Chương 29: Phù Quang Thế Ảnh (浮光世影)
[♪] Phù Quang Thế Ảnh (浮光世影): Ánh phù du, bóng nhân gian.
------
Hán ngữ:
七夕望月
善善蠶蛾月下見,
崇慧經年錦睛穿。
卲嫽萬古幾度聚,
超然無咎夢長圓。
Hán Việt:
Thất Tịch vọng nguyệt
Thiện thiện tàm nga nguyệt hạ kiến,
Sùng tuệ kinh niên cẩm tình xuyên.
Thiều liêu vạn cổ kỷ độ tụ,
Siêu nhiên vô cữu mộng trường viên.
Dịch nghĩa:
Ngắm trăng đêm Thất Tịch
Ngài tằm ngắm trăng với lòng thiện lành,
Lấp lánh mắt gấm xuyên bao tháng năm.
Đã mấy độ gặp nhau qua ngàn kiếp,
Mộng vẹn tròn mãi không còn lỗi lầm.
Dịch thơ:
Dưới trăng, tằm sờn soi bóng dáng,
Mắt tinh xưa qua năm tháng chiêm bao.
Mây tụ, đời dài mấy lần hội,
Vượt ngoài luống thở, giấc tròn mãi lâu.
(*) Cảm hứng cấu tứ từ bài Thất tịch 七夕 - Bạch Cư Dị (772 - 846).
------
(*) Các câu hỏi và đáp án bên dưới đều thuộc về bản quyền chính chủ. (ㆁωㆁ)
Câu hỏi 1: Người thiện gặp gỡ dưới trăng Thất Tịch, trí tuệ trải nghiệm qua bao duyên tình lâu dài. Vậy hỏi, đêm nay trên bờ Ngân Hà đôi ngả, thứ gì có thể giúp người hữu tình vượt qua lỗi lầm, muôn đời bên nhau?
Đáp: Chính là "ánh mắt long lanh", nguyện hai lòng đối chiếu, đan kết như tơ, muôn đời chẳng rời.
(问题 1: 善善相逢於蠶蛾月下,崇慧經歷卲嫽情長。試問,此夜天河兩岸,何物能助有情人無咎於萬古乎?答: 此物乃"錦睛",寄望兩心相映,纏繞如絲,永世不離。)
Câu hỏi 2: Dù trời đất có nghiêng lệch, không lỗi lầm vẫn an ổn, nhưng trong lòng tình cảm mãi dào dạt, vậy tình yêu là gì?
(问题 2: 迤伏天地,無咎可安,卲嫽悠悠,情何如?)
Câu hỏi 3: Vũ trụ rộng lớn, chẳng có lỗi lầm nào, tự nhiên an yên. Khi lòng người đã hiểu thấu, thứ chi có thể giải quyết được nỗi trường hận trong đời?
(问题 3:天地迤伏,无咎自安;心意相知,世间长恨,何物可解?)
------
"Nguyệt chi thanh, hoa chi diễm, nguyện nhân trường hợp, khán thấu tâm."
(月之清,花之艳,愿人常合,窥心透)
Cẩm Đại lang đọc lại câu thơ, ánh mắt như ẩn chút mơ màng, nhưng lời nói lại trang trọng, khoan thai:
"Nhớ lại thuở ấy, câu đố được đặt ra như sau:
Người thiện gặp gỡ dưới trăng Thất Tịch, trí tuệ hun đúc qua những trải nghiệm tình trường sâu sắc. Vậy hỏi, đêm nay trên bờ Ngân Hà đôi ngả, thứ gì có thể giúp người hữu tình vượt qua lỗi lầm, muôn đời bên nhau?"
(问题: 善善相逢於蠶蛾月下,崇慧經歷卲嫽情長。試問,此夜天河兩岸,何物能助有情人無咎於萬古乎?)
Nói đến đây, Đại lang hơi mỉm cười với ta, giọng nói trầm thấp như lẫn chút hồi tưởng: "Lúc đó tại hạ còn chưa lĩnh hội được ý nghĩa hai chữ "锦睛" mà cô nương đã lưu bút lại trên tờ giấy. Nhưng nay ngẫm kỹ, lại cảm nhận sâu sắc hàm ý của nó."
Y chậm rãi gật đầu, giọng nói trầm thấp nhưng từng chữ như rót vào lòng người: "Chính là "ánh mắt long lanh", nguyện hai lòng đối chiếu, đan kết như tơ, muôn đời chẳng rời."
(答: 此物乃"錦睛",寄望兩心相映,纏繞如絲,永世不離。)
Ngẫm lại khi đó, trong lúc vì chờ xếp hàng mua bánh nếp nướng, nên ta mới đứng nép gần trước gian hàng lồng đèn. Đang ngẩn người, thì ông chủ sạp lồng đèn nọ chợt cười lớn, hỏi: "Cô nương chẳng hay có hứng thú thử tài với bài thơ nhỏ này chăng?"
Ông ta đưa ra một bài thơ đã để trống vài chữ, trong đó có câu: "崇 慧 經 年 [...] 穿" và nhờ ta điền vào phần khuyết. Vừa hay đúng lúc bên cạnh lại có một người bước đến, người này nhìn mãi khiến cho ta áp lực vì vốn mình không hay chữ nghĩa. Hổ thẹn thay, liền bối rối điền bừa hai chữ "锦睛", và trả lại tờ giấy cho ông chủ kia.
Nói đến đây, Cẩm Đại lang nhẹ nhàng liếc nhìn ta, đôi mắt như chất chứa điều khó nói. Rồi như nhớ ra điều gì, y tiếp lời: "Những câu đố sau về chữ "戀" (luyến) và "憾" (hận), tại hạ vẫn mãi phân vân, cho đến khi nhận được một lời gợi ý lạ lùng từ cô nương."
Còn nói đã suy ngẫm và trằn trọc cả đêm về những chữ đó, cũng khá ấn tượng với một cô gái trông có vẻ yếu ớt, bệnh tật, trầm tĩnh đến độ không nói bất kỳ một lời nào trong cả một quá trình. Y ngừng lại, ánh mắt lặng lẽ hồi tưởng: "Cô nương ấy chẳng nói một lời nào, nhưng hành động lại như hàm chứa thiên ý."
Y đã miêu tả lại như sau: Cô nương ấy hơi cúi đầu, ánh mắt thoáng nét u buồn. Nàng lặng lẽ xoay người, quay lưng về phía người đối diện, vệt bóng mờ của chiếc đèn lồng lấp loáng phản chiếu trên gương mặt nàng trước khi quay lưng. Lúc đó hình như nàng ta đang bứt một sợi chỉ thừa trên gấu tay áo, chỉ vì không biết đã va vào đâu, sợi chỉ quấn vào ngón tay trỏ. Tuy mỏng mảnh, nhưng lại cứng đầu bám lấy, khiến nàng phải dùng chút lực để bứt ra. Lạ thay, nàng không bỏ đi, mà lại nhẹ nhàng buộc sợi chỉ vào cuộn giấy thơ đã được trao, quấn vài vòng, thắt nút chặt chẽ rồi trả lại cho ông chủ ấy. Đến khi bóng dáng nàng dần xa, nhưng dư âm của hành động nhỏ bé ấy khiến những người đối diện mãi trăn trở, tự hỏi: sợi chỉ này liệu gói ghém ý gì?
Nhưng khi hắn quay đầu nhìn một lần nữa, đã không còn thấy bóng dáng bạc nhược kia. Bây giờ ngẫm lại, liền cảm thấy khá buồn cười.
Y ngẩng đầu, ánh mắt thoáng nét cười như tự chế giễu: "Lúc ấy, tại hạ chỉ nghĩ đó là một hành động ngẫu nhiên. Nhưng giờ đây, nhớ lại từng chi tiết, mới nhận ra đó là lời giải ý nhị, để tại hạ ngộ ra cả "luyến" lẫn "hận" đều là những ràng buộc khó lòng dứt bỏ."
Ta nghe đến đây, không khỏi kinh ngạc nhìn Đại lang. Hóa ra, một hành động vốn chẳng mang ý nghĩa nào sâu xa của ta lại có thể bị suy diễn đến mức ấy.
Khi đó, ta thật sự không nghĩ nhiều. Đợi lâu trước gian hàng, đèn lồng treo cao lay động dưới làn gió nhẹ, ánh sáng phản chiếu lên mặt hơi chói khiến ta cúi đầu. Trong khoảnh khắc cúi đầu, ta thực chất chẳng phải vì tâm tư nặng nề hay u buồn gì, mà chỉ vì đôi chân đã hơi mỏi, còn tâm trí thì đang lơ đãng nghĩ về chuyện đâu đâu.
Cũng lại vì thế mà vô tình phát hiện một sợi chỉ mỏng thừa ra nơi gấu tay áo. Dường như trong lúc chen chúc giữa đám đông, gấu áo đã bị vướng vào đâu đó. Sợi chỉ mảnh kia quấn lấy ngón tay một cách khó chịu, ta mệt mỏi khẽ nhíu mày, bèn dùng chút sức để bứt nó ra.
Đáng lý ra, ta đã có thể vứt bỏ ngay sợi chỉ ấy, nhưng trong tay còn cầm tờ giấy thơ được trao một cách đường đột từ ông chủ gian hàng. Lại nghĩ, nếu không quấn lại cẩn thận, cuộn giấy nhỏ ấy rất dễ bung ra khi di chuyển. Thế là, đành tiện tay dùng chính sợi chỉ vừa bứt để buộc chặt cuộn giấy. Chẳng qua là thói quen gọn gàng và đôi chút bất cẩn của bản thân, chứ nào phải dụng ý gì.
Nay nghe y nhắc lại, những lời như tràn đầy hàm ý, lòng ta chỉ thấy vừa buồn cười vừa bất đắc dĩ. Người đời quả thật dễ dàng suy diễn từ một hành động giản đơn đến những điều phức tạp quá đỗi.
Đại lang khẽ mỉm cười, như tự chế giễu chính mình: "Cô nương có lẽ chỉ vô ý, nhưng tại hạ lại chấp niệm mãi về nó. Đúng là tự đa tình mà thôi."
------
Khi Cẩm Đại lang hướng lời tạ lỗi đến ta, lòng ta không khỏi chấn động mà lấy làm kinh ngạc. Thực tâm mà nói, ta không hề hay biết y chính là vị hôn phu của Thái Minh Châu. Về phần nàng ấy, ta đã không còn có ý định tiếp cận, lại càng chẳng có chủ đích làm tổn thương hay bôi nhọ thanh danh của nàng. Ta vốn chỉ muốn sống yên bình, không dính dáng đến chuyện cấm kỵ, cũng chẳng hề lường trước được sự thắc mắc của y.
Thế nhưng, lời xin lỗi của y lại khiến ta phải suy ngẫm.
Cẩm Đại lang khẽ chỉnh lại y phục, dáng điệu nghiêm trang. Ánh mắt y thoáng trầm ngâm khi cất lời, giọng nói vừa ấm áp vừa thâm trầm, như đang giải thích mà cũng như tự biện minh: "Thái Minh Châu, nàng ấy không phải là người có ác ý. Tính nàng ấy tuy kiêu ngạo, ích kỷ, thích làm tâm điểm của mọi sự chú ý, nhưng đó không phải vì lòng dạ bất chính. Nàng ấy chỉ là kẻ chưa biết cách mở lòng, chưa hiểu được giá trị của sự sẻ chia và đồng cảm."
Cẩm Đại lang quả thật không thiếu sự tự tin, nhưng lời nói của y lại khiến ta thêm phần băn khoăn. Đúng là y đã khéo léo thể hiện quan điểm của mình, nhưng chẳng lẽ mọi chuyện đơn giản như vậy sao?
Ta liền tò mò, nhưng không muốn mở miệng hỏi. Mọi người, bao gồm đệ đệ Cẩm Nhị lang cũng đều không hiểu. Khi chưa kịp ai nói lời nào, Hoàng Phủ Từ Thục liền thay mở miệng, nàng hỏi: "Nếu đã như thế, vì sao huynh lại chấp nhận hôn sự này? Trong khi giữa hai người chẳng hề có tình cảm nào làm nền tảng."
Câu hỏi của nàng làm cả đệ đệ y, Cẩm Nhị lang, cũng phải nhíu mày đầy thắc mắc. Cẩm Đại lang liền trầm ngâm một lát, sao đó lại nói: "Ta thấy nàng ấy đáng thương hơn là đáng trách. Có lẽ nàng ấy cần một người đồng cảm và bao dung với nàng!"
Cẩm Nhị lang nghe vậy liền chất vấn: "Vậy chẳng phải đại ca đang thương hại nàng ấy sao?"
Cẩm Đại lang nhẹ lắc đầu, lời nói mang theo một phần chắc chắn, một phần nỗi niềm sâu lắng: "Không phải thương hại. Ta chỉ nghĩ, nếu không ai dang tay ra giúp nàng, nàng sẽ chẳng còn cơ hội nào nữa. Người nhà Thái gia, đặc biệt là nàng ấy, vẫn còn có thể cứu vãn được."
Y quay sang nhìn ta, ánh mắt dường như muốn tìm kiếm sự đồng tình: "Cô nương nghĩ thế nào? Có phải nàng ấy vẫn còn hy vọng không?" Dưới ánh mắt chờ đợi ấy, ta chỉ khẽ gật đầu.
Cẩm Đại lang cười nhẹ, như trút được gánh nặng, không ngại bài tỏ cho mọi người cùng biết: "Ta thừa nhận, vốn trước kia, ta cũng từng có thành kiến với nàng. Thậm chí có sự bài xích với nàng ta. Ta từng nghĩ, một cô nương kiêu ngạo như nàng ta làm sao có thể hạ mình khách khí với mọi người. Ta sợ rằng sau này khi thành thân, nàng ta sẽ làm mất hòa khí gia đình, không hòa thuận với mẫu thân hay các đệ muội trong nhà. Hơn nữa, ta cũng chưa bao giờ thấy nàng ta đối xử tốt với bá mẫu, chưa bao giờ cho bà ấy bất kì sắc mặt tốt nào."
"Nhưng có một lần bà ấy đã tìm đến nói chuyện với ta, gửi gắm con gái bà cho ta. Còn nói mình là một người mẹ vô dụng, không thể đứng ra bênh vực con gái mình, còn không thể cho nàng một tình mẫu tử đúng nghĩa. Bà ấy kể rất nhiều chuyện về nàng, mỗi câu chuyện là một niềm thương cảm vô kể, là nỗi chất chứa dồn nén, là tình yêu thương dạt dào. Lúc đó, ta chẳng hề muốn hứa với bà, nhưng ánh mắt đầy rẫy sự hy vọng của bà làm ta rung cảm. Ta nghĩ, ta có thể cứu chữa Thái Minh Châu được, một ngày nào đó có thể khiến cho nàng ta nhận ra, bên cạnh nàng ấy vẫn còn có những người mong muốn nàng có một cuộc sống tốt hơn."
"Vì tình cảm giữa con người có thể bồi dưỡng theo thời gian. Chỉ cần nàng mở lòng hơn, nàng nhất định sẽ thay đổi. Đừng lo, ta tin chắc có thể cảm hóa được nàng."
Y ngừng lại đôi chút, ánh mắt thoáng ánh lên sự quyết tâm: "Ta biết mọi người có định kiến không tốt về Minh Châu, nhất là cô nương. Ta không thể ép mọi người vội vàng thay đổi nhìn nhận về nàng. Cũng từng nghĩ đến việc thuần cảm nàng ấy gặp nhiều khó khăn. Nhưng nếu như ta phớt lờ, thì ta nghĩ đối với nàng ấy sẽ chẳng còn bất kì cơ hội nào nữa!"
"Một ngày nào đó, Thái Minh Châu sẽ hiểu được, cốt lõi của cuộc sống không chỉ là bản thân mình!"
"Cẩm Đại lang, huynh nghĩ cho người khác nhiều như vậy, có bao giờ nghĩ đến cảm xúc của mình chưa?" Đoàn Như Khuê đột ngột lên tiếng, so với ta nàng càng kiệm lời hơn hẳn. "Huynh không sợ sao? Không sợ tất cả những tâm huyết hiện tại của mình chỉ giống như muối bỏ bể?"
"Dĩ nhiên là có lo sợ. Nhưng so với sợ thất bại, ta lại càng sợ hối hận hơn." Cẩm Đại lang cười. "Như Khuê, ta biết muội quan tâm ta, xem ta như huynh trưởng trong nhà nên mới có ý tốt khuyên nhủ. Nếu có ngày mọi tâm huyết của ta đều chẳng đem lại kết quả, thì ta sẽ xem đó là một bài khảo nghiệm. Nếu điểm số không tốt, ta sẽ ôn luyện lại để làm tốt hơn. Suy cho cùng, ai trong chúng ta chưa từng trải qua thất bại đâu?"
Đoàn thị cười nhẹ, khóe mắt ánh lên nét tự hào pha lẫn chút bông đùa, cũng không có ý định phản bác thêm: "Cẩm Đại lang, huynh biết nghĩ như vậy là tốt rồi. Có bao giờ muội không tự hào về huynh đâu!"
Nàng khẽ đưa tay chỉnh lại nếp áo, rồi không vội đổi giọng, hỏi sang chuyện khác như thể muốn làm dịu bầu không khí vừa căng thẳng: "Nhưng mà này, huynh đã chuẩn bị sính lễ đến đâu rồi? Chuyện hệ trọng như thế, không thể qua loa được đâu."
"Phần sính lễ, ta đã bàn bạc với mẫu thân từ trước. Mọi thứ cần thiết đều đã chuẩn bị xong. Tuy nhiên..." Y dừng lại, ánh mắt chợt thấp thoáng chút ngập ngừng, như thể còn điều gì đó khó nói.
Đoàn thị lập tức nhận ra sự bất thường, liền nghiêng đầu nhìn y, giọng không giấu được tò mò: "Tuy nhiên cái gì? Huynh còn lo lắng điều gì sao?"
Cẩm Đại lang khẽ thở dài: "Mẫu thân ta lo Thái viên ngoại và cả Minh Châu sẽ không hài lòng với những gì đã chuẩn bị từ trước. Nàng ấy vốn quen được nâng niu, những gì ta chuẩn bị, tuy chu đáo nhưng không dám chắc có hợp ý nàng hay không. Mẫu thân đã nhờ người tìm hiểu, nhưng vẫn không tránh khỏi đôi chút bất an."
Đoàn thị nghe vậy thì bật cười khẽ, trong giọng nói có chút hóm hỉnh: "Huynh thật là... Người ta chỉ cần thấy tấm lòng huynh là đủ, còn đòi hỏi gì thêm chứ! Mọi người đã cho họ đủ thể diện rồi. Nếu huynh cứ lo lắng thái quá, e rằng càng thêm áp lực cho chính mình mà thôi."
Cẩm Đại lang lắc đầu, nở một nụ cười nhạt: "Có lẽ ta đã suy nghĩ quá nhiều. Nhưng đây là chuyện cả đời, ta không muốn chỉn chu một nửa. Dẫu thế nào, ta cũng mong nàng có thể cảm nhận được tấm chân tình của ta và gia đình ta, không chỉ qua sính lễ mà còn trong từng cách đối đãi."
Đoàn thị khẽ gật đầu, nét mặt nghiêm lại, nhưng ánh mắt vẫn đầy cảm thông: "Huynh đã làm hết sức mình, muội tin mọi chuyện sẽ thuận lợi thôi!"
"Dù gì cũng là người trong nhà, đệ nhất định sẽ giúp huynh chu toàn." Cẩm Nhị lang cũng không ngại góp lời.
Dùng cơm trưa xong, mọi người quyết định đi theo lịch trình đã định sẵn, đầu tiên là đến rừng trúc, sau đó đến vườn hoa mẫu đơn, cuối cùng đến đình cổ để cầu an.
------
Ba địa điểm kia vốn không xa cách là bao, cùng thuộc địa phận thủ phủ Giao Điền [郊滇], song lại nằm rải rác trong các huyện khác nhau. Khi ngang qua huyện Tuyển Vĩnh [雋永], đoàn người theo lễ ghé qua vườn bưởi (柚) của Đoàn Như Khuê – khu vườn nổi danh khắp vùng nhờ giống bưởi quý, cũng là điền sản của lệnh đường Đoàn thị, dự tính làm của hồi môn cho nàng.
Dọc theo con đường, những hàng bưởi xanh mướt vươn cành sum suê, từng chùm quả căng tròn, lủng lẳng như báo hiệu một mùa vụ bội thu sắp đến. Mùi hương bưởi nhẹ nhàng lan tỏa trong không khí, trong lành như đang gột rửa hết những bụi bặm của thế gian. Tại Tuyển Vĩnh, có đến cả chục loại bưởi khác nhau: thanh trà, bưởi đường lá cam, bưởi xiêm, bưởi ổi, bưởi núm,... Mỗi loại đều mang một hương vị đặc trưng riêng biệt, có loại ngọt dịu, có loại chua nhẹ, đủ để làm vừa lòng mọi khẩu vị. Tuy nhiên, điểm chung của tất cả các loại bưởi nơi đây chính là vỏ mỏng, múi bưởi mọng nước nhưng vẫn giữ được độ dai, giòn đặc trưng. Tuy vậy, vườn bưởi này chủ yếu trồng hai giống bưởi nổi tiếng: bưởi đường lá cam và bưởi đường cao nốm.
Bưởi đường lá cam: Quả nhỏ nhắn, vỏ mỏng, khi bóc ra lộ từng múi bưởi căng mọng, ít hạt, vị ngọt thanh xen chút chua nhẹ, ăn đến đâu thấm vị đến đó. Giống bưởi này càng để lâu lại càng ngọt, quả nặng chừng nửa cân, thường được ưa chuộng để dâng lễ hoặc làm quà tặng.
Bưởi đường cao nốm: Khác với giống lá cam, loại này to hơn, nặng từ một đến hai cân, quả có hình dáng tựa trái lê, vỏ xanh vàng lúc còn non và chuyển sang vàng óng khi chín. Vị ngọt đậm hơn chua, cùi mỏng, múi bưởi thơm nồng, nước dâng đầy miệng khi ăn.
Đặc biệt, từ bưởi còn chế rượu, thứ rượu làm từ nước cốt bưởi và đường mật mía, có màu vàng nhạt, vị chua ngọt nhẹ nhàng, hương thơm phảng phất, không quá nặng.
(*) Cảm hứng miêu tả từ các bài viết về vườn bưởi Tân Triều (Đồng Nai).
Vườn bưởi này thuộc về điền sản hồi môn của lệnh đường Đoàn thị, tương lai cũng dành để làm của hồi môn cho Như Khuê. Nàng hiếu khách, rất ra dáng vẻ chủ nhân, liền hào phóng tặng cho mỗi người hai vò rượu lớn, cùng với mấy cân bưởi đường lá cam làm vật biếu.
Như Khuê với tư cách là chủ nhân, tiếp đãi đoàn người rất mực chu đáo. Nàng hào phóng tặng mỗi vị khách hai vò rượu bưởi lớn cùng mấy cân bưởi đường lá cam làm quà biếu, không quên cho người dâng chè bưởi được nấu từ phần cùi trắng của vỏ bưởi kết hợp đậu xanh, đường phèn và nước cốt dừa, béo ngậy mà sần sật, thanh mát đến lạ lùng.
Trong lúc thư thả dùng chè trong vườn, Ngô Thập Nhị bất chợt nhắc đến chuyện, ta đã mua mảnh đất từ nhà Giang thị. Y nói: "Mấy hôm trước có nghe Tô thúc vô tình nhắc đến là cô nương có ý định mua đất để trồng thảo dược. Cũng chẳng hay biết cô đã mua lại đất của nhà Khương tẩu, nếu sớm hay tin, ta đã giúp cô chọn vài mảnh đất tốt hơn!"
Ta ngạc nhiên hỏi: "Ngài nói vậy là sao?"
Ngô Thập Nhị cùng các vị khác liền đồng loạt lên tiếng, khuyên nhủ: "Mảnh đất ấy phong thủy không lành. Nhiều năm trước, từng có người quyên sinh tại đó. Chuyện này, chắc cô chưa được nghe qua?"
Mười năm trước, nó vốn là đất của Đới Tham Nghị, nhưng sau khi ông bị biếm truất, chuyển sang nơi khác liền bị sung vào công quỹ, không biết bằng cách nào lại được bán lại cho Giang gia. Ban đầu mới mua lại, Giang gia làm ăn càng lúc càng khấm khá, chẳng biết vì sao gần đây lại dính vào kha khá rắc rối, chuyện làm ăn liên kết ở kinh thành cũng bắt đầu lụn bại, con cái nhà họ cũng bắt đầu chuyển về đây tìm lại kế sinh nhai.
"Nghe Khương huynh nói, vốn dĩ Giang bá phụ định giao bán cho quý tử họ Đới. Nào ngờ, nội bộ Giang gia lại rối ren. Chưởng quản cùng tiểu tử út trong nhà ấy đã ngấm ngầm tính kế, đẩy nhanh việc sang nhượng cho cô nương, chỉ bởi cô ra giá hậu hĩ hơn hẳn họ Đới kia!" Thẩm Đạo Chân cất lời. "Đệ đệ của Khương tẩu vốn đảm nhận việc này, đã từ lâu muốn mau chóng thoát khỏi mối lụy của mảnh đất ấy. Phần vì sợ dây dưa dài lâu ảnh hưởng đến tiền đồ, phần vì có lẽ hắn đã nhận thấy căn cơ u ám của nơi ấy, chẳng dám lưu giữ thêm."
"Người quyên sinh trên mảnh đất của Giang gia kia, không ai khác là con gái ruột của Đới Tham nghị, tên gọi là Đới Tiềm Tiềm [戴潛潛]. Năm đó, nàng ta chỉ mới mười sáu tuổi!" Phó Thừa Văn cũng nói tiếp. "Đới Đình Tá [戴廷佐] là đệ đệ của Đới thị, sau biến cố ấy từng có ý định mua lại mảnh đất này để truy tìm chân tướng cái chết của tỷ tỷ."
"Hắn vốn là nghĩa tử của Đô chỉ huy đồng tri Thiêm sự (都 指揮使 同知僉事), từng giữ chức Thái bộc tự Thiếu khanh (太 僕 寺 少 卿), đường quan lộ rạng ngời, thế mà chẳng hiểu vì sao lại chấp nhận trở về nơi này, cam chịu thân phận một Tuần sát sứ Tư nông tư (巡 察 使司 農 司), chức vụ nhỏ nhoi, chẳng mấy ai để mắt."
"Gần đây hắn hay tuần sát ở ngọn núi Phong Dật, làm ầm ĩ như vậy chắc cô cũng biết đấy!" Hoàng Phủ Tịnh Hậu nói thêm. "Nghe đồn, hắn có vẻ rất thân thiết với Thất công tử, vốn bởi năm xưa ngoại thúc phụ của Thất công tử từng cứu mạng mẫu thân hắn. Vì lẽ đó, hắn từ lâu đã tôn Thất công tử làm đại ca. Sau biến cố tỷ tỷ quyên sinh, hắn dọn cả gia đình về kinh thành, rời xa nơi thương tâm ấy."
"Ngô huynh, huynh có biết rõ không?" Cẩm Nhị lang hỏi.
Ngô Thập Nhị khẽ lắc đầu, điềm nhiên đáp: "Ta không giao thiệp, bình thường cũng chẳng bao giờ gặp gỡ. Nay ngồi đây nghe chư vị bàn luận mới để tâm đến hắn mà thôi."
Câu chuyện dần xoay quanh những rắc rối khác: Vụ tranh chấp đất giữa hai tỷ muội Giang gia, cùng với kiện tụng giữa Quách Nhân, chưởng quản Giang gia và đứa trẻ con bị họ bất cẩn làm bị thương. Bây giờ không còn đơn thuần là một vụ tranh chấp nhỏ lẻ, hay kháng cáo, mà lại liên quan đến một số chuyện khác đang điều tra bí mật. Còn nhắc ta hãy cẩn thận trong những ngày sắp tới, đặc biệt đừng để Đới Đình Tá đến làm phiền mình. Người này hành tung khó đoán, lại thân thiết với Thất công tử.
Những chuyện này đều đáng lưu tâm.
Mọi người đành chuyển chủ đề, vì nói đã đi xa quá giới hạn hiểu biết và bổn phận của mình. Dùng xong chén chè bưởi, cũng đến lúc kết thúc câu chuyện, bèn cùng nhau đến địa điểm khác.
------
Quãng đường xe ngựa lăn bánh tuy không xa nhưng lại khiến cơ thể ta mệt mỏi khó bề chịu đựng. Khi mọi người xuống xe dừng chân tại hàng trà giữa rừng trúc để nghỉ ngơi, ta chọn ở lại trong xe, tựa lưng dưỡng thần. Ngoài kia rừng trúc bạt ngàn, ánh nắng mùa hè len lỏi qua từng tán lá, gió hiu hiu xuyên táo lòng người. Tiếng trò chuyện văng vẳng từ phía xa vọng lại, hòa trong không gian thanh vắng.
Hồng Hạnh thấy ta khép mắt liền lặng lẽ nhấc mành bước ra ngoài, trong gian xe chật hẹp nay chỉ còn lại mình ta.
Tựa như lời nhắc nhở âm thầm, ta chợt nhớ đến cơ thể yếu nhược của bản thân, vốn từ lâu chỉ quẩn quanh trong phòng, nay lại tự tin thái quá mà quên mất thực trạng. Trước đây, ta là một người hằng ngày đấu tranh với hơi thở yếu ớt, sống trong bốn bức tường, hiếm khi thấy ánh mặt trời.
Dù đúng là có hay mất ngủ, nhưng các loại phương dược của Thất công tử đã phát huy đúng công dụng của nó, rất hiệu quả. Kết hợp với các loại vận động nhẹ như đi dạo, thể trạng ta đã cải thiện đáng kể, bước chân bớt nặng nề, cơn đau lưng cũng thưa dần, cũng không đến nỗi thở dốc, tức ngực và choáng nhiều. So với năm trước, năm nay ta cảm thấy bản thân mình tích cực hơn một chút. So với năm trước, năm nay ta đã khỏe khoắn hơn, dù trong lòng vẫn còn chút phân vân, nhưng ít ra ta có thể cảm thấy nhẹ nhõm hơn.
Trong những ngày đồng hành ngắn ngủi, tính cách khác biệt của Thất công tử đã để lại trong ta nhiều suy tư mới mẻ về thế sự. Lần đầu tiên, ta nhận ra niềm vui chân thật, những nụ cười không còn là sự miễn cưỡng để che giấu nỗi sợ và niềm đau. Rằng bản thân cũng có thể chân thực đến vậy. Nhưng giữa những cảm xúc ấy, ta đã quên bẫng đi một thứ gì đó đằng sau những giấc mơ ngắn hạn không còn tuần hoàn. Dù đã cố hồi tưởng.
Bỗng nhiên ta lại suy tưởng đâu đâu. Từ những vấn đề nhỏ nhặt trong ngày, cho đến những vấn đề quan trọng, hết chuyện này đến chuyện khác mà không có bất kì chủ đích nào.
Ngón tay vô thức chạm vào miếng ngọc bội bên thắt lưng. Lạnh lẽo. Đó là cảm giác phản ứng đầu tiên của ta. Hơi lạnh từ viên ngọc thấm qua đầu ngón tay khiến ta bất giác rụt lại.
Đây là một miếng ngọc bị khuyết nửa vầng đen, lại còn có khả năng phản quang trong bóng tối. Trong viên ngọc đục mờ dường như có chứa một bông hoa. Là sen tịnh đế hai nhành. Nếu không chú ý kĩ, sẽ không thể phát hiện được sự sống mỏng manh của bông hoa kia, giống như nó đang hấp thụ linh khí và được bao bọc bởi những sợi sinh khí tựa như mạch máu đang chảy ngược xuôi.
Là ta suy nghĩ quá nhiều đâm ra ảo tưởng, hoặc chỉ là phút chốc thoáng qua, vì đối với mọi người, nó chỉ là một món trang sức tinh xảo, nào thần bí như thế. Hay chỉ có một mình ta cảm nhận được sự thân thuộc của nó đối với chính mình?
Hơi lạnh thấm qua da thịt, lan đến tận xương tủy, làm ta rét run, máu trong người bắt đầu sôi sục. Rồi đột ngột, một âm thanh xa xăm vọng lại từ nơi sâu thẳm trong tâm thức. Một tiếng gọi đã lâu chưa từng nghe thấy: "Thương Vô Nhiêm! Ngươi là một kẻ vô dụng, không hề xứng đáng để tồn tại!"
"Ngươi là ai?" Ta đáp lại lời nói kia từ trong tâm thức mình.
"Ta chính là lương tâm của ngươi!" Tiếng nói kia khẳng định như vậy, trầm hùng mà hời hợt. "Là ta vẫn luôn nhắc nhở ngươi phải nghe lời, ngươi phải luôn nhớ bổn phận!"
"Không phải!" Ta kiên quyết phủ nhận.
"Sai! Đừng cứng đầu nữa, ngươi sẽ sớm hối hận thôi!" Trong đầu lại vang lên một tràng cười. Tiếng cười hả hê vang dội, tựa như kẻ kia luôn luôn đùa cợt.
"Không!"
"Ngươi đang chột dạ, bị lương tâm cắn rứt và dằn vặt đấy thôi!" Tiếng nói kia lại vang lên. "Ngươi tự lừa mình dối người mà làm gì? Những chuyện ngươi đã làm... Thì chỉ có ngươi và lương tâm của mình biết!"
"Là ai phải bứt rứt để hành xử vội vàng? Là ai sẽ chột dạ mà khiếp đảm nào? Có vẻ như chúng ta đã không nể nang ai kia rồi!" Giọng nói kia đang lặp lại những suy nghĩ của mình. "Nhưng ngươi vô dụng quá, lại không dứt khoát. Ngươi quá bao đồng, quá lôi thôi và lương thiện. Đến giờ phút này, ngươi vẫn chưa đủ nhẫn tâm để giải quyết triệt để. Sự bao dung của ngươi chẳng qua chỉ là yếu đuối, và yếu đuối chỉ dẫn đến bại vong!"
"Ngươi thông minh như thế làm sao không phán đoán được... Kết thúc càng sớm, đó mới chính là sự giải thoát tốt nhất!" Lời nói ấy lại vang thêm một lần nữa rồi hoàn toàn biến mất.
Ta ngập ngừng muốn đáp trả, nhưng bên tai hoàn toàn im bật, cho đến khi tiếng gọi của Hồng Hạnh kề cạnh, ta mới chậm rãi nâng mi mắt lên.
"Tiểu thư uống chút nước đi!" Hồng Hạnh đưa cho ta một chén trà trong vắt với hương thơm dịu nhẹ, được chắt lọc từ nước suối tinh túy ở thượng nguồn. Chỉ một hớp nhẹ đã cảm thấy cổ họng khoan khoái, không còn cảm rát cháy bỏng, đau rát.
Ta lại nghe thấy thanh âm của Ngô Thập Nhị vọng lên từ bên ngoài xe. Y nói rằng hành trình kế tiếp sắp khởi hành. Chẳng mấy chốc, đoàn người đã di chuyển tới một trang viên trồng hoa rộng lớn, nơi tràn ngập hương sắc. Trong vườn có đầy đủ các loại thược dược từ cánh đơn đến cánh kép, và cả những nụ hoa e ấp, tổng cộng hơn 42 giống khác nhau. Vùng đất này được gọi là Thượng Hải Đình Xuyên [上海婷巛], nổi danh xa gần. Những cây hoa trong vườn đều được chăm sóc kỹ lưỡng, không chỉ để làm đẹp mà còn phục vụ triều đình làm lễ vật cống phẩm, được phân loại nghiêm ngặt thành ba hạng: Thượng, Trung, Hạ.
Thược dược nơi đây còn được gọi một cách trang nhã là "Bạch thược" (白芍), từ lâu đã chiếm giữ vị trí tôn quý thứ hai, chỉ đứng sau mẫu đơn. Nếu mẫu đơn được tôn là "Hoa vương" (花王), thì thược dược cũng được kính xưng là "Hoa tướng" (花相).
Thuở ban đầu, người ta thường lầm tưởng hai loài hoa này là một, sau này mới định rõ: thược dược thuộc thân thảo, trong khi mẫu đơn là loài thân gỗ. Ngoài sự khác biệt về dáng hình, thược dược và mẫu đơn còn được phân định qua công dụng của chúng. Thược dược được biết đến với dược tính bổ huyết, thường dùng để bồi bổ cơ thể, giúp hồi phục sức khỏe. Ngược lại, mẫu đơn nổi bật với khả năng thanh nhiệt, lương huyết, thường được sử dụng trong các bài thuốc trị liệu khi cơ thể sinh nhiệt. Chính nhờ những đặc điểm này, hai loài hoa không chỉ nổi bật bởi vẻ đẹp mà còn mang trong mình giá trị thiết thực, được lưu truyền trong y học cổ truyền.
Nếu quan sát kỹ, sự khác biệt giữa thược dược và mẫu đơn thể hiện rõ ràng nhất ở thân cây, lá và hoa.
Mẫu đơn thuộc thân gỗ, vươn cao thành lùm, mang vẻ uy nghi, đường bệ. Thược dược lại thuộc thân thảo, mọc thành bụi thấp, mềm mại và khiêm nhường. Hoa mẫu đơn thường có kích thước lớn, trong khi hoa thược dược nhỏ hơn. Mẫu đơn nở rộ vào cuối tháng Tư, khoe sắc trước, để lại khoảng không gian thơ mộng cho thược dược nối tiếp từ đầu tháng Năm. Sự khác biệt này, dẫu nhỏ, nhưng đã tạo nên một cuộc đua sắc lặng lẽ giữa hai loài hoa.
Lá của chúng cũng mang những nét riêng biệt. Lá mẫu đơn rộng, phần đỉnh thường chẻ ba, có sắc xanh ánh vàng nhạt, toát lên vẻ thanh cao và đài các. Trong khi đó, lá thược dược hẹp, dài nhọn, sắc xanh lục đậm, mang đến cảm giác giản dị nhưng không kém phần thanh lịch. Những ai am hiểu hoa cỏ chỉ cần nhìn qua tán lá cũng đủ nhận ra đâu là mẫu đơn, đâu là thược dược, không cần phải chờ đến lúc hoa nở.
Trong khu vườn này, mẫu đơn không hổ danh "Hoa vương" khi chiếm lĩnh vị trí trung tâm với bốn loại hoa nổi danh, được gọi là "Tứ đại danh phẩm" (四大名品). Ngụy Tử (魏紫) với sắc tím đậm đà, biểu trưng cho sự đằm thắm và sâu lắng. Âu Bích (欧碧) mang màu xanh ngọc thuần khiết, tựa như một nét bút thanh tao giữa bức họa thiên nhiên. Triệu Phấn (赵粉) với sắc hồng phấn ngọt ngào, gợi lên nét xuân thì e ấp. Đặc biệt, Diêu Hoàng (姚黄) rực rỡ với sắc vàng vương giả, được ví như bậc đế vương của muôn loài hoa. Đứng bên cạnh sự đường bệ của Diêu Hoàng, sắc tím của Ngụy Tử lại được người đời tôn vinh là "Hoa hậu" (花后).
Thược dược tuy không rực rỡ như mẫu đơn, nhưng cũng có một giống hoa nổi bật gọi là Hoàng Kim Luân (黄金轮), với sắc vàng bắt mắt, dáng vẻ tương tự Diêu Hoàng.
Thược dược và mẫu đơn, tuy cùng đứng trên đỉnh cao của giới hoa, lại mang trong mình những phẩm chất và ý nghĩa riêng biệt.
Chủ viên đích thân dẫn dắt đoàn người dạo qua khắp một vòng đại viên, cẩn trọng giới thiệu sơ lược các nét đặc sắc, rồi sau đó mới tùy nghi để mọi người thong thả thưởng ngoạn. Trong khuôn viên tráng lệ ấy, mặc dù đã vào mùa hoa nở rộ, không gian vẫn giữ được vẻ tĩnh mịch, chỉ lác đác vài vị danh viện, phu nhân đài các hoặc các đôi tình nhân, thư sinh cùng giai nhân dạo bước ngắm hoa, nhàn nhã bên trà thơm. So sánh mà nói, đoàn người chúng ta vẫn nổi bật và trịnh trọng hơn cả, khiến người khác dễ dàng chú mục.
Chủ viên nói thêm rằng, vài ngày nữa sẽ đến đại lễ hoa mẫu đơn, nhân dịp mừng sinh thần của Thọ Nghi công chúa. Lễ hội năm nay sẽ được tổ chức cực kỳ long trọng, không chỉ để tôn vinh loài hoa cao quý, mà còn nhằm tưởng nhớ công chúa, vị chủ nhân từng sinh sống nơi đây.
Nghe nói, chính phò mã đã tự tay quy hoạch khu vườn này, coi như món lễ vật biểu lộ tấm lòng sâu nặng dâng tặng công chúa. Trong lời giới thiệu, chủ viên còn nhắc tới một loài hoa đặc biệt, sắc đỏ tươi rực rỡ, tượng trưng cho tình yêu son sắt và sự phú quý, thịnh vượng. Loài hoa ấy không chỉ gợi lên vẻ đẹp mỹ miều của công chúa như lời chúc tụng vĩnh hằng, mà còn là biểu trưng của sự thủy chung. Nhìn sắc đỏ rực trên từng cánh hoa phối cùng nhụy vàng óng ánh, quả nhiên không có loài hoa nào có thể bì kịp.
Ngô Thập Nhị bấy giờ đứng bên cạnh, hỏi: "Thương tiểu thư, cô thích không?"
Ta chuyển ánh mắt sang chỗ khác, lắc đầu và đáp lời: "Màu sắc thực rực rỡ, nhưng không hợp với ta."
Ngô Thập Nhị thoáng trầm ngâm, lại hỏi: "Vậy, cô nương thích loại hoa nào?"
"Cũng không có sở thích nào!" Ta trả lời ngắn gọn. "Thực ra, ta cũng không mấy hứng thú với hoa."
"Thế còn ngài?" Ta hỏi.
"Ta bình thường cũng không hay ngắm hoa, nhưng có lẽ là sử quân tử." Ngô Thập Nhị suy nghĩ rồi nói.
"Nó rất dễ trồng nhỉ?"
"Ừm, hương hoa rất ngọt ngào, mùi càng say hơn về đêm. Nhưng có lẽ chẳng bằng hoa quỳnh!" Ngô Thập Nhị nhìn ta rồi nói. "Khi nào trở về kinh thành, ta sẽ tìm một chậu hoa quỳnh để tặng cho cô nương làm quà gặp mặt nhé!"
"Đúng vậy. Hoa nhỏ bé, hương thơm dịu nhẹ, đặc biệt nồng nàn khi đêm xuống. Nhưng nếu xét kỹ, có lẽ vẫn chẳng sánh được hoa quỳnh. Khi trở về kinh thành, ta sẽ chọn một chậu hoa quỳnh tặng cho cô nương, coi như lễ gặp mặt."
Ta mỉm cười, định từ chối, song lại nghĩ từ chối quá mức e rằng không tiện, bèn đồng ý: "Được, lúc ấy ta cũng sẽ chuẩn bị một món quà khác để đáp lễ."
"Cô nương chớ khách khí!"
Ta nhìn y, chợt cất giọng dò hỏi: "Ngô quan nhân, ngài không cảm thấy ta kỳ quặc sao?"
"Sao cô nương lại hỏi vậy?" Ngô Thập Nhị hiền lành nhìn ta. Sau đó đưa tay lên cằm ngẫm một chút: "Tại hạ có thể nói thật chăng?"
"Dĩ nhiên, ngài cứ thẳng thắn!"
Ngô Thập Nhị cười nhẹ, chắp tay nói: "Ta thấy cô nương có phần tự ti, còn mang chút nhút nhát. Tô thúc từng nói, cô từ nhỏ bệnh tật quấn thân, sức khỏe yếu, ít khi giao thiệp với người ngoài. Chuyện ấy cũng chẳng có gì lạ. Ta tin rằng khi thân thể cô nương dần khỏe mạnh, cô sẽ có cơ hội đi nhiều nơi, gặp gỡ thêm bạn bè. Lúc ấy, cô nương nhất định không còn cảm giác lạc lõng, sẽ hòa nhập dễ dàng hơn."
"Chỉ mới gặp hai lần, nói chuyện không quá mươi câu, nhưng ta cảm thấy..." Ngô Thập Nhị bắt đầu ấp úng, trên đôi má dần phớt hồng đến đỏ ửng tận mang tai. "Ta cảm thấy cô nương khá đáng yêu!"
"Đáng yêu?" Ta ngạc nhiên, thầm nghĩ từ này hẳn chẳng hợp với mình.
Ta lặng người, cũng không biết nói gì hơn. Ngô Thập Nhị thấy ta không phản ứng thì dường như càng lúng túng hơn, y hắng giọng một tiếng rồi nói tiếp: "À, chỉ là... Cô nương làm ta nhớ đến muội muội của mình."
"Muội muội của ngài?"
Y gật đầu nhẹ: "Đúng! Ta cảm thấy cô rất kiên cường, còn có... Đôi khi ta nhìn thấy dáng vẻ thờ thẫn của cô... Rất giống như một đứa trẻ có vạn câu hỏi với thế gian này, nhưng lại hoang mang không biết cách nào để tìm câu trả lời xác đáng!"
Ta nghiêng đầu, hỏi tiếp: "Muội muội của ngài... bao nhiêu tuổi rồi?"
Ngô Thập Nhị đưa ba ngón tay lên, nhoẻn miệng cười: "Ba tuổi, tên gọi Thập Cửu, con gái Ngũ thúc của tại hạ."
Ta không nhịn được bật cười, lắc đầu: "Hóa ra, trong mắt ngài, ta chẳng khác gì một đứa trẻ tập tễnh bước đi."
Khi trò chuyện đến đây, y chợt nói thêm: "Buổi sáng nếu có điều gì mạo phạm, mong cô nương rộng lòng thứ lỗi. Thực tình, mọi người chỉ vô tư, chẳng có ác ý gì. Bọn họ thấy cô nương dễ gần nên mới không khách sáo, thật lòng mong kết giao cùng cô nương."
Ta gật đầu, khoác tay thoải mái nói: "Ngài yên tâm, ta hiểu. Gặp gỡ các vị cũng là niềm vui lớn của ta."
Ngô Thập Nhị lúc ấy mới thở phào nhẹ nhõm, gương mặt lộ vẻ nhẹ nhõm, chân thành mà nói: "Nghe cô nương nói vậy, tại hạ thực sự an lòng."
Ta lại gật đầu. Những lời y nói ta đã sớm biết. La Trang Nương cùng Đoàn Như Khuê cũng từng nói sơ lược với ta về tính cách của những người trong nhóm bọn họ. Bình thường trông đạo mạo, nghiêm trang là thế, nhưng kỳ thực đều là những người trẻ tuổi tràn đầy nhiệt huyết. Khi ở cạnh nhau, họ mới dám bộc lộ bản thân một cách tự nhiên nhất. Vì tình bạn, họ không hề ngần ngại đùa cợt, trêu ghẹo lẫn nhau khi có dịp.
Trong đó, bảy vị nam nhân kia còn tự xưng là "Thất Tiếu Ngạo Kiều" [七笑敖翘], nghe qua thì kỳ quái, nhưng La Trang Nương nói rằng, khi họ xem ai là bạn, chính là thật lòng đối đãi, không hề khách sáo, cũng chẳng cố ý giữ khoảng cách. Nếu có điều gì không hợp ý, ta cũng có thể thẳng thắn bày tỏ, không cần giấu giếm mà sinh ra cách ngăn.
Sau đó lại một lần nữa đề cập đến chuyện phân phát từ thiện. Ngô Thập Nhị đọc một câu: "Nguyệt doanh tắc khuy, nhật trung tắc di; kỳ khuynh phục trực, phong khởi tự bình." (月盈則虧,日中則移;旗傾復直,風起自平)
Dịch nghĩa: Trăng tròn rồi khuyết, mặt trời lên rồi lặn; cờ nghiêng lại thẳng, gió nổi tự bình.
"Ngài biết đáp án?" Ta hỏi Ngô Thập Nhị.
"Viện trưởng đã thuật lại những câu hỏi của cô nương, các học trò trong viện cũng nhiệt liệt hưởng ứng, cho nên tại hạ mới thấu tỏ được. Câu thơ trên là những lời đáp mà các học trò đã cùng nhau luận giải, ta dự định sẽ dùng nó làm biểu ngữ trong buổi lễ trao học bổng sắp tới."
------
Hán ngữ:
萬物回初
鏡明正直人心照,旗立風清道義揚。
流言如水,未沉舟,卻可疾行破浪揚帆;
落日沉霞千秋景,月圓月缺未變常。
浮光掠影,世事遷,初心不改返初妝。
Phiên âm:
Vạn Vật Hồi Sơ
Kính minh chính trực nhân tâm chiếu, kỳ lập phong thanh đạo nghĩa dương.
Lưu ngôn như thủy, vị trầm chu, khước khả tật hành phá lãng dương phàm;
Lạc nhật trầm hà thiên thu cảnh, nguyệt viên nguyệt khuyết vị biến thường.
Phù quang lược ảnh, thế sự thiên, sơ tâm bất cải phản sơ trang.
Dịch nghĩa:
Muôn vật trở về điểm đầu.
Gương sáng soi lòng người ngay thẳng, cờ cao giương chính khí trong lành.
Lời đồn tựa dòng nước trôi, chưa nhấn chìm thuyền, nhưng lại giúp thuyền nhanh vượt sóng căng buồm;
Mặt trời lặn vẽ nên nghìn năm cảnh đẹp, trăng tròn rồi lại khuyết, không đổi quy luật muôn thuở.
Ánh sáng chập chờn, sự đời đổi thay, lòng nguyên sơ chẳng đổi, trở về điểm ban đầu.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro