Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 5

Tôi không nên vẽ, điều này đã mang lại cho anh bạn nhà thơ chút cảm hứng.

Tôi chỉ muốn một tấm ảnh của anh, để khi nhớ đến anh, trong đầu không đến mức chẳng hình dung nổi một gương mặt.

Lý do này thật sự quá chính đáng, đến mức tôi chẳng tìm ra được cớ gì để từ chối. Ảnh thì không thể gửi qua được, vậy chỉ còn cách nhờ người vẽ chân dung. Tôi đang phân vân không biết phải làm sao, nhờ người quen thì không thể, mà nếu họ hỏi thì tôi cũng không biết giải thích thế nào. Đang suy nghĩ, bên Leonard hình như đã bắt đầu đặt bút.

Anh ấy từng nói mình không biết vẽ mà, vậy là đã tìm được họa sĩ rồi sao? Nhanh thế! Tôi chống cằm chăm chú nhìn những đường nét đang thay đổi dần trên giấy. Từng chút một, hình ảnh khuôn mặt được chậm rãi phác họa trên tờ giấy. Lông mi của anh bạn nhà thơ cũng khá dài, tôi không nhịn được đưa tay ra, ngay trước khi đầu ngón tay chạm đến trang giấy thì tôi kịp tỉnh lại và lập tức rút tay về. Đôi mày tuấn tú, khóe môi nhếch lên, mái tóc hơi bù xù... Phải đến một lúc sau khi họa sĩ dừng bút tôi mới nhận ra là việc vẽ đã kết thúc.

Tôi thán phục lực tay của họa sĩ này, suýt chút nữa đã làm rách cả trang giấy. Vội vàng xé tờ giấy ấy ra, thật may, suýt nữa thì quên mất. Tôi và anh bạn nhà thơ trước đó đã thử nghiệm rồi, trang giấy trong tập thơ khi bị xé ra, mực trên đó sẽ không biến mất. Tôi nhìn tấm chân dung, nhất thời cảm thấy mình gọi anh là anh bạn nhà thơ thật chẳng sai. Người này đúng là có khuôn mặt mang đậm khí chất thi nhân.

Tôi đưa mắt nhìn lại tập thơ, nét chữ của anh bạn nhà thơ đang bay lượn trên trang giấy, đầy kiêu ngạo. Anh hỏi: Klein, anh thấy bức chân dung thế nào? Đáng tiếc là không thể tô màu, chỉ có thể nói cho anh biết rằng thật ra mắt tôi là màu xanh lục. Anh thấy sao?

Cái gì mà "tôi thấy sao", tôi chống tay trái lên mặt nghĩ, cũng đâu phải hàng hóa trên kệ còn có thể trả lại, tất nhiên là như thế nào thì như thế ấy thôi. Tôi nhắm mắt lại, khuôn mặt của anh bạn nhà thơ hiện lên, tôi tưởng tượng anh đội chiếc mũ cao có gắn huy hiệu hình ngôi sao sáu cánh hoặc tám cánh, nhưng thật lòng mà nói, anh ấy không có vẻ gì là người sẽ đội nghiêm chỉnh món đồ này... Áo khoác đen thắt eo, vì là cổ cao nên chắc hẳn anh sẽ thường xuyên khó chịu mà kéo cổ áo... Tôi bỗng mở mắt ra, đột nhiên thấy trong thư viện quá nóng, mà mình thì đã mấy tiếng không uống nước, chẳng trách cổ họng khô khốc.

Cô Daly nói cũng đúng thật.

Tôi gửi lại một câu, đóng tập thơ lại, quyết định đi ăn cho no bụng trước, ăn xong sẽ ra ngoài thử vận may, xem có sinh viên nào đang luyện vẽ ngoài phố không. Bước ra khỏi cửa thư viện, tầm nhìn bỗng chốc trở nên bao la vô cùng. Phía xa xa, mặt trời đỏ vàng đang từ từ lặn xuống, biến mất sau những tòa nhà cao thấp chồng chéo. Ánh hoàng hôn phủ lên mặt đồng hồ và kim đồng hồ của tháp Big Ben một lớp viền vàng óng. Đến khi kim phút và kim giờ thẳng hàng, tiếng chuông như thường lệ vang khắp thành phố, ánh vàng tắt lịm, trời như thể tối đi nhiều chỉ trong một khoảnh khắc.

Tôi bỗng thấy tim đập loạn, cúi đầu vội vã rảo bước đi.

Sau khi ăn tối xong tại căng tin, tôi dạo bước dọc theo những con đường quanh trường, cảm nhận làn gió dịu dàng cuối tháng Tư lướt qua vạt áo. Khi đến góc phố quen thuộc, tôi mua một ly trà đá ngọt cầm trên tay, thỉnh thoảng đưa lên nhấp một ngụm. Cứ thế, tôi vừa chậm rãi bước đi vừa tìm kiếm bóng dáng của người họa sĩ đường phố. Trong túi áo khoác, chiếc chìa khóa va vào móc kim loại của ví tạo ra tiếng lách cách, tôi nghe âm thanh ấy và tự nghĩ, không biết bức chân dung này cần bao nhiêu tiền mới vẽ được. Đến cuối tháng rồi, chẳng còn lại bao nhiêu tiền, nghĩ đến khả năng phải tiêu tốn một khoản lớn sắp tới, tôi không khỏi xót xa. Tuy nhiên, dù có xót tiền thế nào đi nữa, tôi cũng không muốn qua loa trong chuyện này.

Leonard lại gặp may. Anh vừa bước ra khỏi sở cảnh sát thì gặp ngay một cậu bé đang định vào trong để tìm kiếm sự giúp đỡ. Cậu bé từ nơi khác trở về để tìm thân nhân, nghe xong lời kể của cậu, Leonard đã dẫn cậu đến đúng nơi cần tìm. Áo sơ mi của cậu bé dính đầy vết màu và bút chì, Leonard dĩ nhiên chú ý đến điều đó. Sau khi trò chuyện, anh đã trả cho cậu một khoản tiền, nhờ cậu giúp vẽ chân dung bằng bút mực. Leonard bận rộn như thế, làm sao có thể đứng yên một, hai tiếng đồng hồ để người ta vẽ được. Thế là anh lấy ra những tấm ảnh chụp trước đây, bảo cậu bé tự chọn một bức nào rõ mặt chính diện nhất để vẽ theo. Sau khi vẽ xong, cậu bé sẽ mang ảnh và tập thơ trả lại sở cảnh sát.

Thảo nào trên bức tranh lại cười rạng rỡ đến thế, trông vừa vô lo vừa ngốc nghếch, hóa ra đó là trong lễ cưới.

Khi đi đến bên bờ sông, tôi mới giật mình nhận ra trời đã chạng vạng, đèn đường dọc theo phố lần lượt sáng lên. Nghĩ lại, tôi biết rằng lúc này sẽ chẳng còn ai vẽ tranh ngoài trời nữa. Không hiểu sao hôm nay mình lại khờ thế, một giây sau, tôi quyết định đổ lỗi cho việc trò chuyện với Leonard quá lâu, rồi lập tức định quay người bỏ đi.

Ngay lúc đó, hình bóng một người dưới ngọn đèn đường gần đó lọt vào tầm mắt tôi.

Người ấy quay lưng về phía tôi, mái tóc bạc dưới ánh đèn nhuộm một màu vàng ấm. Ông ngồi trên chiếc ghế xếp, tay phải cầm cọ vẽ, đang tô màu lên bảng vẽ trước mặt. Trên bảng lan tỏa một màu vàng rực rỡ, tôi nhận ra đó là khung cảnh mặt nước vàng óng, tháp chuông vàng và kim đồng hồ— đó là cảnh hoàng hôn, gần như giống hệt với cảnh tôi từng thấy trước thư viện, chỉ khác một chút về góc nhìn.

Tôi không kìm được mà chậm bước lại, tiến lại gần hơn để lặng lẽ chiêm ngưỡng, một lúc sau thì hoàn toàn bị cuốn hút.

Người họa sĩ hoàn tất nét vẽ cuối cùng rồi quay người lại, khi thấy tôi, trên gương mặt ông hiện lên biểu cảm vô cùng phức tạp—sửng sốt, hoài niệm... Có lẽ còn lẫn lộn một vài cảm xúc khác nữa. Tuy nhiên, ông nhanh chóng mỉm cười, và tôi mất cơ hội suy nghĩ sâu thêm. Lúc đó tôi mới nhận ra hành động của mình hơi thất lễ, liền vội vàng xin lỗi. Ông cụ phất tay ra hiệu không có gì, rồi bắt đầu tự mình thu dọn đồ đạc. Tôi muốn giúp một tay, nhưng vì không biết gì về dụng cụ vẽ, nên để tránh gây rắc rối, tôi đành ngoan ngoãn đứng một bên quan sát.

Dưới ánh đèn, bức tranh càng trở nên sống động hơn, những gợn sóng trên mặt nước như đang tiếp tục lăn tăn. Tôi chợt có cảm giác rằng kim đồng hồ sắp nhích thêm một nấc, rồi chuông sẽ lại vang lên. Tôi không kìm được mà thốt lên lời khen ngợi: "Quá xuất sắc, không cần nhìn thực cảnh mà vẫn vẽ được đẹp như thế."

Ông cụ bật cười: "Tôi đã ngắm hoàng hôn ở đây nhiều năm rồi."

Xem ra, đây đúng là một bậc thầy thực thụ. Không nói đến giá cả, việc tùy tiện mở lời có lẽ cũng không phải phép...

"Chàng trai trẻ, cậu cần giúp gì không?"

Không biết có phải do gương mặt tôi lộ rõ vẻ băn khoăn quá hay không, mà ông cụ lập tức lên tiếng hỏi thẳng.

Tôi lấy hết can đảm nói: "Ông có thể giúp cháu vẽ một bức chân dung được không? Không cần quá tỉ mỉ, đại khái nhìn ra là cháu là được rồi ạ."

Khi tôi nói, trên gương mặt ông cụ lại hiện lên biểu cảm phức tạp ấy. Rõ ràng là ông đang nhìn tôi, nhưng ánh mắt lại như xuyên qua tôi, đã nhìn thấy nơi rất xa, rất lâu về trước. Tôi cảm thấy hơi khó chịu. Vừa dứt lời, ông cụ liền gật đầu đồng ý. Bất chợt, trong đầu tôi nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: từ lúc thấy tôi, dường như ông cụ đã chờ tôi mở lời, đưa ra lời nhờ vả này.

Cảm giác mơ hồ ấy nhanh chóng nhường chỗ cho sự thán phục tài nghệ của ông.

Tôi nhận lấy tập thơ, người trên bức tranh quả thật giống tôi một cách kỳ lạ... Nhưng nét bút này, sao càng nhìn càng thấy quen thuộc, cứ như tôi vừa mới gặp đâu đây. Vừa mới gặp... Tôi nhìn vào nét bút dứt khoát ở đoạn cuối, chẳng phải đây chính là người đã vẽ chân dung cho anh bạn nhà thơ sao?

Máu trong người tôi như đóng băng lại vào khoảnh khắc ấy. Tôi cố gắng giữ bình tĩnh, định hỏi ông lão liệu có phải năm 43 ông đã gặp một viên cảnh sát rất đẹp trai, người ấy đã giúp ông rồi còn mời ông vẽ một bức chân dung, sau đó ông có gặp lại anh ấy không? Anh ấy... có ổn không? Nhưng khi tôi ngẩng đầu lên, ông cụ đã biến mất rồi.

Tâm trí tôi như lạc lối khi trở về căn hộ, tôi bước thẳng đến giường rồi nằm xuống, trải tập thơ ra bên cạnh. Anh bạn nhà thơ đã xé mất trang đó rồi, chẳng biết anh ấy có nhận ra điều gì không.

Anh ấy giống như tôi đã tưởng tượng, một người ôn hòa, điềm đạm, học thức sâu rộng, thích đọc sách, và có thể dành cả ngày với một chồng sách trong thư viện.

Khi soi gương, tôi luôn có cảm giác xa lạ, rồi tự hỏi liệu người trong gương có thật sự là tôi không. Lâu dần, tôi càng không để ý đến ngoại hình của mình, ngược lại thường nghe người khác nhận xét về mình. Từ trung học đến đại học, bạn bè và thầy cô khi nhắc đến tôi, thường dùng từ "đậm chất sách vở" để miêu tả vẻ ngoài của tôi. Sau này, mỗi khi nghe từ đó, tôi đều cảm thấy ngượng ngùng, chỉ biết cười đáp lại, thầm nghĩ, chẳng lẽ mặt tôi trông giống một cuốn sách sao?

Về bản chất, những gì Leonard nhận xét về tôi cũng không khác mấy so với những lời tôi từng nghe từ bạn bè, nhưng lạ là tôi lại không cảm thấy phản cảm. Nhớ lại câu nói từng đọc trong sách: Người được yêu thì mọi khuyết điểm đều có thể trở nên tốt đẹp. Quả nhiên là như vậy.

...

Tập thơ dù sao cũng là để viết thơ. Theo thời gian, càng có nhiều thơ trên đó, thì số trang trống còn lại càng ít đi, và điều đó cũng có nghĩa là ngày mà chúng tôi hoàn toàn mất liên lạc cũng đến gần hơn. Cuộc trò chuyện giữa chúng tôi, chưa từng để lại một dấu vết nào trên trang giấy, tôi không muốn như vậy, tôi muốn ghi nhớ tất cả. Và so với trí nhớ, tôi tin vào những vật thể thực hơn, thế nên tôi bắt đầu thử chép lại những cuộc đối thoại giữa chúng tôi vào một quyển sổ khác.

Sau khi ghi chép một trang giấy, tôi bỗng cảm thấy giữa những câu chữ thiếu đi điều gì đó. Sau khi xem lại nhiều lần, tôi mới nhận ra rằng không phải tôi bỏ sót lời nói nào, mà là cả trang giấy chỉ có một kiểu chữ, mất đi cảm giác đối thoại với ai đó.

Tôi nhìn vào quyển tập thơ đó, bắt đầu học chữ viết của anh. Nhưng kiểu chữ, thứ rất dễ phân biệt, dường như không thể tách rời khỏi tính cách của người viết. Tôi khổ công học suốt ba tháng, nét chữ thì giống lắm rồi, chỉ là khi viết câu từ, đoạn văn, vẫn cảm thấy không được phóng khoáng như Leonard.

Nhìn đống giấy mình đã hoàn thành, tôi bỗng cảm thấy rất hài lòng. Tôi không định nói thẳng với Leonard rằng mình đã học được chữ của anh, tôi đã nghĩ ra cách tận dụng kỹ năng này rồi. Trong một lần trò chuyện sau đó, tôi dùng kiểu chữ của anh để trả lời, quả nhiên anh hoảng hốt. Lúc đó tôi ngồi trong thư viện cố nhịn cười, đoán chừng anh chắc làm đổ mực, hai trang giấy trong tập thơ đều bị nhuộm đen hết.

Hai trang giấy đó rất nhanh đã biến mất, chỉ còn lại chút mép sót lại. Anh bạn nhà thơ đã xé chúng đi. Tôi bỗng thấy hơi hối hận, điều này có lẽ có nghĩa là cơ hội để chúng tôi nói chuyện lại giảm đi một lần nữa.

Leonard đã kịch liệt lên án hành vi trêu chọc anh ấy của tôi. Lúc đó anh ấy thực sự đã sợ, nghĩ rằng người trả lời anh đã trở thành phiên bản của chính mình ở một thời điểm khác, chứ không còn là tôi nữa.

Sau này, có một lần, tôi ngồi trong thư viện viết luận văn, chỉ tra cứu tài liệu thôi đã khiến tôi đầu óc quay cuồng. Sau khi lập xong dàn ý và các ý chính thì cũng gần đến hạn nộp. Tôi viết vội xong, không kịp kiểm tra lại mà nộp luôn. Vài ngày sau, giảng viên của môn học gọi tôi lên. Tôi nghĩ chắc có lẽ là vì bài viết bị lạc đề hoặc có vấn đề gì đó, nhưng nghe một hồi, tôi mới biết thầy đang khéo léo khuyên tôi không nên lười biếng, không thể nhờ người khác viết hộ bài.

Lúc đó tôi bối rối lắm, không hiểu sao thầy lại nói vậy, cho đến khi thầy đưa ra bài luận của tôi, tôi nhìn mà không biết phải nói gì nữa, thì ra tôi vô thức dùng kiểu chữ của Leonard để viết cả bài luận. Thật là dở khóc dở cười, tôi đành phải viết nửa trang giấy bằng kiểu chữ của anh ấy ngay trước mặt thầy, cuối cùng mới làm rõ được hiểu lầm này.

Anh bạn nhà thơ nghe tôi kể chuyện này, chắc là cười sảng khoái lắm, vì phải đến một phút sau, trên trang giấy mới xuất hiện chữ: Klein, đây là báo ứng đấy.

Tôi không tin điều đó, liền dùng bút gạch bỏ hai chữ "báo ứng", cho đến khi không còn nhìn thấy nữa.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: