Chương 54: Thụ Hạ Tước Minh, Phu Thê Hí Ngôn (樹下鵲鳴,夫妻戲言)
[♪] Thụ Hạ Tước Minh, Phu Thê Hí Ngôn (樹下鵲鳴,夫妻戲言): Dưới tán cây, quạ kêu, phu thê trêu đùa.
------
Trời xanh thẳm tựa bông,
Mây trôi như lụa mỏng,
Gió nam lùa nhè nhẹ,
Cùng hát khúc ru đồng.
Chỉ có hoa quỳnh đêm,
Lặng lẽ nở nơi vắng.
Hương ngọt ngào mà nhạt,
Một mình lạnh bóng trăng.
Dẫu tinh khôi ngời sáng,
Đơn độc cũng mỏi mòn.
Giờ thêm sắc hoa giấy,
Đỏ thắm tựa má hồng.
Hoa cúc vàng rực rỡ,
E ấp giữa chiều đông.
Cánh mỏng manh phơi nắng,
Nhớ hơi ấm nhà mình.
Lòng chờ ai ghé thăm,
Để hồn hoa bớt lạnh.
Ai về ngang vườn nhỏ,
Xin dừng ngắm nhành hoa.
Dẫu kiếp đời ngắn ngủi,
Cũng trọn vẻ kiêu sa.
------
"Tử Yên, ước mơ lúc nhỏ của chàng là gì?"
"Lớn lên được trở thành phu quân của nàng!"
"Chàng nghiêm túc một chút đi!"
"Được rồi, ta muốn trở thành người nông dân, cặm cụi với đồng ruộng cả ngày."
"Nghe mệt mỏi ghê! Đau lưng lắm đó!"
"Nha đầu, nàng cứ thích phá đám mộng tưởng của ta thế nhỉ?"
"Thế chàng còn muốn gì khác không?"
"Cũng muốn nuôi một chú lợn biết nói, cả ngày chỉ ăn với ngủ!"
"Chàng thật sự thích lợn thế cơ à?"
"Không, chỉ thích một con lợn cụ thể thôi, là nàng đấy!"
"Chàng dám nói ta là lợn à? Cẩn thận ta không nói chuyện với chàng nữa!"
"Được thôi, không gọi là lợn, vậy gọi nàng là heo béo nhé?"
"Chàng... chàng chán sống rồi à?"
"Vẫn chưa đâu, vì ta chưa sống đủ lâu để thấy nàng tức giận đến đỏ mặt như thế này!"
"Được lắm, lần sau ta sẽ không thèm ăn cơm chàng nấu nữa!"
"Nàng không ăn cơm ta nấu thì ai ăn? Hay ta phải học nấu cám lợn đây?"
"Tử Yên! Chàng đúng là hết thuốc chữa mà!"
"Nếu nàng chịu làm thầy thuốc, ta sẽ vui lòng làm bệnh nhân cả đời!"
"Không thèm, chàng cứ lo sống khỏe mạnh đi, thế thì ta mới rỗi việc làm một con lợn thích lấy thịt đè người!"
"Đè người? Nàng tự tin lắm nhỉ, đè ai không đè, lại đè đúng phu quân của mình!"
"Thì sao? Chàng định làm gì được ta nào?"
"Ta chỉ cần gõ nhẹ một cái là con lợn béo này lăn quay ra chứ làm gì nữa!"
"Chàng thử xem, xem ai mới là người bị lăn trước!"
"Ta thì chắc chắn không, vì ta là người, còn nàng là lợn!"
"Chàng... được lắm, xem ta húc chàng một cú bây giờ!"
"Ôi chao, heo này dữ thật! Nhưng ta không sợ, dù nàng có húc thì cũng chỉ là... à, là heo chạy vòng vòng thôi!"
"Chàng nói thêm một câu nữa thử xem! Ta sẽ cấm chàng bước chân vào bếp!"
"Nếu nàng cấm, ta sẽ vào bếp làm gì nữa? Chỉ cần đứng ngoài xem nàng loay hoay vụng về là đủ vui rồi!"
"Vụng về? Ta nấu còn ngon hơn chàng gấp đôi!"
"Đúng, nhưng chỉ khi ta giúp nàng thổi lửa, nhóm bếp, nhặt rau..."
"Chàng nói thế khác gì bảo ta làm mọi thứ còn chàng chỉ bày bừa!"
"Ta bày bừa nhưng lại khiến nàng có cơ hội thể hiện tài năng, không phải là giúp nàng tỏa sáng hay sao?"
"Nếu chàng còn nói thêm một câu nữa, ta sẽ cho chàng đi nhóm củi cả tháng, khỏi bước chân vào bếp luôn!"
"Nhóm củi? Ta sẵn sàng, nhưng nếu ta không vào bếp, nàng sẽ làm thế nào để có người... dọn dẹp?"
"Dọn dẹp á? Chàng không làm thì ta tự làm, cũng chẳng sao. Chỉ là lúc đó, đừng hòng ta nấu cho chàng một bữa tử tế nữa!"
"Nàng không nấu, ta càng lời! Dù sao cũng đâu cần lo, ta cứ ăn tạm đồ nàng để lại lần trước thôi!"
"Ăn đồ ta để lại á? Không có đâu nhé, đừng mơ! Ta sẽ ăn hết phần của chàng luôn!"
"Được thôi! Nhưng nếu nàng ăn nhiều quá, chẳng phải sẽ béo lên sao? Lúc đó, ai chịu trách nhiệm đây?"
"Ta chịu trách nhiệm hết, nhưng sẽ phải cân nhắc lại việc cho chàng làm... đệm cho ta nữa đấy!"
"Ồ, vậy chẳng phải ta sẽ mất đi công dụng quý giá sao? Phu nhân thật biết cách khiến phu quân vừa vui vừa lo mà!"
------
Quả thật là một ngày nắng đẹp.
Trong khu vườn nhỏ ở thôn Bỉ, có đôi phu thê cùng trồng cây bên nhau. Họ dùng đôi bàn tay lấm lem bùn đất, dùng dụng cụ với từng nhát xới nhẹ nhàng khơi lên hương thơm ẩm ướt. Nắng xiên qua những tán cây rộng, từng tia sáng long lanh như sợi chỉ vàng đan kín kẽ hở. Trong mùi nắng còn có mùi cỏ non và cánh đồng đơm bông trĩu nặng. Tay người vợ nâng nhẹ nhành lưu ly nhỏ xíu, như nâng niu giấc mơ của cả một đời người. Cạnh bên là người chồng với đôi tay rám nắng, đang lấp đất với từng động tác cẩn thận, như sợ làm tổn thương những mầm non nhỏ bé vừa được gieo xuống.
"Ta nói này. Chàng xem, mảnh đất này trồng cây gì cũng tốt! Lát nữa, chàng giúp ta trồng thêm vài khóm bên kia được không?"
"Được thôi, chỉ cần nàng thích!" Tử Yên buông cuốc, ngồi xổm xuống chỉnh lại nón rơm trên đầu ta, cứ sợ làn da trắng ngần sẽ bị hun đến rám.
"Nhìn này, Tử Yên! Có phải trời cũng biết thêu trái tim cho chúng ta không?" Ta khúc khích cười khi phát hiện ra một điều thú vị dưới mặt đất.
Khi một đợt gió mới làm rung rinh những nhành lưu ly, bất giác trong chúng giống hệt đang nhảy múa. Bất chợt, xuất hiện kèm thêm những vệt sáng hòa quyện dưới chân, chúng uốn lượn tạo nên những hình trái tim kỳ diệu.
"Vậy sao nàng không đào lên thử xem? Biết đâu lại có báu vật!" Tử Yên nháy mắt, hóm hĩnh gợi ý.
Nghe vậy, ta bèn hăng hái giáng một nhát cuốc xuống đất, lớp đất mềm mại dễ dàng bị xới tung. Nhưng chẳng mấy chốc, bỗng khựng lại.
"A? Cái gì đây?" Đôi tay lấm lem nhẹ nhàng lôi ra một chiếc hộp gỗ nhỏ.
"Tử Yên, chàng giấu gì ở đây vậy? Sao không nói với ta?"
"Đó là Đỗ Tử!" Nhưng chàng lại dùng giọng điệu hóm hỉnh để trêu chọc ta.
Ta lặp lại: "Đỗ Tử?"
Tử Yên đặt bàn tay lên nắp hộp, gạt nhẹ lớp đất còn bám trên đó: "Là con của chúng ta. Nàng không nhớ sao? Đây là nơi ta chôn giấc mơ về một ngày nào đó, chúng ta có thể trồng thêm nhiều loại cây trái, nhìn con chạy nhảy trong vườn, và sống những ngày thật bình dị. Đỗ Tử chính là biểu tượng cho ước mơ ấy!"
"Chàng đúng là... Đỗ Tử cái gì chứ! Chàng thật biết cách khiến ta vừa muốn tức giận vừa muốn cười!" Ta đưa tay đấm nhẹ vào vai chàng.
Quả thật, ta đã luôn hùa theo những trò đùa của chàng trong từng khoảnh khắc đời thường. Kể từ ngày có chàng bên cạnh, cuộc sống như bừng lên muôn sắc thái, chan hòa đủ mọi cung bậc cảm xúc, từ vui vẻ đến lắng đọng. Ngay cả cái tên "Đỗ Tử" – vốn chỉ là cách gọi một căn bệnh cũ của ta – cũng từng khiến ta thoáng chút thất vọng khi chàng ngộ ra sự thật.
Vậy mà giờ đây, khi chàng vẫn còn nhớ đến điều nhỏ nhặt ấy, lòng ta bỗng dưng rộn ràng niềm vui, như được vỗ về bởi sự chân thành và ân cần không đổi thay của chàng.
"Nàng mở hộp ra đi, bên trong là minh chứng cho lời ta nói!"
Mở nắp hộp gỗ thì thấy ở trong đó có một viên thuốc tròn. Viên thuốc nhỏ màu trắng đục, không hề có gì đặc biệt.
"Đây là...?" Ta nhìn Tử Yên, chờ đợi lời giải thích.
Chàng nhếch môi cười, nhưng lại pha chút ưu tư lặng lẽ: "Đây là 'bảo bối' của chúng ta. Nàng phải hứa với ta sẽ giữ gìn nó cẩn thận!"
Ta chớp mắt, nửa buồn cười, nửa nghi hoặc: "Viên thuốc này có gì đặc biệt mà chàng thần bí như vậy? Chẳng lẽ chàng sợ ta lại ốm nên đào sẵn thuốc chữa ở đây?"
Chàng ngồi xuống bên cạnh nắm lấy tay ta: "Đây là một viên thuốc giải độc, nhưng không phải để cứu bệnh, mà để cứu lòng người. Nó là thứ mà ta chuẩn bị cho nàng, phòng khi... phòng khi ta không thể ở bên cạnh nàng!"
Tuy cười, nhưng cảm giác trong lòng như bị ai bóp nghẹt.
"Tử Yên, chàng lại nói những lời linh tinh gì thế? Chúng ta chẳng phải đang sống tốt sao? Sao lại nói đến chuyện không ở bên cạnh nhau nữa?"
"Ta chỉ muốn đề phòng thôi, nàng biết tính ta mà!"
"Cuộc đời này, điều duy nhất ta không thể chắc chắn, chính là thời gian. Ta chỉ muốn chắc rằng, dù bất cứ chuyện gì xảy ra, nàng vẫn có thể bình an."
Ta nhìn chàng, lặng đi một lúc lâu.
"Nếu vậy..." Ta cố kìm một tiếng thở dài, nhưng vẫn không giấu được giọng run run. "Chàng cũng phải hứa với ta một điều. Nếu ta không còn, chàng cũng phải sống thật tốt, tiếp tục sống những ngày bình dị mà chúng ta đã mơ ước."
Chàng không đáp, chỉ nhìn mãi, hình dung một bóng dáng quen thuộc nơi đồng tử nâu trầm. Nắng vẫn xuyên qua tán lá, những vệt sáng xiên xiên thành hình trái tim dưới mặt đất giờ đây dường như mờ nhạt hơn, bị bóng của chúng ta phủ lên. Ta cúi xuống, nhẹ nhàng đặt viên thuốc trở lại chiếc hộp gỗ, rồi khép nắp lại, cất lại vào hố nhỏ, và lấp nó đi.
"Tử Yên, ta không cần thuốc giải nào cả. Chỉ cần chàng ở đây, bất kể điều gì xảy ra, ta đều không sợ. Chỉ cần chàng cười, mọi đau khổ đều tan biến."
Chàng bật cười, tiếng cười như gió thổi qua hàng tre: "Nàng đã nói vậy, ta nhất định sẽ ở đây, trồng thêm thật nhiều lưu ly để nàng vui lòng!"
Ánh nắng ấm áp vẫn chiếu qua tán cây, gió vẫn hiu hiu thổi. Giữa khu vườn nhỏ, bọn ta ngồi bên nhau, chẳng ai nhắc đến tương lai mịt mờ, chỉ tận hưởng hiện tại bình yên. Những mầm lưu ly xanh biếc đang bắt đầu vươn lên từ đất, như hy vọng được gieo xuống lòng người.
Ở một góc khuất, nơi ánh nắng nhảy nhót dịu dàng, cành sơn tra già cỗi bất ngờ xuất hiện một chấm nhỏ như bụi phấn. Đó là một nụ hoa, nhỏ xíu, yếu ớt như thể chỉ cần một làn gió nhẹ cũng có thể tan biến. Nhưng ẩn sâu trong sự mỏng manh ấy lại là sự kiên định lạ kỳ. Nụ hoa e ấp, hé ra như nụ cười ngượng ngập.
Cây sơn tra vẫn đứng đó, lặng lẽ không khoe sắc, không làm kinh động. Cả khu vườn như thấu hiểu, chỉ lặng nhìn sự sống khởi nguồn từ những điều bé nhỏ.
-----
Lần trước, khi Thất công tử hồi hương về Bồ Can, Ngư Ngư cũng rời đi theo. Nay, nó đã hứa với ta sẽ trở về sớm để kịp dự lễ thành thân của ta. Không có nó, ngôi nhà này vắng lặng như hồ nước không gợn sóng. Đã vậy, Hồng Hạnh nay cũng đã xuất giá, thêm phần trống trải. Tuy nói rằng nàng vẫn thường xuyên lui tới thăm nom, nhưng phần lớn chỉ là tranh thủ. Nàng như thể vẫn canh cánh nợ nần với ta, lúc nào cũng lo lắng. Trước ngày rước dâu, nàng không ngừng căn dặn Hồng Xuân, Hồng Lăng, và cả A Phúc, bảo họ phải chăm lo mọi việc thật chu toàn cho ta. Nhưng giờ đây, ta đã có Thất công tử kề cận, từng đường tơ kẽ tóc cũng được ngài chăm sóc tận tình hơn cả nàng.
Hôm nay, ta quyết định ghé thăm cửa hàng bảo tiêu của A Bảo và Hồng Hạnh. Chỉ đi một mình, mà không dẫn Thất công tử theo, vì chàng đã bị cha và Tô thúc giữ lấy, không biết lại bị "giáo huấn" điều gì? Nhưng có lẽ một chút nữa ta về, sẽ bị cằn nhằn một hồi vì lén lút đi chơi mà không xin phép phu quân. Vậy thì chút nữa ta sẽ mua thêm vài hộp điểm tâm ngon, để dỗ dành "bé cưng" của ta mới được.
Vừa bước qua ngưỡng cửa, đã thấy sự phấn khởi nơi bọn họ, hân hoan như thể mới lụm được vàng. Tuy lòng có chút ngạc nhiên, nhưng cái nhiệt tình ấy cũng đủ làm người ta thấy vui lây. Đương khi ấy, một người phụ trách mời Hồng Hạnh đến hàn huyên.
Hồng Hạnh hào hứng kể: "Tiểu thư, gần đây công việc tuy bận rộn nhưng lại rất thú vị. Lúc mới bắt đầu, nô tỳ chẳng biết gì về quản lý, chỉ nghĩ việc bảo tiêu đơn giản là hộ tống hàng hóa từ điểm thứ nhất đến điểm thứ hai. Nhưng một lần nghe A Bảo nói về cách sắp xếp kho bãi và phân phối hàng hóa theo lộ trình, nô tỳ mới bừng tỉnh hiểu ra."
Ta cười: "Ồ? Vậy tỷ đã học được gì?"
Hồng Hạnh bèn trả lời cặn kẽ: "A Bảo nói rằng trong nghề bảo tiêu, không chỉ cần biết võ nghệ hay có đội ngũ mạnh, mà còn phải am hiểu tâm lý khách hàng và đặc biệt là đánh giá được những rủi ro tiềm ẩn trên lộ trình. Ví dụ, mỗi chuyến hàng đều có giá trị và tính chất riêng. Có chuyến chỉ cần bảo vệ an toàn khỏi cướp bóc, nhưng cũng có chuyến phải đảm bảo đến nơi đúng giờ, vì chậm trễ một ngày là tổn thất lớn cho khách hàng."
"Vậy làm thế nào để xử lý những rủi ro đó?"
Bản thân tuy là con nhà thương gia, nhưng có những chuyện chưa từng tiếp xúc nên không thể hiểu được, vì vậy có người chia sẻ, ta rất bằng lòng nghe.
"Thưa, bắt đầu từ việc phân tích lộ trình. Trước đây, nô tỳ chỉ nghe theo hướng dẫn mà không nghĩ ngợi nhiều. Nhưng giờ nô tỳ nhận ra, cần phải xem xét kỹ từng đoạn đường: nơi nào dễ phục kích, nơi nào cần tăng cường nhân lực, hay nơi nào có thể dùng đường tắt để tiết kiệm thời gian. Những chi tiết nhỏ ấy giúp nô tỳ hiểu rõ hơn về trách nhiệm của mình trong công việc."
Ta gật gù: "Quả là không dễ dàng. Hóa ra bảo tiêu không chỉ dựa vào sức mạnh, mà còn cần cả sự nhạy bén và cẩn thận. Thật đáng nể!"
"Đúng vậy! Ngoài ra, còn phải luôn giữ vững uy tín cửa hàng nữa. Có khách hàng nào không hài lòng, ta phải xin lỗi ngay lập tức, sửa chữa sai sót nếu có, hoặc ít nhất là cho họ cảm giác mình luôn quan tâm đến họ. Những khách hàng cũ, ta lại càng phải chăm sóc, vì họ là những người mang lại lợi nhuận lâu dài."
Bởi vì Hồng Hạnh trả lời quá chuyên nghiệp, ta nhịn không được muốn trêu nàng một chút: "Có phải vì quá chăm sóc khách hàng mà tỷ cứ như là chuyên gia quản lý vậy?"
Hồng Hạnh cười tươi, rót thêm một chung trà: "Tiểu thư quá khen rồi. Nô tỳ cũng chỉ học hỏi từ tướng công và các huynh đệ thôi. A Bảo luôn nói rằng, một đội bảo tiêu giỏi không phải đội mạnh nhất, mà là đội hiểu rõ khách hàng và đảm bảo uy tín. Chỉ cần khách hàng tin tưởng mình, họ sẽ quay lại, và đó là thành công lớn nhất. Nhưng phải cảm ơn tiểu thư, nếu không có sự giúp đỡ của tiểu thư trước đây, nô tỳ làm sao có thể đi xa đến thế này!"
Ta lắc đầu, không xem đó là ân tình hay duyên nợ. Mọi chuyện ban đầu xuất phát từ tình cảm chân thành giữa mọi người với nhau, không cần thiết phải tính toán thiệt hơn, cũng không cần phải câu nệ khách sáo.
"Chúng ta vẫn luôn là bạn mà, phải không? Giúp đỡ nhau là chuyện đương nhiên rồi. Chỉ cần tỷ hạnh phúc, có một gia đình ấm cúng, cửa hàng làm ăn phát đạt, ta cũng sẽ vui lắm!" Ta nắm tay nàng, để rồi vỗ về.
"Tiểu thư bằng lòng xem nô tỳ là bạn, là vinh hạnh rất lớn lao của nô tỳ!"
Có điều, cách xưng hô giữa ta và nàng vẫn còn mang phong phạm xưng vị. Mấy lần liên tục chỉnh sửa, nhưng nàng nói đã quen miệng rồi, không sửa được, thế nên thôi.
"Vậy tình hình có gì mới không, Hồng Hạnh?" Ngó một vòng xung quanh tiệm, ta thấy mọi người đang đóng gọi rộn ràng, khuân bê kiểm vác hàng hóa, thật sự rất bận bịu.
Hồng Hạnh gật đầu, vẻ mặt có chút tự hào: "Gần đây, cửa hàng nhận được một đơn hàng lớn, vận chuyển hàng hóa từ đây tới kinh thành, rồi từ kinh thành tiếp tục chuyển đến Châu Trì Nguyên. Lần này, khách hàng không phải là những đối tác thông thường, mà là những thương gia mới, họ muốn thử nghiệm cách vận chuyển bằng đường thủy để tiết kiệm chi phí. Cái khó là vì khối lượng hàng khá lớn, nếu vận chuyển bằng đường thủy thì phải đưa qua cửa biển rồi xuôi xuống miền Trung."
"Vận chuyển lô hàng lớn như vậy qua đường thủy chắc không dễ dàng gì. Cần phải lưu ý nhiều yếu tố như thời tiết, thủ tục hải quan, lại còn phải cẩn thận khi qua những khu vực nước nông hoặc dễ bị cướp biển tấn công. Nhưng nếu thành công thì chắc chắn sẽ có lời." Ta suy nghĩ, vì ít lâu cũng có nghe Tô thúc cùng cha nhắc qua, lại có khi do Tử Yên kể lại.
Hồng Hạnh gật đầu, sốt sắng nói tiếp: "Vâng, tiểu thư. Đó chính là thử thách lớn nhất. Đường thủy tiết kiệm chi phí nhưng phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Nếu gặp mưa bão, cả lộ trình có thể bị hoãn lại. Chưa kể, phải tính đến các bến dừng an toàn và kiểm tra kỹ lưỡng mỗi lần giao nhận. A Bảo đã lên kế hoạch rất tỉ mỉ, từ việc thuê thuyền viên đáng tin cậy, đến việc bố trí nhân lực đủ sức ứng phó với mọi tình huống trên biển, vì không phải ai cũng có đủ kinh nghiệm trong việc chuyên chở hàng qua biển cả."
"Nghe có vẻ rất vất vả, nhưng nếu thành công, chắc chắn sẽ giúp cửa hàng bảo tiêu khẳng định danh tiếng." Ta nhấp một ngụm trà, nghĩ ngợi một lát rồi hỏi: "Khách hàng lần này có phải là người quen của mình không?"
"Bẩm tiểu thư, chính là Khương lang quân. Đi cùng ngài ấy có một người môi giới. Họ đã sắp đặt xong giấy tờ với cửa hàng ta, chỉ còn chờ ngày giao hàng mà thôi."
"Khương Bá Kiên ư?" Ta thoáng trầm tư. "Huynh ấy vốn là người làm ăn táo bạo, giờ lại chuyển sang lĩnh vực mới mẻ như vận chuyển hàng hóa. Chắc hẳn lần này cũng vì muốn thử sức trong việc cung cấp đặc sản vùng miền."
Tuy chưa nhiều kinh nghiệm trong việc vận chuyển, nhưng không ngại học hỏi và thử nghiệm. Cũng gần đến mùa thu hoạch nông sản, hẳn muốn nhân dịp này mà kết hợp giao hàng một lượt, tránh phải đi lại nhiều lần.
"Người như huynh ấy, một khi đã bắt tay vào làm, sẽ không dễ dàng bỏ dở. Nếu lần này thuận lợi, chắc chắn sẽ tiếp tục đặt thêm các đơn hàng lớn hơn nữa. Cửa hàng đã chuẩn bị gì đặc biệt cho đối tác này chưa?" Ta tiếp tục hỏi.
"Dạ, bẩm tiểu thư, bọn nô tỳ đã tính đến chuyện đó. Vì ngài ấy mới thử nghiệm, nên không dám giao toàn bộ hàng hóa một lượt. Nếu có bất trắc xảy ra, cửa hàng ta vẫn còn dư địa mà xoay chuyển. Tuy nhiên..." Nàng ngập ngừng.
"Xin cứ nói thẳng!"
"Nô tỳ e rằng Khương lang quân khó lường. Tuy ngài ấy là người dễ chịu, nhưng danh dự trong làm ăn thì không thể xem thường. Dẫu vậy, trong giao dịch, cẩn tắc vô áy náy. Cửa hàng ta cần phải hết sức cảnh giác. Họ nói là muốn thử nghiệm, nhưng chẳng ai biết được liệu họ có tiếp tục giao hàng đúng hạn hay không, hay lại tìm cách làm khó chúng ta sau khi đã giao hàng."
Đúng vậy, Khương lang chính là người rất cẩn trọng trong việc làm ăn. Dù không có nhiều kinh nghiệm trong mảng vận chuyển hàng hóa nhưng lại sẵn sàng học hỏi và đi theo các phương pháp thử nghiệm. Chắc hẳn một phần vì muốn mở rộng thêm nguồn thu, một phần lại có ý đồ tìm kiếm các mối làm ăn khác biệt.
"Đúng là người làm ăn luôn có những tính toán riêng. Uy tín và kế hoạch lâu dài mới là cốt lõi. Dù sao, việc bảo vệ lợi ích của cửa hàng cũng là chuyện quan trọng, cũng phải nhớ kỹ, dù là làm ăn với ai, cũng đừng để tâm trí bị lóa mắt bởi lợi nhuận trước mắt." Đó là lời do cha và Tô thúc đã dạy.
"Dạ, tiểu thư dạy chí phải. Không chỉ những đơn hàng lớn, mà những đơn hàng nhỏ lẻ cũng đổ về rất nhiều. Mỗi ngày đều có khách hàng đến hỏi, cần giao hàng khẩn cấp hoặc là yêu cầu đặc biệt, chẳng hạn như bảo quản đặc sản hay các mặt hàng dễ vỡ. Mấy ngày trước có một khách hàng yêu cầu giao một lô hàng qua đường thủy. Ban đầu nô tỳ nghĩ rằng không có vấn đề gì, nhưng đến khi giao đến cảng thì lại phát hiện có sự bất thường trong giấy tờ. Hóa ra, họ cố tình làm sai lệch để tránh thuế và phí vận chuyển. Nếu không phải nắm rõ quy trình, cửa hàng chúng ta đã rơi vào tình huống khó xử rồi!" Hồng Hạnh lại kể về mấy vụ rắc rối trong mấy chuyến hàng gần đây, rõ là có người muốn gây chuyện, nhưng may thay cũng có thể giải quyết êm xuôi.
Đúng như nàng nói, khi làm ăn với những đối tác chưa quen, dù là người quen hay người mới, cũng phải luôn đề phòng. Thế nên ta cũng chẳng đảm bảo gì, chỉ nêu lên suy nghĩ của mình về vị tùng bách kia: "Chắc chắn là vậy! Nhưng mà, nể tình quen biết với Khương lang quân, ta tin hắn sẽ không làm gì ảnh hưởng đến uy tín cửa hàng của mình!"
"Vâng, thưa tiểu thư!"
"Việc cửa hàng vốn đã có quy củ, nhưng chuyện gia đình nhỏ của tỷ, liệu mọi bề có được yên ấm hay chăng?" Sau khi nhắc đến chuyện cửa hàng, thấy nàng và A Bảo cố gắng như vậy nên thấy yên tâm. Nhưng vì nàng chỉ mới thành thân, chỉ sợ nàng đảm đương quá nhiều việc, thành ra càng thêm áp lực nên mới hỏi thăm.
Hồng Hạnh cúi người, giọng nói pha chút xúc động: "Nô tỳ không dám giấu, từ ngày bước chân về làm thê tử của A Bảo, tuy chàng là người tận tụy hết lòng, nhưng việc nhà cửa trăm mối tơ vò, có những lúc khiến nô tỳ cảm thấy khó lòng chu toàn. Tiểu thư, quả thật làm vợ người cũng chẳng kém phần gian nan so với việc trông coi cửa hàng!"
"Tỷ nói không sai. Gia đình, xét cho cùng, cũng như một cửa tiệm lớn, cần có sự phối hợp, nhường nhịn, lại phải thêm nhẫn nại và kiên định. Nhưng A Bảo là người hiểu chuyện, tỷ lại hết lòng với hắn, có qua có lại, như vậy chẳng phải sẽ hòa hợp lâu dài hay sao? Ta trông thấy, tỷ đã có vẻ thành thục lắm rồi!" Ta nhắc lại những lời tổ mẫu và mẹ đã dạy, rồi nói lên cảm nghĩ của mình. Bởi vì là A Bảo, nên ta cảm thấy yên lòng vì Hồng Hạnh đã gửi gắm đời mình cho hắn.
Hồng Hạnh thoáng ngượng ngùng, cúi đầu đáp: "Tiểu thư quá lời. Lúc mới cưới, nô tỳ thật sự không biết phải bắt đầu từ đâu. Chuyện bếp núc, sắp xếp thời gian cho A Bảo, lại thêm công việc cửa hàng, nhiều lúc tưởng chừng không kham nổi. Nhưng may mắn là chàng luôn để tâm, đỡ đần, nên nô tỳ mới dần quen tay quen việc."
"Cả tỷ và A Bảo đều là người có trách nhiệm. Những chuyện như vậy không phải ai cũng làm được đâu!" Ta nói vậy không phải để nịnh nọt, vì xem ra ta còn thua kém Hồng Hạnh rất nhiều trong việc tề gia nội trợ lẫn việc lập kế sinh nhai. Hơn nữa, đến bây giờ vẫn chưa biết dự liệu, không biết mình có nên tìm một việc làm nào đó đúng với sở thích không nữa?
Hồng Hạnh thở dài, bỗng dưng có chút ủ rũ cúi đầu: "Nô tỳ thật lòng biết ơn tiểu thư đã luôn động viên. Dù bận rộn thế nào, nô tỳ vẫn mong dành được thêm chút thời gian cho gia đình nhỏ và cả cho ngài. Nhưng công việc lúc nào cũng ngập tràn, đôi khi nghĩ lại, lòng vẫn thấy chưa trọn vẹn."
"Cuộc sống vốn dĩ là như thế. Quan trọng là tỷ biết cân bằng, đâu là trọng tâm, đâu là thứ yếu. Một khi đã xác định được, mọi chuyện sẽ tự khắc ổn thỏa. A Bảo hiểu tỷ, tỷ cũng hiểu A Bảo mà!" Ta chỉ cười cười, vì bản thân nói được, nhưng chưa chắc làm được.
"Tiểu thư, nô tỳ thật không biết phải nói gì ngoài lòng cảm kích. Mỗi lần được trò chuyện cùng người, lòng nô tỳ như nhẹ nhõm hơn, chẳng còn sợ hãi hay bối rối gì nữa." Nói được một nửa, nàng lại rươm rướm nước mắt. Tiếp tục căn dặn, chỉ vì nàng không được đích thân chăm sóc ta như trước kia: "Nhưng... nô tỳ thấy gần đây tiểu thư ít khi ngủ đủ giấc. Cả ngày bận rộn với công việc, đôi lúc lại quên ăn uống. Tiểu thư phải chú ý sức khỏe hơn, không thể để bản thân mình mệt mỏi như vậy được. Nhưng vẫn phải lo lắng cho tiểu thư, nhất là trong dịp lễ thành thân này. Nô tỳ kính mong tiểu thư lưu tâm cả đến sức khỏe của chính mình."
Đến nước này cũng không muốn nàng lo lắng thêm, nên đành đồng ý, cũng nói thêm vài lời an ủi: "Ta hiểu lòng tốt của tỷ. Nhưng hiện tại, quả thực có nhiều việc cần phải xử lý, chẳng thể nào lơ là được. Những chuyện nhỏ nhặt của bản thân, ta vẫn tạm ổn, không đáng để lo lắng đâu."
Hồng Hạnh ân cần: "Nếu có gì cần, xin ngài đừng ngần ngại nói với nô tỳ nhé. Dù sao, nô tỳ cũng có một chút kinh nghiệm về chuyện gia đình rồi. Chỉ mong có thể san sẻ bớt phần nào gánh nặng, để tiểu thư không phải tự mình gánh vác mọi việc."
------
Mới hôm trước La thị và Hoàng Phủ còn mời ta đi dạo thuyền chung. Lần ấy, trừ Ngô Thập Nhị, Khương lang và Cẩm Đại lang vắng mặt, thì hầu như những bằng hữu thân thiết đều có mặt đông đủ. Họ nghe tin ta sắp xuất giá, ai nấy đều tỏ ra hoan hỉ, nói rằng sẽ đến chung vui trong ngày đại hỉ, đã nhận thiệp mời và hứa hẹn góp mặt đông đủ.
Nhưng Ngô Thập Nhị dạo gần đây bận rộn vô cùng, sợ không thể dành thời gian. Nghe nói, triều đình đang khẩn trương chuẩn bị cho việc bổ sung Sử ký Biên niên và chọn niên hiệu mới, nhân lễ thoái vị của Tuyên Minh Hoàng đế, để truyền ngôi cho Thái tử Lưu Mạo vào tháng Chín tới. Những chuyện trọng đại bậc nhất này, hẳn người có học thức và vị thế như Ngô Thập Nhị chẳng thể lơi là.
Nói đến Tuyên Minh Hoàng đế, là người được biết đến không chỉ bởi tài năng trị quốc mà còn bởi khả năng giữ vững ổn định nội cung trong suốt triều đại của mình. Ngài có tám người con, năm gái và ba trai. Những công chúa sau khi trưởng thành đều lần lượt được gả đi, mỗi người đều được ban đất phong rải rác khắp các vùng trọng yếu, tránh việc các thế lực trong triều đình lợi dụng sự hiện diện của họ để gây chia rẽ hoặc tạo ảnh hưởng. Những mối hôn nhân này không chỉ là kế sách củng cố quan hệ mà còn là cách triệt tiêu bất kỳ mầm mống bất hòa nào trong nội bộ hoàng gia.
Còn ba hoàng tử, ngoại trừ thái tử Lưu Mạo, đều được phong vương gia và lưu lại kinh thành nhưng không hề có quyền hành quá lớn trong tay.
Người trong triều thường bàn luận rằng, ở những vương triều khác, các hoàng tử thường tranh đoạt ngấm ngầm để đoạt ngôi vị, thì ở triều đại này tất cả đều tuân thủ tông quy một cách nghiêm khắc. Hoàng gia quy định rõ ràng: mỗi thành viên phải học thuộc lòng tông pháp, khắc ghi từng lời răn dạy, và trước mặt hoàng đế đều phải thề giữ mình "an phận thủ thường". Nếu có bất kỳ ai phạm phải điều cấm, dù chỉ là lời nói lỡ lầm, lập tức bị giáng làm thường dân, thậm chí còn có thể bị đày đến nơi xa xôi chịu cực hình. Chính án tích của những thế hệ trước, khi các hoàng tử vì tranh đoạt mà dẫn đến loạn lạc và bị tru diệt, đã trở thành lời cảnh tỉnh khắc nghiệt cho các hậu bối. Hơn nữa, Thái tử Lưu Mạo vốn là đích trưởng, con cả của chính cung hoàng hậu, được thừa nhận ngay từ đầu. Ngôi vị của thái tử vừa chính thống, vừa hợp pháp, lại thêm phúc phận sớm có con thừa tự, nên không ai dám kháng cự hay chống đối.
Điều đáng lưu ý nữa là hai thế lực trấn giữ trong nội cung, tạo nên sự răn đe mạnh mẽ đối với những ai có ý định phản nghịch. Thứ nhất là Tể Trong Núi, vị thần được tụng xưng như người khuấy đảo triều chính, có quyền lực gần như vô hạn trong việc xoay chuyển cục diện quốc gia. Người ta đồn rằng, chỉ cần một câu nói của Tể Trong Núi, ngay cả hoàng đế cũng phải cân nhắc kỹ lưỡng. Thứ hai là Miên công Lê Thị, một ác linh được dân gian tôn kính như hộ thần của triều đại, nhưng đồng thời cũng nổi tiếng với tính cách lạnh lùng và sự trừng phạt tàn nhẫn đối với bất kỳ kẻ nào dám mưu đồ bất chính.
Điều kỳ lạ là hai người ấy dẫu đều có uy quyền tối thượng, nhưng lại là hai thái cực không thể đội trời chung. Một bên là con người đại diện cho quyền lực thế gian, một bên là thần linh tượng trưng cho sự siêu việt và huyền bí, chẳng thể nào là một, lại càng không có chuyện cấu kết.
Với những ràng buộc ấy, các hoàng tử không dám nuôi quân riêng, càng không dám có bất kỳ động thái nào vượt quyền. Dù trong lòng họ có mưu toan gì, thì trước mặt hoàng đế, tất cả đều phải cúi đầu mà giữ mình cẩn thận. Cả vương triều trở thành một ví dụ hiếm hoi về sự ổn định tuyệt đối trong nội cung, nơi mà các thành viên hoàng tộc không chỉ tuân thủ tông quy mà còn biết an phận, giữ gìn sự hòa hợp.
Tuy nhiên, sự yên bình này chỉ là bề ngoài, bởi trong cục diện của triều đình, không thiếu những uẩn khúc.
Chỉ mới nhắc qua vài lời, Phó lang và Thẩm lang đã dẫn dắt câu chuyện đến vụ án của Thái bộc tự Thiếu khanh (太 僕 寺 少 卿) Đới Đình Tá [戴廷佐] về việc tìm hiểu về vụ án của Đới Tiềm Tiềm [戴潛潛] trên mảnh đất nhà họ Giang mà hiện tại ta là người nắm quyền quản lí.
"Nói là vô ý, nhưng cái chết của Đới Tiềm Tiềm trên mảnh đất nhà họ Giang lại không hề đơn giản như vẻ ngoài." Phó lang nhấp một ngụm trà, đôi mắt nheo lại đầy thâm trầm, như muốn cân nhắc từng lời nói.
Thẩm lang gật đầu, ánh mắt sáng quắc nhìn thẳng, bắt đầu kể về từng chi tiết của vụ án đang được mổ xẻ: "Đó không phải là một tai nạn, càng không giống như bị người ta sát hại..."
Đợi Thẩm lang phân tích xong, Phó lang liền đặt tách trà xuống bàn, chậm rãi giải thích: "Đới Tham nghị vốn là người thừa hành trong nhiều công việc quan trọng của triều đình. Nếu thực sự ông ta có dính líu, hoặc bị kẻ khác lợi dụng, thì vụ án này không đơn thuần là một bi kịch cá nhân nữa. Nó có thể kéo theo những rắc rối chồng chéo, thậm chí động đến cả mối quan hệ giữa các gia tộc quyền quý."
Vì thế, họ bắt đầu chuyển sang đối tượng có liên quan gián tiếp này.
"Nghe đâu ngài đang cải tạo vùng đất nhà họ Đới cũ? Cũng lạ thay, khi mảnh đất ấy vốn từng bị coi là chết, không một sinh vật nào có thể sinh trưởng, nay lại hồi sinh dưới tay ngài. Và trùng hợp làm sao, Đới Đình Tá lại đang có ý định gặp ngài. Có lẽ hắn ta nghĩ ngài giữ một manh mối nào đó!"
Cũng phải thôi, tuy không phô trương, nhưng việc phủ xanh một vùng đồi trọc đâu phải là chuyện nhỏ nhặt, người khác muốn không chú ý cũng không thể.
"Chỉ là đất đai, nếu chăm sóc đúng cách, đâu có lý do gì không trồng được cây?" Từ đầu đến cuối, Tử Yên vẫn tự xem mình là người ngoài mà không gia nhập cùng trò chuyện. Nhưng đến lúc này, chàng lại cười khẽ nêu lên ý kiến của mình.
"Ngài nói đúng, đất đai nếu được chăm sóc đúng cách, thì đương nhiên sẽ hồi sinh. Nhưng đất này không giống đất khác. Mỗi vùng đất đều có ký ức của riêng nó. Có những ký ức, dù đã qua bao năm, vẫn âm thầm ảnh hưởng đến những gì đang diễn ra." Phó lang tiếp lời.
Hoàng Phủ lang cười nhạt, nhẹ nhàng xoay xoay chiếc chén trà trong tay: "Nói vậy, chẳng phải ngài đang ám chỉ rằng vùng đất ấy mang theo lời nguyền hoặc điều gì đó tương tự sao? Thời nay còn ai tin những chuyện huyễn hoặc như thế?"
"Tin hay không, lại không quan trọng. Điều quan trọng là, những gì từng xảy ra trên mảnh đất đó đã để lại dấu vết! Chỉ sợ khi Đới Đình Tá tìm đến lại mang theo một đống phiền phức làm hại Thương Đại nương tử giải quyết!"
Ta đặt tách trà xuống, điềm tĩnh trả lời: "Có lẽ ngài ấy chỉ muốn tìm thêm thông tin, hoặc đơn giản là muốn xác nhận điều gì đó. Nhưng các vị quá nhạy cảm rồi. Chăm sóc đất cằn cỗi thành phì nhiêu chẳng phải là chuyện ta làm lâu nay sao?"
Thẩm lang nhìn ta, cười mỉm: "Đúng vậy, không ai phủ nhận khả năng của ngài. Nhưng chẳng phải chính vì thế mà người ta mới tò mò sao? Có những điều dù người trong cuộc không để ý, nhưng kẻ ngoài cuộc lại thích thêm thắt, suy đoán. Chỉ mong ngài không để những lời đồn làm phiền lòng."
Ta cười nhẹ, ánh mắt lướt qua mọi người: "Ta không quá bận tâm về lời đồn. Chuyện của Đới Tiềm Tiềm đã là quá khứ. Còn hiện tại, nếu Đới Đình Tá muốn gặp, ta sẽ nghe xem ngài ấy định nói gì. Nhưng không nhất thiết phải suy diễn xa xôi."
Thẩm lang chêm vào, giọng nói nhẹ nhàng nhưng đầy ý tứ: "Dẫu sao, vụ án năm xưa vẫn còn nhiều điều chưa sáng tỏ. Nếu Đới Đình Tá thực sự có chứng cứ hay manh mối gì, ta cũng mong rằng mọi chuyện sẽ sớm rõ ràng. Nhưng dù sao, bọn ta tin rằng ngài luôn biết cách ứng phó."
Ta khẽ gật đầu, bâng quơ đáp: "Cứ để mọi chuyện tự nhiên. Mọi thứ sẽ có câu trả lời của nó."
Hành động của Đới Đình Tá sau khi từ chức là cố gắng điều tra bí mật miếu Thiên Mạch và mảnh đất gia tộc, tuy nhiên lại cho thấy cái chết của Tiềm Tiềm chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Vì vụ án khép lại với kết luận rằng Đới Điềm Điềm, khi ấy chỉ mới tròn mười sáu tuổi, đã bị sát hại vào năm Mậu Ngọ (1558).
Câu hỏi đặt ra là:
Tại sao Đới Tiềm Tiềm bị sát hại?
Liệu có mối liên hệ nào giữa cái chết của nàng và những cuộc đấu đá quyền lực trong triều?
Câu trả lời rất đơn giản: Bởi vì nàng trở thành nhân chứng bất đắc dĩ, và cũng chính là người nắm giữ chìa khóa cho bí mật này. Nhưng cái chết của nàng lại không hề liên quan đến những cuộc đấu đá trong vương triều. Sự thật cay đắng là không ai cần ra tay sát hại nàng—nỗi ám ảnh và sự bất lực khi không thể trốn thoát khỏi cơn ác mộng đã đẩy nàng vào tuyệt vọng, dẫn đến việc nàng tự kết liễu đời mình.
Chẳng ai biết được, ở căn nhà cũ họ Đới, nơi góc phòng bếp, trong góc tủ gỗ xoan đào cũ kĩ có một quyển nhật kí bị lẫn dưới đống giẻ lau lẫn lộn, dầy rẫy bụi kín. Những dòng chữ run rẩy, méo mó ghi lại tất cả quá trình: Đêm đó, khi gió hanh khô quét qua mái nhà Đới phủ, có người vô tình chứng kiến cảnh cha mình bị một thế lực kỳ lạ hút cạn máu và rút linh hồn. Thân xác ông co quắp lại như một khúc gỗ mục, bên cạnh có một ngọn lửa ma trơi bay lượn. Tiếng cười khanh khách vang vọng trong đêm, tựa như tiếng cú vọ gọi hồn. Sau khi bỏ chạy trong hoảng loạn, nàng bất cẩn rơi xuống giếng sâu. Nhưng thay vì bỏ mạng, nàng lại tỉnh dậy bên chân giếng, người ướt sũng, yếu ớt, còn trước mặt là cha nàng—người mà chính mắt nàng thấy đã chết. Ông ta khóc lóc, bày tỏ thương xót khi thấy con gái ngã xuống giếng nhưng cái ánh nhìn trống rỗng khiến nàng không dám đến gần. Đó không thể là cha nàng. Có lẽ một thứ gì đó, hoặc một ai đó, đã đóng vai ông ta. Từ sau đêm đó, sức khỏe của Đới Tiềm Tiềm dần suy sụp. Nàng mắc bệnh viêm phổi nặng, mỗi ngày trôi qua đều là chuỗi ngày sống trong lo sợ. Mỗi khi nghe thấy tiếng bước chân ngoài hành lang, nàng đều cảm thấy như có người đang đến để bắt nàng. Điều khiến nàng hoảng sợ không phải chỉ là máu, mà là cảm giác nghẹt thở khi đối diện với thứ nàng không thể hiểu. Nhưng không ai biết nàng sợ hãi điều gì. Nàng không dám hé môi với bất kỳ ai, kể cả người thân thiết nhất. Đỉnh điểm là vào ngày cuối cùng của cuộc đời, nàng dùng dao rạch dọc sống lưng mình, moi ra trái tim rồi để lại một vũng máu lớn trên mảnh đất trồng bồ hòn, máu tươi chảy thành dòng, dọc đồi hoang chảy về phía miếu Thiên Mạch.
Vì miếu Thiên Mạch không phải là một ngôi đền tầm thường, mà là một "điểm mạch" đặc biệt trong hệ thống địa mạch của quốc gia, nằm tại giao điểm của các dòng mạch ngầm. Vùng đất này từng là nơi phát triển đầy trù phú, màu mỡ, cho đến khi một số kẻ mạo hiểm và thiếu hiểu biết đã làm biến dạng nó, dẫn đến sự cằn cỗi, không một sinh vật nào có thể sinh trưởng. Theo lý thuyết trong các tài liệu cổ, Chủng Sinh Cơ (種生機) ám chỉ một phương pháp can thiệp vào địa mạch để tạo ra "mạch sinh lực" nuôi dưỡng vận mệnh. Tuy nói nói là phương pháp "trồng mạch sống" trên đất, nhưng không nhất thiết phải dùng cách hiến tế vật sống, dùng máu của người hoặc động vật.
Thực ra, mảnh đất của gia đình Đới vốn được biết đến là nơi trồng bồ hòn, có ứng dụng rộng rãi trong những việc tẩy rửa, làm sạch, chống sâu bọ và côn trùng, hay thậm chí được dùng làm thuốc chữa các bệnh liên quan đến viêm phổi, ghẻ lở... Thế nhưng chẳng biết từ đầu, những đồn đoán về tà thuật, về việc can thiệp vào vận mệnh đất đai, ngày càng dày đặc.
Vậy nên, trong vai trò người sở hữu, ta đã cho đào xới khắp vùng đất ấy mà không tìm thấy một dấu tích nào liên quan. Đất đai sau khi được khai phá, lại trở nên tơi xốp, phì nhiêu, trồng trọt thu hoạch đều đạt hiệu quả cao. Sau khi trồng thổ phục linh, ta quyết định cho người trồng cây Tô mộc (蘇木).
Tô Mộc có nghĩa là "cây gỗ hồi sinh".
Tên gọi này xuất phát từ khả năng tái sinh năng lượng và giá trị y học vượt trội của cây. Gỗ của cây Tô Mộc thường được dùng trong Đông y để chữa các bệnh liên quan đến máu, giúp lưu thông khí huyết, giải độc và giảm sưng viêm. Nước sắc từ Tô Mộc có màu đỏ tự nhiên, được coi là biểu tượng của dòng máu và sự sống.
Cây Tô Mộc có khả năng sinh trưởng lâu dài, tượng trưng cho sự trường tồn của dòng sinh lực trong đất. Tô Mộc không chỉ chữa lành con người mà còn chữa lành vùng đất, giúp khôi phục sự cân bằng tự nhiên mà không cần đến các phương pháp cực đoan hay bạo lực. Nó cũng là nguồn có giá trị để sản xuất một loại thuốc nhuộm có màu đỏ, được dùng để nhuộm các sản phẩm từ sợi bông. Tại đây, gỗ tô mộc còn là một trong những thành phần dùng để nấu nước rửa hài cốt khi cải táng. Phần lõi gỗ rắn, gần như không bị nứt nẻ và được sử dụng để chạm khắc đồ mỹ nghệ.
------
Còn một vấn đề không được đề cập trong cuộc nói chuyện nhưng ta vẫn biết được. Là khi thông qua danh nghĩa là nghĩa tử của Đô chỉ huy đồng tri Thiêm sự (都 指揮使 同知僉事), Đới Đình Tá này dễ dàng tiếp cận càng sâu hơn về vụ án Khấp Huyết Uất:
"Lục thú tế linh,
Huyết lệ thê thanh.
Quế chi trích nguyệt,
Hồ thố đề phong.
Cù long họa bích,
Vũ sắc mông lung.
Thỉnh nhạc thiên hỏa,
Phần tận u minh."
Hán ngữ:
戮兽祭灵,
血泪凄清。
桂枝滴月,
狐兔啼风。
虬龙画壁,
雨色朦胧。
请乐天火,
焚尽幽冥。
Dịch nghĩa:
Giết thú tế thần,
Máu lệ bi ai.
Cành quế nhỏ trăng,
Cáo thỏ khóc gió.
Rồng vẽ trên vách,
Mưa sắc mịt mờ.
Thỉnh lửa thiên thần,
Đốt sạch u minh.
Từ chức Thiếu khanh trở thành Tuần sát sứ Tư nông tư (巡 察 使司 農 司) cũng chỉ vì muốn tìm kiếm một manh mối có liên quan đến Tường Ngọc Phương [爿鈺匚] mà Tuy Phong Bá muốn mua lại, còn Thái Uy - Thái viên ngoại muốn bán đi với cái giá ngàn lượng bạc thông qua buổi đấu giá trên danh nghĩa từ thiện.
Chuyện Tường Ngọc Phương cũng bắt đầu từ tích này: "Thuở thiên địa chưa phân định, sinh tử chưa tách bạch, người xưa tin rằng dòng huyết tươi của sinh linh có thể nuôi dưỡng đất trời. Họ thực hiện những nghi lễ hiến tế, gọi là Huyết Thực (血食), tin rằng máu tươi sẽ làm trỗi dậy sức mạnh từ lòng đất. Thế nhưng, dù đã đổ bao nhiêu máu, đất đai vẫn khô cằn, cây cối vẫn héo úa, và sự sống không trở lại. Đó là lúc xuất hiện một vị thầy phong thủy lỗi lạc, người được gọi là Tường Ngọc Phương, người tạo ra chiếc hộp cơ quan huyền thoại mang chính tên mình. Chiếc hộp có ba tầng, mỗi tầng tượng trưng cho một câu trả lời để giải đáp câu hỏi lớn này: Huyết không sinh linh, mạch không dưỡng hồn. Sự sống không phải từ máu, không phải từ đất. Vậy nó từ đâu?"
Chiếc hộp cơ quan của Tường Ngọc Phương vốn được xem là một bảo vật hiếm có, không chỉ về giá trị lịch sử mà còn vì những bí ẩn liên quan đến phong thủy và tâm linh. Nó chính xác là một chiếc hộp cơ quan Lục hợp (六合), khi dùng chìa khóa làm bằng gỗ chi hông, nó có thể tháo gỡ chiếc hộp này thành nhiều mảnh, ghép liền các họa tiết trên hộp có thể tạo ra một bản nhạc. Với các nốt âm được khắc trên đó, lại được xem là một bản nhạc thỉnh Chư thần.
Sáu phương - Sáu dục vọng:
1. Trời (Thượng – Cao): Tham vọng vô hạn.
Người có dám đánh đổi linh hồn để chạm tới trời cao?
2. Đất (Hạ – Sâu): Sự bảo bọc.
Làm sao kiểm soát lòng người – thứ mịt mờ vô định?
3. Đông (Mặt trời mọc): Khởi đầu và tái sinh.
Bao lần tái sinh mới đủ lấp đầy những khuyết thiếu?
4. Tây (Mặt trời lặn): Cái chết an yên.
Có an yên nào mà không đòi một cái giá?
5. Nam (Nhiệt – Sáng): Tự do.
Là cánh chim bay cao hay ngọn lửa thiêu rụi?
6. Bắc (Lạnh – Tĩnh): Kiểm soát và bất biến.
Làm sao giữ mọi thứ mà không mất chính mình?
Trong giai đoạn Hác đế còn giữ quyền lực, ông ta có thể đã cho người tịch thu chiếc hộp từ tay Hiệp Lượng Lệnh khi hoạn quan này bị phát hiện mưu đồ trốn thoát khỏi Lăng miếu Hoàng gia. Hác đế hiểu rõ giá trị của chiếc hộp, nhưng cũng biết rằng việc nắm giữ nó có thể là một con dao hai lưỡi, bởi nhiều phe phái trong triều đình đang dòm ngó. Vì vậy, ông quyết định biến nó thành công cụ ban thưởng nhằm vừa củng cố lòng trung của một đại thần, vừa loại bỏ gánh nặng chính trị do bảo vật này mang lại. Ban chiếc hộp cho Thái viên ngoại không chỉ thể hiện sự ưu ái mà có thể dùng huyền thoại để tạo ra câu chuyện rằng chiếc hộp chứa đựng bí mật về dòng chảy linh hồn và sự sống. Nếu Thái viên ngoại có khả năng giải mã được chiếc hộp, điều đó chứng minh sự trung thành và tài năng của ông. Nếu không, chiếc hộp sẽ trở thành một món đồ trang trí vô dụng, không đe dọa đến Hác đế.
Bằng cách ban chiếc hộp cho Thái viên ngoại, Hác đế tránh được việc chiếc hộp trở thành mồi lửa kích động các phe phái khác tranh đoạt. Thái viên ngoại sẽ phải bảo vệ chiếc hộp bằng mọi giá, qua đó càng gắn bó với triều đình và khó có cơ hội phản bội.
Thế nhưng mọi thứ chỉ được giữ kín cho đến khi Hiệu lý tại Tập Hiền viện tận tâm nghiên cứu một lần nữa. Thì ra trong thời gian biên soạn quốc sử, ông phát hiện nhiều điểm sai lệch nghiêm trọng trong ghi chép về các triều đại trước, đặc biệt là các mốc quan trọng liên quan đến sự tiếm ngôi của Miên công và vai trò của các đại thần như Hiệp Lượng Lệnh, Du Kì, và cả Khương gia nội tổ phụ.
Ông nhận ra rằng những chi tiết bị chỉnh sửa không chỉ nhằm che giấu các âm mưu cung đình mà còn tạo ra một bức màn mờ để bôi nhọ các công thần của triều đại trước. Nhưng điều đáng sợ nhất lại nằm ở chỗ, các ghi chép này không phải do một cá nhân đơn lẻ thực hiện, mà là kết quả của một hệ thống được tổ chức tinh vi để xóa sạch mọi dấu vết của sự thật.
Năm xưa Hiệp lượng lệnh từng dùng thực quyền để tham gia chính sự, bởi vì ông ta từng là yểm quan hai triều đại. Công lao tuy không lớn bằng ai, nhưng lại là phụ tá của Lê thành chủ, một trong những tay trong của bà để kiểm soát và ràng buộc Hác đế.
Lúc còn chưa làm yểm quan, ông ta chỉ là một hoạn quan nhỏ nhoi làm chức hầu hạ trong loan điện. Vì một lần hầu vua làm lỡ giờ thiết triều, nên đã bị phạt quét dọn ở Lăng miếu hoàng gia. Sau này vì uất ức nên liền trốn thoát, đến đầu hàng với Miên công. Nhờ khả năng thấu hiểu cơ quan phong thủy từ chiếc hộp của Tường Ngọc Phương, ông trở thành cánh tay phải đắc lực trong việc bày binh bố trận và kiểm soát lòng quân. Trong lúc bà ở vùng quan ải Hà Tây Nam, thì ông ta lại giữ hai ngàn binh lính bao vây hoàng thành để kìm hãm Hác đế, tạo điều kiện cho Lê thành chủ tập hợp lực lượng. Sau này, khi Miên công khởi binh và tiếm ngôi, Hiệp Lượng Lệnh đã giúp dàn xếp để Tuyên Minh đế lên ngôi, chính thức loại bỏ Hác đế khỏi quyền lực.
Trong khi đó, Phò mã Du Kì từng là người giữ vai trò trọng yếu trong việc bảo vệ sự ổn định triều đình. Nhưng sau khi Miên công khởi binh, Du Kì đột ngột bị kết tội "tư thông ngoại bang" và "dụng binh trái phép". Bản án được đưa ra một cách chóng vánh, không xét xử công khai, và gia đình ông bị giam lỏng trong cung cấm, và ông phải tự vẫn để "bảo toàn danh dự".
Trên bề mặt, Du Kì không có bất kỳ hành động nào công khai ủng hộ Miên Công. Nhưng những hành động gián tiếp của ông, từ việc để vùng đất của mình rơi vào tay Miên Công, cho đến việc im lặng khi chứng kiến các thủ hạ cũ của mình tham gia phe nổi loạn, đã góp phần quan trọng trong việc giúp Miên Công củng cố lực lượng.
Nhiều năm sau, khi Miên Công đã trở thành lãnh đạo của một đạo quân nông dân nổi dậy, bà và Du Kì gặp lại nhau. Lần này, họ đứng ở hai bên chiến tuyến. Nhưng sự tái ngộ này không chỉ là cuộc gặp gỡ giữa hai người tình cũ, mà còn là điểm mấu chốt của lịch sử.
Trong đó có sự góp công của Tổ phụ Khương Bá Kiên, người từng là một quan chức trung thành dưới trướng Du Kì, là một trong những người gần gũi và tận tâm nhất với phò mã trong suốt thời kỳ loạn lạc. Khi Du Kì còn là một tướng quân dưới triều, tổ phụ của Khương Bá Kiên đảm nhận những chức vụ quan trọng. Với vai trò là người có trách nhiệm trong việc kiểm soát quân đội và tổ chức hậu cần cho các chiến dịch của Du Kì. Mối quan hệ giữa ông và Du Kì sâu sắc đến mức tổ phụ Khương Bá Kiên đã góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ Du Kì khi bà đang tiến hành những chiến dịch quân sự lớn, và đặc biệt là khi Miên Công bắt đầu nổi lên như một mối đe dọa.
Sự trung thành của ông với Du Kì không chỉ được thể hiện qua các chiến lược quân sự, mà còn qua các bước đi trong việc giữ vững quyền lực tại vùng đất của Du Kì, vốn là một phần quan trọng trong sự nghiệp của Miên Công sau này. Khi cuộc chiến tranh giữa Miên Công và Du Kì đến hồi căng thẳng, tổ phụ Khương Bá Kiên đã nhận thấy một số dấu hiệu bất thường trong các động thái chính trị. Mặc dù là người dưới trướng Du Kì trong một thời gian dài, nhưng sau khi nhận thấy tình hình chính trị bắt đầu thay đổi, ông đã quay sang đứng về phía Miên Công. Lúc này, Miên Công đã trở thành một mối đe dọa lớn đối với Hác Đế, và tổ phụ của Khương Bá Kiên đã nhận thấy đây là thời cơ để thay đổi cục diện.
Trong khi Du Kì tiếp tục duy trì quyền lực và tổ chức quân đội, tổ phụ Khương Bá Kiên đã không còn đặt niềm tin vào phò mã. Thay vào đó, ông âm thầm chuyển hướng ủng hộ Miên Công, vì nhận thấy rằng sự nghiệp của bà mới là con đường sáng sủa hơn trong thời điểm loạn lạc. Hành động của ông không chỉ là sự phản bội, mà còn là bước đi chiến lược, khi ông nhận thấy rằng Miên Công đã tạo dựng một lực lượng đáng gờm, có thể lật đổ mọi thế lực cũ.
Khi cuộc chiến giữa Miên Công và Du Kì ngày càng trở nên căng thẳng, tổ phụ Khương Bá Kiên đã âm thầm dâng tấu lên triều đình, phơi bày những yếu điểm của Du Kì và chỉ trích những quyết định quân sự của ông, trong khi che giấu các hành động của Miên Công.
Ông khéo léo bộc lộ sự mâu thuẫn giữa Du Kì và triều đình, nhằm làm suy yếu uy tín của phò mã. Tuy nhiên, lại không tiết lộ sự liên kết của mình với Miên Công, mà chỉ tập trung vào những yếu tố ngoại cảnh và sự bất ổn trong nội bộ quân đội. Miên Công nhờ sự hỗ trợ của tổ phụ Khương Bá Kiên đã dần chiếm ưu thế, và khi bà thành công tiếm ngôi, tổ phụ của Khương Bá Kiên không chỉ là một tay trong quan trọng mà còn được đền đáp xứng đáng.
Nhưng thật chất, đến khi liên kết lại, Lỗ Phấn Vũ liền phát hiện rằng những cáo buộc nhắm vào Du Kì đều là ngụy tạo: Một số bức thư được cho là từ Du Kì gửi đến các thủ lĩnh nổi dậy, chứa đựng lời khích lệ và hứa hẹn về sự hỗ trợ hậu cần. Những lá thư này được viết bằng mật mã cổ, nhưng dấu ấn và bút tích lại trùng khớp với phong cách của Du Kì, tạo nên một chứng cứ không thể chối cãi. Dù có vẻ thuyết phục, nhưng đối chiếu với những thư từ thật của Du Kì, có thể nhận ra sự khác biệt tinh vi: các bức thư giả thường dùng những cụm từ mang tính hăm dọa, trong khi thư thật của ông thường chú trọng vào ngôn ngữ thuyết phục nhẹ nhàng.
Bên cạnh đó, bản đồ quân sự "do Du Kì vẽ" chỉ ra các tuyến đường bí mật và điểm yếu phòng thủ, được kết luận là do kẻ khác cài cắm, vì không khớp với cách tổ chức của ông. Ngược lại, còn có một số các thư từ thật chưa kịp bị tiêu hủy của Du Kì gửi hoàng đế lại cho thấy ông cầu viện binh để bảo vệ biên giới, báo cáo nạn biển thủ của quan lại địa phương, và khẳng định sự tận tâm của ông.
Thêm vào đó, có một văn kiện do người vô danh gửi đến Lỗ Phấn Vũ khi biết ông đang chuẩn bị tái bản sử sách, ghi lại chiến công bảo vệ biên giới đã bác bỏ hoàn toàn cáo buộc "dụng binh trái phép". Tuy nhiên, lời khai từ thuộc hạ cũ tố cáo Du Kì biển thủ ngân sách, xử phạt hà khắc, và giết người lập uy đã góp phần tạo hình ảnh một quan tham độc đoán. Bao gồm một tấu chương được gửi lên triều đình, với nội dung chỉ trích nhà vua bất tài, không quan tâm đến biên giới. Bản tấu còn gợi ý rằng Du Kì, với tài năng quân sự và kinh nghiệm chính trị, là người xứng đáng để "đảm đương trọng trách lớn hơn". Tấu chương này được ký tên rõ ràng bằng bút tích của Du Kì, nhưng một điều kỳ lạ là nó không đi theo con đường giao tấu thông thường.
Mối quan hệ giữa Du Kì, Hác đế và Thọ Nghi công chúa phức tạp hơn những gì sử sách thường ghi lại, không phải ai cũng biết, nhưng chính Ngô công lại tiết lộ với Lỗ Phấn Ninh một phần sự thật bị ép buộc che giấu: Năm Hác Đế lên ngôi, triều đình chứng kiến máu nhuộm hoàng thành khi Du Kì phát động binh biến, tiếm vị bằng sức mạnh quân sự, ủng hộ phe đảng của Hác Đế. Sau đó, từ một quan văn tài ba bỗng chuyển sang con đường võ quan, đảm nhận trách nhiệm phòng thủ biên giới phía Tây Nam. Mười năm sau, Du Kì kết hôn với Thọ Nghi công chúa theo lệnh vua. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân này không chỉ nhằm củng cố mối quan hệ giữa hoàng thất và quan lại, mà còn để che đậy một bí mật liên quan đến vụ án của sứ giả Tông Hoạt. Năm xưa, Tông Hoạt dẫn đầu đoàn sứ bộ ngoại bang đến triều cống, nhưng thực chất có ý định muốn Hòa phiên (和蕃). Tuy nhiên, cuộc hôn nhân này cũng khiến Kì tướng quân rơi vào thế kẹt giữa trung thành với hoàng thất và mối quan hệ phức tạp với các thế lực ngoài cung cấm.
Vì vậy đến mấy mươi năm sau này, Lỗ Phấn Vũ đã tìm thấy những tài liệu chứng minh rằng vai trò của Du Kì trong cuộc tiếm ngôi của Miên Công không chỉ là một sự vô tình, mà có thể là một sự cố ý. Ông cũng phát hiện ra rằng, Miên Công đã tận dụng Du Kì như một công cụ, nhưng sau khi thành công lại không hề giữ lời hứa bảo vệ ông. Khi chuẩn bị dâng tấu lên hoàng thượng, Lỗ Phấn Vũ đã phạm phải một sai lầm chí mạng: ông vô tình tiết lộ điều này với một đồng sự trong Tập Hiền viện. Thông tin rò rỉ, và ngay trong đêm đó, ông bị ám sát trong phòng làm việc.
Sau cái chết của Lỗ Phấn Vũ, gia đình ông bị đẩy vào cảnh khốn cùng. Những người từng phục vụ dưới trướng ông trong Tập Hiền viện bị thuyên chuyển hoặc giáng chức. Toàn bộ tài liệu mà ông biên soạn được lệnh niêm phong, không bao giờ được đưa vào quốc sử. Người đời sau chỉ biết đến ông như một học giả tận tụy nhưng bạc mệnh, còn những nỗ lực phơi bày sự thật của ông thì bị chôn vùi dưới lớp bụi lịch sử.
Có được tất cả những mảnh thông tin lạ lùng trên đều nhờ những câu chuyện lơ lửng mỗi khi được trao đổi giữa Ngô Thập Nhị, Lương Sảo hay Hoài Chiêu. Bao gồm cả việc Hiển ông chúa tiết lộ manh mối bà biết liên quan đến vụ án Khấp Huyết Uất mà Ngô Thập Nhị chấp nhận điều kiện giao dịch: Như mọi lời đồn, Thọ Nghi công chúa chính là chủ mưu, nhưng không chắc bà ấy là thủ phạm.
Thêm vào đó, còn sót lại một phần tài liệu mà Lỗ Phấn Vũ gửi lại ở nhà Ngô công để bàn luận. May mắn là khi tiếp xúc với Ngô công, Lỗ Phấn Vũ không hề quá lộ liễu. Ông khéo léo đánh lạc hướng, mỗi lần đến Ngô phủ đều giả dạng kẻ hầu, âm thầm trao đổi đồ vật mà chẳng ai hay biết.
Lẽ ra, với bao nhiêu điều phải lo toan, ta chẳng nên bới móc chuyện đã qua. Nhưng cuộc đời này, ta chỉ là một kẻ bình thường, thích lắng nghe những tiếng thầm thì, thích mò mẫm những điều đã bị vùi lấp. Thật ra, có những thứ không dễ quên, chẳng phải vì ta không buông nổi, mà bởi đôi khi, cái cần giải quyết chẳng bao giờ tự tan biến. Và dù không nói ra, trong lòng ta luôn biết một điều: có thù, ắt phải trả, dù chỉ là trong im lặng.
Bên cạnh, tuy ta chẳng hề đề cập, nhưng ngoại thúc phụ tự động vô tình nhắc đến khi nghe mọi người thảo luận. Ông ấy cũng biết vài câu chuyện về hai triều đại nhưng không sâu sắc, bởi vì từng là ngự y trong cung tầng.
Sau đó ông ấy có kể lại một số chuyện từ đời trước, chỉ là những câu chuyện vu vơ nhưng hay ho, thuộc về chốn dân gian truyền tụng giống như truyện cổ tích chứ không phải là chuyện hàn lâm. Chúng mang hơi thở của những giai thoại kỳ thú, như thể bước ra từ một cuốn dã sử xưa cũ.
------
Sự Tích Đằng Xà
Rồng chầu mây thẳm, rắn sầu cạn sâu,
Đằng xà cuốn gió, hóa thần nhiệm mầu.
~*~
Ngày xưa rừng thẳm mịt mù,
Thợ săn gặp rắn, thảm nhu phủ đầy.
Rắn nằm thân thế chơi vơi,
Mắt nhìn thảm thiết, nhờ người cứu nguy.
Thợ săn dũng cảm chẳng suy,
Cởi ngay áo vải, lá ghi chữa lành.
Ba hôm rắn khỏe vội vàng,
Đem trao viên ngọc sáng tràn ơn sâu.
Ngọc thần kỳ diệu nhiệm màu,
Nghe chim muông hát, hiểu câu rừng ngàn.
Hàn huyên với bá hộ già,
Lại thêm thầy thuốc bày đường hại ngay:
"Nếu ngọc đã quý thế này,
Máu rắn chắc hẳn giải hay bệnh trần."
Rắn thần trở lại ân cần,
Ngờ đâu bẫy giăng, bị phần xác thân.
Thợ săn, lang thuốc, bá gian,
Đồng tâm rút máu, ngọc ngâm lợi mình.
Rắn đau mắt đỏ, lời minh:
"Cứu người, người trả bất bình đời ta.
Ngọc kia các ngươi lấy mà,
Máu này thành độc, hóa ra kiếp sầu.
Nguyền rằng dòng họ còn đâu,
Con ngươi chịu khổ, kiếp đời ngắn lâu."
Ngọc tắt ánh sáng nhiệm màu,
Thợ săn mộng mị, đứa đầu mất đi.
Vệt máu dẫn lối rừng thùy,
U mang chỉ bóng rắn về sương thâu.
Bá hộ giàu nhất một thời,
Nhà tan cửa nát, chẳng người còn thương.
Đêm trăng, rắn trắng lượn thường,
Bóng quanh nhà cũ, lạnh xương giữa trời.
Thầy lang bệnh tật khắp nơi,
Thuốc không cứu được, lẻ loi tuổi già.
Đằng xà ngậm oán xa rời,
Hóa thân về núi, mây trời quy tiên.
Oán người tham ác bội thiên,
Phước nhân truyền mãi, lời hiền khắc ghi.
Rồng rắn chầu mây ngẫm điền,
Giữa đời chớ vội buông phiền lòng nhau.
Rồng rắn uốn khúc qua cầu,
Trăm năm nhớ lấy trước sau đạo người.
------
"Gia gia, hôm nay ngài có khỏe không ạ?" Ta cất lời thưa, vẫn còn đôi chút ngượng ngùng khi dùng danh xưng ấy. Mỗi lần như vậy, vẫn cảm thấy như có gì đó đặc biệt.
"Ta vẫn khỏe, nha đầu ngốc. Còn ngươi, có gì không vui à? Hôm nay mặt mày hơi buồn đó." Gia gia chống gậy bước ra ngoài, vui vẻ giơ tay chào.
"Dạ, không có gì đâu ạ. Chỉ là hôm nay con có chút mệt, nhưng nhìn gia gia vẫn khỏe mạnh như vậy, con cảm thấy yên tâm hơn rồi!" Ta khoanh tay cúi đầu nói.
"Khỏe hay không không quan trọng, chỉ cần ngươi vui là được rồi. Cuộc sống không cần phải quá nghiêm túc, đúng không?"
"Đúng vậy ạ. Nhưng cũng phải lo nghĩ một chút, gia gia không thể cứ vui vẻ mãi được đâu."
"Ha, ta là người đã trải qua bao nhiêu năm tháng, có gì phải lo? Quan trọng là phải sống vui, sống khỏe, còn mọi chuyện khác để sau này tính. Ngươi có muốn cùng ta ra vườn chơi không?" Ông nói rồi vỗ vỗ lên bàn tay, vẻ mặt đầy hứng khởi.
"Vâng ạ, chúng ta cùng đi dạo." Ta đáp, vui vẻ đứng dậy.
Đi dạo ngoài vườn, đột nhiên lại nổi hứng muốn nhắc lại chuyện cũ.
"Gia gia, ngài có biết không, chàng ấy bây giờ hay giả vờ mất trí nhớ đấy. Mỗi lần bị nhắc chuyện cũ là lại làm mặt thảm thương, nhõng nhẽo như một đứa trẻ. Đúng là không hiểu sao lớn lên lại thành ra thế này?"
Gia gia cười hề hề: "Tiểu tổ tông này từ nhỏ đã vậy rồi, chỉ có điều rất giỏi che giấu thôi. Nhớ hồi nhỏ, hắn quậy đến mức xóm làng ai cũng phải 'khóc thét' mỗi khi nghe tên. Ngày nào cũng bày trò, từ trèo cây đến bắt gà, rồi thậm chí còn cởi giày ném vào mấy cô gái trong làng để trêu đùa. Hồi ấy, nào có chịu ngồi yên một chỗ đâu!"
"Chàng ấy hồi nhỏ nghịch vậy sao? Thật thú vị, đúng không gia gia?" Tuy không bất ngờ, nhưng chính miệng ngoại thúc phụ xác nhận, lại khiến ta thật vui vẻ.
"Thú vị!" Ngoại thúc phụ lắc đầu: "Thú vị thế nào được! Ngày nào cũng phải chạy đi tìm hắn, chặn lại mấy cô gái đang khóc vì giày bị ném vào người, lúc đó ta phải đuổi theo mà mắng hắn suốt. Nhưng đáng nhớ nhất là có lần hắn trèo lên cây, cố gắng giành lấy tổ chim, rồi ngã từ trên cao xuống, gãy cả chân. Lúc ấy còn bị gia gia phải xoa bóp cho cả buổi mới đỡ đau."
Ta không thể nhịn được, cười ngất: "Ôi gia gia, có khi nào chàng ấy giả vờ đau để được gia gia chăm sóc không?"
"Có đấy, con không biết thôi, nhưng hắn có lần còn giả vờ bị thương chỉ để được ta bón cơm. Hắn là loại người chẳng bao giờ bỏ qua một cơ hội nào đâu. Cả ngày chỉ biết quấn lấy gia gia và nói: 'Đậu lão nhân ơi, đau quá, không chịu nổi!' Thật không thể tin được."
Giọng điệu bắt chước của ông giống hệt chàng những lúc nhõng nhẽo với ta.
"Nhưng đúng là buồn cười thật. Một gã quậy phá không ai bì, thế mà gặp nha đầu nhà ta lại rụt rè như gà mắc mưa. Cả ngày lẽo đẽo đi vòng quanh nhà người ta, chả dám nói một câu."
"Gia gia, thật vậy sao?" Mắt ta càng sáng rỡ thêm, khi ông ấy kể nhiều điều về chàng, là lúc chàng bắt đầu có cảm tình với "nha đầu ngốc" của mình.
"Thật chứ! Thậm chí có lần bị ngươi trêu, hắn chạy về đây khóc lóc, bảo rằng 'con không đủ dũng khí'. Hắn quậy cả xóm lên, nhưng lại sợ nha đầu nhỏ hơn mình ba tuổi. Thật chẳng ra thể thống gì."
Ta âm thầm cảm thán: "Thế mà sau này, lại thành ra người chăm lo cho con từng chút một. Chẳng còn cái dáng vẻ ngang tàng ngày xưa nữa."
Ngoại thúc phụ tán đồng: "Tiểu tổ tông này, sau khi gặp phải ngươi thì làm gì còn chút khí phách nào nữa, chỉ có biết làm nũng, nhõng nhẽo thôi. Cả ngày cứ theo ngươi như bóng với hình. Không biết bao nhiêu lần, hắn chạy đến tìm gia gia, nhờ gia gia dạy cho cách làm sao dỗ dành nương tử nhà mình. Mà lúc đó, ngươi chỉ mới nhỏ xíu, thậm chí chỉ mới biết gọi hắn là 'ca ca' thôi!"
Vậy kể ra, từ lúc nhỏ xíu, Thương Vô Nhiêm vẫn luôn trên cơ Chức Tử Yên. Hóa ra vì lí do này, ta mới sớm được tận hưởng cảm giác làm gia chủ. Ai bảo từ bé đã biết dùng hai má phúng phính và đôi mắt long lanh để hạ gục đại ca đầy khí phách? Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, chàng ngốc đến mức đi học chiêu dỗ dành từ gia gia, chẳng khác nào dạy hổ thêm móng. Kết quả là càng lớn, ta càng thấy mình giống đại tướng chỉ huy, còn chàng chính là tiểu binh ngoan ngoãn... chuyên đi bê trà bưng nước. Nhưng thôi, cũng phải công nhận, nếu không có chàng cần mẫn như vậy, ta đâu được oai vệ mà chẳng cần cất lời!
"Thực ra, chàng ấy không phải không biết, chỉ là không dám làm thôi!" Ta cười thẹn.
Gia gia không kiềm được, cười lớn: "Hahaha! Hắn còn không dám thổ lộ tình cảm mà lại muốn làm người chồng tốt sao? Lúc đó ta nghe hắn nói muốn học dỗ vợ, thì chỉ biết ngạc nhiên. Dạy hắn làm thế nào đây? Có một lần hắn hỏi ta: 'Gia gia, làm sao để khiến nàng không giận mình?' Ta nhìn hắn mà chỉ biết lắc đầu. Hắn dám quậy phá hết cả xóm mà lại sợ vợ, thật là kỳ cục!"
"Đúng là không thể ngờ được." Tâm trạng lúc này có chút bùi ngùi, xao xuyến.
Người đàn ông ấy đã học được cách chăm sóc vợ rồi, còn muốn gì nữa? Tuy có mấy lúc chỉ biết làm mình làm mẩy, nhưng vẫn luôn lo lắng cho người khác, dù hơi ngốc nghếch một chút, nhưng ít ra cũng tốt hơn trước nhiều rồi.
"Con cứ để hắn làm nũng một chút đi, vì đó là cách hắn thể hiện yêu thương đấy!" Ngoại thúc phụ nhìn ta rồi khuyên nhủ, dù sao ông cũng là bậc trưởng bối, cách nhìn người, nhìn đời của ông vẫn hơn đứa trẻ quanh quẩn khuê phòng chưa bao giờ dám độc lập đối đầu với thế gian.
"Hừm, dù sao thì cũng không thể làm gì được nữa..." Ta cười mỉm.
"Nhưng gia gia, xin ngài kể thêm đi, bằng cách nào chàng có thể đi đến núi Kì Lân một mình để tìm gặp ngài? Một kẻ mất trí nhớ làm sao có thể làm được điều ấy?"
"À, chuyện đó sao? Lạ thật đấy! Một kẻ mà quên hết tất cả mọi chuyện lại có thể nhớ đến núi Kì Lân? Nhưng mà, có lẽ chính hắn cũng quên mất, rằng muốn vào núi ấy đâu phải dễ dàng! Chẳng phải đã từng có lần, cả bọn cướp đến cũng phải chùn bước sao?" Gia gia vuốt râu, xem như cũng đồng quan điểm. Thế nhưng với kinh nghiệm thầy thuốc của mình ông liền bật cười, vỗ tay lên đùi: "Như vậy gọi là gì nhỉ? À, dù quên đi tất cả nhưng những thứ quan trọng thì lại không thể quên được! Nhớ cái gì không quan trọng cũng là chuyện dễ, nhưng nhớ được cái quan trọng, lại là điều thật khó. Chắc hẳn hắn nhớ rõ mọi ngóc ngách, từng mối quan hệ quan trọng mà thôi. Nhớ được ngươi, rồi nhớ được ta, nhớ được cái nơi hắn cần đến, ấy mới là điều đáng nói. Ai mà không biết, khi cần thiết, trí nhớ của hắn cũng chẳng thua ai đâu."
"Ngay cả khi chỉ có một mình, lội qua sông lớn, vượt qua núi cao, chàng ấy chẳng chút sợ hãi. Quả là một người kỳ lạ..."
Lạ đến mức, ta cũng chẳng thể ngờ vực được nữa!
"Lúc đó hẳn là tiểu tổ tông đã rất quyết tâm. Không còn là một đứa trẻ vụng về nữa, mà là một chàng trai dám đối mặt với tất cả khó khăn để tìm về với gia đình. Lội qua bao nhiêu con sông, xuyên qua bao nhiêu đám rừng rậm, vẫn kiên trì. Mặc dù lúc đó ta chưa kịp nhìn thấy, nhưng ta đã biết hắn đã trở thành người cần phải là." Gia gia trầm tư một lát, ánh mắt đượm buồn nhưng cũng đầy tình cảm.
Đến lúc này, không muốn chấp nhận thì vẫn phải chấp nhận thôi: "Quả nhiên là gia gia, thật sự vẫn biết rõ tất cả. Cũng may, chàng còn nhớ được những điều quan trọng, như gia gia, như con. Dù quên hết mọi thứ, vẫn không quên được những người cần quên."
"Đúng là vậy! Dù có gì quên đi, nhưng cuối cùng hắn vẫn nhớ chính những điều khiến hắn trở thành người như ngày hôm nay. Và ta cũng biết rằng, dù có nhiều chuyện thay đổi, nhưng điều quan trọng nhất là hắn đã trở lại với gia đình, và sẽ không bao giờ đi xa nữa." Ngoại thúc phụ gật gù.
Hóa ra, ký ức con người cũng là một loại phản xạ có điều kiện. Dù đã quên hết những gì từng xảy ra, nhưng trong vô thức, theo bản năng, cũng có thể tái hiện lại cảm giác, hành động, hoặc thậm chí là những suy nghĩ mơ hồ khi gặp phải hoàn cảnh tương tự. Điều này giống như một sợi dây vô hình nối liền hiện tại và quá khứ, mà chính ta cũng không ý thức được mình đang nắm giữ.
Nhưng đột nhiên tự mình lại buột miệng hỏi: "Chẳng lẽ... tất cả những gì không nhớ được là vì chúng chưa từng thực sự tồn tại?"
Tuy nhiên, đối với ta, mọi chuyện lại khác hẳn. Ký ức dường như không chỉ là một chuỗi phản xạ đơn thuần, mà là một tầng lớp phức hợp hơn—vừa được kiến tạo bởi ý thức, vừa bị thao túng bởi những gì vượt ngoài tầm kiểm soát. Chính cảm giác lạc lõng giữa thực tại và những dấu vết ký ức mờ nhạt ấy lại càng khiến ta khẳng định: vốn dĩ, từ ban đầu, ta không thực sự là chính mình.
Phải chăng, những gì gọi là "ta" chỉ là một bóng hình phản chiếu, một bản sao của một ý thức khác, hoặc thậm chí là một trò chơi đầy huyền cơ của tạo hóa? Câu hỏi ấy, đến nay vẫn chưa có lời giải.
Gia gia gật đầu, ánh mắt đầy hài hước: "Chắc chắn rồi! Những kẻ giả vờ mất trí nhớ luôn biết cách chọn lựa thứ cần nhớ, đúng không?"
Đúng lúc đó, từ phía xa, Thất công tử thong dong bước tới, theo sau là một bầy chó con tíu tít chạy đuổi nhau như một đoàn tùy tùng nhí nhố, vừa chạy vừa sủa vang như muốn gây sự chú ý. Bầy chó nô nức quấn lấy chân chàng, nhưng chẳng mấy chốc đã tản ra, một con chạy đến bên chân ta, đuôi ngoáy liên hồi. Không nén được nụ cười, ta cúi xuống định vỗ về nó. Nào ngờ cả đám chó con thấy vậy liền ùa đến, chen lấn, xô đẩy nhau.
Một con chó béo tròn, lông xù mềm mại, mắt long lanh ngây thơ, lạch bạch chạy vòng quanh, đụng vào chân khiến ta chao đảo. Ta hoảng hốt ôm chặt đùi của Thất công tử đứng bên cạnh mình, chưa kịp định thần đã nghe tiếng cười khẽ vang lên: "Ô kìa, hôm nay là ngày gì mà nương tử lại chủ động bám lấy ta thế này? Hay nàng sợ ta chạy mất nên tìm cách giữ lại?"
Ta đỏ mặt, đẩy nhẹ chàng ra, ngượng ngùng nói: "Không phải lỗi của ta! Là bọn chúng đấy, sao lại đẩy nhau như thế chứ? Chạy loạn cả lên!"
"Ồ, dám đổ lỗi cho bầy chó nhỏ sao?"
Lời châm chọc vừa dứt, một con chó khác lại chạy ào qua chân ta, khiến ta phải nhảy bật lên né tránh. Nhưng trời xui đất khiến, ta lại đụng phải Tử Yên một lần nữa. Chàng vẫn như cũ, đưa tay đỡ lấy ta, giọng nói nửa chừng như trêu ghẹo: "Không sao, không sao, dù sao nương tử có ngã thì cũng chỉ ngã vào lòng ta thôi, chẳng phải lo!" Rồi người kia cố tình nghiêng đầu, giả vờ khiển trách: "Các ngươi đúng là nghịch ngợm! Có biết vừa rồi nương tử của ta suýt ngã không? Lần sau liệu mà cẩn thận, đừng để ta phải phạt!"
"Gâu gâu..." Bọn chúng vẫn còn nhỏ, không hiểu rõ tiếng người, chỉ biết Thất công tử đang nói chuyện với mình nên mới nhiệt tình đối đáp lại với chàng.
"Ôi, con này lại là nghịch tử nhất trong bầy. Ngươi có biết làm vậy là làm hỏng cuộc nói chuyện của ta với gia gia không hả?" Ta vờ đánh trống lãng, cúi người xuống bế một con vào lòng.
"Đúng đấy, sao không chịu để tiểu thư của chúng ta yên tĩnh một chút? Nhưng nhìn cái mặt nó, có lẽ không phải là nó muốn quấy rầy đâu, mà chắc nó chỉ muốn gia nhập thôi. Như thể có vẻ rất muốn trò chuyện với nàng vậy!" Chàng vịn vai ta tiếp lời.
Mấy con chó nhỏ lại chạy vòng quanh một lần nữa, rồi như biết là đã làm phiền, liền ngồi xuống bên cạnh, dựa vào chân ta, mắt nhìn ngước lên như thể mong muốn nhận được sự chăm sóc.
"Được rồi, các ngươi thật đáng yêu, muốn nghe chúng ta kể chuyện thì cứ nghe đi, nhưng không được làm ồn nữa nhé!" Ta mềm lòng hạ tầm mắt, nhỏ nhẹ nói.
Thất công tử lúc này cũng cười khúc khích, cúi xuống sờ đầu từng tên nhóc: "Chắc chắn là chúng muốn nghe chuyện về ngoại thúc phụ và nàng nói xấu ta, đúng không? Mấy con chó này biết chọn phe đấy."
Gia gia ngồi bên, vuốt râu cười ha hả: "Ai bảo ngươi suốt ngày lanh chanh. Ngay cả nương tử cũng không chịu nhường. Xem ra làm phu quân chẳng dễ chút nào đâu! Chọn phe là đúng!"
Ta giả vờ không nghe, gãi đầu con chó nhỏ: "Có lẽ chúng chỉ muốn nghe câu chuyện kinh điển: 'Người ngoài luôn đúng' thôi!"
"Ồ, hóa ra là vậy! Đúng là nương tử lúc nào cũng giỏi biến ta thành kẻ đầu sỏ!" Chàng ngẩng đầu, vờ không tin nổi, liền quay sang làm vẻ oán trách, như thể trời đất đều bất công: "Gia gia à, người thiên vị quá! Sao lần nào người cũng bênh nàng, còn ta đường đường là tiểu tổ tông mà lại bị ép thua thế này? Không phải là quá đáng lắm sao?"
"Thiên vị gì chứ? Miệng lưỡi sắc sảo thế không bị thiệt mới lạ. Ta mà bênh ngươi thì chẳng phải trời đất đảo lộn hay sao?"
Thất công tử vờ làm mặt khổ như oan ức bởi cả thế gian: "Thật không công bằng, không công bằng chút nào!"
Ta cùng gia gia đồng thời hỏi: "Không công bằng ở điểm nào?"
Thất công tử lập tức bày tỏ đầy kịch tính, lắc đầu như thể thế giới đang sụp đổ trước mắt: "Không phải rõ ràng sao? Ta tài giỏi, ta đẹp trai, ta phải làm gì để được chú ý một chút? Ta là phu quân, mà từ bầy chó đến người trong nhà, ai cũng đứng về phía nàng. Ta bị bỏ quên, bị coi như cái bóng, bị hắt hủi... Lão nhân gia này, không thể nào để ta tranh thủ làm một chút chiến dịch đòi quyền lợi cho mình sao?"
Thế là ta nhìn chàng với ánh mắt 'hờn dỗi', còn gia gia thì cười không dứt.
"Vậy thì, ta bắt nàng phải bồi thường cho ta. Nương tử của ta chắc chắn yêu thương ta nhất, phải không? Nàng phải đền bù tất cả sự thiếu sót này cho ta!" Tử Yên vừa nói, vừa không ngần ngại giành lấy con chó trong tay ta, đặt nó xuống đất một cách nhanh chóng. Sau đó, chàng liền chui vào vòng tay ta, ôm chặt lấy, như thể không quan tâm đến gì nữa.
Tình huống này khiến ta vừa bất ngờ lại vừa lúng túng, cảm giác như mình đang phạm phải một điều không nên giữa lúc trưởng bối đang ngồi cạnh. Dẫu vậy, ánh mắt của chàng lại vô cùng kiên quyết, khiến ta không thể không cười nhẹ.
Ngoại thúc phụ ngồi đó, cũng không tỏ vẻ gì quá khó chịu, chỉ khẽ khàng lắc đầu, nhưng rõ ràng là không thể ngăn nổi cái cảnh tượng thú vị này.
Ta cười khẽ, gõ nhẹ lên vai chàng: "Vậy mà chàng lại không ngượng ngùng chút nào, ngay cả khi có trưởng bối ở đây."
Tử Yên liếc nhìn ngoại thúc phụ rồi quay lại với ta, mang vẻ mặt đáng thương hỏi gặng: "Nương tử, người không thương ta sao? Ta chỉ muốn tìm một chỗ ấm áp trong lòng nàng mà thôi. Còn bầy chó kia chỉ là tạm bợ, nàng mới là nơi ta muốn về nhất!"
Nhưng ngoại thúc phụ chỉ lắc đầu, lấy gậy kia vỗ nhẹ vào mông chàng rồi bảo: "Tiểu tử này đúng là không biết xấu hổ! Ngươi đừng có làm loạn nữa, mau ngồi xuống đây nghe chuyện, đừng để bầy chó học theo cái tính lếu láo! Mau đến đây ngồi, còn định đứng đó trêu nương tử đến khi nào?"
Tử Yên nhận gậy, tuy hơi có vẻ không phục nhưng cũng không dám cãi lại. Chàng từ từ ngồi xuống bên cạnh ta, một tay vẫn ôm chặt lấy ta như thể không muốn buông. Dù vậy, vẻ mặt chàng vẫn không hề thay đổi, vẫn không quên hùng hồn tuyên bố: "Thôi được, ta tạm ngồi đây nghe chuyện. Nhưng đừng quên, nương tử của ta, nàng còn nợ ta rất nhiều!"
"Nợ? Nợ chàng cái gì?"
"Đó là bí mật của ta, nương tử cứ chờ đi. Đến lúc ta đòi thì nàng không thể từ chối được đâu!"
Ngoại thúc phụ bật cười khà khà: "Coi như là ta đang nuôi hai tên con nít. Một tên mồm mép lanh lợi, một đứa chỉ biết ngu ngơ. Thật là không có một ai lớn nổi trong nhà này cả!"
Ta nghe thế, chỉ đành bật cười theo, và lén lướt mắt nhìn chàng. Dù có giận dỗi hay cãi nhau thế nào, cuối cùng thì vẫn không thể rời xa cái vòng tay ấy.
------
Chức Tử Yên năm nay vừa tròn hai mươi tuổi. Từ tấm bé đã chịu cảnh mồ côi, không còn cha mẹ kề bên. May mắn thay, chàng được ngoại thúc phụ tận tình nuôi dưỡng, dạy dỗ nên người. Dù vậy, gia thế của chàng lại không hề tầm thường.
Xét đến căn cơ, lại là thế gia vọng tộc hiển hách bậc nhất. Từ bao đời, dòng tộc đã khắc sâu danh tiếng trong sử sách với những chiến công lẫy lừng, những tấm lòng trung nghĩa, tận tụy vì đại nghiệp. Từ buổi khai quốc, gia tộc này đã đồng cam cộng khổ với triều đình, góp phần xây dựng cơ đồ. Đến thời Hác đế, họ vẫn duy trì thế lực, nắm giữ những chức vụ trọng yếu, chồng chất công lao mà chẳng gia tộc nào trong thiên hạ bì kịp.
Có điều đến bây giờ ta mới biết, họ Chức mà chàng mang lại không phải là họ gốc, là họ của mẹ. Gốc tích thực sự của cha chàng là họ Du.
Vì cơn sóng dữ của tiền triều mà cha chàng buộc phải thay tên đổi họ, đoạn tuyệt cửu tộc để tránh tai họa diệt môn. Tất cả bắt nguồn từ án oan của Kì tướng quân, kẻ bị vu oan tội hành thích chưa được xá miễn. Họ Du từ đó chìm vào bóng tối, lưu lạc trong nỗi sợ bị truy lùng. Còn đối với Thọ Nghi công chúa và Tuy Phong Bá là một đặc xá kì lạ trong mạch lạc của lịch sử gia tộc.
Thế nhưng ít ai biết, tiền triều còn có vị Ngọc Oanh Phu Nhân (宝莹夫人), sau này được tôn là Hoàng thái hậu, được quyền "Đồng thính chính lệnh" (同聽政令) lại là người có gốc gác liên quan đến Chức Tử Yên. Tuy không cùng trực hệ, nhưng dưới danh nghĩa, Tử Yên cũng có thể được xem là đương gia Quốc cữu (國舅).
Ngọc Oanh Phu Nhân vốn xuất thân từ một gia đình bình dân, không danh giá, không thế lực, vậy mà lại trở thành người phụ nữ quyền lực nhất triều đình. Khi Hoàng đế tiền triều lâm bệnh nặng, bà đã đứng ra chèo lái chính sự, thay mặt nhà vua để quyết định những vấn đề quan trọng. Mặc dù quyền lực chính thức thuộc về hoàng đế, nhưng trong thực tế, mọi chính sách và quyết định lớn đều phải qua tay bà, đặc biệt là khi đất nước đang đứng trước những sóng gió chính trị nghiêm trọng.
Năm Canh Thìn (1520), vào tháng Tám âm lịch, khi vua tiền triều lâm bệnh nặng, triều đình đối mặt với khủng hoảng nghiêm trọng. Vào thời điểm đó, tông thất chỉ còn sót lại một người con trai duy nhất đủ tư cách kế vị, Lưu Uyên Trạch (劉淵澤), khi ấy 18 tuổi, đang sống tại huyện Lộc Dĩ dưới sự bảo hộ của ngoại tộc.
Từ lâu, thế lực ngoại tộc của Lưu Uyên Trạch đã vươn lên mạnh mẽ, nhưng việc thừa nhận hắn làm người kế vị lại không phải là chuyện đơn giản. Nhà ngoại của hắn nắm giữ lực lượng quân sự hùng hậu, do dự trước việc giao người. Họ lo sợ rằng nếu Lưu Uyên Trạch trở thành vua, quyền lực của gia tộc họ sẽ bị triều đình kiểm soát. Phải đến khi Hoàng thái hậu gửi thư đích thân hứa hẹn bảo toàn lợi ích cùng với việc điều thêm quân hộ tống, họ mới chịu để Lưu Uyên Trạch rời đi.
Cuộc đối đầu giữa các thế lực khiến Lưu Uyên Trạch chỉ có thể đứng bên ngoài, như một hình thức bù nhìn trong tay của các tướng quân. Trong khi các tướng quân cũ của triều đình vốn có nhiều mối quan hệ với dòng họ của Tấn Bình Tương Vương - Trịnh Lập Hành (鄭立行), đang âm mưu chiếm đoạt quân đội để gây dựng thế lực riêng, một cuộc đại chiến đã diễn ra trên đường rước.
Trên đường rước về, đoàn thuyền bị tấn công bởi lực lượng quân phiến loạn do Thạch Hủy (石虫) chỉ huy. Cuộc đại chiến diễn ra ác liệt, khiến nhiều người trong đoàn hộ tống thiệt mạng. Tuy nhiên, bọn họ lại quên rằng, Lưu Trạch Uyên lại là người được một tay đích thân Miên công dạy dỗ và nuôi dưỡng. Vì thế, chẳng ai có thể đoạt mệnh hắn, dù chỉ là đụng đến một sợi tóc con.
Mặc dù Miên công được coi là người thâm trầm và kín đáo, nhưng lại không có ý định nắm quyền hành sau khi tiền đế qua đời. Thực tế, dù Lưu Uyên Trạch là người kế vị, nhưng trong mắt nhiều người, quyền lực thực sự đang nằm trong tay của các tướng quân và những người đứng sau hậu trường như Hoàng thái hậu Ngọc Oanh. Vì vậy, Miên công không thể để Lưu Uyên Trạch chỉ là hình thức của một vương triều mới mà không có thực quyền. Mưu đồ của bà là để Uyên Trạch có thể làm vua, chân chính làm vua.
Miên công còn hiểu rõ bản tính của Tuy Phong Bá và Tương Vương, biết rằng cả hai đều không thể từ bỏ tham vọng quyền lực. Nếu không loại bỏ họ ngay từ đầu, họ sẽ sớm bành trướng, khiến triều đình lâm vào cảnh bất ổn.
Đặc biệt, cần phải chú trọng đến việc củng cố quyền lực của Tuyên Minh Hoàng đế Lưu Uyên Trạch trong khi áp dụng các thủ đoạn chia rẽ, cũng không quên tạo ra những liên kết vững chắc. Để đánh bại, Miên công quyết định sử dụng tâm lý phân tán. Thao túng dư luận bằng cách phát tán tin đồn dẫn đến việc các viên quan trong triều bắt đầu phản cảm.
Bà không những không vội vàng đối đầu trực diện với kẻ thù, mà tạo ra những cuộc đấu tranh nhỏ để làm suy yếu sức mạnh của họ. Miên công còn ra lệnh để những thế lực phản loạn có vẻ như đang lên kế hoạch tấn công Lưu Uyên Trạch, nhưng thực tế lại là một vở kịch nhằm dẫn dụ Tuy Phong Bá và Tương Vương vào những bẫy chính trị mà bà đã dàn dựng từ trước.
Khi những đối thủ không thể duy trì quân đội hay sự ủng hộ từ các tướng lĩnh, Miên công ra quyết định triệt để loại bỏ mối đe dọa từ họ. Bà ép buộc Tuy Phong Bá phải từ bỏ quyền lực trong một cuộc điều đình bí mật, đồng thời khiến Tương Vương bị áp lực phải đầu hàng bằng việc chuyển giao quân đội và dàn xếp một cuộc thanh trừng nội bộ khiến ông ta phải rút lui.
Vậy nên, điều chỉnh dư luận trong triều đình chính là cách để đạt được mục tiêu xa hơn.
Tuy không trực tiếp chỉ trích Tuy Phong Bá hay Tương Vương mà khéo léo kích động sự nghi ngờ trong lòng các quan lại đối với hai thế lực này. Các quan lại trong triều dần bất mãn với những mưu đồ của họ, đồng thời đổi hướng ủng hộ Tuyên Minh và những quyết sách của hoàng đế.
Tuy nhiên, đến lúc qua đời bà vẫn muốn trêu đùa một phen thỏa thích. Vì vậy, Miên công không chỉ đơn giản là chống lại họ bằng sức mạnh quân sự hay đối đầu trực tiếp mà áp dụng một chiến lược dài hơi, xảo quyệt và tinh vi, không để lại bất kỳ dấu vết nào cho kẻ địch có thể phản kháng.
Không những cắt giảm hỗ trợ tài chính, còn gây rối loạn trong chuỗi cung ứng, khiến quân đội triều bắt đầu thiếu thốn lương thảo và tinh thần giảm sút. Đồng thời, lại tung ra những tin đồn về sự thâm hụt tài chính quốc khố. Từ đó, quân đội dần trở nên khó kiểm soát, và các chỉ huy bắt đầu có những biểu hiện chia rẽ trong nội bộ. Những người này không chỉ theo dõi sát sao hành động của các phe đối nghịch mà còn khuyến khích những mâu thuẫn nội bộ, phân tán lực lượng từ bên trong mà không cần động đến vũ lực.
Khi mọi mưu đồ đã được dàn xếp, Miên công quyết định hạ màn vở kịch bằng những bước đi quyết đoán. Sau khi những kẻ kia bị cô lập hoàn toàn, không còn đường lui, phải từ bỏ quyền lực của mình, đồng thời bị đưa ra điều kiện để sống yên ổn trong cảnh hạ cấp.
------
Trong ánh chiều tà mờ mịt, khi sắc vàng cam của hoàng hôn lặng lẽ trùm lên khu vườn ở thôn Bỉ, khung cảnh im lìm chỉ bị phá vỡ bởi tiếng chim hót lảnh lót từ xa vọng lại. Ta và Tử Yên ngồi cạnh nhau trên chiếc ghế gỗ cũ kĩ, chỉ cách nhau một khoảng cách vừa đủ để cảm nhận hơi ấm từ người kia mà không cần phải nói một lời.
Nhưng không gì êm dịu hơn tiếng thở khẽ khàng của Tử Yên khi muốn lén lút.
Ban đầu, chỉ là một cái chạm nhẹ.
Ngón tay chàng lơ đãng chạm vào tay ta, rồi chậm rãi vòng lại, đan hờ lấy. Chàng làm bộ cúi đầu, như chẳng có chuyện gì xảy ra, nhưng khóe môi cong cong nụ cười gian xảo đã tố cáo tất cả. Ta cũng chẳng vừa, hơi nhấc tay để rút về, làm như ngây thơ không hiểu ý. Vậy mà Tử Yên chẳng chịu thua, lập tức nắm lấy tay ta một lần nữa, siết nhẹ như để khẳng định: Lần này, nàng không thoát được đâu!
Chàng im lặng, nhưng ta có thể thấy ánh mắt bắt đầu lóe lên một chút tinh quái, như thể đang vẽ ra âm mưu nào đó trong lòng. Ta hừ nhẹ, mắt liếc chàng một cái đầy ý tứ, rồi lại rút tay ra lần nữa, nhưng cũng chẳng cố sức lắm. Quả nhiên, Tử Yên lập tức nắm lại như thể đang chơi trò mèo vờn chuột. Nụ cười trên môi càng lúc càng rõ ràng, tựa hồ đang tự đắc với chiến thắng nho nhỏ này.
Chắc hẳn nghĩ mình đã thắng, nhưng mà, ai nói ta không biết cách chơi lại chứ?
"Ôi, chàng định trói buộc ta mãi thế này sao?" Ta giả vờ trách móc, nhưng giọng điệu thì lại chẳng chút nghiêm túc nào.
"Trói buộc ư?" Tử Yên nhướng mày. "Chỉ là tay nắm tay, có gì mà gọi là trói buộc? Nàng không muốn thì cứ nói, đừng lén lút rút tay ra làm gì!"
"Hừ, hành động này của chàng, đúng là chiêu trò cũ rích!"
"Cũ thì cũ, nhưng có vẻ hiệu quả đấy chứ. Nàng cứ thử mà xem, lần này, nàng thắng nổi ta không?"
Ta chậm rãi thả lỏng tay, rồi đột ngột nắm chặt lấy tay chàng, nhoẻn miệng cười: "Xem ra, chàng vẫn chưa hiểu rằng bắt được tay ta không dễ dàng chút nào đâu. Nhận thua đi, rồi ta sẽ tha cho!"
"Thua ư? Nàng đừng quên, trò chơi này là do ta khởi xướng. Ta không thua, chỉ là đang nhường nàng thôi!"
"Hừm, không thua thì không thua, nhưng mà cũng phải xem chừng, đừng để ta... có thêm chiêu nào bất ngờ nhé! Chơi chi chi chành chành đi, tay này đụng tay kia... Ai thắng ai thua sẽ biết ngay!" Ta đề nghị.
"Bàn tay nhỏ xinh thế mà cũng muốn đấu tranh? Đừng tưởng chỉ có ta thua, nàng có nắm chắc sẽ thắng được không?" Tử Yên nháy mắt.
Chàng bật cười, càng lộ rõ vẻ đắc ý: "Chỉ có một tay nắm chắc, còn tay kia buông ra. Nếu nàng không thả ra, chắc chắn không ai thắng!"
"Chưa cần nói chuyện thắng thua, cứ tiếp tục chơi thôi!"
Cố gắng nhớ lại bài vè của mấy bé con trong nhà, ta cất giọng đọc rồi xoè lòng bàn tay mình ra, để chàng chọc vào:
"Chu tri rành rành,
Cái đanh nổ lửa,
Con ngựa đứt cương,
Ba vương tập đế,
Cấp kế đi tìm,
Hú tim bắt ập."
"Đừng hòng mà bắt được. Tay này lạ lắm nha, chạy nhanh như gió, nàng sẽ chẳng đuổi kịp đâu!" Tử Yên cười ha hả. Đến cuối, khi ta gặp lòng bàn tay thì ngón tay kia lại nhanh chóng rút kịp.
Nhất quyết sẽ hơn thua, ta liền đòi chơi ván mới: "À, vậy thì ta đuổi cho đến cùng. Một hai ba bốn, ai thắng ai thua xem!"
Cứ thế, trò chơi nắm tay tưởng chừng ngây ngô lại trở thành trận chiến không lời kết. Ánh tà dương mờ dần, chỉ còn đôi bóng dài trải trên nền sân gạch cũ. Khi trò chơi đã đến lúc kết thúc, ta lười biếng ngả người ra chiếc ghế gỗ, chân vung nhẹ như muốn quẳng đi hết mọi mệt nhọc.
Lúc ấy, Tử Yên đột nhiên ngừng lại, nhìn về phía ta, ánh sáng hoàng hôn đổ xuống khiến gương mặt chàng trở nên sáng ngời, lại thêm chút gì đó mơ màng. Chàng chậm rãi gọi với chất giọng đầy lạ lẫm, như thể có chút gì đó không bình thường: "Tiểu thư, người cảm thấy thế nào về hôm nay? Có mệt không?"
Cái "tiểu thư" đó, sao nghe có vẻ như... không phải chỉ đơn thuần là sự quan tâm. Mắt ta thoáng nheo lại, có phần cảnh giác, dù trên môi vẫn giữ nụ cười nhạt: "Không mệt!"
"Tiểu thư, chân người chắc mỏi lắm phải không?" Chưa kịp trả lời, ta đã thấy bàn tay vươn ra, nắm lấy chân ta một cách dứt khoát nhưng vẫn nhẹ nhàng, rồi kéo lên đặt gọn trên đùi mình. Cả người ta cứng đờ trong khoảnh khắc, còn chưa kịp phản ứng thì bàn tay ấy đã bắt đầu dịch chuyển. Có hơi rùng mình đôi chút, nhưng không khó chịu. Một tay chàng nâng lấy cổ chân, tay kia xoa bóp nhẹ nhàng, từng động tác như thể hiện sự tận tụy đầy kiên nhẫn.
"Để tiểu nhân xoa bóp cho người một chút, để chân người đỡ mỏi nha~" Giọng nói bắt đầu ỏn ẻn kéo dài.
Ta không nói gì, để người tiếp tục.
"Tiểu thư thật sự rất vất vả, sau một ngày dài thế này... Tiểu nhân không thể để người chịu đựng mệt mỏi."
"Tiểu lang quân thật biết cách dỗ dành người khác!" Ta đùa vui đáp.
Nhưng chẳng được bao lâu, chàng lại đổi thái độ xoành xoạch. Hình như lại tự ghen tuông với nhân vật mà mình tự thiết lập: "Tiểu thư, người thật sự không thấy ngại sao?"
"Ngại gì cơ?" Ta ngồi tựa vào chiếc ghế mây, thả lỏng cơ thể sau một ngày dài, trong khi Tử Yên ngồi gần bên mang dáng vẻ trầm tư.
"Tùy tiện cho gia đinh đụng vào chân của mình!" Giọng nói có chút bực dọc.
"Vậy tiểu lang quân, chàng không thấy hành động này hơi quá mức lễ giáo sao? Nếu có người nhìn thấy thì sao?"
"Tiểu thư!" Thế nhưng chàng lại hơi ngẩn đầu, khóe mắt ươn ướt. Chẳng hiểu làm sao lại không chịu thoát vai, mà càng lúc càng hăng say hơn.
"Chẳng phải người đã từng nói, trong phủ này, tiểu nhân là người gần gũi với người nhất hay sao? Nếu ngay cả chuyện này mà người cũng nghiêm trọng hóa, thì tiểu nhân biết phải làm sao để tận tâm đây? Tiểu thư à, chỉ có người với tiểu nhân ở đây thôi, lễ giáo để sau cũng được. Mà nếu người khác có thấy, chắc họ sẽ chỉ khen tiểu thư may mắn vì có một gia đinh tận tâm thế này."
Câu trả lời không chút nao núng, lại có chút ngụy biện đầy khéo léo, khiến ta nghẹn lời.
"Chàng định làm gia đinh cả đời như vậy sao?" Ta bất lực day day thái dương.
"Nếu tiểu thư muốn, tiểu nhân sẵn sàng làm gia đinh cho tiểu thư cả đời, chẳng ngại chút nào...." Chàng ngừng lại một chút, rồi thở dài, trong vẻ ngốc nghếch đầy quyến rũ khó cưỡng.
Ta định buông lời trách, rồi cố gắng kéo chân lại. Nhưng bàn tay chàng vẫn giữ chặt, không hề nới lỏng, chỉ tiếp tục xoa bóp, lần này còn kéo dài đến bắp chân, động tác lại càng thành thạo. Mỗi động tác đều nhẹ nhàng, nhưng lại đầy ẩn ý khiến ta cảm thấy vừa thư giãn vừa ngượng ngùng.
"Chàng biết mình đang làm gì không?" Ta hỏi.
"Tiểu thư đừng lo, tiểu nhân chỉ muốn làm tròn bổn phận, không dám nghĩ xa hơn đâu!" Hít một hơi, nghẹn ngào đầy ủy khuất. Giống như nếu ta trách mắng, chàng sẽ cố gắng chịu đựng, vì chàng là nô lệ của ta, không dám có ý định phản kháng. Chỉ có điều, xen lẫn vào đó là một sự thất vọng, vì bản thân không nhận được sủng hạnh như ý muốn.
Rồi chàng tiếp tục luyên thuyên.
"Tiểu thư, chân người mềm mại như thế, sao lại chịu khổ vậy?"
"Nếu tiểu thư có thể để tiểu nhân chăm sóc lâu dài, tiểu nhân hứa sẽ khiến mỗi bước đi của người đều nhẹ như mây!"
Chàng vẫn không bỏ qua cơ hội: "Tiểu thư, nếu có thể, tiểu nhân nguyện làm đôi hài của người. Để mỗi khi bước đi, tiểu thư đều cảm nhận được sự nâng niu, trân trọng nhất!"
Ta không nhịn được, bật cười khẽ: "Làm đôi hài? Rồi chàng định ngày ngày bị giẫm lên sao?"
Chàng lập tức đáp, giọng đầy vẻ cam chịu nhưng lại pha chút khôi hài: "Nếu đó là giẫm từ đôi chân của tiểu thư, tiểu nhân nguyện chịu cả đời, không hề hối tiếc!"
"Tiểu thư, có phải người không hiểu rằng, dù một sợi tóc, một ngón tay của người cũng đáng để tiểu nhân tận tâm phục vụ? Hay là... tiểu thư đang muốn thử lòng tiểu nhân?" Chàng lại tiếp tục, lần này càng thêm đậm mùi tranh sủng: "Tiểu thư đối tốt với người khác, nhưng lại để tiểu nhân chịu lạnh nhạt thế này... Thật khiến người ta đau lòng mà!"
"Ngay cả đám tiểu khuyển này còn được tiểu thư cưng chiều, vậy mà tiểu nhân lại phải tranh từng chút một. Tiểu thư, chẳng lẽ trong mắt người, ta còn không bằng bọn chúng?" Tử Yên chỉ tay về đám chó con đang nằm trong chuồng, bọn chúng đang đùa giỡn cùng với Mít và Chuối.
Ta không chịu nổi nữa, đành lườm chàng một cái: "Chàng nói nữa, có khi ta lại cho bầy chó này thay chàng đi tranh sủng đấy!"
Nhưng người kia chẳng những không sợ, còn bày đặt than thở: "Ôi trời, tiểu thư ơi, chẳng lẽ tiểu nhân còn không bằng một bầy chó nhỏ sao? Tiểu thư nỡ đối xử thế với phu quân mình à?"
Chưa nói dứt lời, chàng đã véo nhẹ vào bắp chân ta, khiến ta nhảy dựng lên, xuýt xoa: "Chàng làm thế này là muốn làm cho tiểu thư hết mệt mỏi à? Hay là muốn ta không thể đứng dậy nữa?"
Thất công tử làm bộ ngỡ ngàng, hai tay ôm ngực như thể trái tim bị tổn thương sâu sắc: "Ôi, tiểu thư đúng là người tàn nhẫn! Thế giới này thật là bất công quá mà! Ta làm tất cả chỉ để nương tử thoải mái, vậy mà lại bị vu oan thế này..."
Ta trợn mắt, định nói gì đó thì chàng đã nhanh chóng cúi xuống xoa xoa bắp chân ta, giọng đầy vẻ nịnh nọt: "Tiểu thư đừng giận, đừng giận! Tiểu nhân chỉ đang tận tâm phục vụ thôi, làm sao dám để người phải không hài lòng? Xem đây, tiểu nhân sẽ làm đến khi nào tiểu thư cảm thấy mãn nguyện mới thôi!"
Rồi chàng cúi đầu, vừa tiếp tục xoa bóp vừa lẩm bẩm, giọng điệu như một đứa trẻ tủi thân: "Bầy chó kia chỉ biết quanh quẩn bên chân người, còn tiểu nhân thì dốc hết sức lực. Vậy mà vẫn bị dọa đem thay thế... Thật khổ quá mà! Nếu tiểu thư không thương ta, có lẽ ta sẽ phải sống kiếp nô tài mãi mãi mất thôi..."
Ta khẽ bật cười, mắt lướt qua khuôn mặt tựa như đang 'chăm sóc' mà lại đầy mưu mô của người ấy. Tử Yên lặng lẽ di chuyển tay lên phía trên, lúc này đã đến phần đùi. Cảm giác vừa ấm áp vừa khẽ kích động, khiến ta phải hắng giọng để giữ bình tĩnh: "Tiểu lang quân, chàng không định dừng lại thật sao?"
"Tiểu thư, người nỡ để tiểu nhân dừng lại thật sao? Người đừng quên, mỗi động tác của tiểu nhân đều có mục đích đấy! Với cẳng chân, bắp chân là chưa đủ. Chân người như vậy, tiểu nhân không thể chỉ xoa nhẹ như vậy, phải giúp tiểu thư thả lỏng toàn bộ." Chàng bật cười, nhưng vẫn tiếp tục công việc của mình, lần này còn nhích thêm chút nữa, giọng điệu đầy vẻ "xót xa": "Nếu không chăm sóc kỹ lưỡng, lỡ tiểu thư bị đau chân thì chẳng phải ta sẽ bị trách nhiều hơn à?"
Ta nở nụ cười nhẹ, đôi môi cong lên theo kiểu rất khéo, rồi giả vờ lắc đầu, dường như không nghe thấy. Không thể nào không cảm thấy một chút xấu hổ trước sự tự nhiên của chàng, nhưng lại không thể phủ nhận rằng cảm giác này thật sự rất dễ chịu.
Ta hít sâu một hơi, giả vờ nhắm mắt hỏi: "Tiểu lang quân, chàng làm gì vậy? Chàng có chắc là đang giúp ta thư giãn không? Cẩn thận quá mức thế này, người ta gọi là 'lấn tới' đấy, chàng có biết không?"
"Tiểu thư, không phải ta đang làm việc tốt sao?" Tử Yên nghe vậy thì ngay lập tức làm mặt đáng thương, đôi mắt sáng lên, nhưng lại giả vờ cúi đầu, như một chú cún con bị trách. Chàng lặng lẽ nói: "Tiểu thư, người không cần phải trách tiểu nhân như vậy đâu... Tiểu nhân chỉ muốn làm cho tiểu thư cảm thấy thoải mái, chứ không có ý gì đâu. Tiểu nhân hứa, ngoài việc chăm sóc chân người, sẽ tuyệt đối không vượt quá giới hạn. Nhưng nếu tiểu thư không nói 'dừng', tiểu nhân e là... sẽ không biết phải dừng ở đâu mất!"
Cố tình hơi ngước lên nhìn ta, đôi mắt long lanh, như thể muốn tìm kiếm sự tha thứ. Cả cơ thể còn hơi khép nép lại, tạo thành một dáng vẻ cực kỳ đáng yêu, khiến ta không thể nào trách giận được nữa: "Tiểu thư, ta chỉ là... quá muốn chăm sóc cho người thôi mà. Nếu người cảm thấy không thoải mái, tiểu nhân sẽ ngừng ngay!"
"Chàng có phải là người không thể sống mà thiếu chút kịch tính không? Mỗi lần như vậy lại làm bộ như mình là người đáng thương, có thật là không chán không? Chàng đừng làm bộ nữa, không phải là chàng sẽ ngừng đâu. "
Tử Yên mím môi, rồi đột nhiên rúc đầu vào vai ta như thể muốn tìm sự an ủi: "Tiểu thư... Thật ra, tiểu nhân chỉ muốn được gần người một chút thôi mà..." Giọng nói nhỏ nhẹ, nghe như thể đang nũng nịu.
Ta bị hành động ấy làm cho mềm lòng, không thể không cười khúc khích: "Lần sau chàng cứ im lặng mà làm, đừng có nói nhiều thế, biết chưa?"
"Vậy tiểu thư không giận ta nữa chứ? Tiểu nhân hứa sẽ không làm phiền nữa."
"Chắc chắn là không phiền rồi, nhưng mà chàng làm sao cứ tỏ vẻ dễ thương như vậy nhỉ?"
"Chẳng phải ta đang làm chuyện đáng yêu để khiến tiểu thư mỉm cười sao? Vậy là tiểu thư không trách ta nữa rồi phải không?"
"Tiểu thư, nếu lấn tới mà người vẫn để tiểu nhân tiếp tục, thì chắc là tiểu nhân đã làm rất đúng, phải không?"
"Được lắm, Tử Yên, chàng đúng là không bao giờ biết điểm dừng." Ta hít sâu thêm một hơi, cố gắng không để lòng mình lại mềm nhũn trước sự mưu mô của kẻ trước mặt.
"Điểm dừng ở đâu, chỉ cần tiểu thư nói, tiểu nhân lập tức dừng lại!" Chàng đáp ngay, rồi vươn đôi tay vẫn chưa hề dừng động tác, thậm chí còn nhích lên thêm một chút. "Nhưng nếu người không nói, thì tiểu nhân sẽ coi như được phép tiếp tục."
"Lời chàng nói, nghe như thể hạ nhân mà cũng dám cầm đầu chủ nhân vậy!" Ta bật cười, đá nhẹ chân để thoát khỏi bàn tay "khéo léo" của chàng, giọng pha chút hờn trách: "Cái miệng dẻo quẹo của chàng, đừng nghĩ ta không nhận ra ý đồ đấy nhé! Lần này ta tha, nhưng nếu còn giở trò nữa, xem ta xử lý chàng thế nào!"
"Tiểu thư à, hạ nhân cũng phải có trách nhiệm với chủ nhân, không thể để chủ nhân chịu thiệt thòi..." Tử Yên cười híp mắt, nhưng lại cúi đầu thấp hơn, giọng lí nhí đầy vẻ cam chịu mà cũng chẳng hề giống người đang sợ: "Tiểu thư xử lý thế nào cũng được, chỉ cần người đừng lạnh nhạt với tiểu nhân thôi..."
Sau đó ngước mắt nhìn ta, vẻ mặt như vừa nhớ ra chuyện gì: "À mà, nói đến thiệt thòi, tiểu thư có nghe tin ở tiệm trà sáng nay không?"
"Tin gì mà khiến chàng háo hức thế?" Ta hờ hững hỏi, nhưng cũng hơi tò mò.
"Nghe đâu, trên kinh thành đang rộ lên một chuyện vô cùng chấn động đấy!" Chàng hạ giọng, cố tình thêm thắt chút bí hiểm. "Có người bảo, đây là điềm lành, nhưng cũng có kẻ rì rầm rằng đổi niên hiệu là để che đậy chuyện gì đó lớn hơn."
"Che đậy chuyện gì?" Ta cau mày, giả vờ không quan tâm nhưng trong lòng lại dấy lên một chút hứng thú.
"Tiểu thư nghĩ xem, một người như ta mà nghe được chuyện này, thì chắc chắn nó chẳng phải là tin đồn tầm thường. Tiểu nhân không dám nói bừa, nhưng người ta đồn rằng có liên quan đến mấy vụ điều binh gần đây."
"Còn nữa, tiểu nhân nghe mấy bà hàng rau ngâm nga bài đồng dao mới đấy. Cái gì mà tre xòa, tre héo, đừng để gió cuốn theo. Đổi đời rồi, ai khóc, ai kêu? Nghe bảo bài này là nói về vận nước, người người trong thành đều thuộc lòng." Chàng đọc xong, ánh mắt lấp lánh, rõ ràng đang đợi ta phản ứng.
"Bài hát trẻ con mà chàng cũng hứng thú vậy sao?" Ta cười nhạt, giả bộ không chú ý.
"Tiểu thư nói vậy, nhưng ý tứ trong câu hát lại thâm sâu lắm đấy!" Chàng hạ giọng, mặt nghiêm túc như đang bàn đại sự, nhưng khóe môi lại cong lên, rõ ràng là đang bỡn cợt.
"Ý chàng là gì?" Ta lườm người ấy, trong lòng có cảm giác như đang mắc bẫy. "Tre xòa, tre héo? Làm gì mà nghe u ám thế?"
"Thì đúng mà, tre mà héo thì chỉ có chờ người mới thay thế. Chẳng lẽ không giống như... ai đó vừa phải đổi chỗ ngồi trong triều sao? Chỉ là, nếu gió cuốn tre đi, thì người nào biết trước để khóc kịp cũng là một tài năng!"
"Chàng không sợ cái miệng này sẽ rước họa sao?"
"Tiểu thư nghĩ xem, nếu đổi đời thật, ai sẽ là người đầu tiên kêu khóc?" Người cười ranh mãnh, nhưng bàn tay thì lại cố tình bóp nhẹ vào đùi ta, khiến ta giật mình rụt lại. "Chắc chắn không phải tiểu thư rồi, vì có tiểu nhân bên cạnh đây mà!"
"Chàng nghĩ chuyện ấy liên quan gì đến ta mà cứ kể lể mãi?"
"Liên quan chứ, tiểu thư. Nếu triều đình đổi niên hiệu, chẳng phải tiểu thư phải chuẩn bị một bộ y phục mới, may mắn để đón thời vận sao? Mà nếu người không phiền, tiểu nhân cũng muốn nhân dịp này được đặt may thêm một bộ giống màu để mặc cùng tiểu thư."
"Chàng khéo lo chuyện bao đồng nhỉ? Đúng là chẳng bao giờ nghiêm túc được. Cả ngày chỉ lo bày trò, không sợ bị phạt sao?"
"Nếu bị phạt vì làm tiểu thư vui, tiểu nhân xin chịu tội cả đời!"
"Chàng đúng là gia đinh miệng lưỡi nhất mà ta từng gặp!"
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro