Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 23: Hồ quang nguyệt chiếu, ám ảnh tự lai (壶光月照,暗影自来)

[♪] Hồ quang nguyệt chiếu, ám ảnh tự lai (壶光月照,暗影自来):

· 壶光 (Hồ quang):

"Hồ" có thể hiểu là cái bình, ấm trà, hoặc một vật dụng nhỏ chứa đựng điều gì đó. "Quang" là ánh sáng, thường liên tưởng đến sự tinh khiết hoặc chiếu rọi. Cụm từ này gợi hình ảnh ánh sáng phát ra từ một nguồn nhỏ bé, giản dị nhưng ý nghĩa.

· 月照 (Nguyệt chiếu):

Ánh trăng chiếu sáng mang ý nghĩa thanh thoát, lạnh lẽo và thường gắn liền với sự cô tịch, bí ẩn hoặc những cảm xúc sâu kín. Trăng chiếu sáng "hồ" có thể là sự soi rọi từ một nguồn lớn (trăng) xuống một vật nhỏ (hồ), tạo ra sự tương phản giữa hai thực thể.

· 暗影自来 (Ám ảnh tự lai):

"Ám ảnh" là bóng tối, những điều bí mật, hoặc sự u ám không thể tránh khỏi. "Tự lai" mang ý nghĩa tự nhiên xuất hiện, không mời mà đến. Cụm từ này ngụ ý rằng bóng tối hoặc sự bí ẩn luôn đồng hành, như một phần không thể thiếu của ánh sáng.

------

Câu chuyện của ngày hôm qua đã là quá khứ, nhưng nếu không có quá khứ thì chẳng nảy sinh hiện tại. Bởi lẽ, lan nhân nhứ quả (蘭因絮果). Nếu như đã là chấp nhận lựa chọn thực hiện chấp niệm trong một sát na, dẫu có kết thúc lầm lỡ, thì vẫn nguyện sa vào bất chấp đúng sai.

------

Sự kiện bê bối Thái Đông Lăng và nhà họ Thái đã gây nên chấn động lớn, rằng rằng bộ mặt thường ngày của bọn họ là một gia tộc quyền quý nghiêm chỉnh, nhưng sau khi bị phanh phui đến bung bét, bọn họ cũng chẳng còn thể một tay che trời bưng bít, ém nhẹm hết mọi chuyện. Đành rằng ta là bị can, lại trong phút chốc chuyển thành bị hại, như một ván cờ thay đổi cục diện suy đồi chỉ qua một nước đi.

Cùng với bồi thường thiệt hại từ Thái gia và những kẻ liên đới khác dành cho ta sau những hình thức trừng phạt, thế lại biến thành phần thưởng không ngờ cho những người khác. Kèm theo số lễ vật mà Thái Minh Châu đã chuẩn bị cho Thất công tử, ta quyết định quyên góp toàn bộ cho một quỹ từ thiện sắp mở, với tư cách là người ẩn danh. Tô thúc đã giúp ta ra mặt và liên hệ với các hương chức cùng quan lại trong địa phương để tổ chức việc này. Cùng với Ngô Thập Nhị, chúng ta sẽ quyết định phân phát trong ba ngày tới trên diện rộng.

Nhưng đã sống và bị đối xử như một trò đùa cợt quá lâu, ta có chút không thể thích ứng được khi trút bỏ hết những sự ngây ngô vô hại của mình.

Có phải chăng luôn có những thắc mắc trong sự hiếu kỳ, từ lúc nào ta đã tiến hành thu thập bằng chứng? Là từ lúc nào ta khởi kiện tố cáo bằng những tờ khải cung kết? Là thời gian nào trong những lúc rỗi rãi, vẫn luôn có người quây quanh? Dù chỉ bằng những giúp đỡ vô hình chung đã khiến cho ta trở nên sáng suốt? Tựa lúc nào ta nhận biết rõ sự thật, và nguyên nhân vì sao ta không phản kháng để làm sáng tỏ mọi việc sớm hơn? Vì sao ta biết ai là hung thủ, là kẻ chủ mưu?

Đặc biệt nhất, là vì sao mọi chuyện lại trùng hợp đến bất ngờ, để rồi mọi sự kiện có thể liên kết và thuận lợi như thế?

Ta nào thông minh tài giỏi như vậy...

Thậm chí ta cũng chẳng dũng cảm và kiên cường...

Điều duy nhất mà ta sử dụng để đánh cược chính là sự ích kỉ.

Một màu sắc u tối trong linh hồn này đã khích lệ ta, không ngừng thôi túc ta...

Cái chết.

Nào đem lại sự đau đớn.

Là cái chết, chính nó sẽ giải thoát ta.

Dù vậy thì sao? Ta nhất định sẽ không thỏa mãn điều nó muốn.

Vì...

Ta chưa bao giờ cam tâm, không thể trơ mắt gạt bỏ và ruồng rẫy chính mình.

Ai cũng được, ngoại lệ là ta.

Câu chuyện bắt nguồn từ Khương lang (腔郎 - người đàn ông trong lòng), và cũng kết thúc từ Khương lang (蜣蜋 – bọ hung).

Có những kẻ trong trạng thái vô thức, tự nguyện chỉ ra những khuyết điểm của chính mình, tạo ra những tình huống đáng ngờ mà họ không hề hay biết. Những điều kỳ lạ ấy không chỉ đơn thuần xuất hiện mà còn lặp đi lặp lại trong cuộc sống hàng ngày, giống như những mảnh ghép kỳ quái trong một bức tranh phức tạp, cho đến khi ta bắt đầu có chủ đích chú ý đến.

------

Ban đầu, tại tiệm thuốc, ta tình cờ bắt gặp nha hoàn của Thái Đông Lăng đang mua một ít phương dược Hương Diệu Tâm. Từ đó, ta lần ra rằng nàng nha hoàn này đã bí mật giao dịch với một kẻ tự xưng là "bán tiên". Qua nhiều lần dõi theo, ta phát hiện gã bán tiên ấy thường xuyên ra vào phủ Thái gia qua cửa sau, mang dáng vẻ khác thường, hệt như bị ám lời nguyền quỷ dị của Kiều Bích Phù, khiến người ngoài chỉ cần thoáng qua cũng mơ hồ sinh nghi.

Tin đồn về hồ yêu xuất hiện khắp nơi, cũng chính từ miệng gã bán tiên ấy mà ra. Người người xôn xao, lời đồn lan truyền nhanh chóng như lửa bén cỏ, khuấy đảo lòng người. Trong lúc Hồng Xuân chuyện trò cùng Phùng Sương Nguyệt, khi nàng ta mang lễ vật biếu đến, Phùng Sương Nguyệt khẽ dặn dò phải cẩn trọng hơn trong giao tiếp và hành xử, tránh để vướng vào vòng nghi ngờ. Bởi lẽ, chính ta đã nằm trong tầm ngắm của các hương chức, và bọn họ đang cân nhắc đến chuyện bắt giữ ta để điều tra, hoặc là sẽ tìm cách tống cứ ta khỏi chốn này để khỏi chịu vạ lây.

Chuyện thứ hai, chính là có một lần nọ, cách đây chưa đến một tuần trăng, A Phúc tận mắt thấy Quách Nhân tìm đến Nhị Cẩu ngay sau khi hắn thua lớn ở sòng bạc, tay trắng và lòng đầy thất vọng.

Quách Nhân rù rì bằng lời đường mật, rủ rê Nhị Cẩu đến tửu điếm giải sầu. Gã tươi cười, vẻ mặt đầy thiện chí, nhưng từng lời, từng cử chỉ đều mang theo toan tính hiểm độc, khéo léo dẫn dắt Nhị Cẩu vào con đường sa đọa. Khiến Nhị Cẩu ngỡ rằng gặp được tri kỷ, mà không hề hay biết rằng mình đang rơi vào tròng, từng chút, từng chút một...

Quách Nhân chẳng phải ai xa lạ, chính hắn là kẻ đã cho Nhị Cẩu vay tiền khi túng thiếu, cũng chính hắn là người sắp đặt, khiến Nhị Cẩu thua cháy túi. Quách Nhân còn len lén ghé tai Nhị Cẩu, gieo vào tai hắn lời thì thầm độc địa, rằng có thể đến nhà ta đòi bạc, vì ta mới là kẻ gây ra khổ nạn của hắn và thê tử hắn.

Độc kế ấy càng lúc càng sâu, Quách Nhân xúi giục Nhị Cẩu tham gia vào những trò mạo hiểm, thậm chí còn mua chuộc người trong sòng bạc, khiến Nhị Cẩu không thể nào thắng nổi, nợ nần chất chồng không lối thoát. Dần dần, Nhị Cẩu trở thành con rối trong tay Quách Nhân, không biết rằng hắn đang trở thành mồi nhử cho một kế hoạch lớn hơn. Để trả nợ, hắn bán tháo gia sản, dốc đến đồng cuối cùng, thậm chí còn định bán cả con gái mình, chỉ mong cứu lấy chút hơi tàn, cũng như chỉ để thỏa mãn cơn khát tiền bạc của những kẻ cho vay nặng lãi mà Quách Nhân đã âm thầm sắp đặt. Những kẻ đến đòi nợ đã trở thành những bóng ma ám ảnh, hăm he uy hiếp thê tử Nhị Cẩu, dẫn đến cái chết thảm thương của bà ta.

Mọi chuyện dường như đã đi quá xa, nhưng Nhị Cẩu vẫn mơ màng trong cơn say, không hề hay biết về những âm mưu tàn độc xung quanh.

Ta vốn không biết Nhị Cẩu là ai, chỉ cảm thấy sự phiền phức mà hắn gây ra cho cuộc sống yên bình của mình. Tuy nhiên, tất cả mọi thứ đã thay đổi khi ta chứng kiến hắn tròng thòng lọng vào cổ hai đứa trẻ kia, ý định muốn thắt cổ chúng, cảnh tượng đó khiến ta tỉnh táo và nhận thức rõ hơn về con người của Nhị Cẩu mới có thể làm cho ta tỉnh táo mà thấu suốt hơn một chút.

Để tương kế tựu kế, ta quyết định chấp nhận điều kiện trả hết nợ cho Nhị Cẩu. Thậm chí, ta còn rộng tay trao cho hắn một số bạc kha khá để "làm lại cuộc đời". Đổi lại, hắn phải thực hiện cho ta một nhiệm vụ duy nhất.

Ta mang cho hắn một ít trang sức của mình, và bảo hắn đem đến hiệu cầm đồ để cầm cố, trên danh nghĩa là vật dụng được chế tác từ Sung Dụ đường thì giá trị cũng không ít.

Để củng cố thỏa thuận, ta ép hắn ký vào một bản khế ước thương lượng, rõ ràng từng điều kiện giao dịch và ngày tháng. Với ánh mắt thèm thuồng bạc vàng, hắn chẳng chút nghi ngờ, cam tâm ký vào bản giao ước, như một kẻ trót nhìn thấy phao cứu nạn giữa cơn bão cuộc đời, hắn không hề nghi ngờ gì về những điều mà ta đã bày ra.

Nhưng điều ta muốn không đơn thuần là giúp hắn thoát cảnh nợ nần. Thỏa thuận ngầm đã đặt ra: Nhị Cẩu phải nói tốt về ta, lan truyền rằng chính ta là người đã cứu hắn khỏi khốn cùng, xây dựng hình tượng một ân nhân cao cả. Ta muốn hắn trở thành tiếng nói ủng hộ, một lời minh oan giữa dòng đời nghi kỵ. Bởi, chỉ cần thế, hắn sẽ giúp ta rũ sạch những tai tiếng vẩn đục, để hình ảnh của ta trở nên thanh sạch trong mắt thế nhân.

Ta sẽ tựa như một trang bạch ngọc vô tì, mỗi lời tán dương của Nhị Cẩu chẳng khác nào vẽ thêm ánh sáng cho bản thân.

Buồn cười quá...

Tại sao ta lại có thể ái kỷ viễn vông đến mức siêu phàm như thế!?

Hắn sẽ không bao giờ tưởng tượng được rằng những câu chuyện đồn đại mà hắn thổi phồng và phát tán về ta sẽ quay ngược lại như một lưỡi dao sắc bén.

Ta đã chờ đợi khoảnh khắc Nhị Cẩu trở nên tự mãn với những gì hắn có, và nghĩ rằng hắn đã hoàn toàn thoát khỏi sự kiểm soát của ta. Là một khi ảo tưởng về sự tự do và quyền lực bủa vây, hắn càng trở nên liều lĩnh, đến mức dám cấu kết với Quách Nhân, ấp ủ mưu đồ sâu hiểm hơn, dấn thân vào những phi vụ táo tợn, chẳng hề ngại ngần việc hãm hại kẻ khác để mưu cầu lợi lộc.

Chó khôn không nhận hai chủ, tôi trung không phục hai thầy.

Cuối cùng, hắn mới bàng hoàng nhận ra mình chỉ là quân cờ trong ván cờ mà hắn ngỡ đã nắm chắc phần thắng. Vận mệnh đã sắp đặt từ lâu, và hắn chỉ là kẻ tự phụ, tự bước vào lưới bẫy mà không hề hay biết.

Kỳ thực, tên khai sinh của hắn chẳng phải là Nhị Cẩu. Hắn vốn mang tên Hòa Thiện [和善], cái tên nghe như bao hàm lòng từ ái và nhân hòa.

Nhưng chẳng ai nhớ nổi cái tên đó. Thay vào đó, mọi người gọi hắn là Nhị Cẩu, một cái tên châm biếm đến mức khiến người ta không khỏi ngao ngán. Nguyên nhân không chỉ bởi sự giả dối trong bản chất mà còn bởi những hành động lố bịch của hắn.

Hòa Thiện từ nhỏ đã lăn lộn trong các tửu điếm, chợ đen và sòng bài, không ngại ngần cắt xén và ăn chặn của những người khốn khổ hơn mình. Hắn lại kẻ tham lam và mánh khóe, chỉ cần có chút lợi lộc, hắn sẵn sàng trở mặt, bán đứng cả bạn bè. Khi bị phát hiện, hắn chẳng ngần ngại dùng mọi chiêu trò để biện minh cho hành động của mình.

Dần dà, cái tên Nhị Cẩu xuất hiện như một lời nhắc nhở cho sự phản bội và lòng dạ bỉ ổi của hắn, giống như một con chó hoang vừa thui chột vừa dơ bẩn, lại còn có phần nhếch nhác. Hắn không chỉ là kẻ hèn hạ mà còn đốn mạt đến mức những loài thú hoang cũng phải ngẩng cao đầu khinh thường trước sự nhục nhã của hắn.

------

Điểm đáng lưu ý thứ ba chính là câu chuyện rắc rối liên quan đến lâm tặc, đội kiểm lâm, điền sản của bách gia và ngôi tự miếu Thiên Mạch [阡陌]. Ngôi miếu ấy dường như luôn đầy ắp hương khói và lời cúng dường, nhưng chẳng ngờ lại trở thành nơi nương náu khéo léo cho một kẻ mạo danh bán tiên, biết cách tận dụng mọi sơ hở.

Ban đầu, hắn xuất hiện với bộ dạng đoan chính, thường xuyên xin phép được giải đáp các quẻ sâm thượng - hạ để chiếm lòng tin của dân chúng. Nhưng sau một thời gian ngắn, hắn lợi dụng điều này để thiết lập các mối quan hệ mối lái ngầm. Lấy danh nghĩa kết nối cộng đồng, hắn kín đáo điều phối việc mua bán gỗ quý cùng rượu rắn, đồng thời tạo ra kênh trao đổi với lâm tặc để ngụy trang việc vận chuyển gỗ trái phép.

Điền sản của bách gia được cúng dường lên để cho Thiên Mạch hưởng hương lợi, xung quanh đó cũng được tận dụng làm điền trang nghỉ dưỡng cũng như được dùng làm thành đất sinh phần vì phong thủy tốt. Để cải vận, đổi Bát tự xấu, nhiều người đã chọn con đường đầy bí ẩn: "Chủng sinh cơ" (种生基 - trồng sinh cơ).

Đây là một thuật pháp trong phong thủy Âm Trạch, dùng để gửi hồn phách vào những linh địa, núi sông, nhằm hấp thụ năng lượng tiên thiên, thay đổi số phận.

Thoạt nghe "Chủng sinh cơ," người ta dễ lầm tưởng rằng đó là cách xây âm trạch cho người đã khuất ở các điểm phong thủy tốt lành để phù hộ cho đời sau. Nhưng đây không chỉ là việc an táng ở vùng long mạch – "Chủng sinh cơ" là nghi thức "Tàng hồn ký phách," một phép thuật gửi hồn sống vào mạch đất trời, nối thân phận người đang sống vào long mạch để hút lấy vận may, danh lợi, sức khỏe ngay trong kiếp này.

Người dám làm "Chủng sinh cơ" thường kỳ vọng vào những thay đổi lớn: cơ hội thăng tiến, sức khỏe dồi dào, con đường học vấn sáng lạn. Song những kẻ đã can đảm tham gia vào nghi thức này đều truyền tai nhau một điều – khi đã gửi hồn vào địa mạch, cuộc đời không còn thuộc về mình trọn vẹn. "Tàng hồn ký phách" chẳng khác nào buộc thân mệnh vào đất trời, nhận phúc cũng gánh họa từ linh địa. Nghiệp quả của thuật "Chủng sinh cơ" vẫn là câu hỏi bị bỏ ngỏ, một bí mật đầy ma mị giữa cõi u minh, nơi mà những hệ lụy chưa từng được tiết lộ.

Sự thật mảnh đất 75 mẫu mà ta đã mua từ Giang [江] thị không chỉ là một khu đất hoang, mà còn là trung tâm của các luồng vận khí tích tụ. Nơi này cũng từng được xem là "mảnh đất phong thủy" có thể giúp gia chủ phát tài hoặc suy vong, do đó trở thành mục tiêu của những kẻ ám ảnh với "Chủng sinh cơ". Họ hy vọng dùng nó để đổi vận, nhưng sự thật lại phức tạp và nguy hiểm hơn nhiều. Vì nơi này đã được sử dụng như một "điểm tụ hồn", và chính ngôi miếu Thiên Mạch là nơi lưu giữ các vong linh gửi hồn qua nghi thức tà thuật.

Tất cả đều do việc chuyển nhượng đất của Giang gia đã hé lộ thêm nhiều điều bất thường. Ban đầu họ cố tình nâng giá và kèn cựa từng đồng, nhưng đột nhiên lại chấp nhận bán với giá rẻ đáng ngờ, họ đột ngột ngưng cò kè mặc cả, thái độ xoay chuyển khó lường. Điều đó đã khiến ta không khỏi tự hỏi liệu họ đang cố ý đẩy một "món nợ phong thủy" cho người khác hay không? Có thể chính gia đình họ cũng nhận thức rõ về sự nguy hiểm của mảnh đất này, nên mới vội vã bán với giá thấp hơn hẳn giá trị thực của nó?

Cho đến khoảng thời gian vào năm ngày trước, gia đinh Giang thị chủ động mang đến một tấm bản đồ phong thủy vẽ tay, mô tả vùng đất với những ký hiệu Hán tự cổ, trong đó có chữ "sinh cơ" (生基) được đánh dấu ở vài điểm.

Kể từ đó, ta bắt đầu gặp phải giấc mơ kỳ lạ khác biệt bình thường.

Ta thấy mình đứng trước ngôi miếu Thiên Mạch phủ đầy hương khói, trong không gian mờ ảo và âm u vào đúng ngày trăng rằm. Trong mơ, những tiếng thì thầm như vọng lại từ lòng đất, những lời cúng dường pha trộn cùng tiếng gõ mõ cùng với những hình người lấp ló ẩn khuất đằng sau lớp sương mờ. Và đôi lúc, rõ ràng nhất là một thân ảnh của một người, y lặng lẽ nhìn ta với đôi mắt cảnh cáo, nhưng không nói một lời rồi biến mất.

Các giấc mơ lặp đi lặp lại một cách dai dẳng, khơi dậy cảm giác bất an.

Rồi một lần, khi bước vào miếu, không gian như tĩnh lặng đến nghẹt thở, tiếng gió rít bên ngoài như hòa cùng âm thanh thì thầm của những linh hồn tụ họp, ta tiến đến gần bức tượng bên trong ngôi miếu Thiên Mạch. Lúc này, giọng nói trong giấc mơ đã rõ ràng hơn, khuyên ta không được đặt chân vào nơi "linh địa" khi chưa hiểu rõ ý nghĩa của nó.

Bất giác, ta chợt nhận ra, bản đồ phong thủy kia không đơn thuần là bản đồ – nó như một hướng dẫn, từng điểm đánh dấu trên đó chính là những nơi mà Giang gia và những người khác đã thực hiện nghi thức "Chủng sinh cơ" từ nhiều đời trước. Họ không chỉ gửi hồn vào đất mà còn buộc thân phận của mình vào đó, tạo nên một liên kết không thể gỡ bỏ. Ta biết mình đã vô tình trở thành người gánh vác cả phúc và họa của những linh hồn đã gắn mình vào vùng đất này. Những bóng người mà ta cảm thấy xung quanh chính là các hồn phách ấy, những linh hồn khao khát tự do nhưng đã bị mắc kẹt... Những người trước đây đã gửi hồn vào mảnh đất, từng người một, đều để lại dấu vết mà ta giờ phải đối mặt.

Đúng lúc này, ta nhận được một bức thư nặc danh, giấy đã ố vàng, viết bằng nét chữ hối hả, gấp gáp. Dường như kẻ viết đã bội phần lo sợ, chỉ kịp ghi lại vài lời ngắn ngủi, mà tựa như lệnh cấm, như bùa chú răn đe: "Mảnh đất ngươi sắp nắm giữ, không chỉ của riêng ngươi. Đừng vọng động bước chân vào miếu Thiên Mạch, chớ để linh hồn phải vướng vào nghiệt báo. Có những bí mật chôn sâu không dành cho người sống, cũng không dành cho kẻ yếu tâm."

Ở cuối thư, không dấu vết nào cho thấy kẻ gửi là ai, chỉ có một dấu phong ấn mờ ảo hình cây cổ thụ khô cằn, gốc rễ chằng chịt ăn sâu vào lòng đất, như cắm rễ xuống tận địa mạch, tựa hồ là một hình tượng tà khí.

Không dừng được sự tò mò, ta mời đến một vị thầy phong thủy, bàn tay ông ta run run khi cầm tấm bản đồ. Vừa lướt mắt qua những ký tự cổ, ông đã khẽ rùng mình, gương mặt biến sắc, mắt nhắm hờ như đang âm thầm khấn nguyện. Giọng ông chùng xuống, chỉ lắc đầu và nói: "Chủng sinh cơ không phải chỉ là truyền thuyết. Nó là nghi thức phong trần, liên kết hồn phách với địa mạch để giữ lại vận khí, nhưng một khi đã buộc vào đất, không còn đường hồi lại." Ông ta dừng lại, gương mặt thoáng chút tái nhợt: "Ký tự trên đó, không phải để phàm nhân đọc hiểu. Mảnh đất này, e rằng không đơn thuần là đất mà thôi... Có những điều không nên động chạm. Mảnh đất mà ngài đang sắp giữ sẽ không phải chỉ của riêng ngài!"

Tuy nhiên, lòng ta không chút sợ hãi.

Ngược lại trong sâu thẳm, ta cảm thấy phấn khích, như thể vừa phát hiện ra một trò chơi thách thức vận mệnh.

Điều này không còn đơn thuần là một giao dịch bất động sản, mà còn là một nghi thức "truyền nghiệp" tinh vi, mà Giang gia muốn thoát khỏi bằng cách chuyển giao toàn bộ sự kết nối nghiệp quả của đất đai cho người chủ mới. Nhưng ta lại muốn thử thách, muốn xem liệu mảnh đất quỷ quái này có thể thực sự thay đổi số mệnh hay không. Ta muốn xem thử, với vận khí này của mình, há rằng vẫn có thể đổi mệnh hay chăng?

Còn đối với Mít, ở lần đầu tiên gặp nó, ta không chỉ thấy một chú chó trung thành, mà còn là một chiếc cầu nối giữa thế giới hữu hình và vô hình, giữa những bí ẩn chưa được giải mã. Bản năng của động vật thường nhạy bén với những luồng năng lượng bất thường, và có lẽ Mít đã nhận ra sự tồn tại của các "vong hồn tụ hợp". Điều đáng lưu ý là chú chó Mít không phải chỉ đơn thuần phản ứng một cách vô thức. Mít sẽ không ngừng sủa, như thể phát hiện ra điều gì đó mà mắt người khó có thể thấy.

Chính vì thế mà những sự việc xảy ra hôm trước không chỉ đơn thuần là hành động ngăn cản con rắn từ trong bụi cỏ lao ra cắn người, mà còn là để chứng minh những suy nghĩ và dự cảm mà ta nắm giữ là hoàn toàn có cơ sở.

Vào lần gặp người của Giang gia, nó luôn giữ khoảng cách đầy thận trọng từ xa. Còn ánh mắt nó lại sắc lạnh và tiếng gầm gừ vang lên đầy cảnh giác khi tiếp cận gần những người như Quách Nhân và Lưu Tam. Còn đối với những người khác, nó luôn giữ một bộ dáng ngoan ngoãn và thân thiện, đôi khi cũng nhiệt tình kề cận.

Nếu không để A Phúc dò hỏi đám tiều phu quen đường rừng, chắc ta cũng chẳng hay biết về thói quen kỳ quặc của Mít. Hóa ra vào mỗi buổi chiều, khi ánh tà dần tắt sau dãy núi, nó lại lững thững leo lên một mỏm đá nhỏ ở đầu ngọn núi, mắt không rời khỏi ngôi miếu Thiên Mạch u tịch. Ánh mắt của nó như dán chặt vào đó, sâu lắng và đầy vẻ cảnh giác, khác hẳn sự thảnh thơi của một con chó thường ngày. Không chỉ lặng lẽ đứng nhìn, Mít còn thường xuyên gầm gừ và sủa về phía ngôi miếu như để cảnh cáo điều gì từ bóng tối xa xăm.

Tất cả những người chứng kiến đều chỉ nghĩ đó là bản năng của một con chó canh gác, nhưng ta không thể không chú ý tới ánh mắt cảnh giác và thái độ dứt khoát của nó mỗi lần làm vậy. Mít không đơn thuần là đang sủa vào khoảng không vô định—nó đang cố gắng cảnh báo, như muốn nhắc nhở chúng ta rằng có một mối nguy hiểm lớn hơn, một thứ gì đó từ ngôi miếu Thiên Mạch mà chúng ta chưa đủ khả năng nhìn ra.

Mãi cho đến khi đội kiểm lâm phát hiện sự biến mất của Mít, cùng lúc đó là cuộc tranh chấp nảy lửa giữa Giang thị và Thái thị, cũng như cơn náo loạn không rõ nguyên do trong sân biệt viện của ta, họ mới cất công tìm đến điều tra.

Lúc ấy A Bảo bị gọi ra hỏi chuyện, rồi bọn họ dò hỏi về tung tích của chú chó Lài nơi sườn núi—con vật mà dân chúng gần đây đồn rằng, dường như bị kẻ khác lén bắt đi hoặc được một người bí ẩn nhận nuôi. Người của đội kiểm lâm khẳng định rằng con chó ấy có dính líu đến một số vụ việc trọng yếu, từ rắn độc cắn chết người đến việc tiết lộ manh mối về đám lâm tặc phá hoại rừng.

Nghe đến đó, A Bảo thừa nhận rằng chính mình đã e sợ liên lụy nên muốn giữ kín, nếu không được sẽ bẩm báo lại chủ nhân giao nộp nó. Nhưng họ bảo không cần giấu giếm thêm, vì thật ra rất mừng khi biết nó đã tìm được người chủ đáng tin cậy. Câu chuyện giữa họ xoay sang thói quen kỳ lạ của con chó Lài, thường xuyên hướng về ngôi miếu Thiên Mạch như nhìn thấy điều gì không lành, khiến dân làng bao phen thấp thỏm.

Dựa trên những gì đã thu thập được cùng các suy luận mơ hồ, đội kiểm lâm quyết định sẽ trình báo sự việc lên bộ khoái, nhằm điều tra ngọn nguồn của "Chủng sinh cơ" và những gì thực sự xảy ra ở miếu Thiên Mạch.

Không ngờ, mọi chuyện lại chuyển biến nhanh đến vậy.

Chiều hôm đó, tin tức ập đến như sấm sét. Bất ngờ thay, kẻ tố cáo cùng lúc liệt kê năm tội trạng của ta ra công đường, trong khi có người khác ngầm đứng ra đâm đơn phản tố cho ta, đòi phơi bày những lời phỉ báng không căn cứ. Đang lúc ta còn định giữ im lặng để tìm cách minh bạch sự việc, không ngờ đã có người vì lòng nóng nảy mà tự vội nhúng tay vào, bất kể sẽ chịu thiệt thòi.

Thêm một bức thư nặc danh được gửi tới vào lúc ráo tạnh, sau khi Thái Minh Châu rời đi chưa quá nửa canh giờ. Kẻ gửi thư xưng là người của thiên đạo, lật trần mặt thật của Thái Đông Lăng và Quách Nhân, trong lời lẽ kín đáo đầy đanh thép.

Ta đoán kẻ đó không ai khác chính là Tử Kiện, bởi lời lẽ và lập luận có chút dị hợm, quái đản. Ta đoán kẻ đó chính là Tử Kiện, bởi văn phong có phần kỳ quái và lập luận khôn ngoan nhưng đầy quỷ quyệt. Hắn tuyên bố đã liên lạc được với Kiều Bích Phù, thậm chí chữa khỏi căn bệnh hoang tưởng của nàng, và nhắn rằng nếu ta dám ra mặt, hắn sẽ cho Kiều Bích Phù đủ dũng khí để tố cáo chính thân mẫu của nàng.

Những tờ khải cung kết dần chất đống, ghi lại lời khai của các nhân chứng một cách rành rọt. Người người tỉ mỉ tường thuật từng sự việc khuất tất, trình bày cặn kẽ trước mặt trạng sư, lưu lại nơi trang giấy chẳng sai một chữ.

Có phải Thiên đạo đã cảm thấy bất công thay cho ta?

Hay là do họ không tự nguyện bước vào cuộc chiến này, mà bị cuốn vào bởi một lực lượng siêu nhiên gieo vào họ nỗi ám ảnh và sự bất an?

Chính vì thế, những người ấy, vốn dĩ không quen biết nhau, lại như bị kết nối bằng một sợi dây vô hình, cùng nhau đứng lên tố cáo, vì trong lòng họ biết rằng đây à cuộc chiến cho chính lương tri và sự công bằng mà họ đang khao khát. Chứ không phải để tìm lại công lý cho kẻ mà họ biết đến, cho kẻ mà thiên đạo đang ra tay bảo vệ.

Nhiều người trước đây chỉ dám giữ im lặng, nay không thể chịu nổi, quyết định bước ra làm chứng. Họ kể lại cảnh những chiếc xe chở gỗ quý lén lút đi ngang qua lối núi vào những canh giờ khuya khoắt, luôn được người của Thái Đông Lăng bảo vệ, cùng một đám tay chân luôn túc trực quanh miếu. Chứng cứ không chỉ nằm ở lời khai mà còn là những dấu tích mà mọi người phát hiện quanh miếu: những vết chân lạ, vết kéo trượt dài như ai đó đã dùng xe kéo qua rừng, và những mảnh vải sót lại nơi lối ra vào.

Những bô lão từng chứng kiến cảnh lầm lũi của những người theo "Chủng sinh cơ" đứng ra tố cáo về những nghi lễ quái dị, nơi mà hồn phách người sống bị phong ấn vào đất đai linh thiêng với lời hứa hẹn giàu sang, trường thọ. Họ mô tả tiếng tụng kinh ảo não vọng ra từ miếu Thiên Mạch vào đêm trăng khuyết, như thể có những thế lực vô hình đang điều khiển người dấn thân vào nghi lễ tà thuật.

Thậm chí có người thợ rừng giấu mặt mang lòng can đảm hiếm hoi đã kể lại rằng chính mình từng được thuê để đốn hạ những gốc gỗ quý, nhưng khi hắn phát hiện một phần số gỗ ấy không để xây dựng hay cúng tế, mà là để đổi chác với đám buôn lậu từ xa đến, hắn mới ngờ ngợ rằng có điều khuất tất. Hắn còn nói đôi khi trong rừng vắng, hắn thấy một vài kẻ lạ mặt, khoác áo kín đáo, lẩn khuất trong bóng tối như đang canh gác một bí mật không muốn người ngoài biết đến.

Sau đó, hàng loạt người khởi tố kẻ tự xưng là bán tiên, tố cáo chúng buôn thần bán thánh, dối gạt lòng tin kẻ khác để trục lợi. Những ai tham gia nghi thức tế lễ hầu hết đều bị trói chặt như bầy rối, mất hết sức phản kháng, phải bỏ tiền ra để mong nhận được "thần linh phù hộ." Trong đám người đó, có kẻ từng mua Nhị Lan từ thanh lâu làm tiểu thiếp, không ngờ lại bị nàng ta thiến để trả mối nhục. Chính hắn còn mua một cỗ quan tài độc mộc từ tay kẻ bán tiên nhằm trồng sinh cơ cho bản thân, ăn uống độc dược luyện từ xác rắn hòng bồi bổ sinh khí và mong cầu mọc lại nguyên khí thất thoát.

Xác rắn trút da trải khắp núi Phong Dật, rải rác như dấu vết của một cơn tai ách bệnh tật. Giữa con đường hoang sơ ấy, thi thể Vương Tấn được phát hiện, chết thảm dưới tay Quách Nhân, máu thấm đẫm lá rừng, chứng nhân chỉ còn là tiếng sủa xé trời của Mít. Lại nói, chuyện Thái Minh Châu phái Quách Nhân đến phủ tặng lễ vật khiến nhiều kẻ nghi ngờ, không ít người nhận ra diện mạo, hình tướng tội đồ lúc lẫn trốn khi bị phát hiện của hắn. Đáng nói hơn, sĩ tộc phải có cờ hiệu biểu thị môn phong để thể hiện quyền lực và danh tiếng uy vọng, sự phô trương kia lại khiến người ta không thể không chú ý đến.

Còn về Nhị Cẩu, hắn trót một lần dùng Hương Diệu Tâm từ tay Quách Nhân, tâm trí dần rối loạn, cuối cùng nhịn không nổi mà tìm đến tận cửa nhà ta gây náo loạn. Hắn nghe đồn rằng Thái Minh Châu đã sai Quách Nhân mang gạo muối cùng vô số của cải đến cho ta, nhưng không rõ nguyên do vì sao Thái gia lại hạ mình cung phụng như thế. Hắn đến không ngoài mục đích mong vớt vát được lợi lộc cho mình.

Cũng lúc này, tin đồn về Hương Diệu Tâm lan truyền rộng rãi, chỉ vì sự bất cẩn của kẻ học việc mà bị biến đổi theo định lượng mà Thái Đông Lăng yêu cầu điều chỉnh, khiến người uống trúng phải chứng ngoại phong. Quan sai không thể làm ngơ, lập tức mở cuộc điều tra. Chẳng biết có phải do quá xui xẻo, thế mà giữa thời điểm quan lại và bộ khoái ập vào khám xét, thì lại bắt gặp nha hoàn của Thái Đông Lăng đang mua số lượng lớn thuốc.

Giữa đám đông tụ tập xem xét, Nhất Trúc nhận ra sự việc nhưng vẫn quyết cùng trượng phu đến thăm ta. Sau cùng lại phát hiện Nhị Cẩu trên đường đến nhà ta để gây sự huyên náo. Vì thế dưới sự khuyến khích và động viên của trượng phu, nàng đã không ngần ngại đứng lên làm chứng và rửa sạch oan khuất cho ta. Dù mang tội, nhưng sự thật thà của nàng khiến hình phạt đồ hình (làm việc khổ sai) đổi thành xuy hình (phạt roi), cùng phí chuộc nộp lên.

Còn lão chưởng quầy hiệu cầm đồ tự đến tự thú, lão đã khai ra, lão không chỉ bị Tô thúc ép buộc phải đến công đường làm chứng, mà qua đó, lão còn bị một kẻ vô danh từng đến để uy hiếp đe dọa tính mạng của lão, có thể khiến lão sống không bằng chết.

Người ta kể lại rằng, giọng lão vừa khẩn thiết vừa run rẩy, không chỉ là vì nỗi sợ bị ép buộc phải khai báo, mà còn bởi ám ảnh của một kẻ vô danh không để lại dấu tích hình hài đã đến tìm lão vào một ngày rạng sáng nhưng tĩnh mịch.

Kẻ kia mang theo đôi mắt diêm hỏa từ chốn u minh có thể soi thấu tận thần hồn, một giọng nói khắc nghiệt từ chốn đọa đày, hành tung thần bí tự xưng là "Lục", với sức mạnh như một vị tử thần, và luồng pháp thuật cao siêu.

Y chưa từng chạm đến lão, nhưng lại có thể khiến lão bị bóp nghẹn, đè bẹp như một con kiến nhỏ nhoi. Lão đã chết đi kể cả khi hắn còn không chạm đến thân xác lão, tựa như linh hồn bị xé toạc thành ngàn mảnh, như bị hàng ngàn cánh tay kéo xuống vực thẳm bất nhất, như thần hồn nát thần tính. Thế mà chỉ trong tích tắc, lão lại được tái sinh...

Được sống lại với một hình hài con người toàn vẹn.

Ồ, lời nói hoang đường thế mà vẫn có người tin!

Nhưng thế gian này vẫn đầy rẫy những điều không tưởng, nếu không tin, chẳng phải có chút nhàm chán hay sao?

"Kẻ nào cả gan khoác lên tên ta, dám chạm vào những thứ thuộc về ta... sẽ phải gánh chịu một kết cục duy nhất. Đây là lần sau cuối!" Trước khi y rời đi, để lại cho lão già kia nỗi khiếp nhược ám ảnh đến cùng cực. Khiến lão không dám nhìn lại, không dám thốt nửa lời, chỉ còn sự run rẩy còn sót lại.

Nhưng hắn có phải là người của thiên đạo như cách Tử Kiện tự thừa nhân hay không? Là thẩm phán có quyền định đoạt hết thảy những sự bất công?

Thế tại sao hắn lại không trừng phạt Quách Nhân, Lưu Tam, Nhị Cẩu hay thậm chí là Thái Đông Lăng và tên bán tiên kia? Những lời cảnh báo của hắn, liệu có thật nhắm vào lão chưởng quầy tiệm cầm đồ? Hay hắn chỉ muốn mượn tay lão để truyền tải một ý đồ sâu xa nào khác?

Mặc kệ, điểm cuối đã gần kề. Chỉ cần xử trí xong chuyện của Thái Minh Châu và Thất công tử, ta sẽ có thể tận hưởng một quãng thời gian dài thảnh thơi!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro