DAU TU NUOC NGOAI
PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1. Tổng quan về pháp luật đầu tư
1.1. Cơ sở pháp lý a. Hệ thống văn bản pháp luật quốc gia Năm 1987 Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, và sau đó được sửa đổi bổ sung nhiều lần. Đến năm 1996, Quốc hội Việt nam đã ban hành mới Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, thay thế Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987 và cũng được sửa đổi bổ sung nhiều lần. Năm 2005 Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, cùng có hiệu lực từ ngày 01/07/ 2006. Các luật này thay thế Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Doanh nghiệp (1999) và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1994). Bên cạnh đó, nhiều Luật và Bộ luật quan trọng cũng được ban hành như Bộ luật Dân sự 2005, Luật Thương mại 2005, Luật Bảo hiểm, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Chứng khoán…hay các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành các văn bản trên như: NĐ 108/2006 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư, NĐ 43/2010 hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp, NĐ 102/2010 hướng dẫn một số điều luật Doanh nghiệp… b. Điều ước quốc tế Trong bối cảnh toàn cầu hóa về kinh tế, các điều ước quốc tế về đầu tư được các nước sử dụng như là một công cụ quan trọng để tạo môi trường hấp dẫn cho đầu tư nói chung và đầu tư trực tiếp nói riêng. Không nằm ngoài xu hướng đó, trong nhiều năm qua Việt Nam đã không ngừng tăng cường quan hệ hợp tác đầu tư với các quốc gia trên thế giới. Các điều ước mà chúng ta tham gia ngày càng nhiều, cụ thể như: - Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN năm 1998 - Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ năm 2000 - Hiệp định khuyến khích đầu tư giữa Việt Nam và Nhật Bản 2003… c. Tập quán về đầu tư Ngoài văn bản pháp luật quốc gia và tập quán quốc tế, tập quán về đầu tư cũng thường được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ đầu tư khi các mối quan hệ này không được điều chỉnh bởi hợp đồng giữa các bên hoặc điều ước quốc tế và văn bản của các quốc gia. Tuy nhiên, việc áp dụng tập quán là tương đối hạn chế, hay nói cách khác là việc áp dụng tập quán không phải phổ biến. Ở Việt Nam tập quán cũng chỉ được áp dụng đối với hoạt động đầu tư nước ngoài theo những điều kiện nhất định. Có thế thấy hệ thống pháp luật kinh doanh ngày càng hoàn thiện và là cơ sở pháp lý vững chắc để tạo nền tảng cho hoạt động đầu tư trong nước và nước ngoài phát triển, cất cánh. 1.2. Đầu tư và hình thức đầu tư 1.2.1.Đầu tư 1.2.1.1. Khái niệm đầu tư Khái niệm về đầu tư được hiểu theo nghĩa phổ thông là: “Bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào công việc gì, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế, xã hội. Trong khoa học kinh tế thì đầu tư là nhân tố không thể thiếu để xây dựng và phát triển kinh tế, là “chìa khóa” của sự tăng trưởng kinh tế. Trong cơ chế thị trường, hoạt động đầu tư có thể do những chủ thể khác nhau (cá nhân, tổ chức) tiến hành và ngày càng phong phú, đa dạng cả về tính chất và mục đích. Những lợi ích đạt được của đầu tư có thể là sự tăng thêm tài sản vật chất, tài sản trí tuệ hay nguồn nhân lực cho xã hội. Kết quả đầu tư không chỉ là lợi ích trực tiếp cho nhà đầu tư mà còn mang lại lợi ích cho nền kinh tế và toàn xã hội. Dưới góc độ pháp lý, đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo các hình thức và cách thức do pháp luật quy định để thực hiện hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế, xã hội khác. Trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn xây dựng chính sách, pháp luật đầu tư, hoạt động đầu tư chủ yếu được đề cập là hoạt động đầu tư kinh doanh, với bản chất là “sự chi phí của cải vật chất nhằm mục đích làm tăng giá trị tài sản hay tìm kiếm lợi nhuận”. Thep pháp luật Việt Nam hiện hành đầu tư được hiểu như sau: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư”. (Luật đầu tư 2005). Tuy nhiên hai thuật ngữ “đầu tư” và “hoạt động đầu tư” là không đồng nhất. Trong đó “hoạt động đầu tư” được hiểu là hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư, thực hiện quản lý dự án đầu tư. Hoạt động đầu tư có những đặc điểm của hoạt động thương mại nói chung, và có mối liên hệ mật thiết với các bộ phận khác của hoạt động thương mại như mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại…Sự khác biệt cơ bản của hoạt động đầu tư so với các hoạt động thương mại khác thể hiện ở chỗ đầu tư là hoạt động mang tính chất tạo lập (bỏ vốn, tài sản) nhằm hình thành cơ sở vật chất, kỹ thuật cũng như các điều kiện khác để thực hiện hoạt động tìm kiếm lợi nhuận. 1.2.1.2. Phân loại đầu tư a. Căn cứ vào mục đích đầu tư: - Đầu tư phi lợi nhuận: Là hoạt động đầu tư của nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội.Vd: Nhà nước đầu tư (từ ngân sách) xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng… - Đầu tư kinh doanh: Là hoạt động đầu tư sử dụng các nguồn lực để kinh doanh thu lợi nhuận. Vd: Thành lập doanh nghiệp, hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, thực hiện hợp đồng BOT, BTO… b. Căn cứ nguồn vốn đầu tư: - Đầu tư trong nước: Là hoạt động đầu tư của nhà đầu tư trong nước bỏ vốn để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam. - Đầu tư nước ngoài: Bao gồm đầu tư từ nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài. Đầu tư từ nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn vào Việt Nam để tiến hành hoạt động đầu tư. Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn từ Việt Nam ra nước ngoài đê tiến hành hoạt động đầu tư. c. Căn cứ vào tính chất quản lý của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư: - Đầu tư trực tiếp: là hoạt động đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình sử dụng các nguồn lực đầu tư (hợp tác kinh doanh, thành lập các loại hình doanh nghiệp…). - Đầu tư gián tiếp: là hình thức đầu tư mà ở đó nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư (đầu tư tài chính, nhượng quyền, cho vay, cho thuê…). 1.2.2.Hình thức đầu t ư Nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước có thể lựa chọn hình thức đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp khi thực hiện các hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, nếu đầu tư vào một số lĩnh vực có điều kiện theo cam kết WTO của Việt Nam thì một số hạn chế có thể được áp dụng. Các hạn chế đó có thể bao gồm hạn chế tỷ lệ sở hữu phần vốn góp, ngành nghề không được phép đầu tư… Tuy nhiên, những hạn chế này cũng đang dần được tháo bỏ theo lộ trình mở cửa mà Việt Nam đã cam kết. Theo quy định của pháp luật đầu tư hiện hành, có hai hình thức đầu tư là đầu tư “trực tiếp” và đầu tư “gián tiếp”. 1.2.2.1. Hình thức đầu tư trực tiếp Hình thức đầu tư trực tiếp gồm có các hoạt động đầu tư sau đây: • Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài; • Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài; • Đầu tư theo hình thức các Hợp đồng như: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) hoặc Hợp đồng xây dựng, kinh doanh, chuyển giao (BOT), Hợp đồng xây dựng, chuyển giao, kinh doanh (BTO) hoặc Hợp đồng xây dựng, chuyển giao (BT); • Đầu tư phát triển kinh doanh; • Đầu tư mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư; • Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp. Trong số các hình thức đầu tư được liệt kê ở trên, hình thức đầu tư truyền thống và phổ biến nhất là thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh và đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC. Trong thời gian gần đây, với sự phát triển của thị trường vốn, hình thức đầu tư bằng việc mua phần vốn góp, mua cổ phần của các công ty để trở thành thành viên, cổ đông và tham gia điều hành, quản lý hoạt động đầu tư đang ngày càng gia tăng. Để thực hiện hoạt động đầu tư dưới hình thức thành lập công ty 100% vốn nước ngoài và công ty liên doanh, nhà đầu tư phải làm thủ tục để thành lập một pháp nhân tại Việt Nam. Ngoại trừ một số hạn chế về ngành nghề không được phép đầu tư hoặc hạn chế đầu tư theo cam kết WTO, pháp nhân này có đầy đủ quyền và nghĩa vụ như công ty trong nước. Trong trường hợp nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài, họ có thể lựa chọn để thành lập doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty hợp danh. Nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo hình thức liên doanh, thì hình thức công ty để họ lựa chọn thành lập sẽ hạn chế hơn, gồm công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần và công ty hợp danh với sự có mặt của bên Việt Nam là điều bắt buộc. Đầu tư theo hình thức BCC, BOT, BTO và BT là các hình thức đầu tư dựa trên cơ sở Hợp đồng. Hình thức đầu tư này không tạo ra pháp nhân, các bên có thể thỏa thuận việc phân chia lợi nhuận và lỗ hoặc phân chia sản phẩm hợp tác trong Hợp đồng.Hình thức đầu tư BCC thường được áp dụng trong các lĩnh vực viễn thông, dầu khí và bất động sản.Trong khi đó, các hợp đồng BOT, BTO, BT lại thường được sử dụng trong lĩnh vực giao thông và phát triển cơ sở hạ tầng. 1.2.2.2.Hình thức đầu tư gián tiếp Hình thức đầu tư gián tiếp gồm có các hoạt động đầu tư sau đây: • Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá trị khác; • Đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán; • Đầu tư thông qua các định chế tài chính trung gian khác (ngân hàng, bảo hiểm…). 2. Phân loại dự án đầu tư Dự án là việc đề xuất hệ thống những biện pháp nhằm đạt được mục tiêu hoặc một công việc nào đó với những điều kiện ràng buộc về thời gian, về chất lượng và chi phí trong giới hạn cho phép hoặc tối ưu trong điều kiện có thể. Ví dụ các dự án phòng chống dịch bệnh trong lĩnh vực y tế; dự án tin học phục vụ cải cách hành chính trong các cơ quan quản lý Nhà nước… Dự án đầu tư được hiểu là một tập hợp đề xuất cho việc bỏ vốn nhằm đạt được những lợi ích kinh tế hoặc xã hội đã đề ra trong giới hạn về thời gian hoặc nguồn lực đã được xác định. Ví dụ như dự án vận chuyển hành khách trong đô thị bằng phương tiện xe buýt, dự án mua sắm máy bay vận tải hành khách bằng đường không. ' Hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư. Vậy, hoạt động đầu tư luôn gắn liền với những “dự án” đầu tư. Thuật ngữ “dự án” dùng để chỉ một kế hoạch chi tiết và thận trọng do một chủ thể lập ra để thực hiện công việc nào đó trong khoảng thời gian nhất định nhằm đạt được kết quả mà chủ thể đó mong muốn. Dự án thì xuất hiện ở mọi lĩnh vực của đời sống nhưng phổ biến và hay gặp nhất là những “dự án đầu tư”. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành thì “dự án đầu tư” được hiểu như sau: “ Dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể trong khoảng thời gian xác định” (Luật đầu tư 2005). Vậy theo quy định ở đây chúng ta có thể hiểu rằng nội dung của dự án đầu tư chỉ mang tính đề xuất, đó là những kế hoạch tương lai của một hoạt động đầu tư (mang dấu ấn chủ quan của nhà đầu tư) nên không hoàn toàn loại trừ yếu tố rủi ro. Mặt khác, một dự án đầu tư luôn xác định về mặt không gian và thời gian (không có dự án nào không nằm trên một địa bàn cụ thể và có thời gian xác định). Hoạt động đầu tư rất đa dạng nên các dự án đầu tư cũng vô cùng phong phú. Hiện nay có nhiều cách phân loại dự án đầu tư: phân loại theo tiêu chí nguồn vốn đầu tư, phân loại theo tiêu chí nội dung hoạt động đầu tư, phân loại theo tiêu chí tính chất quản lý của hoạt động đầu tư, phân loại theo tiêu chí lãnh thổ đầu tư… 2.1. Phân theo tiêu chí nguồn vốn đầu tư - Dự án đầu tư bằng vốn nhà nước: gồm vốn ngân sách, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư khác của Nhà nước. - Dự án đầu tư bằng vốn của tổ chức, cá nhân khác: gồm vốn thuộc sở hữu hoặc vốn vay của các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở Việt Nam. - Dự án đầu tư bằng vốn hỗn hợp: gồm cả vốn nhà nước lẫn vốn của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế khác. 2.2. Phân loại tiêu chí nội dung hoạt động đầu tư - Dự án đầu tư thành lập mới tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế (trong nước, nước ngoài, hoặc liên doanh trong nước với nước ngoài). - Dự án đầu tư phát triển kinh doanh (xây dựng dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô, nâng cao công suất, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường…) - Dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT. - Dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế. - Dự án mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư - Dự án mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác. - Dự án đầu tư thông qua quỹ đầu tư chứng quán và các chế định tài chính trung gian khác… 2.3. Phân loại theo tiêu chí tính chất quản lý của quan hệ đầu tư - Dự án đầu tư trực tiếp - Dự án đầu tư gián tiếp 2.4. Phân loại theo tiêu chí lãnh thổ đầu tư - Dự án đầu tư nước ngoài - Dự án đầu tư trong nước - Dự án đầu tư ra nước ngoài 2.5. Phân loại theo tiêu chí thủ tục đầu tư - Dự án đầu tư không phải làm thủ tục đăng ký đầu tư - Dự án đầu tư phải làm thủ tục đăng ký đầu tư - Dự án đầu tư phải thực hiện thủ tục thẩm tra đầu tư 3.Quy trình thực hiện dự án đầu tư 3.1. Chuẩn bị đầu tư Chuẩn bị đầu tư là giai đoạn hết sức quan trọng, nó là giai đoạn khởi đầu của một dự án đầu tư, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả và giá thành của dự án đó. Chính vì vậy, chuẩn bị đầu tư là giai đoạn quyết định sự thành công của dự án. Trong giai đoạn này nhà đầu tư phải tiến hành các công việc sau đây: a. Nghiên cứu thị trường b. Xác định sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư c. Lựa chọn hình thức đầu tư d. Tiến hành khảo sát và lựa chọn địa điểm đầu tư e. Lập dự án đầu tư - Báo cáo tiền khả thi - Báo cáo khả thi 3.2. Thủ tục đầu tư Nhằm đảm bảo sự quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư cũng như các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung tránh sự lãng phí, thất thoát và kém hiệu quả trong đầu tư, pháp luật đã quy định rõ trình tự thủ tục đầu tư. Các thủ tục pháp lý liên quan đến đầu tư theo pháp luật quy định hiện hành được chia làm 3 nhóm dự án đầu tư là dự án đầu tư không phải làm thủ tục đăng kí đầu tư, dự án đầu tư phải làm thủ tục đăng kí đầu tư và dự án đầu tư phải thực hiện thủ tục thẩm tra đầu tư: 3.2.1. Dự án đầu tư không phải làm thủ tục đăng ký đầu tư. Các dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư dưới 15 tỉ VNĐ và không thuộc danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì nhà đầu tư không phải làm thủ tục đăng ký đầu tư. 3.2.2. Dự án đầu tư phải làm thủ tục đăng ký đầu tư. - Đối với các dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư từ 15 tỉ - dưới 300 tỉ VNĐ và không thuộc danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì nhà đầu tư phải làm thủ tục đăng kí đầu tư. - Đối với các dự án đầu tư nước ngoài có quy mô vốn đầu tư dưới 300 tỉ VNĐ và không thuộc danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì nhà đầu tư làm thủ tục đăng ký đầu tư theo mẫu đăng ký đầu tư tại cơ quan nhà nước quản lý đầu tư cấp tỉnh để được cấp giấy chứng nhận đầu tư trong thời 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đăng ký đầu tư hợp lệ. 3.2.3. Dự án đầu tư phải thực hiện thủ tục thầm tra đầu tư. Đối với một số dự án thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành thẩm tra hồ sơ dự án trước khi cấp giấy chứng nhận đầu tư. - Những loại dự án phải thẩm tra Được áp dụng đối với dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỷ VNĐ trở lên hoặc dự án thuộc danh mục đầu tư có điều kiện. Theo quy định của pháp luật, thời hạn cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo thủ tục này là bốn mươi lăm (45) ngày làm việc. - Hồ sơ thẩm tra + Dự án từ 300 tỷ VNĐ trở lên và không thuộc danh mục đầu tư có điều kiện ( Cơ sở pháp lý: Nghị định số 108/2006/NĐ-CP) 1. Hồ sơ thẩm tra đầu tư gồm: a) Văn bản đề nghị cấp Giấy chứng nhận đầu tư (theo mẫu); b) Văn bản xác nhận tư cách pháp lý của nhà đầu tư: bản sao quyết định thành lập hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc các tài liệu tương đương khác đối với nhà đầu tư là tổ chức; bản sao hộ chiếu hoặc chứng minh nhân dân đối với nhà đầu tư là cá nhân; c) Báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư (do nhà đầu tư lập và chịu trách nhiệm); d) Giải trình kinh tế - kỹ thuật bao gồm các nội dung chủ yếu: mục tiêu, quy mô, địa điểm đầu tư; vốn đầu tư; tiến độ thực hiện dự án; nhu cầu sử dụng đất; giải pháp về công nghệ và giải pháp về môi trường; đ) Hợp đồng hợp tác kinh doanh đối với hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh. 2. Đối với trường hợp thực hiện thủ tục đầu tư đồng thời với thủ tục đăng ký kinh doanh, ngoài hồ sơ quy định tại khoản 1 nêu trên, nhà đầu tư phải nộp kèm theo: a) Hồ sơ đăng ký kinh doanh tương ứng với mỗi loại hình tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật có liên quan; b) Hợp đồng liên doanh đối với hình thức thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. + Dự án thuộc danh mục dự án đầu tư có điều kiện: 1. Nếu dự án có quy mô vốn đầu tư dưới 300 tỉ VNĐ hồ sơ gồm: - Giải trình điều kiện mà nhà đầu tư phải đáp ứng - Các giấy tờ khác như hồ sơ đăng kí đầu tư 2. Nếu dự án có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỉ VNĐ trở lên, hồ sơ gồm: - Giải trình điều kiện mà nhà đầu tư phải đáp ứng - Các giấy tờ khác như hồ sơ thẩm tra đầu tư dự án có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỉ VNĐ trở lên và không thuộc danh mục dự án đầu tư có điều kiện. - Nội dung thẩm tra: - Đối với dự án có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỉ VNĐ trở lên và không thuộc danh mục dự án đầu tư có điều kiện thì nội dung thẩm tra gồm: + Sự phù hợp với: quy hoạch kết cấu hạ tầng - kỹ thuật; quy hoạch sử dụng đất; quy hoạch xây dựng; quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản và các nguồn tài nguyên khác. Đối với dự án đầu tư thuộc lĩnh vực chưa có quy hoạch hoặc chưa có trong quy hoạch nêu trên thì cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư có trách nhiệm lấy ý kiến các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về quy hoạch; + Nhu cầu sử dụng đất: diện tích đất, loại đất và tiến độ sử dụng đất; + Tiến độ thực hiện dự án: tiến độ thực hiện vốn đầu tư, tiến độ xây dựng và tiến độ thực hiện các mục tiêu của dự án; + Giải pháp về môi trường: đánh giá các yếu tố tác động đến môi trường và giải pháp xử lý phù hợp với quy định của pháp luật về môi trường. - Đối với dự án thuộc danh mục dự án đầu tư có điều kiện Nội dung thẩm tra chính là những điều kiện mà nhà đầu tư phải đáp ứng. Nếu dự án có quy mô từ 300 tỉ VNĐ trở lên, nội dung thẩm tra còn bao gồm các nội dung như nội dung thẩm tra đối với dự án có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỉ VNĐ trở lên và không thuộc danh mục dự án đầu tư có điều kiện. - Thời hạn giải quyết: 03 ngày làm việc, cơ quan tiếp nhận hồ sơ thông báo cho nhà đầu tư sửa đổi, bổ sung hồ sơ còn thiếu hoặc chưa hợp lệ. 25 ngày làm việc (trường hợp UBND cấp GCNĐT) hoặc 20 ngày làm việc (trường hợp Ban quản lý cấp GCNĐT) kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, xem xét cấp hoặc từ chối cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Thời hạn và quy trình thẩm tra đầu tư(Đ 48 – 49 NĐ 108/2006) + Không quá 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Có thể kéo dài nhưng không quá 45 ngày. -Cơ quan thẩm tra và cấp giấy chứng nhận đầu tư + UBND cấp tỉnh cấp giấy chứng nhận đầu tư cho: Dự án ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế; dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất đối với những địa phương chưa thành lập ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất. + Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất cấp giấy chứng nhận đầu tư đối với dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. 3.3. Triển khai thực hiện dự án đầu tư (Chương 6, mục 2 của luât đầu tư 2005) Sau khi hoàn tất các thủ tục đầu tư, chủ đầu tư sẽ tiến hành các công việc cần thiết cũng như những thủ tục pháp lý khác để triển khai thực hiện dự án đầu tư. Trong giai đoạn này, việc triển khai thực hiện dự án đầu tư của nhà đầu tư phải theo đúng mục tiêu, tiến độ đã cam kết và các quy định tại giấy chứng nhận đầu tư đồng thời phải tuân thủ các quy định của văn bản pháp luật chuyên ngành có liên quan như pháp luật về đất đai, về môi trường, khoáng sản, xây dựng, lao động, thuế… Nội dung công việc thủ tục cần triển khai có thể bao gồm một số thủ tục sau đây: - Xin giao đất hoặc thuê đất thực hiện dự án đối với các dự án có sử dụng đất - Xin giấy phép xây dựng (đối với những dự án có công trình xây dựng phải xin phép) - Xin giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên, khoáng sản (nếu có khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản) - Chuẩn bị mặt bằng xây dựng như thực hiện việc thu hồi đất, đền bù, giải phóng mặt bằng, thực hiện kế hoạch tái định cư và phục hồi (đối với dự án có yêu cầu tái định cư và phục hồi - Thực hiện việc khảo sát, thiết kế xây dựng - Thẩm định, phê duyệt thiết kế xây dựng, dự toán và tổng dự toán công trình - Tiến hành thi công xây lắp - Kiểm tra và thực hiện các hợp đồng - Quản lý kỹ thuật, chất lượng thiết bị và chất lượng xây dựng - Vận hành thử, nghiệm thu, quyết toán vốn đầu tư, bàn giao và thực hiện bảo hành sản phẩm - Mua sắm, giám định thiết bị, máy móc và công nghệ - Tiêu thụ sản phẩm tại thị trường Việt Nam - Mở tài khoản giao dịch tại Ngân hàng - Thuê tổ chức, cá nhân quản lý dự án đầu tư - Tạm ngừng, giãn tiến độ thực hiện dự án đầu tư - Chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư - Bảo lãnh của nhà nước cho một số công trình và dự án quan trọng Đối với các dự án đầu tư gắn với việc thành lập tổ chức kinh tế mới, chủ đầu tư còn phải thực hiện những công việc cần thiết để triển khai hoạt động của doanh nghiệp như: - Công bố thành lập doanh nghiệp - Làm thủ tục xin giấy phép kinh doanh nếu doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề đòi hỏi phải có giấy phép - Làm thủ tục đăng kí con dấu của doanh nghiệp tại cơ quan công an cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính - Ký hợp đồng tuyển dụng lao động… Nếu là dự án đầu tư gắn với việc thành lập tổ chức kinh tế mới có nguồn gốc vốn đầu tư nước ngoài thì chủ đầu tư ngoài những công việc trên còn phải thực hiện thêm những công việc: - Làm thủ tục xin giấy phép lao động cho người nước ngoài tại sở Lao động – thương binh và xã hội cấp tỉnh hoặc ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao nơi đặt trụ sở doanh nghiệp - Đăng ký thủ tục xuất, nhập cảnh, cư trú cho người nước ngoài; đăng ký sử dụng các phương tiện thông tin liên lạc, đăng ký chất lượng, nhãn hiệu hàng hóa… - Đăng kí kế hoạch nhập khẩu máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư, nguyên liệu cho toàn bộ thời gian xây dựng cơ bản của dự án hoặc chia thành từng năm phù hợp với tiến độ xây lắp… Đối với hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC, các bên hợp doanh phải tiến hành thiết lập ban điều phối dự án. Thành phần ban điều phối do các bên cử đại diện tham gia theo tỉ lệ vốn góp. Ban điều phối không phải là cơ quan lãnh đạo của các bên hợp doanh, không có tư cách pháp nhân và con dấu. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ban điều phối do các bên hợp doanh thỏa thuận.Nếu bên hợp doanh là nhà đầu tư nước ngoài thì nhà đầu tư nước ngoài được thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam để làm đại diện cho mình trong việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh và chịu trách nhiệm về hoạt động của văn phòng điều hành. Văn phòng điều hành của bên hợp doanh nước ngoài có con dấu được mở tài khoản, được tuyển dụng lao động, được ký kết hợp đồng và tiến hành các hoạt động kinh doanh trong phạm vi các quyền và nghĩa vụ do pháp luật Việt Nam quy định. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH. Bước 1: Chủ đầu tư (hoặc đại diện được uỷ quyền) có văn bản đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh chochủ trương đối với dự án đầu tư, đồng gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư.Thủ tục cần có: - Tờ trình đề nghị đầu tư. - Báo cáo tóm tắt nội dung đầu tư. (Sơ bộ thông tin dự án) - Các văn bản chứng minh tư cách pháp nhân tổ chức, đơn vị CĐT- Hồ sơ năng lực tài chính (khả năng huy động vốn hoặc kế hoạch vốn với Dự án NSNN)chứng minh điều kiện thực hiện dự án Bước 2: Uỷ ban nhân dân tỉnh giao Sở Kế hoạch và Đầu tư xem xét quy hoạch phát triển sản xuấtvà thẩm tra năng lực tài chính của nhà đầu tư (thời gian 7 ngày làm việc) tham mưu đề nghịUỷ ban nhân dân tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư hoặc từ chối đối với dự án.( Đây là thời gian tối thiểu, còn thực tế thì vô cùng) Bước 3: Sau khi được Uỷ ban nhân dân tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư, Nhà đầu tư cùng cácSở chuyên ngành liên quan tiến hành khảo sát, chọn địa điểm thực hiện dự án đầu tư trình Uỷban nhân dân tỉnh Quyết định địa điểm đầu tư (thời gian 7 ngày làm việc). Bước 4 . Sau khi có Quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh về địa điểm đầu tư, nhà đầu tư tiến hànhlập Quy hoạch xây dựng chi tiết (tỉ lệ 1:500) để Sở quản lý xây dựng chuyên ngành (Sở XDvới nhóm CT xây dựng DD,CN; sở GTCC với nhóm CT đường, cầu, kè cống, gt...; SởNNPTNT với nhóm cải tạo, bảo vệ rừng, chăn nuôi...) thẩm định trình Uỷ ban nhân dân tỉnhphê duyệt (thời gian 7 ngày làm việc).Đồng thời nhà đầu tư triển khai lập dự án đầu tư kèm theo Hồ sơ TKCS theo quy định; Lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường; tập hợp hồ sơ chứng minh năng lực tài chính, khảnăng cấp phát nguồn vốn..(Thuê đơn vị tư vấn có năng lực đáp ứng hoặc tự thực hiện). Bước 5 . Trên cơ sở Quy hoạch chi tiết đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt. Nhà đầu tư cóDự án khả thi; báo cáo đánh giá tác động môi trường; báo cáo khả năng tài chính; tiến độ thựchiện dự án (được cấp có thẩm quyền phê duyệt), có Tờ trình gửi Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở Kếhoạch và Đầu tư. Sở Kế hoạch và Đầu tư tham mưu trình Uỷ ban nhân dân tỉnh chấp thuận dựán đầu tư trong thời gian 3 – 4 ngày làm việc (Các dự án nhóm A phải báo cáo trình Chính Phủ ). I.KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC KHU KINH TẾ ĐẶC BIỆT Các khu, cụm công nghiệp ở nước ta hiện nay gồm hai loại : các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế… do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập và hoạt động theo quy chế pháp lý ban hành kèm theo Nghị định của Chính phủ hoặc quyết định của Thủ tướng Chính phủ và các cụm công nghiệp do chính quyền địa phương, thường là UBND cấp tỉnh quyết định thành lập. Hiện nay, chưa có khung pháp lí thống nhất điều chỉnh tổ chức và hoạt động của các cụm công nghiệp địa phương. 1. Khu công nghiệp Theo cách hiểu thông thường, khu công nghiệp là khu vực tập trung các doanh nghiệp sản xuất, có ranh giới địa lí xác định, được thành lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các nước trên thế giới có quan niệm không đồng nhất với nhau về khu công nghiệp và thường có sự khác nhau khi quy định, trong khuôn khổ khu công nghiệp, có hay không có dân cư sinh sống, thành lập hay không thành lập riêng khu vực chuyên sản xuất hàng xuất khẩu (khu chế xuất). Pháp luật Việt Nam quy định : Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ. Trong khu công nghiệp có thể có khu chế xuất hoặc doanh nghiệp chế xuất. Theo quy định này, các khu công nghiệp của Việt Nam có các đặc điểm cơ bản sau đây: + Về chức năng hoạt động : khu công nghiệp là khu vực chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Cho dù các tổ chức kinh tế được thành lập trong khu công nghiệp có thể thuộc mọi hình thức sở hữu khác nhau, bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhưng lĩnh vực đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp này là sản xuất công nghiệp và dịch vụ phục vụ cho sản xuất công nghiệp. Trong khu công nghiệp, không có các hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và các dịch vụ phục vụ cho các loại hình sản xuất này. + Về không gian : khu công nghiệp là khu vực có ranh giới địa lí xác định, phân biệt với các vùng lãnh thổ khác và thường không có dân cư sinh sống. Về mặt địa lý, các khu công nghiệp đều được xác định ranh giới cụ thể bằng hệ thống hàng rào khu công nghiệp, phân biệt với các vùng còn lại thuộc lãnh thổ quốc gia. Mọi hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh bên trong hàng rào đó, không chỉ được điều chỉnh bởi quy định của pháp luật hiện hành mà còn phải tuân thủ quy chế pháp lý riêng dành cho khu công nghiệp và được hưởng nhiều ưu đãi. Để tạo điều kiện thu hút đầu tư, Nhà nước thực hiện các phương án đầu tư phát triển hạ tầng bên trong hàng rào khu công nghiệp như giải quyết vấn đề mặt bằng, cầu đường, điện nước, kho bãi, nhà xưởng, hệ thống xử lý chất thải … Toàn bộ hạ tầng kĩ thuật khu công nghiệp này được xây dựng phục vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ phục vụ công nghiệp, không phục vụ mục đích sinh sống của dân cư, kể cả người Việt Nam, người nước ngoài làm việc trong khu công nghiệp. + Về thủ tục thành lập : Khu công nghiệp không phải là khu vực được thành lập tự phát mà được thành lập theo quy định của Chính phủ, trên cơ sở quy hoạch đã được phê duyệt. Không nên hiểu khu công nghiệp đơn thuần là khu vực tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Khu công nghiệp là mô hình kinh tế có sự đầu tư từ phía Nhà nước nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Để phát triển các khu công nghiệp, Nhà nước phải thiết lập môi trường đầu tư thuận lợi, bao gồm hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hệ thống cơ chết chính sách hoàn thiện. Chính vì vậy, Nhà nước phải xây dựng quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, thẩm định kĩ trước khi thành lập và triển khai xây dựng chúng. Trên cơ sở quy hoạch đã phê duyệt, dự án đầu tư đã được thẩm định, Thủ thướng Chính phủ sẽ quyết định thành lập khu công nghiệp tại những địa bàn cụ thể. + Về đầu tư cho xuất khẩu : Đây là vấn đề được quan tâm khi đầu tư xây dựng tất cả các khu công nghiệp. Theo quy định của pháp luật hiện hành, trong khu công nghiệp có thể có khu vực hoặc doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu (được gọi là khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất). Phụ thuộc vào quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp đã được phê duyệt và dự án đầu tư, kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, trong phạm vi khu công nghiệp có thể thành lập khu vực riêng bao gồm các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và các dịch vụ thu ngoại tệ hoặc cũng có thể chỉ thành lập doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu. Doanh nghiệp chế xuất và khu chế xuất có ranh giới địa lí phân biệt với các khu vực còn lại của khu công nghiệp và áp dụng quy chế pháp lý riêng. 2. Khu chế xuất Thông thường, khu chế xuất được hiểu là khu vực chế biến hàng xuất khẩu. Cũng do đặc thù này, các quốc gia đều có những quy định riêng về xuất nhập khẩu, hải quan… áp dụng cho các quan hệ thương mại trong khuân khổ khu chế xuất. Tuy nhiên, từ góc độ chuyên môn có hai cách hiểu khác nhau về khu chế xuất. Theo nghĩa hẹp, “Khu chế xuất là một lãnh địa công nghiệp chuyên môn hóa sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu, tách rời khỏi chế độ thương mại và thuế quan của một nước và áp dụng chế độ thương mại tự do”. Theo nghĩa rộng, khu chế xuất không chỉ bao gồm khu vực công nghiệp chuyên môn hóa sản xuất hàng xuất khẩu mà còn bao gồm những khu vực tự do, khu phi thuất quan được chính phủ cho phép như khu cảng tự do, khu phi thuế quan, khu mậu dịch tự do, khu bảo thuế, khu công nghiệp tự do… Khái niệm khu chế xuất trong pháp luật Việt Nam được hiểu theo nghĩa hẹp: Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lí xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ. Theo khái niệm này, khu chế xuất là một loại h́nh khu công nghiệp có đặc điểm riêng là chỉ bao gồm các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, hoạt động xuất khẩu hoặc doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Như vậy, khu chế xuất trước hết có các đặc điểm của khu công nghiệp, đó là: + Là khu vực có ranh giới địa lí xác định, phân biệt với các vùng lãnh thổ khác và không có dân cư sinh sống. + Được thành lập theo quy định của Chính phủ và hoạt động theo quy chế pháp lí riêng. + Là khu vực tập trung các doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp dịch vụ phục vụ hoạt động sản xuất. Ngoài ra, khu chế xuất còn có đặc tính chuyên môn hóa trong việc chế tọa hàng hóa để xuất khẩu, kinh doanh dịch vụ phục vụ xuất khẩu và cung cấp cho các tổ chức kinh tế cư trú trong đó các điều kiện tự do thương mại và một môi trường pháp lí tự do. Do đó, khu chế xuất được phân biệt với khu công nghiệp thông thường ở hai đặc điểm riêng sau đây : Một là, về chức năng hoạt động và mục tiêu thị trường. khu chế xuất có chức năng chủ yếu là sản xuất hàng xuất khẩu và cung cấp dịch vụ phục vụ xuất khẩu. Nếu doanh nghiệp khu công nghiệp có thể tiêu thụ hàng hóa tại thị trường trong nước hoặc nước ngoài nhằm khai thác cả thị trường nội địa và thị trường nước ngoài thì doanh nghiệp thành lập và hoạt động trong khu chế xuất chủ yếu xuất khẩu hàng hóa hoặc kinh doanh dịch vụ phục vụ cho xuất khẩu, hướng tới mục tiêu khai thác thị trường khu vực và quốc tế. Hai là, về tính chất của hàng rào khu chế xuất. Đối với khu chế xuất, ranh giới địa lí không chỉ đơn thuần là sự xác định mốc giới phân biệt với các vùng lãnh thổ còn lại của quốc gia mà còn có ý nghĩa là hàng rào hải quan. Đặc điểm này được thể hiện rõ nét ở quy chế pháp lí áp dụng cho khu chế xuất. Việc trao đổi hàng hóa giữa các doanh nghiệp chế xuất với các doanh nghiệp ở nước ngoài hoặc với doanh nghiệp chế xuất khác thể hiện rõ tính chất thương mại tự do, đó là không thuộc diện chịu thuế xuất khẩu, nhập khẩu, không phải thực hiện các thủ tục hải quan. Trao đổi hàng hóa giữa các khu chế xuất với các vùng lãnh thổ còn lại của quốc gia được coi như quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu và phải nộp thuế, thực hiện chế độ hải quan theo quy định hiện hành. Với những đặc điểm này, khu chế xuất có yếu tố kết hợp giữa hai loại hình khu thương mại tự do và khu công nghiệp tập trung. Đây là khu kinh tế hướng đến ưu tiên tạo ra những sản phẩm xuất khẩu có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế và do đó thường sử dụng công nghệ tiên tiến hơn ở các khu công nghiệp thông thường. 3. Khu công nghệ cao Khu công nghệ cao là mô hình kinh tế được thành lập với mục tiêu xây dựng năng lực nghiên cứu – phát triển và ứng dụng công nghệ cao, tạo điều kiện gắn kết giữa đào tạo nghiên cứu phát triển công nghệ cao với sản xuất và dịch vụ, thúc đẩy đổi mới công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao và thương mại hàng hóa công nghệ cao. Mặt khác, khu công nghệ cao tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động đầu tư nhằm thu hút vốn, công nghệ cao, nhân lực công nghệ cao trong nước và nước ngoài, góp phần xây dựng các ngành công nghiệp công nghệ cao làm động lực phát triển kinh tế, đặc biệt là đối với những vùng kinh tế trọng điểm, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ, góp phần tăng trưởng kinh tế. Khu công nghệ cao là hku chuyên nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao, có ranh giới xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ. Trong khu công nghệ cao có thể có khu công nghiệp, khu chế xuất, kho ngoại quan, khu bảo thuế và khu nhà ở. Khu công nghệ cao có những đặc điểm chính sau đây: + Về chức năng hoạt động: Khu công nghệ cao là khu kinh tế - kĩ thuật đa chức năng. Các doanh nghiệp khu công nghệ cao có thể hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực hoạt động như sản xuất công nghiệp, chế tạo hàng xuất khẩu, nghiên cứu, ứng dụng, đào tạo nhân lực và ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao… Để thực hiện các chức năng này, trong khu công nghệ cao có thể thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất, kho ngoại quan, khu bảo thuế. Khu dân cư và hành chính cũng được phép thành lập nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế - kĩ thuật của khu công nghệ cao và phù hợp với loại hình khu kinh tế đặc biệt có quy mô lớn. + Về lĩnh vực đầu tư : Các hoạt động kinh tế kĩ thuật, đào tạo… của khu công nghệ cao đều liên quan đến công nghệ cao, bao gồm: sản xuất kinh doanh sản phẩm công nghệ cao; nghiên cứu – phát triển và ứng dụng công nghệ cao; ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao và đào tạo nhân lực công nghệ cao… Đây là đặc điểm cho phép phân biệt khu công nghệ cao với khu công nghiệp, khu chế xuất, mặc dù doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp, khu chế xuất thướng chú trọng áp dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm hiểu quả cạnh tranh. + Về thành lập và tổ chức hoạt động : Khu công nghệ cao được thành lập theo quy định của Chính phủ, có ranh giới xác định và hoạt động theo quy chế pháp lí do Chính phủ quy định. Trên cơ sở quy hoạch tổng thế phát triển các khu công nghiệp đã được xây dựng, Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập các khu công nghệ cao, có xác định địa giới cụ thể để phân biệt với các vùng lãnh thổ khác. 4. Khu kinh tế, khu kinh tế mở Đây là mô hình kinh tế có quy mô lớn, có vai trò đặc biệt tích cực trong khuyến khích và thu hút đầu tư bởi sự đa dạng trong kết cấu và sự cho phép áp dụng cơ chế quản lí kinh tế hiện hành trong khi chưa có điều kiện thực hiện trên phạm vi cả nước, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi nhất cho nhà đầu tư. Nhằm thực hiện các mục tiêu nói trên, khu kinh tế là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi nhất cho nhà đầu tư. Nhằm thực hiện các mục tiêu nói trên, khu kinh tế là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lí xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ. Các khu kinh tế có sự mệnh làm hạt nhân phát triển kinh tế xã hội của vùng, miền theo quy hoạch của Chính phủ. Khu kinh tế thường được thành lập với các khu chức năng, các công trình hạ tầng kĩ thuật - xã hội, các công trình dịch vụ và tiện ích công cộng với các chính sách ưu đãi, khuyến khích, ổn định lâu dài và cơ chế quản lí thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Chính sách ưu đãi, cơ chế quản lí thông thoáng, phù hợp với co chế thị trường mà Nhà nước áp dụng nhằm mục tiêu khuyến khích đầu tư và khuyến khích xuất khẩu. Theo quy chế tổ chức và hoạt động của các khu kinh tế đã được thành lập, có thể nhận thấy đây là mô hình kinh tế có các đặc điểm pháp lí chủ yếu sau đây : + Về không gian thành lập khu kinh tế : Khu kinh tế được thành lập trên cơ sở diện tích đất tự nhiên rộng lớn, có tính đặc thù về điều kiện tự nhiên và vị trí địa lí kinh tế. Các khu kinh tế được xây dựng trên cơ sở một diện tích đất tự nhiên, đã tồn tại các điều kiện thuận lợi nhất định về dân cư, địa lí, kinh tế … Các yếu tố thuận lợi này được khau thác trong quá trình quy hoạch, xây dựng mới các khu chức năng, các công trình hạ tầng kĩ thuật, tạo thành một không gian kinh tế rộng lớn và đặc thù bởi sự kết hợp các yếu tố này. + Về lĩnh vực đầy tư : Khu kinh tế cho phép đầu tư đa ngành, đa lĩnh vực nhưng có mục tiêu trong tâm phù hợp với từng khu kinh tế được thành lập ở mỗi địa bàn khác nhau. + Về quy hoạch tổng thể : Khu kinh tế được chia thành hai khu vực : khu thuế quan và khu phi thuế quan. Khu phi thuế quan có ranh giới địa lí xác định, được ngăn cách bằng hàng rào cứng với khu vực xung quanh, không có dân cư sinh sống. Các hoạt động trong khu phi thuế quan bao gồm : Sản xuất hàng xuatas khẩu và hàng phục vụ tại chỗ, thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, xúc tiến thương mại và các hoạt động thương mại khác. Quan hệ trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa khu phi thuế quan với nước ngoài, giữa các doanh nghiệp trong khu phi thuế quan với nhau được xem như quan hệ trao đổi giữa nước ngoài với nước ngoài. Hàng hóa từ nước ngoài nhập khẩu vào khu phi thuế quan hoặc từ khu phi thuế quan xuất khẩu ra nước ngoài không thuộc diện phải nộp thuế xuất khẩu, xuất nhập khẩu. Với những đặc điểm này, khu phi thuế quan có đặc điểm giống như khu chế xuất, nhưng có phạm vi hoạt động rộng hơn. Khu thuế quan là khu vực còn lại của khu kinh tế, ngoài phạm vi khu phi thuế quan. Trong khu thuế quan có các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu giải trí đặc biệt, khu du lịch, khu dân cư và hành chính. Hàng hóa ra vào khu thuế quan thuộc khu kinh tế phải tuân thủ quy định pháp luật về mặc hàng, thuế xuất nhập khẩu nhưng được áp dụng những thủ tục hải quan thuận lợi. Hàng hóa được tư do lưu thông giữa khu thuế quan và nội địa. + Về quy chế pháp lí : do tính đặc thù về điều kiện địa lí, mỗi khu kinh tế hoạt động theo quy chế pháp lí riêng biệt. Khác với điều này, quy chế pháp lí khu công nghệ cao được ban hành và có hiệu lực áp dụng cho mọi khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao trong phạm vi cả nước. Như vậy, có thể xem khu kinh tế là một mô hình kinh tế đặc biệt, có quy mô lớn và không chỉ tập trung phát triển công nghiệp hay chế biến xuất khẩu, có ranh giới địa lí xác định nhưng không tách biệt với khu dân cư. II.NHỮNG QUY ĐỊNH CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU KINH TẾ ĐẶC BIỆT Hoạt động đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế phải tuân thủ quy định của pháp luật đầu tư nói chung. Tuy nhiên, Nhà nước luôn coi khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế là những địa bàn cần khuyến khích đầu tư, do vậy, đã dành cho nó những quy định mang lại thuận lợi, ưu đãi cho nhà đầu tư. 1. Quy định về nhà đầu tư vào các loại khu kinh tế đặc biệt Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân tiến hành các hoạt động đầu tư theo pháp luật đầu tư, bao gồm : Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo Luật Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hộ kinh doanh, cá nhân, tổ chức và cá nhân nước ngoài thường trú tại Việt Nam và các tổ chức khác theo quy định của pháp luật Việt Nam. Mặc dù thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là mục tiêu quan trọng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là mục tiêu quan trọng của chính sách, pháp luật về đầu tư nhưng theo quy định trên, các quy định về đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao được áp dụng chung, bình đẳng cho mọi đối tượng nhà đầu tư, không phân biệt quốc tịch hay thành phần kinh tế. Quy định mới này thể hiện nguyên tác bình đẳng trong hoạt động đầu tư đồng thời mở rộng quyền đầu tư vào các khu vực kinh tế đặc biệt của một số đối tượng nhà đầu tư so với những quy định trước đây. 2. Các loại doanh nghiệp hoạt động tại các loại khu kinh tế đặc biệt Doanh nghiệp khu công nghiệp là doanh nghiệp được thành lập, đăng kí kinh doanh theo pháp luật Việt Nam và đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp, có thể là doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ phục vụ sản xuất. Doanh nghiệp chế xuất là doanh nghiệp được thành lập đăng kí kinh doanh theo pháp luật Việt Nam, có thể là doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tiến hành hoạt động đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong khu chế xuất. Trong một số trường hợp cá biệt, doanh nghiệp chế xuất có thể được thành lập trong khu công nghiệp hoặc ở ngoài khu công nghiệp, ngoài khu chế xuất. Để được coi là doanh nghiệp chế xuất và được hưởng các ưu đãi dành cho loại doanh nghiệp này, các doanh nghiệp thành lập ngoài khu chế xuất phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm, Ngoài doanh thu xuất khẩu, các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu phải có vị trí địa lí tập trung – đây là những điều kiện được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét để cho phép doanh nghiệp chuyển thành doanh nghiệp chế xuất. Doanh nghiệp khu công nghệ cao là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật và hoạt động trong khu công nghệ cao. Với mục tiêu phát triển công nghệ cao, Chính phủ quy định nhiều loại doanh nghiệp khu công nghệ cao, bao gồm: Doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm, hàng hóa trên dây chuyền sản xuất ứng dụng công nghệ cao; doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ thông tin kĩ thuật cao, chuyển giao công nghệ và chuyển giao tri thức phục vụ trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu – phát triển công nghệ cao và sản xuất sản phẩm công nghệ cao. Ngoài ra, doanh nghiệp dịch vu dân sinh cũng được thành lập để cung cấp các dịch vụ về nhà ở, trường học, y tế, sinh hoạt văn hóa và các dịch vụ có liên quan đến đời sống của cư dân trong khu công nghệ cao. Doanh nghiệp dịch vụ dân sinh được hưởng quyền, nghĩa vụ và các ưu đãi như doanh nghiệp công nghệ cao và doanh nghiệp dịch vụ công nghệ cao. Công ti phát triển hạ tầng : do có đặc điểm là những khu vựa địa lí riêng biệt được thành lập với mục đích thu hút mạnh đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, việc đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế kĩ thuật là rất quan trọng, quyết định thành công của mọi dự án. Chính vì vậy, quy chế pháp lí về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao bao gồm hoạt động đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kĩ thuật và đầu tư xây dựng nhà xưởng, kho bãi. Như vậy, doanh nghiệp khu công nghiệp, doanh nghiệp chế xuất, doanh nghiệp khu công nghệ cao, công ti phát triển hạ tầng khu công nghiệp không phải là những loại hình doanh nghiệp mới trong pháp luật Việt Nam. Tùy thuộc vào chủ đầu tư, yếu tố sở hữu, phương thức liên kết góp vốn …, các doanh nghiệp này có thể là các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau như công ti nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài… Việc đặt cho các doanh nghiệp này những tên gọi mới có ý nghĩa cho phép phân biệt địa bàn đầu tư và áp dụng các ưu đãi đầu tư đối với chúng. Ngoài ra, tham gia hoạt động trong các khu kinh tế đặc biệt còn có thể là các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh theo Luật đầu tư Việt Nam. 3.Quy định về lĩnh vực đầu tư. Theo quy định hiện hành, Nhà nước cho phép các chủ đầu tư được đầu tư vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy nhiên, nhằm mục đích quốc phòng, an ninh quốc gia hay bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng, Nhà nước cấm hoặc hạn chế kinh doanh một số lĩnh vực, ngành nghề nhất định. Đối với đầu tư nước ngoài, bảo hộ sản xuất trong nước cũng có thể là lí do để hạn chế việc cấp giấy phép đầu tư. Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao là những địa bàn đầu tư hướng mạnh vào phát triển công nghiệp, tăng cường xuất khẩu và sản xuất, nghiên cứu phát triển công nghệ cao. Chính vì vậy, lĩnh vực đầu tư vào các khu vực này thường là : - Xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng; - Sản xuất, kinh doanh các sản phẩm công nghiệp để xuất khẩu và tiêu thụ tại thị trường nội địa; - Sản xuất kinh doanh các sản phẩm công nghệ cao; - Kinh doanh các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp, hỗ trợ xuất khẩu, các dịch vụ công nghệ cao; - Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đào tạo nhân lực công nghệ cao… Đối với khu kinh tế, do tính chất đa ngành, đa lĩnh vực, Nhà nước không có quy định riêng về lĩnh vực đầu tư cho khu kinh tế song lĩnh vực đầu tư và lĩnh vực được khuyến khích đầu tư vào mỗi khu kinh tế sẽ bị chi phối bởi những ngành nghề, lĩnh vực được xác định là tọng tâm của mỗi khu kinh tế. Các quy định về ngành nghề cấm kinh doanh, lĩnh vực không cấp giấy phép, đầu tư, lĩnh vực đầu tư có điều kiện, lĩnh vực khuyến khích, đặc biệt khuyến khích đầu tư… được thực hiện theo các quy định hiện hành về đầu tư. Ngoài ra, Bộ công nghiệp là cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn quy định về danh mục ngành nghề khuyến khích đầu tư, hạn chế hoặc cấm đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. 4.Quy định về thủ tục đầu tư vào các loại khu kinh tế đặc biệt Để triển khai và thực hiện dự án, nhà đầu tư làm các thủ tục tại ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Đây là cơ quan được phân cấp, ủy quyền quản lí hoạt động đầu tư tại các khu vực kinh tế này, từ khâu thẩm định, cấp, thu hồi giấy chứng nhận đầu tư. Theo pháp luật hiện hành, có nhiều loại ban quản lí cùng có thẩm quyền thực hiện thủ tục đầu tư, đó là ban quản lí các khu công nghiệp cấp tỉnh, ban quản lí khu công nghệ cao và ban quản lí khu kinh tế. Các ban quản lí này đều là cơ quan quản lí nhà nước, do ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc bộ chủ quản khu công nghệ cao thành lập ra. Về thủ tục đầu tư, ban quản lí thực hiện việc cấp giấy phép đầu tư thuộc thẩm quyền của mình theo quy trình cấp giấy chứng nhận đầu tư mà pháp luật quy định, phù hợp nguyên tắc một cửa, tại chỗ. Trên cơ sở quy hoạch đầu tư đã được phê duyệt hoặc ủy quyền phê duyệt, các ban quản lí làm thủ tụcđăng kí đầu tư, điều chỉnh, thu hồi giấy chứng nhận đầu tư và thực hiện các thủ tục hành chính liên quan. Đối với dụ án đầu tư không nằm trong quy hoạch đã được Thủ tướng phê duyệt hoặc ủy quyền phê duyệt hoặc dự án không đáp ứng được điều kiện về mở cửa thị trường theo quy định tại điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, các ban quản lí chủ trì lấy ý kiến bộ quản lí ngành, Bộ kế hoạch và đầu tư và các cơ quan liên quan để trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc điều chỉnh, bổ sung quy hoạch hoặc quyết định mở cửa thị trường đầu tư. 5.Quy định về ưu đãi đầu tư Theo quy định của pháp luật hiện hành, khi đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế, nhà đầu tư được hưởng những ưu đãi theo địa bàn đầu tư bao gồm cả những ưu đãi dành cho vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Điều này khẳng định thái đọ đặc biệt khuyến khích đầu tư của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư vào các khu vực kinh tế đặc biệt này. Những ưu đãi là thực sự cần thiết nhằm tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn, có sức cạnh tranh để tạo ra nguồn lực thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài. Căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kì và các nguyên tác quy định tại Luật đầu tư năm 2005, Chính phủ quy định những ưu đãi cho các nhà đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế. Bao gồm những ưu đãi về thủ tục hành chính; ưu đãi về tài chính; ưu đãi về việc sử dụng đất và các ưu đãi đầu tư do chính quyền địa phương áp dụng bổ sung. III.QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT, KHU CÔNG NGHỆ CAO Quản lí nhà nước đối với hoạt động đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế là hoạt động quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động đầu tư. Phân định rõ thẩm quyền quản lí giữa các cơ quan nhà nước, xác định cụ thể nguyên tắc quản lí theo hướng tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho nhà đầu tư là những yếu tổ căn bản tạo ra hiệu quả tối ưu của hoạt động này. Chính phủ là cơ quan thống nhất quản lí các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế trên phạm vi cả nước. Cùng với những thay đổi căn bản trong pháp luật đầu tư theo đòi hỏi của quá trình hội nhập, quản lí nhà nước đối với hoạt động đầu tư nói chung và hoạt động đầu tư vào công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế nói riêng đã được quy định theo xu hướng minh bạch hóa và phân cấp quản lí mạnh cho địa phương. Theo xu hướng này, thẩm quyền quản lí nhà nước của cơ quan cấp bộ có thay đổi đáng kể, đó là giảm bớt các quyền hạn liên quan đến việc, điều chỉnh, thu hồi giấy phép đầu tư. Nhiều hoạt động quản lí cụ thể được giao cho các ban quản lí khu công nghiệp, ban quản lí khu công nghệ cao, ban quản lí khu kinh tế. Cụ thể : Ban quản lí các khu công nghiệp cấp tỉnh; ban quản lí khu công nghệ cao; ban quản lí khu kinh tế. Chính sách phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài cho các tỉnh, thành phố và việc tăng cường hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật, chính sách và các công cụ khác đã làm tăng quyền tự chủ cho các địa phương. Trong những sự lựa chọn về giải pháp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, việc thành lập các KKT là giải pháp đã được các địa phương lựa chọn nhiều nhất và có thể đây là một trong những giải pháp phù hợp nhất với khả năng quản lý của địa phương và là sự thể hiện rõ nhất mức độ tự chủ của địa phương trong việc thực hiện chính sách phân cấp đầu tư của Nhà nước. + Khu kinh tế phải thực sự là phương tiện hữu hiệu và là một trong những yếu tố chuyển dịch cơ bản cơ cấu kinh tế địa phương, thu hút mạnh vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, tăng cường xuất khẩu và giải quyết việc làm cho lao động địa phương. I. HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM 1. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài 1.1. Khái niệm về hoạt động đầu tư ra nước ngoài Đầu tư quốc tế là quá trình dịch chuyển vốn, tài sản từ quốc gia này sang quốc gia khác để các nhà đầu tư tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh – dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Thực tiễn pháp lý phân loại đầu tư quốc tế thành hai loại là đầu tư từ nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài. Khoản 14 Điều 3 Luật Đầu tư 2005 quy định “Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền mặt và các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành đầu tư”. 1.2. Đặc điểm pháp lý của hoạt động đầu tư ra nước ngoài 1.2.1. Hình thức đầu tư ra nước ngoài a. Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư ra nước ngoài chủ yếu mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn, tài sản vào nước tiếp nhận đầu tư vốn và thiết lập các dự án đầu tư tại đó đồng thời họ trực tiếp tham gia điều hành. Đặc điểm của hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài: - Nhà đầu tư có toàn quyền quyết định đầu tư và tự gánh chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư cho nên ít chịu ảnh hưởng và ràng buộc về chính trị. - Nhà đầu tư tự mình điều hành toàn bộ dự án đầu tư hoặc tham gia điều hành dự án đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư. - Thông qua hoạt động đầu tư nước tiếp nhận sẽ có cơ hội tiếp cận thêm cái mới của nhà đầu tư và cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm. b. Đầu tư gián tiếp: là hình thức đầu tư ra nước ngoài mà các nhà đầu tư nước ngoài thông qua thị trường tài chính mua cổ phần hoặc chứng khoán của các công ty của nước tiếp nhận đầu tư nhằm thu lợi nhuận dưới hình thức cổ tức hoặc thu nhập chứng khoán mà không tham gia điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn ra đầu tư. Đặc điểm: - Phương thức đầu tư này chủ yếu là nhà đầu tư mua một số lượng cổ phần nhất định của các công ty nước ngoài đang làm ăn có hiệu quả để hưởng cổ tức, thông lệ quốc tế là dưới 10% số cổ phần của công ty nước ngoài. - Nhà đầu tư không tham gia điều hành trực tiếp đối với công ty mà họ đã đầu tư vốn và tài sản vào đó - Nước tiếp nhận đầu tư không có cơ hội tiếp thu cái mới của nhà đầu tư nhưng họ lại tận dụng được nguồn vốn nhà rỗi và biết cách chia sẻ rủi ro kinh doanh cho những nhà đầu tư nước ngoài. 1.2.2. Chủ thể của hoạt động đầu tư ra nước ngoài Chủ thể của hoạt động đầu tư ra nước ngoài bao gồm tất cả các nhà đầu tư tại Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt nhà đầu tư là doanh nghiệp hay nhà đầu tư không phải là doanh nghiệp, không phân biệt nhà đầu tư có nguồn gốc vốn đầu tư trong nước hay nhà đầu tư có nguồn gốc vốn đầu tư nước ngoài. Tất cả các nhà đầu tư tại Việt Nam đều có quyền đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư. 1.2.3. Lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài Lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài cũng tương tự như hình thức đầu tư ra nước ngoài, việc nhà đầu tư đầu tư vào lĩnh vực nào của nước tiếp nhận đầu tư còn phụ thuộc vào nước tiếp nhận đầu tư. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nhà đầu tư được đầu tư ra nước ngoài tất cả các lĩnh vực, các ngành, nghề của nền kinh tế quốc dân. Trong đó, nhà nước khuyến khích đầu tư ra nước ngoài trong các lĩnh vực: xuất khẩu nhiều lao động, phát huy các ngành nghề truyền thống của Việt Nam; mở rộng thị trường, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên tại nước đầu tư, tăng khả năng xuất khẩu, thu ngoại tệ. Để đảm bảo lợi ích quốc gia, Nhà nước không cho phép đầu tư ra nước ngoài đối với các sự án gây phương hại đến bí mật, an ninh quốc gia, quốc phòng, lịch sử, văn hóa, thuần phong mĩ tục của Việt Nam. Thực tiễn hoạt động đầu tư thời gian qua của Việt Nam chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Bên cạnh đó các lĩnh vực dịch vụ, nông – lâm – ngư – nghiệp cũng là lĩnh vực mà đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam có thế mạnh. 1.2.4. Về luật điều chỉnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài Hoạt động ĐTRNN ở Việt Nam chịu sự điều chỉnh của ít nhất hai hệ thống pháp luật là pháp luật nước nhận đầu tư và pháp luật Việt Nam. Pháp luật Việt Nam quy định các điều kiện, hình thức và thủ tục ĐTRNN của các nhà đầu tư để chuyển vốn và tài sản đầu tư ra nước ngoài, còn pháp luật nước tiếp nhận đầu tư quy định cụ thể về điều kiện, trình tự và thủ tục tiếp nhận vốn đầu tư. Do đó, chỉ khi đáp ứng điều kiện của cả hai hệ thống pháp luật này, nhà đầu tư mới có thể tiến hành đầu tư ra nước ngoài. Về chủ trương, chính phủ các nước đều ban hành chính sách khuyến khích, kêu gọi đầu tư nước ngoài. Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tại một số nền kinh tế (ví dụ LB Nga) rất đơn giản. Quan hệ giữa Việt Nam với một số nền kinh tế (Lào, LB Nga, Campuchia.v.v) là những quan hệ kinh tế và chính trị đặc biệt nên nhận được sự ủng hộ của Chính phủ hai bên đối với quan hệ hợp tác đầu tư giữa doanh nghiệp hai phía. Tuy nhiên, tại một số nền kinh tế có sự thiếu nhất quán trong áp dụng chính sách, đặc biệt là các quy định do địa phương đặt ra và áp dụng ngoài các chính sách của nhà nước (ví dụ: chính sách ưu đãi miễn thuế thu nhập doanh nghiệp của Lào được áp dụng trên toàn quốc nhưng địa phương vẫn thu thêm thuế thu nhập). Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tại một số nền kinh tế cũng như các thủ tục triển khai thực hiện dự án đầu tư (đất đai, phê duyệt thiết kế.v.v.) khá phức tạp, kéo dài thời gian, tốn kém về chi phí cho doanh nghiệp, thủ tục thông quan phức tạp (ví dụ tại LB Nga, Lào). Nhìn chung, so với hoạt động đầu tư trong nước thì hoạt động đầu tư nước ngoài phức tạp hơn rất nhiều, tuy nhiên vì đứng trên góc độ nghiên cứu hoạt động ĐTRNN nên ta chỉ tập trung nghiên cứu các đặc điểm của hoạt động này theo pháp luật Việt Nam. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN) của Việt Nam hiện nay được quy định tại các văn bản chủ yếu sau: - Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 (Chương VIII, Điều 74 đến 79). Luật này quy định về hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh; quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; khuyến khích và ưu đãi đầu tư; quản lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài. - Nghị định 78/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài - Nghị định 108/2006/NĐ-CP Hướng dẫn một số điều của Luật Đầu tư. Nghị định này quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 về hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh; quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; khuyến khích và ưu đãi đầu tư; quản lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam; - Nghị định số 121/2007/NĐ-CP ngày 25/7/2007 quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí. - Nghị định số 17/2009/NĐ-CP ngày 16/02/2009 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 121/2007/NĐ-CP - Quyết định 236/QĐ-TTg ngày 20/02/2009 của Thủ tướng phê duyệt Đề án “Thúc đẩy đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài”, Quyết định 1175/2007/QĐ-BKH ngày 10/10/2007 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về mẫu các văn bản thực hiện thủ tục đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và một số văn bản của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các Bộ ngành hữu quan về quản lý ngoại hối và các vấn đề liên quan đến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Có thể nói, hệ thống văn bản hiện tại về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài bao gồm các quy định về cấp phép, quản lý hoạt động, chuyển vốn đầu tư, vấn đề tài chính đã được các bộ, ngành liên quan xây dựng một cách tương đối đầy đủ, thậm chí một số lĩnh vực đặc thù như đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí, trong lĩnh vực khoa học công nghệ cũng có nhưng văn bản pháp luật điều chỉnh riêng. - Gần đây nhất, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Thông tư 05/2014/TT-NHNN hướng dẫn về việc mở và sử dụng tài khoản vốn đầu tư gián tiếp để thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 28-4. Theo đó, mọi hoạt động đầu tư gián tiếp (mua cổ phần hoặc góp vốn trong DN Việt Nam) của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phải được thực hiện bằng đồng Việt Nam (VND), các giao dịch liên quan đến hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam của nhà đầu tư nước ngoài phải được thực hiện thông qua một tài khoản vốn đầu tư gián tiếp mở tại một ngân hàng được phép. 2. Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam 2.1. Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 2.1.1. Điều kiện để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài - Có dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. - Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam. - Tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng vốn nhà nước đối với các trường hợp sử dụng vốn nhà nước để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. - Được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư. 2.1.2. Thủ tục đầu tư ra nước ngoài a) Đối với dự án có quy mô vốn đầu tư dưới 15 tỷ đồng Việt Nam: * Hồ sơ dự án đầu tư gồm: - Dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. - Văn bản đăng ký dự án đầu tư. - Bản sao có công chứng của: Giấy chứng nhận đầu tư; hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; hoặc Giấy chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu; hoặc Giấy phép đầu tư. - Hợp đồng hoặc văn bản thỏa thuận với đối tác về việc góp vốn hoặc mua cổ phần hoặc hợp tác đầu tư đối với dự án đầu tư có đối tác khác cùng tham gia đầu tư. - Văn bản đồng ý của Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng cổ đông hoặc đại hội xã viên về việc đầu tư trực tiếp ra nước. * Thủ tục đăng ký và thời gian cấp Giấy chứng nhận đầu tư: - Hồ sơ: 03 bộ (có 01 bộ hồ sơ gốc) - Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có văn bản đề nghị nhà đầu tư giải trình về nội dung cần phải được làm rõ (nếu có). - Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư, đồng thời sao gửi các Bộ, ngành và địa phương liên quan. - Trường hợp hồ sơ dự án đầu tư không được chấp thuận, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có văn bản thông báo và nêu rõ lý do gửi nhà đầu tư. b) Đối với dự án có quy mô vốn đầu tư từ 15 tỷ đồng Việt Nam trở lên: * Hồ sơ dự án đầu tư gồm: - Dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. - Văn bản đề nghị thẩm tra dự án đầu tư. - Bản sao có công chứng của: Giấy chứng nhận đầu tư; hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; hoặc Giấy chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu; hoặc Giấy phép đầu tư. - Văn bản giải trình về dự án đầu tư gồm các nội dung sau: mục tiêu đầu tư; địa điểm đầu tư; quy mô vốn đầu tư; nguồn vốn đầu tư; việc sử dụng lao động Việt Nam (nếu có); việc sử dụng nguyên liệu từ Việt Nam (nếu có); tiến độ thực hiện dự án đầu tư. - Hợp đồng hoặc bản thỏa thuận với đối tác về việc góp vốn hoặc mua cổ phần hoặc cùng hợp tác đầu tư đối với trường hợp có đối tác khác cùng tham gia đầu tư. - Văn bản đồng ý của Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng cổ đông hoặc đại hội xã viên về việc đầu tư ra nước ngoài. * Thời gian thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầu tư: - Đối với các dự án đầu tư phải được sự chấp thuận đầu tư của Thủ tướng Chính phủ, trong thời hạn 25 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ ý kiến thẩm định bằng văn bản kèm theo hồ sơ dự án đầu tư và ý kiến bằng văn bản của các cơ quan có liên quan để Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. - Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được ý kiến chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư. - Đối với các dự án đầu tư không quy định phải được sự chấp thuận đầu tư của Thủ tướng Chính phủ, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư. 2.1.3. Hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam Doanh nghiệp được phép sử dụng ngoại tệ từ các nguồn sau đây để chuyển ra nước ngoài góp vốn đầu tư, thực hiện dự án đầu tư theo quy định tại Giấy phép đầu tư do cơ quan có thẩm quyền cấp: - Tài khoản tiền gửi ngoại tệ của mình mở tại Ngân hàng được phép; - Mua ngoại tệ tại Ngân hàng được phép; - Vay ngoại tệ tại Ngân hàng được phép phù hợp với qui định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc cho vay bằng ngoại tệ." 2.1.4. Vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài Vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thể hiện dưới các hình thức sau: - Ngoại tệ. - Máy móc, thiết bị; vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu, hàng hoá thành phẩm, hàng hoá bán thành phẩm. - Giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật, quyền sở hữu trí tuệ. - Các tài sản hợp pháp khác. 2.2. Pháp luật về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài 2.2.1. Điều kiện cần đáp ứng để đầu tư ra nước ngoài Tổ chức kinh tế, cá nhân đầu tư gián tiếp ra nước ngoài phải đáp ứng được các điều kiện sau đây: * Đối với tổ chức kinh tế: - Có tình hình tài chính lành mạnh, hoàn thành các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước; - Có lợi nhuận sau thuế trong 3 năm liên tục liền trước năm xin phép đầu tư gián tiếp ra nước ngoài; Được cơ quan quản lý trực tiếp ( nếu có) đồng ý cho phép đầu tư ra nước ngoài. - Có Hợp đồng uỷ thác đầu tư ký kết với Tổ chức tín dụng được phép. * Đối với cá nhân: - Có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; - Không thuộc trường hợp đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù; - Có cam kết trách nhiệm về nguồn gốc tài sản uỷ thác đầu tư ; - Có Hợp đồng uỷ thác đầu tư ký kết với Tổ chức tín dụng được phép. 2.2.2. Giới hạn đầu tư gián tiếp ra nước ngoài trong một năm (không bao gồm phần lợi nhuận và các nguồn thu nhập được cho phép tái đầu tư) - Tổ chức kinh tế được phép đầu tư gián tiếp tối đa ra nước ngoài 1 triệu USD hoặc tương đương. - Cá nhân được phép đầu tư gián tiếp tối đa ra nước ngoài 100.000 USD hoặc tương đương. 2.2.3. Thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đầu tư gián tiếp ra nước ngoài - Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố xem xét, cấp Giấy chứng nhận đầu tư gián tiếp ra nước ngoài cho Người cư trú là cá nhân và Người cư trú là tổ chức kinh tế có mức đầu tư đến 500.000 USD hoặc tương đương. - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét, cấp Giấy chứng nhận đầu tư gián tiếp ra nước ngoài cho Người cư trú là tổ chức kinh tế không thuộc đối tượng không được cấp giấy chứng nhận đầu tư gián tiếp ra nước ngoài theo quy định của pháp luật. 2.2.4. Hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư gián tiếp ra nước ngoài Bộ Hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư gián tiếp ra nước ngoài bao gồm: * Đối với tổ chức kinh tế: - Đơn xin phép đầu tư gián tiếp ra nước ngoài . - Bản sao công chứng Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. - Báo cáo tài chính có kiểm toán 3 năm gần nhất. - Giấy xác nhận của cơ quan chủ quản ( nếu có) đồng ý cho đầu tư gián tiếp ra nước ngoài; - Hợp đồng Uỷ thác đầu tư đã ký kết. - Xác nhận Hoàn thành nghĩa vụ thuế với Nhà nước. * Đối với cá nhân: - Đơn xin phép đầu tư gián tiếp ra nước ngoài . - Bản sao công chứng Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu; - Bản sao công chứng Hộ khẩu thường trú hoặc xác nhận nơi thường trú; - Bản cam kết trách nhiệm về tài sản uỷ thác đầu tư . - Hợp đồng Uỷ thác đầu tư đã ký kết. 1. Khái niệm, sự cần thiết đầu tư, kinh doanh vốn Nhà nước Nhà nước - ngay từ khi xuất hiện đã phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: nhiệm vụ quản lý và nhiệm vụ phát triển. Nhiệm vụ quản lý yêu cầu chi phí phải trả thường không có khả năng thuhồi, mang tính ổn định và chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn tài chính quốc gia. Mặt khác, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội luôn đặt ra cho bất cứ chính quyền quốc gia nào.Với năng lực và tư cách “đặc biệt”, Nhà nước có điều kiện và trách nhiệm thực hiện các hoạt động đầu tư cho hạ tầng cơ sở, cho văn hóa, xã hội, cho các hoạt động sự nghiệp. Ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập, bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, Nhà nước đã quan tâm tới hoạt động đầu tư cho nền kinh tế và luôn cố gắng tự tạo nguồn thu để trang trải cho hoạt động của Nhà nước. Đầu tư kinh doanh vốn nhà nước theo pháp luật đầu tư là việc Nhà nước dùng vốn để hình thành các loại tài sản mới nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế hoặc tìm kiếm lợi nhuận, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ. Đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước gồm 2 nội dung chính: Một là , hoạt động đầu tư tài chính của nhà nước đối với các dự án, chương trình nằm trong kế hoạch phát triển kinh tế, có khả năng thu hồi vốn. Trường hợp này, Nhà nước thực hiện đầu tư với tư cách là người tạo ra các sản phẩm công cho xã hội; Hai là , hoạt động sử dụng nguồn vốn do Nhà nước quản lý đầu tư vào các tổ chức kinh tế, với mục tiêu song hành là gia tăng giá trị tài sản của Nhà nước và thực hiện kiểm soát sự ổn định kinh tế trong những lĩnh vực chiến lược. 2. Đặc điểm của đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước Thứ nhất , chủ thể bỏ vốn đầu tư, kinh doanh là nhà nước. Nhà nước có thể đầu tư toàn bộ vốn hoặc chỉ đầu tư một phần vốn cùng các chủ thể đầu tư khác để thực hiện dự án đầu tư. Là chủ thể đặc biệt trong xã hội, Nhà nước không trực tiếp thực hiện vai trò của chủ đầu tư mà hoạt động đầu tư của nhà nước thực hiện thông qua các cơ quan chức năng. Thứ hai , mục tiêu đầu tư, kinh doanh luôn gắn với việc thực hiện các chức năng, vai trò của nhà nước.Bất kỳ chủ thể nào có vốn, khi có nhu cầu đầu tư đều hướng đến mục tiêu định trước của mình. Với tư cách là chủ thể quản lý xã hội, nhà nước thực hiện đầu tư cũng không nằm ngoài mục tiêu chung, đó là yêu cầu cơ bản, nhiệm vụ chủ yếu của nhà nước phải được thực hiện đầy đủ và toàn diện .Khoản 1 Điều 67 Luật Đầu tư quy định “đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ”. Thứ ba , nguồn vốn nhà nước đầu tư luôn gắn với phần đóng góp của công chúng.Đặc điểm này đặt ra yêu cầu phải sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm đối với nguồn vốn vì lợi ích của dân chúng. Thứ tư , thực hiện kinh doanh vốn, nhà nước mong muốn giảm bớt gánh nặng của dân chúng. Các quốc gia hiện đại đều có xu hướng gia tăng chi tiêu thường xuyên trong khi áp lực giảm các khoản thu từ công chúng ngày càng lớn, dẫn tới việc nhà nước tìm kiếm nguồn thu từ chính năng lực tài chính vốn có của mình. Mặt khác, nhà nước nắm giữ nguồn vốn to lớn của quốc gia.Điều này lý giải khả năng và mục đích tham gia đầu tư, kinh doanh vốn của nhà nước bên cạnh những nguyên nhân khách quan khác. Thứ năm , đối tượng được đầu tư vốn từ nhà nước: là các chương trình (công trình) cần phải thực hiện bằng nguồn vốn do Nhà nước quản lý, gắn với chiến lược phát triển của Nhà nước. Đối tượng được đầu tư vốn Nhà nước có thể là: - Các tổ chức kinh tế - Các dự án sử dụng vốn nhà nước cho mục tiêu đầu tư, phát triển Thứ sáu , nguồn vốn để thực hiện đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước là vốn nhà nước. Theo quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật Đầu tư 2005 “vốn nhà nước là vốn đầu tư phát triển từ nhân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư khác của Nhà nước”. Thứ bảy , lĩnh vực đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước: vốn nhà nước được những ngành, lĩnh vực, khâu then ch ố t, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng, an ninh ; ngành, lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao; đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, địa bàn chiến lược gắn với quốc phòng, an ninh... Thứ tám , yêu cầu của hoạt động đầu tư, Theo Điều 67 Luật Đầu tư 2005, có quy định: - Đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. - Đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước phải đúng mục tiêu và có hiệu quả, bảo đảm có phương thức quản lý phù hợp đối với từng nguồn vốn, từng loại dự án đầu tư, quá trình đầu tư được thực hiện công khai, minh bạch. - - - Thực hiện đầu tư đúng pháp luật, đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng, chống dàn trải, lãng phí, thất thoát, khép kín. 3. Nội dung đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước 3.1. Chủ thể thực hiện nhiệm vụ quản lý, nhiệm vụ đầu tư kinh doanh vốn nhà nước a. Cơ quan tài chính Với tư cách là cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ quản lý tài chính - ngân sách của nhà nước, Bộ Tài chính thay mặt Chính phủ quản lý hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn Nhà nước theo quy định của pháp luật. Nghị định 215/2013/NĐ-CP ngày 23/12/2013 quy định trách nhiệm của Bộ Tài chính trong việc theo dõi, tổng hợp tình hình quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước và phân tích đánh giá thực trạng tài chính và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước theo quy định của pháp luật và thực hiện quyền, nghĩa vụ đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước, các doanh nghiệp trực thuộc Bộ Tài chính, các quỹ tài chính khác theo quy định của pháp luật; b. Quỹ hỗ trợ phát triển Là chủ thể quản lý các nguồn vốn của Nhà nước dành cho tín dụng đầu tư phát triển để thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển của nhà nước.Là tổ chức tài chính nhà nước, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, nhiệm vụ quản lý vốn đầu tư phát triển của Nhà nước là nhiệm vụ chủ yếu và nhiệm vụ hàng đầu của chủ thể này.Từ 6/2006, nhiệm vụ của quỹ đầu tư phát triển được thực hiện bởi Ngân hàng phát triển. c. Ngân hàng phát triển Là tổ chức tín dụng đặc biệt, xuất phát từ cơ cấu tổ chức, hoạt động và cơ chế đảm bảo an toàn trong hoạt động của loại chủ thể này. Ngân hàng phát triển “kế thừa mọi quyền lợi, trách nhiệm của quỹ hỗ trợ phát triển”; hoạt động không nhằm mục tiêu lợi nhuận, không phải nộp thuế và không thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. Ngân hàng phát triển có nội dung hoạt động chủ yếu là thực hiện chính sách tính dụng đầu tư phát triển đồng thời tiến hành thu hồi vốn và cung cấp các dịch vụ ngân hàng giống như các ngân hàng thương mại. d. Cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực đầu tư Với tư cách là chủ thể quyền lực, Nhà nước không trực tiếp thực hiện nhiệm vụ đầu tư cũng như kinh doanh vốn mà phải tiến hành thông qua các cơ quan chức năng. Đối với các khoản vốn đầu tư thuộc chương trình đầu tư của chính quyền trung ương, trách nhiệm quản lý vốn đầu tư thuộc về các bộ quản lý ngành. Chính quyền cấp tỉnh có trách nhiệm quản lý vốn đầu tư nếu khoản vốn đó thuộc chương trình đầu tư do địa phương đảm nhiệm. Việc xác định này có ý nghĩa quan trọng trong phân định trách nhiệm, nguồn vốn đảm bảo. Để quản lý vốn đầu tư có hiệu quả và tập trung, các cơ quan chính quyền trung ương cũng như địa phương thường thành lập các bộ phận chức năng thay mặt cơ quan chủ quản đầu tư tiến hành hoạt động này. 3.2. Chủ thể thực hiện kinh doanh vốn nhà nước Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, với quy mô và mức độ khác nhau, Nhà nước đã và đang tiếp tục đầu tư vốn nhà nước vào đời sống kinh tế.Các quốc gia có thể lựa chọn mô hình khác nhau để tiến hành hoạt động kinh doanh vốn. Tại Việt Nam, Điều 68 Luật Đầu tư 2005 quy định “Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước vào tổ chức kinh tế được thực hiện thông qua Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước”. Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) sẽ là đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp và thực hiện việc đầu tư vào các ngành lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, nhằm tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trên cơ sở tôn trọng những nguyên tắc thị trường. SCIC hoạt động đầu tư trên nhiều lĩnh vực như: dịch vụ tài chính, năng lượng, công nghiệp, viễn thông, xây dựng, vận tải, hàng tiêu dùng, y tế, công nghệ thông tin… Hiện nay SCIC hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu. SCIC tham gia hoat động quản lý vốn nhà nước tại hơn 300 doanh nghiệp (tính đến hết năm 2013) trong đó có các công ty lớn, hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao như: CTCP Sữa Việt Nam Vinamilk, CTCP Dược Hậu Giang; CTCP Nhựa Thiếu niên Tiền Phong, Tổng CTCP Tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam, CTCP Viễn thông FPT,.... Chức năng, nhiệm vụ cụ thể của Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước được quy định tại Nghị định 151/2013/NĐ-CP ngày 01/11/2013. 4. Trình tự đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước 4.1. Xây dựng kế hoạch đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước Việc xây dựng kế hoạch đầu tư, kinh doanh vốn được thực hiện bởi hai nhóm chủ thể: Thứ nhất , xây dựng kế hoạch kinh doanh vốn nhà nước: Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước có kế hoạch xây dựng kế hoạch kinh doanh vốn nhà nước trên cơ sở ủy quyền theo Luật Đầu tư. Thứ hai , xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển: Việc xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển phụ thuộc vào chương trình chương trình đầu tư phát triển kinh tế của nhà nước.Vì vậy, các dự án, chương trình đầu tư được xây dựng, phân loại từ các đơn vị cơ sở, phù hợp với trình tự xây dựng chính sách kinh tế tài chính quốc gia. Nguồn vốn chỉ có thể được đầu tư cho các chương trình cụ thể, có tính khả thi nên trước hết nhiệm vụ xây dựng kế hoạch đầu tư vốn thuộc về cơ quan kế hoạch đầu tư. Cơ quan tài chính xây dựng nhiều phương án đầu tư vốn, phù hợp với từng loại đầu tư cho dự án. 4.2. Phê duyệt kế hoạch đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước Thẩm quyền phê duyệt kế hoạch đầu tư vốn nhà nước vào các tổ chức kinh tế được quy định tại Nghị định 71/2013/NĐ-CP của Chính phủ như sau: a. Thủ tướng Chính phủ quyết định việc đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp để: - Thực hiện các dự án trọng điểm của Nhà nước sau khi Chính phủ trình Quốc hội thông qua. - Quyết định đầu tư vốn để thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước; quyết định bổ sung vốn điều lệ trong quá trình hoạt động của tập đoàn kinh tế nhà nước và của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước. - Quyết định đầu tư bổ sung vốn nhà nước góp tại các tập đoàn kinh tế sau cổ phần hóa. - Quyết định đầu tư vốn nhà nước để mua lại một phần vốn hoặc toàn bộ doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác theo đề nghị của Bộ quản lý ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. b. Bộ trưởng Bộ quản lý ngành, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp để:Quyết định đầu tư vốn để thành lập đối với doanh nghiệp thuộc Bộ quản lý ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sau khi trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thành lập doanh nghiệp; Quyết định bổ sung vốn điều lệ trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp do Bộ quản lý ngành quyết định thành lập thì phải thỏa thuận với Bộ Tài chính; Quyết định đầu tư tăng vốn nhà nước góp tại doanh nghiệp khác do Bộ quản lý ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là chủ sở hữu; Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thẩm định phương án mua lại một phần vốn hoặc toàn bộ doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. 4.3. Thực hiện kế hoạch đầu tư Việc thực hiện kế hoạch đầu tư đối với các tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, các công ty tham gia hoạt động công ích có vốn nhà nước: - Căn cứ kế hoạch đầu tư được giao, cơquan cấp phát vốn có trách nhiệm cấp phát vốn - Tổ chức, các nhân đại diện trước tiếp cho chủ sở hữu vốn nhà nước, đại diện cổ phẩn nhà nước tại doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ và hoạt động theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước và Luật Doanh nghiệp; - Các bộ, ngành và UBND các cấp chịu trách nhiệm theo dõi, giám sát quá trình thực hiện kế hoạch đầu tư; - Bộ trưởng các bộ, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chủ tịch UBND các cấp điều chỉnh kế hoạch đầu tư trong phạm vi tổng mức vốn đầu tư được giao; - Một số dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước phải tổ chức đấu thầu để lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp cho dự án theo quy định của pháp luật về đấu thầu. 4.4. Thay đổi nội dung, hoãn, đình chỉ, hủy bỏ dự án đầu tư - Trường hợp thay đổi nội dung dự án đầu tư, chủ đầu tư phải giải trình rõ lý do, nội dung thay đổi trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định đầu tư xem xét, quyết định; nếu dự án đang triển khai thực hiện thì chủ đầu tư phải có báo cáo đánh giá về dự án. - Sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận thay đổi nội dung dự án bằng văn bản thì chủ đầu tư mới được lập, tổ chức thẩm tra và trình duyệt dự án theo đúng quy định. - Dự án đầu tư bị hoãn, đình chỉ hoặc huỷ bỏ trong các trường hợp sau đây: + Sau mười hai tháng kể từ ngày có quyết định đầu tư, chủ đầu tư không triển khai dự án mà không có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền; + Thay đổi mục tiêu của dự án mà không được cơ quan có thẩm quyền cho phép bằng văn bản. - Cơ quan có thẩm quyền quyết định hoãn, đình chỉ hoặc hủy bỏ dự án đầu tư phải xác định rõ lý do và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. 5. Phương thức đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước 5.1. Đầu tư vào các tổ chức kinh tế Với quy mô và mức độ khác nhau, Nhà nước đã và đang tiếp tục đầu tư vốn nhà nước vào đời sống kinh tế. Điều này xuất phát từ đặc điểm của các sản phẩm, dịch vụ cần được cung cấp là cần thiết cho xã hội nhưng khu vực tư nhân không muốn hoặc không đủ điều kiện đáp ứng; những sản phẩm dịch vụ này cũng có thể phục vụ trực tiếp cho đảm bảo an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội hay thực hiện định hướng chính sách phát triển kinh tế vĩ mô, cần phải được thực hiện bởi Nhà nước. Mặt khác, nhu cầu đầu tư thu lợi nhuận, gia tăng năng lực tài chính cho Nhà nước cũng là lý để nhà nước tiến hành kinh doanh vốn. Với mục đích kinh doanh vốn, nguyên tắc đầu tư vốn nhà nước vào các tổ chức kinh tế là tập trung vào các ngành, lĩnh vực then chốt mang tính chiến lược, thông qua đó, thúc đẩy phát triển kinh tế. Hoạt động đầu tư vốn vào tổ chức kinh tế có thể được tiến hành bằng con đường đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp. a. Đầu tư trực tiếp vào tổ chức kinh tế Theo quy định của pháp luật, Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước - chủ thể thực hiện đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, có quyền góp vốn, tài sản với các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước để liên doanh, liên kết bằng các hình thức: mua một phần hoặc toàn bộ công ty khác, đầu tư thành lập doanh nghiệp mới; được thành lập, tham gia góp vốn thành lập công ty con, công ty liên kết (bao gồm cả các công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư). b. Đầu tư gián tiếp vào tổ chức kinh tế Vốn nhà nước cũng có thể được thực hiện đầu tư gián tiếp.Đối tượng được đầu tư là những ngành, lĩnh vực có hiệu quả, có khả năng sinh lời cao với phương thức đầu tư thông qua chứng khoán doanh nghiệp (cổ phiếu, trái phiếu công ty) hoặc ký hợp đồng hợp tác kinh doanh. Đặc điểm của hình thức nhà nước đầu tư, kinh doanh vốn Nhà nước vào các tổ chức kinh tế tại Việt Nam: - Thành lập Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước là cơ quan đầu mối để thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. - Nhà nước đầu tư vốn thành lập các doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu kinh doanh theo hình thức pháp lý là công ty cổ phần, công ty TNHH hoặc góp vốn, mua cổ phần để trở thành thành viên, cổ đông các công ty và chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp. - Việc tổ chức thực hiện các quyền của chủ sở hữu nhà nước được thể hiện trong quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước do pháp luật quy định trong các văn bản khác nhau cũng như trong cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước. - Giám sát, đánh giá kết quả hoạt động của Hội đồng quản trị trong các công ty mà nhà nước đầu tư toàn bộ vốn điều lệ, của các thành viên Hội đồng quản trị do chủ sở hữu nhà nước bổ nhiệm trong các công ty có vốn góp của nhà nước. 5.2. Đầu tư vào các hoạt động công ích Nhà nước không chỉ đầu tư vốn vào các tổ chức kinh tế để thực hiện các hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lời mà còn đầu tư và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thông qua hình thức giao kế hoạch, đặt hàng hoặc đấu thầu nhắm thực hiện các mục tiêu chính trị - xã hội. - Nhà nước thực hiện, hỗ trợ thực hiện việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ công cộng Sản phẩm, dịch vụ công ích là những sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho cộng đồng xã hội mà doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ này theo cơ chế thị trường thì khó có khả năng bù đắp được chi phí, do đó được nhà nước đặt hàng, đấu thầu theo giá hoặc phí do nhà nước quy định. Đó cũng có thể là sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho xã hội do nhà nước độc quyền cung cấp, được sản xuất, cung ứng theo kế hoạch do nhà nước phê duyệt, giá hoặc phí hàng hóa, dịch vụ này do nhà nước quy định. - Nhà nước đầu tư vốn, thành lập các công ty quốc phòng, an ninh và công ty nhà nước thực hiện nhiệm vụ công ích” Bên cạnh đó, Nhà nước cũng góp vốn với các thành phần kinh tế khác để thực hiện các hoạt động sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công. - Nhà nước hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. Chế độ cung ứng trên cơ sở đặt hàng với số lượng, chất lượng định trước là biện pháp tốt đáp ứng yêu cầu xã hội. Bên cạnh đó, cơ hội tham gia của các tổ chức, cá nhân khác nhau trong xã hội theo chế độ đấu thầu, đấu giá, chế độ tạm ứng cũng là cách thức được lựa chọn để tiến hành hoạt động này. - Việc cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích được thực hiện theo phương thức đặt hàng hoặc giao kế hoạch. Đối với những sản phẩm, dịch vụ công ích có thể thực hiện theo cả hai phương thức trên thì việc lựa chọn phương thức cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thực hiện theo thứ tự ưu tiên: Đấu thầu, đặt hàng, giao kế hoạch. Tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng tham gia sản xuất, cung ứng dịch vụ công ích (trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định) thông qua hình thức đấu thầu nên các doanh nghiệp hoạt động công ích bằng vốn nhà nước phải quan tâm nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, chú trọng giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm dịch vụ công ích. Việc nhà nước mở rộng cho các thành phần kinh tế khác tham gia và tổ chức đấu thầu sản xuất, dịch vụ công ích đã có tác động tích cực nhằm giảm chi từ vốn nhà nước cho hoạt động công ích trong điều kiện nguồn vốn nhà nước còn hạn hẹp, kinh phí cấp phát hàng năm không đủ trang trải các khoản chi phí để đảm bảo yêu cầu chất lượng sản phẩm, dịch vụ công ích cung ứng. Ngày 16/10/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 130/2013/NĐ-CP về sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích.Nghị định này quy định về tiêu chí, danh mục sản phẩm, dịch vụ công ích; Phương thức cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và việc sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích.Nghị định quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của nhà sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích như sau: Các quyền và nghĩa vụ quy định đối với doanh nghiệp tại Luật doanh nghiệp, đối với hợp tác xã tại Luật hợp tác xã; Thực hiện việc ký kết hợp đồng và hạch toán kinh tế theo quy định của pháp luật; Được thanh toán theo giá hoặc phí theo hợp đồng đã ký kết hoặc theo quy định được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chấp thuận; Được hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích theo quy định của Nhà nước; Phải tự bù đắp chi phí theo giá trúng thầu khi tham gia sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích theo phương thức đấu thầu; Các nhà sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thực hiện theo phương thức đặt hàng, giao kế hoạch có giá tiêu thụ do Nhà nước quy định thấp hơn chi phí hợp lý được ngân sách nhà nước trợ giá, trợ cấp theo quy định; Sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ đủ số lượng, đúng chất lượng và thời hạn đã cam kết; chịu trách nhiệm trước khách hàng và trước pháp luật về sản phẩm, dịch vụ công ích do mình sản xuất và cung ứng. 5.3. Đầu tư vào các dự án Điểm khác biệt cơ bản giữa đầu tư vào các tổ chức kinh tế và đầu tư vào các dự án là khả năng thu hồi vốn trực tiếp phần vốn đầu tư từ các đối tượng đầu tư. Đầu tư vào các dự án có khả năng thu hồi vốn được thực hiện bằng các nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển. Để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, các dự án được đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước khi đáp ứng yêu cầu sau: - Chỉ hỗ trợ cho những dự án đầu tư có khả năng thu hút vốn trực tiếp thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn có hiệu quả kinh tế - xã hội, có khả năng hoàn trả vốn vay; - Dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước phải được tổ chức cho vay thẩm định và chấp thuận phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay trước khi quyết định đầu tư. 5.3.1. Đầu tư bằng khoản vốn cho vay Dự án đầu tư có thể được thực hiện trên cơ sở nguồn vốn vay Ngân hàng phát triển hoặc thực hiện dự án theo Hiệp định của Chính phủ. Dự án, chương trình được vay vốn để đầu tư là các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp thuộc danh mục các dự án, chương trình do Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ. Ngân hàng phát triển chỉ cấp tín dụng khi các dự án, chương trình thỏa mãn các điều kiện sau: - Thuộc đối tượng cho vay đầu tư; - Đã hoàn thành thủ tục đầu tư theo quy định của Nhà nước; - Chủ đầu tư là tổ chức và cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; - Đối với dự án đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ thiết bị, chủ đầu tư phải có tình hình tài chính đảm bảo khả năng thanh toán; - Có phương án sản xuất, kinh doanh có lãi; - Được Ngân hàng phát triển thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ và chấp thuận cho vay trước khi quyết định đầu tư; - Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay. Thực hiện đầu tư bằng nguồn vốn ODA, cần lưu ý một số điểm đặc thù sau: - Nguồn vốn ODA do cộng đồng quốc tế tài trợ (gồm các nhà tài trợ song phương và nhà tài trợ đa phương) thực hiện chủ yếu là vốn vay ưu đãi. Trong hợp tác, phát triển với Việt Nam, các nhà tài trợ đều có chiến lược và chương trình của mình. Vấn đề này liên quan đến điều kiện được đầu tư, điều kiện giải ngân, thời hạn hỗ trợ, thời điểm giải ngân giữa “người tài trợ” và “người tiếp nhận” giữa các dự án. Hai chủ thể này ở vị thế không ngang bằng nhau nên cần phải hợp tác với nhà tài trợ trong quá trình sử dụng vốn mà không phải là tranh cãi hay đối đầu. Nhận thức vấn đề này, bên cạnh việc tạo dựng mối quan hệ đối tác tin cậy với các nhà tài trợ thông qua việc thực hiện cam kết về hiệu quả viện trợ, các dự án, chương trình có sử dụng ODA phải gắn chặt với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn lãnh thổ, cũng như các ngành, địa phương. - Cần lựa chọn dự án đầu tư bằng nguồn ODA phù hợp, kết hợp hài hòa giữa nguồn vốn ODA và các nguồn vốn đầu tư khác, đảm bảo sử dụng có hiệu quả nguồn tài trợ quốc tế, phát huy tác dụng “lan tỏa” của nguồn vốn. ODA là nguồn vốn đầu tư phát triển có nhiều lợi thế nổi trội (về lãi suất, thời gian ân hạn, chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý…) nhưng không thể thay thế nguồn vốn trong nước. Vì vậy, cần kết hợp vốn trong nước để tạo ra sự bổ trợ, xúc tác cho quá trình phát triển. - Thực hiện cho vay từ nguồn hỗ trợ chính thức hay viện trợ không hoàn lại, quy trình và thủ tục được đầu tư có sự giám sát của các nhà tài trợ trực tiếp hoặc thông qua tổ chức, cá nhân được ủy quyền. - Cần xác định đúng vị trí, vai trò của bên thụ hưởng, cách thức quản lý các dự án, chương trình được đầu tư bằng nguồn vốn ODA. Cơ cấu tổ chức đầu mối quản lý, điều phối và sử dụng nguồn vốn ODA phải được xây dựng thống nhất từ trung ương đến cơ sở theo mô hình chuẩn với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, chế độ kiểm tra chặt chẽ. Bên cạnh việc nhận giúp đỡ từ các nước, Chính phủ Việt Nam cũng thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ cho các nước đang phát triển hoặc kém phát triển có thiết lập quan hệ với Việt Nam thông qua các Hiệp định được ký kết. 5.3.2. Đầu tư trên cơ sở có hỗ trợ lãi suất sau đầu tư Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cũng là một trong những cách thức đầu tư vốn Nhà nước. Nội dung cơ bản của cách thức đầu tư này là dự án sau khi đã được hoàn thành, đưa vào sử dụng bằng nguồn vốn của chủ đầu tư, của các nguồn tín dụng khác, có thể được Ngân hàng phát triển hỗ trợ một phần để chi trả tiền lãi trong quá trình chủ đầu tư huy động vốn. Đầu tư trên cơ sở hỗ trợ lãi suất phải đáp ứng ba mục tiêu: - Giảm mức vốn nhà nước dành cho đầu tư đồng thời vẫn thực hiện được kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn, khu vực; - Huy động mọi nguồn lực trong nền kinh tế dành cho đầu tư; - Đảm bảo chi phí phải trả cho khoản tiền vay tại các tổ chức cho vay sau khi được hỗ trợ không lớn hơn chi phí phải trả lãi cho các khoản vay nếu như vay tại Ngân hàng phát triển. 5.3.3. Đầu tư bằng nguồn vốn có bảo lãnh tín dụng Bảo lãnh tín dụng của Ngân hàng phát triển thực chất là một nội dung của bảo lãnh ngân hàng. Hoạt động này được thực hiện như một hoạt động cấp tín dụng mà các tổ chức tín dụng đang thực hiện. Vì vậy, đầu tư của Nhà nước thông qua bảo lãnh tín dụng, ngoài những vấn đề chung được điều chỉnh bằng pháp luật ngân hàng, điểm khác biệt cơ bản là phí bảo lãnh: chủ đầu tư được bảo lãnh tín dụng không phải trả phí bảo lãnh cho Quỹ hỗ trợ (Ngân hàng) phát triển. I. Sự phát triển của Luật đầu tư nước ngoài Trong khuôn khổ pháp lý quốc tế, pháp luật đầu tư nước ngoài bao gồm một mạng lưới rộng lớn các hiệp định đầu tư quốc tế và được bổ sung bằng các quy tắc chung của luật pháp quốc tế. Trước thế kỷ thứ XX, tiêu chuẩn quốc tế về đầu tư nước ngoài và bảo vệ nhà đầu tư phát triển chủ yếu thông qua các quá trình liên quan đến bảo vệ ngoại giao. Năm 1758, Vattel cho rằng một nhà nước có quyền kiểm soát và thiết lập các điều kiện về sự xâm nhập của người nước ngoài. Sau khi được thừa nhận , người nước ngoài có thể được luật pháp địa phương và nhà nước bảo vệ như công dân. Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên quốc tế hóa, các giới hạn của mô hình bảo vệ ngoại giao trở nên rõ rệt, đặc biệt là mâu thuẫn phát sinh giữa các quốc gia đầu tư và quốc gia nhận đầu tư liên quan đến tập quán quốc tế về tiêu chuẩn tối thiếu dành cho các nhà đầu tư và hoạt động đầu tư nước ngoài. Năm 1924, Tòa án thường trực Công lý Quốc tế (PCIJ) công nhận quyền của nhà nước thực hiện bảo vệ ngoại giao về công dân của mình như là một “nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế”. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế bắt đầu phát sinh, dẫn đến sự xuất hiện của khuôn khổ các Hiệp ước đầu tư quốc tế hiện đại. Để điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ hoạt động đầu tư nước ngoài, cộng đồng quốc tế đã sử dụng chủ yếu các điều ước quốc tế đa phương và song phương. Cho đến nay, chưa có điều ước quốc tế đa phương toàn cầu nào điều chỉnh toàn bộ các lĩnh vực của đầu tư nước ngoài. Hiến chương về các quyền và nghiã vụ kinh tế của các quốc gia ghi nhận một số quyền và nghĩa vụ kinh tế của các quốc gia có ghi nhận một số nguyên tắc về đầu tư nước ngoài, như quyền của các quốc gia không bị ràng buộc phải ưu đãi đầu tư nước ngoài, quyền quốc hữu hóa. Tuy nhiên, Hiến chương không được nhiều nước tư bản phát triển ủng hộ và chỉ có giá trị khuyến nghị. Như vậy, trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, có vai trò điều chỉnh chủ yếu là các điều ước song phương và đa phương khu vực. Rất nhiều hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư đã được ký kết. Các nước xuất khẩu lớn trên thế giới và hơn 80 quốc gia đang phát triển đã tham gia vào các hiệp định song phương loại này. Liên quan đến quá trình phát triển luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, sau khi đất nước thống nhất 1975, cơ cấu kinh tế nước ta vẫn mang đặc trưng một nước nông nghiệp lạc hậu, mất cân đối nặng nề trên nhiều mặt, chưa tạo được tích luỹ trong nước và lệ thuộc nhiều vào bên ngoài.Tình trạng chia cắt, khép kín ở từng đơn vị, từng ngành và từng địa phương còn phổ biến. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp để lại nhiều hậu quả tiêu cực. Nền kinh tế hoạt động với hiệu quả rất thấp. Với một thực trạng kinh tế xã hội như vậy, để thực hiện được nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế xã hội, thực hiện chủ trương đúng đắn của Đảng, ngày 18/4/1977, Chính phủ đã ban hành Nghị định 115/CP kèm theo Điều lệ đầu tư nước ngoài (sau đây gọi tắt là Điều lệ đầu tư năm 1977), một văn bản pháp quy riêng biệt nhằm khuyến khích và điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam. Văn bản pháp quy đầu tiên về đầu tư nước ngoài này, đã thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, được các nhà đầu tư nước ngoài thời kỳ đó đón nhận như một tín hiệu mở cửa của Việt nam. Trong những năm 1980, nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng, sự vận hành của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp đã cản trở sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Đứng trước bối cảnh đất nước như vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) đã đề ra những chính sách hết sức đúng đắn, đánh dấu bước chuyển biến quan trọng, đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng, mở ra công cuộc "đổi mới" toàn diện trên mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Cụ thể hoá đường lối chỉ đạo của Đảng là mở rộng giao lưu quốc tế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát triển kinh tế đất nước. Do vậy, thực hiện Nghị quyết số 19 của Bộ Chính trị ngày 17/7/1984 và Nghị quyết Hội Nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khoá V) ngày 20/12/1984 về việc bổ sung và hoàn thiện Điều lệ đầu tư đã ban hành năm 1977, tiến tới xây dựng một bộ Luật Đầu tư hoàn chỉnh, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá 8 ngày 31/12/1987 đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (Sau đây gọi là Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987). Có thể nói sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 xuất phát từ những yêu cầu khách quan của sự vận động xã hội, nó đã tạo ra được một môi trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam. Cho đến 1996, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1987 đã được sửa đổi, bổ sung 2 lần vào những năm 1990, 1992, đó là những bước rất quan trọng góp phần vào việc tạo lập hành lang pháp lý ngày càng hoàn chỉnh nhằm tăng tính hấp dẫn và cải thiện môi trường đầu tư tại Việt nam, từ đó đưa đến những kết quả tăng trưởng rõ rệt. Luật Đầu tư nước ngoài cũng như nhiều văn bản dưới luật được ban hành trong hoàn cảnh ta chưa có kinh nghiệm về hợp tác đầu tư trực tiếp với nước ngoài, nhưng về cơ bản đã dựng lên được một khuôn khổ pháp lý phù hợp với đường lối quan điểm của Đảng về kinh tế đối ngoại. Luật Đầu tư nước ngoài đã có những quy định vừa rộng rãi vừa chặt chẽ, bảo đảm cho nhà đầu tư nước ngoài an toàn về đầu tư và quyền tự chủ kinh doanh, đồng thời bảo đảm nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, tuân thủ pháp luật của Việt Nam và bình đẳng, cùng có lợi. Tuy nhiên, đến thời điểm năm 1996, khi đất nước bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, nhìn lại hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài, chúng ta thấy nhiều nhược điểm cần được khắc phục trong hoàn cảnh mới. Những nhược điểm đó là : Một số quy định quá chung, không đủ mức cụ thể để dễ thi hành; Thiếu tính đồng bộ, nhiều văn bản còn chồng chéo và thiếu tính cập nhật; Thủ tục hành chính quá phức tạp, rườm rà; chủ trương và quy hoạch chưa đủ mức cụ thể, làm cho các nhà đầu tư mất nhiều thời gian tìm hiểu, làm cho các cơ quan quản lý Nhà nước khó khăn trong việc xử lý. Vì vậy, Quốc hội khoá 9 kỳ họp thứ 10 ngày 12/11/1996 đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài mới (sau đây gọi là Luật Đầu tư nước ngoài 1996). Luật Đầu tư nước ngoài 1996 được soạn thảo trên cơ sở gộp các Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992. Ngày 9/6/2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000), đã bổ sung 2 điều mới và sửa đổi, bổ sung 20 điều của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996. Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 đã đưa ra nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn, giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể nói, các quy định của Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 đã tạo điều kiện xích gần hơn giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo thế chủ động trong tiến trình hội nhập và đảm bảo các cam kết quốc tế, làm cho môi trường kinh doanh của Việt Nam hấp dẫn, thông thoáng hơn so với trước đây và so với một số nước trong khu vực. Nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư, tạo “một sân chơi“ bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động đầu tư. Năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư và có hiệu lực từ 1/7/2006, Luật Đầu tư 2005 thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành NĐ 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Đầu tư (Nghị định 108). Khác cơ bản với Luật Đầu tư nước ngoài trước đây, Luật Đầu tư năm 2005 được thiết kế theo hướng chỉ quy định các nội dung liên quan đến hoạt động đầu tư, còn các nội dung liên quan đến cơ cấu tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp thì chuyển sang Luật Doanh nghiệp điều chỉnh, các mức ưu đãi về thuế chuyển sang quy định tại các văn bản pháp luật về thuế và các nội dung mang tính chất đặc thù thì dẫn chiếu sang pháp luật chuyên nghành điều chỉnh. Song song với việc không ngừng cải cách hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài ở trong nước, Việt Nam cũng không ngừng đàm phán để hợp tác với các nước trong khu vực và trên toàn cầu liên quan đến đầu tư nước ngoài. Các hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, về tránh đánh thuế hai lần và các hiệp định thương mại tự do trong đó có liên quan đến vấn đề đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng. Chúng ta cũng đã là thành viên của Công ước MIGA, TRIMs... Hiện này chúng ta đang trong tiến trình để đi đến gia nhập công ước ICSID, một công ước quan trọng về giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và quốc gia nhận đầu tư. II. Nguồn của luật đầu tư quốc tế Cũng như Luật thương mại quốc tế, nguồn của Luật đầu tư quốc tế cũng bao gồm : Pháp luật quốc gia, Điều ước quốc tế, Án lệ và Tập quán quốc tế. Tuy nhiên, án lệ và tập quán quốc tế thường chỉ áp dụng khi giải quyết tranh chấp đầu tư và rất ít được đề cập. Do đó, phạm vi bài viết chỉ đề cập đến hai loại nguồn phổ biến và quan trọng nhất là pháp luật quốc gia và điều ước quốc tế. 2.1. Pháp luật quốc gia Pháp luật trong nước là nguồn quan trọng của pháp luật đầu tư quốc tế. Ở Việt Nam, Văn bản làm nền tảng cho hoạt động đầu tư quốc tế là Hiếp pháp 1992. Tiếp theo là Luật đầu tư 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định 78/2006/NĐ-CP về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, Nghị định 108/2006/NĐ-CP Hướng dẫn Luật Đầu tư, Thông tư 186/2010/TT-BTC hướng dẫn thực hiện việc chuyển lợi nhuận từ việc đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo quy định của Luật đầu tư… Về việc áp dụng pháp luật, pháp luật đầu tư 2005 quy định trường hợp pháp luật Việt Nam được ban hành sau khi Việt Nam là thành viên của các điều ước quốc tế có quy định thuận lợi hơn so với điều ước quốc tế thì nhà đầu tư có quyền lựa chọn việc áp dụng theo điều ước quốc tế hoặc pháp luật Việt Nam. So với Luật Đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước trước đây thì pháp luật đầu tư 2005 quy định rõ hơn về những hình thức đầu tư như: Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài; Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài; Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT; Đầu tư phát triển kinh doanh; Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư; và Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp. Nhà đầu tư được đầu tư để thành lập tổ chức kinh tế bằng 100% vốn của mình, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại Việt Nam được hợp tác với nhau và/hoặc với nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài mới theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Nhà đầu tư cũng có thể đầu tư thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh trên được tiếp tục liên doanh với nhà đầu trong nước và nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập tổ chức kinh tế mới theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan. Luật đầu tư 2005 còn có các quy định tiến bộ về thủ tục đầu tư trực tiếp, quản lý nhà nước về đầu tư, đầu tư kinh doanh vốn nhà nước, triển khai thực hiện dự án đầu tư…. 2.2. Điều ước quốc tê Các điều ước quốc tế cũng là một nguồn rất quan trọng của pháp luật đầu tư nước ngoài, bao gồm các Điều ước quốc tế song phương và các Điều ước quốc tế đa phương. Cho đến nay, Việt Nam của chúng ta đã tham gia một số Điều ước quốc tế đa phương với các tổ chức quốc tế và rất nhiều Điều ước song phương về đầu tư với các quốc gia. 2.2.1 Các điều ước quốc tế đa phương Các điều ước quốc tế mang tính chất toàn cầu bao gồm: Văn kiện của Ngân hàng thế giới “Những chỉ dẫn về đối xử đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài” nhằm hướng dẫn cách xử sự của quốc gia nhận đầu tư với đầu tư nước ngoài; Trong WTO có Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS), liên quan đến ưu đãi NT và xóa bỏ các hạn chế số lượng; Công ước thiết lập Cơ quan bảo hiểm đầu tư đa biên (MIGA) 1985, là 1 chi nhánh của WB, nhằm cung cấp bảo hiểm ĐT đối với các rủi ro phi thương mại; Công ước về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia tiếp nhận đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài và Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế (ICSID); Công ước về công nhận và thi hành các phán quyết của trọng tài nước ngoài (Công ước New York 1958);Ngoài các điều ước quốc tế toàn cầu thì còn có các Điều ước quốc tế khu vực: Các điều ước trong khuôn khổ EU; các khu vực mậu dịch tự do NAFTA, AFTA, diễn đàn hợp tác Châu Á Tháo Bình Dương APEC; Hiệp định khung về đầu tư ASEAN (AIA)…Việt Nam của chúng ta đã tham gia các Điều ước toàn cầu và khu vực như TRIMs, Công ước Newyork 1958, MIGA 1985, APEC, AIA 2.2.2 Các điều ước quốc tế song phương Các Điều ước quốc tế song phương chính là nguồn quan trọng nhất trong luật đầu tư hiện đại. Cho đến nay có khoảng hơn 2600 điều ước quốc tế song phương về đầu tư nước ngoài trên toàn thế giới [1] Thời điểm hiện tại, Việt Nam đã ký kết Hiệp định về tránh đánh thuế hai lần với hơn 45 quốc gia và hơn 60 Điều ước song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các quốc gia khắp châu lục: với Cộng hòa Italia năm 1990, Malaysia năm 1992, Trung Quốc năm 1992, liên minh kinh tế Bỉ- Lucxămbua năm 1991, Thái Lan năm 1991, Australia năm 1991, Pháp năm 1992, Đan Mạch năm 1993, Liên Bang Đức năm 1993, Thụy Điển năm 1993, Nhật Bản năm 2003. III. Nội dung cơ bản các Hiệp định liên quan đến đầu tư nước ngoài 3.1 . Hiệp định đa phương về đầu tư 3. 1. 1 Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (Hiệp định TRIMS) Trong thương mại quốc tế, đầu tư là hoạt động đem vốn, tài sản từ nước này sang một nước khác để kinh doanh, thu lợi nhuận (đầu tư nước ngoài). Theo nghĩa này, đầu tư bao gồm cả đầu tư gián tiếp (đầu tư thành lập hoặc mua lại doanh nghiệp) và đầu tư gián tiếp (chủ yếu qua thị trường chứng khoán). Quy định về đầu tư nước ngoài của nước nhận đầu tư có thể cản trở hoặc thúc đẩy việc đầu tư và có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả lợi nhuận của hoạt động đầu tư của nhà đầu tư đến từ các nước khác. Thương mại quốc tế từ đó cũng có thể được khuyến khích hoặc bị hạn chế vì các quy định về đầu tư nước ngoài này. Vì vậy, để đảm bảo rằng các biện pháp của nước nhận đầu tư không cản trở bất hợp lý hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài và dòng lưu chuyển vốn, tài sản trong thương mại quốc tế, các nước thành viên WTO đã thống nhất thông qua một Hiệp định về vấn đề này, gọi là Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (Hiệp định TRIMS). Biện pháp đầu tư ở đây được hiểu là bất kỳ một quy định, điều kiện hay thủ tục nào mà nước nhận đầu tư áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài là một vấn đề lớn và tương đối nhạy cảm với nước nhận đầu tư (liên quan đến chủ quyền và an ninh tài chính của nước nhận đầu tư). Vì vậy đây vẫn là lĩnh vực mà đến nay trong khuôn khổ WTO các nước vẫn chưa đạt được sự đồng thuận về những vấn đề cơ bản. Cho đến nay, ngoài các quy định về đầu tư gắn với mở cửa thị trường dịch vụ (trong các cam kết cụ thể về mở cửa thị trường dịch vụ của từng nước thành viên), WTO mới chỉ đạt được các nguyên tắc bắt buộc chung về các biện pháp đầu tư mà các nước thành viên bị cấm không được áp dụng do cản trở quá lớn đến thương mại (gọi là TRIMS) trong Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (gọi là Hiệp định TRIMS). Nói cách khác, Hiệp định TRIMS chỉ quy định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại bị cấm áp dụng chứ không bao trùm tất cả các vấn đề về đầu tư nước ngoài. Hiệp định quy định không một bên tham gia kí kết nào có thể áp dụng biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS) trái với điều III (nguyên tắc đối xử quốc gia) và điều XI (cấm các biện pháp hạn chế số lượng) của Hiệp định GATT. Để đạt được mục đích này, một danh sách cụ thể về các biện pháp TRIMs không phù hợp với các điều khoản trên được nhất trí bổ sung vào hiệp định. Danh sách này bao gồm các biện pháp yêu cầu một số mức độ nhất định về mua sắm nội địa của doanh nghiệp (“yêu cầu về tỉ lệ nội địa hóa”) hay hạn chế về số lượng hay giá trị nhập khẩu mà một doanh nghiệp có thể mua hoặc sử dụng tương đương với lượng hàng hóa mà doanh nghiệp xuất khẩu (“yêu cầu về cân bằng thương mại”). Hiệp định yêu cầu thông báo bắt buộc về tất cả các biện pháp không phù hợp với quy định Hiệp định TRIMs và phải loại bỏ biện pháp này trong vòng 2 năm đối với các nước phát triển, 5 năm đối với các nước đang phát triển và 7 năm đối với các nước kém phát triển. Hiệp định thành lập một Ủy ban về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại cùng với các cơ quan khác, quản lí việc thực thi của các cam kết nêu trên. Hiệp định, sau đó, cũng xem xét rằng nên thực thi các điều khoản về chính sách đầu tư và cạnh tranh ở phạm vi rộng hơn. 3.1.2 Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) được ký kết ngày 26 tháng 02 năm 2009 là kết quả của sự kế thừa và sửa đổi hai hiệp định: Hiệp định ASEAN về Xúc tiến và Bảo hộ Đầu tư 1987 (IGA) và Hiệp định khung về Khu vực Đầu tư ASEAN 1998 (AIA), cũng như các Nghị định thư liên quan. ACIA là một hiệp định đầu tư toàn diện điều chỉnh các lĩnh vực sản xuất, nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, khai khoáng, và các dịch vụ liên quan tới 5 lĩnh vực trên. Theo quy định của Hiệp định ACIA, tự do hóa đầu tư sẽ được tiến hành từng bước, hướng tới mục tiêu xây dựng một môi trường đầu tư tự do và mở cửa trong khu vực, phù hợp với các mục tiêu của Cộng đồng kinh tế ASEAN. ACIA cũng cho phép tự do hóa đối với các lĩnh vực khác trong tương lai. Hiệp định ACIA bao gồm: các quy định đầu tư toàn diện dựa trên 4 trụ cột là tự do hóa, bảo hộ, thuận lợi hóa và xúc tiến đầu tư; các thời hạn rõ ràng đối với tự do hóa đầu tư; lợi ích dành cho các nhà đầu tư nước ngoài đặt trụ sở tại ASEAN; duy trì các ưu đãi của Hiệp định AIA; khẳng định lại các quy định liên quan của Hiệp định AIA và ASEAN IGA, như đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc. Bên cạnh đó, Hiệp định ACIA còn bao gồm các điều khoản mới như các quy định về một môi trường đầu tư tự do, thuận lợi, minh bạch và cạnh tranh hơn dựa trên những kinh nghiệm quốc tế tốt nhất; hoàn thiện các quy định hiện hành của Hiệp định AIA và IGA như tranh chấp đầu tư giữa một nhà đầu tư và một quốc gia thành viên (ISDS), Chuyển giao và Đối xử đầu tư; Điều khoản mới về ngăn cấm các yêu cầu hiệu suất (TRIMs) quy định về đánh giá xem xét các cam kết bổ sung; các quy định về nhân sự quản lý cao cấp và ban giám đốc tạo thuận lợi cho việc di chuyển của các nhà quản lý cấp cao chủ chốt nước ngoài. Các quy định toàn diện của Hiệp định ACIA sẽ tăng cường bảo hộ đầu tư và củng cố niềm tin của các nhà đầu tư khi đầu tư tại khu vực. ACIA cũng sẽ khuyến khích phát triển đầu tư nội khối ASEAN hơn nữa, đặc biệt là giữa các công ty đa quốc gia có trụ sở tại ASEAN thông qua hợp tác phát triển công nghiệp và chuyên môn hóa, góp phần tăng cường hội nhập kinh tế. Việt Nam cùng chung quan điểm với các nước thành viên ASEAN khác trong việc tạo ra một thể chế đầu tư tự do, mở cửa hơn nữa nhằm thúc đẩy đầu tư nội khối và thu hút đầu tư nước ngoài vào ASEAN. Quan điểm này xuất phát từ thực tế là không những đầu tư trực tiếp từ ASEAN vào Việt Nam chiếm tỷ trọng rất lớn mà ASEAN đồng thời là thị trường đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, do trình độ phát triển còn thấp so với một số nước khác trong khu vực và để phù hợp với các Hiệp định đa phương, song phương khác mà Việt Nam là thành viên, trong quá trình đàm phán soạn thảo Hiệp định, Việt Nam luôn lấy cam kết của mình với WTO làm trần và đưa ra mức cam kết bằng với mức thấp nhất của các thành viên khác đã đưa ra. Ngoài ra, do một số đặc thù riêng như việc Việt Nam đang trong tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, môi trường đầu tư… để được công nhận là nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã thận trọng bảo lưu một số nội dung phù hợp với tình hình phát triển, cơ chế chính sách, pháp luật của mình trong phạm vi cơ chế ưu đãi của Hiệp định. 3. 1.3. Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế Toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc đã được ký vào ngày 4 tháng 11 năm 2002 tại Phnôm-pênh. Hiệp định này tạo ra nền tảng pháp lý để ASEAN và Trung Quốc đàm phán các hiệp định cụ thể nhằm thiết lập Khu vực Thương mại Tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA). Nhằm đẩy mạnh và tạo thuận lợi cho dòng đầu tư, ngày 15 tháng 8 năm 2009, ASEAN và Trung Quốc cũng đã ký Hiệp định Đầu tư tại Băng-cốc, Thái Lan. Hiệp định nhằm mục đích tạo lập một môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư và luồng đầu tư của ASEAN và Trung Quốc, từ đó quy định các yếu tố bảo hộ nhằm đảm bảo đối xử công bằng, hợp lý cho các nhà đầu tư, không phân biệt đối xử giữa quốc hữu hóa và đền bù cho người thiệt hại. Hiệp định có các điều khoản cho phép chuyển giao và trả lại lợi nhuận do tự do kiếm được và bằng loại tiền tệ có thể sử dụng tự do, cũng như điều khoản về giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và quốc gia, trong đó cho phép các nhà đầu tư được sử dụng trọng tài. 3. 1.4. Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA) Năm 2005, ASEAN và Hàn Quốc ký Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện và sau đó là bốn hiệp định cụ thể tạo nền tảng pháp lý hình thành Khu vực Thương mại Tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA). Nhằm mục đích tạo lập một môi trường minh bạch, thuận lợi và ổn định hơn cho các nhà đầu tư và nguồn vốn từ ASEAN và Hàn Quốc, hai bên đã ký kết Hiệp định Đầu tư ASEAN – Hàn Quốc (AK-AI) vào ngày 2 tháng 6 năm 2009. Nội dung chính của Hiệp định AK-AI là các quy định về bảo hộ đầu tư như các điều khoản về đối xử công bằng, bảo vệ đầy đủ và an toàn cho nguồn đầu tư; chuyển giao quỹ liên quan đến nguồn đầu tư; và đền bù trong trường hợp quốc hữu hóa đối với nguồn đầu tư. Hiệp định có hiệu lực từ ngày 1 tháng 9 năm 2009. Hiện nay, ASEAN và Hàn Quốc tiếp tục thảo luận nhằm hoàn thiện các nội dung hợp tác dự kiến, trong đó có vấn đề xây dựng các cam kết mở cửa thị trường hoặc lộ trình loại bỏ các bảo lưu. Trong vòng năm năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, ASEAN và Hàn Quốc sẽ thảo luận và hoàn thành những nội dung này. 3.2. Một số hiệp định song phương có liên quan đến đầu tư 3. 2.1. Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư lẫn nhau giữa CHXHCNViệtNam và Vương quốc Hà Lan Ngày10/03/1994, Việt Nam và Hà Lan đã ký kết Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư lẫn nhau với mong muốn thúc đẩy quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai nước, mở rộng tăng cường quan hệ kinh tế giữa hai nước, đặc biệt đối với những đầu tư của các công dân của một Bên ký kết trên lãnh thổ Bên ký kết kia; Nhận thấy rằng Hiệp định về đối xử một cách công bằng và thỏa đáng đối với những đầu tư như vậy sẽ khuyến khích nguồn vốn, công nghệ và sự phát triển kinh tế của các Bên ký kết. Mỗi Bên ký kết trong phạm vi pháp luật và quy định của mình sẽ thúc đẩy sự hợp tác kinh tế bằng việc bảo hộ trên lãnh thổ nước mình những đầu tư của các công dân của Bên ký kết kia. Mỗi Bên ký kết sẽ chấp nhận những đầu tư đó, phù hợp với quyền thực hiện quyền lực theo luật pháp và quy định của mình. Mỗi Bên ký kết sẽ bảo đảm đối xử công bằng và thỏa đáng đối với đầu tư của các công dân Bên ký kết kia và sẽ không áp dụng các biện pháp vô căn cứ hoặc phân biệt đối xử làm phương hại đến sự hoạt động, quản lý, duy trì, sử dụng, thừa hưởng hoặc thanh lý những đầu tư của các công dân đó. Đặc biệt mỗi Bên ký kết sẽ dành sự an toàn và bảo hộ vật chất đầy đủ cho những đầu tư đó và trong bất kỳ trường hợp nào không kém thuận lợi hơn so với đầu tư của công dân nước mình hoặc của công dân của nước thứ ba; sự đối xử nào thuận lợi hơn cho công dân có liên quan sẽ được áp dụng. Nếu một Bên ký kết dành những ưu đãi đặc biệt cho công dân của bất kỳ nước nào trên cơ sở các Hiệp định về thành lập liên minh thuế quan, liên minh kinh tế, liên minh tiền tệ hoặc các tổ chức tương tự, hoặc trên cơ sở những thỏa thuận tạm thời thành lập các liên minh tổ chức như vậy, thì Bên ký kết đó sẽ không buộc phải dành những ưu đãi đó cho công dân của Bên ký kết kia. 3. 2.2. Hiệp định thương mại Việt Mỹ (BTA) Được ký kết vào ngày 13/7/2000 và có hiệu lực từ ngày 10/12/2001, Hiệp định thương mại Việt Mỹ có phạm vi cam kết rộng hơn rất nhiều so với các hiệp định thương mại kiểu “truyền thống” mà Việt Nam vẫn thường ký kết trước đây. Nhìn một cách tổng thể, Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã mang dáng dấp của một Hiệp định thương mại tự do (FTA) với các cam kết sâu và rộng. Cần lưu ý rằng tại thời điểm ký kết và chính thức có hiệu lực của Hiệp định thương mại Việt Mỹ, Việt Nam vẫn chưa phải là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Tuy nhiên, Hiệp định vẫn dẫn chiếu tới các quy định của WTO trong tất cả các phần nội dung lớn. Một số nội dung đáng lưu ý của Hiệp định thương mại Việt-Mỹ có liên quan đến đầu tư như sau: Điều 11 Chương IV về đầu tư quy định các bên không được áp dụng bất kỳ biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại nào không phù hợp với Hiệp định TRIMS của WTO. Phụ lục I của Hiệp định liệt kê danh mục các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại theo Hiệp định TRIMS. Vào thời điểm Hiệp định có hiệu lực, hai bên đã xóa bỏ một số biện pháp được quy định tại mục 2a và 2b của Phụ lục I. Ngoài ra, Việt Nam cam kết xóa bỏ các biện pháp khác trái với quy định của TRIMS trong vòng 5 năm kể từ khi Hiệp định thương mại Việt Nam Hoa kỳ có hiệu lực. 3. 2.3. Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) FTA song phương đầu tiên của Việt Nam - hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) được ký kết ngày 25/12/2008 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/10/2009. Đây là một hiệp định toàn diện bao gồm các quy định về thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, mua sắm chính phủ và các lĩnh vực hợp tác kinh tế khác. Hiệp định được xây dựng theo cấu trúc hai lớp (theo yêu cầu về thể chế pháp lý của Nhật Bản), bao gồm một Hiệp định chính có tên gọi là Hiệp định giữa Nhật Bản và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về Đối tác kinh tế và Hiệp định để thực hiện – được gọi là Hiệp định thực hiện giữa Chính phủ Nhật Bản và Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo VJEPA (Hiệp định thực hiện). Về cơ bản, các cam kết giữa Việt Nam và Nhật Bản đã được thể hiện trong Hiệp định chính. Cơ chế, cách thức, biện pháp triển khai các cam kết này được cụ thể hóa trong Hiệp định thực hiện gồm 12 chương, 37 điều. Về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại,Hiệp định chính VJEPA quy định tại khoản 4 Điều 9, hai bên cam kết các điều khoản của Hiệp định Tự do hóa, Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư (BIT) mà hai bên ký kết năm 2003 sẽ là một bộ phận cấu thành của Hiệp định VJEPA, trừ Điều 20 của BIT về việc thành lập Ủy ban hỗn hợp về đầu tư. IV. Tình hình thực tiễn và phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 4.1. Liên hệ thực tiễn pháp luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam: 4.1. 1. Việc thực hiện nghĩa vụ thông báo theo Hiệp định TRIMs Các yêu cầu thông báo được quy định tại Điều 5.1, 5.5 và 6.2 của Hiệp định TRIMs. Trong đó, nghĩa vụ thông báo theo Điều 5.1 là quan trọng nhất, theo đó, các nước thành viên, trong vòng 90 ngày kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực, phải thông báo cho Hội đồng thương mại hàng hóa tất cả các biện pháp TRIMs đang áp dụng không phù hợp với Hiệp định này. Những biện pháp không phù hợp với Hiệp định TRIMs là những biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại không tuân theo Điều III của Hiệp định GATT 1994 và cũng không thuộc phạm vi ngoại lệ được quy định tại Điều 3 và 4 của Hiệp định TRIMs. Những biện pháp này được ghi rõ trong Danh mục minh hoạ của Hiệp định TRIMs. Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đã đệ trình Chương trình hành động thực hiện Hiệp định TRIMs, cụ thể như sau: - Các ưu đãi thuế nhập khẩu dựa trên tỷ lệ nội địa hóa đối với các doanh nghiệp chế tạo và lắp ráp xe máy được cụ thể hóa trong Thông tư liên tịch số 176/1998/TTLT-BCT-BCN-TCHQ đã được bãi bỏ trong năm 2003. - Những chính sách về mức thuế nhập khẩu ưu đãi trên cơ sở tỷ lệ nội địa hóa đối với sản phẩm và linh kiện trong ngành công nghiệp cơ khí/điện/điện tử đã được bãi bỏ kể từ ngày 1/10/2006 theo Quyết định số 43/2006/QĐ-BTC ngày 29/8/2010. - Yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu đã được bãi bỏ theo Nghị định số 27/2003/NĐ-CP ngày 19/3/2003. - Luật Đầu tư năm 2005 và Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư không còn đặt điều kiện được cấp phép đầu tư hay được hưởng các ưu đãi đầu tư theo cách như được nêu trong Hiệp định TRIMs. Tóm lại, Việt Nam đã cam kết sẽ tuân thủ đầy đủ các quy định của Hiệp định TRIMs, trong đó có nghĩa vụ thông báo, kể từ thời điểm gia nhập WTO. Riêng đối với các biện pháp đầu tư khác, Việt Nam đã cam kết như sau: - Xóa bỏ toàn bộ các trợ cấp bị cấm (tức là các trợ cấp căn cứ vào thành tích xuất khẩu hoặc khuyến khích sử dụng hàng trong nước thay thế nhập khẩu) dành cho ngành dệt may, bao gồm nhưng không chỉ giới hạn ở các trợ cấp dưới hình thức ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nước, ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu áp dụng cho các doanh ngiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trợ cấp khuyến khích xuất khẩu dựa trên thành tích xuất khẩu và trợ cấp xúc tiến thương mại dựa trên thành tích xuất khẩu. - Không cấp bất kỳ trợ cấp bị cấm nào cho các đối tượng hưởng trợ cấp mới theo chương trình dành ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nước và chương trình dành ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kể từ ngày gia nhập WTO. - Chương trình dành ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nước và chương trình dành ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu dành cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ hoàn toàn bị xóa bỏ không muộn hơn 5 năm kể từ ngày Việt Nam gia nhập WTO. 4.1.2. Vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài Việt Nam liên tục ngh iên cứu xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển theo đúng định hướng phù hợp với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thiết lập một mặt bằng pháp lý chung áp dụng cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất và kinh doanh; đồng thời áp dụng một số quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực trong từng thời kỳ. Luật đầu tư được Quốc hội thông qua tháng 11/2005 đã cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư cho các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.Luật đầu tư 2005 được áp dụng thống nhất cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước và đảm bảo quyền tự chủ của nhà đầu tư trong hoạt động kinh doanh. Nhà đầu tư nước ngoài được tự do lựa chọn các lĩnh vực mà mình mong muốn đầu tư, hình thức đầu tư, các biện pháp huy động vốn. Quy định tại Luật Đầu tư thống nhất với Luật Doanh nghiệp về thủ tục đăng ký đầu tư, đăng ký kinh doanh áp dụng với các nhà đầu tư nước ngoài đó là Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Về thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư được quy định từ Điều 45 đến Điều 49 của Luật Đầu tư 2005, và các Điều 57-70 của Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Đầu tư bao gồm thủ tục đăng ký đầu tư và thẩm tra đầu tư. Việc thẩm tra đầu tư được thực hiện đối với các dự án đầu tư có giá trị từ 300 tỷ đồng trở lên và các dự án đầu tư trong lĩnh vực đầu tư có điều kiện. Nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư, Chính phủ Việt Nam không ngừng nghiên cứu theo hướng ban hành các quy định mới không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư. I. Tổng quan về các điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực đầu tư Cùng với pháp luật quốc gia, án lệ, tập quán quốc tế, điều ước quốc tế được coi là một trong những nguồn cơ bản của luật đầu tư quốc tế. Điều ước quốc tế bao gồm có điều ước quốc tế đa phương, điều ước quốc tế khu vực, điều ước quốc tế song phương. Đối với điều ước quốc tế song phương, cho đến nay, Việt Nam đã ký kết hơn 62 hiệp định về đầu tư với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Ví dụ: Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Hà Lan 10/3/1994; - Hiệp định Việt Nnam-Thailan về khoản tín dụng lâu dài 23/12/1992; - Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Tatgikixtan19/1/1999; - Hiệp định thương mại giữa Chính Phủ VIỆT NAM VÀ Chính Phủ A RẬP SYRIA 12/5/1994; - Hiệp định Thương mại giữa Chính Phủ Việt Nam và Chính Phủ Vương quốc Hasimit Gioocđani 23/3/1997; - Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ 13/7/2000 Các điều ước quốc tế đa phương bao gồm Văn kiện của Ngân hàng thế giới “Những chỉ dẫn về đối xử đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài” nhằm hướng dẫn cách xử sự của quốc gia nhận đầu tư với đầu tư nước ngoài; Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS), liên quan đến ưu đãi NT và xóa bỏ các hạn chế số lượng; Công ước thiết lập Cơ quan bảo hiểm đầu tư đa biên (MIGA) 1985; Công ước về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia tiếp nhận đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài và Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế (ICSID); Công ước về công nhận và thi hành các phán quyết của trọng tài nước ngoài (Công ước New York 1958). Việt Nam đã tham gia các điều ước quốc tế đa phương, khu vực như Hiệp định TRIMS, công ước New York năm 1958, công ước MIGA 1985, Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN-Ấn Độ 2003… Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang tiến hành đàm phán hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác khác như EU, Hàn Quốc, EFTA… Ví dụ: hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (FTA VN-EU), hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP), hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và khối EFTA, hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và Hàn Quốc, hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)… II. Nội dung cơ bản của các điều ước quốc tế về đầu tư nước ngoài 2.1. Điều ước quốc tế đa phương 2.1.1. Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại TRIMS Hoàn cảnh ra đời Cuối thập niên 40 khi xây dựng nên hệ thống thương mại đa biên, người ta cũng nghĩ đến cơ chế điều tiết đầu tư trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên ý tưởng trên khi đó chưa thực hiện được. Cho đến tận Vòng đàm phán Uruguay thì vấn đề đầu tư mới được đề cập như là vấn đề riêng trong WTO. Các thành viên WTO đã ký kết khoảng 30 hiệp định khác nhau điều chỉnh các vấn đề về thương mại quốc tế. Tất cả các hiệp định này nằm trong 4 phụ lục của Hiệp định về việc Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới được ký kết tại Marrakesh, Maroc vào ngày 15-4-1994. Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) là một trong các hiệp định của WTO mà các thành viên gia nhập tổ chức này phải ký kết. Hiệp định TRIMS có hiệu lực từ ngày 1-1-1995. Năm 1995, các nước thành viên WTO ký kết Hiệp định TRIMS chấp nhận ràng buộc rằng các biện pháp TRIMS của nước mình phải phù hợp với GATT (tiền thân của WTO); các thành viên của tổ chức WTO có 3 tháng để khai báo TRIMS của mình cho WTO, có 2 năm để loại bỏ các ràng buộc không tương thích với các quy định của WTO, và thời gian quá độ là 5 năm để thực hiện loại bỏ ràng buộc. Hiệp định TRIMs là một bước tiến lớn, mặc dù nhiều ý kiến cho rằng Hiệp định này chưa giải quyết thỏa đáng lợi ích của tất cả các nước, kể cả các nước phát triển hay đang phát triển. Sự ra đời của hiệp định này được coi là bước thoả hiệp ban đầu của quan điểm các nước phát triển và đang phát triển về việc đưa ra quy định điều chỉnh hoạt động đầu tư nhằm hạn chế trở ngại cho thương mại quốc tế Nội dung chính của Hiệp định TRIMs Hiệp định TRIMs gồm phần mở đầu, 9 điều và một phụ lục kèm theo qui định những biện pháp đầu tư của nước tiếp nhận không phù hợp với các điều III và XI khoản 1 của GATT. Những biện pháp đó là : a. Khối lượng nhập khẩu chỉ được giới hạn ở mức tương đương với khối lượng hàng xuất khẩu của công ty. b. Qui định về tỷ lệ các phụ kiện được sản xuất tại chỗ trong thành phẩm (tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm), đòi hỏi này trái với điều III của GATT là không được phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu. c. Những hạn chế liên quan đến sử dụng nguồn ngoại tệ. Khối lượng ngoại tệ dùng để nhập khẩu chỉ hạn chế ở mức tương đương với khối lượng ngoại tệ mà công ty có được thông qua xuất khẩu hoặc các nguồn khác. d. Những yêu cầu về tỷ lệ xuất khẩu đối với các sản phẩm được sản xuất trên thị trường nội địa. Đối với những nhà kinh doanh của các nước phát triển, Hiệp định này chỉ giới hạn trong những TRIMs nói trên, mà không qui định phải loại bỏ những biện pháp khác có ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại: không loại bỏ tỷ lệ đóng góp vốn của các công ty nội địa trong xí nghiệp liên doanh, hoặc những đòi hỏi về chuyển giao công nghệ... Hiện nay nhiều nước đang phát triển qui định tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm, chẳng hạn như Brasile áp dụng qui định trên đối với ngành lắp ráp ô tô trong nước : năm đầu tiên, nhà máy lắp ráp phải sử dụng 20% phụ kiện sản xuất tại địa phương trong 1 chiếc ô tô, năm thứ hai 40%, năm thứ ba 60%, nếu các công ty nước ngoài không đáp ứng được những điều kiện trên thì phải chịu mức thuế nhập khẩu rất cao . Quyết định này gây nên sự phản đối của nhiều nước trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc và EU. Các nước này đã yêu cầu Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO xem xét và đưa ra phán quyết cuối cùng. Liên hệ với Việt Nam Việt Nam đã có một quá trình áp dụng TRIMs với các mục tiêu cơ bản là vừa thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài, vừa đẩy mạnh phát triển sản xuất trong nước. Các biện pháp Việt Nam đã sử dụng trong thời gian qua là yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá, yêu cầu cân đối ngoại tệ, yêu cầu phải gắn với phát triển nguồn nguyên liệu trong nước và yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc. Trong đó, biện pháp được tập trung áp dụng nhiều nhất là yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá trong các ngành sản xuất, lắp ráp ôtô và phụ tùng ôtô; sản xuất, lắp ráp xe máy và phụ tùng xe máy; sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh và phụ tùng thuộc ngành điện tử, cơ khí-điện. Ngoài ra, các dự án chế biến gỗ, sữa, dầu thực vật, đường mía cũng thuộc đối tượng các ngành phải thực hiện chương trình nội địa hoá nhằm phát triển nguồn nguyên liệu trong nước. Song, do tính đặc thù nên phần lớn các dự án thuộc ngành này được xây dựng với mục đích sử dụng nguồn nguyên liệu rẻ, sẵn có trong nước. Do vậy, các nhà đầu tư sẽ tự nguyện thực hiện chính sách nội địa hoá, kể cả trong trường hợp không được khuyến khích hoặc ưu đãi. 2.1.2. Công ước ICSID Hoàn cảnh ra đời Sự ra đời của Công ước Washington cùng với sự ghi nhận của các Hiệp định Đầu tư Song phương (BIT) của rất nhiều quốc gia về việc cho phép áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp đầu tư theo cơ chế ICSID đã mở ra một cơ hội mới cho các nhà đầu tư trực tiếp khiếu kiện các quốc gia khi có tranh chấp đầu tư với các quốc gia đó. Sau khi công ước Washington được thông qua thì Trung tâm Quốc tế Giải quyết Tranh chấp đầu tư quốc tế giữa Quốc gia – Nhà đầu tư (ICSID) đã ra đời và nhanh chóng trở thành một thiết chế pháp lý hữu hiệu thay thế các biện pháp chính trị ngoại giao trong công pháp quốc tế. Mục tiêu tối hậu của trung tâm ICSID là thúc đẩy các công cuộc đầu tư tại các quốc gia đang phát triển, nơi mà các doanh nhân họat động thương mại quốc tế không muốn bỏ vốn đầu tư vì lo ngại về những bất ổn về chính trị, xã hội khiến cho vốn đầu tư của họ có nguy cơ bị quốc hữu hóa. Trung tâm ICSID ra đời với mong muốn của Ngân hàng thế giới là một cơ quan hậu thuẫn có thẫm quyền giải quyết mọi tranh chấp nếu xãy ra giữa các nhà đầu tư và chính phủ của các quốc gia nhận đầu tư Cơ cấu tổ chức Hội đồng quản trị của ICSID gồm các thành viên đại diện tất cả các quốc gia ký kết Hiệp định Washington 1965. Hội đồng có nhiệm vụ thông qua những qui tắc của Trung tâm đồng thời có trách nhiệm về ngân sách họat động của toàn Trung tâm. Ban thư ký gồm một Tổng thư ký được Hội đồng quản trị bầu ra với nhiệm kỳ 6 năm và một tiểu ban quản trị gồm có các thành viên hoạt động như những thư ký để phụ tá Tổng thư ký. Tiểu ban Trọng tài có thành viên là các đại diện được chỉ định từ các quốc gia thành viên của Hiệp định. Các thành viên của tiểu ban này được Hội đồng lựa chọn. Một Tiểu ban hòa giải được chọn lựa bởi Hội đồng Quản trị theo một thể thức tương tự việc chọn lựa thành viên cho tiểu ban Trọng tài. Thành viên của hai Tiểu ban Trọng tài và Tiểu ban hòa giải là các chuyên gia trong lĩnh vực Luật pháp quốc tế hoặc các chuêyn gia Công pháp quốc tế có tên tuổi. Nội dung công ước Mọi luật lệ được áp dụng trong một phiên tòa Trọng tài phải được các bên đương sự trong một vụ tranh chấp đầu tư quốc tế sẽ gồm nhà đầu tư và quốc gia nhận đầu tư tuân thủ. Nếu các bên đương sự không đồng ý về việc áp dụng luật lệ của ICSID thì luật quốc tế lẫn luật quốc nội (của quốc gia nhận đầu tư) sẽ được áp dụng, kể cả có sự tương phản giữa luật quốc nội của quốc gia nhận đầu tư với các hệ thống luật khác. Cấm sự can thiệp của một bên thứ 3 bất kỳ, kể cả bên thứ 3 là quốc gia mà nhà đầu tư mang quốc tịch, vào vụ tranh chấp mà Trung tâm ICSID đang thụ lý. Công ước Washington quy định: “Không một quốc gia nào (không có mối liên hệ hợp đồng) được can thiệp vào vụ tranh chấp bằng một thể thức bảo vệ ngoại giao hoặc bằng một khiếu nại (có tính) quốc tế liên quan đến vụ tranh chấp mà các bên đương sự đã đồng ý đưa vụ tranh chấp ra giải quyết trước Tòa án Trọng tài của trung tâm, trừ phi quốc gia nhận đầu tư (host state) từ chối thi hành một phán quyết (không thể thay đổi) của Tòa án Trọng tài”. C ác bên tranh chấp gồm “quốc gia nhận đầu tư” và công dân của một quốc gia khác. Khái niệm “quốc gia nhận đầu tư” được biết theo ý nghĩa bao gồm chính quốc gia đó, hoặc gồm các cơ quan và các đơn vị thuộc bộ máy công quyền của chính phủ quốc gia đó. Khi một vụ tranh chấp phát sinh có liên quan đến một cơ quan bán tự trị hoặc đơn vị hành chánh của một quốc gia, điều kiện bắt buộc là cả cơ quan bán tự trị hay đơn vị hành ch í nh đó cùng với quốc gia phải chấp thuận thẩm quyền xét xử của Trung tâm trọng tài ICSID trước khi một tòa án của Trung tâm được thành lập để thụ lý vụ tranh chấp. Ngoài ra, khi đồng ý thụ lý một vụ tranh chấp, Trung tâm ICSID sẽ ký một thỏa ước với các quốc gia liên hệ. Thoả ước này cũng cần được phê chuẩn. Bên cạnh đó, một bản thỏa ước khác được xem như bản cam kết thừa nhận thẩm quyền tài phán của Trung tâm sẽ được ký kết giữa các nhà đầu tư và quốc gia nhận đầu tư theo một thể thức long trọng dưới hình thức văn bản viết. Ngoài một hình thức là một văn bản viết, mọi thỏa thuận ở bất kỳ hình thức nào cũng khiến sự thỏa thuận giữa hai bên trở nên vô hiệu. Tuy nhiên, như một nguyên tắc bất thành văn, bản thỏa ước giữa Trung tâm và hai quốc gia liên hệ thường chứa đựng cả sự thỏa thuận giữa nhà đầu tư và quốc gia nhận đầu tư. Một bên đương sự có liên quan đến việc tranh chấp, có thể là một thể nhân (cá nhân) hoặc một pháp nhân (tập thể) của quốc gia có quan hệ hợp đồng (gián tiếp) với quốc gia nhận đầu tư. Một thể nhân là một cá nhân, một chủ thể của một quyền lợi hoặc một nghĩa vụ. Thể nhân có một danh tính (tên), một nơi cư trú, một quốc tịch (trong trường hợp này là quốc tịch của quốc gia có mối quan hệ hợp đồng gián tiếp với quốc gia nhận đầu tư và cùng với một quốc gia này là thành viên của Công ước Washington)[1]. Đặc biệt, thể nhân là đương sự của vụ tranh chấp phải có quốc tịch của quốc gia có mối quan hệ hợp đồng gián tiếp với quốc gia nhận đầu tư tại một trong hai trường hợp: a.Vào thời điểm mà các bên đồng ý xét xử qua Tòa án Trọng tài của ICSID; và b. Tại một thời điểm mà đơn thỉnh bầu xét xử qua Tòa án Trọng tài của ICSID đã được đăng ký tại Trung tâm này. Như vậy, có ba điều kiện để trung tâm ICSID thụ lý vụ tranh chấp và áp dụng quy chế trọng tài giải quyết: thứ nhất, tranh chấp đó phải phát sinh trực tiếp từ một hoạt động đầu tư; thứ hai, một bên tranh chấp phải là một quốc gia thành viên công ước và bên kia là công dân của một quốc gia thành viên khác; thứ ba, các bên tranh chấp phải thể hiện sự chấp thuận bằng văn bản về việc đưa vụ việc ra giải quyết tại trung tâm. Liên hệ với Việt Nam Hiện vẫn có hai luồng ý kiến trái chiều về việc Việt Nam có nên tham gia Công ước ICSID liên quan đến giải quyết tranh chấp thương mại/đầu tư quốc tế. Theo TS. Nguyễn Thanh Tú - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp, quá trình hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng càng mở rộng và đi vào thực chất thì khả năng phát sinh tranh chấp ngày càng nhiều. Tranh chấp có thể xẩy ra giữa chính phủ với chính phủ (như tranh chấp giữa các thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới - WTO theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO), giữa chính phủ với doanh nghiệp (như tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và chính phủ trên cơ sở các hiệp định bảo hộ đầu tư) và giữa các doanh nghiệp (DN) với nhau. Đối với các tranh chấp thương mại quốc tế giữa DN Việt Nam và DN (hay cá nhân) nước ngoài được xét xử ở nước ngoài, DN Việt Nam thường gặp nhiều bất lợi vì khá xa lạ với hệ thống cơ quan xét xử, thủ tục tố tụng, pháp luật áp dụng cũng như sự khác biệt về văn hóa pháp lý và rào cản ngôn ngữ. Do đó trong một chừng mực nhất định, theo ông Tú, Chính phủ Việt Nam nên thông qua các bộ, ngành liên quan, có thể có những hỗ trợ thích hợp trước, trong và sau quá trình giải quyết tranh chấp thương mại này. Khi thực hiện các hỗ trợ này, “Bộ Tư pháp tham gia giải quyết về mặt pháp lý các tranh chấp quốc tế có liên quan tới Việt Nam theo sự phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ”. Theo đó, Bộ Tư pháp sẽ phối kết hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Công thương và các bộ, ngành khác có liên quan để hỗ trợ DN Việt Nam tối đa trong phạm vi có thể trong các tranh chấp thương mại quốc tế này. Đặc biệt, trong sân chơi toàn cầu, ngoài vấn đề cạnh tranh/xung đột giữa DN với DN thì mâu thuẫn giữa nhà đầu tư nước ngoài với chính phủ nước tiếp nhận đầu tư cũng là vấn đề nóng hổi. Vì thế, tại một cuộc hội thảo về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế (nằm trong phần kết của Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên giai đoạn III, EU – VIETNAM MUTRAP III) do trường Đại học Luật Hà Nội tổ chức tại Hà Nội vừa qua, câu hỏi được thảo luận sôi nổi là Việt Nam có nên tham gia Công ước ICSID (Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế ICSID, trung tâm này được thành lập theo Công ước Washington năm 1965 về giải quyết tranh chấp giữa nhà nước và công dân của nhà nước khác, trong đó có các nhà đầu tư). Các ý kiến tán thành việc tham gia ICSID biện luận, vì hiện nay Việt Nam đã ký tới 62 hiệp định bảo hộ đầu tư cho nên chúng ta luôn có thể là nguyên đơn, hoặc bị đơn trong các hợp đồng này. TS. Nguyễn Minh Hằng, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Luật thương mại quốc tế (Trường Đại học Ngoại thương) cung cấp số liệu: đến nay đã có 146 quốc gia tham gia Công ước ICSID, tới nay, trong số 390 vụ tranh chấp đầu tư trên toàn thế giới thì có 245 vụ được giải quyết theo cơ chế của ICSID. Trong khi đó, cũng có không ít ý kiến cho rằng Việt Nam chưa cần thiết phải tham gia ICSID. Theo đó, nếu không tham gia Công ước ICSID thì Việt Nam vẫn là “tâm điểm” hút các nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác Việt Nam cũng đã tham gia Công ước về công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài ngày 10/6/1958 (Công ước NewYork năm 1958) nhưng trên thực tế, việc thực hiện đến nay vẫn còn rất hiếm. 2.2. Điều ước quốc tế khu vực 2.2.1. Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) Hoàn cảnh ra đời Các hoạt động về đầu tư trong nội khối ASEAN được điều chỉnh bởi hai Hiệp định hiện hành là Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư năm 1987 và Hiệp định khung về khu vực đầu tư năm 1998 của các nước ASEAN, tuy nhiên, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan của sự phát triển trong và ngoài khối, một số quy định của hai Hiệp định này không còn phù hợp với tình hình mới, đặc biệt là nhu cầu về hội nhập của khối. Để tăng cường hợp tác trong khu vực, tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi, thu hút đầu tư nước ngoài vào ASEAN và cũng để phù hợp hơn với tầm nhìn của một cộng đồng kinh tế ASEAN thống nhất, năng động đòi hỏi phải có một văn bản hoàn chỉnh điều chỉnh toàn diện lĩnh vực đầu tư trong ASEAN. Chính vì vậy, các nước thành viên ASEAN đã cùng thống nhất quan điểm soạn thảo văn bản mới thay thế hai văn bản hiện hành. Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 39 diễn ra tại Manila, Philippines hồi tháng 8/2007 đã quyết định giao Ủy ban Điều phối đầu tư ASEAN (CCI) chủ trì soạn thảo Hiệp định điều chỉnh toàn bộ hoạt động đầu tư thuộc khối ASEAN. Với mục tiêu chung đó, Bộ trưởng kinh tế các nước ASEAN cũng đã thống nhất phê duyệt các nguyên tắc làm cơ sở để soạn thảo Hiệp định, bao gồm: - Kế thừa và cải thiện các quy định của hai Hiệp định AIA và ASEAN – IGA; - Áp dụng nguyên tắc không hồi tố các cam kết trừ khi có bồi thường; - Cân bằng trong các nội dung chính: tự do hóa, xúc tiến, thuận lợi hóa và bảo hộ đầu tư; - Không ngừng tự do hóa đầu tư nhằm tạo một môi trường đầu tư ASEAN tự do và mở cửa trong khu vực, phù hợp với mục tiêu thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC); - Đem lại lợi ích cho cả nhà đầu tư ASEAN và nhà đầu tư nước ngoài đang đầu tư tại ASEAN; - Xem xét việc dành tối xử đặc biệt và khác biệt cho các nước thành viên mới (gồm Lào, Campuchia; Myanmar và Việt Nam); - Dành sự linh hoạt cho các nước thành viên trong các vấn đề nhạy cảm; - Có sự đối xử nhân nhượng lẫn nhau giữa các nước thành viên; - Tiếp tục duy trì quy tắc đối xử tối huệ quốc và dành sự đối xử đặc biệt cho các nước trong khối; - Cho phép Hiệp định được mở rộng để có thể tự do hóa các lĩnh vực khác trong tương lai. Nội dung của Hiệp định ACIA được soạn thảo trên cơ sở các nguyên tắc chỉ đạo nêu trên, trong đó có kế thừa quy định của hai Hiệp định AIA và IGA, đồng thời đưa vào một số quy định mới phù hợp hơn với cơ chế tự do hóa đầu tư, trong đó đặc biệt quan tâm đến lợi ích của các nhà đầu tư và khoản đầu tư của họ. Về cơ bản, phạm vi điều chỉnh của ACIA vẫn giữ nguyên quy định của hai Hiệp định AIA và IGA, tuy nhiên đối tượng hưởng lợi của Hiệp định được mở rộng đối với nhà đầu tư của nước thứ ba có hoạt động kinh doanh chủ yếu trong lãnh thổ của nước thành viên ASEAN. Về biện pháp áp dụng, theo khoản 1 Điều 3 các biện pháp được một nước thành viên áp dụng có liên quan đến nhà đầu tư và khoản đầu tư sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của ACIA (nhà đầu tư có nghĩa là một thể nhân hoặc pháp nhân của nước thành viên đang đầu tư hoặc đã đầu tư trên lãnh thổ của nước thành viên khác. Khoản đầu tư có nghĩa là tất cả các loại tài sản do nhà đầu tư sở hữu hoặc kiểm soát, như các loại giấy tờ có giá trị, quyền về tài chính… ). Các biện pháp được nhắc đến trong điều khoản này bao gồm các luật, quy định, quy tắc, thủ tục, quyết định và các hoạt động quản trị hành chính hay những thông lệ được chính quyền trung ương, khu vực, địa phương và các tổ chức phi lợi nhuận (được chính quyền trung ương, khu vực, địa phương ủy quyền thực hiện) áp dụng. ACIA ra đời và thay thế hai Hiệp định AIA và IGA, do vậy, sẽ điều chỉnh cả các khoản đầu tư tồn tại trước thời điểm có hiệu lực của Hiệp định và cả các khoản đầu tư được thực hiện sau khi ACIA có hiệu lực. Về tự do hóa đầu tư, ACIA vẫn giữ nguyên quy định của AIA đối với các ngành kinh tế và không điều chỉnh tự do hóa đối với hoạt động đầu tư gián tiếp, theo đó chỉ điều chỉnh các lĩnh vực sản xuất công nghiệp; nông nghiệp; thủy sản; lâm nghiệp; khai khoáng và khai thác đá và các dịch vụ liên quan của các lĩnh vực này. Ngoài ra, ACIA còn quy định cho phép tự do hóa đối với bất kỳ lĩnh vực nào được các nước thành viên nhất trí, quy định này nhằm cho phép tự do hóa một số lĩnh vực, dịch vụ khác sẽ phát sinh trong tương lai. Về bảo hộ đầu tư, kế thừa quy định của IGA, ACIA bảo hộ cho tất cả các lĩnh vực, hình thức đầu tư và chỉ bảo hộ cho các khoản đầu tư sau khi thành lập, trừ các biện pháp gây ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ trong phạm vi quy định của Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ mà các nước thành viên áp dụng. Vì mục đích bảo hộ đầu tư liên quan đến việc cung cấp dịch vụ theo phương thức hiện diện thương mại các quy định về đối xử đầu tư; bồi thường trong trường hợp mất ổn định; chuyển tiền; tịch biên và bồi thường; thế quyền và các quy định về giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nước thành viên sẽ được áp dụng. Trong từng trường hợp cụ thể việc áp dụng các quy định này có thể sẽ điều chỉnh cho phù hợp với tình hình theo thỏa thuận của các bên nhưng không vượt quá nghĩa vụ cam kết trong Hiệp định. ACIA không điều chỉnh tất cả các biện pháp thuế (ngoại trừ quy định tại Điều 13 (chuyển tiền) và Điều 14 (tịch biên tài sản và bồi thường) của Hiệp định); trợ cấp của Chính phủ; mua sắm Chính phủ; cung cấp dịch vụ của cơ quan nhà nước, kể cả cơ quan, tổ chức được nhà nước uỷ quyền (gồm tất cả các loại hình dịch vụ vì mục đích lợi nhuận hay để cạnh tranh) và biện pháp của nước thành viên gây ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ theo Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS). Hiệp định có 7 nguyên tắc hướng dẫn chung cho các thành viên, theo đó khi thực hiện nghĩa vụ mà mình đã cam kết các nước thành viên phải tuân thủ các nguyên tắc này nhằm đảm bảo tính khả thi của Hiệp định. Thứ nhất , quy định tự do hóa đầu tư, bảo hộ đầu tư, xúc tiến và thuận lợi hóa đầu tư. Đây được coi là những điều khoản quan trọng của Hiệp định. Về cơ bản, tự do hóa đầu tư và bảo hộ đầu tư được kế thừa quy định của AIA và IGA, tuy nhiên do định nghĩa về nhà đầu tư và khoản đầu tư của ACIA bao gồm người thường trú của các nước ASEAN và nhà đầu tư từ nước thứ ba có cơ sở kinh doanh tại ASEAN nên đối tượng được bảo hộ theo đó cũng được mở rộng hơn. Xúc tiến đầu tư được tiến hành thông qua các hình thức như phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và các công ty xuyên nước; bổ sung công nghiệp và mạng lưới sản xuất; tổ chức đoàn khảo sát đầu tư tập trung phát triển tổ hợp khu vực và mạng lưới sản xuất; tổ chức và hỗ trợ tổ chức hội thảo về cơ hội đầu tư, quy định, chính sách đầu tư và trao đổi những vấn đề có liên quan khác. Tạo thuận lợi cho nhà đầu tư thông qua các biện pháp chủ yếu như tạo môi trường cần thiết cho tất cả các hình thức đầu tư; đơn giản hóa thủ tục đăng ký và cấp phép đầu tư; phổ biến thông tin liên quan đến đầu tư (bao gồm quy định, quy tắc, chính sách); thành lập cơ quan một cửa về đầu tư; củng cố cơ sở dữ liệu trong tất cả hình thức đầu tư nhằm hoạch định chính sách cải thiện môi trường đầu tư nội khối; tham vấn với cộng đồng doanh nghiệp về các vấn đề đầu tư; cung cấp dịch vụ tư vấn cho cộng đồng doanh nghiệp. Thứ hai, không ngừng tự do hóa đầu tư nhằm đạt được môi trường đầu tư tự do và mở cửa trong khu vực, với quy định này, ACIA cho phép tự do hóa hơn trong tương lai đối với một số ngành, dịch vụ trên cơ sở nhất trí của các nước thành viên. Nguyên tắc này đòi hỏi các nước thành viên phải có chính sách và lộ trình mở cửa phù hợp với mức độ phát triển của mỗi nước thành viên và trong toàn khu vực nhằm hướng tới mục tiêu về tự do hóa của Cộng đồng kinh tế ASEAN. Thứ ba, bảo đảm lợi ích của nhà đầu tư và khoản đầu tư của họ, trong trường hợp này bao gồm cả nhà đầu tư thuộc nước thành viên ASEAN và nhà đầu tư nước ngoài đang đầu tư tại ASEAN (nhà đầu tư của nước thứ ba). Bảo đảm lợi ích được hiểu là việc đối xử công bằng, bảo đảm an ninh cũng như vô tư trong các vụ kiện pháp lý, thủ tục hành chính hay bất cứ chính sách nào liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của nhà đầu tư. Thứ tư, nguyên tắc về đối xử quốc gia yêu cầu nước thành viên đối xử với các nhà đầu tư của các nước thành viên khác và khoản đầu tư của họ không kém thuận lợi hơn những gì đã dành cho nhà đầu tư của nước mình, bao gồm nhưng không chỉ giới hạn trong phạm vi tiếp nhận, thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản lý, vận hành và định đoạt đầu tư. So với các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư mà Việt Nam đã tham gia hoặc ký kết với các nước khác thì nội dung của nguyên tắc này vẫn được giữ nguyên, bởi việc áp dụng nguyên tắc này được coi là thông lệ quốc tế để đảm bảo cạnh tranh công bằng và ACIA cũng không là ngoại lệ. Thứ năm, không áp dụng hồi tố quy định của AIA và IGA, khi ACIA ra đời sẽ thay thế AIA và IGA, do vậy những cam kết của các nước thành viên liên quan đến tất cả hoạt động đầu tư trong hai Hiệp định AIA và IGA sẽ không được áp dụng khi ACIA phát sinh hiệu lực. Tuy nhiên, quy định này loại trừ trường hợp thực hiện nghĩa vụ bồi thường phát sinh trong quá trình thực thi cam kết của AIA và IGA. Thứ sáu, đối xử đặc biệt và khác biệt, nguyên tắc này được coi là sự cam kết của các nước thành viên phát triển trong việc hỗ trợ và đảm bảo lợi ích của các nước thành viên mới có trình độ phát triển kém hơn (bao gồm Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam), đồng thời cũng đảm bảo gia tăng lợi ích của Hiệp định theo đúng mục tiêu ban đầu đã đề ra. Chính sách này được các thành viên ASEAN coi trọng và đảm bảo thông qua việc hỗ trợ kỹ thuật nhằm tăng cường năng lực liên quan đến các chính sách và khuyến khích đầu tư, trong đó có lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực; cam kết trong các lĩnh vực mang lại lợi ích cho thành viên mới và công nhận cam kết của thành viên mới phù hợp với giai đoạn phát triển của nước mình. Thứ bảy, mở rộng phạm vi điều chỉnh của Hiệp định sang các lĩnh vực và ngành nghề khác trong tương lai. Các nước thành viên có xu hướng sẽ tự do hóa đầu tư thêm một số lĩnh vực, ngành nghề khác, do vậy Hiệp định này sẽ điều chỉnh cả đối với những lĩnh vực, ngành nghề đó trên cở sở sự nhất trí của các nước thành viên. 2.2.2. Hiệp định đầu tư ASEAN-Trung Quốc Hoàn cảnh ra đời Trung Quốc và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ngày 15/8 đã có một bước tiến quan trọng nhằm mở rộng hợp tác kinh tế bằng việc ký kết hiệp định thúc đẩy đầu tư giữa hai bên. Hiệp định trên được 10 nước thành viên ASEAN và Trung Quốc ký kết trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM) lần thứ 41 diễn ra tại Bangkok, Thái Lan. Hiệp định đầu tư này, cùng với các thoả thuận về thương mại hàng hoá và dịch vụ được ký kết giữa Trung Quốc và ASEAN trước đó, đã hoàn tất tiến trình đàm phán Khu vực Mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN (FTA), dự kiến sẽ được thực hiện từ tháng 1/2010. Nội dung hiệp định Thoả thuận, gồm 27 điều khoản, nhằm thiết lập cơ chế đầu tư công bằng, minh bạch và tự do cho các nhà đầu tư của cả hai bên. Thoả thuận cũng kêu gọi các bên có liên quan thúc đẩy và bảo vệ các nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đền bù thoả đáng nếu tài sản của các nhà đầu tư bị thiệt hại do bạo động và rối loạn chính trị. Hiệp định có các điều khoản cho phép chuyển giao và trả lại lợi nhuận do tự do kiếm được và bằng loại tiền tệ có thể sử dụng tự do, cũng như điều khoản về giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và quốc gia, trong đó cho phép các nhà đầu tư được sử dụng trọng tài. 2.3. Điều ước quốc tế song phương 2.3.1. Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ Nội dung của hiệp định Hiệp Định thương mại Việt Mỹ được ký kết ngày 13/7/2000 là một sự kiện đánh dấu bước phát triển tích cực của mối quan hệ song phương kể từ ngày hai quốc gia lập quan hệ ngoại giao. Hiệp định dài gần 120 trang, gồm 7 chương với 72 điều và 9 phụ lục, đề cập đến 4 nội dung chủ yếu: Thương mại hàng hoá, Thương mại dịchvụ,Sở hữu trí tuệ và Quan hệ đầu tư.Như vậy có nghĩa là bản Hiệp định này tuy được gọi là Hiệp định về quan hệ thương mại nhưng không chỉ đề cập đến lĩnh vực thương mại hàng hoá. Khái niệm “ thương mại ” ở đây được đề cập theo ý nghĩa rộng, hiện đại, theo tiêu chuẩn của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và có tính đến đặc điểm kinh tế của mỗi nước để quy định sự khác nhau về khung thời gian thực thi các điều khoản. Do Mỹ đã tuân thủ tất cả các luật lệ của WTO và là một trong những nước tự do hoá thương mại nhất trên thế giới nên hầu như tất cả các điều khoản trong Hiệp định, Mỹ đều thực hiện ngay. Còn Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên kèm theo bản Hiệp định là 9 bản phụ lục có quy định các lộ trình thực hiện cho phù hợp với Việt Nam .Hiệp định được xây dựng trên hai nguyên tắc quan trọng đó là nguyên tắc “tối huệ quốc” và “đối xử quốc gia”. Khái niệm “Tối huệ quốc” (đồng nghĩa với Quan hệ Thương mại bình thường) mang ý nghĩa hai bên cam kết đối xử với hàng hoá, dịch vụ, đầu tư của nước kia không kém phần thuận lợi so với cách đối xử với hàng hoá, dịch vụ, đầu tư của nước thứ ba (đương nhiên không kể đến các nước nằm trong Liên minh thuế quan hoặc Khu vực mậu dịch tự do mà hai bên tham gia, ví dụ Mỹ sẽ không được hưởng những ưu đãi của ta dành cho các nước tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và ta cũng không được hưởng tất cả các ưu đãi Mỹ dành cho các nước khác trong Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Còn khái niệm “Đối xử quốc gia” thì nâng mức này lên như đối xử với các công ty trong nước.Hai khái niệm này quan trọng vì chúng được đề cập đến ở hầu hết các chương của bản Hiệp định.Ngoài ra, các phụ lục được dùng để liệt kê các trường hợp loại trừ, chưa hoặc vĩnh viễn không áp dụng hai khái niệm trên. Chương 1: Thương mại hàng hoá gồm 9 điều. Chương 2: Quyền Sở hữu trí tuệ gồm 18 điều. Chương 3: Thương mại dịch vụ gồm 11 điều. Chương 4: Phát triển Quan hệ đầu tư gồm 15 điều. Chương 5: Những điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động bình thường. Chương 6: Những điều khoản minh bạch và quyền được kháng cáo. Chương 7: Những điều khoản chung. Liên quan đến đầu tư , hiệp định thương mại Việt-Mỹ có các bảo đảm về đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia, minh bạch và bảo vệ trong trường hợp tước quyền sở hữu. Bên cạnh đó Việt Nam cũng tiến hành một số thay đổi trong cơ chế đầu tư của mình như: thẩm định đầu tư, chuyển đổi lợi nhuận ra ngoại tệ, ngưỡng góp vốn, các yêu cầu về nhân sự đối với liên doanh tính minh bạch….Dựa trên những thay đổi và cam kết được kí trong Hiệp định, quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực đầu tư đã có nhiều bước phát triển nhanh và thiết thực. Liên hệ với Việt Nam Cho đến năm 2005, Mỹ đã có 248 dự án tại Việt Nam với tổng trị giá khoảng 2 tỷ USD, trong đó 209 dự án trị giá 1,3 tỷ USD đang còn hiệu lực. Môi trường kinh doanh được cải thiện, các doanh nghiệp lớn của Hoa Kỳ đã và đang tiếp tục tìm kiếm các cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Trưa 21/6/2007 (giờ Mỹ), Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã chứng kiến lễ ký Hiệp định Khung về Thương mại và Đầu tư (TIFA) giữa hai nước Việt - Mỹ, dọn đường cho việc đạt một thỏa thuận mậu dịch tự do. Hiệp định Thương mại Song phương (BTA), tư cách thành viên WTO của Việt Nam, Hiệp định Khung về Thương mại và Đầu tư (TIFA) mở ra nhiều cơ hội hợp tác hơn nữa trong các vấn đề thương mại, lĩnh vực mà cả Hoa Kỳ và Việt Nam đều ưu tiên. Hơn thế, những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO càng làm tăng niềm tin và sức hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư Mỹ, triển vọng đầu tư của Mỹ lại thêm phần sáng sủa. Với tổng số vốn đầu tư đạt 4,1 tỷ USD trong năm 2009, Hoa Kỳ đã trở thành nhà đầu tư đứng thứ 7 trong tổng số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Hãng tin DPA trích nguồn bộ phận thống kê của bộ này cho hay đầu tư từ các công ty Mỹ chiếm tới 37% lượng đầu tư nước ngoài từ đầu năm tới nay. Các dự án lớn của Mỹ tập trung trong lĩnh vực dịch vụ, như khách sạn và du lịch. Nhiều doanh nghiệp Mỹ đã đề xuất về các dự án đầu tư của mình dự định chuyền khai ở Việt Nam như: Tập đoàn Alcoa Inc- tập đoàn hàng đầu thế giới về năng lượng và khai khoáng quan tâm đến việc phát triển quan hệ hợp tác với Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam và tỉnh Đăk Nông trong việc xây dựng một nhà máy tinh luyện nhôm công suất 1,5 triệu m3/năm. Tập đoàn Cummins mong muốn phát triển các hệ thống phân phối sản phẩm ngành điện lực, điện tử tại Việt Nam. Cummins cũng mong muốn thúc đẩy triển khai liên doanh sản xuất xe buýt và và xe tải cỡ lớn với một đối tác Việt Nam.Trong khi đó, Hãng Gannon - một nhà đầu tư quốc tế đa ngành mong muốn đẩy nhanh việc cấp phép xây dựng một khu công nghiệp và xây dựng một nhà máy điện ở Việt Nam. Hãng năng lượng điện lớn nhất thế giới AES quan tâm đến Dự án Nhiệt điện Nghi Sơn và Dự án Nhiệt điện Ô Môn; đồng thời hợp tác với các Tập đoàn lớn của Việt Nam như Petro Việt Nam, Tổng Công ty Sông Đà để phát triển các dự án năng lượng. 2.3.2. Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa chính phủ cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính phủ nước cộng hòa Tat –gi- ki-xtan (19/01/1999) Mục đích của hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư nhằm thúc đẩy sáng kiến kinh doanh và tăng cường sự thịnh vượng của hai nước Nội dung hiệp định - Khuyến khích và bảo hộ đầu tư: + Khuyến khích và tạo các điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư của Bên ký kết kia đầu tư trên lãnh thổ của mình và sẽ tiếp nhận khoản vốn đó phù hợp với luật và quy định của mình. + Những đầu tư của nhà đầu tư của mỗi Bên sẽ được đối xử thỏa đáng, công bằng và được bảo hộ đầy đủ, an toàn trên lãnh thổ của Bên ký kết kia trong suốt thời gian đầu tư. - Đối xử tối huệ quốc + Mỗi Bên ký kết sẽ đối xử công bằng, thỏa đáng đối với đầu tư của các nhà đầu tư của Bên ký kết kia và không làm thiệt hại bởi những biện pháp vô lý và phâ biệt đối xử đối với việc vận hành, quản lý, duy trì, sử dụng, thừa hưởng hay định đoạt những đầu tư của họ. + Mỗi Bên ký kết sẽ dành cho các đầu tư đó đối xử, trong bất kỳ trường hợp nào không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho đầu tư của nhà đầu tư của bất kỳ quốc gia thứ ba nào. + Nếu một Bên ký kết dành những ưu đãi đặc biệt cho nhà đầu tư của bất kỳ quốc gia thứ ba nào trên cơ sở Hiệp định thành lập liên minh thuế quan, liên minh kinh tế, liên minh tiền tệ hoặc những tổ chức tương tự hoặc trên cơ sở của những Hiệp định hướng tới việc thành lập các liên minh này, thì Bên ký kết đó không bắt buộc phải dành cho nhà đầu tư của Bên ký kết kia những ưu đãi như vậy. -Tước đoạt quyền sở hữu + Không một Bên ký kết nào được áp dụng bất kỳ biện pháp tước đoạt quyền sở hữu, quốc hữu hóa hoặc bất kỳ sự tước quyền chiếm giữ nào khác có hậu qủa tương tự như quốc hữu hóa hay tước đoạt quyền sở hữu đối với đầu tư của nhà đầu tư của Bên ký kết kia, trừ khi: a. Các biện pháp này áp dụng vì mục đích mà pháp luật cho phép hoặc vì mục đích công cộng và theo trình tự thủ tục pháp lý; b. Các biện pháp này là không phân biệt đối xử; c. Các biện pháp này được kèm theo những quy định về việc trả tiền bồi thường nhanh chóng, đầy đủ và hiệu qủa. Khoản bồi thường phải tương đương với giá trị thị trường hợp lý của đầu tư bị thiệt hại ngay trước khi biện pháp tước quyền chiếm giữ được công bố. Giá trị thị trường này được xác định phù hợp với thực tiễn và các biện pháp quốc tế được thừa nhận, hoặc khi giá trị thị trường hợp lý đó không thể xác định được, thì đó sẽ là khoản bồi thường do các Bên ký kết thỏa thuận. Khoản bồi thường sẽ được tự do chuyển ra khỏi nước chủ nhà bằng đồng tiền tự do sử dụng. - Bồi thường thiệt hại + Nhà đầu tư của một Bên ký kết có đầu tư bị tổn thất do chiến tranh hoặc xung đột vũ trang, tình trạng khẩn cấp quốc gia, khởi nghĩa, nổi loạn hoặc bạo động trên lãnh thổ của Bên ký kết kia thì sẽ được Bên ký kết kia xem xét bồi thường như khôi phục, đền bù, bồi thường hoặc bằng cách giải quyết khác. + Sự đối xử trên sẽ không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Bên ký kết đó dành cho nhà đầu tư nước mình hoặc nhà đầu tư của bất kỳ quốc gia thứ ba nào, tuỳ thuộc sự đối xử nào là thuận lợi hơn đối với nhà đầu tư bị thiệt hại. -Thế quyền + Nếu đầu tư của nhà đầu tư của một Bên ký kết được bảo hiểm về những rủi ro phi thương mại bởi một tổ chức được thành lập theo pháp luật, thì việc thế quyền của cơ quan bảo hiểm hoặc tái bảo hiểm đối với các quyền của nhà đầu tư nêu trên phù hợp với điều kiện của bảo hiểm đó sẽ được Bên ký kết kia công nhận, với điều kiện, cơ quan bảo hiểm hoặc tái bảo hiểm không được thực hiện các quyền khác ngoài các quyền mà nhà đầu tư trên có quyền thực hiện. - Giải quyết các tranh chấp: Tranh chấp giữa nhà đầu tư và một Bên ký kết + Bất kỳ tranh chấp nào giữa một Bên ký kết với nhà đầu tư của Bên ký kết kia liên quan tới đầu tư trên lãnh thổ Bên ký kết này sẽ được giải quyết bằng thương lượng, hòa giải. + Nếu vụ tranh chấp không thể giải quyết trong thời gian 6 tháng kể từ ngày có yêu cầu bằng văn bản về giải quyết bằng thương lượng hòa giải, thì theo yêu cầu của nhà đầu tư liên quan, vụ tranh chấp sẽ được đưa ra: a. Trình tự thủ tục pháp lý được quy định bởi Bên ký kết là một Bên tranh chấp; hoặc b. Trung tâm quốc tế giải quyết tranh chấp về đầu tư (ICSID) để giải quyết bằng hòa giải hoặc trọng tài theo Công ước về giải quyết các tranh chấp đầu tư giữa Quốc gia và Công dân của Quốc gia khác được ký tại Washington ngày 18 tháng 3 năm 1965, trong trường hợp hai Bên ký kết là thành viên của Công ước này. Tranh chấp giữa các Bên ký kết liên quan đến giải thích và áp dụng Hiệp định Tranh chấp giữa các Bên ký kết liên quan đến giải thích và áp dụng Hiệp định này nếu có thể sẽ được giải quyết bằng con đường ngoại giao. CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ 1. Khái niệm các biện pháp bảo đảm đầu tư Để thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn và tài sản đầu tư thì bất kỳ quốc gia nào cũng cần thể hiện sự thiện ý trong việc tiếp nhận đầu tư. Các quy định về bảo đảm đầu tư là một phương thức thể hiện thiện ý này. Có thể hiểu một cách đơn giản, các biện pháp bảo đảm đầu tư là những biện pháp được thể hiện trong các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện hoạt động với mục đích kinh doanh. Đây chính là những cam kết từ phía nhà nước tiếp nhận đầu tư với các chủ đầu tư về trách nhiệm của nhà nước tiếp nhận đầu tư trước một số quyền lợi cụ thể của nhà đầu tư. Ở các quốc gia có luật đầu tư, các biện pháp bảo đảm đầu tư thường được xây dựng dựa trên những chuẩn mực chung, tiêu chí chung. Điều này được thể hiện rất rõ thông qua các điều ước quốc tế về đầu tư, đặc biệt là các Hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư... Căn cứ theo các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, các biện pháp bảo đảm đầu bao gồm: bảo đảm quyền sở hữu tài sản hợp pháp; bảo đảm đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư; bảo đảm về cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư; bảo đảm việc chuyển lợi nhuận và thu nhập hợp pháp khác của nhà đầu tư ra nước ngoài; bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư khi có những thay đổi bất thường của chính sách, pháp luật và một số biện pháp bảo đảm đầu tư khác. 2. Cơ sở pháp lý để áp dụng các biện pháp bảo đảm đầu tư tại Việt Nam a. Văn bản pháp luật trong nước Bằng việc quy định các biện pháp bảo đảm đầu tư, pháp luật trong nước có vai trò rất quan trọng đối với việc thu hút các nhà đầu tư. Nhận thức rõ được vai trò quan trọng đó, Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới đã có nhiều văn bản pháp luật ghi nhận về các biện pháp bảo đảm đầu tư: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hiệu lực từ 01/01/2014; Luật đầu tư năm 2005 ra đời thay thế cho Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2000) và Luật khuyến khích đầu tư trong nước 1998 (sửa đổi), về cơ bản vẫn giữ nguyên tinh thần của các cam kết bảo hộ trước đây đều được Luật đầu tư năm 2005 kế thừa, tạo ra sự ổn định, đồng bộ, nhất quán trong các quy định về bảo đảm đầu tư ở Việt Nam. Ngoài ra trong hệ thống các văn bản pháp luật của Việt Nam tồn tại một số văn bản không trực tiếp điều chỉnh quan hệ đầu tư nhưng lại chứa đựng các quy định mang tinh thần của các biện pháp bảo đảm đầu tư, như: Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật chuyên ngành khác như Luật Đất đai (2003), Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, ... b. Các điều ước quốc tế Các điều ước quốc tế là một trong những căn cứ không thể thiếu khi xác định cơ sở pháp lý để áp dụng các biện pháp bảo đảm đầu tư ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Thống nhất được các biện pháp bảo đảm đầu tư trong các điều ước quốc tế cũng có nghĩa là các quốc gia tham gia điều ước đã tiến hành bổ sung thêm vào các cam kết về bảo đảm đầu tư của pháp luật quốc gia một cách thức bảo hộ mới, bằng việc đặt ra một số nguyên tắc chung về bảo đảm đầu tư, theo đó các nước thành viên phải tuân theo những biện pháp bảo đảm chung này. Các điều ước quốc tế này bao gồm các điều ước quốc tế đa phương như Hiệp định TRIMS, Hiệp định khung AIA; điều ước quốc tế song phương : Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư ký kết giữa Việt Nam và Singapore, Lào, Campuchia, Malaisia, Phần Lan, Thụy Điển, Đan Mạch; Hà Lan, Italia; … hay Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư ký kết giữa ASEAN ( Việt Nam là thành viên) với các quốc gia Trung Quốc, Nhật Bản v.v… II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI BAN HÀNH CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO ĐẦU TƯ 1. Mối quan hệ giữa các biện pháp bảo đảm đầu tư và môi trường đấu tư Mối quan hệ giữa các biện pháp bảo đảm đầu tư và môi trường đấu tư thể hiện cụ thể ở những khía cạnh sau: Thứ nhất, các biện pháp bảo đảm đầu tư góp phần không nhỏ tạo ra một môi trường đầu tư bình ổn. Các biện pháp bảo đảm dựa vào các tiêu chí như: tính đơn giản, minh bạch trong các quy định và cách thức áp dụng chúng trong thực tế; tính công bằng trong tương quan so sánh với các nhà đầu tư khác; tính hiệu quả đối với việc giảm bớt các chi phi về tài chính và thời gia của các nhà đầu tư. Do có sự ổn định trong các quy định về các biện pháp bảo đảm đầu tư mà hầu như ở quốc gia nào các nhà đầu tư cũng có thể yên tâm đầu tư trong môi đầu tư không có sự xáo trộn, ít nhất là các vấn đề cơ bản liên quan đến những lợi ích trực tiếp của các nhà đầu tư. Thứ hai, việc cải tạo các biện pháp bảo đảm đầu tư đồng nghĩa với việc cải tạo môi trường đầu tư bao gồm: điều kiện về tự nhiên, điều kiện về nguồn nhân lực, điều kiện về mức độ phát triển nguồn nhân lực, điều kiện về pháp luật,….. 2. Vai trò của nhữngbiện pháp bảo đảm đầu tư 2.1 Góp phần tăng thu hút đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài Vai trò của những biện pháp bảo đảm đầu tư được phát huy khi chúng góp phần làm tăng sức hút các nguồn vốn của môi trường đầu tư 2.2 Các biện pháp bảo đảm đầu tư là công cụ thể hiện rõ nét nhất thái độ của nhà nước đối với các nhà đầu tư và dự án của họ Cùng với các biện pháp khuyến khích đầu tư, các biện pháp bảo đảm đầu tư chính là một trong những công cụ thể hiện thái độ của nhà nước về mục đích thu hút vốn đầu tư và cũng chính điều này góp phần không nhỏ làm tăng thêm niềm tin của các nhà đầu tư vào chính quyền nước tiếp nhận đầu tư ngay kể từ khi các nhà đầu tư chưa tiến hành trên thực tế. 2.3 Thể hiện được tính chất nhất quán giữa pháp luật về đầu tư và pháp luật chuyên ngành khác Khi pháp luật đầu tư ghi nhận các biện pháp bảo đảm đầu tư thì quy phạm pháp luật của các ngành luật có liên quan khác cũng phải nhất quán với những biện pháp đầu tư đó. Trên đây là những vai trò cơ bản và quan trọng của các biện pháp bảo đảm đầu tư III. NỘI DUNG CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ 1. Bảo đảm quyền sở hữu tài sản hợp pháp Bảo đảm về quyền sở hữu là một trong những nội dung quan trọng của các biện pháp bảo đảm đầu tư, hiện nay với hơn 20 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư ký kết giữa Việt Nam và các quốc gia khác, bảo đảm về quyền sở hữu là nội dung được quy định hàng đầu. Theo đó, quyền sở hữu là quyền bất khả xâm phạm, và các quốc gia nơi tiếp nhận đầu tư chỉ có thể quốc hữu hóa, trưng mua, trưng dụng có bồi thường trong những trường hợp đặc biệt mà pháp luật quốc gia đó có quy định trên cơ sở không phân biệt đối xử. Theo quy đinh pháp luật Việt nam, trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, tổ chức theo giá thị trường. Khoản 3 Điều 51 Hiến pháp (có hiệu lực từ 01/01/2014) quy định: “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.” Ngoài ra, bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp của các nhà đầu tư được pháp luật của Việt Nam còn được ghi nhận tại khoản 3 Điều 4 Luật Đầu tư 2005 :"Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư; thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các hoạt động đầu tư"– Khoản 3 Điều 4 Luật Đầu Tư 2. Bảo đảm đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư Dựa trên nguyên tắc đối xử quốc gia và nguyên tắc đối xử tối huệ quốc của luật pháp quốc tế (những điều ước quốc tế mà chúng ta tham gia ví dụ Hiệp định đầu tư AIA), Việt Nam hiện nay đã đưa ra các biện pháp bảo đảm đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư. Trước đây, căn cứ vào nguồn gốc vốn, hoạt động đầu tư ở Việt Nam được chia ra làm hoạt động đầu tư trong nước và hoạt động đầu tư nước ngoài, theo đó, các hoạt động đầu tư này chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, Luật Đầu tư 2005 ra đời đã thống nhất điều chỉnh các hoạt động đầu tư, không phân biệt nguồn gốc vốn. Bảo đảm đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư được thể hiện trên rất nhiều phương diện. Ví dụ: các nhà đầu tư đều hưởng một chế độ ưu đãi, hỗ trợ đầu tư như nhau dựa trên tiêu chí địa bàn và lĩnh vực đầu tư; các nhà đầu tư được áp dụng thống nhất giá, phí, lệ phí, hàng hóa dịch vụ do Nhà nước kiểm soát (theo Điều 10 Luật Đầu tư); đều được hoạt động trong các lĩnh vực ngành nghề kinh doanh pháp luật không cấm… Luật đầu tư của Việt Nam quy định: Nhà đầu tư được đầu tư trong các lĩnh vực và ngành, nghề mà pháp luật không cấm; được tự chủ và quyết định hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam; Nhà nước đối xử bình đẳng trước pháp luật đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư.; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được bình đẳng trong vấn đề xin cấp phép kinh doanh, ngành nghề kinh doanh như doanh nghiệp Việt Nam v.v… Tuy nhiên, cần nhìn nhận rằng, sự bình đẳng này cũng chỉ mang tính tương đối. Ví dụ: nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam thì còn phải thực hiện theo lộ trình tuân thủ cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam khi gia nhập WTO…. 3. Bảo đảm cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư Biện pháp bảo đảm đầu tư này được quy định tại 12 Luật Đầu tư. Khi có tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư đòi hỏi phải được giải quyết thỏa đáng bằng một phương thức chọn lựa phù hợp để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, vừa đảm bảo trật tự pháp luật và kỷ cương xã hội, giáo dục được ý thức tôn trọng pháp luật của công dân. Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp phải đảm bảo nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật. Quyết định giải quyết các tranh chấp phải có tính khả thi cao, thi hành được và quá trình giải quyết phải đảm bảo tính dân chủ và quyền tự định đoạt của các bên với chi phí giải quyết thấp. Tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư tại Việt Nam được giải quyết thông qua thương lượng, hoà giải, Trọng tài hoặc Tòa án theo quy định của pháp luật. Tranh chấp giữa các nhà đầu tư trong nước với nhau hoặc với cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua Trọng tài hoặc Toà án Việt Nam. Tranh chấp mà một bên là nhà đầu tư nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc tranh chấp giữa các nhà đầu tư nước ngoài với nhau được giải quyết thông qua một trong những cơ quan, tổ chức sau đây: - Toà án Việt Nam; - Trọng tài Việt Nam; - Trọng tài nước ngoài; - Trọng tài quốc tế; - Trọng tài do các bên tranh chấp thoả thuận thành lập. Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua Trọng tài hoặc Toà án Việt Nam, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng được ký giữa đại diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền với nhà đầu tư nước ngoài hoặc trong điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Việt Nam ký kết rất nhiều Hiệp định song phương về hỗ trợ tư pháp cũng như đã tham gia Công ước New York 1958 về việc công nhận và cho thi hàng quyết định của trọng tài nước ngoài… Mới đây, Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định 4/2014/QD-TTg về quy chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang nghiên cứu ra nhập rất nhiều điều ước quốc tế liên quan đến vấn đề giải quyết tranh chấp đầu tư. Đây là những ví dụ minh họa cụ thể cho việc thực hiện biện pháp bảo đảm cơ chế giải quyết tranh chấp của Việt Nam 4. Bảo đảm việc chuyển lợi nhuận và thu nhập hợp pháp của nhà đầu tư ra nước ngoài Bảo đảm việc chuyển lợi nhuận và thu nhập hợp pháp của nhà đầu tư ra nước ngoài cũng là một nội dung quan trọng trong các Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam đã ký kết. Biện pháp đảm bảo này được quy định tại Điều 9 Luật Đầu tư 2005. - Đối với hoạt động đầu tư trực tiếp: Thông tư số 186/2010/TT-BTC ngày 18/11/2010 Hướng dẫn thực hiện việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của các tổ chức, cá nhân nước ngoài có lợi nhuận từ việc đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo quy định của Luật Đầu tư. Theo đó, lợi nhuận chuyển từ Việt Nam ra nước ngoài có thể bằng tiền hoặc bằng hiện vật. Lợi nhuận chuyển ra nước ngoài bằng tiền theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối. Lợi nhuận chuyển ra nước ngoài bằng hiện vật và thực hiện quy đổi giá trị hiện vật theo quy định của pháp luật về xuất nhập khẩu hàng hoá và quy định của pháp luật liên quan. Lợi nhuận được chuyển ra nước ngoài hàng năm là lợi nhuận nhà đầu tư nước ngoài được chia hoặc thu được của năm tài chính từ hoạt động đầu tư trực tiếp căn cứ trên báo cáo tài chính đã được kiểm toán, tờ khai quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp của doanh nghiệp mà nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư cộng với(+) các khoản lợi nhuận khác như khoản lợi nhuận chưa chuyển hết từ các năm trước chuyển sang; trừ đi (-) các khoản nhà đầu tư nước ngoài đã sử dụng hoặc cam kết sử dụng để tái đầu tư tại Việt Nam, các khoản lợi nhuận nhà đầu tư nước ngoài đã sử dụng để trang trải các khoản chi của nhà đầu tư nước ngoài cho hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc cho nhu cầu cá nhân của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Lợi nhuận được chuyển ra nước ngoài khi kết thúc hoạt động đầu tư tại Việt Nam là tổng số lợi nhuận nhà đầu tư nước ngoài thu được trong quá trình đầu tư trực tiếp tại Việt Nam, trừ đi (-) các khoản lợi nhuận đã được sử dụng để tái đầu tư, các khoản lợi nhuận đã chuyển ra nước ngoài trong quá trình hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam và các khoản đã sử dụng cho các chi tiêu khác của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhà đầu tư nước ngoài không được chuyển ra nước ngoài số lợi nhuận được chia hoặc thu được từ hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam của năm phát sinh lợi nhuận trong trường hợp trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư của năm phát sinh lợi nhuận vẫn còn số lỗ luỹ kế sau khi đã chuyển lỗ theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp. Ví dụ: Nhà đầu tư nước ngoài A góp vốn thành lập Công ty tại Việt Nam. Năm 2009, Công ty có phát sinh số lỗ là 4 tỷ đồng. Giả sử năm 2010, Công ty có thu nhập trước thuế là 3 tỷ đồng. Như vậy, sau khi bù trừ chuyển lỗ từ năm 2009 chuyển sang theo quy định, trong năm 2010 Công ty có số lỗ là 1 tỷ đồng. Công ty không được chia lợi nhuận cho các bên tham gia góp vốn và nhà đầu tư nước ngoài A không được chuyển lợi nhuận được chia của năm 2010 về nước. Giả sử năm 2010, Công ty có thu nhập trước thuế là 5 tỷ đồng. Như vậy, sau khi bù trừ chuyển lỗ từ năm 2009 chuyển sang theo quy định, trong năm 2010 Công ty còn lại số thu nhập chịu thuế TNDN là 1 tỷ đồng. Nếu thuế suất thuế TNDN Công ty áp dụng là 25% thì Công ty thực hiện nộp thuế TNDN là 250 triệu đồng (= 1 tỷ đồng x 25%). Công ty được chia số lợi nhuận sau thuế cho các bên tham gia góp vốn và nhà đầu tư nước ngoài A được chuyển lợi nhuận được chia của năm 2010 về nước. Đối với hoạt động đầu tư gián tiếp: mới đây Thông tư 05/2014/TT-NHNN ra đời quy định về quyền chuyển lợi nhuận đối với hoạt động đầu tư nước ngoài gián tiếp vào Việt Nam. 5. Bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư khi có nhưng thay đổi về chính sách, pháp luật Theo quy định tại Điều 11 Luật Đầu tư năm 2005 thì các nhà đầu tư sẽ được bảo đảm khi có những thay đổi pháp luật, chính sách Trường hợp pháp luật, chính sách mới ban hành làm anhr hưởng bất lợi đến lợi ích hợp pháp mà nhà đầu tư đã được hưởng trước khi quy định của pháp luật, chính sách đó có hiệu lực thì nhà đầu tư được bảo đảm hưởng các quyền ưu đãi như quy định tại Giấy chứng nhận đầu tư hoặc được giải quyết bằng một, một số hoặc các biện pháp sau đây: - Tiếp tục hưởng các quyền lợi, ưu đãi; - Được trừ thiệt hại vào thu nhập chịu thuế; - Được điều chỉnh mục tiêu hoạt động của dự án; - Được xem xét bồi thường trong một số trường hợp cần thiết. Căn cứ vào quy định của pháp luật và cam kết trong điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Chính phủ quy định cụ thể về việc đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư do thay đổi pháp luật, chính sách ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của nhà đầu tư. CÁC BIỆN PHÁP KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ 1. Khái niệm các biện pháp khuyến khích đầu tư Dưới góc độ ngôn ngữ học, "khuyến khích" được hiểu là việc tạo điều kiện thuận lợi hơn bình thường để phát triển một công việc nào đó. "Đầu tư" là việc bỏ ra giá trị nào đó, bao gồm nhân lực, vật lực, của cải vật chất với mục đích thu về một giá trị lớn hơn giá trị bỏ ra. Như vậy, khuyến khích đầu tư theo cách hiểu thông thường là việc tạo điều kiện thuận lợi để chủ đầu tư bỏ ra một giá trị vật chất, phi vật chất vào một mục đích nhất định. Dưới góc độ pháp lý, pháp luật Việt Nam không đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh nào về "khuyến khích đầu tư" mà chỉ có định nghĩa về "đầu tư". Khoản 1, Điều 3, LĐT (2005) của Việt Nam định nghĩa "đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định có liên quan". Theo định nghĩa của Diễn đàn Thương mại và phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD) thì "khuyến khích đầu tư hay còn gọi là ưu đãi đầu tư là biện pháp được Chính phủ sử dụng để thu hút đầu tư, hướng các dự án đầu tư vào các ngành, các khu vực cần thiết hoặc ảnh hưởng đến tính chất của đầu tư" Như vậy, khuyến khích đầu tư được hiểu là một sự ưu đãi hơn so với mức thông thường nhằm thúc đẩy, tác động tích cực tới các chủ thể được khuyến khích là các nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để tiến hành sản xuất, kinh doanh, hình thành tài sản trong các hoạt động đầu tư. Khuyến khích đầu tư là việc một Chính phủ đưa ra hệ thống các chính sách, biện pháp thuận lợi hơn bình thường để thu hút sự đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước hoặc để định hướng phát triển kinh tế theo những mục tiêu nhất định. Ở Việt Nam, tất cả các dự án đầu tư đều chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư chung, trong đó các dự án này đều được hưởng các biện pháp khuyến khích đầu tư như nhau nếu đó là dự án đầu tư có mục đích kinh doanh, do các chủ đầu tư tiến hành đầu tư tại Việt Nam hoặc đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài. Luật đầu tư của Việt Nam lấy tiêu chí lĩnh vực đầu tư và địa bàn đầu tư là những tiêu chí cơ bản để áp dung các biện pháp khuyến khích đầu tư. Trên cơ sở xác định lĩnh vực và địa bàn đầu tư của từng dự án mà xác định những ưu đãi cũng như hỗ trợ đầu tư cụ thể. Các biện pháp khuyến khích đầu tư bao gồm: các biện pháp khuyến khích về thuế; các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ về thủ tục hành chính để tiến hành một dự án đầu tư; các biện pháp hỗ trợ phát triển trong quá trình đầu tư; các biện pháp khuyến khích liên quan đến các chính sách sử dụng đất, mặt nước, mặt biển và các nguồn tài nguyên khác; và một số các biện pháp khuyến khích khác như việc mở rộng ngành nghề đầu tư hoặc chính sách cởi mở trong vấn đề sử dụng lao động, ... 2. Cơ sở pháp lý để áp dụng các biện pháp khuyến khích đầu tư a. Hệ thống các văn bản pháp luật trong nước Ngày nay, vấn đề khuyến khích đầu tư luôn được các quốc gia coi trọng, không ngừng hoàn thiện và phát triển. Bất kỳ quốc gia nào cũng ban hành hệ thống văn bản luật để điều chỉnh chi tiết vấn đề này. Cụ thể, việc khuyến khích đầu tư ở Việt Nam được ghi nhận trong Hiến pháp - đạo luật cao nhất của quốc gia, rồi quy định tập trung trong Luật Đầu tư, trong các nghị định, nghị quyết của Chính phủ, các thông tư, chỉ thị của các bộ, ngành liên quan, cụ thể: - Điều 51 Hiến pháp có hiệu lực từ 01/01/2014 quy định về vấn đề khuyến khích đầu tư; - Luật Đầu tư (2005) hay còn gọi là luật đầu tư thống nhất đã làm cho việc phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không còn tồn tại nữa, trong đó có quy định khá đầy đủ, khái quát các ưu đãi đầu tư. Vấn đề khuyến khích đầu tư được quy định riêng tại chương V, chia thành 3 mục là Lĩnh vực địa bàn đầu tư, Ưu đãi đầu tư, Hỗ trợ đầu tư làm cơ sở để xác định chủ thể được hưởng ưu đãi, các biện pháp ưu đãi và thủ tục hưởng ưu đãi. - Một số luật chuyên ngành như Luật thuế Thu nhập cá nhân (2008), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (2008), Luật Thuế Xuất nhập khẩu (2005), Luật Đất đai (2003), Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp...... có quy định một số vấn đề ưu đãi trong hoạt động đầu tư - Các văn bản dưới luật như Nghị định số 108/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư; Nghị định số 61/2010/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện ưu đãi đầu tư trong nông nghiệp.... b. Các hiệp định liên quan đến khuyến khích đầu tư giữa Việt Nam và các nước khác Với tầm quan trọng của đầu tư đối với sự phát triển của nền kinh tế, trong quan hệ đối ngoại giữa các nước trong khu vực và trên thế giới luôn luôn không thể thiếu được những thỏa thuận liên quan đến đầu tư. Trong đó có khoảng hơn 40 hiệp định mà Việt Nam tham gia với các nước khác có liên quan đến lĩnh vực khuyến khích đầu tư, bao gồm cả hiệp định thương mại song phương và đa phương, có chứa đựng những ràng buộc hoặc không ràng buộc với chính phủ Việt Nam trong việc ban hành các biện pháp khuyến khích đầu tư. Một số hiệp định đa phương có quy định về các biện pháp khuyến khích đầu tư như: Hiệp định hình thành khu vực mậu dịch thương mại tự do ASEAN; Thỏa thuận năm 1994 của GATT về các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại; các nguyên tắc đầu tư không ràng buộc của APEC;….. II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẶT RA CÁC BIỆN PHÁP KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ 1. Mối quan hệ giữa các biện pháp khuyến khích đầu tư và môi trường đấu tư Trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư chính là môi trường đầu tư. Môi trường đầu tư tốt là môi trường có đủ hai yếu tố bảo đảm đầu tư và khuyến khích đầu tư. Mối quan hệ giữa các biện pháp khuyến khích đầu tư và môi trường đấu tư thể hiệnqua một số mặt sau: Thứ nhất , các biện pháp khuyến khích đầu tư và môi trường đầu tư không tách rời nhau khi đánh giá khả năng thu hút vốn trong và ngoài nước của một quốc gia nhất định. Khuyến khích đầu tư chính là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên môi trường đầu tư. Thứ hai , các biện pháp khuyến khích đầu tư là cơ sở để tạo ra môi trường đầu tư tốt. Thứ ba , môi trường đầu tư tốt giúp cho Nhà nước có nhiều điều kiện để cải thiện các biện pháp khuyến khích đầu tư 2. Vai trò của các biện pháp khuyến khích đầu tư 2.1 Thu hút vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài Đối với dòng vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài, việc đưa ra các biện pháp khuyến khích đầu tư có ý nghĩa như một trong các động thái nhằm góp phần cải thiện môi trường đầu tư, tạo ra sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư. 2.2 Nhà nước chủ động cơ cấu lại nền kinh tế thông qua việc ban hành và áp dụng các biện pháp khuyến khích đầu tư Ở từng quốc gia, ngoài những ưu đãi chung giống nhau, như thủ tục về hành chính, tài chính thì thông thường sẽ có những ưu đài khác nhau phụ thuộc vào việc quốc gia đó muốn phát triển ngành nào, lĩnh vực nào của nền kinh tế và đồng thời phụ thuộc vào ngành đó, lĩnh vực đó đóng vai trò quan trọng như thế nào đối với nền kinh tế của quốc gia trong từng thời kỳ nhất định. 2.3 Tạo ra sự động bộ của hệ thống pháp luật đầu tư, phù hợp với thông lệ quốc tế Việc hợp tác quốc tế trên nền tảng thương mại dẫn đến một loạt các vấn đề cần giải quyết trong nội bộ từng quốc gia, với mục đích đầu tiên là để quốc gia ấy có thể tiến hành các hoạt động thương mại quốc tế. một trong những vấn đề cần giải quyết chính là hoàn thiện hệ thống pháp luật thương mại sao cho phù hợp với yêu cầu của mỗi quốc gia và các các quốc gia khác. Trong bối cảnh đó, khuyến khích đầu tư cần hoàn thiện để ranh giới giữa các vấn đề này giữa các quốc gia được rút ngắn. III. NỘI DUNG CÁC BIỆN PHÁP KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ Các ưu đãi đầu tư đối với các dự án đầu tư đuwocj xét để áp dụng chủ yếu dựa trên quy định về những địa bàn và lĩnh vực ưu đãi đầu tư. Cụ thể, Điều 27, 28 Luật Đầu tư năm 205 có quy định: Lĩnh vực ưu đãi gồm có: + Sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới; sản xuất sản phẩm công nghệ cao; công nghệ sinh hoạt, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo + Nuôi trồng chế biến nông, lầm, thủy sản, làm muối; sản xuất giống nhân tạo, giống cây trồng và giống vật nuôi mới; + Sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại; bảo vệ môi trường sinh thái; nghiên cứu, phát triển và ươm tạo công nghệ cao; + Sử dụng nhiều lao động; +Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng, các dự án quan trọng, có quy mô lớn; +Phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục, thể thao và văn hóa dân tộc; +Phát triển ngành nghề truyền thống + Những lĩnh vực sản xuất, dịch vụ khác cần khuyến khích. Địa bàn ưu đãi đầu tư bao gồm: + Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điề kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn; + Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Dựa trên 2 tiêu chí này, một số biện phpas ưu đãi về tài chính được đặt ra: 1. Các ưu đãi về tài chính Hiện nay, các ưu đãi về tài chính theo quy định của pháp luật Việt Nam bao gồm: a. Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp: Nghị định 218/2013 ra đời quy định về những ưu đãi đối với thuế thu nhập doanh nghiệp. Cụ thể, thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn 15 năm áp dụng đối với: Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, khu kinh tế, khu công nghệ cao, kể cả khu công nghệ thông tin tập trung được thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới thuộc các lĩnh vực: Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; ứng dụng công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển theo quy định của Luật Công nghệ cao; ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; đầu tư mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên phát triển theo quy định của pháp luật về công nghệ cao... Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực bảo vệ môi trường, bao gồm: Sản xuất thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường, thiết bị quan trắc và phân tích môi trường; xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường; thu gom, xử lý nước thải, khí thải, chất thải rắn; tái chế, tái sử dụng chất thải. Doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Trường hợp doanh nghiệp đang hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc đã hưởng hết ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp mà được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thì mức ưu đãi đối với doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được xác định bằng mức ưu đãi áp dụng cho doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trừ đi thời gian ưu đãi đã hưởng (cả về thuế suất và thời gian miễn, giảm nếu có). Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực sản xuất (trừ dự án sản xuất mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, dự án khai thác khoáng sản) đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: Dự án có quy mô vốn đầu tư tối thiểu 6 nghìn tỷ đồng, thực hiện giải ngân không quá 3 năm kể từ khi được cấp phép đầu tư và có tổng doanh thu tối thiểu đạt 10 nghìn tỷ đồng/năm chậm nhất sau 3 năm kể từ năm có doanh thu; Dự án có quy mô vốn đầu tư tối thiểu 6 nghìn tỷ đồng, thực hiện giải ngân không quá 3 năm kể từ khi được cấp phép đầu tư và sử dụng trên 3.000 lao động chậm nhất sau 3 năm kể từ năm có doanh thu. Số lao động quy định nêu trên là số lao động có ký hợp đồng lao động làm việc toàn bộ thời gian, không tính số lao động bán thời gian và lao động hợp đồng ngắn hạn dưới 1 năm. Thuế suất 10% đối với một số loại thu nhập Nghị định cũng quy định, áp dụng thuế suất 10% đối với các khoản thu nhập sau: Phần thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện hoạt động xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường; phần thu nhập từ hoạt động xuất bản của Nhà xuất bản theo quy định của Luật Xuất bản; phần thu nhập từ hoạt động báo in (kể cả quảng cáo trên báo in) của cơ quan báo chí theo quy định của Luật Báo chí; phần thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư-kinh doanh nhà ở xã hội để bán, cho thuê, cho thuê mua đối với các đối tượng quy định tại Điều 53 Luật Nhà ở. Ngoài ra, áp dụng thuế suất 10% đối với khoản thu nhập của doanh nghiệp từ: Trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng; nuôi trồng nông, lâm, thủy sản ở địa bàn kinh tế-xã hội khó khăn; sản xuất, nhân và lai tạo giống cây trồng, vật nuôi; sản xuất, khai thác và tinh chế muối trừ sản xuất muối; đầu tư bảo quản nông sản sau thu hoạch, bảo quản nông, thủy sản và thực phẩm; phần thu nhập của hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp không thuộc địa bàn kinh tế-xã hội khó khăn và địa bàn kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, trừ thu nhập của hợp tác xã theo quy định. Thuế suất 20% đối với thu nhập của doanh nghiệp đầu tư mới tại địa bàn KTXH khó khăn Cũng theo Nghị định này, thuế suất 20% trong thời gian 10 năm áp dụng đối với: Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn; thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới: Sản xuất thép cao cấp; sản xuất sản phẩm tiết kiệm năng lượng; sản xuất máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp; sản xuất thiết bị tưới tiêu; sản xuất, tinh chế thức ăn gia súc, gia cầm, thuỷ sản; phát triển ngành nghề truyền thống. Doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư mới vào các lĩnh vực, địa bàn ưu đãi thuế kể từ ngày 1/1/2016 áp dụng thuế suất 17%. Thuế suất 20% áp dụng đối với quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô và kể từ ngày 1/1/2016 áp dụng thuế suất là 17%. Đối với quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô sau khi hết thời hạn áp dụng mức thuế suất 10% thì chuyển sang áp dụng mức thuế suất 20% (và kể từ ngày 1/1/2016 là 17%). Thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi quy định nêu trên được tính liên tục từ năm đầu tiên doanh nghiệp có doanh thu từ dự án đầu tư mới; đối với doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được tính từ ngày được công nhận là doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; đối với dự án ứng dụng công nghệ cao được tính từ ngày được cấp giấy chứng nhận dự án ứng dụng công nghệ cao. b. Ưu đãi về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: Hiện nay, việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài không bị đánh thuế. c. Ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu: Các hàng hóa, máy móc phục vụ cho các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài nằm trong diện được xét miễn, giảm thuế, nhập khẩu theo quy định tại Nghị định 87/2010/ND-CP. d. Ưu đãi về thuế giá trị gia tăng e. Ưu đãi về tài chính khác Ngoài những ưu đãi về tài chính kể trên, dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn được nhận một số ưu đãi khác liên quan đến vấn đề về chuyển lỗ kinh doanh, khấu hao tài sản. 2. Các ưu đãi liên quan đến chính sách sử dụng đất, mặt nước, mặt biển Tùy thuộc vào các dự án thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư hoặc đầu tư tại địa bàn được khuyến khích đầu tư sẽ được hưởng nhữn ưu đãi cụ thể theo quy định pháp luật. 3. Các biện pháp hỗ trợ về thủ tục hành chính Trước sức ép của việc cải thiện cơ chế đầu tư, Việt Nam đã và đang thay đổi những quy định liên quan đến đầu tư, kinh doanh với mục đích tạo môi trường đầu tư thông thoáng hơn, đặc biệt là giảm bớt các rào cản về hành chính tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư Việt Nam. Cụ thể: Tạo ra cơ chế một cửa để xin cấp phép đầu tư Rút ngắn thời gian cấp phép đầu tư Cải thiện hình thức đăng ký đầu tư Thành lập các cơ quan xúc tiến đầu tư 4. Các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ để khuyến khích đầu tư khác: Có thể kế đến như loại bỏ giấy phép con, mở rộng ngành nghề lĩnh vực được phép đầu tư; loại bỏ chế độ phân biệt về giá giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài; hỗ trợ chuyển giao công nghệ; sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam v.v..
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro