Câu 2: Khái niệm lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng
Gía trị hàng hóa được xét cả về mặt chất và mặt lượng. Chất giá trị hàng hóa là lượng lao động trừu tượng kết tinh trong hàng hóa. Lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định. Đo lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa bằng thước đo thời gian như ngày, giờ, tháng, năm lao động. Do đó, lượng giá trị hàng hóa cũng do thời gian lao động quyết định. Thời gian lao động bao gồm thời gian lao động cá biệt và thời gian lao động xã hội cần thiết. Trong đó, thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cá biệt của hàng hóa mà tưng người sản xuất ra. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất hàng hóa, với trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình, trong những điều kiện bình thường so với hoàn cảnh xã hội nhất định. Lượng giá trị hàng hóa không đo bằng thời gian lao động cá biệt mà đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi nên lượng giá trị hàng hóa cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi lượng giá trị của hàng hóa tùy thuộc vào nhiều nhân tố.
Thứ nhất, tăng NSLĐ là tăng hiệu quả, năng lực sx của lao động. NSLĐ phụ thuộc vào trình độ thành thạo trung bình của người lao động; mức độ phát triển của KHKT, công nghệ và mức độ ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất; trình độ tổ chức quản lý; quy mô và hiệu suất cảu tư liệu sản xuất; các điều kiện tự nhiên. Khi NSLĐ tăng lên, giá trị một đơn vị sản phẩm giảm xuống. Như vậy, giá trị của hàng hóa tỉ lệ nghịch với năng suất lao động.
Thứ hai, cường độ lao động. Cường độ lao động, nói lên mức độ lao động khẩn trương nặng nhọc của người lao động trong một đơn vị thời gian. Cường độ lao động được đo bằng sự tiêu hao lao động trong 1 đơn vị thời gian và thường được tính bắng số calo hao phí trong 1 đơn vị thời gian. Tăng cường độ lao động: là tăng sự hao phí lao động trong 1 thời gian lao động nhất định. Cường độ lao động tăng giá trị một đơn vị sản phẩm không đổi. Cường độ lao động cũng phụ thuộc vào: trình độ tổ chức quản lý; quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất; thể chất, tinh thần của người lao động.
Thứ ba, mức độ phức tạp của lao động. Mức độ phức tạp của lao động có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là LĐ không qua huấn luyện, đào tạo. Lao động phức tạp là LĐ phải qua huấn luyện đào tạo, là lao động thành thạo. Khi trao đổi trên thị trường, người ta lấy lao động giản đơn làm căn cứ và quy tất cả lao động phức tạp về lao động giản đơn. Lao đông phức tạp là bội số của lao động giản đơn. Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn.
Lượng giá trị hàng hóa không chỉ bao gồm hao phí lao động sống mà còn bao gồm hao phí lao động quá khứ đã vật hóa trong tư liệu sản xuất ( như máy móc, nguyên vật liệu, năng lượng,...). Do đó lượng giá trị hàng hóa gồm cả giá trị cũ là giá trị những tư liệu sản xuất đã hao phí để sản xuất ra hàng hóa ( KH:c) và giá trị mới do lao động sống của người sản xuất tạo ra (KH: v+m). Vì vậy, cấu thành lượng giá trị hàng hóa(KH:W) bao gồm giá trị cũ tái hiện và giá thị mới. Ta có công thức: W=c+v+m. Việc nghiên cứu lượng giá trị hàng hóa là thực sự cần thiết. Giúp người sản xuất xác định được giá cả của hàng hóa làm ra; tìm ra được những nhân tố tác động đến nó để từ đó có thể tìm ra cách để làm giảm giá cả sản xuất mà vẫn giữ nguyên hoặc làm tăng thêm giá trị để cạnh tranh trên thi trường. Đây chính là mục đích các nhà kinh tế luôn hướng tới nhằm mục đích đạt được lợi nhuận cao.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro