Phần Không Tên 11
Dương Lăng lập tức sực nhớ mình lại lỡ lời, bèn cười gượng gạo sửa lại:
- À! Ta nói nhầm đó, là thịt Đông Pha...
Nói đến đây y chợt nhớ lại lúc hai người cùng chèo xuồng ở Thái Hồ, uống
rượu trong biển sen, nhớ lại lúc nàng bị trật chân, y giúp nàng rửa đôi chân xinh
xắn, nhớ tới nụ hôn nhẹ của hai người. Lòng y cũng hơi xao động, y liền vội đứng
dậy bước ra cửa, nói:
- Nàng vẫn chưa quên lời ta đã nói với nàng chứ? Không biết chừng ngày này
năm sau ta đã chôn xương dưới mồ rồi đó.
Cao Văn Tâm rõ ràng thấy y đã động tâm song lại "rút chân về", nàng giận lắm
bèn hét lớn:
- Chưa quên! Tiểu tì vẫn nhớ rõ những gì lão gia đã nói. Nếu ngày này năm sau
lão gia bỏ mạng dưới suối vàng, tiểu tì sẽ kết bái huynh muội với lão gia trước linh
vị của người, nhược bằng lão gia có thể may mắn không chết thì sẽ phải đội khăn gả
cho tiểu tì!
Lúc này nàng lại dùng kiểu nói khi còn là nô tì trong Dương phủ trước kia.
Dương Lăng nghe vậy thì cười khan mấy tiếng rồi đáp:
- Được, vậy chúng ta hãy chờ xem! Ngày này năm sau nói tiếp.
Sau khi nghe Thành Khởi Vận khuyên bảo vào hôm qua, hôm nay Cao văn
Tâm đã nén ngượng thổ lộ hết tâm sự với Dương Lăng, không ngờ y lại vẫn khước
từ. Thế là tính khí đại tiểu thư lại nổi lên, cô nàng bèn giậm chân gắt gỏng:
- Chờ thì chờ! Đại nhân nhớ kỹ lấy ước hẹn của mình đó!
Chú thích:
1) Ngoại hiệu của Hồng nương tử là "Khóa Hổ", nghĩa là "cưỡi hổ". Chồng của
bà ta là Dương Hổ sợ bà ta một phép.NGƯỢC VỀ THỜI MINH
Nguyệt Quan
www.dtv-ebook.com
Chương 170 Điều Thêm Tướng Soái
Dương Lăng vừa về tới nhà, Hàn Ấu Nương đã ra đón y, hỏi ngay:
- Tướng công, nghe nói nhà mình mới đón về mấy vị khách phải không?
Dương Lăng "ừ" rồi đáp:
- Một vị thư sinh trọng thương chưa tỉnh, nghe nói rất giỏi võ nghệ...
Vừa nói đến đây, y sực nhớ ra một chuyện, bèn buột miệng hỏi:
- Đúng rồi, Ấu Nương này, nếu như là nàng, thì có thể nhảy cao đến một trượng
không?
Hàn Ấu Nương ngạc nhiên hỏi lại:
-Sao tướng công lại hỏi chuyện này?
Rồi nàng nghênh mặt cười đắc ý:
-Tướng công đã quên trước đây thiếp từng phóng lên đài hành hình cao hơn
một trượng rồi à?
Dương Lăng búng mũi nàng một cái, cười nói:
- Biết nàng lợi hại rồi! Tướng công muốn hỏi là nếu đứng tại chỗ bật lên cao
một trượng, nàng làm được không?
Hàn Ấu Nương suy nghĩ một chút rồi lắc đầu đáp:
- Không thể, kể cả cha cũng không làm được. Thuật bật thẳng người nếu chỉdựa vào lực bắp chân thì không thể nào nhảy cao đến một trượng. Thiếp và cha học
môn Ngạnh khí công cũng chỉ để cường thân kiện thể, trừ khi là biết thuật điều tức
thổ nạp(1) thì mới có thể làm được, cao thủ như vậy cũng cực hiếm.
Nàng bỗng mở to mắt, kéo tay áo Dương Lăng hỏi:
- Tướng công đã gặp qua cao nhân như vậy rồi à?
Dương Lăng cười lớn đáp:
- Cũng không cao lắm, chỉ cao hơn nàng có nửa cái đầu thôi.
Nghe Ấu Nương nói vậy, y chợt cảm thấy có chút nghi ngờ. Lăn lộn cùng đám
người Liễu Bưu bấy lâu, y cũng biết được ít nhiều về võ học. Tục ngữ có câu "cùng
văn phú võ"(2), tuy rằng thực tế đa số kẻ luyện võ là những người nghèo khổ,
nhưng phần lớn bọn họ đều chỉ tu luyện công phu ngoại môn. Một người con gái
trong đoàn ngựa thồ có thể mời ở đâu ra được danh sư về truyền thụ cho võ công
thượng thừa, hơn nữa còn luyện thành xuất sắc như vậy chứ?
Tuy nhiên vừa nhớ đến chuyện người thiếu phụ áo đỏ ấy không biết chữ, y lại
xua tan ý nghi ngờ nàng có thân phận khác. Hàn Ấu Nương hỏi:
-Tướng công đang nghĩ gì vậy?
Dương Lăng vội nói:
- Hả? À không có gì, tướng công chỉ... Do quê nhà đang gặp phải chiến tranh
loạn lạc nên cũng có người vào kinh nhờ cậy, có vẻ bọn họ cũng không định trở về
nữa. Ta đang nghĩ làm sao thu xếp cho bọn họ đây.
Hàn Ấu Nương mừng rỡ reo lên:
-Khách đến là đồng hương với chúng ta sao? Là vị thân thích nào vậy?
Dương Lăng cười gượng gạo:
-Là... tam ca Dương Tuyền và con thứ Vân Long nhà đại ca.Nụ cười của Hàn Ấu Nương lập tức cứng đơ. Dương Lăng cũng biết vị anh con
bác này trước đây quả thực không ra gì, nhưng dẫu sao những việc xấu xa hắn làm
cũng kín, chưa bị phanh phui, nay hắn gặp nạn, từ ngàn dặm xa xôi chạy đến nhờ
vả, nếu cự tuyệt không cho hắn vào nhà, mình sẽ bị người ta nhổ nước bọt dìm chết
thôi.
Thời đó quan niệm về dòng họ và hương thổ thật sự rất nặng. Đến nỗi kẻ si mê
danh lợi, bo bo giữ mình như Tiêu Phương mà một khi có khách cố hương đến nhờ
vả cũng còn không dám không hết lòng góp lời cầu xin hoàng thượng giúp đỡ bọn
họ. Huống hồ Dương Tuyền là đường huynh(3) của y, luận về huyết thống xa gần
trong quan niệm dòng họ thời bấy giờ thì còn thân thiết hơn thê tử cả một tầng.
Thường ngày Dương Lăng trò chuyện với đám người Lưu Cẩn, từng nghe bọn
họ kể rằng, năm xưa vua Hoằng Trị từng tin yêu một người hầu thân cận họ Trương.
Do gia cảnh bần cùng, lúc chín tuổi vị thái giám đó đã bị phụ thân thiến đưa vào
trong cung, để rồi hai mươi năm sau hắn trở thành một trong những hoạn quan được
tin yêu nhất bên cạnh vua Hoằng Trị.
Khi người cha già nghèo túng của hắn vào kinh cầu kiến, do Trương thái giám
vẫn còn canh cánh trong lòng chuyện ngày xưa nên mặc dù thái giám bên người
nhiều lần khuyên nhủ, hắn vẫn nhất định không chịu gặp mặt. Kết quả lập tức trở
thành cái đích cho mọi người chỉ trích. Về sau hoàng đế nghe được chuyện này, từ
đó cũng trở nên lạnh nhạt xa lánh hắn, bảo rằng hắn không biết đạo lý làm người,
đại nghịch bất đạo.
Mình đến từ thời hiện đại, trong lòng không có nhiều điều kiêng kị, nhưng
không thể không suy xét đến quan niệm của người thời này, không nhận thân tộc họ
hàng là trái với luân lý cương thường, trong khi thiên hạ được cai trị bởi những nhà
Nho, chỉ cần một điểm này thôi là anh đã đủ bị người ta hặc tội bãi quan rồi.
Dương Lăng bối rối nói:
- Hôm nay bọn họ vừa mới vào kinh, ta cũng không có cách gì khác. Đợi dăm
ba ngày nữa sẽ giúp bọn họ tìm chỗ ở, tiếp tế ít lương thực, nếu hắn không chơi bờilêu lổng nữa, ta sẽ tìm cho hắn một công việc, coi như đã tận tâm rồi.
Hàn Ấu Nương liền nhớ tới tên đốn mạt kia. Đường đệ của mình còn bệnh nằm
liệt giường mà đã động tay động chân với em dâu, nhớ lại hành vi không chút liêm
sỉ của hắn làm nàng lại cảm thấy không thoải mái. Trước đây khi gia tộc mình đến
Kê Minh nương nhờ, mình không hề có bất kì hành động thất lễ nào với trưởng bối
tôn thất của tướng công. Nay tướng công đã là quan lớn, mình càng phải nên chú ý
hơn đến những điểm dễ bị người ta chê trách chỉ trích này mới được.
Thấy bộ dạng khó xử của Dương Lăng, nàng vội khoác áo choàng lên, nhẹ
giọng nói:
- Ở lâu trong nhà quả thực bất tiện, nhưng mà tướng công cũng không cần phải
tìm chỗ ở cho bọn họ vội, để người ngoài không hiểu chuyện nhìn vào sẽ nói những
lời khó nghe.
Dương Lăng thấy nàng khoác thêm áo ngoài, bèn hỏi:
- Nàng định ra ngoài đi dạo à? Hôm nay gió lớn, nàng đừng đi.
Hàn Ấu Nương dịu dàng cười đáp:
- Thiếp đi thăm vị khách nọ còn đang bị thương mà. Nói cho cùng thì Dương
Tuyền cũng là tam ca của chàng, Vân Long lại gọi thiếp một tiếng thẩm nương(4).
Thiếp là vợ của chàng, sao có thể không quan tâm gì đến cuộc sống của bọn họ
chứ?
Dương Lăng vui sướng nói:
- Vợ ngoan, quả nhiên đã có phong thái chủ mẫu(5) nhà họ Dương rồi! Ta còn
lo nàng sẽ không vui, nên đang tính giấu nàng nữa cơ.
Hàn Ấu Nương chun mũi, cười tinh nghịch:
- Người ta không có hẹp hòi như vậy đâu. Trước đây hắn buông lời ve vãn ong
bướm, nếu không phải vì thấy trong nhà họ Dương, tướng công thân đơn thế cô, sợchàng không thể tự lo cho mình thì đã dùng côn đánh bay hắn đi rồi. Nay thì không
cần Ấu Nương ra tay nữa, tướng công của người ta lợi hại mà... Hắn mà dám... hừm
hừm, kể cả cho hắn hai lá gan...
Đôi vợ chồng trẻ rôm rả, cùng nói cười đi đến sương phòng(*) ở nhà chính sân
trước. Chú cháu Dương Tuyền mới vừa ăn xong chưa ngủ, vừa nghe vợ chồng bọn
họ đến liền vội ra đón. Xưa và nay khác nhau như trời với đất; trạch viện đẹp đẽ
sang trọng, gia bộc kính cẩn, loại phong thái cao sang đó Dương Tuyền chưa từng
thấy bao giờ.
(*):sương phòng: căn phòng bên cạnh căn phòng chính.
Nhớ lại hành vi vô lễ trước đây, trong lòng hắn thấp thỏm không yên, hắn còn
nghe nói thậm chí Hàn Ấu Nương cũng đã được yết kiến hoàng thượng, nay được
ban cho thân phận Cáo Mệnh tam phẩm, điều đó đã được huyện Kê Minh ghi chép
một cách hết sức long trọng. Dương Lăng rất yêu thương nàng, nếu như nàng ta
mượn cớ ấy để trị mình thì hậu quả sẽ rất thê thảm, song hắn lại không nỡ bỏ qua
vinh hoa phú quý trong tầm tay.
Đến khi thấy thái độ ân cần, hào phóng và tự nhiên của Hàn Ấu Nương, Dương
Tuyền mới cảm thấy yên tâm, liền vội nịnh nọt tâng bốc một phen, chỉ lo nàng vẫn
ghi thù hành vi của mình ngày đó.
Dương Vân Long tuy lớn hơn Dương Lăng ba tuổi, nhưng quả thực là con trai
của đường huynh y, thế nên hết sức giữ lễ với hai vị tiểu thúc thúc, tiểu thẩm thẩm
này. Hắn cũng từng đọc sách, có điều đã đi thi hai lần song vẫn chưa đỗ được tú tài.
Tự thấy công danh vô vọng, hắn mới bèn theo tam thúc vào kinh sư dựa dẫm
Dương Lăng.
Đợi khi rời khỏi sương phòng, Dương Lăng mới mỉm cười nói với Hàn Ấu
Nương:
- Ấu Nương của hôm nay so với trước đây thực đã có khí độ hơn nhiều. Vào
kinh được mở mang kiến thức, lại được bọn Ngọc Nhi và Tuyết Nhi hun đúc cho,
đối nhân xử thế đã rất có lễ độ.Chỉ là... nàng vốn không biết giả vờ, lúc nãy cười vẫn hơi gượng gạo. Sau này
không cho phép làm vậy với tướng công, bằng không... ta sẽ lấy gia pháp ra 'hầu
hạ', chắc chắn phần bên dưới khuôn mặt này sẽ không biết cười vịt vờ đâu.
Vừa nói y vừa vỗ nhẹ bờ mông căng tròn của Ấu Nương một cái, Hàn Ấu
Nương kêu lên "ui da", rồi vừa mỉm cười vừa nhảy tới phía trước mấy bước. Dương
Lăng vội lật đật kéo nàng lại.
Hàn Ấu Nương kéo một cánh tay của y lên, áp mặt lên tay y thủ thỉ:
- Nghĩ đến sự đáng ghét của hắn là người ta lại không chịu được. Có điều... lúc
còn ở quê nhà, Dương tam ca chỉ biết chơi bời lêu lổng, không nghề ngỗng gì, nếu
như chàng muốn kiếm cho hắn một công việc, vậy thì phải suy nghĩ kỹ đó. Ca ca
làm ở bộ Hình, thường nói với thiếp rằng ở đó quan viên trên dưới đều có vẻ sợ y.
Với tính tình hào sảng của huynh ấy mà cũng khó tìm được một bằng hữu tri âm,
còn không phải là vì những người đó sợ chàng ư? Với tính cách của Dương tam
ca... nếu như hắn lại cáo mượn oai hùm, cậy vào oai danh chàng để làm những điều
xằng bậy thì...
Việc đó tự cổ chí kim thực ra không hiếm, Dương Lăng nghe vậy thì khẽ gật
đầu. Y cũng cảm thấy cái tên lấc cấc này đến kinh sư khiến mình nuôi thì không ổn,
mà đuổi cũng không xong, quả thực có điều khó xử. Đừng thấy hắn lúc này khép
nép sợ sệt mà lầm, giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời. Lúc còn ở Dương Gia Bình,
hắn đã ỷ là người của gia tộc lớn nhất trong thôn mà bắt gà trộm chó, gây chuyện
khắp xóm làng, xem ra không thể chỉ tìm đại một công việc cho hắn là sẽ có thể
đuổi hắn đi được.
*****
Cao Văn Tâm cố lấy dũng khí thổ lộ tâm tình nhưng không ngờ lại khiến cho
Dương Lăng sợ chạy mất dép. Lúc này nàng đang ngồi âu sầu, tưởng tượng ra cảnh
vào lúc này năm sau Dương Lăng vẫn sống sờ sờ không hề hấn gì, đành phải đội
khăn đỏ lên đầu gả cho mình. Trong lòng càng nghĩ càng thấy thú vị, thế là nhịn
không được bật cười khúc khích, sự bực tức liền tan biến sạch.Nàng bước đến bên giường, giơ ngọn đèn cúi xuống nhìn, thấy hơi thở vị thư
sinh nọ đã ổn định, sau khi tan hết máu bầm trên ngực, cơn sốt cao đã dần được
khống chế. Thuốc giao cho nhà bếp sắc đã được đưa đến, có điều còn nóng chưa
uống được, Cao Văn Tâm bèn tính châm cứu trước cho y.
Nàng xoay người lấy túi thuốc châm cứu, kéo chiếc ghế đến bên đầu giường
ngồi. Mới vừa mở bọc kim châm, thư sinh nọ chợt rên khẽ một tiếng, rồi từ từ mở
mắt ra. Cao Văn Tâm mừng rỡ kêu lên:
- Công tử, ngài đã tỉnh rồi sao?
Lúc này, vẻ mặt thư sinh ngơ ngác, râu ria xồm xoàm, có điều tuy đang bị trọng
thương, ánh mắt lại vẫn linh động sáng ngời, trông hết sức lanh lợi. Y ngờ vực
ngước nhìn người thiếu nữ dung mạo xinh đẹp trước mặt, thật lâu sau mới yếu ớt
hỏi:
- Phải, tại hạ đã đỡ nhiều rồi, đa tạ ơn cứu mạng của cô nương. Nơi này... là đâu
vậy?
Cao Văn Tâm cười tươi đáp:
- Nơi này là Dương phủ ở kinh sư, công tử được lão gia... được đại nhân nhà ta
cứu về. Công tử chớ vội ngồi dậy, thương thế trên người vẫn còn nghiêm trọng.
Công tử tỉnh dậy thì tốt rồi, ta sẽ châm cứu cho công tử một phen trước, chỉ cần giữ
cho thần chí tỉnh táo, vết thương này sẽ không chuyển xấu nữa.
Thư sinh thấy vị cô nương này đang mở bọc vải, rút cây ngân châm ra thì liền
ngưng miệng. Lúc này sắc trời khá tối, dưới ánh đèn nến hắn thấy Văn Tâm tóc
mây vấn cao, phong thái trang nhã, buột miệng hỏi:
- Cô nương, kẻ hèn nhớ rằng mình thọ thương tại Diên Khánh, sao lại chớp mắt
đã đến kinh thành rồi?
Cao Văn Tâm tay vê ngân châm, mắt liếc ngang sang, cười nhẹ đáp:
- Thương thế của công tử tuy nặng, song cũng không đến nỗi hôn mê suốt cảchặng đường, đến nỗi mình được ai cứu giúp, đã đi đến nơi nào cũng đều không hay
không biết chứ?
Thư sinh nọ vốn thấy nàng có dung nhan xinh đẹp, phong thái tao nhã bất
phàm, tính vịn cớ chuyện trò thêm mấy câu, không ngờ người thiếu nữ này lại
thông minh như vậy, lập tức nhìn thấu ý đồ của y. Bị ngầm châm chọc một vố, thư
sinh không khỏi đỏ mặt, ngượng ngập không biết nói gì.
Cao Văn Tâm khẽ "hừm" một tiếng, xắn tay áo lên, nghiêm mặt lại bảo:
- Có thể ngồi dậy không? Nếu như tỉnh rồi, lại còn có sức nói nhiều như vậy thì
nằm dịch lên chút đi, bản cô nương châm cứu cho.
Cao Văn Tâm học được y thuật cao minh từ thuở nhỏ, vừa lớn đã được gán cho
danh hiệu "Nữ thần y", trước giờ tâm cao khí ngạo, tầm mắt rất cao, lúc chẩn đoán
chữa bệnh cho quan to khách quý cũng hiếm khi nở được nụ cười. Cũng chỉ có cái
đêm kinh tâm động phách được Dương Lăng cứu ra khỏi bể khổ, bị y thấy tấm thân
chỉ được che đậy bởi áo yếm, về sau lại có Hàn Ấu Nương ám thị cùng nàng ấy hầu
hạ chung chồng, thì nàng mới đối xử với y thùy mị dịu dàng như nước.
Lúc này nhận ra sự ngưỡng mộ của thư sinh này, nàng đương nhiên không vui.
Thư sinh nọ chống tay dịch lên một chút, dẫu sao thân thể mới vừa tỉnh lại vẫn còn
yếu ớt. Thấy vậy Cao Văn Tâm thừa dịp y chống người lên liền kê gối bên dưới, rồi
nói:
- Được rồi, cứ nằm như vậy đi.
Thư sinh thở hổn hển mấy hơi, thấy Cao Văn Tâm đưa nến đến sát người, tóc
mây hơi rối, nét mặt thanh lệ dịu dàng, bất giác buột miệng khen:
- Vân kế kinh khinh vãn tựu, duyên hoa đạm đạm trang thành. Thanh yên tử vụ
tráo khinh doanh, phi nhứ du ti vô..."(*) (tạm dịch: Tóc mây vấn khẽ cao cao, phấn
son nhàn nhạt xuyến thêm sắc màu. Khói xanh sương tím bao quanh, bềnh bồng sợi
tóc không...)Còn chưa dứt lời, một tia sáng màu bạc chợt loé lên, một cây ngâm châm đã
đâm xuyên qua gò má y. Thư sinh chỉ cảm thấy dưới cằm cứng đơ, miệng không
khép lại được nữa. Cao Văn Tâm nhíu cặp mày liễu, hừ lạnh mắng:
- Buông lời cợt nhả, thực là đáng ghét!
Liền đó chợt nghe bên ngoài cửa có tiếng người vọng vào:
- Văn Tâm, cô còn ở trong đó không vậy?
Cao Văn Tâm nghe được giọng của Dương Lăng liền mừng rỡ đứng dậy, làm
mặt uy hiếp với thư sinh nọ, rồi lật đật xoay người ra đón.
Thư sinh nọ có thể đả thương yêu đạo Lý Phúc Đạt, hiển nhiên có một thân võ
nghệ vô cùng phi phàm, một cây ngân châm nho nhỏ đương nhiên không thể chế
ngự được hắn, nhưng hắn lại thấy vẻ giận dỗi của Cao Văn Tâm có một ý vị đặc
biệt, tâm tình nhất thời xao động, không dám rút cây ngân châm ra để tránh chọc
giận giai nhân.
Cao Văn Tâm đón Dương Lăng và Hàn Ấu Nương vào phòng. Dương Lăng
nghe nói người nọ đã tỉnh, liền mừng rỡ đi đến trước giường thăm hỏi:
- Huynh đài tỉnh rồi à? Cảm thấy thế nào?
Thư sinh nọ há miệng ú ớ mấy tiếng, hết nhìn Dương Lăng rồi lại ngó sang Cao
Văn Tâm, vừa định đưa tay rút cây ngân châm ra, trông thấy Cao Văn Tâm trừng
cặp mắt bồ câu lên, liền vội rụt tay lại. Cao Văn Tâm vờ cười trả lời thay:
- Công tử mới vừa được châm cứu, hiện tại vẫn chưa thể cử động.
Thư sinh nghe vậy thì khổ sở gật đầu, Dương Lăng nghi ngờ hỏi:
- Ngực bị thương mà cần phải châm cứu mặt à, y thuật Cao gia quả nhiên thần
diệu vô cùng.
Hàn Ấu Nương dịch chiếc ghế ra một chút, nói:- Tướng công gấp làm gì, nếu như vị tráng sĩ này đã tỉnh rồi, đợi thêm một chút
rồi trò chuyện cũng đâu muộn. Tỷ tỷ à, thương thế của tráng sĩ có nghiêm trọng
không?
Thư sinh nọ nghe tiểu cô nương thanh tú này gọi vị công tử anh tuấn hiên
ngang ở trước mặt mình là tướng công, lại gọi người con gái mỹ mạo mà y ngưỡng
mộ là tỷ tỷ, thì không khỏi giật thót trong lòng. Hắn biết giữa thê thiếp các hộ gia
đình giàu có thường gọi nhau là tỷ muội, chẳng lẽ giai nhân đã có nơi gắm gửi rồi?
Nãy giờ hắn vẫn há miệng, nước miếng đã sắp chảy cả ra ngoài, nếu như mỹ nữ
đã có chồng, vậy hắn cũng không cần phải lấy lòng chi cho mất mặt nữa. Thư sinh
rút cây ngân châm ra khỏi mặt, vặn vẹo miệng mấy cái rồi gượng cười nói:
- Đa tạ ơn cứu mạng của công tử và phu nhân, kẻ hèn thực cảm kích không hết.
Dương Lăng thấy vị thư sinh này da ngăm đen, mặc dù dung nhan tiều tuỵ,
nhưng mặt mày sáng sủa vô cùng, nhìn trông rất vừa mắt, bèn cản vai hắn bảo:
- Cứ nằm đi. Huynh đài là người phương nào, họ tên là gì, nghe nói... là một
đạo sĩ đã đả thương huynh đài?
Thư sinh thuận thế nằm xuống, mắt thấy công tử trẻ tuổi này dung mạo còn
tuấn tú hơn mình mấy phần, khí độ cũng rất bất phàm, hai giai nhân đó hẳn là hiền
thê mỹ thiếp của người ta, bèn tự hơi cảm thấy hổ thẹn khi nãy đã buông lời khinh
xuất. Hắn mỉm cười đáp:
- Dạ, kẻ hèn là người Tùng Tư, Hồ Bắc, họ Ngũ tên Hán Siêu, thuở nhỏ học
nghệ trên Võ Đang. Ngày đó thấy một yêu đạo đang mê hoặc hương dân, nên muốn
bắt gã giao cho quan phủ truy xét, tiếc là bản lĩnh không bằng người...
Rồi hắn khẽ lắc đầu cười, nói tiếp:
- Công tử không cần phải nghi ngờ, gia phụ vừa mới nhậm chức Đồng tri ở phủ
Thành Đô, tên húy là Văn Tự. Kẻ hèn cũng là gia đình quan lại, không phải là
phường lưu manh trộm cướp đâu.Dương Lăng nghĩ ngợi một chút rồi nói:
- Ngũ Văn Định à? Ồ... nhớ rồi nhớ rồi, ha ha, hoá ra là công tử của Ngũ Văn
Định. Ta quả có nghe qua danh hiệu của lệnh tôn đại nhân.
Ngũ Văn Định nguyên là quan tiến cử ở Thường Châu, mấy ngày trước Nguỵ
Quốc công Từ Phủ tranh chấp ruộng đất với dân, kiện cáo lên đến tận trên châu.
Ngũ Văn Định phán giao mảnh ruộng đó cho bá tánh bình dân nọ khiến cho Ngụy
Quốc công nổi giận đùng đùng, cậy vào quan hệ mà chuyển vụ án vào kinh thành,
hòng nghiêm trị Ngũ Văn Định. May thay lúc đó Hàn Uy đang ở bộ Hình, khi tới
thăm vợ chồng Dương Lăng buột miệng nhắc đến chuyện này, cho nên Dương Lăng
đã bảo Tiêu Phương chiếu cố một chút. Do đó chẳng những ông ta không bị trừng
phạt mà còn được thăng chức lên làm Đồng tri ở phủ Thành Đô. Dương Lăng
không ngờ kẻ mình cứu lại là con trai ông ta.
Ngũ Hán Siêu nghe y gọi thẳng tên húy cha mình không hề kiêng kị, thì tỏ vẻ
không vui. Thấy vậy, Cao Văn Tâm liền nói:
- Đại nhân nhà ta là thống lĩnh ngự tiền thân quân, tổng đốc Nội xưởng Dương
đại nhân, không biết Ngũ công tử có từng nghe nói tới chưa?
Ngũ Hán Siêu vừa nghe lập tức cả kinh. Tiêu Phương giỏi về lung lạc lòng
người, lại biết thế lực Dương Lăng, cũng là chỗ dựa của lão, vẫn còn rất yếu, cho
nên lúc giúp đỡ cho Ngũ Văn Định đã âm thầm tiết lộ cho ông ta biết rằng do
Dương Lăng hỏi đến nên Ngụy Quốc công mới không thể hãm hại ông ấy.
Sau khi Ngũ Hán Siêu học nghệ thành tài xuống núi du lịch bốn bể đã từng gặp
cha, đương nhiên biết được mấu chốt trong đó. Hắn càng biết rằng quyền thế
Dương Lăng như mặt trời chính ngọ, đừng nói là gọi thẳng tên húy của phụ thân
hắn mà cho dù vị Đồng tri đại nhân đó có đứng trước mặt y cũng sẽ phải khom gối
quỳ vái ra mắt thượng quan.
Ngũ Hán Siêu là con cháu quan lại, vừa nghe đây là quan lớn trong triều, vẻ tự
nhiên tiêu sái lập tức biến mất hoàn toàn, lúng túng nói:- Thì ra... thì ra là Dương đại nhân. Nghe uy danh đại nhân đã lâu, thảo dân
mang thương thế trên người, không thể làm tròn lễ...
Dương Lăng ngắt lời:
- Chậc, ta và huynh đài xưng hô huynh đệ không phải là tốt hơn sao? Hà tất
dùng những lễ nghi rườm rà chốn quan trường đó? Huynh đài trên người còn mang
thương thế, đừng nói chuyện nhiều. Văn Tâm, mau giúp Hán Siêu huynh trị thương
đi.
Cao Văn Tâm dạ một tiếng, đi đến thu lại cây ngân châm trong tay Ngũ Hán
Siêu, rồi lại rút ra một cây khác, nhắm ngay huyệt đạo dưới cần cổ mà vê nhẹ
xuống. Người ngọc ở ngay trước mắt, mùi thơm nhàn nhạt lan toả khắp người, làn
da trơn nhẵn như ngọc ửng lên vầng sáng dịu dàng dưới ánh nến, Ngũ Hán Siêu lại
không dám có tơ tưởng gì, đành phải nín thở thu mắt lại, im lặng cho nàng chữa trị.
*****
Chú cháu Dương Tuyền đến Dương phủ đã được năm ngày, vào ngày thứ hai
Dương Lăng và thê thiếp đã mở tiệc thết đãi cặp chú cháu trong tộc này. Ngọc
Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đều là tuyệt sắc giai nhân, lại mặc lụa hoa tơ gấm,
đeo vòng châu lắc ngọc, thực ngỡ như tiên nữ giáng trần.
Mặc dù Dương Tuyền không còn dám có bất kỳ ý nghĩ không yên phận gì với
gia quyến của vị đường đệ này, song vẫn ngây mắt nhìn. May mà theo lễ nghi,
những vị nội quyến này chỉ ra mắt một lần liền quay trở lại nội viện, cho nên
Dương Tuyền mặc dù hâm mộ cũng chỉ đành "ngắm trăng dưới giếng" mà thôi.
Mấy ngày qua khí trời trong lành ấm áp, tuyết đã ngừng rơi, Dương Lăng cũng
thầm kêu may mắn không thôi. Nếu trời lại đổ thêm trận tuyết lớn nữa, dân chạy
nạn quanh thành sẽ khó mà sống nổi.
Được sự gợi ý của Thành Khởi Vận, y biết rằng để khiến những phú hộ giàu có
phát chẩn cứu tế thực ra không khó. Lương thực hao phí mỗi ngày không đến trăm
lạng bạc, đối với những phú hộ giàu có đó mà nói thật sự như muối bỏ bể, chỉ cầndùng danh tiếng dụ bọn họ thì không lo bọn họ sẽ không góp tay.
Dương Lăng bèn đi gặp Lý Đông Dương, lại đích thân tới thăm Chu Cương và
Trương Hạc Linh. Có hai nhà này làm gương phát chẩn cứu tế, có Lý Đông Dương
đích thân viết tên lên bia công đức đặt ở Hộ Quốc tự trong kinh sư, lập tức thân hào
quý tộc kinh sư ùn ùn hưởng ứng, dân góp người, quan góp sức, lều lán cứu tế được
dựng lên khắp kinh thành. Những lao động khoẻ mạnh cũng được cho vào thành tìm
việc; bọn họ lấy tiền công thấp, lại chịu được vất vả, thế là bỗng chốc cả làng đều
vui.
Lúc này, Dương Lăng vừa mới chạy vào trong cung, lòng ngổn ngang trăm
mối. Mấy ngày qua khắp triều đình liên tục nhận được tình báo đại quân giành lại
được đất bị cướp, đuổi đánh giặc Thát, thế là cả triều phấn khởi.
Nhưng theo tin hỏa tốc truyền về từ Nội xưởng, thì mấy trận đầu quân Minh
cậy vào nhuệ khí quả thực đã chiến thắng, chém rơi nghìn đầu giặc, thu được mấy
nghìn thớt ngựa và lạc đà, đồng thời cướp lại được số lớn của cải và người dân bị
bắt đi.
Thế nhưng không biết Miêu Quỳ có phải bị thắng lợi làm mê muội đầu óc hay
không mà lòng tham công nổi lên, thấy quân địch rút lui liền dốc toàn lực truy kích.
Kỵ binh quân Minh có hạn, lực chiến đấu và tính cơ động không đủ, lại phải chia
binh đuổi theo giặc Thát chia làm ba lộ rút lui. Kết quả bị Bá Nhan Khả Hãn điều
khiển đại quân vây đội quân tiên phong đang đơn độc thâm nhập lại thành như bánh
kẹp, ba nghìn quân tinh nhuệ mất sạch vào tay giặc. Nay địch quân thừa dịp quân
Minh phân tán chưa kịp tập hợp, đã bắt đầu tập kết trọng binh phản công Đại Đồng.
Dương Lăng suy tính trước sau, đã quyết định đề bạt Dương Nhất Thanh và
Vương Thủ Nhân đến biên cương lĩnh soái. Nhưng hai người này một người nhàn
rỗi ở nhà, một người đang ăn cơm tù, đều là những người từng đắc tội với Lưu Cẩn,
tiến cử tuỳ tiện nhất định sẽ dẫn đến khúc mắc với Lưu Cẩn. Dương Lăng lo nghĩ
rất lâu mới quyết định thuyết phục Lưu Cẩn trước, rồi mới đi gặp Chính Đức. Y đã
chuẩn bị sẵn câu từ, nào ngờ khi gặp Lưu Cẩn, vừa mới nói rõ ý định thì chỉ thoáng
trầm ngâm lão liền đã vui vẻ đồng ý luôn, khiến Dương Lăng rất bất ngờ. Tuy nhiênchiến sự biên giới quá khẩn cấp, y cũng chẳng để tâm nghĩ ngợi nhiều, vội vàng lôi
Lưu Cẩn đi gặp Chính Đức.
Mã Vĩnh Thành dẫn hai người bọn họ chạy đến Ngự Hoa viên, thấy Chính Đức
đang được mấy cung nữ thái giám hầu hạ chơi đánh quay trên mặt băng, trên con
quay gắn thêm cái còi, phát ra tiếng kêu "tu tu".
Chính Đức mặc bộ áo ống bó màu đỏ sẫm, bên ngoài khoác áo lông cừu cộc tay
màu thạch anh, đang chơi rất hăng say. Trông thấy Dương Lăng đến, hắn liền chỉ
tay vào một cô nương mặc áo da chồn viền tím bên cạnh cười giục:
- Đánh mau lên, đánh mau lên, nếu con quay bị ngã, trẫm sẽ phạt nàng đó.
Chính Đức vừa quay đầu lại nói một cách luyến tiếc, vừa đi đến bên cái hồ cảnh
đỡ Dương Lăng đang định sụp lạy dậy, cười nói:
- Miễn lễ miễn lễ, Dương khanh có biết chơi trò đánh quay này không? Trẫm và
Giải Ngữ cùng Tu Hoa mới vừa học được đấy, chơi vui lắm.
Dương Lăng lắc đầu cười đáp:
- Trò này vi thần không biết, nhưng mà lúc nhỏ thần từng chơi trượt băng, phải
sử dụng cả hai chân, nếu không thì sẽ ngã ngay.
Ánh mắt Chính Đức sáng rỡ, thích thú hỏi ngay:
- Chơi như thế nào? Mau chỉ cho trẫm đi!
Dương Lăng ho khan một tiếng rồi nói:
- Hoàng thượng, hay là bỏ qua trò đó đi, hai chân chơi xong đứng dậy không
nổi đó. Một chân thì trượt rất nhanh, nhưng sẽ khiến cho ngài ngã đến mặt mũi bầm
dập, lúc đó hoàng thái hậu còn không lấy đầu của thần ư?
Chính Đức đang vò đầu bứt tai thực sự nghĩ không ra cái gì mà chốc thì hai
chân chốc thì lại một chân, đang định hỏi rõ thêm thì Dương Lăng đã giành kể ngắngọn tình hình chiến sự mới nhất ngoài biên tái một lượt. Chính Đức vừa nghe liền
cả giận, quát lớn:
- Láo toét!
Mã Vĩnh Thành hoảng sợ quỳ mọp xuống đất, mấy người trên mặt tuyết nghe
hắn quát cũng không dám tụ tập chơi đùa nữa, đứng ở xa không dám lại gần. Chỉ có
hai cô nương một cao một thấp, khoác áo và đội mũ lông chồn nâu, mắt sáng răng
ngà bước đến, người con gái thấp hơn tươi cười nói:
- Hoàng huynh, đừng có như pháo hễ động vào là nổ bùng lên như thế chứ.
Dương đại nhân lại trêu chọc gì huynh rồi à?
Dương Lăng mỉm cười, thấy người thiếu nữ tươi cười như hoa đó là công chúa
Vĩnh Thuần, còn vị cô nương dong dỏng như ngọc đẹp, áo đen da trắng rạng ngời
đứng bên cạnh chính là Vĩnh Phúc, thì liền vội khom người hành lễ:
- Ra mắt trưởng công chúa và Vĩnh Thuần công chúa điện hạ!
Chính Đức đỏ mặt quát lên:
- Trước lúc bọn chúng đi trẫm đã ba lần bảy lượt căn dặn bọn chúng không
được chia quân, không được tiến bừa, vậy mà bọn chúng lại coi lời của trẫm như
gió thoảng bên tai. Mã Vĩnh Thành, lập tức truyền ý chỉ của trẫm, bắt ba cái tên ngu
xuẩn đó về kinh trị tội!
Công chúa Vĩnh Thuần thấy ông anh mình thật sự đang nổi trận lôi đình, thế là
tinh nghịch le lưỡi không nói nữa. Công chúa Vĩnh Phúc liếc nhanh Dương Lăng
một cái, thấy y khoác áo khoác da chồn màu đen viền vàng, anh tuấn trang nghiêm,
khí chất càng trưởng thành chững trạc, khuôn mặt không khỏi hơi ửng lên, vội khẽ
giọng nói:
-Dương đại nhân hãy mau đứng dậy, không cần câu nệ.
Chính Đức hậm hực vất chiếc roi sang một bên. Chiếc roi đó được làm từ san
hô, trên chuôi quấn tơ vàng, núm chuôi còn cẩn bảo thạch. Mã Vĩnh Thành vộicuống quít bò tới nhặt lại từ trong đống tuyết rồi dùng tay áo lau phủi tuyết đi như
thể nó là bảo bối của mình vậy.
Chính Đức cũng chả thèm nhìn, đỡ Dương Lăng đứng dậy rồi nói:
- Đi, theo trẫm về cung Càn Thanh, chúng ta bàn bạc kỹ lưỡng một phen.
Lưu Cẩn và Mã Vĩnh Thành mau lẹ bước theo sau. Công chúa Vĩnh Phúc chậm
rãi bước đến dưới hành lang bên hồ, ống tay áo lợp nhung đen mượt đặt trên thành
lan can chạm trổ, đưa mắt nhìn theo hướng mấy người rời đi, gương mặt thanh nhã
trắng ngần chất chứa một nỗi cô đơn.
Trở về tới gác Tây Noãn, vừa đặt mông xuống ghế, Chính Đức liền nói:
- Đại Đồng đông nối liền Thượng Cốc, nam thông với Tịnh Hằng, tây tiếp giáp
Hoàng Hà, bắc đổ ra sa mạc, cả ba mặt đều giáp biên giới, thực sự là bức thành che
chở kinh sư của trẫm, nếu bị mấy vạn đại quân giặc Thát đánh sâu vào nội địa
Trung Nguyên, vậy hậu quả thực sẽ khó lường. Ba tên... ba tên..., Dương khanh,
khanh thấy trẫm có cần phải phái thêm đại quân không?
Dương Lăng liền thưa:
- Hoàng thượng, Miêu Quỳ cũng xem như đã cẩn thận, quân phòng thủ tập kết
ở Đại Đồng được bốn vạn. Không có quân số đông gấp mấy lần và vũ khí công
thành lợi hại thì giặc Thát có muốn đánh chiếm tòa thành lũy sâu tường vững này
cũng sẽ không hề dễ dàng. Hơn nữa binh mã các lộ tiến công cũng đang gấp rút
quay về chi viện, Đại Đồng hẳn sẽ không thất thủ đâu.
Chính Đức tuy ham chơi, song cũng biết coi trọng chuyện dùng binh, nghe vậy
mới cảm thấy yên tâm hơn. Dương Lăng lại nói:
-Điều mà thần lo lắng là giặc Thát công thì ta ắt cứu, đại quân bị bọn chúng
kiềm chế và dắt mũi, tất cả mọi bố trí ban đầu đều bị xáo trộn, sẽ khó mà vãn hồi
được thế cuộc suy tàn.
Chính Đức vỗ mạnh bàn một cái, đột nhiên hưng phấn đứng dậy nói:- Để trẫm thân chinh, Dương khanh làm tiên phong, chúng ta đánh thắng một
trận thật hoành tráng cho kẻ khác thấy.
Mã Vĩnh Thành định mở miệng nói, Dương Lăng đã vội cướp lời:
- Hoàng thượng, đạo dùng binh không đơn giản như vậy đâu. Thần đang nghĩ
rằng, quân đoàn tinh nhuệ của Đại Minh là kinh quân, nhưng sức chiến đấu của
kinh quân lại không bằng biên quân vốn chỉ có trang bị và khí giới sơ sài, nguyên
do chính là vì thiếu tập luyện.
Sau khi chiến sự kết thúc, hoàng thượng có thể điều kinh quân đến biên tái,
dùng bọn giặc Thát hung hãn làm thầy giáo tốt nhất, các bộ luân phiên canh giữ
biên cương và luyện binh, đồng thời điều biên quân về kinh thành, do thần và hoàng
thượng mỗi người tự lĩnh quân tác chiến, học hỏi bản lĩnh thống binh lĩnh soái từ
những đội quân có kinh nghiệm thực chiến phong phú này. Đến khi ấy, quân đội
Đại Minh ai ai cũng đều có kinh nghiệm trận mạc phong phú, quân có thể chiến
đấu, quan có thể làm tướng, lúc đó hoàng thượng lại đích thân lĩnh binh tiến ra biên
giới, diễn lại oai phong thời hai vua Hồng Vũ và Vĩnh Nhạc. Hoàng thượng thấy thế
nào ạ?
Chính Đức nghe vậy sướng rơn, hỏi dồn:
-Hay lắm, rất hay, vậy theo khanh thấy thì hiện tại trẫm nên làm thế nào?
Dương Lăng liếc mắt sang Lưu Cẩn, Lưu Cẩn vội cười siểm đỡ lời:
- Chiến sự tiền phương bất lợi, không phải là vì quân ít tướng hèn, mà vì không
có tướng tài thống lĩnh. Nô tài đã kiểm tra Dương Nhất Thanh mà Lý đại học sĩ tiến
cử, nghe nói người này rất am hiểu binh pháp, hiểu rõ biên cương, thiện dã chiến,
có thể làm chủ soái Đại Đồng.
Chính Đức gật đầu nói:
- Chuẩn cho, Dương Nhất Thanh này hiện đang ở chỗ nào?
Dương Lăng mỉm cười đáp:- Mấy ngày trước gã không biết thức thời, dâng sớ nói giúp cho Lưu Kiện và Tạ
Thiên, hiện bị bãi chức đang ở nhà nhàn rỗi. Bất quá một khi hoàng thượng hạ
thánh chỉ, gã nhất định sẽ vui mừng tòng mệnh. Ngoài ra thần còn xin tiến cử thêm
một người, là con của thượng thư Vương Hoa của bộ Lễ tên là Vương Thủ Nhân,
chính là chủ sự bộ Binh người đã trình lên hoàng thượng phương pháp khắc chế đao
sắc của người Oa. Người này không câu chấp mưu lược trận địa, thích tùy cơ ứng
biến, rất hợp với tình thế chiến trường có thể thay đổi trong nháy mắt, có thể đề bạt
y trợ giúp cho Dương Nhất Thanh.
Lưu Cẩn thấp thỏm lo lắng, sợ Chính Đức lại hỏi một câu "người này hiện đang
ở chỗ nào", may mà khi Chính Đức nghe nói chủ sự bộ Binh thì tưởng rằng gã vẫn
còn đương nhiệm, nên cũng không hỏi nhiều.
Dương Lăng lại thưa:
- Hoàng thượng, Dương Nhất Thanh vì phạm tội nên bị bãi chức. Lần này
hoàng thượng trọng dụng lại gã, gã nhất định sẽ mang ơn đội nghĩa. Nhưng thân gã
đang mang tội, nếu lại phái giám quân, Dương Nhất Thanh ắt sẽ nhụt tâm thoái chí,
còn phải chịu cản trở, không thể thi triển hết sở trường.
Tục ngữ có câu 'nghi ngờ thì không nên dùng người, đã dùng người thì chớ
nghi ngờ', hoàng thượng có thể ra lệnh gã toàn quyền phụ trách chiến sự, tiết chế
tam quan, làm tam trấn tổng binh huyện Thiên Quan, tỉnh Thái Nguyên. Nếu có thể
lập chiến công, đánh bại giặc Thát, thì thăng lên làm Tam biên tổng chế. Cùng lúc
sử dụng ơn huệ và an ủi, Dương Nhất Thanh tất sẽ toàn lực làm việc, dốc sức phục
vụ!
Lưu Cẩn vừa nghe lập được chiến công thì sẽ thăng Dương Nhất Thanh lên làm
Tam biên tổng chế giống như Vương Việt năm xưa, nắm giữ mười vạn đại quân,
trong lòng liền cảm thấy không ổn. Vừa định khuyên can, Chính Đức đã nói:
- Được, nghi ngờ thì không nên dùng người, đã dùng người thì không nên nghi
ngờ, chỉ cần gã giải quyết được nỗi ấm ức này cho trẫm, trẫm sẽ phong y làm Tam
biên tổng chế.Nói đoạn Chính Đức chấp bút đích thân viết một tờ thánh chỉ, bảo Mã Vĩnh
Thành triệu Thượng Bảo giám đóng ấn, rồi lệnh cho lão ta lập tức đi truyền chỉ.
Lưu Cẩn nhớ ra mình vẫn còn một chiêu ám kế, thế là cũng không nói thêm gì.
Đến khi hai người rời khỏi cung Càn Thanh, Lưu Cẩn mới oán trách:
- Dương đại nhân, cái tên Dương Nhất Thanh đó và chúng ta không chung
thuyền, ngộ nhỡ để gã lập được đại công, nắm giữ trọng binh, há chẳng sẽ mang
phiền phức đến cho chúng ta sao?
Dương Lăng cười đáp:
- Ngài sợ gì chứ? Năm xưa Vương Việt cũng là Tam biên tổng chế, vậy mà
chẳng phải một tờ thánh chỉ nói bắt vào kinh liền bắt vào kinh đó sao. Công công là
nội tướng của Đại Minh, nắm giữ một nửa triều đình, tục ngữ thường nói 'bụng tể
tướng có thể chèo thuyền'(6), gã dâng sớ cầu xin cho Lưu Kiện và Tạ Thiên, chứng
tỏ người này cũng trọng tình trọng nghĩa, công công hà tất quá so đo?
Sắc mặt Lưu Cẩn lập tức trở nên hết sức hoà hoãn, lão ta mỉm cười dè dặt nói:
- Nói chí phải, khà khà, đến khi đó ta lại động tay chân vào quân giới khiến hắn
không hoàn thành đại sự là được.
Dương Lăng giật mình thất kinh, vội ngăn:
- Vạn lần không thể!
- Hử?
Lưu Cẩn nghi hoặc nhìn y, hỏi:
-Chẳng lẽ Dương đại nhân không phải vì muốn tìm một kẻ chết thay đỡ tội cho
Miêu Quỳ nên mới đẩy hai cái tên chướng mắt này ra chiến trường sao? Cớ sao lại
bảo vệ bọn chúng như vậy?
Dương Lăng định thần lại một chút rồi mới nói:- Ờ... thì đúng là như vậy. Miêu Quỳ và chúng ta là ngựa chung một tàu, gặp
họa thì cùng chịu mà gặp phước thì cùng hưởng, nếu để lão ta thua đến không thể
vãn hồi mới triệu về kinh, công công và ta nhất định sẽ bị ngoại quan hặc tội.
Nhưng công công chớ quên, hiện tại Dương Nhất Thanh không phải là do Lý đại
học sĩ đề cử, mà là chính miệng công công tiến cử, cái tên Vương Thủ Nhân nọ
cũng là do bản quan tiến cử.
Nếu như hai người bọn họ lập được chiến công thì chúng ta sẽ được xem là biết
nhìn người, biết dùng người, nước lên thì thuyền lên, uy danh chói lọi. Nhược bằng
bọn họ thất bại, đừng thấy bọn họ cùng một hệ với Lý Đông Dương mà lầm, đám
người ngoại đình ắt sẽ đổ món nợ ấy lên đầu chúng ta. Công công mới nhậm chức
nội tướng, nếu dưới sự chủ trì của công công, quân ta đánh bại bọn giặc Thát hung
tợn thiện chiến, ai sẽ dám không thừa nhận tài phò chính của công công? Công lao
bọn họ có lớn dường nào, phần công lao lớn nhất còn không phải là của công công
à?
Lưu Cẩn vỗ trán nói:
-Phải rồi, Dương đại nhân nói chí lí, xem ra phần cung ứng quân nhu này ta
không thể qua loa được. Hừ! Có điều không ngờ hai cái tên không biết thức thời đó
đối đầu với ta, nay lại phải chia cho bọn chúng một phần công to, thực là béo bở
cho bọn chúng quá.
Lưu Cẩn nói với giọng không phục, trong lòng cũng đã âm thầm tính toán. Bản
thân lão là kẻ tham ô, song lại không muốn thấy người khác tham ô, lão thích sử
dụng thân nhân làm thân tín, song ghét nhất là kẻ khác dựa dẫm bám víu vào quan
hệ. Hơn nữa lão tuy là thái giám song lại không hề tín nhiệm thái giám, cho nên vẫn
luôn muốn trọng dụng một số người phe ngoại đình, phát triển thế lực của bản thân.
Hiện tại nếu đã không thể lật đổ Dương Nhất Thanh, lão liền âm thầm tính toán làm
sao để có thể chiêu nạp cho mình dùng.
Thấy đã thuyết phục được Lưu Cẩn, lúc này Dương Lăng mới thầm thở phào
nhẹ nhõm. Đại quân đang chiến đấu ở bên ngoài, nếu như trong triều có người tay
nắm quyền lớn như vậy mà ngấm ngầm ngáng chân, thì cho dù là Nhạc Vũ Mục(7)tái thế cũng đừng hòng thắng giặc.
*****
Trong Dương phủ, Hàn Ấu Nương, Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai và Cao
Văn Tâm tiễn Âu Dương phu nhân ra về, bọn họ nói cười vui vẻ, hợp ý vô cùng.
Vị phu nhân của Nghiêm Tung còn lớn hơn tướng công thị một tuổi, nhưng tri
thư đạt lễ, nết na hiền lành. Nàng giống như Ấu Nương, cũng bầu bạn cùng tướng
công mình từ thuở cơ hàn, cho nên rất được Nghiêm Tung kính trọng.
Bà ta thường hay đến nhà trò chuyện cùng đám người Hàn Ấu Nương việc vặt
trong nhà, một mặt là do tướng công vốn không có thế lực chống lưng, y đã ngầm tỏ
ý muốn bà ta kết giao với một đám nhân vật quyền thế nhằm có thể đứng vững
trong kinh sư, đồng thời đích thực cũng bởi bà ta và mấy người Hàn Ấu Nương rất
tâm đầu ý hợp.
Bà ta cùng trượng phu mình thành thân đã lâu, nay đã hai mươi sáu tuổi song
lại vẫn chưa có mụn con. Hiện tại tướng công đã có quan tước, điều kiện gia cảnh
cũng rất tốt, bà ta cũng từng nảy ra ý định muốn nạp thiếp lấy vợ bé cho trượng
phu, song lại bị Nghiêm Tung nghiêm khắc cự tuyệt. Việc này càng khiến cho Âu
Dương phu nhân cảm thấy hổ thẹn không thôi.
Hôm nay đến Dương phủ viếng thăm, nghe tin vui Hàn Ấu Nương đã mang
thai, Âu Dương thị rất đỗi hâm mộ. Cao Văn Tâm nghe bà ta kể tâm sự bèn bắt
mạch giúp cho, rồi ghi một đơn thuốc, bảo cầm về uống thử. Vốn đã từng nghe đại
danh của nữ thần y, thế là bà ta bèn cất kỹ đơn thuốc vào người như thể là báu vật,
hận không thể lập tức lắp hai cánh bay đến tiệm thuốc ngay.
Nhìn thấy điệu bộ hồn vía trên mây của bà, Hàn Ấu Nương bèn cùng mấy tỷ
muội đưa tiễn về. Lúc này Ngũ Hán Siêu đang luyện kiếm trước tiền đình. Hắn vẫn
chưa khỏi hẳn thương thế, nhưng người từng tu luyện nội công thượng thừa lấy điều
hoà hơi thở bên trong làm phụ trợ, khiến tốc độ hồi phục mau chóng vô cùng.
Hàn Ấu Nương cùng Âu Dương phu nhân đi ở phía trước, vừa mới rẽ từ hànhlang hông qua, trông thấy vị công tử của Ngũ đồng tri hất, đâm, quét, chém; kiếm
pháp sử dụng kình lực liên miên, cương nhu có cả, kiếm thế uyển chuyển mà hùng
hồn. Nàng tuy không biết kiếm pháp nội gia song lại hiểu được lợi hại trong đó,
nhịn không được kinh ngạc thốt lên:
- Công phu thật giỏi!
Ngũ Hán Siêu nghe tiếng bèn thu kiếm, trông thấy rõ Dương phu nhân và mấy
vị nội quyến, mắt liền hướng thẳng, chắp tay thi lễ chào:
- Kẻ hèn ra mắt phu nhân.
Đám người Hàn Ấu Nương vòng từ hành lang bên hông đi ra, Hàn Ấu Nương
cười khẽ nói:
- Ngũ công tử bị thương nặng như vậy, không ngờ đã chóng khỏi rồi.
Ngũ Hán Siêu cười đáp:
- Đó đều nhờ... Cao cô nương diệu thủ hồi xuân. Còn phải cảm tạ đại nhân và
phu nhân đã quan tâm chu đáo cho kẻ hèn này.
Vừa nói ánh mắt vừa không kiềm được liếc sang Cao Văn Tâm. Ngày đó hắn
nghe Cao Văn Tâm gọi Dương Lăng là 'đại nhân nhà ta', khẩu khí lại không giống
như thiếp thất của Dương Lăng, con tim liền hoạt bát trở lại. Bóng hình xinh đẹp
lung linh dưới ánh nến và khí chất cao quý của Cao cô nương trong khoảnh khắc
vừa tỉnh dậy đã in sâu vào trong lòng hắn; vị thanh niên học nghệ trên núi mười
năm này đã động lòng ái mộ.
Hắn nghĩ phụ thân mình tốt xấu gì cũng là châu đồng tri tòng ngũ phẩm, mình
lại văn võ song toàn, nhất biểu anh tài, nếu Cao Văn Tâm chỉ là tì nữ Dương phủ,
bất luận thế nào mình cũng xứng đôi với nàng ấy. Nhưng bản thân hắn không tiện
dò hỏi gia bộc Dương phủ về cô nương nhà người ta. Từ sau ngày đó mỗi lần Cao
Văn Tâm đến xem bệnh cho hắn đều luôn kéo theo Cao lão quản gia kè kè bên
người, hại hắn đến giờ vẫn như ngắm hoa trong sương mù, tra không ra được thânphận thật của cô nương này. Hiện tại thấy nàng đi chung cùng hai vị thiếu nữ kiều
mị cùng búi kiểu tóc phụ nữ đã có gia đình, dáng vẻ không giống như là một thị nữ,
trong lòng cảm thấy kế hoạch thất bại rồi.
Khi nãy Hàn Ấu Nương thấy công phu của hắn, biết đó là võ nghệ vô cùng cao
siêu, còn võ công của mình là đi theo con đường ngoại gia bá đạo. Tướng công cứ
nói điều này đã lâu mà vẫn chưa được học, võ công của người này lại thích hợp để
tướng công học tập. Tuy tướng công đã quá tuổi thích hợp để luyện võ, nhưng dùng
để cường thân kiện thể vẫn tốt, hơn nữa người này văn võ song toàn, gia thế thanh
bạch, nếu có thể giữ lại để phò tá tướng công cũng vẫn có thể xem là một nhân tài.
Hàn Ấu Nương mang trong lòng phần tâm tư này, cho nên đối đãi với hắn càng
thêm khách khí, dừng lại chuyện trò vài câu, rồi mới kéo tay Âu Dương phu nhân ra
cổng. Cao Văn Tâm cũng nheo mắt liếc hắn một cái, rồi cũng đi theo sau Hàn Ấu
Nương ra ngoài.
Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai vừa trò chuyện vừa lặng lẽ đi theo phía
sau, một cơn lốc cuộn tới, Ngọc Đường Xuân không chú ý, chiếc khăn hoa quàng
cổ đã bị ngọn gió cuốn phăng treo trên ngọn cây cao.
Chiếc khăn quàng cổ này là của Dương Lăng đích thân tặng cho nàng lúc từ
Giang Nam trở về, Ngọc Đường Xuân nào nỡ vứt bỏ, liền vội chạy đến bên gốc cây,
ngước nhìn ngọn cây cao đến mấy trượng, giậm chân kêu:
- Tuyết Nhi, mau đi tìm người mang thang đến đi.
Ngũ Hán Siêu ngửa đầu nhìn thân cây, nói:
- Thang cũng không bắt tới ngọn đâu, xin phu nhân hãy tránh sang bên, kẻ hèn
sẽ giúp người lấy xuống.
Ngọc Đường Xuân nhấc váy lùi lại vài bước, đứng cùng Tuyết Lý Mai kinh
ngạc nhìn hắn. Ngũ Hán Siêu hít sâu một hơi, găm kiếm vào trong tuyết, nhẹ nhàng
búng người tới trước vài bước rồi phóng người nhảy lên trượng hai trượng ba, một
chân điểm nhẹ chính xác lên một cành cây, khóm tuyết rơi lả tả, hắn mượn thế lạiphóng lên thêm hơn trượng, liên tục hai lần, vươn một tay với lấy chiếc khăn, rồi
vặn lưng trên không trung, nhẹ nhàng sà xuống như một con diều hâu.
Nội thương của hắn chưa khỏi hẳn, chỗ bị thương trên ngực cũng chưa lành, cú
nhảy này không dám dốc toàn lực, lúc tiếp đất mặt hơi ửng đỏ. Hắn ho khẽ vài tiếng
rồi mới đưa khăn qua, nói:
- Phu nhân, khăn của người đây.
Ngọc Đường Xuân cầm lấy khăn, thán phục:
- Thật lợi hại, con người có thể nhảy cao như vậy sao?
Ngũ Hán Siêu mỉm cười đáp:
- Chỉ là chút tài mọn, khiến phu nhân chê cười rồi. Dương đại nhân là tổng đốc
nội xưởng, dưới tay tàng long ngoạ hổ, cao thủ như mây, những kẻ tài giỏi hơn xa
tại hạ nhất định đều tề tụ dưới trướng.
Tuyết Lý Mai quả không biết dưới trướng phu quân có những người nào, nhưng
dẫu sao trước mặt người ngoài quyết không thể lộ dốt cho tướng công được, thế là
nàng cười khẽ một tiếng, tinh nghịch nói:
- Xem như ngươi thức thời, dưới trướng lão gia chúng ta quả thực cao thủ như
mây, lúc bắt phản loạn Đông xưởng, năm nghìn đấu với tám nghìn mà chỉ bị thương
chưa tới bốn chục.
Ngũ Hán Siêu thấy vị tiểu phu nhân này hãy còn ấu trĩ, dễ đối phó hơn vị đứng
cạnh bên, bèn thừa cơ dò hỏi:
- Tại hạ tạm trú ở Dương phủ, song lại không biết hai vị phu nhân, cho nên vừa
nãy chưa chào hỏi, thật sự thất lễ, không biết nên xưng hô thế nào?
Tuyết Lý Mai và Ngọc Đường Xuân hơi sững người. Thiếp thất ở các hộ gia
đình lớn bình thường đương nhiên sẽ phân làm 'nhị phu nhân', 'tam phu nhân'. Hai
người được gả vào cùng lúc, Dương Lăng lại không phân biệt đối xử với bọn họ.Ngọc Đường Xuân thoáng trù trừ, khi nãy thấy Hàn Ấu Nương đối đãi hết sức
kính lễ với hắn, nàng cũng không dám đánh mất lễ nghi, bèn điềm đạm đáp:
- Công tử chớ nên khách khí, trong phủ vẫn luôn gọi ta là Ngọc phu nhân, muội
ấy là Tuyết phu nhân.
Ngũ Hán Siêu lại thi lễ hỏi tiếp:
- Ra mắt Ngọc phu nhân, Tuyết phu nhân. Ờm... vị cô nương họ Cao giúp kẻ
hèn chẩn bệnh trị thương nọ cũng là Dương phu nhân sao? Kẻ hèn không tiện hỏi
thẳng trước mặt, lại sợ xưng hô không đúng lễ phép.
Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đưa mắt nhìn nhau, bất tri bất giác lại đột
nhiên nhớ đến bức tranh xuân cung khiêu khích nọ, vẻ mặt lập tức có phần ngượng
ngập. Quan hệ của hai người bọn họ đã phát triển đến tình trạng như vậy mà vẫn
không thấy lão gia có vẻ gì là sốt ruột, chẳng lẽ vì cảm thấy trong một năm mà nạp
ba thiếp vào nhà là chuyện khiến người chê cười, nên muốn lần lữa sang năm sao?
Ngọc Đường Xuân do dự đáp:
- Cao cô nương là... thái y ngự tứ của Dương phủ, cũng không phải là nội quyến
nhà họ Dương.
Ngũ Hán Siêu vừa nghe liền cả mừng. Vẻ mừng rỡ vừa thoáng hiện bên khóe
chân mày, Tuyết Lý Mai đã cười hì hì như một chú chim khách bồi thêm một câu:
- Nếu công tử gọi tỷ ấy là Dương phu nhân thì tỷ ấy cũng sẽ không nổi giận
đâu. Hiện tại chưa phải, nhưng qua mấy tháng nữa thì nhất định sẽ phải.
Chú thích:
(1) điều hoà hơi thở
(2) dốt chữ thì giỏi võ
(3) đường huynh, đường đệ là anh/em con bác bên nội; biểu huynh/đệ làanh/em con cậu bên ngoại
(4) thím
(5) nữ chủ nhân
(6) nguyên văn 'Tướng quân ngạch hoành kham tẩu mã, tể tướng đỗ nội năng
xanh thuyền' nghĩa là trán tướng quân có thể phi ngựa, bụng thừa tướng có thể chèo
thuyền, ý khuyên con người nên rộng lượng và khoáng đạt trong cách đối nhân xử
thế.
(7) chỉ danh tướng Nhạc Phi thời TốngNGƯỢC VỀ THỜI MINH
Nguyệt Quan
www.dtv-ebook.com
Chương 171 Ngầm Nổi Sát Khí
Hàn Ấu Nương đưa mắt trông theo kiệu của Âu Dương phu nhân khuất sau
hàng rào bụi cây, nàng đang định cùng Cao Văn Tâm trở vào trong thì phía sau
hàng rào đã xuất hiện hai con tuấn mã một trắng, một đỏ phóng nhanh đến.
Đường mòn không rộng mấy, có lẽ vì muốn tránh va phải nương tử nhà họ
Nghiêm nên cặp tuấn mã phóng vội lên ụ tuyết đọng ven đường. Trước mặt con
đường nhỏ là một dòng suối hẹp quanh co đã đóng băng, chỉ thấy kỵ sĩ trên ngựa
ghìm cương, nhổm người, hai thớt kiện mã đã chồm lên, xoay thân gần chín mươi
độ bay vòng sang.
Lúc xưa tại Kê Minh, Hàn Ấu Nương đã từng gặp Mã Liên Nhi cũng là kỵ sĩ
cao cường như thế. Lúc này thấy vậy, hai mắt nàng mở to. Người trên bạch mã là
một cô gái xinh đẹp, thân hình tuyệt mỹ, tóc mai đen nhánh, mặt phấn cằm xinh.
Cưỡi trên con ngựa đỏ bên cạnh là một tráng niên khôi ngô mặc áo vàng.
Cao Văn Tâm nói nhỏ với Hàn Ấu Nương:
- Muội muội, đó là khách của nhà mình.
Hàn Ấu Nương vừa đáp vâng, hai con ngựa đã phi đến trước mặt. Người đàn
ông trên ngựa cười ha ha mở lời:
- Cao cô nương, lại gặp mặt rồi!
Nói xong không cần chống lên yên ngựa, hắn lập tức đánh chéo chân nhảy ngay
xuống đất, thân thủ rất mạnh mẽ.
Cô gái áo đỏ nhoẻn cười, vịn yên ngựa rồi cũng nhẹ nhàng nhảy xuống đất, tiến
lên hai bước chắp tay cười chào:- Cao thần y! Vợ chồng chúng tôi đặc biệt đến cảm tạ ơn Cao thần y và Dương
đại nhân đã ra tay cứu mạng.
Cao Văn Tâm vội đáp:
- Vị này chính là Dương phu nhân.
Vợ chồng Dương Hổ nghe vậy vội cùng song song chắp tay thi lễ. Hàn Ấu
Nương đã nghe sơ qua chuyện của bọn họ, từ khi vào kinh tới nay nàng chỉ gặp
người trong quan trường nên cặp vợ chồng hào sảng này rất hợp tính với nàng. Hàn
Ấu Nương vội vui vẻ tiến lên trước nghênh đón, nói:
- Dương đại ca, Dương phu nhân, tướng công nhà ta làm công chuyện hãy còn
chưa về. Ấu nương đã sớm nghe đến đại danh hai vị. Mau mời vào bên trong.
Vợ chồng Dương Hổ không ngờ một vị cáo mệnh phu nhân lại nói chuyện cởi
mở như thế, bên cạnh cảm giác bất ngờ lại có nhiều phần thân thiết. Bốn người vừa
vào đến viện đúng lúc Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đến chào đón, đi theo
phía sau với vẻ mặt vô cùng đau khổ đích thị là Ngũ Hán Siêu.
Suốt dọc đường Dương Hổ mang đám người Dương Tuyền, Ngũ Hán Siêu vào
kinh, Ngũ Hán Siêu đã khi mê khi tỉnh nên ũng coi như quen biết nhau. Vừa thấy
hắn, Dương Hổ liền phóng tới nhằm bả vai đối phương đấm một quyền, vừa ha ha
cười nói:
- Ngũ lão đệ, ngươi đã khỏe chưa?
Hắn luyện công phu ngoại môn, một đôi thiết chưởng có thể đánh tan bia, vỡ
đá. Quyền này xuất lực rất nhiều, nhưng Ngũ Hán Siêu phản ứng cực nhanh, quyền
phong vừa tới sát, thân hình hắn liền hơi rùn xuống, bả vai hơi hạ thấp. Động tác
này ngay lập tức đã tước mất quá nửa lực đấm của Dương Hổ.
Dương Hổ chỉ cảm thấy quyền đánh vào không khí, giống như đánh trúng một
tấm vải mùng treo trên không trung, không hề có lực phản chấn. Đương lúc hắn
ngẩn ngơ thì một luồng kình mềm dịu bắn ra, cú đấm đã sượt bả vai Ngũ Hán Siêu.Ngũ Hán Siêu vẫn đứng tại chỗ như không có chuyện gì, chỉ cười khổ nói:
- Dương huynh nhẹ tay một tí đi, huynh đệ còn chưa khỏe hẳn đâu.
Thôi Oanh Nhi chưa từng cùng yêu đạo Lý Phúc Đạt chạm mặt, nhưng biết lão
có ba con trai tên Nhân Từ, Đại Nghĩa, Đại Lễ. Ba người này hiện vẫn chỉ là thanh
niên xấp xỉ đôi mươi. Năm trước ở Bá Châu, Thôi Oanh Nhi đã giao thủ cùng Lý
Đại Nghĩa, hai người ngang tài ngang sức.
Thôi Oanh Nhi rất tự tin vào bản thân, nàng không tin gã thư sinh trước mặt này
có thể đánh bị thương cha của Lý Đại Nghĩa, cho nên trước khi đến đây đã bày mưu
đặt kế để trượng phu thăm dò võ công của hắn nông sâu thế nào. Có câu kẻ thạo
nghề chỉ cần vừa ra tay, liền biết tài năng như thế nào. Vừa rồi thử Ngũ Hán Siêu
một chiêu, Thôi Oanh Nhi đã nhìn ra võ nghệ của thư sinh này quả thật tuyệt vời.
Dù là chính mình cũng chưa chắc là đối thủ của hắn.
Thôi Oanh Nhi xoay tròn đôi mắt xinh đẹp, liếc Dương Hổ, sẵng giọng:
- Tay chân lúc nào cũng vụng về, vị Ngũ huynh đệ này vết thương chưa lành,
chàng đừng làm cho người ta bị nặng thêm.
Nói xong nàng cười khanh khách nghênh đón Tuyết Lý Mai và Ngọc Đường
Xuân, mỗi tay dắt một cô, khen:
- Dương phu nhân đoan trang hào phóng, hai vị muội muội cũng là nhân gian
tuyệt sắc, khiến tỷ tỷ thấy mà rất hâm mộ đấy.
Ngọc Đường Xuân mặt như trăng rằm, mắt như làn thu thủy, mắt ngọc mày
ngài, tự có nét phong lưu. Bởi vì ngày mai chính là hai mươi ba tháng chạp, nên tất
cả cùng quét dọn nhà cửa cúng ông táo. Đây là ngày tết chính thức đầu tiên sau khi
Dương Lăng thành lập gia đình. Bởi Ấu Nương rất quan tâm đến ngày này, cả phủ
trên dưới đều vô cùng coi trọng.
Ngọc Đường Xuân mặc chiếc váy dài xếp nếp màu hồng mặc trong dịp lễ hội,
bên ngoài khoác áo chẽn màu xanh nhạt, trên mái tóc mây cài một cây trâm bạchngọc, tư thế yểu điệu thanh tú, eo thon dịu dàng vừa một nắm tay. Vẻ yêu kiều của
nàng đúng là mỹ lệ nhất trong chúng nữ.
Tuyết Lý Mai mặc một bộ áo khoác tơ tằm màu lục dệt kim tuyến, vận một cái
váy gấm kết hoa vàng nhạt, miệng anh đào nhỏ nhắn, răng trắng môi đỏ, mặc dù
trông hơi xinh xắn ngây thơ, nhưng cũng là tiểu mỹ nhân linh động hoạt bát.
Tuy hai cô chưa biết thân phận của Hồng nương tử nhưng thấy Thôi Oanh Nhi
cũng mắt hạnh hàm đào, xinh đẹp như ngọn lửa nóng mà lại không hề tiếc lời ca
ngợi hai cô như thế nên không khỏi mở cờ trong bụng, lật đật mỉm cười chào nàng.
Những cô gái này tụm lại với nhau. Cô này khen cô kia có kiểu tóc kết rất đẹp,
cô kia khen lại cô này có bộ quần áo phối hợp rất duyên, ... chuyện nhà chuyện
xóm vui vẻ trò chuyện không thôi, vứt Dương Hổ và Ngũ Hán Siêu qua một bên.
Hai người nhìn nhau cười khổ, đành phải chậm rãi bước theo sau cùng bước vào
phòng chính.
Cao quản gia thấy khách đến nhà đã sớm dặn dò nữ nô tì bưng lên trà thơm, hạt
dưa, mọi người liền ở phòng khách nói chuyện phiếm. Đang lúc nói chuyện, ngoài
cửa chợt vang lên tiếng ngựa hí, chỉ trong chốc lát Dương Lăng khoác chiếc áo
khoác dài dẫn hai phiên tử đi huỳnh huỵch vào trong viện, từ xa đã lớn tiếng la lên:
- Quản gia! Thành cô nương có đang ở nhà không?
Cao quản gia vội vàng đẩy cửa ra ngoài đón, nhỏ giọng thưa:
- Lão gia! Có khách đến viếng phủ, phu nhân đang tiếp khách đấy.
Dương Lăng hơi giật mình, hỏi:
- Ai tới vậy?
Đang khi hỏi chuyện, y vừa đưa mắt lên đã thấy Hàn Ấu Nương và vợ chồng
Dương Hổ nghe tiếng đã ra tới cửa đón. Dương Lăng vội vàng thu lại sắc mặt vô
cùng lo lắng của mình, thay bằng bộ mặt tươi cười nói:- Hóa ra là Dương huynh, Dương phu nhân! Đã không nghênh đón sớm rồi!
Tuyết Lý Mai lén cười khúc khích, thầm thì vào tai Ngọc Đường Xuân:
- Vị này là Dương phu nhân, vị kia cũng là Dương phu nhân. Nhắm mắt lại
nghe, còn tưởng rằng đang gọi phu nhân của mình .
Ngọc Đường Xuân nghe xong cũng nhoẻn miệng cười, nàng sợ bị người nghe
thấy nên lặng lẽ bấm cô em gái nghịch ngợm này. Tuyết Lý Mai đang cười trộm,
chợt cảm thấy trên mông bị chích nhẹ vội quay đầu lại nhìn, nhưng chẳng phát hiện
được gì nên nàng hơi kinh ngạc.
Trong khi đó, Dương Hổ và Ngũ Hán Siêu lại đều thấy rõ động tác của Thôi
Oanh Nhi. Nàng không hề quay đầu lại, chỉ cung tay búng ra, một viên đá nhỏ lập
tức bắn về phía sau, lượn một vòng cung chính xác đánh trúng vào mông Tuyết Lý
Mai. Hai người cùng liếc mắt nhìn nhau, lại cùng thầm hiểu trong lòng, không cần
nói gì cũng không quay đầu lại.
Dương Lăng vừa từ trong cung trở về. Mới đến cổng thôn y gặp quản gia của
Cao viên ngoại - một trong Lục Đại địa chủ của bảy tòa hoàng thôn trang bản địa,
Dương Lăng liền xuống ngựa bắt chuyện với lão.
Y không muốn quấy nhiễu dân chúng. Thực tế cho dù lấy quyền thế của y muốn
cưỡng đoạt đất đai của những địa chủ thân hào nông thôn này cũng chẳng thể được.
Nhưng mà, sau lễ cúng ông Táo chính là lập xuân. Y muốn ở gieo trồng rộng rãi
loại giống lương thực mới lân cận kinh thành, nhằm sản xuất đại trà giống lương
thực này, đào tạo một lứa gia phu hiểu rõ phương cách thu hoạch canh tác mới, làm
cho trăm quan trong triều cúi đầu với sự thật trước mắt. Nhưng mà trong tay y lại
không có đủ đất đai nên tất cả sẽ chỉ là nói suông.
Dương Lăng thử dò hỏi vị lão quản gia này về khả năng thuê hoặc mua đất đai
của Cao viên ngoại, y không thể ngờ lão quản gia kia nghe xong lại tỏ vẻ kinh ngạc
khó hiểu. Từ miệng lão, Dương Lăng mới biết được, ngoài Lý Kế Mạnh ra, bây giờ
đất đai sáu vị viên ngoại xung quanh đều thuộc quyền sở hữu của Thành Khởi Vận.
Chuyện này là do vị công tử họ Thành và Cao lão gia bàn bạc. Ngay cả lão quản giacũng không biết rõ tình hình.
Dương Lăng và Thành Khởi Vận sống chung với nhau hơn hai tháng. Y sớm
biết vị Thành cô nương này tùy hứng kiêu ngạo, làm việc chỉ theo sở thích, không
màng chính tà. Tuổi thực của Dương Lăng còn lớn hơn của Thành Khởi Vận hai
tuổi, sao y lại nhìn không ra tâm tư ton hót muốn lấy lòng mình của cô nàng?
Bình thường y chỉ là giả ngu giả dại thôi, bây giờ nghe xong tin tức này y
không biết Thành Khởi Vận dùng thủ đoạn lừa gạt như thế nào lại khiến cho sáu vị
thân hào này ngoan ngoãn giao đất đai, hơn nữa cho tới nay vẫn không dám loan
tin, cho nên y vội vàng chạy về phủ muốn hỏi cho rõ.
Y không ngờ vợ chồng Dương Hổ lại đến thăm viếng vào lúc này, đành phải
bình tâm tiếp đãi hai vị khách trước đã. Nam chủ nhân trở về nhà, đám phụ nữ cũng
không tiện ở bên cạnh, Hàn Ấu Nương bồi tiếp Thôi Oanh Nhi, một đám chị em líu
ríu đi thẳng vào nhà sau. Dương Lăng cùng Dương Hổ, Ngũ Hán Siêu ở phòng
chính nói chuyện phiếm.
Ba người chuyện vãn một hồi, dần dần kéo sang chuyện võ học. Ngũ Hán Siêu
và Dương Hổ một mặt vừa kể lại kinh nghiệm ngày ấy cùng lão đạo sĩ động thủ so
chiêu, một mặt hoa tay múa chân diễn tả. Trò chuyện tới lúc hào hứng, hai người
liền muốn so tài một phen.
Trước cửa có cây cối vườn hoa nên không tiện động thủ. Dương Lăng cũng rất
muốn xem thử một lần những võ lâm cao thủ thật sự này đánh nhau ra sao, liền
đứng lên cười nói:
- Hai vị! Sân sau của tại hạ khoáng đãng rộng rãi, các vị đã muốn so tài một
phen hay là chúng ta hãy đi đến đó đi. Ha ha, có điều vết thương của hai vị vừa
lành, chúng ta cần phải đến điểm là dừng nhé.
Ba người nói cười đi vào hậu viện, đi thẳng tới sân vườn phía sau. Dương Lăng
thấy bên trái chính là thư phòng nơi Thành Khởi Vận ở tạm, liền bảo:
- Hai vị! phu nhân tại hạ cũng là người thích võ. Ha ha, để ta gọi các nàng cùngđến mở rộng tầm mắt. Quản gia, ông đưa hai vị quý khách đến vườn sau trước đi.
Dương Lăng cáo lỗi xong, vội rẽ vào nội thư phòng. Vừa vén mành cửa, y đã
thấy Thành Khởi Vận đang ngồi ngay ngắn trên ghế tựa, nghiêng nghiêng vầng trán
xinh đẹp, bàn tay trắng nõn đang cầm cây bút lông sói viết gì đó trên tờ giấy Tiết
Đào(1) màu lam nhạt. Thấy Dương Lăng đi vào, Thành Khởi Vận hơi kinh ngạc,
xen lẫn vui mừng. Nàng cười thánh thót như suối reo, đặt bút xuống, tha thướt đứng
dậy bước vòng qua thư án, chào:
- Đại nhân, sao hôm nay ngài nhàn rỗi đến thăm ty chức vậy?
Dương Lăng thấy nàng mặc chiếc váy trong nhà màu xanh nhạt, ngoài choàng
áo chẽn cùng màu, toàn thân trắng trong thuần khiết, xinh đẹp nho nhã. Hơn nữa
chiếc váy của nàng được may cắt khéo léo, áo chẽn nhẹ nhàng mềm mại càng tôn
lên những đường cong nhấp nhô mềm mại, thân thể uyển chuyển vô cùng.
Dương Lăng đột nhiên nhớ tới ngày nàng mới tới Dương phủ, eo thon mang
vòng chuông vàng nhỏ, xinh đẹp với làn da như nước, xương mềm như rắn. Cơn
giận hơi hơi hạ xuống một ít, y bình tĩnh chậm rãi bước thong thả tới ngồi vào ghế
tựa chất vấn:
- Ta hỏi cô, hiện nay có tám chín phần mười đất đai bảy tòa hoàng trang đều đã
đứng tên cô phải không? Sao ta không biết gì cả?
Thành Khởi Vận ngạc nhiên, hai mắt mở to, sau đó cười khúc khích, ngọt ngào
đáp:
- Đại nhân việc công bận rộn quá đi, chút chuyện nhỏ này tự nhiên có ty chức
cống hiến sức lực rồi. Ngài biết được cũng tốt, nếu không thì hôm nay ty chức cũng
dự định báo cho ngài biết. Qua Tết nên sớm chuẩn bị đầy đủ, trâu cày này, các loại
lương thực này, nông cụ này, còn có việc động viên tá điền nữa. Việc cần chuẩn bị
cũng không ít đâu.
Dương Lăng nhíu mày bảo:- Không phải ta hỏi việc này. Ta muốn hỏi cô làm thế nào mà có thể khiến cho
những địa chủ kia chịu nhượng lại đất đai?
Thành Khởi Vận tỏ vẻ ngoan ngoãn, khóe môi anh đào lại giống như lấp ló ý
cười. Nàng trộm liếc Dương Lăng, cười xinh xắn đáp:
- Đại nhân đoán không ra à? Hì hì, có Nội xưởng dùng làm chiêu bài chữ vàng
ấy, ty chức.......
Dương Lăng nghe tới đây thì lòng trầm hẳn xuống, nhịn không được vỗ bàn,
tức giận gắt:
- Quả nhiên không ngoài sở liệu của ta, cô...... Cô dùng Nội xưởng đe dọa
cưỡng bức bọn họ. Cô định biến Nội xưởng thành ra như Cẩm y vệ và Đông xưởng
hay sao?
Y tức giận đến xanh mặt, phất tay áo đứng lên nói:
- May mà bản quan biết sớm, bằng không sau vài ngày các Ngự Sử ngôn quan
sẽ ào ào thượng tấu buộc tội bản quan. Bản quan chưởng quản hoàng trang chưa
đầy một năm đã chiếm cứ hết sạch đất đai, tội danh này làm thế nào thoát khỏi? Lập
tức mang ruộng đất trả hết cho ta. Đúng là việc tốt không đủ, việc xấu lại có thừa!
Thành Khởi Vận chết sững, hai tay trong tay áo run lên nhè nhẹ, ống tay áo
đang cuộn cũng rũ xuống, cặp mắt long lanh chơm chớp, một làn hơi nước nhanh
chóng trào lên. Nàng bước từng bước đến bên cạnh bàn, nhìn chăm chú Dương
Lăng rất lâu rồi bỗng nhiên gật đầu lộ vẻ sầu thảm cười nói:
- Hay lắm! Thì ra đại nhân xem ta là loại người như vậy.
Nàng đưa một tay đang run lẩy bẩy nhón lên một xấp giấy từ trên bàn, chậm rãi
đưa đến trước mặt Dương Lăng. Năm ngón tay nàng xòe rộng, xấp giấy rơi xuống
một cách buồn bã.
Dương Lăng ngạc nhiên nhặt xấp giấy lên. Tờ nằm ở trên cùng rõ ràng là bản
khế ước Cao viên ngoại bán ruộng đất, có chữ kí và dấu lăn tay của hai bên, lại cóbảo trưởng, hương thân làm chứng. Văn tự ghi rõ Cao viên ngoại đem tám trăm ba
mươi mẫu đất liệt kê bên dưới bán cho nàng lấy chín nghìn lượng, lập ngày mồng
một tháng chạp năm Hoằng Trị thứ mười tám.
Giá cả thế này rất là hợp lý, với lại so với giá thị trường thì còn cao hơn một
chút. Nhưng Dương Lăng cũng biết rằng cho dù giá cả cao gấp vài lần đi chăng
nữa, trừ phi cuộc sống khó khăn không còn cách nào xoay xở chứ những hương
thân địa chủ này cũng dứt khoát không bán điền sản. Y lật qua một tấm khác, vừa
liếc qua không tránh khỏi sửng sốt. Tờ văn tự này cũng có đôi dấu tay như tấm
trước, nhưng bản này lại là khế ước Thành Khởi Vận bán đất.
Bản khế ước này ghi rõ Thành Khởi Vận bán tám trăm ba chục mẫu đất cho
Cao viên ngoại lấy bảy ngàn năm trăm lượng. Dương Lăng nhìn mà chẳng hiểu ra
sao, mãi tới lúc nhìn thấy ngày ký giấy là ngày một tháng chạp Chính Đức nguyên
niên, y mới chợt bừng hiểu.
Thì ra Thành Khởi Vận lấy lời to dẫn dụ bọn họ, ký cho mấy vị đại địa chủ này
tấm "chi phiếu" nhận tiền ở tương lai. Những ruộng đồng này một năm thu lãi ròng
nhiều nhất là một ngàn lượng, bây giờ không cần bận tâm chút nào mà cho dù hạn
hán hay bão lụt đi chăng nữa họ vẫn có thể cầm được một ngàn năm trăm lượng bạc
trắng. Có khế ước trong tay, sang năm lại có thể thu đất đai trở lại. Loại chuyện tốt
như thế này chỉ có đồ ngốc mới không đồng ý.
Dương Lăng vội vàng đứng lên, nhìn thấy nàng đang bành miệng, uất ức giống
như một đứa bé, trong lòng vừa áy náy, vừa hơi buồn cười. Y dừng chân một chốc,
thở dài than:
- Cô...... Sao cô không sớm nói cho ta biết, cần gì phải giấu giấu giếm giếm.
Thành Khởi Vận ấm ức:
- Người ta nghĩ được biện pháp này, nhưng người ta cũng không biết bọn họ sẽ
đồng ý hay không, làm sao mà có thể nói trước cho đại nhân biết chứ? Nếu như
chính mình không làm địa chủ, những nông dân tá điền kia sẽ không an tâm canh
tác. Chính người ta tự móc bạc ra làm việc cho đại nhân... Từ khi đến làm môn hạcủa đại nhân, sức cũng vì đại nhân mà dốc, mạng cũng vì đại nhân mà bán. Tuy đã
từng có lần lầm lỗi với đại nhân, nhưng làm sao đại nhân lại cho rằng người ta tệ
hại như vậy?
Thành Khởi Vận càng nói càng thương tâm, hai hàng nước mắt trong vắt dọc
theo gò má trơn bóng của nàng từng giọt rơi xuống. Từng giọt lách tách đập vào
nửa trang giấy Tiết Đào, ngay lập tức thấm nhòe nét mực.
Dương Lăng chỉ cảm thấy toàn thân nóng bừng, áy náy nói:
- Này...... Này...... Phải phải phải, là ta sai rồi, ta nhận lỗi với cô. Ái chà, làm
sao cô vừa gặp ta là khóc thế này!
Thành Khởi Vận nói tiếp:
- Còn không phải chính đại nhân hại người ta sao?
Nhưng lời này vừa ra miệng, cảm thấy ý nghĩa hơi mập mờ, má nàng không
khỏi nóng lên.
Dương Lăng không dám nhìn bộ dạng đau lòng đáng thương của nàng, ánh mắt
cụp xuống. Y nhìn thấy những chữ trên tấm giấy hoa tiên kia có phần quen mắt,
nhịn không được kéo nó lại gần. Nước mắt đã làm ướt nhòe vài chữ, hai hàng bên
trái còn thấy rõ, dòng chữ nhỏ nhắn xinh đẹp viết chính là "Thiếp tựa mù giăng,
chàng tựa trăng. Trăng lặn mù tan đọng sương lan. Cảm lòng chàng..."
Dương Lăng chỉ vừa đọc đến đấy thì đã bị Thành Khởi Vận đoạt tấm giấy lại,
mặt trái xoan đỏ bừng. Nàng sẵng giọng:
- Chưa thấy đại nhân nào lại như vậy, ai đời... Ai lại xem đồ của người ta một
cách tùy tiện như thế!
Tuy nàng lớn như vậy nhưng vẫn là lần đầu động chân tình, lại bị Dương Lăng
thấy được, nhất thời không kiềm được xấu hổ, vẻ mặt xinh đẹp đỏ như ráng chiều,
còn muốn mạnh miệng nói bướng. Ngược lại Dương Lăng ước rằng chính mình
chưa đọc được nó. Y đang xấu hổ không biết nói cái gì cho phải thì ngoài phòng cótiếng bước chân vang lên, giọng Hàn Ấu Nương vọng lớn:
- Tướng công! Thành cô nương!
Dương Lăng sợ nàng thấy Thành Khởi Vận rơi lệ, vội vàng quay lại bước ra
ngoài đón. Y thấy Hàn Ấu Nương đang dẫn Cao Văn Tâm đi tới, vui vẻ nói:
- Tướng công, chàng đang ở đây à. Dương đại ca và Ngũ công tử muốn tỷ thí
võ nghệ, Thành cô nương có muốn xem qua không?
Nàng đến gần kéo tay Dương Lăng, nhỏ giọng nói:
- Tướng công, võ công Ngũ công tử rất cao. Chàng nhận chức Tổng đốc Nội
xưởng, thủ hạ đều là hảo hán sử thương múa bổng. Lát nữa chàng tìm cơ hội bái
huynh ấy làm thầy học một chút đi, vừa có thể phòng thân lại có thể khỏe người.
Dương Lăng cười nói:
- Nàng thật là.... Có món tốt nào cũng đều muốn đắp vào người tướng công. Đa
số người trong võ lâm đều giữ kín tay nghề, xem như châu báu. Đã mở miệng mà
người ta không dạy chẳng phải là mất mặt sao?
Từ sau sau lưng y một âm thanh khẽ cười vang lên:
- Đại nhân, phải là Võ Đang ước gì có được người đệ tử như ngài mới đúng. Võ
Đang chính là từ đường của hoàng gia Đại Minh, chưởng giáo chân nhân nhận chức
lục phẩm tại triều đình. Trước nay luôn do ti Lễ Giám phụ trách việc quản lý, ước
thúc tất cả công việc của Long Hổ Sơn ở Giang Tây, núi Võ Đang ở Hồ Bắc, am
Ngọc Hoàng ở Sơn Đông. Nếu như ngài mở miệng, còn sợ chưởng giáo Võ Đang
không liều mạng nịnh bợ sao?
Thành Khởi Vận nói xong khoan thai bước đến, thu lại tay chắp sau lưng dịu
dàng thi lễ với Hàn Ấu Nương, chào hỏi:
- Ra mắt phu nhân! Mới vừa rồi ty chức cùng đại nhân thương nghị việc đổi
mới cây trồng vào đầu xuân, làm trễ nải nhã hứng của mọi người rồi.Dương Lăng đưa mắt nhìn.Vừa rồi hai mắt Thành Khởi Vận còn đẫm lệ mơ
màng, nay mà chỉ trong giây lát hai má nàng lại trắng suốt không tỳ vết, rất mịn
màng, hai mắt trong vắt như suối nước mùa thu. Dáng cười trong trẻo của nàng nào
còn mang một chút dấu vết gì là đã khóc. Công phu trấn tĩnh của nàng cũng khiến
cho Dương Lăng hoài nghi không biết mới vừa rồi mình có hoa mắt nhìn lầm hay
không.
Bốn người trở lại trong viện. Dương Hổ, Ngũ Hán Siêu, Hồng nương tử Thôi
Oanh Nhi và Ngọc nhi, Tuyết nhi cùng với người nhà đều đang đợi trong viện. Cả
đoàn người cùng kéo vào sân sau xem hai người tỷ thí võ nghệ.
Dương Lăng mong thấy được cảnh phóng qua, vọt lại phi phàm như trong phim
ảnh, không ngờ khi thật sự giao thủ lại cực kì nhàm chán. Động tác ra chiêu công
thủ căn bản không có gì đẹp đẽ, hai người càng rất ít khi nhảy vọt khỏi mặt đất.
Dương Hổ dáng người cao lớn, ngoại gia công phu xuất thần nhập hóa, quyền cước
uy vũ phát tiếng gió vùn vụt, Dương Lăng đứng ngoài nhìn thấy còn có chút hào
hứng. Thế nhưng Ngũ Hán Siêu lại cứ như cọng bún, ẹo qua ẻo lại, Dương Lăng
nhìn một lát thì chán, không thấy hứng thú tí nào.
Hàn Ấu Nương và Thôi Oanh Nhi thì lại nhìn chăm chú, không hề chớp mắt.
Hàn Ấu Nương nhìn chằm chằm từng động tác quyền cước của Dương Hổ, môi
mấp máy ra vẻ nóng lòng muốn thử. Thôi Oanh Nhi cũng luyện quyền cước nội gia,
nên đặc biệt để ý từng chiêu từng thức do môn nhân của Võ Đang - Thái Sơn Bắc
Đẩu về công phu nội gia, xuất ra.
Trên sân khí thế chiến đấu ngất trời mà Dương Lăng hết ngó đông lại nhìn tây.
Y thấy từ bên trong hầm sưởi phương xa có người chui lên, vội rời khỏi đoàn người
hai bước, vẫy vẫy tay gọi người kia lại.
Ông già nọ là lão nông dân bản địa được thuê để coi sóc và học trồng trọt, thu
hoạch cây khoai tây, cây ngô... Lão đang cầm một sọt phân khô định mang đi ủ trở
về. Nhìn thấy Dương Lăng gọi, lão vội đặt giỏ xuống, hấp tấp chạy tới.
Dương Lăng cười hỏi:- Lão Lưu, hai ngày này bận rộn, ta không thu xếp được để vào hầm nhìn qua.
Những cây giống nuôi trồng thế nào rồi? Đừng để chúng bị sâu bệnh nhé.
Lão Lưu ha ha cười nói:
- Lão gia yên tâm. Chúng tôi đều hết sức cẩn thận chăm sóc những mầm cây
này như là chăm nom tiểu bảo bối trong nhà. Những cây ớt ngoại bang đã đỏ rồi,
theo như lời lão gia dặn dò, chúng tôi đã dời chúng đến chỗ có thể thấy ánh nắng
mặt trời. Ngoài ra, những cây cà chua cũng đã nở hoa rồi.
Dương Lăng nghe xong mừng rỡ ra mặt, lúc này phía sau lưng y vọng đến hai
tiếng trầm trồ khen ngợi trong trẻo. Dương Lăng quay đầu nhìn lại, thấy Dương Hổ
hơi đỏ mặt vì thẹn đang chắp tay nói gì đó với Ngũ Hán Siêu, sau đó hai người cầm
tay nhau trở lại. Xem ra Dương Hổ đã thua rồi.
Lúc này Hàn Ấu Nương mới phát hiện tướng công đã tránh sang một bên cùng
lão nông nói chuyện phiếm. Nàng bước đến vừa bực mình vừa buồn cười nói:
- Tướng công luôn miệng nói muốn tìm một danh sư học tập võ nghệ. Nay
Dương đại ca và Ngũ công tử đều là cao thủ đệ nhất đẳng, hai người xuất sắc như
vậy tỷ thí, chàng lại chạy sang cho khác.
Rõ là Hàn Ấu Nương cố ý nói cho Ngũ Hán Siêu nghe. Dương Lăng cười đáp:
- Đáng tiếc ta là một tay ngang, nhìn mãi một hồi lâu cũng nhìn không ra được
chút xíu gì, cho nên mới bỏ chạy đi chăm sóc hoa mầu của mình đấy. Ha ha ha......
Hồng Nương Tử ngạc nhiên hỏi:
- Hoa mầu? Hoa mầu ở đâu hả đại nhân...... Người có thân phận như vậy còn
bận tâm đến một ít thu hoạch hay sao?
Hàn Ấu Nương giải thích:
- Dương phu nhân! Tướng công ta tìm được mấy loại hoa mầu được đưa từ Tây
Dương về. Mấy cây khoai tây, khoai lang có sản lượng gấp vài lần hoa mầu đangđược trồng. Còn có một loại cây ngô, sinh sản rất nhanh, chống chịu được hạn hán,
đất đai cằn cỗi. Tướng công nói muốn đẩy mạnh việc gieo trồng rộng rãi, đến lúc đó
thiên hạ sẽ không còn nhiều dân chúng chết đói nữa.
Nói xong, nàng ái mộ nhìn Dương Lăng. Thôi Oanh Nhi cùng Dương Hổ ngạc
nhiên nhìn nhau. Dương Hổ bị quan phủ ức hiếp bóc lột, cuộc sống khó khăn mới
phẫn nộ mà gia nhập lục lâm. Thôi Oanh Nhi là do ông nội chịu đủ đau khổ do sưu
cao thuế nặng nên mang cả nhà dời vào rừng sâu, chiếm núi làm vua, trở thành lục
lâm đại đạo.
Có thể nói hai người hoàn toàn không có một chút thiện cảm gì với đám người
làm quan. Dương Lăng là quan lớn dường nào? Nếu như bảo y muốn mua danh
chuộc tiếng thì y chỉ cần cứu tế nạn dân một tí, xử lý vài tên tiểu lại tham ô thì hiệu
quả vừa trực tiếp lại rõ ràng, việc gì y phải dùng tới biện pháp tốn sức như thế?
Dương Lăng cười cười nói:
- Mấy ngày nay bận rộn việc chiến sự nơi biên ải, mãi không thể đi xem qua
những thứ cây trồng này, trong lòng Dương mỗ thật là có chút nhớ mong. Nếu như
thuận lợi, sang năm loại cao sản hoa mầu này có thể được quảng canh khắp Đại
Minh. Ba vị có muốn đi nhìn thử một chút hay không? Ha ha, xin mời!
Dương Lăng đưa cả bọn đến hầm sưởi, đem đủ loại cây giống ra mỗi thứ đều
giới thiệu cho bọn họ. Y cùng vị lão nông trở về từ Nam Dương kia kẻ tung người
hứng giảng giải kỹ càng cho bọn họ đặc điểm của từng loại hoa mầu này.
Dương Lăng biết vào thời kỳ này hoa mầu rất dễ hỏng: hạn hán, lũ lụt, sâu
bệnh... mọi thứ đều ảnh hưởng lớn đến thu hoạch. Nếu như mưa thuận gió hoà vất
vả lắm một năm một mẫu sản xuất được ba bốn trăm cân lương thực thì đã được
xem là ruộng hạng nhất rồi.
Mà cây khoai lang, khoai tây từ nam chí Bắc đều thích hợp, mỗi mẫu thu được
ít nhất hai ngàn cân; thậm chí các tỉnh phía nam có thể trồng một năm ba vụ. Cây
ngô không cần trồng trong ruộng tốt, sản lượng cũng hơn xa loại cây trồng hiện nay.
Nghĩ đến những loại hoa mầu này tương lai có thể cứu sống được vô số nạn dân,
Dương Lăng vuốt ve những cây giống tươi tốt kia, trong lòng cũng tràn đầy cảmgiác thành tựu.
Thôi Oanh Nhi nghe Dương Lăng từ tốn mô tả cảnh tượng thu hoạch tốt đẹp
kia, cặp mắt sáng ngời lặng lẽ nhìn chăm chú vào y, trong lòng tràn ngập tò mò:
viên quan này và các quan chức trong ấn tượng của nàng khác nhau rất lớn. Y chịu
vì dân chúng mà suy nghĩ, mọi kẻ đọc sách khác đều xem việc canh tác là việc thấp
hèn nhưng dường như y lại vô cùng thích thú việc đồng áng.
Đủ loại tin đồn có liên quan đến Dương Lăng đan chéo lẫn nhau trong đầu Thôi
Oanh Nhi. Y là sủng thần cao quý của thiên tử, là đốc chủ Nội xưởng máu lạnh ham
thích giết chóc, chỉ trong một đêm đã diệt sạch Đông xưởng, là thư sinh yêu vợ
nặng tình trọng nghĩa dám kháng thánh chỉ, là tướng quân oai phong lẫm liệt đánh
đại bại giặc Oa. Quả thực tất cả những điều trên không thể nào liên hệ đến vị công
tử không hề có quan uy đang mặt mày hớn hở kể chuyện hoa mầu trước mặt này.
Nàng nhìn hàng dãy các loại cây trồng chưa bao giờ thấy qua, nghĩ thầm:
- Người này thật sự có năng lực cứu thiên hạ dân chúng sao? Những hoa mầu
kỳ quái này có thể cứu được rất nhiều dân chúng khỏi đói khát bần cùng trong
những năm lũ lụt sao ?
Tuy nàng chưa từng đọc sách nhưng từ nhỏ đã trưởng thành ở bên trong ổ
cường đạo, nên rất thấu hiểu lòng người. Nàng nhìn ra được những điều Dương
Lăng nói chính là thật sự là cảm giác chân thật của y, nhưng nàng lại rất hoài nghi
tác dụng của những loại hoa mầu này.
Trong thiên hạ người giàu có thì bất nhân, người làm quan thì không trong sạch.
Cho dù khắp nơi đều thu hoạch lương thực dồi dào đi chăng nữa, không phải cũng
rơi vào tay những tên tham quan ô lại kia hay sao? Những người dân quê kia áo
cơm không có, đã bị quan phủ bắt buộc nuôi dưỡng ngựa công lại bị làm khó dễ
nhiều đường. Bao nhiêu dân chúng cửa nát nhà tan, y có thể cứu hết những người
cùng khổ như vậy hay sao?
Tuy nhiên... Thôi Oanh Nhi liếc mắt nhìn Dương Lăng, mỉm cười, thầm nghĩ:- Vị Dương công tử này là một người tốt, là một vị quan tốt. Đợi đến khi chúng
ta giết được tên cẩu hoàng đế, khởi binh đoạt được thiên hạ, chúng ta có thể cho y
làm một chức quan to.
Dương Hổ ở bên lại thầm kinh hãi. Hắn bây giờ đã tích góp được một số tài lực,
nhân lực tương đối rồi, chỉ còn đợi thời cơ vừa đến thì lập tức khởi binh tạo phản,
cướp lấy thiên hạ. Hắn tin tưởng vững chắc rằng chỉ cần hắn đăng đàn hô hào, chắc
chắn những dân chúng áo cơm không có, phải chịu đủ ức hiếp trăm bề sẽ vùng lên
hưởng ứng rầm rộ. Ít nhất ở vùng quê hương Bá Châu hắn đã có thể lôi kéo được
trên vạn người.
Nhưng hắn vốn là một viên hiệu úy nhỏ nhoi trong quân đội, cũng do đồn điền
bị quan tướng chiếm đoạt, cuộc sống quả thực không chịu xiết mới bỏ đi làm lục
lâm thảo khấu. Hắn biết rõ những dân chúng kia nếu có được một con đường thoát
chết, có thể ăn cơm no bụng thì sẽ rất khó lôi kéo. Bọn họ sẽ không đi theo mình
giành lấy chính quyền nữa.
Thật ra, lúc đầu nỗi căm hận của Dương Hổ đối với triều đình Đại Minh đơn
giản hơn rất nhiều. Hắn muốn lật đổ Đại Minh, xây dựng lại một chế độ quan phủ
thanh liêm yêu dân. Nhưng khi thế lực ngầm của hắn càng lúc càng lớn thì dã tâm
và tham lam cá nhân của hắn cũng dần dần bành trướng theo. Bây giờ hắn muốn tạo
phản, đa phần chính là để bản thân làm hoàng đế, ngồi ôm thiên hạ. Cái ý nghĩ tham
lam này đã dần dần thay thế nguyện vọng muốn tìm một đường sống cho dân chúng
thiên hạ khi trước.
- Không thể để cho y thành công!
Trong lòng Dương Hổ chợt nảy sát khí, ánh mắt sắc bén chĩa vào người Dương
Lăng. Hắn thầm nghĩ:
- Tên cẩu quan này, nhất định phải chết!"
Chú thích:
(1) Tiết Đào đời Đường là một danh kỹ đất Thục, hay làm những bài thơ ngắn,vì tiếc giấy nên cắt hẹp lại. Từ đấy, những tài tử trong Thục lấy thế làm tiện, cũng
cắt những tờ giấy nhỏ để viết thư, gọi là giấy Tiết Đào.NGƯỢC VỀ THỜI MINH
Nguyệt Quan
www.dtv-ebook.com
Chương 172 Bày Trận Đón Địch
Dương Lăng đang hào hứng chỉ vào cây cà chua non xanh mơn mởn, miêu tả
màu sắc và mùi vị quả chín của nó một cách sống động, khiến cho Tuyết Lý Mai và
Ngọc Đường Xuân thèm đến rỏ dãi, đám người Hàn Ấu Nương và Thôi Oanh Nhi
cũng lắng nghe hết sức say sưa.
Dù Thành Khởi Vận đang thong dong mân mê mấy dây khoai lang giống nhưng
nụ cười ác độc thoáng nhếch trên khóe môi và sát ý lóe lên trong mắt Dương Hổ
không qua được mắt nàng. Nàng khéo léo đến sát người Dương Lăng và cười nói:
- Đại nhân, phu nhân đang mang thai, nơi này lại nóng bức, hay là chúng ta trở
về nhé?
Dương Lăng nói:
- À, nhất thời nói hăng quá nên ta quên mất. Ha ha, đi thôi, chúng ta lên trên.
Y vừa ân cần dìu Ấu Nương đi vừa quay ra ngoài nói:
- Dương huynh và phu nhân là thủ lĩnh đoàn ngựa thồ, đi khắp đó đây, nhất
định sẽ còn có cơ hội trở lại kinh thành. Đợi đến mùa thu năm sau, khi hai vị trở lại
kinh sư sẽ có thể thấy một núi khoai lang, khoai tây và cả bông bắp ánh vàng rực rỡ
nữa. Rồi đến năm tới, những thứ này sẽ có thể được trồng trọt khắp Đại Minh.
Bá tánh thật khổ, nhưng thiên hạ Đại Minh rộng lớn như thế này, mấy ngàn vạn
lê dân bá tánh mong ước có được cơm no áo ấm, dẫu bất cứ kẻ nào cũng không thể
làm được trong một sớm một chiều. Những giống cây trồng này có sản lượng gấp
mấy lần so với các loại hoa màu hiện nay, chúng sẽ có thể cứu đói cho rất nhiều bá
tánh.Y nhớ đến việc Nội xưởng lợi dụng các cửa hàng ngựa xe gây dựng thanh thế
khắp thiên hạ, phát tán tin tức nói rằng triều đình có ý định giải trừ cấm biển, cho
phép bá tánh thông thương với bên ngoài; thấy vợ chồng Dương Phúc có năng lực
mua gạo cứu tế, thế lực đoàn ngựa thồ của hắn nhất định không nhỏ, cũng là kẻ
đáng để lung lạc, bèn nói:
- Hình như đoàn ngựa thồ của Dương huynh chuyên môn giúp đỡ các thương
nhân lớn vận chuyển hàng hóa muối gạo có phải không? Hiện tại có ít đại thần đang
chuẩn bị kiến nghị với triều đình giải trừ cẩm biến, dẹp yên lãnh hải, đến lúc đó
thông thương với hải ngoại, hàng hóa vận chuyển khắp đất Đại Minh, nước nhà
nhất định sẽ càng thêm phồn thịnh, việc làm ăn của Dương huynh cũng sẽ có thể
thu về vô số tiền tài.
Dương Hổ nghe vậy, sát ý trong lòng càng nặng thêm, nhưng hắn cũng không
ngu ngốc mà động thủ vào lúc này. Một mặt hắn ậm ừ cười đáp, mặt khác len lén
quan sát cảnh vật nơi hầm sưởi này. Ngũ Hán Siêu đứng bên cạnh nói:
- Hóa ra chuyện này không phải là nói đùa. Kẻ hèn sau khi hạ sơn đã không
ngừng nghe được tin tức loan truyền khắp nơi, xem ra Đại Minh cấm biển hơn trăm
năm, cuối cùng cũng sắp mở cửa lãnh hải rồi.
Bọn họ bước lên bậc tam cấp, Ngũ Hán Siêu lại nói:
- Đại nhân thân ở trong triều, tin tức đương nhiên linh thông hơn xa chúng tôi.
Có điều nghe khẩu khí của ngài, thì những đại nhân có lòng dâng tấu khuyên giải
triều đình mở lại lãnh hải đều muốn mở bến thông thương khắp nơi ngay sau khi
cấm biển được giải trừ ư?
Dương Lăng thấy lạ bèn hỏi lại y:
- Nếu như số kẻ phản đối không đông, đương nhiên sẽ làm luôn một thể. Như
vậy không tốt sao? Ngũ huynh có cao kiến gì chăng?
Ngũ Hán Siêu thoáng nghĩ ngợi rồi đáp:- Kẻ hèn ngu dốt, chỉ biết rằng dục tốc thì bất đạt. Nay cướp biển vẫn còn lộng
hành, muốn gỡ bỏ lệnh cấm biển, trước phải diệt trừ hải tặc. Thế nhưng cho dù chỉ
là đám sơn tặc chiếm núi xưng vua, muốn quét sạch ổ bọn chúng cũng không phải
là chuyện một sớm một chiều, huống chi là trên biển rộng mênh mông? Hơn nữa,
thủy quân Đại Minh cũng không giỏi hải chiến, cần phải huấn luyện ra một đơn vị
tinh binh mới được, mà chuyện đó lại không thể trù trừ.
Huống hồ Đại Minh ngày nay chỉ có một bến cảng dùng để tiếp đãi sứ thần
triều cống của các nước. Nếu như toàn bộ duyên hải được mở cửa trong một đêm,
nơi nơi vội vã thiết lập Bạc ty(1), không có quan giỏi hiểu việc trị biển trông coi,
không có sẵn điều lệ quy tắc, đám thân hào sĩ tộc hám lợi các nơi nhất định sẽ
nhúng tay vào ùn ùn. Lúc đó đạo đức quan lại sẽ càng thêm suy đồi, bá tánh chịu
khổ, thương nhân nước ngoài bỏ chạy. Quốc sách có hay cách mấy cũng sẽ thành
luật lệ tàn khốc hại dân mà thôi.
Kẻ hèn cho rằng, trị quốc như nấu món ngon, tuy đó là chuyện lợi cho dân
nhưng nếu mà thổi lửa to quá, món ngon mấy cũng sẽ bị cháy khét. Chi bằng tạm
thời mở vài ba bến cảng trước, như vậy triều đình cũng dễ giám thị hơn, đồng thời
xóa sạch được đám giặc cướp trên biển.
Đợi đến khi cướp biển không còn có thể gây nhiều nguy hại nữa, triều đình
cũng đã có kinh nghiệm thông thương bến biển, lại có ty thuế bản địa và bá tánh thu
hoạch lợi ích làm bằng chứng, các nơi nhất định sẽ hưởng ứng hết mình, khi ấy sẽ
có thể thừa thế xông lên, giải cấm toàn diện.
Nói xong, thấy Dương Lăng dừng bước nhìn mình đến thất thần, hắn bất giác
cũng đứng lại, ngượng ngập nói:
- Ý kiến... ý kiến của kẻ hèn thật ngu xuẩn, vì trong lòng có điều băn khoăn nên
đành bày tỏ. Lời nói có phần ấu trĩ, đã khiến đại nhân chê cười rồi.
Dương Lăng mừng rỡ lắc đầu nói:
- Không phải đâu, không phải đâu. Ngũ huynh du lịch thiên hạ, đi vạn dặm
đường hơn đọc vạn quyển sách, lời của huynh thật là cao kiến, khiến Dương mỗ bộiphục không thôi. Lệnh tôn đại nhân là quan triều đình, Ngũ huynh là kẻ văn võ toàn
tài, chắc có lẽ cũng chẳng mong chôn vùi trong chốn dân gian đúng không? Không
biết huynh có nguyện ý ở lại kinh sư vì triều đình mà ra sức?
Ngũ Hán Siêu vừa nghe thì mừng ra mặt, liền vội đáp ngay:
- Kẻ hèn du lịch thiên hạ cũng vì muốn tăng thêm lịch duyệt, để có một ngày
báo ân triều đình, kiến công lập nghiệp. Ví bằng đại nhân cảm thấy kẻ hèn có thể
kham công gánh việc, Hán Siêu xin tự nguyện theo sau.
Phải biết rằng triều Minh trọng văn không trọng võ, mãi đến năm Thiên Thuận
thứ tám mới ban bố "Võ cử pháp"(2), thế nhưng năm đó lại chẳng có một ai báo
danh tham gia kỳ thi Võ cử nhân . Năm Thành Hóa thứ tư, kỳ thi Võ cử nhân được
tổ chức lần hai, song cũng chỉ tuyển chọn được có hai người.
Hoàng đế Hoằng Trị giỏi về trị văn, mà lại xem nhẹ võ công. Bởi thấy võ bị xao
nhãng nên vào năm Hoằng Trị thứ mười bảy, Võ cử được tổ chức theo lối bát cổ,
được quy định chính thức ba năm một lần. Tuy nhiên năm Hoằng Trị thứ mười bảy
tuyển được bốn mươi võ tiến sĩ, thì chỉ có một người tên Hứa Thái trong khoảng
thời gian hai năm ngắn ngủi thăng lên được đến Tham tướng, còn lại đa số đều
không được trọng dụng.
Năm tới là Chính Đức nguyên niên(3), Ngũ Hán Siêu vốn định kiếm một chức
quan thông qua đại hội Võ cử. Song nếu Dương Lăng đã chịu tán thưởng trọng
dụng hắn, vậy hiển nhiên đó là một con đường tắt. Dương Lăng thấy hắn đồng ý,
trong lòng cũng cao hứng vô cùng. Đoàn người rời khỏi hầm sưởi; Dương Hổ âm
thầm ghi nhớ địa hình lạc viện ở Dương phủ, sau đó cảm tạ Dương Lăng rồi cáo từ.
Sau khi Dương Lăng và vợ tiễn vợ chồng Dương Hổ ra khỏi cửa, y đang định
kéo Ngũ Hán Siêu đến thư phòng trò chuyện thêm, chợt thấy Thành Khơi Vận đang
đứng sau lưng mọi người nháy mắt ra hiệu với y, miệng hơi nhếch nhếch. Dương
Lăng thoáng ngẩn ra, rồi thản nhiên mỉm cười nói với Ngũ Hán Siêu:
- Ngũ huynh hãy đi nghỉ ngơi cho khỏe. Dương mỗ đã hẹn với mấy vị đồng liêu
Nội xưởng ngày mai ghé phủ dự yến tiệc, đến lúc đó sẽ mời Ngũ huynh tham dự đểgiới thiệu với bọn họ.
Ngũ Hán Siêu tuy chưa chính thức đạp chân vào quan trường, sau cuộc đối đáp
khi nãy thì đã coi như là người trong triều được một nửa rồi, bèn liền vội chắp tay
đáp:
- Dạ, tại hạ tất thảy xin nghe theo đại nhân sắp đặt.
Dương Lăng đi cùng đám nữ quyến đến hậu trạch, Thành Khởi Vận khẽ nhún
eo thon, thu người vái một vái, nói cùng Dương Lăng và Hàn Ấu Nương mấy câu,
rồi ung dung đi đến bên cạnh phòng khách. Lúc vén mành bước vào phòng, nàng
liếc mắt về phía sau một cái thật nhanh, rồi mới uyển chuyển dịu dàng rời đi.
Dương Lăng cũng đứng thẳng người lại nói:
- Thành đáng đầu đã mua được tất cả đất đai thôn trang chung quanh. Giờ cơm
vẫn chưa đến, để ta đi thương nghị cùng cô ấy một chút về các hạng mục chuẩn bị
cho đất nông canh.
Y nhìn sang Cao Văn Tâm cười bảo:
- Văn Tâm đừng về vội, tối nay ở lại đây dùng bữa đi.
Đoạn quay sang dặn tiểu nha đầu Vân Nhi:
- Đi đi, thông báo cho Văn Lan một tiếng.
Đừng nói Cao- Hàn hai người kết nghĩa kim lan, tình như tỷ muội, chỉ việc Cao
Văn Tâm đã chữa khỏi chứng bệnh cho Dương Lăng, giúp nàng mang cốt nhục
tướng công, đã đủ để Hàn Ấu Nương khắc sâu trong lòng. Nàng không dám lạnh
nhạt với Cao Văn Tâm, vội kéo tay nàng cười bảo:
- Tướng công đi làm công việc của mình đi, thiếp và tỷ tỷ về phòng trò chuyện.
Dương Lăng gật nhẹ đầu, cất bước đi vào trong phòng của Thành Khởi Vận.
Vừa tiến vào thư phòng y liền vái một cái thật sâu, nói:- Tại hạ hiểu lầm cô nương, là cái sai của tại hạ, xin được nhận lỗi với cô
nương. Đại nhân không chấp kẻ tiểu nhân, cô nương đừng để chuyện đó ở trong
lòng.
Thành Khởi Vận thấy y làm ra vẻ tội nghiệp đáng thương, nhịn không được phì
cười. Tuy khi nãy vẫn còn chút oán giận trong lòng, song lúc này cũng đã tan thành
mây khói. Nàng nguýt Dương Lăng một cái và nói:
- Đại nhân ăn nói nhũn nhặn như thế, tiểu nữ nào dám ghi nhớ lỗi của đại nhân
vào trong lòng?
Dương Lăng thuận thế đứng thẳng dậy, cố ý thở ra một hơi dài nói:
- Vậy tôi yên tâm rồi. Tôi còn tưởng rằng cô nương kêu tôi lại là để hưng binh
hỏi tội ấy chứ.
Thành Khởi Vận hờn mát mà vui mừng "hứ" một tiếng, ngay sau đó sắc mặt
liền trở nên nghiêm trọng, khẽ giọng nói:
- Đại nhân có biết rõ nội tình của vợ chồng Dương Phúc không?
Dương Lăng nghe thấy trong lời nói nàng có ẩn ý khác, không khỏi nghi hoặc
bèn hỏi:
- Đôi vợ chồng này võ nghệ rất cao, Liễu thiên hộ cũng từng nảy lòng nghi ngời
thân phận vị Dương phu nhân đó. Chẳng lẽ Thành cô nương cũng hoài nghi bọn họ
không phải là chủ đoàn ngựa thồ hay sao?
Thành Khởi Vận lắc đầu nhè nhẹ nói:
- Phải, bọn họ đúng là đoàn ngựa thồ. Trên thiên hạ thì ở Cam Thiểm(4) có
nhiều đoàn ngựa thồ nhất, nhưng đoàn ngựa thồ lớn nhất ở phương bắc lại chính là
bọn họ.
Dương Lăng thở phào một hơi, cười nói:- Vậy thì đúng rồi. Đoàn ngựa thồ hành tẩu giang hồ, áp tải vận chuyển hàng
hóa giúp người ta, vừa kiêm cửa hàng ngựa xe vừa làm tiêu cục, một thân hai phận,
đương nhiên phải có một thân võ nghệ cao cường rồi.
Thành Khởi Vận vẫn ung dung ngồi xuống, mỉm cười nói:
- Đúng thế thật, cho nên ở điểm này không có vấn đề gì. Nếu như ngay lúc này
đại nhân phái ngươi đi điều tra vật tùy thân, hộ tịch, giấy giới thiệu của bọn họ, sẽ
không thấy có vấn đề gì, có điều ti chức vừa khéo biết được một thân phận khác của
bọn họ.
Ánh mắt Dương Lăng trở nên chăm chú, y cũng ngồi xuống phía đối diện, rồi
hỏi:
- Thân phận gì?
Thành Khởi Vận nhả ra từng chữ:
- Đạo, tặc, Giang, Dương!
Dương Lăng nhìn nàng, lầm bầm hỏi:
- Lạ thật! Hình như thiên hạ không có chuyện gì là cô không biết, ngay cả
người của quan phủ cũng không biết thân phận bọn họ, thế sao cô lại biết?
Thành Khởi Vận thích thú quan sát vẻ mặt của y, nhưng không dám nói ra chân
tướng ngọn ngành tin tức mà mình biết được. Cái tên này cái gì cũng tốt, chỉ có
điều lòng dạ hẹp hòi, nếu để y biết được mình giấu giếm y, sau này há sẽ càng khiến
y không tin mình ư?
Thành Khởi Vận nhoẻn miệng cười duyên dáng:
- Hắc bạch lưỡng đạo thế như nước với lửa. Cái thiên hạ này vốn là một nhóm
người sống chỗ sáng, một nhóm người sống trong bóng tối, đại nhân thân ở cao nơi
miếu đường, đương nhiên không biết mấy chuyện tam giáo cửu lưu này rồi.Ti chức cũng không nhận ra bộ dáng bọn họ, có điều ti chức biết có một đôi vợ
chồng, hai người ngoài sáng thì làm nghề thồ ngựa, trong tối thì là đạo tặc lục lâm.
Hơn nữa bọn họ đang bôn ba liên lạc khắp nơi, ý đồ mưu phản, người chồng họ
Dương, người vợ họ Thôi, một thân võ nghệ trùm thiên hạ, tuổi tác cũng tương
đương với bọn họ. Nếu đổi lại là đại nhân, thì sẽ có còn coi bọn họ là bá tánh lương
dân không?
Ánh mắt Dương Lăng lóe lên, nhìn chằm chằm vào Thành Khởi Vận thật lâu,
không nói tiếng nào. Thành Khởi Vận lại nói:
- Khi nãy lúc đại nhân khoe khoang những vật trồng ở trong hầm sưởi, ti chức
thấy mặt của vị Dương Phúc nọ nhìn đại nhân đã lộ sát khí. Ti chức tự tin vào nhãn
lực của mình, quyết sẽ không nhìn lầm.
Dương Lăng trầm ngâm rồi nói:
- Bản quan gặp Dương phu nhân đơn thuần là ngẫu nhiên, chú cháu Dương
Tuyền đến kinh sư tìm ta cũng là do nảy ý trong nhất thời. Dương Phúc nhất định
chẳng thể chuẩn bị trước việc mượn bọn họ để tiếp cận ta. Đạo tặc Giang Dương ý
đồ mưu phản thì hẳn nên cách xa triều đình một chút. Nếu như cô suy đoán không
sai, vậy vợ chồng bọn họ đến kinh sư là để làm gì?
Thành Khởi Vận nguýt y một cái rồi nói:
- Ti chức không phải là thần tiên hạ phàm, sao mà biết được chứ? Ti chức nghĩ
bọn họ cũng sẽ không điên đến nỗi cho rằng vào kinh giết hoàng thượng thì sẽ có
thể cướp được thiên hạ. Huống hồ cho dù võ công hắn có cao cỡ nào đi nữa cũng
làm sao có thể xông vào Tử Cấm Thành? Bọn họ đến kinh thành làm gì thì ti chức
đoán không ra, bất quá chuyện lúc ở dưới hầm sưởi tên Dương Phúc đó đột nhiên
nổi sát ý với đại nhân thì tuyệt đối không sai.
Đoạn nàng chau cặp mày quyến rũ, tay cầm cây bút lông xoay xoay, miệng khẽ
lẩm bẩm:
- Nếu như ti chức là đạo tặc Dương Hổ, có cơ hội kết thân với đại nhân thì nhấtđịnh sẽ dụng tâm mà vin lấy. Đại nhân là quan lớn triều đình, từ chỗ đại nhân sẽ có
thể biết thêm được nhiều chuyện đại sự trong triều, nhất định sẽ rất có ích cho đại
nghiệp của ti chức.
Nàng đặt cây bút lông xuống, đứng dậy chắp tay sau lưng thong thả bước đi
trong phòng, nghiêm túc nhập mình vào vai Dương Hổ đang có ý đồ tạo phản, vắt
óc suy nghĩ nói:
- Nhưng ta vốn có dịp kết giao với đại nhân mới được vào Dương phủ, lẽ gì đột
nhiên lại nổi sát ý? Đại nhân lại không trêu ghẹo gì nương tử của ta...
Dương Lăng nghe thấy câu sau thì không khỏi vừa bực mình vừa buồn cười. Y
đang tính tiếp lời, ánh mắt Thành Khởi Vận bỗng nhiên lóe lên, vỗ tay reo lớn:
- Ti chức nghĩ ra rồi, ti chức đã nghĩ ra rồi. Nếu là ti chức, ti chức cũng sẽ muốn
giết đại nhân!
Dương Lăng giật nảy mình, vội hỏi:
- Giết ta? Lý do gì?
Mắt Thành Khởi Vận sáng rỡ, hưng phấn nhìn y nói:
- Những hoa màu đó! Đại nhân từng nói một khi cho trồng chúng rộng rãi, sẽ có
thể giúp cho rất nhiều bá tánh tránh khỏi khốn khó cơ hàn!
Rồi nàng nhìn y cười 'nham hiểm' nói tiếp:
- Muốn đoạt thiên hạ trước hết phải chiếm được lòng dân. Nếu bá tánh có thể
cơm no đầy bụng thì ai còn chịu theo ti chức tạo phản nữa? Nếu đổi lại là ti chức,
thì không những chỉ phải giết đại nhân mà còn phải hủy hết những hoa màu đó để
diệt trừ hậu họa!
Nàng nói đến đây, ánh mắt liền chạm với ánh mắt Dương Lăng, hai người đều
bất động. Một lát sau Thành Khởi Vận mới từ trong hưng phấn hồi tỉnh lại, khuôn
mặt thoáng đỏ lên, lúng túng nói:- Ti chức... ý ti chức là Dương Hổ muốn giết đại nhân, chứ không phải ti chức
có ý giết đại nhân.
Dương Lăng chậm rãi đứng dậy, thở ra một hơi dài, rồi liền xoay người bước ra
bên ngoài. Thành Khởi Vận hoảng hốt kêu lên:
- Đại nhân... muốn đi đâu vậy?
Dương Lăng dừng bước, nói:
- Không sợ nhất vạn, chỉ sợ vạn nhất. Khi nãy ta đã nói với bọn họ rằng qua Tết
sẽ kêu người mang giống lương thực mau chóng trồng ở khắp nơi. Nếu như bọn họ
thực sự là cặp đôi đạo tặc như cô nói, muốn ra tay thì sẽ là trong mấy ngày này. Ta
đi kêu người lên núi triệu Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh xuống, cô hãy ở đây đợi
ta.
***
Dương Hổ và Thôi Oanh Nhi thả lỏng dây cương để mặc ngựa song hành, mỗi
người ôm một bầu tâm sự riêng. Khi rời khỏi thôn sắp rẽ ra quan lộ, Thôi Oanh Nhi
chợt gọi Dương Hổ:
- Hổ ca...
Ánh mắt Dương Hổ đăm đăm, không biết đang nghĩ gì trong lòng, nhất thời
không hề phản ứng, Thôi Oanh Nhi thoáng giật cổ tay, roi ngựa vút lên không trung
kêu "chát" một tiếng, gọi lớn:
- Dương Hổ!
Dương Hổ sửng sốt, quay đầu lại hỏi:
- Hử? Ồ... có chuyện gì?
Thôi Oanh Nhi thúc bụng ngựa, cưỡi nhanh lại gần, nói:
- Huynh định... Nếu quả thật đúng như vị Dương đại nhân đó nói, có thể khiếncho bá tánh được ăn no, lại trừng trị những quan lại phạm pháp, mở biển thông
thương, thật sự có thể phú quốc cường dân ư?
Dương Hổ cười gằn đáp:
- Muội còn chưa nếm đủ đau khổ do bọn quan viên Đại Minh gây ra sao? Tại
sao cha nàng phải chiếm núi xưng vương? Còn không phải vì bị triều đình ép buộc
ư? Bọn chúng mà chịu làm việc tốt cho bá tánh, trừ khi là mặt trời mọc đằng tây.
Muốn cho bá tánh sống được cuộc sống tốt đẹp, thì phải lật đổ cái triều đình này,
gây dựng lại thiên hạ!
Thôi Oanh Nhi nhíu mày khẽ thở dài nói:
- Muội đột nhiên cảm thấy chúng ta hình như đã nghĩ quá đơn giản. Cho dù để
huynh ngồi lên bệ rồng, bá tánh liền nhất định sẽ có cơm ăn áo mặc sao? Huynh thử
ngẫm lại lời bọn họ nói khi nãy, triều đình muốn giải cấm thông thương, rõ ràng là
chuyện tốt, vậy mà cũng không thể gấp rút làm ngay. Bọn họ là những kẻ đọc sách,
nói vậy nhất định là có cái lý của bọn họ. Muội và huynh chém chém giết giết thì
còn được, liệu cai trị thiên hạ có thực sự là đơn giản như thế không?
Dương Hổ đáp hết sức hùng hồn:
- Có gì mà khó chứ? Đoạt được thiên hạ, đương nhiên sẽ có kẻ đọc sách đến qui
thuận chúng ta. Chẳng phải Chu Nguyên Chương chỉ là một tiểu sa di, một kẻ chăn
trâu mà cũng đã cai trị thiên hạ hay sao? Ha ha, hãy cứ đợi đi, vi phu cũng đã chuẩn
bị sắp xong rồi, chỉ chờ thời cơ đến liền sẽ phất cờ khởi nghĩa, lúc đó ta ngồi lên bệ
rồng, muội sẽ là hoàng hậu chân to của ta.
Thôi Oanh Nhi liền nhướng mày lên, roi ngựa lại vụt lên, song chỉ đáp nhẹ trên
vai hắn, cười mắng:
- Nói bậy bạ gì đó hả huynh, bộ chân người ta lớn lắm sao?
Dương Hổ bật cười ha hả, thấy Thôi Oanh Nhi cười tươi rói không hề tức giận,
thừa dịp liền nói tiếp:- Oanh Nhi, về đến nơi ta liền triệu tập anh em, tối nay vợ chồng chúng ta sẽ
động thủ...
Đoạn hắn hạ thấp giọng, bàn tay chém mạnh xuống dưới một cái:
- Muội giữ chân tên họ Ngũ đó, ta sẽ dẫn người giết cả nhà Dương Lăng, hủy
sạch cái hầm sưởi đó.
Thôi Oanh Nhi giật nảy mình hoảng hốt, cặp mắt xinh đẹp mở trừng kinh ngạc:
- Huynh nói cái gì? Muội thấy cái tên Dương Lăng đó là tên quan tốt mà, giết
hắn để làm gì?
Dương Hổ nói:
- Nương tử của ta ơi, chúng ta sắp khởi sự, nếu như hoa mầu Tây dương gì đó
mà cái tên Dương Lăng đó trồng thật sự cho ra sản lượng dồi dào, chắc chắn số
người chịu theo chúng ta liều mạng ắt sẽ giảm đi hơn nửa, lúc đó muội còn có thể
làm hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ à?
Thôi Oanh Nhi vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ nói:
- Huynh đang nói cái gì thế hả? Chúng ta muốn tạo phản là vì cái gì? Nếu y thật
sự có thể khiến bá tánh quê hương chúng ta ấm no, thì tại sao còn phải làm phản?
Chúng ta không phải đều bị đám quan viên không coi bá tánh là người dồn ép lên
núi sao? Nếu như hoa màu đó thật sự là thứ tốt, sao chúng ta lại có thể đi làm
chuyện có lỗi với những người nông dân chứ?
Dương Hổ thấy vậy liền vội cười nịnh chữa lời:
- Huynh thấy hắn ăn nói ba hoa thôi, những thứ đó làm gì có tác dụng lớn như
vậy chứ? Sao có thể để cho hắn mê hoặc lòng người làm hỏng đại sự của chúng ta
được?
Thôi Oanh Nhi không đồng ý, nói:- Vậy thì đã sao? Y nói có thật hay không thì không cần đến một năm liền sẽ
thấy kết quả thôi.
Dương Hổ nói:
- Nhưng mà lần này chúng ta vào kinh, nếu đại sự có thể hoàn thành thì không
cần đến một năm là đã có thể khởi binh. Vả lại... nhạc phụ đã bỏ ra cả đời để chiêu
binh mãi mã, chúng ta không thể để lão nhân gia thất vọng được. Nếu như có thể
sớm thành đại sự, để lão nhân gia lên làm quốc trượng...
Thôi Oanh Nhi thoáng sầm mặt, giận dữ quát:
- Muội không đồng ý! Đó cũng là lý do à? Chúng ta đã nói với các huynh đệ là
sẽ thế thiên hành đạo, chứ không phải vì vinh hoa phú quý của bản thân. Hơn nữa y
lại là vị quan rất lớn trên triều đình; nếu như giết chết y, triều đình nhất định sẽ cảnh
giác. Người nọ tuy có nói là đã thu xếp nội ứng nhưng sợ rằng đến lúc đó cũng sẽ
không cách nào câu được con cá to kia đâu. Huynh hãy biết yên phận một chút đi!
Dương Hổ xưa nay sợ vợ, thấy ngữ khí nàng ta kiên quyết, liền vội đảo mắt
cười nịnh nọt:
- Được rồi được rồi! Ta nghe nương tử hết, nàng nói làm sao thì chúng ta làm
vậy!
***
Dương Lăng phái người lên núi gọi Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh xuống.
Hai thiên hộ này cai quản ngục hình và vũ lực của Nội xưởng, thủ hạ mỗi người
khống chế đều là quân đội tinh nhuệ trăm người chọn một. Dương Lăng cùng
Thành Khởi Vận đến thư phòng phòng khách ngồi thưởng thức trà chờ đợi được
một lát, thì hai người bọn họ đã từ trên núi vội vã chạy xuống.
Thấy Ngô Kiệt cũng xuống núi theo, Dương Lăng không khỏi ngạc nhiên, vội
đứng dậy đón:
- Sao cả Ngô lão cũng bị kinh động vậy?Ngô Kiệt cười nói:
- Ti chức có chuyện quan trọng khác muốn bẩm báo với đại nhân.
Dương Lăng ra hiệu cho hai người Liễu, Dương ngồi xuống, rồi quay sang Ngô
Kiệt hỏi:
- Có chuyện quan trọng gì mà phải phiền đến Ngô lão tự thân xuống núi vậy?
Ngô Kiệt thu lại nụ cười trên mặt, thấy trong phòng chỉ có Thành Khởi Vận và
hai người Liễu, Dương, đều là tâm phúc của Dương Lăng, mới nói:
- Đại nhân, bên phía Đóa Nhan Tam Vệ đã truyền tin tức về rồi.
Dương Lăng cả mừng liền hỏi:
- Đã gặp được Hoa Đáng rồi à? Hắn nói sao?
Ngô Kiệt thở nhẹ một tiếng đáp:
- Đại nhân, người của chúng ta đã gặp được Hoa Đáng và thông báo điều kiện
của triều đình. Cuộc sống hiện tại của Đóa Nhan Tam Vệ rất không dễ chịu, điều
kiện hậu đãi như vậy quả thực đã khiến bọn họ động tâm. Nhưng mà...
Dương Lăng hỏi dồn:
- Nhưng mà thế nào?
Ngô Kiệt lấy làm tiếc nuối đáp:
- Nhưng mà... từ lúc Lý Hạo vô cớ tàn sát mấy ngàn bá tánh Đóa Nhan Tam Vệ,
đám tù trưởng quý tộc của Đóa Nhan Tam Vệ rất hận Đại Minh. Bọn họ nói, đường
đường tổng binh đại nhân của Đại Minh mà còn có thể thất tín bội nghĩa như vậy
nên bọn họ không tin sứ giả chúng ta gửi đến. Nhất định phải có thiên tử Đại Minh
đích thân thừa nhận, bọn họ mới chịu hợp tác cùng chúng ta.
Dương Lăng cười nói:- Vậy thì có gì là khó? Đáp lại với bọn họ rằng, bảo bọn họ phái sứ giả đến,
hoàng thượng nhất định sẽ thấy xót thương mà đích thân động viên.
Ngô Kiệt cười khó xử nói:
- Đại nhân! Đóa Nhan Tam Vệ bị kẹp giữa Thát Đát và Đại Minh, xưa nay luôn
giữ thuận lợi cho mọi bề, thấy gió giong buồm. Đám người đó tuy kiêu dũng thiện
chiến, nhưng còn giỏi cò kè mặc cả và lợi dụng thời cơ hơn cả đám con buôn xảo
trá nhất. Hiện tại là chúng ta đang cần bọn họ, hơn nữa một khi giao dịch cùng
chúng ta, kiềm hãm hậu phương của Thát Đát, thì bọn họ sẽ mạo hiểm việc đoạn
tuyệt với Bá Nhan, cho dù là Hoa Đáng cũng không thể tự mình làm chủ được.
Người của chúng ta đợi ở đó năm ngày, tù trưởng các bộ lạc Đóa Nhan Tam Vệ
cãi nhau ỏm tỏi không ngơi, có người thì đồng ý, có kẻ lại phản đối, còn có cả kẻ ba
phải, cuối cũng vẫn là Hoa Đáng ra quyết định, bằng lòng tiếp nhận điều kiện của
Đại Minh. Có điều...
Ngô Kiệt liếc nhìn sắc mặt Dương Lăng rồi lấy dũng khí nói tiếp:
- Hắn yêu cầu thiên tử Đại Minh cùng hắn và ba vị thủ lĩnh bộ lạc được Đóa
Nhan Tam Vệ bầu ra cùng gặp mặt, tế cáo thiên hạ, uống máu kết minh. Có như thế
bọn họ mới chịu phục tùng triều đình, giao dịch với Đại Minh, hãm chân Thát Đát,
và cung cấp chiến mã miền Hà Sáo với giá phải chăng.
Dương Lăng thoáng sững người, lưỡng lự hồi lâu mới nói:
- Vậy..., Hoa Đáng và ba vị đại thủ lĩnh bộ lạc muốn gặp hoàng thượng? Bọn họ
nhất định... sẽ không vào kinh kiến giá ư?
Ngô Kiệt gượng cười hai tiếng, thấp giọng đáp:
- Dạ thì... đúng thế ạ! Đóa Nhan Tam Vệ lo ngại triều đình lại nuốt lời, thừa cơ
giam giữ bốn vị đại thủ lĩnh làm con tin, cho nên... đòi gặp mặt cùng hoàng thượng
trên núi Bạch Đăng cách ngoài thành Đại Đồng mười dặm.
Dương Lăng nghe vậy hai mắt cũng nghiêm lại. Y biết không phải Đóa NhanTam Vệ cố tình làm khó, mà quả thực vì bị Đại Minh lừa mãi nên đã sợ. Những tủ
trưởng dân tộc tái ngoại này không hề biết rằng bọn họ có thể tùy ý đi đến bất cứ
nơi nào trên thảo nguyên, nhưng muốn thiên tử Đại Minh rời khỏi Tử Cấm Thành là
điều vô cùng khó khăn. Bảo hoàng đế của thiên triều thượng quốc rời khỏi kinh sư,
vứt bỏ thân phận tôn quý mà hạ mình chạy đến núi Bạch Đăng hội kiến mấy tù
trưởng bộ lạc bọn họ ư? Điều đó làm sao được!
Dương Lăng ngẩn ra một hồi rồi mới nói:
- Tiếp tục phái người thông báo với bọn họ: bản quan hoặc đại học sĩ triều đình
đều có thể đi, có thể mang thánh chỉ hoàng thượng để tỏ rõ thành ý của chúng ta.
Nhưng thiên tử Đại Minh thực sự không thể rời khỏi kinh thành nửa bước!
Ngô Kiệt thở dài đáp:
- Dạ đã nói rồi. Hoa Đáng thực sự muốn đáp ứng, dẫu sao hắn cũng là đại đầu
lĩnh của Đóa Nhan Tam Vệ, mà bá tánh của Đóa Nhan Tam Vệ cũng đã chết cóng
không ít người. Hắn rất nóng lòng muốn tiếp nhận viện trợ của Đại Minh, nhưng
trong số quý tộc của Đóa Nhan có hơn phân nửa thủ lĩnh bộ lạc không đồng ý. Bọn
họ nói rằng... Việc giao dịch cùng Đại Minh cũng là ý chỉ của thiên tử Đại Minh, Lý
Hạo chính là đại thần nhị phẩm của Đại Minh, là võ quan cao cấp nhất thế mà cũng
nuốt lời. Do đó, trừ phi đích thân gặp mặt thiên tử Đại Minh, bằng không bọn họ sẽ
không hợp tác cùng Đại Minh.
Dương Lăng thả bước trong phòng một hồi, rồi khoát tay bảo:
- Bỏ đi, đợi ta đi gặp hoàng thượng xong rồi hẵng nói tiếp. Nếu thực sự không
được thì xin hoàng thượng phái một vị trong hoàng thất ra mặt. Chứ muốn hoàng
thượng đi gặp hắn ư? Sao mà được!
Ngô Kiệt đáp:
- Dạ! Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân đã đến Đại Đồng. Hai người
không biết đang làm gì, bỗng nhiên đình chỉ mọi hoạt động, không chút động tĩnh.
Nhưng một khi Thát Đát rút lui, bọn họ lập tức dốc toàn lực bọn họ lập tức dốc toànbộ khinh kị binh ra quấy rối không ngừng; giặc Thát phản công liền lập tức lui về
trong thành thủ vững không ra. Song phương giằng co, chiến sự triền miên, tình thế
vào lúc này thực ra cũng không gấp lắm.
Dương Lăng nghe vậy thì thấy hơi mắc cười. Nếu đổi bọn giặc Thát này thành
Trương Phi, đối mặt với cục diện như vậy sợ rằng đã đứng ngoài thành Đại Đồng
rống to lên rằng:
- Đánh thì không đánh, lui cũng chẳng lui, rốt cuộc là muốn làm gì!
Y cũng nghĩ không ra hai người đó đang làm cái quỷ gì, nhưng nếu như chiến
sự đã không còn gấp rút, vậy lúc này cũng không cần phải hỏi nhiều đến làm gì. Y
bèn gật đầu, quay sang Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh bảo:
- Hôm nay bản quan gọi các người lại, là bởi vì bản quan e ngại sẽ gặp một
chuyện phiền phức, song cũng có thể chỉ là sợ bóng sợ gió...
Y nói tiếp:
- Gần đến cuối năm, vốn định để các huynh đệ cũng được ăn Tết vui vẻ thoải
mái, song lúc này e rằng sẽ phải làm phiền bọn họ một phen rồi.
Liễu Bưu cười đáp:
- Nuôi quân nghìn ngày, dùng quân trong chốc lát, cái đám gia hỏa này ngày
thường có ngày nào mà không giống như ăn Tết ở trong Nội xưởng chúng ta? Đại
nhân có chuyện gì xin cứ việc căn dặn, tinh binh được ti chức và Nhất Thanh huấn
luyện vẫn chưa có cơ hội để dốc sức phục vụ đây.
Dương Lăng cười bảo:
- Tốt, đợi qua được mấy ngày này sẽ thưởng cho các huynh đệ mỗi người năm
lạng bạc, cho bọn họ nghỉ thật đã.
Đoạn y đi ra đằng sau bàn ngồi xuống, nói:- Mới đây có một đoàn ngựa thồ đi đến kinh sư. Bọn họ có giấy thông hành hợp
pháp, trong vùng lại không có ai quen biết bọn họ, trừ khi bắt bớ vô cớ, bằng không
e rằng sẽ không có cách nào tra rõ bọn họ. Có điều vẫn mong Thành đáng đầu đem
tình hình cụ thể tỉ mỉ kể lại cho Ngô lão một lượt, phái vài người khôn ngoan tài cán
đi dò thám một chút, chú ý đừng kinh động đến bọn họ.
Y rút ra một tời giấy, đặt lên bàn rồi vẽ một vòng tròn, nói:
- Liễu Bưu, Nhất Thanh, đây là Cao Lão Trang, Nội xưởng chúng ta khổ tâm
kinh doanh tại nơi này. Ngô lão bố trí rất nhiều trạm canh gác công khai lẫn bí mật
trong thôn và ngoài thôn, những nơi này các ngươi đều có thể sử dụng, bố trí tinh
binh của các người mai phục ngày đêm.
Dương Lăng mỉm cười ngước nhìn Thành Khởi Vận và nói:
- Nếu như nữ Gia Cát của chúng ta suy đoán không sai, trong mấy ngày nữa sẽ
có những vị khách không mời mà tới. Lúc đó sẽ phải nhờ các ngươi thay ta tiếp đãi
khách khứa thật chu đáo đó!
Chú thích:
(1) "Bạc" nghĩa là thuyền đi biển. Đây cơ quan quản lý thuế tàu, trưng thu thuế
cảng, thu mua hàng hóa nhập khẩu vân vân. Quan trông coi nơi này gọi là Bạc sứ
(2) "Võ cử" chỉ cử nhân võ nghệ (võ cử nhân), nghĩa là "luật cử nhân võ nghệ".
Nhà Minh tổ chức cho các võ sinh ở các tỉnh thi hương tại các tỉnh thành, người
trúng cử được gọi là "Võ cử nhân"
(3) năm đầu tiên của một niên hiệu vua chúa
(4) Cam Túc và Thiểm TâyNGƯỢC VỀ THỜI MINH
Nguyệt Quan
www.dtv-ebook.com
Chương 173 Lặng Lẽ Vào Thôn
Tứ hợp viện đã lên đèn. Bên trong nhà chính, một đạo sĩ trạc tứ tuần, thân hình
gầy gò, mặc áo dài tro đang ngồi trước bàn, trong góc tường dựng một cây đại kỳ
coi mạng đoán số có thể bắt gặp ở khắp hang cùng ngõ hẻm nào, trên mặt lá cờ vẽ
sơ sài hình một con âm dương bát quái ngư.
Một người thiếu nữ xinh đẹp yêu kiều bê khay trà đến, đạo sĩ không cầm lấy
chén trà mà lại chộp cổ tay cô ta kéo vào trong lòng mình, đôi bàn tay to lớn lần vào
trong ngực cô ả vân vê ve vuốt, cười dâm đãng nói:
- Thúy Nhi, hai tháng không gặp, cặp bánh bao thịt này đã nở ra nhiều rồi đó.
Thuý Nhi khẽ lắc chiếc eo thon thoát khỏi lão, ngón trỏ dí trán lão một cái, cười
mắng:
- Đi chết đi, lão già mất nết, mọi việc đều xử lý ổn thoả hết rồi chứ?
Đạo sĩ luyến tiếc nhìn chằm chằm vào khe áo đang được ả chỉnh trang lại, trong
nháy mắt làn da mịn màng đã bị che mất. Lão gật đầu đáp:
- Ừm, xem ra chuyện này phải đợi thêm một thời gian nữa. Sắp đến cuối năm,
trong cung rất nhiều sự vụ, tuy tên hôn quân đó liên tục bị hai vị cô nương xúi giục,
song cũng không thể thoát ra ngoài cải trang du ngoạn. Đành phải đợi đến tháng
hai, sang xuân, khi y dọn đến Báo phòng ở rồi mới bàn tiếp. Có hai vị cô nương nội
ứng, lợi dụng vợ chồng Dương Hổ giết y, đến lúc đó triều đình sẽ như quần long vô
thủ, tất phải chọn một trong các vị vương gia làm tân đế. Ninh Vương khổ tâm ẩn
nhẫn lâu năm, dùng sông vàng núi bạc đã lung lạc rất nhiều quan viên trong triều.
Cho dù là huynh đệ Thọ Ninh hầu cũng nhận nhiều hối lộ từ hắn, đến lúc đó để bọn
họ mê hoặc khiến thái hậu nói tốt cho, lại thêm quần thần ủng hộ, thế tử NinhVương nhất định sẽ có thể đăng ngôi cửu ngũ chí tôn.
Thuý Nhi cau mày nói:
- Thực không hiểu giáo chủ lão nhân gia đang nghĩ gì nữa. Hao tổn tâm huyết
như vậy để giết một người nhà họ Chu rồi lại đưa một kẻ vẫn là họ Chu lên. Giáo
chủ là Di Lặc chuyển thế, thần thông quảng đại, chẳng nhẽ chúng ta không thể gầy
dựng hương quân(1), dùng vũ lực chiếm lấy giang sơn này của nhà họ Chu sao?
Đạo sĩ cười trêu chọc:
- Thiên hạ dễ chiếm đoạt thế ư? Cũng chỉ có cái tên ngu xuẩn Dương Hổ đó
mới tin vào lời bịp bợm của ta, tưởng rằng hắn là sao Tử Vi trên trời chuyển thế,
đứng trên cao hiệu triệu liền sẽ được làm hoàng đế. Ha ha, giáo chủ lo xa nghĩ rộng,
há để nàng có thể nhìn thấu. Đại công tử đổi tên thành Lý Tự Nhiên, làm thượng
khanh phủ Ninh Vương. Nếu có thể phò trợ Ninh Vương lên thềm rồng, đại công tử
tất sẽ được phong hầu bái tướng, nắm giữ trọng binh. Tam công tử cũng đang chiêu
binh mãi mã tại vùng Hà Tây. Đám cường đạo, thổ phỉ, hoặc lưu manh không chốn
nương thân ở Trung Nguyên phải chạy ra biên tái tránh tội, những lính đào ngũ,
phạm nhân trốn ngục, hay tù phạm khổ sai bị đày và mã tặc các bộ tộc du mục, một
khi tập trung lại, sẽ là một đội quân hung tàn. Nàng hãy nghĩ đi, khi đó binh quyền
triều đình và hương quân đều nằm trong tay bản giáo, chúng ta lại công bố chuyện
Ninh Vương là kẻ làm bề tôi mà giết Chính Đức, khiến hắn mất đi sự ủng hộ của
quan viên Đại Minh và phiên vương các nơi. Đại Minh như rắn mất đầu, muốn đoạt
thiên hạ còn không dễ như trở bàn tay ư? Ha ha ha...
Đạo sĩ nói đến hả hê. Lão cầm lấy chén trà hớp một ngụm, rồi hau háu nhìn tấm
thân nhỏ nhắn yêu kiều của Thúy Nhi rồi tiếp:
- Đến lúc đó lão Lưu ta dẫu sao cũng là đại quan tổng đốc, tất sẽ đón cô ả quyến
rũ bé bỏng nàng về làm phu nhân của ta ngay.
Thúy Nhi nguýt lão một cái thật ngọt:
- Tốt cho ông quá nhỉ, đợi ông thật sự làm đại quan rồi hẵng nói nhé.Đạo sĩ nhòm ra ngoài trời rồi nói:
- Sắc trời đã tối, sao bọn chúng vẫn chưa về? Hừm, mua gạo cứu tế ư? Lòng
dân là cái rắm thúi. Bản giáo chuyên giảng đạo và thu nhận đám thân hào sĩ tộc và
quan viên danh sĩ làm đồ đệ, đấy mới là thuật kinh bang tế thế giành lấy thiên hạ.
Thúy Nhi hừ nhẹ, buông giọng ghen tuông:
- Ông gấp gì chứ? Hay là Lưu hộ pháp đã tăm tia Hồng nương tử nhà người ta
rồi? Nói thật cho lão hay, hai người bọn họ hiện không phải đang cứu tế ngoài thành
đâu, mà là đến thăm tổng đốc Dương Lăng của Nội xưởng đấy. Xem ra Dương Hổ
không phải chỉ là loại vũ phu chỉ biết dùng sức, hì hì, mà còn biết kết giao với
quyền quý nữa đấy.
Lưu đạo sĩ cả kinh, vội đứng bật dậy, vẻ mặt kinh hoảng kêu lên:
- Hồ đồ! Hoang đường! Bọn chúng làm vậy chẳng phải là dắt dê vào miệng cọp
sao? Dựa theo tin tức mật thám bản giáo truyền về, khu vực thành Tây trong tối
ngoài sáng đều có thám tử của Nội xưởng. Cái xưởng mới lập này rõ ràng khác rất
xa hai xưởng một vệ chỉ biết bắt bớ dọa dẫm kia, trong xưởng này hiển nhiên có cao
nhân phò tá. Nếu để lộ sơ hở, há chẳng hỏng việc lớn ư?
Lưu đạo sĩ vừa nói xong, cổng trước sân ngoài đã vang lên tiếng gõ thình thình,
người trong sương phòng nghe tiếng liền ra mở cổng. Vợ chồng Dương Hổ dắt
ngựa đi vào, đạo sĩ vội đặt chén trà xuống rồi ra đón. Thúy Nhi cũng thu nét mặt lại,
vẻ phóng đãng tiêu hồn tán cốt hoàn toàn tan biến, trở lại thành một tiểu tỳ ngây thơ
đáng yêu lanh lợi, chạy ra ngoài cất giọng giòn tan:
- Tiểu thư, anh rể, hai người đã về rồi.
Hồng nương tử nghiêm mặt ừm đáp, trông thấy đạo sĩ thì mặt mới bớt giận,
chắp tay chào:
- Lưu tiên sinh đã đến rồi à!
Trước nay Thôi Oanh Nhi luôn cảm thấy những gì vợ chồng nàng làm là thaytrời hành đạo, cho dù trượng phu muốn tạo phản, cũng là vì bá tánh lê dân, nào ngờ
Dương Hổ vì muốn được làm hoàng đế lại rắp tâm phá hủy thứ có thể cứu vớt mấy
mươi vạn dân, làm vậy có khác gì đích thân ra tay giết hại dân chúng chứ?
Dương Hổ tuy đã xin lỗi nhận sai với nàng, thề không dám có âm mưu gì với
Dương Lăng và đám hoa màu đó nữa, nhưng dọc đường từ hành vi và lời nói
Dương Hổ đã thầm biểu hiện dã tâm và tham vọng, tỏ thái độ vì làm hoàng đế mà
không từ thủ đoạn, khiến Thôi Oanh Nhi cảm thấy khinh bỉ, trong lòng hết sức
không vui.
Dương Hổ trông thấy quân sư của mình liền vội vàng rảo bước, kéo tay lão ta,
mừng rỡ nói:
- Dương Hổ nhận được truyền tin của tiên sinh liền đã gấp rút đêm ngày chạy
đến kinh sư, sợ lỡ thời gian, nhưng đến nơi này lại không gặp tiên sinh. Ngài vân du
tứ phương, hành tung bất định, ta đang sốt ruột đây.
Lưu đạo sĩ chính là vị Lưu thần tiên năm đó đoán mệnh cho Dương Hổ, tâng
bốc hắn là chân mệnh thiên tử chuyển thế. Lão ta dùng những thủ đoạn như bút gỗ
đào viết vào mâm cát, giấy vàng hiện chữ, trong núi đào được bia đá ghi lại lời kệ
của tiên nhân, khiến cả Dương Hổ, sơn tặc và bá tánh cùng khổ khắp cả Bá Châu
đều bị mê hoặc tin lấy tin để, đều cho rằng Dương Hổ đích thực là chân long thiên
tử.
Lưu đạo sĩ cười lớn nói:
- Thời cơ chưa đến, đương nhiên không tiện hiện thân. Hiện tại chẳng phải bần
đạo đã đến rồi đó sao? Ha ha ha...
Lão ta thoáng liếc sang Thôi Oanh Nhi, trêu hắn:
- Lạ thực, ngươi đã ăn phải gan hùm mật gấu hay sao mà lại dám đắc tội với
Khóa Hổ phu nhân thế?
Trong giới lục lâm ai nấy đều biết phu nhân Thôi Thị của Dương Hổ võ nghệhơn xa hắn, tính tình lại ương bướng ngang ngược. Dương Hổ là một hảo hán tiếng
tăm vang dội trong giới lục lâm, ấy thế mà trước mặt phu nhân lại khép nép như
mèo, vậy nên những người quen hắn đều trêu gọi nương tử hắn là Dương Khóa Hổ,
ý nói nàng khoẻ mạnh dũng cảm hơn hẳn ông chồng, thường hay gọi trêu trước mặt
bọn họ, vợ chồng Dương Hổ cũng không vì thế mà khó chịu.
Dương Hổ cười hề hề, khẽ liếc nương tử hắn rồi lại thân thiết nói với đạo sĩ:
- Chắc hẳn tiên sinh đã có tin tức chính xác rồi phải không? Nào nào, bên ngoài
lạnh lẽo, chúng ta vào trong nhà đi. Thúy Nhi, đi làm một mâm thịt muối, hâm hai
hũ rượu nóng, ta và nương tử phải uống với Lưu tiên sinh vài chén, cùng thương
nghị đại sự.
Hồng nương tử chưa nguôi giận, lạnh lùng hừ một tiếng rồi nói:
- Giờ huynh có bản lĩnh rồi, ta là phận nữ nhi thì có thể đưa ra ý kiến gì chứ.
Huynh hãy uống với tiên sinh đi, ta đi về phòng.
Nói đoạn quay sang Lưu đạo sĩ khẽ gật đầu tỏ ý, rồi cũng không thèm liếc
Dương Hổ lấy một cái, đi thẳng vào phòng trong. Lưu đạo sĩ tham lam liếc theo
bóng dáng mỹ miều của nàng, quay đầu lại thấy trên mặt Dương Hổ hiện chút lúng
túng, liền vội cười bảo:
- Ha ha, cọp cái đã ra oai rồi, chốc nữa ngươi hãy tạ tội với phu nhân thì sẽ
khiến nàng ta vui trở lại thôi. Nào, hai người chúng ta đã lâu không gặp, vào trong
chuyện trò một chút!
*****
Dương Lăng và Thành Khởi Vận đưa tiễn Ngô Kiệt và hai người Liễu, Dương
rồi chậm rãi thả bộ đi về phía hậu viện. Mới nhớm nửa bước chân vào dãy hành
lang bằng đá, Dương Lăng chợt dừng lại ngước đầu nhìn bầu trời; nửa vầng trăng
lưỡi liềm mới vừa được treo trên trời đêm, chỉ lác đác vài vì sao sáng lấp lánh.
Y nghĩ ngợi một chút rồi nói:- Chúng ta phái người lần theo hộ tịch, giấy giới thiệu đến quê nhà bọn họ điều
tra nội tình, e rằng cho dù có tra ra được cũng phải mất hơn một tháng. Nếu bọn họ
thật sự muốn ra tay, tuyệt đối sẽ không đợi đến lúc đó.
Thành Khởi Vận dừng lại bên cạnh y, mùi thơm nhàn nhạt lan tỏa khắp bốn
phía, nàng lên tiếng đáp:
- Dạ. Đại nhân từng nói với bọn họ rằng mười lăm tháng giêng sẽ bắt đầu sai
người mang giống cây trồng chia cho các nơi. tới giờ trước sau gì tính ra cũng chỉ
còn lại hơn hai mươi ngày, nếu như bọn họ muốn động thủ nhất định sẽ là trước lúc
ấy.
Dương Lăng thở dài:
- Chỉ mong bọn họ không phải là người như cô nói, nếu như bọn họ thật sự là
đôi vợ chồng đạo tặc, cô nghĩ khi nào thì bọn họ sẽ đến?
Thành Khởi Vận mỉm cười đáp:
- Nếu là ti chức, nội trong ba ngày nhất định sẽ tới! Thân phận đôi bên chênh
xa, hôm nay đến nhà là để cảm tạ, nếu lui tới nhiều lần sẽ khó tránh khiến người ta
nghi ngờ. Vả lại... bọn họ còn có một lớp thân phận khác, cũng không thể không lo
đêm dài lắm mộng, ngộ nhỡ bị đại nhân nhìn thấu, vậy thực công lao đổ biển rồi.
Dương Lăng cười lớn:
- Tốt, vậy ta sẽ chuẩn bị tinh thần, chờ hắn mấy ngày.
Đám người Hàn Ấu Nương và Tô Tam đang cười nói chuyện trò trong phòng
khách, Dương Lăng từng nói đêm nay muốn giữ Cao Văn Tâm lại ăn cùng, cho nên
Hàn Ấu Nương kéo nàng ấy ngồi cạnh mình, không chịu thả cho về. Lúc này đã quá
thời gian thết tiệc mà Dương Lăng vẫn còn cùng đám người Ngô Kiệt luận bàn nghị
sự ở trung đường. Hàn Ấu Nương căn dặn nhà bếp hâm nóng thức ăn, mọi người
chưa ăn vội. Thấy Dương Lăng và Thành Khởi Vận kẻ trước người sau bước vào
trong phòng, Hàn Ấu Nương tươi cười đứng dậy đi đến đón, vừa ra hiệu cho VânNhi báo cho nhà bếp dâng món ăn lên, vừa cầm giúp áo khoác cho Dương Lăng,
cười nói:
- Cứ hễ bàn đến việc công là tướng công lại quên cả ăn uống, mau ngồi xuống
đi, mọi người đang đợi đó.
Tiểu nha đầu xinh xắn ngây thơ năm xưa giờ đã mang hơi hướm của một thiếu
phụ thanh tú đẫy đà, như đóa hồng ngậm sương đã nở rộ. Dương Lăng quở trách:
- Xem nàng kìa, đã nói biết bao nhiêu lần rồi, khi nào ta bận việc thì đừng có
chờ, lúc này nàng có thể để cho mình đói được sao? Hơn nữa tối nay chúng ta còn
giữ Văn Tâm lại ăn mà, thực vô lễ quá.
Y nói vậy quả thực đã coi Cao Văn Tâm như người ngoài. Tuy rằng nàng đích
thực là người ngoài, song sắc mặt Cao Văn Tâm vẫn hơi mất tự nhiên. Tô Tam thấy
vậy liền cười khẽ đỡ lời:
- Xin lão gia hãy mau ngồi bên trên, chúng thiếp mới vừa ăn chút điểm tâm, vả
lại Văn Tâm tỷ tỷ và chúng thiếp thực cũng không thể xem như người ngoài mà.
Nàng chỉ nghĩ rằng Dương Lăng và Cao Văn Tâm chắc đã sớm có quan hệ tình
cảm mập mờ, vừa nói cặp mắt trong vắt vừa liếc Cao Văn Tâm một cách đầy thâm
ý. Cao Văn Tâm không biết nội tình, còn tưởng rằng nàng ấy nói đến chuyện mấy
người bọn họ kết nghĩa kim lan, thế là không khỏi mỉm cười cảm kích.
Dương Lăng nghĩ nếu hai người Dương, Phúc thực sự là đôi vợ chồng Dương
Hổ, nói không chừng đêm nay sẽ tìm đến Cao Lão trang, một khi nhận được tin tức
y sẽ phải đích thân đốc chiến, Ấu Nương đang có mang, không thể để nàng ấy bận
lòng lo lắng, liền nói:
- Phải phải phải, đúng là lỗi của ta, sớm biết các nàng tình như tỷ muội rồi, ha
ha.
Đoạn y ngồi xuống trước bàn, nói với Cao Văn Tâm:
- Ngày mai là tết ông Táo, ta có mời mấy vị đồng liêu ở Nội xưởng đến phủ, nộiquyến dẫn theo cũng sẽ được thết tiệc ở hậu đường. Ta vốn định đến lúc đó mời cô
cùng đến dự luôn, hay đêm nay cô đừng về, ở lại ngủ với Ấu Nương đi.
Hàn Ấu Nương nghe vậy thì lấy làm lạ, bèn hỏi:
- Tướng công, đêm nay chàng còn phải ra ngoài sao?
Dương Lăng ho khan một tiếng rồi đáp:
- Không có, đêm nay ta ngủ lại trong phòng Tuyết Nhi là được.
Tuyết Lý Mai đang mới vừa cắn một miếng dưa, nghe vậy trong lòng liền tràn
ngập hoan hỉ, vểnh môi nhìn về phía Dương Lăng; ánh mắt trong veo, trên má
không hẹn mà đã hưng phấn đỏ hây.
*****
Mọi người dùng bữa xong, bưng trà lên phòng khách tiếp tục tán gẫu hơn nửa
canh giờ, rồi ai nấy tự về phòng nghỉ. Dương Lăng ngồi lại một mình trong phòng
thêm một chốc, chợt Cao quản gia dẫn Liễu Bưu vội vã chạy đến hậu viện. Dương
Lăng đứng dậy đón:
- Đã an bài mọi thứ thỏa đáng rồi chứ?
Liễu Bưu gật đầu đáp:
- Dạ, đã kiểm soát chặt chẽ bọn chúng, chỉ cần chúng có hành động bất thường
gì chúng ta sẽ lập tức có thể thu được tin tức. Tuân theo sự căn dặn của đại nhân, để
tránh cho bá tánh bị kinh hoảng, ti chức đã an bài nhân mã hai bên quan đạo vào
thôn, chỉ cần bọn chúng dám đến, cam đoan sẽ bắt được cả người lẫn vật.
Dương Lăng cười nói:
- Cực cho các huynh đệ rồi, làm to chuyện như vậy, hiện tại ta lại chỉ lo bọn
chúng không đến. Huynh hãy toạ trấn ở trung đường đi, có biến động gì hãy lập tức
bảo quản gia thông báo cho ta.Nói đoạn y quay sang Cao quản gia nhắn nhủ:
- Sợ là mấy ngày này lão quản gia cũng không thể ngủ giấc ngon rồi, hôm nay
ta sẽ ngủ lại trong phòng Tuyết Nhi, đến khi xảy ra chuyện ông phải ngàn vạn lần
cẩn thận, chớ để kinh động đến phu nhân.
Cao quản gia hết lòng trung thành chỉ biết có kẻ lại muốn gây bất lợi với Dương
phủ, trong lòng căm phẫn không thôi, nghe Dương Lăng dặn dò xong liền vội kính
cẩn đáp:
- Dạ, ban ngày lão nô không có việc gì làm cũng đã tranh thủ thiếp đi một chút,
hiện tại hết sức tỉnh táo, lão nô sẽ đi cùng đại nhân đây vào trung đường, lão gia cứ
yên tâm.
Hai người lui khỏi hậu viện, Dương Lăng uống thêm một chén trà, rồi đến
phòng Tuyết Lý Mai. Trong phòng thắp hai cây nến đỏ, màn đã được buông xuống,
Tuyết Lý Mai đang quỳ trên giường trải chăn nệm; quần áo mượt mà dán sát người
nàng tôn lên đường cong uyển chuyển của bờ mông tròn lẳn, tấm màn lụa mỏng
như sương mù phản chiếu một bóng hình thon thả mông lung.
Nghe thấy tiếng kẹt cửa Tuyết Lý Mai vội vén màn, xoay người trèo xuống
giường, khuôn mặt hoa đào khi giận lẫn khi vui đều xinh đẹp ấy mang theo mấy
phần thẹn thùng. Nàng chỉnh trang vái Dương Lăng một lễ, dịu dàng thỏ thẻ:
- Lão gia...!
Dương Lăng nhìn thấy trên giường tấm chăn lụa 'uyên ương hí thủy' và chiếc
gối đôi độn trà thơm Long Tĩnh đều đã được sắp xếp ngay ngắn, tuyết Lý Mai vận
áo khoác mỏng lụa xanh, chiếc quần ống tơ màu hồng nhạt, đôi giày ngủ thêu hoa.
Mái tóc buông xoã hai vai, trông muôn phần kiều mị.
Căn phòng ngập tràn hơi ấm. Dương Lăng đưa mũi ngửi, trong chậu than lửa
đang cháy rừng rực, bên trong hẳn đã cho thêm hương liệu hảo hạng; mùi thơm dìu
dịu nức mũi. Xem ra cô nàng này quả thực vì muốn lấy lòng lão gia mà đã chuẩn bị
đây.Dương Lăng nhịn không được bật cười lớn, bộ dạng nghênh ngang đi đến ngồi
xuống chiếc ghế trước bàn, nói với Tuyết Lý Mai:
- Ha ha, Tiểu Tuyết Nhi, qua đây!
Tuyết Lý Mai kéo vạt áo lại, bước tới. Dương Lăng chắn ôm lấy nàng, đặt nàng
ngồi ngang trên đùi mình, hôn nhẹ lên gò má trắng như tuyết của nàng một cái rồi
nói:
- Đêm nay lão gia có thể có công vụ phải lo, không muốn khiến phu nhân lo
lắng, đến chỗ nàng ngủ, là bởi vì Tuyết Nhi của ta thông minh lanh lợi, sẽ giúp lão
gia che giấu. Đừng để cho lão gia bị lộ sơ hở đó, biết không?
Tuyết Lý Mai vừa nghe liền biết mình đã hiểu lầm ý, con tim thiếu nữ cảm thấy
chán chường, nàng trề môi:
- Biết rồi mà, lão gia muốn làm gì, người ta đương nhiên sẽ giúp chàng, không
nói cho Ấu Nương tỷ tỷ biết là được.
Tấm thân của Tuyết Lý Mai mềm mại yêu kiều, giọng nói giòn tan, ngồi lả lướt
trên đùi y, mềm mại như không xương. Vẻ điềm đạm yêu kiều ấy khiến Dương
Lăng yêu mến không thôi, nhịn không được bèn ôm chặt lấy chiếc eo thon của nàng
kéo sát vào trong lòng, miệng cười ha hả:
- Vậy mới ngoan chứ. Làm gì mà trề môi ra vậy hử? Tiểu Tuyết Nhi của ta
ngoan như vậy, biết để tâm như vậy, sao lão gia nỡ để cho nàng thất vọng chứ?
Tuyết Lý Mai bị y nói trúng tâm sự, không khỏi đỏ lựng mặt, ấp úng:
- Người ta... người ta mới không... thất vọng đó, lão gia cứ thích ức hiếp thiếp.
Bờ mông tròn mượt vểnh cao của Tuyết Lý Mai, cho dù đang cách một lớp lụa
mỏng vẫn đầy tính đàn hồi kỳ diệu. Lúc này nàng hiện rõ vẻ thẹn thùng, ngữ khí
nhẹ nhàng, mặc dù Dương Lăng nếm trải rất nhiều tuyệt sắc, vẫn không khỏi bị thần
thái ngượng ngùng thánh khiết ấy làm cho chảy dãi.Y ôm chặt lấy tiểu mỹ nhân khiến người ta phải thương tiếc đó, ngón tay lần
vào trong áo, xuôi xuống dưới ngực chụp lấy quả tuyết lê nhỏ nhắn mềm mại, khẽ
cười thì thào vào tai nàng:
- Nàng nói lão gia ức hiếp nàng, vậy lão gia sẽ ức hiếp nàng cho biết, để làm
"công chuyện" của nàng trước rồi nói tiếp...
Gần đến canh ba, Dương Lăng đột nhiên bị lay tỉnh dậy, một cây nến đỏ trên
bàn chưa tắt, lúc này cũng đã le lói sắp tàn, ánh sáng cực kỳ yếu ớt. Dương Lăng
đang định mở miệng hỏi, Tuyết Lý Mai đã thì thầm: "Lão gia, có người nhìn cửa,
nghe tiếng thì hình như là của lão quản gia."
Dương Lăng ngóng tai nghe, ngoại đường có vài tiếng ho khan, sau đó có tiếng
người gọi khẽ: "Lão gia, lão gia, xin hãy mau thức dậy."
Dương Lăng và Tuyết Nhi sau cơn hoan ái cùng cực đều đã mặc đồ lót, lúc này
nghe tiếng lập tức ngồi bật dậy, khoác lấy miên bào (áo dài vải bông), chộp lấy cây
nến khác châm lên, rồi ra gian ngoài mở cửa phòng. Chỉ thấy lão quản gia tóc bạc
phơ đang cầm ngọn đèn lồng đứng trước cửa phòng, khuôn mặt đỏ au, giọng căm
giận:
- Lão gia, Liễu đại nhân kêu lão nô truyền tin gấp cho người, đám cường đạo đó
quả thực đã chạy đến chỗ chúng ta rồi.
Dương Lăng nghe vậy thì cười khổ sở, vung tay thổi tắt nến rồi khẽ thở dài: -
Điều không mong muốn lại xảy ra..., đi thôi, chúng ta ra phía trước xem thử.
Đoạn y quay về phía trong phòng gọi:"Tuyết Nhi, tự cài then cẩn thận nhé."
Vừa nói vừa rời khỏi cửa phòng lật đật theo sau quản gia, buộc thắt lưng lại rồi
đi vào trung đường. Cuối ngã rẽ hướng ra ngoài phòng khách chính là nội thư
phòng, Dương Lăng vừa mới đi đến cửa, bên trong chợt vọng ra tiếng gọi: "Đại
nhân, bọn chúng đến rồi à?"
Cùng lúc rèm cửa được vén lên, Thành Khởi Vận tay cầm đèn lồng bước rangoài. Chỉ thấy trên đầu nàng vấn khăn, người mặc áo dài cổ tròn ống chật, eo thắt
đai rộng, chân mang đôi giày da dê màu đen, một thân nam trang; trong vẻ thanh
tao nho nhã lộ ra khí thế mạnh mẽ oai hùng.
Dương Lăng không khỏi lấy làm kinh ngạc, hỏi:
- Cô... không hề ngủ sao?
Thành Khởi Vận hớn hở trả lời:
- Vốn lẽ định ngủ, nhưng nghĩ đến những điều đã ba hoa khoác lác với đại
nhân, nếu thực sự mình hiểu lầm người ta, điều động binh lực để đại nhân lo lắng
như vậy, khiến cho hơn nghìn huynh đệ phải chịu lạnh gác đêm, ti chức thực sự khó
mà yên gối. May mà... ha ha...
Dương Lăng thấy vẻ hớn hở yên lòng trên khuôn mặt nàng, bất giác cũng hơi
rung động, y mở miệng, cuối cùng lại nở một nụ cười, điềm nhiên nói:"Đi thôi, theo
ta xem thử thì sẽ biết kết quả ngay", ngữ khí dịu dàng chưa từng có.
*******
Nửa vầng trăng sáng treo trên không trung, ngoài bờ tây kinh sư, mặt đất vốn là
đồng ruộng đều bị bao trùm trong lớp tuyết trắng toát. Bên trong những mẫu ruộng
nằm chếch về phía Cao Lão trang, hơn hai trăm gã hán tử đang đứng nghiêm trang,
không một tiếng động, chỉ có tay áo phất phơ trong gió. Dương Hổ vào kinh do bị
lão quân sư quạt mo Lưu thần tiên mê hoặc, hòng thích sát Chính Đức. Đám hảo
hán lục lâm này đôi lúc suy nghĩ hết sức đơn giản, lại đi tin mấy lời nói xằng của
Lưu đạo sĩ, bảo rằng giết chết Chính Đức thì thiên hạ sẽ đại loạn, một nửa giang sơn
liền sẽ vào tay.
Dương Hộ không hề biết quân sư của hắn thật ra là nhân vật quan trọng trong
giáo phái Di Lặc, thế là bèn an bài tâm phúc lần lượt tề tụ tại kinh thành dưới các
dạng thân phận, rồi lại phi ngựa triệu hồi nương tử của hắn là Thôi Thị đang ở Sơn
Đông thuyết phục bè phái các nơi cùng mưu đại sự, hòng một vố giết Chính Đức
luôn.Thế nhưng tuy hai mỹ nữ giáo phái Di Lặc đưa vào trong cung chiếm được lòng
yêu mến của Chính Đức, có biện pháp lừa phỉnh Chính Đức cải trang vi hành, nhằm
tạo cơ hội cho bọn họ. Song đám nhân vật giang hồ bọn họ đã quá xem nhẹ tầm
quan trọng của ngày Tết.
Vào dịp này, hoàng thất phải cử hành các loại nghi lễ mà so với gia đình bình
thường còn phức tạp gấp trăm lần, trong khoảng thời gian này Chính Đức căn bản
không cách gì rời khỏi hoàng cung. Khó khăn lắm Lý Phúc Đạt mới an bài hai thân
tín bên cạnh hoàng đế, cũng không mong bọn họ vì quá ân cần khuyên dụ mà bại lộ
thân phận, vì vậy khi nghe nói sang xuân Chính Đức sẽ dời ra khỏi hoàng cung dọn
đến Báo phòng, để chắn chắn ổn thoả, chúng đã quyết định trì hoãn thời gian động
thủ.
Thế là Lưu đạo sĩ lại bịa chuyện với Dương Hổ nói rằng đế tinh ảm đạm sắp
sụp, nhưng bỗng có tướng tinh(2) bảo hộ, lúc này không thích hợp để động thủ,
khuyên hắn tạm thời nhẫn nại, hai tháng nữa thời cơ chín mùi mới hẵng trở lại kinh
sư. Dương Hổ thấy hắn bảo sao nghe vậy, vô cùng tin tưởng mấy thứ huyền diệu
khó giải thích này, đương nhiên không dám trái lời.
Tuy nhiên Dương Hổ vẫn chưa từ bỏ ý niệm trừ khử Dương Lăng, hắn đem tình
huống thăm viếng Dương phủ cho Lưu đạo sĩ để cùng tìm ra sơ hở, thỉnh kế quân
sư. Lưu đạo sĩ nghe xong cũng cảm thấy chuyện này rất có ảnh hưởng đến đại kế
của giáo chủ, cần phải nhổ cái đinh trong mắt này đi. Thuộc hạ của Dương Hổ vào
kinh dưới đủ các loại thân phận, đám ngựa dùng để kéo xe thồ hàng chở người đều
là ngựa tốt thượng đẳng, sẽ kéo ra ngoài thành trước, một khi xong chuyện liền sẽ
cao bay xa chạy, khi đó còn ai có thể tra ra căn nguyên của vụ huyết án này.
Huống hồ với số nhân mã Dương Hổ dẫn đến, nếu tập kích bất thình lình, thì
không một gia tướng bảo vệ trạch viện của bất kỳ một vị vương công đại thần nào
có thể chống chọi nổi. Hơn nữa cho dù giết chết Dương Lăng, cũng sẽ không khiến
hoàng đế sợ đến nỗi hai tháng sau vẫn còn cảnh giác không dám ra ngoài du ngoạn.
Hành tung của Lý Phúc Đạt được xếp vào hạng cực cơ mật của giáo phái Di
Lặc, ngoại trừ ba vị công tử của lão ta, không ai biết được tăm tích của lão, cho nênLưu đạo sĩ không cách nào xin được ý kiến giáo chủ. Lo trước tính sau cảm thấy
phần thắng rất cao, lão liền gật đầu đồng ý.
Dương Hổ lập tức phái thân tín báo tin cho toàn bộ nhân mã thừa dịp cổng
thành chưa khóa lặng lẽ lẩn ra khỏi thành. Hắn chỉ sợ Thôi Thị sinh nghi mà ngăn
cản, không dám đột ngột rời đi, cố ý cùng Lưu đạo sĩ uống rượu đến tận canh hai.
Khi thấy Thôi Thị đã ngủ, mới thay quần áo dạ hành, dùng móc câu thừng chão nối
với đầu thành trèo xuống rồi đi tìm thuộc hạ của mình.
Hắn muốn giữ Lưu đạo sĩ ở lại phủ, đợi đến sát lúc mới sẽ thông tri để Thôi Thị
rời thành, cùng đào tẩu đến địa điểm ước định. Khi đó đại sự đã thành, cho dù nàng
ấy không vui cũng phải đành chịu.
Dương Hổ vận một bộ trang phục bó sát màu xanh thẫm, trên tấm thắt lưng da
rộng sáu tấc gắn mười hai thanh phi đao, trong tay cầm một thanh đơn đao đầu hẹp,
đứng đầu đội ngũ hô:
- Các vị huynh đệ, chốc nữa đến thôn trang, xông thẳng vào phủ Uy Vũ bá, toàn
trang trên dưới không bỏ qua bất cứ kẻ nào. Mã nhị ca, Điền lão tứ phụ trách vây
giường giết người, Trọng Dương dẫn ba mươi anh em theo ta, nghe thấy hiệu lệnh
của ta thì rút lui.
- Ngựa của chúng ta đang tập trung tại Lộ Ao Lý cách bốn mươi dặm ngoài
phía trước, xong việc lập tức chạy đến đó, chia thành đội mười người, tản ra trốn ở
các nơi tránh gió, đừng tùy tiện trở về Bá Châu, đi!
Mấy tên đầu mục khẽ dạ một tiếng, những lưỡi đao trắng buốt như rừng lập loè
phản chiếu dưới ánh trăng, phát ra một quầng hào quang lạnh lẽo.
Hơn hai trăm đạo tặc lục lâm giết người không chớp mắt, bước chân như gió,
chạy ào ào về phía thôn trang đang đắm mình trong ánh trăng yên ả, trong tĩnh lặng
chỉ có tiếng gió lạnh thổn thức táp vào mặt.
Chú thích:(1) Cuối đời nhà Nguyên, Hàn Sơn Đồng và Lưu Phúc Thông lợi dụng danh
nghĩa tôn giáo tổ chức cuộc khởi nghĩa võ trang nông dân, dùng khăn đỏ làm dấu
hiệu, thường gọi là "hồng quân" (quân đội đỏ), bởi bọn họ thắp hương cúng Phật,
nên cũng gọi là "hương quân" (quân đội dâng hương). (theo Minh sử - Hàn Lâm
Nhi truyện)
(2) Người xưa cho rằng quan tướng và vua chúa đều ứng với một vì sao trên
trời. Tướng tinh chỉ vì sao tượng trưng cho đại tướng. Đế tinh, còn được gọi là thiên
đế, tục gọi là sao Tử Vi, là ngôi sao trong chòm Tử Hùng.NGƯỢC VỀ THỜI MINH
Nguyệt Quan
www.dtv-ebook.com
Chương 174: Mãnh Hổ Phá Vây
Trước mặt là vài chục gốc táo to, ở giữa là một con đường dẫn đến một cây cầu,
vượt qua cây cầu nọ là đã đến địa giới Cao Lão trang. Lá cây đã rụng hết, những
gốc táo già hình thù kì lạ có vẻ hơi quỷ dị giữa màn đêm.
Quen thuộc đường lối, Dương Hổ giơ tay phất nhẹ rồi lập tức chạy tới. Bọn hắn
chỉ còn cách rừng táo chừng hơn hai mươi trượng thì trước mặt chợt có một chùm
ánh lửa bắn lên cao, cảnh vật chung quanh hiện rõ trong màn đêm. Dương Hổ
không khỏi cả kinh, bước chân vừa hơi chậm lại thì giữa không trung đã nổ bùng
một quả cầu lửa.
Ánh sáng chiếu lên rực rỡ, nhưng tiếng nổ thì lại rất nhỏ, khói lửa bừng lên rồi
vụt tắt, trong khu rừng phía trước đột nhiên xuất hiện rất nhiều bóng người. Cũng
chẳng rõ có bao nhiêu người tất cả, nhưng dưới ánh trăng mờ mịt, ánh sáng lạnh
ngắt phản chiếu từ những thanh vũ khí thì lại tràn ngập những luồng sát khí khiến
người ta phải rùng mình.
Tên sơn tặc Mã Nhị theo sát bên cạnh Dương Hổ kinh hãi kêu lên:
- Hổ ca! Bọn chó săn đã phòng bị rồi, chúng ta mau rút thôi!
Dương Hổ cũng kinh hãi không ít, nhìn tình hình này thì rõ ràng quan binh đã
sớm mai phục ở đây. Sao tin tức bị rò rỉ được?
Dương Lăng đã chuẩn bị sẵn, đêm nay muốn động đến y e là không còn cơ hội
rồi. Trong lòng Dương Hổ thầm bực bội nhưng cũng chẳng sợ hãi chút nào, sự bất
tài của quan binh hắn sớm đã lãnh giáo qua. Cho dù đám sơn tặc bình thường đi
chăng nữa thì bọn quan binh nếu không có quân số đông gấp mấy lần thì cũng
chẳng dám tùy tiện trêu chọc, huống chi lần này để ám sát Hoàng đế Chính Đức hắnđã mang tới kinh sư toàn những thủ hạ đắc lực.
Chẳng hề sợ hãi, Dương Hổ lạnh lùng nhìn về phía trước. Nhận thấy số người
đột ngột xuất hiện trong rừng có khoảng hai trăm, nhân số hai bên tương đương
nhau nên hắn lại càng trấn tĩnh. Hắn lập tức cao giọng ra lệnh:
- Các huynh đệ đừng rối loạn! Bọn chúng không đông, hãy lập tức rút về phía
sau.
Đúng lúc này, ở hai bên cánh cũng có người kinh hãi kêu lên:
- Hổ ca! Bên này cũng có người. Mẹ nó, chúng ta bị bao vây rồi.
Dương Hổ kinh hãi đảo mắt nhìn qua hai bên. Dưới ánh trăng tà, hắn nhìn thấy
từ những cánh đồng hoang hai bên cánh cũng đột nhiên xuất hiện vô số quan binh.
Những kẻ này không nói một lời, chỉ lặng lẽ tiến đến, mang theo một luồng áp lực
và sát khí vô hình khiến người ta run sợ.
Dương Hổ thấy vậy trái tim bất giác run lên, Điền lão tứ từ phía sau lại chợt kêu
lớn:
- Phía sau cũng có người! Hổ ca, xông ra ngoài thôi!
Dương Hổ dừng chân lại, nghiến răng:
- Các huynh đệ, lao ra ngoài thôi! Đến điểm hẹn lấy ngựa rồi phải lập tức chia
nhau rời khỏi kinh sư!
Lúc này các quan binh đột nhiên xuất hiện từ bốn phía đã tiến đến khoảng hơn
hai mươi trượng (khoảng 67m), loáng thoáng nghe có người hô :
- Bắn!
Tiếng tên xé gió bay tới vun vút, một loạt những tiếng kêu thảm vang lên, bốn
phía xung quanh đã có mấy chục tên sơn tặc trúng tên gục ngã, cả bọn lập tức trở
nên hỗn loạn. Những phiên tử dưới tay Dương Lăng đều xuất thân từ quân ngũ, màquân đội tác chiến lấy cung nỏ làm đầu; chỉ mong giết được càng nhiều kẻ địch
càng tốt, ai còn quan tâm đến việc so bì võ nghệ cá nhân?
Trong quân có nỏ cứng, lực sát thương có thể xa tới ngàn bước chân, cung nỏ
thì có thể đưa người ta vào chỗ chết trong phạm vi ba trăm bước. Thần Cơ doanh
của Dương Lăng lấy hỏa khí làm chủ, ngoại trừ năm trăm cận vệ của Dương Lăng,
phần lớn đều không sở trường cung nỏ.
Nếu đám phiênt ử Nội xưởng sử dụng một lượng lớn hỏa khí để ra đòn phủ đầu
ngay ở gần kinh sư thì âm thanh phát ra một là sẽ làm kinh động trăm họ, hai là nếu
chuyện lọt vào trong cung, e rằng sẽ khiến triều đình kiêng dè, nghi kỵ. Do đó lần
chiến đấu này mọi quan binh đều được trang bị nỏ liên châu.
Nỏ liên châu chỉ có phạm vi sát thương trong vòng bốn mươi trượng, nhưng
hộp tên lại chưa được mười mũi, mỗi lần có thể bắn liên tiếp đượcmười phát. Hơn
nữa lực sát thương cũng rất mạnh, trong phạm vi hai mươi trượng có thể bắn xuyên
qua tấm giáp bằng da thuộc găm thẳng vào cơ thể người. Nội xưởng hiện giờ đã là
Đại Quan Thương(*) đứng đầu thiên hạ, dưới sự kinh doanh của Vu Vĩnh tiền tài đổ
vào không ngừng, ngay đến nỏ liên châu đắt đỏ cũng được trang bị tới hơn một
ngàn chiếc, ở cự li gần như vậy đương nhiên là sức sát thương càng lợi hại hơn.
(*: Quan thương: Chỉ quan lại tham gia việc buôn bán, kinh doanh; Ở đây là
Công ty quốc doanh, tập đoàn nhà nước,...)
Mắt thấy nhiều huynh đệ một lòng trung thành với mình bỏ mạng ngay trước
mặt như vậy, hai mắt Dương Hổ như phun lửa, hắn lớn tiếng quát:
- Các huynh đệ, đánh giết ra ngoài!
Nói đoạn, hắn cầm cương đao xông về phía quan binh Thần Cơ doanh ở gần
nhất.
Đám đại đạo lục lâm dũng mãnh không sợ chết nào đã từng phải chịu thiệt như
thế này? Sau chốc lát hoảng loạn, mùi máu tanh đã khiến hung tính bùng lên, bọn
chúng lập tức vung vũ khí theo sau Dương Hổ lao về phía quan binh.- Hự...
Một tên đại đạo vừa lao đi được vài bước thì đã bị tên bắn xuyên qua cổ họng,
hắn vẫn lao tiếp về phía trước vài bước theo quán tính rồi mới nặng nề ngã xuống.
Những mũi tên nỏ đều ngắn, nhỏ, khi bay đi gần như không phát ra tiếng động. Ở
giữa màn đêm thì dù với công lực của Dương Hổ cũng khó mà nhìn thấy. Hắn bèn
múa đao kín kẽ đến mức giọt nước mưa cũng không thể lọt qua, sau nháy mắt đã
lao đi được hơn mười trượng, chém bay bốn năm mũi tên.
Bên cạnh Dương Hổ không ngừng có người trúng tên ngã xuống khiến hắn
càng trợn mắt phẫn nộ. Mắt thấy chỉ cần xông tiếp về phía trước hơn mười trượng là
có thể đánh giết vào đám quan binh, tìm được một con đường sống thì đột nhiên
hắn cảm thấy đùi tê rần, thân thể loạng choạng ngã khuỵu xuống đất.
Đưa tay sờ thử, Dương Hổ nhận thấy trên đùi đã bị một mũi tên cắm ngập, chỉ
còn thừa lại phần đuôi. Không kịp rút tên ra, hắn vứt đao qua một bên, nén đau đưa
tay thọc vào thắt lưng, hai tay ném ra liên tiếp; mười hai mũi phi đao không ngừng
bay đi, quan binh trúng đao lần lượt gục ngã xuống đất.
Mười mấy tên cường đạo võ nghệ cao cường nhân cơ hội ấy hung hãn xông vào
giữa đám phiên tử, cận chiến với quan binh. Trận chiến đấu bằng đao kiếm bắt đầu
diễn ra giữa vùng đồng cỏ hoang vu, những tiếng keng keng vang lên không ngớt.
Quan binh tuy đông người, nhưng đơn đả độc đấu thì đâu thể là đối thủ của lũ đại
đạo kia. Mấy viên quan binh vừa vội vã rút đao nghênh chiến thì đã bị chém ngã
xuống đất, đám đại đạo còn lại thừa cơ ào ào xông lên, cùng quan binh triển khai
một cuộc hỗn chiến.
Vừa rồi mấy lượt tên dày như mưa xé gió bay tới khiến hai trăm tên đại đạo
ngay cả bóng mũi tên còn chưa nhìn thấy thì đã có quá nửa gục ngã rồi. Còn lại sáu
bảy chục người thì phần lớn đều có võ nghệ cực cao, hơn nữa đều vô cùng hung hãn
và cảnh giác. Có kẻ vừa thấy huynh đệ xung quanh trúng tên bèn lập tức lăn xuống
mặt đất, có kẻ thì dứt khoát xách đồng bọn vừa bị bắn chết lên làm lá chắn, giữ lấy
tính mạng của bản thân.
Dương Hổ rút mũi tên trên đùi ra, cầm lấy thanh đơn đao lưỡi hẹp vươn ngườiđứng dậy. Mấy viên phiên tử vung đao xông tới, Dương Hổ gầm lên một tiếng vang
trời, vung chân quét mạnh, một mảng đất bị hất tung lên, xen lẫn với những bông
tuyết bay rào rào về phía bọn họ.
Mấy viên phiên tử vội che mặt lùi về phía sau. Chỉ trong chớp mắt ấy, Dương
Hổ đã cười gằn tung người nhảy vọt tới, đơn đao chém ngang qua eo lưng một
người, đưa viên phiên tử đó về cõi chết. Dương Hổ đại triển thần uy, quả nhiên
chẳng khác gì hổ xông vào đàn dê, lưỡi đao đi đến đâu máu bèn bắn tung lên ở đó,
chỉ trong nháy mắt đã có sáu bảy người gục ngã dưới đao của hắn.
Sau lượt giao thủ này Dương Hổ mới phát hiện ra điều ảo diệu. Thì ra những
viên phiên tử này đều khoác áo choàng có màu sắc rất kỳ lạ: một đường xám rồi
một đường trắng ngoằn ngoèo xen lẫn vào nhau. Cho dù ở cách rất gần, Dương Hổ
cũng khó lòng nhìn thấy rõ những viên phiên tử đang quay lưng về phía hắn mà
giao chiến với các huynh đệ của hắn dưới ánh trăng. Thảo nào bọn chúng có thể mai
phục mấy trăm người ở phạm vi ngoài ba mươi trượng mà tai mắt mình cũng không
hề phát hiện.
Cường đạo tuy dũng mãnh, nhưng phiên tử lại đông người, hơn nữa tuy võ
công kém nhưng không hề có người sợ hãi lùi lại. Sáu bảy chục gã đại đạo có gần
phân nửa đã bị trúng tên rồi, chỉ cần tên nào động tác hơi chậm lại một chút là sẽ có
bốn năm thanh đao sắc bén xé nát hắn ra thành từng mảnh vụn. Sau một hồi giao
đấu, tuy quan binh đã tử thương mấy chục người, nhưng đám cường đạo cũng chỉ
còn hơn ba mươi người sống sót.
Dương Hổ thấy một huynh đệ bị phiên tử chém trúng đùi lảo đảo ngã xuống,
lưỡi đao của viên phiên tử kia đã vung lên chuẩn bị chém xuống. Hắn vội phóng vụt
thanh đao trong tay, chỉ nghe phập một tiếng, thanh đao đã cắm vào giữa sống lưng
viên phiên tử kia. Dương Hổ quyền đấm cước đá, lại đánh cho một viên phiên tử
hộc máu ngã bay đi, lớn tiếng hô to:
- Đừng ham đánh, đi!
Nói rồi hắn dẫn đầu xông thẳng ra ngoài, đám cường đạo bèn lập tức bám sát
theo sau. Vết thương trên đùi Dương Hổ chưa được băng bó nên sau một hồi giaochiến miệng vết thương bị rách toạc ra, máu tuôn như suối. Tuy thế hắn vẫn chẳng
để tâm, vừa chạy vừa vung chân quết, hất không ngừng, khiến những viên đất vụn
và hoa tuyết bắn tung tóe. Trong lúc các phiên tử thu đao lại để che đỡ, đám cường
đạo đã nhân cơ hội xông vào chém giết rồi.
Mấy chục tên đại đạo này tụ tập lại một chỗ để phá vây, các phiên tử có thể giao
chiến trực tiếp với bọn chúng chỉ còn là những người đang đối diện bọn chúng, ưu
thế về nhân số lập tức giảm hẳn. Do đó, bọn chúng dần dần xông ra, sắp thoát khỏi
vòng vây.
Các phiên tử này đều là do hai người Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh dốc lòng
dốc sức huấn luyện, nhưng kinh nghiệm chiến đấu lại không đủ. Trong bọn chỉ có
mấy viên thập trưởng là kinh nghiệm chiến đấu phong phú, lại từng theo Dương
Lăng trải qua mấy cuộc đại chiến ở Giang Nam. Một viên thập trưởng thấy người
của mình võ nghệ kém xa đám đại đạo hung hãn kia, chiến đấu giáp lá cà chính là
lấy sở đoản của mình đấu với sở trường của kẻ địch. Y lập tức gọi những phiên tử
có nỏ liên châu chưa bắn hết tên lại, rồi quay về phía những người còn đang liều
chết ngăn cản đám đại đạo mà hô lớn:
- Lùi hết lại đi, đừng hỗn chiến với bọn chúng, nhanh lên...
Lời của y còn chưa dứt, Dương Hổ đã nhận biết được điều không hay. Hắn lập
tức tung người nhảy vọt tới hệt như mãnh hổ vồ mồi, sau nháy mắt đã đứng trước
mặt y. Mấy viên phiên tử vừa vung đao lên, Dương Hổ đã quát lớn một tiếng như
sấm động, thiết quyền trên tay phải mang theo tiếng gió đánh ra, "bình" một tiếng
trúng vào ngực của viên thập trưởng kia, khiến cho ngực y lõm hẳn vào.
Lời của viên thập trưởng bị nghẹn lại trong cổ họng, thân hình ngã bay về phía
sau, làm ngã mấy viên thủ hạ. Lúc này trong cổ họng y chỉ còn phát ra những tiếng
rên khẽ, thất khiếu đều rỉ máu, hẳn không sống được nữa rồi. Thân hình Dương Hổ
khom xuống, tránh khỏi hai thanh cương đao, đoạn cùi trỏ tay trái thúc ra, đánh bay
một viên phiên tử, lại vung chân phải đá về phía sau, trúng vào bụng một người, lại
tiện tay đoạt lấy một thanh đao, giữa không trung lập tức bắn tung một màn mưa
máu. Bốn phía xung quanh đao thương liền sát, không ngờ lại chẳng ai có thể đếngần hắn được.
Dương Hổ nhân cơ hội xông trở về giữa đám cường đạo, lớn tiếng hô to:
- Xông ra theo ta, kẻ nào cản ta thì chết!
Những phiên tử này vốn chưa từng nhìn thấy tên cường đạo nào hung hãn dũng
mãnh như vậy, khí thế lập tức giảm hẳn. Dương Hổ cùng mấy tên đại đạo tung
hoành phương bắc, là những tay đại đạo hung hãn nhất, xông lên trước mở đường.
Vũ khí trong tay bọn chúng vung lên chém xuống không ngừng, ra tay không hề
nương nhẹ, rốt cuộc lại mở được một con đường máu. Hơn ba mươi tên cường đạo
một lòng liều mạng trốn vào trong màn đêm hun hút.
***
Cửa lớn của phủ Uy Vũ Bá mở rộng, hai chiếc đèn lớn màu đỏ chiếu sáng khu
vực trước cửa như ban ngày, trong phòng chính thắp một cây nến to bằng cánh tay
trẻ nhỏ. Mái tóc dài của Dương Lăng được buộc lại buông qua sau vai, trên người
mặc một chiếc áo bông ống tay bó màu xanh nước biển, bên ngoài khoác thêm
chiếc áo không tay, ngồi nghiêm trang giữa phòng, dáng vẻ hết sức phong tưu tiêu
sái.
Thành Khởi Vận đầu đội chiếc mũ cánh chuồn cánh mềm(**), trên người mặc
chiếc trường bào cổ tròn tay áo hẹp, môi đỏ răng trắng, dáng vẻ nôn nóng đi đi lại
lại trước mặt Dương Lăng. Liễu Bưu đứng ngay trước cửa phòng, một gã phiên tử
vội vã chạy vào trong sân, lại gần gã khẽ nói mấy câu gì đó. Liễu Bưu phất tay cho
lui, đoạn xoay người bước vào phòng. Thành Khởi Vận lập tức không kìm được
hỏi:
- Liễu đại nhân, thế nào rồi?
(**) xem hình thứ 3
Liễu Bưu cất tiếng tán thưởng:
- Quả không hổ là đại đạo Dương Hổ, sơn tặc hung hãn nhất lục lâm phươngbắc!
Xưởng đốc! Thành đại nhân! Dương Hổ dẫn theo chừng hai trăm người. Dù bị
chúng ta phục kích nhưng hắn vẫn mang được hơn ba mươi người mở một đường
máu, đột phá trùng vây.
Dương Lăng và Thành Khởi Vận nghe xong liền đồng thanh cất tiếng hỏi.
Dương Lăng hỏi rằng:
- Người của chúng ta thương vong thế nào?
Thành Khởi Vận thì hỏi:
- Đã phái người đuổi theo chưa? Phục binh ở nơi giấu ngựa đã thu xếp ổn thỏa
chưa?
Hai người vừa mới nói xong, Thành Khởi Vận liền không khỏi đỏ mặt.
Trong lòng Dương Lăng thầm thở dài. Cô nương này vẫn quá chú trọng đến lợi
ích, chỉ suy nghĩ đến bản thân, hoàn toàn không để tâm đến sự sống chết của người
khác.
Tuy nàng đã lặng lẽ giúp đỡ Dương Lăng rất nhiều chuyện, lại hết sức dịu dàng
chưa từng than trách. Cho dù là người làm bằng sắt hẳn cũng phải bị nàng khiến cho
mềm lòng rồi, nhưng Dương Lăng thủy chung vẫn có mấy phần cảnh giác, nguyên
nhân chính là vì điều này.
Nàng có lẽ đã thật sự nảy sinh tình cảm với y, nhưng Dương Lăng không biết
mối tình cảm này có trọng lượng thế nào trong lòng nàng. Y không thể biết một khi
gặp phải áp lực nặng nề từ bên ngoài, khi buộc phải phát sinh xung đột lợi ích với y,
liệu nàng có từ bỏ tình cảm để lựa chọn lợi ích, phản bội y hay không.
Cuộc đời nàng quá phức tạp, tuy thực khiến người khác phải cảm thông, nhưng
cũng vì thế mà đã tôi luyện trái tim của nàng trở nên cứng rắn như sắt đá, chỉ biết
lấy lợi ích làm đầu. Không trải qua những sự trải nghiệm lâu dài và quan sát cẩn
thận, thực sự người ta khó có thể yên tâm về sự trung thành của nàng.Liễu Bưu đáp lời Dương Lăng:
- Xưởng đốc bất tất phải lo lắng! Chúng ta chẳng qua chỉ thương vong mấy
chục người, lũ sơn tặc ngoài mười mấy kẻ trọng thương bị bắt và hơn ba chục kẻ
trốn thoát ra, còn lại đều đã bị giết chết.
Nói xong gã lại quay sang cười nói với Thành Khởi Vận:
- Thành đại nhân yên tâm! Bành đáng đầu đã đích thân dẫn theo người của Hỏa
Súng doanh đến mai phục chỗ Lộ Ao Lí cách đây mấy dặm. Đám tàn dư sơn tặc nếu
không chạy tới đó thì ngày mai chúng ta sẽ truy nã khắp nơi, bọn chúng chỉ có thể
khoanh tay chờ trói. Còn nếu bọn chúng chạy tới chỗ đó thì đêm nay cho dù mọc
cánh cũng khó mà bay thoát.
Dương Lăng gật gật đầu, bảo:
- Là bản đốc đã đánh giá thấp đám sơn tặc này! Thật không ngờ bọn chúng còn
dũng mãnh hơn hải khấu, vốn ta cho rằng ngoài vợ chồng Dương Hổ ra thì chẳng
còn cao thủ nào khác nữa.
Thành Khởi Vận hơi chau mày lại, nói với Dương Lăng:
- Đại nhân! Vốn chúng ta tưởng rằng bọn chúng sẽ dốc hết lực lượng, sau khi
xong việc thì trốn đi nơi khác, do đó phục binh của chúng ta đều mai phục ở ngoài
thành. Dương thiên hộ chỉ dẫn theo hơn hai chục huynh đệ giám sát trong thành mà
thôi.
Tin tức vừa đưa về cho biết chỉ một mình Dương Hổ rời khỏi khu nhà đó,
nương tử của hắn sao còn lưu lại trong thành? Chẳng lẽ không sợ bên này xảy ra
chuyện, ả sẽ chẳng còn cơ hội rời đi ư? Hay là còn có âm mưu gì khác?
Dương Lăng lắc đầu đáp:
- Ta cũng không đoán được dụng ý của vợ chồng bọn họ, ban đêm khi cửa
thành đã đóng dù là bản quan cũng chẳng thể kêu mở cửa thành được.Y đứng dậy đi đi lại lại vài bước trong phòng, đột nhiên ngẩng đầu ra lệnh:
- Không thể đợi thêm nữa, mau đi truyền tin, kêu Dương Nhất Thanh lập tức
triệu tập người của Ngũ Thành Binh Mã ti đi bắt... đi bắt Hồng Nương Tử ngay!
***
Cửa phòng của Thôi Oanh Nhi vang lên mấy tiếng "cốc cốc". Nàng lập tức giật
mình tỉnh dậy, hỏi:
- Chuyện gì thế?
Nàng vén chiếc rèm lên, vì đợi trượng phu trở về nên nàng vẫn để nguyên ngọn
nến không tắt. Đưa mắt nhìn ngọn nến thấy đã cháy được quá nửa, Thôi Oanh Nhi
bất giác hơi chau mày, lúc này chắc hẳn đã đến canh ba mà Dương Hổ và Lưu Thần
Tiên vẫn còn đang uống rượu hay sao?
Giọng nói của Thúy Nhi ngoài cửa khẽ vang lên:
- Tiểu thư! Mau mau dậy thôi, chúng ta phải lập tức rời đi!
Hồng Nương Tử đưa tay với áo váy vội vã mặc vào, bước xuống giường mang
giày rồi kéo cửa phòng ra. Thấy Lưu đạo sĩ cũng đang đứng ngoài cửa với Thúy
Nhi, bất giác nàng ngây người. Vừa buộc chặt cổ áo nàng vừa hỏi:
- Xảy ra chuyện gì vậy? Dương Hổ đâu?
Mái tóc của Hồng Nương Tử buông xõa qua vai, làn da để lộ ra nơi cổ áo trắng
mịn động lòng người, đầu tóc hơi rối, dáng vẻ mơ màng, thực là vô cùng quyến rũ.
Lưu đạo sĩ không kìm được cặp mắt sáng bừng, lão không dám để lộ ra vẻ thèm
muốn, bèn vội vàng cúi đầu xuống.
Thúy Nhi lắp bắp đáp:
- Tiểu thư, cô gia lúc canh hai đã rời thành đến phủ Uy Vũ Bá rồi. Lúc này e
rằng đã phát động, chúng ta cũng phải mai mau rời thành mới được.Hồng Nương Tử ngẩn người, rồi lập tức cả giận:
- Hắn còn không chịu bỏ cuộc sao? Lá gan của ngươi lớn thật, sao đến bây giờ
mới nói với ta?
Lưu lão đạo vội cười xun xoe:
- Phu nhân! Thủ lĩnh quyết ý muốn đi, bắt lão đạo phải giấu giếm thay cho ông
ấy, Thúy Nhi cô nương cũng vừa mới biết. Thủ lĩnh đã chuẩn bị sẵn ngựa ở Lộ Ao
Lí bên ngoài thành, yêu cầu lão đạo đến canh ba thì thông báo cho phu nhân mau
mau rời thành đến đó hội họp. Lúc này thời gian vừa đúng, chúng ta mau mau lên
đường thôi. Đến khi trời sáng thì tin tức Dương Lăng bị giết chắc đã truyền vào
trong thành, lúc đó muốn đi cũng khó.
Mày liễu dựng ngược, Hồng Nương Tử chẳng nói lời nào vội vã đi vào trong
phòng, cánh cửa phòng rầm một tiếng đóng chặt lại. Thúy Nhi không kìm được le le
lưỡi, Lưu lão đạo thì lại lộ một nụ cười quỷ dị tỏ ý gian kế đã thành.
Chỉ sau khoảnh khắc cửa phòng đã lại mở ra. Hồng Nương Tử thay một bộ
quần áo màu xanh bó sát người, mái tóc dài được một chiếc khăn lụa quấn chặt lại,
trên vòng eo thon đeo một thanh đoản kiếm, dưới chân đi đôi giày đế mềm, thần
thái lạnh lùng, tràn đầy khí khái.
Thôi Oanh Nhi bừng bừng nổi giận bảo:
- Đi, theo ta rời thành!
Chú thích:
(1) Cuối đời nhà Nguyên, Hàn Sơn Đồng và Lưu Phúc Thông lợi dụng danh
nghĩa tôn giáo tổ chức cuộc khởi nghĩa võ trang nông dân, dùng khăn đỏ làm dấu
hiệu, thường gọi là "hồng quân" (quân đội đỏ), bởi bọn họ thắp hương cúng Phật,
nên cũng gọi là "hương quân" (quân đội dâng hương). (theo Minh sử - Hàn Lâm
Nhi truyện)
(2) Người xưa cho rằng quan tướng và vua chúa đều ứng với một vì sao trêntrời. Tướng tinh chỉ vì sao tượng trưng cho đại tướng. Đế tinh, còn được gọi là thiên
đế, tục gọi là sao Tử Vi, là ngôi sao trong chòm Tử Hùng.NGƯỢC VỀ THỜI MINH
Nguyệt Quan
www.dtv-ebook.com
Chương 175 Không Rõ Sống Chết
Bóng đêm sâu thẳm trở lại vẻ tĩnh mịch vốn dĩ của nó.
Trận đại chiến ngoài thôn chỉ kinh động đến hơn chục hộ gia đình kế cận, song
tiếng chó sủa inh ỏi lại khiến cả thôn náo loạn. Có mấy kẻ hóng chuyện mặc quần
áo vào chạy ra quan sát thì bị phiên tử được bố trí canh phòng trong thôn ngăn cản,
giải thích rằng có giặc cướp đột nhập vào thôn cướp bóc, Nội xưởng đang tróc nã,
rồi hết sức khách sáo mời bọn họ trở về.
Những thôn dân này thấy động tĩnh không lớn, quan binh lấp ló đầy thôn xóm,
nghĩ bụng dưới chân thiên tử cho dù có giặc cỏ cũng bất quá chỉ là vài con sâu mọt
hại dân, bèn lẩu bẩu lầu bầu trở về nhà, chèn thêm cây chày cán bột lên cửa rồi yên
tâm đi ngủ.
Trong Phủ Uy Vũ Bá, Dương Lăng hớp ngụm trà đặc, Thành Khởi Vận đang
ngồi bên cạnh, y vô tình nhìn thấy nàng đang lấy bàn tay nhỏ nhắn che miệng ngáp
khẽ, không khỏi hiểu ý bèn cười bảo:
- Mọi thứ đã rõ ràng, đại cuộc đã định, lần này hẳn là đã yên tâm rồi chứ?
Những thứ hiện cần làm chẳng qua là giải quyết hậu quả, nữ Gia Cát hãy về phòng
nghỉ ngơi một chút đi.
Thành Khởi Vận nguýt yêu y, khẽ trách:
- Còn dám nói giải quyết hậu quả ư? Vẫn chưa bắt được hai tên đầu mục Dương
Hổ và Hồng Nương Tử đó. Bọn chúng ấy... giang hồ truyền rằng chúng đang chuẩn
bị tụ tập tạo phản, đại nhân há có thể lơ là?
Ngoại trừ Ninh Vương, Dương Lăng không nhớ vào thời Chính Đức có sự kiện
quy mô lớn nào khác. Cuộc khởi nghĩa Bạch Liên giáo của Đường Tái Nhi(1), TừHồng Nho(2), thậm chí là cuộc khởi nghĩa nông dân của Lý Tự Thành(3) và Trương
Hiến Trung(4) đều không thuộc niên đại này, thiết nghĩ cho dù có chuyện giang hồ
đồn đãi thì cùng lắm cũng chỉ lũ nhãi nhép không có tiền đồ tự chiếm núi xưng làm
vua cỏ mà thôi.
Dương Lăng nghĩ đi nghĩ lại, nhớ rõ là không có đôi đạo tặc nào như vậy thành
công, bèn tự tin cười nói:
- Đại Minh vận nước đang thịnh, bên ngoài không có họa lớn có thể thương tổn
đến gốc rễ, bên trong cũng không lo bị dân biến. Chỉ vài tên đạo tặc lục lâm thì có
thể làm nên chuyện gì chứ? Huống hồ, trừ phi Dương Hổ thấy tình thế không ổn,
lập tức bỏ đường cái mà chạy, bằng không chỉ cần hắn đến Lộ Ao lí, trước năm
trăm tay súng hỏa mai, cho dù võ công có lợi hại thế nào cũng đừng hòng thoát
chết. Nếu nói lo lắng thì ta lại lo cho tình hình trong thành. Giết quan chính là tạo
phản, vạn lần không ngờ Dương Hổ tập kích mà Hồng Nương Tử lại vẫn ở trong
thành. Nơi đó chỉ an bài hơn hai mươi người, cái đám phiên tử cậy quyền đó tuy là
những kẻ lành nghề trong việc khoét cửa đào hang và dò la tin tức, song lại không
thạo việc bắt giặc tróc hung. Ta đã từng chứng kiến võ nghệ của Hồng Nương Tử,
nếu ả nhận được tin tức mà trốn tránh trước khi Ngũ thành binh mã ty xuất binh,
Nhất Thanh tuyệt sẽ không ngăn được ả.
Thành Khởi Vận đảo tròng mắt, che môi khẽ cười nói:
- Hoá ra đại nhân cực khổ chờ đợi ở đây không phải vì muốn biết tung tích của
Dương Hổ mà vì lo vuột mất vị Hồng Nương Tử này.
Dương Lăng vờ nạt:
- Giỏi cho Khởi Vận nhà ngươi, đem bản quan ra đùa cợt có phải không?
Thành Khởi Vận liền duyên dáng đáp lại:
- Khởi Vận nào dám ạ?
Dương Lăng trừng mắt với nàng, rồi thở dài bảo:- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, để xem cô ta có mạng sống đến bình minh
không. Đám người này tụ tập làm loạn, ít nhiều cũng vì bị tham quan ô lại và sự
quản lý tồi của triều đình bức bách, vô kế mưu sinh mới phải lên Lương Sơn. Tội
không thể tha, song về tình thì có thể thứ. Ép bản quan phải vùi hoa dập liễu, quả
thực trong lòng có phần không nỡ.
Từ xưa đến nay những kẻ tạo phản đối kháng triều đình đều có hình tượng rất
tốt trong đánh giá của dân gian, nếu Dương Lăng không bởi thân ở triều đình, mình
nằm trong cuộc, nghe kể về những chuyện anh hùng lục lâm này, khó dám đảm bảo
rằng sẽ không xem bọn họ như những người anh hùng thay trời hành đạo. Y nhớ lúc
trước từng xem một bộ phim truyền hình tựa là "Đường Tái Nhi", trong đó tướng
lĩnh nhà Minh đi dẹp loạn đều bị khắc hoạ là nham hiểm độc ác, tham lam háo sắc,
ai nấy đều là đại tham quan. Dương Lăng không khỏi thầm cười khổ: "Nếu trên
danh sách nịnh thần lại ghi thêm tên mình, nói không chừng một ngày nào đó trên
màn ảnh mình cũng sẽ mang hình tượng mắt tam giác, gò má cao, chua ngoa cay
nghiệt, hà hiếp thiện lương đây."
Thành Khởi Vận nghe vậy thì đăm chiêu, lẩm bẩm:
- Tội không thể tha, song về tình lại có thể thứ, tình có thể thứ...
Nàng trầm ngâm hồi lâu, mới thoáng liếc lấy Dương Lăng, cất giọng hờn dỗi:
- Đạo tặc giết quan tạo phản trong miệng đại nhân lại có lý lẽ để tha thứ, vậy
mà một tiểu nữ tử một lòng dốc sức cho đại nhân thì lại năm lần bảy lượt suýt nữa
bị đại nhân chém đầu.
Mặt Dương Lăng thoáng đỏ lên, hơi lúng túng nói:
- Lại nữa rồi. Ta cũng chỉ hù doạ cô một chút thôi, chứ đâu thực sự muốn động
đao động kiếm? Hồng nương tử và bản quan ranh giới phân minh, cho dù bị hại,
trong lòng bản quan cũng không có kiêng dè, cô thì lại khác...
Ánh mắt Thành Khởi Vận sáng lên, nàng mím môi, đôi mắt quyến rũ như tơ
trời liếc y, ngữ khí dịu dàng:- Nô gia... nô gia và ả ta có gì khác biệt?
Dương Lăng bỗng cảm thấy hơi rợn người, y vươn người đứng dậy, làm như
không nghe thấy và nói:
- Đi thôi, chúng ta ra trước thôn đi dạo một chút. Nếu cô đã không ngủ, vậy đi
dạo một chút sẽ không buồn ngủ nữa.
Trêu ghẹo Dương Lăng đã trở thành chuyện vui nhất cuộc đời của nàng, ngày
tháng còn dài, Thành Khởi Vận cũng không muốn bức chàng trai trẻ - mà trong ý
thức nàng coi là chỗ dựa, là tình nhân, rồi dần dà lại coi là người đệ đệ yêu mến
cưng chiều này - thẹn quá mà hoá giận. Lúc này nghe ẩn ý y tiết lộ trong lúc vô
tình, trong lòng Thành Khởi Vận chợt có cảm giác hoan hỉ và thoả mãn lạ kỳ. Nàng
cũng không truy vấn tiếp, chỉ tươi cười đứng dậy theo.
Dương Lăng đi đến trước cửa, lão quản gia vội mang áo khoác dài đến, mười
mấy tay thị vệ đứng ngoài đình trông thấy Dương Lăng liền vội khom người thi lễ.
Dương Lăng cầm lấy áo khoác, thấy Thành Khởi Vận ăn mặc hơi sơ sài, ngồi trong
trung đường lâu như vậy, đôi môi đã có chút nhợt nhạt, liền đưa cho nàng và nói:
- Khoác vào đi, ban đêm trời rét, cô chịu không nổi lạnh đâu.
Hai hàng thị vệ theo sát Dương Lăng bước vào trong sân, chợt một giọng nói
sang sảng cất lên dưới hành lang bên trái:
- Đại nhân, trong thôn có phải đã xảy ra chuyện gì? Có cần kẻ hèn cống hiến
sức lực không?
Trung đường đèn đóm sáng trưng, cả đám thị vệ phiên tử đeo đao giắt kiếm
đứng trang nghiêm trong sân, đừng nói thoát không khỏi tai mắt của Ngũ Hán Siêu
mà ngay cả chú cháu Dương Tuyền cũng sớm đã bị kinh động. Có điều khắp sân thị
đều là vệ sát khí đằng đằng, Dương Tuyền biết Dương Lăng không ưa mình nên
cũng không dám ra ngoài hỏi han.Ngũ Hán Siêu chưa được phép nên cũng không
tiện đường đột yết kiến, lúc này thấy Dương Lăng dẫn người định rời phủ, mới nhịn
không được lách ra khỏi phòng cất to tiếng hỏi han.Dương Lăng dừng chân lại, cười gọi:
- Là Hán Siêu à? Nhân mã huyên náo, thực đã làm quấy nhiễu giấc ngủ của
huynh rồi. Ha ha, huynh hãy qua đây!
Đám phiên tử tay lăm lăm đao canh phòng cẩn thậnnhường ra một con đường,
Ngũ Hán Siêu đi đến bên cạnh Dương Lăng ôm quyền vái một vái; đầu y đội khăn
tiêu dao(5), thân vận thường phục đơn bào, để tránh hiểu lầm nên hai tay để không,
thực trông cũng rất tuấn tú.
Dương Lăng vỗ vai y cười nói:
- Bản quan đã coi thường bản lĩnh của đám cường đạo giỏi võ đó quá. Nếu sớm
mời huynh xuất thủ, tên Dương Hổ đó vị tất đã có thể trốn chạy.
Ngũ Hán Siêu theo cạnh Dương Lăng, vừa ra ngoài thôn vừa nghe y kể lại lai
lịch vợ chồng Dương Hổ, lúc này mới biết Dương Phúc, thủ lĩnh đoàn ngựa thồ dọc
đường cứu mình rồi hộ tống vào kinh, lại là đạo tặc lục lâm. Ngũ Hán Siêu ngoài
giật mình thất kinh còn không khỏi thầm cảm thấy may mắn. Tuy y là con cháu
quan lại nhưng đồng thời cũng là người trong võ lâm, nghĩa khí giang hồ tri ân tất
báo ấy đối với y có ảnh hưởng rất lớn. Bất kể Dương Hổ xuất phát từ mục đích gì,
dẫu sao mình cũng đã được hắn cứu giúp và chăm sóc đưa vào kinh, nếu thực gặp
lại trong cảnh binh đao, là bắt hay tha đều sẽ muôn phần khó xử.
Ngoài đầu thôn. mấy trăm tên phiên tử đang thắp đèn soi đuốc lùng sục khắp
rừng táo bao la bát ngát; để ngừa có giặc cướp giả chết náu thân, sĩ tốt bị thương và
chết của Nội xưởng đều đã được đưa về núi. Liễu Bưu đang bố trí lại canh gác,
trông thấy Dương Lăng đến liền vội bước đến đón.
Dương Lăng nhìn thấy từng cỗ thi thể bị kéo vào trong rừng táo thì nói với Liễu
Bưu:
- Sai người canh gác, sau khi trời sáng đừng để thôn dân đến gần, tránh làm cho
bọn họ kinh sợ. Một khi cổng thành mở ra liền sai người thông báo cho bộ Hình và
Ngũ thành binh mã ty, phái người đến xử lý.Một thớt khoái mã phi tới, bị phiên tử chặn lại ở đằng xa, người trên ngựa thì
thầm cùng phiên tử một chốc thì được dẫn đến trước mặt. Người này cũng vận trang
phục Nội xưởng, nhìn thấy xưởng đốc đại nhân cũng có mặt liền vội quỳ sụp xuống
thi lễ:
- Ra mắt xưởng đốc đại nhân, Liễu đại nhân.
Liễu Bưu vội hỏi:
- Mau đứng lên, Lộ Ao lí có tin tức à? Thế nào rồi?
Phiên tử nọ đứng dậy, dáng vẻ vui mừng đáp:
- Đại nhân, giặc cướp tháo chạy về Lộ Ao lí, Cổ đáng đầu quát ra lệnh bọn
chúng tước nộp vũ khí, một đợt hỏa lực đồng loạt đã bắn cho chúng thành cái nia,
không tên nào thoát thân.
Dương Lăng lộ vẻ xúc động hỏi:
- Dương Hổ... cũng nằm trong số đó chứ?
Phiên tử do dự một chút rồi đáp:
- Việc đó... Lộ Ao lí không giữ lại người sống, chúng thuộc hạ không biết tướng
mạo tên đạo tặc đó, Cổ đáng đầu đang dẫn người dọn dẹp thi thể, độ nửa canh giờ
nữa sẽ có thể đưa toàn bộ xác người về tới.
Liễu Bưu khẽ nói:
- Đại nhân từng thấy diện mạo của tên thủ lĩnh đạo tặc đó, cũng có thể tra hỏi
mấy tên còn sống bị bắt , đại nhân chớ nên sốt ruột. Có điều... theo ti chức thấy,
Dương Hổ ắt sẽ lành ít dữ nhiều.
Dương Lăng lặng lẽ gật đầu, phiên tử nọ lại hớn hở khoe:
- Xưởng đốc đại nhân, hai trăm thớt mã đó đều là ngựa tốt ở biên tái, Bành đại
nhân mê thích không thôi, Nội xưởng chúng ta quả thực chưa từng có ngựa tốt nhưvậy.
Dương Lăng chỉ cười cười mà không nói gì, thời này ngựa tốt khó tìm, cũng
khó trách Bành Kế Tổ vui sướng như vậy, nếu còn một canh giờ nữa Bành Kế Tổ
mới trở về, Dương Lăng liền muốn trở lên núi thăm hỏi thương binh một lượt.
Trong lúc vô ý, y hướng mắt vọng nhìn về phương xa, mắt chợt nheo lại, trong bóng
đêm lờ mờ thoáng ẩn hiện một chấm đen; người đó cưỡi ngựa, không men theo
đường nhỏ, mà băng thẳng qua đồng ruộng phi tới, phương hướng chính là kinh
thành.
Thành Khởi Vận và Ngũ Hán Siêu cũng đến gần, khi còn cách khoảng mười
bước người đó liền nhảy xuống ngựa, vừa chạy đến phía trước vừa gọi lớn:
- Có Liễu đại nhân ở đây không? Trong thành đã truyền tin tức đến rồi.
Liễu Bưu vội vàng bước lên mấy bước đón, quát:
- Đừng gấp, từ từ mà nói, xưởng đốc đại nhân đang ở đây.
Phiên tử nọ không ngừng thở dốc, trông thấy Dương Lăng dưới hai hàng đuốc,
vội vàng bước tới thưa:
- Đại nhân, trong thành Dương thiên hộ truyền ra tin tức, vào canh ba Hồng
Nương Tử dẫn theo sáu bảy người đột nhiên rời khỏi viện trạch, Dương thiên hộ
chưa kịp điều binh, đành phải âm thầm bám đuôi, Hồng nương tử chưa rời khỏi ngõ
hẻm liền phát hiện có người theo dõi, lập tức đã dẫn người trốn vào trong một hộ
gia đình rồi trèo tường chạy mất. Dương đại nhân nhận được lệnh căn dặn của đại
nhân, đã thông tri cho Ngũ thành binh mã ty lục soát truy bắt khắp khu vực đó, song
vẫn chưa có tung tích.
Dương Lăng gật nhẹ đầu, nói với Liễu Bưu:
- Ta đoán bọn chúng cũng sẽ không ở yên đó chờ đợi. Nhất Thanh nhân thủ
không đủ, đối phó không nổi đám cường đạo bản lĩnh cao cường này là việc nằm
trong dự liệu, bất kể bọn chúng ở lại trong thành còn có âm mưu gì, đã kinh độngchúng ta, đêm nay sẽ không giở thêm thủ đoạn gì nữa đâu. Bảo Nhất Thanh đừng
làm ra thanh thế quá lớn, không có chứng cứ tạo phản, nếu chỉ vì mấy tên cường
đạo xâm phạm phủ ta mà lục soát toàn thành, đám ngôn quan sẽ lại sinh sự đấy.
Liễu Bưu dạ một tiếng, căn dặn tên phiên tử đó mấy câu, kẻ đó liền chắp tay
cáo từ, phóng lên ngựa rồi lại vội vàng phi lướt vào trong màn đêm. Dương Lăng
dõi về phía kinh thành đương chìm trong bóng đêm, khẽ lắc đầu nói:
- Kinh sư rộng lớn như vậy, nếu bọn chúng đã chạy thoát, biển người mênh
mông, muốn bắt lại sẽ khó đây.
Thành Khởi Vận máy động trong lòng, vội nói:
- Đại nhân, quả như Dương Hổ đã chết, vậy phải đề phòng Hồng Nương Tử báo
thù cho chồng. Người phụ nữ này có công phu cao cường, nếu tập kích ám sát, sẽ
khó lòng phòng bị.
Từ khi đến thời đại này, Dương Lăng cũng biết võ nghệ cá nhân còn lâu mới lợi
hại như trên phim ảnh, có thể ngang nhiên xông vào đối địch với thiên quân vạn mã.
Bất quá trong thời đại chủ yếu sử dụng vũ khí lạnh này, chung quy võ nghệ vẫn còn
có thể phát huy tác dụng trọng đại. Nếu như có một quả phụ xinh đẹp có thể băng
tường vượt nóc như đi trên đất bằng suốt ngày tìm cách lấy mạng mình, hại khiến
mình đi đâu cũng chẳng dám đi, thì thực sẽ khiến người ta rất nhức đầu.
Y dời ánh mắt, chợt thấy Ngũ Hán Siêu đang đứng cạnh mình, thế là không
khỏi bật cười thoải mái:
- Ta có Ngũ Hán Siêu, há còn sợ Hồng Nương Tử? Hán Siêu à, bản quan vốn
định ngày mai tiến cử huynh vào triều làm quan, tìm một công việc trong Lục Bộ,
nay xem ra huynh phải tạm thời ở cạnh bản quan chờ đợi rồi.
Võ nghệ của Ngũ Hán Siêu hơn hẳn tài văn chương, cũng không có thành kiến
gì với xưởng vệ, ở lại trong Nội xưởng quyền khuynh thiên hạ đương nhiên oai
phong hơn hẳn đi đến Lục Bộ làm một chức quan bé rồi. Ngũ Hán Siêu nghe vậy thì
mỉm cười, vái một vái dài đáp:- Vốn là mong ước không dám thỉnh cầu. Hán Siêu nguyện noi theo ý đại nhân,
bám gót từ đây.
*****
Hồng Nương Tử đang dẫn người chạy ra khỏi ngõ tắt, liền phát hiện có người
âm thầm theo dõi. Nơi ở của nàng đã nằm trong sự giám thị, vậy hành động tập kích
thôn trang của Dương Hổ còn có thể thành công sao? Thôi Oanh Nhi vừa nghĩ vậy,
lòng liền như lửa đốt, hận không thể lập tức xông ra khỏi thành, cứu trượng phu
thoát khỏi lao ngục.
Công phu quyền cước của Lưu đạo sĩ tuy kém, song tâm kế lại cao sâu hơn
nàng, vừa nghe có người ngầm theo dõi, lập tức khuyên Hồng Nương Tử theo lão
lẩn trốn trước. Lúc này hành động của Dương hổ sớm đã phát động, nếu như trúng
kế thì cũng đã trúng rồi.
Lúc này mà rời thành thì chỉ tổ tự chui đầu vào lưới, chi bằng thừa lúc đối
phương vẫn chưa điều động nhân thủ đối phó với nàng mà mau chạy trốn và náu
thân. Quả như Dương Hổ bình yên vô sự, sẽ lại phái người đến liên lạc cùng hắn, ví
bằng Dương Hổ thất bại, có thể cứu được thì cứu, cùng lắm cũng có thể giữ lại
người báo thù cho hắn.
Hồng Nương Tử tuy bận lòng đến sự an nguy của trượng phu như từ nhỏ lớn
lên trong giới lục lâm, nghe quen tai nhìn quen mắt, đương nhiên biết được lợi hại
trong đó. Tuy nói rằng kẻ nào tài cao gan đều lớn, song nàng cũng không dám vọng
tưởng lấy sức một mình mình đối kháng với quan binh đã sớm có chuẩn bị, sau
thoáng cân nhắc, đành chọn theo Lưu đạo sĩ trốn đi.
Từ thời Tống, Nguyên đến nay, Bạch Liên giáo nhiều lần khởi sự, nhiều lần thất
bại, nhưng hương hoả vẫn chưa tận. Sau khi Chu Nguyên Chương lợi dụng Bạch
Liên giáo khởi sự và thâu tóm được thiên hạ, sự đả kích đối với bọn họ càng thêm
kinh khủng. Trong quan phủ có một lượng lớn xuất thân là người của Bạch Liên
giáo, cho nên hiểu rõ phương thức liên lạc như lòng bàn tay, qua nhiều bài học kinh
nghiệm bằng xương máu, hành tung của Bạch Liên giáo và phân đàn của nó càng
trở nên bí hiểm, kinh nghiệm trốn chạy cũng vì vậy mà phong phú hơn.Từ sau khi giáo phái Di Lặc của Lý Phúc Đạt khởi sự ở Sơn Tây thất bại, bị
quan phủ vây quét, đã chuyển hướng vươn vòi sang các thế lực thân hào đại tộc các
nơi, nơi an toàn để ẩn náu càng nhiều không đếm xuể.
Có dân chúng cuồng tín bị bọn họ dùng phép thuật che mắt khiến cho thần hồn
điên đảo, có phú hào đại tộc bước lên thuyền giặc, đến khi tỉnh ngộ muốn rút chân
thì vận mệnh của cả gia tộc đều đã ràng chung với giáo phái Di Lặc, không thể
không tiếp tay cho giặc.
Ở kinh sư Hồng Nương Tử lạ nước lạ cái, song Lưu đạo sĩ lại biết rõ đường đi
lối tắt hơn nhiều. Ban đêm binh sĩ tuần thành ở kinh sư cực đông, bọn họ xuyên nhà
trèo tường mà đi, vừa thoát khỏi Dương Nhất Thanh và đám thủ hạ, lại tránh được
tai mắt quan binh.
Bọn họ lặng lẽ trèo vào một khu trạch viện rộng lớn, rồi lại men theo bóng đêm
trèo từ phía vách tường vào; cũng không biết là nhà của ai. Lưu đạo sĩ bịa chuyện
nói rằng đây là nơi ở của một tín đồ của lão, bảo đám người Hồng Nương Tử đợi tại
hoa viên, còn lão thì lách vào bên trong sân như một bóng ma, lặng lẽ đi vào tìm
kiếm chủ nhân.
Sau thời gian hai chén trà, một viên ngoại dáng phốp pháp mồ hôi đầy đầu mặc
áo dài gấm màu đồng, đích thân cầm đèn lồng theo Lưu đạo sĩ chạy ra, cuống quít
dẫn bọn họ vào sâu trong nhà rồi thu xếp chỗ ở.
Cho dù kết cấu phòng ốc, trạch viện của mỗi gia đình giàu có những thay đổi
nhất định nhưng phần lớn vẫn theo kết cấu tạo thành bởi tiền viện, trung đường, hậu
viên của nội quyến, sương phòng. Cùng lắm là thêm vài nhà ngang ở phía đông và
phía tây để thết đãi bạn bè thân thích, tuy nhiên những chỗ chi tiết thì rất hiếm khi
rập khuôn. Trong bóng tối mà Lưu đạo sĩ có thể tìm thẳng đến chủ nhà mà không
kinh động những người khác, hiển nhiên là hết sức quen thuộc nơi này.
Với sự cơ cảnh thường ngày của Hồng Nương Tử trông thấy chuyện này khó
tránh sẽ có điều nghi ngờ về thân phận thật của Lưu đạo sĩ, có điều lúc này lòng
nàng đang rối như tơ vò, nên cũng không bận tâm đến những chi tiết nhỏ này. Tuy
rằng nàng vô cùng bất mãn với hành vi của trượng phu mình, song nói cho cùng thìvẫn là phu quân nàng, sao có thể không để ý đến sống chết của hắn.
Trạch viện này là chỗ ở gia đình này dùng để chiêu đãi thân bằng quyến thuộc,
do đã cuối năm, cho nên phòng ốc được dọn sạch sẽ tươm tất. Căn phòng của Thôi
Oanh Nhi là nơi ở dành cho nữ quyến, trên bàn trang điểm thắp một ngọn đèn dầu,
phát ra ánh sáng lờ mờ u ám.
Chủ nhà được gọi là Cừu viên ngoại kêu mấy gia nhân tâm phúc dậy đốt hai lò
than đồng hình đầu thú trong phòng, trong chốc lát căn phòng ấm áp như xuân. Thu
xếp ổn thoả hết thảy, Lưu đạo sĩ đưa Cừu viên ngoại đi. Hai người ra đến dưới hành
lang bên ngoài, thấy không ai ra theo, Cừu viên ngoại mới quệt mồ hôi túa ra vì
căng thẳng, hết sức lo lắng nói:
- Lưu hương chủ, ngài dẫn đến đều là những kẻ gì vậy. Kẻ nào kẻ nấy cầm kiếm
cầm đao, ngay cả vị nương tử áo đỏ đó trông cũng thật đáng sợ. Gần trăm nhân
khẩu cả nhà Cừu mỗ, ngài đừng hại ta đó.
Lưu đạo sĩ cười nham hiểm trấn an:
- Cừu viên ngoại, ông cứ việc yên tâm, chỉ cần ông không rêu rao ra ngoài, trừ
khi là hoàng đế bị giết, ai dám xông vào hết mọi nhà trong kinh thành để bắt người
chứ? An toàn lắm.
Lão thấy trời đang rét run mà Cừu viên ngoại lại đổ mồ hôi ròng ròng khắp mặt
thì nhịn không được bèn bật cười ha hả, rồi vỗ vỗ vai hắn nói:
- Ông là thí chủ hộ pháp của bản giáo, nếu như bản giáo đoạt được thiên hạ,
vinh hoa phú quý há sẽ thiếu phần ông? Yên tâm đi, chúng ta ở lại đây nửa bước
không ra, sáng sớm ngày mai ông phái người ra ngoài dò la tin tức một chút, xem
thử Nội xưởng có động tĩnh gì không?
Cừu viên ngoại cuống quít giậm chân nài khẩn:
- Ối trời ơi! Hương chủ của tôi ơi, không ngờ các người lại trêu chọc đến Nội
xưởng nữa? Bên phía xưởng vệ đáng sợ nhất chính là Nội xưởng đó. Các người...các người...
Lưu đạo sĩ lạnh lùng nói:
- Ông tỉnh lại đi, chúng ta làm là giao dịch tạo phản đoạt thiên hạ! Nội xưởng
ư? Cho dù là hoàng đế, chúng ta cũng không sợ trêu phải. Ngươi là hộ pháp hương
đàn của bản giáo trong kinh sư, làm nhiều việc cho bản giáo như vậy, đứa con bảo
bối độc nhất của ngươi thì được giữ lại bên người giáo chủ, sớm đã là người cùng
hội cùng thuyền với chúng ta rồi.
Lão hừ một tiếng rồi tiếp:
- Còn nữa, phải tránh nhắc đến thân phận của ngươi và ta trước mặt người khác,
kể cả những người mà ta dẫn đến, bọn họ không phải là người của bản giáo. Trở về
ôm lục phu nhân của ngươi mà ngủ ngon giấc đi, ngày mai thức dậy đừng quên đi
dò la tin tức cho ta đó.
Đoạn lão cười ám muội nói:
- Lục phu nhân là đệ tử thánh đường của bản giáo, cô ả lẳng lơ đó quyến rũ
động lòng người, công phu trên giường cao thâm lắm. Cái đồ già nhà ngươi có
phước hưởng thụ còn không phải vì bản giáo coi trọng thân phận của ngươi ư. Nên
tự thu xếp cho ổn thoả đi.
Nói rồi Lưu đạo sĩ xoay người đi vào phòng. Cừu viên ngoại cầm đèn lồng,
đứng ngây người trong gió thật lâu. Một cơn gió thổi tới, lão bất giác rùng mình, lúc
này mới thở dài ra một hơi, thẫn thờ bước đi.
Lưu đạo sĩ lách mình vào trong căn phòng của Hồng Nương Tử. Đây là khuê
phòng nữ nhân, màn lụa cuộn lên, trên chiếc giường khảm ngà voi đặt một chồng
chăn gấm, bề mặt lờ mờ để lộ hình uyên ương hí thủy bằng tơ lụa. Thôi Oanh Nhi
vận bộ đồ bó sát người màu xanh thẫm, đang ngồi trước bàn nhíu mày trầm tư.
Eo thon mảnh khảnh, bờ mông tròn lẳn đẫy đà, phơi bày mọi đường cong, vẻ
phong tình mê hoặc lòng người. Lưu đạo sĩ bước vào, vừa trông thấy dưới ánh đènThôi Oanh Nhi tựa như một đoá mẫu đơn màu đen; dáng người như ngọc, nét mặt
như hoa, trong mắt không khỏi loé lên vẻ dị thường.
Thúy Nhi đang đứng hầu cạnh bên trông thấy vậy thì không khỏi bĩu môi. Hồng
Nương Tử là hào kiệt lục lâm, không hề để ý đến những quy củ thối tha của các gia
đình giàu có, thấy lão ta không gõ cửa đã xông vào khuê phòng thì không hề lấy
làm tức giận, mà lại lo lắng hỏi:
- Lưu tiên sinh, Hổ ca sống chết không rõ, ta thật sự một khắc cũng không yên,
theo tiên sinh thấy, huynh ấy có thể gặp chuyện không?
Lưu đạo sĩ bày ra bộ mặt thần bí khó lường, nghiêm mặt nói:
- Dương phu nhân, bần đạo đã bấm đốt tính toán, đương kim hoàng đế Đế tinh
sắp sụp, lại có Tướng tinh phò tá, tạm thời chuyển nguy thành an. Khi ấy không biết
Tướng tinh đó là người nào, nay xem ra, chính là ứng trên người Dương Lăng.
Chậc, là bần đạo không thể xem trộm thiên cơ, đã không ngăn cản lão đại.
Lão ngồi đối diện với Thôi Oanh Nhi, dưới ánh đèn hai cánh tay thon thả trắng
nõn như hoa lan, da dẻ sáng ngời, trong lòng lão không khỏi gợn sóng, lập tức cụp
ánh mắt, kiềm chế ý niệm muốn vuốt ve một phen. Nữ nhân này thoạt trông thì yêu
kiều mềm mại, lúc động thủ lại hung mãnh hơn cọp dữ, quyền nào cước nào đều đủ
lấy mạng, lão thực không dám vọng động.
Lưu đạo sĩ bấm ngón tay, làm bộ làm tịch nói:
- Trong số mạng của mỗi con người đều có ba ngôi sao chính, Thất Sát coi giữ
thành bại, Phá Quân coi giữ chinh phạt, Tham Lang coi giữ hoạ phúc, hiện Tổng
Biều Bả Tử bị sao Phá Quân coi giữ chinh phạt nhập vào cung chủ mệnh, mới gặp
phải kiếp nạn này.
Thôi Oanh Nhi run rẩy hỏi:
- Vậy... có thể bị thương hoặc sống chết sao?
Lưu đạo sĩ nào dám nói hắn đã chết, người phụ nữ này tính nóng như lửa, trởmặt còn nhanh hơn lật sách, nếu ngày mai nhận được tin báo tử của Dương Hổ, e
rằng cho dù mình có nói ông trời sắp sập thì cô nàng cũng sẽ không chịu để yên
đâu.
Thế là Lưu đạo sĩ cười khùng khục, ậm ờ trả lời:
- Dương Lăng là Tướng tinh hộ vệ cho Đế tinh cũ, mà lão đại là Đế tinh mới, cũ
mới thay nhau, nhật nguyệt luân chuyển, trong số mệnh của lão đại nên có kiếp này.
Bất quá Phá Quân nhập chủ cũng là chuyện tốt, đại nạn không chết mai sau ắt sẽ
gặp phúc. Chờ hai ngôi sao còn lại cũng nhập vào cung chủ mệnh, Sát-Phá-Lang
tam tinh tụ hợp, thì thiên hạ tất sẽ đổi chủ, không thể nghịch chuyển!
Thôi Oanh Nhi đứng bật dậy vung tay áo nói:
- Nói cả buổi vẫn chưa biết rõ là sống hay chết, cửa ải này có thể vượt qua hay
không còn không biết đây,
Nói rồi nàng mới cảm thấy mình quá nặng lời, bèn lúng túng phẩy mái tóc mai,
giọng dịu lại:
- Nô gia lo cho trượng phu, nóng lòng nên đã thất lễ, xin tiên sinh chớ trách.
Nói đoạn nàng đanh mặt lại, sát khí đằng đằng:
- Nô gia sẽ đợi tại nơi này, ngày mai dò thám được tin tức rồi hẵng nói tiếp.
Nếu Dương Hổ bình yên vô sự thì thôi, nhược bằng huynh ấy xảy ra chuyện gì
không may, Thôi Oanh Nhi là phận nữ nhi, cũng sẽ mặc kệ hắn là Tướng tinh hay
Đế tinh gì, ta nhất định sẽ đánh vào Dương phủ. Cho dù có liều mạng đồng quy vu
tận cũng phải giết chết cái tên khốn đó!
(1) Đường Tái Nhi (1399 - không rõ năm mất), nữ thủ lĩnh Bạch Liên giáo trứ
danh trong cuộc khởi nghĩa nông dân đầu thời Minh, là người huyện Bồ Đài châu
Tân tỉnh Sơn Đông.
(2) Từ Hồng Nho (không rõ năm sinh - 1622), người Cự Dã tỉnh Sơn Đông,
giáo đồ Bạch Liên giáo, thủ lĩnh cuộc dân biến cuối thời Minh, tự xưng là TrungHưng Phúc Liệt đế.
(3) Lý Tự Thành (1606 - 1645?), người Mễ Chi, tỉnh Thiểm Tây, là người đã
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân lật đổ nhà Minh vào năm 1644, tự xưng Đại
Thuận hoàng đế.
(4) Trương Hiến Trung (1606 – 1647), tên tự là Bỉnh Trung, hiệu là Kính Hiên,
người Bảo Giản, huyện Liễu Thụ, vệ Duyên An, là lãnh tụ khởi nghĩa nông dân
cuối đời nhà Minh, từng kiến lập chính quyền Đại Tây; đồng thời với Lý Tự Thành,
người kiến lập chính quyền Đại Thuận.
(5) "tiêu diêu cân", còn gọi là "hà diệp cân" (khăn lá sen)NGƯỢC VỀ THỜI MINH
Nguyệt Quan
www.dtv-ebook.com
Chương 176 Tiệc Rượu
Quyển 5 - Quần ma loạn vũ - Chương 176 Tiệc rượu.
------------------------
Hôm qua một toán cướp lớn bị tiêu diệt, gần hai trăm cỗ thi hài được giao cho
Ngũ thành binh mã ty. Dưới chân thiên tử lại xảy ra vụ án lớn như vậy, Ngũ thành
binh mã ty và Kinh doanh khẩn trương vạn phần, lập tức tăng cường kiểm soát kinh
sư, nghiêm ngặt thẩm tra từng bá tánh muốn ra khỏi thành; thám mã của bộ Hình
lẫn ba xưởng một vệ liên tục xuất hiện, dò la tin tức khắp nơi.
Triều đình không muốn bá tánh biết tin vào ngày cận Tết lại có một đám cướp
lớn tập kích trọng thần triều đình vào ban đêm, tránh cho lòng người phấp phỏng;
nhưng như thế lại càng phản tác dụng, đủ loại tin đồn vẫn được lan truyền.
Đến khi có người đến Cao Lão trang thăm viếng bạn bè trở về, câu chuyện dần
dần được thống nhất: kể rằng có một đám đại đạo đến từ phương Bắc, đều là hảo
hán lục lâm võ nghệ cao cường, một có thể chọi trăm, ban đêm tìm đến Nội xưởng
làm loạn. Sau khi giáp chiến với mấy ngàn phiên tử Nội xưởng, toàn quân đã bị
diệt. Lại kể rằng thủ lĩnh đám giặc cướp nọ tên là Dương Hổ, thân cao hai trượng,
lưng hùm vai gấu, một mình đã giết chết hơn trăm viên phiên tử Nội xưởng, cuối
cùng bị súng thần hỏa bắn thủng như cái nia. Tin tức đó đã trở thành đề tài hấp dẫn
nhất của mọi người khi thăm thân nhân viếng bằng hữu trong dịp tết ông Táo.
Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh đều mong muốn biến cả Cao Lão trang thành
quân doanh để đề phòng vợ chồng Dương Hổ quay lại, nhưng Dương Lăng nhất
quyết không chịu. Đừng nói hôm nay là ngày tết ông Táo, là ngày mà bá tánh đi
thăm viếng thân nhân bằng hữu, mà cho dù là ngày thường, cũng không có lẽ gì lại
hạn chế mọi người ra vào. Đây là Cao Lão trang, chứ không phải là Nội tập sựxưởng; là Uy Vũ bá cư trú ở thôn trang, chứ không phải người của thôn trang cư trú
trong Nội xưởng.
Không còn cách nào khác, hai người Liễu Bưu đành "ngoài buông lơi trong siết
chặt". Tuy không cấm tiệt bá tánh lui tới trong thôn thăm hỏi thân nhân, cũng không
hề có người đến gặng hỏi, song chung quanh phủ Uy Vũ Bá lại bí mật bố trí thêm
nhân thủ, tăng cường canh gác.
Thi thể của đám đạo tặc bị loạn súng bắn chết tại Lộ Ao lý hôm qua đều đã
được đưa về, trong đó không hề thấy hình dáng của Dương Hổ. Vào giờ Tỵ ba khắc,
Bắc trấn phủ ty Thiệu Tiết Vũ của Cẩm Y vệ phái người đến đưa tin rằng bọn họ bắt
được một tên đạo tặc bị thương đang chạy trốn. Kẻ đó hung hãn không sợ chết, khi
phải hứng chịu đủ loại cực hình của Cẩm Y vệ đã định cắn lưỡi tự vận nhưng không
thành. Sau khi trải qua thêm mấy loại cực hình tàn khốc khác hắn đành phải thều
thào tiết lộ sự thật.
Đêm qua Dương Hổ thoát khỏi kiếp nạn quả thực là do ý trời. Vốn dĩ Dương
Hổ trúng tên trên bắp đùi, trong lúc chiến đấu ác liệt miệng vết thương bị toét lớn,
máu chảy không ngừng. Thoát ra khỏi vòng vây được ba dặm thì thân thể cường
tráng của hắn cũng không chịu nổi nữa, bốn tên bộ hạ thân tín đành phải dìu hắn ẩn
náu trong một phần mộ ven đường để băng bó vết thương, chờ đợi các huynh đệ đi
kiếm ngựa về.
Không ngờ đợi một hồi rồi lại thêm một lúc, cả bọn láng máng nghe đâu đó như
có tiếng súng giòn giã như đậu rang. Một tên đạo tặc bèn lặng lẽ bí mật lẻn đi quan
sát thì thấy Bành Kế Tổ đang hào hứng dẫn binh sĩ thu thập thi thể và thu gom ngựa
chiến. Tên đạo tặc này thấy tình thế không ổn, lập tức trở về bẩm báo với Dương
Hổ, mấy người bọn chúng bèn trốn vào đồng hoang.
Đến tảng sáng, bọn chúng chạy vào một thôn trang nhỏ không rõ tên, cướp
được ba thớt la và ngựa, hai tên thân tín kèm Dương Hổ chạy trốn mất dạng, hai tên
còn lại chia nhau lẩn tránh. Tên này luống cuống không biết đường, bị Cẩm Y Vệ
thấy khả nghi chặn lại. Vừa mới bị gặng hỏi mấy câu thì tên đạo tặc này liền đột
ngột ra tay đả thương người, giết chết sáu bảy tay Cẩm Y Vệ. Cuối cùng một ngườikhông chống nổi đám đông nên gã đã bị bắt.
Nghe được tin tức này, Dương Lăng liền đoán rằng rất có nhiều khả năng
Dương Hổ đã trốn về sào huyệt, bèn căn dặn thủ hạ thông tri cho bộ Hình, bảo bọn
họ gởi công văn đến Bá châu, lệnh cho quan phủ địa phương tra kỹ vụ án này. Thu
xếp xong xuôi, Dương Lăng mới trở về phủ chuẩn bị đón tiếp khoản đãi khách mời
sẽ đến dự tiệc hôm nay.
Tuy rằng trong ngoài kinh sư căng như dây đàn nhưng bên trong Dương phủ lại
ngập tràn bầu không khí vui vẻ. Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận, Vu Vĩnh, Bành Kế Tổ,
Liên Đắc Lộc, Phùng Đường và thậm chí cả Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh sau
khi đã an bài thủ vệ thỏa đáng đều tụ tập dưới một mái nhà. Những người này đều
là trụ cột của Nội xưởng, hết lòng theo phò Dương Lăng, tận sức tận lực, Nội xưởng
mới có thể phát triển nhanh chóng như hiện nay.
Hơn nửa năm mưa máu gió tanh, chung vai tác chiến, những người này cùng
tiến cùng lui, nay nghiễm nhiên đã trở thành một nhóm có chung lợi ích gắn kết
vững bền. Dương Lăng tin tưởng bọn họ vô cùng.
Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận và Vu Vĩnh đều dẫn theo gia quyến đến phủ. Ngô
Kiệt dưới gối không con, chỉ dẫn phu nhân cùng đến; Hoàng phu nhân dẫn theo
cháu trai; trưởng nữ của Vu Vĩnh đã xuất giá, lão ta dẫn theo cả phu nhân lẫn nhị
nữ, tam nữ. Gia quyến của ba vị Đô ty thuộc Thần Cơ doanh trước đây đều đang
sinh sống ở nơi khác; bình thường bọn họ vẫn sống trên núi, chỉ thi thoảng vào
thành tìm đến xóm làng chơi hưởng thụ mùi vị âu yếm, cho nên bọn họ đi dự tiệc
hết sức thuận tiện.
Ngày thường Hàn Ấu Nương, Ngọc Nhi và Tuyết Nhi ăn mặc hết sức tùy ý,
trang điểm qua loa, vì ở không trong nhà nên các nàng cùng lắm cũng chỉ đeo bông
tai và cài trâm nạm trân châu. Hôm nay khách đến rộn nhà, bọn họ bèn khoác lên
người những bộ cánh sang trọng theo bên cạnh Dương Lăng, xinh đẹp như hoa,
sáng ngời như ngọc.
Hoàng phu nhân, Ngô phu nhân và Vu phu nhân tuổi đã hơn năm mươi nên
rành rẽ lễ nghi. Vừa gặp các vị Cáo Mệnh phu nhân của triều đình, cả ba bà liền vộibước tới làm đại lễ yết kiến khiến ba cô nàng tuổi còn nhỏ xíu ngượng chín cả mặt,
lật đật bước tới đỡ dậy.
Phu nhân Vu Vĩnh cũng là người Sắc Mục, mũi cao mắt sâu, mái tóc vàng óng.
Người Sắc Mục ở kinh sư không hiếm nên ngoại trừ Hàn Ấu Nương, các cô này ai
nấy đều có kiến thức sâu rộng nên không hề lấy làm lạ, nhưng hai người con gái
thướt tha chưa xuất giá của Vu phu nhân đang đứng sau lưng bà ấy thì lại hấp dẫn
ánh mắt mọi người.
Vóc dáng thon cao, so với Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận bọn họ còn cao
hơn non nửa đầu, mái tóc mềm mại óng vàng, mặt che bởi một lớp voan mỏng chỉ
để lộ hai con mắt xinh xắn màu xanh thẫm, chiếc mũi ngọc ngà cùng cánh môi anh
đào như ẩn như hiện dưới lớp voan càng làm tăng thêm vẻ mỹ miều.
Đôi tỷ muội này vận váy lụa cân vạt ống tay hẹp, bên ngoài khoác áo chẽn bông
nhiều màu. Bên dưới là một chiếc quần dài ống chật màu xanh nhạt làm tôn thêm vẻ
mềm mại dịu dàng của thân hình gợi cảm; đường cong trên đôi chân thon thả chắc
nịch ẩn dưới lớp quần trông hết sức mê người. Lúc di chuyển eo thon khẽ đong đưa
càng khiến người ta thêm mê mệt, gây một ấn tượng thật mạnh.
Phụ nữ thời Minh ra ngoài rất thích mặc áo chẽn váy khít, rất hiếm người mặc
quần dài ống chật hoặc miệng ống loe, có thể gặp mỹ nữ phong tình dị quốc ăn mặc
như vậy lại càng thêm hiếm. Tô Tam và Tuyết Lý Mai thầm nổi lòng hiếu thắng, thế
nhưng bên dưới bộ ngực cao vút và bên trên cặp mông tròn lẳn như trăng rằm mà
dường như còn to gấp đôi của bọn họ, chiếc eo thon thả mảnh dẻ khiến người ta
phải đỏ mắt vì ghen tị ấy không khỏi khiến bọn họ âm thầm cảm thấy hổ thẹn.
Các cô thực không biết hai chị em đó đã dùng thứ gì mà có thể thít chặt eo đến
tắt thở như vậy, bằng không cho dù eo họ có thon cỡ nào đi chăng nữa thì làm sao
có thể thon thả bằng chiếc eo của hai cô chứ?
Dương Lăng tươi cười đón khách vào trong nhà. Thành Khởi Vận và Cao Văn
Tâm cũng tươi cười nghênh đón, rồi cùng với Hàn Ấu Nương vừa vui vẻ chuyện trò
vừa đưa nữ khách theo hành lang bên hông vào trong hậu viện.Dương Lăng đưa đám khách đàn ông vào trung đường. Trong chậu than lửa kêu
tí tách, than củi thượng đẳng trộn lẫn hương liệu cháy thơm ngát cả căn phòng.
Quản gia sớm đã bày biện đủ bàn ghế.
Mọi người ngồi vào chỗ trò chuyện cười đùa. Uống trà đàm đạo được một chốc,
Dương Lăng mỉm cười đứng dậy nói:
- Ngô lão, Hoàng lão, các vị huynh đệ đồng nghiệp! Dương mỗ nhờ có các vị
dốc lòng tương trợ, Nội xưởng mới có được ngày oanh oanh liệt liệt như hôm nay.
Hôm nay là ngày tết ông Táo, Dương mỗ mời các vị hảo huynh đệ vào phủ sum họp
một nhà là để biểu đạt sự tôn kính và lòng cảm tạ với các vị. Chỉ mong huynh đệ
chúng ta nắm tay đồng hành, về sau kiến công lập nghiệp, Nội xưởng của chúng
ta...
Đoạn y chỉ vào ngọn lửa đang cháy bùng trong chậu than nói tiếp:
- Nội xưởng của chúng ta dưới sự nỗ lực chung của các vị và ta sẽ huy hoàng
rực rỡ, phát triển không ngừng như ngọn lửa này.
Liên Đắc Lộc cười lớn:
- Xưởng đốc quá khách sáo rồi, nếu như Nội xưởng không có đại nhân chủ trì
thì sao có được oai phong của ngày hôm nay? Thỉnh thoảng ti chức trở về Thần Cơ
doanh chơi, những người bạn đồng liêu nơi đó gặp ti chức đều kính sợ và hâm mộ
không thôi. Theo đại nhân ngài kiếm sống, tuyệt đối là không sai.
Một trận cười lớn nổ vang khắp căn phòng. Bành Đắc Lộc ưỡn cái bụng phệ ra
vẻ trịnh trọng gật gù phụ hoạ:
- Nói rất đúng. Thực ra lần đầu ti chức gặp đại nhân, thấy đại nhân bước lên
điểm tướng đài, khí vũ hiên ngang, oai phong lẫm liệt, liền đã cảm thấy đại nhân
tuyệt không phải là vật trong ao rồi. Nhãn quang của lão Bành quả nhiên không tệ!
Lời ba hoa tâng bốc của lão khiến ngay cả Phùng Đường xưa nay luôn hiền
lành ít nói cũng nhịn không được phải bật cười phì. Dương Lăng mỉm cười nhìnlão, chế diễu:
- Thật như thế à? Khi đó bản quan bị Bào tham tướng gây khó dễ, dẫn mấy
người các ông dùng đại lễ yết kiến Liễu thiên hộ; lúc bản quan đăng đài điểm
tướng, bản quan thấy lão Bành ông hình như vẫn chưa tình nguyện quỳ xuống mà.
Chẳng lẽ vì bụng quá to cho nên khó quỳ?
Bành Kế Tổ bị y trêu khiến khuôn mặt già đỏ au, nghe được câu cuối liền vội
vỗ bụng tán thành:
- Chính phải, chính phải! Xưởng đốc thật anh minh. Ti chức đều bị cái bụng
này cản trở, hắc hắc, là do cái bụng to này cản trở.
"Ha ha", mọi người càng cười to hơn. Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh nghe
xong cũng không khỏi cảm khái vạn phần. Đúng là "nam sợ đi lầm đường, nữ sợ gả
lầm chỗ". Mới nửa năm trước đây mình chỉ là một viên hiệu úy cỏn con của Cẩm Y
vệ, từ ngày đi theo Dương Lăng lại thăng tiến như diều gặp gió, nay cho dù là Cẩm
Y đề đốc gặp mình cũng phải đối đãi nồng hậu mấy phần. Chức thiên hộ này kẻ
khác dù lăn lộn ba mươi năm cũng chưa chắc đã với tới được.
Đợi mọi người ngưng cười, Dương Lăng nói tiếp:
- Thành nhị đáng đầu là nữ nhân, không tiện cùng mọi người uống rượu, hiện
cô ta đã ra hậu viện bầu bạn cùng phu nhân, chúng ta không cần phải...
Bành Kế Tổ ngoác miệng cười to:
- Cô ta không có mặt ở đây càng tốt. Lần trước cô ta đến Nội xưởng dạo một
vòng, cặp mắt hoa đào đó liếc Bành mỗ một cái, hại khiến lão Bành ta tim đập thình
thịch, cả ngày cũng không yên...
Liên Đắc Lộc ngồi cạnh chợt huých khuỷu tay vào hông Bành Kế Tổ khiến lão
loạng choạng suýt ngã. Lão quay đầu lại bực bội la lên:
- Cái tên Liên mặt rỗ này, chưa uống mà đã bị ma men nhập rồi à?! Ngươi
huých ta làm gì?Liên Đắc Lộc nháy mắt với lão:
- Lỡ tay, chỉ là lỡ tay thôi mà! Ha ha, chốc nữa huynh đệ tự phạt ba chén là
xong.
Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh không nhịn được cúi mặt cười thầm. Ngô Kiệt
vừa vuốt râu mỉm cười vừa liếc nhìn Dương Lăng không nói gì. Dương Lăng thấy
Vu Vĩnh nghiêng người kề tai nói nhỏ mấy câu với Bành Kế Tổ, khuôn mặt lão
Bành lập tức xám ngoét như quả gan lợn, thấp thỏm liếc về phía mình, thì bất giác
cũng cảm thấy lúng túng.
Đừng nói là ở thời đó, cho dù ở xã hội hiện đại thì việc trọng dụng một người
con gái cũng đã là đề tài câu chuyện được mọi người say sưa bàn tán, huống hồ đó
lại là một người con gái duyên dáng yêu kiều, phong tình tha thướt; làm sao không
có những lời đồn đãi phong tình chứ?
Dương Lăng ho khan vài tiếng, vờ như không trông thấy, tiếp tục:
- Ngoài ra, bản quan còn muốn giới thiệu với các vị một vị bằng hữu: Hán Siêu!
Ngũ Hán Siêu từ nội thư phòng lách người bước ra, ôm quyền vái mọi người:
- Ngũ Hán Siêu ra mắt các vị đại nhân.
Mọi người thấy là người do Dương Lăng tự thân giới thiệu nên nào dám qua
quýt, liền vội đứng dậy chào hỏi. Dương Lăng ra hiệu bảo Ngũ Hán Siêu ngồi vào
chỗ rồi cười nói:
- Hán Siêu là công tử của Ngũ Văn Định đại nhân, Thành Đô đồng tri, là đệ tử
thân truyền của chưởng môn chân nhân núi Võ Đang, giỏi văn hay võ, một thân tài
nghệ hết sức cao cường.
Nội xưởng vừa mới thành lập, nhân tài thiếu hụt, bản đốc cầu hiền như khát
nước, may kết giao được Hán Siêu, huynh ấy đã đáp ứng tương trợ bản đốc, gia
nhập vào Nội xưởng cùng làm việc. Sau này Hán Siêu sẽ là đồng liêu của các vị,
hôm nay các vị hãy cùng nhau gặp mặt, sau này chúng ta sẽ cùng hội cùng thuyền,cùng vượt qua hoạn nạn.
Nói xong Dương Lăng vỗ tay, gia bộc nối đuôi nhau đưa món ăn lên, nhất thời
sơn hào hải vị, thức ăn hoa quả có đủ, thịnh soạn vô cùng. Từng chiếc đĩa sứ Thanh
Hoa tinh xảo sáng bóng được bày lên bàn, tiểu tì nhẹ nhàng dâng rượu rót đầy từng
chén rồi lui sang chầu chực một bên.
Dương Lăng nâng chén đứng dậy:
- Trên bàn rượu bất luận chức vị tôn ti. Ở đây Hoàng lão và Ngô lão tuổi tác cao
nhất, trước ta xin kính hai vị trưởng giả, tiếp kính các vị huynh trưởng Bành, Liên,
Phùng. Hôm nay chúng ta nhất định phải vui cho thoả thích, không say không về.
Hoàng Kỳ Dận và Ngô Kiệt vội đứng dậy chắp tay cảm tạ, mọi người đều theo
Dương Lăng đứng dậy kính rượu hai lão. Hai ông già được Dương Lăng trọng đãi
như vậy không khỏi cảm kích vạn phần, hai người ngưỡng cổ uống cạn rượu ngon
trong chén, dốc cho mọi người xem chén rượu cạn trơn rồi mới mỉm cười ngồi
xuống.
Dương Lăng cũng uống một hơi cạn rượu trong chén rồi từ từ ngồi xuống.
Rượu hôm nay dịu mà tinh khiết ngọt lịm, uống vào hai má ngát hương, là rượu
Phượng Tường(1) chính gốc, mới uống vào thì cảm thấy không nặng, dần dà ngấm
vào lại không nhẹ. Tửu lượng Dương Lăng không cao cho nên y chỉ kính rượu hai
chén, sau đó mặc kệ đám người phàm ăn tục uống Bành Kế Tổ hét hò thi rượu.
Sau ba tuần rượu, thưởng thức đồ ăn đủ các loại mùi vị(*), Ngô Kiệt mới
nghiêng người thấp giọng hỏi:
- Đại nhân, nghe nói lúc sáng Cẩm Y Vệ bắt được một tên đạo tặc lọt lưới, đã
đặc biệt chạy đến báo tin cho đại nhân?
(*) nguyên văn "ngũ vị", chỉ các món mặn, ngọt, chua, cay, đắng.
Dương Lăng kinh ngạc cười nói:
- Tai mắt của Ngô lão càng lúc càng lợi hại, người Trấn phủ ti nha môn chạyđến ông liền biết rõ nội tình ngay. Đúng vậy, Thiệu Tiết Vũ quả thực đã phái người
đến. Nhắc đến việc này, ta chợt nhớ đến một chuyện. Mục tiêu dò xét và truy lùng
bên phía Ngô lão dường như chỉ chú trọng vào các quan viên văn võ; tin tức dân
gian tuy phần nhiều là hoang đường không đáng tin, song tăng cường thêm bên phía
ấy cũng rất có ích. Nội tình chuyện Dương Hổ đến nay chúng ta vẫn chưa nắm rõ.
Sau này cũng nên chú ý thêm về phương diện này.
Ngô Kiệp đáp:
- Dạ! Bởi Nội xưởng vừa mới thành lập mạng lưới tình báo, nên vẫn chưa đủ
sức xâm nhập đến mọi ngõ ngách. Ti chức lo ngại trong triều vẫn còn quan viên gây
bất lợi cho đại nhân, cho nên cố ý yêu cầu bọn thám tử tập trung tinh thần vào triều
đình nhiều hơn, việc trong thiên hạ chúng ta cũng sẽ dần dà để ý tới.
Dương Lăng ừ một tiếng, lại nghe Ngô Kiệt nói tiếp:
- Cẩm Y vệ nghe nói đại nhân bị tập kích, đã phóng ngựa khắp nơi, dốc lòng
bán sức, vì bắt một tên cường đạo mà đã bị tử thương sáu bảy người. Đại nhân có
biết vì sao Cẩm Y vệ lại dốc sức giúp ngài như vậy không?
Ánh mắt Dương Lăng lập tức trở nên tập trung, y thấp giọng hỏi:
- Bên trong còn có nội tình gì khác à?
Ngô Kiệt cười ra vẻ bí hiểm:
- Biếu lễ cho người tất có mưu cầu. Ban đầu Trương Tú của Cẩm Y vệ dựa vào
Đông xưởng, phái Mâu Bân cực kỳ bất mãn với hành vi khom lưng uốn gối của lão
ta, cho nên sau khi lên nắm quyền hắn vẫn duy trì khoảng cách với Đông xưởng,
Tây xưởng và Nội xưởng, giữ cho Cẩm Y vệ không chịu sự tiết chế của ba xưởng.
Nay hắn hao tâm tổn trí tặng cho đại nhân món nhân tình này, đương nhiên là có
dụng tâm khác.
Dương Lăng rót rượu vào chén Ngô Kiệt, trầm ngâm:
- Ừm! Dạo này khoảng cách giữa Cẩm Y vệ và chúng ta đích thực không xacũng không gần, song bọn họ lại đem hết sức mình giúp đỡ chúng ta điều tra
chuyện buôn lậu của đám quan lại, sĩ tộc và thân hào cự phú vùng duyên hải. Mâu
Bân và Thiệu Tiết Vũ lại hết lòng trợ giúp chúng ta bắt cướp như vậy là có dụng ý
gì?
Ngô Kiệt mỉm cười đáp:
- Đây cũng chỉ là suy đoán của ti chức. Liên hệ hai việc bề ngoài không hề có
liên quan gì với nhau mà suy đoán ra, tuy nhiên dựa theo những hoạt động nổi bật
của Cẩm Y Vệ trong thời gian gần đây, dường như cũng chỉ có chuyện này là có thể
giải thích được.
Đoạn lão liếm môi, mỉm cười nói:
- Hẳn đại nhân vẫn còn nhớ chuyện hai mươi mốt người Đới Nghĩa dâng tấu
xin Hoàng thượng giữ lại Lưu Kiện và Tạ Thiên chứ?
Dương Lăng nhíu mày hỏi:
- Không phải là mấy lão ngự lại ngôn quan đó bị nhốt vào ngục một hồi rồi lại
đuổi về rồi sao? Xui xẻo nhất là hai người Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân
cũng đã được ta bảo vệ đưa đến Đại Đồng làm tướng. Chẳng lẽ lại có người đến gây
chuyện hay sao?
Ngô Kiệt cười cười đáp:
- Vậy cũng không phải, chỉ là dư âm chưa nguôi mà thôi. Khi đám người Đới
Tiễn bị bắt vào Cẩm Y vệ, lúc ở trong ngục đã viết tờ khai, luôn miệng mắng Lưu
Cẩn là tên thiến cậy quyền. Tờ khai đưa vào cung, Lưu Cẩn xem xong thì rất lấy
làm bất mãn, chưa dám dâng thẳng lên cho Hoàng thượng, mà trả lại Cẩm Y vệ kêu
bọn họ sửa đổi lời khai rồi mới trình lên. Mâu Bân cả giận, hắn bảo xưa nay Cẩm Y
vệ xét xử chưa từng có tiền lệ tự ý thay đổi lời khai của khâm phạm để dối gạt thiên
tử, cho nên khăng khăng không chịu, hai bên đã căng thẳng nhiều ngày rồi.
Cốc Đại Dụng từng ra mặt hoà giải, nhưng Mâu Bân như cưỡi trên lưng cọp,lúc này mà hắn cúi đầu trước mặt thuộc hạ thì sẽ mất sạch oai phong, thế là đành
phải mượn cớ chạy đến phương nam để tránh gió.
Mấy ngày trước còn có việc Doãn Chu Tỉ của phủ Thuận Thiên và Hầu Dương
Nguyên của Ngũ Quan giám bị Lưu Cẩn phạt đình trượng đến chết. Lý do công
khai là tham ô và chểnh mảng công vụ, song thực tế bên trong là bởi bọn họ qua lại
quá thân thiết với Cẩm Y vệ, cho nên Lưu Cẩn mới giết gà để doạ khỉ.
Dương Lăng tựa lưng vào ghế ngẫm nghĩ một chốc, rồi lắc đầu cười khổ:
- Nói vậy không bao lâu nữa thì Thiệu trấn phủ sẽ lại đến nhà nhờ ta ra mặt hoà
giải ư? Đã xét phạt cựu thần khiến cho đại học sĩ phải dẫn đầu bá quan đến quỳ
dưới cổng cung, món nợ này còn chưa tính xong mà giờ lại quay sang gây sự với
Cẩm Y Vệ rồi. Chậc! Lưu Cẩn ơi Lưu Cẩn, vị Lưu công công này tinh thần thật là
khoẻ đây, lão ta nghĩ rằng có Hoàng thượng chống lưng thì không còn phải sợ gì
nữa hay sao?
Bành Kế Tổ đang uống say đến độ con mắt lừ đừ, loáng thoáng nghe câu được
câu mất, liền bật cười lớn chen lời:
- Lưu công công hả? Ờ... sức khoẻ đương nhiên có đủ, lão ta có sức mà không
thể tiêu trên mình đàn bà, đương nhiên phải tìm ít việc làm để tiêu bớt sức lực rồi.
Liên Đắc Lộc cũng đã uống say quắc, khuôn mặt gầy gò đỏ gay như đít khỉ,
cười hềnh hệch bảo:
- Lão Bành lại nói bậy rồi! Lời này mà lan truyền ra ngoài, chính ông sẽ là
người "tiêu" đấy.
Bành Kế Tổ trợn mắt:
- Ai sẽ rêu rao ra ngoài hử? Là ngươi? Là ngươi? Hay là ngươi?
Ngón tay thô kệch của gã chỉ một vòng, đến khi chỉ tới mũi Dương Lăng, gã
mới phát hiện bất tiện, không khỏi cười hắc hắc rồi cầm chén rượu của mình lên
nốc một hơi.Dương Lăng cười cười, cúi đầu trầm ngâm:
- Phía bắc có giặc Thát xâm phạm, dùng binh là việc lớn của nước nhà. Việc bãi
bỏ lệnh bế môn tỏa cảng và dẹp trừ giặc Oa cũng cần triều đình thật tâm đoàn kết,
trên dưới một lòng. Lúc này xưởng vệ lại đấu đá lẫn nhau thực không phải là
chuyện tốt, xem ra việc hoà giải lần này vẫn phải do bản quan đứng ra thực hiện rồi.
- Không được!
Hoàng Kỳ Dận và Ngô Kiệt nãy giờ im lặng lắng nghe bỗng đồng thanh kêu to
ngăn cản. Mấy người Liễu Bưu và Ngũ Hán Siêu ngồi cách xa đó đang nâng rượu
mời nhau nghe được câu này bèn quay đầu nhìn lại.
Hai ông già mưu sâu kế rộng liền vội nhỏ giọng lại. Hoàng Kỳ Dận nói:
- Đại nhân! Làm người tốt chưa hẳn đã là việc hay. Đại nhân nhất định đừng
nhúng tay vào, nếu Thiệu Tiết Vũ tìm đến nhà, đại nhân cũng phải lựa lời thoái
thác, khi nào bọn họ còn chưa phân rõ thắng thua, đại nhân chưa thể ra mặt.
- Hử?
Dẫu sao Dương Lăng vẫn còn trẻ, mấy chuyện ơn nghĩa nhân tình này y kém
hiểu biết hai ông già lăn lộn lâu năm giữa chốn quan trường, chịu đủ mọi ghẻ lạnh
này nhiều nên không khỏi nhìn bọn họ nghi hoặc.
Ngô Kiệt giải thích:
- Ti chức chính là lo Cẩm Y Vệ sẽ tìm gặp đại nhân, cho nên mới cố ý khơi ra
chuyện này. Chuyện này rất quan hệ đến uy vọng của Cẩm Y vệ và Ti Lễ giám. Dựa
vào ảnh hưởng của đại nhân, nếu đại nhân tỏ thái độ ủng hộ một phe, phe kia cũng
chỉ có thể nuốt giận mà thôi.
Thế nhưng bất luận đại nhân có ăn nói khách sáo và uyển chuyển như thế nào
đi chăng nữa, nếu đại nhân đã khuyên Lưu Cẩn nhượng bộ, để Cẩm Y vệ công khai
trình lời cung tố cáo "bọn thiến lạm quyền" lên Hoàng thượng thì không chỉ Lưu
Cẩn sẽ ôm lòng oán hận ngài mà Bát Hổ của Nội đình cũng sẽ canh cánh tronglòng. Còn nếu đại nhân khuyên giải Mâu Bân sửa xoá lời cung thì oai vọng mà hắn
cực khổ gầy dựng trong Cẩm Y vệ cũng sẽ rơi xuống nghìn trượng.
Hoàng Kỳ Dận gật đầu tiếp lời:
- Trừ phi một phe chịu lùi bước, bằng không cuộc chiến rối rắm này sẽ không
thể nào hoá giải. Nếu như đại nhân đứng giữa điều đình, thì phe phải lùi bước sẽ
trút giận sang đại nhân. Bởi thế... đại nhân nên đặt thân mình ngoài cuộc, mặc cho
bọn chúng đấu đá long trời lở đất, đợi đến khi một phe thất bại thảm hại rồi, lúc đó
đại nhân hãy ra mặt thu nhặt tàn cuộc. Dù đại nhân chỉ hơi đưa tay cứu vớt, đảm
bảo cho sự an nguy của bọn chúng thì bọn chúng, vốn đã hứng chịu đủ mọi khổ
đau, vẫn sẽ phải mang ơn đội nghĩa đại nhân.
Dương Lăng nhìn hai người một lúc rồi lặng lẽ gật đầu. Quan lại đấu đá, diệt
trừ lẫn nhau, sự cay nghiệt và vô tình trong đó y đã phần nào giác ngộ. Y đành thở
dài bảo:
- Thôi bỏ đi. Mâu Bân đã chạy đi tránh gió, xem ra bản quan cũng phải trốn
tránh một chút vậy.
Lưu Cẩn là đại thủ lĩnh Ty Lễ Giám, mấy ngày này sự vụ trong cung rất nhiều,
lão ta nhất định không thể dứt ra bức bách Cẩm Y vệ làm việc cho lão. Ngày mai
bản quan sẽ đi gặp Hoàng thượng, việc minh ước với Đoá Nhan Tam Vệ không thể
trì hoãn quá lâu. Bản quan phải tấu xin Hoàng thượng phái một vị thân thuộc nào đó
trong hoàng thất đủ để thay mặt triều đình đến Đại Đồng vào năm sau. Bản quan sẽ
đi cùng y, trong kinh cứ để lão ta làm loạn đi.
Tiệc vui người say, đến lúc hoàng hôn nặng nề buông xuống, hầu hết mọi người
trong phòng khách đã uống đến say mèm. Hai người Bành, Liên như hai con chó
chết được thân binh dìu đỡ lên ngựa, vừa leo lên lại ngã cắm đầu xuống đất, khiến
tay đội trưởng thân binh chỉ biết cười khổ sở gọi mấy tay phiên tử cường tráng cõng
hai viên đáng đầu đang say như chết trở lên núi.
Phùng Đường bước chân cũng đã xiêu vẹo, song hành động vẫn còn tỉnh táo,
cũng cáo từ Dương Lăng xin phép lui ra. Lão quản gia đi đến hậu đường báo ẤuNương mời các vị nữ khách ra ngoài. Tiệc rượu trong hậu viện sớm đã tàn, Ấu
Nương đang ngồi tiếp chuyện trong phòng khách, nghe tin liền vội đưa các vị nữ
khách đến tiền sảnh.
Hàn Ấu Nương sắp sẵn gia nhân mang lễ vật theo sau. Nàng là nữ chủ nhân của
Dương phủ, vốn có quyền tặng lễ vật, nhưng hôm nay Dương Lăng đáp tạ đồng liêu
Nội xưởng nên nàng để Thành Khởi Vận giúp chọn ra vài món quà vừa hào phóng
vừa đúng mực, nhằm trượng phu đích thân tặng khách.
Nghe Ấu Nương dặn dò xong, Dương Lăng mỉm cười đi đến trước mặt mấy
người Ngô Kiệt và nói:
- Năm mới sắp đến, Dương mỗ có chuẩn bị một ít quà nho nhỏ tặng các vị, vẫn
mong Ngô lão, Hoàng lão và Vu đại nhân đừng từ chối.
Đoạn y lấy từ trên tay gia bộc một gói quà, hai tay bưng lấy đưa cho Hoàng Kỳ
Dận và bảo:
- Hoàng lão! Khí trời đang lạnh, Hoàng lão lại không tập võ, cả ngày chạy lên
chạy xuống phủ trên núi e sẽ nhiễm phong hàn. Đây là hai cuộn nhung Lan Châu,
nhẹ mềm lại giữ ấm, xin tặng Hoàng lão và phu nhân làm áo nhung.
Vải nhung Lan Châu vốn đã nổi danh, được chế tạo từ nhung của loài sơn
dương, một cuộn nặng chỉ mười bốn lạng (một lạng Tàu tương đương 50gr - ND),
mỏng nhẹ mà tinh xảo, trơn mượt như lụa tơ, mềm mại khít người, mặc vào rất ấm.
Hai cuộn vải nhung này cầm vào càng thấy mềm mại nhẹ nhàng hơn mấy phần,
xem ra là loại nhung Lan Châu thượng phẩm. Mặc dù đối với Dương Lăng thì giá
trị của nó không quá quý giá gì, nhưng cũng đủ biểu lộ sự quan tâm yêu quý của y,
Hoàng Kỳ Dận vui vẻ nhận lấy.
Dương Lăng cúi xuống xoa đầu đứa cháu nhỏ mới hơn mười tuổi của Hoàng
Kỳ Dận, cười bảo:
- Thằng nhóc này lại cao thêm rồi, đã mời được thầy dạy chưa?Thằng bé lễ phép thưa:
- Dương thúc thúc... Con chào đại nhân ạ! Hiện nay gia gia không có thời gian
dạy con viết chữ đọc sách nữa, cho nên đã mời thầy cho con rồi. Thầy giáo không
tốt bằng gia gia đâu, thỉnh thoảng lại đòi khẽ tay con nữa.
Dương Lăng bật cười lớn, mọi người đứng bên cạnh cũng không khỏi mỉm
cười. Dương Lăng cười bảo:
- Con mà ngoan ngoãn đọc sách thì sẽ không còn ai khẽ tay con nữa đâu.
Nói rồi y thuận tay gở miếng ngọc bội đeo ở hông, miếng ngọc bích óng ánh
trong suốt, rõ là loại thượng phẩm trân quý. Dương Lăng nhét nó vào tay thằng bé
rồi dặn dò:
- Đây, thúc thúc đại nhân tặng con quà năm mới, mau cao chóng lớn, chăm chỉ
đọc sách, học được một thân bản lĩnh nhé. Sau này con làm quan rồi sẽ chỉ có con
khẽ tay người khác, người khác sẽ không khẽ được tay con nữa.
Nói rồi Dương Lăng đứng dậy, lấy một món quà khác nói với Ngô Kiệt:
- Ngô lão! Đây là hai cuộn lụa Tô Châu, một cuộn thảm lông Thiên Trúc, ngoài
ra ở đây còn có một hũ rượu thuốc. Ngô lão là con cháu Ngô lão thần y Ngô Thanh
Viễn, gia đình có truyền thống uyên bác từ lâu, lại biết y thuật. Có điều nếu như
phương thuốc trị thấp khớp của ông đã không thể trị khỏi thì hãy dùng thử hũ rượu
thuốc này của bản quan xem sao.
Ngô Kiệt hiểu ý bèn liếc sang Cao Văn Tâm đang đứng mỉm cười bên cạnh,
cười đáp:
- Hẳn là do tay nữ thần y pha chế rồi? Ngô Kiệt thẹn là con cháu y đạo thế gia,
thế mà ngoại trừ một ít phương thuốc tổ truyền là còn nhớ, đối với y thuật chỉ hiểu
biết lơ mơ mà thôi. Thực đã làm phiền xưởng đốc đại nhân và Cao cô nương rồi.
Vu Vĩnh bàn đến chuyện buôn bán thì hết sức hào hứng. Nhưng bữa tiệc đêm
nay không ai tình nguyện nói mấy chuyện này với hắn, nên hắn đành vừa uống rượuvừa tính toán mấy chuyện buôn ngựa Tây Bắc, chế áo lông Đông Bắc, nấu muối ăn
duyên hải. Càng tính càng cảm thấy rất có lời nên tự rót tự uống vẫn cảm thấy rất
thú vị, lúc này cũng phải nhờ tôi tớ dìu đỡ mới đứng vững được.
Dương Lăng cũng không dám đối đãi qua quýt với ông thần tài này, y cầm lên
ba hộp gấm:
- Vu huynh trông nhiều hiểu rộng, bản quan cũng không biết nên tặng món gì.
Ở đây có ba món nữ trang, tuy rằng giá trị không cao nhưng chế tác rất là tinh xảo,
tặng cho phu nhân và con gái huynh vậy.
Vu Vĩnh coi Dương Lăng là tri âm có mắt nhìn người, vật phẩm của y tặng thì
tốt xấu cũng không hề quan tâm, bèn vội cười nói:
- Đa tạ đại nhân! Na Na, Liễu Liễu, mau bước lên cảm ơn đại nhân đi.
Hai người thiếu nữ vội bẽn lẽn bước lên, uyển chuyển quỳ lạy, cất giọng dịu
dàng:
- Na Na, Liễu Liễu cảm ơn Dương đại nhân.
Ở hậu trạch bọn họ đã bỏ khăn che mặt ra, khi trở về lại che mặt lại, hiện nay
tấm lụa mỏng đã che phủ hai gương mặt.
Lúc bọn họ đến khách khứa rất đông, tuy Dương Lăng cảm thấy hai người thiếu
nữ này có tấm thân khiến lòng người rung động, song cũng không thể chú ý nhiều.
Lúc này y để ý mới thấy bọn họ vận áo xanh ống hẹp, áo chẽ bó sát người, quần dài
mảnh khảnh, trên mặt lại phủ một lớp lụa mỏng chỉ để lộ cặp mắt long lanh màu
lam; lúc đôi mày liễu cong vút ngó quanh thì thần thái trông hết sức mê người.
Hàn Ấu Nương cầm lấy hộp gấm trong tay Dương Lăng đưa đến tay người con
gái có vóc dáng cao hơn, mỉm cười:
- Hai vị muội muội thật xinh đẹp, vẫn mong hai món nữ trang này có thể hợp
với tâm ý của hai người.Hai cô thiếu nữ cúi đầu vái thêm một vái, rồi mỉm cười nhận lấy hộp gấm.
Dương Lăng cười bảo:
- Ừm! Na Na nhất định là chị thứ hai, còn Liễu Liễu thì là cô em thứ ba rồi. Vu
huynh, bản quan nói có đúng không?
Dương Lăng chưa đến tuổi nhược quán (20 tuổi), nhưng luôn mồm gọi lão là
"Vu huynh", thực đã coi mình là thúc thúc của hai người thiếu nữ này. Người thiếu
nữ có cặp mặt xanh ngắt như mặt nước hồ che miệng khẽ cười đáp:
- Dương phu nhân gọi con là muội muội, Dương đại nhân lại gọi cha là Vu
huynh. Cha à, cha giỏi nhất là tính toán, không biết phép tính này nên tính thế nào
nhỉ?
Vu Vĩnh trừng mắt với nàng, rồi đáp lời Dương Lăng:
- Đúng vậy, nha đầu tinh nghịch này chính là Na Na. Phùng Y Cống Phú Nhĩ
Tư Thái Bá Cách Na Na, ha ha, đại nhân nghe thấy có oai phong không?
Mấy người Hàn Ấu Nương nghe thấy cái tên dài kỳ lạ như vậy đều bất giác che
miệng cười, Vu Vĩnh không hề phát hiện, vẫn tự dương dương dương đắc ý. Chắp
tay từ biệt Dương Lăng và các vị phu nhân xong, lão bước xiêu vẹo ra ngoài cổng,
trèo lên kiệu trở về phủ.
Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh và Ngũ Hán Siêu vừa rồi cũng đã ngà ngà say,
khi thấy Dương Lăng đã hồi phục tinh thần, ba người liền vụt đứng thẳng người
dậy. Các khuôn mặt tuấn tú tuy vẫn còn hồng hào nhưng ánh mắt đã lanh lợi sắc sảo
trở lại.
Dương Lăng gật đầu hài lòng, bảo:
- Cực khổ cho các vị rồi, mấy ngày nay vẫn cần đề phòng kín kẽ. Đám đại đạo
đó dám tụ tập mấy trăm người ngang nhiên gây án trong kinh sư, coi thường vương
pháp, trong mắt vốn không hề có triều đình. Bọn chúng có còn to gan xông tiếp vào
Dương phủ hay không, việc đó không ai dám nói trước. Liễu Bưu hãy ngủ ở tiềnviện, điều hành việc phòng vệ.
Liễu Bưu mỉm cười chắp tay đáp:
- Tuân lệnh đại nhân. Bọn ti chức cũng không uống nhiều nên sẽ không để lỡ
việc công,
Nói đoạn gã xoay người rời đi.
Dương Lăng gật đầu ra lệnh tiếp:
- Ừm! Nhất Thanh hãy đến hậu viện! Hầm sưởi đó là nơi bản quan hết sức coi
trọng. Từ trận chiến hôm qua có thể thấy được rằng, nếu không cậy vào vũ khí lợi
hại mà chỉ dựa vào sự tinh nhuệ của Nội xưởng ta thì sẽ không phải là đối thủ của
đám đại đạo lục lâm vùng vẫy chốn núi rừng đó. Huynh phải hết sức cẩn thận.
Dương Nhất Thanh để lọt mất Hồng Nương Tử ngay dưới mắt mình trong khi
Liễu Bưu ở nơi này đã vây đánh hơn hai trăm tên đại đạo ngang tàng hung hợn nhất
trong giới lục lâm, trong lòng gã sớm đã cảm thấy hổ thẹn. Cho nên gã đã hao tổn
tâm huyết đảm bảo an ninh cho hậu viện, nghe dặn dò xong liền tự tin đáp ngay:
- Đại nhân yên tâm! Trừ phi đám giặc đó không đến, bằng không cho dù có ba
đầu sáu tay cũng sẽ không thoát khỏi thiên la địa võng của ti chức!
Ngũ Hán Siêu thấy Dương Nhất Thanh đã đi, bèn nôn nóng hỏi:
- Đại nhân! Tại hạ sẽ làm gì?
Dương Lăng nhìn đánh giá chàng ta mấy lượt, rồi mỉm cười hỏi Ấu Nương:
- Ấu Nương, nàng thấy vóc người của Hán Siêu có giống ta không?
Hàn Ấu Nương cười tươi đáp:
- Ưm, chỉ rắn chắc hơn tướng công một chút thôi.
Dương Lăng bèn cười nói:- Vậy thì được rồi, nàng hãy chuẩn bị một bộ áo dài của ta, bảo người đưa đến
phòng của Hán Siêu. Ngày mai ta muốn Hán Siêu cùng theo ta vào thành một
chuyến.
Ngũ Hán Siêu nhìn lại mình từ trên xuống dưới một lượt. Dương Lăng mua
quần áo cho y không chút keo kiệt, nếu vào thành thì cớ gì phải thay đồ của Dương
Lăng chứ. Nhất thời y không biết Dương Lăng làm vậy là có dụng ý gì, trong lòng
không khỏi hơi nghi hoặc.
Dương Lăng không để ý đến vẻ ngơ ngác của chàng ta, lại nói tiếp:
- Bản quan vẫn chưa mệt, hay đến phòng huynh ngồi một chút đi.
Nói rồi y đến bên cạnh Ngũ Hán Siêu,cùng sánh vai đồng hành, vừa đi vừa cười
nhẹ:
- Nội công tâm pháp mà đêm qua huynh dạy cho ta, cái gì mà tay trái ôm nhật
nguyệt, tay phải gạt Càn Khôn, bảo rằng lúc đi đường cũng có thể luyện tập đó,
sáng nay ta mới thử một chút mà thiếu chút nữa đã trẹo cả lưng. Sáng sớm mai bản
quan sẽ kêu quân dịch (quân bưu vụ, đội dịch trạm của quân đội) đưa thiệp bái sư
đến thẳng Võ Đang cho Tiêu chưởng môn. Huynh có nói là chưởng môn chân nhân
nhất định sẽ thu nhận ta, vậy bây giờ xin nhờ đại sư huynh tương lai chỉ giáo thêm
cho tiểu đệ luôn nhé!
(1) loại rượu trắng nổi tiếng ở huyện Phượng Tường, Thiểm Tây, Trung QuốcNGƯỢC VỀ THỜI MINH
Nguyệt Quan
www.dtv-ebook.com
Chương 177 Chính Hợp Ý Trẫm
Dương Lăng đến cổng cung, kiệu phu và bốn tay thị vệ tự đi sang chỗ tránh gió
để sưởi nắng và nghỉ ngơi. Chỗ ở của Dương Lăng cách nơi này quá xa. Thường
ngày y đều cưỡi ngựa vào thành nhưng lúc này hai tên đầu sỏ của bọn thổ phỉ một
đã chạy trốn, một thì không biết có còn ẩn náu trong kinh sư không. Cho nên
Dương Lăng không dám chủ quan, sợ chẳng may sẽ bị trúng tên bắn lén.
Chiếc ghế mềm nửa nằm hoa lệ trong chiếc kiệu lớn này đã bị bỏ đi, thay bằng
hai băng ghế, một trước và một sau. Ngồi đối diện tấm rèm vải mỏng che cửa sổ
kiệu ở băng trước là Ngũ Hán Siêu đang ăn mặc giống y. Dương Lăng ngồi băng
phía sau, nhìn từ bên ngoài tuyệt không thấy chỗ nào đáng ngờ.
Dương Lăng là 'khách quen' trong cung, dù thị vệ trực gác được thay phiên ba
ngày một lần nhưng ai cũng có thể nhận ra vị đại nhân này. Ngọ môn tướng quân
(viên quan gác cổng Ngọ môn - ND) nhận lấy thẻ bài bằng ngà, liếc qua lấy lệ, rồi
tươi cười hai tay dâng trả cho Dương Lăng.
Dương Lăng thuận tay nhét thẻ bài vào trong người rồi hỏi:
- Hoàng thượng vẫn chưa bãi triều à?
Ngọ môn tướng quân cười đáp:
- Dạ phải thưa đại nhân, hạ quan vẫn luôn canh gác cổng cung, các vị đại nhân
chưa rời cung đâu.
Dương Lăng khẽ gật đầu, không xuôi theo hướng cầu Kim Thủy, mà đi vòng
qua điện Thái Hoà. Lúc này tiếng chuông, trống đồng loạt vang lên, bá quan bãi
triều, Dương Lăng đứng dưới cột hành lang lầu gác, đợi cho bá quan văn võ lui hết
ra, đội nghi trượng của hoàng đế đi về phía hậu điện, đến khi chiếc lọng vàng khuấtkhỏi tầm mắt, y mới tiếp tục cất bước về phía trung điện.
Đến trước điện Hoa Cái, chỉ thấy có hai vị đại nhân đang nổi giận đùng đùng
bước ra khỏi cổng điện, từ từ chạm mặt với Dương Lăng. Dương Lăng nhận ra họ
gồm đại tài tử Vương Ngao từng thi đỗ Tam Nguyên và Chiêm sự Dương Phương
thì lấy làm bất ngờ, bước chân bất giác dừng lại, chắp tay thi lễ với bọn họ.
Sau khi Lưu Cẩn giáng chức Lưu Kiện và Tạ Thiên, Dương Phương vì phẫn nộ
mà cáo bệnh về quê, đã lâu không ở trong kinh, hôm nay bỗng thấy ông ta lộ diện,
tuy không còn giữ cương vị xưa, song Dương Lăng vẫn dùng lễ đối đãi.
Dương Phương tuy già nhưng vẫn rất kiên cường, dù biết hiện nay chức vị
Dương Lăng tuy không đổi, nhưng quyền thế ngút trời, có thể ảnh hưởng thao túng
triều chính, song vẫn giữ mắt nhìn thẳng, lướt ngang vai mà đi.
Cách nhìn của Vương Ngao về Dương Lăng đã thay đổi rất nhiều, nhất là sau
lần bá quan quỳ trước cổng cung trong đêm tuyết, Dương Lăng khuyên bảo hoàng
đế thu hồi danh sách bè lũ gian thần, lại tiến cử Dương Nhất Thanh đang bị bãi
quan và Vương Thủ Nhân đang ở trong ngục cầm quân giữ ấn, thì cảm nhận của
ông về y tốt hơn rất nhiều. Thấy Dương Lăng thi lễ, ông vội vã dừng bước trả lễ và
nói:
- Dương đại nhân hãy bớt lễ tiết, Dương chiêm sự đã phát sinh tranh chấp với
Lý đại học sĩ nên mới tức giận bỏ đi, Vương mỗ phải đi khuyên giải đã.
Vương Ngao, Dương Phương vốn có quan hệ thân thiết với Lý Đông Dương,
Dương Lăng không biết giữa bọn họ có tranh chấp gì, bèn vội mỉm cười nói:
- Xin Vương đại nhân cứ tự nhiên.
Vương Ngao cười gượng gạo rồi nâng áo đuổi vội theo Dương Phương. Dương
Lăng ngẩn ngơ một chốc rồi cũng xoay người đi vào điện Hoa Cái.
Tiểu thái giám trông thấy Dương Lăng đến, vừa định cao giọng xướng lễ,
Dương Lăng đã vung tay ngăn lại. Vén tấm rèm che làm bằng da dê dày cộp, ybước vào buồng sưởi bên phải. Bên trong, Lý Đông Dương đang ngồi chấp bút phê
duyệt tấu chương.
Thấy Dương Lăng đi vào, Lý Đông Dương vội gác bút đứng dậy, mỉm cười với
y:
- Dương đại nhân, sao hôm nay nhàn rỗi đến thăm vậy? Xin hãy mau ngồi.
Dương Lăng cười đáp:
- Không dám nhọc đại nhân đâu.
Nói đoạn tự kéo chiếc ghế dựa đến đầu bàn ngồi. Lý Đông Dương gọi người
dâng lên một chén trà nóng, ngồi xuống rồi nói:
- Lão quan hoảng sợ khi nghe đêm qua có đám giặc cướp trắng trợn xông vào
phủ của đại nhân gây hại, bản tấu của bộ Hình ghi lại không tỉ mỉ, chẳng hay bên ấy
đại nhân có tình hình cụ thể và chi tiết không?
Dương Lăng đáp:
- Mấy tên giặc cướp bị bắt hung hãn không sợ chết, song cực hình của xưởng vệ
không phải thứ mà da thịt có thể chịu đựng được, bọn chúng không thể không khai.
Theo khẩu cung của đám đạo tặc đó, thủ lĩnh của bọn chúng là đại đạo Dương Hổ
quả thực có ý đồ mưu phản, có điều hành động ban đêm tập kích phủ đệ của bản
quan lần này dường như là do bất chợt nảy sinh, tuy nhiên rốt cuộc vì sao bọn
chúng lại tụ tập đông người như vậy lặng lẽ vào kinh thành, thì đám đạo phỉ đó
cũng không nắm rõ cụ thể.
Lý Đông Dương chau mày, khẽ gật đầu, nói:
- Ta đã xem qua kỹ lưỡng công văn từ bộ Hình, nếu nói bọn chúng đến là vì
Dương đại nhân, về tình hay lý đều không thuyết phục, càng không cần phải giả
danh Dương Phúc kết giao với đại nhân. Xem ra đích thực là do nhất thời nảy lòng,
thay đổi kế hoạch, rốt cuộc mục đích ban đầu bọn chúng vào kinh là để làm gì, thực
khiến người ta khó lòng nghĩ ra.Dương Lăng cười nói:
- Lúc này để bộ Hình và quan phủ Bá Châu đi lùng bắt là được rồi. Những
chuyện khôi hài về kẻ ngu dân mù quáng tin vào mấy lời nói vô căn cứ, tự cho mình
là chân mệnh thiên tử nhiều vô số kể, hiện triều đình đang phát lệnh truy nã, thiết
nghĩ bọn chúng cũng sẽ không dám giở trò gì đâu.
Chẳng phải thôn Mạnh Trì tỉnh Hà Nam từng có người tự cho mình là hoàng đế,
nửa số dân của cả thôn đều là tể tướng, đại thần, đứa bé mười tuổi cũng phong làm
Trạm Điện tướng quân, xưng vua gọi chúa hơn hai mươi năm mới bị triều đình phát
hiện đó sao? Tiên đế hay tin cũng chỉ cười xoà cho qua, đám ngu dân đó không một
ai bị trừng trị cả.
Lý Đông Dương nhìn y một cách đầy thâm ý, rồi vuốt râu nói:
- Hình như Dương đại nhân có ý rất muốn thông cảm lượng thứ cho đám cường
đạo có ý đồ phản nghịch này thì phải?
... đoạn lắc đầu:
- Con đê dài nghìn dặm vỡ toang chỉ vì tổ kiến nhỏ, nhà cao trăm thước cháy
rụi chỉ bởi ống khói hư. Dương Hổ không giống như đám ngu dân đấy. Hắn đã liên
lạc đại đạo lục lâm của tam sơn ngũ nhạc, âm mưu tạo phản, thậm chí tập kích trọng
thần triều đình ngay dưới chân thiên tử, có thể thấy sự hung hãn. Một khi khởi sự,
nhất định sẽ là họa lớn khôn lường.
Dương Lăng gật đầu nói:
- Đại nhân nói chí phải, có điều cái họa của bọn trộm cướp vốn lại do tệ nạn của
triều đình, bằng không hôm nay diệt trừ Dương Hổ, ngày mai lại sẽ có Trương Hổ,
Lý Hổ, sẽ không bao giờ giết hết được.
Tiên đế nắm quyền hơn mười năm, chăm lo việc nước, là vị vua hiền minh sáng
suốt xưa nay hiếm có, chỉ bởi không biết vì sao mấy năm nay thiên tai liên miên,
thường xuyên có lũ lụt cuồn cuộn nơi này, hạn hán nghìn dặm nơi nọ, lại có mộtđám tham quan không biết thương xót dân tình. Bá tánh thiếu cơm ăn áo mặc, nên
mới mặc kệ triều đình trong sạch hay thối nát, bị kẻ có lòng mê hoặc, khó tránh có
người làm loạn.
Y nâng chén hớp một ngụm trà, rồi nói tiếp:
- Những vật trồng Nam Dương mà hạ quan giới thiệu quả thực có thể khiến sản
lượng lương thực Đại Minh tăng trưởng mấy lần, cứu giúp vô số bá tánh. Hạ quan
cho rằng Dương Hổ đột nhiên nảy lòng mưu hại bản quan, chính là vì những mầm
cây được chăm sóc trong hầm sưởi mà ra. Có lẽ thoạt đầu hắn vì bị bức bách nên
làm giặc, nay đồng bọn mỗi lúc một đông, lòng tham cũng lớn theo dần, có ý dòm
ngó ngôi báu quốc gia, đương nhiên sẽ không từ thủ đoạn.
Lý Đông Dương cười lớn:
- Từ khi bản quan nghe nói về những giống cây trồng Nam Dương mà đại nhân
giới thiệu, đã từng phái người đến Nam Dương điều tra qua một phen, đám cây
trồng đó sản lượng quả thực rất cao. Tuy lão quan không biết Đông Bắc và Tây Bắc
có thích nghi để trồng trọt hay không, song nếu trồng trên dải đất rộng lớn ở Giang
Nam nhất định sẽ không thành vấn đề.
Dương Lăng mừng rỡ, vội nói:
- Đại nhân đã điều tra rồi ư? Hạ quan tuyệt không nói dối. Đất khô hạn hoặc
lạnh lẽo cũng đều thích hợp để trồng, sang xuân sau khi trồng thử liền sẽ biết rõ
đúng sai, có điều việc này cũng chỉ có thể giúp bá tánh no bụng, nếu muốn cho dân
giàu nước mạnh, giải trừ cấm biển mới là khẩn thiết.
Bá tánh vùng duyên hải chiếm ít nhất một phần tư dân số Đại Minh, nơi đó ba
phần núi, sáu phần nước, ruộng đất chỉ chiếm một phần, đất hẹp người thưa, ngũ
cốc không phong phú. Người dân sống ven biển đều lấy thuyền làm nhà, lấy biển
làm ruộng, cấm biển rồi, sinh kế của bá tánh tiêu điều, khiến những kẻ tụ tập làm
giặc mới ngày một đông.
Gỡ bỏ lệnh cấm thông thương, không chỉ giúp bá tánh được sung túc, làm dồidào quốc khố, hơn nữa còn có thể tăng cường giao lưu với mọi quốc gia hải ngoại,
người nước ngoài có sở trường của họ, chúng ta có sở đoản của chúng ta, lấy sở
trường của họ bổ sung cho sở đoản của ta, trăm sông đổ về biển lớn, đều là con
đường duy nhất để con dân Đại Minh có thể mở rộng tầm mắt và kiến thức, triều
đình có thể mở rộng biên cương, kéo dài lãnh thổ, quân đội lớn mạnh, oai danh tứ
hải. Đóng cửa làm xe còn không vừa khớp, huống hồ là một quốc gia to như vậy?
Lý Đông Dương gật đầu nói:
- Tình hình duyên hải, bản quan cũng đã sai người điều tra kỹ càng tỉ mỉ. Người
xưa có nói: hang chuột tuy là nguồn gốc của cái xấu, cũng cần phải giữ lại một cái,
nếu bịt hết lại rồi, nơi đâu cũng sẽ toàn lỗ thủng. Gỡ bỏ lệnh cấm thông thương
cũng có cái tác hại của nó, nhưng việc cai trị vốn là bỏ hại lấy lợi, chỉ vì mắc nghẹn
mà bỏ cái ăn là điều rất không khôn ngoan.
Ông nhướng mắt mỉm cười:
- Thật ra bản quan cũng đã cân nhắc nhiều ngày, ta nguyện ý giúp đỡ Dương đại
nhân gỡ bỏ lệnh cấm biển, mưu lược thông thương cùng với ngoại bang. Có điều
theo bản quan thấy, vẫn còn hai điểm cần phải thương thảo. Thứ nhất là không thể
thuyết phục bá quan triều đình, thứ nhì là nếu hiện tại gỡ bỏ lệnh cấm toàn diện,
được cái này sẽ mất cái kia, loạn giặc Oa trên biển còn chưa...
Dương Lăng hưng phấn cắt ngang:
- Điểm thứ nhất không khó xử lắm, chỉ cần Lý đại học sĩ gật đầu đồng ý, những
việc khác xin cứ giao cho hạ quan đi làm. Còn về điểm thứ hai, đại nhân lo lắng rất
phải, hạ quan cho rằng có thể mở lại Bạc ty ở Ninh Ba và Quảng Châu thị trước, rồi
mở tiếp Bạc ty ở Thiên Tân thị, cộng thêm Bạc ty sẵn có ở Tuyền Châu thị, tổng
cộng bốn nơi.
Thiên Tân thông với Triều Tiên, La Sát. Ninh Ba thông với Nhật Bản. Tuyền
Châu thông với Lưu Cầu. Quảng Châu thông với Chiêm Thành, Xiêm La và các
nước Tây Dương. Tiếp để bộ Hình, bộ Lễ và bộ Hộ lập ra các nha môn quan lại
quản lý luật pháp, tố tụng, thuế khoá và nghị định về giá cả hàng hoá giao dịchthông thương trong và ngoài nước. Đại nhân thấy có được không?
Điều mà Lý Đông Dương lo lắng nhất là Dương Lăng lạm quyền độc đoán,
giành nắm hết quyền thông thương vào tay, nghe y nói vậy thì không khỏi lấylàm
kinh ngạc: Dương Lăng hao tâm tổn sức muốn gỡ bỏ lệnh cấm thông thương, chẳng
lẽ lại không hưởng bất kỳ lợi ích, không muốn bất cứ quyền lợi gì ư?
Lý Đông Dương do dự một hồi, hỏi:
- Dương đại nhân khởi xướng việc này, chẳng lẽ một khi gỡ bỏ lệnh cấm rồi,
nội xưởng sẽ không can thiệp vào trong ư?
Dương Lăng cười thầm trong bụng. Xem ra vị Lý đại nhân này không chỉ là
hạng văn chương sáo rỗng, mà cũng biết theo đuổi lợi ích, là một người thực dụng
đây. Một khi lệnh cấm thông thượng được gỡ bỏ, cửa hàng ngựa xe rải rác khắp
toàn quốc của Dương Lăng sẽ trở thành ngành vận chuyển lớn nhất khống chế tiền
bạc lưu thông, nếu nói một ngày thu về một đấu vàng thì cũng không hề quá lời
chút nào
Dương Lăng lại nắm quyền Ty Thuế Giám, đến khi đó không biết bao nhiều
người sẽ đâm lén, bắn trộm, ghen tức với lợi ích của y, cho dù Bát Hổ hiện giờ đang
cương quyết đứng chung chiến tuyến với y, về lâu về dài cũng khó đảm bảo sẽ
không có dị tâm. Dương Lăng sớm đã muốn vứt bỏ cái Ty Thuế Giám này.
Dương Lăng cười đáp:
- Người thông thương trên biển qua lại với ngoại bang rất nhiều, vừa có bộ
Hình phán quyết kết quả kiện tụng, Cẩm Y Vệ lùng bắt con buôn phạm pháp, Ty
Thuế Giám và Ty Thuế lại của bộ Hộ thay nhau phụ trách, Ty Thuế Giám thu thuế,
Ty Thuế Lại giám sát thuế, cũng có thể đổi ngược lại, khiến cho các nha môn chế
ước lẫn nhau, có thể tránh việc các nha môn mạnh ai nấy làm, tự tạo danh mục, giúp
cho bá tánh đỡ khổ.
Lý Đông Dương cười vui vẻ nói:- Xem ra Dương đại nhân suy nghĩ tường tận, sớm đã có lòng tin. Rất tốt, đại
nhân thấy khi nào thì nên dâng tấu lên Hoàng thượng?
Dương Lăng thầm tính toán: thám mã điều tra quan viên có bố cảnh thân hào sĩ
tộc duyên hải trong triều vẫn chưa đưa tin tức về đầy đủ, chiến sự phương bắc đang
căng thẳng, lúc này đề xuất chính sách mới cũng không thích hợp, bèn nói:
- Bản quan thấy hay là đợi chiến sự phương bắc yên ả trở lại, triều đình mới có
toàn lực ứng phó làm tốt việc lớn này. Vậy quyết định vào... tháng hai năm sau thì
thế nào?
Lý Đông Dương mỉm cười gật đầu, Dương Lăng thoải mái trong lòng, đặt chén
trà lên bàn, lúc này mới để ý trên bàn đang bày ra một bức tranh. Nếu là công văn
Lý Đông Dương đang xử lý thì y cũng không tiện xem kỹ, nhưng nếu là một bức
tranh thì lại không có gì. Dương Lăng thuận tay xoay bức tranh lại, chỉ thấy trên
tranh vẽ một bà lão xấu xí đang cưỡi trên lưng một con trâu, vênh vang thổi sáo,
trên trán bà lão đề một hàng chữ nhỏ: "Sự nghiệp tể tướng của Lý Tây Nhai là
đây(1)".
Tây Nhai là tên hiệu của Lý Đông Dương, kẻ nào mà quá to gan, không ngờ
dám sỉ nhục lão như thế? Dương Lăng giật mình thất kinh, liền không kịp nhìn kỹ
bên dưới, ngạc nhiên hỏi:
- Là... là kẻ nào vô lễ như vậy, dám vẽ tranh sỉ nhục đại nhân vậy?
Lý Đông Dương cười hờ hững, nói:
- Dương Phương và lão phu đùa giỡn một chút mà thôi, không can hệ gì, ha ha.
Dương Lăng nhớ lại tình cảnh ban nãy Dương Phương nổi giận đùng đùng rời
khỏi đây, lại đăm chiêu xem tiếp phía dưới bức tranh đó. Tranh không phải mới vừa
được vẽ, nhưng bên tranh lại đề một bài thơ chưa ráo mực, hiển nhiên mới được đề
lên chưa lâu. Bài thơ tuyệt cú đó như rồng bay phượng múa, viết rằng: "Dương Phi
thân tử Mã Ngôi pha, xuất tái Chiêu Quân oán hận đa. Tranh tự a bà kỵ ngưu bối,
xuân phong nhất khúc thái bình ca." (dịch thơ: )Lời đề tặng cũng là Tây Nhai, thì ra là khi nãy Lý Đông Dương xem xong tranh
đã đề thơ. Câu thơ khí phách vô cùng, không hề quan tâm đến ý châm biếm ông ăn
trên ngồi trốc, cúi đầu với nịnh thần ở trong tranh, ngược lại còn xoay chuyển bố
cục, đưa ra một cái nhìn khác. Dương Lăng giở tranh xem xong, đứng thẳng người
dậy, cung kính vái Lý Đông Dương một vái thật dài.
Lý Đông Dương kinh ngạc hỏi:
- Dương đại nhân làm vậy là ý gì?
Dương Lăng đáp:
- Đại học sĩ khí tiết thanh cao, bụng dạ rộng lượng, khiến cho Dương Lăng
khâm phục không thôi. Bức tranh này do tài tử Dương Phương vẽ, Thủ phụ Lý công
đề thơ, Dương mỗ xem xong xúc động muôn phần. Thanh giả tự thanh, trọc giả tự
trọc, còn mong đại học sĩ tặng bức tranh này cho hạ quan, hạ quan nguyện học theo
đại nhân, vì Đại Minh, vì bá tánh, còn sợ chi lời ra tiếng vào?
Trong mắt Lý Đông Dương thoáng loé lên vẻ kỳ dị. Lần trước Dương Lăng đến
nhà thăm viếng, vừa vào đề liền mắng ngay Bát Hổ, ông liền thầm nghi ngờ Dương
Lăng làm vậy là vì muốn chơi trò hai mặt với Bát Hổ, mượn sức Bát Hổ để thể hiện
tham vọng trong lòng. Quan sát hành động của y hôm nay, nghe ý tứ trong lời nói
của y, hiển nhiên đây cũng là người đồng đạo. Lý Đông Dương lo lắng ở chỗ Bát
Hổ thế to, hoàng thượng lại ham chơi, đế quốc to như vậy, một mình ông khó
chống, nếu như Dương Lăng thật sự là người cùng chung chí hướng, vậy còn phải
lo lắng gì?
Lý Đông Dương mừng lắm, nói:
- Chỉ là một bức tranh mà thôi, nếu như Dương đại nhân thích, vậy cứ cầm lấy
đi.
Dương Lăng cuộn bức tranh lại cất vào người, ngồi xuống rồi nói:
- Vừa rồi Dương đại nhân nuốt giận mà đi, lại để lại bức tranh ngầm châmbiếm, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?
Lý Đông Dương nói với giọng bất đắc dĩ:
- Lưu công công chủ trì nội đình trước nay, một số đại thần trong triều rất bất
mãn, lũ lượt cáo bệnh không đến nha môn làm, khiến cho rất nhiều nha môn có
quan lại không ai xử lý công việc, công văn chất cao như núi.
Cộng thêm chiến sự phương bắc căng thẳng, trưng dịch(2), sung quân, chiến sự,
cứu tế, lương thảo, điều binh, liên can đến hơn chục nha môn, quan chủ sự vắng
mặt, chánh lệnh không được thi hành, đã lỡ rất nhiều đại sự.
Lưu công công giận đến tím mặt, liền ban lệnh rằng: quan viên không thể xử lý
công vụ đến một tháng do bị bệnh, miễn bổng lộc tháng đó; đến một năm, giáng
xuống chức quan nhàn tản; đến ba năm, bãi quan làm dân, không bao giờ thu nhận
lại.
Những quan viên đó hết cách đành phải trở lại nha môn làm việc. Lưu công
công vẫn chưa nguôi giận, lại xin thánh dụ, nói rằng quan văn quá lạm dụng ban
thưởng, sau này nếu không có chiến công hiển hách, chính tích chói lọi, không được
ban thưởng. Dương đại nhân vừa mới trở lại nha môn, nghe được tin tức chỉnh đốn
quan văn này liền giận đến tím mặt, tìm gặp lão phu để lý luận, kết quả... Chao ôi!
Dương Lăng nghe xong cũng phẫn nộ vô cùng: đây mà là thanh quan ư? Bất
chấp đại cuộc, không thấy được đạo lý, chỉ vì cái 'phong cách thanh cao' đáng tởm
ấy của bọn họ, mà gác lại toàn bộ chính sự sang một bên, gác lại việc quân có quan
hệ đến sống chết của hàng nghìn hàng vạn bá tánh sang một bên, cáo bệnh nghỉ ốm,
yên tâm thoải mái mà hưởng thụ bổng lộc triều đình. Thật là một đám khốn nạn!
Dương Lăng nghiến hàm răng lại, cười gằn nói:
- Quan lại tham ô phạm pháp, không đáng dùng! Quan lại thanh liêm nhưng
tầm thường vô năng, không đáng dùng! Quan lại bảo thủ tuy thanh liêm và giỏi
giang song lại thiển cận, trở ngại triều đình trừ bỏ tệ bệnh, hưng thịnh Đại Minh,
càng không đáng dùng! Có lẽ Lưu công công có rất nhiều điểm bị người ta chỉ trích,và mục đích để chỉnh đốn lại cũng không chính đáng gì, nhưng quan lại như vậy,
thực đáng vứt đi không dùng. Hạ quan kiên quyết ủng hộ quyết định này của Lưu
công công.
Dương Lăng đã thật sự nổi giận, bèn đứng dậy nói:
- Đại học sĩ không cần phải khó xử, những việc ác này hãy cứ giao cho Lưu
công công đi làm là được. Triều đình thực thi biện pháp chính trị, dẫu sao cũng
không thể không mất lòng nhau, cả nhà cùng vui. 'Trầm chu trắc bàng thiên phàm
quá, bệnh thụ tiền đầu van mộc xuân'(*), những hủ bại vướng víu chân tay này, cứ
đá văng đi là xong! (*tạm dịch: một chiếc thuyền chìm nghìn chiếc vượt, một cây
phải bệnh vẫn xanh rừng)
Dương Lăng cáo từ lui khỏi điện Hoa Cái, cơn giận trong lòng mới nguôi được
một ít. Tuyết đọng trong cung đã được quét sạch, không khí khô mát, Dương Lăng
hứng cơn gió lạnh lùa vào mặt, thần chí liền thanh tỉnh lại, mới cảm thấy mình vô
cớ nổi giận như vậy, dường như đã quá dễ bị kích động rồi.
Y âm thầm cảnh tỉnh bản thân: giờ đây quyền uy của mình mỗi ngày một lớn,
mỗi một lời nói mỗi một hành động đều dẫn đến sự chú ý của mọi người, không nên
hành động theo cảm tính, giận vui đều lộ hết ra mặt, sau này cần phải để ý tu thân
dưỡng tính hơn, học cách đối nhân xử thế.
Dương Lăng uốn cong lưỡi hít sâu vào một hơi, toàn thân thả lỏng, rồi dựa theo
phương pháp mà Ngũ Hán Siêu đã chỉ dạy: tay trái vòng vào trong, như vẽ một quả
cầu tròn, ngón trỏ tay phải bấm vào chi ngọ trên ngón giữa, hai gối hơi trùng, chân
đi chậm rãi, như bước nhẹ trên mây.
Đây là nội công tâm pháp thượng thừa của Võ Đang, nếu luyện đến đại thành,
có lẽ phải mất đến mấy mươi năm. Dương Lăng đã qua tuổi đẹp nhất để tập võ,
cũng không nghĩ hề nghĩ sẽ luyện thành cao thủ võ lâm gì, chủ yếu luyện cho tinh
thần và thể xác được khỏe mạnh và tu thân dưỡng tính mà thôi.
Có điều thuật thổ nạp này quả thực có chỗ kỳ diệu, chẳng những khiến tâm linh
con người thanh sảng, không còn bồn chồn nóng nảy, tĩnh tọa một hồi cũng có thểgiải trừ mệt mỏi, tinh thần sảng khoái. Dương Lăng chẳng thèm quan tâm đến cái gì
là môn quy, nghe xong khẩu quyết, hỏi cho kỹ càng, trở về liền giảng kỹ lại cho Ấu
Nương nghe một lượt. Hàn Ấu Nương vốn đã có nền tảng vững chắc, lại từng luyện
qua ngạnh khí công, vì vậy học thêm công phu thượng thừa không khó. Bản thân
Dương Lăng đã không thể thành tài, nhưng nếu nương tử học được rồi, thì chẳng
khác con cháu đời sau của nhà họ Dương cũng sẽ học được, cái lợi trong đó Dương
Lăng coi như cũng hiểu được.
Dương Lăng mới học mới luyện, động tác hơi lóng ngóng, mắt nhìn mũi, mũi
nhìn tim, dáng đi kỳ dị nhẹ nhàng tiến về phía Tây Noãn gác cung Càn Thanh. Khi
ngẩng đầu thì nhìn thấy Chính Đức toàn thân vận long bào màu đen tuyền, đầu đội
mũ Dực Long, tay ôm cái lò sưởi(3) trước bụng, đang nhìn y cười tủm tỉm, đám thái
giám và cung nữ đúng chung quanh và một đám người cũng đều đang ngóng nhìn,
mặt đầy vẻ hiếu kỳ.
Dương Lăng không khỏi cười ngượng nghịu, liền vội bỏ tư thế đó rồi vội vã
bước tới thi lễ:
- Vi thầm tham kiến hoàng thượng. Sao hoàng thượng lại đứng đây?
Chính Đức anh tuấn, mặt như ngọc, kéo Dương Lăng dậy mừng rỡ nói:
- Ha ha, trẫm đang ở trong sân xem du hí tạp kỹ, nghe có người nói khanh đi lắc
la lắc lư, giống như một con vịt, cho nên chạy qua xem náo nhiệt một chút.
Dương Lăng thoáng đỏ mặt, trông thấy trong sân dựng cái đài, cửa điện Noãn
gác mở rộng, bên trong đốt một lò than, chính giữa bày một chiếc ghế nằm hình
rồng cuộn, bên trên trải thêm một tấm thảm nhung mượt trắng như tuyết.
Dương Lăng thấy Chính Đức vẫn si mê những trò tạp kỹ này, không khỏi nhắc
nhở nhẹ nhàng:
- Hoàng thượng, cũng khó trách đám ngoại thần càm ràm bát sát, hoàng thượng
đã kế thừa đế vị, cưới hậu nạp phi, qua mấy ngày nữa sẽ thay đổi niên hiệu thành
Chính Đức, nay trong triều chưa ổn định, biên ải lại đang có chiến tranh, ngài thậtkhông nên quá phân tâm vào những việc này.
Chính Đức nhăn nhó nói:
- Lý học sĩ khuyên, Dương sư phụ khuyên, Tiêu đại nhân khuyên, giờ khanh
cũng tới khuyên trẫm. Bị nhốt trong thâm cung, mỗi ngày những nơi trẫm có thể đi
đến chỉ có điện Thái Hòa, cung Càn Thanh, cung Nhân Thọ. Sinh ra và lớn lên ở
đây, ngẩng đầu lên là cái bầu trời đó, cả ngày ngoại trừ thượng triều, nghe giảng,
phê duyệt tấu chương, thì không còn gì khác, ít ra cũng phải để trẫm kiếm chút gì
đó làm chứ? Dương thị độc, tấu chương của trẫm đều được phê duyệt đúng hạn,
tuyệt không tồn đọng đâu nhé.
Dương Lăng nghe hoàng thượng 'kể khổ' như vậy, chỉ đành nói:
- Nhưng mà... trời lạnh rét, hoàng thượng dựng đài xem tạp kỹ trong sân, cửa
Noãn gác lại mở toang, nếu bị nhiễm phong hàn, vậy sẽ nguy biết bao!
Chính Đức không nghĩ vậy, nói:
- Đâu dễ như thế. Sáng nào trẫm cũng luyện Thái tổ trường quyền hai lần, đều
mặc áo manh giáp mỏng, luận về thân thể, trẫm còn khỏe khoắn hơn khanh đấy.
Đoạn y phấn khởi nói:
- Đúng rồi, khanh theo trẫm vào trong điện. Hôm nay mấy con khỉ cũng đã biết
đánh quyền, cho khanh xem mở rộng tầm mắt.
Chỉ thấy, một lão già mặc một đồ màu xanh nước biển, đầu đội khăn vuông, dắt
bốn con khỉ bước ra, làm đủ các trò nhào lộn, chồng người, hay nhất là lão già vừa
hút sáo một tiếng, bốn con khỉ liền xúm lại đánh quyền. Dương Lăng thấy hai con
khi vung vẩy cái chân đầy lông lá của chúng, lảo đa lảo đảo trông hết sức ngây ngô,
bèn không kiềm được mà mỉm cười vỡ lẽ: trông bộ dạng, có lẽ là đang đánh túy
quyền.
Hai con khỉ còn lại đánh quyền đâu ra đấy, có bài có bản hẳn hoi, tuy chưa được
bốn năm chiêu liền chạy về bên lão già xin trái cây ăn, song Chính Đức lại nhìn rabài quyền chúng đánh đích thực là Thái tổ trường quyền, bèn vỗ tay cười nói:
- Người đâu, thưởng cho thưởng cho.
Hai tên tiểu thái giám xách cái sọt nhỏ, cười hì hì đi tới trước bậc thềm, dùng
sức ném cái sọt ra ngoài một cái, trong cái sọt đều là tiền đồng mới toanh, sợ không
dưới nghìn văn tiền, vương vãi xuống đất kêu rào rào.
Chính Đức cười bảo:
- Ha ha, trẫm thấy mấy con khỉ này còn dễ mến hơn cái đám người đáng ghét
trong cung và ngoại đình đó. Dương thị độc, khanh thấy chúng đánh quyền có hay
không?
Dương Lăng mỉm cười, chợt nghe trong phòng bên được ngăn cách bởi cửa sổ
có tiếng đàn ông cất lên:
- Đích xác là thú vị, mấy con khỉ này thật thông minh, nhớ buổi sáng thấy
Hoàng thượng luyện tập quyền cước, bài Thái tổ trường quyền uy vũ nhanh nhẹn,
liền học trộm được chiêu thức ngay.
Dương Lăng sững ra, tròn xoe hai mắt: giọng nói đó giống hệt như y, âm điệu
và ngữ khí đều hoàn toàn giống, thậm chí y còn nghi ngờ rằng có phải mình đang ở
trong căn phòng khác không. Tiếp theo sau đó, một tràng cười lớn đắc ý truyền ra,
lại nghe giọng nói của hoàng đế "Chính Đức":
- Tuy rằng thú vị, nhưng xem cũng đã chán rồi. Nếu là cảnh xuân về hoa nở,
muôn chim tranh hót, cảnh đẹp ấy hơn xa xem mấy con khỉ này nhiều.
Theo đó, giọng nói "Dương Lăng" lại cất lên:
- Điều đó có gì khó? Hoàng thượng là thiên tử, muốn ra lệnh cho xuân về khắp
mặt đất, trăm hoa đua nở, muôn chim đến hót, có lẽ vị thần xoay chuyển bốn mùa
cũng không dám không tuân thánh dụ.
Âm thanh chưa dứt, lờ mờ lại nghe như có tiếng chim tước hót vang, dần dàtiếng vó ngựa nổi lên, có tiếng cười yêu kiều duyên dáng, khiến trong đầu người ta
bất giác hiện ra một bức tranh cung nữ đạp xuân, chậm rãi bước tới; rừng tùng,
nước chảy, cảnh trí mênh mông sâu thẳm như hiện ra ngay trước mắt, lại có phu tử
ngâm thơ, tiếng tiêu réo rắt.
Mắt Dương Lăng càng lúc càng mở lớn, tim đập loạn thình thịch, suýt nữa thì
đã buột miệng thốt ra một cái tên. Y không kiềm nén được tâm tình lao qua, vừa
kéo mở cửa gác, các loại âm thanh lập tức im bặt, hai người con gái xinh đẹp đang
khom nửa người kinh ngạc đứng dậy.
Hai người thiếu nữ xinh đẹp vận áo lĩnh tím, gấm đen, chẽn đỏ, dưới mặc váy
màu xanh nhạt, hai bàn chân yêu kiều xỏ đôi giày da dê màu vàng, nước da sáng
ngần thơm ngát, khuôn mặt trái xoan, cặp mày lá liễu, chính là hai người con gái
phường hát y gặp qua lần trước.
Tu Hoa vẫn vậy, là một khuôn mặt xinh đẹp đầy lạnh lùng, Giải Ngữ thì lại cười
tươi liếc y, má tựa mây hồng, mắt như thu thủy, càng khiến người ta rung động tâm
hồn. Chính Đức lầu bầu nói:
- Không vui gì cả, không vui gì cả, đợi chút nữa sẽ còn có tiết mục thiếu niên
hung ác thôn quê khinh nhờn dân nữ, trẫm ra tay cứu người cho khanh xem đấy, bị
vạch trần như vậy mất hết cả vui đi, khanh thực là dễ bị kích động quá.
Dương Lăng thất vọng quay người lại, lặng lẽ đến bên thân Chính Đức nói:
- Vi thần... vừa nãy nghe loại khẩu kỹ giống y như đúc này, bất giác nhớ tới một
cố nhân, còn tưởng rằng... ngoài cửa là cô ấy...
Giải Ngữ và Tu Hoa cũng bước tiến vào trong điện, duyên dáng đứng hai bên
Chính Đức, nghe thấy lời này hai cặp mắt xinh xắn đều dồn vào người Dương Lăng.
Chính Đức lấy làm lạ bèn hỏi:
- Lúc trẫm được nghe khẩu kỹ này quả sự đã rất kinh ngạc, ngay cả tiếng đàn
sáo nhạc cụ bọn họ cũng bắt chước được, vị cố nhân đó của khanh là ai, cũng cóbản lĩnh như vậy sao?
Dương Lăng nhớ đến người thiếu nữ đứng trong nắng, vẻ mặt rạng ngời giải
thích với y. Nàng thoáng nhướng đôi mày liễu, nụ cười trong vắt:
- Dương đại nhân, tiêu này của tiểu tỳ ấy, không cần tiêu thổi...
Giọng nói yêu kiều giòn giã vẫn còn quanh quẩn bên tai. Y lại nhớ tới tảng đá
dính máu và vài sợi tóc bên dốc núi nọ, con tim như thắt lại. Cổ họng Dương Lăng
nghèn nghẹn, y ho khan vài tiếng rồi mới cảm thán nói:
- Vị cố nhân này, hoàng thượng ngài cũng biết, đó chính là vị Đường cô
nương... Đường Nhất Tiên.
- Đường... Nhất Tiên...
Chính Đức từ từ nhớ lại, sắc mặt cũng dần trở nên ảm đạm, người con gái lưu
lại bóng hình đầu tiên trong lòng hắn, nào dễ dàng quên được.
Hai người đàn ông im lặng, bọn thái giám và cung nữ trong cung không biết đã
xảy ra chuyện gì, không ai dám mở miệng nói gì. Giải Ngữ và Tu Hoa đưa mắt nhìn
nhau, khẽ mím môi, hàng mi dài cong vút chớp chớp không ngừng, vẻ mặt hết sức
hiếu kỳ.
Đàn ông bọn họ gặp đã nhiều, song thực hiếm thấy khi hai người đàn ông ở
trước mặt, một người là hoàng đế tay ôm thiên hạ, một người là trọng thần triều
đình dưới một người trên vạn kẻ, muốn bao nhiêu mỹ nữ cũng được, lại có thể biểu
lộ cảm xúc hoài niệm khi nhắc đến một người con gái. Người con gái đó là ai? Nhất
Tiên... cái tên thật là đẹp.
Chính Đức rờ mũi, một lúc sau mới chợt hỏi:
- Vẫn chưa có tin tức gì sao? Cho dù là... tin xấu?
Dương Lăng lắc đầu đáp:- Dạ chưa, bên phía quan phủ đã sớm bỏ qua tìm kiếm, vi thần đã sai phiên tử
Nội xưởng để ý quan sát, tuyệt nhiên vẫn không có manh mối.
Chính Đức chán nản vung tay nói:
- Giải tán hết đi, Dương thị độc vào cung, nhất định có việc công cần bàn với
trẫm.
Đoạn hắn nhìn sang Liễu Giải và Tu Hoa, hai người con gái rất biết điều, biết
khi nào có thể làm nũng đùa cợt, khi nào phải giữ phận, lập tức nhún người thi lễ,
rồi cũng lặng lẽ lui ra.
Hai người đi vào thư phòng, Chính Đức ngồi lên ghế, thuận tay chỉ xuống bảo:
- Khanh ngồi đi.
Thư phòng của Hoàng thượng làm gì có chiếc ghế thứ hai, bên cạnh chính là
giường ngủ của Chính Đức. Từ dạo bị Vương Quỳnh trỏ mặt mắng cho một trận,
Dương Lăng đã không dám không để ý đến những tiểu tiết này nữa, bèn mỉm cười
đứng trước ngự án, nói:
- Tạ hoàng thượng, thần đứng đây cũng tiện bẩm báo sự tình rồi.
Chính Đức gật nhẹ đầu, liếc mắt trầm ngâm một chốc rồi hỏi:
- Là chuyện gỡ bỏ lệnh cấm biển có manh mối hay là biên tái phương bắc có
chiến sự khẩn cấp?
Dương Lăng lắc đầu đáp:
- Thưa, đều không phải. Hoàng thượng còn nhớ trước lúc xuất binh từng bí mật
căn dặn Miêu Quỳ nghiêm trị Tiểu vương tử, răn nhẹ Hỏa Sư, phân hóa bọn chúng,
và bí mật liên lạc với Đóa Nhan Tam Vệ không?
Mắt Chính Đức liền sáng lên, hưng phấn hỏi:
- Có phải đã có hiệu quả?Dương Lăng gật đầu đáp:
- Dạ, Tiểu vương tử nghi ngờ Hỏa Sư có hiệp nghị bí mật với Đại Minh, hiện
đang rất đề phòng bọn họ, một vạn năm nghìn nhân mã của Hỏa Sư đang bị an bài
bên sườn, một mình chống cự với đại quân của Tổng binh Hứa Thái, lương thảo
cướp được cũng không muốn chi viện cho bọn họ, có rất nhiều bộ hạ của Hỏa Sư đã
buông lời oán hận. Tình thế chiến trường trước mắt xem ra không nguy cấp lắm,
Dương Nhất Thanh án binh bất động, lại níu chặt lấy chân Tiểu vương tử không cho
hắn đi, trong đó tất có ý đồ. Có điều hằng năm giặc Thát đều đến biên cảnh ta cướp
bóc, họa này nhất định phải tiêu trừ, hiện tại phân hóa Hỏa Sư chỉ là bước thứ nhất.
Nếu đạt được sự hỗ trợ của Đóa Nhan Tam Vệ, chúng ta sẽ có thể không tốn gì
mà có được một đội tinh binh, đồng thời mỗi năm có thể lấy được lượng lớn chiến
mã từ vùng Hà Sáo. Một mặt vừa có thể tăng cường tính cơ động và năng lực tác
chiến của biên quân.
Mặt khác, bá tánh vùng Hà Bắc phụ trách dưỡng mã, nhưng nơi đó lại không
nuôi cho ra được ngựa tốt, bá tánh cực công phu dịch, uổng công khổ lao, mà lại
không đem nhiều ích lợi cho đất nước. Nếu có thể cải thiện quan hệ với Đóa Nhan
Tam Vệ, sẽ có thể khiến bá tánh trút được gánh nặng này. Chúng ta có được ảnh
hưởng ở Hà Sáo và Liêu Đông rồi, tương lại sẽ có thể tiến thêm một bước, mở
mang bờ cõi, chiếm lấy thảo nguyên phì nhiêu. Sau đó đi vào A Lạp Bá Mã (tên gọi
các dân tộc Ả Rập xưa - ND), dùng nó để cải tạo ngựa Mông Cổ và Tây Nam, thì
ưu thế của Thát Đát Mông Cổ sẽ không còn nữa.
"Mở mang bờ cõi", đó là cụm từ khiến cho mọi vị vua từ xưa đến nay động
lòng nhất. Trong các triều đại lịch sử, chưa một vị vua nào dám sánh mình với vị
vua khai quốc. Cho dù là quân vương có sáng suốt và tài đức cỡ nào thì chính tích
cũng không thể nào rạng rỡ và chói lọi như mở mang bờ cõi được.
Trái tim của Chính Đức đập thình thịch, khuôn mặt trẻ tuổi anh tuấn đỏ bừng vì
hưng phấn, hắn gật đầu lia lịa:
- Dương khanh nói rất đúng, đánh với Thát Đát một trận bất quá chỉ là công tíchnhất thời, kết minh với Đóa Nhan Tam Vệ, chúng ta thêm một đội quân, địch quân
mất đi một mảnh đất, lại phân hóa làm cho bọn chúng tan rã, mới là sách lược chính
trị lâu dài. Nếu sự này thành, công lao của Dương khanh thực sẽ không chỉ như đại
tướng công thành chiếm đất, chém tướng đoạt cờ. Có phải phía Đóa Nhan Tam Vệ
đã nhận được mật hàm của triều đình không?
Dương Lăng gật đầu thưa:
- Đã liên hệ được với bọn họ, tuy vậy do giữa chúng ta và Đóa Nhan Tam Vệ
từng có rất nhiều bất hòa, đại thủ lĩnh Hoa Đáng tuy có lòng hướng về phía phe Đại
Minh chúng ta nhưng trong ba bộ lạc lớn lại có rất nhiều quý tộc vẫn còn nặng lòng
nghi ngờ. Bọn họ không tin tưởng sứ thần mà chúng ta phái đi lắm. Tin tức hồi đáp
là các tù trưởng đó muốn Đại Minh ta...
Y thoáng do dự. Điều kiện Hoa Đáng đưa ra quả thực đã đặt địa vị của hắn
ngang hàng với thiên tử Đại Minh, nếu y nói ra chỉ sợ thiên tử Chính Đức sẽ long
nhan nổi giận. Song đây là việc lớn, y thực không dám bỏ qua, Dương Lăng bèn lấy
hết can đảm nói:
- Hoa Đáng chẳng qua chỉ là đại tù trưởng một bộ lạc thảo nguyên, không học
thánh hiền, không hiểu lễ nghi, thế mà lại yêu cầu hoàng thượng phải đích thân đến
Đại Đồng, cùng hắn uống máu ăn thề trên núi Bạch Đăng, thì Đóa Nhan Tam Vệ
mới chịu nương về Đại Minh.
Dương Lăng nói xong liền vội vã chêm thêm:
- Tuy nhiên chuyện này thực vẫn có thể mặc cả. Theo ý vi thần, hoàng thượng
có thể cử một vị tông thân hoàng thất thay mặt cho triều đình và thiên tử đi đến nơi
hẹn ước, ắt sẽ có thể xua tan mối lo ngại của hắn.
Không ngờ, nằm ngoài dự đoán của Dương Lăng, Chính Đức nghe xong không
hề nổi giận, ngược lại vuốt cằm như có điều suy nghĩ. Trầm ngâm một hồi lâu, hắn
mới khẽ mỉm cười, ngước mắt nhìn Dương Lăng và nói:
- Muốn trẫm đích thân đến gặp bọn chúng? Cho dù là Bá Nhan Khả Hản lúcđánh hay cầu hòa cũng đều lấy lễ bầy tôi mà đối đãi với trẫm. Lá gan của Hoa Đáng
thực không nhỏ.
Dương Lăng nghe vậy thì cuống lên, vội nói:
- Hoàng thượng, vi thần cũng biết Hoa Đáng làm vậy thực hơi cuồng vọng,
nhưng việc nhỏ nếu không nhịn thì kế lớn sẽ hỏng.
Ánh mắt của y chợt trở nên ranh mãnh, thấp giọng nói khẽ:
- Không cùng tộc với ta, tim nó ắt khác. Đóa Nhan Tam Vệ tựu chung vẫn là kẻ
ngu muội, bọn chúng nương về chúng ta, chỉ bởi bọn chúng không có thực lực lớn
mạnh như Bá Nhan Khả Hãn có thể cướp bóc của cải với số lượng lớn, cho nên hiện
tại hợp tác chẳng qua là vì lợi ích riêng.Hiện tại chúng ta tạm thời nhẫn nhịn, sau
này sức nước cường thịnh, vũ lực đầy đủ, chẳng những sẽ sát nhập Thát Đát Mông
Cổ, Ngõa Thích Mông Cổ vào bản đồ Đại Minh, mà con hổ cạnh giường này sao có
thể là ngoại lệ? Việc nhỏ không nhịn thì kế lớn sẽ hỏng đó bệ hạ.
- Ha ha ha ha...
Hoàng đế Chính Đức đứng dậy, cười như con gà mái đẻ. Hắn đấm vào ngực
Dương Lăng một cái, cười khanh khách:
- Ai nói trẫm không thể nhẫn nhịn tạm thời?
Đoạn hắn xòe hai tay ra, chớp chớp mắt nói:
- Tiên hoàng chỉ có mỗi một mụn con là trẫm, tông thân hoàng tộc khác đều
phong làm vương gia ở các nơi, há có thể thay mặt triều đình và thiên tử? Nếu là ái
khanh thì phái ai đi mới thích hợp đây? Là thái hoàng thái hậu? Thái hậu? Hay là
hai vị ngự muội của trẫm?
Dương Lăng nghe xong mà nghẹn họng, trong lúc còn chần chừ, chợt thấy
Chính Đức nhảy bật lên, ngửa mặt lên trời cười lớn:
- Ha ha, một khi vận khí lên hương, liền như nước lũ tường thành khôn ngăn.Cái tên Hoa Đáng thực đáng yêu quá đi.
Đoạn hắn dương dương đắc ý nói:
- Lần này trẫm sẽ đích thân đi đến Đại Đồng, đó là vì nước vì dân, vì giang sơn
xã tắc Đại Minh, bá quan văn võ sẽ không nói gì nữa chứ?
Dương Lăng nghe vậy thì há hốc mồm, chỉ thấy Chính Đức mặt đỏ bừng, hai
tay chống nạnh nói:
- Không để trẫm đi công khai, trẫm sẽ lén đi. Đại Đồng trẫm đã quyết định sẽ đi
rồi!
Đoạn hắn chỉ vào Dương Lăng, nói với giọng oai phong lẫm liệt:
- Chuyện này giao cho Dương khanh phụ trách. Qua năm mới, chúng ta sẽ mở
đường Tuyên Phủ, thẳng tiến Đại Đồng!
Chú thích:
(1) nguyên văn "Thử Lý Tây Nhai tướng nghiệp". Tích rằng: vào năm Chính
Đức (1506 - 1521), Lưu Kiện và Tạ Thiên của Nội các bị giáng chức đuổi khỏi
kinh, chỉ còn lại một mình Lý Đông Dương. Đương thời Lưu Cẩn nắm quyền lực
triều chính, Lý Đông Dương một cây chống chẳng vững nhà, không cách nào xoay
chuyển. Vì vậy có người vẽ một bức tranh bà lão cưỡi trâu thổi sáo nhằm châm
biếm. Trên trán bà lão đề "Thử Lý Tây Nhai (tên hiệu của ông) tướng nghiệp",
nghĩa là "sự nghiệp tể tướng của Lý Đông Dương là đây", nhằm trào phúng Lý
Đông Dương. Có người báo cho ông hay biết chuyện này, thế nhưng ông vẫn dửng
dưng, tự đề lên tranh một bài thơ tuyệt cú: "Dương Phi thân tử Mã Ngôi pha, xuất
tái Chiêu Quân oán hận đa. Tranh tự a bà kỵ ngưu bối, xuân phong nhất khúc thái
bình ca", nghĩa là "Dương Quý Phi thì bỏ thân nơi Mã Ngôi, Chiêu Quân mang theo
ra biên tái nhiều ai oán. Sao như bà lão cưỡi trâu, hát vang khúc thái bình trong gió
xuân". Về sau trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ Lưu Cẩn, họ Lý đã nổi lên như một
nhân vật có vai trò mấu chốt.(2) chính phủ triệu tập người dân thực hiện nghĩa vụ quân sự gọi là 'trưng dịch'
(3) loại lò sưởi cầm tayNGƯỢC VỀ THỜI MINH
Nguyệt Quan
www.dtv-ebook.com
Chương 178 Nàng Vốn Là Người Tốt
------------------------
Quyển 5 - Quần ma loạn vũ - Chương 178 Nàng vốn là người tốt (1)
------------------------
Hoàng đế là vua một nước. Vua chúa dựng nên các triều đại có ai mà không cả
đời chinh chiến, chém giết nơi chiến trường? Để Chính Đức chứng kiến qua sự
thảm khốc ở chiến trường, thấu hiểu được một phần nỗi khổ của bá tánh sẽ còn tác
dụng nhiều hơn đọc vạn câu di huấn của các bậc thánh hiền.
Những lý lẽ này đương nhiên Dương Lăng hiểu rõ. Hế nhưng vừa nghĩ đến việc
dẫn Hoàng đế ra biên tái, còn phải để hắn ta âm thầm lặng lẽ giữa chiến trường
chém giết của hơn mười vạn quân Minh và Thát Đát mà lẻn lên núi Bạch Đăng gặp
mặt thủ lĩnh của đám người Đóa Nhan Tam Vệ lúc là bạn lúc là thù thì... Càng nghĩ
Dương Lăng càng thấy lo sợ.
Để cho đức vạn thặng chi tôn(*) giá lâm đến nơi hiểm địa, chỉ một chuyện này
thôi đã đủ khiến bá quan dốc mạng mà hặc tội y rồi. Hơn nữa, nếu như Thát Đát hay
tin đem trọng binh tập kích, hoặc là Hoa Đáng khởi dị tâm bắt Chính Đức làm con
tin, lúc đó phải làm sao?
(*) nghĩa đen: bậc tôn quí giá trị bằng vạn cỗ xe. Cụm từ này thường được dùng
để chỉ nhà vua.
Đang gật gù đắc ý, hoàng đế Chính Đức chợt nhìn thấy sắc mặt Dương Lăng
trắng bệch, hắn không khỏi thu lại nụ cười, nghiêm túc gọi Dương Lăng:
- Dương thị độc...- Có thần!
Dương Lăng khổ sở đáp.
Chính Đức nghiêm mặt nói:
- Người trong thiên hạ thường nói thiên hạ của trẫm rộng lớn, thế nhưng thiên
hạ của trẫm chẳng lẽ chỉ là một mảng đất trời trong Tử Cấm Thành này đây sao?
Trẫm muốn ra ngoài nhìn ngắm giang sơn vạn dặm thì có gì là không tốt? Huống
hồ, hiện tại đi gặp mặt Hoa Đáng chính là làm một việc lớn cho Đại Minh. Quân đội
của trẫm sẽ có thể bớt đổ máu, bớt hy sinh; con dân của trẫm sẽ bớt chịu khổ đau.
Thân là quân vương, trẫm... không nên đi hay sao?
Thoáng ngưng lại, hắn nhẹ giọng nói tiếp:
- Trẫm biết khanh đang lo lắng cho an nguy của trẫm, cũng lo lắng sẽ vì vậy mà
bị bá quan chỉ trích.
Rồi hắn cười nhạt một tiếng, giọng khinh miệt:
- Cứ để mặc bọn chúng nói cho sướng miệng. Bọn chúng chỉ muốn coi trẫm là
một con chim bị nhốt trong cái lồng này, chỉ cần trẫm giữ khuôn phép đúng mực
một chút, kính trọng sĩ tử một chút, lắng nghe lời ngay thẳng của bọn chúng một
chút, yên tâm ngồi đây làm một vị thần bằng đất sét thì sẽ là hoàng đế tốt trong mắt
bọn chúng.
Nhưng mà, trẫm không muốn làm loại vua như vậy! Đại Minh là thiên hạ của
trẫm, trẫm phải làm tròn trách nhiệm thiên tử!
Dương Lăng ngẩn ngơ đứng nhìn Chính Đức, khuôn mặt non trẻ của hắn đầy sự
nghiêm túc hiếm có. Ánh mắt sáng ngời, hắn nhìn chằm chằm Dương Lăng nói tiếp:
- Còn nhớ lúc khanh mới vào kinh thành, từng kể cho trẫm nghe rất nhiều
chuyện về vạn quốc ở hải ngoại hay không? Vị quân vương anh minh trong đó, khi
không làm tròn trách nhiệm bản thân, lại lo sợ rúc mình trong cung điện, tự hào nói
với kẻ khác rằng bảo vệ tốt cái mạng của hắn chính là làm tròn bổn phận với condân. Khanh mong muốn trẫm là một hoàng đế như vậy sao?
Chính Đức nhếch cặp mày tuấn tú, buông từng chữ:
- Trẫm là thiên tử, hiện tại trẫm muốn đi làm một việc cần làm cho Đại Minh!
Khanh là bầy tôi yêu mến của trẫm, khanh có thể phò tá trẫm hoàn thành tốt việc
này hay không?
Trong lòng Dương Lăng dậy sóng: ai bảo tiểu hoàng đế trước mặt này trẻ người
non dạ, trong mắt chỉ có vui chơi đùa nghịch? Là do hắn chưa từng suy nghĩ
nghiêm túc về trách nhiệm làm vua hay là vì hiện thực cay đắng khiến hắn chỉ có
thể đắm chìm vào trong đủ loại trò chơi để giết thời gian?
Không nói lời nào, Dương Lăng lui lại hai bước, lần đầu y mang lòng kính
trọng vái Chính Đức một cái thật sâu:
- Vi thần tuân chỉ! Thần nguyện phò tá đức vua, chấn hưng Đại Minh, hoàn
thành bá nghiệp lẫy lừng!
Chính Đức mừng rơn nắm chặt lấy tay Dương Lăng lắc lia lịa, vừa định mở
miệng thì chợt nghe có tiếng 'rột rột' phát ra. Hắn thoáng ngẩn người, rồi không nín
được bật cười lớn:
- Cùng khanh trò chuyện say sưa nên quên mất đã đến bữa rồi. Lại đây, Dương
khanh hãy dùng bữa cùng trẫm! Chuyến đi đến Đại Đồng của trẫm sẽ nhờ vào
khanh cả đấy.
Lúc còn kèm thái tử đọc sách ở Xuân Phường, đã không ít lần Dương Lăng
dùng bữa chung với hắn, nhưng sau khi Chính Đức đăng cơ lên ngôi đế thì đây mới
là lần đầu. Được dùng bữa cùng với Hoàng đế là đãi ngộ trọng hậu vô cùng, trên
Khởi Cư Chú(2) và công báo triều đình đều phải ghi rõ.
Dương Lăng không muốn bị rêu rao nên đang tính lựa lời cự tuyệt thì Chính
Đức đã quay ra ngoài cửa gọi to:
- Người đâu, truyền đưa cơm vào! Trẫm muốn dùng bữa chung với Dươngkhanh. Gọi Giải Ngữ và Tu Hoa đến cùng luôn đi.
Dương Lăng cuống quýt thưa:
- Hoàng thượng, làm vậy không thích hợp lắm đâu. Giải Ngữ, Tu Hoa tuy
không phải là phi tần trong cung, nhưng dẫu gì cũng là người hầu hạ cho Hoàng
thượng, thần sao dám cùng bọn họ...
Chính Đức không đồng ý, khoát tay ngăn y, rồi hào hứng bàn tiếp cách rời khỏi
kinh sư. Trong lúc hai người đang bàn bạc thì tiểu thái giám của Ngự Thiện phòng
đã đưa các món ăn thịnh soạn trong cung lên thoăn thoắt như thoi đưa, bọn họ bèn
dừng trò chuyện.
Trên chiếc bàn lớn thếp vàng chạm trổ hình con rồng cuộn mình bày đầy các
thức ăn, bốn chiếc ghế gấm đặt ở bốn cạnh bàn. Tiểu thái giám nhanh nhẹn dùng
đũa bạc thử qua từng món ăn, lại nếm thử từng món một, sau đó quay sang vái
Chính Đức một lạy rồi lặng lẽ lui ra, chỉ để lại bốn tiểu thái giám đứng hầu.
Giải Ngữ và Tu Hoa bước vào trong điện, tha thướt như một đám mây, mùi
thơm của son phấn tức thời ùa vào trong cánh mũi. Chính Đức bảo hai người con
gái xinh đẹp yêu kiều đó dùng tách ngọc, còn hắn và Dương Lăng thì ngồi đối diện
với nhau, cả hai đều dùng chén rượu ba chân(3).
Mới uống một chén mà Dương Lăng đã thấy hơi ngà ngà. Trong lòng lo nghĩ
đến chuyện năm sau hoàng thượng sẽ xuất kinh nên mặc cho Chính Đức năm lần
bảy lượt thúc giục y cũng không dám uống thêm, chỉ gắp vài món ăn nhẹ cho vào
miệng.
Chính Đức thì lại cao hứng vô cùng, ăn đến non nửa mới cười nói với Dương
Lăng:
- Dương thị độc, hai vị cô nương này đều biết hát dân ca đấy. Giải Ngữ, Tu
Hoa, hai nàng hãy hát một khúc trợ hứng cho trẫm đi.
Giải Ngữ nhoẻn miệng cười, sóng mắt đong đưa liếc Dương Lăng, thuận taynhón lấy chiếc đũa ngà gõ nhè nhẹ lên cốc vàng bát ngọc. Trong tiếng nhạc trong
vắt vui tai, cô nàng cất tiếng ngân nga một điệu hát dân gian. Tiếng ca dịu dàng mà
da diết, Chính Đức nhịp đùi đắc ý, nghe rất say sưa.
Cố gắng đợi đến khi tiệc tàn rượu cạn, nhân lúc Chính Đức đang rửa tay trong
thau vàng, Dương Lăng mới thấp giọng thưa với hắn:
- Hoàng thượng! Nếu ngài muốn xuất cung thì đó là việc quan trọng vô cùng.
Khi nãy thần đã suy tính kỹ lưỡng rồi, muốn bá quan gật đầu đồng ý thì thật là điều
không thể, xem ra chỉ có thể theo ý của Hoàng thượng là lặng lẽ rời kinh mà thôi.
Nhưng mà, cho dù có thể giấu được bá quan văn võ thì dù sao trong kinh cũng
phải có người chủ trì, cho nên không thể giấu giếm ba đại học sĩ. Tiêu đại học sĩ lão
luyện thành thục lại rất quan tâm đến thánh ý, thần muốn mật nghị với ông ta trước
đã.
Chính Đức cười hì hà bảo:
- Được, khanh đi đi! Việc này là ý tưởng của trẫm, Dương khanh chỉ là bị ép
buộc phải tuân lệnh vua, theo vua làm việc mà thôi, không ai dám làm gì khanh
đâu.
Đại Minh tuy nhiều tệ chính, nhưng đương thời vẫn là quốc gia có quốc lực lớn
mạnh nhất, lúc có chiến tranh, lương thảo và quân bị đều hơn xa những nước bé
chung quanh, thế nhưng chiến sự lại thường luôn ở thế hạ phong, nguyên do lớn
nhất là vì "trọng văn khinh võ".
Bản thân không thể trải nghiệm qua sát phạt, thì sao rèn thành một Chính Đức
văn hay, trị giỏi, võ công cao? Sau khi nghe xong lời tâm sự chân thành của Chính
Đức, Dương Lăng đã quyết định mặc kệ được mất cá nhân, cho dù núi đao biển lửa
y cũng sẽ cùng hắn đi một chuyến. Y nghe Chính Đức ôm hết trách nhiệm về mình,
không muốn y bị bá quan thừa cơ chỉ trích thì cảm kích mỉm cười rồi cung tay thưa:
- Tạ ơn Hoàng thượng quan tâm che chở, thần xin cáo lui.Chính Đức lấy chiếc khăn lụa trắng mịn như tuyết lau tay xong, hai người con
gái xinh đẹp liền vây lại, mỗi người ôm lấy một cánh tay y. Giải Ngữ cười duyên
dáng hỏi:
- Hôm nay sao Hoàng thượng vui vẻ quá vậy? Đầu mày cuối mặt ngài đều rất
tươi tỉnh.
Từ khi lớn đến giờ Chính Đức mới có cơ hội được ra khỏi "nhà" lần đầu, hơn
nữa lại được đi đến chốn sa trường xa xôi, cho nên hắn thực sự không kiềm nén
được sự hưng phấn trong lòng. Vả lại Giải Ngữ và Tu Hoa đều là những mỹ nữ vô
cùng đáng yêu; hơn nữa Giải Ngữ vui vẻ rạng ngời, nghênh đón người ta bằng sự
ngọt ngào mềm mại, rất hợp với tính khí của hắn.
Không kiềm được sự hào hứng trong lòng, hắn vuốt nhẹ khuôn mặt mịn màng
của Giải Ngữ, hăm hở:
- Trẫm nói cho nàng hay, nhưng nàng nhất định không được để cho người khác
biết đó.
Đoạn y hạ thấp giọng, nói nhỏ:
- Đợi sang năm, trẫm sẽ trốn khỏi kinh đi tuần rồi, ha ha ha! Biển rộng sóng
dâng cá vẫy vùng, trời cao gió lộng chim tung cánh.
Giải Ngữ và Tu Hoa chợt ngẩn người, bốn mắt của hai cô vừa chạm vào nhau,
trong mắt Tu Hoa liền không nén được sự vui mừng. Cô nàng cũng khoác lên một
bộ dáng tươi cười ngọt lịm, kéo tay Chính Đức cạ vào bộ ngực đầy đặn cao vút của
mình, thỏ thẻ:
- Hoàng thượng! Ngài nói rõ hơn được không, nô gia có thể đi cùng ngài
không?
Chính Đức vội lắc đầu, đáp:
- Không được không được! Nếu dẫn phụ nữ theo thì nhất định Dương thị độc sẽ
không cho, trẫm thực không muốn tự làm mất mặt mình.Tu Hoa giậm chân làm nũng:
- Trời ơi! Vậy ngài nói cho nô gia biết sẽ đi đâu đi! Hoàng hậu nương nương
không ưa gì chị em nô gia, nếu như ngài không ở trong kinh nữa..., - vừa nói cô
nàng vừa làm ra vẻ chực khóc.
Chính Đức thấy vậy thì trở nên mềm lòng, liền vội kéo lấy tay cô nàng cười
nói:
- Yên tâm đi, trẫm sẽ thu xếp cho các nàng đến Báo phòng, bảo Lưu Cẩn hết
sức chăm sóc cho hai nàng là được rồi. Muốn biết trẫm sẽ đi đâu hả? Hắc hắc, thơm
trẫm một cái đi rồi sẽ nói!
***
Giờ đây, trong ba đại học sĩ thì Tiêu Phương xếp thứ hai. Được quyền cao chức
trọng, thân phận tôn quý, lại không phải chịu sự ghẻ lạnh như lúc còn ở bộ Lễ và bộ
Lại năm xưa, sau lưng có Dương Lăng chống đỡ, tiền đồ như thuyền xuôi gió, thế
nên mặt mày của lão luôn luôn tươi rói.
Lão đang ngồi trong điện phê duyệt tấu chương, thu xếp các bộ tính toán quân
lương, chuẩn bị phu dịch, vận chuyển lương thảo, khí giới, vỗ về giúp đỡ những
binh sĩ thương vong, điều động thầy lang, thu gom dược liệu, ... Cả đống công việc
nên lão bận đến túi bụi. Chợt nghe báo Dương Lăng đến thăm, ông già Tiêu Phương
liền vội bước xuống giường lò, tươi cười ra đón.
Dương Lăng là thống lĩnh thân quân của Hoàng đế, là võ tướng Chánh tam
phẩm. Nội xưởng là nha môn Hoàng đế tự lập ra, không hạn chế bởi phẩm hàm
trong triều, không có cấp bậc, nhưng Dương Lăng thân mang tước vị (Bá tước –
ND), mặc áo bào thêu hình mãng xà bốn vuốt do vua ban thưởng, quyền lực thực tế
lại không ai sánh được.
Tiêu Phương tự coi mình là người cùng phe cánh với Dương Lăng, mỗi khi gặp
y vẫn đều tôn kính gọi là đại nhân, tự nhún nhường xưng là môn hạ. Lúc này tuy
đang ở trong cung nhưng lão vẫn rất cung kính giữ lễ. Nghênh đón Dương Lăng vàotrong thư các xong, lão đích thân dâng chén trà ngon rồi mỉm cười mở lời:
- Đại nhân vào cung lúc nào vậy? Mấy ngày nay môn hạ cần phải xử lý tấu
chương rất nhiều, mãi chưa đến quý phủ thăm viếng được. Môn hạ đang tính năm
mới sẽ dẫn khuyển tử đến nhà thăm viếng ngài đây.
Dương Lăng cười đáp:
- Lão Tiêu chớ nên khách sáo. Trong triều còn có những quan viên mượn việc
công trả thù riêng, các nha môn bất tuân chính lệnh, tiền phương đang có chiến
tranh; những việc mà hậu phương phải làm cũng quan trọng không thua kém gì.
Thực đã làm khó cho ông rồi.
Gương mặt già nua của Tiêu Phương thoáng đỏ lên, lão xúc động:
- Đa tạ đại nhân đã quan tâm, môn hạ cảm kích vô cùng. Lưu công công biết
được những chuyện này đã nổi cơn thịnh nộ, mấy ngày nay đang ra lệnh cho bá
quan lập tức trở về nha môn xử lý chính vụ, bận rộn thêm dăm bữa nữa thì sẽ thoải
mái hơn.
Dương Lăng gật đầu, ngồi xuống bên mép giường. Nhìn thấy tên tiểu thái giám
đang đứng chầu chực ngoài cửa, y bèn bảo:
- Lui xuống đi! Ở đây không cần ngươi hầu hạ nữa.
Đợi tấm rèm dạ nhung buông xuống sau lưng tên tiểu thái giám, Tiêu Phương
mới sáp lại gần, nhỏ giọng hỏi:
- Đại nhân! Có phải là có chuyện quan trọng không?
Dương Lăng gật đầu đáp:
- Ừm! Quả là có chuyện muốn thương nghị cùng ông một chút, - đoạn y đem
chuyện Chính Đức muốn đến Đại Đồng kể cho Tiêu Phương nghe.
Tiêu Phương vừa nghe liền nhảy dựng lên, vội vã xua hai tay phản đối:- Vạn lần không thể được! Đúng ra đại nhân nên khuyên can Hoàng thượng,
chỗ binh đao há lại có thể để cho Hoàng thượng dễ dàng mạo hiểm? Việc này không
thể được, vạn lần không thể được.
Dương Lăng im lặng nhìn lão, đợi lão bình tĩnh trở lại rồi y mới nhẹ nhàng bảo:
- Thánh ý đã quyết! Tôi tới tìm lão Tiêu ông là muốn thương nghị cùng ông làm
sao để thu xếp cho Hoàng thượng đi được đến Đại Đồng, việc trong kinh phải xử lý
thế nào. Chuyện khuyên can sẽ không bàn tới nữa.
Lúc này Tiêu Phương mới định thần lại. Lão ngồi xuống cạnh bàn, vuốt râu, đôi
mày bạc phơ cau tít, một lúc lâu sau mới khổ sở lắc đầu:
- Văn võ bá quan quyết sẽ không đồng ý.
Dương Lăng gật đầu đồng tình:
- Ừm! Việc này tôi cũng đã nghĩ đến, cho nên... Hoàng thượng chỉ có thể cải
trang vi hành.
Y trầm ngâm một chút rồi nói tiếp:
- Vốn để bí mật gặp gỡ thủ lĩnh Đoá Nhan Tam Vệ, Hoàng thượng vẫn phải bí
mật mà đi; cho dù không có bá quan ngăn cản thì hành trang cũng vẫn phải gọn nhẹ.
Nhưng..., tuy nói là cải trang vi hành nhưng số người bảo vệ cũng không thể ít
được, cho nên tôi muốn rút lực lượng tinh nhuệ nhất từ Cấm quân, Kinh doanh, Nội
xưởng và Đông xưởng để đi cùng Hoàng thượng. Ít nhất cũng phải... năm nghìn
người, toàn bộ nhân mã sẽ cải trang thành quân binh tăng viện cho biên ải. Như vậy,
năm nghìn nhân mã cũng không đáng kể, ít nhất cũng sẽ không khiến cho quan phủ
địa phương và mật thám của phe giặc chú ý.
Dương Lăng thuật lại tình hình tỉ mỉ cho Tiêu Phương rõ. Nghe xong, Tiêu
Phương suy nghĩ một hồi rồi hỏi:
- Đại nhân có đi cùng không?Dương Lăng cười khổ sở đáp:
- Nếu tôi không ở cạnh trông coi Hoàng thượng thì sao yên tâm cho được? Chỉ
sợ lúc đó muốn ăn ăn không nổi, muốn ngủ ngủ không yên, đương nhiên tôi phải
chăm sóc bên cạnh Hoàng thượng rồi. Tôi sẽ mượn cớ thị sát để có thể đồng hành
cùng Hoàng thượng đến biên ải.
Sắc mặt của Tiêu Phương lập tức hoà hoãn trở lại, lão hơi trầm ngâm:
- Vậy thì... kế này có thể thực hiện được. Nhưng để cẩn thận, đến Đại Đồng rồi,
đại nhân nên bí mật thông báo cho tuần phủ Đại Đồng là Hồ Toán biết. Hắn là quan
viên quân chính (kiêm quân sự lẫn chính trị - ND) cao nhất của Đại Đồng. Hiện tại
tuy Dương Nhất Thanh thống lĩnh binh sĩ tiền tuyến, Miêu Quỳ đốc quân song
trong tay hắn có thể điều động ít nhất hai vạn nhân mã. Có hắn âm thầm phối hợp
mới bảo đảm không gặp phải sơ hở gì.
Sau thoáng trầm ngâm, Dương Lăng gật đầu đồng ý:
- Tốt lắm! Ngoài ra, chuyện này sẽ không thể giấu được mấy vị đại học sĩ Nội
các. Đến khi đó Hoàng thượng sẽ mượn cớ long thể suy bệnh để lần lữa mấy ngày,
áng chừng đợi bọn tôi đến Tuyên Phủ rồi, mới sẽ nhờ lão Tiêu ông thông báo cho
hai vị đại học sĩ Lý, Dương.
Khi đó ván đã đóng thuyền, bọn họ cũng chỉ đành phải giúp giấu giếm cho. Có
ba vị tọa trấn kinh sư thì tôi yên tâm rồi, còn về những quan viên khác... Ba đại học
sĩ Nội các cứ hiểu dụ(4) Lục Bộ Cửu Khanh, tuyên bố với toàn bộ quan viên bên
dưới rằng Hoàng thượng long thể bất an, tạm thời không thể thăng triều là được.
Tưởng tượng đến lúc Lý Đông Dương và Dương Đình Hoà phát hiện Hoàng
thượng mất tích sẽ nổi trận lôi đình như thế nào, Tiêu Phương không khỏi cảm thấy
nhức đầu. Lão đành thở dài:
- Thôi được, phải xin Hoàng thượng hạ mật chỉ vậy! Bằng không môn hạ sẽ
không kiềm nổi hai vị đại học sĩ đâu.Lão suy nghĩ một chút rồi lại hỏi:
- Ngoài ra, việc lập trữ vương trấn thủ(*) sẽ được thu xếp thế nào?
(*) nguyên văn là "kiến trữ cư thủ", trữ vương: người được chỉ định kế nhiệm
ngôi vua.
Dương Lăng trố mắt hỏi:
- Lập trữ vương săn thú(*)? Lập trữ vương săn thú gì?
(*) nguyên văn 'kiến trữ thu thú', do hai chữ 'cư thủ' (jū shǒu, nghĩa canh giữ)
và 'thu thú' (qiū shòu, nghĩa đi săn) đọc na ná nhau, nên Dương Lăng mới hiểu lầm
Dương Lăng đã lộ dốt. Y chỉ từng nghe nói hoàng đế triều Thanh hằng năm vào
mùa thu thường đến Mộc Lan săn bắn, nên việc rời cung săn bắn gọi là "thu thú".
Chẳng lẽ rời kinh còn được gọi là săn thú, sao thời Minh cũng có cái thú đi săn này
này?
Tiêu Phương cũng ngẩn người. Lão chợt sực nhớ vị đại nhân này chỉ đậu tú tài,
vào kinh một bước lên trời mới trở thành bầy tôi quyền cao chức trọng, cho nên y
không hiểu lắm về chế độ triều đình cũng là lẽ thường. Lão bèn thư thái cười đáp:
- Lập trữ vương trấn thủ là pháp lệnh mà các đời triều đình bắt buộc phải tuân
theo. Đã gần trăm năm Hoàng thượng Đại Minh chưa từng rời kinh, bình thường
không ai nhắc đến thể chế cũ này, chẳng trách đại nhân không nhớ.
Tiêu Phương hớp một ngụm trà, giải thích tiếp:
- Hoàng đế thân chinh ra trận hoặc giả tuần du thiên hạ, đều phải ra lệnh cho
thái tử ở lại canh giữ kinh thành, gọi là "giám quốc". Nếu như Hoàng thượng chưa
có con nối dõi, hoặc thái tử tuổi còn nhỏ không thể trông nom quốc sự, thì phái
hoàng đệ làm giám quốc cho, cũng có thể châm chế được.
Năm xưa khi Anh Tông bắc chinh, ngài đã phái hoàng đệ là Thành Vương ở lại
trông giữ. Đương kim Hoàng thượng chưa có con nối dõi, cũng không có anh emruột thịt, vậy chỉ có thể tạm thời tìm một vị thế tử(5) lập làm người kế vị, có người
kế vị rồi mới bàn đến trấn thủ vậy.
Dương Lăng nhíu mày hỏi:
- Hoàng thượng tuổi xuân đang thịnh, hiện mới chỉ mười sáu, có cần phải lập
trữ vương này nọ to chuyện như vậy không?
Tiêu Phương vội vàng giải thích:
- Đại nhân! Đây chỉ là một quy định phải có, lo trước khỏi họa sau mà thôi. Nếu
như Hoàng thượng đã bí mật rời kinh thì đương nhiên việc phong lập này cũng chỉ
là soạn mật chỉ. Đến lúc đó cũng chỉ có Lục Bộ Cửu Khanh và ba đại học sĩ biết
được chuyện này, cho dù là thế tử phiên vương được lập cũng không hề biết đến
việc ấy. Hoàng thượng hồi kinh lại hủy đi ý chỉ đó là xong.
Dương Lăng nghe xong mới cảm thấy yên tâm, nhưng việc lập người kế vị
chính là chuyện của Hoàng thượng, xem ra chuyện này vẫn phải do Chính Đức
quyết định. Dương Lăng đang do dự không biết có nên quay lại cung Càn Thanh
gặp Chính Đức hay không thì chợt nghe có tiếng tiểu thái giám bên ngoài kêu:
- Đại học sĩ đang thương nghị quốc sự với Dương Lăng Dương đại nhân. Ngài
cứ để công văn ở đó, chốc nữa sẽ quay lại lấy.
Dương Lăng cất giọng hỏi:
- Chuyện gì vậy? Ai đưa công văn đến?
Tên tiểu thái giám đứng gác bên ngoài cung kính đáp:
- Hồi bẩm đại nhân! Là lang trung Nghiêm Tung của bộ Hộ, nói có tấu chương
về việc chuẩn bị lương thảo và điều động phu dịch cần trình cho đại học sĩ.
Nghiêm Tung không phải là người ngoài. Phẩm quan của hắn thấp kém cho nên
hắn rất biết điều, hiếm khi đến nhà Dương Lăng mà chỉ thông qua phu nhân làm
công tác ngoại giao, thủy chung vẫn bảo trì quan hệ mật thiết với nhà họ Dương.Dương Lăng sai phái ba tỉnh Giang Nam, Hồ Nam, và Thiểm Tây, mỗi nơi cắt
cử một vùng, một huyện, một tỉnh trồng thử những giống cây lương thực mới. Tuy
lúc này giống lương thực và những người nông dân được đào tạo vẫn chưa được
phái đi, nhưng y đã sớm ra lệnh cho ba tỉnh đo đạc và tính toán ruộng đất, nắm rõ
tình hình đất đai trồng trọt nơi đó, chuẩn bị nông cụ và thuyết phục tá điền. Tất cả
những việc này đều thông qua bộ Hộ ban bố thành mệnh lệnh hành chính.
Đối với việc chưa trồng thử nghiệm mà đã cho trồng trọt thí nghiệm khắp cả
một tỉnh, Hàn Văn vẫn giữ vững ý kiến phản đối. Mặc dù Tuần phủ Thiểm Tây là
người cùng phe cánh được Lưu Cẩn bổ nhiệm, tận hết sức lực chấp hành mệnh lệnh
này, song phản ứng của Hàn Văn đối với tin tức truyền đạt từ trên xuống lại hết sức
tiêu cực. Nếu không nhờ có Nghiêm Tung, là một Lang trung nho nhỏ của bộ Hộ,
đứng giữa điều đình và liên lạc giữa hai bên thì không biết Dương Lăng sẽ còn lao
tâm khổ trí biết bao nhiêu mà kể, tuyệt sẽ không an nhàn như hiện tại.
Dần dà hình tượng vốn có về Nghiêm Tung là một đại gian thần trong lòng
Dương Lăng đã tiêu tan. Người này tuy đam mê quyền lực nhưng lại không háo sắc,
không tham tiền tài, đơn giản chỉ là một kẻ cuồng sự nghiệp. Dương Lăng có cảm
nhận rất tốt về hắn, đã coi hắn như tâm phúc đắc lực của mình, cho nên nghe vậy
liền bảo:
- Gọi hắn vào đi!
Nghiêm Tung ôm một chồng tấu chương bước vào, đưa mắt nhìn Dương Lăng
song vẫn dựa theo quy củ phẩm hàm mà thi lễ với Tiêu Phương trước, sau đó mới
quay sang thi lễ với Dương Lăng. Hắn nhũn nhặn cười nói:
- Hạ quan không biết đại nhân đang cùng đại học sĩ thương nghị quốc sự, đến
thực mạo muội rồi. Những tấu chương này chỉ báo cáo tình hình lương thảo và quân
dịch, quan phủ các địa phương cũng không dám qua loa với việc lớn như dụng binh,
họ không dám trì hoãn giấu giếm gì cho nên cũng không có gì hệ trọng.
Dương Lăng cười nói:
- Việc này các vị biết phải làm thế nào rồi. Nếu có gì thật sự khó xử thì cứ đitìm Lưu công công, ông ấy đang rất háo hức được vẫy vùng, đang lo lắng không có
chỗ để ra tay đấy. Bản quan sẽ không xen vào đâu.
Tiêu Phương và Nghiêm Tung nghe xong đều bật cười. Dương Lăng mỉm cười
nói tiếp:
- Đừng khách sáo nữa, ngươi cũng ngồi xuống đi, bản quan đang có một việc
lớn thương nghị cùng lão Tiêu. Ngươi cũng không phải là người ngoài, cùng nghe
luôn đi.
Nghiêm Tung dạ một tiếng, ngồi khép nép xuống chiếc ghế dựa mũ quan cạnh
giường, mỉm cười nói:
- Lúc hạ quan còn ở Hàn Lâm viện thì cả ngày chỉ chơi đùa với bút, viết lách ít
văn chương thơ cú. Từ khi chuyển sang bộ Hộ suốt ngày tiếp xúc với lương thảo
gạo tiền, mới cảm thấy tài học nông cạn, sức không bằng người. Thật như đại nhân
có chuyện quan trọng, hạ quan đành xin ngóng cả hai tai, trái nghe phải đoán vậy.
Dương Lăng bực mình cười đáp:
- Chuyện này vô cùng quan trọng. Bản quan vốn biết ngươi tính tình nghiêm
cẩn, hành sự ổn thỏa nên mới muốn ngươi cùng tham nghị, nếu chỉ nghe thôi thì
không được.
Dương Lăng phải đi cùng Chính Đức đến Đại Đồng mà việc trồng thử lương
thực mới lại không thể gác lại, rất nhiều việc lớn đều cần phải bàn giao cho gã tâm
phúc này. Vốn y cũng không muốn giấu giếm hắn nên bèn thuật lại sự tình một lần
nữa.
Nghiêm Tung lắng nghe, khoé miệng mang nụ cười nhẹ. Nghe nói Hoàng đế
muốn cải trang rời kinh đi tuần, sắc mặt hắn cũng không hề có vẻ gì là kinh sợ,
nghe đến việc an bài của Dương Lăng và Tiêu Phương, hắn cũng liên tục gật đầu,
mãi đến khi nghe việc lập trữ vương trấn thủ, đôi mày rậm của hắn mới thoáng nhíu
lại. Hắn trầm ngâm một lúc lâu mới lo sợ nói:- Hạ quan cho rằng... việc này không ổn.
Dương Lăng và Tiêu Phương kinh ngạc nhìn nhau, Tiêu Phương vuốt râu bảo:
- Ừm! Duy Trung có kiến giải gì thì đừng ngại, cứ nói ra nghe thử.
Nghiêm Tung chần chừ một chút rồi đáp:
- Hạ quan cho rằng việc Hoàng thượng đi tuần phương bắc, hai vị đại nhân sớm
đã tính toán sẵn trong lòng, hẳn cho rằng sẽ không có gì hung hiểm, vậy cớ gì phải
rập theo cái lệ cũ là lập trữ quân trấn thủ?
Năm xưa Lưu Bang nhà Hán từng bị bốn mươi vạn thiết kỵ Hung Nô vây hãm
trên Bạch Đăng sơn, nhưng thời thế xưa nay đã khác. Mảnh đất trải dài phía bắc và
tây Đại Đồng đều đã nằm trong tay Đại Minh ta. Giặc Thát tuy đang tập kích quấy
nhiễu, Đoá Nhan Tam Vệ tuy chưa hẳn đã trung thành, nhưng về binh mã thì Đại
Minh ta lại chiếm ưu thế.
Hoàng thượng có thể đến Đại Đồng trước, sau đó mới báo tin cho Đoá Nhan
Tam Vệ. Trong thời gian đó sẽ thu xếp điều binh khiển tướng, an bài ổn thỏa, chiếm
hết thiên thời, địa lợi, nhân hoà, thì cho dù là Thát Đát hay Đoá Nhan Tam Vệ cũng
sẽ không thể thừa cơ tấn kích. Nhưng nếu lập trữ vương trấn thủ thì ngược lại sẽ
mang đến nhiều mối nguy hiểm và hậu họa vô cùng.
Dương Lăng lo lắng hỏi:
- Nghĩa là thế nào? Ngươi hãy nói rõ hơn đi!
Nghiêm Tung cưa quậy thân thể gầy như cây sậy, liếm môi đáp:
- Đại nhân! Họa không nằm ở bên ngoài mà là ở bên trong. Đại nhân thử nghĩ
xem: Hoàng thượng ở bên ngoài, nếu như gặp chuyện khốn khó như bị vây hãm,
những người đi theo bảo vệ đương nhiên sẽ tận lực hộ giá, còn trong triều như rắn
mất đầu, bá quan văn võ tất sẽ trên dưới một lòng, hy vọng quân vương sớm ngày
trở lại.Việc Hoàng thượng không ở trong cung chưa hẳn sẽ thật sự che giấu được bá
quan văn võ, cùng lắm là bọn họ e ngại lòng người hoang mang nên vờ như không
biết. Nhưng giả như Hoàng thượng đã lập người kế vị..., khó dám đảm bảo sẽ không
có kẻ mang dị tâm.
Hoàng thượng lâm triều chưa trọn một năm, căn cơ chưa ổn, Lục Bộ Cửu
Khanh há sẽ đều trung thành? Giả như có người mang ý niệm ủng hộ vua mới, kiến
công lập nghiệp thì cho dù Hoàng thượng vốn không có gì nguy hiểm, sợ rằng cũng
sẽ có kẻ tiết lộ tin tức cho giặc Thát. Còn nếu như Hoàng thượng đang bị vây hãm,
vậy sẽ càng...
Dương Lăng vừa nghe liền bừng tỉnh. Người kế nghiệp chưa được quyết định,
bá quan văn võ tất sẽ tận tâm cống hiến và ra sức tranh giành sự yêu mến của
Hoàng đế. Còn nếu người kế nghiệp đã được xác định, Hoàng đế lại ở nơi nguy
hiểm mà bất cứ lúc nào cũng có thể bị kẻ khác thay thế, vậy thực sẽ rất nguy. Bá
quan văn võ tất sẽ có mưu tính riêng cho mình, ngáng chân cấu xé lẫn nhau, vậy sẽ
lỡ hết đại sự.
Thêm nữa, sau khi Chính Đức kế vị, triều chính đổi thay, đầu tiên là một nửa số
thượng thư Lục Bộ bị cho bãi chức, tiếp đó ba đại học sĩ lại mất đi hai, bá quan văn
võ bị liên lụy nhiều vô số kể. Một số lão thần sớm đã sinh lòng oán hận với Hoàng
thượng, cho dù là họ có ý định lập một vị vua mới có ích cho giang sơn hay là có tư
tâm, muốn ủng hộ lập nên một vì vua mới, kiếm công phò tá quân vương cũng vậy,
e rằng bọn họ sẽ chỉ khoanh tay đứng nhìn, thậm chí có thể còn ném đá xuống giếng
nữa.
Như vậy, việc lập trữ vương trấn thủ sẽ trở thành chuyện không đề phòng chưa
hẳn đã có họa, mà có đề phòng thì nhất định sẽ có họa lớn. Tiêu Phương lăn lộn lâu
năm chốn quan trường, vừa nghe liền thông suốt điểm kỳ diệu trong đó ngay.
Dương Lăng bỗng vỗ đùi đánh đét nói:
- Phải à! Nếu đã như vậy, kiến nghị lập trữ vương trái lại sẽ khiến Hoàng
thượng sa vào hiểm địa. Ngươi suy nghĩ rất phải, việc lập trữ vương trấn thủ tuyệt
không thể làm, là ta suy xét chưa chu toàn rồi.Nghiêm Tung khom người khẽ cười đáp:
- Không dám! Hoàng thượng bản tính thượng võ, đại nhân có phần lo lắng cũng
là để Hoàng thượng không phải lo âu về việc cung đình, mới có thể như cá gặp
nước mà thản nhiên đi tuần du bên ngoài.
Tiêu Phương vuốt râu đưa mắt nhìn Nghiêm Tung, khẽ thở dài:
- Đến cửu biên tái ngoại, mạo muội dấn thân nơi đầu giáo mũi kiếm, nguy hiểm
khôn lường, quả nên suy xét mọi mặt như ngươi. Ừm! Đúng là hậu sinh khả úy, hậu
sinh khả úy!
Tiêu Phương thuộc làu các điển chương và quy định, Nghiêm Tung lại thông
thạo thế sự nhân tình. Có hai người một già một trẻ rất có tiềm năng trở thành "gian
thần lộng quyền" này xem xét cặn kẽ, Dương Lăng đứng giữa cân nhắc chọn lựa,
việc Chính Đức cải trang rời khỏi kinh sư được an bài hết sức cẩn thận. Chuyện trò
đến lúc trời gần nhá nhem, ba người mới vui vẻ chia tay.
Lòng như tấu nhạc, Dương Lăng vui sướng rời khỏi cổng cung, chui vào trong
chiếc kiệu quan, đám người hầu nâng chiếc kiệu lớn lên. Ngũ Hán Siêu đang ngồi
tĩnh tọa, thấy y trở về bèn thu thế lại nhường chỗ cho y chui vào. Dương Lăng vào
trong kiệu, vừa ngồi xuống liền áy náy:
- Đã làm phiền Hán Siêu rồi! Với tài học của mình, huynh vốn có nhiều chỗ để
dùng, giờ lại bảo huynh bảo vệ che chở cho ta, ha ha! Đợi mấy ngày nữa đi, chờ yên
ổn rồi, ta sẽ bổ nhiệm cho huynh một chức quan.
Ngũ Hán Siêu cười đáp:
- Đại nhân không cần phải khách sáo, kẻ hèn thương thế chưa khỏi, nghỉ ngơi
thêm mấy ngày cũng tốt. Khi còn ở trên núi, thông thường mỗi lần tĩnh tọa là suốt
một ngày, cho nên quả thực cũng không cảm thấy buồn tẻ.
Trong lúc hai người chuyện trò, chiếc kiệu đã được nhấc lên, lắc lư di chuyển
trên đường.Chiếc kiệu rời khỏi sân rồng lát đá xanh, rẽ vào một phố lớn phồn hoa. Ngũ
Hán Siêu đang quay đầu giảng giải tâm pháp nội công cho Dương Lăng thì bất chợt
ngừng lại, thân dưới thoáng nhích, cả thân trên đột nhiên dịch sang ngang nửa
thước, một thanh kiếm bén ngót lạnh lẽo từ ngoài rèm kiệu đâm vào. Một kiếm đâm
hụt, kẻ ra tay cũng phát hiện được, "xoạt" một tiếng trường kiếm bèn được rút về.
Lúc này ngoài kiệu hỗn loạn, một loạt những âm thanh huyên náo vọng vào.
Ngũ Hán Siêu mắng khẽ:
- Quả nhiên có thích khách!
Dứt lời chàng quơ lấy thanh trường kiếm bên cạnh, búng người phóng ra ngoài.
Nhát kiếm vừa nãy khiến cho Dương Lăng trông thấy mà khiếp vía vô cùng.
Ngoài kiệu tiếng binh khí chạm nhau vang lên dồn dập xen lẫn với những tiếng la
hét ầm ĩ của bá tánh trên đường, sau đó có tiếng con gái chửi mắng vọng lại xa dần,
lại nghe Ngũ Hán Siêu quát tháo: "Bảo vệ đại nhân", rồi không còn tiếng động gì
nữa.
Dương Lăng thoáng định thần lại, vén hờ rèm kiệu, thấy bốn tay thị vệ đang
căng thẳng bao vây chung quanh. Gần cuối năm nên nhiều người dân ra đường mua
đồ sắm tết đông đúc, nơi này lại là con đường cực kỳ phồn hoa, đám đông nhốn
nháo hoảng loạn quanh đấy vẫn còn trốn chạy, trên đường vứt bừa bãi nào là đầu
heo, nào là bàn thờ, vàng mã, ... ngổn ngang hỗn loạn.
Dương Lăng vén rèm bước ra ngoài quát hỏi:
- Ngũ huynh đâu?
Một tay thị vệ cầm đao, vừa căng thẳng nhìn bá tánh đang chạy tán loạn khắp
nơi vừa đáp:
- Dạ đã đuổi theo nữ thích khách che mặt nọ rồi.
Dương Lăng thở phào một hơi, ra lệnh:- Cử một người đi bảo người của Ngũ thành binh mã ty mau đến trấn áp khu
vực, tình hình càng hỗn loạn thì....
Y còn chưa dứt lời, mắt đã thấy một bóng hình yêu kiều mà mau lẹ chợt xuất
hiện, tay thị vệ bị kẻ đó đá văng vào trong đám người, mồm hộc máu tươi.
Kẻ vừa xuất hiện hết sức nhanh nhẹn, kiếm loé như chớp, một tay thị vệ khác
vừa cảnh giác vặn người bổ một đao đã bị một kiếm đâm xuyên vai. Kiếm lui chân
tới, tên thị vệ bị đá quay một vòng văng vào giữa đám đông. Dương Lăng chỉ cảm
thấy hông bị siết lại, y đã bị người ta ôm chặt, bên tay vẳng lại giọng nữ khẽ quát:
- Mau đoạn hậu! Gió rát, ai nấy về chùa! (từ lóng: ý nói tình thế không tốt, mọi
người rút lui)
Dương Lăng chân không chạm được đất, bị kẻ đó kẹp nhảy vào trong đám
đông, rẽ quanh rẽ quẩn rồi tiến vào một con hẻm chưa chong đèn. Con hẻm không
sâu, nháy mắt đã ra khỏi đầu hẻm, đã có một cỗ xe ngựa đợi sẵn. Tay kẻ đó thoáng
vung lên, ném bay Dương Lăng vào trong xe, rồi co người nhún chân nhảy vọt lên
xe, quát:
- Lập tức rời thành!
Dương Lăng bị ném ngã vào trong xe, đầu vàng mắt hoa, vừa mới ngẩng đầu
lên liền có một người nữa xông vào, chen ngồi cạnh y. Kế đó y bị kẻ kia túm lấy cổ
áo nhấc lên.
Dương Lăng hoảng hốt chống tay gượng dậy. Y cảm thấy tay vịn vào một khối
thịt mềm mại nở nang, vừa phát hiện ra là một cặp đùi săn mẩy chắc nịch thì cả
người y đã bị ấn về phía sau, đập vào thanh xe "bộp" một tiếng, một lưỡi kiếm sắc
lẹm lạnh lẽo đã kề sát trên cổ.
Dương Lăng định thần lại, thấy trong xe treo một cây đèn bão. Dưới ánh đèn,
kẻ đó gỡ khăn che mặt xuống, toàn thân mặc đồ đen, da trắng như tuyết, tôn lên một
vẻ đẹp không nhiễm bụi trần.Gương mặt xinh xắn đó thanh nhã mà thoát tục, rực rỡ rạng ngời, một cây trâm
ngọc bích màu xanh lá óng ánh cài trên mái tóc đen mượt, dưới hàng mi cong cong
là một đôi mắt xinh đẹp lóe lên vẻ lạnh lùng và nghiêm nghị vô cùng.
Dương Lăng thoáng sững người, bật thốt:
- Dương Khóa Hổ Hồng Nương Tử?
Người con gái xinh đẹp vận bộ đồ bó màu đen nọ thoạt tiên ngẩn ra, sau đó
nhếch miệng cười, thấp thoáng hàm răng trắng đều như bắp:
- Thì ra ngươi đã biết rõ tông tích của ta. Không sai, ta chính là Thôi Oanh Nhi!
Xưởng đốc đại nhân, dù bản lĩnh ngươi to như vậy mà còn không phải đã rơi vào
trong tay ta đó ư?
Nàng thoáng lật mũi thanh đoản kiếm, sống kiếm ấn vào cổ Dương Lăng,
khuôn mặt xinh đẹp nghiêm lại, giọng lạnh lùng quát:
- Trượng phu của ta đâu? Có phải đã trúng phải độc thủ của ngươi rồi không?
Nụ cười thoáng qua kia như "bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước", nét mặt tươi
cười tựa như "mây phá, trăng ra, hoa giỡn bóng", rúng động lòng người. Trong chớp
mắt vẻ đẹp rạng ngời như bóng ngựa qua khe cửa, thoáng cái đã không thấy tăm
hơi, trên khuôn mặt thanh tú lạnh lùng chỉ còn lại một đôi mắt đang nhìn y chằm
chằm đầy thù hận.
Chú thích:
(1) Nguyên văn "Khanh bản giai nhân".
Ngoài nghĩa là người đẹp, giai nhân cũng có nghĩa là người tốt, chỉ bực quân tử.
Hán Vũ đế trong "Thu Phong từ" có câu: "Lan hữu tú hề cúc hữu phương, huề
giai nhân hề bất năng vong." (Ý: Lan đẹp có cúc mới có hương thơm, gần người
quân tử không thể mất nước).Cụm từ "khanh bản giai nhân" được dùng với ý trách móc: "Ngươi vốn là người
tốt, sao lại..."
Trong Đào Khản truyện, sách Tấn thư, có câu: "Khanh bản giai nhân, hà vi tùy
chi dã?" (Ý: Ngươi là người tốt, sao lại theo làm (điều xấu)?).
(nguồn: )
(2) "Khởi Cư" nghĩa là sinh hoạt thường ngày; đây là quyển sổ ghi chép sinh
hoạt hằng ngày của vua chúa
(3) nguyên văn "tước bôi" là loại chén rót rượu cao có ba chân thời xưa, hình
giống con chim sẻ (chim tước), thường thấy trong phim Tam Quốc Diễn Nghĩa.
(4) người trên bảo cho các người dưới đều biết gọi là hiểu dụ, cũng như hiểu
thị.
(5) từ thời Chu, con vua và các chư hầu đều được gọi là thế tử.NGƯỢC VỀ THỜI MINH
Nguyệt Quan
www.dtv-ebook.com
Chương 179 Rơi Vào Tay Kẻ Địch
Nhát kiếm đó từ ngoài tấm rèm đâm vào, thế kiếm hết sức tàn độc, vẻ như thể
nhất quyết phải thành công. Trong lòng Ngũ Hán Siêu lửa giận bừng lên, bèn xách
kiếm lao ra ngoài kiệu, thấy bốn gã thị vệ đang rút đao xông về phía tên thích khách
đột nhiên tập kích kia, còn kiệu phu thì đã sợ hãi trốn qua một bên rồi. Y bèn lập tức
rút kiếm lao tới, giao chiến với tên thích khách mặc đồ đen có thân hình nhỏ nhắn,
che mặt bằng khăn đen kia.
Y đã nhận định trong lòng đây chính là đại đạo Thôi Oanh Nhi chưa kịp trốn đi.
Giang hồ đồn rằng Thôi phu nhân xinh đẹp như hoa, thuần thục nghề cung ngựa,
một thân võ nghệ còn lợi hại hơn trượng phu, người trong giang hồ tặng cho biệt
hiệu là Dương Khóa Hổ. Ngũ Hán Siêu từng kiến thức võ nghệ của Dương Hổ, tuy
còn kém xa mình, song lúc này trên người đang có nhiệm vụ nặng nề, đối mặt với
nữ tử bịt mặt này cũng không dám sơ ý.
Hai bên giao đấu được vài hiệp, Ngũ Hán Siêu liền cảm thấy yên tâm, Dương
Khóa Hổ chỉ có hư danh, võ nghệ thật ra cũng chỉ xấp xỉ với Dương Hổ. Đấu được
một lát nữ tử kia cũng nhìn ra mình không phải là đối thủ của Ngũ Hán Siêu, đột
nhiên quát lớn một tiếng, vung tay ném ra một thanh tiểu đao, đoạn thừa cơ trốn vào
trong đám người.
Ngũ Hán Siêu vừa mới theo vào dưới trướng Dương Lăng, nếu có thể bắt được
ả đại đạo này ắt là một công lớn, có thể nở mày nở mặt, y làm sao chịu bỏ qua, bèn
lập tức tung người đuổi theo. Trong suy nghĩ của y, Dương Khóa Hổ đã sinh lòng sợ
hãi, dựa vào võ công của y muốn bắt sống đối phương cũng chẳng phải chuyện gì
khó khăn.
Nhưng nữ tử bịt mặt kia cực kỳ giảo hoạt, ỷ có thân hình nhỏ nhắn nên không
ngừng rẽ trái rẽ phải trong đám người, dựa vào sự che chắn của dòng người khiếnNgũ Hán Siêu không cách nào bắt được. Đuổi theo chừng hai con đường, trong lòng
Ngũ Hán Siêu chợt động, cảm thấy sự tình có điều không ổn.
Y vốn cho rằng nữ tử võ nghệ cao cường này chính là Hồng Nương Tử, một
mình tới hành thích Dương Lăng, xem ra là đã ở vào đường cùng không còn ai để
sai phái, do đó y mới yên tâm đuổi theo. Nếu lỡ như ả còn mai phục thêm người
khác, dựa vào những thị vệ chỉ quen việc chiến đấu nơi sa trường, không giỏi về võ
nghệ kia liệu có thể bảo vệ chu toàn cho đại nhân không đây?
Ngũ Hán Siêu nghĩ tới đây, không dám tham công đuổi theo tiếp nữa, tập tức
quay người chạy về chỗ cũ. Khi về đến nơi chỉ thấy một đội quan binh đang vây
quanh nơi đó, trên mặt đất có một thi thể, bốn gã phiên tử đều đã bị thương. Trái
tim Ngũ Hán Siêu nhảy lên tận cổ họng, hoang mang chạy đến gần. Chỉ thấy một
thị vệ đang dùng tay giữ chặt vai, máu tươi rỉ ra không ngừng song cũng chẳng để
tâm tới vết thương của bản thân, hướng về phía đám quan binh tuần thành lớn tiếng
gầm lên:
- Còn đứng ngây ra đó làm gì? Tổng đốc Nội xưởng đã bị quân giặc cướp bắt đi
rồi, mau đi thông báo cho Ngũ Thành Binh Mã ti lục soát toàn thành, lệnh cho Kinh
doanh (Trỏ doanh trại quân đội đóng ở khu vực kinh sư - ND) đóng chặt Cửu môn,
mau đi!
Hôm qua Dương phủ bị tập kích, gian tặc đến xâm phạm gần như đã bị tiêu diệt
hoàn toàn, tên thủ lĩnh đã trốn đi. Dựa theo lẽ thường thì cường đạo dù hung hãn
đến đâu đi nữa, một khi đã bại lộ hành tung trước mặt quan phủ thì ắt sẽ cao chạy
xa bay, không dám ở lại chỗ cũ nhưng quan binh tuần thành cũng không dám sơ ý
chút nào. Dưới mệnh lệnh của cấp trên, các quan binh mười người lập thành một
đội đi lại khắp thành, nơi nào có động tĩnh cũng đừng hòng giấu được.
Nơi này vừa mới xảy ra giao tranh bọn họ đã lập tức nghe tin mà tới, năm tên
đại đạo phụ trách đoạn hậu có một tên trúng đao bỏ mạng, những kẻ còn lại thấy
tình hình không hay liền lập tức tản đi, lẩn vào trong đám người rồi biến mất chẳng
còn tung tích. Bốn gã thị vệ vừa lo lắng vừa tức giận, không kìm được nổi cơn lôi
đình với lũ ngu ngốc kia.Tổng đốc Nội xưởng bị bắt cóc ngay tại kinh sư, Ngũ Thành Binh Mã ti hay tin
thì không ngừng kêu khổ, lập tức phái ra toàn bộ lực lượng. Các nha dịch người
cầm đao kẻ cầm thương khí thế bừng bừng phong tỏa mọi con đường, năm bước
một trạm gác nhỏ, mười bước một trạm gác lớn, toàn thành giới nghiêm.
Hình bộ nhân lúc cửa cung còn chưa đóng vội vã đưa tin vào trong cung. Chính
Đức hay tin thì cả giận, lập tức hạ lệnh đóng chặt Cửu môn phong tỏa toàn thành,
lại vội vã triệu Lưu Đại Hạ vào cung, lệnh cho ông ta quét sạch đám giặc cướp tụ
tập làm loạn ở khu vực Bá Châu. Hình bộ, Kinh doanh, Đông xưởng, Tây xưởng,
Cẩm Y vệ cũng nhận được thánh dụ, phái nhân thủ đi khắp nơi, khiến cho khắp kinh
sư rơi vào cảnh gà bay chó chạy.
Các vị quan sai lão gia của các ti các bộ đều nhân cơ hội này để làm khó các gia
đình giàu có, lấy cớ có người tố cáo mà đến tận cửa lục soát, tiện tay vơ vét những
thứ đồ đáng tiền. Các phú thương giàu có sao chịu để cho đám sai dịch như lang
như hổ đó vào nhà tìm kiếm, để cầu bình an chỉ còn cách bỏ ra chút tiền cho xong
việc, đuổi đám quan sai lão gia ấy đi.
Thế nhưng lượt này đi rồi lượt sau lại tới, còn cái bóng của Dương Lăng thì vẫn
chẳng thấy đâu, rốt lại thành ra giúp lũ người đó kiếm được một khoản tiền. Tin tức
truyền lên trên núi, Ngô Kiệt hay tin không khỏi cả kinh, nếu Dương Lăng có mệnh
hệ gì Nội xưởng coi như sụp đổ. Dù ông ta trước nay cơ cảnh bình tĩnh nhưng cũng
bị tin tức này làm cho kinh hãi đến độ lòng dạ rối bời, nhất thời không nghĩ ra được
chủ ý nào hay cả.
Duy có Hoàng Kỳ Dận là hết sức tỉnh táo, hỏi kĩ tình hình từ viên phiên tử đến
báo tin, rồi kêu y lập tức trở về dặn dò đám người Ngũ Hán Siêu phải ở lại Hình bộ
không được trở lại Dương phủ. Vẻ mặt lo âu, ông ta quay sang nói với Ngô Kiệt:
- Ngô đại nhân, xin chớ tự làm loạn trận cước, tên đại đạo đó bắt mà không
giết, ắt là còn có mục đích khác, đại nhân tạm thời không có mối nguy về tính mạng
đâu.
Ngô Kiệt trấn tĩnh trở lại, nói:- Đúng rồi, bản quan hay tin mà kinh hãi quá, trong lòng chẳng nghĩ ra được
chủ ý nào. Bọn chúng bắt đại nhân đi ắt có mưu đồ, phòng ốc trong kinh sư dày đặc,
dân cư trăm vạn có dư, nếu mà ẩn nấp thì thực khó lòng tìm được, Hoàng lão có
diệu kế gì không?
Hoàng Kỳ Dận nói:
- Phu nhân đang mang thai, lỡ mà hay tin đại nhân gặp nguy hiểm, với nỗi kinh
hãi và lo lắng khó đảm bảo sẽ không có điều sơ sảy nào. Đại nhân cần lập tức phái
người đi phong tỏa phủ Uy Vũ bá, không được để tin tức truyền vào trong phủ!
Ngô Kiệt nghe xong cả kinh, Dương Lăng chưa rõ sống chết, nhất thời chẳng
biết tìm ở đâu. Y chỉ có một người con này, quả thực là một chuyện lớn không thể
sơ xuất. Ông ta bèn quay sang nói với Liễu Bưu vừa hay tin chạy tới:
- Liễu thiên hộ, chuyện này giao cho ngươi đấy, nhất định phải bảo vệ Dương
phủ an toàn, không được có điều sơ sảy!
Liễu Bưu thần sắc ngưng trọng, chẳng nói lời nào, vội vã ôm quyền rời đi. Ngô
Kiệt suy nghĩ rồi tiếp:
- Nữ tặc đó bắt đại nhân đi, trong lòng thấp thỏm, chưa chắc đã dám ở lại trong
kinh, có điều ả đã bắt mà không giết, chắc chắc là có mưu đồ, dù đi cũng không đi
xa. Bành đáng đầu, Liên đáng đầu, Phùng đáng đầu, Dương thiên hộ, các vị mỗi
người dẫn theo một đội quân, lập tức đến bốn cửa lớn của kinh thành tra hỏi xem có
xe ngựa nào khả nghi không. Tìm kiếm thật kỹ, hãy nhớ mọi sự phải cẩn thận, đừng
ép gấp quá, khiến cho lũ đạo tặc chó cùng rứt giậu.
Bốn người lập tức vâng lời, rồi cũng vội vã rời đi. Ngô Kiệt đưa mắt nhìn
Hoàng Kỳ Dận, thở dài than rằng:
- Nay ta và ông chỉ có thể ngồi đây chờ tin tức, mong rằng đại nhân... người tốt
sẽ được trời trợ giúp!
***Dương Lăng bị lưỡi đao sắc bén kề lên cổ họng, trong lòng nghĩ thầm: "Hồng
Nương Tử mạo hiểm như thế bắt mình đi, xem ra là còn chưa biết Dương Hổ đã
trốn thoát. Nếu nàng ta biết tin tức chính xác của Dương Hổ, hẳn đã nghĩ cách trốn
khỏi kinh thành rồi, sao dám mạo hiểm như vậy để bắt mình chứ? Cũng may mà
nàng ta chưa biết trượng phu còn sống hay đã chết, ném chuột sợ vỡ đồ, do đó mới
không dám giết mình. Mình vì chuyện này mà gặp họa, cũng vì chuyện này mà
được an toàn, xem ra nhất thời không có nguy hiểm về tính mạng rồi."
Xe ngựa đi nhanh rất xóc. Dương Lăng nghĩ đến đây, trong lòng thầm thở dài
một hơi, lại đưa mắt nhìn khuôn mặt xinh đẹp trắng ngần của Thôi Oanh Nhi, bèn
khẽ thở dài nói:
- Hôm trước cô còn là khách của ta, hôm nay ta lại là tù nhân của cô rồi. Dương
phu nhân, bản quan đối với vợ chồng cô hết sức đúng mực, không hề có chút ác ý
nào, cớ sao lại tập trung mấy trăm kiêu hùng, muốn giết cả nhà ta?
Thôi Oanh Nhi nghĩ đến mục đích của chồng mình, trong lòng thoáng qua một
chút áy náy, nhưng ngay sau đó lại trầm mặt gằn giọng:
- Ngươi là quan, ta là giặc, quan và giặc vốn đã thế bất lưỡng lập rồi. Quan binh
bắt giặc, giặc giết quan binh, đều là dựa vào bản lĩnh, còn cần có lý do gì sao?
Nàng nghĩ đến việc trượng phu sống chết chưa rõ, hai trăm thủ hạ đắc lực mà y
dẫn theo gần như đã bị thư sinh trước mắt này giết sạch, không khỏi căm hận
nghiến răng nghiến lợi, hằn học hỏi:
- Mau nói đi, trượng phu của ta hiện giờ thế nào rồi?
Dương Lăng thấy nàng quả nhiên không biết tin tức của Dương Hổ, trong lòng
lại càng yên tâm hơn, bèn ung dung nói:
- Đám đạo tặc đó nửa đêm xông vào Cao Lão Trang, dưới sự bao vây của hơn
ngàn quan binh đã bị tiêu diệt hoàn toàn, còn về Dương Hổ...
Hồng Nương Tử nghe vậy thần sắc lộ rõ vẻ lo lắng, vội vã hỏi:- Chàng thế nào rồi?
Dương Lăng bấm bụng nói:
- Trên đùi gã trúng một tên, đã bị bản quan bắt sống, hiện giờ đang bị nhốt
trong đại lao.
Dương Hổ trúng tên bị thương, sau đó bị bắt sao? Điều này nghe cũng có mấy
phần đáng tin, với tính cách của Dương Hổ quyết không lý nào lại một mình bỏ
chạy, mà nếu gã không bị thương, dựa vào võ công của quan binh muốn bắt được gã
thì chẳng phải chuyện dễ dàng gì.
Hồng Nương Tử nhìn Dương Lăng vẻ bán tín bán nghi, cười lạnh một tiếng nói:
- Được, ta tạm thời tin ngươi, ngươi sống hay chết phải xem xem Dương Hổ
giờ đây sống hay chết. Nếu để ta biết tin chàng đã không còn sống trên đời, ta sẽ
dùng cái đầu ngươi để tế vong hồn của trượng phu ta!
Thôi Oanh Nhi đột nhiên thu kiếm lại, dùng cán kiếm vén rèm cửa sổ xe lên,
đưa mắt nhìn ra bên ngoài một chút, sau đó bèn thay quần áo ngay trước mặt Dương
Lăng, mặc vào một bộ quần áo bình thường, dáng vẻ thản nhiên như thể Dương
Lăng là một người chết vậy.
Thứ nàng mặc bên trong tuy không phải quần áo lót, nhưng vì nàng eo thon
ngực nở, chân dài mông cong, vóc dáng quyến rũ vô cùng, trong khoang xe lại chật
hẹp, thỉnh thoảng có va chạm là lại một phen diễm phúc, nhưng rốt cuộc lại làm cho
Dương Lăng thấy thiếu tự nhiên, ngoảnh đầu qua hướng khác.
Hồng Nương Tử nhanh chóng thay xong quần áo, đoạn yêu kiều quát bảo:
- Dừng xe!
Xe ngựa dừng lại, Hồng Nương Tử đưa tay chụp lấy cánh tay Dương Lăng, hệt
như một chiếc vòng sắt quấn vào, khiến cho Dương Lăng chẳng thể giãy giụa. Hồng
Nương Tử lạnh lùng quát:- Xuống xe!
Nàng kéo Dương Lăng xuống xe, ngồi bên ngoài đánh xe là một đại hán râu
quan nón mặc áo đay, Hồng Nương Tử nói:
- Hồ lão tứ, ra ngoài thành rồi hãy đánh xe đi một mạch về hướng bắc, sau đêm
nay hãy tạm thời tránh đi, đợi khi gió yên sóng lặng thì trở về sơn môn.
Hồ lão tứ đó vốn là một đại đạo độc hành, sau bị Dương Hổ thu phục về rồi kết
nghĩa huynh đệ, cái trò một mình đi lại giữa sự bao vây của quan phủ này trải qua
đã nhiều, đối với tương lai nguy hiểm trước mắt căn bản chẳng để tâm là mấy, vẫn
thản nhiên cất tiếng cười vang:
- Tẩu tẩu yên tâm, huynh đệ đi đây, tẩu tẩu nhớ bảo trọng!
Dứt lời bèn nhìn Dương Lăng cười gằn một tiếng, vung roi quất ngựa rời đi.
Dương Lăng có chút bất ngờ, nghĩ bụng: "Hồng Nương Tử chỉ là một đại đạo
lục lâm, trong kinh sư này cũng có chỗ ở bí mật sao? Mình vừa bị bắt, ắt đang được
tìm kiếm khắp toàn thành, nếu ở tại khách điếm hay gia đình bình thường nào đó,
nàng ta làm sao đảm bảo rằng không bị phát hiện đây?"
Con hẻm này có chút vắng vẻ, đằng xa thỉnh thoảng mới có vài bóng người qua
lại, Hồng Nương Tử thúc cán kiếm vào eo lưng Dương Lăng, thấp giọng nói: "Chớ
có lên tiếng, đi theo ta! Nếu dám giở trò, ta sẽ cho ngươi đầu rơi xuống đất." Nói
xong bèn đưa tay đẩy Dương Lăng, ép y đi vào trong con hẻm âm u.
Kinh sư phân làm bốn lớp là cung thành, hoàng thành, nội thành và ngoại
thành, nơi này đã là ngoại thành, không được xây dựng tường thành, nhưng vẫn
thuộc vào phạm vi kinh sư. Nhân khẩu cư trú ở đây khá ít, đi ra khỏi con hẻm là
một mảnh đất hoang vu, đi tiếp về phía trước nữa thì là một đạo quán còn chưa
được xây dựng xong.
Trong đạo quán Lưu lão đạo đang rì rầm nói chuyện riêng với Thúy Nhi. Lưu
lão đại đưa mắt nhìn mấy tên sơn tặc đang ôm vũ khí đi qua đi lại trước mắt, ngồidựa vào hương án thấp giọng nói:
- Thật là thất sách, ta trù tính để nàng ra tay trước, chính là muốn nàng một
kiếm lấy mạng gã họ Dương kia luôn, ai ngờ hắn thật quá giảo hoạt, còn chơi trò
giấu thêm người trong kiệu, không biết giờ Hồng Nương Tử đã đắc thủ chưa?
Thúy Nhi cũng thấp giọng nói:
- Dương Hổ rất có uy vọng trong giới lục lâm phương bắc, hô một tiếng ắt có
vô số người theo, có thể giúp ích rất nhiều cho đại kế của giáo chủ. Nếu Hồng
Nương Tử thật sự có thể dùng hắn đổi về Dương Hổ, tính ra lại càng có lợi cho
chúng ta, giết một tên thủ lĩnh Nội xưởng thì có lợi gì cho đại cuộc chứ?
Lưu lão đạo khẽ hừ một tiếng:
- Dương Hổ là sống hay chết vẫn còn chưa biết, nếu còn sống thì liệu có thật sự
đã rơi vào tay quan phủ hay không cũng chưa biết. Quan phủ liệu có chịu bất chấp
thể diện mà trao đổi con tin với đạo tặc không cũng vẫn chưa biết. Chúng ta đi theo
ả mạo hiểm như vậy, còn cống hiến luôn cả hương đàn bí mật vẫn chưa hoàn thành
này của bản giáo ra, nếu không có chút thu hoạch nào, biết ăn nói ra sao với giáo
chủ đây?
Rồi lão lại thấp giọng:
- Ta đã an bài nhân thủ đi thăm dò tin tức chuẩn xác trong cung và trong nha
môn. Nếu Dương Hổ căn bản không ở trong tay quan phủ, vậy thì cứ giết Dương
Lăng, sau đó tạm tránh trong địa cung vài ngày, đợi phong ba lắng xuống một chút
rồi sẽ rời đi.
Thúy Nhi cười phì một tiếng nói:
- Việc này không cần ông lo, nếu Hồng Nương Tử thả Dương Lăng đi thì biết
ăn nói thế nào với các huynh đệ của trượng phu chứ? Hơn nữa mấy kẻ bên cạnh
chúng ta hiện giờ đều là bè lũ với hai trăm tên đại đạo kia, hận Dương Lăng đến
thấu xương. Bất luận Dương Hổ còn sống hay đã chết, Dương Lăng đều đừng hòngcòn sống mà rời đi được.
Hai người đang nói chuyện, ngoài cửa chợt vang lên mấy tiếng động nhỏ, mấy
người trong điện vội cầm binh khí lặng lẽ nấp vào hai bên cửa điện, phía xa có một
âm thanh khe khẽ vang lên:
- Đừng lo, là đại tẩu trở về rồi.
Đám người trong điện mừng rỡ vô cùng, vội vàng bước ra nghênh đón, Lưu lão
đạo và Thúy Nhi đưa mắt nhìn nhau, cũng vội bước ra theo.
Hồng Nương Tử và Dương Lăng bước vào trong điện dưới sự vây quanh của
mấy hán tử tay cầm đao kiếm, trong điện không thắp đèn, bởi vì trời lạnh, mái điện
lợp được một nửa thì tạm dừng, ánh trăng ánh sao từ trên trời chiếu xuống, khung
cảnh cũng có thể nhìn thấy khá rõ ràng.
Hồng Nương Tử hạ giọng nói:
- Các huynh đệ đã an toàn trở về hết chưa?
Một tên đại đạo nói:
- Ba Lục Tử bị giết ở đó rồi, các huynh đệ khác đều không sao.
Nói rồi đá mạnh Dương Lăng một cái, cất tiếng mắng chửi:
- Cẩu quan, nhất định phải bắt ngươi đền mạng cho các huynh đệ!
Hồng Nương Tử lạnh lùng quát một tiếng:
- Dừng tay, Hổ ca của ngươi còn ở trong tay quan phủ, người này còn có tác
dụng.
Lưu lão đạo thò đầu nhìn ra bên ngoài một chút, sau đó co đầu lại nói:
- Tốt rồi, người đã bắt được rồi, mọi người cũng an toàn trở về rồi, mau tránh
vào trong mật thất đi, cẩn thận đừng để lộ hành tung!Lão rón ra rón rén đi đến bên cạnh hương án, mày mò trên nền đá một hồi, đẩy
một phiến đá ra, để lộ ra một cửa hang động tối thui. Có người đánh lửa lên, dẫn tất
cả mọi người tránh vào trong mật thất dưới lòng đất đó.
Công trình trên mặt đất còn chưa hoàn thành, phía dưới này cũng rất sơ sài đơn
giản, chỉ có ba căn phòng đá trống không, mấy bức tường đều lạnh ngắt. Có điều
những người này đã quyết ý tạm lánh ở đây, đã chuẩn bị sẵn nước uống đồ ăn và
đuốc thắp. Lúc này ngọn đuốc được thắp lên, chiếu sáng mọi thứ.
Hồng Nương Tử nhìn Dương Lăng bị hai tên đại đạo áp giải vào trong một căn
phòng đá, xoay người lại cười nói với Lưu lão đạo:
- Tiên sinh đúng là thần cơ diệu toán! Thảo nào lại cứ phải để Thúy Nhi động
thủ trước, hóa ra trong kiệu của Dương Lăng còn có cao thủ mai phục, nếu không
nhờ tiên sinh dùng kế, chúng ta cứ thế xông lên để lộ hành tung, ắt khó mà bắt được
Dương Lăng.
Lưu lão đạo ngẩn ra một chút, cười khan hai tiếng nói:
- Điều này... Khụ khụ, có tin tức gì của thủ lĩnh không?
Thôi Oanh Nhi vừa biết tin trượng phu bình yên vô sự, bèn vui vẻ kể lại:
- Vừa rồi hắn khai nhận rằng đã bắt được Hổ ca, Hổ ca hiện giờ chỉ bị thương,
không có nỗi lo về tính mạng. Hôm nay sắc trời đã tối, đi lại trong thành hết sức
khó khăn, tiên sinh có văn thư thông hành trong người, hẳn không bị kẻ khác hoài
nghi. Ngày mai còn phiền tiên sinh đến đưa cho quan phủ một bức thư mật, yêu cầu
đổi tên cẩu quan này lấy Hổ ca.
Lúc này từ trong căn phòng trống trải phía bên kia chợt vang tới mấy tiếng kêu
lớn, Thôi Oanh Nhi lập tức đứng dậy chạy qua, thấy hai tên đại đạo kia đang muốn
dùng hình với Dương Lăng, lập tức quát bảo:
- Các ngươi làm gì đấy?NGƯỢC VỀ THỜI MINH
Nguyệt Quan
www.dtv-ebook.com
Chương 180: Lại Sinh Thêm Chuyện
Quyển 5 - Quần ma loạn vũ - Chương 180 - Lại sinh thêm chuyện
Vừa nhìn tình hình liền hiểu rõ mọi chuyện, Hồng Nương Tử lạnh lùng quát:
- Bỏ hắn ra, các ngươi ra ngoài!
Tuy hận Dương Lăng đến thấu xương nhưng dưới uy thế của Dương Khóa Hổ,
hai gã đại đạo cũng không dám phát tác bừa bãi. Dù sao Dương Lăng cũng đã rơi
vào trong tay rồi, chẳng sợ y trốn đi đâu được, hai gã bèn nhổ một bãi nước bọt về
phía Dương Lăng, khẽ ôm quyền chào Hồng Nương Tử rồi bước ra ngoài.
Dương Lăng ôm ngực thở dốc, chậm chạm đứng dậy. Hồng Nương Tử hờ hững
đưa mắt nhìn y, đoạn xoay người bước ra ngoài. Một lát sau nàng quay trở lại, đưa
cho y một túi nước sạch và hai chiếc màn thầu, ôm bảo kiếm ngồi dựa vào vách đá,
bảo:
- Ta ở đây trông coi ngươi, ăn xong rồi nghỉ ngơi đi. Ngày mai ngươi hãy tự tay
viết một phong thư gửi đến quan phủ yêu cầu đổi người, ta đảm bảo cái mạng chó
của ngươi sẽ giữ được.
Dương Hổ sớm đã trốn thoát mất rồi, nếu để nàng biết sự thật liệu mình còn
sống được ư? Dương Lăng nhất thời chẳng có cách nào khác, đành cầm lấy túi nước
và bánh màn thầu, ngồi xuống dựa lưng vào vách đá đối diện với nàng, khẽ thở dài:
- Lần đầu gặp mặt, phu nhân đang bỏ tiền mua lương thực cứu tế nạn dân, một
lòng nhân từ, khá có tác phong hiệp nghĩa. Dương mỗ tuy thân ở triều đình, nhưng
tự hỏi chưa từng làm chuyện gì có lỗi với trăm họ, cớ sao các vị lại muốn dồn ta vào
chỗ chết vậy?Y định nhắc tới chuyện ở hầm sưởi nhưng lại sợ cô ả này thẹn quá hóa giận
khiến mình sẽ phải chịu thêm khổ sở, lời nói đã đến miệng đành nuốt trở về. Thôi
Oanh Nhi cũng hơi nghẹn họng, nàng khựng lại một hồi rồi cười lạnh đáp:
- Ta cứu tế nạn dân là vì bản thân ta cũng là người cùng khổ, biết rõ nỗi khổ sở
khi phải chịu đói chịu rét. Bọn ta không chỉ muốn giết ngươi mà còn muốn giết tất
cả đám quan lại, lật đổ cái thiên hạ hại người này, xây dựng một triều đại mới.
Dương Lăng thở dài thườn thượt, nói:
- Cô cứu tế nạn dân cũng chỉ có thể cho bọn họ ăn no một bữa cơm. Thiên tai
nhân họa không ngừng, trăm họ bữa nào cũng cần ăn, cô có bao nhiêu tiền bạc để
mua sắm lương thực chứ? Đợi đến lúc kho lương của quan phủ cũng bị ăn hết cả
rồi, cô kêu trăm họ trong thiên hạ phải ăn cái gì đây? Cô chỉ giúp được bọn họ nhất
thời, còn ta đưa những thứ cây trồng từ nước ngoài về lại là kế sách dài lâu.
Đừng tưởng rằng chỉ có cô mới xót thương trăm họ! Thiên hạ hiện nay tuy có
nhiều tệ nạn, nhưng triều đình không hề thối nát, các quan viên cũng có rất nhiều
người thương dân như con. Cô muốn lập triều đình mới, vậy phải đánh bao nhiêu
trận, chết bao nhiêu người đây? Đánh cho thiên hạ này trở nên tan nát, phá xong lại
lập, nhưng sao bằng ủng hộ các đại thần thanh liêm chính trực trong triều, canh tân
cải cách, trừ bỏ lũ tham quan ô lại để trăm họ được ăn no, được mặc ấm, có đất cày?
Hơn nữa, chỉ dựa vào các người mà có thể lật đổ được thiên hạ này sao?
Hồng Nương Tử ngạo nghễ đáp:
- Quan binh giỏi lắm hay sao? Sơn trại của bọn ta bị tiễu trừ biết bao nhiêu lần
rồi, đám quan binh đó có làm gì được bọn ta? Nếu nhân mã của tất cả các sơn trại
tập hợp lại, chắc chắn sẽ là một đội tinh binh vượt hẳn quân đội triều đình. Muốn
lấy thiên hạ, có gì là khó chứ?
Dương Lăng cười lạnh:
- Mơ tưởng hão huyền!Thôi Oanh Nhi trừng mắt, Dương Lăng vội vã nói tiếp:
- Các người dựa vào địa lợi, quan binh tới tiễu trừ thì nấp vào trong núi sâu nên
có thể an toàn thoát khỏi tay quan binh mà không tổn thất gì. Nhưng như thế mà
cho rằng có thể đối phó với thiên quân vạn mã của triều đình sao?
Cô vào nam ra bắc, thấy nhiều hiểu rộng, phải biết rằng hoàng thất Đại Minh
chính thống mang họ Chu, trong thiên hạ người tin phục nhiều vô số kể. Khi các
người chỉ làm đại vương trên núi thì tưởng rằng điều này chẳng quan trọng gì,
nhưng một khi thật sự muốn khởi binh tạo phản, liệu có bao nhiêu người tin phục
mà đi theo đây? Còn bốn chữ Đại Minh chính thống kia thì lại có thể biến thành
lương thảo, tiền tài, đao thương và binh sỹ, biến thành những lực lượng thật sự.
Thôi Oanh Nhi cười lạnh không đáp, Dương Lăng lại lấy can đảm nói tiếp:
- Cô nói là muốn lật đổ triều đình, thành lập một triều đình mới phải không?
Được, ta hỏi cô, nếu Hồng Nương Tử cô là chủ nhân của thiên hạ, cô định tạo phúc
cho nhân dân trăm họ bằng cách nào đây?
Hai mắt sáng rực, Hồng Nương Tử buột miệng đáp:
- Đương nhiên là hủy bỏ những thứ sưu thuế đáng chết kia, không bắt trăm họ ở
Hà Nam, Hà Bắc phải nuôi ngựa cho triều đình để rồi nhà tan cửa nát nữa, để trăm
họ được sống cuộc sống yên lành, có cơm ăn, còn có thịt ăn, có quần áo mặc, không
phải chịu đói chịu rét. Bản thân ta phải chịu khổ đã nhiều, ắt không bạc đãi nhân
dân trăm họ.
Dương Lăng cười nhạt không ngớt. Thôi Oanh Nhi đỏ bừng mặt ngọc, lúng
túng quát bảo:
- Ngươi cười cái gì? Ta nói sai cái gì sao?
Dương Lăng gật đầu đáp:
- Đúng, đều đúng hết! Vậy để ta hỏi cô, năm nay Hà Nam lũ lụt, Thiểm Tây hạn
hán, Sơn Đông bị nạn châu chấu ngợp trời, còn Thổ Dao làm loạn suốt một dảiMiêu Sơn. Cô hủy bỏ sưu thuế, vậy lấy cái gì để nuôi dưỡng quân đội của cô, nuôi
dưỡng những quan viên trong triều đình của cô, lấy cái gì để cứu tế cho những
người dân sắp chết đói? Trong cơn thiên tai nhân họa, lương thực chỉ thu hoạch
được không tới ba phần mười, cô làm thế nào để nhân dân trăm họ không phải lo về
cơm ăn áo mặc đây?
Thôi Oanh Nhi hơi ngẩn người. Xưa này nàng chỉ oán hận quan phủ vô dụng
bất tài nên muốn giành lấy giang sơn để mọi người dân đều được sống những ngày
tốt đẹp, thực chưa từng nghĩ tới những điều này. Nàng cắn chặt môi, đáp:
- Những tên phú hào địa chủ đó đều có đất đai vạn khoảnh, dù gặp năm thiên tai
trong nhà cũng ăn đủ mặc đầy. Ta có thể để trăm họ ăn lương thực của những kẻ đó,
dù sao cũng không thể đến nỗi phải chết đói.
Dương Lăng lắc đầu:
- Khi đó những người phú hào kia cũng là con dân của cô, tài sản đất đai của
bọn họ đều phải qua bao nhiêu đời mới tích cóp được, cô muốn ép bọn họ phải tạo
phản sao? Hơn nữa số phú hào trong thiên hạ thực chẳng có tới một phần mười, tiền
tài tụ tập trong tay một số ít người bọn họ thì coi như là giàu đến chảy mỡ, nhưng
sau khi chia ra cho trăm họ thì chẳng qua mỗi người cũng chỉ có bát cháo mà ăn.
Triều đình dẫn trăm họ đi ăn lương thực của nhà giàu, đây chính là cách của cô sao?
Cô lại nói đến việc hủy bỏ mã chính (Chính sách bắt buộc người dân phải nuôi
ngựa cho nhà nước - ND), không sai, ta cũng từng nghe nói việc quan phủ hà khắc,
ép cho trăm họ khổ sở vô cùng, điều này triều đình cần phải sửa đổi từng chút một,
nhưng chẳng lẽ không nuôi ngựa nữa lại là phương cách tốt hay sao? Hiện nay giặc
Thát đang xâm phạm biên cảnh, thiết kỵ của giặc có tới mấy vạn, nếu không có kỵ
binh, cô dựa vào cái gì để bảo vệ giang sơn và trăm họ? Giặc Thát tới rồi, sự tàn
độc của chúng còn chẳng hơn sưu thuế cả trăm lần ư?
Nơi duyên hải giặc Oa làm loạn, có cần đóng thuyền không? Có cần huấn luyện
thủy quân không? Chặt cây, đóng thuyền cần dùng đến lao dịch, nuôi binh luyện
binh cần thu sưu thuế, đóng thuyền may áo giáp chỗ nào cũng cần phải bỏ tiền.
Trong lòng cô chỉ nghĩ cần đối xử tốt với trăm họ, nhưng cô có làm được không?Hồng Nương Tử nghe mà mặt mũi tái hẳn đi, Dương Lăng lại tiếp tục tàn phá
sự tự tin của nàng, chẳng hề lưu tình:
- Sưu thuế, nuôi ngựa không thể không cần, nhưng phải xem thi hành thế nào.
Quan lại, đồn điền không thể không sửa, nhưng phải xem sửa như thế nào. Quản lý
hành chính, xử lý sưu thuế các người có hiểu không? Các người chỉ biết phá hoại,
không biết xây dựng!
Hồng Nương Tử không kìm được, quát:
- Câm miệng! Mặc cho ngươi ngụy biện thế nào, Chu Hồng Vũ kia vẫn có xuất
thân như thế, chẳng phải y cũng trị được thiên hạ đó sao?
Dương Lăng ung dung đáp:
-Hoàng đế Hồng Vũ xuất thân thấp kém nhưng chẳng phải là hạng võ phu bất
học vô thuật, hơn nữa ông ta nổi lên chống lại nhà Nguyên tàn bạo, bên cạnh có biết
bao người tài trí giúp đỡ chứ? Còn cô thì sao? Chắc cô cũng biết trái tim người đọc
sách trong thiên hạ đứng về bên nào phải không?
Nếu thật sự làm phản, các người chẳng qua là từ sơn tặc biến thành giặc cỏ,
theo sóng gió mà nổi lên rồi lại theo sóng gió mà chìm xuống. Một trăm năm sau,
người đời có nhắc đến các người cũng chẳng qua chỉ là nhắc đến một đám thổ phỉ
gây họa một thời, khiến cho thiên hạ máu chảy thành sông, chẳng giúp ích gì cho
nhân dân trăm họ. Nếu các người có con cháu, ắt bọn chúng cũng cảm thấy xấu hổ
thay cho các người...
Một hơi của Dương Lăng còn chưa nói hết, đã nghe "keng" một tiếng vang lên
lanh lảnh, ánh sáng tỏa ra lạnh ngắt. Thanh đoản kiếm đã kề sát vào cổ y, khiến cho
y bất giác run rẩy từng hồi. Thoạt đầu Dương Lăng hơi hoảng loạn, nhưng ngay sau
đó y dần bình tĩnh, thản nhiên đưa mắt nhìn Hồng Nương Tử.
Trong thạch thất nhất thời trở nên tĩnh lặng, chỉ nghe thấy tiếng hô hấp của hai
người. Một hồi lâu sau Hồng Nương Tử mới lạnh lùng nói:- Ta biết ngươi đọc sách nhiều, đừng có hòng khoe chữ với ta! Ta chỉ biết cả
nhà ta đều bị quan phủ ép phải lên núi làm giặc, chỉ biết trăm họ ở Bá Châu và vô
số nơi khác còn đang bị quan phủ áp bức thậm tệ, ăn bước trước phải lo bữa sau, do
đó... bọn ta muốn làm phản!
Nàng nói xong bèn thu kiếm lại, "cạch" một tiếng đút kiếm vào vỏ, rồi dựa đầu
vào vách đá, khép hờ hai mắt đe:
- Đừng có nghĩ đến chuyện bỏ trốn! Ngoan ngoãn nghỉ ngơi đi, nếu còn nhiều
lời nữa ta sẽ cắt cái lưỡi của ngươi xuống!
Dương Lăng thấy khuôn mặt nàng thoáng co giật, hiển nhiên đang cố gắng đè
nén lửa giận nên y cũng không tiện nói tiếp nữa mà ngồi ngây một hồi. Y vẫn chưa
nghĩ được nếu ngày mai Hồng Nương Tử mang y đi trao đổi với Dương Hổ, y phải
làm thế nào mới thoát thân được đây?
Dương Lăng trầm tư hồi lâu, thầm nghĩ mấy người Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận
đều đa mưu túc kế, trong triều cũng có không ít bậc tài năng. Ngày mai đưa bức thư
trao đổi con tin đến chỗ bọn họ, ắt bọn họ không ngu xuẩn đến mức nói với đạo tặc
rằng không có người để trao đổi. Hiện giờ chỉ đành đi bước nào tính bước đó thôi,
chờ có cơ hội rồi thoát thân.
Y thở dài một hơi, cảm thấy trong bụng đã hơi đói, bèn vừa uống nước vừa ăn
một chiếc màn thầu, sau đó dựa vào vách đá nhắm mắt giả vờ ngủ. Chốc lát sau,
ngọn đuốc trên vách đá yếu dần đi, cuối cùng tắt hẳn.
Dương Lăng cũng bắt đầu cảm thấy hơi buồn ngủ, chỉ là y chưa từng ngủ trên
nền đá cứng ngắt lạnh băng thế này nên nhất thời khó mà ngủ được. Trong phòng
tĩnh lặng như tờ, Dương Lăng cứ lặng lẽ ngồi dựa vào vách đá, thầm suy nghĩ đối
sách. Chợt y phát giác phía đối diện phát ra những tiếng sột soạt, dường như nàng
đang trằn trọc chuyển mình không ngủ được, thỉnh thoảng còn xen lẫn những tiếng
thở dài. Xem ra những lời vừa rồi của Dương Lăng nàng vẫn nghe lọt vào tai.
***Dưới lòng đất chẳng biết trời đã sáng hay còn tối, nhưng thời gian tới là tự
nhiên tỉnh dậy, trong phòng lại được thắp lên một ngọn đuốc, người canh gác bên
ngoài lẳng lặng đi vào, theo sau là Lưu lão đạo. Hóa ra đêm qua lão ta không hề
nghỉ lại đây, khi trời vừa sáng mới từ chỗ ở của một tín đồ bí mật khác trở về.
Hồng Nương Tử và Thúy Nhi vội bước lên nghênh đón. Hồng Nương Tử hỏi:
- Lưu tiên sinh, tình hình bên ngoài hiện giờ thế nào?
Lưu lão đạo cười khổ:
- Quan binh kiếm chuyện một hồi lâu rồi cũng dừng lại, nhưng nội thành hiện
đã giới nghiêm, mọi con đường xung quanh kinh sư đều đặt trạm gác. Vào thành
không bị ngăn trở nhưng người ra ngoài thành nhất định phải có giấy thông hành
của quan phủ, tất cả mọi xe ngựa hàng hóa đều bị kiểm tra, ngay đến một con ruồi
cũng không thoát ra ngoài được. Những người từ ngoại ô vào thành nếu không có
giấy thông hành thì phải đến quan phủ đăng ký, có người nhà đảm bảo mới được ra
ngoài.
Hồng Nương Tử biến sắc:
- Ồn ào đến vậy hay sao? Lưu tiên sinh có bị người ta chú ý đến không?
Lưu lão đạo đáp:
- Còn may ta là một đạo nhân vân du bốn bể, theo giấy thông hành thì ta là
người từ phương nam tới nên rất ít bị hiềm nghi; hơn nữa ta chỉ đi lại trong thành
không hề xuất kinh, do đó kiểm tra một phen rồi cũng không sao. Chỉ là... lần này
lộ tẩy, cơ nghiệp do chúng ta vất vả đánh hạ ở một dải Bá Châu e là sẽ bị hủy trong
một sớm một chiều thôi.
Hồng Nương Tử không đồng tình:
- Sợ cái gì chứ? Núi xanh còn đó, lo gì không có củi đun? Huống chi tổng trại
sớm đã di dời khỏi Bá Châu. Ta sẽ lập tức kêu Dương Lăng tự tay viết một bức thư,
chỉ cần bọn chúng đồng ý đổi người, chúng ta sẽ dùng tính mạng con tin uy hiếpbọn chúng để rời thành. Trao đổi người ở chỗ Phong Đài xong, dựa vào khoái mã
đã được chuẩn bị sẵn và thuật cưỡi ngựa của chúng ta, một khi ra khỏi kinh sư là sẽ
không kẻ nào chặn được.
Mấy tên đại đạo bên cạnh nghe nói đại ca sắp được cứu ra, không kìm được đều
xoa tay nắn chân rất mực hưng phấn. Lưu lão đạo thường mang theo cây phướn, lấy
việc đoán chữ đoán mệnh làm vỏ bọc, bút mực giấy nghiên luôn có sẵn trên người,
bèn lấy từ trong ruột tượng ra giao Hồng Nương Tử đưa vào để Dương Lăng viết
thư.
Dương Lăng do dự một hồi mới cầm bút viết một bức thư. Cũng coi như y rất
biết điều, trong thư không dám ám chỉ vị trí của mình hiện tại chút nào. Thực tế y
cũng chẳng quen thuộc thành Bắc Kinh cho lắm nên ngoài việc biết nơi này nằm
phía dưới một đạo quán còn chưa được xây dựng xong, y cũng chẳng biết hiện mình
đang ở đâu.
Trong thư Dương Lăng nói rõ mình đã bị bắt làm con tin, kẻ xấu yêu cầu trao
đổi mình với Dương Hổ. Y lại nhắc người đọc được thư này mau dâng lên Hoàng
thượng, nếu Hoàng thượng cho phép hãy đến chỗ Cẩm Y vệ đưa đại đạo Dương Hổ
bị nhốt trong đại lao ra, lại dựa theo yêu cầu của đối phương mà mang đến địa điểm
chỉ định. Để cho chân thực, y còn cởi ngọc bội tùy thân ra làm tín vật.
Phong thư đã chỉ ra một cách rõ ràng địa điểm mà Dương Hổ bị bắt nhốt. Cho
dù người trong quan phủ đọc được thư này là kẻ ngốc đi chăng nữa hẳn cũng không
đến nổi không hiểu được ý của y.
Có điều hiện giờ là thời đại vũ khí lạnh, đám đạo tặc chỉ cần có võ nghệ cao
cường, thuật cưỡi ngựa tinh thông là có thể dễ dàng thoát thân khỏi tay quan binh.
Huống chi khi hai bên trao đổi con tin, ắt bọn chúng không cho phép quan binh phái
ra quá nhiều người, như vậy hai bên cùng lắm cũng chỉ có thể trao đổi người khi
cách nhau hai ba mươi trượng, Dương Lăng chẳng lạc quan chút nào về việc mình
có thể thoát khỏi tay đối phương.
Nếu quan phủ định dùng kẻ giả mạo để trao đổi, đám đại đạo Bá Châu chẳng có
lý nào lại không kiểm tra, hơn nữa Hồng Nương Tử còn là người chung chăn gốivới Dương Hổ, chỉ cần nàng nhìn dáng người cũng đoán được sáu bảy phần rồi. Dù
quan phủ có hiểu được sự ám thị của mình thì việc cứu mình thoát thân vẫn là một
vấn đề khó khăn.
Hồng Nương Tử đứng một bên nhìn y chằm chằm . Dương Lăng cũng chẳng
thể nghĩ nhiều, chỉ đành bấm bụm viết thư xong giao cho Hồng Nương Tử; chỉ
mong triều đình có người tài nghĩ ra kế hoạch nào đó có thể gạt được đám lục lâm
này.
Hồng Nương Tử đón lấy bức thư cùng ngọc bội, kêu hai người đến trông coi
Dương Lăng, còn chính mình thì vội vã đi ra ngoài đưa thư cho Lưu lão đạo. Lưu
lão đạo năm lần bảy lượt đọc thật kỹ bức thư dưới ánh đuốc, xác thực không có ẩn ý
gì, nhìn ngang nhìn dọc đều không thấy huyền cơ, mới yên tâm nhét bức thư vào
trong chiếc dây lưng dưới tấm đạo bào, rồi bảo:
- Các cô ăn chút gì đó rồi cứ chờ ở đây, đợi ta đến Ngũ Thành Binh Mã ti tìm
cơ hội chuyển bức thư này cho quan phủ.
Lưu lão đạo vội vã ra khỏi địa đạo, đóng chặt cửa động lại rồi lặng lẽ rời đi.
Một gã đại đạo mặt mũi dữ dằn đứng bên cạnh Hồng Nương Tử lạnh lùng đưa mắt
nhìn căn phòng nhốt Dương Lăng, khẽ nói với Hồng Nương Tử:
- Tẩu tẩu, đợi sau khi cứu được đại ca ra, chúng ta cứ giết luôn tên tiểu tử này
rồi hẵng bỏ trốn. Ra khỏi kinh thành rồi thì chúng ta như là mãnh hổ về núi, giao
long xuống nước, đừng hòng có ai làm gì được chúng ta nữa.
Hồng Nương Tử hơi khựng người, do dự:
- Nói bậy! Phía chúng ta động thủ vậy bên quan binh sẽ không động thủ ư?
Hôm nay có thể cứu được Hổ ca của ngươi về là được rồi, đừng để sinh thêm
chuyện phiền toái!
Một tên đại hán đầu trọc mặt rỗ lỗ chỗ, nhìn rất ghê người gằn giọng đáp:
- Đại tẩu yên tâm! Chúng ta không động thủ chẳng lẽ quan binh lại chịu trơ mắtnhìn chúng ta đi ư? Tụ tiễn (ám tiễn giấu trong tay áo - ND) tẩm độc của Hồ Đại
Chùy này trong vòng mười trượng chính là thiếp mời của diêm vương. Hổ ca thành
thạo Địa Tranh quyền (một môn quyền thuật Trung Quốc, các động tác chủ yếu
được thực hiện khi bò rạp hay lăn lộn dưới đất - ND), đến lúc đó chỉ cần tiểu đệ hô
lên một tiếng, huynh ấy bò rạp xuống đất mà chạy ra, sẽ không có chuyện gì đâu.
Chẳng lẽ chúng ta còn phải nói chuyện tín nghĩa với quan binh hay sao chứ?
Trong lòng Hồng Nương Tử hơi loạn. Những lời Dương Lăng nói đêm qua đã
lưu lại một dấu ấn rất sâu trong lòng nàng, quả thật nàng muốn cứu trượng phu ra
rồi thảo luận kỹ lưỡng với hắn một phen. Còn đối với Dương Lăng thì quả thực
nàng chẳng thể sinh ra chút sát tâm nào cả.
Thúy Nhi ở bên cạnh nhìn rõ vẻ mặt Hồng Nương Tử, bèn lựa lúc mà chen vào:
- Tiểu thư! Lời của Hồ đại ca đúng lắm, cô gia với các huynh đệ tình như thủ
túc, lần này có tới gần hai trăm huynh đệ thân cận nhất đã mất mạng trong tay
Dương Lăng. Với tính cách hiệp nghĩa của cô gia, món huyết hải thâm thù này sao
có thể bỏ qua được chứ?
Nếu để tên cẩu quan đó an toàn quay về, ngày sau ắt sẽ phòng bị nghiêm ngặt,
cô gia muốn báo thù há chẳng phải hung hiểm muôn phần hay sao? Chúng ta cứ
tiện tay kết liễu luôn cái mạng chó của y, vừa hay có thể báo thù cho các huynh đệ
vừa bị giết, khi trở lại sơn môn cũng tiện ăn nói, lại tránh cho cô gia một lần nữa
dấn thân vào nơi nguy hiểm.
Mấy tên đại đạo nghe thế đều gật đầu lia lịa, nhất tề đưa mắt nhìn Hồng Nương
Tử. Hồng Nương Tử lòng rối như tơ vò, suy nghĩ suốt hồi lâu mới giẫm mạnh chân,
cắn răng quyết:
- Được rồi! Nếu vậy ta nghe theo lời các ngươi. Có điều nhất định phải hết sức
cẩn thận, lấy sự an nguy của Hổ ca làm đầu!
Mấy tên đại đạo đồng loạt gật đầu đáp:
- Đại tẩu yên tâm, điều này thì bọn đệ hiểu!Thúy Nhi thấy thế thì khẽ mỉm cười, một tia đắc ý thoáng qua trong đáy mắt.
***
Đường xá chốn kinh sư vẫn phồn hoa như cũ nhưng lại tràn ngập không khí
căng thẳng, tất cả mọi cửa thành đều gươm giáo như rừng, phòng bị nghiêm ngặt.
Bởi vì việc kiểm tra diễn ra rất chậm nên người ra vào thành đều phải xếp thành
một hàng rất dài.
Trên đường lớn của kinh sư, không khí hoan hỉ chuẩn bị đón ngày đầu năm đã
nhạt đi không ít, từng đội quan binh của Kinh doanh và lính đi tuần liên tục qua lại,
tất cả các nha môn và nơi ở của quan viên đều được bố trí trọng binh canh gác kỹ
càng. Các vị đại thần thường ngày chỉ đi xe nhẹ và dẫn theo vài tên tùy tùng, nay
đều có mấy chục gia tướng tiền hô hậu ủng, còn những quan viên không có cái thực
lực ấy thì liền dứt khoát chẳng ra ngoài.
Không khí căng thẳng như vậy quả thực chưa từng xuất hiện tại chốn kinh sư.
Bởi việc xuất nhập không tiện, rất nhiều hàng hóa dịp tết chẳng thể đưa được vào
thành, dẫn đến việc vật giá tăng cao. Có tin nếu không tìm được Dương xưởng đốc
thì lệnh cấm thành sẽ không được hủy bỏ sớm, do đó mọi người dân đều lo vật giá
sẽ tăng thêm nên đành liều mình chịu rét mà ra phố mua sắm đồ tết.
Lưu lão đạo giơ cao cây phướn liêu xiêu bước đi trên đường. Quan binh đi
ngang chỉ cho rằng lão là một lão đạo còm nhom dáng vẻ bình thường, đang nhòm
đông ngó tây kiếm mối làm ăn, nên chỉ liếc nhìn qua rồi không chú tâm đến nữa.
Lưu lão đạo chậm rãi bước tới trước cửa nha môn Ngũ Thành Binh Mã ti, rồi đi
vào trong một con hẻm nhỏ ngay bên hông nha môn. Khi sắp đi tới đầu hẻm, lão
bèn giả vờ đặt cây phướn xuống nghỉ ngơi. Sau đó lão nhặt một hòn đá lên, móc
phong thư trong thắt lưng ra, quấn vải bọc chung thư vào với hòn đá. Thừa dịp mọi
người không chú ý, lão ném mạnh viên đá cùng bức thư qua bức tường rồi vác
phướn vội vã rời khỏi.
Người của Binh Mã ty không thể làm chủ việc này, nên bức thư cứ thế được
trình dần lên, nhanh nhất cũng phải đến trưa mới có trả lời. Nếu triều đình đồng ýđổi người, ắt sẽ lưu lại ký hiệu dễ thấy ở tòa nhà mà lão chỉ định. Đến lúc đó lão lại
tìm một nha môn khác để ném thư, đưa ra yêu cầu tiếp theo là được.
Đường Xưởng Điện có rất nhiều cửa tiệm nhỏ, là một con đường khá phồn hoa.
Lưu lão đạo bỏ ra một văn tiền thuê một chiếc bàn của quầy hoành thánh để tự mở
quán riêng, nhởn nha chờ khách tới. Hôm nay người có tâm tư xem bói không
nhiều, không những chẳng có ai ghé thăm mà ngay cả đến liếc mắt nhìn qua cũng
chẳng có hứng thú. Lưu lão đạo chẳng hề để tâm, lão chỉ nheo mắt quan sát mặt trời
ước lượng thời gian. Đang lúc lão chuẩn bị dọn quán tìm chỗ ăn trưa, một thiếu niên
mặt mũi thanh tú bộ dạng như kẻ hầu đã đứng trước quán của lão ta.
Lưu lão đạo hờ hững liếc mắt nhìn gã, vuốt râu cười hỏi:
- Tiểu ca muốn đoán chữ hay đoán mệnh? Hoặc là muốn ta viết hộ thư nhà
chăng?
Thiếu niên cười đáp:
- Ta không biết chữ, cả đời này chỉ có cái số hầu hạ người khác, còn đoán làm
gì? Xin tiên sinh giúp ta viết bức thư nhà.
Trong lúc nói, gã có vẻ như quá buồn chán nên bàn tay gảy gảy túi hành lý đeo
trên người, những ngón tay tạo ra mấy ký hiệu gì đó một cách mau lẹ.
Sắc mặt Lưu lão đạo hơi đổi, bàn tay thu vào trong tay áo rồi cũng đáp lại bằng
mấy ký hiệu mà chỉ có thiếu niên đang đứng trước mặt mới nhìn thấy, sau đó thân
mật mời:
- Mời ngồi mời ngồi!
Rồi lão vừa lấy bút mực ra, vừa khẽ hỏi:
- Cấp trên có mệnh lệnh gì không?
Gã hầu đó đưa tay chống cằm nhìn xuống bàn, thấp giọng:- Rất gấp! Bất kể thế nào đi chăng nữa cũng phải giữ được tính mạng Dương
Lăng, đưa y trở về. Bất luận dùng cách gì cũng được!
Lưu lão đạo hơi ngẩn người. Lão nhẹ nhàng trải một tờ giấy ra, cầm lấy chiếc
nghiên ra bộ mài mực, đáp:
- Tên này là tâm phúc của Hoàng đế, giết y sẽ rất lợi với đại nghiệp của chúng
ta, tại sao phải thả y chứ? Huống chi y đã giết nhiều người của Dương Hổ như vậy,
đời nào Hồng Nương Tử lại chịu bỏ qua? Xin trở về báo lại với đàn chủ, người này
không thể tha được.
Gã thiếu niên kia tuy có vẻ ngoài như kẻ hầu người hạ, nhưng lại lập tức vênh
mặt nghênh ngang với lão rất có khí thế. Gã cười lạnh bảo:
- Nếu Hồng Nương Tử cản trở thì cứ giết luôn cả Hồng Nương Tử! Ngươi nhớ
lấy, bằng bất kỳ cách nào cũng phải giữ cho y được an toàn. Đây không phải mệnh
lệnh của đàn chủ, mà là mệnh lệnh của giáo chủ!
Lưu lão đạo cả kinh, bàn tay mài mực lập tức dừng lại, kinh ngạc hỏi:
- Giáo chủ lão nhân gia cũng ở kinh sư sao? Chuyện này... thực khó xử quá,
sao đột nhiên lại phải bảo vệ y vậy?
Ánh mắt thiếu niên trở nên lạnh ngắt, gã gằn giọng:
- Giáo chủ đang ở đâu, đây là điều mà ngươi có thể dò hỏi sao?
Lưu lão đạo khẽ rùng mình, không dám hỏi tiếp nữa. Bờ môi mỏng dính của gã
thiếu niên hơi nhếch lên:
- Trong cung vừa đưa tin ra, chân long sắp xuất thủy, thiếu y thì việc chưa chắc
đã thành, muốn câu được rồng thì phải tạm bỏ tướng cua. Hơn nữa, Dương Hổ đã
trốn thoát rồi, nếu Hồng Nương Tử mà chết thì còn sợ hắn không càng thêm bán
mạng giúp chúng ta đoạt thiên hạ hay sao?NGƯỢC VỀ THỜI MINH
Nguyệt Quan
www.dtv-ebook.com
Chương 181: Âm Mưu Bại Lộ
Chiếc trống kêu oan trước cửa nha môn Ngũ Thành Binh Mã ti vẫn còn nằm
nguyên ở đó. Theo ước định trong thư, nếu quan phủ đồng ý đổi người thì bọn họ sẽ
cất chiếc trống kêu oan này đi. Nha môn nằm giữa chốn phố phường đông đúc,
đứng từ xa tít đã có thể nhìn thấy rõ chiếc trống lớn vẫn còn đó, xem ra quan phủ
nhất thời còn chưa thể đưa ra quyết định.
Lưu lão đạo đứng ở chỗ rẽ đằng xa liếc mắt nhìn qua, rồi giơ cây phướn lên bỏ
đi thẳng như chẳng có chuyện gì. Hoàng thượng muốn xuất kinh, Dương Hổ đã bỏ
trốn, quan binh chuẩn bị ồ ạt tiến tới Bá Châu, dưới cơn phẫn nộ của thiên tử thế lực
lục lâm của Dương Hổ sắp lâm nguy đến nơi. Một loạt những tin tức vừa nhận trên
khiến tính toán ban đầu của lão trở nên rối loạn.
Vốn Di Lặc giáo không định lợi dụng đại đạo lục lâm để tranh đoạt thiên hạ.
Bọn họ muốn đi theo con đường thượng tầng, mưu đoạt binh quyền và hoàng vị để
giành lấy thiên hạ một cách thuận lợi. Hiện giờ lại sắp có cơ hội tốt nhân khi Hoàng
đế xuất kinh, cho dù thế nào đi chăng nữa, Lý Phúc Đạt cũng không thể vì một con
tôm nhỏ mà bỏ một con cá lớn được.
Huống chi dưới sự bao vây tiễu trừ toàn lực của quan phủ, thế lực lục lâm ở Bá
Châu đã chẳng còn bao nhiêu giá trị sử dụng nữa rồi. Hiện giờ, Dương Hổ chẳng
qua cũng chỉ có tác dụng như một tên thích khách kiêu dũng, gã quân sư như lão có
bại lộ thân phận cũng chẳng sao, do đó cấp trên mới hạ nghiêm lệnh cho lão phải
bảo vệ an toàn cho Dương Lăng bằng mọi giá.
Lưu lão đạo thầm cười khổ một tiếng. Đêm qua mình còn ra sức nghĩ kế đưa
Dương Lăng vào chỗ chết, ai ngờ chỉ sau một đêm mọi chuyện đã xoay chuyển như
thế này, giờ đây lại phải nghĩ cách bảo vệ tính mạng cho y. Nếu người đời thật sự do
vận mệnh chi phối, e rằng trên đời này chẳng còn ai tốt phúc hơn y.Giả bộ sợ hãi trước quan uy mà đến tố cáo với quan phủ, rồi dẫn quan quân đến
bắt giết Hồng Nương Tử ư? Vừa mới nghĩ đến ý này, lão đã lập tức nhẹ lắc đầu, hộ
tịch và giấy thông hành của lão và Thúy Nhi đều là đồ giả. Một tên đại đạo lục lâm
như Dương Hổ không thể tìm hiểu được gốc gác thật sự của lão nhưng quan phủ thì
quyết không dung thứ cho một kẻ lai lịch bất minh như lão.
Hai vị được đưa vào cung kia quả thực đã từng đóng giả làm nghệ nhân tạp kỹ
mà đi lại trên giang hồ hết bảy, tám năm, nhưng dù là như vậy cũng vẫn cần đích
thân Ninh vương đứng ra làm người đảm bảo mới có thể đưa được họ vào trong
cung. Lão mà đi tố cáo với quan phủ, lỡ mà bị người ta điều tra được chân tướng...
Năm đó lão từng theo giáo chủ Lý Việt truyền giáo ở một dải Cam Thiểm, là một
trong tám đại hộ pháp có tiếng tăm ở đó, rất nhiều người nhận biết lão.
Tốt nhất là Hồng Nương Tử biết điều, sau khi hay tin Dương Hổ đã trốn thoát
thì chịu thả Dương Lăng, nếu không... Lưu lão đạo thầm nghiến răng, một tia sát
khí thoáng lóe lên nơi đáy mắt.
***
Buổi ngọ triều đã trôi qua rất lâu, các vị trọng thần trong điện Bảo Hòa vẫn
chen chúc vào một nơi, cuộc tranh cãi sôi nổi mãi vẫn chưa đến hồi kết. Vốn Chính
Đức muốn cho mang thức ăn lên cho các vị đại thần này ăn no cái bụng trước đã,
nhưng nhìn tình hình này thì hắn bất giác bực mình, cứ ngồi yên vừa nhìn bọn họ
cãi nhau vừa đè nén lửa giận, sắc mặt càng lúc càng khó coi.
Các vị đại thần cũng chú ý đến sắc mặt tiểu Hoàng đế, tiếng huyên náo dần nhỏ
lại.
Chính Đức lẳng lặng vân vê chiếc chén ngọc cực kỳ tinh xảo trong tay, chậm rãi
nhìn quanh một vòng. Hắn thấy Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng đang rì rầm nói chuyện
gì đó; Lý Đông Dương và Tiêu Phương thì cùng trưng vẻ mặt như quả mướp đắng,
không ngừng vuốt râu; Dương Đình Hòa đang chắp tay sau lưng nhìn bức tranh chữ
trên tường. Còn Lục bộ Cửu khanh và Thị lang các bộ mỗi người một thần sắc
riêng, kẻ thì đầy mặt giận dữ, người thì hả hê ra mặt.Chính Đức lại liếc nhìn Ngô Kiệt. Vị đại nhân già nua, gày gò chưa từng bước
vào hoàng cung này mặt mũi lấm tấm mồ hôi, đang nhìn về phía hắn với vẻ vạn
phần lo lắng.
Chính Đức khẽ ho một tiếng, xả bớt khí giận trong lồng ngực ra rồi mới nói:
- Các vị ái khanh! Cứ theo tình hình hiện nay, hẳn là nữ tặc Hồng Nương Tử
chưa biết trượng phu của ả đã trốn khỏi kinh thành nên muốn đổi Dương thị độc lấy
Dương Hổ. Hiện lũ đạo tặc đang chờ câu trả lời của triều đình, các vị ái khanh bàn
bạc thế nào rồi?
Lưu Đại Hạ trầm giọng thưa:
- Hoàng thượng! Lão thần cho rằng nữ tặc đó đã có thể gửi thư vào kinh nên
hiển nhiên là kinh sư phong tỏa kịp thời, bọn chúng còn chưa kịp trốn thoát. Hiện
giờ trong thành binh mã như mây, có Binh bộ, Kinh doanh, Thuận Thiên phủ, Ngũ
Thành Binh Mã ti, rồi còn cả ba xưởng một vệ, muốn lật tung kinh thành lên cũng
có gì là khó? Có thể lệnh cho các bộ tăng cường tìm kiếm lục soát, bọn chúng còn
có thể trốn lên trời hay sao?
Chính Đức cười lạnh:
- Đã tìm suốt một ngày một đêm rồi, nhưng đã tìm được gì chưa? Thuận Thiên
phủ dâng sớ tâu trăm họ ở kinh sư đã cất tiếng oán than đầy đường, còn muốn tìm
kiếm như thế nào nữa đây? Vả lại Dương khanh đang ở trong tay bọn chúng, nếu ép
quá há lại chẳng phải xôi hỏng bỏng không hay sao?
Dương Phương cất tiếng:
- Hoàng thượng! Thần cho rằng lời của Lưu đại nhân đúng lắm, đường đường
triều đình há có thể mặc cả với đám đạo tặc? Năm xưa Hạ Hầu Thuần phòng thủ
Bộc Dương, Lữ Bố phái người bắt cóc ông ta đòi lấy tiền tài, nhưng bộ tướng của
ông ta là Hàn Hạo đóng quân ngoài doanh quyết không thỏa hiệp, còn kiên quyết
dùng binh với lũ tặc nhân, từ đó không còn kẻ nào dám bắt người làm con tin nữa.
Nay lũ cuồng đồ dám phạm trọng tội ngay dưới chân Thiên tử, còn cả gan mặc cảvới triều đình, như thế thể diện của triều đình còn đâu nữa? Mà ngày sau lũ gian tặc
lại học theo đó, triều đình phải ứng phó ra sao? Việc này dứt khoát là không được!
Tiêu Phương nhướng mày lên cãi:
- Lời này của Dương đại nhân sai rồi. Có câu rằng binh bất yếm trá, Dương Hổ
vốn chẳng ở trong tay triều đình, chúng ta cứ tương kế tựu kế, giả vờ đồng ý trao
đổi con tin rồi thừa cơ cứu Dương đại nhân ra, thế có gì là không được? Chẳng lẽ
lại trơ mắt nhìn một vị trọng thần của triều đình mất mạng trong tay gian tặc, như
thế há lại chẳng mất thể diện của triều đình ư?
Hàn Văn trầm ngâm:
- Hoàng thượng! Luật pháp của triều đình không thể không để tâm đến, mà tính
mạng của Dương đại nhân cũng cần phải bảo toàn. Theo thần thấy, chúng ta cứ nên
suy nghĩ thêm, tính toán chu toàn. Lũ gian tặc đã có việc cần, ắt tạm thời Dương đại
nhân không bị hại. Đương nhiên triều đình cũng cần phong tỏa tin tức, tăng cường
tuần tra trong thành, đừng để lũ gian tặc trốn mất, cũng đừng để lộ tin Dương Hổ đã
trốn thoát rồi.
Lý Đông Dương nghe vậy thì khẽ lắc đầu, vừa khéo Chính Đức nhìn thấy động
tác của ông ta bèn vội hỏi:
- Lý đại học sỹ có cao kiến gì chăng?
Lý Đông Dương chắp tay thưa:
- Bẩm Hoàng thượng! Theo thần thấy, nếu đại đạo Dương Hổ thật sự ở trong
tay chúng ta, với một tên thủ lĩnh cường đạo tụ tập giặc cướp chốn núi rừng, dám
mưu sát đại thần, ý đồ làm phản như vậy, có nên thỏa hiệp hay không mới cần bàn
bạc kỹ, dù sao luật pháp và mặt mũi của triều đình cũng là điều không thể bỏ mặc.
Dương đại nhân đã hưởng ơn vua, tất nhiên phải suy nghĩ cho triều đình, không
đồng tình với hành vi thỏa hiệp này cũng là hợp lẽ.
Nhưng... hiện giờ Dương Hổ không ở trong tay chúng ta, tạm dùng kế quyềnnghi cũng không phải là không được. Thần cho rằng nên tạm dừng việc lục soát nhà
dân để tra xét. Đừng nói là hành động này chưa chắc đã tìm được nơi ẩn nấp của lũ
gian tặc mà cho dù thật sự tìm được đi chăng nữa, Dương đại nhân đang ở trong tay
bọn chúng, ném chuột sợ vỡ đồ thì làm sao cứu người được đây?
Do đó, triều đình cứ đồng ý với yêu cầu của bọn chúng cũng chẳng sao, dù gì
hai bên muốn đạt thành hiệp nghị cuối cùng cũng cần thời gian hai, ba ngày. Triều
đình nên lệnh cho Kinh doanh và Ngũ Thành Binh Mã ti tăng cường phong tỏa và
tuần tra, tránh việc gian tặc trốn thoát. Lại lệnh cho mật thám của Hình bộ và người
của xưởng vệ bí mật tìm kiếm chỗ Dương đại nhân bị giam giữ, chờ thời cơ ứng
cứu. Đợi khi hai bên bàn định xong nơi trao đổi con tin, triều đình có thể bố trí cung
thủ phục kích, tùy cơ hành sự.
Mã Văn Thăng nghe xong bèn bước lên một bước. Lão vừa định mở lời, Cốc
Đại Dụng đã bàn bạc với Lưu Cẩn xong xuôi bèn giành tâu trước:
- Hoàng thượng! Nô tài cho rằng kế này của Lý đại học sỹ là thỏa đáng nhất.
Nếu không đồng ý thì thành ra hại mất tính mạng của Dương đại nhân, đường
đường trọng thần của triều đình mà mất mạng trong tay gian tặc, như thế há chẳng
ảnh hưởng đến thể diện của triều đình hay sao?
Còn nếu cứ đồng ý bừa, trong tay chúng ta không có tên đại đạo Dương Hổ kia,
lỡ mà kẻ địch phái một tên lâu la kiểm tra thực giả, ắt sẽ bị bại lộ. Chi bằng cứ tạm
đồng ý trước đã, bấy giờ chúng ta vừa chuẩn bị vừa dốc sức tìm kiếm, nếu có thể
thuận lợi cứu được Dương đại nhân ra là tốt nhất, còn nếu không thể, lại nghĩ cách
khác đánh lừa bọn chúng, khi trao đổi con tin sẽ làm một mẻ lưới tiêu diệt sạch lũ
gian tặc luôn.
Chính Đức nghe vậy bèn vỗ án hô lớn:
- Hay! Các khanh không cần bàn bạc thêm nữa, cứ làm theo cách này đi! Đại
Dụng, đi truyền tin cho Ngũ Thành Binh Mã ti, chờ gian tặc phái người đến liên hệ,
còn việc truy tìm sào huyệt kẻ địch và trao đổi con tin thì do ngươi và Ngô Kiệt của
Nội xưởng phụ trách. Nhớ lấy, trẫm cần một Dương Lăng sống chứ không phải một
Xưởng đốc chết.Các vị đại thần nhất tề khom người đáp:
- Thần tuân chỉ!
***
Lưu lão đạo vừa đi lại trên đường vừa suy tính đối sách. Nếu trao đổi con tin,
khó đảm bảo bên phía quan phủ sẽ không bố trí phục binh; cho dù Hồng Nương Tử
chạy thoát được thì bản thân mình có thể chạy thoát hay không cũng là một vấn đề
khó nói.
Lại nữa, Hồng Nương Tử cũng từng không ít lần bắt cóc người nhà giàu đòi
tiền chuộc, có thể coi là một chuyên gia trong nghề bắt cóc đòi tiền, nếu trước khi
trao đổi ả phái người kiểm tra con tin, ắt hẳn sẽ lộ tẩy.
Nếu nói rõ với Hồng Nương Tử việc Dương Hổ đã trốn thoát, khả năng Dương
Lăng được thả ra là rất nhỏ; rất có thể y sẽ bị lập tức giết chết ngay. Nói với ả việc
thả Dương Lăng ra có thể dụ Hoàng đế xuất kinh ư? Cô ta từ nhỏ đã đi lại trong giới
lục lâm, là người hết sức cảnh giác: mình mới vừa đi loanh quanh trong kinh sư
được canh phòng nghiêm ngặt này mới có một vòng mà đã nhận được tin tức cơ
mật và chuẩn xác như thế, làm sao cô ả không nảy lòng nghi ngờ?
Lưu lão đạo suy đi tính lại, rốt cuộc đành hạ quyết tâm cứ tạm trở về một
chuyến trước, đợi thăm dò được suy nghĩ của cô ả rồi tính sau. Nếu thật sự không
được, để câu con cá to là Hoàng đế Chính Đức và cũng vì tiền đồ của bản thân, ta
đành gieo khổ cho Hồng Nương Tử vậy. Một tiểu nương tử xinh đẹp như hoa như
ngọc phải bỏ mạng lúc tuổi còn xanh thì thật đáng tiếc lắm thay.
Lưu lão đạo đoán mệnh cho hai vị lão thái thái, nhận được mấy văn tiền, sau
buổi trưa lại lòng vòng đi tới trước cửa nha môn Ngũ Thành Binh Mã ti. Lão thấy
trên chiếc giá đã chẳng còn gì, chiếc trống kia không biết đã đi đâu mất rồi. Lúc này
sắc trời đang âm u, lưa thưa mấy bông tuyết phất phơ bay xuống, người đi lại trên
đường dần dần thưa thớt, Lưu lão đạo sợ khiến người khác hoài nghi, bèn xoay
người lại chậm rãi đi về phía thành bắc. Đi tới con hẻm, thấy không có người nào
chú ý, Lưu lão đạo bèn vội vã bước vào trong đạo quán.Tòa đạo quán xây dở này ngay đến cửa cũng không có, bốn phía gió lùa. Đêm
qua là đêm đầu tiên, còn có thể phái người ra ngoài canh gác, ban ngày thì lại không
thể cho người đứng chờ ở ngoài sợ sẽ khiến người đi đường chú ý. Lưu lão đạo
khởi động cơ quan, lặng lẽ chui vào trong thạch thất, hai đại hán cầm đao kiếm nhìn
thấy là lão bèn buông vũ khí trong tay xuống, nôn nóng hỏi:
- Lưu tiên sinh, quan phủ có đồng ý không? Hổ ca vẫn an toàn chứ?
Lưu lão đạo khẽ mỉm cười đáp:
- Còn may, quan phủ đã tỏ ý bằng lòng trao đổi con tin với chúng ta.
Lúc này Thôi Oanh Nhi và Thúy Nhi cũng hay tin ra đón. Lưu lão đạo cùng bọn
họ tránh vào trong một gian thạch thất, sau khi sắp xếp về những lời cần nói, lão
bèn hỏi:
- Phu nhân có dự định gì không? Sau khi cứu được đại đương gia ra nên xử trí
Dương Lăng thế nào đây?
Rốt cuộc Hồng Nương Tử vẫn phải cắn chặt môi, khẽ cất tiếng:
- Sáng nay bọn ta đã bàn định xong. Mối thù của hơn hai trăm huynh đệ không
thể không báo, một khi cứu được người ra sẽ lập tức giết chết Dương Lăng, tế vong
linh của bọn họ.
Lưu lão đạo gượng cười:
- Chuyện này... Cứ nên lấy đại cục làm trọng. Phu nhân và đại đương gia đều
là người làm việc lớn, nếu vì chuyện này mà chọc giận quan phủ, cơ nghiệp do đại
đương gia vất vả lắm mới gây dựng được khó tránh khỏi sẽ bị tấn công tiêu hủy, chi
bằng tha cho y một phen...
Thúy Nhi ngẩn ra, nhìn lão với vẻ rất kinh ngạc, không biết lão lại có trò mới
gì. Nụ cười của Lưu lão đạo hơi nhiễm vẻ cay đắng, nhưng lại chẳng thể nói rõ ra
được.Hai tên sơn tặc đứng ngoài cửa nghe vậy thì bèn bước vào. Một gã đại hán mặt
mày hung ác nói với vẻ bất mãn:
- Lưu tiên sinh sao lại có lòng nhân từ của đàn bà như thế? Cho dù không giết
hắn thì chúng ta cũng đã gây ra sự biến lớn đến thế này rồi, quan phủ còn chịu dễ
dàng bỏ qua hay sao chứ?
Tên đại hán trọc đầu còn lại hăng hái:
- Chính thế! Chúng ta đã làm việc này thì không sợ đắc tội quan phủ, chỉ sợ
danh hiệu không vang dội mà thôi. Lần này tiến kinh tổn thất mất hai trăm huynh
đệ, không giết được y thì khi về trại biết ăn nói với mọi người sao đây? Còn nếu
giết y rồi, các hảo hán ở tam sơn ngũ nhạc có ai mà không khâm phục chúng ta? Ắt
hẳn danh hiệu của Hổ ca sẽ càng vang dội hơn, cho dù cả ngọn núi kia bị hủy đi,
chúng ta muốn xây dựng lại cơ nghiệp ở nơi khác cũng là chuyện dễ như trở bàn
tay.
Hồng Nương Tử nghe tới đây bèn quyết tâm:
- Cứ làm như vậy đi, với quan phủ thì còn phải nói gì đến tín nghĩa nữa chứ?
Hồ Đại Chùy, quan phủ đã đồng ý rồi, vậy ngày mai chúng ta sẽ chuẩn bị dùng vũ
lực rời thành, ngươi tới chỗ quan phủ xem tình hình của đại ca ngươi trước, đừng để
bọn chúng lừa đấy.
Mặt mày hung ác, Hồ Đại Chùy gật đầu đáp với vẻ thản nhiên:
- Đại tẩu yên tâm! Có tên cẩu quan kia ở đây, quan phủ còn có thể làm gì được
một gã tiểu lâu la như đệ chứ? Đệ nhất định sẽ có thể cùng Hổ ca an toàn đến Phong
Đài, quan binh đừng hòng giở trò gì với đệ.
Lưu lão đạo nghe tới đây thì lòng dạ nguội lạnh hẳn đi.
Hồng Nương Tử nghĩ đến Dương Lăng, tuy trong lòng vẫn hơi áy náy nhưng
trượng phu đã đi theo con đường này rồi, nàng là thê tử, ngoài việc tiếp tục đi theo
hắn thì còn có thể làm được gì khác nữa? Nàng buồn bã thở dài một hơi, nói vớiLưu lão đạo:
- Lưu tiên sinh đã vất vả rồi, ông hãy nghỉ ngơi trước đi. Đợi qua được ngày
mai, chúng ta sẽ có thể cao bay xa chạy rồi.
Hồng Nương Tử xoay người đi vào phòng của Dương Lăng, Hồ Đại Chùy và
gã đại hán đầu trọc Hắc Diêu Tử kia lén lút theo sau. Thôi Oanh Nhi ngoảnh đầu
trừng mắt nhìn bọn hắn, hai gã sơn tặc nhìn về phía Dương Lăng cười cười với vẻ
hung ác, đoạn chậm rãi bước ra ngoài.
Dương Lăng vịn tường gượng đứng dậy, trong phòng không đốt lửa, tuy ấm
hơn bên ngoài một chút nhưng vẫn lạnh lẽo vô cùng. Thân thể y vốn đã không so
được với đám sơn tặc, lại ở một mình trong gian phòng đá, khó chịu vô cùng, bèn
ngồi xếp bằng tĩnh tọa theo cách của Ngũ Hán Siêu. Hiện giờ y vẫn chưa biết ngồi
kiểu "đại bàn", dưới sự trông coi của đám sơn tặc cũng không dám quá lộ liễu,
nhưng chỉ ngồi kiểu "tiểu bàn" hơn nữa canh giờ, hai chân cũng đã mỏi nhừ.
(tiểu bàn: ngồi xếp bằng bình thường, bàn chân dưới đùi; đại bàn: kiểu hoa sen,
bàn chân này gác lên đùi kia)
Thấy sắc mặt Hồng Nương Tử, y hỏi:
- Triều đình đồng ý trao đổi rồi ư?
Nhìn dáng vẻ hơi tiều tụy của y, trái tim Hồng Nương Tử bất giác nhũn đi. Trên
đời liệu có mấy vị quan chịu bỏ tiền phát cháo cứu tế cho nạn dân? Y còn khổ tâm
dốc sức nghĩ cách để cải tạo giống cây trồng, thật là một vị quan tốt.
Khi đến thăm phủ của y, phu nhân của y cũng là một người hòa nhã thân thiện,
không hề có vẻ kiêu ngạo của một ả vợ quan, nhưng... Nếu không giết y, biết phải
ăn nói thế nào với các huynh đệ khác về hai trăm huynh đệ đã bị giết? Hơn nữa
trượng phu đã bước lên con đường này rồi, càng là vị quan hữu dụng với triều đình
thì càng là đại địch của mình. Có ai ngờ được lần này lên kinh sư, không giết được
Hoàng đế mà lại để y trở thành con dê chịu tội thay chứ?Trong lòng đang áy náy, giọng nói cũng bất giác dịu hơn vài phần, nàng khẽ gật
đầu:
- Ừm, xem ra Hoàng đế rất coi trọng ngươi đấy, vì ngươi mà phong tỏa toàn bộ
kinh thành, bọn ta đưa ra yêu cầu trao đổi, quan phủ chẳng hề nghĩ ngợi gì đã đồng
ý ngay. Ngày mai ta sẽ phái người đi gặp quan phủ, chỉ cần bọn chúng không giở
trò gì khi trao đổi con tin, ngươi sẽ... sẽ có thể trở về rồi.
Thôi Oanh Nhi tung hoành chốn núi rừng, giết người cướp bóc cũng là tay lão
luyện, chưa từng chớp mắt bao giờ. bằng không làm sao nàng có thể khuất phục
được bao nhiêu tay đại đạo kiêu căng như thế. Nhưng nói tới đây khuôn mặt nàng
lại bất giác nóng rần, có chút hổ thẹn. Nàng vội vã xoay người, cởi chiếc áo choàng
độn bông ra, vứt cho y rồi bảo:
- Các ngươi làm quan không so được với bọn ta, đã ở đây rồi cũng đừng làm bộ
làm tịch kiểu nhà quan nữa, khoác nó lên đi, đêm nay... Ta kêu người đi kiếm chút
rượu thịt về, ngươi cũng không đến mức lạnh quá không ngủ được như đêm qua.
***
Trong gian phòng trước, Hồng Nương Tử vừa mới rời đi, Thúy Nhi đã ghé sát
đến bên cạnh Lưu lão đạo, thấp giọng hỏi:
- Ông giở trò gì thế? Không phải ông từng bảo cần xúi bẩy Hồng Nương Tử
giết y sao? Sao lại đổi quẻ rồi?
Lưu lão đạo cười khổ, đưa mắt liếc nhìn ra bên ngoài, đáp nhanh:
- Ôi! Cũng là việc đời khó liệu... Giáo chủ đã đích thân phái người đến thông
báo có thể Hoàng đế sẽ xuất kinh, đây là một cơ hội cực tốt. Mà Dương Lăng lại là
nhân vật quan trọng đi theo phò tá, nếu thiếu sự ủng hộ của y, e là Hoàng đế khó
lòng đi được. Do đó chúng ta nhất định phải bảo vệ sự an toàn của Dương Lăng,
bằng bất cứ cách nào cũng không được để y chết.
Thúy Nhi cả kinh, thấp giọng:- Có chuyện như vậy sao? Thảm rồi, bây giờ phải làm thế nào đây? Mấy kẻ kia
cứ nhất quyết muốn báo thù cho huynh đệ, ta cũng đã đỡ lời khuyên nhủ Hồng
Nương Tử rồi. Nếu ả đã quyết định chuyện gì rồi thì ngoan cổ lắm, chẳng mấy
người có thể khiến ả thay đổi ý kiến được đâu.
Lưu lão đạo lạnh lùng đáp:
- Cô cũng đã đi theo ả mấy năm, rất quen thuộc tính cách của ả, ả cũng đã coi
cô như tỷ muội thân thiết nhất rồi, đợi lát nữa hãy thử khuyên nhủ thêm xem. Ta sẽ
ngụ lại tại nhà của Hồng viên ngoại ở phía sau đạo quán. Ở đây không thể nghe
thấy tiếng điểm canh, cô cứ ước lượng thời gian, chừng canh hai ta sẽ dẫn người tới,
cô giả vờ đi tiểu đêm ra ngoài gặp ta. Nếu Hồng Nương Tử đã hồi tâm chuyển ý thì
thôi, còn nếu không, cô ra mặt giải quyết người canh gác trước, rồi chúng ta và ả
đoạn tuyệt quan hệ!
Thúy Nhi thất thanh:
- Cái gì? Nếu như vậy thì tâm huyết bao năm nay của chúng ta ở giới lục lâm...
Lưu lão đạo khẽ giải thích:
- Bọn chúng đã để lộ diện trước mắt triều đình, cô nghĩ dưới sự vây ráp tiễu trừ
của quan binh mà bọn chúng còn làm gì được nữa hay sao? Vốn liếng của chúng ta
không thể đặt cả vào đám sơn tặc ấy được!
Ban đêm. Ánh lửa trong phòng khi mờ khi tỏ. Thúy Nhi đang ngủ ngoài cửa đột
nhiên mở mắt ra, chậm rãi chống tay ngồi dậy, nhìn qua phía Hồng Nương Tử với
vẻ hơi căng thẳng. Thị thấy lúc này Hồng Nương Tử đang dựa lưng vào bức tường
đá, hai tay ôm vai, quàng thanh đoản kiếm trước ngực, hơi thở đều đều tự nhiên.
Thúy Nhi lại nhìn vào trong phòng. Dương Lăng không quen ngủ trong tư thế
ngồi nên đang nằm co, cuộn người lại trên mặt đất trong chiếc áo choàng độn bông.
Thúy Nhi khẽ thở phào một hơi, đứng dậy lẳng lặng đi ra phía ngoài. Đêm nay
người canh gác bên ngoài là Hồ Đại Chùy và Phàn lão nhị. Thấy ả đi tới, Hồ Đại
Chùy cười híp mắt lại:- Thúy Nhi, có phải cô lạnh quá không ngủ được phải không? Để ca ca đây ôm
một chút cho ấm nhé!
Thúy Nhi cười mắng:
- Cút ngay! Chớ nói với ta những lời dơ bẩn đó, để tiểu thư nghe được xem
người có thu thập ngươi không! Tránh xa ra một chút!
Thúy Nhi đi lên bậc thang. Tuy Hồ Đại Chùy dám bỡn cợt ngoài miệng nhưng
lại không dám động chân động tay với người của Hồng Nương Tử. Huống chi hắn
cũng biết võ công của cô gái này cao minh hơn mình nhiều, nên bèn cười hì hì tránh
sang một bên, nhìn cặp mông căng tròn kia ưỡn ẹo biến ra khỏi tầm mắt.
Phía sau đạo quán là một vạt rừng thấp. Hồi chiều gió lạnh rít gào nhưng lúc
này đã bớt gió, từng bông từng bông tuyết lớn lặng lẽ rơi xuống, trời không trăng
không sao, tối đen như mực.
Ứng phó xong với gã đại đạo canh gác bên ngoài, Thúy Nhi lẳng lặng đi vào
trong rừng. Lắng nghe thử thấy phía sau không có động tĩnh gì, ả lại rón rén đi tiếp
về phía trước, lần mò đến bên cạnh bức tường thấp bên ngoài khu rừng. Thúy Nhi
ghé tai lắng nghe một hồi, hai bàn tay khẽ vỗ ba cái, cách đó không xa có người
thấp giọng hỏi:
- Ai đó?
Thúy Nhi cũng thấp giọng đáp:
- Trời giáng Di Lặc phật.
Đối phương vui mừng đáp lại:
- Làm chủ thế giới kia! Lưu hộ pháp, người tới rồi.
Thúy Nhi lần mò bước về phía trước. Phía đối phương không dám đốt đèn, dưới
ánh sáng mờ mờ chỉ có thể nhìn thấy sáu bảy bóng người đi tới. Người ở giữa khẽ
hỏi:- Thúy Nhi, thế nào rồi?
Nhận ra giọng của Lưu lão đạo, Thúy Nhi vội bước tới đáp:
- Hồng Nương Tử cảnh giác lắm, hồi sáng ta mới khuyên ả giết Dương Lăng
xong, buổi tối khuyên một câu rồi cũng không dám khuyên nữa, sợ khiến ả nảy lòng
nghi ngờ. Về sau mấy người Hắc Diêu Tử nghe thấy, lại tới phản bác lời ta. Bọn họ
đều là huynh đệ kết nghĩa của Dương Hổ, Hồng Nương Tử nghe xong lời của bọn
họ lại càng không chịu thay đổi ý định.
Lưu lão đạo buồn bực:
- Chẳng còn cách nào! Vì đại kế của giáo chủ, giờ đây xem ra chỉ đành phải
giết ả thôi. Con ả này võ công ghê gớm lắm, đợi lát nữa hãy nhanh nhạy một chút.
Đáng tiếc chúng ta không mang theo dược vật, nếu không thì tiện lợi hơn nhiều rồi.
Thúy Nhi thấp giọng trách:
- Trên đời này làm gì có thứ độc dược nào không màu không mùi chứ? Hơn nữa
ta đã theo ả mấy năm, biết rõ sự lợi hại của ả. Mấy thứ hại người tầm thường đó ả
chỉ cần ngửi cái là biết ngay, đừng đưa ra mấy ý kiến tồi tệ như vậy nữa! Chẳng
bằng nhân lúc ả ta không đề phòng mà tung ra đòn thật mạnh đi!
Lưu lão đạo đồng ý:
- Được! Mọi người chú ý, nhất định phải làm thật nhanh thật độc, quyết không
được tha cho bất cứ kẻ nào! Sau đó đổ cái chết của Hồng Nương Tử lên đầu quan
binh; khi ấy cho dù có phải leo núi đao thì Dương Hổ cũng chẳng quản ngại gì.
Một bóng đen có địa vị dường như không thấp khẽ cười, vẻ dâm dật:
- Hay cho kế xua hổ đuổi lang! Đáng tiếc, Dương Hổ đại danh đỉnh đỉnh lại là
một con hổ ngốc, tự dưng lãng phí hai trăm tên tâm phúc đắc lực cho chúng ta rồi
hiện giờ ngay đến vợ cũng để mất. Nghe nói ả đó một thân võ nghệ quyền cước hơn
người, tướng mạo quyến rũ, vóc dáng yêu kiều. Ta có mang theo 'Thần Tiên Võng'
đây, có cần bắt sống ả không?Lưu lão đạo nghĩ đến dáng vẻ xinh đẹp quyến rũ của Hồng Nương Tử thì cũng
thầm bức rức trong lòng. Có điều có thể lọt vào hàng ngũ Bát đại hộ pháp của Di
Lặc giáo thì đều là hạng tâm chí kiên định, sau khi cân nhắc một lúc về sự lợi hại
được mất, lão bèn hủy bỏ ý định này, nghiêm chỉnh đáp:
- Vạn lần không được! Hồng Nương Tử võ nghệ cao cường, nhất định phải
nhân lúc ả không để phòng mà nhanh chóng giết chết! Đi thôi!
Cả bọn theo sau Thúy Nhi lặng lẽ lần mò về hướng đạo quán. Nhìn thấy mấy
tòa kiến trúc đen thui phía trước, Thúy Nhi dừng lại sau một gốc cây, thấp giọng:
- Trên xà ngang của ngôi điện phía trước có kẻ canh gác. Các ngươi đợi ở đây,
ta đi dụ hắn xuống rồi kết liễu hắn trước.
Lời của Thúy Nhi còn chưa dứt, kẻ đi sau cùng chợt kêu thảm một tiếng rồi im
bặt. Mấy người đi phía trước tay nắm chặt binh khí kinh hãi nhìn về phía sau, chỉ
thấy bóng đen đó lắc lư mấy cái, rồi đổ gục xuống mặt đất.
Cả bọn đều sởn gai ốc, cơ thịt toàn thân căng cứng, đều không dám động đậy.
Tuyết vẫn từ trên trời buông xuống, ngay đến bờ mi mỗi người cũng đều có tuyết
bám vào, nhưng lại chẳng ai dám giơ tay lên gạt đi.
Tất cả đều mở to hai mắt nhìn chằm chằm vào bóng đêm tối mịt xung quanh,
qua một hồi lâu Thúy Nhi mới run giọng hỏi:
- Chuyện gì vậy?
Từ phía bên trái chợt vang lên tiếng leng keng vũ khí va chạm. Cả bọn chợt
thấy hai bóng người rất nhanh đã quấn vào một chỗ, sau đó một bóng người lao đi,
biến vào trong màn đêm. Người còn lại thì kêu lên "Ối!" một tiếng, ngã ngược về
phía sau, đau đớn kêu lên:
- Có kẻ tập kích, ta... dưới xương sườn ta bị trúng một kiếm.
Lưu lão đạo vội hỏi:- Có chuyện gì thế? Là kẻ nào? Quan binh đã tìm tới rồi hay ...
Lão đột nhiên xoay người lại, khẽ quát Thúy Nhi:
- Ngươi đã phản bội bản giáo?
Thúy Nhi hoảng hốt:
- Ta... Ta không có, rốt cuộc là kẻ nào?
Một giọng nữ uy nghiêm vô hạn vang lên:
- Là ta!
Thúy Nhi và Lưu lão đạo đều toàn thân chấn động. Thúy Nhi la thất thanh:
- Hồng Nương Tử? Ta... Ta không nên khuyên ngươi, khiến ngươi nảy lòng
nghi ngờ!
Giọng nữ kia cười lên khe khẽ. Tiếng cười chợt dừng lại, thay bằng giọng nói
khoan thai:
- Thúy Nhi! Chắc ngươi chưa biết ta từng bị quan binh vây quét, liên tục hai
mươi ngày không được ngủ đẫy giấc nào. Huống chi đây là nơi kinh sư trọng địa,
dưới sự bao vây trùng trùng của quan binh làm sao ta có thể ngủ sâu được cơ chứ?
Những lời khuyên của ngươi hoàn toàn không hề khiến ta nghi ngờ. Chỉ là khi
thức dậy ngươi không nên lén lút thăm dò động tĩnh của ta như thế! Dã thú hết sức
mẫn cảm với địch ý của kẻ khác, còn ta chính là một con mãnh hổ trong rừng!NGƯỢC VỀ THỜI MINH
Nguyệt Quan
www.dtv-ebook.com
Chương 182 Xin Tiễn Người Đi
Trong Ngũ thành binh mã ty, đám hung thần nha môn tụ tập lúc nhúc; Đông
Xưởng, Tây Xưởng, Nội Xưởng, Cẩm Y Vệ và các quan lớn của bộ Hình giống như
những con tu hú chiếm lấy tổ chim khách, dồn viên Ngự sử tuần thành xuống chỗ
ngồi bên dưới, vị quan này đang chau mày lắng nghe tên nô bộc trẻ tuổi chuyển lời.
Bởi phong thư đầu tiên được nhận ở Ngũ thành binh mã ty nên quan lớn các bộ
đều chạy đến đây, hy vọng chiếm được tin tức trước một bước. Chung quanh Ngũ
thành binh mã ty thông rộng ra bốn con đường, mặc kệ tuyết lớn bay lả tả, trời tối
như mực, mật thám vẫn được cài cắm, nếu ban đêm có người tình cờ dám tạt qua,
lập tức sẽ xuất hiện những kẻ không biết từ đâu chui ra, bất ngờ kẹp nách xốc vào
trong căn nhà nhỏ bên đường ngay.
Trên công đường, các quan lớn không ngừng nhận được tình báo thu thập từ
nhiều con đường khác nhau, nhưng đúng như người ta thường nói, "một người đem
giấu, vạn kẻ khó tìm", kinh sư rộng lớn như vậy, muốn giấu vài người quả thực dễ
như trở bàn tay, đến tận giờ vẫn chưa có được tin tức gì hữu dụng. Đến canh ba,
Lưu Cẩn và mấy đại nhân không thức nổi nữa bèn kêu người dọn chiếc bàn chân
thấp ra khỏi giường, rồi nằm chen chúc nhau đánh một giấc.
Công đường của Binh mã ty đã sớm rối như canh hẹ; đám chủ nhà Điển sử,
Chủ bộ, Tuần kiểm đều không dám về nhà, toàn bộ ở lại công đường bận bịu làm
việc của mỗi người. Ngũ Hán Siêu đi đi lại lại trên công đường, đã hai ngày hai
đêm nay hắn không thể chợp mắt, râu dưới cằm đã mọc lún phún, mắt hằn đầy tơ
máu, trông hệt như một con thú bị nhốt trong chuồng.
Hắn lầm tưởng cô ả che mặt kia là Hồng Nương Tử, mới ra ràng nên nặng lòng
háo thắng, chỉ nghĩ bắt sống được tên đạo tặc đó, làm đại lễ quy thuận Nội xưởng,
không ngờ lại trúng phải kế điệu hổ ly sơn, giờ đây không rõ Dương Lăng sống haychết. Nghĩ đến hậu quả có thể xảy ra, hắn liền sởn gai ốc.
Ngũ Hán Siêu thả bộ đi đến bên chiếc bàn chân thấp, ngọn đèn dầu trên bàn
sáng trưng, một Chủ bộ khoác trên người áo da đang chống cằm ngủ gật. Ngũ Hán
Siêu nhìn thấy trên bàn bày chồng hồ sơ dày cộp, thuận tay nhón lấy một tờ lên
xem, vừa nhìn thấy tin tức bên trên, liền cúi xuống gõ nhẹ bàn.
Lão Chủ bộ đang ngủ say sưa, đột nhiên bị hắn đánh thức. Lão không biết Ngũ
Hán Siêu, có điều vị công tử này tuy không ăn vận như sai nha, mấy ngày nay lại
thường thấy hắn đi ra đi vào cùng với đám người của xưởng vệ, dường như lai lịch
không nhỏ, lão Chủ bộ nào dám xem thường, liền vội dụi mắt hỏi:
- Công tử, ngài có việc gì sao?
Ngũ Hán Siêu trỏ vào hồ sơ án hỏi:
- Lính bảo an khu hẻm nghèo nát phía thành bắc nói rằng mấy ngày nay có một
đạo sĩ vân du lạ mặt thường hay ra vào, sáng hôm nay có tên hầu đổ phân phát hiện
lão ta bước ra từ trong một đạo quán đang xây dở, đã phái người tra xét chưa?
Lão Chủ bộ khẽ gật đầu, thần trí tỉnh lại một chút rồi lại lắc đầu, Ngũ Hán Siêu
nổi giận, túm lấy lão nhấc lên, quát:
- Rốt cuộc là đã tra chưa?
Lão Chủ bộ nhăn nhó khổ sở van xin:
- Công tử hãy buông tay, hãy buông tay, xin nghe lão phu nói đã. Khụ khụ khụ,
thở... thở không nổi rồi.
Ngũ Hán Siêu hừ lạnh, bỏ tay ra, lão Chủ bộ vuốt vuốt cổ họng, thở hổn hển
nói:
- Công tử, tra không nổi đâu. Nhân mã của chúng ta tuy đông, nhưng vào lúc
này, cả thành Bắc Kinh nơm nớp lo sợ, chia quân ra canh gác, trông coi các nha
môn và phủ đệ của các vị đại nhân, tuần tra kinh thành, có điều khắp kinh thànhcũng sẽ không đủ dùng.
Từ khi triều đình dán công văn treo thưởng, tin báo nhận được trong mấy ngày
nay không một vạn cũng tới tám nghìn, kẻ nào cũng nói tận mắt trông thấy, kết quả
mỗi lần phái đại đội nhân mã đều là một chuyến uổng công, bắt được toàn những kẻ
trộm vặt, ăn cướp, lừa bịp, và lưu dân không có giấy tùy thân, thậm chí có cả thông
dâm nuôi trai, đại lao đã nhét chật cả người.
Nay tình hình kinh sư như vậy, ngay cả khách điếm cũng không muốn tiếp đón
khách mới, càng đừng nói là chùa chiền đạo quán. Đạo sĩ đó vân du bốn phương
không chỗ ngả lưng, nghỉ lại nơi miếu chùa đổ nát ngoài thành cũng hết sức bình
thường, những kẻ khả nghi còn tra không nổi, lấy đâu người mà đến đó điều tra lão
ta?
Ngũ Hán Siêu lạnh lùng hừ một tiếng, xoay người đi ra, lão Chủ bộ liền trừng
mắt, nhếch môi. Không thấy tin tức này thì thôi, nhưng nếu đã thấy rồi, người trong
lúc tuyệt vọng chỉ cần có một tia hy vọng liền sẽ không kiềm được mà suy nghĩ
lung tung, cho nên tin tức này thủy chung vẫn luẩn quẩn trong đầu Ngũ Hán Siêu.
Ngũ Hán Siêu trở lại ghế ngồi, song càng nghĩ càng thấy bực bội, nếu không
đích thân đi xem thử thì chuyện này sẽ mãi canh cánh trong lòng. Hắn bỗng đứng
dậy, chụp lấy áo khoác ngoài trên ghế rồi vội vã mặc vào.
Liễu Bưu đang ủ rũ từ trong nhị đường(1) bước ra, trông thấy bộ dáng của hắn
như vậy bèn đi đến hỏi:
- Ngũ công tử, hiện chỉ có thể đợi đám đại đạo đưa tin đến lần nữa, huynh đệ đã
hai ngày không chợp mắt, đến bữa cũng không ăn miếng nào, nếu cứ tiếp tục như
vậy, đến lúc có được tin tức của đại nhân rồi, sợ rằng huynh đệ cũng không gắng
gượng được nữa đâu.
Ngũ Hán Siêu gượng cười nói:
- Đa tạ Liễu huynh đã quan tâm. Đại nhân bị bắt là do tiểu đệ không làm tròn
bổn phận, mỗi khi nghĩ đến chuyện này, thực sự đứng ngồi không yên.Liễu Bưu nhìn bộ dạng của hắn, thắc mắc:
- Huynh đệ còn muốn ra ngoài ư?
Ngũ Hán Siêu đáp:
- Tin báo bên phía thành bắc nói rằng mấy ngày nay có đạo sĩ vân du lui tới một
đạo quán đang xây dở, đệ tính đến đó điều tra cho rõ.
Chủ bộ nọ không nhịn được bèn chen miệng vào:
- Đại nhân, khu vực thành bắc, bao gồm cả đạo quán đang xây dở đó cũng đã
được Binh mã ty điều tra một lượt, không hề phát hiện có gì khác thường.
Ngũ Hán Siêu vặn lại:
- Tuy đã điều tra đạo quán, nhưng đã điều tra lão đạo sĩ nọ chưa? Ngươi từng
nói có thể đạo sĩ đó đang tá túc tại đấy, lúc này tiết trời giá rét, thế nhưng bên trong
đạo quán đó chăn đệm hay vết lửa không?
- Việc đó...
Lão Chủ bộ cứng họng, rờ mũi không biết nói thế nào. Liễu Bưu nhíu mày lại,
thấp giọng nói:
- Ngũ công tử, có câu vua không sai được lính đói, quan binh tìm kiếm cả ngày
lẫn đêm, cả người lẫn ngựa sớm đã mỏi mệt, lúc này vẫn chưa đến canh tư, thêm
nữa tuyết lớn mịt mù, ta thấy hay là đợi trời sáng một chút hẵng cùng nhân mã đi
điều tra.
Ngũ Hán Siêu buộc đai lại, đeo kiếm lên, nói:
- Thực như đã có nghi ngờ, dẫn đại quân đến sẽ khiến kẻ gian cảnh giác. Tự
mình đệ đi xem thử.
Liễu Bưu biết trong lòng hắn không thoải mái, cũng không khuyên bảo thêm,
bèn nói:- Thôi được, ta sẽ đi cùng huynh đệ một chuyến.
Tuyết vẫn rơi lả tả, trời lại nổi gió, gió rít gào cuốn phăng những bông tuyết.
Bóng đêm mờ mịt, mặt đất xốp mềm, cầm đèn soi không thấy nổi ba trượng. Liễu
Bưu sang phòng trực gác đêm gọi bốn tay thân binh dậy, sáu người cưỡi ngựa chạy
đến phía thành bắc, những giao lộ trọng yếu dọc đường vẫn có quan binh canh gác,
kiểm tra thẻ bài giắt lưng của Liễu Bưu xong thì vẫy tay cho qua.
Trong rừng, Lưu đạo sĩ, Thúy Nhi và một giáo đồ Di Lặc giáo dựa sát vào nhau
thành hình chữ phẩm (品); nỗi khiếp đảm và một phen chiến đấu đã khiến bọn họ
thở hổn hển như trâu. Lưu đạo sĩ đảo mắt liên tục, hòng tìm cơ hội đào thoát, nhưng
trong cái bóng đêm như mực ấy, bất cứ lúc nào cũng có thể có một bà la sát nhảy ra
đòi mạng, không có Thúy Nhi và tay giáo đồ Di Lặc giáo nọ bảo vệ, lão căn bản
không dám tự mình chạy trốn.
Hai bên vừa mới giao thủ, tên đạo tặc canh gác trên xà nhà của đạo quán đã
loáng thoáng nghe thấy động tĩnh; lúc Hồng Nương Tử âm thầm bám theo Thúy
Nhi ra khỏi hầm, nàng vẫn chưa thể xác định ả ta có hai lòng hay không, vì vậy chỉ
bảo tên nọ canh phòng cẩn thận, lúc này nghe thấy tiếng binh khí va chạm, không
cần Hồng Nương Tử ra lệnh, hắn liền chạy vào trong hầm gọi người ra.
Đám cướp còn tưởng rằng đã bị quan binh bao vây, bèn để một tên ở lại trông
chừng Dương Lăng, những kẻ khác cầm lấy binh khí xông ra ngoài. Đến lúc xông
vào trong rừng, Hồng Nương Tử lập tức quát bảo bọn chúng bao vây bốn phía,
không cho bất cứ kẻ nào thừa lúc hỗn loạn mà đào thoát.
Bọn chúng cũng không biết đã xảy ra chuyện gì, đến khi nghe nói những kẻ này
là giáo đồ Di Lặc, dư nghiệt của Bạch Liên giáo, từng hoành hành tại Cam Túc,
Thiểm Tây và Sơn Tây, đám cướp mới yên tâm. Song phương đều 'đen', không thể
ra 'sáng', chỉ cần không phải quan binh thì dễ xử rồi.
Người trong lục lâm căm ghét nhất chính là bị phản bội, nếu có người làm
chuyện có lỗi với huynh đệ, cho dù đó là cha ruột, bọn chúng cũng sẽ không chút do
dự tìm kẻ đó để chấp hành sơn quy. Bọn chúng không biết Thúy Nhi vốn là ngườitrong Di Lặc giáo, cho nên chỉ dò hỏi mấy câu qua loa, nhầm tưởng ả phản bội gia
nhập Di Lặc giáo, thế nên trong lòng căm ghét vô cùng.
Thúy Nhi có võ công cao nhất trong đám giáo đồ Di Lặc này, tuy đả thương
được hai tên dưới sự công kích điên cuồng của bọn chúng, song vẫn bị chặn đường
lui. Hồng Nương Tử có võ nghệ kinh người, mượn màn đêm mà rảnh rang ra tay
giữa bầy địch, căn bản không cần phân biệt địch ta, chém giết nửa canh giờ, hiện
chỉ còn lại ba tên.
Lưu đạo sĩ búng chân thoăn thoắt, chợt khàn giọng kêu lên:
- Hồng Nương Tử, kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, nay triều đình đã điều động
đại quân, sơn trại lục lâm của ngươi sắp không giữ được nữa rồi. Bắt cóc mệnh
quan triều đình là tội lớn tày trời, ngươi và Dương Hổ đã không còn lối thoát. Bản
giáo căn cơ hùng hậu, giáo đồ rải khắp thiên hạ, với võ nghệ hai vợ chồng ngươi,
nếu như gia nhập bản giáo, tất sẽ là một viên hổ tướng. Ngươi có muốn suy nghĩ lại
không?
Hồng Nương Tử nắm chặt thanh đoản kiếm nhuốm máu, lặng lẽ di chuyển
trong khu rừng, cười khẩy nói:
- Có lẽ ngươi nên suy nghĩ trước đi! Di Lặc giáo dùng những trò bịp mê hoặc
những đôi vợ chồng ngu dốt dâng hiến mọi tiền tài con cái cho các ngươi, cung cấp
nô dịch cho các ngươi sai khiến, hán tử trong giới lục lâm chúng ta cũng khinh
thường các ngươi. Giết!
Thừa lúc nói chuyện khiến đối phương buông lỏng, Hồng Nương Tử đột ngột
lộn người tới phía trước, đâm một kiếm vào ngực gã tín đồ Di Lặc giáo nọ, rồi lại
búng người lủi vào trong bóng đêm. Tên tín đồ Di Lặc nọ kêu "hự" một tiếng,
buông cây đơn đao trong tay, lảo đảo mấy bước rồi ngã sấp xuống mặt đất phủ
tuyết, máu tươi trong ngực trào ra ồ ạt.
Lưu đạo sĩ cực kỳ bi phẫn, giọng run lên:
- Con đàn bà ngu ngốc nhà ngươi, hợp tác thì cùng có lợi, mà chia rẽ thì đều cóhại, gia nhập bản giáo, ngươi và Dương Hổ sẽ có thể được phong làm Thiên sư và
Phật mẫu, dưới một người trên vạn kẻ, vinh hoa phú quý hưởng không hết.
Không sai, hai trăm huynh đệ đó của ngươi là do bọn ta sai khiến, bán mạng
cho chúng ta, nhưng người trong giang hồ nguy hiểm chập trùng, việc đó có gì kỳ
lạ? Chỉ dựa vào ngươi ư? Hay dựa vào ngươi và cả Dương Hổ thì có thể báo thù?
Đoạn lão cười sằng sặc dọa nạt:
- Cho dù là nhân mã lục lâm cùng tận ở Bá Châu của ngươi, cũng đừng hòng
đối phó với bản giáo. Trong khu rừng này, ta là cá thịt, ngươi là dao thớt, nhưng chỉ
cần rời khỏi nơi đây, ta sẽ có tiền tài và nhân thủ vô tận để dùng, cả đời này ngươi
cũng đừng mơ báo thù!
Thúy Nhi cũng thấp giọng dụ dỗ:
- Đại tiểu thư, đừng trách Thúy Nhi vô tình, chúng ta ai nấy đều vì chúa của
mình. Giáo chủ thần thông quảng đại, là Di Lặc giáng trần, người mới là chân long
đó. Bây giờ tiểu thư đã biết Tử Vi chuyển thế, ứng tại Dương Hổ gì đó đều là lời nói
gạt rồi chứ?
Hãy nghe Thúy Nhi khuyên một câu, chỉ cần tiểu thư dừng tay giảng hòa, ta và
Lưu hộ pháp có thể bảo đảm rằng người sẽ có được địa vị cao quý trong bản giáo.
Hiện tiểu thư đã thấy công phu thực tế của ta không kém người là mấy rồi chứ? Nếu
thực sự liều mạng liệu tiểu thư có thể giết được ta mà không mất mấy người không?
Trong rừng im phăng phắc, chỉ có tuyết rơi, gió thổi...
Nghe xong lời này Hồng Nương Tử và mấy tay đại đạo đều im lặng không nói
lời nào. Một lúc lâu sau, mới nghe Thôi Oanh Nhi cất giọng lạnh lùng:
- Muốn ta không giết ngươi cũng được, ngươi và ta đều phản lại triều đình,
chúng ta sẽ không quy thuận các ngươi, có điều muốn hợp tác cũng không hẳn là
không thể...
Thúy Nhi mừng ra mặt, vội nói:- Đại tiểu thư, người đồng ý sao?
Thôi Oanh Nhi cười nhạt nói:
- Đừng gọi ta là đại tiểu thư, hẳn là địa vị của ngươi trong Di Lặc giáo cũng
không thấp chứ? Ngươi nên biết là rằng kẻ làm thủ lĩnh nếu muốn thu phục mọi
người, thì phải không phụ lòng huynh đệ. Chúng ta lúc đi mang theo hai trăm
người, cha mẹ vợ con bọn họ vẫn đang chờ bọn họ trở về ăn Tết, nay đến cả di hài
ta cũng không thể mang về thì sao có thể ăn nói với bọn họ?
Thúy Nhi do dự hỏi:
- Vậy... ý của tiểu thư là...?
Thôi Oanh Nhi nói một cách quả quyết:
- Nếu không phải vì Lưu đạo sĩ, chúng ta hà tất phải cực khổ chạy vào trong
thành tìm chết? Ngươi giết cho ta cái tên chủ mưu gây nên chuyện này, để ta có thể
ăn nói với các huynh đệ, ta sẽ tha cho ngươi, hơn nữa sẽ suy nghĩ hợp tác cùng Di
Lặc giáo. Ngươi yên tâm, chuyện này trời biết đất biết, tuyệt sẽ không có bất cứ tín
đồ Di Lặc nào biết ngươi làm đâu.
Người Lưu đạo sĩ thoáng run lên, cố mạnh miệng cười nói:
- Ha ha, ha ha, đúng là buồn cười, ngươi muốn chia rẽ để bọn ta tự giết lẫn
nhau, để ngươi ngồi hưởng lợi ngư ông sao? Thuý Nhi là Tiên cơ của bản giáo, có
thể mắc lừa ngươi sao?
Lão và Thúy Nhi vốn tựa lưng vào nhau, kết chặt thành một khối, nhưng miệng
vừa nói vậy lão lại lặng lẽ tách người ra một chút, đặt một nửa sự chú ý ra phía sau,
lo sợ Thúy Nhi sẽ bất thình lình cho lão một kiếm.
Thôi Oanh Nhi cười lạnh, giọng quanh quẩn khắp nơi:
- Vừa nãy ai đã nói kẻ thức thời là trang tuấn kiệt? Thúy Nhi, ngươi và ta quen
biết đã lâu, nên biết lời ta thốt ra tuyệt không thay đổi. Ta sẽ đếm đến mười, nếungươi không động thủ, ta sẽ kêu các huynh đệ chôn xác các ngươi tại nơi này, có lẽ
mấy ngày sau thi thể trong đống tuyết của ngươi cũng sẽ bị chó hoang bươi ra thôi.
Một, hai, ba...
Theo nhịp đếm của Thôi Oanh Nhi, trái tim của Lưu đạo sĩ và Thúy Nhi đập
thình thịch, Lưu đạo sĩ đột nhiên thấy Thúy Nhi bên cạnh thoáng có cử động, bèn
cũng vội giật mình tránh thân, hông dường như bị vật gì chém sượt qua, liền nổi
giận đùng đùng, chém trả lại một đao, mở miệng mắng:
- Con điếm thối tha, ngươi thực sự động thủ với ta à?
Thúy Nhi lánh người là do cũng bị một vật quét sượt qua, cảm giác giống như
cành cây khô, lập tức phát giác bị mắc lừa, ngay lúc nào Lưu đạo sĩ đã hung tợn bổ
một đao tới. Thúy Nhi vừa tức giận vừa lo lắng, hất kiếm lên, "keng" một tiếng, một
loạt tia lửa bắn ra. Thúy Nhi quát lớn:
- Đồ ngu, đừng trúng kế ả ta.
Chính vào lúc này, từ trong bóng đêm, Hồng Nương Tử người theo ánh kiếm
mang theo hoa tuyết, lao đến nhanh như một cơn lốc, một tiếng quát lạnh lùng và
nghiêm nghị vang lên:
- Giết!
Từ động tác và phản ứng của Thúy Nhi sau khi vung đao, Lưu đạo sĩ liền phát
hiện mình đã bị trúng kế, lúc này nhìn thấy những bóng đen đánh úp tới, Lưu đạo sĩ
không kịp suy nghĩ, lập tức vung đao chém tới, la lên:
- Cẩn thận!
Một kiếm của Hồng Nương Tử vốn nhắm vào ngực Thúy Nhi, nàng liền khom
người tránh lưỡi đao của lão, rồi hất kiếm lên, đâm ngay vai Thúy Nhi, tiếp đó thân
kiếm bị đao chém trúng, mũi kiếm kẹp dưới xương quai xanh của Thúy Nhi rung
mạnh, khiến cô ả đau đớn kêu thét lên, trước mắt tối sầm, cơ hồ ngất xỉu.
Rồi không thèm suy nghĩ, nàng lập tức bỏ kiếm, co người bổ nhào vào Lưu đạosĩ, ôm lấy lão lao về phía trước. Hai người quấn vào nhau, trượt xa hơn trượng mới
ngừng lại.
Lúc này, Lưu đạo sĩ đã choáng đến không còn biết trời đất sao trăng chi nữa.
Hồng Nương Tử nâng gối thúc mạnh một cái ngay giữa quần lão, giữa tiếng kêu la
thảm thiết nàng lại lấy hai tay kẹp lấy đầu lão vặn mạnh, "rắc" một tiếng, tiếng kêu
thảm thiết vừa thốt ra lập tức im bặt.
Trúng phải một kiếm nọ, Thúy Nhi vẫn có thể chịu được, nhưng cây kiếm cắm
vào hốc xương lại bị đao chém vào gần như chẻ xương quai xanh của ả đứt rời. Cô
ả nửa quỳ trên mặt đất, khó khăn lắm mới có thể thẳng lưng dậy, liền tuyệt vọng
phát hiện bên cạnh có mấy bóng người lầm lì vây quanh.
Thôi Oanh Nhi buông một câu lạnh nhạt:
- Kéo nó vào đạo quán!
Thúy Nhi chưa kịp mở miệng, liền cảm thấy da đầu bị siết lại, một cánh tay to
lớn nắm đầu cô ả kéo lên, sau đó hai vai lại bị đánh một chưởng, hai cánh tay lập
tức rũ xuống mềm oặt, chỗ bị thương chịu phải một kích này gần như khiến cô ả
đau muốn ngất đi.
Mấy gã đại hán kéo lê Thúy Nhi vào trong đạo quán, Thôi Oanh Nhi đứng
nguyên tại chỗ không nói lời nào, mấy tay hán tử còn ở lại bèn gọi:
- Chị dâu...
Thôi Oanh Nhi nhỏ giọng nói:
- Mặc dù bọn chúng để lại tai mắt nhưng tạm thời khó có thể tập hợp nhân thủ,
có điều vẫn nên cẩn thận là hơn, đi dạo một vòng xem thử. Nơi này... đã không thể
ở lại nữa.
Hai tên đại đạo dạ một tiếng, rồi lặng lẽ xoay người bước đi. Thôi Oanh Nhi
ngước mặt lên trời, để mặc cho bông tuyết rơi phất phơ xuống khuôn mặt, hoá thành
giọt nước lạnh ngắt. Tuyết đổ rất dày, rất nhanh mấy thi thể trên mặt đất đã bị phủlên bởi một lớp tuyết trắng ngần.
Thôi Oanh Nhi khẽ run rẩy, quay người trở về trong đạo quán. Dương Lăng
ngồi chờ trong một căn phòng đá nằm ở trong cùng, chỉ nghe thấy bên ngoài có
tiếng con gái kêu la thảm thiết, lại bị bọn cướp nhốt trong phòng không cho ra
ngoài, y còn tưởng đám giặc cướp này không chịu nổi trống vắng cho nên đêm
khuya đã bắt cóc con gái nhà dân về chơi đùa, trong lòng căm hận không thôi.
Thôi Oanh Nhi đi vào trong hang, thấy cả người Thúy Nhi đầy máu, khuôn mặt
vốn dĩ xinh đẹp đã bị đánh cho tím bầm, tóc tai bù xù trông như quỷ dữ. Hồ Đại
Chuy xách đầu cô ả, đang định tát thêm một cái, Thôi Oanh Nhi liền nghiêm giọng
nạt:
- Dừng tay!
Nàng bước tới trước mặt Thúy Nhi, chậm rãi ngồi xếp bằng, lạnh lùng nhìn một
hồi lâu, rồi mới cất giọng hỏi:
- Ta hỏi ngươi ba việc. Một, tình hình của Hổ ca hiện nay thế nào? Hai, ngươi
và Lưu đạo sĩ là Hộ pháp và Tiên cơ của Di Lặc giáo, lại lao tâm tổn sức trà trộn
vào trong sơn trại của chúng ta rốt cuộc tính làm gì? Ba, nếu đã muốn lợi dụng ta,
cớ sao lại muốn giết ta?
Thúy Nhi phun ra một bãi nước bọt lẫn với máu, thở hổn hển nói:
- Ngươi cứ giết ta đi, đừng hòng moi được tin tức gì từ chỗ của bản Tiên cơ, rồi
sẽ biến thành con ma dốt của quan phủ. Ha ha... hộc!
Hắc Diêu Tử đạp một cước vào bụng dưới cô ả, tiếng cười thảm thiết của Thúy
Nhi lập tức ngưng bặt. Thôi Oanh Nhi chỉ cười nhạt, lấy làm thú vị hỏi:
- Tiên cơ? Nghe nói Di Lặc giáo thần thông quảng đại, có thể lôi kéo ngũ
quỷ(2), có thể biến sắt thành vàng, đao thương bất nhập, bạch nhật phi tiên, lừa gạt
khiến một đám dân đen điên đảo thần hồn. Được, vậy để ta lĩnh giáo thủ đoạn của
tiên cô Thúy Nhi một chút.Đoạn nàng đứng dậy, mỉm cười, rút từ trên tường một cây đuốc chưa cháy hết,
cầm kiếm gọt vài cái, đẽo thành một cây cọc có cạnh sắc nhọn, sau đó đến bên cạnh
Thúy Nhi, đột nhiên vén váy cô ả lên, thò tay giật ống quần của cô ả xuống.
Bên dưới chiếc váy là chiếc quần màu xanh nhạt, trong lợp vải bông, nhưng sức
tay của Thôi Oanh Nhi rất khoẻ, vừa kéo xoạt một tiếng, khúc chân trắng trẻo, thon
thả và ưu mỹ liền lộ ra. Thúy Nhi rúm người lại, giọng run rẩy:
- Ngươi muốn làm gì?
Thôi Oanh Nhi nhướng đôi mày liễu, giơ cây cọc đen thùi lên, thản nhiên nói:
- Ta đang nghĩ, nếu như đục một lỗ trên chân ngươi, cắm cây cọc này vào,
xuyên nó lên tận bắp đùi, không biết đám yêu đạo có thể thỉnh nhờ Đại La Kim
Tiên nhập xác các ngươi sẽ vẫn chịu nổi hay không.
Sắc mặt Thúy Nhi trắng bệch. Cô ả cúi đầu trầm tư một chốc, rồi mới cười đau
khổ nói:
- Thôi được! Ta biết rõ thủ đoạn của Hồng Nương Tử ngươi, rơi vào tay ngươi
rồi, cũng đừng hòng sống mà thoát ra. Ta nói cho ngươi rồi, chỉ xin ngươi... có thể
cho ta một cái chết thoải mái.
Thôi Oanh Nhi cười đáp:
- Thông minh, lại đây, nói nhỏ một chút. Ta đồng ý với yêu cầu của ngươi!
* * *
Sắc trời chạng vạng, bông tuyết tuy nhỏ nhưng cũng rất dày, giống như mạt
phấn. Hồng Nương Tử và năm gã đại hán áp giải Dương Lăng loạng choạng đi về
phía thành ngoại. Dương Lăng lạnh đến độ da dẻ tím tái, y nheo mắt để tránh gió
tuyết, bước thất tha thất thểu theo sau Hồng Nương Tử.
Thành bắc là thành ngoại, bên ngoài không có tường thành, mãi đến những năm
Gia Tĩnh sau này tường thành của thành ngoại mới bắt đầu được xây sửa để phòngngừa giặc ngoài. Tiếc rằng chuẩn bị không thỏa, kế hoạch ban đầu là bao thành nội
lại, song sức người và sức của không đủ, chỉ xây được mặt thành nam, còn đông và
tây chỉ cho ôm lấy thành nội qua loa là liền cho kết thúc công trình.
Vốn vào thời điểm này, cấm thành trong kinh sư bình thường đều tập trung
kiểm tra ở cổng nội thành, nhưng do trọng thần trong triều bị bắt cóc, cho nên hiện
tại nơi ra vào của thành ngoại dựng đầy lều trại và trạm gác. Mỗi trạm gác đều có
một Bả tổng, kiểm tra nghiêm ngặt người ra vào.
Vẫn chưa đến canh năm, cộng thêm tuyết lớn, trạm gác chỉ có bốn tay vệ binh
ôm giáo sắt co ro đứng gác. Trông xa xa thấy có mấy nam nữ đi tới, một tên binh sĩ
lập tức quát hỏi:
- Kẻ nào sớm như vậy đã muốn rời thành? Mau đưa ra giấy thông hành và hộ
tịch, ngươi, một mình qua đây, những người khác không được tới gần.
Bởi vì gió gắt, tiếng của binh sĩ nọ nghe không thấy lớn. Thôi Oanh Nhi dừng
bước chân, ngó năm sáu căn lều trại dựng ở đó, cười lớn bảo:
- Đi gọi quan tướng dẫn binh của các ngươi ra đây, nói có đại đạo Bá Châu là
Hồng Nương Tử muốn gặp hắn!
***
Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu dẫn bốn tay thân binh tiến vào căn ngõ hẻm cũ kỹ ở
thành bắc. Đến trước đạo quán nọ, Ngũ Hán Siêu nhảy xuống ngựa nói:
- Liễu huynh, tiểu đệ vào trong xem thử!
Chàng ta phi thân vào trong đại điện. Một nửa số phòng ốc của đại điện trống
trơn, tuyết bay vào không ít, dưới một bên tường tuyết bị gió cuốn vào gom thành ụ,
phía tường đối diện lại không có chút tuyết nào. Chàng ta quan sát chính điện trống
không, rồi đẩy mở cửa hông, điện thờ hai bên vẫn chưa lợp mái, chỉ đặt một cái giá,
chỉ cần liếc một chút là thấy hết bên trong ngay.
Chàng ta bước mấy bước về phía trước, Liễu Bưu cũng cầm đao theo vào, vòngqua trụ điện, vừa thấy đài đá đặt hương án nọ, hai người liền không khỏi sững ra.
Mặt bên hương án xuất hiện một lỗ hang, Ngũ Hán Siêu mừng quýnh, liền phóng
qua, trông thấy bên trong dường như có ánh sáng lập loè. Chàng ta cúi tai xuống đất
lắng nghe động tĩnh bên trong, đoạn bạt kiếm ra khỏi vỏ rồi nhảy xuống.
Liễu Bưu không kịp cản, vội cùng bốn tay thị vệ đi theo cầm đao đứng thủ ngay
cửa hang, chỉ khoảnh khắc liền nghe giọng Ngũ Hán Siêu run run cất lên:
- Liễu huynh hãy mau xuống đây, nơi này không có người, chỉ có xác của một
cô gái!
Liễu Bưu nghe vậy liền phóng người nhảy xuống, một lúc sau, hai người lại vội
vã nhảy ra ngoài. Ngũ Hán Siêu nói:
- Thân hình và vóc dáng nữ nhân này cực kỳ giống với người đã giao thủ cùng
tiểu đệ, thi thể mới vừa cứng lại, đuốc trong động vẫn chưa tàn, chứng tỏ bọn họ rời
nơi này chưa lâu. Xem đồ vật để lại bên trong, hẳn có thể giấu được năm, sáu
người, rất có khả năng chính là nơi này!
Liễu Bưu liền quát ra lệnh:
- Kỳ chưởng ban, lập tức đi gọi người, đến cổng thành nội, triệu tập nhân mã lật
tung cả thành bắc cho ta!
Thị vệ nọ nghe có tin tức của xưởng đốc, liền vội mừng rỡ đáp vâng, rồi xoay
người chạy đi. Liễu Bưu trầm ngâm nói:
- Nếu như nơi này chính là nơi ẩn nấp của bọn chúng, bọn chúng bỏ ổ, tại sao
không che lấp miệng hang để giấu? Trừ phi...
Ngũ Hán Siêu tiếp lời:
- Trừ phi bọn chúng không muốn trốn nữa!
Liễu Bưu lập tức biến sắc, lo lắng nói:- Hỏng rồi! Chẳng lẽ tin tức Dương Hổ không nằm trong tay chúng ta đã bị bọn
chúng biết rồi sao? Nếu quả như vậy, bọn chúng sẽ đi đâu?
Hai người đưa mắt nhìn nhau, cùng đồng thanh:
- Ra khỏi thành!
* * *
Trước mặt gần trăm quan binh giáp trụ sáng choang, đao thương san sát, đám
người Hồng Nương Tử ngông nghênh cưỡi những con ngựa của họ. Chỉ có năm
thớt ngựa, hai trong số đó lại là ngựa thồ, Hồng Nương Tử và Dương Lăng ngồi
chung một ngựa, hai tên đại đạo có thân thể gầy gò khác cưỡi chung một ngựa.
Hồng Nương Tử kẹp chặt bụng ngựa, một tay ôm lưng Dương Lăng, một tay
cầm thanh đoản kiếm gác trên cổ y, nhoẻn miệng cười tươi như hoa, nói với tay Bả
tổng râu xồm đang đứng ngây tại chỗ:
- Đa tạ tướng quân đã ban thưởng ngựa, đại nhân đã kiểm tra lệnh bài ra vào
hoàng cung của Dương đại nhân rồi, quả thực không chút giả tạo. Hiện tại ta muốn
mời Dương đại nhân của ngươi tiễn ta một chặng, nếu như ngươi dám mang một
binh một tốt đuổi theo, hơn trăm quan binh ở đây có thể bảo đảm rằng Dương đại
nhân chính là bị ngươi bức chết. Lúc đó tự ngươi đi mà giải thích với đám hổ sói
của Nội xưởng nhé. Giá!
Nàng co chân thúc vào bụng ngựa, nghênh ngang phóng đi trong chuỗi tiếng
cười hào sảng.
* * *
Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu đuổi theo một mạch, giữa đường gặp được tên binh
sĩ được gã Bả tổng xui xẻo nọ phái trở về báo tin, nghe chưa hết lời hai người liền
phi ngựa đuổi đến lều trại, chỉ thấy một đám quan binh đang đứng trong gió tuyết,
gã Bả tổng râu xồm nọ đầu tóc và hai vai dính đầy tuyết. Trông thấy bọn họ đuổi
đến, vẻ mặt của lão ta cũng không biết là đang khóc hay đang cười.Ngựa chạy được một chốc, vừa rời khỏi tầm mắt quan binh, cả bọn liền bỏ quan
đạo mà xông vào trong đồng cỏ hoang vu. Dương Lăng đột nhiên hỏi:
- Cô không định trao đổi Dương Hổ sao?
Hồng Nương Tử cười mỉa mai :
- Huynh ấy thực sự nằm trong tay các ngươi sao?
Dương Lăng im lặng, một hồi sau mới nói:
- Các người trốn không thoát đâu, chỉ với mấy thớt ngựa này, còn có tuyết lớn
như vậy, các người chạy không tới mười dặm.
Hồng Nương Tử cười lớn nói:
- Đa tạ Dương đại nhân quan tâm. Thực ra ta phải cảm ơn con tuyết lớn này.
Tuyết lớn khó đi, đất không lưu vết, đường không thấy người, ngoài trăm trượng
không thấy rõ gì cả, trời đất mịt mù, cho dù có trăm vạn truy binh đuổi theo phía
sau, có thể làm gì được ta chứ?
Nàng bỗng đảo mắt, kẹp lấy lưng Dương Lăng, ném y xuống đất. Dương Lăng
ngã lảo đảo mấy bước, giữ cho ổn định người lại, rồi bình tĩnh ngước nhìn nàng hỏi:
- Cô muốn giết ư?
Hồng Nương Tử vòng ngựa đi quanh y mấy vòng rồi dừng lại, hai người đưa
mắt nhìn nhau, bông tuyết rơi nhẹ giữa hai người, che mờ dung mạo của bọn họ.
Hồng Nương Tử hít vào một hơi, rồi chợt nói:
- Oan có đầu, nợ có chủ, thật sự bại dưới tay của ngươi, là do bản lĩnh chúng ta
kém, hán tử lục lâm không ghi món thù này.
Xúi giục bọn ta vào kinh giết ngươi là người của Di Lặc giáo, gian tế của Di
Lặc giáo đó, cũng là thị nữ Thúy Nhi bên người của ta đã bị xử tử. Ngươi cũng đã
thấy, hai trăm mạng người này, ta sẽ tìm Di Lặc giáo đòi lại. Dương đại nhân, HồngNương Tử ta, nói là giữ lời, hôm nay mượn ngươi để rời thành, thì sẽ tha ngươi một
mạng!
Hồng Nương Tử quay đầu ngựa, quát bảo thủ hạ:
-Đi!
Rồi quay đầu lại, mỉm cười nói với Dương Lăng:
- Dương đại nhân! Ngươi là quan, ta là giặc, trượng phu ta bại dưới tay ngươi,
ngày sau, chúng ta gặp nhau trên chiến trường, ta sẽ tìm trở lại cuộc chiến này! Giá!
Nói đoạn, nàng vung roi, kiện mã tung bốn vó, phóng như bay đuổi theo mấy
tên thủ hạ. Dương Lăng đứng ngẩn ngơ vòng nhìn theo bóng lưng bọn họ đang dần
biến mất trong màn tuyết mù mịt đất trời, nhất thời không dám tin nàng ấy sẽ dễ
dàng tha cho mình như vậy.
Ngựa chạy xa dần, phía trước vẫn là một màn trời mênh mông mờ mịt. Đang
dẫn đầu ở đằng trước, Hồng Nương Tử đột nhiên ghìm cương ngựa, quát:
- Đi, đến Phong Đài, đổi ngựa tốt của chúng ta, nhờ sự trợ giúp của trời đất, rời
xa kinh sư!
Hồ Đại Chuy vừa chạy song song với nàng, vẫn bất bình nói:
- Chị dâu, Hổ ca tuy rằng đã thoát khỏi hiểm địa, nhưng sao chúng ta không
thừa cơ giết chết tên cẩu quan đó luôn? Cứ vậy mà tha cho hắn, huynh đệ thực sự
không phục!
Hồng Nương Tử cười nhạt, vặn hỏi:
- Giết y? Giết y rồi Di Lặc giáo sẽ ra tay với hoàng đế thế nào? Di Lặc giáo mà
không ra tay với hoàng đế, liệu triều đình sẽ tập trung toàn lực đi báo thù thay
chúng ta sao?
Hồ Đại Chuy sực tỉnh nói:- A! Ý của chị dâu là...
Hồng Nương Tử cướp lời:
- Chạy mau lên, y tưởng chúng ta chạy về Bá Châu, chúng ta càng phải theo y
đến Đại Đồng. Di Lặc giáo coi chúng ta là giáo, lần này ta muốn mượn 'cây giáo'
này của triều đình đối phó với lão già Lý Phúc Đạt!
Chú thích:
(1) nơi làm việc đằng sau công đường trong quan phủ
(2) còn gọi là Ngũ ôn thần, hay Ngũ ôn sứ giả, gồm có: Xuân ôn Trương
Nguyên Bá, Hạ ôn Lưu Nguyên Đạt, Thu ôn Triệu Công Minh, Đông ôn Chung Sĩ
Quý, Tổng quản trung ôn Sử Văn NghiệpNGƯỢC VỀ THỜI MINH
Nguyệt Quan
www.dtv-ebook.com
Chương 183: Vua Muốn Đi Xa
Quan binh canh giữ những quan ải quan trọng của kinh thành cũng không có
nhiều kỵ binh cho lắm, mặc dù là kinh sư cũng không nuôi nổi bấy nhiêu chiến mã
mà bình thường chỉ để đó không dùng. Nhưng ngay khi tin vừa được đưa vào nội
thành, đề kỵ(1) của Cẩm Y Vệ và mã khoái (sai nha cưỡi ngựa) của Ngũ thành binh
mã ty liền tranh đi trước đại quân, đuổi theo ra ngoài thành tới mấy dặm đường, bất
chấp tuyết rơi mù trời.
Tuyết lớn khó đi, bọn họ đuổi đến khi cả người lẫn ngựa đều mệt lử thì chợt
trông thấy ở đằng trước xuất hiện mấy bóng người lẻ loi trên đường. Đám quan binh
vội ghìm ngựa rút đao, dè chừng tiến tới gần mới thấy rõ là vài viên thị vệ Nội
xưởng đang đứng bất động trong tuyết.
Đám Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu đang đứng như trời trồng, hồn bay phách lạc:
phía trước, một gốc cây khô to bằng một vòng tay bị tuyết nặng đè gãy chắn ngang
trên đường, trên gốc cây tuyết xốp phủ đều, hiển nhiên bọn đạo tặc đã đi vòng qua.
Thế nhưng tuyết lớn mịt mù, trên đường mất sạch dấu tích, bọn họ chẳng khác gì
anh mù cưỡi ngựa lòa, biết đuổi về phương nao bây giờ?
Một tay Cẩm Y bách hộ tra cây Tú Xuân đao(2) vào vỏ, thúc ngựa tiến tới. Khi
đến gần, trông thấy người ngồi trên ngựa ở đằng trước là Thiên hộ Liễu Bưu của
Nội xưởng, hắn liền vội ôm quyền thi lễ:
- Liễu đại nhân! Có phải đã có tung tích của Dương xưởng đốc?
Liễu Bưu quay đầu lại, thấy sau lưng có hơn trăm quan binh cưỡi ngựa bèn hít
sâu một hơi rồi quát bảo:
- Toàn bộ tản ra! Năm người một nhóm, lấy nơi này làm trung tâm tìm kiếmchung quanh, thường xuyên trao đổi tin tức lẫn nhau. Một khi có manh mối của đại
nhân phải lập tức phi ngựa về báo, không được tự ý quyết định.
Tay Bách hộ đó vâng dạ rồi dặn dò Cẩm Y Vệ và mã khoái tản vào trong đồng
hoang. Một lát sau, thềm nhiều người ngựa lục tục kéo đến lũ lượt gia nhập vào
trong đoàn người tìm kiếm.
Dương Lăng bị mang vào đồng hoang cách đường cái mấy dặm. Đôi giày quan
của y bị tuyết ngấm vào ướt sũng, đôi giày da trâu này vừa ẩm vừa nặng, y bước đi
loạng choạng, đi đến độ mồ hôi đẫm lưng, tim đập như trống. Chợt trông thấy trong
gió tuyết có mấy bóng người đang đến gần, Dương Lăng trợt chân, suýt nữa ngã
nhào.
Mấy tay quan quân trông thấy trước mặt có người, cũng căng thẳng rút đao
thương ra quát lớn:
- Kẻ nào đó? Đứng lại! Cấm đến gần! Người đâu mau lên, ở đây có người, ở
đây có người!
Dương Lăng định thần lại, trông thấy những kẻ trước mặt mang mũ tua đỏ
trông như quan binh, liền vội quát:
- Ta là Dương Lăng, các ngươi là quan binh của bộ nào?
Mấy tên quan binh đó nghe xong thì bán tín bán nghi, bèn đi tới gần quan sát y
từ đầu đến chân một lượt, trông thấy y phục của y lập tức tin tưởng mấy phần, nhịn
không được liền hào hứng reo to:
- Tìm được Dương đại nhân rồi! Chúng tôi tìm được Dương đại nhân rồi!
Tay tiểu ngũ trưởng cầm đầu hưng phấn đến độ cả mặt đỏ bừng, "Công to ở
ngay trước mắt rồi! Đây quả là ông trời tặng đại lễ mừng Tết cho ta rồi!". Gã chỉnh
đốn lại y phục, bước vội tới dùng quân lễ ra mắt, cao giọng thưa:
- Tiêu hạ (như thuộc hạ - ND) là Hạ Đại Niên, Ngũ trưởng của Chấn Uy doanh,
tham kiến xưởng đốc đại nhân!Dương Lăng cười khổ, bảo:
- Miễn lễ, mau đưa bản quan trở về! Thực sự chịu hết nổi rồi.
Tay Ngũ trưởng nọ liền vội đứng dậy rồi cùng với một sĩ tốt cường tráng dìu
Dương Lăng nhanh chóng quay về. Tin tức mau chóng lan truyền, quan binh nhanh
nhẹn tụ tập về hướng đó, đến khi Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu hay tin, mừng như
điên chạy đến nơi thì người dìu Dương Lăng đã đổi thành Tì tướng Lưu Bản
Nguyên và Bả tổng Trương Khai của Chấn Uy doanh.
Liễu Bưu mặt mày kích động, dừng bước chân ngắm nhìn Dương Lăng một lúc
rồi mới nghẹn ngào:
- May sao xưởng đốc đại nhân... bình an vô sự!
Ngũ Hán Siêu bước đến trước mặt Dương Lăng, hổ thẹn nhìn y, rồi không nói
không rằng vén áo bào quỳ xuống tuyết.
Tuy Dương Lăng ngồi nơi ghế cao nhưng lại không hề có thói kênh kiệu vênh
vang, lấy thân chủ nhân đãi phận tôi tớ; đó cũng là chỗ khác biệt giữa y và những
mệnh quan khác.
Tuy thuật tiết chế kẻ dưới từ xưa quý nhất là ở chân thành, chứ không phải thủ
đoạn, coi chúa như thầy, coi vua như bạn, coi việc mất nước cấp bách như việc
quân. Thế nhưng thời xưa quan niệm tôn ti trên dưới quá nghiêm, dẫu rằng quan
viên có đối đãi rộng lượng với kẻ dưới cũng rất khó lòng tôn trọng thuộc hạ, mà chủ
yếu là chỉ ban thưởng tiền tài và danh lợi. Cho nên Trình Bất Thức trị quân nghiêm
ngặt, một vạn sĩ tốt dưới trướng ai nấy đều nghe lệnh, còn Lý Quảng cai quản thuộc
hạ khoan dung, ấy vậy mà năm nghìn thủ hạ lại có thể chọi năm vạn người, mỗi khi
gặp chiến trận ai nấy đều dốc sức liều mạng.
(Xin xem Lý tướng quân liệt truyện – Sử ký Tư Mã Thiên, )
Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi mà Dương Lăng có thể xem các nội
tướng Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận, Vu Vĩnh cùng ba vị nguyên Đô ty Thần Cơ doanhvà hai người Liễu, Dương là tâm phúc. Bọn họ cũng theo y không rời không bỏ, dĩ
nhiên cũng có nhân tố là họ theo y để được tiền đồ như gấm, song quan niệm "sẵn
sàng chết vì tri kỷ" của những nhân sĩ này cũng chiếm một phần rất lớn tâm tư của
bọn họ.
Về phần Ngũ Hán Siêu, hắn xuất thân võ lâm chỉ mới vừa gia nhập Nội xưởng;
uổng cho một thân võ công thế mà lại chưa hề có ý thức làm bảo tiêu. Nay thấy hắn
xấu hổ tự thẹn, bộ dạng lôi thôi lếch thếch, Dương Lăng cũng không nỡ trách thêm.
Y bước tới đỡ Ngũ Hán Siêu dậy, mỉm cười nói:
- Minh thương dễ tránh, ám tiễn khó phòng, đừng tự trách mình nữa. Có điều
sau này phải nhớ kỹ bốn chữ 'làm tròn bổn phận', không phải chức trách của mình
thì không can dự vào. Ngươi là thị vệ cận thân của bản quan, hộ vệ bản quan không
bị làm hại chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, việc bắt giặc cứ giao cho nha
môn xử án là xong. Nếu như lần sau lại xảy ra việc như vầy, cho dù bản quan không
phạt gậy ngươi thì phu nhân của ta cũng sẽ không bỏ qua cho ngươi đâu.
Lời của Dương Lăng khoan dung độ lượng, có mềm có cứng, khiến Ngũ Hán
Siêu cảm kích không thôi. Miệng hắn mấp máy, muốn nói rồi lại thôi, cuối cùng
đành chôn chặt sự hối hận và cảm kích trong lòng, không thốt tiếng nào.
Dương Lăng quay đầu hỏi Liễu Bưu:
- Chuyện của ta... phu nhân đã biết chưa?
Hiện tại Liễu Bưu đã kiềm được sự kích động khi vừa gặp mặt, rạng rỡ đáp:
- Đại nhân yên tâm! Ngô đại nhân và Hoàng đại nhân không dám để trong phủ
hay tin. Thuộc hạ đã đưa tin cho phu nhân rằng do chiến sự tiền phương và sắp đến
Tết nên ở cung đình sự vụ bộn bề, vì vậy mấy ngày nay đại nhân không thể hồi phủ.
Liễu Bưu vừa cởi áo choàng của mình khoác cho Dương Lăng vừa nói tiếp:
- Đại nhân! Tin tức đã được phi mã hồi báo về thành rồi, đại nhân hãy mau hồi
kinh đi, tránh để Hoàng thượng nhung nhớ. Mấy tên cường đạo đó...?Dương Lăng bảo:
- Trời tuyết lớn khó lần ra tung tích, bọn chúng chạy về hướng nào khó mà đoán
được. Quay về bảo quan phủ các nơi dán tranh, vẽ hình truy nã nghiêm ngặt là
được. Còn nữa, bảo người của chúng ta chú ý đến những nhân vật khả nghi vừa
xuất hiện trong thành.
Đạo tặc Dương Hổ đến kinh thành, lại do Di Lặc giáo âm thầm dụ dỗ, cuối
cùng hai bên lại xảy ra chém giết, rõ ràng không chỉ đơn giản là tạm thời nảy ra ý
muốn giết mình như vậy. Tuy Hồng Nương Tử không nói rõ ràng, song Dương
Lăng cũng ngờ rằng trong đó ắt có âm mưu, chỉ là chuyện này y không tiện đề cập
với Liễu Bưu trước đám đông người.
Y chỉ kể lại qua loa chuyện mình được thả, rồi được mọi người dìu đỡ lên ngựa
vội vã hồi thành. Lưu Cẩn vừa nhận được tin, một mặt sai người báo tin mừng cho
Hoàng thượng, mặt khác đích thân dẫn người ra ngoài nghênh đón.
Lúc Dương Lăng vào cung, tảo triều hãy còn chưa kết thúc. Thái giám đứng
hầu ghé tai nói nhỏ với Chính Đức mấy câu, hắn vừa nghe liền mừng ra mặt, vội vã
giải quyết cho hết công vụ, cho dừng tảo triều rồi liền lập tức chạy về phía điện Bảo
Hòa.
Chính Đức vừa bước vào đại điện, Dương Lăng đang ngồi dựa bên cạnh lò than
lửa long phượng sưởi ấm trông thấy lập tức bước tới làm lễ ra mắt. Chính Đức nâng
tay đỡ y, quan sát một lượt rồi mừng rỡ cười nói:
- Tốt, tốt! Trở về là tốt rồi, mấy ngày nay khiến trẫm thực lo quá đi.
Hắn kéo Dương Lăng vào trong nội điện, ngồi trên giường lò, rồi cười nói với
đám người Dương Lăng, Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng:
- Ngồi đi, ngồi xuống cả đi! Dương khanh, đám đại đạo Bá Châu đó không làm
khó gì khanh chứ?
Tiểu hoàng môn dọn vào sáu bảy cái bệ gấm, đám người Dương Lăng tạ tội rồingồi xuống. Thấy trong phòng chỉ có mấy người trong đám bát hổ, Dương Lăng
bèn đáp:
- Dạ! Nữ tặc đó bắt cóc thần chỉ vì muốn trao đổi với đạo tặc Dương Hổ của ả,
cho nên không hề ngược đãi thần. Về sau biết được Dương Hổ đã bỏ trốn, ả mới
mang tính mạng của thần uy hiếp, phá ải xông ra ngoài tẩu thoát.
Chính Đức nhướng mày, nôn nao bứt rứt:
- Từ xưa những kẻ cậy võ vi phạm cấm lệnh, dám bắt cóc trọng thần triều đình
quả thực rất hiếm. Gan dạ và bản lĩnh của nữ tặc này thực bất phàm, có thể bắt cóc
khanh ngay giữa phố chợ sầm uất, phải chăng là phi tặc biết khinh công bay lượn
trong truyền thuyết? Thực khiến cho trẫm rất háo hức, tò mò đây.
Dương Lăng đáp:
- Lên cao xuống thấp như đi trên đất bằng, búng người không cao hơn một
trượng, kiếm không (dài) tới ba thước chỉ có thể cậy võ phạm cấm, khiến cho máu
đổ năm bước mà thôi. Điều Hoàng thượng tu chính là Thiên Tử kiếm, một cái vung
tay, binh ở ngoài vạn dặm liền kéo đi như thủy triều, vừa ra chiếu lệnh, liền thao
túng tính mạng sinh tử cùng hỷ nộ ái ố của tất cả mọi người. Võ công cao có gì mà
đáng hâm mộ?
Chính Đức cười to, mặt mày nở nang:
- Ái khanh nói chí phải! Thị vệ đại nội của trẫm cũng có bản lĩnh như vậy, cái
gì là tám bước đuổi ve, lướt bèo qua nước gì chứ!? Có lần trẫm cao hứng từng bảo
bọn chúng tay không trèo lên điện Thái Cực, song lại không một ai trèo nổi.
Dương Lăng tiếp lời:
- Lời đồn của dân gian bao giờ cũng thổi phồng bản lĩnh của bọn họ. Có điều
đám mã tặc này cậy vũ lực đối chọi phép vua vẫn không đáng sợ, song hiện tại lại
có một lực lượng mà Hoàng thượng vạn lần chớ nên xem nhẹ.
Chính Đức hiếu kỳ hỏi:- Lực lượng nào?
Dương Lăng thưa:
- Di Lặc giáo! Bọn chúng dùng lời tà thuyết mê hoặc dân chúng, khắp tam giáo
cửu lưu đều có tín đồ mù quáng nghe theo. Theo lời của đám mã tặc Bá Châu mà
thần nghe trộm được, lần này mấy trăm đại đạo âm thầm vào kinh chính là do sự sai
bảo của giáo chủ Di Lặc, mưu đồ hiển nhiên không chỉ là tính mạng của thần. Cái
nguy hại của tà giáo hơn xa mối nguy của đám vũ phu tụ tập nơi núi rừng, Hoàng
thượng không thể không cẩn thận!
Từ xưa, điều đế vương e ngại nhất chính là những tổ chức tà giáo mê hoặc lòng
dân; lực lượng của bọn họ như rễ cây bám sâu vào lòng đất, ẩn náu trong dân gian.
Khi bọn họ không phát động đấu tranh hoặc nổi loạn thực khó mà phân biệt lương
dân với tín đồ; đợi đến khi bọn họ vừa khởi sự lập tức đã có ngay mấy mươi vạn tín
đồ, sẽ rất nguy hại cho triều đình. Triều Minh vốn lợi dụng giáo phái để khởi sự,
thành sự rồi mới thoát ly khỏi bọn họ, cho nên hiểu rõ nhất về sự đáng sợ của lực
lượng tôn giáo.
Chính Đức nghe xong nụ cười liền tắt vụt, lo lắng:
- Di Lặc giáo? Lúc bọn chúng truyền đạo ở Thiểm Tây, lôi giành sự ủng hộ xa
gần, ngu dân giào nghèo theo họ có kẻ dâng biếu cả nghìn vàng, cho dù phá gia
cũng cam tâm tình nguyện, hoặc hy sinh con cái, hoặc buông bỏ đồ dùng, nối đuôi
mà theo. Một khi giáo chủ hạ lệnh, liền có thể thu được vạn lượng hoàng kim trong
một tối, hương dân gần xa không ai mà không theo bóng nó, quả thực là cái họa lớn
của triều đình.
Có điều sau khi cái tên Lý Việt bị chém đầu, bọn chúng liền tan đàn xẻ nghé,
triều đình đã không còn nghe đến tung tích của Di Lặc giáo nữa, chẳng lẽ bọn
chúng vẫn đang hoạt động?
Dương Lăng gật đầu đáp:
- Dạ, Di Lặc và Bạch Liên vốn một nhà. Từ cuối đời Đường, Tống, Nguyên đếnnay, người Hán làm chủ thì sẽ phản Hán, người Nguyên làm chủ lại sẽ phản
Nguyên, mưu đồ của nó chính là xã tắc vậy. Mỗi khi gặp phải đả kích, nó liền sẽ
biến lớn thành nhỏ, biến nhỏ thành không, rút vào trong bóng tối, âm thầm tích góp
lực lượng chậm rãi chờ ngày quật khởi. Theo thần nghĩ, do lực lượng của bọn
chúng hiện chưa đủ để đối kháng với triều đình nên mới mượn tay kẻ khác, nhằm
loạn chính nhiễu dân.
Chính Đức đứng bật dậy, đám người Dương Lăng và Lưu Cẩn liền vội đứng lên
theo. Chính Đức chậm rãi thả bước trong điện một hồi, chợt trỏ Cốc Đại Dụng bảo:
- Đại Dụng! Việc này giao cho ngươi đi làm, tập hợp lực lượng Đông xưởng,
Tây xưởng và Cẩm Y Vệ, bí mật truy lùng Di Lặc giáo, nhất thiết phải diệt trừ gốc
rễ bọn chúng.
Cốc Đại Dụng liền vội vâng dạ đáp lời. Chính Đức thoáng trầm ngâm, lại vung
tay hạ lệnh:
- Các ngươi lui xuống đi, Dương khanh hãy ở lại.
Đợi mọi người lui ra khỏi điện rồi, Chính Đức vội nói với Dương Lăng:
- Dương khanh, mạch máu của Bạch Liên giáo kéo dài đã mấy trăm năm, đời
sau nối tiếp đời trước, trước nay đều không thể tiêu diệt được nó.
Khi tiên hoàng còn sống, thường hay nói rằng bá tánh thờ ngưỡng nó, hoặc vì
phú quý, hoặc do trường sinh, trong đó không thiếu người lương thiện, chưa hẳn
đều là những kẻ có mưu đồ tạo phản. Nếu như trừng phạt quá rộng, sẽ gây tổn hại
đến gốc rễ của Đại Minh, còn nếu chỉ tiêu diệt kẻ cầm đầu, lại sẽ như ngắm hoa
trong sương. Đại Minh từ thời dựng nước đã diệt trừ tà giáo, không biết còn phải
diệt trừ đến năm nào tháng nào.
Việc này không gấp, giao cho hai xưởng một vệ xử lý là được. Nội xưởng của
khanh vẫn còn phải để ý đến chiến sự ngoài Đại Đồng và chuẩn bị cho trẫm đi lên
phương bắc.Dương Lăng do dự:
- Hoàng thượng! Thần bị đạo tặc bắt cóc đã khiến cho lòng người bất an, nếu
như lúc này Hoàng thượng xuất kinh, e rằng bá quan sẽ càng kinh hãi. Chi bằng bí
mật thông tri cho Đoá Nhan Tam Vệ trước, đợi khi việc thanh trừng giặc cướp và đả
kích tà giáo của thần có chút thành quả rồi Hoàng thượng mới khởi hành. Hoàng
thượng thấy thế nào?
Chính Đức có mỗi việc xuất kinh này là chuyện vui, thật sự còn sướng hơn cả
đón Tết nên nào thèm nghe. Hắn không chịu:
- Kết minh với Đoá Nhan Tam Vệ sớm một ngày thì biên ải sẽ bớt được một
ngày tổn hại. Đây là đại sự nước nhà, trẫm đường đường là vua một nước, há có thể
sợ một đám giặc cướp? Lòng dân bất ổn thì mặt mũi triều đình càng bị tổn hại, cho
nên trẫm càng phải xuất kinh!
Rồi hắn hớn hở nói tiếp:
- Đợi trẫm từ biên ải nở mày nở mặt trở về kinh sư, lòng dân sẽ yên ổn ngay.
Nếu như ngay cả lãnh thổ của chính mình mà trẫm còn không dám bước chân đến
thì mới thực sự là mất hết mặt mũi đó. Bọn chúng có thể bắt cóc ái khanh giữa dăm
ba thị vệ là có thể khiến trẫm bị thương giữa trăm nghìn giáp sĩ ư? Nếu như có bản
lĩnh đó, bọn chúng cũng có thể xông vào cung bắt cóc trẫm vậy. Thế thì trẫm cũng
nên chắp tay dâng cái giang sơn này cho rồi, trốn trong Tử Cấm Thành còn an toàn
sao?
Dương Lăng cười khổ sở đáp:
- Muốn Hoàng thượng xuất kinh, tự dấn thân nơi biên ải, thị sát dân tình, kết
giao với nước chư hầu, làm một thánh quân lưu danh thiên cổ, vốn là tâm nguyện
của thần. Nhưng mà Hoàng thượng lại can hệ đến cả thiên hạ, thần thực sự chưa
nguôi hết nỗi lo.
Chính Đức cười hí hửng:- Chưa nguôi hết nỗi lo thì sẽ từ từ mà nguôi, kinh thành này trẫm vẫn sẽ phải
rời khỏi. Trẫm dẫn theo ba trăm thị vệ đại nội, cộng thêm mấy nghìn quân thiết giáp
của khanh, thực muốn xem thử còn ai có thể đả thương được trẫm.
Nói đoạn hắn sực nhớ ra một chuyện, bèn hớn hở kể:
- Đúng rồi! Dương khanh quả nhiên có nhãn quan độc đáo. Mấy ngày trước có
đám ngôn quan dâng sớ chỉ trích Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân uổng
công ôm mười vạn quân nhưng lại đóng thành không ra, mặc cho giặc Thát hung
hăng càn quấy ngoài thành. Ái khanh lại nói bọn họ làm vậy ắt có mưu đồ, cho nên
trẫm nghe xong mới không hạ chỉ giục bọn họ xuất binh, chỉ chuyển tấu chương hặc
tội đến cho Dương Nhất Thanh, bảo gã dâng sớ biện bác.
Hôm qua tấu chương của Dương Nhất Thanh đã được đưa vào trong kinh, bọn
họ quả nhiên có mưu kế khác. Ha ha, hai người này khẩu vị không nhỏ đâu à! -
Chính Đức vừa nói vừa lục lọi trên chiếc bàn chân thấp trên giường một hồi, không
tìm thấy bản tấu chương bèn kể tiếp - Xưa nay giặc Thát xuất binh, luôn lấy chiến
tranh nuôi chiến tranh, không mang theo cấp dưỡng, và thực sự là bọn chúng cũng
không có cấp dưỡng để mang theo. Cho nên khi đánh luôn phải nhanh như mưa sa
gió táp, phải một kích tất trúng. Mục đích không đạt được liền chuyển sang công
kích nơi khác, không thể dừng lại ở một nơi quá lâu.
Lúc đầu bọn chúng công thành chiếm đất, cướp được một số lượng lớn tiền bạc
và lương thực. Dương Nhất Thanh lại không cho bọn chúng có cơ hội rút lui, cứ
kẹp chặt lấy bọn chúng, níu chân bọn chúng ở vùng lân cận Đại Đồng. Hơn bảy vạn
đại quân giặc Thát, phải nuôi cả ngựa lẫn người, nay những thức bọn chúng cướp
được đều đã hết sạch.
Năm nay bọn chúng xuất binh cướp bóc, chẳng những không thể lấy được gì về
cấp dưỡng cho bộ tộc mình mà lúc xuất binh còn dùng hết lương thực dự trữ, sau
khi trở về e rằng sẽ phải giết bò ngựa mới có thể qua khỏi mùa đông, ắt sẽ đại
thương nguyên khí. Tên Dương Nhất Thanh này đánh giặc không chỉ lo nghĩ trước
mắt, mà tầm mắt lại còn trông xa đến vậy, quả nhiên là một tướng tài.
Hai ngày trước Vương Thủ Nhân đóng quân giữ ải, sau một ngày khổ chiến đãquăng mũ cởi giáp, vờ đại bại mà chuồn, bỏ lại lương thảo cho giặc Thát. Những
tên lính đói đó vội vã chôn nồi nấu cơm. Ăn xong bữa đó, lính trúng độc mà chết đã
có hơn năm nghìn, ngay cả chiến mã ăn phải cỏ độc cũng chết quá nửa, đó đều là
tinh nhuệ của Bá Nhan đó à. Ha ha, không phí một binh một tốt mà có thể khuất
nhục được địch quân, đánh trận như vậy trẫm mới thích!
Chậc! Có điều không biết Bá Nhan Mãnh Khả nghe báo xong có thổ huyết
không nữa, chốc nữa hãy kêu người của khanh thám thính thử xem sao.
Chính Đức mỉm cười vỗ vai Dương Lăng, hết sức hài lòng.
Dương Lăng nghe xong cũng vui sướng vô cùng, bèn tâu:
- Công lớn như vậy, Hoàng thượng nên thưởng lớn mới được. Trên chiến
trường, làm tướng dụng binh thực không dễ, có Hoàng thượng ban thưởng, nhuệ khí
sẽ được nâng cao, một lính có thể chọi hai quân đấy.
- A! Chính Đức vỗ vỗ trán, - Vốn trẫm cũng định ban thưởng, nhưng Lưu Cẩn
nói mới chỉ là tin thắng trận mở màn, nếu như thưởng to, e rằng binh tướng sẽ sinh
ra kiêu ngạo, cho nên trẫm đã gác lại. Việc này... hiện tại ban thưởng có sao không?
Dương Lăng nghe hắn nói vậy thì ngẩn người. Y đã lường trước Lưu Cẩn nhất
định cực kỳ bất mãn với hai người Dương Nhất Thanh, tuy kết quả dụng binh của
hai người này có liên quan trực tiếp đến niềm vui nỗi buồn của lão cho nên lão phải
dốc sức làm tốt công việc hậu cần, song lão sẽ không mong thấy hai người bọn họ
được khen thưởng.
Dương Lăng không trả lời ngay, mà lại cười, nhớm hỏi:
- Có công thì thưởng, có tội thì phạt, lúc nào ban ơn, khi nào nghiêm luật,
Hoàng thượng nhất định đã có dự tính sẵn trong lòng. Nếu như Hoàng thượng là
tướng lĩnh dẫn binh, sẽ hy vọng thế nào?
Chính Đức không hề nghĩ ngợi gì, hùng hồn đáp ngay:
- Trẫm ư? Trẫm đã lập được đại công thì đương nhiên muốn được thưởng,muốn thăng quan, muốn tiến chức, muốn cưỡi ngựa diễu hành, được nở mày nở mặt
mà, bằng không ai còn bán mạng cho khanh chứ? Trẫm hài lòng thì lính của trẫm
cũng không... ồ...
Hắn chợt ngậm miệng, liếc xéo Dương Lăng, cười tủm tỉm, đấm ngực y một
cách thân thiết, rồi cười lớn bảo:
- Nói chuyện vòng vo! Dương thị độc cũng gạt cả trẫm vào tròng rồi.
Chính Đức suy nghĩ một hồi rồi nói:
- Vậy tức là thưởng. Tết rồi, tướng sĩ ở tiền phương phục tùng mệnh lệnh,
không vì chuyện này thì vẫn phải thưởng. Chốc nữa trẫm sẽ bảo Lý Đông Dương và
Tiêu Phương thu xếp là được. Đúng rồi, tấu chương liên danh của Dương Nhất
Thanh và Vương Thủ Nhân còn đề cập đến việc khi giặc Thát đại thương nguyên
khí, bọn chúng lấy du mục làm chủ, không quen trồng trọt, mùa đông năm nay dê
bò tiêu hao quá nhiều, e rằng sang xuân cũng sẽ thay đổi thói quen trước kia, sẽ
không ngừng tập kích biên giới. Bọn họ kiến nghị với trẫm là vẫn cho phép đóng
trọng binh ở biên tái. Nếu như Thát Đát tập kích biên giới mà không được gì, chắc
hẳn bọn chúng sẽ quay sang Đoá Nhan Tam Vệ gây áp lực đòi lấy tài vật, cho nên
đề nghị trẫm ban ơn lôi kéo Đoá Nhan Tam Vệ, không ngờ lại khéo hợp với đề nghị
của khanh.
Dương Lăng đăm chiêu đáp:
- Ừm! Bọn họ ở tiền phương, đương nhiên sẽ thấy được rõ, nghĩ được xa, năm
sau Thát Đát tập kích biên giới, chính hợp với ý thần. Đúng lúc Hoàng thượng đổi
chỗ Kinh doanh và biên quân để bọn họ luân phiên ra chiến trường rèn luyện một
phen, nhân dịp này mượn tay Thát Đát huấn luyện quân Đại Minh của chúng ta.
Về phần Đoá Nhan Tam Vệ, chuyện này vốn đã được dự tính trước, đây cũng là
một cơ hội tốt để bức bọn chúng quy thuận triều đình. Có điều bọn chúng chỉ biết
theo đuổi cái lợi, không giữ vững lập trường, đục nước béo cò, trước đây khi còn
giao hảo vẫn thỉnh thoảng tập kích cướp bóc biên cảnh, chưa hề thực sự ngoan
ngoãn quy thuận. Kết minh chẳng qua chỉ là cái kế tạm thời, mảnh đất rộng lớnLiêu Đông sớm muộn gì sẽ phải nằm trong tay triều đình mới được, cho nên không
thể vì vậy mà áp chế bọn chúng.
Muốn nhận trước hết phải cho. Bọn chúng có ngựa, chúng ta có lương thực,
dầu, muối, vải vóc, tơ lụa, lợi ích chẳng những không thua kém, mà còn có thể cho
bọn chúng nhiều hơn, tăng thêm tỉ suất trao đổi chiến mã và lương thực dầu mỡ,
khiến chúng càng lúc càng giàu, càng sẽ không để ý đến Thát Đát nữa. Thát Đát
cũng sẽ càng lúc càng đỏ mắt vì ghen tị, khi đó sẽ chính là cơ hội của triều đình.
Dường như Chính Đức bẩm sinh rất hứng thú với những thủ đoạn lừa bịp của
phường cường đạo, không hề có chút giác ngộ nào của bậc đế vương thiên triều,
nghe xong kế sách "hèn hạ thâm độc" của Dương Lăng thì hắn không khỏi gật đầu
lia lịa, luôn mồm khen phải.
Đã sát cuối năm, chuyện vì một đại đạo mà binh giáp khắp thành đã tổn hại đến
năng lực và uy tín trong việc khống chế thiên hạ của triều đình, nếu không phải việc
cực chẳng đã, thực sự triều đình chẳng cần phải căng thẳng như vậy. Hồng Nương
Tử đã thoát khỏi kinh sư, Lý Đông Dương liền xin Chính Đức thánh chỉ rút quan
binh Kinh doanh về, kinh sư dường như đã khôi phục lại cục diện yên tĩnh phồn
vinh trước đây.
Bộ Hình lập tức công khai phát công văn đến các phủ và các đạo, ra lệnh truy
bắt đại đạo Dương Hổ và Hồng Nương Tử.
Mùa đông mà dụng binh với sơn tặc là việc lợi bất cập hại, thế nhưng hành
động của vợ chồng Dương Hổ đã làm mất thể diện của triều đình. Dưới tình hình đó
Lưu Đại Hạ cũng không dám làm trái thánh chỉ, lão đành phải âm thầm căn dặn
tướng lĩnh dẫn binh vừa đấm vừa xoa, vây bắt thay vì tấn công, không được tùy tiện
xông vào núi một cách ồ ạt.
Trên thi thể được phát hiện phía sau đạo quán trong con hẻm đổ nát phía thành
bắc, quan viên khảo sát hiện trường của bộ Hình đã phát hiện tín vật của Di Lặc
giáo, chứng thực nhận định của Dương Lăng. Vốn hai xưởng một vệ tưởng rằng Di
Lặc giáo đã tan thành mây khói, lúc này mới biết bọn họ đã quật khởi, không khỏi
bèn tăng cường việc lùng bắt.Đã sắp đến Tết. Trước Tết ba ngày ấy là lúc triều đình được 'nghỉ phép'(3), vua
không phải xử lí chính sự, một ít quan viên vùng khác cũng xin nghỉ trở về quê ăn
Tết. Ngày này khắp chốn ăn mừng, ngay cả kinh sư cũng cho phép ăn xin kiếm cơm
trong thành; lệnh giới nghiêm ban đêm được dỡ bỏ, đám quan sai của Ngũ thành
binh mã ty cũng bớt hống hách, không tùy tiện vụt roi người đi đường phạm lỗi
nữa.
Trận tuyết lớn hai ngày trước đã làm đổ nhà một số hộ dân ở thành bắc và thành
tây. Bộ Hộ phái dịch phu tu sửa hoặc tài trợ ít tiền tài. Đây là thông lệ của triều
đình, quan phủ các nơi cũng đều như vậy, không ai dám làm trái.
Những người phụ nữ mà ngày thường không bước chân ra khỏi nhà nay cũng
có thể ra ngoài dạo chơi, đi chùa thắp hương, ra chợ mua ít son phấn, bột nước,
tranh Tết cầu may lẫn những thứ mà bọn họ ưa thích.
Trở về đến phủ, Dương Lăng vẫn không dám để lộ chuyện bị bắt cóc. Thấy
đám phụ nữ trong nhà hớn hở muốn ra ngoài dạo phố, y không nỡ cắt sự hào hứng
của bọn họ trong ngày Tết nên đành âm thầm phái người Nội xưởng đi theo làm tùy
tùng kiêm bảo vệ. Lần này y không dám lơ là, bốn mươi viên phiên tử vận thường
phục được chọn đi theo ba vị phu nhân cùng với Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận
đều là những kẻ biết công phu giang hồ, trong người đều nhét nỏ mạnh và hỏa súng
ngắn.
Quan viên ở lại trong kinh đều phải tham gia đại lễ tại triều đình, ngoài ra, là
người đứng đầu một nhà, bọn họ còn phải chủ trì thu xếp đón ngày Tết cho toàn gia
đình, nên ai nấy bận rộn không thôi. Dương Lăng càng bận bịu hơn, bận đến nỗi
thậm chí không có thời gian dạo phố cùng ba vị phu nhân. Cả ngày y bôn ba giữa ba
xưởng, một vệ và mười hai đoàn doanh, chỉnh đốn quân ngũ, kiểm tra gia thế để
tinh lọc, tuyển trạch tinh nhuệ, dùng Nội xưởng làm chủ lực nhằm tuyển chọn tinh
binh theo tùy tùng Hoàng đế đến phương bắc. Đương nhiên những việc này đều
được tiến hành một cách bí mật, rất ít người biết được mục đích thật sự của y.
Dương Lăng thân vận giáp mềm, khi ra vào thành cũng được bảo vệ canh gác,
chận đường nghiêm ngặt. Vốn xuất thân danh môn nên Ngũ Hán Siêu vẫn coithường việc sử dụng ám khí, song từ dạo ăn phải trái đắng, lúc này ngoài thanh lợi
kiếm tùy thân hắn còn kè kè thêm hai bọc phi tiêu Kim Tiền, theo Dương Lăng như
hình với bóng, một tấc không rời. Chung quanh y còn có mười hai viên phiên tử bảo
hộ công khai và ngần ấy người âm thầm bảo vệ, có thể nói là gió mưa không lọt.
Thị vệ cận thân của Hoàng đế đã có cao thủ đại nội, còn những tinh binh do
Dương Lăng tuyển chọn đều là những tráng sĩ trăm người chọn một, kiêu dũng hơn
người. Đội ngũ gồm năm nghìn người tinh nhuệ như thế này đủ khiến bất kỳ một
đội quân nào cũng phải ghen tị.
Năm trăm nữ kiếm sĩ hộ vệ tùy thân, hai nghìn nội giám quân túc trực luân
phiên, cộng thêm dũng sĩ và quan quân hộ giá, thị vệ đại nội, lại còn có một số sư
thái là đệ tử thân truyền của sư thái Thủy Vân của am Thủy Vân, đạo sĩ phái Long
Hổ Sơn do Bỉnh Nhất chân nhân Đào Trọng Văn tiến cử, một số đạo sĩ của Toàn
Chân Long Môn phái, đạo sĩ tu chân ở các miếu Võ Đang được hoàng gia sắc
kiến(4), võ tăng ở các chùa chiền Thiếu Lâm được hoàng gia sắc kiến, cao tăng Ngũ
Đài Sơn ở Sơn Tây; một đám người đang sẵn sàng đứng trước xa giá chờ nghe hiệu
lệnh, thật là quyền thế ngút trời.
Tuyển chọn quân dũng sĩ tinh nhuệ xong, vẫn cần bọn họ làm quen với nhau,
phối hợp ăn ý. Dương Lăng thu xếp cho năm nghìn tinh binh này ở trong Thần Cơ
doanh, mời Ngũ quân đô đốc phủ và đại nội luân phiên phái người huấn luyện cho
bọn họ phép đánh trận và phối hợp chiến đấu. Hôm nay y mới vừa từ trong Thầnh
Cơ doanh chạy về, còn phải trở lên Nội xưởng xem thử hành trình xuất kinh cụ thể
mà đám người Ngô Kiệt đã chuẩn bị cho Hoàng đế.
Ngựa chạy đến cổng thành, trong dòng người đông nghìn nghịt Dương Lăng
chợt nhìn thấy mấy bóng hình quen thuộc. Y chăm chú nhìn, thấy là các cô Hàn Ấu
Nương, Tô Tam và Tuyết Lý Mai đang kiễng chân sờ cái ụ đồng trên bề mặt cổng
thành, đứng sau lưng là hai người Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận. Nghiêng đầu
mỉm cười, hai má ửng hồng, các cô gái ấy xinh đẹp muôn phần, dân chúng đi qua
đều trao cho bọn họ những nụ cười đầy thiện cảm.
Quan binh chặn gác cổng thành vẫn còn rất đông, cộng thêm hiện đang là lúcBá Châu quét cướp, Đại Đồng chống giặc, thế nên thường có quan binh cưỡi ngựa
lui tới báo tin. Cách cổng thành không xa là hai đội múa lân múa rồng trống chiên
inh ỏi. Đám người Dương Lăng đi từ ngoài thành vào, vẫn chưa thu hút sự chú ý
của các cô, có điều Liễu Bưu đứng cạnh mấy vị phu nhân luôn để ý đến động tĩnh
chung quanh đã trông thấy y tới. Hắn vội ghé tai nói nhỏ với một người cải trang
làm bá tánh thường dân mấy câu, sau đó vòng qua bọn họ tiến về phía y.
Dương Lăng ngồi trên ngựa khom người xuống hỏi:
- Các vị phu nhân đang làm gì vậy?
Liễu Bưu không nhịn được cười đáp:
- Đại nhân! Thuộc hạ đi theo phu nhân vào miếu dâng hương rôi đi dạo phố
chợ, thuộc hạ có nhắc đến chuyện mười sáu tháng giêng nữ giới nên leo lên đầu
thành, lên tường thành xua tan bệnh tật, chị em bạn dâu qua cầu nhỏ để vượt tai
ương, rờ ụ đồng thì sẽ sinh con, còn là con trai nữa. Khụ khụ... mấy vị phu nhân
liền đến... liền đến rờ ụ đồng. Thuộc hạ có nói rằng mười sáu tháng giêng mới linh,
song Tuyết phu nhân lại nói... đã sẵn dịp ra ngoài, rờ thêm một lần cũng tốt vậy.
Dương Lăng nghe xong thì lắc đầu cười khổ. Y thấy mấy vị phu nhân đang cao
hứng như vậy mà lúc này mới là chính ngọ, nếu mình đi ngang qua, bọn họ trông
thấy nhất định sẽ theo mình trở về. Hiếm khi bọn họ có dịp ra ngoài như thế nên
Dương Lăng không muốn làm bọn họ mất hứng. Y đang do dự không biết có nên
tránh đi hay không, bỗng nhiên một hàng người ngựa dừng lại bên cạnh. Một người
đàn ông vạm vỡ tuổi trạc tứ tuần, vận áo bào ống rộng, ngồi thẳng trên lưng ngựa,
ghìm cương cười hỏi:
- Đằng trước có phải là Dương đại nhân không?
Dương Lăng ngẩng đầu, thấy người đó ria mép đen như mực, áo gấm đai ngọc,
thẳng lưng trên ngựa, khí khái hào hùng, hai bên có mấy gia tướng đi theo; cưỡi
ngựa bên cạnh là một vị tuổi trạc ngũ tuần, toàn thân vận nho phục cổ tròn, dáng
cười toe toét.Dương Lăng suy nghĩ một lúc mới nhớ ra người này là con trai của Vũ Định
hầu Quách Lương, tên là Quách Huân. Tuy vẫn chưa kế thừa tước vị, song vì thân
phụ tuổi đã cao, không tiện đi lại, mọi việc đối đáp xã giao đều giao cho ông ta ra
mặt, cho nên ông nghiễm nhiên mang thân phận huân khanh. Nhà họ Quách và
hoàng thất đã kết thân ba đời, hiện Quách Huân là Chánh đề đốc của Tam Thiên
doanh, hai ngày trước Dương Lăng đã từng gặp qua.
Dương Lăng rẽ ngựa sang, chắp tay chào:
- Hóa ra là Quách tướng quân, thất lễ thất lễ! Tướng quân đang muốn ra ngoài
thành ư?
Quách Huân cười đáp:
- Hôm nay ba mươi tháng chạp, là ngày phong ấn, nha môn không phải mở cửa
làm việc. Vị bạn tốt này của bản tướng lại phải vội vã rời
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro