người biết địa điểm kết minh ít thôi. Nếu mang đại quân mấy nghìn người

chạy lên Bạch Đăng sơn dạo xem phong cảnh, vậy chẳng phải nói cho kẻ khác biết

khâm sai đến đây là có dụng ý sao? Yên tâm, nơi đó xưa nay yên tĩnh, lại ở gần

thành, quân chủ lực của giặc Thát lại đã đi đến Bình Thuận. Việc tôi lên núi Bạch

Đăng chỉ có tôi và ông biết, ai mà chờ sẵn ở đó chứ? Được vậy chẳng phải là thầntiên sống rồi à?

Ăn uống no nê trên lầu Bách Mị các xong, thương nhân buôn đồ ngọc Bao lục

gia vừa xiêu vẹo bước xuống thang gác, vừa tươi cười ngâm nga một điệu hát dân

gian. Hắn mới vừa bàn xong một vụ mua bán nữa, trong thời buổi binh mã loạn lạc

thế này, làm được việc đó thực không dễ chút nào.

Gã xa phu người Mông Cổ kiêm bảo tiêu có dáng người khôi ngô, mặt mày

chất phác tên A Man tận lực dìu một bên, giúp hắn khỏi va đụng với những tửu

khách khác.

Ra đến hành lang ngoài cửa, tiểu nhị trông coi chuồng ngựa vội dắt xe ngựa của

Bao lão gia lại. A Man cầm lấy dây cương, một tờ giấy được vo tròn cũng được bí

mật chuyển vào trong tay gã. A Man thản nhiên dìu Bao lão gia lên xe, rèm xe vừa

được buông xuống, xe ngựa liền phóng băng băng trên con phố lớn.

A Man lặng lẽ đặt mảnh giấy nhỏ lên đùi, giở ra xem. Bên trên chỉ có một hàng

chữ nhỏ: " Lý Gia tập (*) dưới Bạch Đăng sơn có thóc gạo". Vẻ mặt thờ ơ, A Man

vung roi quát: "Giá!", rồi vo tròn mảnh giấy, bỏ vào miệng, nhai kỹ nuốt đi.

(*) tập 集 ở đây là thôn trang không lớn lắm, nhưng buôn bán sầm uất, có tổ

chức chợ phiên định kỳ.

Chú thích:

(1) Trích từ câu "phi lễ vật phi, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động"

của Khổng Tử, nghĩa là "không nhìn điều sai, không nghe lời tầm bậy, không nói lời

dối trá, không làm chuyện càn quấy".

(2) Nguyên văn "Hanh Cáp nhị tướng", trỏ cặp thần giữ cửa miếu của đạo Phật;

một người phun khí trắng từ mũi, một người phun khí vàng từ mồm.

(3) "Mã" trỏ thẻ ghi số đếm thời xưa; "điếu" trỏ xâu tiền, trỏ một thể loại đánh

bạc giống mạt chược thịnh hành vào thời Minh.NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

www.dtv-ebook.com

Chương 195 Tình Thế Nan Giải

Tiếng vó ngựa dồn dập, hơn hai mươi người cưỡi những thớt ngựa tráng kiện

băng qua sông Ngự đến dưới chân núi Bạch Đăng. Con đường đất vàng vốn được

đầm chắc đã bị tuyết tan thấm nhão, lại bị những đoàn xe quân sự xuôi ngược

nghiến qua tạo nên những dải đất cứng ngoằn ngoèo vệt bánh xe, thế nhưng tuấn mã

vẫn thoải mái phóng qua, lướt đi băng băng.

Những người này đều cưỡi ngựa giắt đao, áo da ống bó, đầu đội mũ trùm da

hươu da chó, vung roi thúc ngựa trông rất dũng mãnh tráng kiện. Nhìn bọn họ y như

những kẻ thân hào giàu có ra ngoài săn bắn, nhưng vùng Đại Đồng quanh năm gặp

nạn binh đao, trăm họ lân cận cũng biết một ít về quân sự, nếu trông thấy vũ khí của

những kỵ sĩ này nhất định sẽ cảm thấy hơi quái lạ.

Vỏ đao hơi cũ, trên chuôi đao không hề có dải tua đỏ trang trí, thân đao dài hơn

đơn đao mũi dẹp bình thường đến hơn một thước, cùng là một loại phác đao. Các

bộ phận đồng thau nối lưỡi vào chuôi đao đều sáng loáng do ma sát với vỏ đao, xem

ra tất cả đều là vũ khí tùy thân được sử dụng hàng ngày.

Nỏ ngắn và bao tên treo lệch một bên yên ngựa, trông khí phách này tuyệt

không phải là những kẻ đạp tuyết săn thú bình thường. Lúc gần trưa trời vừa đổ một

cơn tuyết nhỏ kéo dài, quá trưa thì vừa tạnh, vẫn còn sót lại một ít bông tuyết rơi

rơi, không khí se lạnh sảng khoái, thấm tận ruột gan.

Không xa ở phía trước là ngọn núi Bạch Đăng, nằm dựa vào núi Phương về

hướng bắc. Năm xưa Hán Cao Tổ là Lưu Bang dẫn ba mươi hai vạn đại quân viễn

chinh Hung Nô, sau một trận đại thắng đã khinh địch liều lĩnh tiến bừa, bị bốn mươi

vạn đại quân Hung Nô vây khốn trên Bạch Đăng sơn suốt bảy ngày bảy đêm, sau

phải dùng diệu kế mới có thể thoát thân. Ngọn núi nhỏ bé này cũng nhờ đó mà vang

danh thiên hạ.Trời rét đậm giữa tiết trọng đông, hiếm có ai nhàn rỗi lên núi nên vừa đến lân

cận vùng núi đã không còn thấy dấu vết con người. Hơn hai mươi kỵ sĩ ruổi ngựa

lên đồi, phóng mắt nhìn ra xa, trên cánh đồng tuyết nhấp nhô như sóng gợn nằm trơ

trọi một ngọn núi nhỏ, cao không quá trăm trượng, cũng không tính là quá cao, thế

núi thoai thoải. Lúc đầu nghe nói là "núi", Dương Lăng còn tưởng nó cao lớn hiểm

trở thế nào, giờ trông thấy ngọn núi đồi và vùng đất khá bằng phẳng chung quanh, y

mới cảm thấy yên tâm.

Ngọn núi này là một ngọn núi đồi đất vàng, căn bản không có chỗ nào hiểm trở

để phòng thủ. Đương nhiên nếu trên núi bố trí trọng binh, chiếm lấy địa thế trên

cao, thì với năm nghìn binh mã trở lên cũng đủ để chống lại sự công kích của mấy

vạn đại quân. Từ nơi này đến Đại Đồng chỉ khoảng chục dặm, nếu thật sự gặp nguy

hiểm, chỉ cần kiên trì chống đở nửa ngày là đủ để quân Minh kéo tới tiếp cứu.

Quanh núi là một mảng đồng hoang bát ngát. Nếu quân Minh bố trí sẵn phục

binh, Đoá Nhan Tam Vệ đến kết minh cũng sẽ có thể phát hiện từ xa mà kịp thời xa

chạy cao bay. Quả thật đây là chốn rất thích hợp để làm nơi đàm phán.

Tuy ngọn Bạch Đăng không cao nhưng chung quanh lại rộng rãi, chu vi chừng

mấy dặm. Dương Lăng dẫn hơn hai mươi thân binh lên núi, ngước mắt nhìn xa,

phía bắc chính là núi Phương trập trùng, cách chừng hai dặm là một thôn trang xem

chừng cũng không nhỏ.

Dương Lăng ngồi thẳng trên lưng ngựa, quay đầu lại hơi nheo mắt nhìn về phía

con đường trắng xoá đến nhức mắt, trông thấy từ đằng xa có mấy bóng đen đang

đến gần. Với tốc độ đó, ắt hẳn bọn họ cũng đang cưỡi khoái mã.

Dương Lăng thả lỏng cương ngựa, cười sảng khoái:

- Quả nhiên không giấu được mắt kẻ hữu tâm.

Ngũ Hán Siêu đưa cương ngựa lên đẩy vành nón, hơi căng thẳng:

- Đại nhân! Phục binh của chúng ta đang ở Lý Gia tập, cách nơi đây hai dặm.

Thuộc hạ vẫn cảm thấy bất an trong lòng, chúng ta có nên đến gần bên đó một chútnữa chăng?

Tuy Ngũ Hán Siêu tài cao gan lớn nhưng chàng cũng biết trong Di Lặc giáo có

mấy tay cao thủ trùm đời. Chưa nói đến giáo chủ Lý Phúc Đạt của Di Lặc giáo, nội

ba người con của lão cùng vài vị thiên sư trong giáo cũng võ nghệ không kém cạnh

gì chàng ta. Nếu đơn thương độc mã thì chàng tự tin dù không địch lại cũng vẫn có

thể tẩu thoát, song hiện tại có Dương Lăng ở đây, chàng không dám mạo hiểm.

Nhược bằng Dương Lăng lại bị kẻ địch bắt đi mất, khi ấy chẳng cần người khác nói

ra nói vào, bản thân chàng cũng sẽ chỉ còn có nước tự sát tạ tội.

Dương Lăng lại không nghĩ vậy. Không phải là y lơ là, có điều hôm nay hai

mươi tay thân binh bên cạnh y không phải là quân lính "chuyển ngành" thành phiên

tử Nội xưởng, mà là thị vệ đại nội y mượn của Chính Đức. Thuộc hạ chân chính

thuộc về y thì ngoài Ngũ Hán Siêu ra chỉ còn gã Lưu Đại Bổng Chùy do y mới thu

làm thân binh thị vệ.

Võ công những người này tuy không bằng Ngũ Hán Siêu, song cũng không

thua kém bao nhiêu. Nhóm truy binh đã đuổi đến gần kề, xem ra chỉ có bảy tám

người cưỡi ngựa, hơn hai mươi người này của mình chẳng lẽ còn không thu thập

nổi? Xem ra mình đã vẽ to chuyện khi âm thầm bố trí bốn trăm tay phục binh ở Lý

Gia tập sau khi nhận được tin tức do Hàn Lâm đưa đến hôm qua rồi.

Hai mươi tay thị vệ đại nội ngồi ung dung bình tĩnh trên lưng ngựa, hơi tò mò

nhìn chằm chằm vào đội nhân mã đang đến gần. Những thị vệ này đều là những

trang thiếu niên anh tuấn kiêm tài lẫn đức của các môn phái, rất ít kẻ làm việc trong

cung. Chỉ cần dựa vào chiêu bài đại nội thị vệ, trên giang hồ còn kẻ nào dám đắc tội

với bọn họ? Cho nên ai nấy cũng đều đặt mắt ở trên trán, mấy tên yêu nhân Di Lặc

giáo còn chưa đáng để lọt vào mắt bọn họ.

Lưu Đại Bổng Chùy là kẻ duy nhất trong đám thị vệ này sử dụng côn sắt. Gã

râu xồm này là kẻ võ biền, tuy côn pháp quanh đi quẩn lại chỉ có mấy chiêu song lại

rất hữu dụng để giết giặc trên chiến trường. Mặc dù so tài đo nghệ thì gã không

bằng Ngũ Hán Siêu, nhưng một khi xông pha chém giết trên chiến trường thì vô

luận là thanh thế hay số kẻ thù giết được thì Ngũ Hán Siêu đều kém xa gã.Gã hồi hộp liếm môi, ồm ồm khuyên giải:

- Đại soái! Thuộc hạ nghĩ hay là chúng ta cứ đến Lý Gia tập đi. Mặc kệ nó là

yêu đạo hay là giặc Thát, Đại Bổng Chùy tôi đều chả sợ chút nào. Nhưng mà có đại

soái ở đây, nếu thật sự động thủ thuộc hạ sẽ bị bó tay bó chân lắm! Vừa phải để ý

tới đại soái, vừa phải đánh yêu đạo, phiền phức lắm.

Tuy gã này nói chuyện thô lỗ, nhưng sự quan tâm lại biểu lộ rất rõ ràng, Dương

Lăng nghe xong thì bất giác bật cười. Suy nghĩ một lúc, y bảo:

- Được, vậy chúng ta đi! Đến Lý Gia tập chờ bọn họ.

Lý Gia tập nằm kế Đại Đồng. Con đường truyền tin từ kinh sư đi qua đầu thôn

kéo đến quan ải phương bắc, nối mọi nẻo đường nên khá là đông đúc. Thương nhân

buôn lậu không dám để bò, dê, ngựa trong thành Đại Đồng mà phần lớn bọn họ sẽ

nương nấu tạm ở đây, đợi mua bán xong xuôi rồi mới đồng loạt chuyển đi, cho nên

đầu thôn còn mở một quán ăn lớn.

Nói là quán ăn nhưng chẳng qua chỉ là mấy gian chòi gỗ trét bùn, cung cấp

nước nôi và vài món ăn đơn giản, để những người buôn bán vãng lai có chỗ nghỉ

chân, lót dạ. Chung quanh quán được bao bọc bởi một hàng rào cây, không hề có

cánh cửa gỗ nào cả, trông hết sức đơn sơ. Hiện đang là mùa đông, buôn bán tiêu

điều, quán ăn chỉ mới mở một cánh cửa, bên trong vẫn chưa có khách.

Thấy đám đông hơn hai mươi người của Dương Lăng kéo đến, ông chủ quán

không khỏi vui sướng ngất ngây, liền vội chạy ra nghênh đón, mặt cười toe toét

nồng nhiệt đón tiếp:

- Chào các vị khách quan! Các vị dùng món gì vậy?

Lão lia mắt thật nhanh, nhận biết những người này không giống thương gia

bình thường. Nhưng lão chỉ là ông chủ của một quán ăn nho nhỏ, là một tiểu nhân

vật thấp hèn nhất, kiếm được hai văn đồng trinh đã là tốt rồi, sẽ không có ai lại hạ

mình đi gây chuyện với những kẻ nghèo khổ như lão.Lưu Đại Bổng Chùy buộc ngựa vào cột, lại nhanh nhẹn tiếp lấy cương ngựa của

Dương Lăng buộc vào, rồi lớn tiếng dặn dò:

- Ông chủ! Trong quán có món gì ăn được thì cứ bưng lên là được rồi! Đồ ăn

nóng càng tốt, đúng rồi, kiếm chút rượu trắng luôn.

Ông chủ vội đáp:

- Dạ! Trong quán có bánh bao không nhân, bánh nướng, còn có lợn béo vừa

mới mổ đón tết nữa. Tuyệt nữa là có món thịt heo xắt vụn, các vị khách quan lại

uống thêm bát canh dê, bảo đảm uống xong sẽ thấy ấm người.

Xắt vụn là cách gọi của người dân sứ Sơn Tây. Cách làm là ngâm heo hoặc dê

cả vào nước, rồi lát mỏng, rắc gia vị như tiêu, gừng, tỏi, muối... vào, sau đó hầm

thành một nồi. Dùng món thịt nguội này với rượu trắng, kết hợp cùng nước canh dê

óng ánh, quả thực mùi vị rất không tệ.

Đám đại nội thị vệ vây quanh bảo vệ Dương Lăng đi vào chòi. Lau sậy được

chất quanh chòi thành đống, bên trong kín gió nên khá ấm áp. Sáu viên thị vệ không

cần căn dặn đã dằn đao chậm rãi đi loanh quanh trước cửa. Chiến mã được buộc

kiểu thòng lọng ở một bên, giật một cái liền tuột ngay, có thể lên ngựa tác chiến bất

cứ lúc nào.

Chủ quán bê một vại nước cốt ngâm trong một cái chậu to từ trên quầy đến; trời

lạnh khiến mặt trên lớp thịt lợn xắt vụn đóng một lớp váng mỡ trắng tinh. Ôngg chủ

vội vã chạy ra sau quán gọi lớn:

- Con mẹ nó Tam Nhi, mau đun lửa hâm đồ ăn đi! Tao nói thằng nhãi mày mau

nhanh chân một chút đi, mặt trời đã chiếu tới đít rồi! Mau chạy đi lấy lúa mạch và

trấu cám đem cho ngựa của mấy vị khách quan đây ăn đi!

Dương Lăng xát mạnh hai tay, cười nói:

- Chủ quán à, không cần phải lo cho ngựa đâu! Chúng tôi đến từ thành Đại

Đồng, không xa mấy, chốc nữa còn phải chạy về. Ăn đại chút gì đó là được rồi.Căn chòi lớn này xoay về hướng mặt trời, khi cuộn rèm lên ánh nắng sẽ chiếu

thẳng vào, khiến nó ấm hơn khi che rèm lại. Dương Lăng ngồi ở bàn gần cửa, ánh

nắng rọi lên thân y, bóng râm của chòi che khuất khuôn mặt nên y lại có thể nhìn

thấy rõ bên ngoài.

Mặt đất sau mùa gặt phủ một lớp tuyết trắng mỏng manh, thấp thoáng lộ ra

những gốc rơm rạ, sáu bảy thớt ngựa ở đằng xa dừng lại trên con đường dưới chân

núi Bạch Đăng một chốc, chừng như đang do dự không biết có nên đuổi theo hay

không. Dương Lăng thấy vậy không khỏi thầm cười nhạt. Đêm qua Hàn Lâm đã

lặng lẽ phái người chuyển tin tức thám thính được sang chỗ y.

Do binh hoang mã loạn, thương nhân từ các nơi khác đến thành Đại Đồng

không nhiều. Nhờ Hàn Lâm khổ tâm tổ chức ở Đại Đồng, mạng lưới tình báo của

Nội xưởng dễ dàng nắm vững hành tung của bọn họ và truyền tin về.

Hàn Lâm biết nếu muốn giết Hoàng đế, quyết không thể chỉ vài ba nhân vật

giang hồ võ công siêu đẳng mà đã có thể làm được; chỉ riêng việc theo dõi, cảnh

giới, và dò la tin tức đã cần đến không ít người rồi. Vì vậy ông lại sàng lọc trong

những tin tức được trình lên, chọn ra toàn bộ những nhóm dưới hai ba người, đặc

biệt là những nhóm có phụ nữ và trẻ em, sau cùng chỉ còn lại mấy tốp nhân vật cực

kỳ khả nghi.

Đám người Dương Hổ tự xưng là thương nhân hàng da, nhưng quản sự và gia

bộc mang theo có đến bảy tám người. Năm mới bọn họ lại chạy vội chạy vàng đến

thành Đại Đồng, chỉ ăn rồi ngủ, không chịu vội mua hàng rời đi, thật hết sức đáng

ngờ. Thành thử ông đã phái thêm người bí mật giám sát bọn họ, đồng thời mau

chóng truyền tin cho Dương Lăng.

Hiện Đại Đồng giống như binh doanh vậy, Dương Lăng cũng dự liệu nếu quả

thật có thích khách thì nhân số cũng sẽ không quá nhiều. Trương Vĩnh nghe tin

xong thì lập tức muốn mang người đi bắt bọn họ lại, mặc kể có phải là kẻ xấu hay

không, cứ vứt vào đại lao rồi tính sau.

Đám người Đại vương, Hồ Toản và Uông Dĩ Hiếu đã ngầm ưng thuận việc

Hoàng đế gặp mặt Hoa Đáng, hơn nữa cũng đã ngầm hẹn không đến bái kiến Hoàngthượng, cho nên bề ngoài bọn họ cũng vờ như không hề biết chuyện Hoàng đế đang

ở Đại Đồng.

Dương Lăng lo rằng nếu Nội xưởng giương cờ gióng trống bắt người trong

thành, một khi tin tức lọt vào tai đám người Hồ Toản thì bọn họ sẽ lại đổi ý, lo lắng

chạy ào tới khóc lóc can ngăn Hoàng thượng. Cho nên y quyết định lấy thân làm

mồi, dụ rắn ra khỏi hang.

Đằng xa, đám sáu bảy kỵ sĩ cứ đi lòng vòng mà không tiến vào thôn nọ dường

như đã bàn bạc xong, bỗng giục ngựa phi thẳng tới. Bọn thị vệ ngồi trong chòi cùng

đứng dậy đánh soạt, tay đã án trên chuôi đao.

Dương Lăng bình tĩnh bảo:

- Ngồi xuống! Bọn chúng có thể xông thẳng vào trong chòi hay sao? Chuẩn bị

kỹ hoả tiễn và pháo hiệu, một khi có sự liền lập tức gọi người. Quan binh bắt giặc

không tội gì mà đơn đả độc đấu!

Đám thị vệ lại chậm rãi ngồi xuống, song tay vẫn dằn trên chuôi đao, mắt nhìn

chằm chằm ra bên ngoài.

Đám người nọ tới gần, tổng cộng bảy người ngựa. Ngoại trừ một lão già trạc

ngũ tuần, còn lại đều là tráng niên tuổi chừng ba mươi, trông khoẻ như cọp, đầu

quấn khăn trùm, hông giắt Nhạn Linh đao. Ánh mắt của Dương Lăng thoáng lướt

trên khuôn mặt của bảy người rồi dừng lại trên mặt một gã mặt sẹo.

Người này chính là Dương Hổ. Tuy gã đã cải trang, khuôn mặt đã được thay

đổi qua loa nhưng thân hình vẫn vậy. Cái khí chất ngông cuồng ngạo nghễ vẫn

khiến y nổi bật giữa đám đông như hạc giữa bầy gà, nghiễm nhiên là thủ lĩnh của cả

bọn.

Ánh mắt của hai người chạm vào nhau trong tích tắc, mắt Dương Lăng hơi loé

lên một tia kinh ngạc. Y đã mang máng nhận ra Dương Hổ, "Không ngờ kẻ đuổi tới

lại là Dương Hổ mà không phải là người của Di Lặc giáo." Việc này hoàn toàn nằm

ngoài dự liệu của y."Sao Di Lặc giáo không thấy có động tĩnh gì mà lại là Dương Hổ đuổi tới đây?

Nếu cho rằng Hồng Nương Tử gạt mình thì thực khó hiểu. Dù sao thì mình

cũng đã biết tin, bất luận thật hay giả ắt sẽ đều tăng cường cảnh giác. Nếu những gì

Hồng Nương Tử nói là thật, thì sao Dương Hổ còn ngu xuẩn để mặc cho Di Lặc

giáo lợi dụng? Chẳng lẽ gã và Hồng Nương Tử vẫn chưa gặp nhau, vẫn chưa biết

chuyện này?"

Vẻ kinh ngạc thoáng qua trên khuôn mặt Dương Lăng bị Dương Hổ lầm tưởng

là do sợ hãi. Trên mặt gã loé lên vẻ khinh thường rồi quay đầu đi như không có việc

gì. Gã vừa ngông nghênh bước vào chòi vừa gọi chủ quán:

- Ông chủ, xắt mười cân thịt bò, hâm một vò rượu nóng, mau dọn lên cho bọn

ta!

Gọi món rồi gã sảng khoái ngồi phịch xuống bàn bên, gỡ thanh bội đao giắt

hông vắt ngang lên bàn, hung hãn trừng mắt với Dương Lăng.

Chủ quán vội châm trà đưa lên bàn cho gã, thừa dịp liếc mắt nhìn đám người

chung quanh. Ai nấy mặt mày hầm hầm, cộng thêm bầu không khí căng thẳng và

lạnh lẽo khiến lão rét cả người, bèn lật đật lui ra sau quầy.

Dương Hổ cũng không thèm để ý đến lão, hai mắt gã vẫn nhìn Dương Lăng

chằm chằm. Gã thực căm hận Dương Lăng đến tận xương tủy, hai trăm tâm phúc

của gã bỏ mạng trước Cao Lão trang, mối thù này gã trút hết cả lên đầu Dương

Lăng. Nay ái thê cũng vì bất đồng ý kiến mà giận dỗi bỏ đi, món nợ này gã cũng

trút lên đầu Dương Lăng nốt, vì vậy gã càng coi Dương Lăng là cái gai phải nhổ.

Di Lặc giáo giao du với tầng lớp thượng tầng, biết rằng Hoàng đế cải trang

không phải là chuyện đùa, nếu trọng thần bên cạnh hắn bị ám sát thì khi ấy muốn

đụng đến hắn ắt sẽ khó như lên trời. Nhưng Dương Hổ - một tên mã tặc - thì lại suy

luận rằng diệt trừ được vây cánh của Hoàng đế thì mới dễ xuống tay với hắn ta.

Chỉ mang theo vài người, gã ở Đại Đồng như kẻ mù dắt ngựa loà, không có kể

sách gì cả, biện pháp duy nhất chính là phái người thay phiên dán mắt vào DươngLăng, giúp y canh nhà giữ sân, âm thầm theo y tới lui giữa vương phủ và dịch quán.

Sáng hôm nay nhận được tin Dương Lăng cải trang giả dạng thường dân ra ngoài

thành, Dương Hổ mừng khôn kể xiết, liền lập tức dẫn người đuổi theo.

Sát khí bao trùm cả căn chòi, thớ thịt của mọi người đều trở nên căng cứng, ánh

mắt âm u lạnh lẽo nhìn chằm chằm vào đối phương, đại chiến chực chờ bùng nổ.

Dương Lăng nhón lấy chén trà, cẩn thận uống một hớp rồi lại nhẹ nhàng đặt xuống,

chỉ sợ tiếng động lớn quá sẽ lập tức dẫn đến một hồi đại chiến.

Lão chủ quán khéo nhìn sắc mặt trông thấy tình hình không ổn, thế là không

khỏi thầm kêu khổ. Lặng lẽ đẩy bàn tính ra, lão bắt đầu khe khẽ lui về phía sau,

lặng lẽ đưa tay ra sau lưng rờ tấm rèm cửa.

Dương Hổ lặng lẽ quan sát một hồi, phát hiện trong và ngoài chòi chỉ có hơn

hai mươi người. Sau khi ước lượng qua võ công của đám phiên tử Nội xưởng trong

đêm công kích Dương phủ ngoài Cao Lão trang, gã liền có quyết định.

Hiện tại ngoại trừ gã còn có một cao thủ về Ưng Trảo công là Hoắc Ngũ Thúc,

nếu muốn tập kích giết chết Dương Lăng giữa sự bảo hộ của hơn hai mươi tên thị

vệ này thì phần thắng ít ra cũng có đến bảy thành. Gã đưa mắt nhìn Hoắc Ngũ Thúc

ngồi đối diện, mắt hơi cụp xuống ra hiệu đã quyết định động thủ!

Lão chủ quán vừa mới vén rèm cửa, Dương Hổ đã chợt đứng bật dậy, các đại

nội thị vệ ngồi chung quanh nhịn không được cũng đứng cả lên. Tiếng đao bạt khỏi

vỏ xoàn xoạt nghe rợn người, đao quang loé khắp căn chòi.

Thủ hạ của Dương Hổ cũng đứng bật dậy, lật ngã một băng ghế dài xuống đất

đánh "bộp". Chỉ có Hoắc Ngũ Gia vẫn ngồi trên ghế dài vững như bàn thạch, song

trên mu bàn tay cầm chén trà nóng hổi của lão đã không chút cử động mà nổi vồng

gân xanh.

Dương Lăng và Ngũ Hán Siêu ngồi đối diện cũng không động đậy; Ngũ Hán

Siêu một tay dằn lấy phối kiếm (*), một tay lặng lẽ lần vào trong chiếc túi giắt

thõng dưới lưng, cầm lấy năm cây phi tiêu Kim Tiền được mài bén cạnh. Lưu Đại

Bổng Chùy ngồi bên phải lại đã nhảy bật dậy, nắm chặt cây côn sắt đen thùi trongtay.

(*) một loại kiếm cổ có nguồn gốc từ Indonesia.

Xem thêm

Dương Hổ liếc mắt nhìn quanh, rồi chợt ngửa mặt lên trời cười lớn. Tiếng cười

liên miên của gã chưa dứt, Dương Lăng cũng chợt mỉm cười nói:

- Trước mặt hẳn là Dương Hổ Dương huynh phải không? Từ dạo chia tay nhau

tại kinh sư, bấy lâu huynh vẫn khoẻ chứ?

Dương Hổ cười gằn đáp:

- Đa tạ đã quan tâm! Dương mỗ gặp nạn lớn không chết, vẫn mong được báo

đáp ân đức của Dương đại nhân đây. Tiếc rằng thềm cửa nhà họ Dương quá cao,

Dương mỗ chẳng dám bước vào. Giờ thì tốt rồi, đại nhân vậy mà rời xa kinh sư, thật

đúng là cầu được ước thấy, ông trời có mắt đây.

Dương Lăng khẽ lắc đầu bảo:

- Vốn dĩ... chúng ta có thể làm huynh đệ tốt. Ngươi đuổi đến Đại Đồng, có phải

là đã quyết tâm muốn tạo phản? Có chịu nghe ta khuyên nhủ một câu không? Lúc

này buông đao, bản đốc có thể tha cho ngươi tội chết!

Dương Hổ cười hắc hắc, đang định giễu lại, chợt có tiếng vó ngựa gõ dồn, mọi

người trong chòi đều vụt đưa mắt nhìn xa ra bên ngoài. Từ đằng xa có một người

cưỡi khoái mã phóng như bay tiến đến. Kỵ sĩ khom lưng trên lưng ngựa, cùng ngựa

tạo nên một đường thẳng tắp, nhìn từ xa trông không rõ tướng mạo, chỉ nhận ra

được người đó vận một chiếc áo bào màu tro, là trang phục đàn ông, hông giắt một

cây đao thép không vỏ, thi thoảng tia nắng quét ngang hắt ra những tia sáng chói

mắt.

Chỉ trong chốc lát ngựa đã đến trước cửa chòi, kỵ sĩ ghìm cương, kiện mã hí

một tràng dài, người nọ đứng thẳng dậy, vó ngựa đá tung cụm tuyết trước mặt. Chân

ngựa còn chưa tiếp đất, kỵ sĩ đã nhẹ nhàng nhảy xuống, sải bước tiến vào trongchòi.

Hai bên đang ở thế giương cung bạt kiếm, không biết kẻ đến là địch hay ta, đều

trừng mắt nhìn kẻ đó không nói tiếng nào. Người này mặt ngọc mày kiếm, mũi cao

miệng nhỏ, thoạt trông khí khái tràn trề, tuy ăn vận như một chàng trai trẻ tuấn tú,

nhưng Dương Lăng và Dương Hổ liếc mắt đều lập tức nhận ra cô nàng qua lớp dịch

dung vô cùng đơn giản đó. Dương Hổ mừng rỡ gọi:

- Nương tử, nàng đến thật đúng lúc! Hãy liên thủ với vi phu giết chết Dương

Lăng báo thù cho các huynh đệ!

Năm ngón tay của Hoắc Ngũ Gia bấu chặt lấy chén trà nóng hổi, vốn định ném

về phía Dương Lăng, lúc này trông thấy nàng, lão cũng kinh ngạc lỏng tay, mừng rỡ

đứng dậy gọi:

- Oanh Nhi? Cháu gái ngoan của thúc, thực khiến Ngũ thúc lo muốn chết. Mau

qua đây, Dương Lăng chỉ mang theo hơn hai mươi tên thị vệ, chú cháu chúng ta liên

thủ liền sẽ có thể giết y dễ như trở bàn tay!

Thôi Oanh Nhi đanh mặt đáp: ối

- Ngũ thúc, mục tiêu chính của chúng ta là Di Lặc giáo. Muốn báo mthù đó thì

thật là chuyện chó đi bắt nhím, biết cắn chỗ nào*. Nếu vì trăm họ, chúng ta nào có

bản lĩnh cai trị giang sơn. Nếu thật sự sát hại Hoàng đế và Dương Lăng, chính là

giúp cho Di Lặc giáo toại nguyện, lại khiến cho giặc Thát ngoài quan ải thừa thế

xông vào. Chúng ta gánh không nổi tiếng xấu mấy đời này đâu. (*: ý nói tìm kiếm

Di Lặc giáo báo thù là chuyện vô vọng)

Cặp mắt như thu thủy của nàng liếc sang Dương Lăng, rồi chắp tay vái những

tay thảo khấu, nói:

- Các vị huynh đệ, trong các vị có người là nhân mã trại cũ của Thôi gia ta, có

người là huynh đệ khe Phi Hổ của tướng công ta. Thôi Oanh Nhi và các vị huynh đệ

cùng tiến cùng lui, đồng sinh cộng tử, đã có bao giờ là kẻ sợ chuyện? Cho dù là vị

khâm sai đại nhân này...Nàng liếc ngang đôi mắt đẹp về phía Dương Lăng, ngạo nghễ nói tiếp:

- Ta cũng tự tay bắt y về, bình yên mà thoát khỏi vòng vây trùng trùng của

mười vạn đại quân. Oanh Nhi không phải là kẻ sợ chuyện. Nhưng người giang hồ

chúng ta coi trọng đạo lý oan có đầu, nợ có chủ. Dương phủ là con dê béo, chúng ta

là kẻ bắt cóc, có đắc thủ hay không đều phải dựa vào bản lĩnh mỗi người. Chưa

từng nghe chuyện bắt cóc thất thủ rồi lại coi con dê béo là kẻ thù; đó chỉ là bởi

chúng ta học nghệ chưa tinh thông mà thôi!

Nhưng nếu như chúng ta đã bị kẻ khác lừa đi bắt người, đã trúng phải kế lùa hổ

trị hổ của người ta, các vị nói thù này có nên trả không? Nay rõ rành rành Di Lặc

giáo muốn đối phó với Dương Lăng, sơn trại chúng ta bị quan binh nhổ mất mà

chúng ta lại cứ cố chạy đến làm tốt thí cho người ta, để người ta ăn ốc còn mình

phải đổ vỏ, làm chuyện ngu xuẩn như thế xem có được không?

Đoạn nàng bất mãn trừng mắt với Dương Hổ, bảo:

- Thấy các người lục tục kéo ra khỏi thành thì ta ra theo thôi, không có ý gì

khác cả. Ta không đồng ý với việc giết Dương Lăng vin vào lá cờ "Thế thiên hành

đạo" của sơn trại chúng ta! Lý lẽ cần nói ta đã nói hết rồi, huynh đệ nào đồng ý với

ta, mời đứng sang bên này!

Những người thuộc trại cũ của Thôi gia đưa mắt nhìn nhau. Bọn họ đều là lứa

cao thủ sơn tặc trẻ tuổi, trong mắt bọn họ, sức hiệu triệu của Thôi đại tiểu thư hơn

xa Hoắc Ngũ Thúc đã qua thời đỉnh cao. Nghe xong những lời lẫm liệt của Thôi

Oanh Nhi, bọn họ từ từ bỏ đao xuống, chần chừ bước sang bên cạnh Thôi Oanh

Nhi.

Dương Hổ giận muốn rách phổi, trợn mắt mắng to:

- Thôi Oanh Nhi, cô điên rồi à? Cô là vợ ta hay là vợ tên Dương Lăng hả?

Không ngờ cô lại nối giáo cho giặc! Cô không giúp ta thì thôi, còn muốn lôi kéo các

huynh đệ đi, đấy là bổn phận làm vợ đó sao? Được lắm, được lắm!

Gã giận quá hóa cười:- Xưa nay ta luôn nhịn cô, nhường cô, nhưng không sợ cô. Cô thật sự nghĩ mình

là Dương Khóa Hổ ư? Trở về sơn trại ta sẽ mời tất cả các trại chủ các núi tới trước

mặt nhạc trượng đại nhân hỏi cho rõ ràng. Lão dạy dỗ con gái mình thật giỏi!

Hoắc Ngũ Thúc cũng không nén được lửa giận. Tuy rằng lão yêu thương Thôi

Oanh Nhi, thế nhưng con gái lấy chồng coi như nước đã đổ đi, không liên can gì

đến Thôi gia nữa, đâu lại có chuyện vợ trái lời chồng, đó chẳng phải là đại nghịch

bất đạo sao? Hơn nữa lúc đi lão gia tử đã có lời yêu cầu lão áp chế Thôi Oanh Nhi,

không để nàng can thiệp vào đại sự của Dương Hổ.

Hoắc Ngũ Thúc nghiêm khắc quát:

- Bọn khốn chúng mày! Lúc lão gia tử phái chúng mày đi đã nói thế nào? Hết

thảy đều phải nghe theo sự an bài của cô gia, giờ lại theo Oanh Nhi làm loạn sao?

Dương Lăng đi đâu cũng có thị vệ vây quanh như mây, ngoại trừ hôm nay, còn có

cơ hội nào tốt như vậy nữa chứ? Nghe lời ta, cùng cầm lấy vũ khí, làm thịt cái tên

họ Dương nó, bằng không chắc các ngươi cũng biết sơn quy của Thôi lão đại rồi đó.

Mấy gã cao thủ thuộc sơn trại nhà họ Thôi lưỡng lự nhìn nhau, cảm thấy khó

xử, nhất thời không biết nên nghe ai. Khuôn mặt xinh xắn của Thôi Oanh Nhi

thoáng trắng bệch, nói:

- Ngũ thúc, Dương Hổ bị lợi danh làm mê muội tâm can, thúc còn chống lưng

cho gã sao?

Hoắc Ngũ Thúc hừ một tiếng, nghiêm khắc:

- Oanh Nhi, đừng trách Ngũ Thúc nói với con điều này: con đang làm chuyện

quá hồ đồ khiến người ngoài nghe thấy chê cười rồi đó. Chúng ta là kẻ lăn lộn trên

sơn trại, vậy mà con lại đến giúp quan binh, sau này cha con và chồng của con biết

đứng trong giới lục lâm như thế nào?

Lưu Đại Bổng Chùy nhìn thấy màn đấu đá nội bộ này mà cả mừng, nhăn nhở

cười nói:- Thực có khí phách! Đấy gọi là thấu hiểu đại nghĩa. Cái... cái cô gái Hồng Phất

nữ này(*), ừm, hẳn là một cô nương không còn thú vị gì lắm rồi, nếu không một nữ

nhân hiểu lý lẽ như vậy, một tên thủ lĩnh mã tặc như hắn sẽ không nói bỏ là bỏ ngay

đâu. Thôi thì theo đại soái của chúng ta ăn uống thoả thuê đi!

(*: Nhắc tích Hồng Phất Nữ là nữ tì của Dương Tố, nàng nhận ra Lý Tịnh, tuy

đang hàn vi, là bậc anh hùng thao lược nên đang đêm bỏ phủ Dương Tố, trốn theo

Lý Tịnh)

Thôi Oanh Nhi nghe hắn nói xằng thì giận đến nóng mặt, cổ tay thoáng run lên,

một chiếc thiết tật lê (đinh sắt) bay vút về phía cái miệng đang thao thao bất tuyệt

của Lưu Đại Bổng Chùy. Ngũ Hán Siêu đã đề phòng sẵn, một đồng tiền liền bay tới

nghênh đón, "keng" một tiếng, hai miếng sắt chạm vào nhau bắn sang một bên.

Lưu Đại Bổng Chùy giật mình hoảng hồn, mắng lớn:

- Mẹ nó! Sơn tặc đúng là sơn tặc, trở mặt còn nhanh hơn cả lật sách!

Ngũ Hán Siêu cười nhạt nói:

- Hắn là kẻ thô lỗ, Dương phu nhân hà tất phải so đo? Dương đại đương gia

định bắt nạt lúc chúng ta ít người sao? Thật ngại quá, nói thật với huynh đài, chỉ

dựa vào mấy người chúng ta đây, các vị chưa hẳn đã đánh lại. Vả lại, đúng như vị

Ngũ thúc đây đã nói, đại nhân chúng ta đi đâu cũng có thị vệ vây quanh như mây,

há chỉ có bấy nhiêu người?

Đám người Dương Hổ, Hoắc Ngũ thúc và Hồng Nương Tử thoạt tiên là sững

ra, rồi lập tức sực hiểu, sắc mặt không khỏi biến xấu. Một viên cao thủ đại nội đứng

trước cửa mỉm cười, thấy Ngũ Hán Siêu nháy mắt với mình, liền lập tức lật cổ tay,

một viên pháo hiệu bay thẳng lên trời, tiếng nổ vang đi rất xa. Trong khoảnh khắc,

mấy trăm viên phiên tử cầm đao mang cung từ các ngõ hẻm hai bên thôn ùa ra, vây

chặt lấy căn chòi.

Một số tay phiên tử rút từ trong thắt lưng ra chiếc dây xích dài đen thui, tung

lên mái chòi rồi tất cả cùng kéo mạnh, "rầm" một tiếng, cả căn chòi bị kéo đổ thànhmấy mảnh. Cũng may trên mái chòi toàn bộ là tuyết, không hề bị đóng bụi, mọi

người trong chòi đều vung binh khí đập cho mấy tấm ván gỗ mỏng tang nát vụn,

trên người chỉ dính một lớp tuyết sốp.

Nhờ có cây côn sắt to dài tám thước của Lưu Đại Bổng Chùy, chỗ Dương Lăng

đứng cũng không gặp gì nguy hiểm. Trong nháy mắt cả căn chòi hoàn toàn biến

mất, mọi người đều hiện rõ giữa mảnh đất trống, những mũi tên bén ngót dày đặc

chung quanh đã ngắm vào bọn họ.

Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy che chắn trước người Dương Lăng, chầm

chậm lui ra ngoài, nhóm đại nội thị vệ cũng cùng vừa lui ra vừa giữ cự ly để có thể

phối hợp kịp thời. Dương Lăng lùi vào giữa đám thủ hạ, cất cao giọng hô:

- Hồng Nương Tử! Chính do lời của cô vừa rồi, bản quan sẽ cho các người

thêm một cơ hội. Đâm vua giết chúa, hành thích đại thần, đều là tội đại nghịch phải

chết! Nhưng chỉ cần các người vứt đao đầu hàng, bản quan sẽ bảo đảm các ngươi

không bị tội chết!

Hồng Nương Tử hít một hơi, liếc y bằng ánh mắt quật cường, đoạn giơ thanh

bội đao trong tay lên, cao giọng đáp:

- Dương đại nhân! Ta khuyên tướng công quay đầu chỉ vì không muốn bị người

ta lợi dụng mà thôi. Hảo hán lục lâm Bá Châu chúng ta không biết quỳ gối đầu hàng

quan binh. Thôi Oanh Nhi cùng tướng công và các vị huynh đệ sơn trại đây đồng

sinh cộng tử, vạn tiễn xuyên tim cũng sẽ không chút nhăn mặt nhíu mày. Ý tốt của

đại nhân ta chỉ xin tâm lĩnh!

Dương Hổ cười lớn:

- Hay lắm, thế mới là nương tử của Dương Hổ ta chứ! Các huynh đệ, cầm lấy

vũ khí, lấy ván gỗ làm khiên, chúng ta xông ra đoạt lấy ngựa rồi rút lên núi Phương!

Đám sơn tặc vội vã lật bàn và lấy mảnh ván vỡ làm những tấm khiên đơn giản,

quây lại bảo vệ chung quanh. Tiếng cung kéo rít lên rợn người, cung tên trong tay

đám phiên tử đã kéo căng như mảnh trăng rằm.Ngũ Hán Siêu đưa mắt nhìn Dương Lăng, xin lệnh:

- Đại nhân?

Dương Lăng binh tĩnh nhìn Thôi Oanh Nhi, "bắn người con gái này thành con

nhím?" Con tim thoáng xao động, y quát:

- Dương Hổ! Thôi Oanh Nhi! Hẳn các người có thể thấy hôm nay các người sẽ

không thoát được. Cho dù các người võ nghệ cao cường như thế nào đi nữa, liệu có

thể giết hết bốn trăm thiết vệ của ta không? Còn không mau buông vũ khí đầu

hàng?

Đám người Dương Hổ và Thôi Oanh Nhi đều là những kẻ cướp cao ngạo bất

kham, hung hãn không sợ chết, nghe y nói vậy thì chỉ cười nhạt tránh sau tấm khiên

không đáp lời. Dương Lăng cắn răng, định quát lệnh bắn tên thì chợt có âm thanh rì

rầm lúc trầm lúc bổng như có bầy dã thú đang kéo tới khiến Dương Lăng không

khỏi ngạc nhiên.

Y đưa mắt nhìn về hướng phát ra âm thanh. Trên con dốc thoải trắng màu tuyết

kéo dài từ sơn trang lên ngọn núi Phương xuất hiện một đội quân trông như một con

dã thú khổng lồ đang chạy trên đồng hoang. Ngoài tiếng vó sắt nện xuống mặt

ruộng hoang như sấm chính là tiếng la hét quái dị không ngừng của những kỵ sĩ trên

lưng ngựa, thanh thế rất đáng sợ.

Tuy nhìn từ xa nên trông không rõ trang phục của bọn họ, nhưng chỉ cần nghe

tiếng la hét quái dị thì Dương Lăng, quan binh và bọn mã tặc đã từng trông thấy

quân đội giặc Thát liền biết đó chính là một đội quân Thát Đát không biết từ đâu

chui ra, tràn đến cướp bóc xóm làng.

Quan binh giết cướp, cướp giết quan binh, ấy là cái lý bình thường như trời với

đất; bọn họ là kẻ thù lâu năm không thể hoá giải. Thế nhưng cục diện quái dị hiếm

gặp là: đám giặc Thát đến cướp giết thôn trang này sẽ giết quan hay là giết cướp?

Bọn chúng há sẽ phân biệt hai nhóm người Hán này ư? E rằng đội quân giặc Thát

này cũng vào khoảng nghìn người, nếu lúc này mà hai phe động thủ với nhau, đám

giặc Thát đang phi như chớp giật sẽ đến ngay lập tức, bọn họ sẽ làm sao?Dương Lăng và Dương Hổ, một kẻ có lòng tin giết cướp cùng một kẻ có lòng

tin sẽ trốn thoát đều tròn xoe đôi mắt. Hợp tác cùng nhau chăng? Có thể sao? Hai

người đưa mắt nhìn nhau, từ trong ánh mắt đối phương chỉ thấy có sự nghi ngờ,

lòng hận thù và sự bất tín nhiệm.

Mặt đất run rẩy, dân chúng trong thôn đã khóc gào inh ỏi, giặc Thát tràn tới

nhanh như một đàn châu chấu.NGƯỢC VỀ THỜI MINH

Nguyệt Quan

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #ssss