Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Stage 1: Thị trấn Altherton


[Hãy hoài niệm – Hãy nuối tiếc]

...


Khi nói đến quê hương, người ta thường nghĩ đến nơi mà họ từng được sinh ra và lớn lên. Có lẽ, trong chúng ta, ai cũng có một quê hương, một nơi mà mình đã cất vang tiếng khóc chào đời, hoặc một nơi để nhớ về khi lỡ miệng nhắc đến những câu chuyện của thời niên thiếu. Về phần mình, tôi không rõ mình được sinh ra ở đâu, ai là người đã đưa tôi đến với thế giới này, tất cả những gì mà tôi biết được về bản thân chỉ vỏn vẹn ba bốn dòng chữ viết tay trên một mẫu giấy nhỏ cùng với những kỷ niệm ở một vùng đất hoàn toàn xa lạ.

Vậy, có vấn đề gì nếu tôi nói rằng nơi đây chính là quê hương của mình không?

"Quê hương" của tôi, ẩn mình sau những cánh rừng rậm phía Đông và nằm dưới chân dãy núi Evergreen hùng vĩ ở phía mặt trời lặn. Nếu nhìn từ trên cao, vùng đất này chỉ như một khoảng màu nâu nhỏ bé lọt thỏm giữa những mảng màu xanh bao la. Có thể, so với những thành phố văn minh, nơi đây chẳng khác gì một cái thị trấn nghèo xơ xác đến tội nghiệp, tuy nhiên, tôi chưa từng nghĩ đến chuyện rời xa nó, dù chỉ là một phút.

Một năm ở đây chia thành bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.

Vào mùa Xuân, khi các phiến băng tan và dòng nước bắt đầu chảy róc rách qua những kẽ đá, cây non sẽ đâm chồi và khắp cánh rừng ngào ngạt mùi hoa cúc dại. Những ngày còn bé, tôi vẫn hay nắm tay Jane chạy vào rừng, hai đứa thường nô nghịch giữa rặng thông, yên lặng lắng nghe tiếng chim vành khuyên hót líu lo trên những tán lá xanh và chăm chú quan sát bầy sóc rượt đuổi nhau dọc theo thân cây sồi già. Khi trời sập tối, chúng tôi lọ mọ quay về, vừa quỳ gối vừa nghe tiếng quát tháo từ bà bảo mẫu chịu trách nhiệm tắm rửa tên là Tracy.

Những ngày đầu mùa hè là khoảng thời gian kinh khủng nhất trong năm, khi lão già mặt trời bỗng nhiên hăng hái đến kì lạ, những bụi cỏ khắp các triền đồi sẽ ngã màu vàng úa, các dòng chảy trở nên cạn khô – chỉ còn trơ ra những hốc đá xám xỉn. Tôi cùng Lewis, một thằng bạn thưở thiếu thời, thường lang thang dọc bìa rừng để vớ lấy vài cành củi khô, nhặt đầy rổ những trái thông rụng, sau đó là tiết mục đánh trận giả cực kì hoành tráng giữa hai thằng – và phần thắng (lúc nào cũng) thuộc về mụ Liz.

Cuối Hạ, những cơn gió mang theo hơi nước từ vùng biển phía Nam đột ngột tràn về làm cho cái nóng bớt oi bức đi phần nào. Thỉnh thoảng, tôi lại lẻn ra khỏi cô nhi viện sau bữa ăn trưa nhân lúc các bảo mẫu đang say ngủ bên cạnh những đứa trẻ hai ba tuổi. Tôi cực thích cái trò trượt nằm từ trên triền dốc xuống tận chân đồi, sau đó hít căng lồng ngực thứ không khí trong lành pha lẫn chút hương hoa đồng nội. Đến khi mệt nhoài, tôi sẽ nằm dài trên bãi cỏ, ngây người chiêm ngưỡng bầu trời màu xanh lam qua cặp mắt non dại và cảm nhận nét đẹp hoang sơ của thế giới xung quanh bằng toàn bộ sự kính ngưỡng của mình.

Mùa Thu, khi những cơn gió lạnh từ lục địa phía Đông Bắc bắt đầu gõ cửa. Những hàng cây phong dưới thị trấn lần lượt trút bỏ những chiếc lá đã chuyển sang màu đỏ tía, ánh nắng mặt trời bị rút ngắn lại và màn đêm dường như dài hơn.

Khi trời chuyển lạnh dần, bọn trẻ ở cô nhi viện cũng giảm bớt thời gian vui chơi bên ngoài cho đến khi ở hẳn trong phòng vào những ngày mùa Đông. Nhưng đừng có vì thế mà tưởng rằng lũ nhóc tì sẽ chịu ngồi yên bên bếp lửa để mặc cho "quý ngài thời tiết" tác oai tác quái. Những sinh vật bé nhỏ nhưng lúc nào cũng thừa mứa năng lượng đó luôn nghĩ ra được mấy "trò chơi trong nhà" không kém phần ác liệt so với những cuộc rượt bắt giữa trưa hè. Ăn cắp đồ lót là một ví dụ điển hình, tôi vẫn còn nhớ như in cái bản mặt tái mét – và đầm đìa mồ hôi – của thằng Lewis khi cu cậu bị mụ Liz lôi xuống từ trên gác mái với "quả tang" là chiếc quần nhỏ màu trắng chấm bi đen của mụ ta.

Vào đêm giáng sinh, sau khi trang hoàng cho dãy hành lang bằng mấy sợi xích làm từ giấy màu, tất cả mọi người sẽ ngồi thành vòng tròn bên một cây thông nhỏ đặt ở giữa phòng sinh hoạt chung, chúng tôi cùng cầu nguyện cho một mùa đông ấm cúng và năm mới an lành. Sau đó, lũ trẻ trở về ngồi ngay ngắn trên những chiếc ghế tí hon, đặt những cánh tay nhỏ nhắn lên mặt bàn thấp, hí hứng đợi chờ món súp trứng gà nóng hổi, những miếng bít tết thơm lừng và mấy mẫu bánh mỳ phết bơ giòn rụm. Nhìn gương mặt bọn trẻ khi ăn, quan sát những vẻ mặt hạnh phúc và lắng nghe tiếng cười vô tư của chúng, tôi chợt nhận ra rằng cho dù ở hoàn cảnh nào đi chăng nữa, chỉ cần có sự cảm thông và sẻ chia, con người ta sẽ dễ dàng xích lại gần nhau hơn. Và cũng từ ngày hôm đó, đối với tôi, quá khứ có ra sao cũng chẳng còn quan trọng nữa.

...

Tôi bước xuống chân dốc, vài giọt mồ hôi bắt đầu trôi tuột qua sống mũi, có vẻ như một buổi trưa oi bức nữa sắp về trên chốn quê hiu quạnh này. Đặt chân lên lớp đất mịn màu nâu của con đường mòn dẫn vào thị trấn, con đường được tô điểm bởi mấy tảng đá trắng xám thi thoảng nhô lên giữa lối đi và những bụi dâu dại rậm rì ở hai bên đường . Tôi đảo mắt nhìn sang khu rừng bên phải, nơi có mấy ngọn thông cao lêu nghêu xếp thành những hàng so le, nối tiếp nhau chạy xa tít tắp về phía dãy Evergreen.

Thấp thoáng trong rặng thông, một mảng tường cũ kĩ với nước sơn màu vàng nhạt đang lẳng lặng nấp mình sau những thân cây già cỗi. Trước kia, nơi đó từng hiện diện một đấu trường lớn; và bức tường của nó, một thời được mệnh danh là biên giới của vương quốc đấu sĩ. Và mảng tường mà tôi vừa nhắc đến, chính là những gì còn sót lại của bức tường đồ sộ đã chứng kiến hàng nghìn trận kịch chiến đẫm máu từ thưở xa xưa.

Cũng xin nói thêm, rằng cái tàn tích đồ sộ ấy chính là căn cứ bí mật của tôi.

Thời còn bằng tuổi thằng Ruben bây giờ, tôi hay cùng Lewis lang thang trong rừng, thỉnh thoảng chúng tôi lại bắt gặp một vài cảnh tượng hay ho của lũ sóc, tìm thấy một hai khúc gỗ hình dạng giống những thanh kiếm của bọn hiệp sĩ. Có lần, thằng Lewis còn đào lên được cả một bịch rác tổ tướng (mà nó vẫn thường khoác lác là) từ đời ông cố nó để lại. Một ngày nọ, chúng tôi rủ nhau chơi trò trốn tìm; còn nhớ hôm đó, thằng nhóc Leon tôi đây đã đánh liều chạy một mạch vào rừng để rồi bị trượt chân ngã xuống một cái trũng thấp. Đó là lúc tôi nhìn thấy bức tường (trong tình trạng xuống cấp đến thảm hại) đang phơi mình trong nắng. Những mảnh đá vụn nằm ngổn ngang khắp nơi, phần lớn đã bị che lấp bởi mấy bụi cỏ xanh um mọc vô tội vạ từ trong hang hốc ra khắp khoảng đất trống. Đằng sau những chồng đá cao đến tận đầu gối, một khoảng sân rộng thênh thang với đủ các giống cây cỏ thi nhau mọc lên, nào là cỏ gà, bồ công anh, hoa cúc dại, cho tới những giống cây cỏ mà đến tận bây giờ tôi vẫn không biết nên gọi tên thế nào cho phải. Khoảng sân đầy ắp mùi hoa thơm và cỏ dại ấy, cứ như một khu vực tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài những rặng thông rừng.

Và thế là, theo thói quen, tôi chui tọt qua bụi dâu dại rồi đi thẳng vào rừng tự lúc nào chẳng biết.

-"Thôi kệ, đi đường tắt nhanh hơn." – Tôi tự nhủ.

Chạy giữa những rặng thông, thỉnh thoảng tôi lại ngẩn đầu ngắm nghía bầu trời quang đãng qua những tán cây; bầy sóc bám dính trên những thân sồi, thay vì rượt đuổi nhau, chúng đồng loạt hướng mấy cặp mắt tròn xoe vào kẻ đi lạc đến lãnh thổ của mình. Mấy con chồn thỉnh thoảng lại ló đầu ra khỏi những cái hốc bên dưới gốc cây, bầy chim nhạn thì vẫn vô tư chuyền từ cành này sang cành khác, tôi chợt có cảm giác như vừa nhìn thấy một chiếc bóng chạy vụt qua trước mặt mình.

Heo rừng á? Chỉ có thể là đi lạc từ trên núi xuống mà thôi.

Con đường cắt ngang qua khu rừng mỗi lúc một gồ ghề, mấy tảng đá lớn cứ thoáng chốc lại hiện ra cản lối, sau mỗi lần như vậy, dường như nền đất lại cao lên một chút. Đi xa hơn về phía dãy Evergreen khoảng năm phút, con đường đột ngột thấp dần, sau đó đổ dốc hẳn xuống bên dưới. Còn về chuyện ngày xưa tôi từng té nhào đầu xuống một cái trũng đất thấp, thì chính là tại chỗ này đây.

Ông mặt trời lúc chín giờ rưỡi hân hoan gieo xuống cho đời những hạt nắng vàng, những tia sáng chói chang từ trên cao nhẹ nhàng đáp xuống cánh rừng già, hạ cố qua những tán cây để rồi in từng mảng bóng râm xuống bãi cỏ xanh mát rượi. Một vài tia sáng len lỏi qua những kẽ lá, thi nhau thắp sáng mảnh đất hoang sơ bằng những cột nắng rực rỡ, sau đó thổi bùng một thứ sinh khí ấm áp ra khắp cánh rừng. Ở giữa khoảng đất trũng, một bức tường đứng im lìm sau tấm rèm được làm từ những sợi thường xuân. Mấy con chim sơn ca phơi mình trên những bậu cửa sổ bằng đá vôi, thỉnh thoảng lại đập cánh bay tán loạn khắp những bụi rậm. Một con bướm lượn lờ giữa không trung, nó vỗ nhẹ đôi cánh trắng lướt qua mấy khóm hoa dại trên triền dốc sau đó khuất hẳn vào rừng.

Tôi trượt dài trên mặt dốc, cái đế giày cũ mèm chà lên những lớp đất đá tạo ra thứ âm thanh lạo xạo và khiến bụi đất bay mịt mù cả một góc rừng, dĩ nhiên việc này khiến bọn sóc cảm thấy không hài lòng cho lắm. Khi mũi giày đã chạm đến chân dốc, tôi nhanh chóng chạy đến bên những khối bê tông, cẩn thận bước lên mấy phiến đá vỡ sau đó băng qua đống tàn tích còn sót lại của một mảng tường đã biến mất từ lâu. Qua khỏi bức tường, tôi bước vào "mảnh vườn" hoang sơ mọc đầy cỏ dại trong tâm thế bình thản cùng một tinh thần sảng khoái như thể được trở về ngôi nhà thân yêu của mình.

Mặc dù gọi khoảng sân này là căn cứ bí mật, tuy nhiên, không chỉ có mình tôi biết về nó. Mấy ông già hay đi rừng ở trong thị trấn vẫn thường kể về nơi này như một đống gạch vụn vô nghĩa, nhiều lúc bọn họ còn cá cược với nhau rằng bao giờ thì mảng tường cuối cùng sẽ sập nốt. Điều đó có nghĩa là, sẽ chẳng có ai thèm bén mảng đến cái chốn "chỉ toàn xà bần với gạch vụn" này, "ngoại trừ cái thằng Leon" tôi đây.

Kể cũng phải, vì đa phần con người ta có xu hướng tìm đến những nơi khiến họ cảm thấy cuộc đời mình có giá trị, một vài người thích đến những nơi vui vẻ, một số hay mò đến chốn phú quý cao sang, một số thích đi tìm những mỏ vàng, còn tôi thì đã lỡ yêu cái đống gạch vụn này mất rồi.

-"'Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ' mà." – Tôi chợt nghĩ, sau một hồi vươn vai hít thở giữa bầu không khí trong lành, tôi bắt đầu đảo mắt nhìn về phía dãy Evergreen.

-"Xem nào, trước mặt là Evergreen, tức là hướng Tây, vậy đi về phía bên trái sẽ gặp thị trấn ngay sau bìa rừng."

Nói rồi, tôi đảo mắt nhìn quanh một lần nữa. Từ vị trí của tôi, mảng tường còn sót lại đã chắn mất góc nhìn về phía ngọn đồi của cô nhi viện. Phần lưng tường trông cũng không khá hơn mặt trước là mấy, đường nét hoa văn chạm nổi trên những bậu cửa sổ đã bị gió mưa bào mòn gần như toàn bộ. Không chỉ riêng bức tường, dãy hành lang bên dưới cùng với hàng khán đài kế đó cũng bị phủ đầy rêu phong, mấy mảng rêu màu xanh lục cứ như một lớp áo chùng, khoác lên mình bãi phế tích xa xưa một vẻ cổ kính và ảm đạm. Một vài dây thường xuân đã bắt đầu bám lên mấy cây trụ chống còn sót lại trên dãy hành lang (mặc dù phần trần đã đổ sập hết cả) – và cỏ dại bắt đầu mọc lên từ khắp những vết nức trên nền đá hoa cương cũ mòn.

Trên những bục khán đài làm bằng bê tông, dãy lan can bằng thép đã hoen rỉ gần như toàn bộ, cái khán đài bốn mươi hai bậc cấp ấy trông giống hệt mặt bên của kim tự tháp Maya mà tôi từng nhìn thấy trong sách. Ở đỉnh khán đài, một vài tia nắng xuyên qua những ô cửa sổ trên bức tường cũ, rọi xuống từng chiếc bục màu xanh rêu những cột ánh sáng chói chang. Rồi một trận gió bất ngờ nương qua từng chiếc lá, lay động những ngọn cỏ, thổi bay nhánh bồ công anh đi thật xa và hất nhẹ một vài sợi tơ vàng bay lất phất.

-"Hể?!"

Những sợi tơ đó, đến từ suối tóc mượt mà của một thiếu nữ.

Nàng đứng trên đỉnh khán đài, hướng ánh mắt đăm chiêu nhìn về phía ngọn đồi của cô nhi viện. Mái tóc vàng óng ả thi thoảng lại bay phất phơ cùng với tấm áo choàng màu trắng. Nàng ngoái đầu lại nhìn tôi, gương mặt trái xoan đầy kiêu hãnh nằm gọn đằng sau hai lọn tóc bồng bềnh quyến rũ, ánh mắt màu xanh lam cương nghị và mạnh bạo, sống mũi cao, đôi môi hồng căng tràn sức sống và nhiệt huyết của bọn con gái tuổi xuân thì của nàng khiến tôi không tài nào rời mắt khỏi. Chúng tôi nhìn nhau, chỉ mới vài giây mà ngỡ như một thế kỷ, tiếng chim hót ríu rít là thứ âm thanh duy nhất còn đọng lại trong toàn thể khối không-thời gian tĩnh lặng như tờ. Và rồi, nàng đặt hờ một tay lên lan can, tay còn lại giữ cho vạt áo choàng không bị lấm bẩn. Nàng cất bước về phía tôi, tao nhã và thanh thoát; còn tôi thì chết lặng, mê mẩn như một gã si tình vừa bị hớp hồn.

Nàng bước đến trước mặt tôi và chúng tôi thoáng nhìn vào mắt nhau; trong giây lát, tôi có cảm tưởng như mình vừa ngửi thấy mùi thơm nước hoa thoang thoảng từ cổ áo sơ mi thủy thủ của nàng. Bên trong chiếc áo choàng bằng vải sa-tanh, nàng vận bộ quân phục gồm chiếc áo sơ mi trắng liền váy và một sợi thắt lưng màu cà phê sữa. Trước ngực áo trái, nàng đeo một tấm huy hiệu hình khiên màu bạc có vành mạ vàng, ở giữa khắc hình thập tự tráng men đỏ cùng với một dòng chữ nhỏ chạm nổi ở ngoài viền. Ba sợi dây tua màu đỏ được ghim vào hai bên vai áo rồi vắt ngang qua trước ngực, thanh kiếm kị sĩ chuôi vàng móc xéo bên hông trái, bên phải là cán dao găm màu đen lộ ra khỏi lớp vỏ bọc bằng da bò. Phải công nhận rằng, những món đồ trên người cô nàng có hơi đáng sợ đối với một tiểu thư khuê các.

-"Tôi...tôi xin lỗi. Tôi chỉ vô tình đi ngang đây thôi." – Tôi mở lời, câu kéo nghe lóng ngóng đến lạ.

Đôi mắt xanh lơ trong veo như bầu trời mùa hạ của nàng vẫn nhìn tôi chăm chú, sau đó nàng cất lên một giọng nói êm ru và một cử chỉ thật dịu dàng:

-"Anh có tin vào số mệnh không?"

-"Tôi...không." – Tôi lấy làm ngạc nhiên trước câu hỏi của nàng, sao tự dưng lại đem chuyện số mệnh ra đây không biết. Bản thân tôi lại là một kẻ không tin vào cái 'thuyết số mệnh' ấy cho lắm. Nói gì thì nói, khung cảnh này y hệt một đoạn trích trong bộ tiểu thuyết yêu đương sến sẩm nào đấy vậy.

-"Vậy còn thiên đường?"

-"Cũng không."

-"..." – Nàng chợt im bặt, sau đó lẳng lặng với tay lấy chiếc túi vải màu đỏ giấu ở sau lưng. Bàn tay trắng trẻo đưa vào trong chiếc túi dài chạm đất, sau đó chầm chậm lôi ra một miếng gỗ bóng loáng to bằng lòng bàn tay.

"Báng súng trường ư?" – Tôi giật thót khi nhìn thấy chiếc cò bằng kim loại đen ngòm đang chầm chậm lộ ra ngoài ánh sáng.

Winchester ư? Không thể nào! Kỳ thực, những khẩu súng cổ như vậy từ lâu đã không còn xuất hiện trên cõi đời này nữa, tôi cũng chỉ được nhìn thấy chúng vài lần thông qua mấy quyển sách lịch sử cũ mèm trên cái kệ sách của thư viện ở trong thị trấn.

"Khoan đã, hình như không phải Winchester."

Một khẩu súng hỏa mai ba nòng với những hoa văn hình lá chạm nổi trên nòng súng, ba ống nòng được xếp chồng lên nhau theo dạng tam giác, đặt trên ốp lót bằng gỗ được đánh vecni sáng bóng. Phía trên cò súng một chút, ổ đạn xoay màu đen được lắp đầy đạn – cùng với ba cái điểu thương (mỏ chim) nhọn hoắc đang giương lên đầy vẻ hăm dọa. Cô nàng bất ngờ chĩa súng vào giữa trán tôi, một tay cầm lấy báng súng, tay còn lại kéo kim hỏa, nàng hỏi tiếp:

-"Vậy anh có tin rằng tôi sẽ bắn anh không?"

Bố ai mà dám trả lời vào mấy cái khoảnh khắc như thế này cơ chứ?

-"Hãy để tôi thử nghiệm với anh nhé?" – Câu hỏi này, nghe hệt như một câu hỏi tu từ.

-"Này, đừng có đùa nữa." – Tôi quát lớn. Thật đấy, đừng có đùa nữa mẹ trẻ!

-"Sám hối đi." – Đôi môi nàng chợt nở một nụ cười, một nụ cười thật vô tình và tàn nhẫn. Và rồi, ngón trỏ thanh mảnh của nàng chậm rãi siết cò. Bố ai mà tin được rằng một nàng thiếu nữ với vẻ đẹp thuần khiết như thế lại có thể bóp cò súng với một gã hiền lành thân thiện lại thêm khoản đẹp trai (là tôi đây). Mặc dù tôi vẫn hay ba hoa rằng "chết vì mỹ nhân là cái chết sướng lâng lâng", nhưng không hiểu sao lúc này tôi lại cảm thấy muốn vả cho cái miệng của mình một trận đến lạ; và nếu được, tôi còn muốn viết hẳn một quyển sách về cái khoảnh khắc trời đánh này nữa.

Thế là tôi nhắm mắt, răng cắn chặt vào môi, hai tay bắt chéo lên trán như thể tin rằng mấy cái que bên trong cổ tay của mình đủ cứng cáp để cản lại viên đạn đồng sắp bay ra với tốc độ âm thanh ấy. Cuối cùng, tôi cũng đã kịp tạ tội với chúa trời vì những lần xem trộm Jane tắm cùng lũ nhỏ, tạ tội với mụ Liz vì vẫn chưa kịp mua bánh mỳ về cho bữa ăn trưa, tôi cầu cho không có ai tìm ra mớ tạp chí dành cho lứa tuổi 18 mà tôi giấu rất kĩ dưới gầm giường, sau cùng, tôi cầu nguyện cho đám em út lâu la của mình sẽ có một cuộc sống bình thường hơn đại ca của chúng.

"Còn gì không nhỉ?" – Tôi tự hỏi.

Tiếng lẩy cò lạnh lẽo cất lên, sau đó là tiếng mỏ chim đập vào viên đạn. Ba tiếng lách cách lần lượt vang vọng khắp bãi cỏ rộng thênh thang, và cuối cùng là một sự yên lặng bao trùm toàn bộ mảnh rừng chết chóc.

Và chẳng có gì xảy ra hết.

Thật vậy, chẳng có viên đạn nào ghim vào đầu tôi cả.Tôi đưa tay sờ trán mình, sau khi chắc chắn rằng không có bất cứ lỗ thủng nào, tôi bắt đầu mò mẫm xung quanh ngực, bụng, hông và nhiều vị trí khác.

-"Ra vậy, rốt cuộc vẫn không được à?" – Cô nàng ngẩn đầu lên như thể đang nói chuyện với ai đó (dĩ nhiên không phải tôi), trong giọng nàng có thoảng chút thất vọng.

-"Hả?" – Tôi hỏi lại trong lúc liếc mắt nhìn mấy cái nòng súng hầm hố vẫn đang chĩa thẳng vào mặt mình.

-"Không có gì đâu. Mà anh lạ thật đấy, người bình thường đã chạy trối chết rồi." – Cô nàng nở một nụ cười đầy ẩn ý. Có lẽ, tôi không nên tiết lộ cho ả ta biết rằng mình đã sợ đến độ suýt vãi ra quần thì hơn.

"À ờ, chết dưới cục mỡ bự là cái chết vinh dự nhất trần gian mà." – Tôi nghĩ, sau đó cất tiếng hỏi.

-"Cô chỉ dọa tôi cho vui thôi nhỉ?"

-"Không hẳn, mà nói vậy cũng đúng." – Nàng chợt dừng lại, sau một tiếng thở dài, nàng nói tiếp:

-"Xin lỗi vì đã làm anh sợ, vì một vài lý do mà khẩu súng này không thể khai hỏa được nên tôi đã lấy ra dọa anh cho vui. Còn giờ tôi phải đi rồi, chào anh nhé."

Nói rồi, nàng vội cho khẩu súng vào lại chiếc túi vải, sau đó khoác nó lên vai rồi đi thẳng về phía con dốc mà tôi vừa trượt xuống. Nàng rảo bước qua bãi cỏ xanh, đôi bốt đen ngang tàng băng qua những phiến đá nằm ngổn ngang, những sợi tóc vàng óng ánh thi thoảng bay lất phất theo cơn gió đến từ đằng sau bức tường hoang phế. Chợt, nàng quay đầu nhìn về phía tôi, miệng hét gọi:

-"Tên tôi là Marianne, Marianne Blondeau. Có duyên sẽ gặp lại."

Mặc dù không hiểu lắm chuyện gì vừa xảy ra, nhưng tôi cũng hét lớn về phía cô nàng bí ẩn:

-"Tôi là Leon, Leon Walker. Có duyên sẽ gặp lại!" – Sau đó, chúng tôi mỗi người một nẻo. Cô nàng tự xưng là Marianne biến mất đằng sau đám dây thường xuân, còn tôi tiếp tục chạy một mạch về phía thị trấn. Không hiểu vì lý do gì, tôi bỗng cảm thấy rằng cả hai sẽ còn gặp lại.

Tôi tiếp tục chạy băng qua rừng vắng, thi thoảng lại bắt gặp vài thân cây hoàng đàn nằm dọc hai bên đường, một số đang trong quá trình mục rữa, và những cái gốc cây trơ trọi đã phủ đầy nấm mốc. Đoạn đường đầy lá rụng như cao dần lên, mấy tảng đá xuất hiện mỗi lúc một nhiều hơn, tôi cứ chạy mãi đến khi ra khỏi bìa rừng, dùng hết sức nhảy qua con dốc thấp rồi đáp chân lên một mô đất mọc đầy dâu dại.

Thị trấn của tôi, thị trấn Altherton, là một thị trấn nhỏ yên bình và vô cùng xinh đẹp. Như một thiếu nữ, Altherton e ấp ẩn mình bên bờ vai rộng lớn của dãy Evergreen ở phía Tây, và che giấu đi diện mạo đẹp đẽ của mình sau những cánh rừng bạt ngàn trải dài khắp các hướng còn lại. Vì nằm gần chân núi, lại thêm rừng rậm trùng điệp bao quanh, nên thị trấn vẫn giữ được những nét cổ kính rất riêng của nó mặc cho thế giới bên ngoài đã thay đổi nhiều. Có lẽ, Altherton là một trong số những mảnh đất yên bình nhất thế giới, dù trận đại dịch năm 2019 gần như khiến nền văn minh nhân loại tụt lùi một bước dài, thế nhưng người dân ở đây vẫn sống và sinh hoạt trong bình yên và no ấm.

Tôi đi ra khỏi bãi dâu dại và đặt chân lên con đường rộng thênh thang, sau đó nhanh chân bước về phía những ruộng rau và vườn cây ăn quả của mấy bác nông dân ở đầu thị trấn. Altherton là thị trấn thiên về sản xuất nông nghiệp, tiếp theo là chăn nuôi và cuối cùng là nghề rèn sắt, dân số vào khoảng năm trăm người và sản lượng lương thực ước tính đủ nuôi sống một nghìn người. Ngoại trừ trẻ em, dân cư ở đây chia làm bốn nhóm chính: Nhà nông, người chăn nuôi, phu đốn củi và thợ rèn; mỗi nhóm chiếm tỷ trọng một-phần-năm tổng dân số, tức là khoảng một trăm người. Ngoài bốn nhóm trên, nơi đây còn tồn tại hai nhóm khác nhưng chiếm thiểu số, đó là cảnh vệ và thầy y.

Thầy y là đội ngũ ít người nhất, chỉ có mười lăm trong tổng số một trăm người còn lại, đứng đầu hiệp hội là Volga, một bà già có cái nốt ruồi tổ tướng ở giữa trán, theo một vài người trong thị trấn bảo lại thì bà ta ngoài trị bệnh còn biết mua vui cho thiên hạ bằng trò xem bói, thi thoảng tôi cũng hay tạt qua để nhờ mụ ta xem giúp vết cháy sém giữa lưng. Vết sém đó, nghe mọi người bảo rằng nó đã xuất hiện từ trước ngày tôi được gửi vào cô nhi viện. Và một điều đặc biệt nữa, là tôi càng lớn lên thì nó cũng lớn lên theo, tính đến hôm nay thì nó đã to bằng lòng bàn tay của người lớn rồi.

Tiếp tục men theo con đường đất vắng vẻ dẫn vào thị trấn, thỉnh thoảng tôi lại đưa mắt nhìn mấy túp lều tranh của những người nông dân giữ ruộng rau, có một vài người tôi vẫn thường hay lân la bắt chuyện vào những ngày rỗi rãi, cụ thể là bác John, bọn tôi thường cùng nhau thưởng thức món khoai lang hấp huyền thoại của ông ta và huyên thuyên về những bộ ngực của các cô gái trẻ sống trong thị trấn. Cả hai cũng thường trao đổi cho nhau mấy cuốn tạp chí đen, dĩ nhiên, với một điều kiện là không được để cho vợ ông ta phát hiện.

Nhiều lão già rồi mà còn gân.

Phía bên kia ruộng rau là chiếc chòi canh được đóng trên những cái tán lớn của thân một cây sồi già, ở tít trên cao, đứng gác đằng sau cửa sổ là một người đàn ông có nước da sạm đen vì cháy nắng, mái tóc xoăn thành nhiều lọn, đôi môi dày như hai miếng thịt bò và đôi mắt trừng trừng như một con sói hung dữ. Trên tay ông ta bồng khẩu súng hỏa mai hai nòng loại dây mồi và trên cổ đeo chiếc ống nhòm nhặt được từ một bãi rác (nghe bảo chiếc ống nhòm từ thời đại cũ ấy còn có thể nhìn được cả trong bóng tối cơ đấy). Tôi xin phép được giới thiệu, ông ta tên là Dell, một trong số những thành viên chủ lực của lực lượng tự vệ Altherton.

Lực lượng tự vệ Altherton, một lực lượng dân quân với đa số các thành viên xuất thân từ tầng lớp thợ săn. Họ là những con người đã quen với các chuyến đi dài ngày dọc theo dãy Evergreen, từng nếm trải những trận sốt rét thập tử nhất sinh và luôn mang bên mình những khẩu súng hỏa mai mồi thừng nồng nặc mùi lưu huỳnh.

Đội tự vệ chia ra làm bốn cấp: Cấp thủ lĩnh, cấp tham mưu, cấp sĩ quan công vụ và cấp cảnh vệ binh. Trong cả thảy tám mươi lăm thành viên, họ có một tổng thủ lĩnh, hai phó thủ lĩnh, ba tham mưu, bốn viên tình báo, năm liên lạc viên và bảy mươi quân cảnh vệ. Bảy mươi quân cảnh vệ được chia thành bảy tiểu đội, mỗi tiểu đội có mười người, và Dell là tiểu đội trưởng của 'lực lượng tự vệ số bốn', việc này có thể giải thích được lý do tại sao lúc nào ông ta cũng đeo trên ngực tấm phù hiệu hình khiên ngũ giác mạ bạc với số bốn chạm nổi ở giữa.

Nhân đây xin nói thêm cho các bạn được biết, rằng tôi cũng đang dự tính sẽ gia nhập lực lượng vệ binh vào mùa xuân năm sau.

Tôi bước nhanh đến chỗ cánh cổng được đóng từ ván gỗ sồi và đi vào cái khoảng trống giữa hai dãy hàng rào chông. Mấy gã lính canh hôm nay trông mặt mũi căng thẳng đến lạ, một vài gã vừa quệt mồ hôi trên trán trong khi miệng lầm bầm một hai tiếng chửi thề, có lẽ, thiên hạ thường nói "thời tiết nóng bức dễ khiến con người ta cảm thấy bực bội" là như thế này đây. Sau khi qua khỏi trạm gác, tôi bắt đầu thong dong xuôi phố về phía trung tâm thị trấn.

Trong thị trấn hôm nay vẫn đông vui và nhộn nhịp như mọi ngày, đám thợ rèn và mấy lão nông già vẫn đang tám chuyện bên những chiếc bể làm nguội (tiếng cười ầm ầm của mấy tay thợ rèn thì khủng khiếp chẳng khác gì tiếng búa của bọn họ là mấy), mấy cô gái trong tiệm hoa vẫn đang cười nói vui vẻ cùng những cụ già qua đường, thỉnh thoảng lại có một bà cô bước ra khỏi tiệm với một bó cẩm chướng hoặc huệ tây trên tay và một nụ cười mãn nguyện trên gương mặt. Xa hơn chút nữa, hiệu giày của Dorothy với tấm bảng hiệu hình chiếc giày vẫn đang lắc lư theo từng cơn gió thổi, kế đến là hiệu bánh của Jack với mùi bánh mỳ thơm phức bay xa khắp cả dãy phố.

Mà, để chút nữa về rồi tạt vào mua vậy, giờ tôi phải đi đến chỗ quán bar của Helena để hỏi thăm cô nàng, kể cũng lâu rồi bọn tôi chưa cùng nhau làm vại bia.

-"Ê nhóc, lại đến chỗ của Helena hả?" – Có tiếng ai đó gọi với ra từ trong hẻm.

-"Vâng?" – Tôi quay đầu nhìn, ra là ông John, cái ông nông dân mà tôi vừa nói ban nãy ấy.

-"Đừng có đến hôm nay, trong ấy đang 'có biến'."

-"Tức là thế nào ạ?" – Tôi thắc mắc.

-"Đã bảo cậu đừng có đến thì tức là đừng có đến, ta cũng chỉ biết là có mấy gã mặc quân phục đang lục lọi trong đó thôi."

-"Thế mà cũng được ạ? Không lẽ không ai nói gì sao?"

-"Bọn người đó tự xưng là quân đội đến từ thủ đô đấy, người của chính quyền, bọn tôm tép như Benjamin thì còn lâu mới dám động vào."

-"Vậy để cháu sang nhìn thử một chút." – Tôi đáp, sau đó hăng hái bước về phía quán bar của Helena với một sự tò mò cực độ, rốt cuộc những người đó là ai mà đến cả ông Benjamin (tổng thủ lĩnh của lực lượng tự vệ) cũng không dám làm gì? Thêm nữa, lâu lắm mới có người từ thủ đô xuống đây, tôi muốn xem thử họ, những con người đến từ thủ đô văn minh, có gì khác so với mấy lão nông tối ngày lấm lem bụi đất ở cái thị trấn vắng vẻ này không.

Quả nhiên, quán bar của Helena hôm nay đóng cửa thật. Tôi lách mình vào con hẻm bên cạnh, nép người sát vào tường rồi lén nhìn qua khung cửa sổ, bên trong căn phòng đóng kín là một tá nam nhân ăn vận lịch sự, họ mặc những bộ quân phục trắng tinh, chân mang bốt đen, hông đeo liễu kiếm. Trong đó có một người mặc áo choàng trắng và trên lưng đeo súng trường loại nạp đạn sau.

-"Dòng Dreyse à, trông ngầu phết." – Tôi trầm trồ, miệng mở lớn vì không giấu nổi sự kinh ngạc.

Nhắc mới nhớ, hình như khi nãy tôi cũng vừa bắt gặp một người ăn vận tương tự bọn họ thì phải.

Bên trong quán bar, mấy gã quân nhân không ngừng lục lọi khắp mọi ngóc ngách. Helena vẫn đứng sau quầy tính tiền, liên tục mắng nhiếc mấy gã cao lớn rằng đừng có đụng chạm vào mấy chiếc ly thạch anh đắt tiền của cô nàng. Chợt một gã quân nhân quay lại đứng đối diện với người mặc áo choàng, gã đứng nghiêm, tay phải xếp lại thành nắm đấm đặt trước ngực, miệng nói gì đó với người đàn ông trước mặt. Người đàn ông mang chiếc áo choàng trắng ấy độ ngũ tuần, da dẻ nhợt nhạt, mái tóc điểm hoa râm cột lại thành búi và một ít tóc để xõa che khuất mang tai. Khi gã quân nhân kết thúc báo cáo (tôi đoán vậy), người đàn ông chỉ yên lặng gật đầu, sau đó móc từ túi áo trước ngực ra một viên đá màu xanh nước biển.

Viên đá trong veo bất ngờ phát ra mấy tiếng vo ve, thứ âm thanh duy nhất mà nó truyền ra khỏi lớp kính, sau đó đập vào màn nhĩ khiến đầu óc tôi choáng váng. Tôi chợt nghe thấy tiếng trống ngực đập dồn, và vết sém sau lưng lại bắt đầu lên cơn rát buốt.

"Khỉ thật! " – Tôi rủa thầm.

Tôi toan ngồi dậy thì một gã quân nhân khác đã bất ngờ xuất hiện trước con hẻm vắng, hắn ta đá mấy chiếc thùng rỗng qua một bên để bước đến chỗ tôi, hai bàn tay thô bạo nắm lấy cổ áo thun, rồi hắn hét vào mặt tôi, bằng thứ giọng ồm ồm phát ra từ cái miệng nồng nặc mùi tỏi tây của hắn:

-"Tôi đề nghị anh không được đến gần nơi chúng tôi thi hành công vụ!"

-"Được rồi, được rồi, tôi chỉ hơi hiếu kì chút đỉnh thôi mà, chào đồng chí, chúc đồng chí mạnh giỏi nhé! Hahaha." – Sau một tràng cười lấy lệ, tôi gỡ hai bàn tay to như chân gấu của hắn ra khỏi cổ áo rồi chạy một mạch ra khỏi con hẻm, để lại gã quân nhân vẫn đang trông theo với ánh mắt đầy cảnh giác. Công nhận trình giả điên của tôi cũng cao phết.

Quay trở lại con đường chính, tôi tiếp tục tản bộ về phía khu chợ trung tâm thị trấn. Những chú ngựa thồ chăm chỉ vẫn đập vó nhịp nhàng xuống con đường được lát bằng gạch đỏ, kéo theo những chuyến xe chất đầy rau xanh và hoa quả tươi đằng sau lưng. Gã thương nhân béo ú thì ngồi trên chiếc ghế đẩu, hai tay nhiệt tình quất roi vào những chiếc mông gầy còm tội nghiệp của bọn sinh vật bốn chân có bờm ấy, trông cảnh này lại khiến tôi nghĩ đến mấy hình vẽ biếm họa về giới tư bản thế kỷ XVIII.

Nhưng biết làm sao được, ai cũng có vấn đề của mình mà.

Tôi dừng chân trước khu chợ rồi rẽ vào một con hẻm nhỏ, sau đó men theo bức tường ẩm thấp của nhà thờ, đi dọc theo cái cống thoát nước đầy rác bẩn. Thỉnh thoảng tôi lại bắt gặp cảnh tượng lũ mèo hoang đùa nghịch với nhau trên những nắp thùng rác. Còn nhớ một lần, tôi đã vòi mụ Liz cho phép mình mang một con mèo đen về nuôi trong cô nhi viện, sau một hồi ăn vạ thì cuối cùng mụ Liz cũng gật đầu, nhưng với điều kiện là tôi phải tự dọn dẹp những gì nó thải ra, và sau khi ngửi qua cái mùi chua lòm kinh dị đó thì tôi đổi ý, gần như ngay lập tức.

Bức tường cũ của nhà thờ dừng lại tại một ngã ba chật hẹp, tôi rẽ trái, tiếp tục xuôi theo con hẻm nhỏ đi vào một dãy phức hợp gồm nhà cửa, quán nhậu bình dân, tiệm thuộc da, xưởng giày, tiệm giặt và mấy túp lều của những gã ăn mày nằm san sát nhau. Lần đầu tiên đến đây, tôi đã vỡ lẽ rằng một bức tranh dù đẹp đến mấy cũng luôn tồn tại những mặt tối. Và từ đó, tôi đã thôi mơ mộng về những câu chuyện đại loại như cậu bé nghèo hèn cứu rỗi nàng công chúa bất hạnh để rồi trở thành hoàng tử mà người ta vẫn hay kể cho trẻ em nghe trong những cuốn truyện cổ tích.

Thật là phũ phàng quá, phải không nào?

Mặc dù mấy ông cha truyền giáo hay bảo rằng thượng đế rất công bằng, nhưng tôi lại cho rằng 'sự công bằng' mà ông ta mang lại chẳng khác nào hai bên của một cán cân, một bên cao sang quyền quý, bên còn lại thì lầm lũi đời này qua đời khác để giữ cho cán cân bên kia luôn được ở trên cao. Xin được chia buồn sâu sắc với những mảnh đời bất hạnh, mong mọi người hãy cố lên, vì dù sao thì cũng chẳng có ai sống mãi được. Hy vọng rằng 'thượng đế' – lão già mà ai cũng biết tên nhưng chẳng ai biết mặt đó – sẽ mở rộng cánh cổng để tiếp đón các bác vào vườn địa đàng đầy hoa thơm và quả ngọt của mình.

Đó là – nếu như nó thực sự tồn tại.

Dòng suy nghĩ của tôi bị cắt ngang bởi mấy tiếng la ó của đám trẻ con, trong một con hẻm nhỏ khác, có mấy đứa lớn đang vây đánh một thằng gầy nhom ăn vận rách rưới, ánh mắt thằng bé ánh lên vẻ căm phẫn trong lúc tay chân vẫn đấm đá liên hồi. Nhưng một cá nhân khó mà chống lại số đông, thằng bé nhanh chóng ngã gục xuống nền đất, co mình lại hứng chịu những trận đòn tới tấp đến từ những đôi chân to khỏe của đám trẻ ranh chuyên bắt nạt những đứa yếu hơn.

-"Ê, lũ nhóc, làm gì đấy!" – Tôi la lên trong lúc chạy lại chỗ bọn trẻ, một vài thằng giật mình bỏ chạy, một vài thằng đứng sững nhìn tôi thêm một chút rồi mới bỏ chạy, mấy thằng nhỏ nhất đám thì vừa vãi ra quần vừa khóc rống lên, rồi cũng chạy nốt.

Đỡ lấy thằng bé còm nhom đang nằm co quắp trên nền đất, tôi xoa chiếc đầu đầy bụi bẩn của nó rồi bật cười khanh khách, nhìn bộ mặt vừa giận dữ vừa khiếp hãi của nó lại khiến tôi nhớ đến gương mặt lấm lem của Lewis mỗi khi cu cậu bị đám lớn hơn dần cho một trận te tua. Có lần, Lewis đã rủ tôi đi "báo thù", sau khi bàn bạc và lên kế hoạch kỹ lưỡng, chúng tôi quyết định sẽ đánh hạ từng thằng một, vì dù gì đi nữa, hai đánh một không chột cũng què. Thành thực mà nói, tôi cứ tưởng rằng mọi thứ sẽ hoàn hảo, ai dè đến phút cuối thì cậu bạn quý hóa của tôi bất ngờ mất tăm mất tích để lại tôi một mình choảng nhau với thằng Buford (thằng đầu sỏ của cô nhi viện thời bấy giờ). Và theo như mụ Liz kể lại, thì nó đã được một ông bá tước nào đó từ phương xa nhận làm con nuôi, vì thời gian gấp gáp nên họ không có thời gian cho nó nói lời từ biệt.

Đến giờ cũng đã hơn chục năm rồi đấy.

Tôi nhìn kỹ thằng bé, đoạn kéo nó đứng dậy rồi phủi bớt bụi bẩn dính trên bộ đồ rách rưới, tôi vừa phủi vừa cười sặc sụa khi nghĩ đến những chuyện xa xưa. Thấy tôi cười, thằng bé cũng cười theo, tiếng cười của chúng tôi vang vọng khắp con hẻm vắng, một vài con mèo nghe thấy mà hoảng sợ, bèn nhảy tót lên mái nhà rồi lỉnh đi mất. Chợt tôi nghe thấy một hai tiếng lộp cộp vọng lại từ đằng xa, cùng lúc đó, gương mặt thằng bé cũng bắt đầu biến sắc. Về phần mình, tôi không thèm quay đầu lại nhìn mà vẫn tiếp tục phủi bụi cho thằng bé tội nghiệp, đoạn hỏi nó:

-"Bộ có con gì sau lưng anh à?"

-"Dạ..." – Thằng bé ấp úng.

-"Con gì? Có to lắm không?" – Tôi hỏi đùa, sau đó tiếp tục phủi sạch bắp chân của nó. Chợt một cảm giác nặng nề bất ngờ đè lên đỉnh đầu, một mùi nước hoa bay xồng xộc vào hai lỗ mũi, kế đến là một cú bẻ cổ mạnh bạo cùng một cảm giác êm êm mềm mềm chạy dọc sống lưng. Cái cảm giác này, sao mà quen vãi.

-"Có, là con...Helena đây nè. Anh làm gì mà lấp ló ở cửa sổ quán tôi đấy hả?" – Phải rồi, trên đời này làm gì có ai sở hữu mùi nước hoa lẫn với mùi rượu nho ủ lâu năm trong hầm ngoài nàng chủ quán rượu đang ấp ngực vào lưng tôi cơ chứ.

Tôi đập tay lên cánh tay của cô nàng ba lần, một cách để ra hiệu đầu hàng, Helena liền thả tôi ra, tôi chậm rãi quay lại nhìn cô nàng một hồi rồi nói nhỏ:

-"Lại lớn hơn một tí rồi hả?"

-"Biến thái!" – Cô nàng nổi cáu, sau đó táng thẳng vào mặt tôi một cú rõ đau.

-"Để tôi nói thẳng nhé, cô cứ thế này không khéo người ta tưởng chúng ta là tình nhân đấy."

-"Ai thèm quen cái loại anh nuôi vô vọng như anh chứ, mới nghe qua đã biết là chuyện cổ tích rồi." – Cô nàng đáp lại, giọng vẫn đanh đá như thường lệ. Lời tuyên bố xanh rờn của cô nàng lại một lần nữa khiến tâm hồn trai trẻ của tôi bị tổn thương nghiêm trọng.

-"Thôi được rồi, không đùa nữa, thế sao cô lại đuổi theo tôi đến tận đây?" – Tôi hỏi, rồi chợt cảm thấy trán mình nóng hổi.

-"Đâu có, tôi đang trên đường đến nhà bà Volga để bốc thuốc thì nghe giọng anh cất lên từ chỗ này, thế là tôi tức tốc chạy qua đấy chứ."

-"Vậy...vậy à?" – Tôi thở dốc, chân tay bắt đầu bủn rủn.

-"Anh cũng lạ thật đấy, thấy tôi bị lũ đàn ông cao to vây quanh mà không thèm vào bênh vực câu nào, quen nhau gần chục năm mà giờ tôi mới biết anh là loại người vô tình như thế đấy."

-"Thế...thế hả? Nhưng lỡ như tôi bị bọn đấy vây đánh thì ai chịu tiền thuốc đấy?" – Đôi mắt tôi bắt đầu trĩu xuống, đầu óc quay cuồng, toàn thân nóng ran.

-"Hứ, nuôi một tên tàn phế cũng chẳng tốn kém mấy đâu, miễn là anh không tòm tem chấm mút mấy cô ngâm rượu là được mà." – Helena đáp, gương mặt ánh lên chút nghịch ngợm, ngón tay vân vê mấy sợi tóc nâu thẳng thớm và đôi gò má cô chợt ửng hồng.

-"Hà hà, chỉ...chỉ sờ thôi, không mút, thề đấy."

-"Này, giọng anh lạ quá, bị ốm à?"

-"Tôi...không sao."

-"Này, này, Leon, tỉnh lại đi."

-"Tôi...tôi không sao thật mà."

-"Leon, Leon!" – Tiếng la thất thanh của Helena là thứ âm thanh cuối cùng mà tôi nghe thấy, và rồi tôi buông tay, hai mắt nhắm nghiền, thả cho toàn thân rơi xuống nền đất lạnh lẽo.

...

Next Stage: Đồi tuyệt vọng.




Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: