đề cương an sinh
CHƯƠNG I. LUẬT AN SINH XÃ HỘI TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM LUẬT AN SINH XÃ HỘI
1. Đối tượng điều chỉnh của luật an sinh xã hội
Luật an sinh xã hội với tư cách là một ngành luật có đối tượng điều chỉnh là những quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực an sinh xã hội.
1.1. An sinh xã hội
Bảo đảm xã hội, bảo trợ xã hội, an toàn xã hội, an ninh xã hội, an sinh xã hội...là những thuật ngữ có ý nghĩa rộng hẹp khác nhau tùy theo nguồn gốc phát sinh hoặc từng nơi từng lúc vận dụng. Tuy nhiên nếu xét về mục đích chung thì chúng đều nhằm trợ giúp cho con người – những thành viên của xã hội, trong những trường hợp rủi ro, hiểm nghèo mà bản thân họ không tự giải quyết được. Thông qua sự trợ giúp cả về vật chất và tinh thần mà những khó khăn, bất hạnh của con người được khắc phục hoặc giảm thiểu, từ đó góp phần làm cho xã hội tồn tại và phát triển trong thế ổn định và bền vững.
1.2. Những quan hệ xã hội là đối tượng của luật an sinh xã hội Việt Nam
Đối tượng của luật an sinh xã hội là các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực an sinh xã hội.
* Theo nghĩa rộng, an sinh xã hội bao trùm lên nhiều mặt cuộc sống của con người. Đó là các quan hệ hình thành trong lĩnh vực nhằm ổn định đời sống, nâng cao chất lượng sống của các thành viên xã hội, góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội. Theo nghĩa này, an sinh xã hội có thể bao gồm các nhóm quan hệ sau:
- Nhóm quan hệ trong lĩnh vực giải quyết việc làm, chống thất nghiệp;
- Nhóm quan hệ trong lĩnh vực chăm sóc y tế, bảo vệ sức khỏe nhân dân;
- Nhóm quan hệ trong lĩnh vực dân số, kế hoạch hóa gia đình;
- Nhóm quan hệ trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội;
- Nhóm quan hệ trong lĩnh vực cứu trợ xã hội;
- Nhóm quan hệ trong lĩnh vực ưu đãi xã hội;
- Nhóm quan hệ trong lĩnh vực môi trường...
* Theo nghĩa hẹp, an sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình, bao gồm các nhóm quan hệ sau:
- Nhóm các quan hệ bảo hiểm xã hội;
- Nhóm các quan hệ cứu trợ xã hội;
- Nhóm các quan hệ ưu đãi xã hội.
à Đây chính là các nhóm quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh chủ yếu của luật an sinh xã hội Việt Nam. Xem xét cụ thể:
a) Nhóm thứ nhất: Quan hệ bảo hiểm xã hội
Quan hệ bảo hiểm xã hội là tổng hợp các quan hệ kinh tế - xã hội hình thành trong lĩnh vực bảo đảm trợ cấp cho người lao động trong trường hợp họ gặp những rủi ro trong quá trình lao động khiến khả năng lao động giảm sút hoặc khi già yếu không còn khả năng lao động. (Theo ILO thì bảo hiểm xã hội là trụ cột chính hoặc cơ chế chính trong an sinh xã hội).
Đặc trưng của quan hệ bảo hiểm xã hội:
- Đối tượng hưởng bảo hiểm: Chủ yếu áp dụng đối với người lao động hiểu theo nghĩa rộng. Đó có thể là công chức, cán bộ nhà nước “làm công ăn lương’’ người lao động ở các khu vực kinh tế khác và những người phục vụ trong lực lượng vũ trang.
- Hình thức bảo hiểm: Thường có hai loại là bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện. Với hình thức bảo hiểm bắt buộc thì mức độ đóng góp và các chế độ được hưởng được quy định cụ thể trong văn bản pháp luật. Còn với hình thức bảo hiểm tự nguyện thì pháp luật để cho người tham gia bảo hiểm tự lựa chọn mức đóng góp và chế độ hưởng.
- Nguồn trợ cấp bảo hiểm: Do “các bên” tham gia bảo hiểm đóng góp, chủ yếu là ba bên: người lao động, người sử dụng lao động, sự hỗ trợ của Nhà nước. Từ sự đóng góp của các bên tham gia mà bảo hiểm theo một tỷ lệ quy định mà hình thành nên quỹ bảo hiểm xã hội, là quỹ tiền tệ tập trung, do cơ quan chức năng quản lý thống nhất theo chế độ tài chính, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ.
- Mức trợ cấp bảo hiểm: Chủ yếu căn cứ vào mức độ đóng góp của người lao động vào quỹ bảo hiểm xã hội nhiều hay ít và mức độ rủi ro, thương tật của người lao động ít hay nhiều. Về cơ bản, mức bảo hiểm được quán triệt theo nguyên tắc “phân phối theo lao động’’ tuy nhiên trong một số trường hợp còn vận dụng cả nguyên tắc trương trợ “lấy số đông bù số ít’’.
- Chế độ hưởng và thời gian hưởng bảo hiểm: Bao gồm các chế độ trợ cấp như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bênh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất và t hất nghiệp. Thời gian hưởng trợ cấp thường là ổn định và lâu dài.
Phân loại quan hệ bảo hiểm:
- Quan hệ trong việc tạo lập quỹ bảo hiểm xã hội (nguồn trợ cấp)
- Quan hệ trong việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội (chi trả các khoán trợ cấp)
b) Nhóm thứ hai: Quan hệ cứu trợ xã hội
Cứu trợ xã hội bao gồm tổng hợp các hình thức và biện pháp khác nhau nhằm trợ giúp các đối tượng thiệt thòi yếu thế hoặc bị hẫng hụt trong cuộc sống mà bản thân họ không có đủ khả năng tự lo liệu, giải quyết được. Thông qua sự trợ giúp mà tạo cho họ điều kiện tồn tại và cơ hội hòa nhập với cộng đồng, từ đó góp phần đảm bảo ổn định và công bằng xã hội. Người cứu trợ là người có trách nhiệm hoặc là người có khả năng cứu trợ. Đó có thể là Nhà nước, cộng đồng nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế. Người được cứu trợ là những cá nhân công dân thực sự có nhu cầu cứu trợ, do đang gặp nhũng hoàn cảnh rủi ro bất hạnh.
Đặc trưng của quan hệ cứu trợ xã hội:
- Đối tượng cứu trợ: Công dân nói chung đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn về vật chất và tinh thần. Đó cỏ thể là người có quan hệ lao động hoặc không có quan hệ lao động, có thể là người già hoặc trẻ em, người tàn tật, người lang thang, người mắc các chứng bệnh xã hội...
- Hình thức cứu trợ: Chủ yếu gồm hai hình thức là cứu trợ thường xuyên và cứu trợ đột xuất.
+ Cứu trợ thường xuyên áp dụng đối với những người hoàn toàn không thể tự lo được cuộc sống trong một thời gian dài, hoặc trong suốt cả cuộc đời của họ.
+ Cứu trợ đột xuất áp dụng đối với những người không may bị thiên tai mất mùa, hoặc gặp những biến cố bất thường mà không có nguồn sinh sống tức thời.
- Nguồn cứu trợ: Chủ yếu từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn ủng hộ của nhân dân và cộng đồng quốc tế. Người thụ hưởng không phải đóng góp bất kỳ một khoản nào vào quỹ cứu trợ.
- Mức trợ cấp và thời gian hưởng trợ cấp: Mức trợ cấp, thời gian hưởng trợ cấp căn cứ chủ yếu vào mức độ khó khăn của người được cứu trợ và vào nguồn cứu trợ. Ngoài trợ cấp bằng tiền còn có thể trợ cấp bằng hiện vật.
c) Nhóm thứ ba: Quan hệ ưu đãi xã hội
Ưu đãi xã hội (social privilege) là sự đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với những người có công với nước, với dân, với cách mạng (và thành viên của gia đình) nhằm ghi nhận những công lao đóng góp, hy sinh cao cả của họ. Trong hệ thống an sinh xã hội VN, ưu đãi xã hội có vị trí to lớn và đặc biệt. Nó có vị trí to lớn do đặc điểm lịch sử chiến tranh gian khổ của đất nước, số lượng những thương binh liệt sĩ, người có công với cách mạng là khá lớn. Nó đặc biệt vì ưu đãi xã hội trở thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật về an sinh xã hội là một nét đặc thù của pháp luật an sinh xã hội VN, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước VN, nói lên đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây.
+ Người ưu đãi thường là nhà nước, đại diện và thay mặt cho quốc gia có trách nhiệm đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công. Ngoài ra người ưu đãi còn bao gồm các tổ chức, cộng đồng nhân dân trong nước cũng như nước ngoài.
+ Người được ưu đãi là những cá nhân đã có những cống hiến, hy sinh trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong một số trường hợp còn có thể là thân nhân của người có công.
Đặc trưng của quan hệ ưu đãi xã hội:
- Đối tượng ưu đãi: Những người có công với cách mạng và thân nhân của họ, bao gồm: người hoạt động cách mạng trước tháng Tám năm 1945; liệt sỹ và gia đình liệt sỹ; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng lao động, thương binh, bệnh binh…
- Nguồn trợ cấp ưu đãi: Chủ yếu do ngân sách nhà nước cấp, ngoài ra còn được huy động từ các nguồn đóng góp của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong nước và ngoài nước.
- Chế độ ưu đãi: Bao gồm các chế độ trong các lĩnh vực khác nhau như: ý tế, giáo dục đào tạo, lao động, việc làm, trợ cấp trong đời sống sinh hoạt...
- Mức trợ cấp ưu đãi và thời gian hưởng: Mức trợ cấp căn cứ vào thời gian và mức độ cống hiến, hy sinh của người có công. (Ít nhất bằng mức sống trung bình của người dân ở nơi họ cư trú). Thời gian trợ cấp tương đối ổn định lâu dài.
2. Phương pháp điều chỉnh của Luật an sinh xã hội
Có hai phương pháp chủ yếu là phương pháp mệnh lệnh và phương pháp tùy nghi.
2.1 Phương pháp mệnh lệnh
Phương pháp mệnh lệnh thể hiện ở việc sử dụng “quyền uy’’ và “phục tùng’’. Cơ sở của phương pháp mệnh lệnh, trước hết nằm ngay trong chức năng xã hội của Nhà nước. Là người đại diện thay mặt cho toàn xã hội, Nhà nước đứng ra tổ chức, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có vấn đề an sinh xã hội. Bằng công cụ pháp luật, Nhà nước biến các chính sách xã hội của mình thành các quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên tham gia và bảo đảm thực hiện chúng. Muốn vậy, Nhà nước không thể không sử dụng quyền uy. Thêm nữa, cơ sở của phương pháp mệnh lệnh cũng nằm chính trong tính chất, đặc điểm của các quan hệ an sinh xã hội, thường là trợ giúp và đền đáp, muốn thực hiện có hiệu quả điều này thì người đảm trách phải có khả năng, nguồn lực đủ mạnh. Trong xã hội, chỉ có Nhà nước – người đại diện, người nắm quyền lực cao nhất đồng thời là chủ sở hữu cao nhất mới có được khả năng đó.
Quyền uy thể hiện rõ ràng ở những quy phạm cứng như việc quy định hình thức bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Bằng hệ thống pháp luật và thông qua các cơ quan chức năng của mình, Nhà nước thể hiện như là người đảm nhiệm chính những trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên việc sử dụng quyền uy và phục tùng trong luật an sinh xã hội “ mềm’’ hơn trong ngành luật hành chính, nghĩa là trong an sinh xã hội nó chỉ được sử dụng trong những lĩnh vực, những mối quan hệ cần thiết và được kết hợp với các hoạt động của các tổ chức đại diện của những đối tượng được trợ giúp hoặc được đền đáp như Công đoàn, hội chữ thập đỏ, hội cựu chiến binh...
2.2. Phương pháp tùy nghi
Phương pháp tùy nghi thể hiện ở chỗ Nhà nước để cho các bên tham gia quan hệ tự lựa chọn cách thức xử sự của mình miễn sao không trái với các quy định cứng ( xử sự bắt buộc). Cơ sở của phương pháp này trước hết nằm ngay trong tính chất, đặc điểm của các quan hệ là đối tượng điều chỉnh của luật an sinh xã hội, đó là sự “trợ giúp’’ và “đền đáp’’ (chủ yếu là bằng tiền và hiện vật) mà sự trợ giúp đền đáp bên cạnh trách nhiệm của Nhà nước còn là sự tùy tâm của cá nhân hoặc tùy thuộc vào khả năng của cộng đồng cũng như của chính Nhà nước.
Phương pháp tùy nghi thường được thể hiện trong các quy phạm “mềm’’ chẳng han loại hình bảo hiểm tự nguyện trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội.
II. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT AN SINH XÃ HỘI
1. Mọi thành viên trong xã hội đều có quyền được hưởng an sinh xã hội
Được bảo đảm về an sinh xã hội là quyền quan trọng trong lĩnh vực rộng lớn các quyền của con người. Trong phạm vi một quốc gia, được bảo đảm an sinh xã hội cũng là một trong những quyền cơ bản của công dân, với các mức độ khác nhau, được hầu hết hiến pháp các nước ghi nhận. Ở nước ta, quyền an sinh xã hội được đề cập tại nhiều điều của Hiến pháp 1992 (sửa đổi), cụ thể như về bảo hiểm xã hội (điều 59), về ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội (điều 67)...
Được hưởng an sinh xã hội là quyền của công dân và được thực hiện bình đẳng giữa các thành viên xã hội là một nguyên tắc quan trọng. Tuy nhiên để được hưởng một chế độ trợ giúp cụ thể nào đó thì đối tượng được trợ giúp phải thỏa mãn những điều kiện nhất định.
2. Nhà nước thống nhất quản lý vấn đề an sinh xã hội
Cơ sở của nguyên tắc này nằm ngay chính ở chức năng xã hội của Nhà nước. Sự thống nhất quản lý an sinh xã hội thể hiện ở chỗ, trước hết Nhà nước định ra các chính sách xã hội, cùng với các chính sách kinh tế, chính sách văn hóa, an ninh quốc phòng. Đồng thời Nhà nước ban hành hệ thống pháp luật an sinh xã hội nhằm thể chế hóa các chính sách xã hội ấy. Nhà nước thành lập hệ thống các cơ quan chức năng về an sinh xã hội cũng như kiểm tra việc tổ chức, thực hiện các chính sách, chế độ an sinh xã hội của các cơ quan này.
Nhà nước còn trực tiếp đóng góp hoặc hỗ trợ vào nguồn thực hiện các chế độ an sinh xã hội.
Tuy nhiên, nguyên tắc này không có nghĩa là hoàn toàn loại trừ sự tham gia quản lý của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức, đoàn thể xã hội...mà tùy theo vị trí chức năng nhiệm vụ của từng tổ chức mà pháp luật trao cho họ một số quyền và cả trách nhiệm tương ứng trong việc tham gia tổ chức, quản lý một số mặt hoạt động thuộc an sinh xã hội.
3. Kết hợp hài hòa chính sách kinh tế và chính sách xã hội
Nguyên tắc này xuất phát từ quan niệm “con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chính sách xã hội’’ của Nhà nước ta. Mục tiêu của chính sách xã hội là nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người. Trong khi đó, nguồn lực con người lại được xác định là “yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững’’. Đến lượt nó, phát triển kinh tế lại đóng vai trò là cơ sở, là tiền đề để thực hiện chính sách xã hội. Do vậy, kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa – xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội là một chủ trương có tầm chiến lược của Nhà nước ta.
Có thể nói, không ngành luật nào trong hệ thống pháp luật Việt Nam mà nguyên tắc này lại thể hiện một cách rõ ràng và xuyên suốt như trong luật an sinh xã hội.
4. Kết hợp hài hòa giữa nguyên tắc “hưởng thụ theo đóng góp’’ và nguyên tắc “lấy số đông bù số ít’’
Nguyên tắc có tính chất kép này rất đặc trưng cho pháp luật an sinh xã hội. Mỗi nguyên tắc nhỏ chứa đựng những nội dung khác nhau, tuy nhiên chúng không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau.
Nguyên tắc “hưởng thụ theo đóng góp’’ trong luật an sinh xã hội chính là sự cụ thể hóa nguyên tắc “công bằng xã hội’’ – nguyên tắc bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống. Nguyên tắc này thường được áp dụng trong việc thực hiện trợ cấp bảo hiểm xã hội đối với người lao động, cũng như trong chế độ ưu đãi người có công. Ở đây, mức trợ cấp cho các đối tượng căn cứ chủ yếu vào mức độ, thời gian đóng góp của họ vào quỹ trợ cấp (đối với bảo hiểm xã hội) hoặc mức độ, thời gian cống hiến, hy sinh của họ (đối với ưu đãi xã hội).
Nguyên tắc “lấy số đông bù số ít’’ thể hiện tính nhân đạo xã hội. Nguyên tắc này thường chủ yếu được áp dụng trong các chế độ bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội. Tinh thần cơ bản của nguyên tắc “lấy số đong bù số ít’’ là ở chỗ, bằng sự đóng góp, trợ giúp của nhiều người sẽ hạn chế, giảm thiểu khó khăn, bất hạnh cho một thiểu số người. Những đối tượng gặp rủi ro không phải đóng góp gì và được trợ giúp căn cứ chủ yếu vào hoàn cảnh, mức độ khó khăn, hiểm nghèo của từng trường hợp.
Tuy nhiên cũng không nên hiểu sự kết hợp hài hòa trong nguyên tắc này một cách máy móc như nhau ở mọi nơi mọi lúc. Tùy thuộc vào từng mặt của các mỗi quan hệ, hoặc từng khâu của mỗi chế độ, thậm chí từng loại đối tượng của an sinh xã hội mà có sự áp dụng cho linh hoạt và phù hợp.
5. Đa dạng hóa, xã hội hóa các hoạt động an sinh xã hội
Các nguyên nhân gây ra rủi ro rất nhiều nên nhu cầu an sinh của các thành viên trong xã hội cũng rất đa dạng. Vì vậy, để đáp ứng được các nhu cầu ấy, các hoạt động an sinh xã hội cũng phải được đa dạng hóa. Nghĩa là cần đảm bảo sao cho các chế độ an sinh xã hội phải thực sự là “tấm lá chăn’’ là “lưới an toàn’’ của xã hội. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng dù sao các chế độ trợ giúp, các mức trợ cấp cũng phải trên cơ sở nhu cầu thực tế và không thể thoát ly được khả năng và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn.
III. VAI TRÒ, Ý NGHĨA CỦA LUẬT AN SINH XÃ HỘI
- Luật an sinh xã hội là cơ sở pháp lý quan trọng để người dân thực hiện quyền được hưởng an sinh xã hội;
- Luật an sinh xã hội là công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực hiện chính sách xã hội và quản lý an sinh xã hội;
- Luật an sinh xã hội góp phần phát triển xã hội ổn định bền vững, thúc đẩy sự công bằng và tiến bộ xã hội;
- Luật an sinh xã hội là ngành luật có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Chương 2: Quan hệ pháp luật ASXH
1 – Khái niệm:
QHPL ASXH là những quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực nhà nước tổ chức thực hiện các hình thức bảo vệ, trợ giúp cho các thành viên xã hội trong những trường hợp cần thiết nhằm đảm bảo an toàn trong đời sống xã hội, được các QPPL ASXH điều chỉnh.
2 – Đặc điểm:
- Thứ nhất: Trong QHPL ASXH, thông thường có một bên tham gia là Nhà nước.
Nhà nước tham gia quan hệ này thông qua các cơ quan do Nhà nước thành lập hoặc các tổ chưc được NN thừa nhận và trao trách nhiệm. Các chủ thể đại diện cho NN thường tham gia QHPL ASXH bằng nguồn lực của mình, NSNN hoặc với tư cách là người tổ chức và huy động các nguồn lực xã hội để NN bổ sung cho các chế độ an sinh cố định trong những trường hợp cần thiết.
Từ đó, thông qua NN mà các thành viên trong xã hội bù đắp những khoảng trống mà PLASXH không thể bù đắp được do tính chất nghiêm trọng của rủi ro cần chia sẻ trong những trường hợp cá biệt hoặc để mục đích ASXH đạt được ở mức độ cao hơn.
- Thứ hai: Tham gia QHPL ASXH có thể là tất cả các thành viên trong xã hội, không phân biệt theo bất cứ tiêu chí nào.
QHPL ASXH được hình thành trong phạm vi rộng lớn của quốc gia. Do Nhà nước, chủ đại diện cho toàn xã hội, tham gia với tư cách là 1 bên của quan hệ này nên tất cả các thành viên của xã hội trong phạm vi quốc gia đều có thể được hưởng trợ giúp. Để được hưởng một chế độ cụ thể nào đó chỉ phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế đã được pháp luật xác định, không có bất kỳ một giới hạn hoặc 1 sự phân biệt nào khác. Thậm chí, nhiều trường hợp còn không có cả sự phân biệt về quốc tịch như phần lớn các QHXH được PLQG điều chỉnh.
Mỗi thành viên bất kỳ trong toàn xã hội đều có thể tham gia một hoặc một số các quan hệ cụ thể thuộc hệ thống QHPL ASXH, phụ thuộc vào điều kiện thực tế của họ được pháp luật xác định.
- Thứ ba: Chủ thể hưởng ASXH có quyền tham gia QHPL này ngay từ khi sinh ra.
Đặc điểm này do vấn đề ASXH là quyền của con người trong xã hội. Năng lực pháp luật hưởng ASXH của các cá nhân thường xuất hiện từ khi họ mới sinh ra, không phụ thuộc vào năng lực hành vi của họ. Đây là đặc điểm riêng của QHPL ASXH so với rất nhiều QHPL khác.
- Thứ tư: QHPL ASXH được thiết lập chủ yếu dựa trên cơ sở nhu cầu quản lý rủi ro, tươn trợ cộng đồng trong xã hội.
Các QHPL ASXH hình thành trên cơ sở nhu cầu chung của xã hội, để quản lý và chia sẻ rủi ro cho cả cộng đồng, không phụ thuộc vào những QHXH khác, không nhằm thực hiện những mục đích khác. Trên cơ sở này, Nhà nước xác định những loại QHXH do PL ASXH điều chỉnh.
- Thứ năm: Quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các chủ thể là trợ giúp và được trợ giúp vật chất, do Nhà nước đảm bảo thực hiện.
Do mục đích của QHPL ASXH là đảm bảo an toàn về đời sống dân sinh (theo nghĩa hẹp) cho con người nên nội dung chính là của quan hệ này là vấn đề trợ giúp vật chất cho các thành viên xã hội trong những trường hợp cần thiết. Điều này ko có nghĩa là việc trợ giúp vật chất quan trọng hơn những lĩnh vực trợ giúp khác mà nó chỉ ra lĩnh vực đặc thù làm nên thuộc tính của QH ASXH. Các lĩnh vực khác trong xã hội cũng la những vấn đề rất quan trọng nhưng nó thuộc lĩnh vực bảo đảm xã hội nói chung. Chế độ trợ cấp vật chất cho người có đủ điều kiện luật định là nội dung chính xuyên suốt các chế độ an sinh xã hội không chỉ ở pháp luật VN mà còn là nội dung páp luật của tất cả các nước.
CÁC QUAN HỆ PHÁP LUẬT AN SINH XÃ HỘI
1. Quan hệ pháp luật BHXH:
· Khái niệm:
Là những quan hệ xã hội hình thành trong quá trình đóng góp và chi trả các chế độ BHXH, được các QPPL điều chỉnh.
· Đặc điểm:
- Đặc điểm chung của hệ thống PLASXH:
+ Có 1 bên tham gia do Nhà nước thành lập và quản lý (cơ quan thực hiện BHXH) và bên kia là bất kì NLĐ nào trong XH, nếu có nhu cầu (bên tham gia và được hưởng BHXH).
+ Tính chất của BHXH cũng là tương trợ cộng đồng giữa những NLĐ trong phạm vi quốc gia.
+ Mục đích: Bảo đảm thu nhập cho NLĐ thông qua các chế độ trợ cấp bảo hiểm.
- Đặc điểm riêng:
+ QHPL BHXH chủ yếu mang tính bắt buộc và thường phát sinh trên cơ sở của QHLĐ.
Theo pháp luật hiện hành, BHXH bắt buộc áp dụng đối với các bên HĐLĐ, họ phải đóng bảo hiểm theo những mức nhất định đồng thời phải tham gia tất cả các chế độ BHXH do NN quy định. Những quan hệ bảo hiểm bắt buộc này là nòng cốt hình thành quỹ BHXH tự nguyện.
+ Trong quan hệ PL BHXH, người hưởng bảo hiểm có nghĩa vụ đóng góp để hình thành quỹ bảo hiểm.
· Phân loại:
- Căn cứ vào các khâu nghiệp vụ trong quá trình thực hiện BHXH, gồm 2 loại:
+ QHPL trong việc tạo quỹ bảo hiểm: Là quan hệ giữa các bên tham gia bảo hiểm với cơ quan BHXH trong việc đống góp và quản lý quỹ bảo hiểm, được các QPPL điều chỉnh.
+ QHPL trong việc chi trả các chế độ BHXH: Là quan hệ giữa cơ quan BHXH với người được hưởng BHXH trong lĩnh vưc chi trả các chế độ BHXH theo quy định của pháp luật.
- Căn cứ vào hình thức BHXH, gồm:
+ QHPL BHXH bắt buộc: Là quan hệ bảo hiểm phát sinh trên cơ sở các quy định bắt buộc của Nhà nước, để bảo hiểm thu nhập cho những lao động trong các quan hệ tương đối ổn định như: công chức, cán bộ nhà nước, những chức danh chuyên trách trong lực lượng vũ trang và những người lao động có HĐLĐ với thời hạn từ 3 tháng trở lên trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức.
Đây là những QHPL BHXH chủ yếu, NLĐ thuộc đố tượng này bắt buộc phải tham gia và được hưởng tất cả các chế độ BHXH do NN tổ chức, chiếm số lượng lớn trong số những người tham gia và hưởng BHXH.
+ QHPL BHXH tự nguyện: Là những QHBHXH hình thành trên cơ sở kết hợp giữa việc tổ chức, bảo trợ của Nhà nước với sự tham gia tự nguyện của NLĐ có nhu cầu bảo hiểm.
BHXH tự nguyện chủ yếu áp dụng đối với những NLĐ ko thuộc diện BHXH bát buộc nhưng có nhu cầu tham gia bảo hiểm.
· Chủ thể của QHPL BHXH:
Gồm 3 chủ thể chính:
- Người tham gia BHXH: Là người có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm để hình thành quỹ BHXH theo quy định của PL. Những người tham gia bảo hiểm bắt buộc vẫn là đối tượng chính của bên tham gia bảo hiểm xã hội.
Người sử dụng các lao động thuộc đối tượng bắt buộc nói trên cũng bắt buộc phải tham gia bảo hiểm xã hội. Như vậy, NLPL và NLHV tham gia BHXH của chủ thể này cũng phát sinh đồng thời và phụ thuộc vào việc sử dụng lao động của họ. Tại thời điểm phát sinh quyền sử dụng lao động thực tế, NLPL và NLHV tham gia BHXH của NSDLĐ đồng thời xuất hiện và họ phải tham gia BHXH.
- Bên hưởng bảo hiểm xã hội: Là những cá nhân nhận tiền bảo hiểm (còn gọi là trợ cấp BHXH) từ quỹ BHXH khi có đủ điều kiện bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
Hiện nay theo quy định, người được ưởng BHXH là NLĐ đã hoặc đang tham gia QHBHXH. Cũng có trường hợp người được hưởng BHXH là 1 số thành viên trong gia đình NLĐ. Để được hưởng một chế độ bảo hiểm nào đó, NLĐ hoặc thành viên gia đình NLĐ phải có những điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật. Trong đó, thời gian đóng bảo hiểm, tuổi đời, mức độ suy giảm khả năng lao động là những điều kiện chung nhất để xác định người được hưởng BHXH. Khi có đủ những điều kiện theo quy định của pháp luật, họ nhận được bảo hiểm từ cơ quan thực hiện bảo hiểm. Hiện nay, pháp luật quy định NLĐ được hưởng các chế độ BHXH sau:
+ Chế độ ốm đau, dưỡng sức, phục hồi sức khỏe
+ Chế độ thai sản
+ Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
+ Chế độ hưu trí
+ Chế độ tử tuất
+ Chế độ thất nghiệp
- Bên thực hiện BHXH: Là cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức thực hiện chức năng thu, quản lý và chi trả bảo hiểm cho người được BHXH theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật, hệ thống CQBHXH gồm có Hội đồng quản lý BHXH VN; BHXH VN; BHXH Tỉnh; BHXH cấp quận, huyện. Đây là hệ thống cơ quan sự nghiệp về BHXH, do TTCP chỉ đạo trực tiếp và do BLĐ – TB và XH thực hiện quản lý nhà nước.
· Nội dung QHBHXH:
Bao gồm quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ. Quyền của chủ thể này tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể kia và ngược lại.
- Quyền và nghĩa vụ của bên tham gia bảo hiểm:
+ Quyền:
è Từ chối thực hiện những yêu cầu không đúng với các quy định của pháp luật về BHXH
è Khiếu nại, tố cáo với CQNN có thẩm quyền khi CQBHXH hoặc các cá nhân, tổ chức khác có hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm.
+ Nghĩa vụ:
è Thực hiện trích nộp, đóng BHXH theo quy định
è Thực hiện đúng các quy định về lập hồ sơ, quản lý sổ BHXH để làm căn cứ đống và trả BHXH
è Cung cấp thông tin trung thực liên quan đến BHXH với cơ quan có thẩm quyền.
- Quyền và nghĩa vụ của bên hưởng BHXH:
+ Quyền:
è Được nhận sổ BHXH
è Được nhận trợ cấp BHXH đầy đủ, kịp thời, thuận tiện khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật
è Có quyền khiếu nại hoặc yêu cầu giải quyết tranh chấp khi quyền bảo hiểm của họ bị xâm phạm.
+ Nghĩa vụ:
è Cung cấ thông tin trung thực về BHXH và Cơ quan có thẩm quyền
è Có nghĩa vụ thực hiện đúng các quy định về lập hồ sơ để hưởng BHXH
è Bảo quản, sử dụng sổ BHXH và hồ sơ BHXH đúng mục đích, đúng quy định.
- Nhiệm vụ và quyền hạn của bên thực hiện BHXH:
+ Tổ chức, chỉ đạo thực hiện các chế độ BHXH, thu các khoản đóng góp BHXH bắt buộc và tự nguyện; chi trả trợ cấp BHXH cho đối tượng tham gia BHXH kịp thời, đầy đủ, thuận tiện và đúng thời hạn.
+ Lưu giữ hồ sơ của đối tượng tham gia và hưởng BHXH, cấp sổ và các loại thẻ BHXH theo quy định
+ Quản lý, sử dụng và hạch toán quỹ BHXH đúng quy định theo chế độ tài chính của NN.
+ Xây dựng và trình thủ tướng Chính phủ phê duyệt và thực hiện đề án bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH
+ Tổ chức các phương thức quản lý, hợp tác với các đơn vị sử dụng lao động, cơ sở khám chữa bệnh … để thực hiện các chế độ BHXH có hiệu quả,
+ Từ chối việc chi trả các chế độ BHXH khi đối tượng tham gia bảo hiểm ko đủ điều kiện hưởng BHXH theo quy định hoặc khi có căn cứ pháp lý về hành vi man trá, làm giả hồ sơ để hưởng BHXH.
+ Bồi thường mọi khoản thu, chi sai quy định cho đói tượng tham gia BHXH theo quy định của pháp luật
+ Giải quyết kịp thời và đúng đắn các khiếu nại, tố cáo của tổ chức và cá nhân về thực hiện chính sách, chế độ BHXH theo quy định của pháp luật
+ BHXH VN Ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện việc giải quyết các chế độ BHXH, kiến nghị Chính phủ hoặc TTCP và các CQNN hữu quan về việc sửa đổi, bổ sung các quy định về BHXH; thực hiện báo cáo về thu, chi và các hoạt động của BHXH với các cơ quan quản lý của NN có thẩm quyền, tuyên truyền vận động để mọi người tham gia BHXH…
2. Quan hệ pháp luật về ưu đãi xã hội:
· Khái niệm: Là QHXH hình thành trong việc Nhà nước ưu đãi người có công và 1 số thành viên gia đình họ trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống XH, được các QPPL điều chỉnh.
· Đặc điểm: Ngoài các đặc điểm chng của hệ thống QHPL ASXH, QHPL ưu đãi xã hội còn có những đặc điểm riêng sau:
- Căn cứ chủ yếu để xác định chủ thể được ưu đãi là sự đóng góp đặc biệt của họ hoặc thân nhân của gia đình họ cho xã hội.
(Trong các QHBHXH, cứu trợ xã hội, căn cứ để xác định chủ thể được thụ hưởng chủ yếu là những trường hợp gặp hoàn cảnh rủi ro cần được đảm bảo an toàn trong cuộc sống). Còn QHLP ưu đãi XH, việc xác định người được ưu đãi chủ yếu dựa trên những cống hiến, hi sinh của họ hoặc thân nhân của họ đối với đất nước.
Ngoài ra, vệc xác định chủ thể được thụ hưởng trong QHPL ưu đãi xã hội cũng căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của đối tượng, như các QHASXH khác. Tuy nhiên, đó ko phải là căn cứ chính để xác định chủ thể trong QH ưu đãi XH.
- QHPL ưu đãi xã hội được thiết lập không chỉ nhằm mục đích tương trợ cộng đòng mà chủ yếu để thực hiện sự ưu đãi của Nhà nước đối với người có công.
Chủ thể hưởng ưu đãi là người có công, thường được trợ cấp ưu đãi cao hơn các mức trợ cấp khác trong hệ thông ASXH.
Nội dung của ưu đãi xã hội cũng rộng rãi hơn các chế độ an sinh khác. Họ không chỉ được trợ cấp đảm bảo cuộc sống mà còn được hưởng các chế độ ưu đãi về đời sống tinh thần; bao hàm hầu hết các nhu cầu thiết yếu của con người trong xã hội.
· Chủ thể của QHPL ưu đãi xã hội:
- Người ưu đãi: Là người đảm bảo thực hiện các chế độ ưu đãi đối với người có công theo quy định của pháp luật.
+ Nhà nước là chủ thể có trách nhiệm phải thực hiện chế độ này bởi người được hưởng ưu đãi xã hội là những người có công với nước. Vì vậy, có thể gọi bên người ưu đãi trong QHPL ưu đãi xã hội là cơ quan ưu đãi xã hội. Hệ thống các CQNN thực hiện chế độ ưu đãi đối với người có công bao gồm: ở cấp trung ương có Bộ LĐTBXH, cụ thể là Cụ Thương binh, liệt sỹ và người có công thuộc Bộ; Ở cấp tỉnh có Sở LĐTBXH, cụ thể là Phòng Thương binh, liệt sỹ và người có công trực thuộc Sở; cấp huyện là Phòng LĐTBXH trực thuộc UBND huyện.
+ Trực thuộc các cơ quan hành chính nói trên còn có các đơn vị sự nghiệp thực hiện các chế độ ưu đãi xã hội như các cơ sở nuôi dưỡng, điều dưỡng, điều trị, phục hồi chức năng … được Nhà nước phân cấp quản lý.
+ Bên cạnh đó Nhà nước còn tổ chwucs Quỹ “đền ơn đáp nghĩa” ở tất cả các cấp hành chính.
- Người được ưu đãi: Là những người được trực tiếp hưởng các chế độ ưu đãi xã hội theo quy định của pháp lật do có những đóng góp hi sinh hoặc có người thân đóng góp hy sinh cho sự ghiệp cách mạng, cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những chủ thể này được quyền hưởng các chế độ ưu đãi xã hội nếu có đủ điều kiện và hoàn tất các thủ tục cần thiết theo quy định của pháp luật, ko phụ thuộc vào năng lực hành vi của họ.
Họ có thể thực hiện các quyền của người được ưu đãi trực tiếp thông qua người đại diện hợp pháp, hoặc thông qua các cơ sở nuôi dưỡng, điều trị … tùy thuộc vào hoàn cảnh và NLHVDS của họ.
Mức ưu đãi cũng như chế độ ưu tiên, ưu đãi phụ thuộc vào mức độ đóng góp, cống hiến, hy sinh của người có công đối với đất nước và hoàn cảnh của người được ưu đãi.
· Nội dung của QHPL ưu đãi xã hội:
- Quyền và nghĩa vụ của người ưu đãi:
+ Thực hiện các thủ tục xác nhận, công nhận, lưu trữ hồ sơ và quản lý đối tượng thuộc diện ưu đãi xã hội theo chức năng hoặc theo sự phân cấp của Nhà nước.
+ Thực hiện chi trả các chế độ trợ cấp ưu đãi, chế độ nuôi dưỡng, điều dưỡng, phục hồi chức năng … cho người được ưu đãi theo quy định của pháp luật.
+ Từ chối chi trả chế độ ưu đãi cho những đối tượng có hành vi gian dối, giả mạo giấy tờ để hưởng chế độ ưu đãi.
+ Quản lý phần mộ liệt sỹ, các công trình ghi công, tổ chức thăm viếng nghĩa trang liệt sĩ … theo sự phân cấp của Nhà nước.
+ Trả lời đơn thư khiếu nại của các tập thể, cá nhân về việc thực hiện các chính sách, chế độ ưu đãi xã hội theo thẩm quyền.
+ Cơ quan thực hiện ưu đãi xã hội còn có quyền và trách nhiệm trong việc tham gia xây dựng và hướng dãn thực hiện pháp luật về ưu đãi xã hội; tuyên truyền pháp luật và vận động phong trào toàn dân chăm sóc người có công, đền ơn đáp nghĩa …
- Quyền và nghĩa vụ của người được ưu đãi:
+ Được hưởng ưu đãi trợ cấp, các ưu đãi khác và chế độ nuôi dưỡng, điều dưỡng, phục hồi chức năng … tùy từng đối tượng luật định
+ Thực hiện đúng các quy định của NN về điều kiện, thủ tục để hưởng chế độ ưu đãi
+ Không được có những hành vi gian dối, giả mạo giấy tờ để hưởng chế độ ưu đãi xã hội.
3. Quan hệ pháp luật về cứu trợ xã hội:
· Khái niệm: Là những QHXH hình thành trong việc người cứu trợ hỗ trợ, giúp đỡ về vật chất và các nhu cầu thiết yếu để giải quyết khó khăn cho người cần cứu trợ, được các QPPL điều chỉnh.
· Đặc điểm: Có đầy đủ các đặc điểm của QHPL ASXH, bên cạnh đó còn có 1 số đặc điểm riêng:
- Trong QHPL cứu trợ XH, chủ thể tham gia với tư cách là người cứu trợ rất đa dạng.
Bên cạnh chủ thể là Nhà nước thì còn có nhiều chủ thể khác có thể tham gia với tư cách là người cứu trợ. Đó có thể là bất kì cá nhân, tổ chức nào, không phân biệt trong nước hay nước ngoài … nếu có khả năng và lòng hảo tâm đều có thể tham gia với tư cách là người cứu trợ, giúp đỡ những người gặp hoàn cảnh khó khăn, thiên tai, túng thiếu …Như vậy, Nhà nước không phải lúc nào cũng tham gia với tư cách là người cứu trợ, không phải là người cứu trợ duy nhất.
- Trong QHPL cứu trợ XH, không có nghĩa vụ đóng góp của người được cứu trợ:
Người được cứu trợ không phải đóng góp bất kỳ khoản nào vào quỹ cứu trợ, cũng không nhất thiết phải có điều kiện đóng góp cho xã hội. Bất kì thành viên nào trong xã hội gặp hoàn cảnh khó khăn mà pháp luật đã quy định cũng đều có thể được trợ giúp theo mức luật định.
Nguồn tài chính thực hiện hoạt động này chủ yếu được lấy từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn ủng hộ của các tổ chức, cá nhân của cộng đồng trong nước, quốc tế.
Đối tượng thường là những người có hoàn cảnh hết sức khó khăn, cần có sự cứu giúp ngay, không thể căn cứ vào cuộc sống trước đó, cũng không thể phụ thuộc vào việc thực hiện các nghĩa vụ của họ.
- Đối với các quan hệ cứu trợ xã hội, pháp luật chỉ chi phối, điều chỉnh ở mức độ nhất định.
So với các quan hệ pháp luật an sinh khác, thì sự tác động của pháp luật tới các quan hệ cứu trợ xã hội thường ở mức thấp hơn. Pháp luật chủ yếu điều chỉnh các quan hệ cứu trợ do Nhà nước thực hiện từ ngân sách. Đối với các quan hệ cứu trợ do các cá nhân, tổ chức, cộng đồng dân cư … trong ngoài nước thực hiện bằng nguồn tài chính của họ thì Nhà nước cần tác động ở mức độ nhất định để đảm bảo thực hiện đúng mục đích, đặc biệt đối với những trường hợp quy mô tổ chức và phạm vi thực hiện cứu trợ tương đối lớn, có tính ổn định.
Do bản chất vốn có của hoạt động cứu trợ xã hội, trước hết phải là vấn đề đạo lý, vấn đề xã hội, không thể chỉ là vấn đề pháp lý đơn thuần. Cho nên quan hệ cứu trợ xã hội bao gồ cả quan hệ công va quan hệ tư; có hể là quan hệ pháp lý nhưng cũng có thể chỉ la quan hệ xã hội thuần túy.
· Chủ thể của QHPL cứu trợ xã hội:
- Bên thực hiện cứu trợ: Là những cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện việc cứu tế, trợ giúp đối với người có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn … Họ có thể là những người có trách nhiệm phải cứu trợ hoặc cũng có thể là những người có khả năng và lòng hảo tâm giúp đỡ người khác. Đối với các cơ quan, tổ chức, NLPL và NLHV cứu trợ xã hội xuất hiện khi cơ quan, tổ chức đó được thành lập. Đối với các cá nhân tham gia quan hệ với tư cách là người cứu trợ, NLPL cứu trợ phụ thuộc vào quy định của PLDS, khi cá nhân có khả năng thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản riêng của mình một cách độc lập. NLHV cứu trợ xã hội phát sinh khi cá nhân đó có NLPLDS và có tài sản để thực hiện việc cứu trợ xã hội.
- Người được cứu trợ: Là những cá nhân, hộ gia đình, những thành viên trong xã hội thực sự đang gặp hoàn cảnh khó khăn, rủi ro, bất hạnh.
Theo quy định của pháp luật, đối tượng được cứu trợ bao gồm trẻ mồ côi, người già cô đơn không nơi nương tựa, người tàn tật nặng, người tâm thần mãn tính. Ngoài ra, một số cá nhân hoặc hộ gia đình gặp khó khăn khác cũng được cứu trợ từ phía nhà nước hoặc cộng đồng. Tuy nhiên, những đối tượng này thường chỉ được hưởng cứu trợ đột xuất (cứu trợ 1 lần) bởi hoàn cảnh khó khăn đối với họ chỉ có tính chất thời điểm. Nếu không khắc phục được, đủ điều kiện để cứu trợ thường xuyên thì họ cũng được hưởng chế độ này.
· Nội dung của QHPL cứu trợ xã hội:
- Các cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng cứu trợ xã hội của Nhà nước, các cơ sở bảo trợ xã hội có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau:
+ Quản lý đối tượng thuộc diện cứu trợ xã hội theo sự phân cấp của cơ quan có thẩm quyền hoặc theo chức năng được xác định.
+ Có trách nhiệm thực hiện các chế độ cứu trợ xã hội kịp thời, đúng pháp luật.
+ Tiếp nhận, sử dụng và quản lý các nguồn kinh phí hiện vật do các tổ chức cá nhân đóng góp và giúp đỡ từ thiện, bảo đảm sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng.
- Người được cứu trợ có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau:
+ Được hưởng trợ cấp một lần hoặc hàng tháng tùy theo đối tượng cứu trợ do pháp luật quy định.
+ Nếu thuộc diện nuôi dưỡng tại các cơ sở tập trung được trợ cấp bằng hiện vật đối với các nhu cầu sinh hoạt thiết thực
+ Được tạo điều kiện trong học nghề và việc làm (đặc biệt đối với trẻ mồ côi)
+ Được trợ giúp về y tế, giáo dục tùy thuộc từng đối tượng
+ Người được cứu trợ cũng phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật về thủ tục cứu trợ, trung thực về điều kiện cứu trợ.
CHƯƠNG III. BẢO HIỂM XÃ HỘI
I. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội
1. Khái niệm:
- Dưới góc độ kinh tế: BHXH là phạm trù kinh tế tổng hợp, là sự đảm bảo thu nhập nhằm đảm bảo cuộc sống cho NLĐ khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động.
- Dưới góc độ pháp lý: chế độ BHXH là tổng hợp những quy định của nhà nước, quy định các hình thức đảm bảo điều kiện vật chất và tinh thần cho NLĐ và trong 1 số trường hợp là thành viên gia đình họ khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động.
- Hiện nay theo qu định tại khoản 1 ĐIều 3 Luật BHXH thì BHXH được định nghĩa như sau: BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp 1 phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH.
2. Một số khái niệm cấu thành BHXH
a. Các bên trong quan hệ BHXH
Các bên(thành viên, chủ thể)tham gia quan hệ BHXH gồm có: bên thực hiện BHXH, bên tham gia BHXH, bên được BHXH.
- Ở nước ta hiện nay, hoạt động BHXH do nhà nước thống nhất quản lý và tổ chức thực hiện. Hệ thống cơ quan BHXH được tổ chức thống nhất từ TW đến địa phương. Trong đó, hệ thống BHXH ở địa phương, ở cơ sở có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm đầy đủ, nhanh chóng, kịp thời các khoản trờ cấp cho người được bảo hiêm rtheo quy định của PL. Các nhiệm vụ khác dù cần thiết nhưng đều phụ thuộc và bổ sung cho nhiệm vụ trên à bên thực hiện BHXH chịu trách nhiệm trước nhà nước về việc thực hiện BHXH đối với NLĐ theo quy định của PL, đồng thời chịu trách nhiệm vật chất và tài chính đối với bên được bảo hiểm khi họ có đủ điều kiện theo quy định của PL.
- Bên tham gia BHXH là người đóng góp phí BHXH để bảo hiểm cho mình hoặc cho người khác được hưởng BHXH. Theo quy định của PL bên tham gia BHXH là người sử dụng lao động, người lao động và trong 1 chừng mực nào đó là NHà nước (với 1 số đối tượng đặc biệt như lực lượng vũ trang hưởng lương từ NSNN, chức vụ dân cử).
- bên được BHXH là NLĐ hoặc thành viên gia đình họ khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện BHXH theo quy định của PL.
b. Các chế dộ BHXH
* Các chế độ BHXH được tạo thành bởi các yếu tố:
- Đối tượng được hưởng BHXH à là cá nhân hoặc thân nhân của NLĐ, khi có đủ các điều kiện được hưởng BHXH theo quy định của PL. đuêọc quy định thùy thuộc vào chính sách KT, XH nói chung và chính sách BH nói riêng.
- Điều kiện hưởng BHXH à là tập hợp các quy định củ PL làm cơ sở pháp lý để NLĐ hoặc thành viên của gia đình họ được hưởng BHXH. Có vai trò quan trọng ko chỉ là cơ sở pháp lý để được hưởng BHXH mà còn là công cụ điều tiết của nhà nước để bảo đảm phù hợp giữa các chế độ BHXH, giữa trách nhiệm của NLĐ và trách nhiệm của người ko lao động hưởng BHXH.
Hệ thống các điều kiện BHXH gồm:
+ tuổi đời
+ Mức độ suy giảm hoặc mất khả năng lao động.
+ Mức đóng và thời gian tham gia BHXH.
- Mức trợ cấp và thời hạn hưởng trợ cấp BHXH.
Trợ cấp BHXH là số tiền mà NLĐ (hoặc người tham gia BHXH) nhận được từ cơ quan BHXH thay hoặc thêm vào thu nhập bị mất hoặc bị giảm do mất hoặc giảm khả năng lao động. Trợ cấp BHXH gồm 2 loại:
+ Trợ cấp thường xuyên: là loại trợ cấp đòi hỏi phải trả thường kỳ hàng tháng, có tác dụng phát huy hiệu quả trong 1 thời gian dài (ví dụ chế độ hưu trí)
+ Trợ cấp ko thường xuyên là loại trợ cấp chỉ trả cho nhu cầu bảo hiểm mới phát sinh, có tác dụng trong thời gian ngắn (ví dụ chế độ trợ cấp thai sản).
Cơ sở để xác định mức trợ cấp BHXH và thời gian hưởng BHXH phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau: mức độ đóng góp cho XH, mức độ giảm hoặc mất khả năng lao động.
* Ở nước ta hiện nay thực hiện 1 số chế độ BHXH sau:
+ Chế độ BH ốm đau và nghỉ dưỡng sức.
+ Chế độ BH tai nạn lao động, bênh nghề nghiệp.
+ Chế độ BH thai sản.
+ Chế độ hưu trí.
+ Chế độ BH thất nghiệp.
+ Chế dộ tử tuất.
+ Chế độ BHYT.
Ngoài các chế độ BHXH hiện hành, hiện nay còn có những đối tượng lao động hưởng chế độ mất sức lao động (được quy định trong NĐ 218 ngày 27/12/1961 của Hội đồng CP ban hành kèm theo điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước, hiện nay đã ko còn hiệu lực).
c.Quỹ BHXH
- Định nghĩa
+ Theo nghĩa rộng QBHXH là tập hợp những phương tiện nhằm thỏa mãn những nhu cầu phát sinh về BHXH trên cơ sở sự đóng góp của những người tham gia BHXH.
+ Theo nghĩa hẹp, QBHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của người tham gia BHXH, hình thành 1 quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho người được BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.
- QBHXH được hình thành bởi nhiều nguồn khác nhau. Một trong những nguồn cơ bản là đóng góp của các bên tham gia BHXH (gọi là phí BHXH) cụ thể gồm: người lao động, người SDLĐ. Một phần quan trọng nữa tạo nên QBHXH là sự hỗ trợ của Nhà nước, là hoạt động sinh lời của QBHXH.
Nếu gọi QBHXH (QHB) là tổng quỹ BHXH thì cơ cấu quỹ BHXH như sau:
QHB = ĐLĐ + ĐSDLĐ + TNN + TSL + TK
Trong đó: + ĐLĐ: đóng góp của NLĐ.
+ ĐSDLĐ: đóng góp của NSDLĐ.
+ TNN: Hỗ trợ của NN.
+ TSL: thu từ hoạt động kinh doanh của QBHXH.
+ TK: nguồn thu hợp pháp khác.
Hiện nay ở nước ta QBHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của NN, hạch toán độc lập và được nhà nước bảo trợ.
- QBHXH có 2 tính chất đặc trưng sau:
+ Sự an toàn về tài chính của QBHXH được nhà nước bảo đảm. Do đăc thù về đói tượng đảm bảo, bàn chất, ý nghĩa của hoạt động BHXH mà NN phải có trách nhiệm đảm bảo sự an toàn về tài chính cho QBHXH.
+ QBHXH là 1 quỹ tiêu dùng. QBHXH là 1 bộ phận cấu thành của hệ thống phân phối theo thu nhập quốc dân, làm nhiệm vụ phân phối lại thu nhập cho NLĐ. Do đó, QBHXH là quỹ tích lũy đồng thời là quỹ tiêu dùng trên cơ sở tuân theo quy luật công bằng, ở mức độ nhất định theo nguyên tắc tương đương đồng thời phải tham gia điều chỉnh cần thiết giữa các nhu cầu và lợi ích.
2. Bản chất, chức năng của BHXH
2.1. Bản chất
BHXH mang cả bản chất KT và XH.
- Về mặt kinh tế: nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của NLĐ và gia đình họ luôn được đảm bảo trước những bất trắc, rủi ro xã hội.
- Về mặt xã hội: do có sự san sẻ rủi ro của BHXH, NLĐ chỉ phải đóng góp 1 khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho QBHXH nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn để trang trải những rủi ro xảy ra.
à tính kinh tế và xã hội của BHXH ko tách rời mà đan xen lẫn nhau.
2.2.Chức năng cơ bản của BHXH
- Chức năng bảo đảm thay thế hoặc bù đắp sự thiếu hụt thu nhập của NLĐ và gia đình họ. Đây là chức năng cơ bản thể hiện rõ bản chất kinh tế, xã hội của BHXH. BHXH chỉ thực sự có ý nghĩa kinh tế khi những thiếu hụt về thu nhập của NLĐ và gia đình họ được bù đắp, trợ giúp theo quy định của BH. Đồng thời chỉ khi thực hiện tốt chức năng này, BHXH mới thực sự khuyến khích, thực sự có sức cuốn hút đối với NLĐ để họ tham gia BHXH.
- Chức năng phân phối lại thu nhập. chức năng này thể hiện khi NLĐ tham gia BH đã thực hiện san sẻ rủi ro của chính mình theo thời gian. Có nghĩa là họ đóng góp BHXH thường kèm theo 1 tỷ lệ nào đó thu nhập từ nghề nghiệp và trong 1 thời gian dài để đến khi họ ốm đau, nghỉ hưu… số tiền đóng góp đó có thể đảm bảo 1 phần nhu cầu chi tiêu của họ. Ngoài ra NSDLĐ cũng tham gia đóng góp phí BH XH để BH cho NLĐ mà họ thuê mướn theo thời gian của hợp đồng lao động. Sự phân phôi slaij trong BHXH còn thể hiện ở chỗ người lao động khỏe đóng góp c ho NLĐ ốm đau, NLĐ trẻ đóng góp cho NLĐ đã hết tuổi lao động được hưởng.
- Góp phần tạo ra sự san sẻ, tương trợ giữa các nhóm lao động. NLĐ hàng tháng chỉ phải trích ra 1 tỷ lệ nhỏ từ thu nhập đóng cho QBHXH nhưng với số đông người tham gia sẽ có 1 nguồn tiền lớn đủ trang trải cho những người ko may mắn gặp rủi ro. Nhờ vậy BHXH đã tạo ra sự đoàn kết, tương trợ và sự gắn kết lợi ích của các bên tham gia BHXH.
3. Nguyên tắc của BHXH
3.1. Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH
BHXH là 1 trong những hình thức phân phối tổng sản phẩm quốc dân nên việc thực hiện BHXH phải dựa trên cơ sở sự kết hợp hài hòa giữa cống hiến và hưởng thụ tức là phải căn cứ vào mức đóng góp của NLĐ cho xã hội thể hiện thông qua mức đóng góp, thời gian đóng góp cho QBHXH…để từ đó quy định mức trợ cấp và độ dài thời gian hưởng trợ cấp phù hợp với sự đóng góp cho xã hội của người lao động.
Bên cạnh đó, NLĐ đóng góp vào quỹ BHXH ko có nghĩa chắc chắn sẽ hưởng mọi chế độ BHXH. Nhưng sự đóng góp của họ có ý nghĩa rất lớn cho những đối tượng gặp phải những rủi ro nghiêm trọng mà nếu ko có sự chia sẻ, tương trợ cộng đồng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống.
3.2.Mức đóng BHXH bắt buộc, BH thất nghiệp được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công của NLĐ. Mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập do NLĐ lựa chọn nhưng mức thu nhập này ko thấp hơn mức lương tối thiểu chung.
Theo quy định hiện hành của Luật BHXH nước ta, mức đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở tiền công, tiền lương của NLĐ; mức đóng BHXH tự nguyện do NLĐ lựa chọn tính trên cơ sở mức thu nhập của họ nhưng ko thấp hơn mức lương tối thiểu chung.
Mức thu nhập được BH còn là công ục để NN giám sát, kiểm tra, điều tiết trên giác độ quản lý vĩ mô đối với BHXH và quản lý lao động trong nền KTQD.
3.3.NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa cso thời gian đóng BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế dộ tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng BHXH.
Để đảm bảo quyền lơi của NLĐ và tính liên thông trong quan hệ BHXH thì NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thơi gian đóng BHXH tự nguyện được hưởng chế độ BHXH (hưu trí, tử tuất) theo quy định của PL trên cơ sở thời gian đã đóng BHXH.
3.4. Quỹ BHXH được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần của BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và BH thất nghiệp.
BHXH là chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống XH chứa dựng cả nội dung kinh tế, xã hội và pháp lý. Để đảm bảo thực hiện hài hòa các nội dung trên và đạt được mục tiêu mà BHXH đặt ra thì 1 trong những vấn đề cần được chú ý là việc quản lý và sử dụng quỹ BHXH.
Ở nước ta mặc dù tổ chức BHXH là tổ chức sự nghiệp do Cp thành lập nhưng việc chỉ đạo và giám sát hoạt động của tổ chức này do Hội đồng quản lý BHXH gồm: Đại diện bộ LĐ – TB và XH, Bộ TC, Tổng liên đoàn lao động VN, Phòng thương mại và công nghiệp VN, Liên minh HTX VN, Tổ chức BHXH và 1 số thành viên khác do CP quy định.
3.5. Việc thực hiện BHXH phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH.
Các khoản tiền BHXH giữ vai trò cần thiết và quan trọng góp phần bù đắp vào sự thiếu hụt thu nhập của NLĐ và gia đình họ nhằm ổn định cuộc sống, khắc phục những khó khăn, hỗ trợ, giúp đỡ họ vượt qua những rủi ro tạm thời cũng như lâu dài. Chính vì vậy, việc thực hiện BHXH phải đảm bảo đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, kịp thời đặc biệt về thủ tục hành chính) và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH.
4. Phân loại BHXH
a. Phân loại theo hình thức của BHXH:
- BHXH bắt buộc: là loại hình BHXH mà NLĐ và NSDLĐ phải tham gia.
- BHXH tự nguyện: là loại hình mà NLĐ tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng BHXH.
b. Phân loại theo các trường hợp rủi ro được BHCH (chế độ BHXH)
- BHXH trong trường hợp bị ốm đau, nghỉ dưỡng sức.
- BHXH trong trường hợp tai nạn lao động, bênh nghề nghiệp.
- BHXH trong trường hợp thai sản.
- BHXH trong trường hợp tuổi già.
- BHXH trong trường hợp mất việc làm (thất nghiệp.)
- BHXH trong trường hợp chết.
- BHYT.
II. Chế độ BH ốm đau
1. Khái niệm, ý nghĩa của chế độ BH ốm đau
* K/N: BH ốm đau là chế độ BHXH nhằm đảm bảo thu nhập cho người lao động(tham gia BHXH) tạm thời bị gián đoạn do phải nghỉ việc vì ốm đau, tai nạn, chăm sóc con ốm theo quy định của PL.
* Ý nghĩa:
- Đối với bản thân và gia đình NLĐ
+ Hỗ trợ 1 phần kinh phí chữa bệnh tật, duy trì cuộc sống hàng ngày cho bản thân và gia đình NLĐ.
+ Giúp NLĐ sớm quay trở lại làm việc,giúp họ ổn định thu nhập, ổn dịnh đời sống.
+ Tạo tâm lý yên tâm cho NLĐ trong quá trình làm việc, giúp họ phát huy tinh thần sáng tạo, tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm.
- Đối với NSDLĐ, BH ốm đau gắn kết trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ khi sử dụng lao động. BH này cũng giuos NSDLĐ ổn định sản xuất, tăng năng xuất lao động, tăng trưởng kinh tế, hạn chế tốn kém và phiền hà khi rủi ro xảy ra đối với NLĐ…
- Đối với NN, XH cũng như BHXH nói chung BH ốm đau có ý nghĩa về mọi mặt: chính trị, kinh tế, xã hội.
III. CHẾ ĐỘ BH THAI SẢN
1. Khái niệm, vị trí, ý nghĩa
- K/N: là 1 trong các chế độ BHXH, bao gồm các quy định của NN nhằm bảo hiểm thu nhập và đảm bảo sức khỏe cho lao động nữ nói riêng khi mang thai, sinh con và cho NLĐ nói chung khi nôi con nuôi sơ sinh, khi thực hiện các biện pháp tránh thai.
- Ý nghĩa:
+ Trợ giúp, giữu cân bằng về thu nhập, góp phần tạo sự bình ổn về mặt vật chất, bảo vệ sức khỏe cho lao động nữ nói riêng, NLĐ nói chung.
+ Thể hiện rõ rệt sự ưu đãi của NN đối với NLĐ khi thực hiện chức năng làm mẹ của họ.
Chương IV: Chế độ ưu đãi xã hội.
I- Khái quát chung về ưu đãi XH:
1. Khái niệm và ý nghĩa của ưu đãi xã hội:
1.1: Khái niệm:
Người có công phải là những người có thành tích đóng góp hoặc cống hiến xuất sắc cho đất nước, cho lợi ích của dân tộc. Những đóng góp, cống hiến của họ có thể là trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc và cũng có thể là trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Do đó, những người có cống hiến xuất sắc ở các lĩnh vực khoa học, công nghệ, văn hóa nghệ thuật, thể thao như anh hùng lao động, nhà giáo nhân dân, nghệ sĩ nhân dân… cũng được xếp vào đối tượng người có công. Tuy nhiên, do đặc điểm lịch sử, đó ko phải là những đối tượng chủ yếu trong số những người có công ở nước ta. Song, tất cả những đối tượng được coi là người có công bao giờ cũng được Nhà nước và xã hội dành cho những ưu tiên, những đãi ngộ hơn mức bình thường so với các đối tượng khác trong mọi mặt của đời sống xã hội. Những ưu tiên, đãi ngộ hơn mức bình thường ấy chính là ưu đãi xã hội.
ð Ưu đãi xã hội được hiểu là sự đãi ngộ của nhà nước, của cộng đồng và toàn xã hội về đời sống vật chất cũng như tinh thần đối với những người có công và gia đình họ.
ð Chế độ ưu đãi XH được hiểu là tổng hợp những QPPL quy định về các điều kiện, hình thức, mức độ bảo đảm vật chất và tinh thần cho những người có công và một số thành viên trong gia đình họ trên các lĩnh vực của đời sống kt, văn hóa, xh.
ð Sự khác biệt giữa chế độ ưu đãi xh với chế độ bảo hiểm xh và chế độ cứu trợ xh: chế độ ưu đãi xh được coi là một nhánh của cơ bản của pl ASXH. Nếu như chế độ BHXH chủ yếu thể hiện sự tương trợ cộng đồng giữa những ng tham gia bảo hiểm; chế độ cứu trợ XH chủ yếu thể hiện sự giúp đỡ của nhà nước, của cộng đồng đối với thành viên của mình khi họ gặp những rủi ro, khó khăn trong cuộc sống thì chế độ ưu đãi XH lại chủ yếu thể hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của nhà nước, của cộng đồng đối với một bộ phận dân cư đặc biệt-những người có công với nước, với dân tộc.
2.2: Ý nghĩa của chế độ ưu đãi xh:
Cùng với BHXH, cứu trợ XH, ưu đãi XH thực hiện sứ mệnh bảo vệ một số thành viên đặc thù của XH. Ko những thế, nó còn thể hiện thái độ, tình cảm của đất nước, của dân tộc, của thế hệ con cháu đối với những người đã cống hiến hy sinh cho đất nước.
Về mặt chính trị:
Người có công là những ng có những đóng góp, cống hiến hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bởi vậy, việc quy định chế độ ưu tiên, ưu đãi đối với họ có ý nghĩa rất lớn về mặt chính trị. Đất nước có được hòa bình hay ko, chủ quyền quốc gia có được đảm bảo hay ko, điều đó phụ thuộc một phần vào những người dám xả thân, hi sinh vì đất nước. Để có điều đó ko chỉ cần lòng yêu nước mà phải tạo niềm tin cho họ từ chế độ chính sách của nhà nước: sự hi sinh của họ được Nhà nước và Xh đánh giá đúng mức, gia đình được Nhà nước và cộng đồng chăm lo… Bởi vậy, sự ưu đãi đối với những ng có công sẽ ko chỉ là sự hỗ trợ về mặt đời sống vật chất cũng như tinh thần cho họ mà nó còn tạo niềm tin tưởng vào chế độ XH tốt đẹp, là nguồn động viên khích lệ đối với các thành viên khác trong XH sẵn sàng xả thân vì nước khi đất nước gặp hoàn cảnh khó khăn. Do đó, làm tốt chính sách đối với những ng có công sẽ góp phần ổn định XH, giữ vững thể chế, tạo đk cho việc phát triển đất nước trong thế ổn định và bền vững. Ngược lại, nếu ko có chính sách ưu đãi XH hoặc thực hiện ko tốt những chính sách này sẽ làm mất lòng tin ko chỉ của một thế hệ đã từng cống hiến, hi sinh mà còn của các thế hệ sau. Đó là nguy cơ có thể dẫn đến mất ổn định chính trị xã hội, ảnh hưởng đến sự tồn vong của Nhà nước.
Về mặt xã hội và nhân văn:
Ưu đãi XH là sự thể hiện truyền thống “đền ơn đáp nghĩa”, là sự báo đáp công ơn những ng đã xả thân vì đất nước, vì dân tộc. Đây ko chỉ là sự biết ơn, kính trọng mà còn là trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước, của cộng đồng, của toàn XH đối với một bộ phận dân cư đặc biệt. Những ng có công đã cống hiến sức lực, tuổi trẻ, thậm chí hy sinh cả tính mạng của mình cho đất nước. Họ có thể bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, bị thương tật, bênh tật và vì vậy mà cuộc sống thường khó khăn. Khi sống trong cơ chế thị trường, nơi mà sự cạnh tranh vì thu nhập, lợi nhuận mang tính quyết liệt, những ng có công càng ít có cơ hội mưu sinh và phát triển. Vì vậy, chế độ ưu đãi XH càng quan trọng và mang nặng tính nhân văn. Chế độ ưu đãi XH ko chỉ góp phần đảm bảo và nâng cao đời sống vật chất chon g có công mà còn giúp họ hòa đồng vào XH. Những ưu tiên, ưu đãi về giáo dục đào tạo, ưu đãi về việc làm, chăm sóc sức khỏe… đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước, của cộng đồng, của toàn xã hội đến mọi mặt đời sống của ng có công.
Đặc biệt đối với những ưu đãi trong lĩnh vực học tập, làm việc, pháp luật đã đảm bảo quyền lợi của những ng có công với tư cách là một ng lao động, một công dân của đất nước. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi nó sẽ xóa bỏ được những mặc cảm, tự ty trong cuộc sống của những ng có côg, đồng thời tạo đk để họ có thể khẳng định được mình, có đk phấn đấu vươn lên, tự tin trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Chế độ ưu đãi XH còn có ý nghĩa giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, tạo cơ hội để mỗi công dân nhận thức sâu sắc và phát huy tốt hơn truyền thống uống nước nhớ nguồn. Nó khơi dậy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, lòng biết ơn của thế hệ trẻ đối với ng đi trước. Chế độ này cũng góp phần tạo ra cách sống ân tình của con ng và ý thức cảm thông, chia sẻ, sự trách nhiệm…giữa các cá nhân, giữa các thế hệ trong cả cộng đồng. Đó là những nét cao đẹp trong đời sống con ng mà mỗi XH đều hướng tới.
Về mặt kinh tế:
Những ng có công là những ng hi sinh xươg máu, hi sinh một phần thân thể hoặc có những cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, công lao của họ là to lớn ko thể bù đắp hết. Tuy nhiên, nhữg đối tượng này (đặc biệt là những ng tham gia hđ cm, chiến đấu bảo vệ tổ quốc) khi tuổi đã già, sức đã yếu hoặc bị thương tật nên sức khỏe giảm sút, đời sống hàng ngày gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, chế độ ưu đãi XH (đặc biệt là chế độ ưu đãi trợ cấp) có vai trò hết sức quan trọng nhằm đảm bảo và nâng cao đời sống cho ng có công. Đặc biệt, đối với những ng ko có khả năng lđ cũng như ko có ai để nương tựa thì các khoản trợ cấp từ chế độ ưu đãi có thể được coi là nguồn thu nhập chủ yếu trong đời sống của họ.
Ko chỉ dừng lại ở việc đảm bảo đời sống, trợ cấp ưu đãi còn giúp ng có công có cơ hội phát triển kt, nâng cao đời sống vật chất. Bên cạnh đó, những ưu tiên, ưu đãi trong các lĩnh vực khác như việc làm, nhà ở, giáo dục đào tạo đã phát huy tác dụng rất lớn trên thực tế và thật sự đã nâng cao đời sống kt chon g có côg và gia đình họ. Thực tế, những ng có công trong sự nghiệp cm, chiến đấu và bảo vệ đất nước thường là những ng có ý chí và giàu nghị lực. Trong thời bình, ng có công là những ng có tâm huyết, có khả năng trong nhiều lĩnh vực của đời sống. Nếu Nhà nước có chính sác phù hợp để tạo đk, khơi dậy và sd hiệu quả ý chí và tài năng của họ thì đó là nguồn lực ko nhỏ trong sự phát triển kt của quốc gia. Từ đó cũng góp phần tạo ra động lực phấn đấu cho các thành viên khác của XH trong công cuộc xây dựng và phát triển kt đất nước.
Về mặt pháp lý:
Sự kính trọng, biết ơn, những ưu tiên, ưu đãi đối với ng có công ko chỉ ở tấm lòng của những ng dân mà còn đc nhà nước và toàn XH chính thức ghi nhận. Đây ko chỉ đơn thuần là sự thể chế hóa các chính sách về ưu đãi mà nó còn là sự đảm bảo về mặt pháp lý cho các quyền ưu đãi của ng có công được thực hiện trên thực tế. Những nhân thân liệt sĩ, những bà mẹ VN anh hùng, họ có những nỗi đau mất mát về thân nhân đã hi sinh. Những thương binh, bênh binh có những thiệt thòi về sự mất mát thể chất, sức lực. Việc quan tâm giúp đỡ họ ko chỉ dựa vào lòng hảo tâm của mọi ng, của XH, của cộng đồng mà nó phải được chính thức qđ trong văn bản pháp luật. Nó trở thành trách nhiệm của Nhà nước và các cấp chính quyền đồng thời là quyền của những ng có công- quyền được hưởng các chế độ ưu đãi. Khi đã trở thành quyền pháp lý, ng có côg có thể tự hào khi hưởng các quyền đó, nó ko tạo ra tâm lý của ng ban ơn và kẻ đc ban ơn cũng như ko tạo ra cơ chế xin-cho trong thực hiện. Đảm bảo quyền được ưu đãi cho ng có công là nghĩa vụ pháp lý của các cơ quan, các công chức nhà nước. Họ phải tuân thủ pl, đảm bảo thực hiện đầy đủ chế độ đối với ng có công.
Chương V: Chế độ cứu trợ xã hội.
Định nghĩa: Theo quan điểm của ILO, cũng như ở Việt Nam thì có thể hiểu “Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước, xã hội và cộng đồng bằng những biện pháp và các hình thức khác nhau đối với các đối tượng bị lâm vào cảnh rủi ro, bất hạnh, nghèo đói,.. vì nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến không đủ khả năng tự lo liệu được cuộc sống tối thiểu của bản than và gia đình nhằm giúp họ tránh được mối đe dọa của cuôc sống thường nhật hoặc giúp họ vượt qua những khó khăn, ổn định cuộc sống và hòa nhập cuộc sống.
Hầu hết các nước đều thực hiện cứu trơ xã hội bằng cách xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện phù hợp với các điều kiện kinh tế- xã hội, phong tục tập quán… của mình. Ở các nước Châu âu đặc biệt là các nước kinh tế phát triển, việc quy định và thực hiện cứu trợ xã hội đã được xác định rõ rang như một trong những nguyên nhân đảm bảo sư phát triển bền vững của quốc gia, công bằng xã hội. Thậm chí một số nc như: Pháp, Thụy điển, Đức còn xác định cứu trợ xã hội cho những ngườ nghèo nhất chính là trọng tâm và mục tiêu chủ đạo của an sinh xã hội.
Dưới góc độ pháp luật, có thể hiểu chế độ cứu trợ xã hội là tổng thể các quy phạm pháp luật có quan hệ chặt chẽ với nhau, xác định quyền và nghĩa vụ của Nhà nước, tổ chức và cá nhân trong việc hỗ trợ về vật chất và tinh thần cho các thành viên trong xã hôi bị lâm vào hoàn cảnh bất hạnh, rủi ro, nghèo đói…không có đủ khả năng đảm bảo cuộc sống tổi thiểu của bản than và gia đình.
Về đối tượng, đối tượng của cứu trợ xã hội là mọi người dân trong xã hội không phân biệt vị thế và thành phần xã hội khi gặp phải khó khăn, thiếu thốn, lâm nạn, cơ nhỡ…vì nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến cuộc sống thường ngày hoặc lâu dài của họ bị đe dọa. Đây là những thành viên có mức sống thấp hơn mức sống tối thiểu của xã hội hoặc gặp khó khăn, rủi ro cần có sự giúp đỡ về vật chất.
Với chế độ cứu trợ, các yếu tố hoàn cảnh cá nhân, tình trạng tài sản và nhu cầu thực tế của đối tượng tại thời điểm phát sinh nhu cầu cứu trợ là các yếu tố cơ bản để quy định chế độ hưởng trợ cấp cứu trợ xã hội mà không gắn với bất kì khoản đóng góp vật chất, tinh thần nào. Đây cũng là nét đặc biệt khi xem xét khi xem xét về quyền và nghĩa vụ chủ thể trong chế độ cứu trợ xã hội so với các chế độ khác trong hệ thống an sinh.
Về nội dung, chế độ cứu trợ có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Nếu căn cứ vào phạm vi đối tượng sẽ có chế độ cứu trợ đối với từng nhóm cụ thể như người già cô đơn không nơi nương tựa, người tàn tật, trẻ em mồ cội, cá nhân và hộ gia đình bị thiên tai.,.. Với mỗi nhóm đối tượng khá nhau có những đặc điểm riêng, nhu cầu cứu trợ khác nhau từ đó có chế độ hưởng linh hoạt, phù hợp với đối tượng. Nếu căn cứ vào tính ổn định hay nhất thời của trợ cấp sẽ có chế độ trợ cấp thường xuyên và chế độ trợ cấp đột xuất. Chế độ trợ cấp thường xuyên có tính ổn đinh, lâu dài hơn (có thể trong một khoảng thời nhất định cho đến hết cuộc đời của đối tượng nếu đối tượng không vượt qua được hoàn cảnh). Chế độ cứu trợ đột xuất có tính nhất thời, được thực hiện một lần và với các hình thức đa dạng, linh hoạt hơn, phụ thuộc vào từng tình huống với nhu cầu cụ thể. Nếu căn cứ vào hình thức của chế độ cứu trợ sẽ có cứu trợ xã hội về mặt vật chất với các khoản tiền trợ cấp, phương tiện sinh sống…và cứu trợ xã hội về tinh thần bằng các hoạt động tư vấn sức khỏe, tâm lý, giáo dục, hướng nghiệp…
Theo quy định của pháp luật hiện hành, chế độ cứu trợ xã hội gồm hai nội dung chính là chế độ cứu trợ xã hội thường xuyên và chế độ cứu trợ xã hội đột xuất. Trên thực tế, đối tượng cứu trợ xã hội đột xuất có thể bao gồm cả đối tượng cứu trợ xã hội thường xuyên và ngược lại.
Mục đích của trợ cấp cứu trợ xã hội không nhằm bù đắp thu nhập thường xuyên bị giảm hoặc mất (trợ cấp bảo hiểm xã hội) hay nhằm bảo đảm ổn định đời sống, suy tôn công trạng, đền ơn đáp nghĩa những người có công (trợ cấp ưu đãi xã hội) mà chỉ hỗ trợ, giúp đỗ cho những người lâm vào tình trạng thực sự khó khăn, túng quẫn, cần có sự giúp đỡ về vật chất mới có thể vượt qua được hoàn cảng hiện tại. Do vậy, mức hưởng cứu trợ xã hội nhìn chung là thấp và linh hoạt, phụ thuộc vào khả năng tài chính của Nhà nước, khả năng huy động nguồn lực, nguyên nhân rủi ro và tình trạng thực tế của đối tượng.
2. Ý nghĩa của chế độ cứu trợ xã hội
An sinh xã hội nói chung và cứu trợ xã hội nói riêng là sự bảo về phổ cập và đồng nhất đối với mọi thành viên xã hội trên cơ sở sự tương trợ cộng đồng, chia sẻ rủi ro, là hoạt động mang tính nhân đạo có ý nghĩa kinh tế, chính trị xã hội và pháp luật sâu sắc
- Dưới góc độ kinh tế, cứu trợ xã hội không vì mục đích kinh doanh, lợi nhuận nhưng lại có ý nghĩa là công cụ phân phối lại tiền bạc, của cải và dịch vụ có lợi cho các thành viên bất hạnh của xã hội, thu hẹp dần sự chênh lệch mức sống, giảm bớt bần cùng, nghèo đói. Đây chính là biện pháp thúc đẩy phất triển kinh tế, tiến bộ xã hội. Đối tượng của cứu trợ xã hội là những người có mức sống thấp hơn mức sống tối thiểu của xã hội, các yêu cầu tối thiểu về kinh tế như ăn, mặc, chi phí chữa bệnh…không được đảm bảo. Những yêu cầu tối thiểu về kinh tế này đã vượt ra khỏi khả năng đảm bảo thực tế của đối tượng, neus không có cứu trợ họ không thể duy trì được mức sống tổi thiểu, không tự giải quyết nổi những bất hnahj và có nguy cơ không trụ được trong cuộc sống. Trong tình thế đó, cứu trợ xã hội chính là “lưới đỡ” kinh tế cuối cùng về miếng cơm manh áo hàng ngày cho đối tượng. Tuy nhiên, phải nhận thức được rằng cứu trợ xã hội không loại trừ được nghèo đói, bất hạnh, rủi ro…mà nó chỉ là biện pháp kinh tế góp phần đẩy lùi nghèo túng, khắc phục rủi ro, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- Dưới góc độ chính trị xã hội thì cứu trợ xã hội mang ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc. Điều đó xuất phát từ chỗ nền tảng của cứu trợ xã hội là sự hợp tác, tương trợ cộng đồng của các thành viên xã hội trước những bất hạnh, rủi ro của mỗi cá nhân. Theo đó, những khó khăn, bất hạnh này được cả cộng đồng gánh vác, sẻ chia mà không đồi hỏi một nghĩa vụ nào về tài chính từ phía đối tượng.Ở đây không có sự phân biệt về đối tượng hưởng cũng như chủ thể thực hiện mà hơn thế nữa lại là yếu tố tạo nên sự hòa đồng giữa các thành viên trong xã hội không phân biệt giới tính, tôn giáo, địa vị kinh tế.
Xã hội nào cũng vậy muốn phát triển bền vững phải đảm bảo được sự bình ổn về chính trị, xã hội. Nguyên nhân của những bất ổn xã hội cũng từ nguồn gốc của sự đói nghèo và suy thoái về đạo đức. Khi các nhu cầu thiết yếu của con người không được đảm bảo rất dễ dẫn đến phẩm chất và nhân cách của họ không được bảo đảm, xã hội sẽ trở thành bất ổn, thiếu an toàn. Lúc này, cứu trợ xã hội đóng vai trò là chiếc “van an toàn” thu hẹp dần khoảng cách giữa các tầng lớp dân cư, điều tiết trật tự xã hội, hạn chê từ gốc rễ những bất ổn xã hội, từ đó bình ổn chính trị
Ngày nay, cứu trợ xã hội không còn là vấn đề chính trị, xã hội của mỗi quốc gia mà đã trở thành vấn đề có tính quốc tế. Việc thực hiện cứu trợ xã hội không bị giới hạn bởi bất kỳ rào cản chính trị hay địa lý nào, nó có ý nghĩa toàn cầu vì một thế giới hòa bình, ổn định và phát triển hơn.
-Dưới góc độ pháp luật, cứu trợ xã hội là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật an sinh xã hội, điều chính việc trợ giúp tinh thần và vật chất cho nhóm đối tượng có vị thế bất lợi, thiệt thòi, ít có cơ may trong cuộc sống như người bình thường khác và không đủ khả năng tự lo liệu, đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình. Ý nghĩa pháp lý của cứu trợ xã hội bắt nguồn từ quyền cơ bản của con người: quyền được sống, được bình đẳng, được thương yêu, đùm bọc, che chắn bảo vệ trước những biến cố bất lợi, đặc biệt khi sự sống bị đe dọa. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của từng nước mà mức độ cứu trợ xã hội được thực hiện ở những mức độ khác nhau. Ở Việt Nam, quyền cứu trợ xã hội được ghi nhận trong Hiến pháp ( điều 67) và nhiều văn bản pháp luật khác.
Từ những phân tích trên ta thấy rằng cứu trợ xã hội không chỉ đơn thuần là hoạt động tự phát mang tính nhân đạo của cộng đồng mà dưới góc độ pháp luật, nó đã được luật hóa, trở thành chế định của pháp luật an sinh xã hội. Cũng từ đó, phải nhận thức rằng cứu trợ xã hội không phải là sự ban ơn, sự chiếu cố của xã hội đối với những thân phận thấp hèn, những người cùng cực mà là quyền của mỗi thành viên trong xã hội, là trách nhiệm, nghĩa vụ của cả cộng đồng.
3. Nguyên tắc cơ bản của chế độ cứu trợ xã hội.
3.1 Nguyên tắc mức độ trợ cấp cứu trợ xã hội không phụ thuộc vào sự đống góp, thu nhập hoặc mức sống trước khi phát sinh nhu cầu cứu trợ mà phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu, tình trạng tài sản thực tế của đối tượng.
Mọi thành viên trong xã hội khi gặp phải rủi ro, bất hạnh,…dẫn đến cuộc sống thường nhật bị đe dọa đều được cứu trợ, không phân biệt địa vị kinh tế, thành phần xã hội, tôn giáo, giới tính…Mức hưởng cứu trợ xã hội được tính trên cơ sở nhu cầu chi tiêu cụ thể và tình trạng tài sản của đối tượng đặt trong khả năng đáp ứng của Nhà nước và cộng đồng.Khác với các chế độ khác trong hệ thống an sinh xã hội, cứu trợ xã hội không căn cứ vào sự đóng góp, thu nhập hay mức sống của đối tượng trước khi phát sinh nhu cầu cứu trợ. Không phải ai lúc trước khi có biến cố rủi ro có thu nhập, mức sống cao hơn nên được hưởng trợ cấp cao hơn và ngược lại. Nguyên tắc này xuất phát từ mục đích của cứu trọ xã hội, theo đó, cứu trợ xã hội không nhằm bù đắp hay thay thế thu nhập của đối tượng, cũng không nhằm đảm bảo cuộc sống với những yêu cầu định trước mà chỉ nhằm giúp đỡ cho những đối tượng thoát ra tình trạng cuộc sống bị đe doa, vươn lên hòa nhập cộng đồng. Do vậy, khi gặp biến cố rủi ro, bất hạnh…tất cả là “nạn nhân” đều được hưởng cứu trợ xã hội mà không gắn với bất cứ yêu cầu gì về nghĩa vụ tài chính trước đó.
Tuy nhiên, thực hiện nguyên tắc này trong cứu trợ xã hội không có nghĩa là đổ đồng, ai cũng như ai, gia đình nào cũng như gia đình nào. Thực tế cho thấy với những nguyên nhân, mức độ rủi ro, hoàn cảnh gia đình khác nhau…dẫn đến nhu cầu cứu trợ khác nhau. Điều này thể hiện trong việc chi cứu trợ xã hội thành cứu trợ thường xuyên và cứu trợ đột xuất.
3.2 Nguyên tắc cân đối giữa nhu cầu thực tế của đối tượng với khả năng đáp ứng và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội
Để đảm bảo thực hiện cứu trợ xã hội có hiệu quả, vấn đề quan trọng là phải xác định được cụ thể nhu cầu cứu trợ ở mức độ nào, hình thức nào cho phù hợp. Việc đáp ứng nhu cầu cứu trợ xã hội phải được tính toán cân đối và phù hợp với khả năng đáp ứng và điều kiện kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn cụ thể của đất nước, nếu không sẽ không đạt được mục đích của cứu trợ xã hội và ảnh hưởng đến chính sách kinh tế xã hội khác. Nếu mức trợ cấp cao hơn so với khả năng đáp ứng thì không đảm bảo việc thực hiện, thậm chí còn tạo tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nguồn cứu trợ. Nếu mức trợ cấp quá thấp thì không đảm bảo đưcọ mục đích của cứu trợ xã hội nói riêng, an sinh xã hội nói chung.
Nguyên tắc này thể hiện rất rõ trong việc quy định phạm vi đối tượng được hưởng cứu trợ xã hội và chế độ hưởng. Không phải mọi đối tượng “yếu thế” đều được hưởng trợ cấp cứu trợ xã hội mà phải thỏa mãn những điều kiện nhất đinh. Hiện nay, kinh phí thực hiện cứu trợ xã hội chủ yếu do ngân sách nhà nước và địa phương nơi phát sinh nhu cầu cứu trợ đảm bảo. Vì vậy phải cần tính toán sao cho phù hợp với khả năng đáp ứng của từng địa phương vì từng địa phương có cơ cấu khoản thu chi khác nhau. Nhưng dù sao thì trợ cấp cứu trợ xã hội cũng cần đảm bảo được những nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì được cuộc sống cho đối tượng hoặc thoát khỏi hoàn cảnh nguy nan trước mắt.
3,3 Nguyên tắc đa dạng hóa, xã hội hóa các hoạt động cứu trợ
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng khó khăn cần cứu trợ của đối tượng là vô cùng đa dạng và phong phú : nguyên nhân chủ quan, khách quan như thiên tai, nguyên nhân kinh tế (khủng hoảng kinh tế, phá sản..), nguyên nhân chính trị (chiến tranh, bạo loạn…), nguyên nhân xã hội (tệ nạn, tội phạm…).Căn cứ vào các nguyên nhân đó mà hình thành các nhóm đối tượng với các đối tượng với nhu cầu cứu trợ khác nhau. Có đối tượng thì cần cứu trợ khỏi chết đói, chết rét, chết bệnh nhưng có đối tượng cần sự trợ giúp thường xuyên để duy trì cuộc sống trong thời gian dài, có những đối tượng lại cần những điều kiện thuận lợi để thoát khỏi tình trạng đói nghèo, tự vươn lên hòa nhập cộng đồng. Do vậy việc đáp ứng nhu cầu cứ trợ phải xem xét mức và hình thức, biện pháp cứu trợ hợp lý. Chẳng hạn, người tàn tật, trẻ em cơ nhỡ có nhu cầu khác với những đối tượng bị thiệt hại do thiên tai, bão lụt…thậm chí, ngay cả khi có thiên tai, bão lụt thì nhà này cần tiền để dựng lại nhà ở, nhà kia lại cần lương thực để chống đói…Chính vì vậy cứu trợ xã hội phải được thực hiện theo hướng đa dạng hóa các hoạt động với các phương thức khác nhau mới có thể đảm bảo thực hiện được mục đích của cứu trợ, đảm bảo công bằng và an toàn xã hội. Việc cứu trợ xã hội có thể thực hiện bằng tiền hoặc nhưng cũng có những trường hợp cứu trợ về tinh thần như việc lập các thư viện, khu vui chơi giải trí, các hình thức sinh hoạt văn hóa, tư vấn tâm lý…thậm chí còn bao gồm cả các hình thức hỗ trợ như vay vốn, đào tạo nghề, hướng nghiệp…tạo điều kiện cho đối tượng tự vươn lên thoát khỏi đói nghèo.
Việc thực hiện cứu trợ xã hội trước tiên thuộc vê trách nhiêm của Nhà nước đồng thời cũng là mối quan tâm, lo lắng của toàn dân, toàn xã hội. Chính vì vậy, xã hội hóa hoạt động cứu trợ xã hội đã trở thành nguyên tắc quan trọng nhằm đảm bảo được mục tiêu của cứu trợ xã hội. Theo đó, Nhà nước giữ vai trò trung tâm, khuyến khích và tạo điều kiện để bất cứ cá nhân, tổ chức nào có lòng từ thiện đều có thể tham gia vào các hoạt động cứu trợ, miễn là không có mưu đồ chính trị, hoặc lợi dụng vụ lợi cá nhân. Trong đó, điều quan trọng là Nhà nước phải có những biện pháp huy động được nguồn lực và sự quan tâm của cả cộng đồng nhằm đưa đến sự bảo vệ cao nhất cho các thành viên xã hội. Dưới góc độ pháp luật, nguyên tắc này đã được cụ thể hóa trong các quy định mang tính tùy nghi, điều chỉnh hoạt động của các hiệp hội từ thiện, các tổ chức phi chính phủ, các trung tâm bảo trợ và việc huy động sự hảo tâm của mỗi thành viên xã hội.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro