de cuong mac
Mục lục
Câu 1: Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN
Câu 2: Trình bày quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT
Câu 3: Quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong xã hội TBCN và sự lưu thông của giá trị thặng dư?
Câu 4: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức? từ đó rút ra phương pháp luận?
Câu 5: Phân tích nguyên lý mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật? từ đó rút ra ý nghĩa.
Câu 6: Tư tưởng hồ chí minh về vấn đề văn hóa?
Hỏi thêm: Vận dụng quan điểm đó của HCM vào việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở việt Nam hiện nay?
Câu 7: Quan điểm hồ chí minh về vấn đề đạo đức?
Câu 8: Tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc?Vận dụng tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay?
Câu 9: Tư tưởng HCM về vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc
Câu10: Phân tích nội dung của vật chất và ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa M-L từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận.
Câu 11: Trình bày quan hệ giữa đổi mới nhận thức và đổi mới xã hội? liên hệ với xã hội ta hiện nay?
Câu 12: Xây dựng nền dân chủ XHCN và nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
Câu 1: Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN
a)Khái niệm:
- Thành phần kinh tế là biểu hiện kiểu quan hệ kinh tế, là khu vực kinh tế tương ứng với loại hình sở hữu nhất định.
- Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là sự tác động qua lại giữa các TPKT cùng tồn tại trong môi trường vừa có sự hợp tác vừa có sự cạnh tranh lẫn nhau.
b) Tính tất yếu khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần:
Trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần , đó là vì:
- Bước vào thời kỳ quá độ, nền kinh tế nước ta còn ở trình độ kém phát triển, lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều nấc thang khác nhau, do đó có nhiều loại hình sở hữu TLSX khác nhau dẫn tới nền kinh tế sẽ có nhiều thành phần.
- Do xã hội cũ còn tồn tại một số TPKT mà chúng vẫn có tác dụng thúc đẩy LLSX phát triển, có lợi cho đất nước, chúng ta không thể và không nên xóa bỏ một cách chủ quan duy ý chí. Ví dụ như TPKT tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân)
- Trong quá trình cải tạo và xây dựng CNXH xuất hiện một số TPKT mới: TPKT nhà nước, TPKT tập thể, TPKT tư bản nhà nước và TPKT có vốn đầu tư nước ngoài.
=> Các TPKT cũ và mới đan xen lẫn nhau tác động wa lại lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
c) Vai trò của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN
Sự tồn tại nền KT nhiều thành phần ở nước ta có vai trò to lớn vì:
- Nền kinh tế tồn tại nhiều TP phù hợp với tình trạng thấp kém và ko đồng đều của LLSX ở nước ta hiện nay. Sự phù hợp này có tác dụng thúc đẩy tăng NSLĐ, tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong các TP KT và trong toàn bộ nền KT quốc dân ở nước ta.
- Thúc đẩy ptriển nền KT hàng hóa cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, ptriển các mặt của đời sống KT-XH.
- Cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các TP KT trong nước như: vốn, lao động, tài nguyên, kinh nghiệm tổ chức quản lý, khoa học và công nghệ mới…
- Tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức KT quá độ trong đó có hình thức tư bản nhà nước đưa nước ta từ sx nhỏ lên CNXH bỏ qua gđ TBCN.
- Tạo tiền đề khắc phục tình trạng độc quyền, tạo quan hệ cạnh tranh, là động lực quan trọng thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất.
=> Từ những lợi ích trên cho thấy cơ cấu kinh tế nhiều TP có vai trò to lớn, nó phù hợp với trình độ XH hóa của LLSX ở nước ta, vừa phù hợp với lý luận của Lênin về đặc điểm kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Do đó, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế “cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành mạnh.”
d) Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay:
Sau năm 1986( đh đại biểu toàn quốc lần thứ 6) Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển các thành phần kinh tế:
Kinh tế nhà nước
* Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu SX (sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước)
* Bao gồm: các DN NN, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm NN và các TS thuộc sở hữu NN có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế.
* KTNN giữ vai trò chủ đạo:
- Hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng XHCN bằng nhiều hình thức, đi đầu nêu gương trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và chấp hành pháp luật.
- Là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để nhà nước thực hiện chức năng định hướng và quản lý vĩ mô nền kinh tế theo định hướng XHCN.
- Cùng với kinh tế tập thể ( nòng cốt là hợp tác xã) dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
* Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước theo các hướng sau:
- Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế.
- Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm 100 % vốn.
- Giao, bán, khoán, cho thuê… các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ.
- Sáp nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp nói trên.
b/ Kinh tế tập thể:
- Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh, tự quản lý theo nguyên tắc tập trung, bình đẳng cùng có lợi.
- Kinh tế tập thể ( hợp tác xã là nồng cốt) liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ SX kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn, phân phối theo LĐ, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ.
- Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính (lợi ích các thành viên và lợi ích tập thể), đồng thời, cũng coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên.
=> Đảng ta cần tăng cường lãnh đạo, có những chính sách khuyến khích, ưu đãi, giúp đỡ để phát triển hiệu quả kinh tế tập thể.
c/ Kinh tế tư nhân:
Kinh tế cá thể, tiểu chủ
- Kinh tế cá thể là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về TLSX và khả năng LĐ của bản thân người LĐ và gia đình.
- Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về TLSX nhưng có thuê mướn LĐ, tuy nhiên, thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình.
- Phát triển cả ở nông thôn & thành thị, trong ngành nghề pháp luật không cấm. Chủ yếu hoạt động dưới hình thức hộ gia đình.
- Hạn chế: tính tự phát, manh mún, hạn chế về quy mô vốn, trình độ kỹ thuật công nghệ, khả năng tiếp cận thị trường.
- N² cần tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các DN thuộc các TPKT khác, hoặc phát triển lớn hơn.
Kinh tế tư bản, tư nhân
- Là hình thức kinh tế mà SX và kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX và bóc lột sức LĐ làm thuê.
- Trong TKQĐ lên CNXH, TPKT này không giữ vai trò thống trị nhưng có vai trò đáng kể trên phương diện phát triển LLSX, XH hoá SX cũng như giải quyết các vấn đề XH.
- Năng động, nhạy bén với KT thị trường.
- Tập trung trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, kinh doanh BĐS, đầu tư vào SX còn ít và chủ yếu quy mô vừa và nhỏ.
- NN khuyến khích TBTN bỏ vốn đầu tư phát triển, bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ, xoá bỏ định kiến, tạo các điều kiện thuận lợi (về tín dụng, khoa học – CN…)
d/ Kinh tế tư bản nhà nước
- Là TPKT dựa trên hình thức SH hỗn hợp
- Bao gồm các hình thức liên doanh, liên kết giữa KTNN với tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư KD.
- Có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, cung cách quản lý & marketing hiện đại
- Chủ trương của Đảng là áp dụng phổ biến hình thức này
e/ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
- Bao gồm các DN có thể 100% vốn nước ngoài (1 thành viên hay nhiều thành viên), có thể liên kết liên doanh với DNNN hoặc DNTN của nước ta
- Có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta
- Nhà nước cần tạo đ/k phát triển thuận lợi, hướng vào XK, xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH gắn với thu hút CN hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm.
- Cần cải thiện môi trường kinh tế, pháp lý để thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài
e) Tính thống nhất và mâu thuẫn của các thành phần kinh tế
Các thành phần kinh tế không tồn tại độc lập mà đan xen vào nhau, tác động qua lại với nhau. Các thành phần kinh tế vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau
*Tính thống nhất:
Mỗi TPKT là 1 bộ phận cấu thành của nền KTQD thống nhất. Các chủ thể SX, KD thuộc các TPKT vừa hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau và bình đẳng trước pháp luật.
*Tính mâu thuẫn:
Các TP kinh tế mâu thuẫn với nhau vì mỗi TPKT có đặc điểm riêng về QH sở hữu TLSX. Ngoài chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế chung còn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế đặc thù. Do đó, các TPKT mang bản chất kinh tế khác nhau, có các lợi ích kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Trong nội bộ mỗi thành phần kinh tế cũng mâu thuẫn với nhau do vi phạm hợp đồng, giành thị trường…
Mâu thuẫn giữa các TPKT làm cho cạnh tranh trở thành tất yếu, là động lực quan trọng để cải tiến kỹ thuật, phát triển LLSX.
Tóm lại, trong nền kt tồn tại nhiều TP, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa chúng là khách quan. Sự thống nhất và mâu thuẫn làm cho các TPKT vừa hợp tác, vừa cạnh tranh.
Câu 2:Trình bày quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT
a) Khái niệm
-Cơ sở hạ tầng: là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. VD: nhà máy, đường xá, công trình …
Trong xã hội có giai cấp cơ sở hạ tầng gồm 3 yếu tố:
+ QHSX tàn dư
+ QHSX thống trị
+ QHSX mầm mống của xã hội tương lai
Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội.Quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định tác động trở lại của đối với quan hệ sản xuất thống trị bằng cách thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển.
- Kiến trúc thượng tầng: Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v. cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v. được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định..
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp.
b)Quan hệ biện chứng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
b.1. CSHT quyết định KTTT
- CSHT sinh ra KTTT: CSHT của một xã hội nhất định như thế nào , tính chất của nó ra sao ,giai cấp đại diện cho nó thế nào thì hệ thống tư tưởng chính trị , pháp luật, đạo đức, triết học ..và các quan hệ, thể chế tương ứng với những tư tưởng ấy cũng như vậy.
- Cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng phải thay đổi theo. C.Mác viết: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”(2)
- CSHT quyết định sự biến đổi kiến trúc thượng tầng. sự biến đổi đó sảy ra trong mỗi hình thái KT-XH,cũng như từ hình thái KT-Xh này sang hình thái xh khác.Trong xã hội có đối kháng giai cấp sự biến đổi đó diễn ra thông qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp.
- CSHT quyết định KTTT là quy luật phổ biến của mỗi hình thái kinh tế- xã hội.
b.2.Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT
- sự tác động tích cực của KTTT đối với CSHT thể hiện trước hết ở chức năng chính trị xã hội của KTTT nhằm bảo vệ, duy trì củng cố và phát triển CSHT sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ CSHT và KTTT cũ.
- các bộ phận khác nhau của KTTT đều tác động đến CSHT bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng có tác động to lớn nhất và trực tiếp đối với CSHT.
- trong mỗi hình thái kt-xh, KTTT có những quá trình biến đổi nhất định.quá trình đó càng phù hợp với CSHT thì sự tác động của nó đối với CSHT càng có hiệu quả và ngược lại, quá trình đó ko theo cùng chiều với quy luật vận động của CSHT thì nó sẽ cản trở sự phát triển của CSHT.
- trong thời đại ngày nay, vai trò của KTTT tăng lên rõ rệt,càng thể hiện với tư cách là 1 yếu tố tác động mạnh mẽ đến tiến trịnh lịch sử. song nếu nhấn mạnh hoặc thổi phồng vai trò của KTTT đến mức phủ định tính tất yếu kt-xh thì sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan duy ý chí.
c) Ý nghĩa phương pháp luận
CSHT quyết định KTTT vì vậy muốn đưa đất nước phát triển, khi vạch ra các đường lối chính sách trước hết phải xuất phát từ các quan hệ kinh tế.
KTTT tác động trở lại với CSHT thông qua vai trò lãnh đạo của nhà nước vì vậy phải coi trọng vai trò của chính trị, tính năng động sáng tạo của chính trị trong việc vận dụng vao các quy luật kinh tế khách quan. Tuyệt đối hoá một mặt nào đó cung dẫn tới sai lầm.
Hỏi thêm: sự vận dụng quy luật trên của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay?
Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng quy luật trên 1 cách đúng đắn phù hợp giữa CSHT và KTTT:
Ở nước ta, trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta không chỉ quán triệt và vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà còn phải quán triệt và vận dụng một cách khoa học và sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng kinh tế của nước ta hiện nay là một kết cấu kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu đan xen lẫn nhau. Thừa nhận sự tồn tại của một kết cấu kinh tế với nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế cùng tồn như vậy là một tất yếu khách quan. Bởi lẽ, trình độ lực lượng sản xuất của chúng còn thấp và chưa đồng đều. Song, đây lại là một nền kinh tế năng động, phong phú. Chính tính chất đan xen của kết cấu kinh tế ấy nó đặt ra nhu cầu khách quan là kiến trúc thượng tầng cũng phải được đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Lẽ dĩ nhiên, không phải với nền kinh tế nhiều thành phần và nhiều hình thức sở hữu khác nhau thì nhất thiết phải đa đảng và đa nguyên về chính trị, nhưng nhất thiết phải đổi mới kiến trúc thượng tầng theo hướng: đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy hành chính nhà nước, đổi mới con người, đổi mới phong cách lãnh đạo, đa dạng hoá các tổ chức, đoàn thể, hiệp hội, mở rộng dân chủ (đặc biệt là dân chủ cơ sở), tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc… nhằm tập trung sức mạnh của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đổi mới kinh tế là cơ sở, tiền đề cho đổi mới chính trị. Song, muốn đổi mới kinh tế phải đổi mới chính trị để tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là hai quá trình gắn bó hữu cơ với nhau trên tinh thần ổn định chính trị để đổi kinh tế một cách toàn diện và có hiệu quả trong sự nghiệp đổi mới
(+ Đảng và nhà nước chủ trương phát triển các thành phần kinh tế.
+ chủ trương phát triển kinh tế thị trường
+ chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa..
Những chủ trương trên nằm trong quan điểm nhất quán của Đảng:
+ nằm trong chủ trương phát triển cơ chế thị trường theo định hướng XHCN
+ các thành phần kinh tế phát triển cạnh tranh lành mạnh)
Câu 3: Quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong xã hội TBCN và sự lưu thông của giá trị thặng dư?
a. Khái niệm:
Giá trị thặng dư là 1 bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Qúa trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tban trả được hoàn lại bằng 1 vật ngang giá mới.hay nói cách khác quá trình sản xuất giá trị thặng dư là quá trình nhà tư bản bóc lột sức lao động của công nhân làm ,thuê.
b.Phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư:
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị thặng dư. Nhưng để sản xuất giá trị thặng dư, trước hết, nhà tư bản phải sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó, vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.
Quá trình sản xuất này có hai đặc điểm:một là, công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản, hai là, toàn bộ sản phẩm làm ra thuộc về nhà tư bản.
Nghiên cứu quá trình sản xuất trong xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, ta cần giả định ba vấn đề là nhà tư bản mua tư liệu sản xuất và sức lao động đúng giá trị; khấu hao máy móc vật tư đúng tiêu chuẩn kỹ thuật và năng suất lao động ở một trình độ nhất định
Ví dụ giả định: nhà tư bản thuê công nhân làm việc 8h/ngày và trả tiền công là 5usd. Để sản xuất sợi, nhà tư bản bỏ chi phí cho các yếu tố sản xuất như mua 10kg bông hết 20USD; hao mòn máy móc để chuyển 10kg bông thành sợi là 5 USD.
Giả định trong 4 giờ đầu của ngày lao động, bằng lao động cụ thể của mình, người công nhân vận hành máy móc đó chuyển được 10kg bông thành sợi có giá trị là 20 USD => tổng chi phí do nhà tb bỏ ra là 5(tiền công) + 20(giá trị tlsx) + 5(KH máy móc) = 30 usd => giá trị của hàng hóa sợi là 30usd.Nếu quá trình lao động dừng lại ở đây thì nhà tư bản không có lợi gì và người công nhân không bị bóc lột.
Theo giả định trên, ngày lao động là 8 giờ nên người công nhân tiếp tục làm việc 4 giờ nữa. Trong 4 giờ này, nhà tư bản chỉ cần đầu tư thêm 10 kg bông hết 20USD và hao mòn máy móc 5 USD để chuyển 10kg bông nữa thành sợi.Chi phí lúc mà nhà tb bỏ ra lúc này chỉ là 25usd =>tổng chi phi mà nhà tb bỏ ra trong 8h là 30+25= 55 usd, trong khi đó trong 8h người công nhân tạo ra giá trị hàng hóa sợi là: giá trị của 20kg bông (40 usd) + chi phí khấu hao máy móc thiết bị(10usd)+ giá trị mới do sức lao động của cn làm ra trong ngày (10usd) = 60 usd. So với số tư bản ứng trước (55 USD), sản phẩm sợi thu được có giá trị lớn hơn là 5 USD (60USD – 55USD). 5 USD này là giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được.
Ngày lao động được chia làm 2phần: phần thời gian lao động mà cn tạo ra 1 giá trị mới = giá trị sức lao động của họ được gọi là thời gian lao động tất yếu. Còn phần thời gian lao động mà công nhân tạo ra 1 lượng giá trị nhưng đã bị nhà tư bản chiếm không được gọi là thời gian lao động thặng dư.
Từ ví dụ trên ta kết luận: giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị hàng hoá sức lao động do người công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt, không trả tiền. Cho nên C.Mác viết: “Bí quyết của sự tự tăng thêm giá trị của tư bản quy lại là ở chỗ tb chi phối được một số lượng lao động không công nhất định của người khác”. Sở dĩ nhà tư bản làm được điều đó là họ sở hữu TLSX.
Sự lưu thông của giá trị thặng dư
Câu 4:phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức? từ đó rút ra phương pháp luận?
a) Lê nin đã định nghĩa:
- Vật chất là pạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại ko lệ thuộc vào cảm giác.
- Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não của con người 1 cách năng động sang tạo, nó là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
b) Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Theo duy tâm thì ý thức quyết định vật chất.
Theo chủ nghĩa M-l trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất quyết định ý thức và ý thức tác động ngược lại vật chất.
- Vc quyết định ý thức thể hiên:
- vc (xét cuối cùng) là cái có trước, ý thức có sau. Vc sinh ra ý thức, ý thức là chức năng của óc người- dạng vc có tổ chức cao nhất của thế giới vc.trong quá trình phản ánh thế giới khách quan ý thức là sự phản ánh thế giới vc vào con người.
-điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là tiền đề nguồn gốc xã hội, ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc của con người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội, ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội. do vậy vật chất quyết định sự phát triển của ý thức, quyết định tính phong phú ,đa dạng, nhiều vẻ của ý thức.
- vật chất phát triển đến đâu thì ý thức phát triển đến đó
- vật chất biến đổi thì ý thức biến đổi theo.
-Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định nhưng sau khi ra đời ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nói tới vai trò của ý thức là nói tới vai trò của con người vì ý thức là ý thức của con người, bản thân của ý thức tự nó không làm thay đổi gì hiện thực.ý thức tác động trở lại vc theo 2 hướng:
- Ý thức phản ánh đúng và sâu sắc thế giới khách quan , nó sẽ thúc đẩy thế giời vật chất phát triển nhanh vì đó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu phương hướng chính xác
- Ngược lại ý thức có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi ý thức phản ánh sai thế giới khách quan, nó sẽ kìm hãm sự pát triển của thế giới vật chất.
c) Ý nghĩa phương pháp luận:
Vì vật chất quyết đinh ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và tuân theo quy luật khách quan.
Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải chú ý giáo dục nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng chúng trong hđộng thực tiễn của con người.
Cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như thái độ thụ động, chời đợi vào điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan.
Câu 5: Phân tích nguyên lý mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật? từ đó rút ra ý nghĩa.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là 1 trong những nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật.
a. Nội dung nguyên lý
Các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau trong thế giới tồn tại cô lập, tách biệt nhau hay có liên hệ qua lại, ràng buộc lẫn nhau? Nếu có thì cơ sở nào đảm bảo cho sự liên hệ qua lại, ràng buộc lẫn nhau đó?
Quan điểm trước Mác về mối liên hệ phổ biến
+ Quan điểm chủ nghĩa duy vật siêu hình máy móc: cho rằng các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau trong thế giới tồn tại cô lập, tách biệt nhau, cái này nằm cạnh cái kia, không có sự liên hệ lẫn nhau; còn nếu giả sử có sự liên hệ thì đó chỉ là sự liên hệ ngẫu nhiên, hời hợt, bề ngoài. Họ ko vạch được bản chất quy luật vận động của thế giới vật chất do vậy họ không trở thành công cụ để con người cải tạo thực tiễn xã hội.
+ Quan điêm duy tâm: họ cho rằng các sự vật hiện tượng liên hệ với nhau là do 1 lực lượng siêu tự nhiên nào đó bên ngoài tác động.
Quan điểm của chủ nghĩa M-L:
Trên cơ sở kế thừa giá trị tiến bộ của nhân loại và quá trình khái quát thành tựu KH đương thời thì chủ nghĩa M-L cho rằng các sự vật hiện tượng trong thế giới tự nhiên có sự tác động qua lại giữa sự vật này với sự vật kia.
Theo chủ nghĩa Mac-lê nin cái liên hệ là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ sự liên hệ tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt ,các quá trình của chính sự vật hiện tượng đó.
b. Tính chất của mối liên hệ:
- Tính khách quan:là cái vốn có ở các sự vật hiện tượng, bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới, nó tồn tại độc lập và ko phụ thuộc vào ý thức của con người.
VD: trong mỗi con người tồn tại 2 quá trình: đồng hóa và dị hóa.
-Tính phổ biến:là các sự vật, hiện tượng ở ko gian và thời gian khác nhau thì mối liên hệ của nó cũng khác nhau.
Dù biểu hiện dưới bất kì hình thức nào thì mối liên hệ cũng biểu hiện chung nhất và toàn cầu nhất.
-Tính đa dạng
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định mối liên hệ còn có tính phong phú, đa dạng. Tính chất này được biểu hiện ở chỗ:
+ Các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó.
+ Cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có tính chất và vai trò khác nhau. Do đó, không thể đồng nhất tính chất, vị trí vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật nhất định. Căn cứ vào tính chất, đặc trưng của từng mối liên hệ, có thể phân loại thành các mối liên hệ sau:
- Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài.
- Mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp
- Mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu
- Mối liên hệ cơ bản và mối liên hệ không cơ bản
- Mối liên hệ cụ thể, mối liên hệ chung, mối liên hệ phổ biến.
VD về mối quan hệ bên trong và bên ngoài:Quan hệ 2 người cùng làm việc trong công ty
Mối quan hệ bên trong: là đồng nghiệp, cấp trên cấp dưới.
Mối quan hệ bên ngoài: là anh em, bạn bè..
Sự phân chia các mối quan hệ chỉ mang tính chất tương đối, việc phân chia này có vị trí vai trò khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Trong mỗi sự vật hiện tượng không chỉ có 1 mối liên hệ mà còn có rất nhiều mối liên hệ khác nhau.
VD: 1 sinh viên thì có mối liên hệ
-bên trong :thầy cô giáo, bạn bè trong lớp
-bên ngoài: các phòng, khoa của nhà trường và xã hội.
-trực tiếp: tri thức và nghiên cứu khoa học
-gián tiếp:ăn, mặc, vui chơi, giải trí..
Qua ví dụ trên ta thấy mỗi sự vật, hiện vật có nhiều mối liên hệ khác nhau. Mỗi 1 mối liên hệ có vị trí,vai trò ,chức năng khác nhau trong quá trình vận động phát triển của các sự vật hiện tượng vì vậy chúng ta cần phải biết nắm bắt được mối liên hệ của các sự vật hiện tượng để áp dụng vào thực tiễn.
b)Ý nghĩa phương pháp luận:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, giữa các mặt của sự vật và trong sự tác động qua lại giữ sự vật đó với sự vật khác. Trên cơ sở đó có nhận thức và hành động đúng với thực tiễn khách quan.
“Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “ quan hệ gián tiếp” của sự vật đó.
Chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả các mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng nhắc” (V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1976, t.42, tr.384)
Đối lập với quan điểm biện chứng toàn diện thì quan điểm siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng một cách phiến diện. Nó không xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng; hoặc xem mặt này tách rời mặt kia, sự vật này tách rời sự vật khác.
Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải kết hợp quan điểm toàn diện với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu việc nhận thức các tình huống trong hoạt động thực tiễn cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tác động; xác định rõ vị trí vai trò khác nhau của mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để đưa ra các biện pháp đúng đắn phù hợp với đặc điểm cụ thể của đối tượng cần tác động nhằm tránh quan điểm phiến diện, siêu hình, máy móc.
Câu 6: Tư tưởng hồ chí minh về vấn đề văn hóa?
1. Những quan điểm của HCM về văn hóa.
Hồ chí minh quan niệm: “ “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
a. Quan niệm về vị trí, vai trò của văn hoá:
Văn hoá là bộ phận của kiến trúc thượng tầng, là đời sống tinh thần của xã hội. Chính trị, xã hội được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn hoá phát triển. Hồ Chí Minh đã vạch ra đường lối: Phải tiến hành cách mạng chính trị trước, cụ thể là cách mạng giải phóngơ dân tộc để giành chính quyền, từ đó giải phóng văn hoá, mở đường cho văn hoá phát triển. “Xã hội thế nào thì văn hoá thế đấy”. Người dự định xây dựng văn hoá với 5 nội dung lớn:
(1) Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
(2) Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
(3) Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
(4) Xây dựng chính trị: dân quyền.
(5) Xây dựng kinh tế”.
Văn hóa có mối quan hệ mật thiết với kinh tế chính trị xã hội. “Văn hoá ở trong chính trị” tức là văn hoá phải tham gia nhiệm vụ chính trị, tham gia cách mạng, kháng chiến và xây dựng CNXH. “Vănhoá ở trong kinh tế” tức là văn hoá phải phục vụ, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. “Văn hoá ở trong kinh tế và chính trị” cũng có nghĩa là chính trị và kinh tế phải có tính văn hoá. Mối quan hệ mật thiết đó được thể hiện như sau:
- Văn hoá quan trọng ngang kinh tế, chính trị, xã hội.
- Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn hoá phát triển.
- Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hoá.
- Văn hoá là kiến trúc thượng tầng, nó phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế.
Trong kháng chiến, Người định hướng hoạt động văn hoá, thực hiện khẩu hiệu: “văn hoá hoá kháng chiến, kháng chiến hoá văn hoá”, những người hoạt động văn hoá cũng là chiến sĩ trên mặt trận văn hoá.
b. Quan điểm về tính chất của nền văn hoá mới
Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, nền văn hoá thể hiện:
- Tính dân tộc, đặc tính dân tộc hay cốt cách dân tộc là cái tinh tuý, đặc trưng riêng của văn hoá dân tộc. Cốt cách văn hoá dân tộc không phải “nhất thành bất biến”, mà có phát triển và bổ sung nét mới.
- Tính khoa học của nền văn hoá thuận với trào lưu tiến hoá của tư tưởng hiện đại: hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Những người làm văn hoá phải có trí tuệ, hiểu biết khoa học tiên tiến, phải có chiến lược xây dựng văn hoá mang tầm thời đại.
- Tính đại chúng của nền văn hoá là phục vụ nhân dân, phù hợp nguyện vọng của nhân dân, đậm đà tính nhân văn.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, nền văn hoá thể hiện:
- Nội dung xã hội chủ nghĩa: tiên tiến, tiến bộ, khoa học, hiện đại, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
- Tính dân tộc của nền văn hoá là giữ gìn, kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, phù hợp với điều kiện lịch sử mới.
c. Quan điểm về chức năng của văn hoá
- Một là, bồi dưỡng tư tưởng đạo đức đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người. Người thường xuyên quan tâm đến bồi dưỡng lý tưởng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Đó là chức năng cao quý của văn hoá. Hồ Chí Minh nói phải làm cho văn hoá soi đường cho quốc dân đi, đi sâu vào tâm lý quốc dân, để xây dựng tình cảm lớn cho con người.
- Hai là, nâng cao dân trí, “mọi người phải hiểu biết quyền lợi của mình... phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” Khi miền Bắc quá độ lên CNXH, Người nói “chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống vui tươi hạnh phúc.”
- Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người vươn tới chân- thiện- mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân mình.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hoá
a) Văn hoá giáo dục:
- HCM phê phán nền giáo dục phong kiến , nền giáo dục thực dân.
- Nền giáo dục của nước Việt Nam sau khi được độc lập là nền giáo dục mới.
- Mục tiêu của văn hoá giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hóa.
- Cải cách giáo dục là xây dựng hệ thống trường, lớp với chương trình và nội dung dạy học thật khoa học, hợp lý, phù hợp với bước phát triển của ta.
- Phương châm, phương pháp giáo dục:
+ Phương châm: lý luận đi đôi với thực tiễn, học đi đôi với hành, học kết hợp với lao động sản xuất. Giáo dục phải có tính định hướng đúng đắn, rõ ràng, thiết thực, phối hợp nhà trường với gia đình – xã hội, thực hiện bình đẳng dân chủ trong giáo dục.
Học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người; học suốt đời; coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. “học không biết chán, học không bao giờ đủ, còn sống còn phải học”.
+ Phương pháp giáo dục phải bám chắc vào mục tiêu giáo dục.
- Quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất, yêu nghề; phải có đạo đức cách mạng, phải yên tâm công tác, đoàn kết; phải giỏi chuyên môn, thuần thục phương pháp.
b) Văn hoá văn nghệ:
- Văn nghệ là một mặt trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới.
- Văn nghệ phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân:Thực tiễn không chỉ là nguồn nuôi dưỡng những sáng tác, mà còn là những tinh hoa trong sáng tác dân gian đã được chắt lọc từ thế hệ này qua thế hệ khác.
- Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước và của dân tộc:Phải phán ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng và vui tươi. Khi chư xem thì muốn xem, xem rồi thì bổ ích.
c) Văn hoá đời sống
Quan điểm xây dựng đời sống mới thực sự là quan điểm độc đáo của Hồ Chí Minh về văn hoá. Thực chất đời sống mới bao gồm 3 nội dung: đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới, ba nội dung ấy có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức đóng vai trò chủ yếu.
- Đạo đức mới. Theo Hồ Chí Minh là thực hành đời sống mới trước hết là thực hành đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm chính.
- Lối sống mới. Đó là lối sống có lý tưởng có đạo đức,văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hoà truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá của nhân loại
- Nếp sống mới. Quá trình xây dựng lối sống mới làm cho nó dần dần trở thành thói quen ở mỗi người, thành phong tục tập quán của cả cộng đồng trong phạm vi địa phương hay cả nước gọi là nếp sống mới. Nếp sống mới phải kế thừa những truyền thống tốt đẹp, những thuần phong mỹ tục lâu đời của nhân dân ta. Cái gì cũ mà xấu thì bỏ. Cái gì cũ mà không xấu thì phải sửa đổi cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm. Cái gì mới mà hay thì phải làm.
Hỏi thêm: Vận dụng quan điểm đó của HCM vào việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở việt Nam hiện nay?
Nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa việt nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là xây dựng con người việt nam trong giai đoạn mới với những nội dung sau:
- Có tinh thần yêu nước tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập,dân tộc,dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần, kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỉ cương phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp,có kĩ thuật sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
-Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa của nhân loại trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế.Phải nhận thức giao lưu, hội nhập là 1 xu thế tất yếu khách quan hiện nay, nhưng chứa đựng trong đó cả mặt tích cực và tiêu cực. Mở rộng giao lưu hội nhập trên cơ sở lấy bản sắc dân tộc làm nền tảng. Cần nhìn nhận văn hóa trong mối quan hệ với phát triển
Phải đấu tranh chống sự xâm nhập của những yếu tố phản văn hóa. Chống khuynh hướng hòa tan giá trị, áp đặt giá trị ngoại lai, từng bước hủy hoại nhân cách con người, đầu độc nhân dân, trước hết là lớp trẻ.
Câu 7: Quan điểm hồ chí minh về vấn đề đạo đức?
1.Quan niệm về vai trò của đạo đức cách mạng:
Đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, chúng ta phải đem hết tinh thần và lực lượng ra phấn đấu, phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng
Đạo đức được xem xét trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Vai trò của đạo đức cách mạng là to lớn, Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng ấy là công việc thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi người trong xã hội ta.
Đạo đức là gốc, là nền tảng vì nó liên quan tới Đảng cầm quyền.Đảng cầm quyền lãnh đạo xã hội, nếu cán bộ đảng viên không tu dưỡng đạo đức thì mặt trái của quyền lực có thể làm tha hoá con người. Vì thế, Hồ Chí Minh cho rằng “Đảng là đạo đức, là văn minh”.
Vai trò của đạo đức còn thể hiện là lòng cao thượng của con người. Mỗi người có công việc, tài năng, vị trí khác nhau… nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng thì là người cao thượng.
Tư tưởng đạo đức và bản thân đạo đức của Hồ Chí Minh là kết tinh đạo đức của dân tộc, của nhân loại. Hồ Chí Minh là điểm rực sáng về đạo đức đối với thế giới và đối với Việt Nam. Các thế hệ người Việt Nam phấn đấu cho độc lập dân tộc đến với Hồ Chí Minh trước hết là đến với tư tưởng đạo đức của Người. “Sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” là khẩu hiệu chung của người Việt Nam
Theo Lênin, “đạo đức là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản.”
Hồ Chí Minh cũng quan tâm giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân lao động. Tuỳ theo từng thời kỳ cách mạng mà Người đề ra những yêu cầu đạo đức sát hợp để mọi người cùng phấn đấu. Có đức nhưng phải có tài, đức và tài quan hệ mật thiết với nhau. Có đức nhưng phải có tài,tài càng lớn thì đức càng phải cao, vì đức – tài nhằm phục vụ nhân dân. Đạo đức là gốc, là vũ khí mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và CNXH.
2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới
a. Trung với nước, hiếu với dân
Một là, trung với nước hiếu với dân. Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Hồ Chí Minh đã kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống và vượt trội. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước là của dân, còn nhân dân là chủ của đất nước. “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân”. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Nội dung chủ yếu của trung với nước là:
- Đặt lợi ích của đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết.
- Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng.
- Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nội dung của hiếu với dân là:
- Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
- Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Hai là: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con người.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; “Không xa sỉ, không hoang phí, không bừa bãi,”
Liêm là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”. Phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình. Cụ Khổng nói: người mà không liêm, không bằng súc vật. Cụ Mạnh nói: ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy.
Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn.
Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.
Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh viết:
“TrờI có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người”.
Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc. “Nó” là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.
Chí công vô tư, là làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lợi ích của cách mạng. “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Hồ Chí Minh viết: “ Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Ba là:Yêu thương con người
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".
Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng.
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người.
Bốn là:Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung
Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết là nhằm vào mục tiêu lớn của thời đại hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
a. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức. Cán bộ đảng viên phải đầu tầu gương mẫu “miệng nói tay làm”, phải nêu tấm gương đạo đức cách mạng trước quần chúng; cán bộ, đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Sống theo phương châm “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Cổ vũ “người tốt, việc tốt”, các điển hình tiêu biểu.
b. Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.
Xây dựng đạo đức mới là phải giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới cho con người Việt nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, từ gia đình, nhà trường, đến xã hội. Phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người. Bên cạnh đó, phải không ngừng chống lại những cái xấu, cái sai, vô đạo đức. Để xây và chống có kết quả phải tạo thành phong trào rộng rãi, phải chống lại chủ nghĩa cá nhân.
Xây dựng đạo đức mới có nhiều cách làm, nhưng phải có hiệu quả. Ví dụ phong trào “3 xây, 3 chống”.
c. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức đó là công việc kiên trì bền bỉ, không thể chủ quan tự mãn. Mỗi người ai cũng có điều tốt và dở, thiện và ác. Phải đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con người. Có “tu thân” mới làm được những việc lớn khác như “trị quốc bình thiên hạ”. Việc tu dưỡng đạo đức phải thực hiện trong thực tiễn hoạt động hằng ngày, trong lao động sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt,.. Có như thế việc tu dưỡng mới có kết quả.
Câu 8: Tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc?Vận dụng tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay?
a) Những nội dung cơ bản tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc
Dân tộc là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của lịch sử. trước khi dân tộc ra đời, xã hội đã có những hình thức cộng đồng như: thị tộc, bộ tộc, bộ lạc
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.Các dân tộc có quyền tự quyết trong việc lựa chọn chế độ chính trị, xu hướng phát triển đi lên.
Là dân nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc sớm nhận thức vấn đề dân tộc, nhận thức sâu sắc tình cảnh, nguyện vọng các dân tộc thuộc địa, nung nấu ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc. Người tiếp thu và phát triển sáng tạo, độc đáo những quan điểm chủ nghĩa Mác Lê Nin về vấn đề dân tộc, đặt CM giải phóng dân tộc vào quỹ đạo CM vô sản, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, thống nhất với nhau trong CM vô sản.
Như vậy, vấn đề dân tộc trong TTHCM là vấn đề giải phóng dân tộc thuộc địa, thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xóa bỏ ách áp bức bốc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, xây dựng nhà nước độc lập.
Vấn đề dân tộc theo tư tưởng HCM trong thời đại cách mạng vô sản đầu thế kỉ 20 gồm những luận điểm cơ bản sau:
Độc lập, tự do là quyền thiêng liêm bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc:
+ độc lập của tổ quốc, tự do của nhân dân là thiêng liêng nhất. Người đã từng khẳng định: cái mà tôi cần nhất trên đời là “đồng bào tôi được tự do, tổ quốc tôi được độc lập”.
+ khi thành lập Đảng năm 1930, trong cương lĩnh chính trị đầu tiên người xác định nhiệm vụ của cách mạng việt nam: đánh đổ thực dân pháp và bọn phong kiến để là cho nước Nam hoàn toàn độc lập.
+ Năm 1941,người về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, tại hội nghị ban chấp hành TW đảng lần thứ VIII người nêu cao vấn đề dân tộc: “trong lúc này quyền lợi dân tôc giải phóng cao hơn hết thảy”. Bởi vậy năm 1945 khi thời cơ cách mạng chín muồi, Người khẳng định quyết tâm: dù có phải đốt cháy cả dãy trường sơn cũng phải kiên quyết giành độc lập cho dân tộc. Khi giành được độc lập đân tộc năm 1945, Bác viết: “Nước vn có quyền hưởng tự do,độc lập,và sự thật đã trở thành 1 nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc VN quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Nhưng sau đó 21 ngày , thực dân pháp một lần nữa trở lại xâm lược nước ta. Để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc, hồ chí minh đã ra lời kêu gọi vang dậy núi sông: “không! Chúng ta thà hinh tất cả chứ nhất định không chụi mất nước, không chụi làm nô lệ”.
+ Những năm 60 của thế kỉ 20 khi đế quốc mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh ra miền bắc hòng khuất phục ý chí độc lập, tự do của nhân dân ta, chủ tịch hồ chí minh đã trả lời bằng chân lý bất hủ: “ không có gì quý hơn độc lập tự do...” người nêu cao khẩu hiệu: “đánh cho mỹ cút, đánh cho ngụy nhào giải phóng miền nam thống nhất đất nước” buộc chúng phải kí hiệp định Giơnevo năm 1954 về việc VN đã công nhận.
Vì vậy Người không những được tôn vinh là anh hùng giải phóng dân tộc mà còn đc thừa nhận là người khởi sướng các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng HCM còn là sự kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với CNXH, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
HCM khác lớp trước là người đã giải quyết vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc trên lập trường của chủ nghĩa M-L, giành độc lập để đi lên chủ nghĩa Xh.
Người tiếp thu lí luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa M-L thấy rõ mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa cách mạng dân tộc và cách mạng vô sản. Người đã phát triển và vận dụng 1 cách sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa M-l vào thực tiễn cách mạng nước ta. Người chỉ rõ 2 quan điểm:
+ các nước đế quốc xâm lược cướp bóc lột thuộc địa làm cho mâu thuẫn giữa thuộc địa và đế quốc nổi lên gay gắt. Giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi phải tập hợp đoàn kết mọi lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc. Ngày nay chỉ có giai cấp cn mới có thể đoàn kết và lãnh đạo mọi giai tầng làm cách mạng giải phóng dân tộc.
+ Ở các nước thuộc địa, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần độc lập dân tộc là một động lực to lớn, đây là chủ nghĩa dân tộc chân chính. Vì thế, khi cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, thì chủ nghĩa dân tộc ở đó nhất định sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế (thành chủ nghĩa Cộng sản).Vì thế, những người cộng sản ở các nước thuộc địa phải tự nắm lấy ngọn cờ dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của giai cấp CN.
Như vậy giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân và của cách mạng thế giới. chỉ có chủ nghĩa cộng sản mớ cứu loài người đem lại chô mọi người bình đẳng , bác ái thật sự.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xh:Độc lập dân tộc phải đi tới chủ nghĩa XH mới xóa tận gốc cơ sở áp bức giai cấp.như vậy ở HCM truyền thống yêu nước đã phát triển thành yêu nước trên lập trường của giai cấp vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghia xh.
Độc lập cho dân tộc mình và cho các dân tộc khác: Người tôn trọng quyền tự quyết của mối dân tộc nhưng người cũng chủ trương ủng hộ cách mạng TQ , Lào, CPC... và giúp bạn là tự giúp mình.
b)Vận dụng tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay.
- Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ xây dựng và bảo vệ tổ quốc: hội nghị TƯ 6( khóa 7) đã xác định rõ nguồn lực và phát huy nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó nguồn lực con người cả về thể chất và tinh thần là quan trọng nhất. Cần khơi dậy truyền thống yêu nước của con người VN biến thành động lực để chiến thắng kẻ thù, xây dựng và phát triển kinh tế.
- Quán triệt tư tưởng HCM nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp: khẳng định vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp vs, của đảng cộng sản, kết hợp vấn đề dân tộc và giai cấp đưa cách mạng vn từ giải póng dân tộc lên chủ nghĩa XH. Đại doàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công – nông – trí thức do đảng lãnh đạo.
- Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc VN.
Câu 9: tư tưởng HCM về vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc
Là hệ thống các quan điểm về con đường cứu nước, về tổ chức lực lượng, chiến lược, sách lược và những nhân tố bảo đảm thắng lợi của CM giải phóng dân tộc Việt Nam và các dân tộc thuộc địa khỏi chủ nghĩa thực dân đế quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh,… Đây là đóng góp xuất sắc nhất của Hồ Chí Minh vào kho ung lý luận Mác Lê Nin… Vì vậy được suy tôn là anh ung giải phóng dân tộc.
1. CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải theo con đường CM vô sản:
Trước những thất bại và bế tắc của các phong trào chống Pháp, Nguyễn Tất Thành tìm đường cứu nước, Người nghiên cứu 3 cuộc CM điển hình: CM Mỹ 1776, CM tư sản Pháp 1789 và CM tháng 10 Nga, Người rút ra kết luận:
CM Pháp cũng như CM Mỹ đều là CM tư sản, CM không đến nơi, tiếng là Cộng hòa dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa, chúng ta đã hi sinh làm CM thì làm đến nơi, làm sao khi CM rồi thì quyền giao lại cho dân chúng số nhiều, thế thì dân chúng khỏi phải hi sinh nhiều lần, dân chúng mới hạnh phúc.
Trong thế giới bây giờ chỉ có CM tháng 10 là thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng hạnh phúc tự do bình đẳng thật sự.
Tiếp xúc với luận cương của Lê Nin, Người tìm thấy ở đó con đường giải phóng dân tộc và chỉ rõ: Các đế quốc vừa xâu xé thuộc địa, vừa liên kết nhau đàn áp CM thuộc địa; Thuộc địa cung cấp của cải và binh lính đánh thuê cho đế quốc để đàn áp CM chính quốc và thuộc địa. Vì thế giai cấp vô sản chính quốc và thuộc địa có chung kẻ thù và phải biết hỗ trợ nhau chống Đế quốc.
Người ví CN đế quốc như con đỉa 2 vòi, 1 vòi cắm vào chính quốc, 1 vòi vươn sang thuộc địa, muốn giết nó thì phải cắt 2 vòi, phải phối hợp CM chính quốc với thuộc địa. CM giải phóng thuộc địa và CM chính quốc là 2 cánh của CM vô sản, muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường CM vô sản.
2. CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp CN lãnh đạo:
Trong các phong trào chống Pháp trước 1930 ở nước ta đã xuất hiện các đảng phái, hội, đoàn thể như Duy Tân Hội, Việt Nam Quang Phục Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng,… nhưng những Đảng này thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức chặt chẽ, thiếu cơ sở rộng rãi trong quần chúng nên không thể lãnh đạo kháng chiến thành công và bị tan rã với các khuynh hướng cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, tư sản.
Từ thắng lợi của CM Tháng 10 Nga do Đảng CS lãnh đạo, người khẳng định: CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi, trước hết phải có Đảng lãnh đạo, không có Đảng chân chính lãnh đạo CM không thể thắng lợi. Đảng có vững CM mới thành công, người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có CN làm cốt. Không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, không có kim chỉ nam. Đảng phải xác định rõ mục tiêu, lý tưởng CNCS, phải tuân thủ các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng theo học thuyết Đảng kiểu mới của Lê Nin.
3. CM giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông:
CN Mác Lê Nin khẳng định CM là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân dân lao động là người sáng tạo và quyết định sự phát triển lịch sử.
Người chủ trương đưa CM Việt Nam theo con đường CM vô sản, nhưng chưa làm ngay CM vô sản, mà thực hiện CM giải phóng dân tộc, giải quyết mâu thuẫn dân tộc với đế quốc xâm lược và tay sai. Mục tiêu là giành độc lập dân tộc. Vì vậy CM là đoàn kết dân tộc, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản bản xứ,… ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu gom toàn lực đem tất cả ra giành độc lập tự do, đánh tan giặc Pháp Nhật xâm lược nước ta.
Tập trung mọi lực lượng trong mặt trận để chống cường quyền, nhưng phải lấy công nông làm gốc. Đây là lực lượng đông đảo, nhưng lại bị 2, 3 tầng áp bức, là lực lượng có tinh thần CM triệt để nhất.
4. CM giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước CM vô sản chính quốc:
Khi CN Đế quốc xâm lược thuộc địa, CM giải phóng dân tộc có khuynh hướng phát triển, nhưng lúc đó quốc tế CS lại đánh giá thấp CM giải phóng thuộc địa.
Nghiên cứu luận cương của Lê Nin về CM thuộc địa và xuất phát từ áp bức của CN Đế quốc với thuộc địa, Hồ Chí Minh lập luận về nguyên nhân của CM thuộc địa : “ Người Đông Dương không được học, nhưng đau khổ, đói nghèo và sự bạo ngược của CN Thực Dân là người thầy dạy mầu nhiệm của họ; người Đông Dương sẽ tiến bộ một cách nhanh chóng khi thời cơ cho phép và họ biết tỏ ra xứng đáng với những người thầy dạy của họ.””Không, người Đông Dương không chết, người Đông Duơng sống mãi. Bên cạnh sự phục tùng tiêu cực, Người Đông Dương sống âm ỷ và sẽ bùng nổ mãnh liệt khi thời cơ đến.”
Tại ĐH V Quốc tế CS (6/1924): Nguyễn Ái Quốc lập luận về vai trò của CM thuộc địa: "Vận mệnh của giai cấp vô sản ở các chính quốc gắn chặt với vận mệnh các giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa. Nọc độc và sức sống của rắn độc TBCN đang tập trung ở các thuộc địa, nếu khinh thường CM thuộc địa là muốn đánh rắn chết đằng đuôi.”(CM thuộc địa đánh dập đầu rắn độc TBCN).
Hồ Chí Minh chỉ rõ tính chủ động của CM thuộc địa: Thuộc địa là mắc xích yếu nhất trong hệ thống CNĐQ, trong khi đó nhân dân thuộc địa luôn có tinh thần yêu nước, căm thù xâm lược, họ sẽ vùng lên khi thời cơ đến. Vì vậy, năm 1924 Nguyễn Ái Quốc khẳng định: CM thuộc địa không những không phụ thuộc vào CMVS chính quốc mà có thể nổ ra và giành thắng lợi trước CM chính quốc và khi hoàn thành CM thuộc địa họ có thể giúp đỡ giai cấp vô sản chính quốc phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.
CM thuộc địa phải chủ động giành thắng lợi trước CMVS chính quốc, CM thuộc địa chỉ có thể dựa vào sự nỗ lực của nhân dân thuộc địa, phải đem sức ta tự giải phóng cho ta.
5. CM giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng nhân dân:
Theo CN Mác Lê Nin, có nhiều phương pháp giành chính quyền từ tay giai cấp thống trị. Những kẻ thù không bao giờ tự nguyện giao chính quyền cho nhân dân. Vì vậy CM muốn thắng lợi phải dùng bạo lực của quần chúng nhân dân để giành chính quyền.
Hồ Chí Minh khẳng định: Ở các nước thuộc địa, CN thực dân dùng bạo lực phản CM đàn áp các phong trào yêu nước. CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi thì phải dùng bạo lực CM chống lại bạo lực phản CM. Bạo lực phản CM là bạo lực của quần chúng gồm lực lượng “chính trị” của quần chúng và lực lượng “vũ trang” với 2 hình thức đấu tranh chính trị và vũ trang kết hợp với nhau.
Để giành chính quyền phải bằng bạo lực, trước hết là khởi nghĩa vũ trang của quần chúng. Trong thời đại mới, thời đại CM vô sản thì cuộc khởi nghĩa vũ trang phải có sự ủng hộ của CM vô sản thế giới, CM Nga, thậm chí với CM vô sản Pháp.
Tư tưởng về CM bạo lực gắn liền với tư tưởng về xây dựng lực lượng vũ trang được Hồ Chí Minh suy nghĩ từ sớm và khi trở thành chủ trương của Đảng tại hội nghị trung ương 8 (5/1941), Người kết luận: cuộc CM Đông Dương được kết liễu bằng khởi nghĩa vũ trang. Căn cứ vào tương quan so sánh lực lượng vào thiên thời, địa lợi. Hồ Chí Minh bàn tới khởi nghĩa từng phần, mở rộng cho cuộc tổng khởi nghĩa to lớn giành chính quyền trong cả nước.
Từ sau Hội nghị trung ương 8, Hồ Chí Minh chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, lực lượng vũ trang, lực lượng Chính trị, chuẩn bị tổng kết khởi nghĩa. Thắng lợi CM tháng 8 chứng minh tính đúng đắn của TTHCM về con đường bạo lực CM.
Câu10:phân tích nội dung của vật chất và ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa M-L từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận.
A. Vật chất:
a. Quan điểm trước Mác về vật chất:
Thời kì cổ đại:
+ấn độ: vật chất do 4 yếu tố tạo lên là: đất, nước, lửa và không khí
+trung quốc: khởi nguyên của của vật chất theo thuyết âm- dương ngũ hành là 5 yếu tố:kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
+ở hi lạp cổ đại, Tanet coi thực thể của thế giới là nước, Heraclit coi thực thế đó là lửa
Đỉnh cao tư tưởng duy vật cổ đại về vật là thuyết nguyên tử của loxip và đêmôcrit, 2 ông cho rằng nguồn gốc của thế giới là nguyên tử. Đây là quan điểm đúng đắn nhất thời kỳ đó.
Nói chung các quan điểm về vật chất thời kỳ cổ đại là đúng nhưng còn ngây thơ, chất phát vì các nhà triết học chỉ quan sát bằng mắt thường thấy yếu tố nào quan trọng thì cho đó là nguồn gốc sinh ra thế giới mà không có sự phân tích, liên hệ nào với các sự vật hiện tượng khác.
Thời kì trung đại: quan niệm về vật chất không phát triển vì sự thống trị của thiên chúa giáo và thần học. triết học trở thành 1 bộ phận của thần học nó chỉ phục vụ cho giai cấp thống trị.
Từ thời kỳ phục hưng: trong giai đoạn thế kỷ 17 - thế kỷ 18, mặc dù đã có những bước phát triển, đã xuất hiện những tư tưởng biện chứng nhất định trong quan niệm về vật chất, song quan niệm đó ở các nhà triết học duy vật thời kỳ này về cơ bản vẫn mang tính chất cơ giới, đó là khuynh hướng đồng nhất vật chất với nguyên tử hoặc với khối lượng. Quan niệm này chịu ảnh hưởng khá mạnh bởi cơ học cổ điển của Newton, một lĩnh vực của vật lý được coi là phát triển hoàn thiện nhất thời bấy giờ.
C.mac và Engels đã kế thừa những giá trị tích cực đồng thời vạch ra những hạn chế trong quan niệm về vật chất của các nhà duy vật trước đó, đã tổng kết những thành tựu của khoa học tự nhiên, khái quát và hình thành nên một quan niệm khoa học về phạm trù vật chất. Các ông nêu lên sự đối lập giữa vật chất với ý thức, về tính thống nhất vật chất của thế giới, về tính khái quát của phạm trù vật chất và sự tồn tại của vật chất dưới các dạng cụ thể.
Engels nhấn mạnh rằng cần phân biệt các dạng tồn tại khách quan của vật chất và khái niệm về vật chất. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không có tồn tại cảm tính.
b)Quan niệm vật chất của Lê nin: Trên cơ sở :Kế thừa tư tưởng của Mác và Ăng nghen và tổng kết thành quả của khoa học tự nhiên cũng như xuất phát từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm bảo vệ chủ nghĩa duy vật.
Lê nin đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất cho đến ngày nay vẫn còn giá trị: “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, mang lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác
Những nội dung cơ bản và ý nghĩa của nó.
Thứ nhất: Vật chất là một phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của sự vật hiện tượng nó phản ánh cái chung, cái vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi.
Thứ hai: Đặc trưng quan trong nhất của vật chất là thuộc tính khách quan là cái tồn tại ngoài ý thức, không phụ thuộc vào ý thức, ý thức chỉ là bản sao, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Thứ ba: Mang lại cho con người trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh: Lênin khảng định vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người, được giác quan chúng ta nhận biết một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Con người nhận thức về vật chất từ thấp đến cao, từ nhận thức cảm tính, đến nhận thức lý tính.
- Ý nghĩa của định nghĩa
Một là: bằng việc tìm ra thuộc tính khách quan Lê nin đã phân biệt vật chất với vật thể, khái quát được thuộc tính bản chất phổ biến nhất của vật chất là tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người.
Cung cấp căn cứ cho khoa học xác định những gì thuộc về vật chất. Tạo lý luận cho việc xây dựng chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Hai là: Định nghĩa đã giải quyết đúng đắn về vấn đề cơ bản của triết học về bản chất thế giới trên lập trường duy vật khẳng định: vật chất có trước, ý thức có sau. Khẳng định khả năng của con người có thể nhận thức được thế giới khách quan.
Định nghĩa đã khắc phục được tính chất siêu hình của CNDV trước Mác về vật chất, đồng thời chống CNDT và tôn giáo.
Định nghĩa đã mở đường cho khoa học phát triển tạo niềm tin cho con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới.
Lênin đã cống hiến cho khoa học một phương pháp định nghĩa mới.
B. ý thức
Nguồn gốc của ý thức
Khái niệm: Ý thức là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới và mối quan hệ của con người trong thế giới.Ý thức là hình ảnh chủ quan của thể giới khách quan.
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
+Ý thức có nguôn gốc từ bộ não người: Ý thức là một dạng thuộc tính của vật chất có tổ chức cao nhất là bộ não con người, là chức năng của bộ não, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não (bộ não phải là bộ óc sống, bộ não đang hoạt động bình thường) . Bộ não con người có khoảng 14-15 tỷ nơ ron thần kinh, các nơ ron thần kinh có sự kích thích, cảm ứng. Bộ não của con người phải có quá trình hoạt động, tác động vào thế giới khách quan thì mới hình thành lên sự phản ánh của ý thức.
+ Sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não của con người thông qua hoạt động của các giác quan, hình thành nên quá trình phản ánh.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.
Qúa trình phản ánh diễn ra như sau:
Bộ não của con người là cái phản ánh, thế giới khách quan là cái được phản ánh. Cái phản ánh tác động lên cái được phản ánh, Cái phản ánh ghi lại thông tin của cái được phản ánh. Cái phản ánh xử lý thông tin của cái được phản ánh.
Các hình thức của phản ánh.
Phản ánh vật lý, hoá học: là hình thức phản ánh thấp đặc trưng cho vật chất vô sinh.
Phản ánh sinh học: là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới hữu sinh.
Phản ánh tâm lý: là phản ánh của động vật có hệ tần kinh trung ương.
Phản ánh năng động sáng tạo: là hình thức cao nhất trong các hình thức phản ánh, nó chỉ được thực hiện dưới dạng vật chất phát triển cao là bộ óc người.
- Nguồn gốc xã hội của ý thức
Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ .
- Lao động: Khi vượn người sử dụng những vật có sẵn trong tự nhiên cho mục đích kiếm ăn có kết quả thì nó nhiều lần lặp lại hành động ấy và trở thành phản xạ có điều kiện dẫn đến hình thành thói quen sử dụng công cụ. Tuy nhiên công cụ ấy không phải lúc nào cũng có sẵn. Do đó đòi hỏi loài vượn phải có ý thức chế tạo công cụ lao động mới. Việc chế tạo công cụ lao động mới đã làm cho hoạt động kiếm ăn của vượn người là hoạt động lao động. Đó là cái mốc đánh dấu sự khác biệt giữa con người với con vật.
- Nhờ kết quả lao động cơ thể của con người, đặc biệt là bộ óc và các giác quan ngày càng hoàn thiện dần cả về cấu tạo và chức năng.
- Nhờ có lao động mà con người đã dần chuyển hóa từ vượn thành người.
- Nhờ có lao động con người đã thoát khỏi cuộc sống bầy đàn và tri thức của con người ngày càng phát triển.
- Nhờ có lao động mà ngôn ngữ được hình thành.
- Trong hoạt động lao động, con người cần phải quan hệ với nhau, phối hợp hành động với nhau tạo ra nhu cầu phải nói với nhau. Như cầu đó dẫn đến xuất hiện ngôn ngữ.
Ngôn ngữ trở thành phương tiện để diễn đạt tư tưởng và trao đổi giữa người với người. Nhờ có nguôn ngữ sự phản ánh của con người trở thành sự phản ánh tri giác. Như vậy là trong lao động và cùng với lao động là ngôn ngữ đó là hai sức kích thích chủ yếu để hình thành nên ý thức của con người.
Tóm lại, nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội là hai điều kiện cần và đủ cho sự ra đời của ý thức. Nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy không thể có ý thức.
Bản chất của ý thức
Thứ nhất: Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức không phải là bản sao đơn giản, thụ động, máy móc của sự vật mà ý thức là sự phản ánh có tính năng động, sáng tạo thế giới vật chất vào bộ não người qua hoạt động thực tiễn.
Với tư cách là hình ảnh chủ quan ý thức được hiểu là ý thức của con người, thuộc về con người. Con người phản ánh thế gới vật chất, nhận thức về thế giới vật chất, đúng hay sai là theo ý chủ quan của con người.
Ý thức của thế giới khách quan nghĩa là: nguồn gốc của ý thức và đối tượng phản ánh của ý thức thuộc về thế giới khách quan, bị thế gới khách quan quy định.
Bộ não của con người thuộc về thế giới khách quan.
Đối tượng phản ánh của ý thức thuộc về thế giới khách quan
Vật chất là cái được phản ánh - tồn tại KQ bên ngoài và độc lập với cái phản ánh.
+ Ý thức là cái phản ánh, ý thức mang tính chủ quan, Thế giới vật chất là cái được phản ánh, cái được phản ánh là TGKQ, cái chủ quan bị cái KQ quy định nên nó không có tính V/c, không được lẫn lộn đồng nhất V/c & Ý thức.
Thứ hai: Ý thức mang bản chất sáng tạo Khi ý thức là hình ảnh chủ quan của TGKQ thì có thể nói ý thức là của con người mà con người là một thực thể XH năng động, sáng tạo cho nên ý thức con người mang tính năng động, sáng tạo hiện thực theo nhu cầu thực tiễn của XH được thống nhất trên 3 mặt:
+ Trao đổi thông tin hai chiều theo cách chọn lọc.
+ Mô hình hóa các đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
+ Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực KQ.
Bản chất của ý thức có 2 mặt (phản ánh và sáng tạo). Ý thức ra đời và tồn tại gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối của quy luật XH nên ý thức mang tính XH.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Do ý thức chỉ là hình ảnh chủ quan của TGKQ nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan. Do đó, cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí.
- Ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo, hiện thực nên cần phải chống lại tư tưởng thụ động và chủ nghĩa giáo điều, xa rời thực tiễn.
Câu 11: Trình bày quan hệ giữa đổi mới nhận thức và đổi mới xã hội? liên hệ với xã hội ta hiện nay?
Nhận thức là một quá trình biện chứng bao gồm nhiều giai đoạn, cấp độ đối lập nhưng thống nhất lẫn nhau.Quá trình nhận thức gồm 2 cấp độ :
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
a) Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là giai đoạn thấp (ban đầu) của quá trình nhận thức. Nó phản ánh một cách trực tiếp, cụ thể, sinh động, hời hợt những đặc điểm, tính chất bề ngoài của sự vật vào trong bộ óc con người, và được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản là cảm giác, tri giác và biểu tượng.
- Cảm giác là hình thức trực quan sinh động phản ánh từng đặc điểm, tính chất riêng lẻ, bề ngoài của sự vật khi sự vật tác động lên từng giác quan của chúng ta. Cảm giác là kết quả của sự chuyển hóa năng lượng kích thích bên ngoài thành yếu tố đầu tiên của ý thức bên trong bộ óc con người. Nó là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan, là nguồn gốc của mọi hiểu biết.
- Tri giác là hình thức trực quan sinh động được hình thành nhờ vào sự tổng hợp nhiều cảm giác về sự vật khi sự vật tác động lên nhiều cơ quan cảm giác. Vì vậy, tri giác mang lại hiểu biết đầy đủ hơn về sự vật và có sự can dự ban đầu của tư duy (lý tính).
- Biểu tượng là những hình ảnh trực quan sinh động (ấn tượng) được giữ lại trong trí nhớ (ký ức) do một nguyên do nào đó xuất hiện một cách rời rạt hay dưới dạng kết hợp trong ý thức mà không có sự tác động trực tiếp của sự vật lên giác quan của chúng ta. Biểu tượng chỉ bao gồm những nét chủ yếu, nổi bật nhất mà cảm giác mang lại trước đó. Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng. Do có tính chủ động, sáng tạo mà sự tưởng tượng có vai trò to lớn trong hoạt động khoa học và nghệ thuật. Biểu tượng tuy vẫn còn mang tính chất trực tiếp và cụ thể, sinh động của nhận thức cảm tính, nhưng nó đã bắt đầu mang tính chất gián tiếp và trừu tượng, khái quát của nhận thức lý tính. Nó là khâu trung gian giữa hai giai đoạn nhận thức này.
b) Nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, được nảy sinh từ nhận thức cảm tính. Nó phản ánh một cách gián tiếp, trừu tượng, khái quát, sâu sắc những đặc điểm, tính chất, quan hệ bên trong của sự vật vào trong bộ óc con người và được biểu đạt bằng ngôn ngữ. Nhận thức lý tính mang tính năng động, sáng tạo được tiến hành thông qua các phương pháp so sánh - đối chiếu, trừu tượng hóa - khái quát hóa, phân tích - tổng hợp…, và được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản là khái niệm, phán đoán và suy luận.
- Khái niệm là hình thức tư duy phản ánh những tính chất, quan hệ (dấu hiệu) bản chất của đối tượng được suy nghĩ. Khái niệm là vật liệu chính tạo thành tư tưởng, là phương tiện chủ yếu để tích lũy, vận hành, trao đổi những thông tin, tri thức của con người. Khái niệm có nội hàm (tất cả các dấu hiệu bản chất của đối tượng) và ngoại diên (tất cả các phần tử mà đối tượng bao quát) biến động cùng với quá trình đào sâu và mở rộng của hoạt động thực tiễn - nhận thức nhân loại. Khái niệm là yếu tố quan trọng của tư duy khoa học. Hình thức ngôn ngữ biểu đạt khái niệm là từ (thuật ngữ).
- Phán đoán là hình thức tư duy phản ánh những tính chất, quan hệ của đối tượng được suy nghĩ dưới hình thức khẳng định hay phủ định và có một giá trị lôgích xác định (là đúng hay sai). Phán đoán là hình thức liên hệ, chuyển hóa lẫn nhau của các khái niệm, là sự biểu hiện của tư tưởng. Hình thức ngôn ngữ biểu đạt phán đoán là câu (mệnh đề).
- Suy luận là hình thức tư duy cho phép dựa vào một số phán đoán làm tiền đề rút ra một phán đoán mới làm kết luận. Suy luận là hình thức liên hệ, chuyển hóa lẫn nhau của các phán đoán, là công cụ tư duy dùng để đào sâu và xây dựng tri thức gián tiếp. Nhờ suy luận mà khoa học không ngừng phát triển, nhận thức của con người ngày càng đầy đủ, tinh xác, sâu sắc hơn. Suy luận có ba hình thức cơ bản là diễn dịch, quy nạp và loại suy. Trong quá trình suy luận, nếu chúng ta dựa trên các tiền đề xác thực (đúng) và tuân thủ mọi quy tắc lôgích có liên quan thì kết luận được rút ra bao giờ cũng đúng. Hình thức ngôn ngữ biểu đạt suy luận là đoạn(lập luận).
c) Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
Khi khắc phục tính phiến diện của chủ nghĩa duy cảm (đề cao vai trò nhận thức cảm tính, hạ thấp vai trò nhận thức lý tính) và của chủ nghĩa duy lý (đề cao vai trò nhận thức lý tính, hạ thấp vai trò nhận thức cảm tính) chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn nhận thức đối lập nhau có đặc điểm, vai trò khác nhau, nhưng liên hệ mật thiết và hỗ trợ, thống nhất lẫn nhau: Nhận thức cảm tính là cơ sở, tiền đề của nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính giúp định hướng và nâng cao độ chính xác của nhận thức cảm tính.
Nếu nhận thức chỉ dừng lại ở cảm tính thì không thể khám phá được bản chất, quy luật của đối tượng, còn nếu nhận thức chỉ xảy ra trong lĩnh vực lý tính thì có thể sa vào chủ nghĩa giáo điều, ảo tưởng viển vông; trong thực tế, chúng đan xen thống nhất lẫn nhau. Một trong những hình thức thể hiện sự đan xen, thống nhất đó là trực giác - năng lực trực tiếp nắm bắt chân lý mà không cần trải qua những lập luận lôgích[1]. Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi trực giác là một hình thức nhận thức có tính bỗng nhiên (bất ngờ), trực tiếp và không ý thức được[2].
- Nắm vững quan điểm thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính sẽ giúp khắc phục chủ nghĩa duy cảm, chủ nghĩa duy lý, giúp loại bỏ chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều để đẩy mạnh hoạt động thực tiễn hiệu quả và nhận thức đúng đắn.
- Nhận thức có mối liên hệ với thực tiễn luôn luôn vận động và phát triển do đó yêu cầu chúng ta phải thay đổi nhận thức sao cho phù hợp với sự phát triển của xã hội.
a) Thực tiễn là nguồn gốc, là động lực của nhận thức
- Một mặt, con người có quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con người hình thành và phát triển. Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, quy luật của mình để cho con người nhận thức. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính; sau đó, tiến hành những thao tác lý tính như so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa… để phản ánh những quy luật, bản chất của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Như vậy, thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức (lý luận), mọi tri thức dù hình thành ở trình độ, giai đoạn nào, xét đến cùng, đều bắt nguồn từ thực tiễn.
- Mặt khác, cũng bằng hoạt động thực tiễn, con người biến đổi thế giới và biến đổi bản thân mình. Trong quá trình đó, con người không ngừng nâng cao năng lực và trình độ nhận thức của mình để đào sâu và mở rộng nhận thức, khám phá ra các bí mật của thế giới nhằm giải quyết hiệu quả các nhiệm vụ do thực tiễn đặt ra. Để hoạt động thực tiễn hiệu quả, cần phải có tri thức chính xác hơn. Muốn vậy, phải tổng kết, khái quát kinh nghiệm, xây dựng lý luận, nghĩa là, thực tiễn thúc đẩy sự ra đời và phát triển mạnh mẽ các ngành khoa học. Như vậy, thực tiễn luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển của nhận thức, nghĩa là luôn thúc đẩy nhận thức phát triển.
b) Thực tiễn là mục đích của nhận thức
- Nhận thức (lý luận, khoa học) chỉ có ý nghĩa thật sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn nhằm giải quyết các nhiệm vụ do thực tiễn đặt ra, giúp cải tạo thế giới hiệu quả. Vì vậy, mọi kết quả của nhận thức luôn thực hiện vai trò hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn, giúp thực tiễn nâng cao năng lực cải tạo của chính mình.
Câu 12: xây dựng nền dân chủ XHCN và nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
A.Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
a.khái niệm dân chủ.
Quan niệm của chủ nghĩa Mac_ LêNin về dân chủ:
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác- LêNin kế thừa những nhân tố hợp lý những hoạt động thực tiễn và nhận thức của nhân loại về dân chủ, dân chủ là một nhu cầu khách quan của nhân dân lao động; dân chủ là quyền lực của nhân dân (hay dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân)
Chủ Tịch Hồ Chí Minh cho rằng:
Dân chủ là dân làm chủ, dân làm chủ. Năm 1949, trong báo cáo có tên “Dân vận”, Hồ Chí Minh khẳng định:
Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…
Chính quyền từ xã đến chính Phủ trung ương đều do dân cử ra…
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân
a) Nội dung xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ toàn diện – dân chủ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế chín trị, văn hóa, xã hội…
Trên lĩnh vực kinh tế: phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Gắn liền với quá trình đó và trên cơ sở của quá trình đó, quyền làm chủ của nhân dân không ngừng được hoàn thiện và nâng cao: làm chủ tư liệu sản xuất, làm chủ quá trình quản lí, làm chủ quá trình phân phối sản phẩm làm ra. Đây là cơ sở bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực khác.
Trên lĩnh vực chính trị:
+ Xét về mặt Nhà Nước: là thực hiện chuyên chính không cho giai cấp thống trị cũ trở lại cầm quyền. Nên thực hiện dân chủ phải đi đôi với trấn áp các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội. Vì để bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh coi chuyên chính là cái để giữ vững quyền dân chủ đó. Người viết “ chế độ nào cũng có chuyên chính, vấn đề là ai chuyên chính với ai?...như cài hòm đựng của cải thì phải có cái khóa, nhà thì phải có cửa…Dân chủ là cái quý báo nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa cái cửa để đề phòng phá hoại… thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ”.
+ Xét về mặt làm chủ của nhân dân: là xây dựng một hệ thống quyền lực tối cao của dân đối với Nhà Nước. Đó là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trước hết là hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; tuyển chọn và bố trí đội ngũ cán bộ, công chức Nhà Nước có phẩm chất đạo đức, giỏi chuyên môn nghiệp vụ trong điều hành và giải quyết tốt công việc hằng ngày sao cho dân ủy quyền mà không mất quyền. Do vậy, chống quan liêu chống tham nhũng phải trở thành vấn đề then chốt.
Trên lĩnh vực văn hóa:
+ Nâng cao trình độ dân trí. Đây là nhân tố cơ bản để thực hiện dân chủ. Vì dân chủ là biểu hiện của trình độ văn hóa chính trị, có liên quan mật thiết đến trình độ dân trí, văn hóa nói chung, LêNin nói: người mù chữ đứng ngoài chính trị. Thật vậy ít hiểu biết cũng làm hạn chế sự tham gia vào chính trị.
+ Văn hóa phải thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: văn hóa – giáo dục, văn hóa lãnh đạo, văn hóa quản lý, văn hóa lao động, căn hóa chính trị…Có thể nói trình độ văn hóa của mỗi thành viên, mỗi cộng đồng và của cả quốc gia dân tộc vừa là thành tựu của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, vừa là động lực của quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do vậy, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là điều hết sức cần thiết nếu không muốn nói là quyết định.
Trên lĩnh vực xã hội: do sự biến đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa kéo theo sự biến đổi về mặt xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội được điều tiết theo pháp luật của Nhà Nước xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng lợi ích đặc thù của mỗi giai cấp, trên cơ sở bảo đảm lợi ích chung của cả quốc gia để cũng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên động lực to lớn xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa. Cũng như vậy, quan hệ dân tộc được giải quyết theo nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết , giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. khi đó các quyền công dân và con người được thực hiện trong thực tế.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân
B)Nền văn hóa đạm đà bản sắc dân tộc
Đảng và nhà nước ta chủ trương xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc với những nội dung sau:
1)Xây dựng “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển”. Lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã chứng minh con người là sức mạnh lớn nhất của dân tộc ta. Chính vì vậy, nhiệm vụ chủ yếu của văn hóa là tập trung mọi nỗ lực nhằm “Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe lao động giỏi, có văn hóa; có tinh thần quốc tế chân chính.”
2) Đồng thời với việc hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, cần đẩy mạnh hơn nữa phong trào thi đua yêu nước, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và đặc biệt là tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.”
3) Vấn đề phát triển văn hóa và xây dựng con người có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, vì vậy, cần thiết phải quan tâm đến lĩnh vực văn học nghệ thuật - lĩnh vực nhạy cảm của văn hóa, tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của nhân dân theo tinh thần Nghị quyết số 23-NQ-TW ngày 16/6/2008 của Bộ chính trị về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.”
4) Giữ gìn và phát huy tài sản văn hóa của 54 dân tộc anh em là nhiệm vụ có ý nghĩa về văn hóa và chính trị to lớn trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
5) Quan tâm phát triển ngành công nghiệp văn hóa (như xuất bản sách báo, sản xuất phim ảnh, băng đĩa hình, băng đĩa nhạc….) theo đúng định hướng của Đảng nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa nghệ thuật của nhân dân.
6) Thực hiện đồng bộ các giải pháp của các cấp, các ngành, hoàn thiện thể chế văn hóa, xây dựng các thiết chế văn hóa từ Trung ương đến cơ sở, tăng cường hiệu quả các mối quan hệ phối hợp liên ngành. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật pháp và các chính sách văn hóa. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực cho văn hóa ở trong nước và ở nước ngoài. Tăng cường và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa, cho việc xây dựng đầy đủ cơ sở hạ tầng văn hóa, đặc biệt coi trọng nguồn lực xã hội hóa. Chủ động, tiếp tục tăng cường, đẩy mạnh giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, giới thiệu các giá trị văn hóa dân tộc đặc sắc với bè bạn năm châu, góp phần tuyên truyền quảng bá hình ảnh đất nước, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để đông đảo nhân dân được hưởng thụ tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm đời sống văn hóa dân tộc.
7) Giải pháp mang tính quyết định là nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trên các lĩnh vực văn hóa, có chủ trương, đường lối, nhân sự chủ chốt, phân công, phân nhiệm rõ ràng, tránh bao biện làm thay; phát huy trách nhiệm tập thể và cá nhân, phát huy tối đa sức mạnh sáng tạo của toàn dân đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
Hồ Chí Minh đã khẳng định: Trong sự nghiệp xã hội và bảo vệ Tổ quốc, bốn lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội gắn bó mật thiết với nhau, cần được coi trọng như nhau, trong đó, văn hóa không đứng ngoài, đứng trên mà phải hiện diện ở mọi lĩnh vực.
Thấm nhuần tư tưởng sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã quán triệt sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa nền tảng tinh thần của xã hội. Đây chính là điều kiện cần thiết cho văn hóa có thể hoàn thành tốt vai trò là sức mạnh nội sinh quan trọng góp phần phát triển đất nước một cách toàn diện và bền vững”./.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro