Chương 4: Nguyên Bá đau bệnh tiến cử Ma Lôi
Đang nói lúc ấy bọn Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng nuôi quân rèn tướng, tích thảo dồn lương đã được hơn năm năm. Hai nhà lại liên kết với nhau tạo ra thế phên giậu rất vững chắc.
Chiều ngày rằm tháng chạp, Nguyễn Nộn đang cùng các tướng uống rượu vui vẻ, nghe tin Trần Thủ Độ đã phế vua nhà Lý, liền trợn mắt, nghiến răng ken két, nói:
- Thằng thuyền chài này to gan thật. Ta thề phải moi gan nó ra mới nghe. Anh em ai có kế gì phá được họ Trần, sẽ thưởng công đầu.
Các tướng bàn định, mỗi người dâng một kế sách nhưng xem ra đều bất khả thi cả. Đỗ Nguyên Bá vẫn ngồi uống rượu, chẳng nói chẳng rằng. Nguyễn Nộn thấy thế hỏi:
- Đỗ quân sư mọi khi rất hăng hái tranh đàm, sao hôm nay ngồi yên thế?
Nguyên Bá vẫn không nói gì, cứ ngật ngà ngật ngưỡng uống hết chén này đến chén khác. Nguyễn Nộn cáu tiết quát:
- Đỗ quân sư sao hôm nay lại gở đời ra thế này?
Nguyên Bá lúc ấy mới ngẩng lên, nói:
- Xin đại vương tha tội. Tôi đang nghĩ kế cho đại vương nên không để ý. Nay trong đầu tôi đã có kế hay rồi đây.
Nguyễn Nộn bảo:
- Quân sư đã có kế hay sao không nói cho mọi người cùng nghe?
Nguyên Bá cười tươi tỉnh, nói:
- Quân cơ bất cáo chúng. Đã gọi là kế hay mà lại nói cho mọi người cùng nghe thì còn gì là kế nữa.
Trương Thái cười ầm lên, nói:
- Quân sư nói đúng lắm, đúng lắm. Việc ấy để quân sư bàn với đại vương. Anh em ta cứ chén đã.
Mọi người ai nấy lại uống, say tuý luý cả. Nguyễn Nộn kéo Nguyên Bá vào một căn mật thất, chỗ này là nơi Nguyễn Nộn chỉ khi nào bàn việc cơ mật hoặc giao trọng sự cho ai đó mới dùng đến, nói:
- Ở đây quân sư đã cho ta nghe kế sách được chưa?
Nguyên Bá hỏi:
- Có phải đại vương muốn đánh phương Đông?
Nguyễn Nộn hỏi lại:
- Sao quân sư biết?
Nguyên Bá nói:
- Xưa nay đại vương là người dùng binh cẩn trọng, lẽ đâu lại bàn việc đại sự hớ hênh như thế nên tôi biết đại vương không có ý đánh họ Trần. Mà muốn đánh phía Đông?
Nguyễn Nộn nói:
- Quả quân sư xét việc rất tài, đến Tư Mã Trọng Đạt cũng chẳng hơn gì. Đúng là ta muốn đánh xong phía Đông, gồm thâu binh lực, sau đó mới tính đến họ Trần. Ý quân sư thế nào?
(Tư Mã Trọng Đạt: Tư Mã Ý, danh tướng nước Nguỵ thời Tam Quốc. Ông theo đạo Vô Vi nên thường tránh những cuộc giao tranh. Ông chủ trương và biết kết thúc chiến tranh bằng cách tốn ít xương máu nhất. Chính vì vậy thừa tướng Thục Hán là Gia Cát Lượng sáu lần đánh Nguỵ đều thất bại, phải rút quân về. Sau này con cháu Tư Mã Ý lần lượt diệt Nguỵ, Thục, Ngô thống nhất Trung Quốc, lập nên nhà Tấn. Thời Lý, Trần ở nước ta các tư liệu về nhân vật thời Tam Quốc đều được du nhập qua con đường sử sách bác học của giới trí thức hoặc do những nghệ nhân lang thang kể chuyện. Bộ Tam Quốc Diễn Nghĩa như ngày nay chúng ta đang đọc lúc ấy chưa ra đời)
Nguyên Bá nói:
- Xin đại vương đừng làm vậy. Sở dĩ anh hùng hào kiệt đất Bắc theo về với đại vương là vì ngài biết giữ tín nghĩa. Lâu nay hai nhà Nguyễn, Đoàn liên thủ tạo ra thế phên giậu, vì thế họ Trần không làm gì được. Bây giờ đại vương đánh Hồng châu, một khi chiến sự nổ ra, nếu quyết đánh cho kì được thì hao binh tổn tướng mà chắc gì ta đã thủ thắng, lúc ấy không còn liên kết nữa hai bên đều yếu đi, họ Trần sẽ nhân cơ hội đó mà thôn tính từng nhà. Như thế có phải tự nhiên tạo ra cái thế trai cò đấu nhau, lão ông đắc lợi không? Còn không đánh cho kì thắng thì chẳng được gì mà lại gây thù chuốc oán, khác nào tự chặt tay mình. Vả lại Đoàn vương cũng không có lỗi gì với bên ta mà cất quân đến đánh là không chính danh, đã không chính danh tất mang tiếng bất nghĩa, thiên hạ sẽ nghĩ thế nào về đại vương đây?
Nguyễn Nộn hỏi:
- Theo quân sư, nên đánh họ Trần ư?
Nguyên Bá nói:
- Đúng vậy.
Nguyễn Nộn bảo:
- Ta sợ Thủ Độ là bậc anh hùng thời nay, khó mà đánh được.
Nguyên Bá nói:
- Trần Thủ Độ, thực ra y chỉ là một kẻ cơ hội, vũ dũng vô mưu, may mắn nắm được nhà vua, sai khiến thiên hạ chứ đâu có thực tài.
(Ngô Thì Sĩ gọi Trần Thủ Độ là kẻ thậm vô mưu (Vsta).)
Nguyễn Nộn hỏi:
- Muốn đánh họ Trần phải làm thế nào?
Nguyên Bá nói:
- Muốn đánh họ Trần trước hết có bốn việc cần làm: Một là cần cử người sang hẹn với Đoàn vương để cùng tiến binh, bảo Đoàn vương vượt sông đánh vào phía Đông Nam, khoá chặt phía Nam thành Đại La rồi phá luỹ, đánh vào Hồng Mai, Kẻ Mơ. Hai là cho người mang vàng bạc đến giúp người man ở Quảng Oai, bảo họ đem quân quấy nhiễu phía Tây để Thủ Độ phải chia bớt quân ra chống đỡ. Ba là ta trương ngọn cờ phù Lý diệt Trần để chiêu mộ thêm binh lính, huấn luyện một đội quân cảm tử. Vì La thành và Đại La thành đều có luỹ tre gai dày bao bọc nên tôi sẽ huấn luyện một đạo hoả công binh, dùng vào việc đốt phá luỹ. Bốn là đại vương phải thân đốc thúc việc thu góp thuyền bè để vượt sông.
( thành và Đại La Thành: Vị trí hai toà thành này cho đến nay (2001) vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Một số học giả dựa vào di vật khảo cổ và những di tích còn lại xác định thành Đại La chạy từ Vĩnh Tuy dọc theo sông Nhị lên bao lấy Tây Hồ, theo tả ngạn sông Tô Lịch, qua đường Láng, phố Đại La, phố Minh Khai về Vĩnh Tuy, tổng cộng chiều dài khoảng 30km)
Nguyễn Nộn theo kế của Nguyên Bá, lập tức cho quân thi hành. Nguyên Bá chọn trong đám du binh những người tinh tráng khoẻ mạnh, thành lập đạo hoả công binh đưa ra giữa cánh đồng đắp luỹ giả luyện tập. Khi ấy đang là tháng giêng, trời mưa phùn và rét lắm. Nguyên Bá ngày nào cũng đem quân đi tập nên bị cảm lạnh, lúc đầu chỉ ho húng hắng nhưng sau bệnh tăng lên, phát sốt, phải giao việc luyện quân cho viên tuỳ tướng là Phan Ma Lôi. Ma Lôi nguyên người Chiêm Thành sang buôn bán ở Ai Lao rồi đến Đại Việt (Theo ĐVsktt), nhân gặp lúc Nguyễn Nộn chiêu binh mới tới ra mắt. Nguyễn Nộn vốn tính hiếu kì, thấy Ma Lôi nói tiếng Việt không sõi, nghe là lạ, nhận vào làm nô. Đỗ Nguyên Bá thấy Ma Lôi thông minh sắc sảo lại chăm chỉ mới xin Nguyễn Nộn cho mình, làm tuỳ tướng. Những công việc Nguyên Bá giao, Ma Lôi đều làm rất chu đáo. Vì vậy Nguyên Bá mới dạy Ma Lôi học chữ và cách dùng binh. Ma Lôi học đến đâu nhớ đến đấy, được Nguyên Bá khen là người cơ trí. Qua rằm tháng giêng, Nguyên Bá ốm càng nặng, Nguyễn Nộn đến thăm. Nguyên Bá hỏi:
- Mọi việc đại vương đã chuẩn bị đến đâu rồi?
Nguyễn Nộn bảo:
- Xong cả rồi, chỉ chờ quân sư khoẻ là khởi binh thôi.
Nguyên Bá nói:
- Nhỡ tôi không khỏi thì sao? Mai là ngày Hoàng Đạo, đại vương nên cất quân đi ngay thôi, để chậm lại, mấy tháng nữa nước sông lên to lúc ấy có muốn tiến cũng không được.
Nguyễn Nộn bảo:
- Nhưng quân sư ốm thế này nhỡ ra có bề gì thì ta không đành lòng, ba quân biết trông cậy vào ai.
Nguyên Bá nói:
- Mạng tôi là ở giời, cần gì phải lo cho lắm. Nhỡ tôi có làm sao cũng sẽ có người khác giúp đại vương.
Nguyễn Nộn nghe theo, về lệnh cho các tướng hôm sau lên đường, lại sai người đem gấm che cho xe của Nguyên Bá. Hai ngày sau, hậu quân do Nguyễn Sĩ Vinh chỉ huy sang hết bờ hữu ngạn sông Thiên Đức, đội tiền quân do Trương Thái làm tiên phong đã đến bến Bồ Đề. Nguyễn Nộn giữ đạo trung quân, có Vương Thiện Luân và Quách Thanh làm tả hữu đội. Ma Lôi cầm cây phủ đi hộ vệ xe quân sư Đỗ Nguyên Bá ở ngay chính giữa. Nguyễn Sĩ Hiển cùng Võ Hàn chỉ huy đại đội binh thuyền. Buổi chiều lập xong trại trên bến Bồ Đề làm căn cứ vượt Nhị hà. Lúc đó Đỗ Nguyên Bá thấy trong mình khoan khoái, mới bảo Ma Lôi đưa mình đi xem doanh trại rồi cùng Nguyễn Nộn lên đê ngắm dòng sông Nhị cuồn cuộn chảy. Từng xoáy nước cồn lên ngụp xuống, màu phù sa nhuốm trong ánh nắng chiều, đỏ như pha máu. Trên bờ, doanh trại kéo dài dọc theo triền sông liên tiếp mấy dặm, các trại đều có bốn cửa, ra vào thuận tiện che chắn cho nhau. Dưới sông thuyền bè san sát, chia làm ba đội, tiến lui rất nhịp nhàng, các đội có thể thay nhau chở quân sang rồi quay về thuận tiện. Hàng vạn tay cung sẵn sàng dội những trận mưa tên về phía quân địch. Những giàn lệ chi pháo (Giàn lệ chi pháo: Máy bắn ra nhiều viên đạn đá cỡ quả vải) nghễu nghện trên các thuyền lớn, chĩa sang bên hữu ngạn. Cờ xí tung bay, chiêng trống vang lừng. Đỗ Nguyên Bá nói với Nguyễn Nộn:
- Ráng chiều đỏ thế này, sáng mai chắc gió Đông Bắc thổi mạnh. Đêm nay đại vương cho quân canh tư nấu cơm ăn, canh năm bắt đầu sang sông. Trời sáng, đạo tiền quân phải sang hết bờ bên kia, dọn đường cho đại quân ta kéo sang. Gió càng mạnh càng thuận lợi cho ta. Quân Trần ở bờ Tây Nam là mất lợi thế rồi.
Nguyễn Nộn vui vẻ nói:
- Không ngờ hành quân vất vả thế, quân sư lại khoẻ lên. Thật là trời giúp ta. Thủ Độ, lần này xem ngươi có còn tác yêu tác quái được nữa không?
Nguyễn Nộn nói xong cười ha hả, dẫn mọi người về trại. Nửa đêm Đỗ Nguyên Bá đau lắm, thổ ra nhiều máu tươi, gọi Ma Lôi lại bên giường, đưa cho cuốn sách, dặn:
- Ngươi theo ta mấy năm nay, ít nhiều đã học được chút binh pháp. Đây là cuốn Bát thập nhất kì mưu, ta đã dày công đúc kết trong nhiều năm, áp dụng chưa bao giờ sai sót, nay trao lại cho ngươi. Ta xem trong người không thể sống thêm được nữa. Sau khi ta đi rồi, ngươi phải hết lòng phò tá đại vương. Mong ngươi chớ phụ lòng ta.
(Bát thập nhất kì mưu: Tám mươi mốt mưu lạ)
Ma Lôi khóc lạy, nhận sách rồi cho người đi báo với Nguyễn Nộn. Lúc Nguyễn Nộn tới, Nguyên Bá đã yếu lắm. Nộn cầm tay Bá, khóc nói:
- Quân sư ơi! Chẳng lẽ lại bỏ ta mà đi trong lúc này ư?
Nguyên Bá nói rất khẽ:
- Tôi từ khi theo đại vương, ngoài là nghĩa quân thần mà thực ra bên trong đại vương coi tôi như bè bạn, nói thì nghe, kế thì dùng. Ơn ấy sâu nặng lắm, tiếc rằng kiếp này chưa thể báo đền. Nay tôi không theo hầu đại vương được nữa, xin đại vương chớ đau buồn. Ma Lôi là người có thể thay tôi, xin trả lại đại vương để đại vương sai khiến. Đại vương nhận một lạy! Tôi đi!
Quân sư Đỗ Nguyên Bá nói xong thì tắt thở, năm ấy mới hai mươi tám tuổi. Nguyễn Nộn thương khóc không biết nhường nào. Trời đang khô tạnh bỗng mưa gió ào ào một lúc. Người ta nói đó là trời đất khóc Đỗ Nguyên Bá. Khi còn sống, Nguyên Bá có công nhưng không kiêu ngạo, tuổi trẻ ở ngôi cao mà vẫn chan hoà với mọi người, lại thường khuyên Nguyễn Nộn giữ điều tín nghĩa với kẻ sĩ, làm phúc cho bách tính. Nghe tin Nguyên Bá mất, từ quan đến dân xứ Bắc ai ai cũng thương khóc như mất người thân trong nhà. Sau trong dân có bài thơ than Nguyên Bá rằng:
Quân sư Đỗ Nguyên Bá
Tuổi trẻ tài cao
Kiên trung trời đã tỏ
Nhân nghĩa đất cũng hay
Mưu cơ một khối óc
Sức lực hai bàn tay
Giữa đường sao đứt gánh
Thương thay thương thay!
Đỗ Nguyên Bá chết, Nguyễn Nộn không dám tiến binh, cho người phi báo với Đoàn Thượng để Thượng kịp dừng lại. Trong khi đó bên Hữu ngạn Nhị hà, quân Trần ra sức củng cố phòng tuyến. Hai tướng Lê Khâm và Vương Lê đóng bản doanh ở bến Triều Đông thủ thế. Dùng dằng sang tháng hai vẫn chưa bên nào dám vượt sông, trời mưa dầm gió bấc, quân lính khổ cực không biết nhường nào. Phùng Tá Chu tâu rằng:
- Nay vẫn còn gió Bắc, đánh nhau trên sông tất quân ta thất lợi. Chi bằng hoàng thượng cứ phong vương cho hai nhà Nguyễn, Đoàn để họ bãi binh. Đợi sang hè ấm áp hẵng liệu sau.
Lúc ấy nhà vua còn ít tuổi chưa quyết định được. Thái sư Trần Thủ Độ nói:
- Lời bàn của Phùng thái phó rất phải.
Nhà vua mới cử sứ giả mang chiếu sang phong cho Nguyễn Nộn làm Hoài Đạo vương, chia cho đất Bắc Giang thượng, Bắc Giang hạ và Đông Ngạn. Nguyễn Nộn quỳ lạy xưng thần rồi lệnh cho rút quân về Bắc. Phan Ma Lôi can:
- Nay quân ta đang lợi thế. Họ Trần vì sợ mới phải đem mồi ra nhử. Đại vương nhân đây đánh ngay tất được, sao lại lui binh.
Nguyễn Nộn nói:
- Điều đó phải đâu ta không biết. Không phong vương ta vẫn là vương. Chia đất hay không đất ấy vẫn là của ta. Chúng đem cái của ta mà cho ta mới thật nực cười. Nhưng quân sư vừa mất, trong lòng ta trăm sự rối bời, quân tình nao núng, tiến binh chắc không lợi. Vả lại việc binh cốt thần tốc bất ngờ, điều cốt yếu ấy lỡ mất rồi. Quân Trần đã phòng bị chu đáo, ta làm sao mà thủ thắng được đây.
Ma Lôi nói:
- Đại vương đã có ý như vậy, việc rút quân phải cẩn trọng. Lê Khâm và Vương Lê là những tay rất giỏi thuỷ chiến, nếu thấy quân ta rút thế nào cũng đem quân chặn ngả về Thiên Đức giang thì quân ta khốn ngay.
Nguyễn Nộn nói:
- Ngươi nói phải lắm. Vậy làm sao?
Ma Lôi nói:
- Đêm nay trời mưa bụi, cách xa trăm bước không nhìn thấy nhau, ta cho một đội thuyền nhẹ đánh trống hò reo, giả vờ tấn công, còn đại đội binh thuyền của Nguyễn Sĩ Hiển mau chóng rút ngay về sông Thiên Đức để đưa bộ binh sang sông. Trên bờ nên giữ nguyên cờ quạt, lều trại để nghi binh.
Nguyễn Nộn nghe theo, sai người đi thực hiện.
Bên hữu ngạn, Vương Lâm là con trai của Vương Lê nói với bố:
- Con nghĩ Nguyễn Nộn đã thụ phong, chắc lơi lỏng phòng bị. Đêm nay ta cho quân tập kích, thế nào cũng thắng.
Vương Lê nói:
- Nguyễn Nộn là tay dùng binh lão luyện, chớ khinh thường mà mắc mưu hắn.
Vừa trống canh một, thấy bên tả ngạn trống đánh vang lừng, đèn đuốc sáng trưng. Trong ánh đuốc sáng mờ mờ, bóng tinh kì phấp phới suốt một dải dài đến mười mấy dặm. Mấy lớp thuyền địch xông sang, tên bay, pháo nổ vang cả mặt sông. Lúc ấy Lê Khâm về thành bàn việc với Trần Thừa. Vương Lê không biết quân địch nhiều hay ít nên chỉ ra lệnh các đạo binh thuyền phải giữ vững cửa trận không được ra đánh, lại cử mấy tốp lính bơi thuyền nhẹ đi thám thính. Quá canh ba thấy thuyền địch không ham đánh nữa mà kéo dần về phía thượng lưu. Quân thám thính cũng về báo quân địch chỉ có chưa đến năm mươi chiếc thuyền nhỏ do Võ Hàn chỉ huy nghi binh thế thôi, còn đại đội binh thuyền của Nguyễn Sĩ Hiển đã rút cả về phía sông Thiên Đức rồi. Vương Lê liền cho thuyền chiến đuổi theo nhưng đoàn thuyền của Võ Hàn đã đi xa.
Đoàn Thượng thấy Nguyễn Nộn nhận phong lui binh, cũng rút quân về Hồng châu.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro