Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

DC KTCT

ĐỀ CƯƠNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ

I. Sản xuất hàng hóa.

Điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá

1.1. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá

Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá.

- Sản xuất tự cấp tự túc là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo ra nhằm thoả mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất.

- Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để trao đổi hoặc bán trên thị trường.

Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời, khi có đủ 2 điều kiện sau đây:

1.1.1.Điều kiên cần: có phân công lao động xã hội

- Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra thành các ngành, nghề khác nhau của nền sản xuất xã hội =>  tạo ra sự chuyên môn hoá lao động => chuyên môn hoá sản xuất thành những ngành nghề khác nhau => mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một hoặc một vài loại sản phẩm nhất định. Song, cuộc sống của mỗi người lại cần đến rất nhiều loại sản phẩm khác nhau => Để thoả mãn nhu cầu đòi hỏi họ phải có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, trao đổi sản phẩm cho nhau.

1.1.2 Điều kiện đủ: có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất

- Về mặt lịch sử, sự tách biệt này gắn liền với sự ra đời của chế độ tư hữu => tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của tư nhân => sản phẩm sản xuất ra thuộc sở hữu tư nhân => những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng => người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua sự mua - bán hàng hoá, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hoá.

Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hoá và sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hoá.

2. Hai thuộc tính của hàng hoá, lượng giá trị hàng hoá và các yếu tố ảnh hưởng tới lượng giá trị

2.1. Hai thuộc tính của hàng hoá:

- Định nghĩa hàng hóa: Hàng hóa là sản phẩm của lao động (trực tiếp hoặc gián tiếp) có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con nguời và dùng để trao đổi với nhau

* Hai thuộc tính của hàng hóa:

2.1.1. Giá trị  sử dụng

- Định nghĩa: GTSD là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, vd: cơm để ăn, xe đạp để đi…

- Đặc điểm:

+ GTSD thể hiện thuộc tính tự nhiên của sản phẩm. Khoa học kỹ thuật càng phát triển, người ta càng phát hiện thêm những thuộc tính mới của sản phẩm và lợi dụng chúng để tạo ra những giá trị sử dụng mới.

+ Vật phẩm nào cũng có một số công dụng nhất định.=> GTSD thể hiện sự khác nhau của các loại sản phẩm.

+ GTSD chỉ thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu dùng. GTSD là phạm trù vĩnh viễn.

+ GTSD nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hoá, không phải là GTSD cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là cho người khác, cho xã hội thông qua việc trao đổi-mua bán.

2.1.2. Giá trị hàng hoá

-  Muốn hiểu được giá trị, phải đi từ giá trị trao đổi

+ Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác. VD, 1m vải = 10 kg thóc. vải và thóc khác nhau về giá trị sử dụng nhưng có cơ sở chung để trao đổi đó là chúng đều là sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra vải hoặc thóc, người sản xuất đều phải hao phí sức lao động. 1 lượng vải ít hơn đổi được một lượng thóc nhiều hơn là do lượng lao động hao phí để sản xuất ra chúng là ngang bằng nhau

=> Lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá, ẩn giấu trong hàng hoá chính là cơ sở để trao đổi

- Định nghĩa giá trị hàng hóa: là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để tạo ra sản phẩm.

- Đặc điểm:

+ Thể hiện quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa vì giá trị hàng hóa chỉ được thể hiện trong quan hệ trao đổi giưã những người sản xuất

+ Thể hiện sự giống nhau của các hàng hóa vì giá trị của mọi hàng hóa đều là kết tinh của sức lao động

+ Là một phạm trù lịch sử gắn liền với nền sản xuất hàng hóa

2.1.3 Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa  

Giữa 2 thuộc tính của hàng hóa luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau

- Giá trị là nội dung, cơ sở của giá trị trao đổi. Còn giá trị trao đổi là hình thức biểu  hiện của giá trị ra bên ngoài

- Giá trị là thuộc tính xã hội, phạm trù lịch sử cua hàng hóa, còn giá trị trao đổi là thuộc tính tự nhiên, phạm trù vĩnh viễn của hàng hóa.

=> Vậy, hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, là sự thống nhất của hai mặt đối lập.Sự đối lập này thể hiện cả về mặt không gian và thời gian. Đối với người sản xuất hàng hoá, họ tạo ra giá trị sử dụng, nhưng mục đích của họ là giá trị. Đối với người mua, cái mà họ quan tâm lại là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng , nhưng muốn có giá trị họ phải trả giá cho nguời sản xuất => Như vậy về mặt thời gian, hành vị giá trị được thực hiện trước. Về mặt không gian, giá trị được thực hiện ở thị trường, còn giá trị sử dụng được thực hiện ở ngoài thị trường. Sự đối lập này là một trong những nguyên nhân bên trong gây nên khủng hoảng kinh tế (chủ yếu là khủng hoảng thừa).

2.2. Lượng giá trị hàng hóa

Lượng giá trị là do lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó quyết định. Đo lượng lao động bằng thước đo thời gian.  Do đó, lượng giá trị hàng hóa cũng do thời gian quyết địnhTuy nhiên, Lượng giá trị hàng hóa không phải dựa trên các loại hao phí lao đông cá biệt mà nó phải được quyết định bởi hao phí lao động trung bình trong xã hội hay chính là thời gian lao động trung bình xã hội cần thiết

- Có 2 loại thời gian lao động

+ Thời gian lao động cá biệt: thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất khác nhau khi tạo ra cùng 1 loại hàng hoá cũng khác nhau do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là không giống nhau. Thời gian lao động cá biệt tạo nên giá trị cá biệt hàng hoá của từng người sản xuất.

+ Thời gian lao động xã hội cần thiết :là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định.

- Lượng giá trị hàng hóa: không phải dựa trên các loại hao phí lao động cá biệt => không thể dựa tên thời gian lao động cá biệt mà lượng giá trị hàng hóa phải được quyết định bởi hao phí lao động trung bình trong xã hội.

=> Hay nói cách khác,  lượng giá trị hàng hóa chính là được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết

- Công thức:  Thời gian lao động xã hội cần thiết/ giá trị xã hội =

Trong đó: thời gian để nguời sản xuất i sản xuất ra một đơn vị sản phẩm

: sản lượng người sản xuất i làm ra

: số nguời sản xuất trong ngày

- Đặc điểm:

+ Giá trị xã hội  bị chi phối bởi hao phí lao động cá biệt/ thời gian lao động cá biệt/giá trị cá biệt của  nhóm sản xuất cung ứng đại bộ phận hàng hóa trên thị trường.

+ Trình độ sản xuất trung bình là phổ biến trong xã hội

+ Sự chênh lệch giữa giá trị xã hội và giá trị cá biệt là lợi nhuận siêu ngạch (có thể âm hoặc dương)= > Doanh nghiệp muốn tồn tại phải giảm giá trị cá biệt

2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới lượng giá trị: 3 nhân tố

2.3.1. Năng suất lao động

- Định nghiã: Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.

- Tác động: Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian cần thiết để sx ra hàng hoá cảng giảm, lượng giá trị của 1 đơn vị sản phẩm càng ít và ngược lại. Như vậy muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hoá xuống, thì ta phải tăng năng suất lao động. Năng suất lao động lại tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố: trình độ khéo léo của người lao động, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên.

2.3.2. Cường độ lao động

- Định nghĩa:

+ Cường độ lao động: là mức độ khẩn trương, căng thẳng của lao động.

+ Tăng cường độ lao động: là tăng độ khẩn trương, căng thẳng, nặng nhọc của quá trình lao động, do đó lượng lao động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian tăng=> lượng sản phẩm làm ra tăng tương ứng, còn lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm không đổi thậm chỉ còn tăng. Tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.

- So sánh tăng năng suất lao động (1) và tăng cường độ lao động (2):

+ Giống nhau: biểu hiện ra bên ngoài đều làm cho sản lượng sản xuất trong 1 đơn vị thời gian tăng lên.

+ Khác nhau:

à về lượng giá trị của 1 đơn vị sản phẩm/ hao phí lao động đối với 1 đơn vị sản phẩm: (1): giảm vì máy móc hỗ trợ con nguời, con người không phải mệt mỏi=> hao phí lao động giảm; (2) không đổi hoặc thậm chí tăng vì tăng cường độ lao động làm người lao động mệt mỏi=> hoa phí không đổi thậm chí tăng.

à Giới hạn tăng: (1) tăng không giới hạn vì khả năng sáng tạo của con người là không giới hạn=> có khả năng sáng tạo ra máy móc ngày càng hiện đại=> năng suất ld tăng. (2):tăng bị giới hạn bới sức khỏe của con người, sức chịu đựng của con người.

2.3.3 . Mức độ giản đơn hay phức tạp của lao động

- Căn cứ tính chất phức tạp của lao động chia lao động làm 2 loại:

+ Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách giản đơn mà bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được.

+ LĐ phức tạp là lđ đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện. Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân lên gấp bội. Để cho các hàng hoá do lao động giản đơn tạo ra có thể quan hệ bình đẳng với các hàng hoá do lao động phức tạp tạo ra, trong quá trình trao đổi người ta quy mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình.

Như vậy, lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.

=> Cấu thành lượng giá trị hàng hóa: Lượng giá trị hàng hóa được cấu thành bởi giá trị của những tư liệu sản xuất đã sử dụng để sản xuất hàng hóa, tức là giá trị cũ/lao động quá khứ (ký hiệu c) và hao phí lao động sống của người sản xuất trong quá trình tạo ra hàng hóa tức là giá trị mới (ký hiệu là v+m)

=> Giá trị hàng hóa = giá trị cũ tái hiện + gía trị mới

Ký hiệu: W= c+v+m

 3. Nội dung và tác dụng của quy luật giá trị

3.1. Nội dung của quy luật giá trị: 2 nd

3.1.1. Sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiếtt: 2 ý chính

- Trong sản xuất: Giá trị hàng hóa được xác định bằng hao phí lao động xã hội cần thiết chứ không phải hao phí lao động cá biệt => Muốn bán hàng hóa bù đắp chi phí+ có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh hao phí lao động cá biệt phù hợp với chi phí mà xã hội chấp nhận được.

- Trong trao đổi: cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá

3.1.2. Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa

- Giá trị là cơ sở hàng hóa -> Giá cả phụ thuộc giá trị: Giá trị cao -> giá cả cao và ngược lại.

- Giá cả còn phụ thuộc: Cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền…-> Giá cả tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó.

=> Sự vận động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.

3.2. Tác dụng quy luật giá trị: 3 td

3.2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa: 2 ý chính

- Điều tiết sản xuất: Thông qua biến động giá cả trên thị trường dưới tác động quy luật cung cầu:

+ Cung < cầu => Giá hàng hóa cao > giá trị-> hàng hóa bán chạy-> sản xuất tăng-> tăng tư liệu SX và sức lao động vào ngành đấy.

+ Cung > cầu -> Giá hàng hóa giảm -> thu hẹp quy mô sản xuất

-Điều tiết lưu thông:  Thông qua giá cả trên thị trường: Thu hút luồng hàng từ nơi giá thấp đến nơi giá cao.

=> Biến động giá cả chỉ rõ biến động kinh tế và tác động điều tiết nền kinh tế hàng hóa.

3.2.2. Kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh: 2 ý chính

- Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết -> lợi thế hơn và thu được lãi cao.

- Ngược lại, hao phí lao động cá biệt > hao phí lao động xã hội cần thiết => bất lợi, lỗ vốn

=> Để giành lợi thế cạnh tranh  phải hạ thấp hao phí lao động  hao phí lao động xã hội cần thiết bằng cách cải tiến kĩ thuật, sản xuất, quản lý, tăng năng suất lao động…=> làm lực lượng sản xuất phát triển.

3.2.3. Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa thành kẻ giàu và người nghèo: 2 ý chính

- Người có trình độ, kiến thức cao, trang bị kĩ thuật…-> hao phí lao động cá biệt < hao phí lao động xã hội cần thiết -> Giàu lên nhanh chóng.-> Mua thêm tư liệu SX, mở rộng quy mô…

- Người sản xuất kém -> rủi ro kinh doanh-> phá sản -> người nghèo

Như vậy ý nghĩa của tác dụng quy luật giá trị:

+Chi phối lựa chọn tự nhiên: Đào thải yếu kém, kích thích nhân tố tích cực phát triển

+  Phân hóa xã hội : Giàu –Nghèo -> Bất bình đẳng xã hội

II. NHỮNG VẤN ĐỀ KTCT CỦA CNTB.

1. Công thức chung của tư bản và Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản

1.1 Công thức chung của tư bản

- Tiền được coi là tiền thông thường (trong lưu thông hàng hoá giản đơn), thì vận động theo công thức  H – T – H  (hàng - tiền – hàng) (1)

- Tiền được coi là tư bản ( trong nền sản xuất TBCN), vận động theo công thức T – H – T ( tiền - hàng - tiền) (2)

* So sánh (1) và (2):

- Giống nhau:

+ Cả 2 sự vận động do 2 giai đoạn đối lập nhau là mua và bán hợp thành

+ Trong mỗi giai đoạn đều có 2 nhân tố vật chất đối diện nhau là tiền và hàng, và hai bên có quan hệ kinh tế với nhau là người mua và người bán.

=> giống nhau về hình thức. Khác nhau về chất

- Khác nhau:

+Về quy trình và vai trò các nhân tố:

(1): Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng việc bán (H-T) và kết thúc bằng việc mua (T-H). Điểm xuất phát và kết thúc đều là hàng hóa, tiền chỉ là trung gian => Tiền chỉ là môi giới trong lưu thông

(2): Lưu thông hàng hóa của tư bản bắt đầu bằng việc mua (T-H), kết thúc bằng việc bán (H-T). Điểm xuất phát và kết thúc đều là tiền, hàng hóa chỉ là trung gian.=> Tiền được ứng ra và phải thu về.

+ Về mục đích:

(1) Mục đích là giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu. Sự vận động sẽ kết thúc ở giai đoạn thứ 2 khi những người trao đổi có được giá trị sử dụng mà người đó cần đến => sự vận động có giới hạn.

(2) Mục đích là giá trị tăng thêm . Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra => công thức vận động đầy đủ của tư bản là T-H-T’ (T’= T+▲T), Mác gọi ▲T - số tiền trội hơn là giá trị thặng dư. Ta thấy số tiền ban đầu chuyển hóa thành tư bản => Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích lưu thông tư bản là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư => sự vận động là không có giới hạn

=>T – H – T’ gọi là công thức chung của tư bản. Mọi tư bản vận động đều vì giá trị thặng dư. Tiền chỉ biến thành tư bản khi được dùng đề mang lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản.

1.2. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản:

- Lưu thông không tạo ra giá trị mới, do đó không tạo ra giá trị thặng dư:

+ Trường hợp trao đổi ngang giá: Chỉ có sự thay đổi của hình thái của giá trị, tiền thành hàng và từ hàng thành tiền, còn tổng giá trị cũng như phần giá trị nằm trong tay mỗi người trao đổi không thay đổi. Tuy nhiên về mặt giá trị sử dụng cả 2 bên đều có lợi.

+ Trường hợp trao đổi không ngang giá:

à nếu hàng hóa được bán cao hơn giá trị, thì lời khi là người bán cũng chính là số tiền sẽ mất đi khi là người mua

 àNgược lại nếu mua hàng hóa thấp hơn giá trị, số lời nhận được khi là người mua sẽ mất đi khi là người bán

=> Như vậy, tổng giá trị toàn bộ xã hội không tăng lên => Lưu thông không tại ra giá trị mới mà chỉ làm thay đổi hình thái của giá trị.

- Bên ngoài lưu thông: nếu không có lưu thông thì giá trị thặng dư cũng không thể xuất hiện. Ví dụ: tiền để trong két sắt không thể tự tăng lên được.

=> Như vậy,“tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”. Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.

2. Điều kiện ra đời và 2 thuộc tính của hàng hoá sức lao động

2.1. Điệu kiện biến sức lao động thành hàng hoá

Sự chuyển hóa của tiền thành tư bản, không thể phát sinh từ bản thân số tiền vì tiền chỉ là phương tiện lưu thông, trước sau giá trị không thay đổi. Sự chuyển hóa đó phải xảy ra ở trong quá trình vận động thứ hàng hóa đặc biệt đó là sức lao động - nguồn gốc sinh ra giá trị, hơn nữa sinh ra một gía trị lớn hơn gía trị bản thân nó.

- Định nghĩa sức lao động

C. Mác viết: “ Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tin thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó“

- Điều kiện biến sức lao động thành hàng hoá:

+ Người lao động phải được tự do về thân thể: để họ có quyền tự do bán sức lao động của mình cho ai, khi nào, bao lâu.

+ Người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất để họ buộc phải bán sức lao động của mình để tồn tại. Vì nếu người lao động được tự do về mặt thân thể mà lại có tư liệu sản xuất thì họ sẽ sản xuất hàng hoá và bán hàng hoá do mình sản xuất ra chứ không bán sức lao động.

=> sự tồn tại đồng thời của 2 điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng hóa. Sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản

2.2.Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động: giá trị & gía trị sử dụng

- Giá trị hàng hóa sức lao động

+ Được đo gián tiếp bằng những tư liệu sản xuất sinh họat cần thiết để tái sản xuất sức lao động. Ví dụ: trong nghề may nguời ta làm việc 8h thì để tái sản xuất sức lao động cần 0,3kg gạo, 0.3 lạng thịt, 0,1kg đường, 0,3 lít sữa.

+ Bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Tức là ngoài những nhu cầu về vật chất, người công nhân còn có những nhu cầu về tinh thần, văn hoá... phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, địa lý, khí hậu, trình độ văn minh... của mỗi nước.

+ Giá trị hàng hóa sức lao động do những bộ phận sau hợp thành:

àGiá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động của bản thân người lao động và gia đình họ

à Phí tổn để đào tạo lao động có trình độ chuyên môn nhất định (vì lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn)

- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động chỉ thể hiện trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. Đó là quá trình tham gia vào sản xuất để tạo ra hàng hóa chứa đựng lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của hàng hóa sức lao động (tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản).

=> Gía trị sử dụng của hàng hoá sức lao động là nguồn gốc sinh ra giá trị, là chìa khoá giái thích mâu thuẫn công thức chung của tư bản

=> Như vậy, tiền trở thành tư bản với điều kiện: Chuyển hoá theo công thức T – H- T’ và nó phải tạo ra gía trị thặng dư cho nhà tư bản.

3. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư, hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

3.1. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư

3.1.1. Ví dụ về quá trình sản xuất giá trị thặng dư:

- Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất giá trị sử dụng và quá trình sản xuất giá trị thặng dư, bởi mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị thặng dư.

- Để tạo ra giá trị thặng dư thì ngày lao động của người công nhân chia làm 2 phần:

+ Thời gian lao động tất yếu: giá trị mới bằng giá trị sức lao động

+ Thời gian lao động thặng dư: tạo ra giá trị mới thuộc về nhà tư bản.

- Xét ví dụ về việc sản xuất sợi của một nhà tư bản:

+ Giả định: Với năng suất và trình độ lao động nhất định, để kéo 10kg bông cần: 10kg sợi (giá 10$), để biến số bông thành sợi, 1 công nhân phải lao động trong 6h, hao mòn máy móc là 2$, giá trị sức lao động/ngày (tiền công) là 3$ (ngày làm 12h), 1h người công nhân tạo ra 1 lượng giá trị mới là 0.5$

+ Quá trình sản xuất:

à6h đầu (thời gian lao động cần thiết)

Giá trị của bông chuyển vào sợi:                                                                       10$

Giá trị của máy móc chuyển vào sợi:                                                                 2$

Giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra trong 6h:                                    3$.

Tổng cộng (giá trị 10kg sợi)                                                                               15$

Như vậy, nếu nhà tư bản chỉ bắt công nhân lao động trong 6h( thời gian lao động tất yếu) thì nhà tư bản phải ứng ra 15$ và giá trị của sản phẩm mới (10kg sợi) thu về là 15$=> chưa sản xuất ra giá trị thặng dư.

à6h sau (thời gian lao động thặng dư): vì nhà tư bản đã trả tiền mua sức lao động trong 12h=>người công nhân tiếp tục sản xuất ra 10kg sợi giá 15$, nhưng nhà tư bản không trả thêm tiền lương.

Toàn bộ quá trình sản xuất (12h) mô tả trong bảng sau:

Chi phí sản xuất

Giá trị của sản phẩm mới (20kg sợi)

- Tiền mua bông(20kg):                20$

- Tiền hao mòn máy móc:             4$

- Tiền mua sức lao động 1 ngày:   3$

- Giá trị bông chuyển vào sợi:     20kg

- Giá trị máy móc chuyển vào sợi: 4$

- Giá trị mới do lao động công nhân tạo ra trong 12h:                             6$

Tổng:                                             27$

Tổng:                                              30$

Như vậy, toàn bộ chi phí nhà tư bản bỏ ra là 27$, giá trị sản phẩm mới (20kg sợi) do công nhân sản xuất ra trong 12h là 30$=> tạo ra một giá trị thặng dư: = 3$.

3.1.2. Đặc điểm của quá trình sản xuất giá trị thặng dư

- Công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản

- Sản phẩm được làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản chứ không thuộc về công nhân.

- Giá trị sản phẩm được sản phẩm được sản xuất ra gồm 2 phần:

+ Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của công nhân mà được bảo toàn và di chuyển vào sản mới gọi là giá trị cũ (trong VD: 24$)

+ Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất gọi là giá trị mới (trong VD: 6$). Phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.

=> Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.

- Ngày lao động của công nhân chia làm hai phần:

+ Thời gian lao động cần thiết: phần ngày lao động mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang giá với giá trị sức lao động của mình

+ Thời gian lao động thặng dư (phần còn lại của ngày lao động): là thời gian người lao động tạo ra 1 lượng giá trị vượt quá giá trị sức lao động.

=> Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới

=> Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết: việc chuyển hóa của tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông (trong lưu thông nhà tư bản mới mua được hàng hóa sức lao động), đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó (sử dụng hàng hóa sức lao động trong sản xuất để tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản) => thấy được bản chất bóc lột của tư bản.

3.2. Hai phương thức sản xuất giá trị thặng dư

3.2.1.Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

- Là phương pháp kéo dài ngày lao động trong thời gian lao động tất yếu không thay đổi, nhờ đó mà kéo dài được thời gian lao động thặng dư, gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.

- Áp dụng: trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất TBCN. Đó là giai đoạn mà nền kinh tế TBCN chủ yếu dựa trên lao động thủ công.

- Hạn chế

+ Gặp phải giới hạn sinh lý của người lao động: thể chất và tinh thần

=> Do đó hạn chế khối lượng giá trị thạng dư tạo ra

+ Vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân đòi giảm giờ làm.

Tóm lại, độ dài của ngày lao động là một đại lượng không cố định, và có nhiều mức khác nhau, thường là do cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định.

3.2.2. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối

- Là phương pháp rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong điều kiện độ dài của ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài độ dài tương ứng thời gian lao động thặng dư, được gọi là giá trị thặng dư tương đối.

- Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu: giảm giá trị sức lao đông, tức là giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân, bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân, hay tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó.

- Áp dụng: khi CNTB bước vào giai đoạn đại công nghiệp cơ khí (thế kỷ 18).

Hai phương pháp sản xuât giá trị thặng dư trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản.

3.2.3. Giá trị thặng dư siêu ngạch

- Là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối, là giá trị thặng dư thu được nhờ tăng năng suất lao động cá biệt khiến cho giá trị cá biệt của người sản xuất thấp hơn giá trị xã hội

- So sánh giá trị thặng dư tương đối & giá trị thặng dư siêu ngạch:

+ Giống nhau: đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động

+ Khác nhau:

à Giá trị thặng dư tương đối:

·   Dựa vào tăng năng suất lao động xã hội

·   Do toàn bộ giai cấp tư bản thu được => thể hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp tư sản đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê

à Giá trị thặng dư siêu ngạch

·   Dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt

·   Chỉ do một số các nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến thu được => không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản

- Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất khuyến khích các nhà sản xuất cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, hoàn thiện tổ chưc lao động &sản xuất để nâng cao năng suất lao động, giảm giá trị hàng hóa. Do đó làm lực lượng sản xuất phát triển.

4: Lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận, lợi nhuận bình quân, giá cả sản xuất

4.1. Lợi nhuận: là số tiền lời mà nhà tư bản thu được do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa.

- Lợi nhuận p thực chất là hình thức chuyển hóa của giá trị thặng dư m.

W = c+v+m =k+m                   trong đó : c : tư bản bất biến ; v : tư bản khả biến ;

W = k+p                                                    m : giá trị thặng dư ; k : chi phí sản xuất TBCN ;  p: lợi nhuận

(hay giá trị hàng hóa bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận)

* So sánh lợi nhuận (p) và giá trị thặng dư(m):

P (lợi nhuận)

M (giá trị thặng dư)

Về lượng

- Nếu hàng hóa bán với giá cả = giá trị thì p=m

- Có chung nguồn gốc : là kết quả lao động không công của công nhân làm thuê

Về chất

- Lợi nhuận là hình thức thần bí hóa của giá trị thặng dư

 Theo Mác: Lợi nhuận = giá trị thặng dư = giá trị hàng hóa – chi phí sản xuất = tổng số lượng lao động chứa đựng trong hàng hóa – số lượng lao động được trả công chứa đựng trong hàng hóa

Phản ánh sai lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa nhà tư bản và lao động làm thuê vì nó làm cho ta hiểu rằng giá trị thặng dư không chỉ do lao động làm thuê tạo ra.

2 nguyên nhân của hiện tượng này:

- Sự hình thành chi phí sản xuất TBCN (k)=> xóa nhòa sự khác nhau giữa c và v

=> p được sinh ra trong quá trình sản xuất nhờ v được hiểu nhầm thành được sinh ra từ toàn bộ tư bản ứng trước (c+v).

-  Do chi phí sản xuất TBCN luôn <chi phí sản xuất thực tế => nhà TB chỉ cần bán với giá thuộc cao hơn chi phí sản xuất TBCN và thấp hơn giá trị hàng hóa là đã có lợi nhuận. => có thể dẫn hiểu lầm là lợi nhuận do tài kinh doanh, do buôn bán, lưu thông tạo ra.

 Note: Nếu giá cả = giá trị thì m = p; nếu giá cả > giá trị thì m < p; nếu giá cả < giá trị thì m > p. Nhưng trong tổng xã hội thì tổng giá cả luôn bằng tổng giá trị nên m=p.

- Tỷ suất lợi nhuận: là tỷ số tính theo tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước.

4.2. Lợi nhuận bình quân: được hình thành từ cuộc cạnh tranh giữa các ngành nhằm tìm nơi đầu tư có lợi hơn.

Giả thiết:

+ Các ngành kinh tế có điều kiện tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật, tổ chức quản lý khác nhau nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau.

+ Cấu tạo hữu cơ tư bản từng ngành khác nhau.

+ Tư bản được tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác.

Diễn biến quá trình hình thành lợi nhuận bình quân:

+  Cùng đầu tư một lượng tư bản như nhau vào các ngành thu được lợi nhuận khác nhau do cấu tạo hữu cơ của tư bản từng ngành khác nhau

+ Tư bản di chuyển từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao.

+ Ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn tại thời điểm hiện tại: nhận dòng tư bản di chuyển sang > cung tăng lên lớn hơn cầu > giá cả giảm thấp hơn giá trị > tỷ suất lợi nhuận của ngành này giảm xuống.

+ Ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp trong hiện tại: dòng tư bản chuyển đi > cung giảm đến thấp hơn cầu > giá cả cao hơn giá trị > tỷ suất lợi nhuận của ngành này tăng lên.

+ Sự di chuyển của tư bản từ ngành này sang ngành khác làm thay đổi tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của từng ngành.  Sự tự do di chuyển này chỉ tạm ngừng khi tỷ suất lợi nhuận ở tất cả các ngành đều xấp xỉ bằng nhau, hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân – tổng trung bình của tất cả các tỷ suất lợi nhuận khác khau, che giấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.

=> Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tính theo % giữa tổng giá trị thặng dư và tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào các ngành của nền sản xuất TBCN. Ký hiệu .

 Công thức:

+ Khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân thì số lợi nhuận của các ngành đều tính theo tỷ suất lợi nhuận bình quân=> khi đầu tư cùng một số tư bản vào bất kỳ ngành nào cũng thu được cùng lợi nhuận bằng nhau, được gọi là lợi nhuận bình quân

- Định nghĩa: Lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau của những tư bản bằng nhau dù đầu tư vào những ngành khác nhau. Ký hiệu là

Công thức:

Sự hình thành tỷ suất lợi nhuân bình quân và lợi nhuận bình quân đã làm che dấu hơn nữa thực chất bóc lột của CNTB, nó không là chấm dứt quá trình cạnh tranh mà trái lại cạnh tranh vẫn tiếp diễn.

4.3. Giá cả sản xuất:

- Giá cả sản xuất = chi phí sản xuất + lợi nhuận bình quân

- Tiền đề của giá cả sản xuất sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân=> hình thành lợi nhuận bình quân

=> Điều kiện của giá trị biến thành giá cả sản xuất:

+ Đại công nghiệp cơ khí TBCN phát triển

+ Sự liên hệ rộng rãi giữa các ngành sản xuất

+ Quan hệ tín dụng phát triển, tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác…

- Mối quan hệ giữa giá trị hàng hóa, giá cả sản xuất và giá cả thị trường:

+ Khi chưa xuất hiện phạm trù “giá cả sản xuất” thì giá cả hàng hóa xoay quanh giá trị hàng hóa

+ Giờ đây, giá cả hàng hóa sẽ xoay quanh giá cả sản xuất: xét về mặt lượng, ở mỗi ngành giá sản xuất và giá trị hàng hóa có thể không bằng nhau nhưng trong toàn bộ xã hội thì tổng giá cả sản xuất luôn bằng tổng giá trị hàng hóa

=> Giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong của giá cả sản xuất, giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường và giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất.

 5: Tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp

5.1.Tư bản thương nghiệp

5.1.1.Điều kiện hình thành của tư bản thương nghiệp là sự lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ.

5.1.2.Đặc điểm của tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản:

Ø      Tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra phục vụ quá trình lưu thông hàng hóa của tư bản công nghiệp.

5.1.3.Mối quan hệ giữa tư bản thương nghiệp và tư bản công nghiệp

Tư bản thương nghiệp thống nhất, phụ thuộc với tư bản công nghiệp:

- Tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra, làm nhiệm vụ lưu thông hàng hóa, cho nên tốc độ và quy mô của lưu thông là do tốc độ và quy mô sản xuất của tư bản công nghiệp quyết định

- Tư bản thương nghiệp đảm nhiệm chức năng tư bản hành hóa của tư bản công nghiệp (thực hiện giá trị và giá trị thặng dư).

Công thức vận động của tư bản thương nghiệp là: T-H-T’. Hàng hóa được chuyển chỗ hai lần, H từ tay nhà tư bản công nghiệp sang tay thương nhân, rồi H lại tiếp tục vận động từ tay thương nhân chuyển sang người tiêu dùng. Cuối cùng, kết thúc quá trình vận động thì tăng them giá trị (T>T’).

5.2.Lợi nhuận thương nghiệp

5.2.1.      Nguồn gốc và thực chất của lợi nhuận thương nghiệp

- Đối với tư bản thương nghiệp trước chủ nghĩa tư bản thì lợi nhuận thương nghiệp được coi là mua rẻ bán đắt.

- Đối với tư bản thương nghiệp tư bản chủ nghĩa nếu gạt bỏ các chức năng khác liên quan đến nó, mà chỉ hạn chế ở các chức năng chủ yếu mua và bán, thì tư bản thương nghiệp không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Trái lại chỉ làm nhiệm vụ thực hiện giá trị và giá trị thặng dư.

5.2.2.      Vai trò của tư bản thương nghiệp

- Tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động  trong lĩnh vực lưu thông, đó là một khâu trong quá trình sản xuất, không có giai đoạn đó thì quá trình tái sản xuất đó không thể tái diễn được liên tục.

- Tư bản thương nghiệp góp phần mở rộng quy mô tái sản xuất.

- Tư bản thương nghiệp góp phần mở rộng thị trường, tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển

- Tư bản thương nghiệp đảm nhận khâu lưu thông, giúp cho năng suất lao động cao hơn và nhờ đó lợi nhuận cũng tăng lên.

- Tư bản thương nghiệp tuy không trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư, nhưng góp phần tăng năng suất lao động, do đó tỷ suất lợi nhuận chung của xã hội cũng tăng lên, góp phần tích lũy cho tư bản công nghiệp.

5.2.3.      Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp

Lợi nhuận thương nghiệp là số chênh lệch giữa bán và giá mua hàng hóa. Điều này không có nghĩa rằng nhà tư bản thương nghiệp bán hàng hóa cao hơn giá trị của nó, mà là nhà tư bản mua hàng hóa thấp hơn giá trị và khi bán thì họ bán đúng giá trị của nó.

 6: Nguyên nhân ra đời và đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền

6. 1. Nguyên nhân ra đời:

Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do những nguyên nhân chủ yếu sau:

- Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn.

- Vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như lò luyện kim mới Betsơme, Máctanh, Tômát... đã tạo ra sản lượng lớn gang thép với chất lượng cao; phát hiện ra hoá chất mới như axít sunphuaric (H2SO4), thuốc nhuộm...; máy móc mới ra đời: động cơ điêzen, máy phát điện, máy tiện, máy phay...; phát triển những phương tiện vận tải mới: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máy bay... và đặc biệt là đường sắt. Những thành tựu khoa học kỹ thuật này, một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi hỏi xí nghiệp phải có quy mô lớn; mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn.

- Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy ... ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.

- Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích lũy để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu với số tư bản tập trung và quy mô xí nghiệp ngày càng to lớn.

- Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản.

- Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.

Từ những nguyên nhân trên, V.I. Lênin khẳng định: "... tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền"1.

6.2. Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền

6.2.1. Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền

Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.

Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao.

Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hoá, các liên minh độc quyền hình thành theo liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau. Những hình thức độc quyền cơ bản là: cácten, xanhđica, tờrớt, côngxoócxiom, cônggơlômêrát.

6.2.2. Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính

Cùng với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, trong công nghiệp cũng diễn ra quá trình tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng, dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng. Quy luật tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng cũng giống như trong công nghiệp, do quá trình cạnh tranh các ngân hàng vừa và nhỏ bị thôn tính, dẫn đến hình thành những ngân hàng lớn. Khi sản xuất trong ngành công nghiệp tích tụ ở mức độ cao, thì các ngân hàng nhỏ không đủ tiềm lực và uy tín phục vụ cho công việc kinh doanh của các xí nghiệp công nghiệp lớn. Các tổ chức độc quyền này tìm đến các ngân hàng lớn hơn thích hợp với các điều kiện tài chính và tín dụng của mình. Trong điều kiện đó, các ngân hàng nhỏ phải tự sáp nhập vào các ngân hàng mạnh hơn hoặc phải chấm dứt sự tồn tại của mình trước quy luật khốc liệt của cạnh tranh. Quá trình này đã thúc đẩy các tổ chức độc quyền ngân hàng ra đời.

- Sự xuất hiện, phát triển của các độc quyền trong ngân hàng đã làm thay đổi quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, làm cho ngân hàng bắt đầu có vai trò mới. Ngân hàng từ chỗ chỉ là kẻ trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay đã nắm được hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội nên có quyền lực vạn năng, khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội tư bản. Dựa trên địa vị người chủ cho vay, độc quyền ngân hàng cử đại diện của nó vào các cơ quan quản lý của độc quyền công nghiệp để theo dõi việc sử dụng tiền vay, hoặc các tổ chức độc quyền ngân hàng còn trực tiếp đầu tư vào công nghiệp. Trước sự khống chế và chi phối ngày càng xiết chặt của ngân hàng, một quá trình xâm nhập tương ứng trở lại của các độc quyền công nghiệp vào ngân hàng cũng diễn ra. Các tổ chức độc quyền công nghiệp cũng tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua cổ phần của ngân hàng lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng, hoặc lập ngân hàng riêng phục vụ cho mình. Quá trình độc quyền hoá trong công nghiệp và trong ngân hàng xoắn xuýt với nhau và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một thứ tư bản mới, gọi là tư bản tài chính.

Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi là bọn đầu sỏ tài chính.

- Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua chế độ tham dự. Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính nhờ có số cổ phiếu khống chế mà nắm được một công ty lớn nhất với tư cách là công ty gốc (hay là "công ty mẹ"); công ty này lại mua được cổ phiếu khống chế, thống trị được công ty khác, gọi là "công ty con"; "công ty con" đến lượt nó lại chi phối các "công ty cháu" cũng bằng cách như thế... Nhờ có chế độ tham dự và phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, các nhà tư bản độc quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết được một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.

Ngoài "chế độ tham dự", bọn đầu sỏ tài chính còn sử dụng những thủ đoạn như lập công ty mới, phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán ở sở giao dịch, đầu cơ ruộng đất... để thu được lợi nhuận độc quyền cao.

- Thống trị về kinh tế là cơ sở để bọn đầu sỏ tài chính thống trị về chính trị và các mặt khác. Về mặt chính trị, bọn đầu sỏ tài chính chi phối mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi ích cho chúng. Sự thống trị của bọn tài phiệt đã làm nảy sinh chủ nghĩa phátxít, chủ nghĩa quân phiệt và nhiều thứ chủ nghĩa phản động khác, cùng chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để áp bức, bóc lột các nước đang phát triển và chậm phát triển.

6.2.3.Xuất khẩu tư bản

- Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản.

- Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu vì:

+ Một số ít nước phát triển đã tích lũy được một khối lượng tư bản lớn và có một số "tư bản thừa" tương đối cần tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận hơn so với đầu tư ở trong nước.

+ Nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế giới nhưng lại rất thiếu tư bản, giá ruộng đất tương đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ, nên tỷ suất lợi nhuận cao, rất hấp dẫn đầu tư tư bản.

- Xuất khẩu tư bản được biểu hiện dưới hai hình thức chủ yếu: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp

- Thực hiện các hình thức xuất khẩu tư bản trên, xét về chủ sở hữu tư bản, có thể phân tích thành xuất khẩu tư bản tư nhân và xuất khẩu tư bản nhà nước.

+ Xuất khẩu tư bản nhà nước là nhà nước tư bản độc quyền dùng nguồn vốn từ ngân quỹ của mình, tiền của các tổ chức độc quyền để đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản; hoặc viện trợ có hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị và quân sự.

Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết cấu hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư của tư bản tư nhân. Nhà nước tư bản viện trợ không hoàn lại cho nước nhập khẩu tư bản để ký được những hiệp định thương mại và đầu tư có lợi...

Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản thường nhằm duy trì và bảo vệ chế độ chính trị "thân cận" đã bị lung lay ở các nước nhập khẩu tư bản, tăng cường sự phụ thuộc của các nước đó vào các nước đế quốc, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, tạo điều kiện cho tư nhân xuất khẩu tư bản.

Về quân sự, viện trợ của tư bản nhà nước nhằm lôi kéo các nước phụ thuộc vào khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải cho các nước xuất khẩu lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình...

+ Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu do tư bản tư nhân thực hiện. Hình thức này có đặc điểm cơ bản là nó thường được đầu tư vào những ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao, dưới hình thức các hoạt động cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia.

Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản tài chính trên phạm vi toàn thế giới.

6.2.4. Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền

Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả về quy mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập đoàn tư bản độc quyền và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế.

Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ thị trường ở trong nước luôn gắn với thị trường ở ngoài nước. Đặc biệt trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, thị trường ngoài nước còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đế quốc. Một mặt, do lực lượng sản xuất phát triển cao đòi hỏi ngày càng phải có nhiều nguồn nguyên liệu và nơi tiêu thụ; mặt khác, do thèm khát lợi nhuận siêu ngạch thúc đẩy tư bản độc quyền tăng cường bành trướng ra nước ngoài, cần có thị trường ổn định thường xuyên. V.I.Lênin nhận xét: "Bọn tư sản chia nhau thế giới, không phải do tính độc ác đặc biệt của chúng, mà do sự tập trung đã tới mức độ buộc chúng phải đi vào con đường ấy để kiếm lời"1.

Sự đụng độ trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền quốc gia có sức mạnh kinh tế hùng hậu lại được sự ủng hộ của nhà nước "của mình" và các cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa chúng tất yếu dẫn đến xu hướng thoả hiệp, ký kết các hiệp định, để củng cố địa vị độc quyền của chúng trong những lĩnh vực và những thị trường nhất định. Từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế dưới dạng cácten, xanhđica, tờrớt quốc tế... Cho đến năm 1934 đã có 350 cácten quốc tế lớn có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị của toàn thế giới.

6.2.5.Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc

Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng việc phân chia thế giới về lãnh thổ.

Các cường quốc đế quốc ra sức xâm chiếm thuộc địa, bởi vì thuộc địa là nơi bảo đảm nguồn nguyên liệu và thị trường thường xuyên, là nơi tương đối an toàn trong cạnh tranh, bảo đảm thực hiện đồng thời những mục đích về kinh tế, quân sự và chính trị.

Sự phân chia lãnh thổ và phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh đòi chia lại thế giới đã chia xong. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến các cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914-1918 và lần thứ hai 1939-1945.

Từ những năm 50 của thế kỷ 20 trở đi, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ đã làm sụp đổ và tan rã hệ thống thuộc địa kiểu cũ, nhưng điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa thực dân đã bị thủ tiêu. Trái lại, các cường quốc đế quốc chuyển sang thi hành chính sách thực dân mới, mà nội dung chủ yếu của nó là dùng viện trợ kinh tế, kỹ thuật, quân sự để duy trì sự lệ thuộc của các nước đang phát triển vào các nước đế quốc.

Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên quan chặt chẽ với nhau, nói lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự thống trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền, về mặt chính trị là hiếu chiến, xâm lược.

So sánh các hình thức phân phối thu nhập:

Phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, là một trong những nội dung cơ bản của quan hệ sản xuất xã hội. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta tồn tại 3 hình thức phân phối thu nhập là: phân phối theo lao động, phân phối thông qua quỹ phúc lợi xã hội, phân phối thông qua vốn hoặc tài sản. Các hình thức này có những điểm giống và khác nhau như sau:

·         Giống nhau: Đều là các hình thức phân phối thu nhập cho cá nhân bằng tiềng hoặc hàng hóa.

·         Khác nhau:

TCSS

Phân phối theo lao động

Phân phối thông qua quỹ phúc lợi xã hội

Phân phối thông qua vốn hoặc tài sản

Căn cứ

dựa vào số lượng và chất lượng lao động mà mỗi người đã đóng góp cho xã hội, không phân biệt giới tính, màu da, dân tộc, tôn giáo và tuổi tác. Ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, ai không làm thì không hưởng

Yêu cầu phát triển toàn diện của các cá nhân trong xã hội, căn cứ vào những hoàn cảnh riêng biệt của các cá nhân hoặc gia đình

Số lượng vốn hoặc tài sản đã đăng ký góp vốn

Phạm vi thực hiện

Trong các cơ sở kinh tế nhà nước và tập thể, là hình thức phân phối cơ bản dưới chế độc xã hội chủ nghĩa

Tất cả các hộ gia đình, tổ chức cá nhân không phân biệt thành phần kinh tế

Trong các cơ sở kinh tế trung gian quá độ: CTCP, CTTNHH, gửi tiền tiết kiệm...

Tác dụng

- Kết hợp chặt chẽ lợi ích kinh tế của người lao động với kết quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm cho ai đóng góp nhiều, lao động giỏi thì thu nhập cao và ngược lại, từ đó kích thích tính tích cực của người lao động, làm cho họ ra sức học tập, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, tay nghề, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật,... để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.

- Góp phần giáo dục thái độ, tinh thần và kỷ luật lao động đúng đắn cho người lao động, đấu tranh chống các hiện tượng chây lười, thiếu trách nhiệm,... từ đó góp phần hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa.

Góp phần nâng cao thêm mức sống của toàn dân, nhất là đối với những người có thu nhập thấp, đời sống khó khăn, rút ngắn sự chênh lệch về thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng; góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.

- Phát huy tính tích cực lao động của các thành viên trong tập thể và trong xã hội.

- Góp phần phát triển toàn diện con người.

- Giáo dục ý thức cộng đồng.

khai thác tối đa mọi tiềm năng về vốn trong các thành phần kinh tế và trong mọi tầng lớp dân cư nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh, tập trung mọi lực lượng của đất nước để phát triển kinh tế, nhất là trong điều kiện vốn ngân sách nhà nước còn hạn hẹp. Nó cũng góp phần hình thành thị trường vốn các loại - một trong những điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế hàng hóa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Hình thức

Tiền lương, tiền công

Các khoản trợ cấp bằng tiền hoặc hàng hoác hoặc hưởng các dịch vụ miễn phí

Lợi tức, cổ phần, tiền lãi gửi tiết kiệm

Đánh giá

Phân phối theo lao động là hợp lý nhất, công bằng nhất so với những hình thức phân phối đã có trong lịch sử. Tuy nhiên, phân phối theo lao động cũng có những hạn chế nhất định. Đó là, mỗi một người lao động thường có thể lực, trí lực, điều kiện và hoàn cảnh gia đình khác nhau, nên phân phối theo lao động có thể chưa hoàn toàn bình đẳng, chẳng hạn người công nhân này lập gia đình rồi, người kia chưa; người này có con nhiều hơn người kia v.v. và v.v.. Như vậy, với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia, v.v.. Sự phân phối như vậy còn mang dấu ấn bình đẳng theo kiểu pháp quyền tư sản. Tuy nhiên điều đó là khách quan, buộc phải chấp nhận sự "bất bình đẳng" này để có sự bình đẳng cao hơn.

Đây là hình thức phân phối rất cần thiết trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sở dĩ như vậy vì nó là hình thức phân phối góp phần khắc phục hạn chế, đồng thời bổ sung cho các hình thức phân phối thu nhập nói trên. Trong xã hội luôn có những người không có thu nhập hoặc thu nhập thấp, đời sống hết sức khó khăn do không có khả năng lao động, không có tài sản để đưa vào sản xuất kinh doanh, do trình độ thấp và nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác. Và hình thức phân phối này đã giúp đảm bảo quyền lợi cho NLĐ trong những lúc hoản cảnh khó khăn như vậy.

Giá cả của hàng hoá sức lao động tức là thu nhập của người lao động không chỉ tuỳ thuộc vào giá trị của nó mà còn phụ thuộc vào quan hệ cung cầu về sức lao động trên thị trường lao Ađộng. Vì thế, phân phối theo giá trị sức lao động có hạn chế quan trọng là làm cho đời sống người lao động trở nên bấp bênh, không ổn định. Trong điều kiện sản xuất chưa phát triển, dân số tăng nhanh, sức ép về cung lao động rất lớn làm cho việc tìm kiếm việc làm trở nên rất khó khăn, người lao động bị lệ thuộc vào giới chủ.

III. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ KTCT TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở NƯỚC TA.

Câu 1: Tính tất yếu khách quan và lợi ích của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.

Khái niệm kinh tế đối ngoại:

Kinh tế đối ngoại là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác hoặc với tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế, được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất và phân công, hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng.

Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.

Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và tác động của nó đã khiễn cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trở nên cấp thiết hơn bao giừo hết đối với tất cả các quốc gia. Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế.

Một mặt cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho lực lượng sản xuất vượt khỏi khuôn khổ quốc gia để trở thành lực lượng sản xuất mang tính quốc tế và đẩy nhanh quá trình hình thành nề kinh tế thế giới như một chỉnh thể có nhiều quốc gia tham gia, vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau, hình thành thị trường quốc tế với giá cả quốc tế chi phối mọi hoạt động buôn bán quốc tế. Điều đó có ảnh hưởng sâu sắc và trực tiếp đến hoạt động kinh tế của mỗi quốc gia. Có thể nói ngày nay không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, tiên tiến hay lạc hậu có thể phát triển kinh tế nếu tách khỏi thị trường thế giới không quan hệ kinh tế đối ngoại.

Mặt khác: cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại dẫn tới sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện thông tin liên lạc và phương tiện giao thông vận tải. Chính các phương tiện này đã rút ngắn khoảng cách và thời gian đi lại, thu nhận và xử lý thông tin giữa các nước, các khu vực và trên thế giới nhanh chóng và thuận tiện làm cho quá trình giao lưu, liên kết, phân công và hiệp tác quốc tế phát triển nhanh chóng cả về chiều rộng và chiều sâu.

Lợi ích của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.

Mở rộng kinh tế đối ngoại mang lại lợi ích to lớn đối với sự phát triển kinh tế-xã hội nước ta.

-          Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi quốc tế, nối liền thị trường trong nước với thị trường khu vực và trên thế giới, mở rộng thị trường ra bên ngoài, đồng thời góp phần phát triển thị trường trong nước.

-          Mở rông quan hệ kinh tế đối ngoại nước ta sẽ khai thác được các nguồn lực bên ngoài vô cùng quan trọng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đó là nguồn vốn, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.

-          Tạo điều kiện khai thác và phát huy có hiệu quả lợi thế so sánh, các nguồn lực trong nước, kết hợp nguồn lực trong nước với nguồn lực nước ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển kinh tế.

-          Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo nhieeug công ăn, việc làm, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân.

-          Góp phần đưa nước ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Câu 2: Những giải pháp chủ yêu để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thứ nhất: thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần:

Thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế trong thời lý quá độ là một trong những điều kiện cơ bản để thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển, nhờ đó mà sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế. Khuyến khích thành phần kinh tế cá thể, tư nhân phát triển là nhận thức quan trọng về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ.Tất cả các thành phần kinh tế đều là nội lực của nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai: Mở rộng phân công lao động xã hội, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường.

Để đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa cần phải mở rộng phân công lao động xã hội, phân bố lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng chuyên môn hóa, hơp tác hóa, tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài nhằm gắn phân công lao động trong nước với phân công lao động quốc tế, gằn thị trường trong nước với thị trường thế giới.

Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.

Thứ ba: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học  và công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trình độ sản xuất công nghệ của Việt Nam còn thấp kém nên khả năng cạnh tranh của hàng hòa Việt Nam còn kém do đó phải đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Hệ thống kết cầu hạ tầng quá lạc hậu, không đồng bộ, mất cân đối nghiêm trọng cản trở đến quyết tâm đầu tư của các nhà đầu tư nên cần gấp rút xây dựng củng cố các yếu tố của hệ thống kết cầu hạ tầng.

Thứ tư: Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả.

Thứ năm: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và kinh doanh giỏi.

Hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô phải được kiện toàn phù hợp với nhu cầu kinh tế thị trường. Đẩy mạnh sư nghiệp giáo dục và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ kinh doanh cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. Song song với đào tạo và đào tạo lại cần có hướng sử dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ đúng đắn với đội ngũ đó.

Thứ sáu: Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đa dạng hóa hình thức, đa phương hóa đối tác, quán triệt nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, không can thiệp và công việc nội bộ của nhau, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội; cải cách cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, thu hút mạnh vốn và đầu tư nước ngoài, thu hút kỹ thuật, nhân tài và kinh nghiệm quản lý của nước phát triển.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: