Như khúc du ca
Tôi yêu em như đồng xanh hoang hoải
Môi ru vần, nâng nhịp trống hát tình ca...
1. Thị trấn phố núi của tôi có ba cái hồ xanh thăm thẳm [ôm] ấp vào trong lòng quảng trường trung tâm rộng thênh thang. Người dân thị trấn hiền hòa và nhàn tản theo một phong cách riêng, cứ chiều chiều lại mang bàn ghế ra ngồi trước cửa ngắm phố, thi thoảng phảng phất đâu đó mùi mực khô cá nướng. Nếu không có việc gì làm xao lãng, có lẽ họ sẽ nhận ra cứ tầm giờ này, phản chiếu trong những chiếc gương của bầu trời, có một con bé nhỏ xíu, mặt tàn nhang, váy dài kẻ caro lụng thụng quá đầu gối lướt xe đạp qua những cung đường vòng vèo bao quanh quảng trường. Bầu trời rộng đến vô cùng thả hoàng hôn xuống hắt bóng nó loang loáng qua những tầng cây, thả gió xuống cuốn tóc nó bay mù, cuốn chiếc váy phất phơ bợt bạt.
Tôi đã từng hi vọng rằng Dave sẽ nhìn thấy tôi trong dáng vẻ hoang dại như thế vào cái ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Tôi đã từng hi vọng hình ảnh ấy sẽ rất cuốn hút, giống như cách tôi bị thu hút theo cái bóng hoang hoải của cô bé con trong bộ phim hoạt hình Father and Daughter từng đạt giải Oscar năm nào. Như thể trong cả thế giới khoắc khoải miên man hoen màu kí ức bàng bạc khi ấy, tôi chỉ là một cái chấm nhỏ xíu, nhưng sẽ là sự xuất hiện ấn tượng và ám ảnh trong mắt một người con trai.
Nhưng tôi không phải là Dave, nên sẽ chẳng bao giờ biết được cậu ấy đã nghĩ gì vào thời điểm đó, hoặc thậm chí cậu ấy có từng thấy tôi lao xe đạp vút qua hay không. Chỉ có tôi là giữ mãi ấn tượng như vậy về cậu. Dưới hoàng hôn lênh láng đỏ, có bóng một cậu trai nhỏ xíu say sưa thổi harmonica giữa quảng trường rộng miên man của thị trấn miền đồi núi. Ai đi qua cũng vô thức dừng lại. Tiếng kèn mộc mạc, lúc trầm khàn, khi réo rắt thoát ra từ môi, hòa tan vào hồn và vẽ lên quanh tôi một không gian bất tận. Tôi bỗng nhiên rùng mình, trong giây phút quên đi hiện tại. Lúc đó trong thế giới của riêng tôi, thứ duy nhất đủ sức tràn vào qua khe cửa chỉ còn bản nhạc tạo ra từ hơi thở của chàng nhạc công trẻ thổi kèn harmonica kia.
Tiếng nhạc vẫn da diết vang lên trong không gian vốn trước tĩnh lặng. Tôi chưa bao giờ được xem nghệ sĩ đường phố biểu diễn, đó là văn hóa phương Tây, không phải văn hóa Việt Nam. Thế nên chỉ có vài người nhận ra và để tiền lẻ vào chiếc mũ đặt dưới chân Dave, nhưng cậu ấy vẫn thổi say sưa như thể chẳng thứ bụi trần nào bám được vào tiếng kèn cảu cậu. Dave khi ấy có làn da trắng, tóc nâu hơi xoăn, cao nhỏng và gầy, không điển trai nhưng có nét thu hút rất lạ. Cậu ấy chơi một bản nhạc tôi chưa nghe bao giờ, nhưng gợi lên trong tôi một cảm giác như tiếng gió vi vu thổi trên cánh đồng bao la. Một hồi rất lâu sau, khi hoàng hồn đã tắt trên nhánh cỏ cuối cùng, người qua lại thưa dần và chỉ còn tôi đối mặt với Dave, cậu ấy mới hạ kèn cho bản nhạc bay đi theo sự tan biến của hoàng hôn. Lúc ấy bóng tối phủ xuống, tôi cảm nhận rõ sự nặng nề trên đôi vai. Chàng nhạc công đường phố quyến rũ thổi kèn harmonica biến đâu mất, trả lại trước tôi một Dave bất động, cứ thế để đêm bao bọc lấy mình, nhìn thẳng vào tôi bằng đôi mắt rầu rầu của một chú cún con đi lạc, buồn bã và thê lương đến tội.
Ngày hôm ấy, thời khắc ấy, tôi đã đi đến quyết định quan trọng thay đổi cả cuộc đời tôi cho tới mãi mãi về sau: nhặt Dave mang về nhà.
2. Tôi đánh đổi những ngày làm công dọn nhà cả tháng tiếp theo cho mẹ để lấy Dave, cuối cùng, vì Dave chẳng có nơi nào để đi, nên mẹ cũng không còn cách nào khác. Dave chỉ bằng tuổi tôi, tuổi một đứa con cần sự che chở của cha mẹ, và trái tim người mẹ trên khắp thế gian này, nơi đâu mà chẳng giống nhau.
Tôi không tin nổi rằng Dave đang phượt. Dave da trắng, người chẳng vạm vỡ, lấy tiêu chuẩn người phương Tây nhìn vào thì dù có cao lớn hơn tôi thế nào, cậu vẫn chỉ là một thằng nhóc. Dave trẻ con, dù có chín chắn và hiểu biết hơn tôi, nhưng vẫn không phải kiều người từng trải. Nghe kể những đoạn tiếp theo, tôi mới hiểu ra. Thì ra, Dave đúng là đang phượt thật, nhưng là chập chững những ngày đầu tiên của hành trình đi phượt, và Việt Nam cũng là đất nước đầu tiên!
Chuyện kể rằng, ở xứ sở sương mù một ngày nọ, có chàng ngốc nghếch tên Dave từ nhỏ đã có ước mơ được du ngoạn thế gian. Sau bao nhiêu khó khăn gian khổ hoàn thành chương trình học cấp ba, cuối cùng ba mẹ chàng cũng phải miễn cưỡng gật đầu đồng ý. Chàng Dave lấy ra một quả địa cầu, vừa xoay vừa nhắm mắt lại, đưa ngón tay chỉ bừa vào một điểm bất kì trên đó. Lần đầu tiên mở mắt, tay chàng đang lạc giữa Đại Tây Dương. Nhớ lại những kí ức tồi tệ từng xem trong phim Titanic, chàng [lắc] đầu, làm tiếp. Lần thứ hai, vẫn thật không may, và chẳng hiểu làm thế nào, tay chàng bay xuống tận Nam Cực. Nam Cực tuy là lục địa, nhưng băng dày và lạnh hơn cả Bắc Cực, vừa có lỗ thủng tầng Ozon, lại có điểm đáng ngờ liên quan đến người ngoài hành tinh mà thế giới vẫn luôn đồn thổi. Sợ quá, Dave quyết tâm thử lại một lần nữa. Ở lần thứ ba này, may mắn thay, tay suýt chệch hẳn ra ngoài biển Đông, nhưng trí não Dave vẫn tự khăng khăng với bản thân rằng, thứ chàng đang chỉ tay vào chắc chắn là một dải đất hình chữ S.
Thế là Dave giơ tay chào cha mẹ, hăm hở khăn gói lên đường. Ngày đầu tiên tới Hà Nội, ngày thứ tư đã lên tàu tìm đường ngược núi. Khi tàu tạm dừng ở thị trấn này, cậu xuống mua ít đồ, không ngờ chưa kịp trở lại thì tàu đã đi mất. Dân ở đây ít người nói được tiếng Anh, chẳng biết làm thế nào, cậu đành chôn chân trên quảng trường gần đó, để chiếc mũ lưỡi trai nằm ngửa bên cạnh và lôi cái kèn harmonica bé xíu trong túi ra thổi, hy vọng kiếm tiền thì ít mà câu được nhà hảo tâm biết tiếng Anh nào đó cho cậu ăn ngủ nhờ đêm nay thì nhiều. Và rồi thì, như các bạn đã biết, tôi cắn câu.
Hết rồi, câu chuyện đi phượt của Dave thực sự chỉ dài thế thôi!
Tôi bò lăn ra cười. Dave giả bộ ngó lơ mà quay mặt nhầm hướng toilet. Tôi cười chán rồi mới lấy điện thoại ra giúp cậu liên lạc với nhà ga. Nếu may mắn, cái ba lô vẫn còn trên ngăn để đồ và nhân viên phục vụ tàu có thể cất giúp, còn nếu không, Dave sẽ học được một bài học nhớ đời về sự thiếu cẩn trọng trong khi đi phượt lẫn những thủ tục rườm rà khi tới Việt Nam.
Nhưng Dave xem ra chẳng buồn chán cho lắm. Mấy ngày sau, cậu đòi tôi dẫn đi bằng được nơi này nơi nọ, lúc thì cột tháp truyền hình, khi thì thư viện thị trấn. Có đôi lúc vào hoàng hôn, Dave chỉ nằng nặc đòi tôi dùng xe đạp chở cậu vòng vèo qua những cung đường bao quanh ba cái hồ rộng lớn mà tôi luôn ví như ba chiếc gương thần vĩ đại của bầu trời. Chẳng bao giờ dối gian, trời có cảm xúc gì thì gương diễn tả vẻ mặt ấy. Tôi biết rằng thế giới đỏ cam huyễn hoặc ngoài kia đang in dấu lại trong đôi mắt Dave, và cứ thế, tôi đạp nhanh dần, nhanh dần, cho tới khi chỉ còn hai chúng tôi chạy đua cùng gió trong một thế giới mà trời và đất như chập lại với nhau rồi kéo dài ra vô tận.
Vào cái ngày kỉ niệm một tuần Dave đến nhà tôi, cậu ngỏ ý muốn dẫn tôi lên đồi. Tôi đưa ra ba lựa chọn cho cậu: đồi chè, đồi cọ, hoặc đồi thông (trong thị trấn chỉ có một cái đồi thông ở công viên, rất bé, gọi là đồi cho vui chứ không thực sự là đồi). Tôi cười cười trong bụng, mẩm là sẽ lừa được cậu đến đồi thông giả. Ai ngờ Dave toét miệng nói ngay:
"Chè đi!".
"Tại sao?" - Tôi [há miệng].
"Thông ở Anh không thiếu. Cọ tớ cũng nhìn nhiều rồi, giông giống chà là trên sa mạc. Chè có vẻ khác nhất. À, ờm, Á Đông nhất."
Tôi còn chưa kịp đồng ý, Dave đã nhảy tót ra ngoài dắt xe. Tôi lắc lắc đầu, với lấy cây guitar dựng góc phòng rồi chạy theo cậu.
"Để làm gì thế?" - cậu hỏi.
"Chơi." - Tôi nhìn cậu như nhìn Tarzan - "Chứ chẳng lẽ người ta có thể dùng guitar để pha chè à?"
"Ý tớ là mấy ngày trước đi chơi cùng tớ, có bao giờ cậu đem theo đâu?" - Dave phụng phịu.
Tôi cười, vỗ vai Dave. Chẳng hiều sao hôm đó cậu lại chủ động ngồi trước, nên tôi ngoan ngoãn lên yên sau. Chiếc xe đạp lao vút đi. Chân Dave thoăn thoắt, cậu đi nhanh hơn tôi nhiều. Ngồi sau lưng, tôi bỗng nhiên nhận ra chàng trai phía trước cao lớn đến lạ. Gió bạt tóc tôi bay vùn vụt, tôi ôm chặt cây guitar, nép người vào lưng cậu tránh gió. Như thể được đà, cậu ấy còn lao nhanh hơn nữa. Chẳng biết Dave có thể nghe thấy hay không nhưng tôi cứ nói:
"Nếu không mang theo, lên đến đỉnh đồi, cậu chắc chắn sẽ cô đơn khủng khiếp."
3. Chè trồng quanh đồi theo hình trôn ốc, nhưng chẳng ai chọn cách đi theo vòng xoắn ấy. Họ làm những bậc thang tạm bợ trên đất thành một con đường dốc đứng, leo lên khá mất sức. Dave chân khỏe , đạp xe nhanh hơn tôi, đương nhiên cũng leo lên đỉnh trước tôi, nhưng lúc đi, cứ vượt tôi được ba mét, cậu lại dừng để đợi, thi thoảng chạy ngang chỗ này một chút, ngắm chỗ kia một chút. Cây chè chỉ cao ngang thắt lưng nên dù Dave đi đâu, hai chúng tôi vẫn có thể để mắt đến nhau.
Đỉnh đồi là một vạt đất tương đối bằng phẳng, trên đó có một nhà kho và một cái [chõng] tre. Phía sâu bên trong không chuyển sang trồng chè nữa mà chuyển sang trống quế, trông như một cánh rừng thu nhỏ. Dave dựng guitar vào chõng, và ngồi xuống theo điệu ngồi thoải mái nhất của loài người, tức là tay dạng, chân xoải, đầu ngửa, mắt lim dim, mũi hít hà hương quế. Tôi lay vai Dave, chỉ về phía ngôi mộ ẩn hiện sau một bụi cỏ dại gần đó. À mà thôi, có lẽ tôi không nên diễn tả lại tiếng hét của Dave khi ấy.
Khi Dave đã hoàn hồn, cậu ngồi nhìn chăm chăm về phía ngôi mộ. Tôi nói không sao đâu, nhưng cậu sợ nếu quay lưng, con ma sẽ thoát ra và làm hại cậu. Tôi lại nói nếu con ma có muốn hại cậu thật thì ngồi quay lưng hay ngồi đối diện, kết quả cũng chẳng khác là bao. Dave lắc đầu, thở dài: "Nhưng chết mà biết lý do mình chết, thì vẫn tốt hơn chứ!"
Tôi bật cười ngồi xuống cạnh Dave, nhưng chếch chín mươi độ để khỏi phải nhìn ngôi mộ.
Nắng lúc ấy không chạm hết được tới chúng tôi, ngửa cổ, chỉ thấy một tấm vải vàng trong suốt rách rưới từ tán cây hạ xuống, bao phủ một khoảng trời thần tiên. Gió vi vút thổi qua những âm u thinh lặng của miền đồi núi. Vai tôi chạm Dave, dưới chân, cỏ mọc hoang dại, khô cháy nhưng tự do. Tôi nâng cây guitar lên, chỉ gảy nhẹ một cái mà âm thanh lan tỏa rung động cả núi đồi. Tôi chơi "Tình ca du mục" không hát, Dave rút mornica từ túi áo ra và cộng hưởng cùng tôi.
Nhưng đến giữa chừng, tôi dừng lại, nhận ra Tình ca du mục không đủ để lấn áp một cảm giác lạ lùng đang len lỏi trong mình. Có một giai điệu nào khác, một giai điệu lạc vào hồn tôi ngay từ lần đầu tiên nghe mà cho đến bây giờ tôi vẫn không thể nắm bắt. Bất giác, tôi quay sang Dave, hỏi nhỏ:
"Cậu chơi lại bản nhạc hôm đó được không?"
Dave không nói gì, cậu lẳng lặng lấy cây guitar và đổi lại tôi chiếc harmonica. Những ngón tay chậm rãi lướt nhẹ trên dây đàn.
Và một lần nữa, thế giới ngày hôm ấy mở ra...
Tôi thấy mình đứng giữa thảo nguyên bao la, tóc bồng bềnh và váy xòe nhiều lớp. Gió dường như thổi xuyên qua tôi đến những nơi nào bất tận. Và bên tai tôi, một giai điệu bắt đầu:
"Esmeralda... Esmeralda..."
Tiếng Dave từ nơi nào xa xăm vừa vọng lại... Không phải tên tôi, mà dường như lại gọi tôi...
"Esmeralda... Esmeralda...
Cô gái dưới nhà thờ Đức Bà
Váy digan xoay tròn theo điệu nhạc
Ting tang... ting tang...
Tỉnh mộng nghe em, về đồng cỏ mênh mang
những thảo nguyên nồng nàn, những ngọn đồi lộng gió
trở về dưới sáng trăng, dưới ngàn đêm soi tỏ
dưới ánh nắng chớm chiều, nguyên vẹn một hồn em..."
Dave lướt tay qua dây như chạm vào sợi gió, mắt cậu thả hồn, nhưng thi thoảng vẫn chăm chú nhìn về phía tôi...
"Ting tang... ting tang...
Cô gái bohemieng vẫn duyên dáng xoay tròn
Đôi cánh mũi phập phồng, múa giữa đời mê mải
Tôi yêu em như đồng xanh hoang hoải,
Môi ru vần, nâng nhịp trống hát tình ca
Esmeralda... Esmeralda...
du lãng khắp nơi, cả thế giới là nhà
có bao giờ em dừng chân ngơi nghỉ
cho tầng váy thôi bay, và trở lại bên ta?
Tỉnh mộng nghe em, rời xa thế giới ra
Nơi có người lừa người, nơi bụi trần ô uế
Nơi điệu múa tim em muốn ôm cũng không xuể...
... những xác tim đã hóa đá ven đường...
Dù chỉ có thể trở về với đôi mắt đẫm sương
thì tôi vẫn ở đây, nơi đồng xanh hoang hoải
mãi nâng nhịp trống hát tình ca mê mải
cho tầng váy bohenmieng xoay tròn theo điệu múa ting tang
Ting tang... ting tang... ting tang..."
Tôi cứ như vô thức làm theo lời Dave. Cậu ấy hát tiếng Anh, mà sao tôi hiểu hết, như thể thứ chạm đến tận cùng trong tôi không phải là câu chữ, mà là giai điệu, giai điệu đã nói cho tôi hết rồi. Bên tai tôi, như tiếng nước ngầm chảy, giọng Dave nhẹ mà trầm vẫn theo gió hoan ca...
"Ting tang... ting tang...
Cô gái bohenmieng vẫn duyên dáng xoay tròn
Đôi cánh mũi phập phồng, múa giữa đời mê mải
Tôi yêu em như đồng xanh hoang hoải
Môi ru vần, nâng nhịp trống hát tình ca
Esmeralda...
Esmeralda...
..."
Cho đến bây giờ, mỗi lần vô thức chạm phải thứ gì dễ gợi, như một bộ váy digan, một cánh đồng xa mướt, tôi vẫn cảm thấy như tiếng gọi "Esmeralda" của Dave vang vọng đâu đó quanh đây. Ngày hôm ấy, Dave dường nhu đã kết thúc bản nhạc trong những suy tư rất dài. Tôi lặng im nhìn Dave. Cậu ấy từ lúc nào đã thôi không còn ngồi đối diện ngôi mộ nữa. Dave đứng lên, hít một hơi thật sâu, dang tay và nhìn ra phía rất xa những ngọn đồi. Giờ đây, cậu ấy như đang đối mặt với cả thế giới.
"Tớ từng không có can đảm để đi" - Hồi lâu sau Dave nói - "giống như Quasimodo, chẳng bao giờ rời nổi cái nhà thờ Đức Bà."
Dave dừng lại đôi chút. Tôi nhìn về phía mắt cậu đang dừng lại, thấy những ngọn đồi cao hun hút gió với những đàn chim sải cánh tung trời.
"Tớ từng thích một cô bạn" - Dave tiếp tục - "Emily nhà không giàu, học không giỏi, nhưng là diễn viên kịch xuất sắc nhất trường. Có một lần xem cậu ấy đóng Esmeralda, tớ đã bị điệu múa của cô ấy thu hút."
"Nên cậu sáng tác bài này?" - tôi hỏi.
"Ừ. Và còn tỏ tình nữa. Ngốc thật." - Dave cười - "Esmeralda yêu Phoebus cơ mà."
Tôi đặt tay lên vai Dave, bóp nhẹ.
"Emily nhà không giàu,nên cô ấy cần yêu một anh bạn nhà giàu. Cô ấy học cũng không giỏi, nên người cô ấy yêu luôn đạt những điểm A. Cô ấy xinh vậy, đương nhiên sẽ hợp với một anh chàng điển trai hơn tớ. Và mọi đường link đều dẫn đến Phil Turner."
"Trùng phụ âm Ph" - tôi nói - "Và Phoebus là một thằng tồi."
Dave bật cười.
"Ừ. Vấn đề là, tớ phát hiện ra nếu cứ nhốt mình trong nhà thờ Đức Bà Paris, một thằng Quasimoda như tớ sẽ không bao giờ có được một cô nàng Esmeralda thật sự như mong muốn.
"Và đây là lý do đi phượt?"
"Không hẳn là lý do, đó là động lực. Nghe điên nhỉ?" - Dave gãi gãi đầu, giọng nói đã có phần vui hơn trước - "Lý do thì tớ nói rồi đấy, từ bé tớ đã muốn khám phá thế giới."
"Không điên chút nào" - tôi đập một phát vào lưng cậu - "cậu đang cố gắng vượt qua chính bản thân mình mà."
Dave quay lại, nhe răng cười.
"À, lúc cậu múa ấy. Tớ phát hiện ra cậu thích hợp với bài hát của tớ hơn Emily, tuy rằng điệu múa trông hơi ngu ngu."
Thật ra tôi chẳng rõ Dave khen hay chê tôi. Nhưng lúc ấy mặt cậu đểu lắm, nên tôi chỉ cho cậu thêm một ngôi mộ nữa.
Dave không bao giờ đòi tôi đưa lên đồi lần hai.
4. "Còn cậu, Di, mỗi lần nghe tớ kể về mảnh đất nào đó, mắt cậu thường sáng lên. Cậu cũng muốn ra ngoài thế giới lắm, đúng không?"
Chiều hôm đó trên đường về, Dave đã hỏi tôi như thế.
Ba tôi đặt tên tôi là Thiên Di, biểu tượng của cánh chim ung dung tự tại, cả đời này không bị trói buộc ở bất cứ nơi đâu. Ba đã chọn cho mình cuộc sống như thế. Làm kĩ sư điện phải đi theo công trình, có dịp nào ông về thăm nhà thì quãng thời gian đó cũng chỉ kéo dài được một hai ngày. Hồi tôi còn bé, cứ hễ nghỉ hè là mẹ con tôi lại khăn gói lên đường vào thăm. Những mảnh đất khô cằn sỏi đá, những thôn bản hoang vu vắng người ở là nơi làm việc của ba. Việt Nam này, vẫn còn nhiều nơi chưa có điện lắm. Tôi vừa thích vừa sợ những nơi như thế, thời gian đầu chưa quen, cũng chẳng có bên một người bạn đồng hành, tôi kết bạn với cây guitar. Chỉ cần tiếng nhạc được cất lên hòa âm với núi rừng, tôi sẽ không cảm thấy cô đơn hay sợ hãi nữa.
Và tôi học cách yêu những mảnh đất tôi đã từng đến, yêu cái hoang vu đến chết lặng của miền đồi hoang hoải, yêu những bông hoa ban trắng dại rơi cánh lả tả trên cung đường mộc mạc ba dẫn tôi qua. Người dân xứ ấy hiền hòa dung dị, chân chất hào sảng như núi như sông. Tôi bé nhỏ còn thế gian rộng lớn, yêu sao cho hết nổi những mê đắm của mây trời.
Nhưng rồi ba mất. Một thời gian dài sau cho đến tận bây giờ, tôi không có cơ hội được đi nữa. Những thênh thang hoang hoải xưa kia tôi vẫn gấp lại thật chặt, cất cẩn thận đâu đó nơi đáy tim, chờ đến một ngày ai đó vô tình mở ra, tôi chắc chắn sẽ tung bay trở lại với mây trời.
Và rồi chẳng biết từ bao giờ, trong tôi hình thành một thói quen lạ. Mỗi lúc buồn hay thoang thoảng vu vơ, tôi lại mở ra tập bản đồ thế giới. Mười lăm tuổi, tôi thuộc lòng tên tất cả các vùng đất, eo biển, núi sông, cao nguyên, hải đảo, các dòng biển nóng và dòng biển lạnh. Tôi ghép những mẩu truyện mình biết lên bản đồ, biến chúng trở thành sống động: bồn địa Congo - nằm ở vị trí giống như trái tim bên phải của châu Phi - là nơi nhóm bạn Doraemon tới thám hiểm trong tập truyện "Pho tượng thần khổng lồ"; Nơi ở của cô bé Anne tóc đỏ - đảo hoàng tử Edward bé nhỏ nằm tít tận miền đông Canada; Trên bán đảo Somalia trông như cái gai nhọn của châu Phi, gần thượng nguồn dòng sông Nile vĩ đại là đất nước Ethiopia từng được nhắc đến trong mẩu truyện "Đất quý đất yêu" tôi đọc ngày thơ bé (không biết bạn còn nhớ không nhỉ? Câu chuyện nói rằng trước khi khách du lịch rời khỏi Ethiopia, người dân nơi dân nơi đó sẽ cạo hết đất trên giày họ trả lại về Đất Mẹ); Trà Assam trong bộ manga "Hoàng tử hồng trà" nổi tiếng được trồng dưới chân dãy Himalaya hùng vĩ; Rồi quê hương của anh chàng Fernando Carvalho trong "Oxford yêu thương" - Lisbon và Bồ Đào Nha bé nhỏ nép mình vào rìa phía Tây, nhường lại phần lớn đất đai cho anh bạn hàng xóm khổng lồ Tây Ban Nha trên bán đảo Iberia; Quê hương thần thoại Bắc Âu - bán đảo Scandinavi đẹp không tưởng tượng... Có những lúc, tôi lấy bút ra vẽ lại các tuyến đường trên bản đồ rộng lớn, xem thử Marie đã rời Pháp thế nào, tới Ba Lan và cưới Pierre Curie ra sao; làm thế nào Colombo đến được châu Mỹ (tôi không thích dùng từ "tìm ra", Colombo chẳng tìm ra cái gì cả. Trước khi ông đến, châu Mỹ có sẵn rồi); Magienlan và hành trình vòng quanh thế giới ba năm, so sánh nó với chuyến đi của Phileas Fogg trong truyện "Tám mươi ngày vòng quanh thế giới"; và đặc biệt nhất trong tôi là Charlie Darwin với cuộc phiêu lưu trên chiến hạm Beagle - chuyến đi lịch sử cho sự ra đời của học thuyết tiến hóa. Nếu tôi là một cơn gió tự do, chắc chắn tôi sẽ bay đến hoan ca, dự báo điềm lành cho ông trên quần đảo Galapagos.
Đó là thế giới riêng của tôi, chưa ai từng biết. Tôi tâm sự tất cả những gì thuộc về thế giới ấy vào một cuốn nhật ký bí mật. Bạn bè tôi, như những cô công chúa nhỏ, thích đắm mình trong những mơ mộng của Paris, Vienna, hay hào nhoáng xa hoa của Bắc Kinh, New York. Họ sẽ không hiểu nếu có ai đó nói với họ rằng, người đó thích đến những mảnh đất hoang sơ, chạy nhảy trên cao nguyên Tây Tạng, bơi qua biển Chết (mà với nồng độ muối cao như vậy, thực sự rất khó để chết), đằm mình trong hồ nước thiên nhiên rộng lớn xanh ngút ngàn của New Zealand, người đó thích khám phá hoang mạc Phi châu, rừng rậm Amazon, thích trèo Himalaya và vượt qua Andes. Họ sẽ không bao giờ hiểu.
Nhưng Dave hiểu. Tôi biết thế. Tôi chắc chắn thế. Và thực sự là như thế. Dave hiểu những gì tôi kể cậu nghe vào chiều hôm ấy khi cậu chở tôi trên cung đường nối những chiếc gương của bầu trời. Dave nói chẳng khó khăn gì để hiểu, cũng như khung cảnh mà chúng tôi đi qua, chẳng khó khăn gì để mến. Nó rộng lớn và hùng vĩ đến lặng người. Nó yên bình, nhưng vì ta nhỏ bé quá, nó khiến ta sợ hãi, rồi khiến ta thích thú, rồi khiến ta tò mò, rồi khiến ta bất chấp tất cả sợ hãi mà tò mò khám phá... Cuộc sống là thế, đơn giản đến không ngờ.
Tôi nép mình vào lưng Dave tránh gió, bỗng nhiên nhận ra tâm hồn cậu ấy cũng là một thế giới bí hiểm mà giờ đây tôi khát khao muốn bước vào cho thỏa thuê khám phá.
Tình yêu là thế, hình như cũng đơn giản đến không ngờ.
5. Chúng tôi vẫn dành cho nhau rất nhiều thời gian những ngày sau đó. Thi thoảng vào lúc rỗi rãi ngồi soi mình bên chiếc gương rộng lớn của bầu trời, chúng tôi thường đố nhau những thứ hay ho mà học sinh bình thường sẽ cho là lập dị, tỉ như, có lần Dave đố tôi dãy núi nào dài nhất thế giới. Tôi đã suýt mắc lừa. Những người hay đọc bình thường chỉ biết dãy Andes, tra từ khóa "dãy núi dài nhất thế giới" trên google cũng sẽ ra Andes, nhưng thực tế, dãy núi dài nhất thế giới là một sống núi vô danh chìm trong lòng Đại Tây Dương, kéo dài gần như từ cực này đến cực kia của Trái Đất. Tôi lè lưỡi đố lại Dave, thế ngọn núi có chiều cao lớn nhất thế giới thì sao. Cảnh giác từ câu trước, cậu ấy suy nghĩ lâu hơn. Ngọn núi thực sự có chiều cao lớn nhất thế giới phải là Mauna Kea ở Hawaii chứ không phải Himalaya như mọi người vẫn nghĩ. Vì sao ư? Đơn giản thôi, nếu không tính những ngọn núi khác đứng dưới làm bệ đỡ cho mình, chiều cao từ chân tới đỉnh của Himalaya cùng lắm chỉ tới cỡ bốn ngàn rưỡi mét, trong khi chiều cao của Mauna Kea từ đầu đến chân, tính cả hơn nửa chìm trong biển cũng lên tới mười ngàn mét. Dave vẫn thường nói vui, điều đó cho ta một bài học, rằng cái gì tẩm ngẩm tầm ngầm cũng đều nguy hiểm cả. Cứ thế, cứ thế, chúng tôi trao dồi cho nhau, không chỉ kiến thức mà còn là niềm đam mê nữa.
Giữa chúng tôi có một trò chơi khác, vui hơn, là đôi lúc hứng lên, chúng tôi so sánh ấn tượng của nhau về một vùng đất nào đó. Tôi nhớ đến Venezuela vì thác nước Angel cao nhất thế giới trong phim Up chẳng hạn, thì Dave chỉ nhớ được có mỗi thế này:
"Uầy. Cái nôi sinh ra hoa hậu, toàn những người đẹp đến mĩ miều!"
Tôi hào hứng nói đến Anh quốc vì nào là Stonehenge, những vòng tròn trên cánh đồng, quái vật hồ Loch Ness, Roswell, rồi nhất là Harry Potter. Thao thao bất tuyệt một hồi quay sang nhìn, ngạc nhiên thấy đang xịu mặt. Hỏi mãi, cậu ấy mới nói, vẻ dỗi dỗi:
"Thế không ấn tượng tớ à?"
Sau đó, Dave ấn tượng tôi bởi mười nắm đấm.
Kì diệu là có lần, ấn tượng của chúng tôi trùng khít nhau, ấy là khi cùng nói về Nam Mỹ.
"Ừm, có một phim hoạt hình" - Dave hắng giọng - "lâu rồi và tớ không nhớ tên nữa, nói về một câu bé thích cô bé học cùng lớp. Ngày nọ cô giáo yêu cầu mỗi học sinh phải làm mô hình một quốc gia. Vì cô bé làm mô hình Brazil, nên cậu bé kia quyết định làm mô hình Peru. Cậu biết vì sao không?"
"Peru và Brazil, trên bản đồ" - tôi nói - "trông như hai người đang hôn nhau vậy"
Dave có phần hơi đỏ mặt. Tôi biết bộ phim hoạt hình ấy chứ, lâu lắm rồi, và tôi cũng chẳng nhớ gì hơn Dave, nhưng chi tiết ấy không hiểu sao tôi ấn tượng mãi. Sau này nhìn lại bản đồ, tôi chẳng thấy giống như hai quốc gia đang hôn nhau tẹo nào. Nhưng ấy là lúc lớn rồi. Hoạt hình dành cho trẻ con, mà trẻ con, chắc sẽ nhìn bản đồ theo kiểu khác.
Thời gian cứ êm đềm trôi qua như thế. Cho tới một ngày nhận được giấy báo điểm, tôi chạy một mạch qua dãy phố dài trở về nhà khoe mẹ. Đại học Ngoại ngữ! Dù có mơ mộng đến cùng đất nào với Dave, thì thật sự tôi vẫn chỉ là một cô gái Việt Nam bình thường nhỏ bé, vẫn phải vật lộn thi đại học, vẫn sẽ hạnh phúc khi đỗ một trường đại học tại quê nhà.
Dave cười, ôm tôi, chúc mừng tôi. Tôi thả cậu ấy ra để gọi điện cho vài đứa bạn. Những đứa cùng đỗ đại học tíu tít rủ tôi qua chơi rồi ở lại tổ chức tiệc ngủ luôn. Dave nói tôi cứ đi đi. Thiếu tôi hai ngày có lẽ cậu ấy cũng không sao, tôi nghĩ nên chẳng lo lắng lắm. Áp lực và nỗi lo sau đại học khiến chúng tôi co mình lại. Lúc này khi tâm trạng ai cũng đã được giải tỏa, tôi đang rất khao khát liên lạc trở lại với bạn bè, trở về cuộc sống đời thường như trước.
Những đứa học tốt trong lớp tôi hầu như đỗ hết, nhiều đứa khác vào cao đẳng nhưng cũng đúng chuyên ngành nguyện vọng, còn những đứa lười học thì vốn đã định học nghề từ trước, nên không khí cả lớp đều vui. Chúng tôi đi thăm thầy cô, ra công viên chụp ảnh cả chiều, đến tối lại tổ chức tiệc, chơi với nhau đến khuya lắc khuya lơ rồi gần sáng mới lăn ra ôm nhau mà ngủ. Trưa dậy, nấu ăn chung với nhau một bữa, đến chiều mới chia tay nhau để ai về nhà nấy, lúc đi vẫn còn í ới hẹn nhau ngày nào đấy sẽ lại ra chơi.
Tôi đạp xe trở lại những cung đường. Chiếc gương của bầu trời phản chiếu cho tôi hình ảnh cô gái trên xe đang mỉm cười hạnh phúc. Dave giờ này có lẽ đã đợi sẵn tôi ở nhà, chờ ăn cơm chiều xong rủ tôi vác đàn và kèn ra quảng trường đi dạo. Chàng Quasimodo của tôi sẽ lảm nhảm một điều gì đó thật ngốc nghếch và hài hước bên tai tôi, như trong lúc tôi đi vắng, cậu rửa bát cho mẹ và làm vỡ mấy cái đĩa chẳng hạn. Hoặc cậu đã thử làm mô hình Brazil, và thách tôi làm một cái theo hình dáng Peru.
Hình như tôi đã mơ mộng quá chăng?
Trên cung đường vắt qua chiếc đồng hồ cuối cùng, phía bên này quảng trường, tôi nhìn thấy Dave.
Không, phải là Dave và một cô gái.
6. Cô gái tóc dài, không xù, váy ngắn dễ thương, tay cầm một cái túi, nhìn từ xa nên tôi chỉ nhìn thấy có vậy.
Và rồi, Dave hôn lên má cô.
Ờ thì, thực ra tôi và Dave cũng chưa có gì mà. Thế nên tôi đạp xe đi thẳng. Có điều ở cuối con đường, đi hơi nhanh nên tôi suýt bị một gã lái xe máy đâm phải. Cũng không sao, chỉ là phanh gấp nên hơi có tiếng chói tai, xe loạng choạng chút, rồi tôi lại tiếp tục đi.
Ờ thì, Dave chưa từng nói gì đến thích hay yêu, đúng không? Cậu ấy chỉ bảo tôi thích hợp với bài hát của cậu. Cậu chỉ hơi đỏ mặt khi nói về nụ hôn giữa Brazil và Peru, thế thôi.
Ờ thì, tôi cũng đâu có phải là Esmeralda...
Tôi mở ngăn kéo lấy cuốn nhật ký bí mật. Đó là một cuốn sổ bìa đen đơn giản, bên trong ghi bằng mực nhũ lóng lánh những khát khao khám phá của riêng tôi, những thế giới, những châu lục, những dòng sông, những miền đất. Hình như chứa trong đó còn có cả mảnh đất tâm hồn của chàng trai nhạc công thổi kèn harmonica trên quảng đường hôm nào.
Tôi đạp xe trở lại chiếc gương của bầu trời, cái lớn nhất, ở giữa. Ngồi xuống bên hồ, tôi cẩn thận xé từng trang viết riêng về một chàng Quasimodo ngốc nghếch nào đó, mỗi trang gập lại thành một chiếc thuyền giấy, thả trôi trên tấm gương của trời. Thôi thì, duyên trời trả lại cho trời.
Quen nhau ba tuần. Hai tuần sau, mỗi ngày là một chiếc thuyền đầy chữ. Viết bằng nhũ bạc nên chỉ thấy lấp lánh, cộng hưởng với óng ánh nắng của hoàng hôn chiều muộn. Cứ thế tôi gấp, cho tới chiếc thuyền cuối cùng.
"Này. Nếu tâm tư mà thả cho trôi hết đi như thế, đến lúc muốn nhặt lại không dễ đâu"
Tôi chẳng ngước nhìn. Nhưng Dave đã ngồi xuống cạnh tôi. Cậu ấy để lên bờ cỏ trước tôi những con thuyền giấy ướt nhẹp, nhưng hình như vẫn có thể nhìn được chữ. Dave không biết tiếng Việt, tôi chẳng sợ cậu ấy đọc được. Tôi chỉ sợ rằng, nếu giờ Dave nhặt lại, liệu lần sau tôi có đủ can đảm thả nó xuống nước một lần nữa hay không.
"Sao cậu biết?" - tôi hỏi
"Về điều gì? Tâm tư cậu hay là nơi tìm ra cậu?"
"Cả hai"
"Chẳng khó khăn gì để hiểu" - Dave gác tay nằm xuống cỏ - "cũng như chẳng khó khăn gì để mến cảnh hoàng hôn hiện tại".
"Chẳng liên quan gì!" - tôi nói. Nhưng rồi nhờ Dave mà tôi mới để ý, hoàng hôn lúc này thực sự rất đẹp. Một màu đỏ cam thuần khiết, trong veo, không pha trộn, cũng chẳng vướng bụi trần. Ngốc thật, nãy giờ vì tâm trạng không vui, tôi đã quên để ý một điều tuyệt vời như thế.
"Cậu biết rồi hả?" - Dave lại hỏi
"Ừ"
"Lúc nãy tớ thấy cậu, đuổi theo mà không kịp..."
"Cũng đâu có gì mà đuổi..."
"Có chứ. Tớ sắp đi mà lại không nói với cậu..."
"CÁI GÌ?"
Tôi bật dậy ngay tức thì làm Dave phải dậy theo.
"Cậu sắp đi là sao?" - tôi hỏi mà như hét
"Ủa? Tớ tưởng nãy cậu bảo biết rồi? Chứ lúc đó cậu đang nói về cái gì?" - Dave trố mắt nhìn tôi.
"Cô gái cậu hôn!" - tôi sốt ruột, nói thẳng chẳng đậy che.
Dave ngẩn tò te năm giây, sau đó phá lên cười:
"Này. Cô ấy tìm được và giữ cẩn thận ba lô đồ đạc cho tớ. Hôn một cái bên má cảm ơn cũng có gì đâu là lạ."
Tôi ngẩn người, chợt nhớ ra văn hóa phương Tây thoáng hơn văn hóa phương Đông rất nhiều. Trời ạ, nãy giờ tôi hiểu lầm thật sao. Lại còn hành xử như một con ngốc nữa chứ. Tôi liếc sang nhìn, nhận ra Dave để cái ba lô to đùng ngay dưới chân cậu. Tôi ngượng đỏ cả mặt.
"Ừm" - lí nhí kêu một tiếng cho qua, tôi ngồi xuống bãi cỏ, tay nhặt mấy chiếc thuyền ướt cho có việc để làm.
"Cậu sắp học đại học mà, đúng không?" - Dave lại ngồi theo - "nên tớ cũng phải đi thôi. Trước đó tớ cứ tưởng cậu giống tớ, nên đã tính rủ cậu phượt, hai đứa dắt nhau đến Nam Mỹ thám hiểm Amazon xem thử có trăn khổng lồ không, rồi qua Ethiopia đi thuyền từ thượng nguồn sông Nile xuôi ra Địa Trung Hải."
Tôi đã mém cười vì cái kế hoạch chẳng logic tẹo nào của Dave. Nhưng rồi mắt cậu ấy nghiêm túc quá, mà đúng là tình huống hiện tại buồn thật mà, nên tôi thôi, không cười được nữa. Tôi nhìn Dave. Dave nhìn tôi. Xong rồi hai đứa tự nhiên ôm chầm lấy nhau một cái. Thống thiết mãnh liệt. May là không đứa nào khóc.
"Nhưng rồi cậu sẽ đi, đúng không, một lúc nào đó?" - Dave hỏi, vỗ vỗ vai tôi.
"Chắc chắn" - tôi nói- "Tên tớ là Thiên Di - cánh chim trời tự do".
"Tên tớ thì chẳng có nghĩa mấy. Nhưng tớ vẫn đi" - Dave cười khì - "Khi nào sẵn sàng, làm bạn đường cùng tớ nhé!"
"Ừ" - tôi nó. Và Dave bắt tôi ngoắc tay.
Chúng tôi còn ngồi thêm một lúc lâu nữa ngắm hoàng hôn. Tôi hơi mơ màng nên không nhớ chắc lắm, hình như giữa khoảng không gian đỏ bình yên ấy, Dave có xen vào một câu.
"Khi một thằng con trai tìm thấy đồ đạc ngay từ ngày thứ hai làm mất, nhưng lại nhờ cô nhân viên trên tàu giữ giùm chỉ để có lý do ở lại. Khi một thằng mê khám phá thế giới đang phượt mà ở lì một thị trấn tới tận ba tuần để chơi cùng một đứa con gái thì nguyên nhân chỉ có một thôi."
Sau đó để không ai kịp hiểu, cậu ấy bèn thổi Harmonica
...
"Tỉnh mộng nghe em, về đồng cỏ mênh mang
những thảo nguyên nồng nàn, những ngọn đồi lộng gió
trở về dưới sáng trăng, dưới ngàn đêm soi tỏ
dưới ánh nắng chớm chiều, nguyên vẹn một hồn em...
..."
7. Trước khi đi, Dave có đưa tôi chiếc kèn harmonica của cậu. Chẳng nhắn nhủ, chẳng bảo cho mượn, chẳng nói là tặng, chỉ đưa thôi, như thể nó thuộc về tôi, nó vốn là của tôi luôn rồi.
"Thiếu nó, lúc lại mất đồ nữa, cậu lấy cái gì mà thổi kiếm cơm?"
Dave vênh mặt tỏ vẻ ta đây, giơ ngón trỏ lên lắc qua lắc lại.
"Ồ, cô bạn, cô bạn, tôi đâu chỉ có một chiếc kèn harmonica!"
Và quả thật, Dave chứng minh bằng cách lấy trong túi áo bên kia ra một cái harmonica khác. Cái vừa đưa tôi cậu vẫn hay dùng, màu bạc. Còn cái mới này màu đen.
Tôi cáu nhặng:
"Hóa ra có nhiều nên vứt cây cũ cho người ta! Chắc cũng tặng người này một cái, người kia một cái, cô nhân viên giữ giùm đồ trên tàu một cái đúng không?"
"Tớ bảo không chỉ có một chiếc đâu có nghĩa là tớ có nhiều" - Dave không cười, không tỏ vẻ, không lắc ngón tay qua lại, nghiêm mặt nhìn thẳng vào mắt tôi, lấn át - "Nhớ giữ cẩn thận. Tớ vốn chỉ có hai cái thôi. Giờ mỗi đứa giữ một, nếu làm mất, tớ chẳng còn mà đưa cậu nữa đâu!"
Tôi ngây người. Rồi gật gật.
Và giống như Stonehenge, những vòng tròn trên cánh đồng, quái vật hồ Loch Ness, Rosewell, hay Harry Potter - những đại diện ấn tượng của nước Anh, nụ cười của Dave giờ phút ấy là thứ tôi còn nhớ mãi cho đến sau này.
***
Giờ thì tôi đang đứng giữa phi trường. Những ngày tháng ấy rời xa rồi. Thị trấn miền đồi núi, quảng trường và những cung đường vòng qua ba chiếc gương bầu trời, tất cả đã lùi xa về miền ký ức. Chẳng sao đâu, cuộc sống là tiếp tục. Đi bất cứ nơi đâu, ở bất cứ miền đất nào, sẽ lại có những thị trấn yên bình, quảng trường rộng thênh thang với những chàng nhạc công đường phố, không thổi harmonica thì kéo violin, chơi guitar, saxophone, mandolin hay kèn trumpet. Chiếc gương bầu trời vẫn mở rộng không gian soi cho tôi cung đường tôi sẽ gặp, mà dù không có gương, chỉ cần bầu trời ân cần dõi theo, với tôi đã đủ hạnh phúc rồi. Còn chàng gù nhà thờ Đức Bà, người đạp xe nhanh, chàng trai có tấm lưng chắn gió, tất cả những gì còn thiếu nữa, tôi sẽ tự đi tìm. Giữa trời đất bao la này, tôi vươn mình thành một cánh chim.
Cầm chiếc harmonica lên, tôi miết tay thật nhẹ. Trên thân hình bạc xướt xát thời gian có một dòng chữ khắc tay, rất nhỏ, nhưng được khắc rõ ràng, nắn nót, cẩn thận, mà nếu để ý sẽ không khó để đọc ra...
"It belongs to you, my Esmeralda"
Tôi là khởi đầu cho hành trình của Dave...
Còn giờ là sự bắt đầu cho hành trình của chính tôi...
Câu chuyện này sẽ còn kéo dài, rất dài...
Một ngày nào đó, khi nhạc khúc du ca một lần nữa được
cất lên...
Bạn sẽ còn lắng nghe chứ?
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro