Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Đề Cương Mác-Lenin

CHƯƠNG I:

Câu 1: vấn đề cơ bản của triết học?

VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức. Nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để giải quyết những vấn đề khác của triết học, điều đó đã được chứng minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học, VĐCBCTH có hai mặt:

1) Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?

 2) Con người có khả năng nhận thức được thế giới không? Có khả năng phản ánh đúng đắn hiện thực không? Về mặt thứ nhất, có ba cách trả lời:

a) Những người theo chủ nghĩa duy vật thì cho rằng vật chất có trước và vật chất quyết định ý thức. Chủ nghĩa duy vật có ba hình thức cơ bản tương ứng với ba trình độ phát triển của nhận thức: một là, chủ nghĩa duy vật ngây thơ (hay tự phát) của các nhà triết học cổ Hi Lạp và La Mã; hai là, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỉ 17 - 18; ba là, chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mac, Enghen xây dựng nên và Lênin phát triển.

b) Những người theo chủ nghĩa duy tâm lại quả quyết rằng, ý thức có trước vật chất, quyết định vật chất, suy đến cùng là thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới bằng cách này hay cách khác. Chủ nghĩa duy tâm có hai phái: một là, chủ nghĩa duy tâm chủ quan, thừa nhận cảm giác, "cái tôi" có trước; hai là, chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới bởi một "ý niệm tuyệt đối" nào đó. Về vấn đề này, cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm đều được xem là nhất nguyên luận.

 c) Ngoài hai trường phái chủ yếu trên, trong lịch sử triết học còn tồn tại một trường phái thứ ba, những người theo trường phái này thừa nhận cả hai nguyên thể vật chất và tinh thần xuất hiện cùng một lúc và tồn tại độc lập với nhau. Những người này được gọi là những nhà nhị nguyên luận. Thực chất nhị nguyên luận không phải là con đường thứ ba trong triết học, mà đó chỉ là biểu hiện tính chất không triệt để, muốn điều hoà giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm.

Về mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới không? Có khả năng phản ánh đúng đắn hiện thực không? Enghen gọi đó là vấn đề tính đồng nhất giữa tư duy và tồn tại theo ngôn ngữ triết học. Có hai cách trả lời:

 a) Tuyệt đại đa số các nhà triết học (cả các nhà duy vật lẫn các nhà duy tâm) đều khẳng định là có, song ở đây có sự khác nhau căn bản giữa các nhà duy vật và các nhà duy tâm, đó là: thế giới là thế giới nào? Thế giới vật chất, hiện thực hay thế giới tinh thần.

b) Một số nhà triết học mà tiêu biểu là Hium (D. Hume) và Kantơ (E. Kant) không thừa nhận là có thể nhận thức được thế giới một cách đầy đủ. Những người này được gọi là những người theo thuyết bất khả tri. Sự phát triển của thực tiễn đã bác bỏ quan điểm sai lầm của họ.

Câu 2: vật chất và các hình thái tồn tại của vật chất?

1.1. Vật chất

a) Phạm trù vật chất 

Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2.500 năm.

Ngay từ thời cổ đại, xung quanh phạm trù vật chất đã diển ra cuộc đấu tranh không khoan

nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời, cũng giống những phạm

trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát triển gắn liền với thực tiễn và nhận thức của

con người.

Theo Lênin phạm trù vật chất là một phạm trù rộng đến cùng cực, rộng nhất, mà cho

đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt quá được. Khi định nghĩa vật chất không thể quy nó về vật thể hoặc một thuộc tính cụ thể nào đó, cũng không thể quy về phạm trù rộng hơn vì đến nay chưa có phạm trù nào rộng hơn phạm trù vật chất. Do vậy, chỉ có thể định nghĩa vật chất trong quan hệ với ý thức, phạm trù đối lập với nó và trong quan hệ ấy, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Bằng phương pháp như vậy Lênin đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất:

“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho 

con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn 

tại không lệ thuộc vào cảm giác”.

Theo định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất:

Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học với

khái niệm “vật chất” được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành (tức khái niệm dùng

để chỉ những dạng vật chất cụ thể, cảm tính; những biểu hiện cụ thể của thế giới vật chất tự nhiên hay xã hội). Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi.

Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất được khái quát

trong phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng là thuộc tính tồn tại khách quan, tức là thuộc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người, cho dù con người có nhận thức được hay không nhận thức được nó.

Thứ ba, vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm giác

ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.

Định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của

chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học.

b) Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại

của vật chất; không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.

- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.

Ph.Ăngghen định nghĩa: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là

một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm

tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. Theo quan điểm của Ph.Ăngghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”; vận động “là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình; vận động của vật chất là tự thân vận động; và sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vận động.

Dựa trên thành tựu khoa học ở thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân chia vận động

thành năm hình thức vận động cơ bản: vận động cơ giới (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian); vận động vật lý (vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, các quá trình nhiệt, điện, v.v…); vận động hóa (sự biến đổi các chất vô cơ, hữu cơ trong những quá trình hóa hợp và phân giải); vận động sinh vật (sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái cấu trúc gen, v.v…); vận động xã hội (sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v… của đời sống xã hội).

Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu

của vật chất, chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng đã khẳng định vận động là tuyệt đối, là

vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; song, đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.

Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn

định; vận động chưa làm thay đổi cơ bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.

- Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất:

Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính

(chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các mối tương quan nhất định

(trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái, v.v…) với những dạng vật chất khác.

Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa, v.v… Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.

Là những hình thức tồn tại của vật chất, không tách khỏi vật chất nên không gian,

thời gian có những tính chất chung như những tính chất của vật chất, đó là tính khách quan,  tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn. Ngoài ra, không gian có thuộc tính ba chiều (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) còn thời gian chỉ có một chiều (chiều từ quá khứ đến tương lai). Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về quảng tính và quá trình diễn biến của vật chất vận động.

Câu 3:Ý thức và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức?

1.2. Ý thức

Giải quyết những vấn đề về nguồn gốc, bản chất, vai trò của ý thức là một trong

những bước đi ban đầu để giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.

Trên cơ sở khái quát thành tựu của khoa học, của thực tiễn xã hội, chủ nghĩa duy vật

biện chứng khẳng định nguồn gốc vật chất, bản chất phản ánh vật chất của ý thức để rút ra

vai trò của ý thức trong mối quan hệ với vật chất.

a) Nguồn gốc của ý thức

Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.

- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: Nguồn gốc tự nhiên của ý thức thể hiện qua sự

hình thành của bộ óc con người và hoạt động của bộ óc đó cùng mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người, từ đó tạo ra khả năng hình thành ý thức của con người về thế giới khách quan.

Trong mối quan hệ này, thế giới khách quan được phản ánh thông qua hoạt động của

các giác quan đã tác động đến bộ óc người, hình thành nên ý thức.

Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác 

trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là thuộc tính của tất cả các

dạng vật chất song phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức: phản ánh vật lý, hóa học; phản ánh sinh học, phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo (phản ánh ý thức).Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của vật chất.

Phản ánh năng động, sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức

phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất phát triển cao nhất, có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh năng động, sáng tạo này được gọi là ý thức.

- Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ. Hai yếu tố này vừa là

nguồn gốc vừa là tiền đề của sự ra đời ý thức.

Lao động  là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm

thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là quá trình trong đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên.

Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm thế giới khách

quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của nó, biểu hiện

thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các giác quan, tác động vào bộ óc người, thông qua hoạt động của bộ não con người, tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.

Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan thông

qua quá trình lao động.

Ngôn ngữ là hệ thông tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức.

Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.

Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính tập

thể. Mối quan hệ giữa các thành viên  trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện để giao tiếp, trao đổi tư tưởng. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi mà còn khái quát, tổng kết, đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Như vậy, nguồn gốc cơ bản, trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát

triển của ý thức là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã làm cho bộ óc của con vượn dần dần biến chuyển  thành bộ óc của con người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.

2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

Theo quan điểm duy vật biện chứng: vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan hệ

biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn; trong mối quan hệ đó

vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức.

a) Vai trò của vật chất đối với ý thức

Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; 

vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh 

đối với vật chất.

Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên

chỉ khi có con người mới có ý thức. Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn

gốc xã hội của ý thức (bộ óc người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra

hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ) đều, hoặc là chính bản thân thế giới vật

chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện

tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ) nên vật chất là nguồn gốc của ý thức.

Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh về thế giới vật chất nên nội

dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức,

hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác

động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên

vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện

cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.

b) Vai trò của ý thức đối với vật chất

Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua 

hoạt động thực tiễn của con người.

Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của

con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn

thay đổi hiện thực con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v… để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông quahoạt động thực tiễn của con người.

Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực.

c. Ý nghĩa phương pháp luận

Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới, bản chất năng động, sáng tạo

của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng xây dựng nên một nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất đối với mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Nguyên tắc đó là: trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan đồng thời phát  huy tính năng động chủ quan.

Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính khách

quan của vật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan mà căn bản là tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật; tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người, của xã hội. Điều đó đòi hỏi trong nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách kế hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động.

Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo

của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá nó vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động. Mặt khác phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động.

Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trong

nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí; đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy ý

muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lươc, sách lược, v.v… Đây cũng phải là quá trình chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động, v.v… trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #giddywind