Đieu Lenh Thu 11-Lenghiabk05
Điều Lệnh Thứ Mười Một
Chương 1
Gã vừa mở cửa thì tiếng chuông báo động vang lên.
Đó là thứ sai lầm chỉ có thể tin là của một tay không chuyên nghiệp, vì thế thật đáng ngạc nhiên bởi vì Connor Fitzgerald được các đồng nghiệp đánh giá là chuyên gia của các chuyên gia.
Fitzgerald nghĩ rằng phải mất nhiều phút sau cảnh sát địa phương mới có những phản ứng với một tay trộm đêm ở quận San Victorina.
Vẫn còn hai giờ nữa mới đến giờ bắt đầu trận đấu hàng năm với Brazil nhưng một nửa số TV ở Colombia đã được bật sẵn. Nếu như Fitzgerald đột nhập vào tiệm cầm đồ đó sau khi trận đấu bắt đầu thì có thể phải chờ đến khi trọng tài thổi còi chấm dứt cảnh sát mới bắt đầu động đậy. Ai chẳng biết rằng cơ quan hình sự địa phương dán mắt vào trận đấu trong suốt chín mươi phút tuần tra. Nhưng các kế hoạch của gã cho chín mươi phút đó sẽ khiến cho cảnh sát phải truy đuổi trong nhiều ngày. Và sẽ có thể là hàng tuần, hàng tháng trước khi ai đó tìm ra được những dấu ấn đặc biệt trong cuộc đột nhập vào buổi chiều chủ nhật hôm đó.
Chuông báo động vẫn tiếp tục kêu trong khi Fitzgerald đóng của sau và đi nhanh qua căn buồng kho nhỏ để đến gian phía trước cửa hàng. Gã bỏ qua những dãy đồng hồ để trên kệ, những viên đá quý đựng trong túi giấy và những vật màu vàng đủ kích cỡ và hình dạng bày sau một cái lưới rất đẹp. Tất cả đều được dán nhãn cẩn thận, ghi rõ tên và ngày tháng để cho sáu tháng sau các chủ nhân nghèo kiết của chúng quay lại xin chuộc. Có rất ít người trở lại.
Fitzgerald gạt tấm rèm chia đôi gain phòng để ngăn cách gian kho với cửa hiệu và dừng lại trước bàn tính tiền. Mắt gã dừng lại ở một cái vali da được đặt trên bục chính giữa quầy hàng. Trên lắp va li có in mấy chữ viết tắt bằng vàng "D.V.R". Gã vẫn đứng im phăng phắc, cho đến khi chắc chắn là không có ai nhòm vào.
Sáng hôm nay khi Fitzgerald bán tuyệt tác thủ công đó cho người chủ hiệu gã đã giải thích là gã không có ý định trở lại Bogotá, cho nên cần phải bán ngay. Fitzgerald không ngạc nhiên khi thấy cái va li đã được bày trên cửa sổ. Ở Colombia không hề có cái thứ hai như vậy.
Hắn định trèo qua cửa hàng thì có một thanh niên đi ngang qua cửa sổ. Fitzgerald cứng người nhưng tâm trí của người này hoàn toàn bị hút vào một trước radio nhỏ đang áp sát vào tai. Hắn nhìn vào Fitzgerald chẳng khác gì nhìn vào một hình mẫu trong cửa hiệu may đo. Sau khi hắn đi khuất Fitzgerald bèn trèo qua quầy và đi về phía cửa sổ. Gã nhìn ngược nhìn xuôi khắp phố để kiểm tra xem có ai đang nhìn không, nhưng chẳng có ai hết. Chỉ trong một giây gã đã lấy chiếc vali da xuống khỏi giá và bước nhanh về phía sau. Gã nhảy qua quầy và quay lại nhìn ra ngoài cửa sổ một lần nữa để tin chắc rằng không có con mắt tò mò nào chứng kiến vụ trộm đêm.
Fitzgerald quay phắt lại, kéo tấm rèm sang bên và đi về phía cửa đóng. Gã nhìn đồng hồ. Chuông báo động đã kêu được chín mươi giây. Gã bước ra con đường nhỏ giữa hai nhà và nghe ngóng. Nếu nghe thấy tiếng còi của xe cảnh sát gã sẽ rẽ trái và biến mất vào mê cung những con phố phía sau cửa hiệu cầm đồ. Nhưng ngoài tiếng chuông báo động, tất cả vẫn im ắng. Gã rẽ sang phải và đi một cách bình thường về phía Carrere Septima. Khi Connor Fitzgerald bước lên vỉa hè gã liếc sang trái rồi sang phải, len lỏi qua dòng xe cộ rồi đột nhiên không hề nhìn lại, gã bước sang vỉa hè cuối phố bên kia. Gã mất hút vào một tiệm ăn đông đúc, nơi có một nhóm người hâm mộ cuồng nhiệt đang ngồi quanh một chiếc TV màn ảnh rộng.
Không ai nhìn về phía gã. họ đang thích thú theo dõi hình ảnh chiếu đi chiếu lại của một trong ba quả do Colombia đá vào trong năm qua. Gã ngòi xuống một cái bàn trong góc phòng. Mặc dầu không nhìn thấy màn hình TV rõ lắm nhưng từ đây gã có thể quan sát phía bên kia đường rất rõ. Bên trên cánh cửa của cửa hiệu cầm đồ, một tấm biển đèn đung đưa trong làn gió nhẹ ban chiều, trên có dòng chữ J. Escobar. Monte de Piedad. Xây dựng năm 1946.
Lâu lắm mới thấy một chiếc xe cảnh sát phóng đến và đỗ trước cửa hiệu. Vừa nhìn thấy hai bóng mặc đồng phục cảnh sát, Fitzgerald rời khỏi bàn và hờ hững đi ra cửa sau để đi ra một con phố khác cũng yên tĩnh trong buổi chiều thứ bẩy hôm ấy. Gã vẫy chiếc taxi trống đầu tiên và nói bằng giọng Nam Phi rất nặng:
El Belvedere ở Plaza de Bolívar, por favor
Người lái xe gật mạnh đầu tựa như muốn nói rõ là anh ta không hề muốn nói chuyện dài dòng làm gì. Fitzgerald vừa ngồi xuống ghế sau anh ta đã bât radio.
Fitzgerald nhìn đồng hồ lần nữa. Một giờ mười bảy phút. Gã bị chậm hơn kế hoạch hai phút. Chắc hẳn bài diễn văn đã bắt đầu, nhưng bao giờ nó cũng sẽ kéo dài bốn mươi phút cho nên gã vẫn còn nhiều thời gian hơn cần thiết để tiến hành những điều thực ra khiến gã có mặt ở Botogá này. Gã hơi ngồi nhích sang bên phải một chút để người lái xe có thể nhìn rõ mặt gã qua gương chiếu hậu.
Một khi cảnh sát bắt đầu điều tra thì Fitzgerald cần để bất cứ ai nhìn thấy gã vào ngày hôm ấy có thể mô tả giống nhau: Đàn ông, người Caucasian, khoảng năm mươi tuổi, cao hơn một mét tám, nặng khoảng tám mươi lăm cân, nói giọng nưới ngoài nhưng không phải là người Mỹ. Gã hy vọng có ít nhất một người sẽ nhận ra là gã nói giọng mũi kiểu Nam Phi. Fitzgerald bao giờ cũng bắt chước giọng rất giống. Hồi học trường trung học gã thường hay bị rầy rà vì chuyện bắt chước các thầy giáo.
Radio của taxi tiếp tục phát ra các ý kiến của hết chuyên gia này đến chuyên gia khác về khả năng kết quả trận đấu hàng năm này. Tâm trí Fitzgerald đã tự động ngắt khỏi thứ ngôn ngữ mà gã không thích lắm này, mặc dầu gã đã kịp thêm vào vốn từ vựng ít ỏi của mình mấy từ falta, fuera và gol.
Mười bảy phút sau, chiếc Fiat nhỏ đỗ lại bên ngoài El Belvedere. fit đưa cho người lái xe tờ mười ngàn peso và chui ra khỏi xe trước khi ngưòi lái xe kịp cảm ơn vì món tiền thưởng hậu hĩnh. Không phải vì các lái xe ở Botogá vốn nổi tiếng về sự lạm dụng từ muchas gracias.
Fitzgerald chạy lên bậc thềm khách sạn, đi qua những người giữ cửa mặc chế phục và cánh cửa quay. Vào đến tiền sảnh gã đi thẳng về phía dãy buồng thang máy đối diện với bàn làm thủ tục. gã chỉ phải đợi vài phút, một trong bốn chiếc thang máy đã quay xuống tầng trệt. Cửa mở ra, gã bước vào và ấn ngay nút tầng tám rồi ấn nút đóng cửa, không để ai kịp bước vào thêm. Khi cửa mở ra ở tầng tám, Fitzgerald bước đi dọc hành lang trải thảm mỏng để đi về phòng 807. Gã ấn chiếc thẻ nhựa vào khe và chờ cho đèn xanh bật lên rồi mới xoay tay nắm. Cửa vừa mở ra gã đã treo ngay tấm biển Favor de no Molestar ( Không làm phiền ) ra ngoài, đóng cửa rồi chốt lại.
Gã nhìn đồng hồ một lần nữa: hai giờ kém hai bốn phút. Lúc này hắn tính toán rằng cảnh sát đã rời khỏi cửa hiệu cầm đồ với kết luận là chuông báo động sai. Bọn họ sẽ gọi điện cho ngài Escobar ở nhà riêng ở ngoại ô để thông báo rằng mọi việc có vẻ ổn cả và đề nghị rằng nếu có bị mất vật gì sáng thứ hai ông ta sẽ đến gặp và cho họ biết. Nhưng trước đó rất lâu thì Fitzgerald đã kịp trả chiếc vali da về chỗ cũ. Sáng thứ hai Escobar sẽ chỉ báo là mất nhiều gói kim cương chưa cắt - chính cảnh sát đã lấy đi trước khi ra về. Phải bao lâu nữa người ta mới phát hiện ra một vật nữa cũng bị mất? Một ngày? Một tuần? Hay một tháng? Fitzgerald đã quyết định để lại một dấu vết đặc biệt để đẩy nhanh tiến độ.
Fitzgerald cởi áo khoác treo lên lưng chiếc ghế gần nhất rồi cầm chiếc điều khiển từ xa để trên bàn đầu giường rồi gã bấm nút On và ngồi xuống chiếc ghế sofa đối diện với TV. Khuôn mặt của Ricardo Guzman choán hết màn ảnh TV.
Fitzgerald biết rằng tháng Tư tới Guzman sẽ tròn năm mươi tuổi, nhưng với chiều cao một mét tám ba, mái tóc còn đen nhánh và không hề béo phị, ông ta hoàn toàn có thể nói với đám đông ngưỡng mộ là chưa đến bốn mươi, và họ sẽ tin. Rốt cuộc, chẳng mấy người Columbia mong chờ các chính sách của họ nói thật về bất cứ điều gì, đặc biệt là về tuổi tác của họ.
Ricardo Guzman, người được ưa thích nhất trong cuộc bầu cử tổng thống sắp đến là chủ tịch của cartel Cali, cái công ty kiểm soát hơn tám mươi phần trăm việc buôn bán cocain ở New york và kiếm được hàng tỷ đô la mỗi năm. Thông tin này Fitzgerald không thu thập được từ bất cứ tờ báo lớn ở Columbia, bởi vì hầu hết báo chí ở trong nước đều do Guzman kiểm soát.
- Hành động đầu tiên của tôi sẽ làm sau khi trở thành tổng thống của các bạn là quốc hữu hoá mọi công ty mà Mỹ chiếm cổ phần đa số.
Đám đông vây quanh bậc thềm toà nhà Quốc hội ở Plaza de Bolívar ồ lên tán thành. Các cố vấn của Ricardo Guzman đã nói đi nói lại với ông ta là sẽ phí thời gian đi diễn thuyết trong ngày có trận đá bóng này. Nhưng ông ta bỏ qua lời khuyên đó, bởi vì ông tính rằng hàng triệu người ngồi trước màn hình TV chờ xem trận đấu sẽ mở thử các kênh để tìm kênh bóng đá và sẽ bắt gặp ông ta trên màn ảnh, dù chỉ là một giây. Cũng những người đó sẽ ngạc nhiên khi thấy chỉ một giờ sau ông đã bước ra sân vận động. Guzman chán ngấy bóng đá nhưng biết rõ rằng việc ông ta bước vào sân vận động ngay trước khi đội nhà đến giờ chiếm lĩnh sân bóng sẽ khiến sự chú ý của công chúng sao nhãng khỏi Antonio Herrera, viên Phó tổng thống Columbia và là đối thủ chính của ông ta trong cuộc bầu cử. Herrera sẽ ngồi ở trên hàng ghế dành cho VIP nhưng Guzman sẽ ở giữa đám đông ngồi sau khung thành. Ông ta muốn phô bày hình ảnh một con người của công chúng.
Fitzgerald ước tính bài diễn thuyết còn sáu phút nữa. Gã đã nghe Guzman nói hàng chục lần: Giữa hội trường đông đúc, trong quán rượu thưa thớt, trên góc phố, thậm chí ở một chỗ đỗ xe nơi vị ứng cử diễn thuyết với người nghe từ phía sau một chiếc xe buýt. Gã kéo chiếc vali ra khỏi giường và đặt lên bàn.
- … Antonio không phải là một ứng cử viên của đảng Tự do- Guzman rít lên- mà là ứng cử viên của Mỹ. Ông ta chỉ là một thứ bù nhìn lặp đi lặp lại từng lời do một kẻ ngồi trong phòng bầu dục mớm cho.
Đám đông lại hò reo hưởng ứng.
Còn năm phút nữa, Fitzgerald tính. Gã mở chiếc vali và nhìn khẩu Remington 700 mới chỉ rời khỏi tay gã mấy giờ trước đó.
- Làm sao bọn Mỹ dám tưởng rằng chúng ta sẽ làm bất cứ thứ gì khiến chúng cảm thấy tiện lợi? - Guzman gầm lên - Và đơn giản chỉ vì sức mạnh của đồng đô la toàn năng như chúa trời. Quẳng những đồng đô la toàn năng đó xuống địa ngục!
Đám đông reo hò to hơn khi vị ứng cử viên lấy ra một đồng đô la và xé vụn hình George Washinton thành từng mảnh nhỏ. Guzman tung những mảnh giấy màu xanh vào đám đông như rắc confetti và nói tiếp:
- Tôi có thể cam đoan với các bạn một điều…
- Chúa không phải là một người Mỹ… - Fitzgerald thì thầm.
- Chúa không phải là một người Mỹ- Guzman gào lên.
Fitzgerald nhẹ nhang lấy báng súng bằng sợi thuỷ tinh ra khỏi chiếc vali da.
- Hai tuần nữa, các công dân Columbia sẽ có cơ hội để làm cho thế giới biết được quan diểm của mình- Guzman gào lên.
Bốn phút nữa - Fitzgerald lẩm bẩm trong khi nhìn lên màn hình và bắt chước nụ cười của ứng cử viên. Gã lấy chiếc nòng Hart bằng thép không gỉ khỏi chỗ để của nó và lắp chặt vào báng súng. Vừa khít như đi găng tay vậy.
- Mỗi khi có một hội nghị thượng đỉnh nhóm họp trên thế giới, một lần nữa Colombia sẽ ngồi trên bàn hội nghị chứ không phải chỉ đến ngày hôm sau mới được đọc tin tức trên báo. Chỉ trong một năm tôi sẽ khiến cho nước Mỹ đối xử với chúng ta không phải như với một nước trong Thế giới thứ ba, mà như với một nước ngang hàng với họ.
Đám đông gào lên trong khi Fitzgerald nâng chiếc kính ngắm bắn tỉa Leupold 10 khỏi chỗ để của nó và lắp vào hai cái khe nhỏ trên nòng súng.
- Trong vòng một trăm ngày các bạn sẽ được thấy các thay đổi trên đất nước chúng ta, điều mà Herrera không dám tin sẽ nhìn thấy trong một trăm năm. Bởi vì khi tôi trở thành tổng thống của các bạn…
Fitzgerald chậm rãi dặt báng khẩu Remington lên vai. Cảm giác nó như một người bạn cũ. Nhưng bởi thế đấy: Từng bộ phận của khẩu súng đã được gia công tỉ mỉ bằng tay cho vừa với chính gã.
Gã nâng kính ngắm chĩa vào hình ảnh trên màn hình và nâng dần cho đến khi nó nhắm vào điểm ở trên trái tim vị ứng cử viên chỉ một insơ.
- … chế ngự lạm phát…
Còn ba phút nữa.
- … chế ngự nạn thất nghiệp…
Fitzgerald thở ra.
- …và do đó chế ngự đói nghèo.
Fitzgerald đếm ba… hai… một rồi nhẹ nhang kéo cò. Gã nghe thấy cả tiếng cách nổi lên trên tiếng ồn ào của đám đông.
Fitzgerald hạ cây súng xuống, đứng dậy và bỏ cái vali không xuống. Vẫn còn chín mươi giây nữa mới đến đoạn chỉ trích Tổng thống Lawrence.
Gã lấy một viên đạn từ chiếc túi da khâu dưới lắp vali ra. Gã bẻ gập báng súng và nhét viên đạn vào ổ rồi gập nòng lên bằng một động tác mạnh và dứt khoát.
- Đây sẽ là cơ hội cuối cùng để cho các công dân Columbia có thể sửa chữa những sai lầm trong quá khứ - Guzman kêu lên, giọng ông ta cao dần lên. Vì vậy chúng ta phải chắc chắn một điều là…
Một phút - Fitzgerald lẩm bẩm. Gã có thể nhắc lại từng lời của bài diễn thuyết của Guzman trong sáu mươi giây cuối cùng. Gã thôi không nhìn màn hình TV nữa mà quay đi chậm rãi bước về phía cửa sổ.
- … Rằng chúng ta sẽ không để uổng phí có hội bằng vàng này…
Fitzgerald kéo tấm rèm để ngăn cách gian phòng với thế giới bên ngoài sang bên và nhìn qua toà nhà Plaza de Bolívir sang quảng trường phía bên kia, nơi vị ứng cử viên Tổng thông đang đứng trên bậc thềm trên cùng của toà nhà Quốc hội và nhìn xuống đám đông.
Fitzgerald kiên nhẫn chờ đợi. không bao giờ được để lộ mình lâu hơn mức cần thiết.
- Viva la Columbia! - Guzman hét lên.
- Viva la Columbia! - Đám đông gào lên đáp lại một cách cuồng nhiệt, mặc dầu nhiều người trong số họ chỉ là những kẻ được trả tiền để kích động đám đông.
- Tôi yêu Columbia - vị ứng cử viên tuyên bố.
Chỉ còn ba mươi giây nữa là bài nói sẽ kết thúc. Fitzgerald gạt bức rèm chi khuôn cửa sổ kiểu Pháp sang bên và đón nhận toàn bộ âm lượng của đám đông cuồng nhiệt nhắc lại từng lời của Guzman.
Vị ứng cử viên hạ giọng như thì thầm:
- Và cho tôi nói rõ một điều: tình yêu đối với đất nước là lí do duy nhất khiến tôi muốn trở thành tổng thống của các bạn.
Một lần nữa Fitzgerald nâng báng khẩu Remington lên vai. Mọi con mắt đổ dồn vào vị ứng cử viên khi ông hùng hồn hô vang Dios guarde a la Columbia ( Chúa sẽ phù hộ cho Columbia ). Tiếng ồn trở lên đinh tai nhức óc khi ông ta đưa cả hai tay lên trời để đáp lại tiếng gào thét hưởng ứng của quần chúng Dios guarde a la Columbia. Hai bàn tay Guzman vẫn tiếp tục giơ lên trên không vẻ đầy chiến thắng thêm mấy giây nữa, hệt như mọi lần diễn thuyến khác. Và bao giờ cũng thế, ông ta đứng tuyệt đối im lặng trong vài giây.
Fitzgerald rê thước ngắm cho đến khi nó nằm chác một insow trên tim vị ứng cử viên và thở ra, bàn tay trái nắm chặt báng súng. "Ba… hai… một", gã lẩm bẩm và kéo nhẹ cò.
Guzman vẫn còn đang mỉm cười lúc viên đạn hình thoi xé vào ngực ông ta. Một giây sau ông ta khuỵu xuống đất như một con rối bị đứt lò xo, những mảnh xương thịt và da bắn tung toé khắp bốn phía. Hình ảnh cuối cùng của vị ứng cử viên mà Fitzgerald nhìn thấy là ông ta giơ hai tay ra như ôm chặt lấy một kẻ thù vô hình.
Fitzgerald hạ súng, bẻ gập báng và nhanh chóng đóng cửa sổ. Nhiệm vụ của gã đã hoàn thành.
Chương 2
- Liệu tôi có nên gửi điện chia buồn cho vợ con ông ta không nhỉ?
Thu ký nhà nước đáp:
- Không nên thưa Tổng thống. Tôi nghĩ ngài nên để việc đó cho Trợ lý Bộ trưởng phụ trách các vấn đề châu Mỹ lo. Giờ đây có vẻ rõ ràng là Antonio Herrera sẽ là Tổng thống tiếp theo của Colombia, vì thế đó mới là người mà ngài sẽ giao thiệp.
- Ông sẽ thay tôi đến dự lễ tang chứ? Hay là nên cử Phó Tổng thống đi?
Thư ký Nhà nước đáp:
- Tôi nghĩ cả hai chúng tôi đều không nên di. Ðại sứ của chúng ta ở Bogotá thay mặt ngài là hoàn toàn thích hợp. Và bởi vì lễ tang sẽ cử hành vào cuối tuần này nên hiển nhiên là với việc thông báo trước ngắn nhu vậy thì chúng ta khó có thể bố trí được.
Tổng thống gật đầu. Ông đã quen với cách tiếp cận các vấn đề thực tế của Larry Harrington trong mọi thứ, kể cả cái chết. ông chỉ không hiểu Larry sẽ bố trí mọi việc ra sao nếu đây là chính bản thân ông bị ám sát.
- Ngài Tổng thống, nếu ngài có chút thì gìơ thì có lẽ tôi nên báo cáo tóm tắt cho ngài một chút chi tiết hơn về các chính sách hiện nay của chúng ta ở Columbia. Giới báo chí có thể sẽ đặt câu hỏi về khả năng chúng ta tham dự trong...
Tổng thống định cắt lời Thu ký Nhà nước thì vừa lúc đó có tiếng gõ cửa, Andy Lloyd bước vào.
Chắc hẳn bây giờ là mườii một giờ, Lawrence nghĩ. Kể từ khi chỉ định Andy Lloyd làm Tổng Tham mưu trưởng thì ông không cần đến đồng hồnữa.
Tổng thống nói:
- Larry, lát nữa nhé. Tôi đang chuẩn bị họp báo về vấn đề Chương trình cắt giảm các vũ khí Nguyên tử, Sinh học và Hoá học, và tôi không thể hình dung có bao nhiêu nhà báo sẽ quan tâm đến cái chết của một ứng cử viên tổng thống ở một nước mà chắc là rất ít người Mỹ có thể tìm ra nó trên bản đồ thế giới- cũng phải thừa nhận sự thật đó thôi.
Harrington không nói gì. Ông ta nghi mình không có phận sự phải nói rõ với Tống thống rằng đa số người Mỹ cũng không thể tìm nổi vị trí của Việt Nam trên bản đồ thế giới. Nhưng một khi Andy Lloyd đã bước vào phòng thì Harrington biết rõ là chỉ có lời tuyên bố nổ ra chiến tranh thế giới lần thứ ba mới được ưu tiên hơn mà thôi. Ông ta gật đầu nhanh với Lloyd và rời khỏi Phòng Bầu dục.
- Tại sao trước kia tôi lại bổ nhiệm ông ta kia chứ?- Lawrence hỏi, mắt vẫn nhìn dán vào cánh cửa đã đóng lại.
- Thua ngài Tổng thống, Larry có khả năng giải thoát cho Texas, vào thời điểm mà cuộc điều tra nội bộ cho thấy đa số người miền Nam cho rằng ngài là một tên ma cô miền Bắc có thể vui lòng chỉ định một gã đồng tính luyến ái vào chức vụ Chủ tịch Bộ Tổng tham mưu.
Lawrence nói:
- Tôi có thể làm như vậy, nếu như anh nói rằng đó là người thích hợp cho chức vụ đó.
Một trong những lý do khiến Lawrence mời người bạn học cũ giữ chức Tổng Tham mưu trưởng của Nhà Trắng là sau ba mươi năm giữa họ không có gì là bí mật nữa. Andy gọi thẳng tên sự vật mà không hề che đậy hoặc ác tâm. Phẩm chất đáng quý đó đảm bảo rằng ông ta sẽ không bao giờ hy vọng mình được bầu, do đó không bao giờ là một đối thủ.
Tổng thống lật mở tập tài liệu màu xanh dán nhãn "Ngay lập tức" mà Andy đưa cho ông hồi sáng. Ông đoán rằng Tổng Tham mưu trưởng đã phải thức gần suốt đêm để chuẩn bị nó. Ông bắt đầu lần lượt đọc những câu hỏi mà Andy cho là có nhiều khả năng sẽ bị đặt ra.
Ngài hi vọng sẽ tiệt kiệm được bao nhiêu tiền của người đóng thuế nhờ biện pháp này?
Lawrence ngươcs nhìn lên, nói:
- Tôi cho rằng Bacbara Evans sẽ hỏi câu đầu tiên, như thường lệ. Anh có nghĩ đó sẽ là câu gì không?
Lloyd dáp:
- Thưa ngài không. Nhưng vì bà ta là người đã ủng hộ Chương trình cắt giảm vũ khí từ hồi ngài đánh bại Gore ở vòng New Hampshire cho nên bà ta khó có thể là người phàn nàn khi ngài định tiến hành nó.
- Ðúng vậy. Nhưng như vậy sẽ không cần ngăn bà ta đừng hỏi những câu không có lợi nữa.
Andy gật đầu đồng tình trong khi Tổng thống nhìn sang câu hỏi thứ hai.
Có bao nhiêu người Mỹ sẽ mất việc làm vì việc thực hiện chương trình này?
Lawrence ngước lên:
- Anh có muốn tôi đặc biệt tránh người nào không?
Lloyd cười đáp:
- Cả bọn. Nhưng nếu có thể thì hãy trả lời Phil Ansanch.
- Tại sao lại là Ansanch?
- Ông này ủng hộ chương trình này ở tất cả các bang, và hôm nay ông ta sẽ là một trong những người khách ăn tối của ngài.
Tổng thống mỉm cười gật đầu và tiếp tục đưa ngón tay dò trên danh sách những câu hỏi có khả năng sẽ bị đặt ra. Ông dừng ở câu số bảy.
Phải chăng đây là một ví dụ nữa về việc nước Mỹ đã đi lạc đường.
Ông nhìn lên Tổng Tham mưu trưởng:
- Ðôi khi tôi cảm thấy chúng ta vẫn đang sống trong một Phương Tây hoang dã, với cái cách mà một số thành viên Quốc hội phản ứng với chương trình này như vậy.
- Tôi đồng ý vơi ngài như vậy. Nhưng ngài biết đấy, hơn bốn mươi phần trăm dân Mỹ vẫn tin rằng người Nga là mối đe doạ lớn nhất của chúng ta, và gần ba mươi phần trăm tin rằng chúng ta sẽ có chiến tranh vơi Nga trong thời của họ.
Lawrence chửi thề và lùa tay vào mái tóc dày màu muối tiêu trước khi đọc tiếp danh sách câu hỏi, đến câu mười chín ông ta lại dừng lại một lần nữa:
- Tôi sẽ bị hỏi bao nhiêu lâu nữa?
Andy đáp:
- Khi nào ngài còn là Tổng Tư lệnh, tôi đoán vậy.
Tổng thống lầm bầm câu gì đó trong miệng và chuyển sang câu khác. Ông lại nhìn lên:
- Chắc chắn không có cơ may Victor Zerimski trở thành tổng thống tiếp theo của Nga chứ?
Andy đáp:
- Cũng có thể là không. Nhưng ông ta đã leo lên vị trí thứ ba trong lần điều tra ý kiến dân chúng mới đây và mặc dầu vẫn còn kém xa Thủ tướng Chernopov và Ðại tướng Borodin, nhưng lập trường chống tội phạm của ông ta đã làm vị trí dẫn đầu của họ bị lung lay. Có thể bởi vì hầu hết người Nga tin rằng Chernopov dưaj vào sự ủng hộ tài chính của bọn Mafya Nga.
- Thế còn Ðại tướng thì sao?
- Ông ta đang mất chỗ đứng.
- Tạ ơn chúa là còn hai năm nữa mới đến kì bầu cử lại. Có vẻ như nếu Zerimski có tí khả năng nào trở thành tổng thống tiếp theo của Nga thì Chương trình cắt giảm vũ khí sẽ chẳng được cả hai Viện thông qua đâu.
Lloyd gật đầu tán thành trong khi Tổng thống lật tiếp sang trang khác. Ông dừng lại ở câu thứ hai mươi chín.
- Có bao nhiêu đại biểu Quốc hội có các cơ sở sản xuất vũ khí và các căn cứ quân sự trong quận của họ?- Ông nhìn Lloyd và hỏi.
Không cần nhìn đến tập hồ sơ chưa mở, Lloyd dáp:
- Bảy mươi hai thượng nghị sĩ và hai trăm mười một hạ nghị sĩ. Ngài sẽ phải thuyết phục hơn sáu mươi phần trăm trong số đó để đảm bảo đạt được đa số trong hai viện. Và đó là với giả thiết có thể tính cả phiếu của thượng nghị sĩ Bedell.
Tổng thống nói:
- Frank Bedell đã yêu cầu một chương trình cắt giảm vũ khí từ hồi tôi còn học trung học ở Wisconsin. Ông ta không còn cách nào khác là phải ủng hộ chúng ta.
- Có thể ông ta vẫn thích chương trình cắt giảm vũ khí, nhưng ông ta cảm thấy ngài đi chưa đủ xa. Ông ta vừa đề nghị ngài cắt chi phí dành cho quốc phòng tơi năm mươi phần trăm kia mà.
- Ông ta nghĩ chúng ta làm thế nào để cắt được chừng ấy kia chứ?
- Bằng cách rút khỏi NATO và để cho các nước Châu Âu tự lo lấy công việc phòng thủ của họ.
Lawrence nói:
- Nhưng như vậy là hoàn toàn không thực tế. Ngay cả những người Mỹ dân chủ cũng sẽ phản đối điều đó.
- Ngài biết điều đó. Tôi cũng biết điều đó, và tôi cho là các thượng nghị sĩ tốt khác cũng biết điều đó. Nhưng cái đó cũng không ngăn cản ông ta xuất hiện trên tất cả các đài truyền hình từ Boston cho đến Los Angeles để tuyên bố rằng việc cắt giảm năm mươi phần trăm chi phí quốc phòng có thể sau một đêm giải quyết được vấn đề? chăm sóc sức khoẻ cho người dân Mỹ và những vấn đề lương hưu.
Lawrence nói:
- Tôi chỉ mong Bedell dành thời gian lo lắng đến vấn đề bảo vệ nhân dân bằng với thời gian lo lắng cho việc chăm sóc sức khỏe mà thôi. Vậy tôi sẽ trả lời ra sao đây?
- Hãy tán dương ông ta thật nhiều về những cố gắng không mệt mỏi và những thành tích đáng kể trong việc bảo vệ quyền lợi của người cao tuổi. Nhưng sau đó tiếp tục chỉ ra rằng một khi ngài còn là Tổng tư lệnh thì Hoa kì sẽ không bao giờ hạ thấp quốc phòng. Ðiều ưu tiên thứ nhất của ngài sẽ luôn luôn đảm bảo rằng dân tộc Mỹ vẫn là dân tộc hùng mạnh nhất trên thế giới, vân vân và vân vân. Như vậy chúng ta sẽ vẫn giữ được lá phiếu của Bedell, và có lẽ giành thêm được cảm tình của một vài người nữa.
Tổng thống nhìn đồng hồ rồi lật sang trang thứ ba. Ông thở ra một hơi thật dài khi đọc đến câu hỏi thứ ba mốt.
Làm thế nào ngài hy vọng có thể thi hành được chương trình này, trong khi phe Dân chủ không chiếm đa số trong cả hai Viện?
- Ok, Andy. Câu này trả lời thế nào đây?
- Ngài hãy giải thích rằng những người Mỹ có quan tâm đang tỏ ra cho các đại diện đã được họ bầu ra rằng chương trình đã bị chậm trễ quá lâu rồi, và đó là cảm giác chung của mọi người.
- Lần trước tôi đã dùng ý đó rồi, Andy. Cho chương trình chống ma tuý, nhớ không?
- Vâng, tôi nhớ, thưa ngài Tổng thống. Và người Mỹ? đã luôn ủng hộ ngài.
Lawrence thở dài một lần nữa rồi nói:
- Ôi, lãnh đạo một đất nước không có bầu cử bốn năm một lần và không bị bọn báo chí săn đuổi hẳn phải là một việc dễ dàng hơn nhiều.
Lloyd đáp:
- Ngay cả người Nga bây giờ cũng phải đương đầu với hiện tượng báo chí rồi.
Lawrence vừa đọc câu hỏi cuối cùng vừa nói:
- Ai có thể tin được rằng chúng ta được chứng kiến điều đó. Tôi cảm thấy một cách trực giác là nếu như Chernopov hứa hẹn với cử tri Nga rằng ông ta sẽ là vị Tổng thống Nga đầu tiên dành chi phí cho chăm sóc sức khoẻ nhiều hơn chi phí quốc phòng thì ông ta đã phải về vườn rồi.
Lloyd nói:
- Có thể ngài nói đúng. Nhưng ngài cung có thể tin rằng nếu Zerimski được bầu thì ông ta sẽ bắt đầu xây dựng lại các căn cứ nguyên tử trước khi nghĩ đến việc xây các bệnh viện mới.
- Chắc chắn là nhu vậy- Tổng thống nói- Nhưng bởi vì sẽ chẳng có cơ may nào để cho ông ta trúng cử...
Andy Lloyd im lặng.
Chương 3
Fitzgerald biết rằng hai mươi phút tiếp theo sẽ quyết định số phận của gã.
Gã bước nhanh đến cuối phòng và nhìn vào màn hình TV. Đám đông đang chạy tán loạn khỏi quảng trường. Tiếng ồn ào giờ đây đã biến thành hoảng loạn. Hai trong số các cố vấn của Ricardo Guzman đang cúi xuống những gì còn lại của thân thể ông ta.
Fitzgerald tháo băng đạn đã dùng và đặt nó lại vào chỗ cũ trong chiếc vali da. Liệu người chủ cửa hiệu cầm đồ có để ý thấy một trong những viên đạn đã bị dùng mất?
Từ phía kia của quảng trường tiếng còi rú không thể lầm lẫn được của cảnh sát nổi lên trong tiếng ồn ào của đám đông đang gào thét. Lần này cảnh sát đáp ứng nhanh hơn nhiều.
Fitzgerald rút chiếc kính ngắm ra và đặt lại vào chỗ cũ. Gã tháo nòng súng, đặt vào chỗ của nó, rồi cuối cùng cất nốt báng súng.
Gã nhìn màn hình TV lần cuối cùng rồi nhìn cảnh sát ùa vào quảng trường. Gã chộp lấy chiếc vali da, lấy mấy que diêm trong chiếc gạt tàn trên đầu TV mở cửa.
Gã nhìn ngược nhìn xuôi khắp dãy hành lang vắng tay rồi bước nhanh về phía thang máy. Gã bấm cái nút trắng trên tường rất nhiều lần. Trước khi đến cái cửa hàng cầm đồ ấy gã đã mở sẵn chốt cửa dẫn ra lối thoat hiểm, nhưng gã biết rằng nếu không thực hiện được cái kế hoạch rất chặt chẽ của mình thì sẽ có một đội cành sát chờ sẵn dưới chân chiếc thang này. Sẽ chẳng có đâu những chiếc trực thăng kiểu Rambo, những lưỡi dao hoa lên và dành cho gã một lối thoát đầy hào quang trong khi đạn veo véo bên tai, chíu chíu xuyên vào mọi thứ trừ gã. Đây là một thế giới thật.
Khi cánh cửa nặng nề của thang máy chậm chạp tách ra, Fitzgerald nhìn thấy một hầu bàn trẻ mặc dồng phục đỏ tay bưng một khay ăn trưa nặng trĩu. Rõ ràng lf cậu ta đang phải làm việc quá sức và không được nghỉ buổi chiều để xem trận bóng đá.
Cậu bồi bàn không dấu nổi ngạc nhiên khi thấy một ông khách đứng ngoài cửa thang máy vận chuyển vật liệu. "No, senor, perdone, no puede entra," (không, thưa ngài, xin lỗi, không thể vào được) - cậu ta cố giải thích trong khi Fitzgerald bước vụt qua mặt cậu. Nhưng ông khách đã bấm nút có chữ Planta Baja (tầng dưới) và cánh cửa đã đóng lại trước khi cậu bồi bàn trẻ kịp nói là chiếc thang này sẽ dẫn xuống bếp.
Xuống đến tầng trệt Fitzgerald im lặng di chuyển qua những chiếc bàn làm bằng thép không gỉ chất đầy những chai champagne sẽ chỉ được bật khi đội nhà thắng trận. Gã đi đến cuối bếp, lách qua hai cánh cửa ra vào và mất hút ra ngoài không để cho một nhân viên khoác áo choàng trắng nào kịp phản đối. Gã chạy dọc dãy hành lang chỉ được chiếu sáng lờ mờ - đêm qua gã đã tháo gần hết các bóng đèn - và đi về phía cánh cửa nặng nề dẫn ra khu đỗ xe của khách sạn.
Gã lấy trong túi áo vét ra một chiếc chìa khoá lớn, đóng cán cửa sau lưng và khoá trái nó lại. Gã đi thẳng tới một chiếc Volkswagen nhỏ màu đen đậu trong góc tối nhất của khu đỗ xe. Gã lấy trong túi quần ra một chiếc chìa khoá thứ hai nhỏ hơn, mở cửa xe và chui vào ngồi sau tay lái, chiếc vali da đặt dưới đệm ghế bên cạnh, rồi mở khoá điện. Động cơ xe lập tức nổ giòn, mặc dù đã ba ngày nay nó không hề được động đến. Gã nhấn ga vài lần rồi đạp sang số một.
Fitzgerald không hề vội vã lái chiếc xe đi giữa các dãy xe đỗ san sát và lên dốc để ra phố. Lên đến đỉnh dốc gã dừng lại một lát. Cảnh sát đã ùa vào một chiếc xe đang đậu, nhưng thậm chí chẳng ai nhìn về phía gã. Gã rẽ trái và chậm rãi chạy ra khỏi khu vực Plaza de Bolívar.
Rồi gã nghe thấy tiếng còi hú sau lưng. Gã nhìn vào gương chiếu hậu và nhìn thấy hai chiếc xe hộ tống của cảnh sát đang chạy phía sau, đèn hiệu bật hết cỡ. Fitzgerald dạt vào một bên nhường đường cho hai chiếc xe cảnh sát hộ tống chiếc xe cấp cứu chở cái xác bất động của Guzman lướt qua.
Gã lại rẽ sang trái để vào một phố ngang và bắt đầu quãng đường dại, ngoắt ngoéo để đến cửa hiệu cầm đồ. Hai mươi tư phút sau gã lái xe vào một cái ngõ cụt và đỗ lại sau một chiếc xe tải. Gã lấy chiếc vali da đặt dưới đệm ghế bên cạnh và để chiếc xe lại đó, cửa vẫn mở. Theo kế hoạch, gã sẽ quay lại trong vòng chưa đầy hai phút.
Gã nhanh chóng kiểm tra từ đầu đến cuối cái ngõ cụt. Không hề có một bóng người.
Một lần nữa Fitzgerald bước vào toà nhà, chuông báo động lại reo vang. Nhưng lần này gã không lo xe cảnh sát sẽ đổ đến rất nhanh - hầu hết cảnh sát lúc này đang bận bịu tại sân vận động nơi trận đá bóng sẽ bắt đầu trong vòng nửa giờ nữa, hoặc đang bắt bất cứ kẻ nào lảng vảng trong vòng một dặm quanh Plaza de Bolívar.
Fitzgerald đóng cánh cửa của cửa hiệu cầm đồ lại sau lưng. Lần thứ hai trong ngày hôm nay gã lại di chuyển rất nhanh qua văn phòng nằm phí sau và gạt rèm sang bên để đứng sau quầy hàng. Gã nghe ngóng xem có ai đi ngang qua không rồi mới để chiếc vali da vào chỗ của nó trong tủ kính.
Sáng thứ hai tới, khi Escobar trở lại làm việc, liệu ông ta có phát hiện ra rằng viên đạn đuôi thoi thứ sáu đã bị bắn đi và chỉ còn lại vỏ đạn nằm trong bao hay không? Và thậm chí nếu có phát hiện ra điều đó thì ông ta có buồn chuyển thông tin đó cho cảnh sát không kia chứ?
Chưa đầy chín mươi giây sau Fitzgerald đã ngồi vào sau tay lái chiếc Volkswagen. Trong khi lái chiếc xe chạy ra phố chính gãvẫn nghe thấy tiếng chuông báo động kêu rền rĩ. Gã cho xe chạy theo biển chỉ đường để ra sân bay Aeropuerto El Dorada. Không hề có người nào chú ý đến gã. Dù sao đi nữa thì trận đấu cũng sắp sửa bắt đầu. Và trong bất cứ trường hợp nào giữa việc chuông báo động réo trong một cửa hiệu cầm đồ ở quận San Victoria với vụ ám sát ứng cử viên Tổng thống ở Plaza de Bolívar kia chứ?
Khi Fitzgerald ra đến đường cao tốc gã bèn chạy ở làn giữa và không hề có lần nào vượt quá tốc độ quy định. Rất nhiều xe cảnh sát lao vụt qua mặt gã và chạy về phía thành phố. Dẫu cho nếu có ai đó chặn gã lại để kiểm tra giấy tờ thì họ sẽ thấy là mọi thứ đều đâu vào đó cả. Trong chiếc vali đặt ở ghế sau họ sẽ chẳng tìm thấy gì ngoài những đồ vật của một thương gia đang đến Columbia để bán các thiết bị mỏ.
Tới đường rẽ vào sân bay Fitzgerald rẽ khỏi đường cao tốc. Sau khoảng một phần tư dặm bất thình lình gã rẽ phải và lái xe vào bãi đỗ của Khách sạn San Sebastian. Gã mở ngăn đựng găng tay và lấy ra một tấm hộ chiếu đã đóng dấu chi chít. Bằng hộp diêm lấy ở El Belvedere, gã châm lửa vào tấm hộ chiếu của Dirk van Rensberg. Chờ tới khi tay gần bị bỏng gã mới mở cửa xe, thả tấm hộ chiếu cháy dở xuống đất và dập lửa, cẩn thận sao cho người ta vẫn có thể nhận ra dấu chữ thập của Nam Phi.
Gã bỏ bao diêm trên ghế cạnh tay lái, cầm lấy chiếc vali để ở ghế sau và đóng sập cửa xe, chìa khoá điện vẫn cắm trong ổ. Gã bước về phía cửa trước của khách sạn và bỏ mẩu căn cước còn lại của Dirk van Rensberg cùng với chiếc chìa khoá to tướng vào thùng rác ở chân cầu thang.
Fitzgerald đi sau một nhóm thương gia Nhật bản để qua chiếc cửa quay, gã vẫn tiếp tục đi trong tốp người này để lên thang máy. Gã là người duy nhất đi ra ở tầng ba. Gã đi thẳng đến phòng 347, ở đây gã lấy ra một tấm thẻ nhựa khác để mở một căn phòng, đặt dưới một cái tên khác. Gã quẳng vali lên giường và nhìn đồng hồ. Còn một giờ mười bảy phút nữa mới đến giờ cất cánh.
gã cởi áo vét và vứt lên chiếc ghế tựa duy nhất trong phòng, sau đó mở vali và lấy ra một chiếc túi đựng đồ giặt rồi biến vào buồng tắm. Một lúc sau nước mới đủ ấm, hắn giật nút bồn tắm. Trong khi chờ đợi hắn cắt móng tay và cẩn thận giũa lại, hệt như một phẫu thuật viên chuẩn bị vào mổ.
Fitzgerald mất gần hai mươi phút để cạo sạch bộ râu rậm rì đã một tuần không cạo, và chà xát không biết bao nhiêu xà phòng dưới vòi nước nóng, gã mới gội được sạch để mái tóc trở lại cái màu bình thường vốn có của nó là màu vàng cát.
Fitzgerald cố gắng lau khô người bằng chiếc khăn mỏng dính duy nhất mà khách sạn cung cấp rồi quay vào phòng ngủ và mặc một chiếc quần soóc vào. Gã đi tới chiếc tủ đựng quần áo kê ở cuối phòng, kéo chiếc ngăn kéo thứ ba và lúi húi cho đến khi tìm thấy cái gói đã được buộc và ngăn kéo phía trên. Mặc dầu đã nhiều ngày nay không về phòng này nhưng gã rất tin rằng không ai tìm được chỗ gã đã dấu nó.
Fitzgerald xé chiếc phong bì màu nâu và nhanh nhẹn kiểm tra các thứ bên trong. Một tấm hộ chiếu khác cho một cái tên khác. Năm trăm đô la tiền mặt và một vé hạng nhất đi Cape town. Những kẻ ám sát đang chạy trốn sẽ chẳng bao giờ đi bằng vé hạng nhất. Năm phút sau gã rời khỏi phòng 347, quần áo cũ quăng tung toé khắp sàn nhà và treo tấm biển Favor de no Molestar ngoài cửa.
Fitzgerald đi thang máy xuống tầng trệt, tin chắc là chẳng ai buồn chú ý đến một người đàn ông năm mươi mốt tuổi, mặc áo sơ mi vải bông thô màu xanh lơ, cà vạt kẻ sọc, áo vét thể thao và quần len màu xám. Gã bước ra khỏi buồng thang máy và đi về phía tiền sảnh, không hề tỏ ra có ý định trả phòng. Tám ngày trước đây khi đến gã đã trả tiền phòng trước bằng tiền mặt. Gã không hề đụng đến quầy rượu nhỏ trong phòng và không bao giờ rung chuông gọi phục vụ, hoặc gọi điện ra ngoài hoặc yêu cầu được thuê một bộ phim nào. Không hề có một tài khoản trội nào trong tài khoản vãng lai của gã.
Gã chỉ phải chờ có mấy phút thì chiếc xe buýt kín mít đã xịch đến. Gã nhìn đồng hồ. Còn bốn mươi ba phút nữa thì đến giờ cất cánh. Gã chẳng hề mảy may lo lắng chuyện nhỡ chuyến bay Aeropueto Flight đi Lima. Gã cảm thấy ngày hôm nay tất cả mọi chuyện sẽ diễn ra rất bình thường.
Đến sân bay gã xuống xe buýt và chậm rãi đi về phía bàn làm thủ tục, ở đó gã không ngạc nhiên khi thấy bàn làm thủ tục cho chuyến bay đi Lima đã bắt đầu làm việc được hơn một giờ rồi. Rất nhiều cảnh sát trong phòng chờ đông đúc nhốn nháo đang nghi ngờ theo dõi mọi hành khách, và mặc dầu gã bị chặn lại và hỏi rất nhiều lần, bị khám vali hai lần ngưng cuối cùng gã cũng được phép đi ra cửa 47.
Gã đi chậm lại khi nhìn thấy có hai người đeo balô đang bị các nhân viên an ninh kéo ra khỏi sân bay. Gã lười biếng tự hỏi không biết có bao nhiêu người đàn ông Caucasian vô tội chỉ vì lười cạo râu sẽ bị nhốt và hỏi cung suốt bởi những hành vi hồi chiều của gã.
Khi Fitzgerald đứng xếp hàng để tới bàn kiểm tra hộ chiếu, gã nhẩm đi nhẩm lại tên họ mới của mình. Đó là cái tên thứ ba gã sử dụng trong ngày hôm đó. Viên sĩ quan mặc đồng phục màu nước biển đứng sau chiếc bàn nhỏ lật tấm hộ chiếu New Zealand và xem xét rất kỹ tấm ảnh dán trong đó, rõ ràng là giống hệt người đàn ông ăn mặc lịch sự đang đứng trước mặt mình. Anh ta đưa trả lại hộ chiếu và cho phép Alistair Douglas, kỹ sư xây dựng người Christchurch đi ra khu cách ly. Sau một thời gian chậm trễ nữa, cuối cùng người ta cũng gọi đến chuyến bay của gã. Một tiếp viên hàng không hướng dẫn ngài Douglas ngồi vào ghế của mình ở khoang hạng nhất.
- Thưa ngài, ngài có dùng một li champange không ạ?
Fitzgerald lắc đầu:
- Cám ơn cô. Có lẽ cho tôi xin một cốc nước suối thì hơn - gã đáp, nhấn rõ giọng New Zealand của mình.
Gã thắt dây an toàn, ngồi dựa vào phía sau và giả vờ đọc các cuốn tạp chí được cung cấp trong chuyến bay trong khi chiếc máy bay chậm chạp chạy trên đường băng. Do có nhiều máy bay chờ cất cánh còn xếp hàng phía trước nên Fitzgerald có đủ thì giờ chọn món ăn và một bộ phim trước khi chiếc 727 bắt đầu tăng tốc độ để chuẩn bị cất cánh. Cuối cùng khi các bánh xe tách khỏi mặt đất, lần đầu tiên trong ngày Fitzgerald mới cảm thấy thư thái.
Khi chiếc máy bay đã đạt độ cao chóng mặt, gã bắt đầu bỏ mấy quyển tạp chí sang bên cạnh, nhắm mắt và nghĩ đến những việc cần làm khi đáp xuống Cape Town.
Một giọng nghiêm nghị cất lên:
- Đây là cơ trưởng chuyến bay của các vị. Tôi có một thông báo cần chuyển đến các quý vị có thê khiến các quý vị cảm thấy phiền lòng - Fitzgerald ngồi thẳng dậy. Đây là một tình huống mà gã chưa hề tính đến : phải trở lại Botogá.
- Tôi rất đau buồn thông báo với các quý vị về một bi kịch có tầm cỡ quốc gia đã xảy ra ở Columbia hôm nay.
Fitzgerald hơi nắm chặt hai tay ghế và cố thở thật bình thường.
Viên cơ trưởng ngần ngừ hồi lâu, cuối cùng ông ta nói vẻ rất đau buồn:
- Thưa các bạn, Columbia đã phải chịu một tổn thất kinh khủng - ông ta ngừng lại một chút - Đội tuyển quốc gia của chúng ta đã thua Brazil với tỉ số hai một.
Những tiếng rên rỉ lan ra khắp cabin, tựa như dù có bị một cú đâm vào ngọn núi gần nhất còn hơn. Fitzgerald mỉm cười.
Cô tiếpviên hàng không lại đến bên gã:
- Ngài Douglas, lúc này chúng ta đã trên đường bay, tôi có thể mang cho ngài chút gì uống không ạ?
Fitzgerald đáp:
- Cám ơn. Tôi nghĩ cuối cùng cũng nên uống một ly champange.
Chương 4
Khi Tom Laurence bước vào căn phòng chật cứng, toàn thể các nhà báo đứng dậy.
- Tổng thống Hoa Kỳ! - Thư ký báo chí tuyên bố, tựa như nói với những người ngoài hành tinh.
Lawrence bước lên bục diễn thuyết và đặt chiếc cặp tại liệu màu xanh của Andy Lloyd lên bàn diễn giả. ông vẫy về phía các nhà báo, một cử chỉ đã trở thành quen thuộc để cho các nhà báo biết họ có thể ngồi xuống.
Tổng thống nói vẻ rất thoải mái:
- Tôi rất vui mừng được thôgn báo rằng tôi sẽ chuyển tới Quốc hội Chương trình mà tôi đã hứa hẹn với nhân dân Mỹ trong thời gian vận động tranh cử.
Chỉ có một vài nhà báo kỳ cựu chuyên viết về Nhà Trắng ngồi trước mặt ông lúi húi ghi chép, bởi vì hầu hết bọn họ đều biết rằng nếu có gì đáng đưa lên mặt báo thì sẽ là lúc trả lời các câu hỏi chứ không phải những lời mào đầu. Trong bất cứ trường hợp nào thì lời mở đầu của Tổng thống sẽ đựơc chuyển đến cho họ trướckhi họ rời khỏi phòng họp báo. Các báo sẽ chỉ trở lại bài mở đầu của Tổng thống trong trường hợp họ cần bổ sung thêm vài centimet cho một cộ báo nào đó.
Nhưng điều đó không ngăn được Tổng thống nhắc họ nhớ rằng việc thực hiện Chương trình Cắt giảm Vũ khĩ sẽ cho phép ông có thêm ngân sách dành cho chương trình chăm sóc sức khỏe lâu dài, như vậy những người Mỹ cao tuổi có thể ky vọng có được điều kiện sống tốt hơn trong những năm nghỉ hưu.
- Chương trình này sẽ được mọi công dân ở đủ các giới chào đón, và tôi rất tự hào được là Tổng thống đã trình bày nó ở Quốc hội - Lawrence nhìn lên và mỉm cười đầy hy vọng, ông cảm thấy yên tâm rằng ít nhất bài mở đầu cũng trôi chảy.
Những tiếng kêu "Ngài Tổng thống" vang lên từ bốn phía căn phòng trong khi Lawrence mở chiếc cặp tài liệu màu xanh lơ và liếc xuống ba mươi mốt câu hỏi có thể được đặt ra. Ông ngước lên và mỉm cười với một khuôn mặt quen thuộc ngồi hàng đầu.
- Bacbara! - Ông nói và chỉ vào nhà báo kỳ cựu của UPI, người với tư cách là nhà báo cao tuổi nhất trong cuộc họp báo sẽ có quyền hỏi câu đâu tiên.
Bacbara Evens chậm rãi đứng lên.
- Thưa ngài Tổng thống, tôi xin cảm ơn. - Bà ta dừng lại một lúc rồi nói tiếp - Ngài có khẳng định là CIA không dính líu tới vụ ám sát ứng cử viên Tổng thống Columbia, ông Ricardo Guzman, ở Botogá hôm thứ bảy vừa rồi không?
Những tiếng rì rầm thích thú loang khắp phòng. Lawrence nhìn xuống ba mươi mốt câu trả lời đã chuẩn bị, ước gì ông đã không gạt đi không cho Larry Harrington trình bày kỹ hơn về vụ việc.
Ông đáp, không bị lỡ một đòn:
- Tôi rất mừng vì bà đã hỏi câu này, Bacbara. Bởi vì tôi muốn bà biết rằng một khi tôi còn là Tổng thống thì một chuyện như vậy là không thể xảy ra. Bởi vì dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào chính quyền của chúgn ta cũng sẽ không can thiệp vào quá trình dân chủ của một nước có chủ quyền. Thực tế là mới sáng nay tôi đã yêu cầu Thư ký Nhà nước gọi điện cho vợ goá của ngài Guzman để chuyển lời chia buồn của cá nhân tôi.
Lawrence thấy mừng là Bacbara đã nhắc đến tên người bị ám sát, bởi vì nếu không thì ông sẽ không thể nào nhớ ra nổi.
- Bacbara, cũng có thể bà sẽ hài lòng khi biết rằng tôi đã yêu cầu phó Tổng thống thay mặt tôi đến dự lễ tang mà tôi biểt rằng sẽ được cử hành vào cuối tuần này ở Botogá.
Pete Dowd, một nhân viên lực lượng bảo vệ bí mật phụ trách Ban bảo vệ Tổng thống vội chạy ngay đi tìm Phó Tổng thống để báo cho ông ta biết việc đó, trước khi báo chí mò đến ông ta.
Bacbara Evens có vẻ không tin, nhưng trước khi bà ta kịp hỏi tiếp câu thứ hai thì Tổng thống đã quay sang chú ý tới một người đàn ông đứng ở hàng sau cùng mà ông hy vọng sẽ là người không quan tâm đến cuộc bầu cử ở Columbia. Nhưng khi anh ta vừa đưa ra câu hỏi thì Lawrence lại ước gì anh ta quan tâm đến Colombia thì hơn:
- Nếu như Victor Zerimski có khả năng trở thành Tổng thống tiếp theo của Nga thì Chương trình Cắt giảm vũ khí sắp được đưa ra sẽ có những thay đổi gì?
Trong bốn mươi phút tiếp theo Lawrence phải trả lời rất nhiều câu hỏi về Chương trình cắt giảm vũ khí Nguyên tử, Sinh học, Hoá học và Xuyên lục địa. nhưng đây đó vẫn rải rác có những câu hỏi quan tâm đến vai trò hiện nay của CIA ở Nam Mỹ, và ông sẽ giải quyết ra sao với Victor Zerimski nếu như ông này trở thành Tổng thống tiếp theo của Nga. Và bởi vì điều khá rõ ràng là Lawrence chẳng biết gì một cách chi tiết hơn họ về cả hai vấn đề trên nên họ chuyển sang truy đuổi ông về những vấn đề khác, kể cả về Chương trình Cắt giảm vũ khí.
Cuối cùng khi Lawrence nhận được câu hỏi khá thông minh của Phil Ansanch về đề tài Chương trình cắt giảm, ông trả lời rất dài, rất logic vàbất ngờ không hề báo trước kết thúc cuộc họp báo bằng một nụ cười và nói:
- Thưa các quý ông quý bà, tôi xin cám ơn. Đây là một cuộc họp rất vui vẻ như mọi khi.
Không nói một lời nào nữa ông quay lại, nhanh chóng rời khỏi căn phòng và đi thẳng về phía Phòng Bầu dục.
Lúc Andy Lloyd đuổi kịp ông, Tổng thống càu nhàu:
- Tôi phải nói chuyện với Larry Harrington ngay lập tức. Bao giờ ông thấy ông ta đi xuống thì gọi cho Langley. Tôi muốn trong vòng một giờ nữa Giám đốc CIA có mặt trong phòng tôi.
Tổng tham mưu trưởng nói:
- Thưa Tổng thống, tôi nghĩ có lẽ khôn ngoan hơn chúng ta nên…
- Andy, trong vòng một giờ đấy- Tổng thống nói, thậm chí không buồn nhìn sang ông ta- Nếu tôi phát hiện ra CIA có dính líu chút nào tới vụ ám sát ở Columbia đó thì tôi sẽ phơi sống Dester ngay.
- Tôi sẽ yêu cầu Thư ký Nhà nước đến gặp ngài ngay, thưa Tổng thống - Lloyd đáp và biến mất vào một văn phòng ở bên cạnh, nhấc chiếc máy điện thoại ở gần nhất và quay số của Larry Harrington ở văn phòng Nhà nước. Ngay cả qua điện thoại, giọng của tay người Texas đó cũng không giấu nổi vui mừng vì đã chứng tỏ được là mình có lý.
Sau khi Lloyd đặt ống nghe xuống, ông quay về văn phòng riêng của mình, đóng cửa lại và ngồi im lặng trước bàn hồi lâu. Sau khi đã nghĩ cẩn thận cần phải nói những gì, ông quay một số điện thoại mà người nghe chỉ có thể là người đó.
- Giám đốc đây - Helen Dester chỉ nói có thế.
-
Connor Fitzgerald đưa hộ chiếu cho viên sĩ quan Hải quan Autralia. Thật nực cười nếu như tấm hộ chiếu này có gì đáng nghi ngờ, bởi vì suốt ba tuần nay đây là lần đầu tiên gã sử dụng tên họ thật của mình. Viên sĩ quan mặc đồng phục gõ các chi tiết lên bàn phím, nhìn lên màn hình rồi ấn thêm mấy cái nút nữa.
Không thấy có gì hiện lên, anh ta bèn đóng dấu Visa du lịch và nói:
- Chúc ngài đi thăm Australia được vui vẻ, thưa ngài Fitzgerald.
Connor cám ơn anh ta và đi về phía phòng chờ để lấy hành lý. Gã ngồi xuống một chiếc ghế đối diện với băng tải và chờ hành lý của mình xuất hiện. Không bao giờ gã để cho mình là người đầu tiên bước ra khỏi cửa hải quan, ngay cả khi gã chẳng có hành lý nào để chờ.
Hôm trước khi gã hạ cánh xuống Cape Town, Connor được một người bạn cũ và là đồng nghiệp tên là Carl Koeter đón. Carl đã báo cáo tình hình cho gã trong hai giờ, sau đó họ đi ăn trưa với nhau và nói chuyện về việc li hôn của Carl và chuyện Maggie và Tara sẽ ra sao. Chính vì chai Rustenberg Cabernet Sauvignon 1982 thứ hai đã khiến gã suýt lỡ mất chuyến bay đi Sydney. Tại cửa hàng miễn thuế gã vội vã chọn quà cho vợ con sao cho mọi thứ có đóng dấu Làm tại Nam phi thật rõ ràng. Ngay cả hộ chiếu cũng không hề có một dấu vết cho thấy gã đã từ Botogá qua Lima, Buenos Aires để đến Cape Town.
Trong khi ngồi chờ ở khu vực trả hành lý, gã bắt đầu nghĩ về cuộc đời của gã trong hai mươi tám năm qua.
Connor Fitzgerald lớn lên trong một gia đình hiến dâng cho luật pháp và trật tự.
Ông nội của gã là Oscar - được đặt theo tên của nhà thơ người Irish đã từ Kilkenny di cư sang Mỹ hồi đầu thế kỉ. Chỉ vài giờ sau khi cập bến lên đảo Ellis Island ông đã đi thẳng tới Chicago để gia nhập lực lượng cảnh sát cùng với người anh họ.
Trong thời gian thực hiện đạo luật cấm rượu, Oscar Fitzgerald nằm trong nhóm cảnh sát ít ỏi biết từ chối những món hối lộ của bọn vô lại. Kết quả là ông không thể nào được lên quá cấp bậc thượng sĩ. Nhưng Oscar lại là cha của năm đứa con trai biết kính Chúa, và chỉ thôi không đẻ thêm nữa khi vị cha xứ địa phương nói với ông rằng Chúa không muốn ban phúc để Mary và ông đẻ con gái. Vợ ông rất vui mừng vì lời khuyên khôn ngoan của cha O’Reilly - nuôi nấng năm thằng con trai vạm vỡ bằng đồng lương thượng sĩ quả là đã vô cùng khó khăn rồi. Nhưng, xin nhắc để các bạn nhớ là nếu như có bao giờ Oscar đưa cho vợ nhiều hơn số tiền lương ông được nhận dù chỉ một xu thôi thì bà cũng tra hỏi thật cặn kẽ là nó ở đâu ra.
Sau khi rời trường trung học, ba trong số năm con trai của Oscar đã gia nhập lực lượng cảnh sát Chicago, và họ đều nhanh chóng được thăng lên những cấp bậc mà cha họ chẳng bao giờ được nhận. Một người khác được nhận Thánh chức, điều làm Mary rất vui lòng. Còn người con út - cha của Connor thì theo học về ngành tội phạm ở De Paul. Sau khi tốt nghiệp ông gia nhập FBI. Năm 1949 ông cưới Katherine O’Keefe, con gái một nhà hàng xóm chỉ cách nhà ông hai nhà, trên phố South Lowe. Họ chỉ có một con trai và đặt tên là Connor.
Connor sinh ở bệnh viện Trung ương Chicago vào ngày 8 tháng hai năm 1951 và khi chưa đủ tuổi theo học trường Catholic địa phương cậu bé đã tỏ ra là một cầu thủ bóng đá thiên bẩm. Cha của Connor rất vui mừng khi con trai ông trở thành thủ quân đội bóng trường trung học Mount Carmel, nhưng mẹ cậu vẫn bắt cậu học đến tận khuya để hoàn thành các bài tập ở nhà. Bà liên tục bảo cậu:
- Con đâu thể chơi bóng đá suốt đời được.
Sự kết hợp giữa một người cha bao giờ cũng đứng lên mỗi khi có một phụ nữ bước vào phòng và một người mẹ phảng phất có những nét của một vị thánh đã khiến Connor luôn bẽn lẽn mỗi khi có sự hiện diện của nữ giới, mặc dù cậu rất dũng cảm về mặt thể chất. Rất nhiều cô gái ở trường trung học Mount Carmel tỏ ý khá rõ ràng về những tình cảm của họ đối với cậu nhưng cậu vẫn không hề bị mất sự trong trắng, cho đến khi gặp Nancy. Ngay sau khi cậu dẫn đội Mount Carmel đi tới một chiến thắng huy hoàng nữa trong một buổi chiều mùa thu, sau một hàng ghế ở khu vực khán đài không có mái chie Nancy đã ôm lấy cậu quyến rũ khiến cậu mê đắm. Đó sẽ là lần đầu tiên cậu nhìn thấy một phụ nữ để khoả thân, nếu như cô ta chịu cởi hêt quần áo.
Khoảng một tháng sau Nancy hỏi cậu có muốn thử hai cô gái cùng một lúc không.
Cậu nói:
- Anh chưa bao giờ có được hai cô gái, chứ đừng nói đến chuyện hai cô cùng một lúc.
Nancy tỏ vẻ không ngạc nhiên lắm, nhưng cô ta vẫn tiếp tục.
Khi Connor đoạt được học bổng để học ở Notre Dame, cậu không hề nhận một trong vô số những đề nghị đối với tất cả các thành viên trong đội bóng đá. Các bạn trong đội của cậu có vẻ rất tự hào về việc vạch tên các cô gái mà họ đã từng quyến rũ vào sau cánh cửa tủ riêng của mình ở trường. Vào cuối học kỳ thứ nhất Brett Coleman, trung phong của đội vạch được mười bảy cái tên lên cánh cửa tủ. Cậu ta cho Connor biết là "cửa tủ không đủ to để kể tất cả những cuộc tán tỉnh suông". Cuối năm thứ nhất, trên cánh cửa tủ của cậu vẫn chỉ có một cái tên Nancy. Một buổi tối cậu tò mò thử xem tất cả các cánh cửa tủ, thì phát hiện ra là tên Nancy có trên hầu hết các cánh cửa, thình thoảng lại được đóng ngoặc cùng với tên một cô gái khác. Cả đội có lẽ sẽ dìm cậu xuống địa ngục vì ghi được ít bàn thắng, nếu như cậu không là sinh viên năm thứ nhất giỏi nhất của Notre Dame trong một thập kỉ qua.
Thế nhưng vừa lên năm thứ hai được vài ngày, mọi sự đã thay đổi.
Khi Connor đến dự buổi vũ hội hàng tuần của Câu lạc bộ khiêu vũ Ailen thì nàng đang cúi xuống đi giày. Anh không nhìn thấy mặt nàng, nhưng điều đó cũng chẳng thành vấn đề lắm, bởi vì anh không thể rời mắt khỏi đôi chân thon dài. Là một anh hùng bóng đá anh đã quen với việc các cô gái nhìn anh, nhưng giờ đây cô gái mà anh muốn gây ấn tượng lại dường như không nhận thấy sự tồn tại của anh. Và dường như để cho mọi sự còn tồi tệ hơn, khi nàng bước ra sàn nhảy thì hoá ra bạn nhảy của nàng là Declan O’Casey, kẻ vốn không có đối thủ trên sàn nhảy. cả hai ưỡn thẳng lưng một cách kỳ dị và bước những bước nhẹ như bay mà Connor chẳng bao giờ mơ mình có thể bước nổi.
Cho đến cuôc buổi khiêu vũ Connor vẫn chưa biết được tên nàng. Tệ hơn nữa nàng và Declan ra về trước khi anh tìm được cách đến làm quen. Tuyệt vọng, anh quyết định đi theo họ đến tận ký túc xá nữ, lúc nào cũng đi cách họ khoảng năm mươi mét và luôn ẩn mình trong bóng tối như cha đã dạy. Anh nhăn mặt khi thấy họ cầm tay nhau và chuyện trò vui vẻ. Về đến Le Mans Hall nàng hôn lên má Declan và biến mất vào bên trong. Anh tự hỏi không hiểu tại sao từ xưa đến nay anh lại không quan tâm đến khiêu vũ nhiêu hơn một chút và bớt tập trung cho bóng đá một ít?
Sau khi Declan đã đi về phía ký túc xá của nam, Connor bắt đầu đi lại vẻ bình thản bên dưới các cửa sổ phòng ngủ nữ, băn khoăn không biết mình có thể làm được gì không. Cuối cùng anh thoáng thấy bóng nàng mặc chiếc áo dài cúi xuống kéo rèm. Anh còn lảng vảng quanh đó hồi lâu nữa mới miễn cưỡng quay vê phòng. Anh ngồi ở cuối giừơng và bắt đầu viết thư cho mẹ, nói với mẹ rằng anh đã nhìn thấy cô gái mà anh muốn cưới làm vợ, mặc dầu thực tế anh vẫn chưa nói với nàng được một câu nào - thậm chí còn chưa biêt tên nàng nữa kia. Trong khi liếm phong bì để dán lại, Connor tự thuyết phục mình rằng đối với nàng, Declan O’Casey chẳng là cái gì khác ngoài một anh bạn nhảy vớ vẩn.
Suốt tuần đó Connor cố gắng tìm hiểu về nàng, nhưng anh chỉ biết được đôi điều rất ít ỏi, rẳng nàng tên là Maggie Burke, nàng đã giành được học bổng của trường St.Mary và hiện là sinh viên năm thứ nhất ngành Lịch sử Hội hoạ. Anh nguyền rủa cái thực tế là cả đươid anh chưa bao giờ đặt chân đến phòng tranh nào cả, và việc gần gũi nhất với nghề vẽ mà anh từng làm theo lời yêu cầu của cha là sơn lại cái hàng rào của sân sau nhà anh ở South Lowe Street. Còn Declan thì hoá ra là người đã hẹn hò với Maggie từ hồi nàng còn học năm cuối cùng ở trung học. Anh ta không chỉ được đáng giá là tay khiêu vũ giỏi nhất câu lạc bộ mà còn được coi là sinh viên giỏi toán nhất trường đại học. Một số trường đại học khác đã dành cho anh những học bổng nghiên cứu sinh, thậm chí ngay từ lúc kết quả kì thi cuối cùng còn chưa được công bố. Connor chỉ còn hy vọng là Declan sẽ được bổ nhiệm một chỗ làm hấp dẫn ở càng xa South Beth càng sớm càng tốt.
Thứ sáu sau đó Connor là người đầu tiên đến câu lạc bộ khiêu vũ, và khi Maggie từ phòng thay quần áo xuất hiện trong chiếc áo vải bông màu kem và chiếc váy đen, điều khiến anh băn khoăn duy nhất là nên nhìn lên đôi mắt xanh thẳm trước hay nhìn xuống để ngắm đôi chân dài trước. Một lần nữa nàng lại nhảy cùng Declan suốt buổi tối, trong khi đó Connor ngồi xa tít tận một cái ghế dài và cố giả vờ tỏ ra không nhận thấy sự hiện diện của nàng. Sau vòng nhảy cuối cùng cả hai người bọn họ lại biến mất. Một lần nữa Connor lại đi theo họ đến tận Le Mans Hall, nhưng lần này anh nhận thấy nàng không nắm tay Declan.
Sau một hồi trò chuyện rất lâu và một cái hôn trên má, Declan mất hút vè phía ký túc xá của nam. Connor ngồi thụp xuống chiếc ghế dài nhìn lên cửa sổ phòng nàng và nhìn chăm chắm lên ban công của phòng ký túc xá nữ. Anh quyết định sẽ đợi đến lúc nàng ra kéo rèm cửa sổ. Nhưng vào lúc nàng ra kéo rèm thì anh lại đã lơ mơ ngủ mất.
Điều đầu tiên anh nhớ lại là vừa tỉnh khỏi một giấc mơ, trong đó anh mơ thấy nàng đứng trứơc mặt mình, mặc áo pijama và một chiếc áo choàng.
Anh choàng tỉnh dậy, trố mắt nhìn nàng không tin rồi nhảy phắt dậy, đưa tay ra:
- Xin chào. Tôi là Connor Fitzgerald.
- Tôi biết - Nàng vừa đáp vừa bắt tay anh - Tôi là Maggie Burke.
Anh nói:
- Tôi biết.
Nàng hỏi:
- Anh có ở phòng nào không hay chỉ ở trên chiếc ghế dài đó?
Kể từ lúc ấy Connor không bao giờ nhìn đến một người đàn bà nào khác nữa.
Thứ bảy sau đó, lần đầu tiên trong đời Maggie đến sân vận động và nhìn anh chơi bao nhiêu quả kỳ diệu ở trước khán đài mà với anh chỉ có một người duy nhất đang ngồi.
Thứ sáu tiếp theo nàng và Connor nhảy bên nhau suốt buổi tối, trong khi Declan ngồi lãnh đạm ở tận cuối phòng. Trông cậu ra còn chán nản hơn khi hai người bọn họ cùng nhau ra về, tay nắm tay. Về đến Le Mans Hall, Connor hôn nàng lần đầu tiên, rồi quỳ xuống và cầu hôn. Maggie phá lên cười, đỏ mặt và chạy vào nhà. Trên đường trở về ký túc xá nam, Connor cũng phá lên cười, nhưng đó là khi anh phát hiện thấy Declan nấp sau một cái cây.
Từ đó, hễ bất cứ lúc nào rỗi rãi là Connor và Maggie lại ở bên nhau. Nàng học về cách làm bàn, về các khu vực và các quả ném biên. Anh thì học về Bellini, Bernini và Luini. Trong suốt ba năm sau đó tối thứ sáu nào anh cũng quỳ xuống cầu hôn. Cứ mỗi khi các bạn cùng đội bóng hỏi tại sao anh không vạch tên nàng lên cánh cửa tủ thì anh chỉ trả lời rất đơn giản:
- Tại vì tôi sẽ cưới nàng.
Cuối năm học cuối cùng của Connor, Maggie cuối cùng cũng đồng ý làm vợ anh - nhưng phải chờ đến khi nàng thi xong. Anh nói vẻ chiến thắng:
- Như vậy anh chỉ còn phải cầu hôn em 141 lần nữa để khiến em nhìn thấy ánh sáng.
- Ôi, đừng ngốc thế, Connor Fitzgerald - Nàng nói - ngay từ khi gặp anh ở cái ghế băng ấy em đã biết em sẽ sống nốt cuộc đời với anh rồi.
Hai tuần sau khi Maggie tốt nghiệp Summa cum Laude họ cưới nhau. Mười tháng sau Tara ra đời
Chương 5
-Có phải bà nghĩ rằng tôi sẽ tin là CIA thậm chí không biết đến một âm mưu ám sát không?
Giám đốc CIA điềm tĩnh nói:
- Đúng vậy, thưa ngài. Lúc chúng tôi biết được việc ám sát đó thì nó vừa xảy ra được vài giây. Tôi đã tiếp xúc với Cố vấn an ninh Quốc gia và tôi nghĩ là ông ta đã trực tiếp báo cáo ngay lên ngài ở trại David.
Tổng thống bắt đầu đi đi lại lại trong Phòng Bầu dục, điều đó không chỉ cho phép ông có thêm thời giờ để suy nghĩ, mà còn thường khiến người tiếp chuyện cảm thấy khó chịu. Hầu hết mọi người khi bước vào Phòng Bầu dục thường đã mất bình tĩnh. Đã có lần thư ký riêng của ông nói với ông rằng cứ năm người khách thì có bốn người phải vào phòng nghỉ trước khi đến giờ hẹn gặp Tổng thống. Nhưng ông không tin rằng người đàn bà đang ngồi trước mặt ông kia thậm chí muốn biết rằng phòng nghỉ gần nhất là ở chỗ nào. nếu như có một quả bom nổ trong Vườn hồng đi chăng nữa thì có lẽ Helen Dexter cũng sẽ chỉ đến nhướng đôi lông mày rậm lên là cùng. Cương vị của bà ta đã kéo dài ba đời Tổng thống, và người ta đồn là cả ba vị Tổng thống đó đều có lần đề nghị bà ta từ chức.
Dexter nói:
- Và khi Lloyd gọi điện cho tôi nói rằng ngài muốn biết chi tiết hơn thì tôi đã yêu cầu Phó của tôi là Nick Gutenberg liên lạc với người của chúng ta ở Botogá và yêu cầu họ điều tra xem chính xác những gì đã xảy ra vào chiều hôm thứ Bảy vừa rồi. Hôm qua Gutenberg đã hoàn thành bản báo cáo của ông ta.
Bà ta vỗ lên tập tài liệu để bên cạnh.
Lawrence thôi không đi đi lại lại nữa mà dừng lại dưới bức chân dung Abraham Lincoln treo bên trên lò sưởi. Ông nhìn xuống bóng chiếc cổ của Helen Dexter. Bà ta vẫn nhìn thẳng về phía trước.
Giám đốc CIA mặc một bộ vét ngắn sẫm màu cắt rất đẹp và chiếc áo sơ mi màu kem giản dị. Hiếm khi bà ta đeo đồ trang sức, thậm chí ngay cả trong những dịp long trọng của nhà nước. Bà ta được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc CIA ở tuổi ba mươi hai, với ý định của Tổng thống thời đó là xoa dịu cuộc vận động hành lang đòi bình đẳng vài tuần trước khi tiến hành cuộc bầu cử năm 1976. Và như đã xảy ra, hoá ra chính ông Tổng thống ấy mới là người lấp chỗ trống. Sau một loạt đời giám đốc ngắn ngủi, người thì từ chức, người thì nghỉ hưu, cuối cùng Dexter đã leo lên chức cao nhất trong cơ quan. Trong bầu không khí nóng bỏng ở Washington có nhiều lời đồn thổi về quan điểm cực hữu của bà ta và những phương pháp bà ta đã sử dụng trong việc vận động, nhưng không một thượng nghị sĩ nào dám chất vấn về việc bổ nhiệm bà ta. Bà ta đã tốt nghiệp Summa cum Laude ở Bryn Mawr, sau đó tốt nghiệp Đại học Luật ở Pennsylvania trước khi tham gia một hãng luật hàng đầu ở New York. Sau một loạt các chức vụ cùng với thời gian cần có để một phụ nữ trở thành người hùn vốn - kết thúc của một vụ kiện trước toà - cuối cùng bà ta nhận lời mời tham gia CIA.
Bà ta bắt đầu sự nghiệp bằng một chân Đại diện trong văn phòng một Cục tác chiến, và cuối cùng trở thành Cục phó. Vào lúc được bổ nhiệm thì bà ta đã có nhiều thù hơn là bạn. Nhưng rồi năm tháng qua đi, họ lần lượt hoặc là mất tích, hoặc là về hưu non, hoặc là bị sa thải. Khi được bổ nhiệm làm giám đốc CIA bà ta mới bước sang tuổi bốn mươi. Tờ Washington Post mô tả bà ta đã từng bị ăn một phát đạn qua trần nhà bằng kính, nhưng điều đó cũng không ngăn được người ta tiên đoán là bà ta sẽ chỉ sống thêm được bao nhiêu ngày nữa. Rồi họ lại tiên đoán là bao nhiêu tuần, rồi bao nhiêu tháng. Bây giờ thì người ta đánh cuộc liệu bà ta có tồn tại với cương vị Giám đốc CIA lâu như J.Edgar Hoover với cương vị giám đốc FBI hay không.
Chỉ cần vài ngày kể từ khi dọn đến ở trong Nhà Trắng, Tom Lawrence đã biết được Dextẻ có thể làm những gì để ngăn cản nếu ông muốn chen vào lĩnh vực của bà ta. Nếu ông hỏi điều gì về một lĩnh vực nhạy cảm nào đó thì phải mất hàng tuần bản báo cáo mới được đặt lên bàn ông, và khi đó bản báo cáo thường là dài dòng, không mạch lạc, tẻ ngắt và nhất là đã rất lạc hậu. Nếu như ông gọi bà ta đến Phòng Bầu dục để giải thích về những câu hỏi chưa được trả lời thì bà ta sẽ giả điếc. Nếu như ông thúc ép thì bà ta sẽ chơi trò cầm giờ và rõ ràng nghĩ rằng bà ta sẽ ngồi ở ghế đó sau khi các cử tri hất ông ra khỏi ghế của mình.
Nhưng chỉ đến khi ông đề cử một người vào ghế Chánh án toà Thượng thẩm còn trốngthì ông mới hiểu hết Helen Dexter với sự hiểm độc của bà ta. Chỉ vài ngày sau bà ta đã đặt lên bàn ông những tập hồ sơ dày cộp chỉ rõ vì sao không thể chấp nhận được người đề cử đó.
Lawrence đã kiên quyết giới thiệu ứng cử viên của mình - đó là một trong những người bạn lâu năm nhất của ông. Nhưng chỉ vài ngày trước ngày ông này đến nhận nhiệm sở thì người ta tìm thấy ông ta treo cổ trong gara. Sau đó Lawrence biết được là tập hồ sơ mật đó đã được gửi đến tay từng Thượng nghị sĩ trong Uỷ ban lựa chọn, nhưng ông chẳng bao giờ chứng minh được ai là người phải chịu trách nhiệm về việc đó.
Đã nhiều lần Andy Lloyd đã cảnh báo là nếu có bao giờ ông định làm cho Dexter rời khỏi chức vụ đó thì tốt nhất là phải có được những bằng chứng có thể thuyết phục được công chúng tin rằng Mẹ Teresa đang có những tài khoản gửi ở ngân hàng Thuỵ sĩ và thường xuyên được các tập đoàn tội phạm bổ sung thêm dư nợ.
Lawrence đã nghe theo lời khuyên của Tổng tham mưu trưởng. Nhưng lúc này ông cảm thấy nếu có thể chứng minh được việc CIA dính líu đến vụ ám sát Ricardo Guzman mà thậm chí chẳng buồn thông báo cho ông biết thì ông sẽ có thể khiến Dexter cuốn gói khỏi bàn làm việc trong vòng một tuần.
Ông quay về chỗ ngồi và bấm một cái nút gắng dưới mặt bàn để Andy có thể theo dõi được cuộc hội thoại hoặc tối nay lấy cuộn băng để nghe lại. Lawrence hiểu rằng Dexter biết rõ ông đang định làm gì, và ông cũng đoán rằng trong chiếc xắc tay huyền thoại mà Dexter kè kè bên mình kia sẽ chẳng có son phấn gương lược - những phụ tùng của giới nữ - mà đã ghi lại đầy đủ những âm thanh trao đổi giữa họ. Tuy vậy ông vẫn cần bản ghi âm của ông, ghi lại đầy đủ các sự kiện.
Tổng thống ngồi xuống và nói:
- Vì bà cóvẻ như có được thông tin rất tốt như vậy, có lẽ xin bà hãy báo cáo cho tôi một cách chi tiết hơn về những gì mà thực tế đã xảy ra ở Botogá.
Helen Dexter phớt lờ giọng châm biếm của Tổng thống, bà ta cầm tập hồ sơ để trên vạt váy lên. Ngoài bài tập hồ sơ có hình lô gô của CIA in trên nền trắng và dòng chữ: "Dành riêng cho Tổng thống đọc". Lawrence tự hỏi không biết có bao nhiêu tập hồ sơ ghi ngoài bìa dòng chữ "Dành riêng cho Giám đốc đọc".
Bà ta mở tập hồ sơ ra, đọc:
- Có nhiều nguồn tin khẳng định rằng việc ám sát là do một tay súng đơn độc thực hiện.
Tổng thống gằn giọng:
- Hãy nói rõ tên của một nguồn tin.
Giám đốc CIA đáp:
- Tuỳ viên văn hoá của chúng ta ở Botogá.
Lawrence nhướng một bên lông mày. Có tới một nửa số tuỳ viên văn hoá trong các sứ quán Mỹ trên khắp thế giới là người của CIA cài vào chỉ với mục đích sẽ báo cáo trực tiếp về Langley cho Dexter mà không cần xin ý kiến Đại sứ tại nước đó, chứ đừng nói đến Văn phòng nhà nước. Hầu hết bọn họ nghĩ rằng Bộ đồ kẹp hồ đào là một món gì đó có thể tìm thấy trong thực đơn của một tiệm ăn dành riêng nào đó.
Tổng thống thở dài:
- Và họ nghĩ rằng ai là người phải chịu trách nhiệm về việc ám sát này?
Dexter lại lật qua mấy trang lấy ra một tấm ảnh và đẩy sang bên kia chiếc bàn trong Phòng Bầu dục. Tổng thống nhìn bức ảnh chụp một người đàn ông trung niên mặc bộ vét cắt rất đẹp, trông có vẻ phương phi.
- Vậy đấy là ai?
- Carlos Velez. Hắn ta điều hành tập đoàn buôn ma tuý lớn thứ hai ở Colombia. Còn Guzman dĩ nhiên là kiểm soát tập đoàn lớn nhất.
- Vậy Carlos đã bị bắt chưa?
- Không may, hắn đã bị giết vài giờ trước khi cảnh sát xin được lệnh bắt hắn.
- Tiện thật.
Giám đốc CIA không hề đỏ mặt. Bà ta thì không thể đỏ mặt được- Lawrence nghĩ - Dù sao thì cũng phải có máu mới đỏ mặt được.
- Vậy tên ám sát đó có một cái tên không? Hay là hắn cũng đã chết chỉ vài giờ sau khi lệnh toà…
- Không, thưa ngài, hắn vẫn còn sống nhăn - Giám đốc CIA quả quyết đáp - Tên hắn là Dirk van Rensberg.
Lawrence hỏi:
- Những gì người ta biết được về hắn?
- Hắn là người Nam Phi. Gần đây nhất hắn sốngở Durban.
- Gần đây nhất?
- Vâng. Ngay sau vụ ám sát hắn như đã độn thổ ngay lập tức.
- Điều đó là hoàn toàn dễ dàng nếu như chưa bao giờ hắn ở trên mặt đất cả - Tổng thống đáp. Ông chờ xem phản ứng của bà giám đốc CIA, nhưng bà ta vẫn thản nhiên. Cuối cùng ông nói - Vậy chính phủ Colombia có biết những điều đó không, hay Tuỳ viên văn hoá của bà là nguồn tin duy nhất?
- Không, thưa ngài Tổng thống. Rất nhiều thông tin chúng ta nhận được là từ Cảnh sát trưởng Botogá. Thực tế ông ta đã bắt giữ được một kẻ đồng loã với van Rensberg, đó là một bồi bàn ở khách sạn El Belvedere mà từ đó tên giết người đã bắn phát súng ra. Hắn bị bắt trong hành lang, chỉ vài phút sau khi đã giúp tên giết người trốn thoát trong thang máy vận chuyển hàng hoá.
- Vậy chúng ta có biết tí gì về các hành vi của van Rensberg sau vụ ám sát không?
- Dường như hắn đã đáp máy bay đi Lima dưới cái tên Alistair Douglas, sau đó đi tiếp đến Buenos Aires cũng bằng cái tên đó. Từ đó chúng ta bị mất hút hắn.
- Và tôi ngờ rằng bà sẽ chẳng bao giờ tìm được hắn nữa.
- Ồ,tôi không bi quan như vậy đâu, thưa ngài Tổng thống - Dexter nói, phớt lờ giọng châm biếm của Lawrence - Thường thường bọn ám sát thuê đơn độc đó sẽ biến mất trong nhiều tháng sau một vụ quan trọng. Hắn sẽ chỉ lại xuất hiện khi tình hình đã nguội đi.
Tổng thống nói:
- Vậy tôi xin cam đoan với bà là tôi có ý định giữ cho tình hình tiếp tục nóng.Lần sau khi chúng ta gặp nhau có thể tôi sẽ có một bản báo cáo của mình để bà xem xét.
- Tôi sẽ chờ để được đọc nó - Dexter nói, hệt như một đứa học sinh đầu bò chẳng hề biết sợ thầy hiệu trưởng.
Tổng thống bấm một cái nút dưới bàn Một giây sau có tiếng gõ cửa và Andy Lloyd bước vào phòng. Không cần để ý đến sự có mặt của Dexter, ông ta nói:
- Thưa ngài Tổng thống, mấy phút nữa ngài có cuộc hội kiến với thượng nghị sĩ Bedell.
- Vậy thì tôi xin phép được đi, thưa ngài Tổng thống.
Dexter nói và đứng dậy. Bà ta đặt tập hồ sơ lên bàn Tổng thống, cầm cái xắc lên và ra khỏi phòng không nói thêm một lời nào nữa.
Tổng thống không nói năng gì cho đến khi giám đốc CIA khép cửa lại. Rồi ông quay sang Tổng Tham mưu trưởng.
- Tôi chẳng tin lấy một lời ở đó - Ông lầm bầm và vứt tập tài liệu vào khay chuyển đi. Lloyd ghi nhớ là ngay sau khi ông chủ rời khỏi phòng cần phải đến để lấy nó đi.
- Tôi cho là điều tốt nhất chúng ta có thể làm được là khiến cho bà ta biết sợ Chúa một chút để cho bà ta không tính đến một vụ khác kiểu này trong khi tôi còn ngồi trong Nhà Trắng.
- Ngài Tổng thống, hãy nhớ đến cái cách bà ta đã đối xử với ngài khi ngài còn lf một Thượng nghị sĩ. Tôi sẽ chẳng đặt nhiều tiền lên điều đó đâu.
- Bởi vì tôi làm sao có thể thuê được một tên giết người để ám sát bà ta, vậy thì anh nghĩ là tôi có thể làm được gì bây giờ?
- Theo tôi thì bà ta để cho ngài lựa chọn một trong hai điều, thưa ngài Tổng thống. Hoặc là ngài sẽ cách chức bà ta và hiển nhiên là sẽ phải điều trần trước Thượng nghị viện. Hoặc là ngài hãy chấp nhận thất bại và đồng ý với cách giải thích của bà ta về những điều đã xảy ra ở Botogá, và hy vọng lần sau bà ta sẽ hợp tác tốt hơn.
Tổng thống khẽ nói:
- Còn có một cách thứ ba nữa.
Lloyd chăm chú lắng nghe không hề xen lời. Rõ ràng là Tổng thống đã cân nhắc rất nhiều về việc làm thế nào để có thể cất chức Helen Dexter ra khỏi cái ghế giám đốc CIA.
Connor nghĩ ngợi trong khi nhìn lên băng chuyền. Băng chuyền đã bắt đầu hất ra những vali hành lý của chuyến bay của gã, một số hành khách đã bước lên để nhặt những vali đầu tiên.
Gã vẫn cảm thấy buồn vì không có mặt vào lúc con gái được sinh ra. Mặc dù vẫn nghi ngờ về sự khôn ngoan của các chính sách của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh Việt Nam, nhưng Connor vẫn thừa hưởng được lòng yêu nước của gia đình gã. Gã xung phong vào phục vụ trong quân đội và tốt nghiệp khoá sĩ quan dự bị trong khi chờ Maggie học xong. Cuối cùng họ chỉ được nghỉ để làm lễ cưới và hưởng bốn ngày trăng mật trước khi Thượng uý Fitzgerald lên đường sang Việt Nam vào tháng bảy năm 1972.
Hai năm ấy ở Việt Nam giờ đây chỉ còn là những ký ức xa xăm. Được thăng cấp lên đại uý, bị Việt cộng bắt, rồi trốn thoát trong khi cứu mạng một người khác - tất cả dường như đã xa lắc đến nỗi gã hầu như có thể thuyết phục được mình rằng những chuyện đó chưa từng xảy ra. Năm tháng sau khi gã trở về nhà, Tổng thống đã trao tặng gã huân chương cao quý nhất - Huân chương Danh dự, nhưng sau mười tám tháng là tù binh ở Việt Nam gã chỉ cảm thấy sung sướng vì còn sống và được đoàn tụ với người đàn bà mình yêu. Và lúc nhìn thấy Tara, gã lại một lần nữa rơi vào tình yêu si mê.
Chỉ trong vòng môt tuần sau khi trở về Mỹ Connor bắt đầu tìm một việc làm. Gã đã được phỏng vấn để vào làm việc cho văn phòng CIA ở Chicago, vừa lúc đó Đại uý Jackson - chỉ huy đơn vị cũ của gã bất ngờ đến chơi. Ông ta mời gã tham gia một bộ phận vừa được thành lập ở Washington. Người ta báo trước với Connor rằng nếu gã đồng ý làm việc trong bộ phận của Jackson thì phải tuân theo một điều : đó là không bao giờ được nói chuyện về công việc với bất cứ ai, kể cả với vợ. Khi biết được điều đó, gã đã nói với Jackson là cần phải suy nghĩ thêm chút nữa trước khi quyết định. Gã đã thảo luận với mục sư của gia đình là cha Graham về vấn đề này. Cha chỉ khuyên gã một cách rất đơn giản:
- Đừng bao giờ làm một việc mà con thấy là không chính đáng, dẫu cho đó nhân danh tổ quốc đi chăng nữa.
Khi Maggie được mời làm việc cho khoa Nhân van của Trườgn Đại học Tổng hợp Georgetown, Connor mới hiểu rằng Jackson đã quyết tuyển mộ gã. Ngày hôm sau gã viết thư cho chỉ huy đơn vị cũ và nói rằng gã rất vui mừng được làm việc cho công ty bảo hiểm Maryland với chức danh tập sự.
Sự dối trá bắt đầu từ đó.
Mấy tuần sau Connor, Maggie và Tara chuyển đến Georgetown. Họ tìm được một ngôi nhà nhỏ ở Avon Place. Tiền đặt cọc được trả bằng những tấm séc quân đội mà Maggie đã gửi vào tài khoản mang tên Connor, nàng nhất định không chịu tin rằng gã đã chết.
Trong những năm đầu họ sống ở Washington, điều duy nhất khiến họ buồn rầu là Maggie bị sẩy hai lần, rồi bác sĩ phụ khoa của nàng khuyên là nàng nên dừng ở một con. Phải đến lần sẩy thứ ba Maggie mới chịu chấp nhận lời khuyên của bác sĩ.
Mặc dầu đến giờ họ lấy nhau đã được ba mươi năm Maggie vẫn có thể khơi dậy ở Connor nỗi ham muốn chỉ bằng một nụ cười và đưa tay vuốt dọc lưng gã. Gã biết rằng khi bước ra khỏi cửa phòng hải quan và nhìn thấy nàng đang chờ gã trong phòng đợi thì mọi sự lại y nguyên như thuở ban đầu. Gã mỉm cười với ý nghĩ nàng đã đứng chờ ơ sân bay ít nhất một giờ trước khi máy bay hạ cánh.
Vali của gã hiện đến trước mặt. Gã nhặt lấy nó và đi về phía cửa ra.
Connor đi qua hàng lan can sắt, tin rằng thậm chí nếu người ta có khám vali của gã thì cũng chẳng có gì đáng chú ý hơn ngoài con linh dương gỗ trên chân có khắc hàng chữ Sản xuất tại Nam Phi.
Vừa bước vào phòng chờ gã đã nhìn thấy ngay vợ và con gái đang đứng giữa đám đông. Gã đi nhanh và mỉm cười với người phụ nữ gã ngưỡng mộ. Làm thế nào mà nàng lại để ý đến gã chứ đừng nói đến việc nàng đã đồng ý làm vợ gã? Nụ cười nở rộng trên môi khi gã ôm choàng lấy nàng. Gã hỏi:
- Em thế nào, em yêu?
Nàng thì thầm:
- Em chỉ sống lại khi biết rằng anh vừa làm nhiệm vụ an toàn trở về.
Gã cố tỏ ra không để ý đến từ "an toàn" và buông nàng ra để quay sang với người phụ nữ thứ hai của đời mình. Hơi cao hơn nguyên bản một tí, cũng với mái tóc dài đỏ rực mà đôi mắt xanh sáng ngời, nhưng điềm tĩnh hơn. Cô con gái độc nhất ôm chặt lấy bố và hôn lên má gã khiến gã cảm thấy mình trẻ lại đến mười tuổi.
Vào ngày lễ đặt tên thánh cho Tara, Cha Graham đã cầu xin đức Chúa trời ban cho đứa bé sắc đẹp của Maggie và trí tuệ cũng của Maggie. Tara lớn lên, thứ hạng của cô ở trường học và những cái đầu ngoái lại trên phố chứng tỏ cha Graham không chỉ là một mục sư mà còn là nhà tiên tri. Connor đã chán không còn muốn chiến đấu với dòng người ngưỡng mộ đến gõ cửa ngôi nhà nhỏ của họ ở Georgetown, thậm chí chán không buồn trả lời mỗi khi chuông điện thoại reo nữa. Bởi vì hầu hết toàn là những anh chàng lúng búng hy vọng con gái gã nhận lời một cuộc hẹn.
Maggie khoác tay chồng và hỏi:
- Nam Phi thế nào ?
- Ngày càng thở nên bấp bênh hơn - Connor đáp. Gã đã được thông báo đầy đủ về các vấn đề ở Nam Phi trong bữa ăn trưa với Carl Koeter ơ Cape Town, thêm vào nữa là cả một tập báo mà gã đã đọc trên đường đến Sydney - Tỷ lệ tội phạm tăng lên ở tất cả các thành phố lớn, nghĩa là lái xe vượt đèn đỏ sau khi trời tối không còn là phạm luật nữa. Mbeki đã hết sức cố gắng, nhưng anh e rằng vẫn phải khuyến cáo với công ty giảm bớt các khoản đầu tư vào khu vực đó của thế giới, ít nhất cho tới khi tin rằng người ta có thể kiểm soát được cuộc nội chiến.
Maggie nói:
- Khi tất cả sụp đổ - Khu trung tâm không còn - Chỉ còn lại sự hỗn loạn bao trùm lên thế giới.
Connor nói:
- Anh nghĩ là Yeast chưa bao giờ đến thăm Nam Phi.
Hầu như lúc nào gã cũng muốn nói với Maggie tất cả sự thật và giải thích vì sao trong bao năm nay gã phải sống một cuộc sống dối trá. Nhưng điều đó chẳng dễ dàng chút nào. Nàng có thể là bà chủ của gã, nhưng họ cũng là chủ, và gã đã luôn luôn tuân thủ điều luật hoàn toàn im lặng. Suốt bao nhiêu năm gã đã cố gắng tự thuyết phục mình rằng hoàn toàn không biết gì về sự thật là tốt nhất cho nàng. Nhưng khi nang nói đến chữ "nhiệm vụ" và "an toàn" một cách không suy nghĩ như vậy gã nhận ra rằng nàng biết nhiều hơn gã tưởng. Không hiểu trong lúc ngủ gã có nói mơ không? Nhưng thôi, hãy nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa đâu, gã sẽ không phải lừa dối nàng nữa. Maggie vẫn chưa biết rằng Botogá là nhiệm vụ cuối cùng của gã. Trong kỳ nghỉ này gã sẽ nói bóng gió về môt sự thăng tiến cho phép gã không phải đi xa nhiều như trước nữa.
Maggie hỏi:
- Thế còn công việc thế nào? Chúng ta có thể thu xếp được không?
- Công việc ư? À,có chứ, nói chung là khá tốt so với kế hoạch - Connor nói. Đó là điều gần nhất với sự thật mà gã dám nói với vợ.
Connor bắt đầu nghĩ đến hai tuần tới được phơi mình dưới ánh nắng mặt trời. Trong khi họ đi qua một cột báo, gã thoáng nhìn thấy một dòng tít nhỏ trên cột báo bên trái của tờ Sydney Morning Herald.
Phó Tổng thống Mỹ sẽ đi dự lễ tang ở Colombia.
Maggie buông tay chồng ra, họ ra khỏi nhà thờ để đi ra ngoài khoảng không ngập tràn không khí ấm áp, và đi về phía bãi đỗ xe. Tara hỏi:
- Lúc Cape Town bị ném bom thì bố đang ở đâu?
Koeter chẳng hề nói năng gì đến việc Cape Town bị ném bom cả. Liệu có lúc nào gã có thể cảm thấy thư thái được không?
Chương 6
Ông bảo lái xe đưa đến phòng tranh Quốc gia.
Khi chiếc xe mới ra tới cổng Nhà trắng một sĩ quan thuộc Lực lượng bảo vệ mật đứng ở chòi gác chạy ra mở cánh cổng sắt và giơ tay chào ông. Lái xe rẽ sang Quảng trường Nhà nước và đi qua cục thương mại.
Bốn phút sau chiếc xe dừng lại trước cổng phía đông của phòng tranh Quốc gia. Ông bước nhanh trên con đường dải đá cuội để lên bậc thềm bằng đá. Lên đến bậc trên cùng ông ngoái lại để chiêm ngưỡng bức tượng Henry Moor vĩ đại đứng sừng sững ở cuối quảng trường, đồng thời kiểm tra xem có bị ai theo dõi không. Ông không chắc lắm, nhưng dẫu sao ông có phải nhà nghề đâu.
Ông đi vào toà nhà và rẽ trái để đi lên cầu thang bằng đá cẩm thạch dẫn lên phòng tranh ở tầng hai nơi ông từng trải qua không biết bao nhiêu giờ hồi còn trẻ. Những gian phòng rộng lớn đông đặc học sinh, điều hơi là trong một buổi sáng ngày thường. Ông bước vào phòng 71, nhìn lên những bức tranh quen thuộc của Homer, Bellow, Hopper và bắt đầu cảm giác như đang ở nhà - một cảm giác mà ông không bao giờ có được khi ở trong Nhà trắng. Ông chuyển sang phòng 66 để được một lần nữa ngắm nhìn bức August Saint - Gauden Tưởng nhớ Shaw và Quân đoàn thứ 54 Massachusetts. Lần đầu tiên khi thấy bức tranh đồ sộ, sống động và dữ dội này ông đã đứng sững sờ trước nó hơn một tiếng đồng hồ. Lần này ông chỉ có thể ngắm nó vài phút.
Bởi vì ông cứ luôn luôn dừng lại cho nên phải mười lăm phút sau ông mới tới được gian nhà vòm ở giữa toà nhà. Ông đi nhanh qua bức tượng Mercury và đi xuống cầu thang, len lỏi qua kho sách, chạy xuống một cái cầu thang nữa và qua gian phòng lớn ở tầng trệt, cuối cùng bước vào cánh phía đông. Ông đi dưới bức Calder lớn treo suốt từ trần nhà xuống, xuyên qua các cánh cửa quay để ra khỏi toà nhà và bước lại ra con đường rải đá cuội. Đến lúc này thì ông đã yên tâm là không có ai đi theo mình. Ông nhảy vào chiếc taxi xếp đầu tiên trong hàng, nhìn qua cửa sổ ông thấy xe mình và lái xe đang chờ ở phía bên kia quảng trường.
- Đến A.V ở Đại lộ New York.
Người lái xe rẽ trái sang đại lộ Pennsylvania rồi chạy về phía North Street. Ông cố gắng sắp xếp những ý nghĩ thành một trật tự dễ hiểu nào đó và lấy làm vui mừng vì người lái xe không muốn chuyện gẫu trên đường bằng cách phát biểu các quan điểm của mình về các vấn đề hành chính, hoặc biết đâu về Tổng thống nữa cũng nên.
Họ rẽ sang đại lộ New York và ngay lập tức chạy chậm lại. Xe chưa kịp dừng hẳn ông đã đưa cho người lái xe tờ giấy mười đô la rồi bước ra đóng sập cửa lại không chờ trả lại tiền.
Ông bước qua mái hiên sọc trắng, đỏ và xanh lá cây với dáng vẻ rõ là chủ nhân của nơi đây và đẩy cửa. Mất một hồi lâu mắt ông mới quen được với ánh sáng lờ mờ bên trong. Khi đã quen mắt ông mới yên tâm khi thấy gian phòng trống không, chỉ có một bóng người ngồi đang nghịch nghịch chiếc cốc đựng nước cà chua uống dở. Bộ quần áo lịch sự cắt rất đẹp chứng tỏ anh ta không phải là một kẻ thất nghiệp. Mặc dầu có thân hình của một vận động viên điền kinh nhưng cái trán hói sớm khiến anh ta có cáivẻ già hơn cái tuổi ghi trong hồ sơ. Mắt họ gặp nhau, anh ta gật đầu chào. Ông bước tới và ngồi xuống trước mặt anh ta.
- Tôi là Andy… - ông bắt đầu nói.
- Ngài Andy, điều bí ẩn không phải ở chỗ ông là ai, mà ở chỗ tại sao thư ký nhà nước lại muốn gặp tôi? - Chris Jackson nói.
Stuart Mc Kenzie hỏi:
- Vậy bác làm chuyên môn gì?
Maggie liếc nhìn chồng: thường thì chồng chị không thích một câu hỏi liên quan đến nghề nghiệp như vậy.
Connor nhận ra Tara chưa báo trước để anh chàng mới tinh này đừng vi phạm lời hứa của cô là sẽ không nói chuyện về công việc của cha.
Chưa bao giờ gã có một bữa ăn trưa vui vẻ như vậy. Cá tươi rói, chắc vừa được đánh trước khi họ ngồi vào cái bàn ăn nhỏ ở góc bãi biển Cronulla này. Hoa quả thì không hề có thuốc bảo quản hoặc đóng hộp, còn bia thì gã chỉ hy vọng người ta sẽ xuất khẩu sang Mỹ thứ bia này. Connor uống một ngụm cà phê rồi ngồi thả người dựa trên lưng ghế, nhìn người ta lướt ván chỉ cách đó một trăm mét - một môn thể thao mà gã ước gì mình được biết cách đây hai mươi năm. Stuart rất ngạc nhiên khi thấy tuy mới thử lần đầu nhưng cha Tara trông có vẻ rất cường tráng. Connor cười cười nói rằng gã vẫn rèn luyện cơ thể hai ba lần một tuần. Thật ra hai ba lần một ngày mới gần đúng với sự thật.
Mặc dầu gã sẽ chẳng bao giờ thừa nhận có ai xứng đáng với con gái mình, nhưng Connor phải thừa nhận rằng trong mấy ngày qua gã đã thấy thích thú khi có chàng luật sư trẻ ở bên cạnh.
- Tôi làm trong ngành bảo hiểm - Gã nói với Stuart, biết chắc rằng con gái cũng nói với anh ta như vậy.
- Vâng, Tara nói bác là chuyên viên cao cấp, nhưng cô ấy không kể thêm chi tiết nào về bác cả.
Connor mỉm cười:
- Đó là vì bác chuyên làm các vụ bắt cóc và đòi tiền chuộc, vì thế bác cũng coi trọng các bí mật của khách hàng như cháu vẫn thường đảm bảo trong nghề của cháu vậy - Connor tự hỏi trả lời như vậy có khiến cho chàng trai thôi không theo đuổi đề tài này nữa không. Nhưng không hề.
- Nghe có vẻ thú vị hơn những vụ liên quan đến điều hành các mỏ như cháu vẫn thường phải tư vấn - Stuart nói, cố gợi chuyện.
- Bác có thể nói chín mươi phần trăm các vụ là giống nhau và chán ngắt - Connor nói - Bác cho là thực tế có lẽ bác còn phải giải quyết các công việc giấy tờ còn nhiều hơn cháu nữa kia.
- Nhưng cháu có bao giờ được sang Nam Phi đâu.
Tara lo lắng liếc về phía cha, biết rằng Connor sẽ không hài lòng khi thấy thông tin này đến tai một người xa lạ. Nhưng Connor không tỏ ra bực mình tí nào.
- Phải, bác phải thừa nhận là nghề nghiệp đó cũng có đôi điểm bù lại.
- Nếu bác kể cho cháu nghe một vụ điển hình thì có hại gì đối với các bí mật của khách hàng không?
Maggie định chen vào bằng một câu mà chị đã dùng nhiều lần trước đây thì chính Connor lại hăng hái:
- Cái công ty mà bác đang làm việc này đại diện cho nhiều khách hàng có những quyền lợi ở nhiều nước.
- Vậy tại sao các khách hàng không muốn thuê những công ty ở các nước sở tại? Nhất định là họ có cảm giác tốt hơn về bối cảnh ở địa phương chứ?
Maggie chen vào:
- Connor,em nghĩ là anh bị cháy nắng rồi đấy. Có lẽ chúng ta nên trở về khách sạn nếu không thì trông anh sẽ giống như một con tôm hùm mất.
Connor thấy bối rối vì sự chen ngang không mấy tự nhiên của vợ, nhất là vì gã vẫn đội mũ suốt một giờ nay. Gã nói tíêp với chàng luật sư trẻ:
- Không bao giờ hoàn toàn dễ dàng như vậy đâu. Thử lấy một công ty như Coca Cola làm ví dụ. Bác phải nói rõ là bác không đại diện cho công ty đó. Họ có văn phòng ở khắp các nước trên thế giới, sử dụng hàng chục ngàn lao động. Ở mỗi nước họ đều có những người điều hành cao cấp.
Maggie không thể tin nổi rằng Connor lại cho phép câu chuyện đi xa đến thế. Họ đã đi rất nhanh đến gần câu hỏi sẽ khiến mọi sự tò mò muốn đi sâu thêm đều bị ngăn lại.
Stuart cúi xuống để rót thêm cho Connor một ít cà phê và hỏi:
- Nhưng ở đây cũng có những người đủ khả năng tiến hành những công việc như vậy ở Sydney này. Dù sao đi nữa thì việc bắt cóc và đòi tiền chuộc cũng không phải là việc chưa từng xảy ra ở Australia.
- Cám ơn cháu - Connor nói và uống một ngụm cà phê nữa trong khi cân nhắc câu nói này. Stuart vẫn quan sát rất tỉ mỉ - đúng như một luật sư bên nguyên giỏi anh kiên nhẫn chờ với hy vọng là đến một lúc nào đó nhân chứng sẽ có một câu trả lời không hợp ly.
- Thực ra là bác không bao giờ bị gọi tới nếu không phải là trường hợp đặc biệt phức tạp.
- Phức tạp ư?
- Ví dụ, thử nói rằng một công ty rất lớn có mặt ở một nước mà tội phạm là rất phổ biến, bắt cóc và đòi tiền chuộc là chuyện thông thường. Chủ tịch của công ty đó bị bắt cóc - nhưng thường là vợ ông ta, bởi vì bà ta không phải lúc nào cũng được bảo vệ kỹ càng.
- Vậy là lúc đó bác phải đến ư?
- Không, không cần thiết. Dù sao đi chăng nữa thì cảnh sát địa phương có thể có đủ kinh nghiệm để đối phó với những vấn đề như vậy, và không có nhiều hãng thích sự can thiệp từ bên ngoài, nhất là những kẻ từ Mỹ sang. Thường thường thì bác chỉ bay đến các thành phố lớn và bắt đầu tiến hành những điều tra riêng. Nếu như trước đó bác đã có dịp đến các thành phố đó và có các quan hệ thân thiết với cảnh sát địa phương thì bác cũng sẽ chỉ làm cho họ biết rằng bác đang có mặt, nhưng ngay cả khi đó bác cũng sẽ chờ họ yêu cầu hợp tác.
- Thế nếu họ không yêu cầu thì sao? - Tara hỏi. Stuart ngạc nhiên khi thấy rõ ràng là trước đây cô chưa bao giờ hỏi cha câu đó.
Connor nói:
- Vậy thì bố sẽ phải làm việc một mình. Như vậy sẽ làm cho quá trình bấp bênh hơn nhiều.
Stuart nói:
- Nhưng nếu cảnh sát không có được tiến triển nào thì tại sao họ lại không muốn nhờ đến sự giúp đỡ của bác kia chứ? Nhất định họ phải biết trình độ chuyên môn của bác.
- Bởi vì cũng có khi chính cảnh sát cũng tham gia ở một mức độ nào đó.
Tara nói:
- Hình như con chẳng hiểu gì cả.
Stuart nói:
- Cảnh sát địa phương cũng có thể nhận được một phần trong số tiền chuộc, vì thế họ sẽ không hoan nghênh sự can thiệp từ bên ngoài. Dù sao đi nữa, họ có thể nghĩ là một công ty nước ngoài thừa sức trả tiền chuộc ấy.
Connor gật đầu. Thật dễ hiểu vì sao Stuart lại được làm việc với một trong những văn phòng chống tội phạm nổi tiếng nhất Sydney.
Stuart hỏi:
- Vậy bác sẽ làm gì nếu bác nghĩ rằng cảnh sát địa phương cũng được chia phần?
Tara bắt đầu nghĩ giá như mình báo trước để Stuart đừng lạm dụng sự may mắn của anh để đi quá xa như vậy, mặc dầu cô đã nhanh chóng đi đến kết luận là người Australia chẳng hề biết khái niệm "quá xa" nghĩa là thế nào.
- Khi xảy ra điều đó thì anh sẽ phải nghĩ đến việc tự mình thương lượng, bởi vì nếu khách hàng của anh bị giết thì anh có thể tin chắc rằng những điều tra sau đó sẽ không còn hoàn toàn chính xác nữa, và bọn bắt cóc sẽ chẳng bao giờ bị bắt cả.
- Vậy một khi bác đã đồng ý thương lượng thì bác sẽ bắt đầu thế nào?
- À, giả sử như bọn bắt cóc yêu cầu một triệu đô la - Bọn bắt cóc bao giờ cũng đòi một con số tròn trĩnh, thường thường là bằng đô la Mỹ. Giống như mọi nhà đàm phán chuyên nghiệp khác, trách nhiệm đầu tiên của bác là phải đạt được kết quả đàm phán tốt nhất trong phạm vi có thể. Và yếu tố quan trọng nhất là phải đảm bảo cho người của công ty đó không bị phương hại gì. Nhưng bác sẽ không bao giờ để cho mọi việc tới mức phải thương lượng nếu như bác cảm thấy khách hàng có thể được thả mà công ty không phải đưa cho bọn chúng xu nào. Anh càng trả nhiều, thì khả năng chỉ mấy tháng sau là tội ác lặp lại càng lớn, đôi khi bọn bắt cóc lại bắt cóc đúng người đó.
- Bác có hay phải thương lượng không?
- Khoảng năm mươi phần trăm số lần. Đó chính là điểm cho người ta thấy có phải là họ đang làm việc với một tay chuyên gia hay không. Anh càng kéo dài thời gian thương lượng thì kẻ không chuyên nghiệp sẽ càng lo sợ bị lộ. Và sau vài ngày thường thường chúng bắt đầu thấy thích nạn nhân, do đó hầu như không thể tiến hành được kế hoạch ban đầu của chúng. Ví dụ, trong trường hợp bắt cóc Đại sứ Peru, cuối cùng chúng ta đưa ra việc đấu một ván cờ vua. Và tên khủng bố đã thắng.
Cả ba người cười ầm lên, khiến cho Maggie cảm thấy đỡ căng thẳng hơn một chút. Stuart hỏi với nụ cười nhăn nhó:
- Vậy cái tên đã gửi tai người qua đường bưu điện đó là tay chuyên nghiệp hay không chuyên nghiệp?
- Bác rất sung sướng nói rằng bác không đại diện cho cái công ty đã thay mặt cho cháu trai của ngài Getty. Nhưng ngay cả khi thương lượng với một tay chuyên nghiệp bác cũng vẫn nắm một số con bài tốt nhất.
Connor không để ý thấy vợ và con gái đã để cho cà phê của họ nguội ngắt.
Stuart nói:
- Bác nói tiếp đi.
- Phải, phần lớn các vụ bắt cóc là một việc chỉ làm một lần, và mặc dầu gần như bao giờ cũng do một tay tội phạm chuyên nghiệp thi hành, tên này có thể có rất ít hoặc không có tí kinh nghiệm nào trong việc thương lượng trong tình huống như vậy. Một tên tội phạm chuyên nghiệp hầu như bao giờ cũng quá tự tin. Chúng tưởng là chúng có thể làm được tất cả mọi việc. Không khác gì một luật sư nghĩ rằng anh ta có thể mở tiệm ăn chỉ vì anh ta ăn ba bữa mỗi ngày.
Stuart mỉm cười:
- Vậy nếu chúng nhận ra là khó có thể đòi được con số hàng triệu khó tin thì liệu chúng có chịu thoả thuận không?
Connor nói:
- Bác chỉ có thể phát biếu dựa trên những kinh nghiệm của chính bản thân mình mà thôi. Thường thường là cuối cùng bác chịu trả một phần tư con số chúng đòi - và trả bằng những đồng tiền đã được đánh dấu. Chỉ có một lần duy nhất bác phải trả đúng theo con số chúng đưa ra ban đầu. Nhưng trường hợp đó bác đã phải bảo vệ trước hội đồng là ngay cả Thủ tướng quốc đảo đó cũng dự phần.
- Có bao nhiêu trường hợp bọn chúng tẩu thoát được?
- Trong số những vụ mà bác thực hiện trong mười bảy năm qua thì chỉ có ba trường hợp chúng nuốt trôi, tính ra là tám phần trăm.
- Không tồi lắm. Và có bao nhiêu khách hàng không cứu được?
Lúc này họ đã đặt chân lên một lĩnh vực mà từ trước đến nay Maggie chưa bao giờ dám mạo hiểm hỏi đến, chị bắt đầu nhấp nhổm không yên trên ghế.
- Nếu như anh không cứu được khách hàng thì công ty sẽ bảo vệ anh đến cùng - Gã ngừng lại một lúc - Nhưng không một ai được phép làm hỏng việc đến lần thứ hai.
Maggie đứng lên, quay lại nói với Connor:
- Em đi bơi đây. Có ai muốn đi cùng tôi không nào?
- Con không muốn bơi, nhưng con sẽ lướt ván thêm một lần nữa - Tara đứng lên và hăng hái góp sức với mẹ để chấm dứt cuộc dò hỏi.
- Sáng nay con đã ngã mấy lần rồi? - Connor hỏi, tỏ vẻ khẳng định là gã cũng thấy câu chuyện đi xa đến thế đã là hoàn toàn đủ.
Tara nói:
- Khoảng một chục lần. và đây là vết đau nhất - Cô tự hào chỉ vào một vết thâm tím trên đùi phải.
Maggie ngồi xuống để nhìn kỹ vết thâm tím:
- Stuart sao cháu để nó mạo hiểm như thế này?
- Tại vì như vậy cháu sẽ có dịp để cứu cô ấy và tỏ ra rất anh hùng.
Connor cười phá lên:
- Cẩn thận đấy, Stuart. Cuối tuần này nó sẽ là bậc thầy lướt ván, và lại quay ra cứu cháu đấy.
Stuart mỉm cười:
- Cháu biết thế chứ. Nhưng bao giờ xảy ra chuyện đó thì cháu lại giới thiệu cho cô ấy môn nhảy tử thần.
Maggie trắng bệch mặt, vội vã quay sang nhìn về phía Connor.
Stuart vội vã nói thêm:
- Bác Fitzgerald, bác đừng lo. Đến lúc đó thì mọi người đã về Mỹ lâu rồi.
Không một ai muốn nhớ đến chuyện phải trở về Mỹ.
Tara nắm lấy cánh tay Stuart;
- Đi thôi, siêu nhân. Đã đến lúc để tìm một con sóng nữa cho anh cứu em rồi đấy.
Stuart nhảy bật dậy. Anh quay sang phía Connor, nói:
- Nếu có bao giờ bác thấy con gái bác bị bắt cóc thì cháu sẽ không đòi tiền chuộc đâu - và cháu cũng sẽ không chiụ thương lượng, dù bằng tiền Mỹ hay bất cứ tiền gì.
Tara đỏ mặt:
- Đi nào.
Họ chạy ra bãi biển.
Connor vươn vai và nói với Maggie:
- Và cũng sẽ là lần đầu tiên anh nghĩ là anh không cố gắng thương lượng.
Maggie nói và cầm lấy tay chồng:
- Quả là một chàng trai đáng yêu. Chỉ tiếc là cậu ta không phải là người Irish.
Connor đứng dậy, nói:
- Vẫn còn khả năng tệ hơn thế nữa kia. Nó có thể là người Anh thì sao?
Maggie mỉm cười trong khi hai người cùng bước về bãi lướt ván.
- Anh biết không, tận năm giờ sáng nay nó mới về đấy.
Connor cười:
- Chớ có nói với anh là em nằm thức đến tận sáng mỗi khi con gái hẹn ai đi chơi đấy nhé.
- Nói khẽ thôi, Connor Fitzgerald, và hãy nhớ rằng đó là đứa con độc nhất của chúng mình.
Gã nói:
- Maggie, nó không còn là một đứa trẻ nữa. Nó là một phụ nữ đã trưởng thành, và chưa đầy một năm nữa nó sẽ là tiến sĩ Fitzgerald.
- Và dĩ nhiên là anh có lo lắng gì về nó đâu.
Connor ôm lấy vợ:
- Em biết rõ là anh lo lắng cho nó. Nhưng nếu nó yêu Stuart - đó không phải là việc của anh - thì nó có thể làm những chuyện tồi tệ hơn.
- Trước khi chúng mình cưới nhau em không hề ngủ với anh, và ngay cả khi người ta nói là anh đã mất tích ở Việt Nam em cũng không hề nhìn đến một người đàn ông nào khác. Và không phải là thiếu những lời mời mọc.
Connor nói:
- Anh biết, em yêu. Nhưng lúc đó em đã hiểu rằng không thể có ai thay thế anh được.
Connor buông vợ ra và chạy về phía những ngọn sóng và cố giữ để chỉ chạy trước vợ một bước. Cuối cùng Maggie cũng đuổi kịp gã, miệng thở hổn hển:
- Declan O’Casey đã cầu hôn em trước khi…
Gã nhìn vào đôi mắt xanh thẳm, lấy tay vuốt một lọn tóc xoà xuống mặt nàng, đáp:
- Em yêu, anh biết. Và không một ngày nào trôi qua mà anh không lấy làm cảm tạ rằng em đã chờ anh. Đó là điều duy nhất giữ cho anh còn sống. Điều đó và ý nghĩ sẽ được nhìn thấy Tara…
Những lời nói của Connor khiến Maggie nhớ đến nỗi buồn trong những lần bị sảy thai và biết rằng mình sẽ không thể có thêm được một đứa con nữa. Lớn lên trong một gia đình đông đúc, bản thân chị cũng mong rằng mình sẽ đẻ thật nhiều con. Chị vẫn không chấp nhận được lý luận của mẹ: Đó là do ý chúa.
Trong thời gian Connor sang Việt Nam, chị đã có bao nhiêu giờ phút hạnh phúc cùng Tara. Nhưng kể từ khi Connor được đoàn tụ với hai mẹ con thì cô con gái dường như đột nhiên thay đổi sự chú ý của nó, và cho đến giờ mặc dù hai mẹ con vẫn rất thân nhau nhưng Maggie biết rằng mình chẳng bao giờ có nổi mối quan hệ như Connor đối với con gái.
Khi Connor quyết định làm việc cho Công ty bảo hiểm Maryland với chức danh Điều phối viên tập sự Maggie đã cảm thấy rất khó hiểu. Chị luôn nghĩ rằng giống như người cha, gã sẽ làm việc gì đó trong ngành hành pháp. Đó là trước khi gã giải thích cho chị hiểu thực sự gã đang làm việc cho ai. Mặc dầu gã không nói rõ một cách chi tiết, nhưng cho chị biết ai là người trả lương cho gã và nhiệm vụ đặc biệt của một sĩ quan không chíng thức hay còn gọi là NOC. Chị đã giữ bí mật cho gã suốt bao nhiêu năm, mặc dầu đôi khi việc không thể nói chuyện với bạn bè hay đồng nghiệp về nghề nghiệp của chồng mình có chút gì đó hơi kỳ quặc. Nhưng chị thấy rằng điều đó chỉ là thứ yếu so với những cái mà các bà vợ khác bị các ông chồng buộc phải ngắt điện thoại vì nói những chi tiết lê thê về công việc mà họ muốn giữ bí mật.
Và chị thật sự hi vọng là một ngày kia con gái chị cũng sẽ tìm được một ai đó có thể ngồi suốt đêm trên ghế đá chỉ để nhìn thấy nó ra kéo rèm cửa sổ.
Chương 7
Jackson châm một điếu thuốc và lắng nghe thật cẩn thận từng chữ do người của Nhà Trắng nói ra, không hề chen lời ông ta lần nào.
Cuối cùng khi Lloyd nói xong ông mới uống một hớp trong chai nước suối acqua minerale để trước mặt và chờ nghe xem câu hỏi đầu tiên của viên cựu phó giám đốc CIA sẽ là gì.
Jackson dụi điếu thuốc:
- Cho phép tôi hỏi vì sao ngài lại nghĩ rằng tôi là người thích hợp để thi hành nhiệm vụ này?
Lloyd không ngạc nhiên. Ông đã quyết định rằng nếu Jackson hỏi câu đó thì ông sẽ nói đúng sự thật.
- Chúng tôi biết rằng anh từ chức khỏi CIA bởi vì một sự bất đồng quan điểm với Helen Dexter - Ông cố tình nhấn mạnh từng chữ mặc dầu các thành tích của anh là rất mẫu mực, và cho đến tận lúc đó anh vãn được đánh giá là người kế tục đương nhiên của bà ta. Nhưng từ khi anh từ chức với những lý do mà bề ngoài có vẻ kỳ quặc, tôi tin rằng anh vẫn chưa tìm được một chỗ làm xứng đáng với khả năng của mình. Chúng tôi cho rằng Dexter cũng có làm đôi động tác về chuyện đó.
Jackson nói:
- Chỉ cần gọi một cú điện, dĩ nhiên là không ghi âm lại - thế là đột nhiên người ta thấy mình bị loại khỏi bất cứ danh sách sơ tuyển nào. Tôi vốn luôn luôn thận trọng khi nói một điều gì không hay về cuộc sống, nhưng trong trường hợp Helen Dexter thì tôi lấy làm sung sướng có một ngoại lệ.
Anh ta châm một điếu thuốc khác, nói:
- Ngài thấy đấy, Dexter tin rằng Tom Lawrence chỉ giữ vị trí quan trọng thứ hai ở Mỹ. Bà ta mới là người bảo vệ đức tin chân chính, là pháo đài cuối cùng của dân tộc và đối với bà ta các chính khách thắng cử chẳng qua chỉ là một sự bất tiện tạm thời và sớm hay muộn cũng bị các cử tri hất khỏi ghế.
Lloyd nói một cách ý nhị:
- Tổng thống đã có nhiều dip nhận biết điều đó.
- Ngài Lloyd, Tổng thống đến rồi đi. Tôi cuộc rằng cũng như tất cả chúng ta, Tổng thống cũng là con người và vì thế ngài có thể tin chắc là Dexter cũng có một tập hồ sơ dành riêng cho ông ta, trong đó chứa đầy những lý do khiến cho ông ta không đủ khả năng làm tiếp một nhiệm kỳ Tổng thống thứ hai. Tiện thể cũng nên nói rằng bà ta cũng dành cho ngài một tập hồ sơ dày chẳng kém.
- Vậy thì chúng ta cũng hãy bắt đầu tập hồ sơ của mình. Anh Jackson, tôi không nghĩ ra một ai khác có đủ khả năng làm việc này hơn anh.
- Chúng ta sẽ bắt đầu từ đâu?
Lloyd nói:
- Bằng việc điều tra xem ai là kẻ đứng đàng sau vụ ám sát Ricardo Guzman ở Botogá tuần trước. Chúng tôi có lý do để tin rằng CIA tham dự vào đó, trực tiếp hoặc gián tiếp.
Jackson ngỡ ngàng hỏi:
- Mà Tổng thống không được biết sao?
Lloyd gật đầu và lấy từ trong cặp ra một tập hồ sơ và đẩy nó sang bên kia bàn. Jackson lật mở nó ra. Lloyd nói:
- Cứ đọc đi. Bởi vì anh sẽ phải ghi nhớ mọi thứ.
Jackson bắt đầu đọc, và mặc dầu chưa đọc hết trang đầu tiên anh ta đã có vẻ hiểu ra.
- Nếu chúng ta giả thiết rằng đó là một tay bắn tỉa đơn độc thì việc cố gắng tìm kiếm những thông tin đáng tin cậy là hầu như không thể được. Loại người đó sẽ chẳng để lại điạ chỉ đâu - Jackson dừng lại một chút - Nhưng nếu chúgn ta đang có chuyện với CIA thì Dexter đã đi trước chúng ta cả mười ngày nay rồi. Có thể bà ta đã biến tất cả những đại lộ có thể dẫn tới tên giết người biến thành những ngõ cụt - trừ khi…
- Trừ khi…? - Lloyd lặp lại.
- Tôi không phải là kẻ duy nhất mà bà ta chống lại trong nhiều năm qua. Chỉ có thể là còn có một người nữa ở Botogá đã. - Anh ta ngừng lại một lát - Tôi có bao nhiêu thời gian?
- Ba tuần nữa Tổng thống mới của Colombia sẽ sang thăm chính thức Washington. Nếu lúc đó chúng ta có được cái gì thì rất có ích.
Jackson lại dụi điếu thuốc và nói:
- Nghe có vẻ giống như những ngày xưa rồi đấy. Ngoại trừ việc lần này có thêm được niềm vui là Dexter chính thức ở phía đối phương - Anh ta lại châm một điếu thuốc khác - Tôi sẽ làm việc cho ai đây?
- Một cách chính thức thì anh làm việc tự do. Nhưng không chính thức thì anh làm việc cho tôi. Anh sẽ được trả lương tương đương với mức lương anh được hưởng hồi ở CIA, được gửi hàng tháng vào tài khoản của anh, mặc dầu hiển nhiên là tên anh không có ở bất cứ loại sổ sách nào. Tôi sẽ liên lạc với anh bất cứ khi nào…
- Không, ngài sẽ không liên lạc với tôi, ngài Lloyd. Tôi sẽ liên lạc với ngài mỗi khi có được điều gì đó đáng phải báo cáo. Liên lạc hai chiều sẽ chỉ làm tăng gấp đôi nguy cơ bị nghe trộm mà thôi. Tôi chỉ cần một số máy không có nguồn gốc mà thôi.
Lloyd viết bảy chữ số lên một tờ giấy ăn:
- Số máy này sẽ chuyển thẳng đến bàn làm việc của tôi, ngay cả thư ký riêng của tôi cũng bỏ qua. Sau nửa đêm nó sẽ được tự động chuyển tới máy điện thoại đặt ở đầu giường tôi. Anh có thể gọi cho tôi bất cứ ban ngày hay ban đêm. Anh không cần phải áy náy về việc giờ giấc khác biệt với nơi anh đang có mặt, bởi vì tôi sẽ không phiền lòng chút nào nếu có bị gọi dậy vào lúc nửa đêm.
- Biết được điều đó là rất tốt, bởi vì tôi không nghĩ là có bao giờ Helen Dexter ngủ.
Lloyd mỉm cười:
- Chúng ta còn việc gì chưa bàn không?
Jackson nói:
- Chưa hết đâu. Khi ra khỏi đây ngài hãy rẽ phải, rồi lại rẽ trái. Đừng nhìn lại phía sau và đừng gọi taxi nếu ngài chưa đi bộ hết bốn đoạn phố. Từ giờ trở đi ngài cần phải suy nghĩ như Dexter và xin báo trước cho ngài rằng bà ta đã ở trong nghề ít nhất ba mươi năm. Tôi chỉ biết một người duy nhất có thể vượt mặt bà ta.
Lloyd nói:
- Hy vọng người đó là anh.
Jackson nói:
- Rất tiếc người đó không phải là tôi.
- Đừng nói với tôi rằng anh ta đã làm việc cho Dexter.
Jackson gật đầu:
- Ngay cả dẫu cho anh ta là bạn thân nhất của tôi, nhưng nếu Dexter ra lệnh cho anh ta giết tôi thì sẽ chẳng có một công ty bảo hiểm nào trong thành phố dám bảo hiểm tính mạng cho tôi cả. Nếu ngài hy vọng tôi đánh bại cả hai người đó thì tốt hơn hết là ngài hãy hy vọng là giá tôi mục rữa từ tám tháng qua còn hơn.
Hai người đứng dậy. Jackson nói trong lúc họ bắt tay nhau:
- Tạm biệt, ngài Lloyd. Rất tiếc đây là lần gặp gỡ đầu tiên và cũng là lần gặp cuối cùng của chúng ta.
Lloyd lo lắng nhìn người mới được tuyển dụng:
- Nhưng tôi nghĩ là chúng ta đã đồng ý…
- Làm việc với nhau, chứ không phải là tiếp tục gặp gỡ nhau. Ngài thấy đấy, Dexter sẽ không thể coi việc gặp nhau đến lần thứ hai là tình cờ nữa.
Lloyd gật đầu:
- Tôi chờ để nghe tin tức từ phía anh.
Jackson nói:
- Ngài Lloyd, còn một điều nữa. Đừng đến thăm Phòng tranh Quốc gia nữa, nếu không phải chỉ để xem tranh.
Lloyd nhăn mặt hỏi:
- Tại sao lại không?
- Bởi vì người bảo vệ lúc nào cũng ngủ gà ngủ gật ở phòng số 71 bao giờ cũng được bố trí ở đó mỗi khi ngài đến thăm. Tất cả những cái đó có trong tập hồ sơ về ngài. Tuần nào ngài cũng tới đó một lần. Có phải Hopper vẫn là hoạ sĩ ngài yêu thích nhất không?
Môi Lloyd khô khốc:
- Vậy có nghĩa là Dexter cũng biết cuộc gặp gỡ này rồi?
Jackson nói:
- Không, lần này ngài gặp may. Hôm nay là ngày nghỉ của tên bảo vệ đó.
Mặc dầu Connor đã nhiều lần nhìn thấy con gái khóc hồi nó còn bé, những khi nó bị đứt tay, bị thâm tím trên người, thậm chí những khi không được làm theo ý mình nhưng lần này thì hoàn toàn khác. Trong lúc nó bám lấy Stuart, gã giả vờ như đang chăm chú vào cái giá để những cuốn sách bán chạy nhất và nhớ lại những ngày nghỉ thú vị nhất mà gã chưa bao giờ được hưởng. Gã đã lên được vài cân và gần như đã trở thành bậc thầy trong môn lướt ván, mặc dầu trước đó đã phải nếm mùi không biết bao nhiêu cú ngã lộn. Trong hai tuần qua, đầu tiên gã thấy thích Stuart, sau đó cũng bắt đầu đánh giá anh khá cao. Ngay cả Maggie cũng thôi không nhắc gã là đêm qua Tara lại không về phòng. Gã coi đó là sự chấp nhận miễn cưỡng của vợ.
Connor nhặt tờ Sydney Morning Herald đặt trên quầy báo. Gã lật qua các trang và chỉ để ý đến các đầu đề bài báo khi giở đến trang quốc tế. Gã liếc nhìn Maggie lúc này đang trả tiền mua mấy thứ quà lưu niệm, những thứ mà hiển nhiên là họ chẳng bao giờ bày hoặc đem tặng ai và cuối cùng chắc chắn sẽ nằm trong đống quà giáng sinh của cha Graham.
Gã lại cúi xuống tờ báo. Dòng tít: "Herrera giành thắng lợi áp đảo trong cuộc bầu cử ở Colombia" chạy ngang hai cột báo ở cuối trang. Gã đọc bài báo viết về chiến thắng dễ dàng của vị tân Tổng thống nhờ sự thay thế vào phút chót của Đảng Nhân dân, thay cho Ricardo Guzman. Bài báo viết tiếp: Herrera dự định sẽ sang thăm Mỹ trong thời gian sắp tới để thảo luận với Tổng thống Lawrence về những vấn đề mà hiện nay Colombia đang phải đối mặt. Trong các vấn đề đó nổi lên…
- Anh xem mua cái này cho Joan có được không?
Connor nhìn lên thấy vợ đang giơ một cái đồ chơi in hình cảng Sydney.
- Hơi quá mốt so với chị ấy.
- Vậy bao giờ lên máy bay chúng ta sẽ mua cái gì trong cửa hàng miễn thuế vậy.
Một giọng nói vang khắp sân bay:
- Đây là lần thông báo cuối cùng mời lên chuyến bay của Hàng không Mỹ chuyến bay số 816 đi Los Angeles. Xin mời những hành khách chưa lên máy bay ra ngay cổng số 27.
Connor và Maggie bắt đầu đi về phía cửa, cố chậm lại vài bước trước con gái và Stuart, họ đang ôm cứng lấy nhau như đang trong cuộc chạy thi chạy ba chân. Sau khi hai người đã đi qua cửa kiểm tra hộ chiếu Connor quay lại trong khi Maggie đi tiếp tới để nói với người kiểm tra ở cổng ra là còn có hai hành khách cuối cùng sắp đến ngay bây giờ.
Một lúc sau Tara miễn cưỡng xuất hiện, Connor nhẹ nhàng ôm lấy vai con gái:
- Bố biết là khó có thể an ủi được con, nhưng bố nghĩ cậu ta…- Connor lưỡng lự.
- Con biết - Tara vừa nói vừa thổn thức - Bao giờ về đến Stanford con sẽ hỏi xem người ta có cho phép con làm nốt luận văn ở Đại học Tổng hợp Sydney hay không.
Connor nhìn thấy vợ đang đứng bên cạnh cô chiêu đãi viên bên cửa ra máy bay. Nhìn thấy cô gái đang khóc thút thít, cô khẽ hỏi Maggie:
- Cô ấy sợ bay à?
- Không, chỉ có điều nó phải để lại sân bay một thứ mà hải quan không cho đem ra.
Hầu như suốt chuyến bay mười bốn giờ từ Sydney đi Los Angeles Maggie toàn ngủ. Tara cứ thắc mắc mãi không hiểu sao mẹ lại có thể ngủ được như vậy. Cô uống bao nhiêu viên thuốc ngủ mà chỉ có thể lơ mơ chợp đi chút ít. Cô nắm chặt tay bố, nhưng Connor chỉ mỉm cười mà không nói gì.
Tara mỉm cười lại với bố. Từ khi còn bé tí bố vẫn là trung tâm trong cuộc sống của cô. Không bao giờ cô lo lắng đến chuyện sẽ không gặp được một người đàn ông khác có thể thay thế chỗ của bố, và đến lúc ấy bố có thể chấp nhận được chuyện đó. Giờ đây chuyện đó đã xảy ra, cô sung sướng thấy bố ủng hộ cô biết bao. Nếu có vấn đề gì thì lại là ở phía mẹ.
Tara biết rẳng nếu cứ để mặc mẹ mình thì có thể cô vẫn còn là trinh nữ, và có thể vẫn cứ ở nhà mãi với cha mẹ. Đến tận lớp mười một cô mới thôi tin rằng nếu như hôn một đứa con trai thì sẽ có thai. Đó là khi bọn bạn trong lớp truyền cho cô một bản coppy của quyển "Niềm vui tình dục". Đêm đến Tara cuộn tròn mình trong mền cùng với ngọn đèn pin và lật từng trang.
Nhưng chỉ đến khi học xong trường Stone Ridge cô mới bị mất trinh - và nếu như tất cả mọi người trong lớp đều nói thật thì ắt hẳn cô là người mất trinh cuối cùng. Tara được cùng bố mẹ về thăm quê, chuyến đi mà bố cô đã hứa từ lâu. Cô yêu đất Irish lên và những con người ở đó ngay từ phút đầu đặt chân lên Dublin. Trong bữa ăn tối ở khách sạn ngay hôm đầu tiên, Tara đã nói với bố là cô không hiểu tại sao người Irish lại không bằng lòng ở lại quê hương mà cứ phải di cư.
Người phục vụ trẻ đứng ở bàn họ đã nhìn cô và đọc:
Đất Irish không có nghĩa gì đâu.
Bạn nói thế sao? Bạn điên rồi.
Đất Irish vô cùng ý nghĩa.
Một khi tất cả đều biết dùng súng và dùng ngòi bút.
Maggie nói:
- Walter Savage Landor. Nhưng cậu có biết câu tiếp không?
Người phục vụ cúi đầu:
Và khi Tara đứng dậy cao lồng lộng…
Tara đỏ bừng mặt, còn Connor thì cười phá lên. Người phục vụ có vẻ bối rối.
- Đấy là tên tôi - Tara giải thích.
Cậu ta lại cúi đầu rồi dọn dao đĩa. Trong khi bố thanh toán tiền bữa ăn còn mẹ đang đi lấy áo, người phục vụ hỏi khi nào cậu hết ca Tara có vui lòng đi uống cà phể ở Gallagher không. Tara vui sướng nhận lời.
Mấy giờ sau đó Tara ngồi trong phòng mình xem một cuốn phim cũ, quá nửa đêm một chút cô rón rén bước xuống tầng dưới. Cái tiệm cà phê mà Liam giới thiệu ở ngay cuối đường, chỉ cách đó có vài trăm mét và khi Tara bước vào cô đã thấy cậu đứng chờ nơi quầy rượu. Liam không hề lãng phí thì giờ với việc giới thiệu với cô những thú vui ở Guinness. Cô không hề ngạc nhiên khi biết rằng cậu làm công việc bồi bàn trong kỳ nghỉ hè, trước khi cậu học xong năm cuối ở trường đại học Trinity, cậu nghiên cứu về các nhà thơ Irish. Tuy vậy Liam rất ngạc nhiên khi thấy cô trích dẫn rất hay những câu thơ của Yeast, Joyce, Wilde và Synge. Hai giờ sau khi đưa cô về phòng cậu hôn nhẹ lên môi cô và hỏi:
- Em ở lại Dublin có lâu không?
- Hai ngày nữa - Cô nói.
- Vậy chúng ta đừng để phí một giây nào.
Sau ba đêm không ngủ, Tara rời Dublin đi tới thăm quê hương của Oscar ở Kilkenny, cô cảm thấy mình có đủ trình độ để thêm vào một hai dòng trong cuốn Niềm vui tình dục.
Khi Liam mang đồ đạc của họ ra chiếc xe thuê, Connor đã cho anh một khoản tiền thưởng hậu hĩnh và thì thầm nói:
- Cám ơn cậu.
Tara đỏ bừng mặt.
Trong năm đầu tiên ở Stanford Tara cũng có một chuyện có thể gọi là chuyện tình ái với một sinh viên y khoa. Nhưng chỉ đến khi nhận được lời cầu hôn cô mới hiểu rằng mình không hề muốn sống nốt cuộc đời với anh ta. Vậy mà Stuart không cần mất đến một năm cô đã có được một kết luận khác hẳn.
Họ gặp nhau lần đầu tiên khi đâm sầm phải nhau. Đó là lỗi của cô - Cô đã không hề nhìn trước khi cắt ngang đường trượt của anh trong khi anh phóng xuống một con sóng lớn. Cả hai người chao đi. Khi anh nâng cô lên khỏi mặt nước, Tara chờ nghe một tràng trách mắng. Thay vì thế anh ta chỉ mỉm cười và nói:
- Lần sau cô nhớ tránh những làn lướt nhanh.
Chiều hôm đó cô lại lặp lại lỗi cũ, nhưng lần này là cố ý. Và anh biết là cô cố ý.
Anh phá lên cười và nói:
- Cô chỉ cho tôi có hai con đường để lựa chọn. Hoặc là tôi sẽ bắt đầu dạy cô lướt sóng, hoặc chúng ta hãy đi uống cà phê. Nếu không thì có lẽ lần gặp gỡ sau đây của chúngta sẽ là ở trong bệnh viện. Cô chọn đàng nào?
- Hãy bắt đầu bằng cà phê vậy.
Đêm đó Tara đã muốn ngủ cùng với Stuart. Mười ngày sau, đến lúc phải về cô chỉ ước mình đừng có bắt anh phải chờ đến tận ba ngày sau hôm gặp gỡ đầu tiên đó. Và lúc cuối tuần…
- Đây là cơ trưởng chuyến bay của các vị. Hiện nay chúng ta bắt đầu hạ độ cao để hạ cánh xuống Los Angeles…
Maggie choàng dậy, dụi mắt và mỉm cười với con gái, hỏi:
- Mẹ ngủ thiếp đi à?
Tara đáp:
- Không, mãi đến khi máy bay cất cánh mẹ mới ngủ mà.
Sau khi lấy hành lý Tara chào tạm biệt bố mẹ rồi quay đi để lên chuyến máy bay tiếp đi San Francisco. Trong khi cô mất hút vào đám đông người vừa đến và sắp đi của sân bay, Connor thì thầm vào tai Maggie:
- Anh sẽ không ngạc nhiên nếu nó quay lại bay chuyến bay sắp tới đến Sydney.
Maggie gật đầu.
Họ đi về phía nhà ga nội địa và leo lên chiếc "Con mắt đỏ". Lần này Maggie thấy buồn ngủ ngay khi video chiếu lại những động tác thoát hiểm vừa xong. Trong khi bay qua các bang, Connor cố xua đuổi ý nghĩ về Tara và Stuart và tầp trung để nghĩ đến những việc cần phải làm khi về đến Washington. Chỉ ba tháng nữa thôi là gã sẽ không ở trong danh sách những nhân viên tác chiến nữa, nhưng gã vẫn chưa biết được người ta dự định chuyển gã về phòng nào. Gã ghê sợ cái ý nghĩ sẽ phải làm một công việc bàn giấy từ chín giờ sáng đến năm giờ chiều ở tổng hành dinh và những bài giảng cho các nhân viên NOC trẻ về những kinh nghiệm trên mặt trận. Gã đã báo trước cho Joan là có thể gã sẽ thôi việc nếu như không được người ta dành cho một việc thú vị hơn. Gã chẳng hề được sinh ra để làm giáo viên.
Trong những năm qua có nhiều lời bóng gío về một vài vị trí hàng đầu mà người ta cân nhắc dành cho gã, nhưng đó là trước khi sếp của gã thôi việc không một lời giải thích. Mặc dầu gã đã có hai mươi tám năm phục vụ và được rất nhiều lời khen, Connor được biết rằng giờ đây khi Chris Jackson không còn ở trong công ty thì tương lai của gã không được hoàn toàn đảm bảo như gã vẫn hình dung nữa.
Chương 8
-Anh có chắc rằng Jackson có thể tin cậy được không?
- Không, thưa Tổng thống. Nhưng tôi chắc chắn một điều: Jackson cũng chán ghét - tôi xin nhắc lại là chán ghét - Helen Dexter chẳng kém gì ngài.
Tổng thống nói:
- Được cái đó cũng tốt chẳng kém gì một thư giới thiệu. Còn lý do gì nữa khiến anh chọn anh ta? Bởi vì nếu chỉ chán ghét Dexter là đủ yêu cầu để làm việc này thì có vô khối ứng cử viên khác.
- Anh ta còn có một số nét khác mà tôi cần tìm kiếm. Anh ta đã từng là một sĩ quan hồi ở Việt Nam, từng ở cương vị đứng đầu cơ quan tình báo địa phương, chưa kể đến danh tiếng là Phó giám đốc CIA.
- Vậy tại sao anh ta lại từ chức trong khi trước mắt còn có cả một sự nghiệp hứa hẹn như vậy?
- Tôi ngờ rằng Dexter cảm thấy anh ta quá hứa hẹn, và có vẻ như bắt đầu trở thành người cạnh tranh nghiêm túc với bà ta.
- Nếu như anh ta có thể chứng minh được rằng bà ta đã ra lệnh ám sát Ricardo Guzman, thì anh ta vẫn có thể hy vọng như vậy. Andy, có vẻ như anh đã chọn được người thích hợp nhất cho công việc rồi đấy.
- Jackson nói với tôi rằng còn có một người nữa tốt hơn.
Tổng thống nói:
- Vậy thì hãy lấy cả anh ta nữa.
- Tôi cũng đã nghĩ thế. Nhưng hoá ra anh ta đã đang làm việc cho Dexter.
- Vậy thì ít nhất anh ta cũng không được biết rằng Jackson làm việc cho chúng ta. Anh ta còn nói gì nữa không?
Lloyd mở tập hồ sơ và bắt đầu nói lại cho Tổng thống nghe nội dung cuộc nói chuyện giữa ông với Cựu Phó giám đốc CIA
- Nghe Lloyd kể xong, Lawrence chỉ nói:
- Có phải anh nghĩ rằng tôi cũng sẽ chịu ngồi không trong khi chờ Jackson đem đến cái gì đó chăng?
- Thưa Tổng thống, đó là điều kiện của anh ta, nếu như chúng ta muốn anh ta thực hiện nhiệm vụ ấy. Nhưng tôi có cảm giác rằng Jackson không phải loại người chịu ngồi không.
- Tốt hơn cho anh ta là không nên ngồi không, bởi vì Dexter còn ngồi thêm ngày nào ở Langley thì đối vơi tôi ngày ấy là quá nhiều. Hãy hy vọng là Jackson sẽ cung cấp cho chúng ta sợi dây đủ dài để treo cổ mụ ta trước công chúng. Và khi đó thì hãy tổ chức hành hình ở Vườn hồng.
Thư ký nhà nước cười phá lên:
- Điều đó có lẽ sẽ là hay cho cả hai việc của chúng ta: có thêm được một vài người Cộng hoà bỏ phiếu cho chúng toa ở Safe Street và Chương trình giảm tội phạm.
Tổng thống mỉm cười, hỏi:
- Sau đây là ai?
Lloyd nhìn đồng hồ nói:
- Thượng nghị sĩ Bedell đã phải chờ một lúc ngoài kia rồi.
- Ông ta muốn gì bây giờ?
- Ông ta hy vọng sẽ được báo cáo tóm tắt cho ngài về các sửa đổi mới nhất của Dự luật cắt giảm chi phí quốc phòng.
Tổng thống nhăn mặt:
- Ông có biết Zerimski đã kiếm được thêm bao nhiêu điểm trong cuộc thăm dò ý kiến mới không?
Vừa tra chìa khoá để mở cửa ngôi nhà nhỏ của họ ở Georgetown xong Maggie đã quay số 650. Connor bắt đầu dỡ đồ đạc và lắng nghe một phía câu chuyện giữa vợ và con gái.
- Mẹ chỉ gọi để cho con biết bố mẹ đã về đến nhà an toàn rồi thôi.
Connor mỉm cười trước màn kịch vụng về của vợ. Tara có thừa thông minh để không bị lừa nhưng gã biết con gái sẽ giả vờ như không biết.
- Mẹ, cám ơn mẹ đã gọi. Chỉ được nghe thấy tiếng mẹ là hay rồi.
Maggie hỏi:
- Ở chỗ con mọi việc ổn cả chứ?
- Vâng, mẹ ạ - Tara nói và tiếp theo là một hồi lâu cô cố thuyết phục để mẹ tin là cô sẽ không làm điều gì kỳ quặc. Khi tin chắc là mẹ đã tin lời mình, cô hỏi:
- Bố đâu hả mẹ?
- Bố đây này - Maggie đưa điện thoại cho Connor.
- Bố, bố có thể cho con một ân huệ không?
- Con nói đi.
- Bố hãy nói để mẹ hiểu là con sẽ không làm điều gì ngốc nghếch. Từ khi con về đến nhà đến giờ Stuart đã gọi điện hai lần, và vì anh ấy đã dự định - Cô hơi lưỡng lự - sang Mỹ trong dịp Giáng sinh, cho nên con tin là con có thể kiềm chế được cho đến lúc đó. Với lại bố này, con nghĩ là tốt hơn hết nên báo trước cho bố biết là con thích quà Giáng sinh là gì.
- Vậy đó là cái gì, con gái yêu của bố?
- Bố sẽ trả tiền điện thoại gọi ra nước ngoài cho con trong tám tháng tới. Con có cảm giác là nó sẽ đắt hơn là mua chiếc xe cũ mà bố hứa sẽ cho con nếu con đậu Ph.D.
Connor phá lên cười.
- Vậy tốt hơn hết là bố hãy được thăng chức như bố đã nói hồi chúng ta ở Australia.
- Tạm biệt, con yêu bố.
Connor gác máy và mỉm cười với Maggie. Gã toan nói với vợ đến lần thứ mười là đừng có lo lắng thì chuông điện thoại lại réo vang. Gã cầm máy, nghĩ rằng đó là Tara gọi lại. Nhưng không phải, Joan nói:
- Tôi xin lỗi là gọi đến mặc dù ôngvừa mới về đến nơi. Nhưng Sếp vừa nói với tôi, và có vẻ khẩn cấp lắm. Khi nào ông có thể đến nơi được?
Connor nhìn đồng hồ:
- Hai mươi phút nữa tôi sẽ có mặt - gã nói và đặt điện thoại xuống.
Maggie vừa tiếp tục dỡ đồ đạc, vừa hỏi:
- Ai đấy?
- Joan. Chị ấy muốn anh đến để ký mấy hợp đồng treo đã lâu. Chắc không mất thì giờ lắm đâu?
Maggie nói:
- Quái quỷ. Ởmáy bay em quên không mua gì cho chị ấy rồi.
- Trên đường đến văn phòng anh sẽ tìm mua một thứ gì đó.
Connor nhanh chóng chạy xuống tầng dưới và ra khỏi nhà trước khi Maggie có thể hỏi thêm câu nào. Gã leo lên chiếc Toyota cũ kỹ, nhưng mất một hồi lâu gã mới nổ máy được. Cuối cùng gã cũng đánh được "cái xe tăng già nua" - như lời Maggie tả - ra được phố Hai mươi mốt. Mười lăm phút sau gã rẽ trái sang đường M rồi rẽ tiếp, sau đó mất hút trong một khu đỗ xe dưới tầng hầm không có biển báo gì.
Khi Connor bước vào toà nhà , người lính gác chạm tay lên vành mũ chào và nói:
- Chào ngài Fitzgerald, chúc mừng ngài đã trở về. Tôi nghĩ là phải thư hai ngài mới về kia.
- Thế nên hai chúng ta mới gặp nhau thế này - Connor nói, giơ tay choà đùa lại rồi đi về phía dãy thang máy. Gã vào một buồng và đi lên tầng bảy. Bước ra hành lang, gã nhận được nụ cười chào của cô gái ngồi ở bàn lễ tân kê bên dưới tấm biển in đậm Công ty bảo hiểm Maryland. Trên tấm bảng dưới tầng trệt có ghi rằng công ty này đóng ở các tầng bảy, tám, chín và mười. Cô nhân viên lễ tân nói:
- Rất vui mừng được gặp ngài, ngài Fitzgerald. Có người đến gặp ngài đấy.
Connor gật đầu mỉm cười rồi đi tiếp dọc hành lang. Vừa rẽ trái gã đã nhìn thấy Joan đứng trước cửa phòng gã. Nhìn vẻ mặt chị gã đóan rằng chị đã chờ ở đây khá lâu. Rồi gã nhớ ra những lời của Maggie trước khi gã rời khỏi nhà, mặc dầu vẻ mặt của Joan không có vẻ như đang chờ được tặng quà. Chị nói và mở cửa cho gã.
- Sếp đến được mấy phút rồi.
Connor đi vào văn phòng. Người đang ngồi trước bàn gã kia có lẽ không bao giờ có một ngày nghỉ thì phải.
- Thưa giám đốc, tôi xin lỗi đã để bà phải chờ - gã nói - Tôi chỉ mới…
- Chúng ta gặp một số rắc rối - Helen Dexter chỉ nói có vậy và đẩy một cặp hồ sơ qua bàn.
Jackson nói:
- Hãy cho tôi một cái vỏ bọc, còn các việc khác để tôi lo.
Cảnh sát trưởng Botogá nói:
- Tôi rất muốn làm điều đó, Chris. Nhưng một vài đồng nghiệp của anh đã nói rất rõ ràng với tôi là hiện nay anh là một persona non grata (Một người không đảm bảo).
Jackson rót cho Cảnh sát trưởng một ly wisky nữa và nói:
- Tôi không bao giờ nghĩ rằng anh lại là một người thích chính xác kiểu ấy đấy.
- Chris, anh phải hiểu rằng khi anh còn là một người đại diện cho chính phủ anh thì bao giờ mọi việc cũng rõ ràng.
- Kể cả những khoản lót tay, nếu tôi nhớ chính xác.
Cảnh sát trưởng vẫn nói rất thản nhiên:
- Nhưng dĩ nhiên anh vẫn là người thứ nhất biết đánh giá rằng vẫn có những chi phí có thể thoả thuận được. - Ông ta uống một ngum wisky trong chiếc cốc pha lê - Với lại anh cũng thừa biết rằng hiện nay chỉ số lạm phát ở Colombia rất cao. Lương tôi có đủ cho mọi chi tiêu đâu.
Jackson nói:
- Từ bài thuyết lý nho nhỏ ấy tôi hiểu rằng tỷ giá vẫn như cũ, ngay cả đối với persona non grata, đúng không?
Cảnh sát trường uống nốt ly wisky, chùi ria mép và nói:
- Chris, ở cả hai nước chúng ta Tổng thống đều đến rồi đi - nhưng những người bạn cũ thì không.
Chris mỉm cười rồi lấy trong ví ra một chiếc phong bì và luồn qua gầm bàn đưa cho ông ta. Cảnh sát trưởng liếc nhìn vào trong phong bì rồi mở cúc áo chẽn và nhét chiếc phong bì vào.
- Tôi thấy rằng ông chủ mới của anh - lạy thánh Ala - không cho anh tự do như trước, khi động đến chuyện chi phí.
Jackson đáp:
- Một cái vỏ bọc, tôi chỉ cần có thế thôi.
Cảnh sát trưởng giơ cái ly không và chờ cho đến khi người bồi rót thêm đầy đến miệng. Ông ta uống một ngụm lớn nữa và nói:
- Chris, tôi vẫn luôn tin rằng nếu như anh muốn tìm kiếm một chỗ để mặc cả, thì không nơi nào tốt hơn là một cửa hiệu cầm đồ. - Ông ta mỉm cười rồi uống cạn ly rượu - Và ông bạn cũ ơi, xin nhớ rằng cái chuyện rắc rối mà hiện nay anh đang phải đối diện ấy mà, tôi sẽ bắt đầu từ quận San Francisco, và tôi sẽ chẳng phải làm gì nhiều hơn là một quầy hàng đâu.
Sau khi đọc xong từng chi tiết của bản ghi nhớ mật, Conor đưa trả cặp hồ sơ cho giám đốc.
Câu hỏi đầu tiên của bà ta khiến gã ngạc nhiên:
- Bao nhiêu lâu nữa thì anh đến hạn nghỉ hưu?
- Đến tháng giêng sang năm thì tôi đến hạn được loại khỏi danh sách tác chiến. Nhưng dĩ nhiên là tôi vẫn muốn được ở lại phục vụ công ty.
Dexter nói một cách thực tế:
- Hiện nay việc giải quyết một cách hài hoà đối với tài năng của anh quả là hoàn toàn không dễ dàng chút nào. Tuy nhiên có một vị trí còn trống mà tôi cảm thấy nếu đề cử anh thì sẽ thích hợp - Bà ta ngừng lại một lát - Đó là vị trí giám đốc văn phòng ở Cleveland.
- Cleveland ư?
- Phải.
Connor nói:
- Sau hai mươi tám năm làm việc cho công ty, tôi hy vọng bà có thể tìm cho tôi một việc gì đó ở Washington. Tôi tin rằng bà biết rõ là vợ tôi hiện là Chủ nhiệm khoa Nhân văn ở trường Đại học Tổng hợp Georgetown. Hầu như cô ấy sẽ không thể tìm được một vị trí tương đương ở Ohio.
Một hồi lâu im lặng.
Dexter nói với giọng như lúc đầu:
- Tôi mong được giúp đỡ anh, nhưng bởi vì lúc này ở Langley không có việc gì thích hợp với anh. Nếu như anh cảm thấy có thể nhận công việc ở Cleveland, thì có thể sau một vài năm nưã tôi sẽ đưa được anh về đây.
Connor nhìn thẳng vào người mà gã phục vụ suốt hai mươi sáu năm nay, đau đớn nhận ra bà ta đang hạ lưỡi dao hiểm độc lên mình, lưỡi dao mà trước đây bà ta đã từng sử dụng với bao nhiêu đồng nghiệp của gã. Nhưng tại sao lại như vậy, trong khi gã vẫn thực hiện những mệnh lệnh của bà ta chính xác đến từng chữ? Gã liếc nhìn cặp hồ sơ. Phải chăng Tổng thống đòi hỏi phải có một vật hy sinh một khi ông ta đã bị chất vấn sát sạt như vậy về những hoạt động của CIA ở Colombia. Phải chăng Cleveland là phần thưởng dành cho gã sau chừng ấy năm phục vụ?
Gã hỏi:
- Có còn cách nào khác không?
Giám đốc không hề lưỡng lự:
- Anh có thể chọn cách nghỉ hưu sớm.
Bà ta nói cứ như đang nói đến chuỵên thay một người gác cổng căn hộ của mình khi ông ta đến sáu mươi tuổi.
Connor ngồi im lặng, không thể tin nổi những điều đang nghe thấy. Gã đã cống hiến cả cuộc đời mình cho Công ty, và cũng như nhiều nhân viên khác đã bao lần gã đặt cuộc sống của mình chênh vênh trên bờ vực.
Helen Dexter đứng lên:
- Có lẽ khi nào quyết định được anh sẽ thông báo cho tôi sau nhé.
Bà ta đi ra, không nói thêm một lời nào.
Connor ngồi một mình im lặng hồi lâu, cố thấm hết những lời giám đốc vừa nói. Gã nhớ lại Chris Jackson đã kể lại cho gã một cuộc nói chuyện giống như thế này tám tháng trước đây. Nhưng với anh ta Giám đốc đề nghị một ghế ở Milwaukee. Gã nhớ hồi đó gã đã nói với Jackson:
- Chắc điều đó sẽ không bao giờ xảy ra đối với tôi. Dù sao đi nữa tôi cũng ở trong các nhóm tác chiến, và chẳng ai có thể nghi ngờ rằng tôi có thể đe doạ cái ghế của bà ta cả.
Nhưng Connor đã phạm phải một tội còn nguy hiểm hơn. Bằng cách thi hành mệnh lệnh của Dexter, gã đã vô tình trở nên nguyên nhân khiến bà ta có khả năng ngã ngựa. Nếu gã không còn ở đó để khiến bà ta vướng chân thì có thể bà ta lại sống sót. Gã tự hỏi trong bao nhiêu năm qua đã có biết bao nhiêu sĩ quan chân chính đã bị đem ra làm vật hy sinh cho tham vọng của bà ta?
Joan bước vào làm gián đoạn những ý nghĩ của gã. Không cần hỏi chị cũng biết là cuộc gặp không có gì tốt đẹp. Chị khẽ hỏi:
- Tôi có thể giúp gì được không ạ?
- Không, không có gì cả.
Sau một lúc im lặng gã nói thêm:
- Chị cũng biết rằng chẳng bao lâu nữa tôi sẽ được ra khỏi danh sách nhân viên tác chiến chứ?
Joan đáp:
- Vâng, ngày mồng một tháng giêng sang năm. Nhưng với thành tích của ông thì tôi nghĩ rằng công ty nhất định sẽ dành cho ông một cái bàn rộng và giờ làm việc của một người bình thường, và có lẽ có cả môt cô thư ký chân dài nữa chứ.
Connor nói:
- Dường như không đâu. Công việc duy nhất mà Giám đốc dành cho tôi là chuyển đến văn phòng của công ty ở Cleveland, và vì thế hiển nhiên không thấy nhắc gì đến một cô thư ký chân dài nào cả.
Joan ngỡ ngàng hỏi:
- Cleveland ư?
Connor gật đầu.
- !@#$%^&
Connor ngước nhìn người thư ký lâu năm của mình, không dấu nổi ngạc nhiên. Đó là ngôn ngữ mạnh nhất mà mười chín năm nay gã chưa từng thấy chị sử dụng về bất cứ ai, chứ đừng nói là về giám đốc.
Joan nhìn thẳng vào mắt gã nói:
- Ông sẽ nói với Maggie thế nào?
- Tôi cũng không biết nữa, nhưng bởi vì tôi đã lừa dối cô ấy trong hai mươi tám năm qua cho nên tôi tin rằng tôi sẽ phải nhận một cái gì đó.
Khi Chris Jackson mở cửa trước, một hồi chuông vang lên báo rằng có người đã bước qua cửa.
Botogá có tới hơn một trăm cửa hiệu cầm đồ, hầu hết là nằm ở quận San Francisco. Từ hồi thôi không còn là một điệp viên bình thường nữa Jackson không mấy khi làm công việc theo dõi cụ thể. Anh ta bắt đầu tự hỏi không hiểu ông bạn cũ cảnh sát trưởng có xui mình đuổi theo vịt trời hay không. Nhưng anh ta vẫn tiếp tục bởi vì biết rằng gã cảnh sát này bao giờ cũng có cách để đảm bảo sau này còn nhận được tiếp những phong bì đầy tiền.
Escobar ngước lên khỏi tờ báo buổi tối. Ông lão bao giờ cũng có thể phân biệt được ngừơi khách vừa bước vào là người mua hay người bán, thậm chí chỉ trước khi người đó kịp bước tới trước quầy. Cái kiểu nhìn của họ, bộ quần áo cắt đẹp hay xấu, thậm chí cả cái cách họ bước về phía ông. Chỉ cần liếc qua ông khách mới vào ông cũng đã lấy làm mừng là mình đã không đóng cửa sớm.
Escobar đứng dậy, nói:
- Xin chào ngài - Bao giờ ông cũng dùng đại từ "ngài" khi đó là một người định mua hàng - Tôi có thể giúp gì cho ngài được ạ?
- Cái khẩu súng bày ngoài kia...
- À vâng, tôi thấy ngài thật tinh đời. Đó thật sự là một vật đáng sưu tầm.
Escobar nâng cửa quầy lên và bước về phía cửa sổ. Ông lấy cái vali da và đặt nó lên bàn quầy để cho ông khách có thể nhìn kỹ hơn vật đựng trong đó.
Jackson chỉ cần liếc qua khẩu súng được làm bằng tay là biết ngay lai lịch của nó. Anh đã không hề ngạc nhiên khi thấy trong ổ đạn có một viên đã bị bắn đi.
- Ông đòi bao nhiêu cho cái này?
Nhận ra giọng Mỹ, Escobar nói:
- Mười ngàn đô la. Tôi không thể bớt chút nào đâu. Rất người hỏi tôi rồi.
Sau ba ngày lần mò khắp thành phố dưới cái nóng nồng nực, Jackson không còn hơi sức nào để mà mặc cả nữa. Nhưng anh ta không có đủ số tiền mặt trong tay, vả lại cũng không thể viết một cái séc hoặc giơ tấm thẻ du lịch ra.
Anh ta hỏi:
- Tôi có thể đặt trước một ít, và sáng sớm mai sẽ đến lấy được không?
Escobar nói:
- Tất nhiên là được ạ, thưa ngài. Có điều đối với vật đặc biệt này ngài sẽ phải đặt trước mười phần trăm.
Jackson gật đầu và lấy chiếc ví từ túi trong ra. Anh ta lấy ra mấy tờ bạc cũ và đưa cho người bán hàng.
Người bán hàng chậm rãi đếm mười tờ một trăm đô la rồi bỏ vào két và viết thêm giấy biên nhận.
Jackson nhìn xuống chiếc vali để ngỏ, mỉm cười và lấy chiếc vỏ đạn trong hộp đạn bỏ vào túi.
Ông lão vô cùng bối rối, không phải vì hành động của Jackson mà bởi vì ông có thể thề là khi ông mua khẩu súng này thì có đủ cả mười hai viên đạn.
Cô nói:
- Nếu không vì bố mẹ thì em sẽ thu xếp mọi sự và sang đấy với anh ngay ngày mai.
Stuart nói:
- Anh tin là hai bác sẽ hiểu.
Tara nói:
- Có thể. Nhưng như vậy cũng không làm em hết cảm thấy tội lỗi với những gì mà bố mẹ em đã hy sinh để em có thể làm xong Luận án Tiến sĩ. Chưa kể đến mẹ em. Mẹ có thể bị đau tim mất.
- Nhưng em nói là em có thể hỏi Trưởng khoa xem có cho phép em làm nốt luận án ở Sydney không kia mà.
Tara nói:
- Trưởng khoa của em thì không có vấn đề gì. Vấn đề là ở hiệu trưởng kia.
- Hiệu trưởng ư?
- Vâng. Hôm qua trưởng khoa của em đã nói chuyện với ông ta, ông ta đã trả lời là không thể đặt vấn đề ấy ra.
Im lặng một hồi lâu, Tara hỏi:
- Anh có còn ở đó không đấy?
- Anh còn ở đây chứ. - Sau đó là một tiếng thở dài, chẳng kém gì một chàng tình nhân của Shakespeare.
Tara nhắc:
- Chỉ còn có tám tháng thôi mà. Thực tế em có thể nói cho anh biết là còn bao nhiêu ngày. Và đừng có quên là anh đã hứa sang đây với em vào dịp Giáng sinh.
Stuart nói:
- Anh đang mong đến khi đó. Anh chỉ hi vọng là bố mẹ em sẽ không cảm thấy anh quấy rầy họ. Dù sao đi chăng nữa thì cũng khá lâu họ mới được gặp em.
- Đừng có ngốc nghếch thế. Bố mẹ em rất vui mừng khi em báo là anh sẽ đến nghỉ Giáng sinh với em. Mẹ rất ngưỡng mộ anh, và anh biết thừa anh là người đầu tiên được bố khen ngợi đấy.
- Bố em là một người rất đặc biệt.
- Anh nói thế nghĩa là thế nào?
- Em quá biết anh định nói gì rồi mà.
- Tốt nhất là em nên bỏ máy đây, nếu không bố em sẽ phải thăng chức chỉ để đủ tiền trả tiền điện thoại cho em mà thôi.
Stuart làm như không nhận thấy Tara đã thay đổi đề tài đột ngột đến thế nào.
Cô nói tiếp:
- Lúc nào em cũng thấy thật là lùng là anh vẫn còn làm việc trong khi em đã đi ngủ rồi.
Stuart đáp:
- Ồ, anh có thể nghĩ ra cách để thay đổi điều đó mà
Khi gã mở cửa thì chuông báo động réo vang. Chiếc đồng hồ quả lắc ở văn phòng phía bên ngoài điểm hai tiếng đúng lúc gã gạt tấm rèm sang bên để bước vào cửa hiệu. Gã nhìn vào ô cửa bày hàng. Khẩu súng không còn nằm ở đó nữa.
Phải nhiều phút sau gã mới tìm ra nó được giấu dưới quầy tính tiền.
Gã kiểm tra từng thứ, chú ý rằng có một viên đạn đã bị lấy đi. Gã cắp chiếc vali trong tay và lẻn ra nhang như lúc vào. Gã không hề lo lắng về chuyện có thể bị bắt. Cảnh sát trưởng đã cam đoan với gã rằng ít nhất phải ba mươi phút sau người ta mới có thể báo là cửa hiệu bị đột nhập. Trước khi đóng cửa gã liếc nhìn chiếc đồng hồ quả lắc. Lúc đó là hai giờ mười hai phút.
Khó mà lên án cảnh sát trưởng về chuyện ông bạn cũ của ông ta không đủ tiền mặt để mua khẩu súng. Và trong bất cứ trường hợp nào thì ông ta chỉ có rất thích khi được nhận tiền hai lần cho một mẩu thông tin duy nhất. Nhất là khi tiền trả lại là đồng đô la.
Chị rót cho gã tách cà phê thứ hai.
- Maggie, anh đang nghĩ đến chuyện thôi việc khỏi công ty và tìm một chỗ làm khá hơn, nghĩa là sao cho anh không phải đi đây đi đó mãi nữa.
Gã liếc về phía bàn bếp và chờ xem phản ứng của chị ra sao.
Maggie lại đặt ấm cà phê lên bếp hâm, uống một ngụm cà phê trong cốc của mình rồi mới lên tiếng:
- Tại sao lại là bây giờ? - Chị hỏi một cách đơn giản.
- Giám đốc nói rằng anh được rút ra khỏi những vụ bắt cóc tống tiền để thay bằng một nhân viên mới trẻ hơn. Đó là chính sách của công ty đối với lứa tuổi như anh.
- Thế nhưng còn thiếu gì việc trong công ty dành cho một người có kinh nghiệm như anh?
Connor nói:
- Giám đốc có đưa ra một đề nghị. Bà ta dành cho anh vị trí lãnh đạo một văn phòng của công ty ở Cleveland.
Maggie không tin ở tai mình:
- Cleveland ư?
Chị im lặng hồi lâu rồi khẽ nói:
- Tại sao giám đốc công ty lại nôn nóng muốn xua đuổi anh đi như vậy?
Connor không trả lời câu hỏi của chị:
- Ồ, không đến nỗi tệ như vậy đâu. Dù sao đi nữa, nếu như anh không nhận lời đề nghị ấy thì anh vẫn có thể về hưu và hưởng đầy đủ trợ cấp kia mà. Với lại Joan an ủi anh là có rất nhiều công ty bảo hiểm ở Washing ton này sẽ rất vui mừng nhận những người có kinh nghiệm như anh vào làm việc.
- Nhưng không phải cái công ty hiện nay anh đang làm cho nó - Maggie nói, vẫn nhìn thẳng vào mắt chồng. Connor bắt gặp ánh mắt của chị nhưng không sao nghĩ ra một câu trả lời thích đáng.
Tiếp theo là một sự im lặng bất thường.
Cuối cùng Maggie nói:
- Anh có nghĩ là đã đến lúc anh cần nói cho em nghe tất cả sự thật hay không? Hay anh nghĩ là em chỉ nên tiếp tục tin mọi lời anh nói, đúng như một người vợ tận tuỵ.
Connor cúi đầu vẫn im lặng.
- Anh không hề giấu em rằng Công ty bảo hiểm Maryland chỉ là một đơn vị của CIA. Và em cũng không bao giờ hỏi gặng anh về điều đó. Nhưng cuối cùng những chuyến đi lạ lùng của anh cũng để lại một chút bùn trên mũi giày đấy.
Connor ngây ngô hỏi:
- Anh không hiểu?
- Hôm qua em đến lấy quần áo của anh ở hiệu giặt là, người ta nói là tìm thấy trong túi áo anh cái này - Maggie đặt một đồng xu kẽm lên bàn - Người ta bảo là nó chỉ có giá trị ở trong nước Colombia.
Connor trố mắt nhìn đồng mười peso, vừa đủ để gọi một cuộc gọi nội hạt trong Botogá.
Maggie nói tiếp:
- Connor Fitzgerald, nhiều bà vợ khác sẽ ngay lập tức rút ra một kết luận. Nhưng anh đừng quên rằng em đã biết anh hơn ba mươi năm nay, và em biết rằng anh không thể lừa dối em như vậy.
- Maggie, anh hứa với em là...
- Connor, em biết. Bao giờ em cũng chấp nhận việc anh có lý do chính đáng để không hoàn toàn thẳng thắn với em trong bao nhiêu năm qua - Chị cúi tới cầm lấy tay chồng và nói - Nhưng nếu giờ đây anh bị quẳng đi như một cái vỏ chanh mà chẳng hề có lý do gì thì anh có cảm thấy là anh có quyền biết rõ những gì anh đã làm trong hai mươi tám năm qua không?
Jackson bảo người lái xe taxi chờ ở bên ngoài cửa hiệu cầm đồ. Gã nói mấy phút nữa gã sẽ ra ngay và sau đó cần anh ta đưa ra sân bay.
Gã vừa bước vào cửa hiệu cầm đồ Escobar đã vội vã đi ngay từ văn phòng phía ngoài vào. Trông ông ta có vẻ xúc động. Khi nhận ra người khách là ai ông ta liền cúi đầu chào, và không nói gì ông rút chìa khoá két đựng tiền rút ngăn kéo ra. Ông chậm rãi đếm mười tờ một trăm đô la và đưa cho ông khách. Ông ngước nhìn người Mỹ cao lớn nói:
- Tôi phải xin lỗi ngài, bởi vì khẩu súng đêm qua đã bị lấy trộm.
Jackson không nói gì.
Escobar nói tiếp:
- Điều lạ lùng là bất cứ kẻ trộm là ai thì hắn cũng không hề động đến một xu nào.
Jackson vẫn không nói gì. Sau khi gã đi khỏi ông lão Escobar không thể không nghĩ rằng tại sao ông ta có vẻ không hề ngạc nhiên.
Trong khi chiếc Taxi phóng về phía sân bay Jackson đặt tay vào túi áo vét để sờ cái vỏ đạn. Có thể gã vẫn chưa chứng minh được ai là ngưòi kéo cò, nhưng giờ đây gã không hề nghi ngờ gì về việc ai là người đã ra lệnh ám sát Ricardo Guzman.
Chương 9
Chiếc máy bay trực thăng nhẹ nhàng đậu xuống bãi cỏ bên cạnh Hồ gương nằm giữa đài tưởng niệm Washington và đài tưởng niệm Lincoln. Khi cánh quạt ngừng quay, một chiếc thang ngắn được hạ xuống. Cánh cửa của chiếc Con ó số chín bật mở và Tổng thống Herrera xuất hiện, bộ lễ phục khiến ông ta trông giống một nhân vật phụ trong phim. Ông ta đứng nghiêm giơ tay chào đáp lại hàng lính thuỷ đang đứng chờ rồi bước về phía chiếc limousin trang bị đầy đủ vũ khí của mình. Đoàn mô tô hộ tống tiến lên Đại lộ Mười bảy ngập những rừng cờ đủ màu sắc: cờ Colombia, cờ Mỹ, cờ các quận của Colombia.
Tom Lawrence, Lary Harrington và Andy Lloyd đang đứng chờ ông ta ở cổng phía nam của Nhà trắng. "Thùng rỗng kêu to" - Lawrence nghĩ trong lúc bước xuống để đón vị khách đến thăm.
- Ôi Antonio, ông bạn cũ của tôi - Lawrence nói trong khi Herrera ôm choàng lấy mình, mặc dầu trước đây họ mới chỉ gặp nhau có mỗi một lần. Cuối cùng khi Herrera buông vị chủ nhà ra Lawrence mới quay lại để giới thiệu ông ta với Harington và Lloyd. Ống kính máy ảnh loé liên tục, máy quay phim lia lịa trong khi hai vị Tổng thống bước vào Nhà trắng. Trong lúc họ đi dọc hành lang, đi dưới bức chân dung vĩ đại của George Washington, người ta còn chụp thêm được vô số những bức ảnh họ đang cười cởi mở.
Sau ba phút chụp ảnh cần thiết, Tổng thống mời khách vào phòng Bầu dục. Trong khi người ta bưng cà phê Colombia lên, cùng với vô số những bức ảnh khác được chớp thêm họ chỉ nói những chuyện xã giao. Cuối cùng khi còn lại với nhau trong phòng, Thư ký nhà nước bắt đầu hướng câu chuyện về quan hệ giữa hai nước hiện nay. Lawrence thấy mừng vì sáng nay Larry đã tóm tắt cho ông những vấn đề chính. Ông cảm thấy có thể nói chuyện một cách kẻ cả về những thoả thuận trước đây, về việc vụ thu hoạch cà phê năm nay, về vấn đề ma tuý, thậm chí về cả tuyến xe điện ngầm đang được một công ty Mỹ xây dựng ở Botogá theo một khoản trợ giúp ODA đã thoả thuận.
Trong khi thư ký nhà nước khéo léo đưa câu chuyện chuyển sang vấn đề trả các khoản nợ và sự chênh lệch giữa nhập khẩu và xuất khẩu giữa hai nước, Lawrence lại vẫn lan man nghĩ về những vấn đề sau đây trong ngày hôm nay ông sẽ phải đối diện.
Chương trình cắt giảm vũ khí đang bị sa lầy trước uỷ ban, và Andy đã báo trước rằng số phiếu bầu có thể sẽ không tập trung. Có thể ông sẽ phải gặp riêng nhiều Đại biểu Quốc hội, nếu như muốn đẩy cho vấn đề được thông qua. Ông biết rằng những cuộc viếng thăm Nhà trắng đầy hình thức đó thường chẳng gì khác ngoài việc mơn trớn về cái tôi của họ, khiến cho họ có thể trở về quận của mình và nói với các cử tri - nếu như họ là những người Dân chủ - rằng Tổng thống phải dựa trên sự ủng hộ của họ để có thể thông qua bất cứ một đạo luật nào. Trong khi chỉ còn chưa đầy một năm nữa là tới những cuộc bầu cử giữa kỳ, Lawrence hiểu rằng trong những tuần tới ông sẽ không có nhiều những cuộc họp bất thường.
Ông giật mình và trở lại hiện tại khi Herrera nói:
- …Và vì thế tôi phải đặc biệt cảm ơn ngài, thưa Tổng thống - nụ cười mở rộng trên mặt người lãnh đạo Colombia trong khi ba người Mỹ đầy quyền lực trố mắt nhìn ông ta không tin nổi.
- Antonio, ngài làm ơn nhắc lại đi- Tổng thống nói và không dám tin là mình nghe rõ vị khách nói gì.
- Bởi vì chúng ta đang ngồi riêng với nhau trong phòng bầu dục, tôi chỉ muốn nói rằng tôi rất trân trọng vai trò cá nhân ngài trong cuộc bầu cử của tôi.
Chủ tịch ban Giám đốc hỏi:
- Ông Fitzgerald, ông đã làm việc cho Bảo hiểm nhân thọ Maryland trong bao lâu rồi?
Đó là câu hỏi đầu tiên của ông ta trong cuộc phỏng vấn kéo dài hơn một giờ này.
Connor nhìn thẳng vào người đàn ông ngồi ở giữa bàn đối diện với gã, đáp:
- Đến tháng Năm này thì được hai tám năm, thưa ngài Thompson.
Người đàn bà ngồi bên cạnh Chủ tịch nói:
- Thành tích của ông rất đáng chú ý, và đáng tin cậy. Tôi xin được hỏi tại sao ông lại không muốn làm công việc hiện tại. Và có lẽ quan trọng hơn là tại sao dường như Maryland lại muốn ông thôi việc?
Tối hôm trước trong khi ăn tối, Connor đã bàn với Maggie là sẽ trả lời câu hỏi này như thế nào. Chị đã nói:
- Cứ nói sự thật thôi. Và đừng nghĩ đến chuyện nói dối làm gì, anh chẳng bao giờ là người nói dối giỏi đâu.
Gã không hề chờ đợi ở vợ một lời khuyên nào khác.
Gã đáp:
- Cơ hội thăng tiến duy nhất của tôi là rời đi Cleveland. Nhưng tôi cảm thấy không thể yêu cầu vợ tôi bỏ công việc hiện giờ của cô ấy ở Trường đại học Georgetown. Cô ấy sẽ không thể tìm được một vị trí tương đương như thế ở Ohio.
Vị thứ ba trong hội đồng phỏng vấn gật đầu. Maggie đã nói với gã rằng một trong các thành viên ban Giám đốc vốn có theo học năm cuối cùng ở Georgetown.
Chủ tịch nói:
- Có lẽ chúng tôi không cần hỏi thêm ông nữa làm gì. Ông Fitzgerald, tôi chỉ muốn được cám ơn vì chiều nay ông đã đến đây gặp chúng tôi.
Connor đứng dậy:
- Tôi rất hân hạnh.
Gã ngạc nhiên thấy Chủ tịch đứng dậy vòng qua chiếc bàn dài để đến cạnh gã:
- Tôi muốn mời ông và vợ ông đến ăn tối với chúng tôi vào một hôm nào đó tuần sau?- Ông ta vừa hỏi vừa tiễn gã qua cửa.
Connor đáp:
- Chúng tôi rất vui mừng nhận lời mời của ngài.
Chủ tịch nói:
- Hãy gọi tôi là Ben. Tất cả mọi người ở Washington Provident không ai gọi tôi là ngài cả, và dĩ nhiên là một chuyên viên cao cấp của tôi cũng vậy chứ - Ông ta mỉm cười và bắt tay Connor một cách ấm áp. - Tôi sẽ nói thư ký gị điện đến văn phòng ông và hẹn ngày chính xác. Tôi rất mong được gặp vợ ông - Maggie, đúng không nhỉ?
Connor đáp:
- Vâng, thưa ngài - Gã dừng lại một chút - và tôi cũng mong được gặp bà Thompson, Ben ạ.
Tham mưu trưỏng Nhà trắng cầm chiếc điện thoại màu đỏ lên nhưng chưa nhận ngay ra người gọi là ai.
- Tôi có vài thông tin mà có thể là ngài thấy có ích. Xin lỗi vì lâu tôi mới gọi tới.
Lloyd vội vớ lấy một mẩu giấy màu vàng và bật bút bi. Ông không cần ấn cái nút nào cả bởi vì mọi cuộc nói chuyện trên chiếc điện thoại này đều được tự động ghi lại.
- Tôi vừa từ Botogá về, tôi đã ở đó mười ngày, và có người đã đảm bảo rằng mọi cánh cửa đều không chỉ đóng sập vào mặt tôi mà còn bị khoá và chốt kỹ.
Lloyd đáp:
- Như vậy hẳn là Dexter đã biết anh định làm gì rồi.
- Tôi cuộc là ngay sau khi tôi nói chuyện với Cảnh sát trưởng địa phương.
- Nhưng như vậy có nghĩa là bà ta cũng biết cả việc anh hiện đang làm việc cho ai không?
- Không, về mặt đó thì tôi bọc rất kín, chính vì thế mà lâu như vậy tôi mới liên lạc với ngài. Và tôi có thể đảm bảo với ngài rằng sau khi để cho một nhân viên quèn của bà ta theo dấu, bây giờ bà ta không thể nào dò ra tôi báo cáo cho ai được. Tuỳ viên văn hoá của chúng ta ở Botogá hiện nay đang theo dõi một tay trùm ma tuý có tên tuổi, tất cả các sĩ quan cấp dưới ở Phòng chống các chất gây nghiện và tới một nửa lực lượng cảnh sát địa phương. Báo cáo của ông ta sẽ đầy kín nhiều trang và bọn họ phải mất hàng tháng để đọc hết nó, chứ đừng nói đến chuyện dò ra hiện nay tôi đang làm cái quái gì ở đây.
Lloyd hỏi:
- Anh đã tìm ra điều gì khiến chúng ta có thể đóng đinh lên Dexter chưa?
- Mọi sự đều tan biến khiến bà ta vẫn có thể biện bạch như mọi khi. Nhưng mọi chứng cứ cho thấy có bàn tay CIA đằng sau vụ ám sát này.
Lloyd đáp:
- Chúng tôi cũng đã biết điều đó. Nhưng mặc dầu các thông tin của chúng tôi rất đáng tin cậy, nhưng vấn đề của Tổng thống là ở chỗ không thể làm chứng trước toà được, bởi vì ông ta chính là người có lợi trực tiếp từ vụ ám sát. Anh có chứng cứ nào để có thể đưa ra trước toà được không?
- Duy nhất chỉ có Cảnh sát trưởng của Botogá. Nhưng hiển nhiên là độ tin cậy không chắc chắn. Nếu như hắn ra ra toà làm chứng thì ngài sẽ không thể biết chắc là hắn ta sẽ đứng về bên nào.
- Vậy thì làm thế nào anh biết chắc là CIA có tham dự vào đó?
- Tôi đã nhìn thấy khẩu súng mà tôi tin đã được sử dụng để bắn Guzman. Thậm chí tôi còn có vỏ viên đạn đã bắn ông ta. Thêm nữa, tôi hoàn toàn tin rằng tôi biết người đã làm ra khẩu súng. Đó là một người làm súng giỏi nhất, và ông ta có hợp đồng làm súng cho một số ít các NOC.
- NOC là cai quái gì?
- Đó là các sĩ quan không chính thức và không làm việc cho cơ quan chính phủ nào. Theo cách đó CIA bao giờ cũng có thể chối cãi được mọi hoạt động của họ, nếu có gì không hay xảy ra.
Lloyd nói:
- Vậy thì tên ám sát đó là một sĩ quan đang làm việc cho CIA?
- Có vẻ là như vậy. Trừ khi đó là người mới bị Dexter cho về nghỉ hưu cách đây mấy ngày.
- Vậy thì chúng ta nên trả lương cho một người nào đó chăng?
Jackson im lặng hồi lâu rồi mới trả lời:
- Ngài Lloyd, có lẽ đó là cách ở Nhà trắng các ngài thường làm, nhưng đó là một người sẽ không bao giờ phản lại chủ cũ của mình dù có được hối lộ bao nhiêu tiền đi chăng nữa. Đối với anh ta thì đe doạ cũng chẳng có nghĩa lý gì, dù ngài có dí súng vào đầu anh ta cũng vậy.
- Sao anh có thể tin chắc như vậy?
- Anh ta là người dưới quyền tôi hồi ở Việt Nam. Nếu thật sự ngài muốn biết thì tôi có thể nói rằng chỉ nhờ có anh ta mà tôi còn sống cho đến bây giờ. Và trong mọi trường hợp, chắc chắn Dexter đã phải thuyết phục được anh ta tin rằng mệnh lệnh là do Nhà trắng trực tiếp đưa ra.
Lloyd nói:
- Chúng tôi có thể nói với anh ta là Dexter nói dối.
- Như vậy chỉ khiến tính mạng anh ta bị nguy hiểm hơn mà thôi. Không, tôi có thể chứng minh sự dính líu của Dexter mà không để cho anh ta biết được chúng ta đang nhắm tới cái gì. Và điều đó không hề dễ dàng gì.
- Vậy anh định làm thế nào?
- Bằng cách đến với người sẽ phải về vườn cùng với anh ta.
- Anh có nghiêm túc không đấy?
- Vâng, bởi vì có một người yêu anh ta còn hơn cả yêu tổ quốc. Và có thể cô ta sẽ nói. Tôi sẽ liên lạc lại.
Điện thoại tắt ngấm.
Khi Nick Gutenburg, Phó Giám đốc CIA bước vào phòng khách của gia đình Fitzgerald, kẻ đầu tiến hắn nhìn thấy là Chris Jackson, người tiền nhiệm của hắn đang nói chuyện chăm chú với Joan Bennett. Không hiểu có phải anh ta đang nói ở Botogá anh ta làm việc cho ai không? Gutenburg rất muốn nghe lỏm xem họ đang nói gì, nhưng trước hết hắn phải tới chào vợ chồng chủ nhà đã.
Joan đang nói:
- Tôi sẽ làm việc với công ty chín tháng nữa. Lúc đó tôi mới có thể được nhận trợ cấp hưu trí toàn phần. Sau đó tôi mới hi vọng sẽ được làm việc với Connor ở chỗ làm mới của anh ấy.
Jackson nói:
- Tôi chỉ mới vừa nghe thấy chuyện đó. Nghe có vẻ lý tưởng đấy. Theo như Maggie nói với tôi thì anh ấy sẽ không phải đi nhiều nữa.
Joan nói:
- Đúng vậy, nhưng việc bổ nhiệm ông ấy vẫn chưa chính thức. Và ông cũng biết Connor cảm thấy thế nào khi bị gạt ra. Nhưng vì Giám đốc Washington Provident đã mời ông ấy và Maggie tới ăn tối nên tôi nghĩ là ông ấy sẽ được nhận vào chỗ đó thôi. Dĩ nhiên là trừ khi ngài Thompson chỉ muốn có đủ bốn chân chơi bài Bridge.
- Nick, anh đến thật hay quá - Connor thân mật nói và đưa cho Phó giám đốc một cốc Perrier. Không cần nhắc gã cũng nhớ rằng Gutenburg không bao giờ để cho giọt rượu nào trôi qua môi.
Gutenburg đáp:
- Có đánh đổi cả thế giới tớ cũng chẳng để nhỡ đâu.
Connor quay sang vợ nói:
- Maggie, đây là Nick Gutenburg đồng nghiệp của anh. Anh ấy làm ở…
Gutenburg vội vã chen vào:
- …Phòng đánh giá tổn thất. Chị Fitzgerald, tất cả chúng tôi ở Maryland sẽ nhớ anh ấy lắm đấy.
Maggie nói:
- Vâng, nhưng tôi tin rằng các anh sẽ lại gặp nhau trong công việc thôi, bởi vì giờ đây Connor lại sắp tới làm ở một công ty khác cùng nghề mà.
Connor nói:
- Vẫn chưa chắc đâu. Nhưng đến lúc đó anh sẽ là người đầu tiên tôi báo tin đấy, Nick.
Gutenburg vẫn nhìn về phía Jackson, khi anh ta vừa tách khỏi Joan Bennett hắn vội lách về phía cuối phòng để đến bên chị.
- Joan, tôi rất mừng được biết chị vẫn tiếp tục ở lại với Công ty - Hắn mào đầu - Tôi nghĩ có thể chị cũng chuyển sang làm cùng chỗ với Connor ở công ty mới của anh ấy.
- Không, tôi vẫn ở lại công ty chúng ta - Joan nói và băn khoăn không biết hắn biết đến đâu.
- Tôi chỉ nghĩ rằng vì Connor cũng sẽ làm nghề này…
Lại trò câu cá đây mà , Joan nghĩ và quả quyết đáp:
- Tôi cũng không biết nữa.
Gutenburg hỏi:
- Jackson đang nói chuyện với ai đấy?
Joan nhìn về phía cuối phòng. Giá như chị có thể nói rằng chị không biết, nhưng chị biết mình sẽ không nói dối được:
- Đấy là Cha Graham, Mục sư của gia đình Fitzgerald ở Chicago và Tara, con gái của Connor.
Gutenburg hỏi:
- Cô ta làm nghề gì?
- Hiện nay cô ấy đang làm luận án Tiến sĩ ở Stanford.
Gutenburg nhận thấy hắn sẽ phí thời gian nếu cứ cố moi những thông tin thật từ miệng người thư ký của Connor. Dẫu sao chị ta cũng đã làm việc cho Fitzgerald gần hai mươi năm nay, vì thế chẳng có gì đáng nghi ngờ về việc chị ta trung thành với ai. - Mặc dầu trong hồ sơ về chị cho thấy quan hệ giữa họ không có gì khác ngoài quan hệ công việc. Nhìn Bennett hắn nghĩ rằng có lẽ chị là cô gai đồng trinh ở tuổi bốn lăm duy nhất còn lại ở Washington này. Khi con gái Connor đi lại bàn rượu để rót thêm vào cốc mình, Gutenburg rời khỏi chỗ Joan không nói thêm lời nào nữa.
Hắn đưa tay ra và nói với Tara:
- Chú là Nick Gutenburg. Chú là bạn đồng nghiệp của cha cháu.
Cô nói:
- Cháu là Tara. Chú làm ở văn phòng trung tâm thành phố à?
Gutenburg đáp:
- Không, chú làm ở ngoại ô. Cháu vẫn ở West Coast để học nốt chứ?
- Vâng ạ - Tara đáp, có vẻ hơi ngạc nhiên - Thế còn chú? Chú làm việc ở chi nhánh nào của Công ty?
- Chú làm ở bộ phận đánh giá tổn thất. Việc đó đáng chán hơn việc của cha cháu nhiều, nhưng cũng phải có ai đó ngồi nhà và làm công việc giấy tờ chứ. - Hắn nói và khẽ cười - Với lại chú rất mừng khi được nghe về việc cha cháu sắp được bổ nhiệm vào chức vụ mới.
Vâng, mẹ cháu rất mừng vì cái công ty rất có uy tín đó chớp lấy cha cháu nhanh như vậy. Mặc dầu vẫn chưa chính thức.
Gutenburg nhấp một ngụm Perrier, nói:
- Cha cháu sẽ làm việc ở Washington chứ?
- Vâng, công ty đó chỉ cách văn phòng cũ của cha cháu có vài khối nhà… - Tara dừng lại khi nghe thấy một tiếng động mạnh. Cô quay lại và thấy Chris Jackson đang vỗ bàn để yêu cầu các vị khách trật tự. Tara thì thầm:
- Cháu xin lỗi. Đấy là chú ấy nhắc cháu quay lại với nhiệm vụ chính của cháu tối nay.
Cô quay nhanh đi, còn Gutenburg quay sang lắng nghe lời người tiền nhiệm của mình ở Langley.
Chris bắt đầu:
- Thưa các qúy ông quý bà - Anh ta chờ cho mọi ngưòi im lặng rồi mới nói tiếp - Tôi có đặc ân được nâng cốc chúc mừng hai người bạn lâu năm nhất của mình, Connor và Maggie. Trong bao nhiêu năm qua, Connor bao giờ cũng chứng tỏ là ngưòi luôn đẩy tôi vào những tình huống rắc rối.
Khách khứa cười rộ lên. Một người kêu to:
- Quá đúng.
Một người khác đế thêm:
- Tôi biết vấn đề là ở đâu rồi.
- Nhưng một khi bạn đã rơi vào tình huống rắc rối thì tôi không biết có ai tốt hơn anh ấy có thể kéo bạn ra khỏi đó - Mọi người vỗ tay nồng nhiệt - Chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên…
Gutenburg cảm thấy máy nhắn tin rung lên, hắn vội vã lấy ra. "TROY ASAP" - tin nhắn như vậy. Hắn tắt máy, lặng lẽ ra khỏi phòng và ra sảnh. Hắn nhấc chiếc điện thoại gần nhất cứ như đang ở trong nhà mình và quay một số điện thoại không có trong danh bạ. Một giọng nói cất lên ngay:
- Giám đốc đây.
- Tôi có nhận được tin nhắn của bà, nhưng hiện nay tôi đang ở trên một đường dây không an toàn - hắn không cần xưng danh.
- Điều tôi nói với anh thì chỉ vài giờ nữa cả thế giới sẽ biết.
Gutenburg không nói. Không cần lãng phí thời gian.
- Tổng thống Nga đã chết cách đây mười bảy phút - Helen Dexter nói - Báo cho văn phòng tôi biết ngay lập tức, và huỷ tất cả những việc định làm trong bốn mươi tám giờ tới.
Điện thoại tắt ngấm. Tất cả những cuộc gọi từ những đường dây không an toàn không bao giờ kéo dài quá bốn lăm giây. Helen có một chiếc đồng hồ hẹn giờ đặt sẵn trên bàn.
Gutenburg đặt lại điện thoại và chuồn ra theo cổng trước, không buồn chào tạm biệt bà chủ nhà. Gã ngồi trên xe trở về Langley đúng lúc Chris nâng cốc và nói:
- Chúc mừng Connor và Maggie, và tất cả những gì tương lai dành cho hai bạn.
Tất cả khách khứa nâng cốc:
- Chúc mừng Connor và Maggie.
Chương 10
Tom Lawrence nói:
- Tôi sẽ nói cho bà biết chính xác thông tin của tôi từ đâu ra. Đó là từ chính bản thân Tổng thống Colombia mà ra. Ông ta đã cám ơn cá nhân tôi về cái "vai trò mà tôi đã tham gia trong cuộc bầu cử của ông ta".
Helen nói không mảy may xúc động:
- Điều đó khó có thể gọi là bằng chứng được.
Tổng thống không hề giấu sự bực tức:
- Bà nghi ngờ lời tôi ư?
Dexter lạnh lùng nói:
- Dĩ nhiên là không phải thế, thưa Tổng thống. Nhưng nếu như ngài buộc tội CIA đã tiến hành một việc mà không báo cáovới ngài thì tôi hi vọng đó không chỉ đươn giản là dựa trên lời nói của một chính sách Nam Mỹ.
Tổng thống dướn người về phía trước:
- Tôi đề nghị bà hãy lắng nghe thật cẩn thận cuộn băng ghi âm một cuộc nói chuyện rất gần đây ở ngay văn phòng này. Bởi vì những điều mà bà nghe thấy dã khiến tôi bất ngờ nhận ra những sự thật mà tôi ngờ là những năm gần đây bà không hề bộc lộ.
Mụ Giám đốc vẫn trơ trơ, trong khi Nick Gutenburg ngồi bên phải mụ đã nhấp nha nhấp nhổm không yên trên ghế. Tổng thống gật đầu với Andy Lloyd, ông ta với tay bấm một cái nút trên chiếc máy ghi âm đặt ở góc bàn Tổng thống.
"Ngài có thể nói chi tiết hơn được không?"
"Dĩ nhiên là được ạ, mặc dầu tôi nghĩ là sẽ chẳng cung cấp được gì hơn ngoài những điều các ngài đã biết. Đối thủ duy nhất của tôi, Ricardo Guzman ngẫu nhiên đã bị loại một cách thuận tiện trước ngày bầu cử chỉ hai tuần."
"Chắc không phải ngài định nói là…" - Đó là giọng Lawrence .
"Vâng, nếu đó không phải là do người của các ngài, thì cũng nhất định không phải là người của tôi". - Herrera cắt ngang trước khi Lawrence kịp nói hết câu.
Tiêp theo là một hồi lâu im lặng khiến Gutenburg bắt đầu tự hỏi không hiểu có phải cuộc nói chuyện đã kết thúc không, nhưng vì Lawrence vàLloyd vẫn ngồi im nên hắn nghĩ chắc phải còn gì tiếp theo.
Cuối cùng Lloyd nói:
- Ngài có bằng chứng gì để nói CIA dính vào vụ ám sát này không?
- Người ta biết rằng viên đạn bắn trúng ông ta đã được bắn đi từ một khẩu súng, mà khẩu súng này mới được bán cho một cửa hiệu cầm hồ trước khi tên giết người trốn thoát khỏi nước tôi. Nhưng sau đó một điệp viên của các ngài đã lấy khẩu súng đó đi và gửi về Mỹ trong một chiếc cặp ngoại giao.
- Sao ngài có thể đoan chắc điều đó?
- Cảnh sát trưởng của tôi bao giờ cũng sẵn sàng với tôi hơn là CIA đối với ngài.
Andy Lloyd tắt máy ghi âm. Helen Dexter nhìn lên và thấy Tổng thống đang nhìn chằm chằm vào mình.
Lawrence hỏi:
- Thế nào, lần này bà có thể đưa ra một lời giải thích đơn giản nào không?
Bà ta thản nhiên nói:
- Từ cuộc đối thoại đó tuyệt nhiên không có môt bằng chứng nào chứng tỏ CIA có tham dự vào vụ ám sát Guzman. Tất cả những cái đó chỉ gợi cho tôi cảm thấy Herrera đang cố gắng che giấu kẻ đã thi hành mệnh lệnh của ông ta.
Tổng thống châm biếm nói:
- Tôi đoán là bà định nói đến cái tên "giết ngưòi đơn độc" mà từ đó đến giờ đã biến mất vào đâu đó ở Nam Phi thật đúng lúc.
- Thưa ngài Tổng thống, khi nào hắn ló mặt ra thì chúng tôi sẽ tìm ra hắn, và lúc đó tôi sẽ có thể đệ trình lên ngài những chứng cứ mà ngài yêu cầu.
Lawrence nói:
- Một người vô tội bị bắn vào lưng trên đường phố Johannesburg sẽ không là bằng chứng đầy đủ đối với tôi.
Dexter nói:
- Với tôi cũng vậy. Khi tôi đưa ra được kẻ phải chịu trách nhiệm về vụ ám sát đó thì sẽ không còn nghi ngờ gì về việc hắn làm việc cho ai - Giọng mụ hơi sắc lạnh.
Tổng thống nói:
- Nếu bà không làm được điều đó thì tôi sẽ không nghi ngờ gì về việc cuộn băng này sẽ được chuyển đến tay một phóng viên của tờ Washington Post, mà tình yêu của anh ta đối với CIA thì vốn ai cũng biết là nó ở mức độ nào. Chúng ta sẽ biết rằng Herrera đang tìm cách che đậy hay chỉ nói lên sự thật. Bà sẽ phải trả lời vô số câu hỏi khó chịu đấy.
Dexter không chùn bước:
- Nếu sự việc xảy ra như vậy thì chính ngài sẽ phải trả lời một hai câu gì đó, thưa Tổng thống.
Lawrence giận dữ đứng lên và nhìn thẳng vào mặt mụ ta:
- Tôi nói rõ là tôi vẫn đòi hỏi những chứng cứ đáng tin cậy về sự tồn tại của cái anh chàng Nam Phi đang mất tích đó. Trong vòng hai mươi tám ngày nếu như bà không đưa được anh ta ra thì tôi muốn được thấy đơn từ chức của cả hai người đặt trên bàn tôi đây. Bây giờ bà hãy đi ra khỏi phòng tôi đi.
Mụ giám đốc và viên phó của minh đứng dậy đi ra không nói thêm một lời nào. Cả hai không nói năng gì cho đến khi họ ngồi vào ghế sau của xe Dexter. Khi chiếc xe ra khỏi quảng trường Nhà trắng mụ bèn bấm một chiếc nút trên tay ghế, một tấm kính mờ bèn hạ xuống khiến cho người lái xe - cũng là một điệp viên lâu năm - không thể nghe thấy cuộc nói chuyện đang diễn ra sau lưng anh ta.
- Anh đã tìm ra công ty nào đã phỏng vấn Fitzgerald chưa?
Gutenburg nói:
- Đã.
- Vậy thì anh sẽ phải gọi một cú điện thoại cho Chủ tịch công ty đó.
Tên tôi là Nick Gutenburg, tôi là Phó giám đốc CIA. Có thể ông sẽ muốn gọi lại cho tôi. Điện thoại của tôi ở Cục là 703 482 1100, nếu ngài nói với nhân viên tổng đài tên ngài thì cô ta sẽ chuyển máy đến văn phòng tôi - Nói xong hắn đặt ngay điện thoại xuống.
Qua nhiều năm Gutenburg đã nhận thấy một điều là những cú điện thoại như thế thường cũng được gọi lại ngay, và thường là không đến một phút, nhưng kiểu lẩn tránh như vậy thường cho phép hắn hơi tay trên một chút.
Hắn ngồi ở bàn, chờ đợi. Hai phút đã qua, nhưng hắn không quan tâm. Hắn biết rằng người kia có thể muốn kiểm tra lại số điện thoại. Khi nào ông ta xác định được đó chính là số điện thoại của CIA thì hắn sẽ ở một thế thậm chí còn mạnh hơn.
Ba phút sau chuông reo, Gutenburg để cho nó reo thêm một lúc nữa mới nhấc máy trả lời. Không chờ người kia xưng tên hắn đã nói ngay:
- Xin chào ngài Thompson, tôi rất mừng là ngài đã kịp thời gọi lại.
Chủ tịch công ty Washington Provident đáp:
- Ngài Gutenburg, tôi vô cùng hân hạnh.
- Ngài Thompson, tôi e rằng có một vấn đề tế nhị cần phải nói với ngài. Nếu không biết chắc đó là vì lợi ích tốt nhất của ngài thì tôi đã chẳng gọi điện cho ngài đâu.
Thompson nói:
- Tôi rất trân trọng điều đó. Vậy tôi có thể giúp gì cho ngài không ạ?
- Ngài vừa phỏng vấn một ngưòi cho vị trí trưởng bộ phận phụ trách các vụ bắt cóc và tống tiền, một vị trí đòi hỏi tiêu chuẩn rất cao, đúng không ạ?
Thompson nói:
- Đúng vậy, nhưng tôi nghĩ rằng chúng tôi đã tìm được một người lý tưởng thích hợp cho vị trí đó.
- Tôi không hề biết ngài đã chọn ai, nhưng tôi cần phải cho ngài biết gần đây chúng tôi đã thẩm tra một trong những người nộp đơn xin vào chân ấy, và nếu như trường hợp này bị đưa ra toà thì công ty ngài sẽ bị tiếng tăm không tốt. Tuy nhiên, ngài Thompson, nếu như ngài tin rằng đã chọn được đúng ngưòi thì chắc chắn CIA không muốn cản đường anh ta làm gì.
- Xin chờ một chút, ngài Gutenburg. Nếu như ngài biết được một điều gì mà chúng tôi nên biết thì tôi rất mong được ngài thông báo.
Gutenburg ngừng một lúc mới nói:
- Một cách rất riêng tư, cho phép tôi hỏi tên người mà các ngài định nhận có được không?
- Dĩ nhiên là có thể được. Tôi không hề nghi ngờ gì về thanh danh của ngài, cả về địa vị lẫn sự đúng đắn. Chúng tôi định ký hợp đồng với ông Connor Fitzgerald - Một hồi lâu im lặng, Thompson nói tiếp - Ngài Gutenburg, ngài vẫn nghe đấy chứ?
- Tôi vẫn nghe đây, ngài Thompson. Không hiểu ngài có thể dành chút thì giờ ghé qua Langley gặp tôi không nhỉ? Có lẽ tôi nên nói sơ qua cho ngài nghe về cuộc thẩm tra mà chúng tôi vừa mới tiến hành. Có thê ngài muốn xem một vài tài liệu mật mà chúng tôi có chăng.
Đến lượt Thompson im lặng:
- Tôi rất tiếc khi được biết điều đó. Tôi nghĩ có lẽ cũng không cần thiết phải tới đó nữa - Chủ tịch công ty khẽ nói - Anh ta có vẻ là một người rất tốt.
- Tôi cũng rất buồn vì đã phải gọi cho ngài. Nhưng nếu tôi không gọi có lẽ ngài còn giận tôi hơn, khi mà toàn bộ câu chuyện được phơi trên trang nhất tờ Washington Post.
Thompson nói:
- Vâng, nhất định rồi.
Phó giám đốc CIA nói thêm:
- Mặc dầu nó chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc thẩm tra mà chúng tôi vừa tiến hành, nhưng có lẽ tôi cũng nên nói thêm rằng từ khi bắt đầu làm việc cho CIA đến giờ, tôi vẫn là một khách hàng của Washington Provident đấy.
- Ngài Gutenburg, tôi rất vui mừng được biết điều đó. Tôi chỉ muốn nói rằng tôi đánh giá rất cao cách ngưòi của các ngài làm việc.
- Ngài Thompson, tôi chỉ hy vọng là phục vụ được ngài chút gì đó. Xin chào ngài.
Gutenburg đặt ống nghe xuống rồi bấm ngay số "1" trên chiếc máy điện thoại bên cạnh.
- Tôi nghe - một giọng cất lên.
- Tôi nghĩ là rốt cuộc Washington Provident sẽ không nhận Fitzgerald nữa đâu.
- Tốt, vậy chúng ta hãy chờ ba ngày, sau đó anh có thể nói với hắn ta về nhiệm vụ mới.
- Tại sao phải chờ ba ngày?
- Rõ ràng là anh chưa bao giờ đọc các tài liệu của Frued viết về khả năng chịu đựng tối đa của con người.
Chúng tôi rất tiếc phải thông báo…
Connor đang đọc bức thư đến lần thứ ba thì chiếc điện thoại trên bàn đổ chuông. Gã cảm thấy mù mịt không sao tin nổi. Có thể có điều gì không ổn nhỉ? Bữa ăn tối ở nhà Thompson không thể nào ăn ý hơn được nữa. Khi gã và Maggie ra về - lúc đó đã gần nửa đêm - Ben đã đề nghị kỳ nghỉ cuối tuần tới họ sẽ chơi một vòng golf ở sân Burning tree, còn Elidabeth Thompson thì mời Maggie đến uống cà phê trong khi các ông chồng chơi với mấy quả bóng trắng bé xíu. Ngày hôm sau luật sư của gã đã gọi điện lại và nói rằng bản hợp đồng mà Washington Provident gửi đến để ông đọc và chấp thuận không có vấn đề gì ngoài mấy lỗi nho nhỏ phải sửa.
Connor cầm ống nghe lên.
- Joan, tôi nghe đây.
- Phó giám đốc đang chờ trên đường dây.
Gã uể oải nói:
- Nối máy cho ông ta.
Một giọng nói mà chưa bao giờ gã tin cậy vang lên:
- Connor phải không? Có một số vấn đề quan trọng và Giám đốc yêu cầu tôi thông báo cho cậu ngay lập tức.
- Dĩ nhiên là được rồi - Connor nói, hầu như chẳng để lời Gutenburg lọt vào tai.
- Hẹn gặp vào lúc ba giờ, ở chỗ mọi khi được không?
- Dĩ nhiên là được rồi - Connor nhắc lại. Gã còn giữ ống nghe hồi lâu sau khi đã nghe tiếng bên kia đặt máy. Gã đọc bức thư đến lần thứ tư, và quyết định sẽ chỉ cho Maggie biết về bức thư này một khi gã đã được lọt vào danh sách sơ tuyển cho một chỗ làm khác.
Connor đến quảng trường Lafayette trước. Gã ngồi xuống một chiếc ghế dài đối diện với Nhà trắng. Mấy phút sau Nick Gutenburg ngồi xuống đầu kia chiếc ghế đó. Connor cố tình ra vẻ không hề liếc về phía hắn ta.
- Tổng thống đã đích thân yêu cầu cậu nhận nhiệm vụ này - Gutenburg lầm bầm, mắt vẫn nhìn thẳng về phía Nhà trắng - Tổng thống đòi người giỏi nhất của chúng ta.
Connor đáp:
- Nhưng chỉ còn mười ngày nữa là đến thời hạn tôi rời khỏi công ty.
- Đúng vậy, Giám đốc cũng đã nói với ông ta như vậy. Nhưng Tổng thống nhất định đòi chúng tôi phải làm mọi việc trong phạm vi quyền lực của mình để đảm bảo cậu ở lại cho đến khi hoàn thành nhiệm vụ này.
Connor vẫn im lặng.
- Connor, kết quả cuộc bầu cử ở Nga có thể ảnh hưởng đến tương lai của thế giới tự do. Nếu Zerimski được bầu thì có nghĩa là chỉ qua một đêm Chiến tranh lạnh sẽ trở lại. Tổng thống có thể sẽ phải quên cái Chương trình cắt giảm vũ khí đi, và Quốc hội có thể sẽ đòi phải tăng ngân sách quốc phòng đến mức làm chúng ta phá sản.
Connor nói:
- Nhưng kết quả thăm dò cho thấy Zerimski vẫn tụt hậu. Chẳng phải là người ta vẫn mong Chernopov thắng cử một cách dễ dàng sao?
Gutenburg nói:
- Hiện nay mọi việc có vẻ là như vậy. Nhưng vẫn còn ba tuần nữa, và Tổng thống cảm thấy rằng với một cuộc bầu cử chông chênh thì mọi chuyện đều có thể xảy ra - Hắn nhấn mạnh từng lời trong khi mắt vẫn nhìn thẳng về phía Nhà trắng - Tổng thống sẽ cảm thấy hài lòng hơn nếu cậu có mặt ở bên đó, chỉ là để đề phòng trường hợp cần đến trình độ chuyên môn của cậu mà thôi.
Connor không đáp.
- Nếu như cậu có lo lắng về chỗ làm mới - Gutenburg nói tiếp - thì tôi sẽ rất vui lòng gọi điện cho Chủ tịch của cái công ty mà cậu sẽ tham gia đó và giải thích cho ông ta hiểu đây chỉ là một nhiệm vụ ngắn ngày thôi.
Connor đáp:
- Không cần thiết điều đó. Nhưng tôi cần suy nghĩ một chút.
Gutenburg nói:
- Dĩ nhiên rồi. Bao giờ nghĩ xong cậu hãy gọi điện cho Giám đốc và cho bà ta biết quyết định của cậu.
Hắn đứng dậy và đi về phía Quảng trường Farragut.
Ba phút sau Connor cũng đứng dậy và đi về hướng ngược lại
Andy Lloyd nhấc chiếc điện thoại màu đỏ lên. Lần này ông nhận ngay ra giọng nói.
Jackson nói:
- Hầu như tôi đã khẳng định được rằng tôi biết ai là kẻ tiến hành vụ ám sát ở Botogá.
Lloyd hỏi:
- Hắn ta có làm việc cho CIA không?
- Phải, hắn làm việc cho CIA.
- Anh có đủ chứng cứ để thuyết phục được Uỷ ban đặc biệt của Quốc hội về tình báo không?
- Không, tôi chưa có đủ. Hầu như tất cả những chứng cứ tôi có trong tay đều có thể bị quẳng đi trong những điều kiện nhất định. Nhưng khi ghép tất cả chúng lại với nhau thì có quá nhiều sự trùng hợp ngẫu nhiên khiến tôi có thể nối chúng lại với nhau.
- Ví dụ?
- Tay điệp viên mà tôi cho là đã kéo cò súng trong vụ đó đã bị sa thải gần như ngay sau khi Tổng thống gặp Dexter tại Phòng bầu dục và yêu cầu bà ta cho biết ai là người chịu trách nhiệm ám sát Guzman.
- Thậm chí chưa thể thừa nhận điều đó là chứng cứ được.
- Có lẽ là chưa. Nhưng cũng chính điệp viên ấy đã gần như được nhận vào làm trưởng phòng điều tra về bắt cóc và tống tiền ở Công ty bảo hiểm Washington Provident, nhưng rồi đột nhiên bị từ chối không một lời giải thích.
- Một sự ngẫu nhiên thứ hai.
- Còn một cái thứ ba nữa. Ba ngày sau, Gutenburg đã gặp điệp viên đó một cách đáng ngờ ở Quảng trường Lafayette.
- Tại sao bọn họ lại muốn gọi hắn ta lại?
- Để tiến hành một nhiệm vụ mới.
- Chúng ta có biết nhiệm vụ lần này là gì không?
- Không, nhưng sẽ không ngạc nhiên nếu đó là ở xa Washington.
- Anh có biết đó là ở đâu không?
- Lúc này thì chưa. Thậm chí cả vợ anh ta cũng chưa biêt.
Lloyd nói:
- Được, vậy hãy thử nhìn lên quan điểm của bọn họ xem sao. Anh nghĩ là ngay lúc này Dexter đang làm gì để đảm bảo sự vụ của bà ta được bưng bít kín?
Jackson nói:
- Trước khi trả lời câu hỏi đó tôi cần phải biết kết quả cuộc gặp gỡ của bà ta với Tổng thống vừa rồi?
- Tổng thống ra hạn cho bà ta và Gutenburg là trong vòng hai mươi tám ngày phải chứng minh được rằng cục không can dự vào vụ ám sát Guzman, và phải đưa ra được bằng chứng là ai đã giết ông ta. Tổng thống cũng nói thẳng với họ rằng nếu họ không làm được những điều đó thì ngài sẽ đòi họ phải từ chức và chuyển tất cả những bằng chứng mà ngài có trong tay cho tờ Washington Post.
Im lặng hồi lâu, cuối cùng Jackson nói:
- Như vậy có nghĩa là điệp viên đó chỉ còn được sống chưa đầy một tháng nữa.
Lloyd ngỡ ngàng:
- Bà ta không thể khử người của mình được!
- Chớ quên rằng anh ta là một NOC. Thậm chí cái bộ phận mà anh ta làm việc đó không hề tồn tại một cách chính thức nữa đi, thưa ngài Lloyd.
Lloyd hỏi:
- Người đó là bạn của anh phải không?
- Vâng - Jackson khẽ trả lời.
- Vậy thì tốt hơn hết là anh hãy đảm bảo để anh ta còn sống.
- Xin chào Giám đốc. Tôi là Connor Fitzgerald.
- Chào anh, Connor. Rất vui được nói chuyện với anh - Dexter nói bằng giọng nồng nhiệt hơn nhiều so với lần gặp gỡ trước giữa họ.
- Phó giám đốc có yêu cầu tôi gọi điện cho bà sau khi tôi suy nghĩ và quyết định vấn đề mà tôi và ông ta thảo luận hôm thứ hai vừa rồi.
Giám đốc hỏi:
- Vậy nó làm việc như thế nào?
Mụ không nhớ lần cuối cùng đến thăm OTS - phòng thí nghiệm ở Langley là khi nào nữa.
Giáo sư Ziegler, giám đốc trung tâm dịch vụ kỹ thuật của CIA đáp:
- Điều đó rất đơn giản.
Ông ta quay về phía một dãy máy tính và bấm mấy phím. Khuôn mặt Tom Lawrence xuất hiện trên màn hình.
Sau khi Dexter và Nick Gutenburg lắng nghe những lời nói của Tổng thống vài giây, mụ nói:
- Cái đó có gì đáng ngạc nhiên? Tất cả chúng ta ai chẳng đã từng nghe Lawrence diễn thuyết.
Ziegler nói:
- Có thể đúng vậy, nhưng các vị chưa bao giờ được nghe ông ta nói chính bài nói này.
Gutenburg hỏi:
- Ông nói thế nghĩa là thế nào?
Một nụ cười hầu như mãn nguyện một cách trẻ con nở rộng trên khuôn mặt lão giáo sư:
- Tôi đã lưu trữ trong máy tính hàng ngàn bài nói, bài trả lời phỏng vấn trên TV cũng như trên radio, cũng như các cuộc nói chuyện điện thoại của Lawrence trong suốt hai năm qua, trong một thư mục tên là Tommy. Từng chữ từng câu mà ông ta đã dùng trong thời gian đó đều được lưu trữ trong bộ nhớ của máy tính. Điều đó có nghĩa là tôi có thể khiến ông ta nói về bất cứ chủ đề nào do bà chọn. Thậm chí tôi còn có thể quyết định là ông ta có quan điểm thế nào trong vấn đề được đưa ra.
Dexter bắt đầu cân nhắc các khả năng. Mụ hỏi:
- Nếu hỏi Tommy một câu nào đó thì liệu ông ta có đưa ra được câu trả lời thích đáng không?
Ziegler thừa nhận:
- Dĩ nhiên là không thể tự nhiên mà có được. Nhưng nếu bà biết câu hỏi mà ông ta sẽ phải trả lời thì tôi tin là tôi có thể lừa được ngay cả mẹ đẻ ông ta.
Gutenburg:
- Vậy chúng ta chỉ còn phải làm một việc là đoán xem phía bên kia có thể nói câu gì.
Ziegler nói:
- Cũng không khó như ngài nghĩ đâu. Nếu như anh được Tổng thống gọi điện đến thì chắc là anh không hỏi Tổng thống những câu hỏi đại loại như sức mạnh của đồng đô la, hay Tổng thống ăn gì trong bữa điểm tâm, đúng không nào? Tôi không hề biết vì sao các ngài có thể cần đến Tommy, nhưng nếu các ngài chuẩn bị được lời mở đầu và lời kết thúc, và khoảng năm mươi câu hỏi mà có lẽ ông ta sẽ phải trả lời thì tôi cam đoan có thể tạo ra được một cuộc nói chuyện tự nhiên.
Gutenburg nói:
- Tôi tin là chúng ta có thể làm được điều đó.
Giám đốc gật đầu đồng ý, rồi hỏi Ziegler:
- Tại sao chúng ta lại cần đến cái thiết bị này?
- Chỉ để đề phòng trường hợp Tổng thống bị chết trong khi Mỹ đang có chiến tranh, có thể chúng ta sẽ cần phải làm cho kẻ thù tin rằng Tổng thống vẫn còn sống. Nhưng thưa giám đốc, Tommy còn có nhiều công dụng khác nữa, ví dụ như…
Dexter cắt lời:
- Tôi tin như vậy.
Ziegler trông có vẻ thất vọng khi thấy giám đốc sắp kết thúc cuộc đi thăm. Gutenburg hỏi:
- Ông cần bao nhiêu thời gian để chuẩn bị một chương trình cụ thể?
- Vậy các ngài cần bao nhiêu thời gian để xác định Tổng thống cần phải nói những gì? - Ziegler nói, nụ cười như trẻ con lại trở lại trên gương mặt ông ta.
- Vâng. - Dexter nói, trở lại giọng ngắn gọn thường khi.
- Tôi muốn thực hiện nhiệm vụ đó.
- Tôi rất hài lòng khi nghe là như vậy.
- Với một điều kiện:
- Điều kiện đó là gì?
- Tôi cần được chứng minh là đích thân Tổng thống yêu cầu điệp vụ này.
Im lặng hồi lâu, cuối cùng Dexter nói:
- Tôi sẽ thông báo để Tổng thống biết yêu cầu của anh.
Joan giữ phím điện thoại cho đến khi Connor nhấc máy:
- Joan, có vấn đề gì thế? Tôi có điếc đâu!
- Có Ruth Preston, thư ký riêng của Tổng thống gọi đến.
Tiếp theo Connor nghe thấy giọng một phụ nữ:
- Ông Connor Fitzgerald phải không ạ?
Connor đáp:
- Tôi nghe đây.
Gã cảm thấy mồ hôi túa ra trên bàn tay cầm ống nghe. Điều đó chưa từng xảy ra những khi gã sắp kéo cò.
- Tổng thống muốn nói chuyện với ông.
Gã nghe một tiếng cạch. Một giọng quen thuộc cất lên.
- Xin chào.
- Xin chào ngài Tổng thống.
- Tôi nghĩ ông biết vì sao tôi gọi đến.
- Vâng, thưa ngài, tôi biết.
Giáo sư Ziegler bấm nút "Lời mở đầu". Mụ giám đốc và lão phó giám đốc nín thở.
- Tôi thấy cần phải gọi đến và nói để ông hiểu nhiệm vụ này quan trọng đến thế nào. Ngừng. Bởi vì tôi tin rằng ông là người tốt nhất để thi hành nhiệm vụ đó. Ngừng. Vì thế tôi hi vọng rằng ông sẽ lĩnh trách nhiêm.
Ziegler bấm nút "chờ".
Connor nói:
- Thưa Tổng thống, tôi rất vinh dự được ngài tin tưởng, và tôi rất mừng vì ngài đã bớt chút thì giờ để gọi điện cho tôi…
"Số 11", Ziegler nói, ông ta thuộc lòng các câu trả lời.
- Tôi nghĩ rằng ít nhất mình cũng làm được điều đó. Ngừng.
- Thưa Tổng thống, xin cám ơn ngài. Mặc dầu ông Gutenburg đảm bảo với tôi rằng chính ngài có tham dự vào việc này, và chiều hôm ấy chính Giám đốc CIA đã gọi tôi để khẳng định điều đó. Nhưng ngài biết đấy, tôi vẫn cảm thấy không thể thực hiện nhiệm vụ đó trừ khi chắc chắn rằng mệnh lệnh là do chính ngài đưa ra.
"Số 17"
- Tôi hiểu lỗi lo lắng của ông. Ngừng.
"Số 19".
- Khi nào mọi chuyện ổn cả, sao ông không đưa bà nhà đến thăm tôi tại Nhà trắng - nghĩa là nếu bà Giám đốc cho phép. Ngừng.
"Số 3"- Ziegler nói sẵng. Một tràng cười ha hả rộ lên.
Connor hơi đưa ống nghe ra xa tai một tý. Sau khi tiếng cười lắng xuống, gã nói:
- Thưa ngài, chúng tôi rất hân hạnh.
"Lời kết thúc" Ziegler nói:
- Tốt lắm. Tôi mong được gặp ông ngay sau khi ông trở về. Ngừng. Tôi vẫn thường nghĩ rằng nước Mỹ không thường xuyên trân trọng những anh hùng vô danh của mình. Ngừng. Rất vui được nói chuyện với ông. Tạm biêt.
- Xin chào ngài, thưa Tổng thống.
Khi Joan bước vào phòng Connor vẫn còn cầm ống nghe trong tay.
- Vậy là lại một chuyện bí ẩn nữa ư? - Chị nói trong khi Connor đặt ống nghe xuống.
Gã nhìn lên và nhướng một bên lông mày:
- Tổng thống bao giờ cũng gọi người khác bằng tên riêng.
Chương 11
Gutenburg đưa cho Connor một chiếc phong bì to màu nâu trong đựng bốn tấm hộ chiếu, ba chiếc vé máy bay và một tập tiền nhiều loại.
Connor hỏi:
- Tôi có phải ký nhận những cái này không?
- Không cần. Bởi vì công việc rất khẩn cấp, nên bao giờ cậu về thì chúng ta sẽ lo đến các công việc giấy tờ.
Khi đến Moscow cậu hãy đến trụ sở vận động bầu cử của Zerimski và đăng ký là một ký giả từ Nam Phi đến.
Người ta sẽ đưa cho cậu chương trình hoạt động của ông ta trong khi vận động bầu cử.
- Tôi có đầu mối nào ở Moscow không?
- Có Ashley Mitchell. - Gutenburg lưỡng lự - Đây là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của anh ta, và anh ta đã được thông báo đầy đủ phạm vi những gì cần biết. Anh ta cũng được lệnh chỉ được tiếp xúc với cậu nếu có tín hiệu an toàn. Khi đó anh ta sẽ cung cấp vũ khí cho cậu.
- Vũ khí loại nào?
Gutenburg nói:
- Một khẩu Remington 700 thông thường. Nhưng nếu vẫn là Chernopov dẫn đầu trong kết quả điều tra thì tôi nghĩ là không cần cậu phải ra tay, trong trường hợp đó thì sau ngày bầu cử cậu sẽ trở về Washington. Tôi e rằng nhiệm vụ này có thể sẽ không cần phải là một sự kiện nữa đâu.
Hy vọng như vậy - Connor nói và quay đi, không buồn bắt tay lão Phó Giám đốc.
° ° °
- Anh sợ là đã bị trói chặt tay mà không thể từ chối được Connor nói và nhét thêm một chiếc sơ mi nữa vào vali.
Maggie nói:
- Anh có thể từ chối chứ. Ví dụ như xin lỗi vì tháng sau đã bắt đầu phải nhận việc rồi - Chị ngừng một lúc - Ben Thompson nói thế nào?
Connor đáp:
ông ta rất thông cảm. Nếu anh bắt đầu làm việc muộn hơn một tháng thì ông ta cũng thấy không có khó khăn gì lắm. Dường như tháng Mười hai không mấy khi bận rộn quá.
Connor ấn chặt quần áo xuống và băn khoăn không biết làm sao có thể nhét được thêm cái túi xốp vào. Gã chỉ ước gì mình có thể để cho Maggie xếp đồ đạc cho mình, nhưng lại không muốn vợ bắt gặp quá nhiều chi tiết không ăn khớp với những câu chuyện gã tạo ra. Gã ngồi phịch xuống nắp vali. Maggie chốt cửa buồng ngủ lại và họ ngã lên giường, cười phá lên. Gã ôm chặt lấy vợ và giữ trong tay hơi lâu một chút.
Chị khẽ hỏi:
- Connor, mọi chuyện có ổn không?
- Em yêu, mọi chuyện đều tốt cả - Gã buông chị ra và nói.
Connor cầm vali lên và đi xuống tầng dưới:
Anh xin lỗi là không có mặt ở nhà vào dịp lễ Tạ ơn.
Em nhớ nói với Tara là anh mong gặp nó vào dịp Giáng sinh - Gã nói trong khi Maggie đi theo ra cửa trước. Gã dừng lại bên cạnh một chiếc xe mà chị chưa bao giờ nhìn thấy. Chị nhắc gã:
- Cả Stuart nữa chứ.
- ừ, nhất định rồi. - Gã vừa nói vừa bỏ chiếc vali vào hòm xe - Rất vui nếu được gặp lại nó - Gã lại ôm vợ vào tay. Lần này gã chú ý để không ôm lâu quá.
Đột nhiên Maggie nói:
Trời ạ. Chúng mình sẽ tặng Tara cái gì làm quà Giáng sinh bây giờ? Thậm chí em chưa nghĩ đến nữa.
Connor chui vào ngồi trước tay lái và nói:
- Nếu em nhìn thấy hóa đơn điện thoại của nó thì em sẽ chẳng phải nghĩ đến quà Giáng sinh nữa đâu.
Maggie nói:
- Sao em không nhớ cái xe này nhỉ.
Gã vừa mở khóa điện vừa nói:
- Đây là xe của công ty. Tiện thể, em nói để Cha Graham tìm ai đó chơi bài bridge với cha tối thứ Bảy này nhé. Tạm biệt, em yêu.
Không nói thêm câu nào gã cho xe chạy lên lối xe và lái ra đường cái. Gã rất ghét phải chào tạm biệt Maggie và bao giờ cũng khiến cho cuộc chia tay càng nhanh càng tốt. Gã nhìn qua gương chiếu hậu: chị đang đứng ở cửa trước giơ tay vẫy. Vì thế gã rẽ sang đường đến Cambridge Place và chạy về phía sân bay.
Đến đầu đường vào Dulles gã chẳng cần nhìn mà rẽ ngay vào bãi đỗ xe lâu ngày. Gã lấy trong máy một chiếc vé gửi xe rồi đánh xe xuống tận góc xa nhất. Gã khóa cửa xe rồi đi về phía cổng vào nhà ga, lên thang cuốn để tới bàn làm thủ tục của hãng Hàng không Mỹ.
Người nhân viên mặc đồng phục kiểm tra vé của gã và nói:
- Xin cám ơn ngài Perry . Máy bay số 918 sắp đến giờ đón khách. Xin mời ngài đi ra cổng C7.
Sau khi làm thủ tục kiểm tra an ninh Connor đi tới nhà ga giữa. Gã ngồi trong phòng chờ, tít tận góc phòng và khi hành khách được mời lên máy bay gã bèn chọn một chỗ ngồi như thường lệ - gần cửa sổ và ở cuối máy bay. Hai mươi phút sau gã nghe thấy viên cơ trưởng thông báo rằng mặc dầu không thể cất cánh đúng giờ nhưng họ sẽ cố gắng để tới đích theo đúng chương trình đã định.
Trong sân bay, một người đàn ông trẻ mặc bộ đồ thẫm màu bấm một số trên máy điện thoại cầm tay của hắn:
- Tôi nghe - Một giọng vang lên.
- Điệp viên Sullivan gọi từ "Coach House" đây. Con chim đã bay đi.
- Tốt. Hãy báo cáo lại ngay sau khi anh thực hiện xong phần còn lại của nhiệm vụ của anh.
Điện thoại tắt ngấm.
Người đàn ông trẻ tắt máy và lên thang cuốn để xuống tầng trệt. Gã đi tới bãi để xe gửi lâu ngày, tới bên chiếc xe đậu trong góc trong cùng, mở cửa xe lái ra cửa, trả tiền đỗ xe rồi chạy về phía đông.
Ba mươi phút sau gã trả chìa khóa xe cho hãng xe và ký hành trình. Mọi việc chứng tỏ chiếc xe được thuê dưới tên gã, và được trả lại cũng với tên gã.
° ° °
Mụ Giám đốc hỏi:
- Anh có chắc chắn tuyệt đối là không hề có một dấu vết gì về hắn không?
Gutenburg nói:
Không có bất cứ một dấu vết nào. Chớ quên rằng hắn là một NOC, cho nên không hề có tên trên sổ sách của Công ty.
Nhưng còn vợ hắn?
Tại sao cô ta lại nghi ngờ điều gì kia chứ? Lương tháng của hắn được trả đều đặn vào tài khoản chung của hai người. CÔ ta sẽ chẳng nghĩ gì đâu. CÔ ta chỉ biết một điều là hắn đã thôi việc ở công ty cũ và sẽ làm việc cho Washingtown proridelt từ ngày mồng một tháng Giêng tới
- Vẫn còn thư ký cũ của hắn nữa.
Tôi đã chuyển cô ta về Langley để có thể để mắt đến cô ta.
- BỘ phận nào?
- Trung Đông.
- Tại sao lại là Trung Đông?
- Bởi vì cô ta sẽ phải ở cơ quan trong giờ làm việc của họ: từ sáu giờ chiều đến ba giờ sáng. Và trong tám tháng tới tôi sẽ để cho cô ta làm việc thật nặng nhọc khiến cho cô ta không thể nghĩ đến một điều gì khác ngoài chuyện sẽ làm gì sau khi nghỉ hưu.
- Tốt. Lúc này Fitzgerald đang ở đâu?
Gutenburg nhìn đồng hồ:
Nửa đường vượt Đại Tây dương. Khoảng bốn tiếng nữa hắn sẽ hạ cánh xuống sân bay Heathrow Lon don.
Thế còn cái xe?
- Đã được trả lại cho hãng. Nó đã được sơn lại và gắn biển số mới.
- Còn văn phòng của hắn ở Phố M?
Sẽ được dọn đi và sáng thứ Hai sẽ được đặt vào tay một điệp viên chính thức.
Mụ Giám đốc nói:
Có vẻ như anh đã lường trước mọi chuyện, trừ một việc: đó là nếu hắn trở lại Washington thì sao?
Gutenburg nói:
- Hắn sẽ không quay lại Washington đâu.
° ° °
Connor xếp hàng chờ trước cửa kiểm tra hộ chiếu.
Cuối cùng đến lượt gã. Viên sĩ quan kiểm tra hộ chiếu của gã và nói:
Mong ông có hai tuần vui vẻ ở nước Anh chúng tôi, ông Perry.
Trong mục trả lời câu hỏi: !Bạn định ở lại Anh bao nhiêu lâu?" ông Perry đã viết "mười bốn ngày". Nhưng sáng mai sẽ có một ông Lilystrand quay lại sân bay.
Khi gã ra khỏi sân bay và lên xe buýt để đi tới ga Victoria, có hai người đàn ông theo dõi gã. Bốn mươi hai phút sau, cũng hai tên đó nhìn thấy gã xếp hàng chờ taxi.
Chúng chia nhau hai ngả bám theo chiếc taxi màu đen đến tận khách sạn Kensington, ở đó một trong hai tên đã gửi sẵn cho gã một cái gói.
Connor ký vào bản đăng ký với khách sạn và hỏi:
Có ai nhắn gì cho tôi không?
- Thưa ngài Lilystrand, có ạ. Sáng nay có người gửi cho ngài cái này - Anh ta đưa cho Connor một phong bì to màu nâu - Phòng của ngài số 211 . Nhân viên khuân vác sẽ đưa đồ đạc của ngài lên ngay ạ.
Gã nói:
- Cám ơn, tôi tự đem lên được.
Vừa bước vào phòng Connor đã xé phong bì. Trong đó có một chiếc vé máy bay đi Geneva cho người tên là Theodore Lilystrand và một trăm francs Thụy sĩ. Gã cởi áo ngoài ra và nằm vật xuống giường, nhưng quá kiệt sức gã không thể nào chợp mắt nổi. Gã mở TV và lướt qua vô số kênh - cái mà Tara gọi là lướt kênh - nhưng cũng chẳng hơn gì.
Gã luôn ghét trò chơi chờ đợi. Đó là lúc duy nhất gã cảm thấy không chắc chắn. Gã luôn tự nhủ mình đây sẽ là nhiệm vụ cuối cùng. Gã bắt đầu nghĩ về lễ Giáng sinh cùng với Maggie và Tara - và cả Stuart nữa, phải. Gã rất ghét việc không được mang theo ảnh của vợ con, và luôn chỉ được tưởng tượng ra hình ảnh của họ trong đầu. Hơn tất cả gã căm ghét việc không được phép nhấc điện thoại lên và gọi cho vợ con bất cứ lúc nào gã thích.
connor nằm im trong giường cho đến khi trời tối mịt.
Rồi gã cũng ra khỏi cái nhà tù một đêm dành cho gã để kiếm cái gì ăn. Gã mua một tờ Eveling Stanldard tại quầy báo ở góc phố và đi tới một tiệm ăn Italia không đông lắm ở High Street, Kensington.
Người bồi bàn đưa gã đến một chiếc bàn yên tĩnh trong góc phòng, ánh sáng gay gắt đủ cho gã đọc được báo. Gã gọi một lon Co ke với thật nhiều đá. Người Anh chẳng bao giờ hiểu nổi từ "thật nhiều đá" nghĩa là như thế nào, và gã chẳng ngạc nhiên khi thấy mấy phút sau người bồi trở lại mang theo một cái cốc dài thượt với ba viên đá bé xíu ở trong, cùng với một lát chanh mỏng dính.
Gã gọi món cannelloni và si de salad. Thật buồn cười, mỗi khi ra nước ngoài gã thường gọi những món Maggie ưa thích. Bất cứ cái gì có thể gợi cho gã nhớ về nàng.
Trong cuộc nói chuyện gần đây nhất Tara đã bảo gã:
- Việc duy nhất bố phải làm trước khi nhận công việc mới là tìm lấy một thợ may tốt. Và con muốn đi cùng với bố để chọn sơ mi và cà vạt cho bố.
"Công việc mới của bố". Một lần nữa gã nghĩ về bức thư đó. Tôi rất tiếc phải thông báo với ngài rằng... Đã bao nhiêu lần gã nhẩm lại câu đó, và vẫn không thể nào nghĩ ra nguyên nhân gì khiến Thompson đổi ý. Lần này nữa cũng vậy.
Gã bắt đầu đọc trang nhất của tờ báo: Có chín ứng cử viên tranh cử để trở thành Thị trưởng đầu tiên của Lon don. Thật kỳ dị. Connor nghĩ, chẳng phải là xưa nay họ vẫn luôn có Thị trưởng đó sao - Dick Whittington thì sao? Gã nhìn những bức ảnh của các ứng cử viên cùng tên tuổi họ, nhưng chẳng thấy có ý nghĩa gì. Chỉ vài tuần nữa thôi một trong những người này sẽ điều hành thủ đô của Anh. Gã tự hỏi không biết đến lúc đó thì gã đang ở đâu .
Gã thanh toán bằng tiền mặt và cho người bồi một khoản tiền thưởng sao cho anh ta chẳng có lý do gì để nhớ đến gã. Trở về phòng mình ở khách sạn gã bật TV xem một vở hài kịch một lúc, chẳng thấy cái gì buồn cười cả Sau khi thử xem vài bộ phim gã ngủ thiếp đi chập chờn. Nhưng gã cảm thấy dễ chịu với ý nghĩ như thế này ít nhất cũng còn hơn hai thằng cha đứng rình ngoài phố, chúng chẳng được nghỉ chút nào. Chỉ vài giây sau khi xuống sân bay Heathrow gã đã nhận ra chúng ngay.
Gã nhìn đồng hồ. Hơn nửa đêm một tí - ở Washington là hơn bảy giờ. Gã tự hỏi không biết tối nay Maggie đang làm gì.
° ° °
Maggie hỏi:
- Thế còn Stuart thì sao?
Tara đáp:
- Vẫn ở đấy . Mười lăm ngày nữa anh ấy sẽ có mặt ở Los Angeies. Con không thể nào chờ được nữa.
Cả hai đứa sẽ bay thẳng về đây chứ?
- Không đâu, mẹ - Tara cố không tỏ ra bực tức - Con đã nói với mẹ bao nhiều lần rồi, chúng con sẽ thuê một cái xe và lái lên bờ Tây. Stuart chưa bao giờ sang Mỹ và anh ấy muốn nhìn thấy Los Angeles và San Francisco.
- Lái xe cẩn thận đấy, nghe không con.
- Mẹ, con lái xe đã chín năm chưa bị phạt bao giờ, thậm chí mẹ và bố cũng còn chưa được như vậy kia mà.
Vậy xin mẹ đừng có lo lắng, mà hãy nói cho con biết tối nay mẹ đang làm gì đi.
Mẹ sắp nghe Placido Domingo trong vở La Bohème. Mẹ định chờ cho cha đi vắng mới đi nghe vở đó vì biết rằng cha sẽ ngủ tít thò lò trước khi xem xong hồi một.
- Vậy mẹ đi một mình à?
- Vậy mẹ hãy cẩn thận đấy .và nhớ đừng ngồi gần hơn hàng thứ sáu.
- Tại sao lại thế?
- Bởi vì biết đâu một anh chàng đẹp trai giàu có nào đấy sẽ nhảy khỏi lô ghế của ơnnh để tán tỉnh mẹ.
Maggie cười phá lên:
Coi như mẹ đã bị trừng phạt.
Tại sao mẹ không rủ Joan đi cùng. Như thế cả hai có thể nói chuyện về bố suốt buổi tối.
Mẹ có gọi cô ấy ở văn phòng, nhưng hình như máy hỏng. Mẹ sẽ thử gọi đến nhà cho cô ấy.
- Mẹ, tạm biệt mẹ nhé, ngày mai con lại nói chuyện với mẹ. - Tara nói. CÔ biết trong khi Connor đi vắng thì ngày nào mẹ cũng sẽ gọi cho cô.
Cứ mỗi khi Connor đi ra nước ngoài hay đến chơi bài với Cha Graham ở câu lạc bộ thì Maggie lại bận bịu với một việc gì đấy ở Trường Đại học. Có thể là bất cứ việc gì ở GULP - Khoa Nhân văn Trường Đại học Tổng hợp Georgetown mà chị là một trong những người sáng lập, hay Hiệp hội các nhà thơ đương đại và lớp khiêu vũ Irish, nơi chị có giờ giảng. Dáng những sinh viên trẻ đang khiêu vũ, những cái lưng thẳng tắp, những bước chân đập nhẹ gợi cho chị nhớ đến Declan O casey. Giờ đây anh đã là một giáo sư nổi tiếng, có một chân trong trường Đại học Tổng hợp Chicago. Anh vẫn chưa lập gia đình và mỗi dịp Giáng sinh vẫn gửi cho chị một tấm thiệp, và một tấm thiệp khác không ký tên vào mỗi ngày lễ Valentine. Chiếc máy chữ cổ lỗ và cái chữ e thiếu một dấu móc bao giờ cũng để lộ tung tích anh.
Chị lại cầm ống nghe lên và quay số nhà Joan, nhưng không có ai trả lời. Chị trộn cho mình một đĩa salad và ăn một mình trong bếp. Sau khi bỏ đĩa vào máy rửa bát chị lại gọi cho Joan. Vẫn không có ai trả lời, vì thế chị lên đường đến Kennedy Center. Mua một vé lẻ bao giờ cũng dễ.
Maggie ngồi như bị hút vào hồi một của vở La Bohèrne và chỉ ước có ai ngồi bên để chia sẻ niềm say mê. Màn vừa hạ, chị hòa vào dòng người đi ra khu tiền sảnh. Gần đến quầy ba đông đúc chị thoáng nhìn thấy Elizabeth Thompson. Chị nhớ bà ta đã mời chị đến uống cà phê, nhưng rồi không hề nhắc lại. Chị cảm thấy hơi ngạc nhiên vì lúc đó nghe bà ta mời thật là nhiệt tình.
Khi Ben Thompson quay lại và gặp ánh mắt chị, chị mỉm cười và bước về phía họ. Chị nói:
- Ben, thật hay vì được gặp ông ở đây.
- Tôi cũng vậy, chị Fitzgerald - ông ta đáp, nhưng không còn cái giọng ấm áp trong bữa ăn tối hôm trước.
Và tại sao ông ta không gọi chị là Maggie?
VÔ tình, chị nói tiếp:
- Domingo thật tuyệt vời, đúng không - Vâng, và chúng ta thật may mắn kéo được Leonard Siatkin từ Si. Louis về - Ben Thompson đáp.
Maggie ngạc nhiên thấy ông ta không mời chị một cốc gì đó, và cuối cùng khi chị gọi một cốc nước cam thì chị thậm chí còn ngạc nhiên hơn khi ông ta không hề có ý định trả tiền cho cốc nước cam của chị.
Chị nhấp một ngụm nước cam, nói:
- Connor rất mong được làm việc cho Washington provident.
Elizabeth Thompson có vẻ ngạc nhiên nhưng không nói gì.
- Ben, anh ấy rất mừng vì ông cho phép anh ấy nghỉ một tháng để thực hiện nốt hợp đồng với công ty cũ của anh ấy .
Elizabeth toan nói gì, vùa lúc đó chuông báo còn ba phút vang lên.
ồ, có lẽ chúng ta nên về chỗ thôi - Ben Thompson nói mặc dầu vợ ông ta mới kịp uống nửa cốc nước của mình - Chị Fitzgerald, rất vui vì được gặp lại chị. Hy vọng chị sẽ thích màn hai - ông ta nắm mạnh tay vợ dẫn về chỗ.
Maggie không thưởng thức màn hai. Chị không thể tập trung để nghe được, bởi vì câu chuyện ngoài tiền sảnh cứ diễn đi diễn lại trong óc chị. Nhưng mặc dù nhẩm đi nhẩm lại bao nhiêu lần chị vẫn không thể nhận ra thái độ của ông ta có chút gì giống với những gì đã diễn ra cách đây hai tuần. Nếu biết làm thế nào để liên lạc với Connor chị sẽ vi phạm quy ước và sẽ gọi điện cho chồng. Vì thế chị thử làm cách thứ hai mà chị cho là tốt nhất. Vừa về đến nhà chị gọi ngay cho Joan Bennett.
Điện thoại reo mãi không thôi.
° ° °
Sáng hôm sau Connor dậy sớm. Gã thanh toán bằng tiền mặt, gọi một chiếc taxi và đi ra sân bay Heathrow trước khi người trực tầng biết là gã đã đi khỏi. Bảy giờ bốn mươi phút gã lên chiếc máy bay số 839 của Hàng không Thụy sĩ. Chuyến bay chỉ hết không đầy hai tiếng, và khi bánh máy bay chạm đất gã chỉnh đồng hồ thành mười giờ ba mươi.
Trong lúc chờ chuyển máy bay gã lợi dụng sự ưu việt của hãng Hàng không Thụy sĩ để tắm một cái. Gã bước vào " hệ thống thiết bị thượng hạng " - theo lời mô tả của cuốn tạp chí của hãng cung cấp trong chuyến bay - với tên Theodore Lilystrand, một nhà đầu tư ngân hàng người Stockholm. Mấy phút sau gã bước ra với cái tên Piet de Villiers, phóng viên tờ ]ohannesburg Merculi .
Mặc dầu vẫn còn hơn một giờ nữa, Connor không hề liếc qua cửa hàng miễn thuế mà chỉ mua một chiếc bánh sừng bò và một tách cà phê của một tiệm ăn có lẽ đắt nhất thế giới.
Cuối cùng gã bước qua cửa số 23. Số người xếp hàng để bay chuyến bay của Aeroflot đi St. Petersburg không nhiều lắm. Mấy phút sau người ta gọi mời hành khách lên máy bay gã rảo bước đi về phía cuối chiếc máy bay.
Gã bắt đầu nghĩ đến sẽ phải làm việc gì vào lúc tàu hỏa tiến vào sân ga Raveltay sáng hôm sau. Gã nhẩm lại những lời dặn của Phó Giám đốc một lần nữa, băn khoăn không hiểu tại sao Gutenburg cứ nhắc đi nhắc lại mãi cái câu:" đừng để bị bắt. Nhung nếu bị bắt, hãy chối hết không nhận có liên quan gì đến công ti. Đừng lo, Công ti sẽ luôn luôn chăm lo cho anh".
chỉ có với những người mới được tuyển dụng mới phải nhắc đến Điều lệnh thứ Mười một.
° ° °
Máy bay đi St. Petersburg vừa cất cánh, hành lý của chúng ta đã chất lên khoang.
Gutenburg nói:
Tốt. Còn điều gì nữa không?
Gã điệp viên CIA trẻ nói:
- Tôi nghĩ không có gì nữa - Anh ta hơi lưỡng lự
- Trừ việc Trừ việc gì? Trừ việc gì? Nói ra.
- Chỉ là tôi nghĩ rằng hình như tôi nhận ra một người khác cũng lên máy bay.
Gutenburg gầm lên:
Ai vậy - Tôi không nhớ ra tên. Tôi cũng không chắc lắm đã trông thấy người đó. Với lại tôi không dám liều rời mắt khỏi Fitzgerald quá một giây.
- Nếu nhớ ra tên người đó thì phải gọi điện cho tôi ngay.
Vâng, thưa ngài - Gã thanh niên tắt điện thoại và đi về phía cửa số 9. Chỉ vài giờ nữa gã sẽ lại ngồi sau bàn làm việc của mình ở Berne và trở về với vai trò Tùy viên Văn hóa của Đại sứ quán Mỹ.
° ° °
- Chào ông. Helen Dexter đây.
Tham mưu trưởng Nhà Trắng đáp:
- Chào bà Giám đốc.
- Tôi nghĩ Tổng thống muốn được thông báo ngay lập tức rằng người mà chúng tôi theo dõi ở Nam Phi đã bắt đầu hoạt động trở lại.
Lloyd nói:
- Hình như tôi chưa hiểu bà.
- Người phụ trách văn phòng của chúng tôi ở Johannesburg vừa thông báo rằng tên ám sát Guzman vừa đáp máy bay của hãng Hàng không Nam Phi đi London cách đây hai ngày. Hắn sử dụng hộ chiếu mang tên Peny. Hắn chỉ ở lại London có một đêm. Sáng hôm sau hắn bay sang Geneva bằng máy bay của hãng Hàng không Thụy sĩ, sử dụng hộ chiếu mang tên Theodore Lilystrand.
Lần này Lloyd không hề cắt lời mụ ta. Sau này ông có thể quay lại băng ghi âm nếu như Tổng thống muốn nghe chính xác mụ ta nói những gì.
- Tại Geneva hắn đáp máy bay Aeroflot đi St. Petersburg. Lần này hắn sử dụng hộ chiếu Nam Phi mang tên Piet de Vilhers. Từ St. Petersburg hắn đáp tàu đêm đi Moscow.
Lloyd hỏi:
Tại sao lại là Moscow?
Dexter nói:
- Nếu như tôi không lầm thì ở Nga sắp có một cuộc bầu cử.
° ° °
Khi máy bay hạ cánh xuống sân bay St. Petersburg, đồng hồ tay của Connor chỉ năm giờ năm mươi. Gã ngáp dài, vươn vai và chờ cho máy bay dừng hẳn lại mới chỉnh kim đồng hồ theo giờ địa phương. Gã nhìn ra ngoài cửa sổ, sân bay lúc này tranh tối tranh sáng bởi vì có đến quá nửa số bóng đèn chiếu sáng sân bay đã bị mất cắp. Tuyết rơi nhẹ nhưng không ngừng. Hơn một trăm hành khách phải chờ thêm hơn hai mươi phút nữa mới có một chiếc xe buýt chạy đến để đưa họ vào nhà ga. Những điều đơn giản vẫn chẳng có gì thay đổi, dù cho mọi sự do KGB hay các tổ chức tội phạm chịu trách nhiệm thì cũng vậy. Người Mỹ đã bắt đầu gọi các tổ chức tội phạm Nga là Mafia, để tránh lầm lẫn với các tổ chức tội phạm ltalia. (Bọn tội phạm Italia được gọi là Mafia).
Connor là người cuối cùng ra khỏi máy bay, và cũng là người cuối cùng rời xe buýt.
Một hành khách ngồi ở khoang hạng nhất chạy bổ đến xếp trên cùng trong hàng người để có thể là người đầu tiên ra khỏi chỗ kiểm tra nhập cư. Anh ta thấy mừng là Connor xếp hàng theo thứ tự thông thường. Khi ra khỏi xe buýt người đó đã không hề ngoái lại. Anh ta biết rằng mắt Connor không ngừng đảo khắp phía.
Ba mươi phút sau Connor bước ra khỏi nhà ga, gã vẫy chiếc xe taxi đầu tiên và bảo lái xe đưa đến ga Prosky.
Người hành khách đi vé hạng nhất đi theo Connor vào phòng bán vé trông giống một nhà hát opera hơn là ga xe lửa. Anh ta nhìn gần để biết Connor lên tàu nào. Nhưng còn một người nữa đứng trong bóng tối nhưng biết rõ thậm chí cả số buồng Connor sẽ nằm.
Tối hôm ấy Tùy viên Văn hóa của Sứ quán Mỹ ở St. Petersburg đã chuyển một giấy mời đến nhà hát Kirov Ballet để có thể thông báo cho Gutenburg rằng Connor đã lên chuyến tàu đêm để về Moscow. Không cần phải đi theo anh ta suốt chuyến đi bởi vì Ashley Michell, đồng nghiệp của hắn ở thủ đô sáng hôm sau sẽ chờ sẵn ở đường sắt số 4 để khẳng định là Fitzgerald đã đến đích.
Người ta đã nói rõ với Tuỳ viên rằng đó là việc của Michell.
Connor nói bằng tiếng Anh với người bán vé:
- Một giường hạng nhất đi Moscow.
Người đàn ông đẩy tấm vé qua cửa sổ bằng gỗ và thất vọng khi thấy người khách đưa ra một tờ mười ngàn rúp.
ông ta đã mong ông khách sẽ khiến cho ông ta có dịp đổi tiền để kiếm một khoản lời nho nhỏ - đêm nay ông đã có một dịp rồi.
Gã đã nhìn thấy khuôn mặt non choẹt đứng ở cửa sân bay Geneva, và tự hỏi không biết bọn họ đã tuyển ở đâu ra anh chàng này. Gã không buồn nhìn tới tên điệp viên ở St Petersburg bởi vì thừa biết phải có một ai đó đến để kiểm tra xem gã đã tới nơi chưa, và một ai đó nữa sẽ đứng đợi ở sân ga ở Moscow. Gutenburg đã nói kỹ cho gã về Michell - tên này mới được tuyển và không hề biết về vị trí NOC của Fitzgerald.
Đúng nửa đêm - kém một phút - đoàn tàu rời St. Petersburg và âm thanh đều đều, khe khẽ của bánh tàu đập lên đường ray khiến Connor ngủ thiếp đi. Gã giật mình tỉnh dậy và nhìn đồng hồ: Bốn giờ ba bảy phút.
Suốt ba đêm nay gã mới có một giấc ngủ ngon như vậy.
Rồi gã nhớ lại giấc mơ. Gã đang ngồi trên một chiếc ghế băng trên Quảng trường Lafeyette, đối diện với Nhà Trắng và nói chuyện với một người nào đó không hề nhìn về phía gã. Cuộc gặp gỡ với Phó Giám đốc Cục mấy tuần trước như hiện lại mồn một từng từ nhưng gã không thể nhớ ra có một điều gì đó trong cuộc đối thoại vẫn chuội đi. Đúng đến lúc Gutenburg nói đến câu đó thì gã giật mình tỉnh dậy.
Tận đến tám giờ ba mươi ba phút khi đoàn tàu vào ga Raveltay gã vẫn không nhớ nổi đó là cái gì.
° ° °
Andy Lloyd hỏi:
- Anh đang ở đâu?
Jackson đáp:
- Trong một buồng điện thoại ở Moscow. Qua Lon don, Geneva và St. Petersburg. Vừa xuống khỏi tàu hỏa anh ta đã cho chúng tôi leo cây hết lượt. Anh ta đã đánh lạc hướng một người của chúng tôi ở Moscow trong vòng chưa đầy mười phút. Nếu không phải trước kia tôi là người đã từng dạy anh ta kỹ thuật đảo người thì chác cũng bị anh ta cho rớt rồi.
Lloyd hỏi:
- Cuối cùng anh ta đến đâu.
- Anh ta vào một khách sạn nhỏ ở phía bắc thành phố.
- Anh ta có còn ở đó không?
- Không khoảng một giờ sau anh ta ra khỏi đó, nhưng hóa trang giỏi đến nỗi suýt nữa tôi cũng lầm. Nếu không phải là đi bộ thì chắc tôi đã để tuột mất anh ta.
Lloyd hỏi:
Anh ta đi đâu?
Anh ta đi quanh thành phố theo một đường khác và cuối cùng tới trụ sở chiến dịch vận động bầu cử của Zerimski.
- Tại sao lại là Zerimski?
Tôi chưa biết, nhưng khi đi ra khỏi đó anh ta mang theo toàn bộ chương trình chiến dịch vận động của Zerimski. Sau đó anh ta mua một tấm bản đồ ở quầy bán báo và ăn trưa ở một quán ăn gần đó. Buổi chiều anh ta thuê một chiếc xe và trở về khách sạn. Từ lúc đó đến giờ anh ta vẫn chưa rời khỏi đó.
Lloyd đột nhiên kêu lên:
- ôi, lạy Chúa? Lần này là Zerimski.
Đầu dây đàng kia lặng đi hồi lâu, rồi Jackson nói:
- Không, thưa ngài Lloyd, không thể như thế được.
- Tại sao lại không?
- Anh ta sẽ không bao giờ chịu thi hành một vụ ám sát nhạy cảm như vậy trừ khi mệnh lệnh là do chính Nhà Trắng đưa ra. Tôi biết anh ta đã lâu và có thể đảm bảo điều đó.
- Chớ quên rằng bạn anh đã thi hành một vụ ám sát cũng nhạy cảm đúng như vậy ở Colombia. Chẳng có gì nghi ngờ về việc Dexter có thể thuyết phục để anh ta tin rằng vụ này cũng do chính Tổng thống yêu cầu.
Jackson khẽ nói:
- Còn có một khả nàng khác nữa.
- Là gì?
- Đó là không phải họ dự định giết Zerimski, mà là Connor.
Lloyd viết cái tên đó vào một tờ giấy nhắn màu vàng.
Chương 12
- Người Mỹ à?
- Vâng - Jackson nói và nhìn xuống xem giọng nói phát ra từ đâu.
Chú có cần gì không?
- Không - Jackson nói, mắt vẫn không rời khách sạn.
- Nhất định là chú phải cần một thứ gì đó chứ. Người Mỹ bao giờ cũng cần gì đấy.
Jackson dằn giọng:
- Tôi không cần thứ gì cả. Bây giờ thì đi đi.
- Trứng cá? Búp bê Nga- Quân phục đại tướng? Mũ lông? Đàn bà?
Lần đầu tiên Jackson nhìn xuống thằng bé. NÓ quấn kín mít người từ đầu đến chân trong một chiếc áo khoác lông cừu to gấp ba người nó. Trên đầu nó đội một chiếc mũ da thỏ rừng mà Jackson cũng cảm thấy cần phải có một cái- Thằng bé cười để lộ hai chiếc răng khuyết.
- Một ả đàn bà nhé? Vào lúc năm giờ sáng?
- Thời gian thích hợp đấy. Hay là chú thích con trai hơn?
- Cháu tính tiền dịch vụ thế nào .
- Loại dịch vụ gì? - Thằng bé hỏi, vẻ nghi ngờ.
- Làm chân chạy vặt.
- Chạy vặt?
- Vậy thì người giúp việc vậy.
- Giúp việc?
- Trợ lý ấy mà.
- à, chú định nói là đối tác, như trong các phim Mỹ.
- OK, vậy là đã thỏa thuận về mô tả công việc của cháu, cậu bé thông thái ạ. Thế cháu tính bao nhiêu?
Theo ngày? Theo tuần? Hay theo tháng?
- Theo giờ.
- Chú định trả bao nhiêu?
Chúng ta là một hãng nhỏ, đúng không nào?
Thằng bé cười rộng ngoác đến mang tai:
- Đấy là bọn cháu học của người Mỹ đấy.
Jackson nói?
- Một đô la.
Thằng bé bắt đầu cười to?
Cháu là một thằng bé thông thái, nhưng chú thì là một nhà soạn hài kịch. Mười đô la.
Như thế chẳng khác gì một sự bóc lột.
Lần đầu tiên thằng bé tỏ ra bối rối.
- Chú trả cháu hai đô la.
- Sáu.
- Bốn.
- Năm.
Jackson nói:
Đồng ý.
Thằng bé giơ một bàn tay phải lên cao, điều mà nó nhìn thấy trong các phim Mỹ. Jackson đập tay vào tay nó - Hợp đồng đã được thỏa thuận - Ngay lập tức thằng bé nhìn giờ trên chiếc đồng hồ Rolex đeo trên tay.
Jackson hỏi.
- Vậy cháu tên là gì?
Thằng bé đáp.
- Sergei. Còn chú?
- Jackson. Sergei, cháu bao nhiêu tuổi?
Thế chú muốn cháu bao nhiêu tuổi?
- Thôi, dẹp trò công kích đi và nói cho chú biết cháu bao nhiêu tuổi.
Mười bốn .
Cháu lên chín thôi, không hơn một ngày.
- Mười ba.
- Mười.
- Mười một.
Jackson nói:
- OK. Chú thỏa thuận là mười một.
Thằng bé hỏi:
Còn chú bao nhiêu tuổi?
- Năm mươi tư.
Sergei nói:
- Cháu thỏa thuận là năm mươi tư.
Lần đầu tiên sau nhiều ngày Jackson phá lên cười- Gã hỏi, mắt vẫn nhìn lên cửa khách sạn:
Làm thế nào cháu giỏi tiếng Anh như thế?
Mẹ cháu sống với một người Mỹ khá lâu. Năm ngoái ông ta trở về Mỹ nhưng không mang mẹ con cháu theo.
Lần này Jackson tin rằng nó nói thực.
Sergei hỏi:
- Vậy công việc ra sao hả đối tác?
- Chúng ta đang để mắt đến một người ở trong khách sạn kia.
- Bạn hay thù?
- Bạn.
Mafya à?
Không, ông ấy làm việc cho những người tốt.
Sergei nói, giọng hơi sắc:
- Đừng đối xử với nhau như với trẻ con. Hãy nhớ chúng ta là đối tác của nhau.
Jackson nói:
- OK, Sergei - Vừa lúc đó Connor bước ra cửa.
Jackson đặt tay lên vai thằng bé.
- Đừng động đậy.
Sergei hỏi:
- ông ấy đấy à?
- Phải, ông ấy đấy.
Mặt ông ấy có vẻ tốt bụng. CÓ lẽ cháu nên làm việc cho ông ấy thì hơn. . .
° ° °
Ngày hôm nay đối với Victor Zerimski đã bắt đầu không mấy tốt đẹp, mà bây giờ mới chỉ hơn tám giờ một tý ông ta đang chủ trì một cuộc họp quan trọng và Dimitrov Titov - Tham mưu trưởng của ông đang báo cáo.
Tìtov đang nói:
- Một tổ chức quan sát quốc tế đã đến Moscow để quan sát tiến trình bầu cử. HỌ chờ đợi sẽ phát hiện được những dấu hiệu bỏ phiếu gian lận, nhưng Chủ tịch uỷ ban đó đã phải thừa nhận rằng họ chưa nhận thấy một điều gì bất hợp pháp.
Titov kết thúc bản báo cáo bằng việc thông báo rằng Zerimski đã lên được vị trí thứ hai trong kết quả thăm dò ý kiến và Mafya thậm chí đang rót thêm nhiều tiền nữa cho chiến dịch vận động bầu cử của Chemopov.
zerlmski đứng dậy. ông ta vuốt chùm ria mép rậm rì, lần lượt nhìn từng người ngồi quanh bàn và nói:
- Bao giờ trở thành Tổng thống tôi sẽ quẳng hết lũ chó đẻ ấy vào tù lần lượt từng thằng một. Để rồi chúng chỉ còn đá để mà ngồi đếm cho đến chết mà thôi.
Các ủy viên Trung ương đã nhiều lần nghe vị lãnh đạo của họ lên án bọn Mafya, mặc dù trước mặt công chúng ông không bao giờ nhắc đến chúng.
Người đàn ông lùn tịt, vai u thịt bắp đấm tay xuống bàn:
- Nước Nga cần phải trở lại với những giá trị cũ của ngày xưa kia đã khiến cả thế giới phải kính trọng chúng ta.
Hai mươi mốt người ngồi đối diện với ông ta gật đầu tán thành, mặc dầu trong mấy tháng qua họ đã nghe ông ta nhắc đi nhắc lại những lời ấy không biết bao nhiêu lần.
- Suốt mười năm qua chúng ta chẳng làm được điều gì ngoài việc nhập khẩu những thứ tồi tệ nhất mà bọn Mỹ đưa cho.
HỌ tiếp tục gật đầu và dán mắt vào ông ta.
Zenmski lùa tay vào mái tóc rậm, thở dài và ngồi thụp xuống ghế. ông ta nhìn sang Tham mưu trưởng - Sáng nay chương trình của tôi thế nào?
Titov nói:
- Ngài sẽ đi thăm viện bảo tàng Puskin. Mọi người sẽ chờ ngài đến vào lúc mười giờ.
Hủy đi. Hoàn toàn phí thì giờ về việc đó, trong khi chỉ còn có tám ngày nữa là đến ngày bầu cử rồi - ông ta lại đập bàn - Tôi cần phải ở trên đường phố, nơi nhân dân có thể gặp gỡ tôi.
Titov nói:
Nhưng Giám đốc Viện Bảo tàng đã xin chính phủ cam kết để có thể bảo tồn được những tác phẩm của một nghệ sĩ Nga vĩ đại.
Zerimski nói:
- Một sự lãng phí tiền của của nhân dân.
Tham mưu trưởng nói tiếp:
- Và Chemopov đang tiếp tục bị chỉ trích vì cắt giảm sự bảo trợ nghệ thuật.
- Được rồi, tôi sẽ giành cho họ mười lăm phút.
Mỗi tuần có hai mươi ngàn người Nga đến thăm Bảo tàng Puskin - Titov nói thêm, mắt liếc xuống tờ giấy đánh máy trước mặt.
- Vậy thì ba mươi phút.
- Tuần trước Chemopov bôi nhọ rằng ngài chỉ là một tên đầu trộm đuôi cướp vô học.
Zenmski rống lên.
- Còn hắn thì là cái thá gì? Lúc hắn còn là công nhân nông trường thì tôi đã là sinh viên Luật ở Đại học Tổng hợp Moscow.
Titov nói:
- Thưa Chủ tịch, đó quả là thực tế. Nhưng các cuộc điều tra quốc tế của chúng ta cho thấy quần chúng không nhận thức được điều đó mà họ chỉ nghe lời của Chemopov mà thôi.
Điều tra quốc tế. ĐÓ là thứ khiến chúng ta phải cảm ơn bọn Mỹ.
- Chính điều đó đã giữ được cho Tom Lawrence ngồi vững trong văn phòng.
Một khi tôi đã được bầu thì chẳng cần đến các cuộc điều tra mới có thể ngồi vững chỗ được.
° ° °
Tình yêu đối với hội họa của Connor bắt đầu từ khi Maggie lôi gã đi khắp các phòng tranh, hồi họ còn là sinh viên. Thoạt tiên gã đi chỉ vì muốn được có thêm nhiều thời gian ở bên nàng, nhưng chỉ vài tuần sau gã đã thay đổi. Mỗi lần cùng nhau ra khỏi thành phố gã rất vui sướng được đi cùng đến bất cứ phòng tranh nào nàng chọn.
Trong khi Giám đốc Bảo tàng Puskin đưa Zerimski đi quanh bảo tàng thì Connor phải chú ý để không bị các tuyệt tác kỳ diệu này hút hồn mà phải tập trung quan sát vị ứng cử viên Tổng thống.
Vào những năm 1980, khi lần đầu tiên Connor được cử sang Nga thì người ta chỉ có thể nhìn thấy những chính khách cấp cao gần nhất là khi họ ngồi trên khán đài trong lễ duyệt binh ngày Quốc tế Lao động. Nhưng giờ đây khi đông đảo quần chúng có thể được phát biểu ý kiến lựa chọn trên các phiếu điều tra thì đột nhiên những ai muốn được bầu lại phải đi lại trong đám quần chúng, thậm chí phải lắng nghe các ý kiến của họ.
Bảo tàng đông chẳng kém gì sân vận động Cooke và mỗi khi Zerimski xuất hiện thì đám đông lại tách ra cứ như ông ta là thánh Moses đang đi tới Biển Đỏ. Vị ứng cử viên chậm rãi đi trong đám đông dân Moscow đang chẳng để ý gì đến các bức tranh và các bức tượng vì mải giơ tay đón chào ông ta.
Trông bên ngoài Zerimski lùn hơn trong các bức ảnh, vây quanh ông ta là một đám thân cận còn bé nhỏ hơn để có thể bớt nổi bật sự thực. Connor nhớ lại lời nhận xét của Tổng thống Truman về khổ người. CÓ lần ông đã nói với một sinh viên Missouri như sau:
- " Cậu bé ơi, nếu như phải tính đến từng phân thì hãy xét đến cái trán. Thêm vài phân ở khoảng cách từ chân tóc đến sống mũi còn hơn là cố lấy vài phân từ mát cá đến đầu gối".
Zerimski mặc một bộ quần áo cắt xấu tệ. Sơ mi nhàu nhĩ từ cổ áo đến măng sét. Connor tự hỏi không hiểu Giám đốc Bảo tàng Puskin có khôn ngoan không khi mặc một bộ vét may đo rõ ràng là không được may ở Moscow.
Mặc dầu Connor biết Zenmski rất sắc bén và là người có học, nhưng chẳng mấy chốc đã rõ ràng rằng trong những năm qua chẳng mấy khi ông ta đi thăm các bảo tàng nghệ thuật. Trong khi lăng xăng đi qua các đám đông thỉnh thoảng ông ta lại chỉ một ngón tay vào một bức vẽ nào đó và nói rất to với người xem tên họa sĩ. Rất nhiều lần ông ta nói sai, nhưng đám đông vẫn gật đầu tán thành. ông ta bỏ qua những tuyệt tác của Rubens mà tỏ ra quan tâm đến một bà mẹ đứng giữa một đám đông đang như lấy tay đứa con của mình hơn là những nét vẽ tài tình miêu tả một cảnh tương tự như vậy trên bức tranh sau lưng chị ta. Khi ông ta bế lấy đứa trẻ và yêu cầu chụp chung với chị ta một tấm ảnh, Titov gợi ý ông ta nên bước sang bên phải một bước. Như vậy họ có thể lấy được cả hình Đức Mẹ Đồng trinh Ma ria. Sẽ không một tờ báo nào không in tấm ảnh đó lên trang nhất.
Sau khi ông ta đi qua khoảng hơn một chục phòng tranh và tin chắc là tất cả những người đến tham quan bảo tàng Puskin hôm đó đều đã biết sự có mặt của mình, Zenrtlski bắt đầu thấy chán và quay sang với đám phóng viên đang theo sát phía sau. Lên đến tầng hai ông ta bắt đầu nhóm một cuộc họp báo tại chỗ.
ông ta nói với đám đông.
Cứ đến đây và hỏi bất cứ đề tài nào các vị thích.
Một phóng viên tờ The Times hỏi.
- Thưa ngài Zenmski, ngài có phản ứng thế nào đối với kết quả điều tra mới nhất .
- Tiến lên theo một định hướng đúng đắn.
Một phóng viên khác kêu lên:
Hiện giờ ngài đã lên tới vì trí thứ hai, và do đó là đối thủ duy nhất của ông Chernopov.
Zenmski nói.
Đến ngày bầu cử thì ông ta sẽ là đối thủ duy nhất của tôi.
Đám tùy tùng phá lên cưới rất mẫn cán.
- Ngài Zerimski, theo ngài thì nước Nga có nên trở lại là một nhà nước Cộng sản nữa hay không? - Câu hỏi không thể tránh khỏi này cuối cùng được một người nói giọng Mỹ đặt ra.
Nhà chính khách quỷ quyệt quá tỉnh táo chẳng thể nào bị mắc phải cái bẫy đó:
Nếu như ông muốn nói như thế có nghĩa là chúng ta trở lại với một xã hội có nhiều việc làm hơn, lạm phát thấp hơn và mức sống cao hơn thì câu trả lời ắt phải là có - ông ta cố nói cho khác đi so với một ứng cử viên Tổng thống Mỹ của đảng Cộng hòa đã nói trong kỳ vận động bầu cử vòng đầu.
- Nhưng đó cũng chính là những điều mà Chemopov đã tuyên bố trong chính sách hiện nay của ông ta.
Zenmski nói:
- Chính sách của chính phủ hiện nay là làm sao bảo đảm cho Thủ tướng giữ cho tài khoản của ông ta ở các ngân hàng Thụy sĩ đầy ắp đô la. Tiền đó là của nhân dân Nga, chính vì thế mà ông ta không xứng đáng là Tổng thống tiếp theo của chúng ta. Tôi được biết là sắp tới khi tạp chí Fortune xuất bản danh sách mười người giàu nhất thế giới thì Chemopov sẽ đứng ở vị trí thứ bảy. Nếu bầu Chernopov làm Tổng thống thì chỉ trong vòng năm năm ông ta sẽ hất BinGate khỏi vị trí đứng đầu - ông ta nói thêm - Không, các bạn của tôi ơi, các bạn sẽ thấy rằng nhân dân Nga sẽ bầu cử thành công cho một sự trở về của những năm tháng mà dân tộc chúng tôi là một dân tộc được kính trọng nhất trên trái đất.
Đứng ở cuối phòng, Sergei hỏi:
- Tại sao bạn chú lại quan tâm đến Victor Zerimski thế? Jackson nói:
- Cháu hỏi nhiều quá đấy.
Zerimski bắt đầu đi về phía cửa ra, viên Giám đốc Bảo tàng và đám tuỳ tùng cố đuổi kịp ông ta. Vị ứng cử viên đứng ở bậc thềm cuối cùng để cho người ta chụp ảnh, đối diện với bức tranh hoành tráng "Chris được hạ xuống khỏi giá Thập tự " của Goya. Connor bị bức tranh làm cho xúc động đến nỗi gã gần như bị đám đông đè bẹp. Sergei thì thầm:
Chú Jackson, chú có thích Goya không?
Jackson thừa nhận.
Chú chưa được nhìn thấy tranh của ông ta nhiều lắm. Nhưng quả thực là kỳ diệu.
Sergei nói.
- Dưới tầng hầm còn nhiều lắm. Lúc nào cũng có thể thu xếp được... - nó giơ ngón tay cái ra.
Suýt nữa Jackson đã tạt tai thằng bé nếu không sợ như vậy sẽ khiến mọi người chú ý. Đột nhiên Sergei nói:
- Bạn chú lại di chuyển kìa.
Jackson nhìn lên và thấy Connor mất hút về phía cửa ra, Ashley Michell đuổi theo ở đàng sau.
° ° °
Connor ngồi một mình trong một tiệm ăn Hy lạp nằm ở Prechinstenka và cân nhắc lại những gì gã đã nhìn thấy sáng nay. Mặc dầu quanh Zerimski luôn luôn có đám tay chân luôn nhìn chòng chọc tứ phía nhưng ông ta vẫn không được bảo vệ kỹ như hầu hết các nhà lãnh đạo phương Tây khác. CÓ thể nhiều người trong số những người được vũ trang đầy đủ của ông ta rất dũng cảm và cơ trí nhưng chỉ có ba người trong số đó tỏ ra có kinh nghiệm trong việc bảo vệ một lãnh tụ có tầm cỡ thế giới.
Và họ không thể luôn luôn có mặt. Gã cố gắng ngồi xem xét kỹ chương trình còn lại của Zerimski, cho đến tận ngày bầu cử. Trong tám ngày tới vị ứng cử viên sẽ có hai mươi bảy lần xuất hiện trước công chúng trong nhiều dịp khác nhau. Cho đến lúc người phục vụ đặt tách cà phê đen xuống trước mặt gã thì Connor đã chọn ra được ba vị trí có thể xét tới nếu như cần loại bỏ tên của Zerimski ra khỏi bảng bầu cử.
Gã nhìn đồng hồ. Tối nay vị ứng cử viên sẽ nói chuyện với một cuộc họp ở Moscow- Sáng hôm sau ông ta sẽ đi tàu hỏa đến Yaroslavi, ở đó ông ta sẽ khai trương một nhà máy rồi trở về thủ đô để dự một buổi biểu diễn ở Nhà hát Bolshoi Ballet. Từ nhà hát ra ông ta sẽ đáp chuyến tàu đêm đi St. Petersburg. Connor quyết định sẽ rình Zerimski ở Yaroslavi. Gã cũng đã đặt cả vé đi xem ba lê và một chỗ trên chuyến tàu đêm đi St. Petersburg.
Gã nhấm nháp tách cà phê và nghĩ đến Ashley Michell, lúc ở bảo tàng Puskin cứ mỗi lần Connor nhìn về phía hắn thì hắn lại lủi vào trốn sau chiếc cột gần nhất, gã cố để không cười phá lên. Gã đã quyết định ngày hôm nay sẽ để cho Michell lẽo đẽo đi theo - đôi lúc có thể hắn cũng có ích - nhưng khi nào tới chỗ gã định sẽ ngủ đêm thì sẽ cho hắn rớt. Gã liếc nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy Tuỳ viên Văn hóa đang ngồi trên một chiếc ghế dài và đọc tờ Pravda. Gã mỉm cười. Một kẻ chuyên nghiệp bao giờ cũng có thể quan sát được con mồi của mình mà không hề lộ diện.
° ° °
Jackson rút một chiếc ví từ trong túi áo ngoài, lấy ra một tờ một trăm rúp và đưa cho thằng bé. Gã gật đầu về phía bên kia đường và nói:
- Kiếm cái gì để hai chúng ta ăn, nhưng đừng có tới gần cái tiệm ăn kia.
- Cháu chưa bao giờ vào một tiệm ăn nào cả. Chú muốn ăn gì?
- Giống cháu.
Chú Jackson, chú hiểu nhanh lắm - Sergei nói và biến đi.
Jackson nhìn ngược nhìn xuôi khắp phố. Người ngồi ở ghế dài đọc tờ Pravda kia không mặc áo khoác. RÕ ràng là cậu chàng tưởng rằng cuộc theo dõi sẽ diễn ra ở một chỗ ấm áp và tiện nghi. Nhưng vì hôm qua đã để lọt mất Fitzgerald nên lúc này không dám động đậy đi đâu. Hai tai cậu chàng đỏ lựng, mặt đỏ ửng vì lạnh, và chẳng có ai để mà đi mua thức ăn đem đến cho cả- Jackson ngờ rằng ngày mai sẽ không nhìn thấy cậu chàng nữa.
Mấy phút sau Sergei trở lại mang theo hai cái túi giấy.
NÓ đưa cho Jackson một túi:
- Một cái bánh khổng lồ cùng với khoai tây rán kiểu Pháp và tương cà chua đấy.
Không hiểu sao chú có cảm giác nếu Zerimski thắng cử thì ông ta sẽ đóng cửa các tiệm Mcdonald - Jackson cắn một miếng thật to bánh mì kẹp thịt và nói.
Sergei đưa cho Jackson một chiếc mũ sĩ quan làm bằng da thỏ rừng và nói.
Còn cháu thì nghĩ rằng chú cần cái này.
Jackson hỏi:
- Một trăm đô la có đủ cho tất cả những thứ này không?
Hết chương 12
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro