Day thon Vi Da
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm yên trên cảnh liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”.
Ai đã từng sinh ra và lớn lên trên cõi đời này mà không biết đến “lời rao trăng” nổi tiếng ấy của một nhà thơ cũng rất nổi tiếng trong những năm ba mươi của thế kỉ XIX, vâng đó chính là Hàn Mặc Tử - một tên tuổi mãi mãi in đậm trong tấm lòng đọc giả. Ông là “một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại, đau đớn, dường như có một cuộc vật lộn và giằng xé dữ dội giữa linh hồn và xác thịt”. Ông “đã tạo ra cho thơ mình một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái và xa lạ với cuộc đời thực”. Có lẽ vì vậy mà trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh và Hoài Chân đã xếp Hàn Mặc Tử vào nhóm thơ “kì dị” cùng với Chế Lan Viên. Tuy vậy, bên những dòng thơ điên loạn ấy, vẫn có những vần thơ trong trẻo đến lạ thường. “Đây thôn Vĩ Dạ” trích trong tập “Thơ Điên” là một bài thơ như thế. Đây chính là sản phẩm của nguồn thơ lạ lùng kia – là một lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng, yêu đơn phương nhưng ẩn bên dưới mỗi hàng chữ tươi sáng là cả một khối u hoài của tác giả. Bài thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ Dạ một cách nồng cháy – nơi chất chứa biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi tưởng của ông. Chính vì thế đọc bài thơ này ta thấy được một phương diện rất đẹp của tâm hồn nhà thơ.
“Đây thôn Vĩ Dạ” – bài thơ tuyệt bút này đã từng gây ra biết bao tranh luận bởi cái hay của nó không chỉ thể hiện ở nội dung mà còn hay ở nghệ thuật từ âm điệu, câu chữ, hình ảnh đến cả nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được vận dụng một cách thành thạo và khéo léo, nhưng cảnh thì ít mà tình thì nhiều cho nên cả bài thơ là một âm điệu du dương được gảy lên từ tiếng lòng của chính nhà thơ. Có tài liệu cho rằng bài thơ được gợi hứng từ bức ảnh phong cảnh Huế cùng mấy lời thăm hỏi của Hoàng Cúc – người yêu đơn phương mà ông đã thầm yêu trộm nhớ từ ngày xưa – một người con gái dịu dàng thướt tha của thôn Vĩ xứ Huế. Nhưng bức tranh thôn Vĩ mà Hoàng Cúc gửi cho tác giả chỉ là cái cớ trực tiếp để nảy sinh thơ, còn động lực và cội nguồn sâu xa làm nên cảm hứng thì Hàn Mặc Tử đã có sẵn lâu rồi, chỉ chờ đến cơ hội là nó sẽ bộc phát. Đó là vẻ đẹp của một dáng Huế yêu kiều – nơi đã khắc chạm một dấu ấn khó quên của một người con gái và cũng là nơi để lại một mối tình đơn phương trong lòng tác giả:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”
Xứ Huế mộng mơ đã từng là nơi khơi nguồn cho bao văn nghệ sĩ, không ít người đã có những sáng tác xúc động về xứ Huế mộng mơ này: “Đã bao lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt” hay là “Trở lại Huế thương bài thơ khắc trong chiếc nón, em cầm trên tay ra đứng bờ sông…”, Huế có trong câu hát, có trong lòng mọi người và nay lại có trong thơ Hàn Mặc Tử. Câu thơ mở đầu bài thơ là một câu hỏi mang nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách móc, vừa như là một lời giới thiệu và mời gọi mọi người. Câu thơ có bảy chữ nhưng chứa tới sáu thanh bằng đi liền nhau làm cho âm điệu trách móc cứ dịu nhẹ đi, trách đấy mà sao tha thiết và bâng khuâng thế! Nhưng ai trách, ai hỏi? Không phải của Hoàng Cúc mà của chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử, từ nỗi lòng da diết vối Huế của thi nhân mà vút lên câu hỏi tự vấn khắc khoải này. Thật sự ở thôn Vĩ có cái gì đặc biệt và hấp dẫn mà tác giả đã giục giã mọi người đến đấy? Ba câu thơ tiếp theo sẽ vẽ ra một hình tượng chung – một mảnh vườn thông Vĩ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Thôn Vĩ hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử thật giản dị mà sao đẹp quá! Bằng tình yêu thiên nhiên của mình, tác giả đã mở ra trước mắt ta một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác, đẹp một cách lộng lẫy. Thôn Vĩ nói riêng và Huế nói chung được đặt tả bằng ánh sáng của buổi bình minh và một vườn cây quen thuộc. Đây là ánh nắng mà ta có thể bắt gặp trong bài “Mùa xuân chín” của tác giả:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”.
Nắng trong thơ Hàn Mặc Tử thường lạ, đầy ấn tượng với những “nắng tươi”, “nắng ửng”, còn ở đây là “nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” đã tỏa sức nóng cho bức tranh, cho sự sống, nắng ở đây trong và sáng đang trải dài trên những tán cau còn ướt đẫm sương đêm. Hàng cau hiện lên trong một khoảnh khắc đặc biệt, gắn liền với cái “nắng mới lên” trong trẻo, tinh khôi, thật cụ thể và đầy gợi cảm trong buổi sớm mai.
Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên chiếu rọi xuống làng quê, chiếu thẳng vào những vườn cây tươi mát, sum sê làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính vào chiếc áo choàng nhung xanh mượt:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Câu thơ sử dụng đại từ phím chỉ “ai” để nói đến con người xứ Huế. Câu thơ có vẻ đẹp thật long lanh, vì có sắc “mướt” chăng? Hay vì được sánh với “ngọc” chăng? Vườn thôn Vĩ như một viên ngọc lấp lánh đang tỏa vào không gian cái sác xanh của mình. Khung cảnh đơn sơ nhưng vô cùng lộng lẫy, chỉ bằng một vài từ gợi tả “mướt quá” và so sánh “xanh như ngọc” Hàn Mặc Tử đã tạo nên một bức tranh quê rực rỡ, chan hòa sự sống. Qua đó chứng tỏ, nhà thơ là một ngòi bút có tài quan sát tinh tế và trí tượng phong phú. Và cảnh vật ấy như sinh động hẳn lên khi có sự hiện diện của con người, nhưng người ở đây không phải toàn diện từ đầu đến chân mà chỉ là khuôn mặt “chữ điền” kín đáo, dịu dàng và phúc hậu:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Ở đây có hơi hướng Á Đông cổ điển, mặt chữ “điền” là khuôn mặt đượm nét phúc hậu đoan trang, nếu nói “lá trúc che ngang” thì chỉ có thể nói về một cô gái có vẻ đẹp rất Huế. Cô gái e lệ đứng thấp thoáng sau những lá trúc càng chứng tỏ “vườn ai” và vườn cô gái đứng chỉ là một. Thiên nhiên và con người hài hòa với nhau đã tạo nên cái thần thái, cái hồn của Vĩ Dạ - một Vĩ Dạ vốn thơ mộng. Và đối với tâm tưởng của Hàn Mặc Tử, đó là thôn Vĩ của tình yêu và hoài niệm.
Thôn Vĩ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm nên ắt hẳn nhịp sống của con người ở đây cũng sẽ bị chi phối bởi cái êm ả của sông Hương: “Dòng sông Hương vẫn êm ả lững lờ trôi” – nhẹ nhàng mà vô cùng đẹp. Từ cách tả cảnh làng quê ở khổ đầu tác giả đã chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong, sầu muộn hư ảo trong giấc mộng. Ở khổ thơ thứ hai tâm trạng của tác giả đã chuyển sang một gam khác nên bước vào khổ thơ này chính là bước vào không gian tâm trạng riêng của Hàn Mặc Tử:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Thực tại phiêu tàn bắt đầu bao trùm cả bài thơ. Nhịp thơ 4/3 cùng với hai hình ảnh đối lập: “gió” và “mây” đã gợi lên nỗi buồn vì mây và gió trôi nổi, lang thang chính vì thế mà nó bay thẳng vào thơ của Hàn Mặc Tử. Cái buồn sẵn có của nó kết hợp với vần thơ của tác giả thì chính nó đã tự làm cho nó buồn hơn bởi: gió đi theo đường của gió, mây theo đường của mây, gió và mây từ nay xa cách nhau, không còn là bạn đồng hành của nhau nữa nên không còn lí do gì để gặp nhau. Mượn hình ảnh mây và gió tác giả muốn nói lên tâm trạng buồn của mình, về sự xa cách của mình và người yêu và cũng có thể sự xa cách đó là vĩnh viễn vì Hàn Mặc Tử bây giờ đã là một phế nhân, đang nằm chờ cái chết. Chúng ta không còn thấy giọng thơ tươi mát, đầy sức sống như ở đoạn trước nữa nhưng lại bắt gặp một tâm hồn đau buồn, u uất:
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Dòng sông Hương hiện lên mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt. Với biện pháp nhân hóa “dòng nước buồn thiu” đã làm cho hình ảnh dòng nước trở nên u buồn, xa vắng. “Dòng nước buồn” vì tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn chia phôi của gió – mây đã bỏ buồn vào dòng sông? Câu thơ này dường như còn thể hiện nhịp sống thường ngày của người dân nơi đây: một lối sống êm đếm và buồn tẻ. Hình ảnh “hoa bắp lay” gợi một nỗi buồn hiu hắt – một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến mặt đất, từ đất, gió, mây đến dòng nước và hoa bắp trên sông. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, tất cả bây giờ chỉ là hư ảo trong mộng tưởng.
Trên cái xu thế đang trôi đi, chảy đi, thi sĩ chợt ước ao một thứ có thể ngược dòng “về” với mình, ấy là “trăng”:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay? ”
Một không gian tràn ngập ánh trăng, một dòng sông trăng, một bến đò trăng, một con thuyền đầy trăng…Không gian “bến sông trăng” nghe sao mà quen thuộc đến thế: “Bến sông trăng ôi nỗi nhớ đã đi qua mong tìm đến, biết khi nào được gặp lại em yêu hỡi. Trong cái lãnh cung của sự chia lìa, vốn không có “niềm trăng và ý nhạc” nên nhà thơ ao ước có trăng về như một niềm khao khát, một tri âm, một vị cứu tinh. Không biết thuyền có chở trăng về kịp cho người trên bến đợi hay không ? – đó là một câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Tác giả hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian ngắn ngủi của cuộc đời mình. Giờ đây đối với ông, sống là chạy đua với thời gian, ông luôn tranh thủ từng ngày, từng buổi trong cái quỹ thời gian còn quá ít ỏi của mình. Chữ “kịp” nghe thật xót xa, đau đớn, gây nên nỗi xót thương cho người đọc. Bằng câu hỏi tu từ “có chở trăng về kịp tối nay ?” cùng với hình ảnh vừa hư vừa thực ở đoạn cuối thơ vừa như khắc khoải, bồn chồn, vừa như hi vọng chờ đợi một cái gì đó đang rời xa, biết khi nào trở lại. Đây chính là nỗi ước ao tha thiết với một nỗi buồn man mác của Hàn Mặc Tử khi vọng nhớ về thôn Vĩ Dạ.
Tiếp nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong cái mênh mông, bao la của trời đất. Đó là sự hi vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Mặc dù lời thơ thấm đẫm cái buồn của tâm trạng nhưng tác giả vẫn không quên gợi cho ta về cảnh đẹp của Huế cũng như con người ở đây:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?”
Vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ là đến hình bóng đẹp của người “khách đường xa”. Điệp từ “khách đường xa” kết hợp với nhịp thơ 4/3 thể hiện nỗi niềm trông ngóng đến da diết của tác giả. Đây còn là cách nói về nỗi cách xa nhưng không chỉ có không gian mà còn có sự xa cách về tâm hồn và tình cảm. Có thể “đường xa” là xa về không gian, về thời gian nhưng cũng có thể là “đường đến trái tim xa”, cho nên tất cả chỉ gói gọn trong một chữ “mơ” duy nhất. Hình ảnh “sương khói” cùng với cụm từ “nhìn không ra” gợi lên hình ảnh của cô gái thôn Vĩ ngày xưa chập chờn trong cõi mộng tạo cho nhà thơ một cảm giác bâng khuâng, ngơ ngẩn. Mà tại sao lại “nhìn không ra” ? Có lẽ là do màu áo trắng của cô gái Huế trắng quá hòa lẫn vào làn sương mờ ảo. Thật ra “nhìn không ra” không phải là không nhìn ra, đây chỉ là một cách nói để cực tả sắc trắng – trắng một cách kì lạ, bất ngờ. Và hình như giữa giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?”
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” phác họa một cảnh tượng mờ mờ, ảo ảo lại còn có cả sương và khói khiến cho ta thấy con người này đang ở ranh giới giữa hai thế giới sống và chết, và thế giới nào cũng lờ mờ đáng sợ. Câu thơ diễn tả rất đắt nỗi đau của một con người đang phải đối đầu với “sinh, lão, bệnh, tử”. Tác giả đã cố níu kéo, cố bám víu nhưng không được vì cảnh và đời chỉ toàn là “sương” với “khói”. Điều đặc biệt ở hai câu thơ này là ngoài nói về nỗi đau, tác giả còn miêu tả rất thực về cảnh Huế - kinh thành sương khói. Trong màn sương khói ấy, con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa đi nên tác giả rất sợ điều đó. Tác giả không dám khẳng định tình mình với cô gái Huế mà chỉ nói “ai”– điệp từ “ai” dường như xuyên suốt cả bài thơ, khổ thơ nào cũng có sự hiện diện của “ai”, từ “vườn ai”, “thuyền ai” và bây giờ thì “ai biết tình ai có đậm đà”. Câu thơ ngân xa như một tiếng than, nỗi đau của Hàn Mặc Tử như đang trải ra, vào cõi mênh mông vô cùng. Lời thơ dường như nhắc nhở nhưng không bộc lộ tuyệt vọng hay hi vọng mà là toát lên một sự thất vọng. Sự thất vọng của một thi nhân – người chủ của những mối tình “khuấy” mãi không thành khối, của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Lời thơ như một lời thanh minh khiến cho ta cảm thấy cảm thông và xót xa cho tác giả nhiều hơn.
Bài thơ bắt đầu là một câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” và kết thúc bài thơ cũng là một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà ?” khiến cho nỗi niềm của tác giả được đẩy thêm tầm vóc. Những câu hỏi tu từ trong bài dường như cứ xoáy lên mỗi lúc một cao hơn ? Cảnh vật thì đẹp nhưng những hình ảnh về mảnh vườn xanh mướt, về bến sông trăng, về con thuyền và cả mối tình của tác giả dường như vô tình làm nhòe đi để tạo nét mênh mang, phù hợp với tâm trạng của nhà thơ – một con người đang ở giữa hai bờ của sự sống và cái chết. Cảnh thật lung linh, huyền ảo, đầy thơ mộng nhưng lồng vào đấy là tâm trạng của chủ thể trữ tình thì cũng trở nên buồn, buồn nhưng mà có hồn. Thật vậy, âm hưởng của bài thơ chỉ cô đúc trong một chữ “buồn” nhưng không làm cho người ta bi lụy, bởi đằng sau nỗi niềm ấy của thi nhân ta thấy được một tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, nồng cháy và một khát vọng về cuộc sống ấm tình hơn. Những chi tiết, những thủ pháp nghệ thuật, cách cấu tứ đã được Hàn Mặc Tử chuyên chở bằng chính tình cảm của mình. Đọc cả bài thơ, ta không thấy có cái gì gượng ép, ngược lại ta như đang cùng sống với nhà thơ trong cái thế giới huyền ảo của ông. Bài thơ là sự kết hợp, giao hòa giữa tình và cảnh bộc lộ những nét đẹp, những nét trong sáng gắn với quê hương Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một miền quê đất nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương của một nhà thơ đa tình đa cảm. Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đấy là nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Dầu vậy nhưng ông vẫn sống hết mình trong sự đau đớn của tinh thần và thể xác. Điều đó chứng tỏ ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn cố gắng vượt lên nó để khi xa lìa cõi đời sẽ không còn gì phải hối tiếc. Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau đớn ấy có sức bay bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Đây là một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời luôn thổn thức tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã biến những nỗi đau thương, bất hạnh của đời mình thành những đóa hoa thơ, mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là “Đây thôn Vĩ Dạ”.
1/ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Câu hỏi làm sống dậy kỷ niệm về thôn Vĩ, nói rộng hơn về xứ Huế, trong tâm hồn đằm thắm và thơ mộng của Hàn Mặc Tử.
Cảnh buổi sớm nơi thôn Vĩ: Nắng mới lên, chiếu sáng, lấp loáng những hàng cau. Vĩ Dạ có những hàng cau thẳng tắp thân cao vượt lên trên các mái nhà và những tán cây. Những tàu cao con bóng loáng sương đêm như hút lấy ánh sáng lúc ban mai.
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” là câu thơ không có gì đặc sắc tân kỳ lắm về mặt sáng tạo hình ảnh và từ ngữ, nhưng càng nghĩ càng thấy tả những vườn cây tươi tốt, xum xuê của Vĩ Dạ cũng chỉ có thể nói như thế mà thôi. Mỗi ngôi nhà ở Vĩ Dạ, nói chung ở Huế, được gọi là những nhà vườn. Vườn bọc quanh nhà, gắn với ngôi nhà xinh xinh thường là nhà trệt, thành một cấu trúc thẩm mĩ chặt chẽ. Xuân Diệu gọi mỗi cấu trúc ấy là một bài thơ tứ tuyệt. Vì thế vườn được chăm sóc chu đáo – Những cây cảnh và cây ăn quả đều xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ, dường như được cắt tỉa, lau chùi, mài giũa thành những cành vàng lá ngọc. Sự ví von ở đây được nâng lên theo hướng cách điệu hoá. Khuynh hướng cách điệu hóa được đẩy lên cao hơn nữa ở câu thứ tư: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Đã gọi là cách điệu hóa thì không nên hiểu theo nghĩa tả thực, tuy rằng cách điệu hoá cũng xuất phát từ sự thực: thấp thoáng đằng sau những hàng rào xinh xắn, những khóm trúc, có bóng ai đó kín đáo, dịu dàng, phúc hậu.
2/ Trong khổ thơ thứ hai, dòng kỷ niệm vẫn tiếp tục. Nhớ Huế không thể không nhớ dòng sông Hương.
Dòng sông Hương, gió và mây. Con thuyền ai đó đậu dưới ánh trăng nơi bến vắng... Bốn câu thơ như diễn tả cái nhịp điệu nhẹ nhàng, chậm rãi của Huế.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Cái tinh tế ở đây tả làn gió thổi rất nhẹ, không đủ cho mây bay, không đủ cho nước gợn, nhưng gió vẫn run lên nhè nhẹ cho hoa bắp lay. Tất nhiên đây phải là cảnh sông Hương chảy qua Vĩ Dạ lững lờ trôi về phía cửa Thuận. Đúng là nhịp điệu của Huế rồi.
Hai câu tiếp theo đầy trăng. Cảnh trong kỷ niệm nên cảnh cũng chuyển theo lôgich của kỷ niệm. Cảnh sông Hương không gì thơ mộng hơn là dưới ánh trăng – Hàn Mặc Tử cũng không mê gì hơn là mê trăng. Trăng trở thành nhân vật có tính huyền thoại trong nhiều bài thơ của ông. Ánh trăng huyền ảo tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí hư ảo, như là trong mộng:
Thuyền ai đậu bến sông trăng gió
Có chở trăng về kịp tối nay?
Phải ở trong mộng thì sông mới có thể là “sông trăng” và thuyền mới có thể “chở trăng về” như một du khách trên sông Hương... Hình ảnh thuyền chở trăng không gì mới, nhưng “sông trăng” thì có lẽ là của Hàn Mặc Tử.
3/ Khổ thứ ba: Người xưa nơi thôn Vĩ.
Nhớ cảnh không thể không nhớ người. Người phù hợp với cảnh Huế không gì hơn là những cô gái Huế. Ai làm thơ về Huế mà chẳng nhớ đến những cô gái này (Huế đẹp và thơ của Nam Trân. Dửng dưng của Tố Hữu...)
Những khổ thơ dường như mở đầu bằng một lời thốt ra trước một hình ảnh ai đó tuy mờ ảo nhưng có thực:
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Mờ ảo vì “khách đường xa” và “nhìn không ra” nhưng có thực vì “áo em trắng quá”. Hình ảnh biết bao thân thiết nhưng cũng rất đỗi xa vời. Xa, không chỉ là khoảng cách không gian mà còn là khoảng cách của thời gian, và mối tình cũng xa vời – vì vốn xưa đã gắn bó, đã hứa hẹn gì đâu. Vì thế mà “ai biết tình ai có đậm đà?”
“Ai” là anh hay là em? Có lẽ là cả hai. Giữa hai người (Hàn Mặc Tử và cô gái mà nhà thơ đã từng thầm yêu trộm nhớ) là “sương khói” của không gian, của thời gian, của mối tình chưa có lời ước hẹn, làm sao biết được có đậm đà hay không? Lời thơ cứ bâng khuâng hư thực và gợi một nỗi buồn xót xa.
Nhưng khổ thơ không chỉ minh hoạ cho mối tình cụ thể giữa nhà thơ và người bạn gái. Đặt trong dòng kỷ niệm về Huế, ta thấy hiện lên trong sương khói của đất kinh đô hình ảnh rất đặc trưng của các cô gái Huế. Những cô gái Huế thường e lệ quá, kín đáo quá nên xa vời, hư ảo quá. Những cô gái ấy khi yêu, liệu tình yêu có đậm đà chăng? Đây không phải là sự đánh giá hay trách móc ai. Tình yêu càng thiết tha, càng hay đặt ra những nghi vấn như vậy.
Tình trong thơ bao giờ cũng là tình riêng. Nhưng tình riêng chỉ có ý nghĩa khi nói được tình của mọi người. Phép biện chứng của tình cảm nghệ sĩ là như vậy. Đối với sự tiếp nhận của người đọc, nổi lên trước hết trong khổ thơ này, cũng như trong toàn bộ bài thơ vẫn là hình ảnh thơ mộng và đáng yêu của cảnh và người xứ Huế.
Lời bình
Trong tập thơ mang tựa đề Thơ điên, có hai bài ít điên nhất có lẽ là Mùa xuân chín, và Đây thôn Vĩ Giạ. Cả hai bài đều là những bức tranh xóm thôn, vường tược quê làng. Đọc nó, ta không thể không nghĩ đến Nguyễn Bính vì thơ Tử cũng trẻ trung, tinh tế như kiểu:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn
Thơ Tử có cái xanh rờn của sự sống có thật, sự sống đáng yêu. Còn cái đáng yêu hơn cái giọng điệu ngọt ngào mời mọc:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Tục ngữ có câu “Lời chào cao hơn mâm cỗ”. Mâm cỗ có giàu, nhưng lời chào là sang, bởi đó là cái tình, tình người, tình quê, và biết đâu chẳng là mối tình non nước. Hàm nghĩa của câu thơ không tự đóng khung trong một biên độ hẹp nào. Tuy vậy nếu đi quá xa, thêm nữa, lại khăng khang áp đặt cái ý chủ quan, cách hiểu chủ quan thì điều đấy khong những không có cơ sở, mà còn bất lợi cho thơ. Hãy cứ để nó ngân nga trong cái khoảng không là tâm tưởng của người đọc để mỗi người yêu thơ tìm được một hạnh phúc cho riêng mình. Trở lại với cái vị thế ấy, ta hiểu vì sao câu thơ như một câu nói thường? Sức nặng ở ngoài câu chữ đơn sơ là một cái tình đằm thắm. Nó không cần hoa mỹ, cầu kì, một cách nói lên gân cao giọng, là vì nó được đản bảo bằng vàng và những câu tiếp theo. Dường như có một cáI thôn Vĩ mà chỉ cần một lời gọi ở đầu môi, tự nó hiện lên như một khối thuỷ tinh trong suốt. Cho nên đặt câu thơ đầu trong văn cảnh, ta mới hiểu được cáI bình dị sâu sắc của một sự đơn sơ. Nó giống như một thứ cánh cửa vườn lòng hé mở, mà dịu dàng, mà tha thiết biết bao! Cả một câu bảy chữ thì đã có đến sáu chữ đầu cấu tạo bởi thanh bằng. Một phong cách Huế tự nó định hành trong một chất giọng êm ru. Thì ra đằng sau cáI khuôn mẫu thơ Đường là một hồn thi nhân rất trẻ, trẻ cả lời, cả ý như một chiếc nem Huế nhỏ bé, khiêm nhường thơm thảo khó quên. Ấy là chưa nói đến đại từ nhân xưng mà lời mời hướng tới. “Sao anh…”, anh là đối tượng nghe, còn em mới là người nói. Cả người nói và người nghe đã tắm vào một không khí trữ tình đáng yêu mà thân mật lạ lùng. Sự cởi mở tâm tình trong quan hệ giao tiếp trên đây có khả năng, có tính năng làm xôn xao một tiềm thức vốn mơ hồ đã ngay lập tức trở thành cụ thể.
CáI cụ thể ấy cũng chẳng có gì nhiều. Cứ thử nhẩm đếm mà xem: một hàng cau gần gũi, một vườn ai thấp thoáng xa xa, và cũng thấp thoáng xa xa một gương mặt không rõ là ai lẫn trong tre trúc. Cảnh trí có vậy, nghĩa là hết sức đơn sơ nhưng lại nặg lòng quê kiểng. Bức tranh quê sở dĩ từng thức dậy để phô bầy cái vẻ đẹp tự thân, để trở thành hoàn mỹ ấy là do một điểm nhìn hội hoạ. Chọn một thời điểm đặc biệt trong ngày, khi cái nắng mới lên mà bấm máy thì còn gì bằng. Chọn cái trẻ của thời gian phải là người nghệ sĩ có tâm hồn rất trẻ. Cũng là cảnh làng quê ấy, có người chọn buổi trưa, có người lấy hoàng hôn làm bối cảnh. Mà không phải không đẹp. Ví như thơ Bà huyện Thanh Quan chẳng hạn, nhưng là cái đẹp khác, như sự u hoài bảng lảng giữa mênh mông. Không dùng một không gian mênh mông như thế làm nền, cách nhìn của Hàm Mạc Tử ở đây là một cách nhìn cận cảnh, cái nhìn qua ánh nắng đầu tiên. Vì vậy câu thơ đầu tiên tả cảnh, tả hàng cau đã có một nhịp đập khác thường. Nó hồi hộp như phản xạ tự nhiên của con người trước cáI đẹp không ngờ lại hiện ra trước mặt:
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Câu thơ sở dĩ nên thơ vì chất nhạc trong hồn. Vẫn chỉ là cáI nắng bình thường ngày nào chẳng có, nhưng nhà thơ như nhìn thấy nó lần đầu. Không biết có phải nắng đó hay không? Là mơ hay là thực? Dường như thi sĩ không còn tin vào mắt mình. Câu thơ vì vậy vừa như đối thoại (với người không có mặt) lại vừa như tự thoại. Nó mang lớp nghĩa hai tầng vừa hướng ngoại lại vừa hướng nội. Cái nắng đầu tiên trong ngày và trong đời có một sức sống riêng, một linh hồn riêng. Nó làm cho cái vùng ảnh hưởng mênh mông của nó không còn ở thế tĩnh mà sống động hẳn lên. Không phải lần đầu nhà thơ tả nắng. Cái nắng lần đầu ta đã một lần không quên trong Mùa xuân chín. Nhưng cái đẹp trong thơ có phần day dứt, có một cái gì đó không yên. Đọc câu “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”, ta gặp một không khí rất xưa trong hoài niệm. Và cũng từ hoài niệm, Lưu Trọng Lư đã có thơ hay:
Tôi nhớ mẹ tôi, thuở thiếu thời
Lúc người còn sống, tôi lên mười
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội
Áo đỏ người đưa trước giậu phơi
(Nắng mới)
Cả hai đều hướng về phía sau, còn Đây thôn Vĩ Giạ, cái nắng đầu tiên hướng về phía trước. Hai chữ nắng trong một câu thơ tạo nên một tiết tấu khác thường. Có một cái gì như náo nức, cái e ấp của con trẻ lần đầu mặc chiếc áo mới trong cái âm thanh sột soạt, không tránh khỏi cái rạo rực, ngây thơ. Sức hút ở đây là nắng và người chịu tác động của sức hút ấy là nhà thơ. Hàm Mạc Tử cũng trở thành một thứ con trẻ trong hồn, đồng tâm trạng với Lưu Trọng Lư trong bài thơ vừa dẫn. Mặc dù vậy, hai nỗi niềm có khác. Nếu có nắg hồng hào trong thơ của tác giả Tiếng thu gắn liền với áo đỏ (Áo đỏ người đưa trước giậu phơi) thì thơ Tử lại mở ra một màu xanh mát mắt:
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Thực ra, mướt và xanh là hai khái niệm cùng một gam màu tương tự như rờn, như biếc. Người ta có thể nói xanh biếc, xanh non, và cũng có thể viết trong thơ: xanh mướt. Cái tài sự tinh tế của Hàm Mạc Tử trong thơ chính là ở chỗ không dùng hai từ ấy. Bởi xanh mướt (cũng hội đủ hai yếu tố mướt và xanh) thì yếu ớt quá, đẹp nhưng sinh khí không nhiều, và thay thế cho tình yêu là lòng thương, ái ngại. Dùng mướt quá, rõ ràng khoẻ hơn, sức sống dồi dào hơn, và cả ấm áp nữa. Do vậy mà từ xanh (xanh như ngọc) tự nó lại gieo một ấn tượng mới, không giống với mướt, nó có một vị trí riêng trong cảm nhận. Một trùng điệp màu xanh nhưng không lặp lại đem đến sự hào hứng cho kẻ thi nhân khi đứng trước một bảo tàng nghệ thuật của thiên nhiên bí ẩn. CáI hồi hộp của câu thơ tả cau đã trở thành tiếng reo đầy sung sướng như có ma lực ở câu nói về vườn ai. Cau chắc trước sân nhà thì vườn mới có thể vườn ai. Một từ “ai” buông bắt, mơ hồ hơn. Độ gần xa không còn đồng nhất. Vùng không gian mở ra cùng một lần với vùng tâm tưởng. Cảnh đã là máu thịt của hồn. Hồn đã quấn quyện, đã hài hoà trong cảnh. Làm sao còn có thể phân chia cái cơ thể nghệ thuật toàn bích này đâu là hình thức, đâu là nội dung? Cũng đừng tách bạch cái gương mặt thấp thoáng trong “vườn ai” kia ra thành một người cụ thể nào. Bởi lẽ, nó cũng chỉ là cái chi tiết thoáng qua, một đường nét nằm trong tổng thể. Và bao bọc chung là sự cân đối hài hoà, có thể trong mối tương giao giữa cái mềm mại và khoẻ khoắn. Đơn giản vậy thôi, nếu không rất dễ chủ quan suy diễn.
Toàn cảnh ở bức tranh đầu là cuộc đời mang hơi thở thi nhân: đó là lòng ham sống. Vì nếu không ham sống, không yêu đời, làm sao có thể nhào nặn được một khung cảnh bình dị mà say người thế kia. Nhưng đặt nó vào toàn bài thì dường như là đối cực phía bên kia của một nghịch lí. ở góc nhìn này, khổ thơ ấy mang nghĩa tượng trưng. Cái đẹp, cái thực của cuộc đời tưởng như nằm sẵn trong vòng tay của một tâm hồn yêu nó, nhưng lại không phảI như vậy. Nó với nhà thơ không là một đôI bạn đồng hành. Càng hướng đến nó, tưởng chừng tiếp cận được nó, nó lại càng cứ xa hơn:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Bằng một nhạc điệu khác thường, lạnh lẽo, vô tình đến nghiệt ngã, thi nhân diễn tả một tâm thế chơi vơi. Thì ra hạnh phúc mà trời hé lộ ở khổ thơ đầu chỉ là một tín hiệu giả. Nó rạng rỡ, mơ màng. Nó đã là ảo ảnh trong khi với nhà thơ lại là một nhu cầu rất thực. Càng gắn bó với cuộc đời, cuộc đời càng ngoảnh mặt quay lưng. Câu thơ có gió có mây, nhưng rời rạc, chia lìa. Nước có dòng mà không chảy. Hoa bắp thì khẽ khàng nhạt tẻ, vô duyên. So với khổ thơ đầu, cảnh ở đây đã như người bước hụt. Cái vồ vập đã nhanh chóng đổi chiều. Nhà thơ không khỏi ngơ ngác, xót xa. Nắng hình như đã tắt, trời đã sang chiều, vì vậy mới có sông trăng:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Hồn thơ rất đẹp khi nói đến gió, đến trăng. Trăng như một vương quốc bá quyền của Tử. Vì vậy tắm mình vào đó, vào cái ánh trời đêm bàng bạc, dòng nước vừa buồn thiu là vậy đã biến thành sông trăng như có một phép nhiệm mầu của Chúa. Nhịp thơ như một nhịp cầu, một hi vọng mở ra. Trái tim đau đớn vì va đập vào cuộc đời đã có một cơ hội hồi sinh sau vết thương đau đớn. Nhưng lấy tiêu chí của cái thực để tính cấp độ của nắng và trăng thì nắng là cái có thể nhìn được bằng mắt thường, còn trăng chỉ là cảm nhận được. Phải chăng chính vì vậy mà giọng thơ mới gấp gáp, thiết tha. Thuyền liệu có kịp về bến, trăng có định lừa người? Hạnh phúc mong manh hay là một ảo ảnh, dù có mong manh nhưng còn được hy vọng thì vẫn còn là cái cớ để nhà bấu víu, bám vào để mà tồn tại. Tối nay là tối nào? ý thơ mặc dù không rõ, nhưng trong tâm tưởng của thi nhân, nó phải là cái đêm ngà ngọc thiên đường như một lần Xuân Diệu đã thiết tha: “Đêm nay rằm yến tiệc sáng trên trời”.
Kết thúc bài thơ là con sóng chập chờn giữa mơ với thực ấy:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Vẫn là tiết tấu sóng đôi nhưng vừa tiến lại vừa lui như một quy trình trớ trêu của hình tìm bóng. Người khách đường xa mơ hồ ấy chỉ thấp thoáng mơ màng “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Lại một sáng tạo nữa của Hàm Mạc Tử. Màu trắng và màu trăng như một sự rượt đuổi không bao giờ tới đích. Hình ảnh áo trắng trong thơ Hàm Mạc Tử không giống cách gợi khơi của Huy Cận:
Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong
Hôm xưa em đến, mắt như lòng
Nở bùng ánh sáng, em đi đến
Gót ngọc dồn hương, bước toả hồng
Áo trắng của Huy Cận nếu là thực thể thì ở Tử nó biến thành ảo giác mất rồi. Chính là ảo giác mà hạnh phúc kia càng lấp lánh bao nhiêu, tấm lòng nhà càng quặn đau chừng ấy. “Ai biết tình ai có mặn mà” là một khát khoát biểu trưng mở rộng. Ý nghĩa nội sinh của cặp từ “ai biết tình ai” vừa gần gũi vừa xa vời như khoảng giữa các vì sao. Sự trống vắng trong một tâm hồn rất sợ cô độc lại đang ở vào tình thế cô đơn là cái mạch chính của toàn bài, tạo ra cái cầu từ độc đáo, đầy hình tượng của những phút xuất thần được lặp lại với một mức độ cao và dường như là khó hiểu. Nhưng, hướng về phía nhân bản, phía cuộc đời từ cái tôi bản ngã, đó mới là cái hạt nhân bền vững, cái gạch nối giữa người làm thơ và người đọc thơ
♥๑۩۞۩๑(¯'♥†AD
a. Khổ 1
- Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi đặc biệt gần như vô định nhưng thực chất là cách cái tôi trữ tình tự phân thân để chất vấn và bộc lộ tâm trạng của mình.
- Câu hỏi vừa như hỏi han, vừa hờn trách, vừa nhắc nhở
- Sau câu hỏi mở đầu là những ấn tượng về cảnh vật thôn Vĩ trong hoài niệm
+ Nắng hàng cau nắng mới lên: gợi vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết; giản dị mà giàu sức gợi.
+ Vườn: mướt quá vừa là một sự cực tả cái vẻ mượt mà, non tơ, óng chuốt, mởn mởn xanh tươi vừa thể hiện giọng điệu trữ tình mê đắm, say sưa. Hình ảnh so sánh xanh như ngọc rất tự nhiên, giản dị nhưng vẫn gợi một vẻ đẹp trong sáng thanh thoát và sang trọng. Hình ảnh so sánh này còn gợi lên vẻ đẹp tốt tươi, màu mỡ và trù phú của làng quê này.
- mướt quá: vừa là sự cực tả tính chất của cảnh vật nhưng đồng thời cũng thể hiện cảm giác chới với của nhân vật trữ tình khi đối diện với một điều gì đó xa vời.
- vườn ai: gợi cảm giác mơ hồ, bất định gây ấn tượng về một vẻ đẹp bí ẩn không thể chiếm lĩnh, không thể sở hữu.
- Hình ảnh lá trúc che ngang mặt chữ điền: thể hiện mối quan hệ người - cảnh -> gợi vẻ đẹp kín đáo, e ấp. Giọng điệu trữ tình khách quan càng khiến ý thơ thêm giàu chất mộng. Hình ảnh thơ vừa gần gũi nhưng cũng có gì xa cácch, thực đấy mà cũng hư đấy.
Cảnh vật hiện lên trong khổ thơ đầu toát lên vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết, trong sáng và e ấp nhưng cũng có vẻ hờ hững, xa xôi điều đó càng làm tăng thêm nỗi ước ao và niềm đắm say mãnh liệt được trở về với những kỉ niệm đã qua ở mảnh đất này.
b. Khổ 2
- Hình ảnh: gió, mây được cảm nhận trong trạng thái chia lìa.
+ Tác giả đã miêu tả hai thực thể luôn gắn bó trong trạng thái chia lìa. Điều này là ngang trái, phi hiện thực và phi lí. Qua đó cho thấy, thi sĩ tạo ra hình ảnh này không phải bằng thị giác mà bằng cái nhìn của tâm trạng, tâm hồn mang mặc cảm của một người luôn gắn bó thiết tha với đời mà đang có nguy cơ phải chia lìa nên nhìn đâu cũng thấy trái ngang, ngăn cách.
+ dòng nước – buồn thiu: bằng nghệ thuật nhân hoá, tác gải đã phả hồn vào dòng sông. Dòng sông dưới cảm nhận của Hàn Mặc Tử không còn vô tri vô giác mà cũng có nỗi niềm, có tâm trạng. (Ở đây, nỗi buồn đã được hình tượng hoá, nỗi buồn được bộc lộ trên gương mặt, diện mạo của sự vật lan toả và thấm đẫm vào không gian) Hoá ra dòng chảy lững lờ của sông Hương không còn do khách quan mà chính là do nó mang nặng nỗi buồn.
+ Nhịp điệu: 3/4 (thay vì 2/2/3), mỗi đối tượng bị cắt đôi trong một khuôn nhịp riêng biệt, làm nổi bật sự chia lìa xa nhau. Nhịp thơ cắt đôi tựa như sự chia rẽ, chia phôi ngang trái.
- Sông nước được miêu tả gắn với hình tượng trăng. sông -> sông trăng, thuyền -> thuyền trăng gợi không khí mơ hồ huyền ảo, đẹp một cách thơ mộng làm cho không gian nghệ thuật ở đây càng thêm hư ảo mênh mang. Dòng sông của hiện thực đã trở thành dòng sông cõi mộng. Cảnh vật đã được ảo hóa gợi lên cảm giác chơi vơi trong tâm trạng của nhà thơ.
+ Sự phiêu tán chia lìa của cảnh vật khiến cho thi nhân với tâm hồn nhạy cảm thấy mình như đang bị bỏ rơi và trăng xuất hiện như là một niềm an ủi, một điểm tựa của tâm hồn. Không thể tìm thấy sự hòa hợp trong cõi thực thi nhân tìm đến với cõi mộng. Trăng lúc này như là niềm hy vọng duy nhất của thi nhân.
Tuy nhiên đối diện với trăng thi nhân vẫn mang một tâm trạng bất an. Thuyền ai đậu bến sông trăng, gợi sự mơ hồ, xa lạ không thể sở hữu. Một chữ kịp khiến cho khoảng thời gian tối nay càng trở nên ngắn ngủi, như một giới hạn trong quỹ thời gian ít ỏi còn lại của thi nhân.
Cảm giác phấp phỏng, lo âu, khắc khoải tràn ngập ý thơ.
Thời gian nghệ thuật: nếu trong khổ thơ đầu thời gian còn có sự nhất quán thì đến khổ thơ thứ hai thời gian đã trở nên bất định, không đồng nhất. Điều này phản ánh tâm trạng bất an, chống chếnh của thi nhân.
c. Khổ 3
- Nhịp thơ: gấp gáp, khẩn khoản hơn; dường như sự khác khoải, bấy an và hoài nghi trong lòng người đã biến thành nhịp điệu.
- Hình ảnh: khách đường xa, áo em trắng quá, sương khói mờ nhân ảnh
-> khách đường xa lặp lại hai lần, lần sau mất chữ mơ khiến thanh âm trở nên khắc khoải hơn, làm tăng thêm nỗi niềm khao khát của thi nhân. Khách + đường xa gợi cảm giác xa xôi, trống trải
-> chữ quá trong câu thơ thứ hai như xót xa nuối tiếc.
-> Hình ảnh sương khói hiện hữu chiếm lĩnh ý thơ.
Tất cả tan vào sương khói như một ảo ảnh. Cái tôi trữ tình đau đớn, xót xa trước một sự thật quá phũ phàng.
- Câu thơ kết: từ ai lặp lại hai lần, tạo thành một câu hỏi tha thiết mà xót xa của một tâm hồn đang khao khát được yêu, khao khát sự đồng điệu, đồng cảm. Đồng thời nó cũng thể hiện tâm trạng bất an, hoài nghi cùa cái tôi trữ tình. Đó là cái hoài nghi của một tâm hồn yêu đời, yêu sống.
=> Khổ thơ bao trùm một màu trắng lạnh lẽo của ảo ảnh, của sương khói gợi cảm giác huyền hồ bất định.
III. Kết luận
- Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh về xứ Huế, bức tranh ấy được vẽ bằng hoài niệm nhuốm đầy tâm trạng, những hình ảnh giản dị nhưng đầy sức biểu cảm vẫn gợi lên hình ảnh về một xứ Huế thơ mộng, trữ tình nhưng xa xôi trong cảm nhận của thi nhân.
- Có thể nói, Đây thôn Vĩ Dạ là tiếng nói của một cái tôi bơ vơ, cô đơn luôn khao khát hướng về cuộc đời, là khát vọng ngàn đời của con người về sự đồng cảm, đồng điệu mà tình yêu và hạnh phúc lứa đôi là biểu hiện cao nhất
- Sự vận động của tâm trạng: đi tìm cái đẹp của cõi thực, cõi thực hờ hững. Đi tìm sự đồng cảm đồng điệu của cõi mộng, cõi mộng hư ảo, mù mịt. Cho nên đắm say rồi nguội lạnh, băng giá, mộng rồi lại tỉnh. Đó là cái logic vận động trong tâm trạng của một cái tôi trữ tình ham sống và yêu đời.
admin♥๑۩۞۩๑(¯'♥†ADMIN†♥´¯)๑۩۞۩๑♥
Huy hiệu:: Dễ Thương:
Trạng thái:
Thông tin:
Giới tính:
Họ tên: Nguyễn Như Khuê
Biệt danh: Già
oaoa:: 20/05/1994
Vĩ Giạ một làng cổ đẹp nổi tiếng bên bờ Hương giang, ngoại ô cố đô Huế. Phong cảnh êm đềm thơ mộng. Với Hàn Mặc Tử chắc là có nhiều kỷ niệm đẹp? Câu mở bài như một lời chào mời, như một tiếng nhẹ nhàng trách móc: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Cảnh Vĩ Giạ được nói đến là hàng cau với nắng mới lên, một bình minh rạng ngời.Là màu xanh của cây trái của “vườn ai”, ngỡ ngàng bâng khuâng, rồi thốt lên “mướt quá xanh như ngọc”. Sắc xanh mượt mà, láng bóng ngời lên. Một so sánh rất đắt gợi tả sức xuân, sắc xuân của “vườn ai”? Câu thứ 4 có bóng người xuất hiện thấp thoáng sau hàng trúc: “gương mặt chữ điền”.
Nét vẽ “lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình gợi tả vẻ kín đáo, duyên dáng của người con gái thôn Vĩ. Và cho biết “vườn ai”, ấy là vừon xuân thiếu nữ. Cau, nắng, màu xanh như ngọc của vườn ai, lá trúc và
gương mặt chữ điền - 5 nét vẽ, nét nào cũng tinh tế, tao nhã, gợi nhiều thương mến bâng khuâng.
2. Thuyền ai đậu bến sông trăng đó…
Một miền quê thoáng đãng, thơ mộng. Có gió, mây, cỏ hoa, có dòng nước. Cảnh đẹp đầy thi vị, cổ điển. Gió mây đôi ngả phân li. Dòng nước buồn thiu, buồn xa vắng mơ hồ. Hoa bắp nhè nhẹ “lay” cũng gợi buồn.
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Khổ một nói đến “nắng mới lên”, nắng bình minh. Khổ 2, nói đến “bến sông trăng”, bến đò trong hoài niệm. Vầng trăng của thương nhớ đợi chờ.“Thuyền ai” có lẽ là con thuyền thiếu nữ? Vần thơ trăng đẹp nhất trong
thơ Hàn Mặc Tử. Có bến sông trăng, có con thuyền trăng. Thật thơ mộng, tình tứ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Câu thơ của Hàn Mặc Tử về bến sông trăng và thuyền ai gợi nhớ đến vần ca dao thuyền nhớ bến… bến đợi thuyền. Và vì thế nó gợi lên một mối tình thương nhớ, đợi chờ man mác, mơ hồ, bâng khuâng.
3. Ai biết tình ai có đậm đà?
Một chữ “mơ” đầy tình tứ trong câu thơ có nhạc điệu chơi vơi: “Mơ khách đường xa, khách đường xa”. Du khách hay thôn nữ Vĩ Giạ? Chắc lại là giai nhân mà thi nhân từng mơ ước: “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Vừa thực vừa mông. Con người của thực tại hay con người trong hoài niệm? Sương khói của bến sông trăng hay miệt vườn Vĩ Giạ đã làm mờ nhân ảnh của giai nhân? Trong cảnh có tình. Trong tình có màn sương khói,một thứ tình yêu kín đáo, e dè, thiết tha:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Toàn bài thơ có 4 từ “ai” đại từ phiếm chỉ cùng xuất hiện trong các
câu hỏi tu từ, không chỉ góp phần tạo nên âm điệu lâng lâng, ngỡ ngàng
mà còn dẫn hồn người đọc nhớ về một miền dân ca Huế man mác sâu lắng,
bồi hồi, thiết tha:
“Núi Truối ai đắp mà cao,
Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?
Nong tằm ao cá nương dâu
Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò…”
Kết luận
“Đây thôn Vĩ Dạ”
ngỡ là một bài thơ tả cảnh, nhưng đích thực là một bài thơ tình - tình trong mộng tưởng. Cảnh rất đẹp, rất hữu tình, âm điệu thiết tha, tình tứ. Tình cũng rất đẹp nhưng chỉ là mộng ảo. Bến sông trăng còn đó,
nhưng con thuyền tình có kịp chở trăng về tối nay? Xa với, mênh mông. Áo trắng giai nhân, màu trắng trong trinh nữ ấy đã trở thành hoài niệm trong miền thương nhớ của thi sĩ đa tình mà nhiều bất hạnh. “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ để ta nhớ và ta thương
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro