MÁC 1
CHƯƠNG I:
Câu 1: vấn đề cơ bản của triết học?
VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức. Nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để giải quyết những vấn đề khác của triết học, điều đó đã được chứng minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học, VĐCBCTH có hai mặt:
1) Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
2) Con người có khả năng nhận thức được thế giới không? Có khả năng phản ánh đúng đắn hiện thực không? Về mặt thứ nhất, có ba cách trả lời:
a) Những người theo chủ nghĩa duy vật thì cho rằng vật chất có trước và vật chất quyết định ý thức. Chủ nghĩa duy vật có ba hình thức cơ bản tương ứng với ba trình độ phát triển của nhận thức: một là, chủ nghĩa duy vật ngây thơ (hay tự phát) của các nhà triết học cổ Hi Lạp và La Mã; hai là, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỉ 17 - 18; ba là, chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mac, Enghen xây dựng nên và Lênin phát triển.
b) Những người theo chủ nghĩa duy tâm lại quả quyết rằng, ý thức có trước vật chất, quyết định vật chất, suy đến cùng là thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới bằng cách này hay cách khác. Chủ nghĩa duy tâm có hai phái: một là, chủ nghĩa duy tâm chủ quan, thừa nhận cảm giác, "cái tôi" có trước; hai là, chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới bởi một "ý niệm tuyệt đối" nào đó. Về vấn đề này, cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm đều được xem là nhất nguyên luận.
c) Ngoài hai trường phái chủ yếu trên, trong lịch sử triết học còn tồn tại một trường phái thứ ba, những người theo trường phái này thừa nhận cả hai nguyên thể vật chất và tinh thần xuất hiện cùng một lúc và tồn tại độc lập với nhau. Những người này được gọi là những nhà nhị nguyên luận. Thực chất nhị nguyên luận không phải là con đường thứ ba trong triết học, mà đó chỉ là biểu hiện tính chất không triệt để, muốn điều hoà giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm.
Về mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới không? Có khả năng phản ánh đúng đắn hiện thực không? Enghen gọi đó là vấn đề tính đồng nhất giữa tư duy và tồn tại theo ngôn ngữ triết học. Có hai cách trả lời:
a) Tuyệt đại đa số các nhà triết học (cả các nhà duy vật lẫn các nhà duy tâm) đều khẳng định là có, song ở đây có sự khác nhau căn bản giữa các nhà duy vật và các nhà duy tâm, đó là: thế giới là thế giới nào? Thế giới vật chất, hiện thực hay thế giới tinh thần.
b) Một số nhà triết học mà tiêu biểu là Hium (D. Hume) và Kantơ (E. Kant) không thừa nhận là có thể nhận thức được thế giới một cách đầy đủ. Những người này được gọi là những người theo thuyết bất khả tri. Sự phát triển của thực tiễn đã bác bỏ quan điểm sai lầm của họ.
Câu 2: vật chất và các hình thái tồn tại của vật chất?
1.1. Vật chất
a) Phạm trù vật chất
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2.500 năm.
Ngay từ thời cổ đại, xung quanh phạm trù vật chất đã diển ra cuộc đấu tranh không khoan
nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời, cũng giống những phạm
trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát triển gắn liền với thực tiễn và nhận thức của
con người.
Theo Lênin phạm trù vật chất là một phạm trù rộng đến cùng cực, rộng nhất, mà cho
đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt quá được. Khi định nghĩa vật chất không thể quy nó về vật thể hoặc một thuộc tính cụ thể nào đó, cũng không thể quy về phạm trù rộng hơn vì đến nay chưa có phạm trù nào rộng hơn phạm trù vật chất. Do vậy, chỉ có thể định nghĩa vật chất trong quan hệ với ý thức, phạm trù đối lập với nó và trong quan hệ ấy, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Bằng phương pháp như vậy Lênin đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất:
"Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Theo định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất:
Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm "vật chất" với tư cách là phạm trù triết học với
khái niệm "vật chất" được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành (tức khái niệm dùng
để chỉ những dạng vật chất cụ thể, cảm tính; những biểu hiện cụ thể của thế giới vật chất tự nhiên hay xã hội). Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi.
Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất được khái quát
trong phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng là thuộc tính tồn tại khách quan, tức là thuộc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người, cho dù con người có nhận thức được hay không nhận thức được nó.
Thứ ba, vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm giác
ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.
Định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của
chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học.
b) Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại
của vật chất; không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Ph.Ăngghen định nghĩa: "Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là
một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm
tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy". Theo quan điểm của Ph.Ăngghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong không gian mà là "mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ"; vận động "là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất" nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình; vận động của vật chất là tự thân vận động; và sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vận động.
Dựa trên thành tựu khoa học ở thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân chia vận động
thành năm hình thức vận động cơ bản: vận động cơ giới (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian); vận động vật lý (vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, các quá trình nhiệt, điện, v.v...); vận động hóa (sự biến đổi các chất vô cơ, hữu cơ trong những quá trình hóa hợp và phân giải); vận động sinh vật (sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái cấu trúc gen, v.v...); vận động xã hội (sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v... của đời sống xã hội).
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu
của vật chất, chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng đã khẳng định vận động là tuyệt đối, là
vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; song, đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.
Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn
định; vận động chưa làm thay đổi cơ bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.
- Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất:
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính
(chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các mối tương quan nhất định
(trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái, v.v...) với những dạng vật chất khác.
Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa, v.v... Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Là những hình thức tồn tại của vật chất, không tách khỏi vật chất nên không gian,
thời gian có những tính chất chung như những tính chất của vật chất, đó là tính khách quan, tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn. Ngoài ra, không gian có thuộc tính ba chiều (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) còn thời gian chỉ có một chiều (chiều từ quá khứ đến tương lai). Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về quảng tính và quá trình diễn biến của vật chất vận động.
Câu 3:Ý thức và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức?
1.2. Ý thức
Giải quyết những vấn đề về nguồn gốc, bản chất, vai trò của ý thức là một trong
những bước đi ban đầu để giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
Trên cơ sở khái quát thành tựu của khoa học, của thực tiễn xã hội, chủ nghĩa duy vật
biện chứng khẳng định nguồn gốc vật chất, bản chất phản ánh vật chất của ý thức để rút ra
vai trò của ý thức trong mối quan hệ với vật chất.
a) Nguồn gốc của ý thức
Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: Nguồn gốc tự nhiên của ý thức thể hiện qua sự
hình thành của bộ óc con người và hoạt động của bộ óc đó cùng mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người, từ đó tạo ra khả năng hình thành ý thức của con người về thế giới khách quan.
Trong mối quan hệ này, thế giới khách quan được phản ánh thông qua hoạt động của
các giác quan đã tác động đến bộ óc người, hình thành nên ý thức.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là thuộc tính của tất cả các
dạng vật chất song phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức: phản ánh vật lý, hóa học; phản ánh sinh học, phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo (phản ánh ý thức).Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của vật chất.
Phản ánh năng động, sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức
phả
n ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất phát triển cao nhất, có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh năng động, sáng tạo này được gọi là ý thức.
- Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ. Hai yếu tố này vừa là
nguồn gốc vừa là tiền đề của sự ra đời ý thức.
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm
thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là quá trình trong đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên.
Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm thế giới khách
quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của nó, biểu hiện
thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các giác quan, tác động vào bộ óc người, thông qua hoạt động của bộ não con người, tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.
Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan thông
qua quá trình lao động.
Ngôn ngữ là hệ thông tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức.
Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính tập
thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện để giao tiếp, trao đổi tư tưởng. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi mà còn khái quát, tổng kết, đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc cơ bản, trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã làm cho bộ óc của con vượn dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Theo quan điểm duy vật biện chứng: vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan hệ
biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn; trong mối quan hệ đó
vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức.
a) Vai trò của vật chất đối với ý thức
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau;
vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh
đối với vật chất.
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên
chỉ khi có con người mới có ý thức. Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn
gốc xã hội của ý thức (bộ óc người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra
hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ) đều, hoặc là chính bản thân thế giới vật
chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện
tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ) nên vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh về thế giới vật chất nên nội
dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức,
hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác
động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên
vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện
cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
b) Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của
con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn
thay đổi hiện thực con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v... để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông quahoạt động thực tiễn của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới, bản chất năng động, sáng tạo
của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng xây dựng nên một nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất đối với mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Nguyên tắc đó là: trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính khách
quan của vật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan mà căn bản là tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật; tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người, của xã hội. Điều đó đòi hỏi trong nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách kế hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo
của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá nó vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động. Mặt khác phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động.
Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trong
nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí; đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy ý
muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lươc, sách lược, v.v... Đây cũng phải là quá trình chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động, v.v... trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
CHƯƠNG II:
Câu 1: Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật?
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Đặt vấn đề: Các sự vật, hiện tượng của thế giới có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh
hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau?Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì qui định mối liên hệ đó?
-Trình bày quan điểm siêu hình, quan điểm biện chứng, chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa
duy vật biện chứng về vấn đề này.
a) Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
-Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự
vật, hiện tượng trong thế giới.
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các
sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng, v.v.
b) Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ bản
của các mối liên hệ.
- Tính khách quan của các mối liên hệ
Sự qui định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật,
hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ
thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình. Cơ sở lý luận của tính khách quan, tính phổ biến của mối liên hệ phổ biến chính là ở tính thống nhất vật chất của thế giới.
- Tính phổ biến của các mối liên hệ.
Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng
hay quá trình khác. Đồng thời, cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là
một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong
của nó.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ.
Các sự vật, hiện tượng khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau,
giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng
một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác
nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật
thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau.
c) Ý nghĩa phương pháp luận
- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần
phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức và thực tiễn.
- Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết
hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong công việc nhận thức và xử lý các tình huống
trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.
- Liên hệ việc vận dụng các quan điểm trên trong cuộc sống lao động , học tập của bản thân.
2. Nguyên lý về sự phát triển.
a) Khái niệm phát triển
So sánh quan điểm biện chứng và quan điểm siêu hình về sự phát triển.
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng, giảm
thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật; đồng thời, nó cũng xem sự phát
triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển dùng để
chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng đi lên từ trình độ thấp đến trình độ
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Như vậy, khái niệm phát triển không đồng nhất với khái niệm "vận động" (biến đổi)
nói chung; đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng hay sự
biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng ngày càng
hoàn thiện của sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của
sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao
nhân tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật.
b) Tính chất của sự phát triển
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong
phú.
- Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và
phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyếtmâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong
mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.
- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh
hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực
hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau.
c) Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức thế
giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải có
quan điểm động, quan điểm phát triển. Theo V.I.Lênin: "Lôgích biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong "sự tự vận động"..., trong sự biến đổi của nó".
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập
với sự phát triển.
Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong thực tiễn,
một mặt cần phải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của nó; mặt khác con
đường của sự phát triển lại là một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch, đầy
mâu thuẫn, vì vậy đòi hỏi chúng ta phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật,
hiện tượng trong quá trình phát triển của nó, tức là cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và giải quyết các vấn đề trong thực tiễn, phù hợp với tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.
Câu 2: Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật ?
1.Qui luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại.
- Vị trí của qui luật: Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những
sự thay đổi về chất và ngược lại là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
a) Khái niệm chất, lượng
- Trong phép biện chứng, khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với cái khác.
Như vậy, tạo thành chất của sự vật chính là các thuộc tính khách quan vốn có của sự
vật nhưng khái niệm chất không đồng nhất với khái niệm thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Khi những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của nó thay đổi. Việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản của sự vật phải tùy theo quan hệ cụ thể của sự phân tích; cùng một thuộc tính, trong quan hệ này là cơ bản thì trong quan hệ khác có thể là không cơ bản.
Mặt khác, chất của sự vật, hiện tượng không những được xác định bởi chất của các yếu
tố cấu thành mà còn bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng, thông qua các mối
liên hệ cụ thể. Vì vậy, việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chất và thuộc tính cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất, mà có nhiều chất, tùy thuộc vào các mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác. Chất không tồn tại thuần túy tách rời sự vật, biểu hiện tính ổn định tương đối của nó.
- Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật về các
phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật. Với khái niệm này cho thấy: một sự vật có thể tồn tại nhiều loại lượng khác nhau, được xác định bằng các phương thức khác nhau phù hợp với từng loại lượng cụ thể của sự vật.
Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng
hay một quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội hay tư duy. Hai phương diện đó đều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình nhận thức về sự vật chỉ có ý nghĩa tương đối: có cái trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.
b) Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng.
Hai mặt
đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng.
+ Qui luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất:
- Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn tới sự chuyển hóa về chất của sự vật, hiện tượng.
Tuy nhiên, không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là độ.
- Khái niệm độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng
giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật và hiện tượng khác.
- Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng.
Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất.
Giới hạn đó chính là điểm nút. Điểm nút là khái niệm triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ
dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Như vậy, bước nhảy là khái niệm triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời đó cũng là điểm
khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật. Trong thế giới, luôn luôn diễn ra quá trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến bước nhảy về chất, tạo ra một đường nút vô tận, thể hiện cách thức vận động và phát triển của sự vật từ thấp đến cao. Ph.Ăngghen khái quát tính tất yếu này: "Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định, sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất".
+ Các hình thức cơ bản của bước nhảy.
Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng.
Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: Bước nhảy đột biến, bước nhảy dần dần, bước nhảy toàn bộ, bước nhảy cục bộ.
+ Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động
tới lượng của sự vật trên nhiều phương diện như: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ,
nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt
chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy. Đồng thời, chất mới ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật, tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức cơ bản, phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
c) Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì bất kỳ sự vật nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy định
lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, do đó trong nhận thức và thực tiễn cần phải
coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng của sự vật, tạo nên sự nhận thức
toàn diện về sự vật.
- Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất của sự vật với điều
kiện lượng phải được tích lũy tới giới hạn điểm nút, cho nên trong công tác thực tiễn cần
phải khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh; mặt khác, theo tính tất yếu của quy luật thì khi lượng đã được tích lũy đến giới hạn điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về chất của sự vật, do đó cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công tác thực tiễn. Tả khuynh chính là hành động bất chấp quy luật, chủ quan, duy ý chí, không tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bước nhảy liên tục về chất. Hữu khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không dám thực hiện bước nhảy mặc dù lượng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm phát triển chỉ đơn thuần là sự tiến hóa về lượng.
2.Qui luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
- Vị trí của qui luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (còn gọi là qui luật mâu thuẫn) là
qui luật quan trọng nhất của phép biện chứng, là "hạt nhân" của phép biện chứng duy vật.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật về nguồn gốc bên
trong, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển.
a) Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
- Khái niệm mâu thuẫn
Trong phép biện chứng, khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và
đấu tranh, chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật,
hiện tượng với nhau. Đây là quan niệm biện chứng về mâu thuẫn, khác căn bản với quan
niệm siêu hình về mâu thuẫn. Theo quan niệm siêu hình, mâu thuẫn là cái đối lập phản
lôgich, không có sự thống nhất, không có sự chuyển hóa biện chứng giữa các mặt đối lập.
Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập.
- Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh
hướng vận động trái ngược nhau nhưng đồng thời lại là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau.
Thí dụ, điện tích âm và điện tích dương trong một nguyên tử, đồng hóa và dị hóa của một cơ thể sống, sản xuất và tiêu dùng trong hoạt động kinh tế của xã hội, chân lý và sai lầm trong quá trình phát triển của nhận thức, v.v...
- Các tính chất chung của mâu thuẫn
Mâu thuẫn có tính khách quan và tính phổ biến.
Mâu thuẫn không những có tính khách quan, tính phổ biến mà còn có tính đa dạng,
phong phú.
Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau.
- Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc,
không tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia
làm tiền đề tồn tại. Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng bao hàm sự đồng nhất
của nó.
Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu tranh
giữa chúng.
- Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua
lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập.
b) Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau của
các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn.
Trong sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự đấu tranh giữa chúng là tuyệt
đối, còn sự thống nhất giữa chúng là tương đối, có điều kiện, tạm thời; trong sự thống nhất
đã có sự đấu tranh, đấu tranh trong tính thống nhất của chúng.
Sự tác động qua lại dẫn đến chuyển hóa giữa các mặt đối lập là một quá trình. Quá
trình ấy có thể chia ra từng giai đoạn. Mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng của nó.
Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt và phát triển thành hai mặt đối lập.
Chỉ có những mặt khác nhau nào liên hệ hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể và có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau thì mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và khi điều kiện đã chín muồi thì chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành, và quá trình tác động, chuyển hóa giữa hai mặt đối lập lại tiếp diễn, làm cho sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển. Bởi vậy, sự liên hệ, tác động và chuyển hóa giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển trong thế giới. V.I.Lênin khẳng định rằng: "Sự phát triển là một cuộc "đấu tranh" giữa các mặt đối lập".
c) Phân loại mâu thuẫn
- Mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài.
- Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
- Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
- Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
d) Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động lực của sự vận
động, phát triển, do vậy trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn, phát
hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh
hướng của sự vận động và phát triển. V.I.Lênin đã cho rằng: "Sự phân đôi của cái thống nhất
và sự nhận thức các bộ phận mâu thuẫn của nó... đó là thực chất... của phép biện chứng".
- Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do vậy trong việc nhận thức và giải quyết
mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử, cụ thể, tức là biết phân tích cụ thể từng loại mâu
thuẫn và phương pháp giải quyết phù hợp. Trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn,
cần phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện
nhất định; những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng loại
mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất.
- Phương pháp giải quyết mâu thuẫn.
Câu 3: Con đường biện chứng của nhận thức chân lý
Lênin đã chỉ ra con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý như sau: "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn là con đường biện chứng của nhận thức". Như vậy nhận thức của con người gồm hai giai đoạn có quan hệ biện chứng với nhau là: trực quan sinh động và tư duy trừu tượng.
1. Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính)
+ Cảm giác: là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc của mọi hiểu biết của con người. Đó là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc tính bên ngoài của sự vật vào các giác quan của con người.
+ Tri giác: là sự tổng hợp nhiều cảm giác, là hình ảnh hoàn chỉnh về sự vật. So với cảm giác, tri giác là hình thức cao hơn, nó đem lại cho ta hình ảnh về sự vật đầy đủ, phong phú hơn.
+ Biểu tượng: là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ. Biểu tượng chỉ giữ lại những nét chủ yếu, nổi bật nhất của sự vật được cảm giác, tri giác đem lại trước đó. Biểu tượng c
ó thể được xem như khâu trung gian để chuyển từ trực quan sinh động lên tư duy trừu tượng.
Như vậy, cảm giác, tri giác, biểu tượng là những hình thức của nhận thức cảm tính có liên hệ hữu cơ với nhau và phản ánh trực tiếp vẻ ngoài sự vật, hiện tượng khách quan.
- Đặc điểm: là giai đoạn trực tiếp quan sát thế giới xung quanh bằng các giác quan, chỉ hiểu biết được hiện tượng, hình thức bên ngoài, biết được cái riêng lẻ của sự vật, biết được cái ngẩu nhiên.
- Kết quả của quá trình nhận thức này là: Cảm giác - Tri giác và Biểu tượng đầu tiên về sự vật.
2. Tư duy trừu tượng (hay nhận thức lý tính)
+ Khái niệm: là một hình thức của tư duy trừu tượng, nó phản ánh khái quát những mối liên hệ, những thuộc tính chung của một lớp sự vật, hiện tượng nhất định. Khái niệm có tính khách quan được hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn, là kết quả sự khái quát từ trực quan sinh động mà có.
+ Phán đoán: là sự vận dụng các khái niệm để khẳng định hoạc phủ định một thuộc tính, một mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan. Phán đoán còn là hình thức liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong ý thức của con người.
+ Suy luận: là một hình thức của tư duy trừu tượng trong đó xuất phát từ những phán đoán làm tiền đề để rút ra một phán đoán mới.
- Đặc điểm: là giai đoạn gián tiếp quan sát về sự vật bằng các thao tác tư duy (diễn ra trong đầu : phân tích, tổng hợp lại, khái quát rút ra cái chung sự vật ) nhưng người ta nắm được bản chất, nội dung cái chung, cái tất nhiên.
- Kết quả của giai đoạn nhận thức này là: Đem lại cho người ta Khái niệm - Phán đoán - Suy luận về sự vật.
Hai giai đoạn trên thống nhất trong quá trình nhận thức của con người: không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Nhờ có nhận thức lý tính mà con người mới đi sâu nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng, làm cho nhận thức con người sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, đúng đắn hơn.
3. Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn
+ Nhận thức lý tính phải quy trở lại thực tiễn để kiểm tra, khẳng định chân lý hay sai lầm.
+ Thực tiễn không ngừng vận động biến đổi và phát triển, vì vậy, nhận thức lý tính phải quy lại thực tiễn để bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp.
+ Mục đích cuối cùng của nhận thức là để phục vụ hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Một vòng của quá trình nhận thức được bắt đầu từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Kết thúc vòng này, cũng là sự bắt đầu của vòng mới của nhận thức mới sâu sắc hơn, toàn diện hơn. Cứ thế, nhận thức của con người là vô tận
CHƯƠNG III:
Câu 1:quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất?
Qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống
nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản
xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản
xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ
sản xuất là hình thức kinh tế xã hội của quá trình đó. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau, tạo thành qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã hội.
+ Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát
triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất.
+ Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ
sản xuất cho phù hợp với nó. Hay nói cách khác, mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc khách quan: quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định. Bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất, còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Ở trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó. Tính ổn định, phù hợp của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất càng cao thì lực lượng sản xuất càng có khả năng phát triển, nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản xuất lại luôn luôn tạo khả năng phá vỡ sự thống nhất của nó với quan hệ sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản
xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sảnxuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
+ Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có
tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất qui định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ, v.v. Quan hệ sản xuất hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Chính nhờ các cuộc cách mạng xã hội mà những quan hệ sản xuất cũ của xã hội được thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực, tiếp tục phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong một hình thức quan hệ sản xuất mới.
Như vậy, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ
mâu thuẫn biện chứng giữa nội dung vật chất, kỹ thuật với hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này là một quá trình đi từ sự thống nhất đến những khác biệt và đối lập, xung đột, từ đó làm xuất hiện nhu cầu khách quan phải được giải quyết theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Trong phạm vi phân tích sự phát triển xã hội, mâu thuẫn và sự vận động của mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chính là nội dung cơ bản của "quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất". Sự tác động của
quy luật này tạo ra nguồn gốc và động lực cơ bản nhất đối với sự vận động, phát triển của
nền sản xuất vật chất và do đó là sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội; sự vận động, phát triển của lịch sử nhân loại từ phương thức sản xuất thấp lên phương thức sản xuất cao hơn; nó cũng là cơ sở để giải thích một cách khoa học về nguồn gốc sâu xa của toàn bộ các hiện tượng xã hội và các sự biến trong đời sống chính trị, văn hóa của các cộng đồng người trong lịch sử.
Câu 2: Kết cấu , hình thái KT-XH và sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội?
I. Khái niệm và cấu trúc của hình thái kinh tế - xã hội
1. Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng lên trên những quan hệ sản xuất đó.
2. Kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội là một xã hội cụ thể có kết cấu phức tạp, gồm những yếu tố cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng trong sự liên hệ tác động qua lại.
- Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội xét đến cùng là do lực lượng sản xuất quyết định.
- Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản, quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất.
- Những quan hệ sản xuất của một xã hội cụ thể hợp thành cơ sở hạ tầng, trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng xã hội, mà chức năng xã hội của nó là bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Ngoài những yếu tố cơ bản của xã hội trên còn có những quan hệ khác như quan hệ dân tộc, quan hệ gia đình v.v..
II. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên
1. Sự vận động, phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử do sự tác động của các quy luật khách quan chi phối Các yếu tố cơ bản hợp thành một hình thái kinh tế - xã hội có quan hệ biện chứng với nhau hình thành nên những quy luật phổ biến của xã hội: quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng v.v.. Chính do sự tác động của các quy luật đó, mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động phát triển và thay thế nhau từ thấp lên cao như một quá trình lịch
sử tự nhiên.
2. Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Nó vừa bảo đảm tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của xá hội, vừa biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử.
3. Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên được quy định bởi những quy luật chung cho chúng ta nhìn thấy lôgíc của lịch sử thế giới. Nhưng quá trình lịch sử cụ thể vô cùng phong phú, có hàng loạt những yếu tố làm cho quá trình lịch sử đa dạng và thường xuyên biến đổi.
III. Ý nghĩa của học thuyết Mác - Lênin về hình thái kính tế - xã hội
1. Việc vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển xã hội, những nguyên nhân và cơ sở của sự xuất hiện và biến đổi của các hiện tượng xã hội đã biến xã hội học thành một khoa
học thật sự, khắc phục mọi quan điểm duy tâm về lịch sử.
2. Là công cụ lý luận giúp chúng ta nhận thức những quy luật phổ biến đang tác động và chi phối sự vận động của xã hội. Vũ trang cho chúng ta phương pháp khoa học để nghiên cứu xã hội.
3. Là cơ sở lý luận của việc hoạch định các đường lối cách mạng của các đảng cộng sản.
Câu 3: Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người và sang tạo của ls của quần chúng nhân dân.
1. Con người và bản chất của con người
Vấn đề con người luôn là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu trong các học
thuyết triết học. Song, vì hiểu về con người, bản chất của con người, vị trí vai trò của con
người, v.v. khác nhau nên khi trả lời cho các câu hỏi về giải phóng con người cũng có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Trên cơ sở khái quát những quan điểm lớn về con người trong lịch sử, chương "Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người" đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất về con người.
a) Con người một thực thể tự nhiên(sinh học) - xã hội
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện
chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau đây:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở
khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa
duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng
"là thân thể vô cơ của con người". Tuy nhiên, con người không đồng nhất với các tồn tại
khác của giới tự nhiên, nó mang đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là "người" chính là xét trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại, ... Vì
vậy, bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con người, hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người.
- Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các giác độ sau đây:
Một là, nó.xét từ giác độ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì không phải
chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người.
Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự tồn tại của
nó luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì
mỗi con người cũng do đó mà cũng có sự thay đổi tương ứng và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội.
Như vậy con người không phải là một động vật thuần túy mà là một " động vật xã
hội", một thực thể sinh vật (tự nhiên) - xã hội. Thực thể tự nhiên và thực thể xã hội ở con
người không tách khỏi nhau, trong đó thực thể tự nhiên là tiền đề mà trên cái tiền đề đó thực thể xã hội tôn tại và phát triển.
b) Con người là chủ thể của lịch sử
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất của
nó, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng
hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế, nếu lý giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội của nó thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn.
Hoạt động của con người làm ra lịch sử nên để có lịch sử trước hết phải có con
người. Tiền đề đầu tiên của lịch sử là sự tồn tại của những con người sống, vì vậy, hành
động lịch sử đầu tiên, khách quan, tất yếu là hành động lao động sản xuất để con người tách khỏi động vật.
Con người làm ra lịch sử nhưng không phải là lảm theo ý muốn tùy tiện của mình,
mà là trong những điều kiện có sẵn, do quá khứ để lại. Với những điều kiện ấy, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục các hoạt động cũ của thế hệ trước trong hoàn cảnh mới, mặt khác tiếp tục các hoạt động mới của mình để biến đổi hoàn cảnh cũ. Như vậy, con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử.
c) Bản chất của con người
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất, "bản
tính người" của con người, nhưng về cơ bản những quan niệm đó thường là những quan
niệm phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí. Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc,
C.Mác đã phê phán vắn tắt những quan niệm đó và xác lập quan niệm mới của mình: "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội"
Quan niệm duy vật biện chứng về con người trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên
của con người còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát hiện
bản tính xã hội của nó. Hơn nữa, chính bản tính xã hội của con người là phương diện bản
chất nhất của con người với tư cách "người", phân biệt con người với các tồn tại khác của
giới tự nhiên. Vậy, bản chất của con người, xét trên phương diện tính hiện thực của nó,
chính là "tổng hòa của các quan hệ xã hội", bởi xã hội chính là xã hội của con người, được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,
Quan điểm của C. Mác cho thấy:
- Bản chất con người không phải là cái trừu tượng, cố hữu. Bản chất con người
hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực. Đấy là những con người cụ
thể, sống trong những hoàn cảnh cụ thể mà ở đó bản chất con người được bộc lộ ở
những mức độ cụ thể.
- Tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành nên bản chất của con người.
Các quan hệ này có vị trí, vai trò khác nhau nhưng chúng xâm nhập vào nhau,
tràn lan vào nhau, phát huy hoặc kìm hãm tác dụng của nhau.
- Khi các quan hệ xã hội (nhất là quan hệ kinh tế) thay đổi thì sớm hay muộn bản
chất của con người cũng có sự thay đổi. Như vậy, bản chất của con người không
phải được sinh ra mà được sinh thành.
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người có thể rút ra ý nghĩa
phương pháp luận quan trọng sau đây:
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ
đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết địnhphải là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế - xã hội của nó.Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng lực sáng
tạo lịch sử của con người. Vì vậy phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì con
người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của
nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế - xã hội. Trên ý nghĩa
phương pháp luận đó có thể thấy một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là ở mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế - xã hội áp bức và bóc lột, ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của của con người.
b) Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân.
Về căn bản, tất cả các nhà tư tưởng trong lịch sử trước Mác đều không nhận thức
đúng vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có
nguyên nhân từ quan điểm duy tâm, tôn giáo và phương pháp siêu hình trong phân tích các vấn đề xã hội.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân
chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Do đó, lịch sử trước hết và căn bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Vai trò chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quyết định tiến trình phát triển lịch sử của quần
chúng nhân dân được phân tích từ ba giác độ sau đây:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp sản
xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, của xã hội - đây là nhu cầu quan trọng bậc nhất của mọi xã hội ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử.
Thứ hai, cùng với quá trình sáng tạo ra của cải vật chất, quần chúng nhân dân đồng thời
cũng là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp sáng tạo ra các giá trị tinh thần của xã hội.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi cuộc cách
mạng và các cuộc cải cách trong lịch sử.
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ có thể tách rời vai
trò cụ thể của mỗi cá nhân mà đặc biệt là vai trò của các cá nhân ở vị trí thủ lĩnh, lãnh tụ hay ở tầm vĩ nhân của cộng đồng nhân dân. Theo V.I.Lênin: "Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào" .
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân
dân và vai trò của các cá nhân đối với tiến trình lịch sử đã cung cấp một phương pháp luận khoa học quan trọng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn:
Thứ nhất, việc lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định lịch sử của quần
chúng nhân dân đã xóa bỏ được sai lầm của chủ nghĩa duy tâm đã từng thống trị lâu dài
trong lịch sử nhận thức về động lực và lực lượng sáng tạo ra lịch sử xã hội loài người. Đồng thời, đem lại một phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu và nhận định lịch sử cũng như việc nghiên cứu và đánh giá vai trò của mỗi cá nhân, thủ lĩnh, vĩ nhân, lãnh tụ trong cộng đồng xã hội.
Thứ hai, lý luận về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân đã cung cấp một
phương pháp luận khoa học để các đảng cộng sản phân tích các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là sự liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, trên cơ sở đó tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp nhằm tạo ra động lực to lớn trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đi tới thắng lợi cuối cùng.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro