Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

dao dau vang

1. Những xáo trộn trong đời tôi tại lữ quán

Ông Trelawney (nhà quý tộc chủ lâu đài), bác sĩ Livesey và nhiều vị khác đã yêu cầu tôi viết câu chuyện Đảo Châu Báu đầy đủ chi tiết từ đầu đến cuối, không bỏ sót một điều nào ngoại trừ vị trí của hòn đảo (chỉ vì trên đảo vẫn còn có một phần kho báu). Năm nay, 17...

Công nguyên, tôi cầm bút hồi tưởng lại thời ba tôi làm chủ lữ quán "Đô đốc Benbow" và có một người thủy thủ già lần đầu tiên đến ở trọ.

Khuôn mặt lão sạm nắng, hằn một vết sẹo dài do gươm chém.

Tôi nhớ lão rõ ràng như mới gặp hôm qua.

Vẫn còn thấy hình ảnh lão lê bước nặng nề tiến về phía cửa quán, theo sau là gã đàn ông đẩy một cái rương, loại các thủy thủ thường dùng, đặt trên một chiếc xe cút kít. Người lão cao, to và cường tráng, nước da hung hung, bím tóc lão dính hắc ín buông xuống cổ áo màu xanh dương hoen bẩn. Hai bàn tay lão sần sùi, chằng chịt vết sẹo, móng tay đen và xước lởm chởm. Vết sẹo dài ngang qua má có màu trắng nhợt, dơ dáy bẩn thỉu. Lão đưa mắt nhìn quanh vịnh, miệng khẽ huýt gió. Rồi sau đó, bằng một giọng eo éo, khàn vì tuổi già mà hình như lão vẫn thường cất lên trong lúc quay trục kéo neo, lão ngân nga khúc ca cổ xưa của giới thủy thủ. Khúc hát này về sau chúng tôi vẫn thường xuyên phải nghe.

Mười lăm kẻ trên chiếc rương người chết...

Nào dô ta khoan, rồi một chai rum!

Sau đó, lão cầm gậy gõ cửa. Khi ba tôi bước ra, lão cất giọng thô lỗ bảo lấy một ly rượu rum.

Lão nhắp rượu từ từ ra vẻ người sành sỏi, mắt vẫn không ngừng lướt nhìn lần lượt các vách đá trên bờ biển và bảng hiệu quán của chúng tôi.

- Vùng vịnh này tàu bè ra vào rất thuận tiện.

- Cuối cùng lão lên tiếng. - Và quán này thật là nơi đắc địa. Khách đông không hở ông bạn?

Ba tôi đáp rằng:

- Thật đáng tiếc là khách khứa rất thưa thớt.

- Thế thì tôi neo tại nơi đây... - Lão nói rồi gọi người đàn ông đẩy chiếc xe: "Này anh bạn.ơi, ghé vào quán này và đưa cái rương của tôi lên gác." - Tôi sẽ nghỉ lại quán ông ít hôm. - Lão nói tiếp. - Tính tôi dễ dãi: rượu rum và trứng chiên, tôi chỉ cần thế là đủ, cùng với mũi đất đằng kia để nhìn tàu bè ngoài khơi... Anh bạn phải gọi tôi thế nào nhỉ? Nói thực đấy, cứ gọi tôi là thuyền trưởng... à này, tôi hiểu điều làm ông băn khoăn là gì rồi.

Lão ném ba bốn đồng tiền vàng lên thềm quán và nói dứt điểm:

- Giữ lấy, từng đó đủ bao nhiêu ngày thì cứ cho tôi hay.

Tuy lão nói năng thô lỗ và ăn mặc lôi thôi nhưng lão có vẻ không phải là một người đi biển tầm thường mà đúng hơn là một tay đã từng làm cai thủy thủ quen thói chỉ huy ra lệnh. Lão là một người trầm lặng khác thường. Lão để phần lớn thì giờ đi lang thang trên bờ biển.

Hễ có một thủy thủ nào dừng chân vào quán là ông thuyền trưởng ấy tỏ ra cực kỳ thận trọng, không hé một lời. Tôi biết lý do vì sao lão có thái độ âu lo đó. Ngay từ khi mới đến, lão đã hứa mỗi tháng sẽ cho tôi một đồng cắc bốn xu nếu tôi báo liền cho lão khi có tên thủy thủ cụt một chân đến quán. Nhân vật cụt chân bí ẩn này ám ảnh trí tưởng tượng con nít của tôi không dứt.

Đôi khi vào lúc chiều tối, uống rượu rum say mèm, lão ê a những bài ca đi biển của lão và bắt những khách hàng khác phải cùng hát theo. Có những lần, lão trở về quán, với cơn giận dữ khủng khiếp, đấm tay xuống bàn làm nó rung lên bần bật. Lão yêu cầu mọi người giữ im lặng rồi bắt chúng tôi phải nghe lão kể những câu chuyện làm tôi nổi da gà. Nào là những vụ treo cổ, những vụ đâm chém, những trận đánh nhau tàn khốc, những trận bão kinh hoàng, những cuộc phiêu lưu kỳ bí trên khắp các đại dương... Chắc chắn lão đã từng sống chung với những tên côn đồ hải tặc hung bạo nhất trên biển cả.

Tôi nhận ra lão ta còn có một khuyết điểm nữa: lão chẳng thanh toán tiền ăn ở. Còn ba tôi, tính ông vốn cả nể, lại đang bệnh hoạn, ngán lão nổi giận nên chẳng dám đòi. Thế rồi một hôm, bác sĩ Livesey đến chăm sóc cho ba tôi và ngồi nán lại trong quán. Lão thuyền trưởng cất giọng ngâm nga bài ca cũ rích của lão:

Có mười lăm thủy thủ Trên chiếc rương người chết.Mười lăm lính thủy, mười lăm thủy thủ Dô ô ô! Dô ô ô!...

Đòi xin ngụm rượu.

(Tôi nghĩ rằng "chiếc rương người chết" chính là cái rương đang để trong phòng ngủ của lão). Lão thuyền trưởng đấm nắm tay xuống bàn.

Tôi hiểu đó là dấu hiệu giục chúng tôi im lặng.

Mọi người không ai hó hé chỉ trừ ông bác sĩ.

"Im lặng!" Lão già giận dữ tột độ hét lên.

- Có phải ông bảo tôi không đấy? - Bác sĩ bình tĩnh hỏi.

- Phải! - Tên côn đồ đáp.

- Tôi chỉ nói với ông một điều. - Bác sĩ Live-sey tiếp lời. - Nếu cứ tiếp tục say sưa chẳng sớm thì muộn ông sẽ chết vì rượu đấy.

Cơn giận của viên thuyền trưởng bùng lên dữ dội. Lão rút trong túi ra một con dao bầu to tướng, loại các thủy thủ thường dùng và tuốt lưỡi, lăm lăm trong tay. ông bác sĩ vẫn thản nhiên.

- Nếu ông không cất con dao ấy đi, tôi sẽ ra lệnh cho người của tôi bắt giữ ông ngay, tôi đây cũng là thẩm phán trị an.

Tối hôm ấy và mấy ngày sau, lão già khoác lác ngồi im không còn hó hé một tiếng.

ít lâu sau khi diễn ra cảnh ấy, lại bắt đầu xảy ra một loạt các sự kiện bí ẩn làm chúng tôi mặc dù đã thoát khỏi phiền phức với lão nhưng rồi như các bạn sẽ thấy, chúng tôi vẫn cứ phải dây dưa vào các công chuyện của lão. Mùa đông đã đến, một mùa đông lạnh lẽo khủng khiếp, kèm theo những đợt băng giá dài ngày, khắc nghiệt và những cơn bão dữ dội. Ngay đầu mùa, chúng tôi thấy rằng ba tôi rất ít cơ may được nhìn thấy mùa xuân. Càng ngày sức lực ba tôi càng sa sút.

Mọi việc trong quán trút lên đầu mẹ tôi và tôi:

Chúng tôi bận bịu với biết bao công việc nên không còn để ý đến người khách trọ khó ưa ấy nữa.

Hôm ấy là một buổi sáng tháng giêng, trời còn rất sớm và lạnh như cắt. Vùng vịnh chìm trong lớp sương giá màu xám nhạt. Sóng vỗ êm ả, bập bềnh trên bờ đá cuội. Mặt trời mới mọc vượt qua các đỉnh đồi và lấp lánh ngoài biển xa.

Lão thuyền trưởng dậy sớm hơn thường lệ, bước ra bãi cát, đeo con dao lủng lẳng dưới hai tà áo màu xanh dương cũ kỹ, tay kẹp cái ống nhòm bằng đồng và chiếc mũ ba sừng trật xuống sau gáy. Tôi còn nhớ hơi thở của lão phì ra phía sau một làn khói trắng trong khi lão bước nhanh ra biển. OEm thanh cuối cùng tôi nghe được từ miệng lão thốt ra lúc lão quặt qua tảng đá lớn là tiếng càu nhàu tức tối như thể lão còn nghĩ tới bác sĩ Livesey..Tôi đang ngồi một mình trong quán thì một kẻ lạ mặt bước vào. Tôi để ý thấy bàn tay trái của y cụt mất hai ngón và tay kia y cầm một con dao, loại lính thủy thường dùng.

Thất vọng, y có vẻ hòa nhã. Y bảo tôi lấy rượu rum ra. Tôi mang rượu cho y uống. Sau đó, y nhìn kỹ chiếc bàn và nói với tôi:

- Có phải phần ăn này dành cho Bill không?

- ở đây không có ai tên là Bill. - Tôi trả lời. - Phần ăn này là của một khách trọ tự xưng là thuyền trưởng.

- Lão ta có một vết sẹo to trên má trái và lão thích rượu rum, đúng vậy phải không cậu?

Đúng là lão Bill đang ở đây. Vậy cậu hãy đi báo cho lão hay là ta đang đợi lão. Lão sẽ hài lòng được gặp lại ta, ta cam đoan với cậu như vậy.

Ngay lúc ấy, lão thuyền trưởng đi dạo trở về.

Trông thấy chúng tôi, mặt lão trở nên tái mét, chỉ có mũi lão còn giữ chút màu xanh. Cả người lão dường như bị đông cứng lại vì nỗi kinh hoàng.

- Chó Mực! - lão lẩm bẩm trong miệng.

- Đúng vậy, Chó Mực bằng xương bằng thịt đến chào Bill người bạn cũ đây. Bạn còn nhớ ngày tôi mất hai ngón tay không?

- Đã tìm ra chỗ tôi ẩn trốn rồi thì cứ nói huỵch toẹt ra đi. Anh muốn gì?

- Trước hết chúng ta uống vài ly cái đã. -Chó Mực trả lời nhỏ nhẹ.

Tôi đem rượu ra cho hai người rồi rút lui ra sau quầy, tai vẫn lắng nghe câu chuyện của họ nhưng vì họ thì thầm với nhau nên tôi chẳng hiểu được họ nói gì. Thình lình một giọng nói cất to. Lão thuyền trưởng nổi giận đùng đùng.

Lão hét lên:

- Không, không, bọn mày cút hết cho khuất mắt ta!

Lúc ấy nổi lên tiếng ầm ĩ om sòm, tiếng huyên náo lộn xộn rồi một tiếng la đau đớn. Chó Mực bỏ chạy tay cầm con dao, hắn bị thương ở vai. Lão thuyền trưởng đuổi theo nhưng y nhanh chân hơn. Y đã biến mất. Người khách trọ của chúng tôi trở vào quán, ngây người choáng váng, đưa bàn tay lên che hai mắt.

- Jim, mang cho ta rượu rum đi! - Lão bảo tôi.

Tôi thấy lão lảo đảo, ngã lăn quay trên sàn nhà, hai mắt nhắm nghiền và khuôn mặt im lìm nhợt nhạt. Tôi nghĩ lão bị thương nên định cho lão nuốt chút ít rượu nhưng không cách gì làm được. Ngay lúc ấy bác sĩ Livesey bước vào. Tôi la lên:

- Lão thuyền trưởng bị thương, làm sao bây giờ bác sĩ?.- Bị thương? Tôi bảo đảm với cậu lão chẳng bị thương ở đâu cả. Đó là chứng lên máu mà tôi đã chắc chắn là ông ta sẽ mắc phải. Thôi, để tôi ráng sức hồi sinh cho tên vô lại đó. Cậu Jim, đi tìm cho tôi một cái chậu.

Khi tôi trở lại, ông bác sĩ đã lột trần cánh tay gân guốc của lão thuyền trưởng. Trên đó người ta dễ dàng đọc được những dòng chữ xăm vào da: "Cơ hội may mắn", "ý ngông của Billy Bones". Trên vai xăm hình một cái cột treo người bị xử giảo. ông bác sĩ lấy con dao nhọn chích vào tĩnh mạch. Máu chảy, một lúc lâu sau lão già mới mở mắt ra.

- Chó Mực đâu rồi? - Lão lẩm bẩm lên tiếng.

- Chẳng có ai là Chó Mực cả. ông đã uống quá nhiều rượu rum và bị lên máu như tôi đã báo trước cho ông biết. Tôi mới cứu ông thoát nạn. Cực chẳng đã. Nhưng đó là nghề nghiệp của tôi, ông Bone ạ.

- Tôi không phải tên là Bone. - Lão thuyền trưởng nói.

- Chuyện đó tôi không cần biết. - Bác sĩ ôn tồn tiếp lời. - Nhưng đây là lần cuối tôi khuyên ông đấy. Nếu ông cứ tiếp tục uống rum, ông sẽ chết thôi. Chắc chắn đấy! ông có nghe rõ lời tôi nói không?

Nói xong, ông bác sĩ đi vào phòng của ba tôi.

Khoảng giữa trưa, khi đang bê thuốc và các thứ nước giải khát, tôi dừng lại ở cửa phòng của lão thuyền trưởng. Lão vẫn ở trong tình trạng gần giống như lúc chúng tôi rời lão, tuy có đỡ hơn chút ít. Trông lão vừa yếu ớt, vừa đầy vẻ bấn loạn. Lão bảo tôi:

- Jim à, ở đây có mỗi cậu là người biết điều, cậu biết ta lúc nào cũng đối tốt với cậu. Chưa tháng nào ta quên đưa cậu đồng bốn xu. Giờ đây bạn ơi, như bạn thấy đó, ta bị mọi người coi rẻ và bỏ rơi. à này cậu Jim, cậu đem cho ta một ly rum ngay bây giờ được không nào?

- ông bác sĩ... - Tôi bắt đầu nói.

Lão ngắt lời tôi bằng những tràng nguyền rủa bác sĩ Livesey. Giọng lão yếu ớt nhưng đầy kích động.

- Bọn thầy thuốc toàn là những tên khờ khạo.

Ta đã từng sống ở những xứ nóng ran như lò lửa, ở đó bạn bè ta đứa nào cũng ngã bệnh sốt rét vàng da, những trận động đất kinh hồn khiếp đảm làm mặt đất nổi như sóng cồn... những xứ đó ông bác sĩ của cậu chưa bao giờ trông thấy đâu... Sở dĩ ta đã chịu đựng nổi, nói thật với cậu,.ấy là nhờ rượu rum. Ta lấy rum thay cho thức ăn đồ uống. Rum với ta chẳng khác gì như vợ với chồng. Giờ đây nếu mỗi ngày không được một ly rum, ta chỉ còn như xác con tàu trôi giạt trên bờ biển lộng gió. Ta sẽ oán hận cậu đấy Jim ạ và oán luôn cả tên thầy thuốc ngu ngốc của cậu.

Lão nguyền rủa thêm một thôi một hồi nữa rồi nói tiếp, giọng van lơn cầu khẩn:

- Jim à, cậu hãy nhìn thử xem các ngón tay của ta run đến như thế nào. Chẳng có cách gì ngăn chúng khỏi run được. Cam đoan với cậu suốt cả ngày nay ta không có một giọt rượu nào.

Ta nói cho cậu biết tên bác sĩ ấy là một kẻ ngu như lừa. Nếu không có một ly rum, Jim à, ta sẽ bị ảo giác thôi. Này nhé, chuyện này ta gặp rồi:

ta đã trông thấy lão già Flint trong góc kia, ở phía sau lưng cậu, rõ ràng như ta trông thấy cậu lúc này. Bởi ta là người đã sống một cuộc đời khốc liệt nên thế nào ta cũng gây ra lôi thôi.

Chính tên bác sĩ của cậu đã bảo một ly không làm ta đến nỗi nào mà. Jim, đem lại cho ta một chút rum, ta sẽ cho cậu một đồng vàng.

Lão cứ nổi cuồng lên mãi làm tôi rất lo vì hôm đó sức khỏe của ba tôi nguy kịch cần được yên tĩnh. Một mặt tôi yên tâm khi nghe lão thuyền trưởng nhắc lại những lời của ông bác sĩ, mặt khác tôi hơi bực mình vì lão tìm cách mua chuộc hối lộ tôi. Tôi nói:

- Tôi không thèm lấy tiền của ông đâu, trừ số tiền ông còn mắc nợ ba tôi. Tôi sẽ đưa cho ông một ly thôi, không được đòi thêm nữa đấy!

Tôi vừa đem rượu ra, lão đã bươn bả chụp lấy và nốc một hơi hết ngay.

- ái chà! - Lão kêu lên. - Thế là dễ chịu hơn nhiều, hẳn thế chứ... mà này cậu bé, tên bác sĩ của cậu có nói ta phải nằm lại trong cái xó góc chết tiệt này trong bao lâu không?

- Một tuần lễ.

- Quỷ tha ma bắt, đến một tuần! Thế là không được rồi. Từ đây đến đó, bọn chúng sẽ gởi cho ta một cái dấu màu đen. Tại sao bọn chúng đem hết tiền bạc của chúng ra mà phung phí chứ? Tại sao chúng không làm như ta đây...

Nhưng chúng sẽ không lấy được vàng của ta đâu.

Sáng nay cậu có thấy tên thủy thủ ấy không nhỉ?

- Chó Mực ấy à?

- Phải, hắn là một đứa vô lại, nhưng bọn kia còn tệ hơn nữa. Jim, Jim này, nếu ta không thể rời khỏi đây và nếu bọn chúng trao cho ta cái dấu đen, thì cậu nên nhớ là chúng muốn lấy cái.rương của ta đấy. Vậy cậu đừng chần chừ một giây nào, mà hãy chạy đến nhà tên bác sĩ kiêm thẩm phán ấy bảo y có thể tóm cổ băng đảng của lão già Flint ngay tại đây. Cậu biết không, trước đây ta là thuyền phó của lão và chỉ một mình ta biết chỗ chôn giấu thôi.

- Nhưng cái dấu đen là gì thế ông?

- Đó là một tờ trát lệnh của băng đảng đó, Jim ạ.

Lão còn nói huyên thuyên một lúc nữa, sau đó tôi đưa thuốc cho lão uống và lão ngã lăn ra ngủ li bì.

Tối hôm đó, ba tôi qua đời và chúng tôi buồn rầu không còn thiết nghĩ gì đến lão. Ngày hôm sau, trong nhà đang tang gia bối rối lại nghe lão ca eo éo quả là rất bực mình. Phải, lão đã uống rượu say và lại cất tiếng ca bài hát lè nhè của lão. Không ai dám cản lão im cả. Lão để con dao trên bàn, hằm hè đe dọa, tỏ ra dữ tợn hơn bao giờ hết.

Sau hôm đám tang ba tôi, trời vẫn không ngớt lạnh buốt xương, tôi đang ngồi một mình trong quán, lòng buồn da diết thì thấy trên đường một lão mù chống gậy bước tới.

- Có ai làm ơn cho biết lão già mù này đang ở vùng nào trên đất nước Anh không?

- ông đang đứng trước mặt lữ quán Đô đốc Benbow tại xứ Bristol. - Tôi sốt sắng trả lời.

- Tôi đang nghe giọng nói của một người còn rất trẻ. Cậu ơi, làm ơn đưa tay cho tôi nắm và dắt tôi vào với.

Tôi đưa tay ra và chợt thấy bàn tay mình bị lão nắm chặt như ép giữa hai gọng kìm siết.

Hoảng hốt, tôi cố gỡ ra. Nhưng lão mù giữ rất chặt.

- Hãy dẫn ta đến gặp lão thuyền trưởng.

- ôi, thưa ông, tôi không dám đâu.

- à ra mi muốn cưỡng lại lời ta. - Lão mù cười gằn. - Hãy dẫn ta đi còn không ta bẻ gãy tay mi đấy. Nào đi mau lên!

Tôi chưa bao giờ nghe một giọng nói nào dữ tợn, tàn nhẫn đến thế nên đâm ra hoảng sợ và quên đi vẻ hãi hùng trước đó của lão thuyền trưởng. Tôi mở cửa quán. Người khách trọ của chúng tôi cũng giật mình, hoảng hốt.

- Bill, không được nhúc nhích. - Lão mù nói.

- Mắt ta chẳng thấy quái gì nhưng tai ta thính lắm Bill, xích lại đây..Tôi ngạc nhiên thấy lão thuyền trưởng tuân lời. Người mù nhét một vật gì vào tay lão. Thế rồi y tức thì buông tôi ra, thoăn thoắt bỏ đi, cử động vững vàng một cách kỳ lạ và bước nhanh như gió. Lão thuyền trưởng cũng như tôi, sửng sốt nhìn vào lòng bàn tay của lão.

- Mười giờ. - Lão lẩm bẩm. - Cho tới mười giờ. Chúng ta còn sáu tiếng đồng hồ nữa để trốn thoát khỏi bọn chúng.

Ngay lúc ấy, lão đưa tay lên cổ, lão lảo đảo té phịch xuống đất. Tôi cất tiếng thật to gọi mẹ tôi. Nhưng không kịp nữa. Lão thuyền trưởng đã chết, không còn nhúc nhích. Tôi không cầm được nước mắt. Tôi chưa bao giờ thương mến lão côn đồ ấy nhưng vì chỉ mới trong vài tiếng đồng hồ mà đã là lần thứ hai thần chết gõ cửa nhà chúng tôi.

2. Những việc làm kỳ lạ của bọn thủy thủ

Đương nhiên, tôi đã vội vàng kể cho mẹ tôi nghe tất cả những gì tôi biết mà lẽ ra tôi đã phải kể cho bà từ lâu. Chúng tôi hiểu ngay là chúng tôi đang ở vào một tình huống khó xử và nguy hiểm. Chúng tôi có quyền lấy một phần trong số tiền của lão hải tặc (nếu lão có thật) nhưng rất có thể, lũ bạn của lão (đặc biệt là Chó Mực và lão hành khất mù) không dễ gì từ bỏ chiến lợi phẩm của chúng để trả nợ cho kẻ đã chết. Nếu tôi cứ theo lệnh của lão thuyền trưởng nhảy lên ngựa tức tốc đi báo cho bác sĩ Livesey tôi sẽ để mẹ tôi lại một mình không ai che chở và điều này tôi đoán chắc mình không dám làm. Cuối cùng, chúng tôi nảy ra ý kiến cả hai cùng chạy đến làng bên cạnh để cầu cứu. Nói là làm ngay. Không chần chờ, chúng tôi ra khỏi nhà chạy đầu trần không mũ nón trong đêm tối và sương mù giá buốt..Người trong làng không ai chịu đi với chúng tôi đến quán Đô đốc Benbow. Cái tên thuyền trưởng Flint mà tôi nghe người khách trọ đã chết của chúng tôi nhắc đến vốn quá quen thuộc ở làng ấy làm ai cũng khiếp vía. Có vài người tình nguyện sẵn sàng chạy đi báo cho bác sĩ Livesey chứ không ai muốn đến lữ quán.

Người ta thường nói bệnh nhát sợ là bệnh hay lây, nhưng mặt khác nói hay nói khéo cũng có thể làm con người trở nên bạo dạn. Khi từng người đã nói xong, mẹ tôi đứng lên tuyên bố bà không muốn số tiền thuộc về một đứa bé mồ côi cha bị hao hụt.

- Nếu các ông không dám đi theo chúng tôi, - Bà nói tiếp. - thì Jim và tôi sẽ là những người can đảm hơn các ông. Chúng tôi sẽ theo con đường cũ trở về lữ quán và dù sao tôi cũng xin cám ơn tất cả các ông, những người lề mề nhu nhược! Chúng tôi sẽ liều mạng mở cái rương đó ra cho mà xem...

Tôi nói tôi sẽ đi cùng với mẹ tôi và tất cả mọi người la lối phản đối sự táo bạo của chúng tôi. Tuy thế vẫn không ai chịu đi với chúng tôi cả. Họ chỉ cho tôi một cây súng ngắn đã lên đạn để tự bảo vệ nếu chúng tôi bị tấn công và họ hứa đóng yên ngựa sẵn đề phòng xảy ra trường hợp bị đuổi theo trên đường về. Ngoài ra một thanh niên trong làng phải đi ngay đến nhà ông bác sĩ và dẫn những người có trang bị vũ khí về.

Tim tôi nhảy thình thịch khi mẹ con tôi lên đường thực hiện chuyến đi nguy hiểm ấy trong đêm giá lạnh. Chúng tôi men theo các hàng rào, nín lặng và cố đi thật mau. Cuối cùng, không nghe cũng không thấy có gì đáng sợ hơn nữa, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm khi về đến cửa quán Đô đốc Benbow. Bước vào nhà rồi đóng ngay cửa lại, chúng tôi nghỉ xả hơi, sau đó mẹ tôi đốt một cây nến. Lão thuyền trưởng vẫn nguyên tại chỗ, nằm ngửa thẳng tay thẳng chân, mắt mở trừng trừng. Tôi kéo then cài cửa ra vào.

- Này Jim, con thả bức mành xuống. - Mẹ tôi ra lệnh. - Người ta có thể trông thấy chúng ta đó.

Còn bây giờ, phải lấy cái chìa khóa trên người hắn.

Tôi rùng mình sợ hãi nhưng vẫn quỳ xuống bên xác chết. Sát bên bàn tay đang mở xòe ra của lão, tôi trông thấy một mảnh giấy bị bôi đen một mặt, trên có ghi câu nhắn vắn tắt như sau: "Tối nay, mười giờ". Chắc chắn đó là cái dấu đen rồi.

- Mẹ à, trong này ghi đến mười giờ. Bây giờ mới sáu giờ, chúng ta còn thời gian. Thật may mắn.

- Con vẫn phải nhanh lên mới được. - Mẹ tôi bảo..Tôi moi móc các túi áo quần của xác chết.

Chỉ có một vài xu lẻ, một ít kim chỉ, vụn thuốc lá, một cái la bàn nhỏ. Tôi chẳng thấy gì khác nữa. Tôi nghĩ có lẽ lão ta đeo chìa khóa ở cổ.

Mặc dù thấy gớm, tôi vẫn vạch áo sơ mi của lão ra và quả thật thấy cái chìa khóa buộc vào một sợi dây trên cổ. Tôi dùng con dao của lão già để cắt sợi dây ấy. Sau đó, chúng tôi vội vã bước lên phòng ngủ của lão.

Chúng tôi trông thấy một cái rương cũ, làm bằng gỗ cứng, sờn góc và trên nắp có đánh dấu chữ "B" to tướng. Tôi tra chìa khóa vào ổ, tức thì mùi thuốc lá bốc lên nồng nặc. Trước tiên chúng tôi thấy một bộ quần áo còn mới cứng, vẻ như chưa bao giờ được đụng tới. Bên dưới là đủ thứ đồ vặt vãnh: một chiếc cặp lồng bằng thiếc, những cuộn thuốc lá, hai khẩu súng lục, một thỏi bạc, một đồng hồ cũ, vài ba món trang sức lặt vặt không đáng kể. Chẳng biết các thứ ấy đã đeo theo cuộc đời phiêu lưu và tội lỗi của lão được bao lâu rồi? Chúng tôi hối hả tiếp tục tìm kiếm. Một chiếc áo mưa cũ thủy thủ thường mặc bao kín một cái gói bọc vải dầu chứa đầy giấy tờ. Một cái túi khác đựng đầy vàng.

- Chúng ta sẽ chứng tỏ mình là người lương thiện. - Mẹ tôi nói. - Chúng ta chỉ lấy đủ phần mình, không thừa một xu.

Bà bốc những đồng tiền vàng lên đếm. Mẹ tôi muốn lấy đủ số tiền ghi trong phiếu tính tiền của lão thuyền trưởng. Thình lình, trong đêm khuya vắng lặng, tôi nghe tiếng gậy của lão mù gõ lộp cộp trên mặt đất cứng đóng băng. Chúng tôi lắng tai, hồi hộp nín thở. Tiếng động tiến lại gần hơn. Rồi lão mù tội nghiệp lay cánh cửa. Tiếng lộp cộp lại đi xa dần. Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm.

Đột nhiên, chúng tôi nghe một tiếng còi rúc lên cách quán không xa. Lần này không thể tính chuyện ở lại được nữa.

- Mẹ sẽ mang theo chừng này. - Mẹ tôi nói.

- Phần con sẽ lấy cái bọc vải dầu.

Một lát sau, chúng tôi nhào xuống cầu thang tối om, bỏ cây nến lại bên cạnh cái rương. Chúng tôi chạy ra đường cái. Đi được vài chục thước chúng tôi nghe tiếng bước chân. Chúng tôi vội nhảy xuống một cái mương. Một bọn đàn ông đang tiến về phía quán, mỗi người xách một cây đèn lồng. Chúng tôi sắp bị bắt rồi.

Tuy sợ lắm nhưng chẳng mấy chốc tính tò mò của tôi đã chiến thắng. Không thể nằm yên một chỗ, tôi bò lần đến bờ mương. Nấp sau một bụi gai, từ đó tôi có thể nhìn rõ đoạn đường chạy ngang trước cửa quán. Tôi vừa nấp vào chỗ.kín thì kẻ thù của tôi ập đến. Bọn chúng gồm bảy tám tên chạy loạn xạ trên đường cái sau một người đàn ông xách cây đèn độ mấy bước. Ba tên trong bọn chúng nắm tay nhau và qua lớp sương mờ mịt, tôi đoán tên đi giữa là lão hành khất mù. Một lát sau, giọng nói của lão cất lên và tôi biết mình không nhầm.

- Tông sập cửa đi! - Lão quát lên.

- Vâng, thưa thủ lĩnh! - Hai ba tên cướp trả lời.

Tất cả bọn chúng nhào tới quán. Tôi cầm đèn đi sau một quãng ngắn. Kế đến, tôi thấy bọn chúng dừng lại, thì thầm một vài tiếng như chừng chúng ngạc nhiên thấy cánh cửa đã mở. Nhưng chúng đứng không lâu vì lão mù lại một lần nữa ra lệnh.

- Vào đi! Vào đi chứ! - Lão hét to, mắng bọn chúng cứ chần chờ.

Tức thì bốn năm tên tuân lệnh còn hai tên khác thì ở lại ngoài đường cùng lão hành khất đáng gờm. Im lặng một lúc rồi một giọng nói từ trong nhà gọi lớn:

- Bill chết rồi!

Nhưng lão mù vẫn cứ mắng chửi bọn chúng một lần nữa, trách chúng chậm chạp:

- Tụi bây toàn một lũ chây lười, toàn bọn thủy thủ nhát gan! Một đứa lục người nó ngay cho ta. Mấy đứa kia trèo lên gác mang cái rương xuống.

Tôi nghe tiếng bọn chúng leo rầm rầm lên các bậc thang gác cũ kỹ mạnh đến nỗi căn nhà rung chuyển. Không lâu sau lại vang lên những tiếng la kinh ngạc khác. Cửa sổ phòng ngủ của lão thuyền trưởng bật mở kèm theo tiếng kính vỡ loảng xoảng. Dưới ánh trăng một người đàn ông thò hẳn đầu và vai ra ngoài ô cửa gọi với xuống lão mù đang đứng trên đường:

- Pew ơi, có bọn nào đã đến trước chúng ta và lục tung cái rương rồi.

- Cái đó có còn không? - Pew gào lên.

- Có tiền.

Lão mù không thèm để ý đến tiền. Lão nói:

- Ta nói về cái gói của Flint kia mà!

- Không thấy nó đâu cả.

- ‰, tên dưới nhà có thấy nó trong người thằng Bill không?

Một tên cướp khác, có lẽ là đứa ở lại trong phòng để lục soát xác của lão thuyền trưởng, xuất hiện trên ngưỡng cửa và trả lời:

- Trên người hắn không có gì hết.

- Đúng là thằng nhóc ấy rồi! - Lão mù gào lên. - Gặp nó là ta móc ngay mắt nó ra. Cũng còn kịp chán. Chắc nó đi chưa xa vì lúc nãy ta.đến, cửa còn cài then mà. Lục soát khắp mọi ngóc ngách coi nào!

Thình lình trong đêm tối vang lên hai tiếng còi chói tai.

- Còi báo động của Dirk đó, phải chuồn thôi!

- Một tên nói.

- Đứa nào nói chuồn? - Pew hét lớn. - Dirk là một tên hèn nhát. Đừng sợ gì tiếng còi của hắn. Phải tìm cho ra thằng bé. Chà! Giá mắt ta thấy đường! Lũ ngu ngốc kia, nếu tìm ra miếng giấy của lão Flint thì tụi bây vớ được cả triệu đồng đó. Nào, cố tìm cho kỹ đi!

Mấy tên khác hơi lưỡng lự, đứng yên một chỗ. Thái độ trơ lỳ đó làm lão mù lộn ruột. Lão nổi trận lôi đình. Lão quơ gậy đánh những tên ở gần tầm tay. Bọn chúng đáp lại bằng tiếng chửi thề và dọa nạt. Chúng còn tìm cách giật cây gậy của lão nhưng không được.

Cuộc cãi vã ấy giúp mẹ tôi và tôi thoát nạn.

Bởi vì lúc ấy, có tiếng vó ngựa phi đến gần. Rồi một phát súng vang lên. Đó là hiệu lệnh tháo chạy. Bọn du đãng mừng rỡ chạy tán loạn bỏ rơi lão mù ở lại. Chúng hoảng sợ hay chúng muốn trả thù lão? Tôi không biết sao mà nói. Pew cũng tìm cách thoát thân. Lão chạy về phía bờ mương bên đường cái, lăn người xuống đó. Lão vụt đứng lên nhưng chưa kịp thì đã gục xuống dưới chân con ngựa đầu tiên. Lão rú lên một tiếng ghê rợn.

Vó ngựa đạp bể đầu lão. Pew giật nảy người vài cái rồi nằm lịm bất động. Lão đã chết.

Tôi rời chỗ nấp, chạy về phía những người cưỡi ngựa. Họ là những nhân viên hải quan được triệu tập tới. ông thanh tra Dance, chỉ huy của toán, giục ngựa đuổi theo nhưng bọn cướp đã phóng xuống chiếc thuyền buồm, lúc nãy đã chở chúng đến, rồi nhổ neo. Một viên đạn xé ngang không khí. Chiếc thuyền qua khỏi mũi đất đỏ ở cửa vịnh rồi mất dạng.

Chúng tôi trở về lữ quán Đô đốc Benbow.

Quán trông thật thảm hại. Mọi thứ ngổn ngang và gãy nát. Bọn chúng đã lấy đi không những túi tiền của lão thuyền trưởng mà còn vơ vét hết tiền bạc còn lại trong quầy. Sản nghiệp của chúng tôi thế là tiêu tan. ông Dance không hề biết vì sao bọn cướp đã tức giận đến thế.

- Bọn chúng đã lấy tiền, chúng còn tìm gì thêm nữa? Tại sao chúng đập phá hư cả quán?

- Có lẽ chúng muốn tìm kiếm một thứ khác.

Đó là cái gói bọc vải dầu này đây. - Tôi nói.

- Hẳn là thế rồi, cháu ạ. - ông thanh tra nói.

- Chúng tôi sẽ giao cái gói ấy cho bác sĩ Livesey.

Cháu có muốn đi theo chúng tôi không?.Tôi vui mừng nhận lời. Tôi nhảy lên ngồi sau lưng một người cưỡi ngựa rồi chúng tôi phóng nước đại đến nhà ông bác sĩ.

Tôi đã có phần mệt lả nhưng vẫn rất sung sướng khi đến trước ngôi nhà của bác sĩ Livesey.

Khi đó tất cả vẫn còn chìm trong bóng tối mịt mờ.

Theo lệnh của ông Dance và được Dogger cho mượn một cái bàn đạp để leo xuống, tôi nhảy xuống đất, chạy đến gõ cửa. Cô giúp việc ra mở cửa ngay.

- Bác sĩ Livesey có ở nhà không ạ? - Tôi hỏi.

- Thưa không, - Cô trả lời. - buổi xế chiều bác sĩ có đến nhưng sau đó ông lại tới lâu đài để dùng cơm với ông Trelawney và ở lại đó luôn rồi.

- Các bạn ạ, chúng ta đành đi đến đó vậy. -ông Dance tuyên bố.

Lần này vì đường không xa nên tôi không trèo lên ngồi sau lưng ngựa nữa. Tôi nắm dây đai buộc bàn đạp, chạy bên cạnh Dogger cho tới tận cổng vườn, rồi dọc theo lối đi lờ mờ hiện ra một đường chỉ màu trắng của lâu đài gồm những tòa nhà hai mặt nhìn ra những khu vườn lớn ở cuối đường. Đến đó, ông Dance xuống ngựa, dẫn tôi theo và sau khi xưng danh tánh, ông được mời vào nhà ngay tức khắc.

Anh gia nhân đưa chúng tôi đi theo một hành lang trải thảm chạy dài đến một căn phòng rộng.

Quanh bốn bức tường kê những kệ sách và trên đầu kệ có đặt những tượng bán thân. ông Tre-lawney và bác sĩ Livesey đang ngồi bên một bếp lửa to, tay cầm ống tẩu.

Tôi chưa bao giờ được nhìn vị lãnh chúa của chúng tôi gần đến thế. Người ông cao lớn, bệ vệ nhưng rất cân đối, khuôn mặt nghiêm trang và cương nghị, rắn rỏi, đỏ au và đầy nếp nhăn vì những chuyến du lịch dài ngày. Cặp lông mày đen của ông thường hay giương lên nhấp xuống cực kỳ linh động khiến người ta nghĩ ngay ông là người hoạt bát và ngạo nghễ nhưng không độc ác.

- Vào đây, ông Dance. - ông ta nói bằng giọng đường bệ và ân cần.

- Chào anh Dance. - ông bác sĩ nghiêng đầu lên tiếng. - Chào cháu Jim. Ngọn gió nào đưa cả hai người đến đây?

Ông thanh tra kể một mạch câu chuyện từ đầu đến cuối. Hai người kia lắng nghe hết sức chăm chú. Khi ông ta dứt lời, nhà quý tộc nói:

- Tôi hết lòng khen ngợi cách xử lý tình huống của ông và tôi cũng khen cả cháu Jim Hawkins nữa đấy..- Thế cháu tin là cháu lấy được cái vật mà bọn cướp cố sục sạo tìm kiếm hay sao? - ông bác sĩ hỏi.

- Đây là cái gói bọc vải dầu ấy. - Tôi trả lời và đặt nó lên bàn.

Cái gói được khâu chỉ bốn cạnh. ông bác sĩ dùng cây kéo phẫu thuật để mở nó ra. Trong gói có một cuốn sổ tay và một tờ giấy niêm kín có đóng dấu xi. Chúng tôi mở cuốn sổ tay ra. Mấy trang đầu chỉ có vài nét chữ nguệch ngoạc. Một trang khác có ghi ở trên đầu: "ạng Williams Borres, thuyền phó". Trên một trang khác "ý ngông của Billy Bones". Tiếp đến vẫn là những dòng chữ nguệch ngoạc không thể hiểu được. Các trang tiếp theo ghi đầy một loạt ghi chú. Có hai cột: cột thứ nhất ghi ngày tháng; cột thứ hai ghi số tiền. Đôi khi chúng tôi đọc thấy tên một địa danh hoặc những con số ghi vĩ độ và kinh độ.

- Tôi chả hiểu gì hết. - Bác sĩ nói.

- Xem ra cũng rất đơn giản. - Nhà quý tộc nói to. - Đó là cuốn sổ chi tiết của lão côn đồ ấy mà. Một bên là các thành phố hay những chiếc tàu bị chúng cướp và bên kia là phần lão già được hưởng. Bây giờ, ta hãy xem phần còn lại...

Phần còn lại, là tờ giấy niêm kín bằng nhiều dấu xi. ông bác sĩ cẩn thận mở phong bì. Trong phong bì có một bản đồ vẽ tay chú thích rõ kinh tuyến và vĩ tuyến, chỗ sâu, chỗ cao, các đường đèo và vịnh biển: đủ tất cả chi tiết cần thiết để neo một chiếc tàu rất mực an toàn. Hòn đảo có đến chín dặm chiều dài và năm dặm chiều ngang.

Dễ dàng nhận ra hai bến cảng tự nhiên và chính giữa đảo là một ngọn đồi gọi là "Viễn Vọng Kính". Tấm bản đồ có vẻ xưa cũ nhưng lại ghi những dấu hiệu mới sau này và trong số đó có ba dấu chữ thập bằng mực đỏ: hai dấu ở mạn bắc của hòn đảo, một dấu ở mạn tây nam đề chữ: "Nơi đây là phần chính của kho báu". Các chỉ dẫn ấy làm cho ông bác sĩ và nhà quý tộc rất đỗi vui mừng.

- Này Livesey, - ông Trelawney nói. - ngày mai tôi đi Bristol. Tôi thuê một chiếc tàu buồm tốt nhất nước Anh cùng với một thủy thủ đoàn.

Tôi nhận anh làm bác sĩ đi theo tàu. Jim Howkins sẽ là thủy thủ tập sự của chúng ta. Nếu thuận buồm xuôi gió, chúng ta sẽ ghé bờ một trong các bến cảng của hòn đảo và vàng bạc châu báu trên đảo sẽ thuộc về tay chúng ta.

- ông quên một điều, - ông bác sĩ đáp. - là vàng ấy đâu phải của chúng ta. Chắc chắn đó là kết quả của việc trộm cướp, giết người. Tuy nhiên, thật tình tôi thấy xem ra không thể để số vàng đó thất lạc trên đảo. Có biết bao người.khốn khổ cần được đỡ đần cứu giúp. Chúng ta hãy đồng ý xem như kho báu là của hoạnh tài và chúng ta sẽ nộp cho nhà nước một nửa đúng theo luật pháp. Còn nửa kia, chúng ta nhất trí trích một phần lớn để giúp một cơ sở từ thiện.

- Tôi thấy nói vậy cũng phải lẽ. - ông Tre-lawney nói mà không nén được tiếng thở dài.

- Nếu thế thì tôi sẽ lên tàu với ngài và dẫn Jim theo. Nhưng có một kẻ làm tôi còn e ngại.

- Ai vậy?

- Chính ngài chứ ai. Ngài là người không kín miệng. Ngài hãy nghĩ có biết bao nhiêu người đã biết hòn đảo đó. Những tên cướp đã tấn công lữ quán và có thể còn nhiều kẻ khác nữa đang quyết chí chiếm cho được kho báu ấy. Ngài hãy dẫn Hunter và Joyce cùng đi đến Bristol nhưng cho đến phút chót, ngài không được hở lời nào về mục đích chuyến đi của chúng ta nhé!

- Ngài Livesey ạ, - ông Trelawney trịnh trọng nói. - tôi hứa với anh tôi sẽ câm như hến.

3. Chuẩn bị lên đường

Việc chuẩn bị cho chuyến đi mất nhiều thời giờ hơn chúng tôi tưởng. ông bác sĩ đi London tìm người thay thế. ông Trelawney đang ở Bristol, lo việc trang bị con tàu. Tôi ở lại lâu dài với lão già gác rừng Redruth. Đêm cũng như ngày tôi chỉ nghĩ đến những cuộc du hành và phiêu lưu. Tôi say mê nghiên cứu bản đồ của hòn đảo và tưởng tượng mình ghé lên bờ, thám hiểm khắp đảo, leo lên ngọn đồi cao có ten là "Viễn Vọng Kính". Có nơi tôi gặp thổ dân, có nơi đầy động vật hoang dã nguy hiểm. Nhưng trong những giấc mơ ấy tôi đã không bắt gặp cảnh nào ly kì rùng rợn như thực tế xảy ra trong chuyến phiêu lưu của chúng tôi sau này.

Một hôm, một bức thư gởi về địa chỉ của bác sĩ Livesey có ghi câu này: "Nếu người nhận thư đi vắng, Redruth hay Jim Hawkins có thể mở ra xem. "Chúng tôi lập tức mở thư ra đọc.

Bức thư cho biết những tin quan trọng như sau:

Bristol, ngày 1 tháng 5 năm 17...

Khách sạn Chiếc Neo Cũ Anh Livesey thân mến, "Con tàu đã được trang bị xong xuôi. His-paniola là chiếc tàu hai cột buồm đẹp nhất không nơi nào có được: trọng tải của nó là hai trăm tấn mà nhẹ đến nỗi một đứa bé cũng có thể điều khiển được. Tôi đã tìm được nó nhờ ông bạn Blandly của tôi hết lòng giúp đỡ. Vả lại, mọi người ở Bristol tỏ ra vô cùng ưu ái đối với tôi từ khi họ biết mục đích chuyến đi của chúng ta, đảo kho báu..." - Chết rồi, - Tôi la lên. - đã hứa rồi mà ông Trelawney lại lắm miệng. ông bác sĩ chắc sẽ không bằng lòng.

"Điều làm tôi khổ tâm nhất là việc tuyển mộ thủy thủ. Tôi cần đến khoảng hai chục người.

Khó khăn lắm tôi mới tuyển được sáu thì may đâu lại gặp được một người đáng giá. Y là một thủy thủ già đang làm chủ một quán trọ vì thế y biết nhiều về dân đi biển. Chính tại cái quán "Viễn Vọng Kính" của y tôi được biết y còn muốn đi tàu và đang muốn tìm một chân đầu bếp trên bất cứ con tàu nào. Tôi đã mướn y. Y tên là John Silver, bị cụt mất một chân trong khi phục vụ đất nước dưới quyền chỉ huy của đô đốc Hawke. Tại sao người ta bạc đãi y đến thế kia chứ? Nhờ John Silver tôi cũng đã tìm được đủ số người còn thiếu, độ mười thủy thủ già dặn, mặt mày rám nắng cương nghị ngắm không chán mắt.

"Anh Livesey thân mến, hãy đến ngay chớ có chần chờ. Anh sẽ thấy tôi đang hứng khởi biết dường nào. Chúng ta hãy nhanh chóng nhổ neo.

Ra khơi! Thật mê ly xiết bao! Chỉ cần nghĩ đến niềm vui được ra khơi là trí óc tôi ngây ngất cuống cuồng cả lên!

John Trelawney Tái bút - Nếu đến cuối tháng tám chúng ta không trở về thì Blandly sẽ phái một con tàu đi tìm. John Silver là một con người rất nghiêm túc - y có tài khoản trong ngân hàng và vợ y sẽ cai quản quán rượu trong thời gian y vắng mặt. Y cũng đã mách cho tôi tìm được ông Arrow, một sĩ quan dày dạn kinh nghiệm đứng ra làm thuyền phó trên tàu chúng ta. Jim Hawkins có thể cùng Redruth quay về từ giã mẹ cậu. Sau đó hai chú cháu sẽ đi Bristol gặp chúng ta".

Các bạn có thể tưởng tượng khi đọc bức thư ấy lòng tôi náo nức biết dường nào. Tôi vui sướng tưởng như phát cuồng, nếu không kể đến.một người đã làm tôi coi thường là lão già Re-druth, lúc nào lão cũng càu nhàu than thở. Bất cứ người gác rừng nào dưới quyền lão cũng đều sung sướng được đi thay lão. Nhưng nhà quý tộc đã có ý thích như thế và mọi người trong lâu đài không biết luật lệ nào khác ngoài ý thích ấy. Không một ai ngoài Redruth dám cả gan kêu ca phản đối.

Sáng hôm sau, hai chúng tôi lên đường hướng về quán Đô đốc Benbow và gặp mẹ tôi hết sức khỏe mạnh và vui vẻ. Lão thuyền trưởng đã từng làm bà không ngớt lo phiền nay đã đi về nơi chín suối. ở đó những kẻ hung bạo không còn hại ai được nữa. Nhà quý tộc đã cho sửa sang nhà cửa, sơn lại các phòng, bảng hiệu và đặt thêm một vài món đồ đạc: trong số đó có một chiếc ghế bành để mẹ tôi ngồi nghỉ. ông cũng đã tìm cho bà một cậu nhóc đỡ đần công việc trong thời gian tôi đi vắng.

Nhìn cậu bé phụ việc mới đến làm, lần đầu tiên tôi mới hiểu ra cảnh ngộ của mình. Từ trước đến giờ tôi chỉ nghĩ tới những cuộc phiêu lưu sắp tới mà chẳng mảy may nghĩ đến mái ấm tôi sắp giã từ. Nhưng khi trông thấy kẻ lạ mặt vụng về đó thay tôi ở bên cạnh mẹ, tôi không thể cầm được nước mắt. Tôi sợ mình đã đối xử tàn tệ với cậu bé đáng thương vì cậu ta không quen việc nên rất nhiều lần bị tôi làm nhục và tôi được nước cứ làm như vậy mãi.

Ngày hôm sau, ăn trưa xong, Redruth và tôi lại lên đường. Tôi từ biệt mẹ, từ giã vùng vịnh từ nhỏ đến lớn tôi đã sống gắn bó và quán Đô đốc Benbow yêu dấu (mặc dù nó đã được sơn phết lại không còn thân quen như trước). Những điều đó khơi gợi trong trí nhớ của tôi hình ảnh lão thuyền trưởng hôm nào thường đi lang thang trên bãi cát, đầu đội nón ba góc, má mang vết sẹo dài và cầm cái ống nhòm cũ kỹ bằng đồng...

Chẳng mấy chốc, chúng tôi qua khỏi khúc đường quẹo và chẳng thấy ngôi nhà của tôi đâu nữa.

Chúng tôi đón chuyến xe chở thư khi hoàng hôn buông xuống, trên cánh đồng hoang, trước khách sạn "Hoàng Gia George".

Ngồi kẹp giữa Redruth và một ông già to béo, tuy xe chạy nhanh và khí trời đêm lạnh lẽo, tôi đã ngủ thiếp đi ngay từ đầu cuộc hành trình. Sau đó chắc là tôi ngủ say như chết, vì cuối cùng tôi chỉ thức dậy được nhờ một cú hích vào cạnh sườn.

Tôi mở mắt ra đã thấy xe dừng lại trước một tòa nhà lớn và trời đã sáng từ lâu.

- Chúng ta đang ở đâu đây? - Tôi hỏi.

- ở Bristol. - Tom đáp. - Xuống xe đi..ạng Trelawney đang trọ tại một lữ quán ở cuối hải cảng để theo dõi sát hơn các công việc trên tàu. Chúng tôi phải đi bộ đến đó và tôi rất lấy làm vui sướng được đi dọc theo các bến tàu có rất nhiều tàu bè đủ cỡ, trang bị đủ thứ đồ đạc, mang đủ mọi quốc tịch chen chúc neo đậu.

Trên con tàu này có những thủy thủ vừa làm việc vừa hát; trên một chiếc khác có những người đàn ông treo lơ lửng tít trên cột buồm, bám vào những sợi dây mỏng manh như những sợi mạng nhện. Mặc dù ở suốt đời trên bờ biển nhưng dường như đó là lần đầu tôi nhìn thấy biển. Mùi hắc ín và muối thật mới mẻ quyến rũ đối với tôi.

Tôi say sưa ngắm những mũi tàu kỳ diệu đã từng vượt khắp mọi nẻo trùng dương. Tôi gặp gỡ nhiều thủy thủ già đeo khuyên ở tai, ria mép xoăn tròn, bím tóc phết dầu hắc, dáng đi khệnh khạng và nghênh ngang, giá được nhìn thấy từng ấy vị vua chúa và giám mục tôi cũng không lấy làm sung sướng hơn.

Bởi vì tôi cũng sắp lên tàu! Tôi sắp bước lên một chiếc tàu hai buồm, đi cùng với một viên chỉ huy huýt còi điều khiển và những thủy thủ vừa quay trục kéo neo vừa ca hát! Tôi sắp lên tàu đến một hòn đảo xa lạ, để tìm những kho báu đang được chôn giấu!

Trong khi tôi đang mải ngẩn ngơ thả hồn theo giấc mộng tuyệt vời ấy chúng tôi đã thấy mình đến trước một lữ quán đồ sộ. ông Tre-lawney từ trong quán đi ra, mình mặc quần áo bằng dạ màu xanh dương dày cộm giống như một sĩ quan hàng hải. ông ra đón chúng tôi, nụ cười trên môi, bắt chước cho thật đúng dáng đi của một thủy thủ.

- Kìa hai chú cháu đã đến! - ông la lớn. -ông bác sĩ đã từ London đến đêm hôm qua. Hoan hô! Thế là thủy thủ đi tàu đã đủ mặt!

- ồ, thưa ông, bao giờ chúng ta sẽ lên đường?

- Tôi háo hức.

- Bao giờ à? Ngày mai chúng ta xuất phát.

Khi tôi đã ăn cơm xong, nhà quý tộc trao cho tôi một mảnh giấy gởi John Silver, ghi tên bảng hiệu quán "Viễn Vọng Kính" và nói với tôi rằng nơi đó cũng dễ tìm: chỉ việc đi dọc theo các bến tàu, chú ý nhìn kỹ cho đến khi thấy một quán rượu nhỏ hình một chiếc ống nhòm. Tôi lên đường ngay, sung sướng được dịp nhìn tàu bè và các thủy thủ gần hơn nữa. Sau khi len qua khỏi một đám đông người, xe chở hàng và những kiện hàng hóa (bởi vì đó là giờ bến cảng tấp nập nhất), tôi tìm thấy quán rượu như đã được mô tả..Đó là một nơi trông khá dễ thương, bảng hiệu mới sơn, các cửa sổ treo màn màu đỏ rực rỡ. Quán nhìn ra hai mặt đường. Hai cánh cửa đang mở nên tuy khói thuốc lá bay mù trời, người ta vẫn thấy rõ mọi thứ trong căn phòng lớn, trần thấp.

Khách trong quán hầu hết là dân đi tàu. Họ nói oang oang làm tôi phải đứng lại trên ngưỡng cửa, không dám bước vào.

Trong lúc tôi đang ngần ngại thì một người đàn ông bước ra từ gian phòng kế cận: thoạt nhìn, tôi nhận ra đó là John cao. Chân trái của y bị cưa sát đến tận háng. Y chống một chiếc nạng và sử dụng nó vô cùng khéo léo, đi lại thoăn thoắt như con chim. Người cao lớn, dáng dấp mạnh bạo, y có khuôn mặt nhợt nhạt, nói thẳng ra là nó xấu xí và to như một miếng dồi nhưng trông thông minh và tươi cười. Thật tình, y có vẻ rất vui tính, vừa đi từ bàn nọ đến bàn kia vừa huýt gió như con chim sáo, gặp khách nào thân lại nói bông đùa một câu hay vỗ vai một cái.

Nhưng tôi xin thú thật với các bạn, ngay từ khi đọc thư của ông Trelawney cho biết có John Cao, tôi vẫn sợ y chính là tên thủy thủ cụt một chân khét tiếng mà tôi đã từng chờ đợi y đến quán Đô đốc Benbow. Nhưng chỉ nhìn thoáng qua người đàn ông này là tôi đủ yên tâm. Đã từng trông thấy lão thuyền trưởng, Chó Mực và lão mù kia, tôi tin mình có thể nhận ra một tên hải tặc thật sự phải như thế nào: theo tôi anh chàng chủ quán này là loại người khác hẳn, trông sạch sẽ và dễ mến vô cùng.

Ngay tức khắc, tôi thu hết can đảm bước qua ngưỡng cửa, tiến thẳng về phía người đàn ông đang chống nạng, chuyện trò với một khách hàng.

- ông là Silver, phải không ạ?

- Phải, đúng là tôi. - Y trả lời một cách khả ái. - Nhưng cậu là ai?

- Jim Hawkins, tôi là thủy thủ tập sự trên tàu Hispaniola.

Thế rồi y siết tay tôi thân mật.

Ngay lúc đó, một khách hàng từ trong phòng phóng ra cửa. Ba giây sau, hắn đã biến ra ngoài, nhưng tôi có đủ thời giờ nhận ra hắn ta: bàn tay trái của hắn mất hai ngón.

- Bắt nó lại, Chó Mực đó! - Tôi la to.

- Chó nào? - Silver hỏi, đang nắm tay tôi vội bỏ ra.

- Thưa ông, Chó Mực đó. ông Trelawney đã không nói với ông về các tên cướp đó ư? Tên vừa thoát chạy là một trong số bọn chúng đấy.

- Chao ôi! Hắn là tên cướp! Dám đến quán tôi và bỏ chạy không trả tiền! ‰ này, Morgan,.lúc nãy hắn nói chuyện với anh. Vậy thì vui lòng xin anh lại đây.

Một lão thủy thủ già tóc hoa râm, nước da hồng hào bối rối tiến lại phía chúng tôi, vừa đi vừa nhai thuốc.

- Này Morgan, - Silver nói giọng nghiêm khắc.

- trước đây anh có quen tên Chó Mực ấy không?

- Tôi thề danh dự là không ạ. - Morgan vừa nói vừa cung kính cúi chào.

- Từ nay về sau đừng đặt chân đến đây nữa, tôi nói thật đấy. Tên cướp ấy đã kể gì với anh nào?

- Thật tình, tôi chẳng hay biết gì cả.

- Nói sao, anh không hay biết gì cả à? Trên cổ anh là cái đầu hay cái lỗ gió đấy? Kìa, cố nhớ lại đi.

- Chúng tôi nói về những hình phạt ngoài bến tàu. - Morgan đáp ra vẻ ngơ ngác.

- Thật vậy sao? Những hình phạt ngoài bến tàu ư? Đề tài đó đúng là hợp với hai người các anh! Thôi, ngồi xuống đi.

- Lão Morgan này là một kẻ thật thà, có điều y ngốc quá đi thôi! Giờ tôi nghĩ lại, hình như tôi đã gặp thằng Chó Mực ấy ở đâu đó rồi. Phải, tôi nhớ lại... Hắn đã tới đây ba bốn lần cùng với một lão mù.

- Phải rồi, - Tôi reo lên. - lão mù cũng ở trong băng cướp đó. Hắn tên là Pew.

- Đúng. - Silver nói tiếp rất hăm hở. - Hắn cũng là một thằng cha vô lại. Thôi rồi, Hawkins ạ, cứ xem như tôi gặp chuyện không may. Thằng đểu cáng ấy vào quán tôi, hì hục uống rum của tôi, mặc dù cậu đã phát hiện ra ngay nhưng chúng ta lại để nó chuồn thoát. Thế là quá lắm! ông Trelawney sẽ nghĩ sao đây? Nhưng tôi tin ở cậu.

Xin cậu đứng ra làm chứng cho lòng thành thực của tôi. Cậu còn bé nhưng tôi thấy cậu khôn ngoan như một người lớn.

Trong khi đi dọc theo các bến tàu, Silver tỏ ra hiểu biết hơn ai cả và là một người nói chuyện có duyên nhất. Y chỉ cho tôi những chiếc tàu, giảng giải về trọng tải, buồm tàu và cờ của chúng.

Y mô tả chi tiết đủ các thứ công việc trong hàng hải: nào là việc lên hàng, chuẩn bị nhổ neo và việc xuống hàng, y biết vô số câu chuyện vui về hàng hải. Tôi rất thích chí có được người bạn đồng hành đáng yêu này trong chuyến đi.

John Silver kể lại cho nhà quý tộc và ông bác sĩ câu chuyện một cách chính xác như nó đã xảy ra.

- Đúng là như vậy, phải không cậu Hawkins?

- Thỉnh thoảng y quay sang hỏi tôi.

Và tôi đành phải thừa nhận là y nói thật.

- Nói chung thì tôi chưa tin lắm vào những điều các người phát hiện. - ông bác sĩ bảo. Nhưng tôi phải thừa nhận John Silver hoàn toàn hợp ý tôi..- Thì tôi đã nói y đúng là viên ngọc quý kia mà! - ông Trelawney kết luận.

Ông Trelawney, bác sĩ và tôi bước lên chiếc tàu hai cột buồm. Chúng tôi được ông thuyền phó Arrow đón tiếp. ông ta là một thủy thủ già da ngăm đen, đeo đôi khuyên tai. Trelawney và lão xem ra đã trở thành đôi bạn thân thiết nhất trên đời. Giữa Trelawney và ông thuyền trưởng thì không được như thế. ông thuyền trưởng này hễ đụng chuyện gì là nổi sung lên ngay. Khi chúng tôi vừa mới bước xuống phòng khách nhỏ, người thuộc hạ của thuyền trưởng đến báo ông xin vào thưa chuyện.

- Hãy mời ông thuyền trưởng vào. - ông Trelawney nói. - Lúc nào ta cũng sẵn sàng vâng lệnh ông thuyền trưởng.

Thuyền trưởng Smollett đến ngay. ông có vẻ không hài lòng. ông bắt đầu lên tiếng:

- Tôi thiết nghĩ dù có mếch lòng, thà nói thẳng là hơn, phải không nào?

- Đương nhiên là thế. - Nhà quý tộc đáp.

- Tôi phải nói cho ngài biết là tôi chẳng thích chuyến đi này cho lắm. Tôi không ưa ông thuyền phó, tôi cũng chẳng thích bọn thủy thủ này. Tôi thành thật phải nói như thế, thưa ngài.

Ông Trelawney giận dữ phản ứng, mặt đỏ gay:

- Nói như vậy cũng có nghĩa là ông không thích chiếc tàu hai buồm này, cũng như không hài lòng về người chủ tàu cũng nên.

- Thôi đi! - ông bác sĩ ngắt lời. - Chúng ta bàn bạc với nhau chứ đừng nói năng cay cú như vậy. Hãy để ông thuyền trưởng phát biểu.

- Tôi đã nhận lời chỉ huy con tàu này thì sẽ đưa nó tới nơi theo lệnh của ngài. - ông thuyền trưởng nói tiếp. - Có vậy thôi. Thế mà trước khi nhổ neo, tôi mới được biết hóa ra mọi người trong đoàn thủy thủ biết rõ hơn tôi về mục đích của chuyến đi. Sau đó tôi còn biết, cũng do chính người trên tàu nói ra, đây là chuyến đi tìm một kho báu. Các chuyến đi kiểu này luôn luôn bất trắc nhất là khi bí mật ấy đã được mọi người biết hết. Ngài có muốn tôi nói trắng ra cho ngài biết không? Chúng ta sẽ gặp nguy hiểm, không chừng toi mạng đấy.

- ông thuyền trưởng ạ, chúng tôi cũng đã phần nào nghi ngại điều đó. - ông bác sĩ nói. -Nhưng chúng tôi chấp nhận nguy hiểm. Nhưng thôi, chúng ta hãy bàn về điểm thứ hai. Bọn thủy thủ trên tàu không làm ông vừa lòng. Tại sao thế?

- Đáng lẽ ra phải để cho tôi đảm trách việc chọn lựa lính của tôi mới đúng. Ngoài ra, lão thuyền phó lại quá suồng sã với các thủy thủ..Một thuyền phó phải biết giữ đúng vị trí của mình và không uống rượu với bọn thủy thủ.

- ông muốn chúng tôi phải làm gì đây? -ạng bác sĩ hỏi, ý muốn đấu dịu.

- Các ngài vẫn quyết tâm lên đường chứ?

- Chắc chắn rồi!

- Vậy thì tôi mạn phép khuyên các ông hai điều. Bọn chúng hiện xếp thuốc súng và các khí giới ở phía mũi tàu. Các ông hãy đặt kho vũ khí ấy ở đằng sau dưới phòng khách. Đó là điều thứ nhất. Các ông hãy đem theo bốn người thân tín.

Chớ để họ ở chung với bọn thủy thủ. Hãy sắp đặt cho họ nằm trên các giường chung quanh phòng khách. Đó là điều thứ hai.

- ông có gì khác cần nói thêm nữa không?

- ông Trelawney hỏi.

- Có chứ, còn một điều nữa. Đã xuất hiện nhiều lời nói năng nhảm nhí quá.

- Đúng, quá nhiều. - ông bác sĩ thừa nhận.

- Để tôi nói cho các ngài điều mà chính tôi đã nghe: các ngài có bản đồ của một hòn đảo; trên bản đồ có những dấu chữ thập đánh dấu vị trí của kho báu; tóm lại, hòn đảo nằm ở vị trí...

(và ông nói ra vĩ độ và kinh độ chính xác).

- Không bao giờ tôi nói gì về chuyện này cho bất cứ ai cả! - Nhà quý tộc la lớn.

- Thưa ngài, các thủy thủ biết điều đó.

- Này Livesey, thế thì chỉ có anh hoặc Hawkins nói ra thôi! - Nhà quý tộc lại kêu lên.

- Do ai nói ra là điều chẳng quan trọng lắm.

- Bác sĩ đáp lời.

Tôi thấy rõ bác sĩ và cả ông thuyền trưởng chẳng đếm xỉa gì đến lời phản đối của ông Tre-lawney.

Thực sự tôi cũng không để ý bởi vì tôi biết rõ ông là một người bép xép vô phương sửa chữa.

Tuy nhiên lúc này tôi lại tin ông ta nói thật và tin rằng đã không có ai tiết lộ vị trí hòn đảo.

- Thật tình thưa các ngài, tôi không biết ai đang giữ tấm bản đồ ấy, - ông thuyền trưởng nói tiếp, - nhưng tôi yêu cầu đừng để tôi lẫn ông Arrow biết gì về nó cả. Có thế lương tâm tôi mới yên.

Nếu không, tôi xin các ngài cho tôi từ chức.

- Tôi hiểu, - Bác sĩ nói. - ông muốn chúng tôi giữ bí mật về chuyện này và muốn chúng tôi biến đuôi tàu thành đồn lũy, gom vào đấy tất cả khí giới và tất cả thuốc súng trên tàu cùng với những người tâm phúc của ông bạn tôi đây để canh chừng. Nói cách khác, ông sợ một cuộc nổi loạn chứ gì?

- Thưa ông, tôi chẳng hề có ý làm mất lòng ai cả nhưng tôi không cho phép ông bắt tôi phải.nói toạc ra hết. Thưa ông, không một người thuyền trưởng nào có quyền ra khơi nếu y có đủ cơ sở để nghĩ đến một chuyện như thế. Tôi tin ông Arrow là người rất mực lương thiện, một số thủy thủ cũng vậy. Theo tôi biết, có lẽ tất cả bọn họ đều lương thiện. Nhưng tôi phải chịu trách nhiệm về sự an toàn của con tàu và tất cả những ai có mặt trên tàu. Tôi thấy dường như có nhiều điều bất ổn nên tôi yêu cầu các ngài hoặc thi hành một vài biện pháp cẩn mật, hoặc chấp nhận cho tôi từ chức. Tôi chỉ nói chừng ấy thôi.

- Này ông thuyền trưởng Smollett, - ông bác sĩ vừa nói vừa mỉm cười, - ông có biết câu chuyện ngụ ngôn "Trái núi đẻ ra con chuột nhắt" không nhỉ? Mong rằng ông bỏ lỗi cho nhưng ông làm tôi phải nhớ đến chuyện ngụ ngôn ấy. Khi ông bước chân vào đây, tôi đinh ninh ông có một ý định hoàn toàn khác hẳn.

- Bác sĩ ạ, ông thật là một người rất tinh ý.

Khi tôi vào đây, tôi đã có ý xin từ chức, bởi vì tôi nghĩ ông Trelawney không chịu nghe một lời nào của tôi.

- Quả thật ông nghĩ không lầm! - Nhà quý tộc thốt lên. - Nếu không có mặt anh Livesey thì tôi đã không tiếp ông rồi. Dù sao tôi cũng đã nghe ông nói. tôi sẽ làm theo ý muốn của ông. Nhưng tôi đánh giá ông thấp lắm.

- Cái ấy tùy ngài. Tuy nhiên, ngài cũng phải thấy tôi biết làm nhiệm vụ của tôi.

Nói xong, ông ta cáo từ.

- Này ông Trelawney, - Bác sĩ nói, - khác với điều tôi nghĩ trước đây, bây giờ tôi tin ông đã tuyển được hai gã rất mực lương thiện: người này và John Silver.

- Silver, anh muốn nói sao cũng được. Nhưng còn thằng cha điêu ngoa khó chịu này, tôi cho là không có tư cách, hắn không xứng đáng là một thủy thủ và nhất là không đáng làm một người Anh.

Sự thật ra sao, rồi chúng ta sẽ rõ.

Chúng tôi bước lên boong. Bọn đàn ông đang xếp đặt vũ khí và thuốc súng dưới sự giám sát của ông thuyền trưởng. ông Arrow cũng tỏ ra hài lòng với quyết định này. Có lẽ chính ông ta cũng đã nghi ngờ bọn thủy thủ nhưng sự sáng suốt của ông cũng chẳng giúp chúng tôi được gì, như lát nữa tôi sẽ nói cho các bạn biết. Bọn họ đang tiến hành dọn dẹp thì ba tên thủy thủ lo việc chất hàng lên tàu đi đến cùng với John Silver vừa trông thấy những gì đang diễn ra, y muốn biết ngay sự thể, bèn hỏi:

- Anh em đang làm cái gì thế?

- Chúng tôi đổi chỗ vũ khí và thuốc súng. -Một tên thủy thủ trả lời..- Làm thế thì chúng ta lỡ mất thủy triều thôi!

- ở đây tôi là người chỉ huy. - ông Smollett lên tiếng. - Phần anh bạn, hãy xuống với các lò nấu của anh bạn đi. Chốc nữa, anh cho chúng tôi ăn đúng giờ là khoái lắm rồi.

- Thưa thuyền trưởng, tôi đi đây, tôi đi đây. -John Silver vừa nói vừa đi về phía cửa boong tàu.

- Anh bếp tàu thật là người đàng hoàng. -ạng bác sĩ khẳng định.

- Điều đó còn nghi ngờ gì nữa! - Thuyền trưởng đáp, rồi quay sang nói với mấy thủy thủ đang di chuyển các thùng chứa: "Các bạn ơi, từ từ nhé, nhẹ tay một chút!" Đột nhiên, thấy tôi đang mải mê nhìn một trong hai khẩu đại bác đặt ở chính giữa con tàu, ông ta quát to:

- Này, cậu bé, không có việc gì làm hay sao mà cứ đứng ngẩn người ra đó? Làm ơn rời khỏi đây và xuống hỏi anh đầu bếp kiếm việc mà làm.

Tôi không muốn có người được ưu ái đặc biệt ở trên tàu.

Tôi rời khỏi boong tàu lặng lẽ không nói gì.

Tôi phải đồng ý với nhà quý tộc là lão thuyền trưởng này thật chẳng đáng ưa chút nào.

4. Cuộc hành trình trên biển

Suốt đêm hôm ấy chúng tôi loay hoay sắp xếp mọi thứ đâu vào đó. Bạn bè của nhà quý tộc đến từ biệt và chúc ông lên đường bình an.

Trước đây ở quán Đô đốc Benbow tôi chưa bao giờ có nhiều công việc đến như vậy. Ngoài việc mở nút chai và rửa ly tách. Vì thế lúc này tôi mệt rã rời.

Trước khi trời rạng sáng không lâu, các thủy thủ bắt đầu đẩy trục cuốn neo. Nếu có mệt hơn gấp mười lần, tôi cũng không để cho ai thế chỗ tôi trên boong vào giờ phút không bao giờ quên được ấy. Mọi thứ đối với tôi đều quá mới lạ và thú vị biết bao!

Một thủy thủ nói:

- John ơi, hát cho chúng tôi nghe một bài đi nào.

- Bài hát cổ đi! - Một thủy thủ khác la lớn..Tức thì John Silver tay chống nạng, cất lên điệp khúc rất đỗi quen thuộc với tôi.

Có mười lăm thủy thủ Trên cái rương người chết Mười lăm lính thủy, mười lăm thủy thủ Cả bọn đồng thanh hát tiếp:

Dô, ô ô! Dô, ô ô!...

Đòi xin ngụm rượu...

Tiếng hò dô thứ ba cất lên! Trục quay bắt đầu chuyển rồi bọn họ đẩy mạnh các thanh ngang. Chiếc neo lên khỏi mặt nước, những cánh buồm căng đầy gió. Chúng tôi nhanh chóng ra khơi. Tôi chưa kịp nghỉ lưng một chút trên chiếc võng con tàu đã băng băng về phía hòn đảo bí mật.

Chuyến du hành khá êm ả và tôi sẽ không kể chi tiết làm gì. Hispaniola là một tàu buồm rất tốt. Thuyền trưởng đầy kinh nghiệm và các thủy thủ đi biển thành thạo. Tôi sẽ chỉ ghi nhận một vài sự việc xảy ra trước khi chúng tôi trông thấy hòn đảo.

Trước tiên, lời ông thuyền trưởng nhận xét về ông thuyền phó đã được chứng minh là đúng.

Ông ta chẳng có uy quyền với bọn thủy thủ, chúng muốn gì ông cũng phải theo. Nhưng điều đó chưa quan trọng bằng những việc sau đây.

Chúng tôi vừa mới ra khơi được vài giờ ông ta đã xuất hiện trên boong với bộ điệu rõ ràng là đang say rượu. Thuyền trưởng đã nhiều lần bắt nhốt ông ta lại. Đôi khi ông ta té ngã và bị thương tích lúc leo xuống sàn giữa của tàu. Hoặc giả ông ta nằm suốt ngày trên võng, bên cạnh ca-bin lớn. Độ khoảng hai ba hôm không rượu chè thì ông lại làm việc đâu ra đó. Chúng tôi không hiểu ông kiếm rượu ở đâu ra. Điều này là một bí mật. Lúc ông đang say, hỏi đến chuyện đó, ông ta cười hì hì vào mặt ông thuyền trưởng, còn trong những lúc tỉnh táo, ông ta long trọng cả quyết là ông chỉ uống nước lã thôi. Làm một người chỉ huy như ông thật hoàn toàn vô dụng và nêu gương xấu cho đám thủy thủ. Với đà này, trước sau gì ông cũng tự đưa mình vào chỗ chết.

Bởi thế không ai trong chúng tôi ngạc nhiên hay thương cảm khi ông ta biến mất vào một đêm tối trời, biển động dữ dội. Không bao giờ có một ai biết được lý do tại sao.

Anh cai thủy thủ Job Andersen được chỉ định làm người phụ tá không mang chức danh. ông Trelawney trước kia đi đây đi đó nhiều nơi. ông đã nhiều lần đi tàu và có thể đảm nhiệm việc trực ban. Còn anh thủy thủ thứ hai Israel Hands là một thủy thủ dày dạn kinh nghiệm và cùng với gã đầu bếp đã kết thành đôi bạn thân thiết..Để hai tay khỏi vướng bận, John Silver dùng một dây đai treo cái nạng của y vào cổ. Gã chống đầu cây nạng vào một chỗ tựa nào đó để làm thành một trụ đỡ. Nên mặc dù tàu lúc lắc, gã vẫn làm bếp dễ dàng như trên đất bằng. Nhưng điều còn lạ mắt hơn nữa là trông thấy gã chạy trên boong lúc trời giông tố. Người ta đã bố trí những sợi dây thừng để gã vịn vào mà đi và gã sử dụng chúng khéo léo một cách phi thường để di chuyển từ chỗ này qua chỗ khác. Tất cả thủy thủ đều khâm phục gã và thậm chí còn vâng lời gã. Một hôm Israel Hands nói với tôi: "John Sil-ver không phải là kẻ tầm thường. Anh ta có học và khi nào muốn nói, anh ta nói như thánh.

Không những thế lại còn gan dạ nữa chứ! Có một lần tôi thấy anh ta bị bốn gã đàn ông tấn công và anh ta chống cự như một con sư tử, nắm đầu đứa này táng vỡ đầu đứa kia." Gã có một phong thái đặc biệt khi nói chuyện với người khác, giúp đỡ cho từng người một. Đối với tôi, lúc nào gã cũng tỏ ra hết sức ân cần tử tế và luôn luôn có vẻ như sung sướng được tiếp đón tôi trong phòng bếp của gã. Phòng bếp ấy bao giờ gã cũng giữ sạch sẽ như mới, những chiếc dĩa lau chùi kỹ lưỡng máng trên tường và một con vẹt nuôi trong chiếc lồng đặt ở góc.

- Hawkins ơi, vào đi! - Gã nói với tôi. - Vào đây nói chuyện phiếm một chút với già John đi nào. Tôi rất lấy làm vui mừng được nhìn thấy cậu. Ngồi xuống đây nghe những chuyện này cho biết. Có ông thuyền trưởng Flint (đó là tên lão đặt cho con vẹt để tưởng nhớ lão hải tặc khét tiếng), có ông thuyền trưởng Flint báo trước cho chúng ta một chuyến đi tốt đẹp; phải thế không, ông thuyền trưởng?

Thế là con chim cất tiếng lập đi lập lại "Những đồng tám xu! Những đồng tám xu!". Nó nói nhanh đến nỗi tôi ngạc nhiên sao mà nó không hụt hơi. Nó nói mãi cho đến khi John quẳng một chiếc khăn tay lên chiếc lồng.

- Hawkins, cậu thấy không, - Gã đầu bếp nói tiếp. - con chim ấy có lẽ đã sống đến hai trăm năm. Xem chừng có những con sống mãi không chết. Nhưng họa may có quỷ mới chứng kiến được nhiều việc tàn ác hơn con chim này. Nó đã đi biển với ông thuyền trưởng England, một tên hải tặc khét tiếng. Nó đã ở Madagasca, Malabar, Surinam, Providence, Portobella. Nó đã tham dự vào việc vớt những chiếc tàu chở vàng bị đắm.

Chính ở những nơi ấy nó đã học nói câu "Những đồng tám xu". Cái đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên: Có đến 350.000 đồng chứ ít đâu, Hawkins.ạ. Nó đã tham dự vụ tấn công chiếc tàu của phó vương ấn Độ ở ngoài khơi đảo Goa. Thấy nó như vậy, người ta tưởng nó là một đứa bé, nhưng này ông thuyền trưởng, ông đã nếm mùi thuốc sung rồi phải không nào?

- Coi chừng! Chuẩn bị xoay lái! - Con chim kêu lớn.

- ôi chà! Đó là một thủy thủ cừ khôi, đích thị như vậy rồi! - Gã đầu bếp nói.

Rồi gã rút trong túi ra một cục đường đưa cho con vẹt, nó vừa mổ vào các nan lồng vừa thốt ra những tiếng chửi rủa thô tục.

- Cậu thấy không, - Gã đầu bếp nói thêm. -con chim tội nghiệp rất mực ngây thơ này chửi rủa như một tên ma ám mà không biết mình nói gì, tôi cam đoan với cậu như vậy. Trước mặt vị mục sư nó cũng sẽ làm như thế thôi.

Nói thế rồi John đưa bàn tay lên trán, dáng điệu nghiêm trang, làm tôi nghĩ gã là con người tốt lành nhất trong thiên hạ.

Trong lúc đó, nhà quý tộc và ông thuyền trưởng Smollett lúc nào cũng lạnh nhạt với nhau.

Ông Trelawney chẳng tỏ vẻ áy náy gì và khinh bỉ ông thuyền trưởng ra mặt. Còn ông thuyền trưởng ai hỏi gì nói nấy. Lúc nào ông ta cũng diễn tả ý mình bằng một giọng lãnh đạm và ngắn gọn, không thừa một chữ. Ngồi dựa vào chân tường ông ta nhận thấy hình như mình đã sai lầm về việc đánh giá bọn thủy thủ khi thấy một số người tỏ ra hết sức linh lợi mau mắn như ông mong ước và cho đến nay tất cả đều có thái độ đàng hoàng nghiêm chỉnh. Về phần chiếc tàu, ông thấy nó thật sự hoàn toàn ưng ý.

Ông tuyên bố:

- Nó theo đúng chiều gió, ngoan ngoãn tiến lên còn hơn mức độ ngoan ngoãn mà một người chồng trông đợi ở vợ mình. Nhưng tôi vẫn không thích chuyến đi này. Chừng nào chưa về đến nhà thì chúng ta vẫn còn không an tâm.

Lúc ấy nhà quý tộc quay lưng bỏ đi và ngửa mặt nhìn trời, đi qua đi lại trên boong.

- Nếu nghe lão này nói thêm một tiếng nữa chắc mình nổi nóng lên mất!

Mọi người trên tàu đều tỏ vẻ bằng lòng. Ai không tỏ ra thỏa mãn thì đúng là khó tính. Chưa gặp việc gì, rượu được uống gấp đôi và gần như ngày nào cũng có bánh pút-đinh. Trên boong, một thùng lớn đựng táo luôn luôn để ngỏ, ai muốn thì tự do đến lấy.

- Thiếu tổ chức quá rồi. - ông thuyền trưởng bảo bác sĩ. - Chiều chuộng họ lắm chỉ tổ làm họ cứng đầu..Về điểm này, ông thuyền trưởng đã nhầm bởi vì nếu không có cái thùng quý hóa đó, ắt tất cả chúng tôi đã chết hết, thành nạn nhân của một vụ phản bội đê tiện nhất.

Chuyện xảy ra vào một buổi tối lúc chúng tôi đang tiến gần đến đích. Chúng tôi đã vượt qua khỏi vùng gió xích đạo để đợi gió nhẹ đưa chúng tôi về phía hòn đảo (tôi không được phép nói những chi tiết rõ hơn). Lúc ấy tôi trở về phòng mình sau khi làm xong việc. Tôi bỗng thèm nhai một quả táo. Cái thùng đã gần rỗng tuếch. Muốn với tới ba bốn quả táo còn lại, tôi phải chui vào trong. Tôi ngồi lại vì mệt và bắt đầu nhấm nháp.

Bỗng có người đến lắc cái thùng. Tôi định ra mặt thì nhận ra giọng nói của John Silver.

Giọng ấy nói những lời kinh khủng đến nỗi tôi nằm im tại chỗ, sợ đến nỗi không dám nhúc nhích, tò mò nôn nóng và nín thở để khỏi bị lộ diện. Bởi vì từ đó về sau, sinh mạng của những người lương thiện đang ở trên tàu phụ thuộc vào một mình tôi.

- Hồi đó Flint là người chỉ huy bọn tôi. -John Silver nói. - Tôi là thủy thủ trưởng. Lúc đó chân tôi vẫn còn nguyên. Tôi mất nó vào đúng cái ngày Flint bị hỏng hai con mắt. Hai chúng tôi cùng được một ông bác sĩ chăm sóc, nhưng thôi hãy trở lại câu chuyện của chúng ta.

Chúng ta hãy nói tiếp về các thủ hạ của Roberts và những gì xảy ra với bọn chúng sau nhiều lần chúng đổi tên tàu. Làm thế ắt dễ bị tóm cổ thôi.

Khi một con tàu đã được làm lễ đặt tên, thì phải giữ cái tên đó đến cùng. Lão England theo đúng nguyên tắc ấy và chiếc Cassandra luôn luôn đưa bọn tôi về bến yên hàn vô sự, ngay cả sau lần chặn bắt chiếc tàu của phó vương ấn Độ ngoài khơi đảo Malabar. Flint cũng làm như vậy. Biết bao lần tôi đã trông thấy chiếc Walrus của ông ta chở vàng nặng đến nỗi suýt chìm!

- ối chà! - Một tên thủy thủ trẻ tuổi nói, tỏ ra rất đỗi khâm phục. - Thuyền trưởng Flint đúng là người gan dạ không ai bì kịp!

- Lúc đầu, tôi đi biển với England rồi sau đó đi với lão Flint. Còn bây giờ, ở đây, tôi đi biển cho chính mình, nếu tôi dám nói như thế.

Sau những chuyến đi với England, tôi còn được chín trăm đồng và đi với Flint, tôi còn được hai ngàn. Tôi đã bỏ hết vào ngân hàng. Phải biết tiết kiệm chứ. Đến nay bọn thủ hạ của England đang ở nơi đâu? Chẳng ai biết cả. Còn những người theo Flint thì sao? Chắc chắn đa phần bọn.họ đang ở đây, sung sướng dưới quyền chỉ huy của tôi bởi vì có gì hơn người đã phải đi ăn xin như lão Pew. Cần gì lão phải tiêu xài mỗi năm đến một ngàn đồng như một ông hoàng thế chứ?

Và bây giờ lão đi đâu rồi? Đã chết vùi thây dưới đất! Vùng vẫy biển khơi ba mươi năm để cuối cùng đi đến nước ấy có đáng không? Lũ ngu ngốc hưởng được cái gì? Không được gì cả. Cậu còn trẻ nhưng mới quen cậu tôi thấy ngay cậu có đầu óc thông minh già dặn. - Gã vừa nói vừa nhìn kỹ vào anh thủy thủ trẻ tuổi.

Các bạn chắc có thể tưởng tượng tình cảm của tôi ra sao khi tôi phải nghe tên côn đồ dùng những lời lẽ như những gì gã đã nói để tâng bốc tôi. Nếu có thể ắt tôi đã bóc lưỡi gã ra, nhưng lúc này chưa được.

Không ngờ có tôi ở đó, gã nói tiếp:

- Giang hồ như bọn tôi sống cuộc đời gian nan và đôi khi còn suýt bị treo cổ. Nhưng chúng tôi vẫn cứ ăn uống no say rồi khi chuyến đi kết thúc chúng tôi bỏ túi rủng rẻng một hai trăm đồng. Vậy mà, đối với nhiều người chúng tôi, chừng ấy chỉ đủ để vui chơi, đến ngày cạn túi lại phải tiếp tục ra khơi. Tính tôi không phải như thế. Tôi để vàng của tôi vào nơi này một ít nơi kia một ít để khỏi gây ngờ vực. Tuy thế tôi chẳng phải nhịn thứ gì. Vậy mà tôi đã khởi đầu như thế nào? Lúc đầu tôi cũng đứng trước mũi tàu như cậu.

- Đồng ý, - anh thủy thủ trẻ đáp lời, - nhưng số vàng mà ông nói đó cũng sẽ hết mất thôi. Sau chuyến đi này, tất ông không thể chường mặt về Bristol nữa.

- Vậy cậu nghĩ vàng của tôi đang ở đâu mới được chứ? - John Silver nói tiếp.

- Trong tay các chủ ngân hàng ở Bristol chứ gì.

- Khi chúng ta lên tàu, nó ở đó thực nhưng bây giờ vợ tôi đã rút nó ra rồi. Cô ta đã bán cái quán "Viễn Vọng Kính" và chuẩn bị sẵn sàng để đến gặp tôi. Lẽ ra tôi nói cho cậu biết nó ở đâu nhưng tôi không muốn làm kẻ khác ghen tị.

- Thế nhỡ cô ta ôm vàng bỏ trốn thì sao? -Anh thanh niên vẫn cứ tiếp tục thắc mắc.

- Trời ơi, cậu nên biết, ai quen biết rồi thì không đùa bỡn với John Silver đâu. Nếu dám thì kẻ ấy làm sao có cơ may đội trời chung với y!

Tôi đã đi biển với Flint và bọn thủy thủ trên tàu đâu có phải là lũ cừu non. Nhưng, nói không phải khoe, ngay đến cả lão Flint, mọi người đều biết không nên trêu chọc John Silver này. - Thú thật với ông chuyến đi này tôi không thích lắm, - Anh chàng lính mới nói. - Nhưng từ khi nói chuyện với ông, tôi sẵn sàng theo lệnh của ông.

- Cậu thật là người hảo hán. - Silver kết luận.

- Tôi đã thấy ngay cậu sinh ra có máu giang hồ.

Tôi bắt đầu hiểu ra rằng một kẻ giang hồ chẳng qua chỉ là một tên cướp biển và gã đầu bếp đang tìm cách mua chuộc một trong những anh chàng thủy thủ trung thành cuối cùng. Có lẽ cậu ta là kẻ cuối cùng cũng nên.

- Dick cùng cánh với chúng ta. - Silver khẳng định.

- Tôi đã không nghi ngờ chuyện đó. - Israel Hands đáp. - Dick không phải là thằng ngu. Khi nào chúng ta bắt đầu hành động? Tôi bị lão thuyền trưởng ngược đãi và tôi vội bỏ vào ngủ trong khoang.

- Này Israel, cậu còn thật thà lắm. Nhưng tôi nghĩ cậu là người biết nghe: xem ra, lỗ tai của cậu đủ lớn để nghe rõ đấy. Đây là điều tôi phải nói với cậu: cậu sẽ tiếp tục ngủ ở đầu mũi tàu, chịu khó làm việc hết mình, nói năng ngọt ngào, và không uống rượu cho đến khi tôi ra lệnh bắt đầu ra tay. Cậu cứ tin tôi mà yên tâm làm theo như vậy nhé.

- Được rồi, tôi không từ chối. - Tên kia càu nhàu. - Tôi chỉ cần biết một điều duy nhất là bao giờ sẽ xảy ra chuyện đó. Thế là đủ.

- Bao giờ ư? Trời đất ơi! Nếu cậu khăng khăng muốn biết, tôi sẽ nói ngay với cậu thế này:

càng chậm càng hay cậu Ô! Cậu hãy suy nghĩ một chút đi. Có một tay đi biển cừ khôi là thuyền trưởng Smollett đang điều khiển chiếc tàu chắc chắn chúng ta đang ngồi. Còn lão quý tộc và tên bác sĩ kia đang có một tấm bản đồ và đủ thứ linh tinh. Tôi chẳng biết nó ở đâu, đúng không?

Và cậu cũng chẳng biết gì sất. Vậy thì, mẹ kiếp; tôi muốn lão quý tộc và tên bác sĩ ấy tìm ra số vàng và giúp bọn ta chuyển nó lên tàu. Sau đó rồi sẽ tính. Nếu tôi có thể tin chắc vào một đám lề mề như các cậu, tôi sẽ để lão thuyền trưởng đưa bọn ta về nửa đường trước khi hành động.

- Theo tôi thấy, tất cả chúng ta ở trên tàu này đều là những tay đi biển thành thạo kia mà.

- Anh chàng trẻ tuổi tên Dick lên tiếng.

- ý cậu muốn nói tất cả bọn ta là những thủy thủ đúng không. - Silver đáp lại bằng một giọng lãnh đạm. - Chúng ta có thể điều khiển con tàu nhưng ai sẽ vạch đường cho chúng ta theo? Nếu tôi có thể làm theo ý mình, tôi sẽ để cho lão thuyền trưởng Smollett đưa bọn ta về ít ra cũng đến tận vùng gió xích đạo; lúc bấy giờ ta sẽ tính toán không sai và không đến nỗi phải bằng lòng với một muỗng nước mỗi ngày. Nhưng tôi biết tỏng các cậu rồi. Ngay khi tìm ra số vàng.ấy, tôi sẽ cho thanh toán chúng ngay trên đảo và như vậy thật vô cùng đáng tiếc. Nhưng chỉ có khi say các cậu mới hài lòng. Đi biển với một lũ chó má như các cậu làm tôi khổ tâm không chịu nổi!

- Bình tĩnh một chút đi nào, John Cao! -Israel cắt ngang. - Có ai làm trái ý anh đâu?

- Này, cậu nghĩ tôi đã từng thấy bao nhiêu chiếc tàu lớn bị tấn công chưa? Và biết bao nhiêu gã thanh niên nhanh nhẹn phải nằm phơi mình ngoài nắng, lủng lẳng ở đầu sợi dây trên bãi hành hình không? Tất cả chỉ vì vội vã! Tất cả bọn chúng đã quá vội, cậu nghe tôi nói không nào?

Nói thật với cậu, tôi đã chứng kiến nhiều vụ trên biển. Chỉ cần các cậu giong buồm qua một mũi đất, áp sát vào một luồng gió thế là đủ giàu sang rồi, bảo đảm với các cậu như thế. Nhưng thôi, chẳng hại gì! Tôi biết các cậu. Ngày mai, các cậu chỉ cần một ngụm rượu rum rồi sau đó sẵn sàng bị treo cổ cũng được mà.

- Anh thuyết giảng quá hay, anh John ạ. -Israel đáp. - Tuy nhiên, không cần thiết phải nói dài dòng. Tôi biết có những người điều khiển con tàu cũng giỏi như anh mà đâu có vội lên mặt vênh váo. Những người đó lại biết tiêu khiển nữa kìa!

- Quả thật có như thế! Nhưng bây giờ họ ở đâu? Pew đi ăn xin rồi chết. Rượu rum đã giết Flint ở Savannah. Còn Bones đã kết liễu đời mình ra sao? Phải, đó là những kẻ không sao chịu nổi!

- Cuối cùng, khi đã áp đảo được những người ở đuôi tàu chúng ta sẽ xử chúng ra sao? - Dick hỏi.

- Thật là đúng lúc, ăn nói thế mới thật là hay. - Gã đầu bếp nói lớn. - Chúng ta có nên áp dụng theo lối của England, bỏ chúng lại trên một hòn đảo hoang? Hay là như Flint và Bones đã từng làm, chúng ta sẽ xé xác chúng ra như những con lợn béo?

Billy trước kia là một tay thô bạo ghê gớm!

- Israel nhận xét.

- Đồng ý! Nhưng sự thô bạo không phải là phong cách của tôi. Tôi là một người lịch sự nhất trần gian. Ai cũng đều biết như vậy. Nhưng lần này không phải chuyện đùa. Tôi quyết định giết chúng bởi vì tôi không muốn những kẻ ở đuôi tàu tố cáo những việc làm của tôi khi tôi vào nghị viện. Chúng ta hãy đợi lúc thuận tiện rồi giết chúng ngay!

- John, anh thật là con người khí khái! -Hands kêu lên.

- Các cậu hãy chờ tôi ra tay. - Silver đáp lại.

- Về phần tôi, tôi chỉ giết một thằng, đó là lão.quý tộc. Để rồi các cậu thấy tôi luộc nó như thế nào. Dick à, tôi khô cả cổ họng rồi đây. - Gã nói thêm. - Cậu cho tôi một trái táo đi.

Tôi thật sự kinh hãi. Tôi rất muốn nhảy ra khỏi cái thùng nhưng không đủ sức.

Gã thanh niên đứng lên và tôi thấy hình như anh ta dừng lại khi Hands nói tiếp:

- †n táo, anh đùa đấy chứ! Dẹp chuyện táo đi. Tốt nhất là cho chúng tôi ít rum.

- Dick, - Silver trả lời, - cậu hãy đến thùng rượu rum. Tôi tin tưởng ở cậu, chìa khóa đây.

Múc đầy cặp lồng của tôi rồi mang lại đây.

Tuy sợ hết hồn nhưng tôi không thể không nghĩ rằng chính Arrow đã uống rượu theo cách ấy nên đã thiệt mạng.

Thừa lúc không có mặt Dick, Israel Hands nói nhỏ vào tai John Silver. Tôi chỉ nghe được một câu nhưng câu ấy thật quan trọng: "Không có thêm người nào về phe chúng ta nữa". Như vậy là còn có vài người trung thành ở trên tàu.

Khi Dick trở về, bọn chúng lần lượt cầm cặp lồng uống: "Cầu Trời phù hộ chúng ta!", một tên thì thầm. "Để nhớ đến Flint", tên kia nói.

Sau cùng, Silver cất tiếng khoan khoái nói rõ: "Cầu chúc chuyến đi của chúng ta thành công tốt đẹp!".

Bỗng đâu một luồng ánh sáng rọi xuống người tôi, tận đáy thùng. Ngẩng đầu lên, tôi trông thấy mặt trăng đã mọc. Ngay lúc đó, thủy thủ đứng canh trên tàu la lớn: "Đất liền!".

Trên boong vang lên tiếng những bước chân chạy thình thình hồi hả. Tôi nghe tiếng người lộn xộn đi ra từ buồng lái và khoang dành cho thủy thủ. Thoắt một cái, tôi chui ra khỏi thùng chứa, lẩn sau cánh buồm đằng trước mũi tàu, phóng chạy về phía đuôi tàu rồi bước lên boong kịp lúc để cùng đi theo Hunter và bác sĩ Livesey.

Mọi người trên tàu đã tụ họp đông đủ. Một dải sương mù tan ra vừa lúc trăng lên. Xa xa, về phía tây nam, chúng tôi trông thấy hai quả đồi cách nhau chừng hai dặm. Đằng sau chúng lại nhô lên một chỏm núi khác cao hơn nhiều, đỉnh còn khuất trong sương mù. Ba chỗ đất cao với đỉnh nhọn hợp lại hình chiếc nón.

Trông cảnh ấy, tôi tưởng mình đang nằm mơ bởi vì tôi chưa hoàn hồn sau cơn sợ hãi khủng khiếp mà tôi đã trải qua trước đó một phút. Tôi nghe thuyền trưởng Smollett hỏi đám thủy thủ:

- Trong số các anh, đã ai thấy hòn đảo này chưa?.- Thưa thuyền trưởng, tôi ạ. - John Silver tức khắc trả lời. - Tôi đã lên đó để lấy nước dạo tôi làm đầu bếp cho một con tàu.

- Có phải chỗ neo tàu ở phía nam, đằng sau hòn đảo nhỏ đó không?

- Đúng rồi, đằng sau hòn đảo được gọi là Hài Cốt ấy. Ngày xưa đó là sào huyệt của bọn cướp biển. Một thủy thủ đi theo chúng tôi biết rất rành hòn đảo và nơi nào anh ta cũng biết tên. Quả đồi cao nhất bị sương mù bao phủ kia tên là Đồi Viễn Vọng Kính.

- Đây là tấm bản đồ, anh có nhận ra chỗ ấy không?

Đôi mắt của Silver sáng lên nhưng sau đó gã thất vọng ngay. Tấm bản đồ của ông Smollett chỉ là bản sao của tấm bản đồ chúng tôi đã tìm thấy trước đây trong cái rương của Billy Bones và trên đó không có các dấu thập đỏ. Gã đầu bếp cố giấu sự tức giận.

- Phải, đúng là hòn đảo ấy. - Gã nói. - Tôi tự hỏi không biết ai đã lập tấm bản đồ này...

Không phải bọn cướp, chúng quá dốt nát. à, kia là "chỗ neo tàu của thuyền trưởng Kidd" như lời anh bạn đồng hành của tôi gọi nó.

Tôi ngạc nhiên thấy John bình thản thừa nhận gã hiểu rành rẽ hòn đảo và tôi phải thú thật là mình đã cảm thấy chột dạ khi thấy gã lại gần. Chắc chắn gã không hay tôi đã nghe được các dự tính của gã. Nhưng từ lúc ấy tính độc ác, một dạ hai lòng và sự ảnh hưởng của gã lên đám thủy thủ đã làm tôi vô cùng khiếp hãi nên tôi không khỏi rùng mình khi gã đặt bàn tay lên cánh tay tôi, nói:

- Chà, hòn đảo này là nơi tuyệt đẹp. Cậu này còn nhỏ tuổi mà lên đó chơi thì thú vị vô cùng.

Cậu sẽ tắm, trèo cây, đuổi hươu, cậu sẽ leo lên các quả đồi chẳng khác gì chính cậu là một con hươu. Nói thật chỉ nghĩ đến thôi cũng đủ làm tôi trẻ ra: tôi suýt thiếu đường quên đi cái nạng của mình! Trẻ tuổi và mười ngón chân còn lành lặn thì khoan khoái biết bao nhiêu mà kể, tôi nói không sai đâu. Nếu muốn lên đó chơi một lát cho biết, cậu cứ việc nói với lão John. Lão sẽ chuẩn bị cho cậu một bữa lót dạ để mang theo.

Nói xong, gã vỗ vào vai tôi rất thân ái rồi khập khễnh đi về phía mũi tàu bước xuống nhà bếp.

Thuyền trưởng Smollett, nhà quý tộc và ông bác sĩ đang nói chuyện với nhau trên sàn lái. Tuy rất nóng lòng kể cho họ nghe câu chuyện của mình, tôi vẫn không dám ngang nhiên cắt lời họ.

Đang lúc tôi cố vắt óc nghĩ ra một cớ hợp tình hợp lý thì bác sĩ Livesey cất tiếng gọi tôi. ông.đã bỏ quên cái tẩu thuốc lá trong khoang. ông là người nghiền thuốc rất nặng nên muốn bảo tôi đi lấy. Nhân dịp đó, tôi vừa tới sát bên ông vừa nói với ông thật khẽ để người khác không nghe thấy:

- Thưa bác sĩ, xin hãy nghe tôi nói. Bác sĩ cùng với nhà quý tộc và ông thuyền trưởng hãy bước xuống khoang rồi kiếm cớ sai người đi tìm tôi.

Tôi có một tin kinh khủng muốn cho các ông hay.

Trong lúc đó ông thuyền trưởng đã tập hợp mọi người trên boong. ông nói:

- Hỡi các bạn, miền đất mà các bạn thấy đằng kia là mục tiêu chuyến đi của chúng ta. ông Trelawney vừa mới hỏi tôi có hài lòng về các bạn không? Trong đoạn đường vượt biển vừa qua tôi rất hãnh diện về tất cả mọi người trên tàu nên đã yêu cầu ông ta thưởng cho các bạn một chầu rượu rum gấp đôi thường lệ. Các bạn hãy hoan nghênh nhà quý tộc đã có lòng thết đãi chúng ta.

Tiếng vỗ tay vang dậy, Silver còn đề nghị mọi người hoan hô thuyền trưởng Smollett và chính gã cũng tỏ ra nhiệt tình sôi nổi. Sau đó, ba nhà quý tộc bước xuống phòng khách. Tôi tức thời đi đến gặp ba ông?

- Nào cậu Jim, cậu có điều gì muốn cho chúng tôi hay? Chúng tôi đang nghe cậu nói đây.

- ông bác sĩ mở lời.

Tôi thuật lại hết sức vắn tắt cuộc nói chuyện tôi đã nghe được. Khi tôi kể xong ông Trelawney lên tiếng:

- ông thuyền trưởng ạ, ông đã có lý. Tôi đã thật sai lầm. Tôi đúng là người ngu dốt. Kể từ bây giờ, tôi lúc nào cũng sẵn sàng theo lệnh ông.

- Chính tôi mới là thằng ngu. - Thuyền trưởng đáp. - Tôi chưa bao giờ gặp một đoàn thủy thủ nào âm mưu nổi loạn mà không có một chút sơ hở như bọn này. Chúng làm tôi như bị đánh hỏa mù: Tôi chẳng hiểu ra sao cả.

Đến lượt ông bác sĩ nói:

- Tất cả đều do thằng John Silver mà ra cả.

Tên đầu bếp tàn tật đó thật là một tay ghê gớm.

- Nó còn ghê gớm hơn nữa khi tôi thấy nó bị treo cổ lủng lẳng trên cột buồm chính. - ông thuyền trưởng nói tiếp. - Nhưng thôi, nói lông bông chẳng tới đâu. Tốt hơn ta nên nghiên cứu tình hình cho thật kỹ. Câu chuyện của Jim kể cho ta thấy ba điều. Điều thứ nhất là phải cho tàu tiếp tục đi tới. Nếu ta ra lệnh cho tàu quay mũi, bọn cướp sẽ nổi loạn ngay. Điều thứ hai, từ giờ đến khi tìm thấy kho vàng, chúng ta không có gì phải lo sợ cả. Điều thứ ba, chung cuộc vẫn còn vài người trung thành với chúng ta. Nhưng sớm muộn gì cũng phải có vụ đánh nhau. Tôi đề nghị hễ có dịp thuận lợi là ta tấn công bọn.cướp ngay trong khi chúng hoàn toàn bất ngờ.

Thưa ngài Trelawney, chúng ta có thể tin tưởng vào những người giúp việc của ngài không?

- Có thể tin ở bọn họ như tin ở chính tôi vậy. - ông ta khẳng định.

- Họ có ba người cộng với bốn chúng ta, nếu kể Jim như một người trưởng thành, vậy tất cả là bảy. Tình hình chẳng có gì khả quan, tôi vẫn biết thế. Lúc này điều hay nhất chúng ta phải làm, ấy là cảnh giới đề phòng.

Ông bác sĩ nói:

- Cậu Jim có thể giúp chúng ta rất nhiều.

Cậu còn bé nên bọn thủy thủ ấy sẽ không nghi ngờ gì.

- Hawkins à, tôi hết lòng tin cậy vào cậu đó.

- Nhà quý tộc kêu lên.

Sự tin tưởng ấy làm tôi rất mát dạ nhưng tôi vẫn thấy mình không xứng đáng. Tôi cảm thấy minh còn nhỏ và thiếu kinh nghiệm. Chỉ còn được bảy người tin cẩn trong số hai mươi sáu người chúng tôi mà trong bảy người đó lại có một đứa bé. Tuy vậy nhờ một cơ hội ngẫu nhiên, tôi đã trở thành vị cứu tinh của mọi người.

5. Những cuộc phiêu lưu đầu tiên của tôi trên đảo

Ban ngày, hòn đảo trông không còn giống như đêm qua. Sương mù đã tan. Cảnh vật nhìn chung thật đơn điệu và u buồn. Vài cây thông to lớn lác đác nhô lên, có chỗ mọc cách xa nhau, có chỗ gom thành từng cụm, sắc cây màu thẫm nổi bật trên nền cát vàng của bãi biển. Tất cả những đồi núi cao nhất trên đảo đều có hình thù kỳ lạ do những tảng đá trơ trụi chồng chất thành từng bậc từ thấp lên cao.

Đồi Viễn Vọng Kính còn kỳ dị hơn nữa, bốn phía dốc đứng, đỉnh bằng phẳng nhưng bị cắt ngang, trông giống như để một pho tượng.

Tôi cảm thấy khó chịu và buồn bã. Từ ngày hôm ấy về sau, nghĩ đến đảo kho báu lúc nào tôi cũng cảm thấy khó chịu.

Không hề có một chút gió phe phẩy nên chúng tôi phải thả xuồng xuống biển để kéo chiếc.tàu buồm đến tận con lạch dẫn đến bến đậu của đảo Hài Cốt. Trời nóng như thiêu như đốt, các thủy thủ vừa đẩy mái chèo vừa đổ quạu quát tháo. Andersen điều khiển chiếc xuồng có tôi ngồi và y còn than phiền nhiều hơn cả. Tôi thấy đó là một triệu chứng rất nguy bởi vì từ trước đến giờ các thủy thủ đã từng làm việc vui vẻ và tận tình. Nhưng chỉ mới thấy hòn đảo là họ đã bắt đầu nghĩ đến chuyện phiến động.

Suốt thời gian cho tàu cập bến, Silver ngồi trên chiếc xuồng đi đầu đóng vai kẻ dẫn đường.

Gã biết cái eo biển ấy rất tường tận. Chúng tôi quăng neo cách bờ khoảng nửa dặm, ở vị trí giữa đảo Hài Cốt và đất liền. Không khí bốc lên một mùi đặc biệt của nước tù, lá mục và thân cây thối rữa. ông bác sĩ nhăn mặt khó chịu.

- Trên đảo này vàng chưa thấy đâu nhưng tôi chắc chắn là có sốt rét đấy.

Thái độ của bọn thủy thủ trở nên đáng lo khi chúng quay lại tàu Hispaniola, đứng tụm thành từng nhóm trên boong. Chúng thì thầm và bàn cãi với nhau. Mệnh lệnh đơn giản nhất đưa ra chúng cũng công khai tỏ ra thiếu thiện chí.

Cuộc nổi loạn lơ lửng trên đầu chúng tôi và John Silver cũng cảm thấy sợ. Gã lật đật chống nạng đi từ nhóm này đến nhóm khác, thuyết phục chúng cần phải bình tĩnh. Đối với ông thuyền trưởng, gã luôn luôn tươi cười, lễ phép và sẵn lòng tuân lệnh, nhưng vẻ lo âu của gã hiện rõ làm chúng tôi không yên lòng. Chúng tôi họp nhau lại trong phòng khách để bàn bạc.

Ông thuyền trưởng nêu ý kiến:

- Bọn chúng cãi lệnh tôi một cách vô lễ, điều này không ai phủ nhận được. Nếu tôi tỏ ra mình nhận thấy điều đó, bọn thủy thủ sẽ nổi loạn còn nếu tôi để yên bất động, Silver sẽ nghi ngờ có âm mưu gì đây. Tóm lại, chúng ta chỉ có thể trông cậy vào một người duy nhất.

- Người ấy là ai? - Bác sĩ hỏi.

- Chính là Silver. Hắn cũng như chúng ta muốn bọn thủy thủ êm lặng. Chúng ta hãy cho hắn cơ hội chiêu dụ bọn kia nghe theo điều phải.

Chúng ta hãy cho phép tất cả mọi người lên đảo.

Nếu bọn chúng đi hết, chúng ta sẽ có thể bảo vệ chiếc tàu. Nếu bọn chúng từ chối lên bờ, chúng ta cũng phải tự bảo vệ. Còn nếu chỉ những tên hung hăng nhất rời khỏi tàu, tôi nghĩ Silver sẽ chiêu dụ được chúng.

Chúng tôi tán đồng ý kiến ấy. Những khẩu súng lục được giao cho những người giúp việc, Joyce, Hunter và Redruth rồi sau đó ông Smollett lại trở lên trên boong, ngỏ lời với các thủy thủ.

- Hỡi các bạn, - ông nói. - sáng nay chúng ta đã làm việc vất vả. Chúng ta giờ này mệt mỏi.và bực dọc. Các bạn hãy dùng những chiếc xuồng đang thả dưới nước để lên bờ chơi một lúc. Các bạn sẽ thấy khỏe người. Một giờ trước khi mặt trời lặn, tôi sẽ cho bắn một phát đại bác để về lại tàu.

Có lẽ bọn thủy thủ tin rằng chúng sẽ bắt được vàng ngay khi đặt chân lên đảo nên tin ấy làm chúng rất vui, chúng cất tiếng hoan hô làm lũ chim trong các khu rừng bay ào lên rồi lại đáp xuống.

Ông thuyền trưởng rất thông minh nên chẳng ở lại đó làm gì . ông biến đi ngay, giao lại cho Silver lo việc tổ chức chuyến đi. Tôi thấy làm như vậy chứng tỏ ông là một người rất khôn ngoan. Quả thế, nếu ông ở lại trên boong, ông không thể giả vờ không biết tình hình đã rõ như ban ngày: Silver là thuyền trưởng, chỉ huy một đoàn thủy thủ bất phục tòng. Các thủy thủ trung thành (về sau tôi biết ra là có những người ấy) đúng là những kẻ đặc biệt ngu ngốc. Hay nói đúng ra, tôi cho là tất cả các thủy thủ đã bị lôi kéo theo gương của những kẻ kích động. Họ đã ít nhiều biểu lộ sự bất bình nhưng cũng có một số người chính trực không bị cuốn theo. Tỏ ra lười biếng nhát gan là một chuyện, chiếm đoạt tàu và giết hại người vô tội lại là một việc khác.

Cuối cùng, chuyến đi đã tổ chức xong. Sáu người phải ở lại trên tàu. Mười ba người khác trong đó có Silver bắt đầu xuống xuồng.

Chính lúc đó tôi nảy ra ý nghĩ đầu tiên trong số hàng loạt những ý nghĩ mặc dù điên cuồng nhưng có công rất lớn giúp chúng tôi thoát nạn.

Bởi vì Silver đã để sáu người ở lại trên tàu, rõ ràng nhóm chúng tôi không thể chiếm được chiếc tàu, nhưng chỉ có sáu tên nổi loạn thì cũng rõ là nhóm chúng tôi có thể không cần tôi giúp.

Tức khắc tôi quyết định lên bờ. Trong nháy mắt, tôi tuột qua mạn tàu và ngồi nấp ở đằng mũi chiếc xuồng gần nhất đang lướt ra khơi.

Không ai để ý đến tôi, ngoại trừ tên chèo mũi nói với tôi: "Jim đó hả? Cậu cúi đầu xuống." Nhưng lúc đó Silver đang ở trên chiếc xuồng kia, quay phắt lại phía chúng tôi và hỏi có phải đúng tôi đó không. Ngay phút ấy, tôi bắt đầu hối tiếc việc mình đã làm.

Hai chiếc xuồng thi nhau bơi vào bãi cát.

Chiếc xuồng tôi ngồi đã đi trước lại nhẹ hơn và được điều khiển giỏi hơn nên đã vượt qua chiếc kia một khoảng rất xa. Xuồng vừa đến chòm cây ven bờ, tôi liền bám vào một cành, đu người nhảy ra khỏi xuồng. Tôi chạy tuốt vào khu rừng rậm gần nhất. Trong khi ấy, Silver và bọn kia còn ở phía sau cách xa đến một trăm thước..- Jim, Jim! - Gã đầu bếp cất tiếng gọi.

Nhưng bạn đọc cũng có thể nghĩ ra là tôi không hề để ý đến những tiếng gọi của gã. Tôi nhảy, vạch lối qua các khu rừng rậm, chạy thẳng một mạch cho đến khi mệt nhoài.

Sau khi trốn được khỏi John Cao tôi thấy hết sức thỏa mãn. Tôi bắt đầu vui chơi và thích thú ngắm nhìn phong cảnh xung quanh.

Đây là lần đầu tiên tôi biết đến những niềm vui của việc thám hiểm. Hòn đảo hoang vu không người ở. Tôi đã bỏ lại đằng sau những người bạn đồng hành trên tàu và trước mặt tôi chỉ có muông thú cùng chim chóc. Tôi lang thang giữa các bụi cây không nghĩ gì đến nguy hiểm.

Thình lình, giữa đám lau sậy bỗng nổi lên một cảnh náo loạn; một con vịt trời cất cánh bay lên gọi đàn bằng thứ giọng khàn đặc; một con khác bay theo và chẳng mấy chốc cả một đàn chim đông như đám mây lớn lượn trên khắp đồng lầy, kêu lên inh ỏi. Tôi đoán ra ngay hẳn có một số bạn đồng hành của tôi đang tiến lại gần. Tôi nghĩ không lầm bởi vì chỉ một lát sau, tôi nghe có tiếng người vẳng lại xa xa, càng lắng tai tiếng nói ấy càng lớn.

Điều này làm tôi hết sức hoảng sợ. Tôi bò xuống dưới tàn che của một cây sồi xanh gần nhất và nấp ở đó yên lặng lắng tai nghe chừng chẳng khác gì một con chuột nhắt.

Một giọng nói thứ hai đáp lại. Sau đó, giọng thứ nhất (tôi nhận ra đó là giọng của Silver) tiếp tục kể chuyện một hồi thật lâu. Gã nói thao thao bất tuyệt, hiếm lắm mới có tiếng người kia xen vào ngắt quãng. Qua giọng điệu của chúng tôi chắc hai kẻ ấy đang bàn cãi kịch liệt với nhau về một vấn đề nghiêm trọng. Tuy nhiên, tôi không nghe rõ lời nào cả.

Cuối cùng, tôi thấy hình như hai tên ấy đã dừng lại và có lẽ chúng ngồi xuống. Quả nhiên, không những bọn chúng không tiến đến gần nữa mà chim chóc cũng bắt đầu bình tĩnh, đáp lại xuống đầm.

Lúc ấy, tôi có cảm tưởng mình không hoàn thành nhiệm vụ, vì tôi đã điên rồ liều lĩnh lên bờ với bọn thủy thủ mà lại không rình nghe được chúng nói gì. Do đó, bổn phận của tôi bây giờ là phải lần theo các bụi cây che đến sát bọn chúng càng gần càng tốt.

Tôi có thể định khá chính xác nơi chúng đang ngồi, không chỉ theo âm giọng của chúng mà còn bằng thái độ của một vài con chim vẫn tiếp tục bay lượn trên đầu bọn người lạ xâm nhập vùng đất của chúng..Tôi chống tay lom khom trên mặt đất, bắt đầu bò, chậm rãi nhưng đều đặn, tiến về phía bọn chúng.

Cuối cùng, xuyên qua một lỗ hổng giữa các tàn lá tôi trông thấy John Silver đang ngồi trò chuyện với một thủy thủ trong bọn, giữa lòng một thung lũng nhỏ xanh tươi nằm bên đầm lầy, cây bao quanh dày đặc.

- Này anh bạn, - Gã đầu bếp nói. - ấy chỉ vì tôi thực tình mến bạn, chứ không thì tôi chẳng thèm báo trước cho anh biết làm gì. Nhưng thôi mọi việc xong rồi, anh không thể nào làm khác được. Tom ạ, tôi nói thế cho anh biết, là để anh khỏi mất đầu.

- John Silver ơi, - Tên kia trả lời giọng run run vì xúc động, - ông là người lương thiện. ít ra ông cũng có tiếng như vậy. ông có một tài khoản trong ngân hàng, điều đó một thủy thủ dễ gì có được. ông còn là một người can đảm. Vậy thì tại sao ông để lũ vô tích sự ấy lôi kéo ông?

Về phần tôi, tôi thà chết chứ không chịu làm trái bổn phận.

Tôi thở phào. Con người ấy mới thật là lương thiện. Ngay lúc ấy phía bên đầm vang lên một tiếng la giận dữ. Sau đó là một tiếng rú đau đớn kéo dài và ghê rợn. Bầy chim trong đầm lầy hoảng sợ. Chúng cất cánh bay lên hỗn loạn, che tối cả bầu trời.

Tom giật nảy mình, đứng bật dậy. Silver không nhúc nhích. Gã đứng yên tại chỗ, tay chống nạng, sẵn sàng đâm bổ vào con mồi. Thình lình gã nhảy lui lại đằng sau khoảng một thước, nhanh như một vận động viên điền kinh.

- Đừng đụng đến ta! - Gã la lớn.

- ông cũng đừng đụng đến tôi. - Tom nói. -Nhưng tại sao ông lại sợ tôi? Và tiếng la gì thế?

- Tiếng la ấy ư? - Silver mỉm cười đáp, vẫn luôn luôn đề phòng. - Đó là tiếng la trối chết của Alan đó!

- Alan! - Tom kêu lên. - Cầu trời phù hộ cho vong linh anh ấy, đó là một người lương thiện. Còn ông, Silver, ông đã là bạn của tôi nhưng nay không còn là bạn tôi nữa. Nếu phải chết, tôi sẽ chết để làm tròn bổn phận. Nếu tôi đáng tội, ông cứ giết tôi đi. Nhưng tôi báo trước cho ông biết hãy coi chừng đối thủ!

Thấy Silver không trả lời, Tom quay lưng bỏ đi về phía bãi cát. Anh ta đi chưa được xa.

Silver đưa tay trái chụp lấy một cành cây. Tay phải gã cầm lấy chiếc nạng, xoay xoay một cách giận dữ. Bất ngờ đầu nhọn của vũ khí ấy đánh xuống giữa hai vai của Tom, mạnh dữ dội chưa từng thấy. Tom ngã sấp mặt xuống..Cảnh tượng rùng rợn ấy làm tôi hoảng vía.

Hai lỗ tai tôi ù lên. Tôi nghĩ hình như mình đã ngất đi vì khi tôi hoàn hồn, tên giết người ấy đã rút cây còi trong túi ra. Một hồi còi vang lên.

Hiệu lệnh ấy khiến tôi lại hoảng hồn thêm một lần nữa. Những tên cướp khác sắp xuất hiện nên có thể chúng sẽ phát hiện ra tôi cũng nên. Bọn chúng đã sát hại hai thủy thủ trung thành. Bây giờ đến lượt tôi chăng?

Tôi cố lách mình ra khỏi những cành cây bao quanh rồi lặng lẽ bò về phía khoảng rừng thưa, không gây một tiếng động dù rất nhỏ. Vừa ra khỏi rừng cây, tôi cắm cổ chạy miết một thôi không biết đến đâu. Càng chạy lại càng sợ, đâm ra hoảng hốt tán loạn. Tôi chạy như thế đến chân một ngọn đồi có những cây sồi xanh tốt mọc thưa hơn. Không khí mát mẻ hơn ở trong đầm lầy. Đến đây lại thêm một cảnh kinh hoàng khác nữa làm tôi đứng sững lại, không dám nhúc nhích. Tim tôi đập thình thịch.

Từ trên sườn đồi, chỗ tôi đang đứng lởm chởm đá và thẳng dốc, một loạt đá nhỏ tuôn xuống ào ào, nảy bần bật giữa đám cây. Bất thần quay nhìn về hướng ấy, tôi trông thấy thấp thoáng một hình dáng nhảy nhanh lẹ vào sau một gốc thông. Tôi không thể phân biệt được đó là khỉ hay người, chỉ thấy nó có màu sẫm và lông lá bù xù. Ngoài ra chẳng biết gì hơn. Nhưng sự xuất hiện mới này làm tôi kinh hãi, chết đứng tại chỗ.

Lúc này, đường rút lui của tôi hình như đã bị chặn cả hai đầu: sau lưng là mấy tên sát nhân, trước mặt là một vật thể không thể xác định là gì. Cuối cùng tôi chọn cách đối đầu với những điều nguy hiểm tôi đã biết còn hơn là với những hiểm họa bất lường. Tôi thấy chính gã Silver cũng không đáng sợ bằng con vật trong rừng kia. Thế là tôi quay ngược lại, vừa đi vừa dáo dác quay mắt nhìn lui nhiều lần, theo con đường hướng về những chiếc xuồng.

Chỉ trong khoảnh khắc, cái hình thù kỳ dị lúc nãy lại xuất hiện, đi dọc một đường vòng khá xa, lăm le chặn đường tôi lại. Lúc này tôi cũng đã mệt mỏi, nhưng cho dù có khỏe như lúc sáng sớm mới ngủ dậy tôi cũng không thể nào thi thố tốc lực với một đối thủ ghê gớm đến thế. Cái bóng ấy phóng từ cây nọ đến cây kia, lướt nhanh như một con hoẵng. Nó chạy bằng hai chân như người nhưng mình vẫn cúi gập. Tôi chưa hề thấy người nào làm như vậy, song đó là một con người thật sự, tôi không thể nghi ngờ chút nào.

Tôi chợt nhớ trước đây có nghe nói về những kẻ ăn thịt người và tôi định kêu la cầu cứu. Tuy.vậy khi biết đó là người, dù kẻ ấy man rợ đến đâu chăng nữa, tôi cũng cảm thấy hơi yên tâm và nỗi lo sợ của tôi về gã Silver từ từ lại trỗi dậy. Bởi vậy tôi đứng yên, cố nghĩ ra một cách để thoát thân. Đang suy nghĩ như thế, tôi chợt nhớ rằng mình còn có thể chóng cự vì tôi có mang theo cây súng lục.

Lúc đó, y đang nấp sau một thân cây khác.

Chắc y đã quan sát tôi rất kỹ, bởi vì khi tôi vừa cất bước đi về phía y, y lại xuất hiện và tiến lên đón tôi. Kế đến, y do dự, bước thụt lùi rồi lại tiến lên. Chợt tôi sững sờ và bối rối thấy y quỳ xuống, chắp hai tay vẻ cầu khẩn van lơn.

Tức thì, tôi dừng bước và hỏi:

- Anh là ai?

- Ben Gunn. - Y trả lời, giọng khàn khàn, run run như tiếng một ổ khóa hoen gỉ. - Tôi là Ben Gunn đây, thằng Ben Gunn khốn khổ, đã ba năm nay tôi không được nói chuyện với con người.

Đó cũng là một người da trắng giống như tôi, có những nét khá dễ mến. Mặt y rám nắng, ngay cả đôi môi cũng đen và cặp mắt xanh của y tương phản rõ rệt với khuôn mặt ảm đạm ấy.

Y khoác trên người một bộ quần áo trông rất dị hợm bằng những mảnh vải bố và vải dầu cũ nát kết lại nhờ đủ các thứ khác nhau: nào là khuy đồng, nào là que gỗ, nút thắt bằng dây da tẩm hắc ín. Chung quanh hông, y quấn một đai lưng cũ bằng da có khóa cài bằng đồng và đó là phần bền chắc duy nhất trong bộ trang phục kì quặc của y.

- Ba năm rồi ư? - Tôi nói. - Anh bị đắm tàu hay sao?

- Không, không phải, tôi là một con vật sổ chuồng quay về rừng cũ.

Tôi hiểu cách nói ấy là nhờ John Silver. Đó là một hình phạt ghê gớm thường được áp dụng trong giới cướp biển. Kẻ phạm tội bị bỏ rơi trên một hoang đảo và được mang theo thuốc súng.

- Tôi đã sống ba năm bằng thịt dê, trái rừng và ốc hến. Nhưng xin cậu hãy tin tôi, tôi đã chán các thứ ấy rồi. Chà! Giá được một miếng phô mai chắc tôi khoái lắm. Cậu có phô mai đấy không?

Y mân mê lớp vải trên áo khoác của tôi, vuốt ve hai bàn tay tôi, ngắm nghía đôi giày tôi đi và tỏ ra thích thú như trẻ con khi y được gặp lại một người đời.

- Nếu tôi có thể trở về tàu được, tôi hứa với anh thể nào anh cũng sẽ có nhiều phô mai để ăn..- Nếu tôi có thể trở về tàu được? - Anh ta lặp lại. - Ai cản cậu không cho cậu trở về?

- Chắc chắn không phải là anh rồi. - Tôi đáp.

- Cậu nói rất đúng! Nhưng tên cậu là gì nhỉ?

- Jim.

- Jim! Jim! - Y nhắc lại đầy sung sướng. -Chà!

Bao nhiêu năm tôi đã sống như một con thú và từ khi đến đây, tôi đã quyết tâm làm nhiều việc, xin cậu hãy tin tôi đi. Tôi sẽ không thèm rượu rum nữa đâu. Tôi muốn sống một cuộc sống khác, thật mẫu mực. Còn điều này nữa, Jim, tôi nói cho cậu hay, tôi là người giàu có, rất giàu!

- Thật tội nghiệp cho anh chàng sống trong cảnh cô độc đã hoá ra mất trí. - Tôi nghĩ bụng.

- Giàu, rất giàu! - Anh ta nhắc lại. - Và tôi cũng sẽ giúp cậu trở nên giàu có, Jim ạ. Cậu phải cám ơn số trời run rủi cho cậu là người đầu tiên tìm thấy tôi ở đây.

Bỗng nhiên mặt y sầm xuống và đầy âu lo.

- Jim này, chiếc tàu đưa cậu tới đây không phải là tàu của Flint chứ?

- Không phải đâu. Flint chết rồi, nhưng khổ cho chúng tôi là trên tàu lại có một số thủy thủ của lão ta.

- Không có thằng cụt một chân chứ? - Giọng anh ta tắc nghẹn.

- John Silver phải không?

- Phải rồi, John Silver đúng là tên của hắn!

- Đó là người đầu bếp trên tàu của chúng tôi. Nó chính là tên đầu đảng.

- Nếu Silver phái cậu đến đây, thế là chết tôi rồi. Nhưng cậu nghĩ cậu đang ở đâu?

Để làm anh ta yên tâm, tôi vội vã nói cho anh ta biết mục đích chuyến đi và tình thế nguy kịch của chúng tôi trong lúc này. Anh ta rất chăm chú lắng nghe và khi tôi thuật xong, anh nói:

- Jim à, tôi thấy cậu là một cậu bé nhân hậu và các bạn của cậu đang lâm vào một tình thế gay go đấy. Nhưng cậu có thể tin cậy vào Ben Gunn này. Tôi sẽ giúp các bạn vượt qua gian nguy. Tôi đã chứng kiến nhiều trường hợp bi thảm hơn thế nữa. Nhưng, Jim à, cậu hãy nói cho tôi biết, liệu nhà quý tộc có đối xử hào phóng với một kẻ ra tay cứu giúp ông ta không?

Tôi khẳng định với anh ta, ông Trelawney là người rất mực hào phóng.

- Đồng ý là vậy, nhưng tôi hiểu rõ phận mình. - Anh ta nói tiếp. - Chẳng hạn một chân gác rừng thì tôi chẳng muốn đâu. Thế cậu có tin ông ta có thể cho tôi... một ngàn quan... trích.trong số vàng ấy không? Số vàng ấy xem như đã là của tôi rồi.

- Tôi chắc chắn là anh sẽ được. Trelawney từ trước đến giờ vẫn có ý định chia cho mỗi người một phần.

- Thôi bây giờ tôi sẽ kể cậu nghe chuyện của tôi. - Anh ta nói tiếp. - Lúc đó tôi là một người trong đám thủy thủ của Flint phải ở lại trên chiếc Walrus khi hắn lên bờ, ngay chỗ này cùng với sáu tên khác để chôn kho báu. Bọn chúng ở lại trên đảo một tuần lễ. Bọn tôi phải ở trên tàu chờ chúng. Một buổi sáng kia Flint chèo xuồng trở về một mình. Mấy tên kia đã chết... chết vùi thây. Hắn đã giết họ bằng cách nào? Lúc đó hắn chỉ một mình còn bên kia tới sáu người! Billy Bone là thuyền phó và John Silver là cai thủy thủ. Hai đứa hỏi Flint vàng chôn ở đâu.

- Có muốn thì các anh hãy lên đó mà tìm. -Hắ n đáp. - Còn chiếc Walrus này sẽ ra khơi thôi.

Ba năm sau, tôi đi trên một chiếc tàu khác lại ngang qua đây nhìn thấy hòn đảo này, tôi la lên:

- "Các bạn ơi, kho báu của Flint đang được giấu trên đảo kia kìa. Chúng ta hãy lên kiếm nó!" Chúng tôi lên bờ. Sau mười lăm hôm, chúng tôi kiếm mãi chẳng thấy gì. Các bạn đồng hành của tôi giận dữ. Họ quyết định trở về tàu nhưng không có tôi.

"Ben Gunn, anh hãy ở lại dây mà tìm vàng của Flint".

Thế rồi họ bỏ tôi lại. Do vậy tôi đã sống một mình ba năm trên đảo... Cậu sẽ kể hết chuyện đó cho các bạn của cậu nghe chứ?

- Vâng, chắc chắn rồi, nhưng tôi đang tự hỏi.

Tôi sẽ trở về tàu bằng cách nào đây?

- Jim ơi, cậu đừng lo. Tôi có một chiếc thuyền độc mộc tôi tự đóng lấy. Nó đang được giấu dưới tảng đá trắng kia. Cùng lắm chúng ta sẽ đưa nó ra biển khi trời đã tối.

Bỗng nhiên một phát đại bác nổ vang mặc dù lúc đó mặt trời còn ở chân trời, ít ra hai giờ nữa mới lặn.

- Cuộc giao chiến đã bắt đầu! - Tôi la lên.

- Chúng ta đi mau lên!

Thế là tôi bỏ chạy về phía chỗ neo tàu. Ben Gunn theo sát đằng sau. Chúng tôi còn nghe thêm một loạt súng trường. Rồi sau đó, bốn bề im lặng. Chúng tôi tiến đến gần bờ biển. Cách đó một phần tư dặm, tôi nhận ra lá cờ Anh đang phấp phới trên đầu các ngọn cây.

6. Lời tường thuật của ông bác sĩ

Tôi xin thuật lại những gì Jim đã không trông thấy được trong lúc cậu ấy đang ở trên đảo.

Tất cả chúng tôi đang ở trong phòng khách - lúc đó là hai giờ chiều thì Hunter đến báo Jim đã lên bờ cùng với Silver và bọn kia.

Chúng tôi không có ý nghi ngờ cậu nhưng lại sợ cho sinh mạng cậu. Chúng tôi quyết định để Hunter và tôi lên đảo đi thăm dò trước. Kế hoạch là đến địa điểm của một pháo đài nhỏ và có thể nhờ pháo đài này chúng tôi có thể chống lại bọn sát nhân kia.

Chúng tôi ghé vào đảo dưới con mắt dò hỏi của mấy tên côn đồ đứng gác gần mấy chiếc xuồng nhưng chúng chẳng hỏi han gì. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã tới được pháo đài, xây trên một cái gò, nó được bảo vệ bằng một hàng rào cao, kiên cố và có đóng cọc. Chung quanh đã được phát quang thành một khu đất rộng lớn.

Nếu trữ nhiều lương thực và canh phòng cẩn mật thì nơi đây xem ra không cách gì tấn công được.

Hơn nữa, còn có một con suối từ trên đỉnh gò chảy xuống nên chúng tôi không sợ thiếu nước.

Quả thật con tàu Hispaniola đúng là một pháo đài vững chắc chứa rất nhiều vũ khí, đạn dược cùng với lương thực và rượu vang hảo hạng nhưng chúng tôi đã không chú ý đến vấn đề nước.

Tình hình như vậy là đã rõ. Đã đến lúc chúng tôi phải trở lại tàu. Hunter chèo rất giỏi, chiếc xuồng lướt nhanh đưa chúng tôi về chiếc tàu buồm. Các bạn tôi rất lo lắng. Tôi thuật lại cho họ nghe những điều tôi đã khám phá và chúng tôi quyết định phải hành động ngay.

Chúng tôi lên boong. Sáu tên nổi loạn nằm dài trên sàn đằng mũi. Chúng đang thì thầm tiếng to tiếng nhỏ. ông Smollett nói với tên thuyền phó:

- Này ông Hands, - ông ta nói dõng dạc. -hai chúng tôi ở đây mỗi người có hai cây súng lục. Hễ một ai trong sáu người các anh manh tâm ra bất kỳ dấu hiệu nhỏ nào là đủ bỏ mạng.

Bọn cướp xem ra có phần bối rối. Sau khi nhanh chóng bàn bạc với nhau, bọn chúng chui xuống hầm mũi tàu, rõ ràng chúng có ý định tấn công chúng tôi từ phía sau. Nhưng khi thấy Re-druth đang chờ chúng trong lối đi dưới hầm tàu, chúng quặt ngược trở lại và một cái đầu nhô lên boong..- Nằm xuống! - ông thuyền trưởng quát.

Cái đầu ấy tức thì thụt xuống và chỉ một lát sau, sáu tên vô lại ấy biến mất tăm.

Trong lúc đó, cứ thấy thứ gì là chúng tôi lại quẳng lần lượt xuống đầy chiếc xuồng nhỏ, một cách hết sức thận trọng. Joyce và tôi leo theo phía đằng đuôi tàu để tụt xuống và ráng hết sức chèo xuồng vào bờ.

Chuyến đi thứ hai này làm cho những tên canh gác gần cửa sông chú ý. Tôi thoáng có ý nghĩ thay đổi kế hoạch và phá hủy hết xuồng của bọn chúng nhưng sợ Silver và đồng bọn đang ở gần đâu đó. Trong trường hợp ấy chúng tôi có thể mất tất cả thay vì muốn được tất cả.

Sau khi lên bờ ngay chỗ lần trước, chúng tôi bắt tay lo việc đưa lương thực vào trữ trong pháo đài. Lần đầu chúng tôi đi ba người, mang theo rất nhiều thứ và quẳng chúng qua hàng rào. Để Joyce ở lại canh giữ, (chỉ có một người nhưng được trang bị năm sáu cây súng) sau đó, tôi và Hunter trở lại xuồng để chuyển thêm hàng mới.

Chúng tôi cứ tiếp tục như thế, không hề ngừng nghỉ cho đến khi đồ đạc trên xuồng được chuyển xong: lúc đó, hai người phụ việc ở lại trong pháo đài để canh gác còn tôi rán hết sức chèo xuồng về tàu Hispaniola.

Đánh liều chất hàng xuống xuồng lần thứ hai, chúng tôi xem ra vững dạ hơn nhiều. Đúng là bọn nổi loạn đông hơn nhưng chúng tôi có nhiều vũ khí hơn. Không một tên nào trên bờ có súng. Trước khi bị lọt vào tầm súng lục thì chúng tôi dám chắc đã loại ra khỏi vòng chiến đến cả nửa tá rồi.

Nhà quý tộc đợi tôi ở đuôi tàu. ông ta nắm dây buộc xuồng, quấn nó vào tàu rồi chúng tôi bắt đầu chất hàng vào xuồng coi như tính mạng chúng tôi đã đem đặt hết vào đấy. Lần này xuồng chở đầy thịt heo, thuốc súng, bánh quy. Nhà quý tộc, ông thuyền trưởng, Redruth và tôi mỗi người được thêm một khẩu súng trường và một con dao.

Thủy triều bắt đầu rút. Chúng tôi nghe thấy tiếng người gọi nhau xa xa về phía hai chiếc thuyền. Thế là chúng tôi yên tâm về tính mệnh của Joyce và Hunter vì họ ở mãi phía đông, xa chỗ đó nhiều, nhưng nghe thấy những tiếng ấy chúng tôi liền đi ngay.

Redruth bỏ đường hầm chạy ra, nhảy xuống xuồng. Sau đó chúng tôi đưa xuồng vào dưới gầm tàu để thuyền trưởng Smollett dễ bước xuống.

Ông ta nói:

- Này các anh, có nghe tôi nói không?

Trên sàn tàu đằng mũi, chẳng ai trả lời..- Abraham Gray đâu? Tôi muốn nói chuyện với anh.

Vẫn không có tiếng đáp.

- Gray, - ông Smollett gằn giọng nói tiếp, -tôi sắp rời chiếc tàu này và ra lệnh cho anh đi theo thuyền trưởng. Tôi biết thật ra anh là người tốt và tôi tin rằng trong bọn các anh vốn không có ai thật sự xấu xa như vậy đâu. Tôi có sẵn đồng hồ trên tay đây. Tôi cho anh ba mươi giây để đi theo tôi.

Yên lặng một lúc.

- Nào anh bạn, chớ chần chừ mà không thay đổi ý kiến. Chậm một giây là có thể nguy đến tính mạng của tôi và mấy ông kia.

Bỗng có tiếng người xô xát nhau, rồi sau đó Abraham Gray xuất hiện trên boong, má bị một vết dao chém. Anh ta chạy đến bên ông thuyền trưởng như một con chó nghe chủ huýt sáo kêu lại, nói:

- Thưa chủ tướng, tôi xin đi theo ngài.

Giây lát sau, hai người nhảy xuống xuồng và chúng tôi bơi xuồng ra xa.

Chúng tôi đã rời bỏ tàu không gặp trắc trở gì nhưng chưa vào được pháo đài.

Rõ ràng xuồng của chúng tôi quá nặng. Bảy người, thêm vũ khí và lương thực nên quá tải. Nước rỉ vào xuồng không ngớt. Tuy vậy chúng tôi vẫn tiến khá nhanh. Thủy triều lúc ấy đang thuận lợi.

Ông thuyền trưởng đang quay mặt về phía chiếc tàu Hispaniola thốt nhiên nói với chúng tôi, giọng lạc hẳn:

- Khẩu đại bác!

Thì ra chúng tôi đã quên khuấy mất khẩu súng nằm ở phía đuôi tàu. Tôi thấy năm thằng khốn nạn kia đang hí hoáy cởi tấm bạt phủ trên nó. Chúng tôi đã quên ném xuống biển đạn và thuốc súng của khẩu pháo ấy.

- Thằng Hands trước đây là pháo thủ dưới quyền của Flint đấy. - Gray nói.

- Trong chúng ta ai bắn súng trường chắc ăn nhất? - ông Smollett cất tiếng hỏi.

- Chắc chắn là ông Trelawney chứ còn ai nữa. - Tôi đáp.

- Ngài Trelawney, - Thuyền trưởng đề nghị - xin ngài làm ơn hạ giùm một tên trong bọn cướp kia đi. Nếu được thằng Hands thì càng hay!

Nhà quý tộc đưa súng lên vai, bình tĩnh nhắm đợi thời cơ rồi bóp cò. Hands phơi mình dễ trúng đạn nhất. Nhưng hắn cúi người xuống, viên đạn bay qua đầu và một trong bốn tên kia kêu lên một tiếng rồi ngã xuống. Nghe tiếng ấy, không những chỉ những đứa trên tàu mà còn nhiều tên khác trên bờ cũng cất tiếng kêu theo.

Lúc bấy giờ chúng tôi trông thấy bọn cướp từ trong rừng chạy ra, vội vã nhảy xuống một chiếc.xuồng nhỏ tiến về phía chúng tôi. ông thuyền trưởng nói:

- Bọn chúng sẽ không dám đâu! Đáng sợ là đạn đại bác kìa. Một đứa bé cũng hạ được chúng ta. Hễ thấy ngòi pháo hạ xuống, ông hãy cho xuồng giật lùi một cái ngay nhé!

Trong khi ấy, tuy thuyền nặng nhưng chúng tôi vẫn lướt mau và nước vô không đến nỗi quá nhiều. Chỉ chèo chừng năm chục cái là chúng tôi sẽ cặp bờ.

- Nếu dám cả gan, - ông thuyền trưởng dõng dạc nói, - tôi sẽ dừng lại để quật thêm một đứa trong bọn cướp ấy nữa cho coi.

Nhưng, mặc cho sự thể xảy ra thế nào chăng nữa, rõ ràng bọn cướp vẫn muốn bắn. Thậm chí chúng không thèm ngó tới bạn chúng đã ngã nhào vẫn còn chưa chết. Tôi biết hắn chưa chết vì thấy hắn tìm cách bò ra xa.

- Coi chừng! - Nhà quý tộc kêu lên.

- Chèo lui! - Tiếng của ông thuyền trưởng vang lên như tiếng dội đáp lại.

Redruth và ông ta quật mái chèo ra đằng sau mạnh đến nỗi chúng tôi ngập xuống nước, đến tận lưng. Ngay lúc ấy tiếng đại bác vang rền. Đó là tiếng nổ đầu tiên Jim nghe được vì tiếng súng trường của nhà quý tộc trước đó không đến tai cậu. Chúng tôi không ai biết viên đạn bay tới đâu, nhưng tôi đoán nó phải lướt trên đầu chúng tôi và có lẽ hơi gió của nó làm xuồng tròng trành.

Dù sao, chiếc xuồng chỉ chìm từ từ ở phía đuôi, ngập xuống gần một thước làm tôi và ông thuyền trưởng phải đứng đối mặt nhau. Ba người bạn kia ngã chúi đầu xuống nước, ngập cả người.

chúng tôi vừa lóp ngóp ngoi lên, vừa cố khạc nước.

Cảnh ấy không có gì thê thảm. Chúng tôi bình an vô sự và có thể lội bì bõm tới bờ chẳng chút nguy hiểm. Nhưng lương thực của chúng tôi đã chìm nghỉm xuống đáy biển và tồi tệ hơn nữa là trong số năm khẩu súng, chỉ có hai khẩu còn có thể sử dụng. Như được bản năng thúc đẩy, tôi đã gỡ khẩu súng của tôi qua đầu gối đưa cao lên quá đầu. Về phần ông thuyền trưởng, ông ta đeo nó vào vai và đã khôn ngoan để bàn cò quay mặt lên trời. Ba khẩu kia đã chìm theo xuồng.

Chúng tôi càng thêm bối rối khi nghe tiếng người lao xao phát ra từ khu rừng ven bờ biển đang tiến lại gần chúng tôi. Chúng tôi không chỉ lo lắng với tình trạng như thế này, có nguy cơ không đến được pháo đài mà chúng tôi còn sợ Hunter và Joyce không đủ khôn ngoan và can đảm để cầm cự nếu bị sáu bảy kẻ địch tấn công.

Hunter còn có thể tin tưởng được, chứ về phần Joyce thì chúng tôi không dám chắc. Chúng tôi thấy anh gia nhân dễ thương và lễ phép này rất.tuyệt vời trong việc chải quần áo nhưng ít có năng lực để trở thành một người lính.

Trong lúc đầu óc quay cuồng lo nghĩ như thế, chúng tôi ráng sức lội vào bờ thật nhanh, để lại đằng sau chiếc xuồng nhỏ không may với cả một nửa phần thuốc súng và lương thực.

Chúng tôi nhanh chóng vượt qua dải đất cây cối rậm rạp ngăn cách chúng tôi với hàng rào.

Chúng tôi càng tiến tới càng nghe tiếng bọn cướp gần hơn. Chẳng mấy chốc đã rõ tiếng bước chân dồn dập của bọn chúng và tiếng cành cây lắc rắc khi chúng băng qua đám bụi rậm.

Tôi biết rõ sắp có một trận đụng độ ác liệt, nên kiểm tra lại chốt kim hỏa trên khẩu súng của mình.

- ông thuyền trưởng, - Tôi nói. - Trelawney bắn giỏi không ai bằng. Hãy đưa súng của ông cho ông ấy, khẩu của ông ấy không sử dụng được.

Hai người đổi vũ khí cho nhau. Nhà quý tộc vẫn còn giữ thái độ im lặng và lạnh nhạt vốn có từ lúc sự vụ bắt đầu xảy ra. ông dừng lại một lát để xem xét cho chắc khẩu súng sẵn sàng dùng được. Lúc đó, thấy Gray không có vũ khí, tôi đưa con dao của tôi cho gã. Trông cách gã nhổ nước bọt vào hai tay, cau mày, múa lưỡi dao vùn vụt trong không khí, chúng tôi lấy làm hả dạ:

thái độ ấy của gã cho thấy người lính chúng tôi mới tuyển mộ quả xứng đồng tiền bát gạo.

Đi độ bốn chục bước nữa chúng tôi đến rìa rừng và nhìn thấy hàng rào pháo đài. Chúng tôi tiến đến chính giữa hàng rào, ở mạn nam và ngay lúc đó sáu tên nổi loạn do tên cai thủy thủ Job Anderson cầm đầu, chạy như bay đến theo ngả tây nam.

Thấy chúng tôi, cả bọn dừng lại, sững sờ.

Không để bọn chúng kịp trấn tĩnh, tôi và nhà quý tộc nổ súng. Hunter và Joyce từ trong pháo đài cũng tức thời bắn ra. Bốn phát súng làm thành một loạt khá rời rạc nhưng có hiệu quả:

một tên bên đối phương của chúng tôi ngã gục; mấy tên khác lập tức quay gót, chạy biến mất vào các bụi cây.

Sau khi nạp thêm đạn vào súng, chúng tôi vòng theo hàng rào để xem xét tên địch bị hạ.

Hắn đã chết ngay đơ vì một phát đạn trúng thẳng vào tim.

Chúng tôi đang bắt đầu mừng vui chiến thắng thì một tiếng súng lục vang lên trong bụi rậm.

Viên đạn bay vèo sát tai tôi và Tom Redruth lảo đảo ngã sóng soài trên mặt đất. Tôi và nhà quý tộc tức thì bắn trả nhưng vì chẳng thấy mục tiêu nên có thể chỉ phí thuốc súng. Sau khi nạp đạn lại, chúng tôi đến bên Tom tội nghiệp. ông.thuyền trưởng và Gray đang xem xét vết thương. Tôi nhìn qua biết ngay không thể cứu được ông ta.

Hẳn mấy tên muốn làm loạn ấy đã lại phân tán khi chúng tôi bắn trả bởi vì sau đó mặc dù lo lắng nhưng chúng tôi đã nâng được ông già gác rừng đưa qua hàng rào và khiêng vào pháo đài trong lúc ông ta rên rỉ, mình đầy máu me.

Nhà quý tộc quỳ xuống bên cạnh ông ta, rồi vừa hôn bàn tay ông ta vừa khóc như một đứa trẻ.

- Có phải tôi sắp chết không? - Người bị thương hỏi tôi bằng giọng yếu ớt.

Ông ta đòi tôi phải thành thật nên tôi đáp:

- ông sẽ về nơi an nghỉ đời đời, ông bạn ạ.

- Anh Redruth thân mến, - Nhà quý tộc nói, - hãy nói là anh tha thứ cho tôi đi!

- Như thế không phải phép, thưa ông chủ. -Người gia nhân lớn tuổi và trung thành đáp. -Nhưng vì ngài yêu cầu thì thôi được. Amen!

Sau vài phút im lặng, ông ta mong muốn có ai đó đọc một bài Kinh. ông nói:

- Đó là lệ thường, thưa ngài. - ông nói thêm như để xin lỗi.

Sau đó, ông thở hắt ra, không nói thêm một lời nào nữa.

Ông thuyền trưởng lục lọi các túi áo quần của mình, lôi ra những lá cờ Anh, một cuộn thừng, một lọ mực, những ngòi bút, cuốn nhật ký đi tàu. ông kiếm được một cây tùng khá dài và Hunter giúp ông dựng nó ở một góc pháo đài.

Sau đó ông trèo lên nóc, buộc cờ vào sợi thừng rồi kéo nó lên cột. Khi lão Redruth đáng thương đã trút hơi thở cuối cùng, ông trương ra một lá cờ khác, phủ lên người lão một cách kính cẩn.

- Chớ khóc làm gì. - ông nói với Trelawney.

- Một người bị chết đúng lúc thi hành bổn phận là chuyện tất nhiên.- Rồi ông nói thêm:

- Bác sĩ ạ, tôi tin chắc bọn mình sẽ lâm vào cảnh nguy khốn mất thôi.

- ạ hay! Chúng ta sẽ không sao đâu. - Tôi trả lời.

- Có lẽ như vậy. - ông Smollett nói tiếp. -Nhưng đáng tiếc là chúng ta đã mất đi phần lương thực lớn nhất. Khẩu phần rồi đây sẽ ít đến nỗi bớt một miệng ăn nữa cũng chẳng thấm vào đâu...

Bỗng một viên đại bác rít vèo qua pháo đài và rơi xuống khu rừng.

- ồ! ồ! - ông thuyền trưởng nói. - Cứ chơi đi, các ngài, coi bộ các ngài dư thuốc súng lắm đấy!

- Này ông thuyền trưởng, - ông Trelawney bảo.

- ở ngoài biển không sao thấy được pháo đài. Chắc chắn lá cờ của ông làm bia cho chúng nhắm. Hạ nó xuống có phải khôn hơn không nào?.- Hạ cờ của tôi à? - ông Smollett la to. -Thưa ngài, không đâu, tôi sẽ không bao giờ làm điều đó.

Tất cả chúng tôi đồng ý với ông. Lá cờ đó là biểu tượng của bổn phận và danh dự. Không những thế nó còn cho bọn cướp biết rằng chúng tôi không bận tâm đến việc chúng nã pháo.

- Chúng tiếp tục bắn suốt cả buổi tối. Đạn bay liên tiếp, nhưng bọn người trên tàu His-paniola buộc phải chĩa súng quá cao nên khi viên đạn rơi xuống đã quá yếu, lún xuống cát không sâu, không nảy bật.

- Đạn bắn như thế ít ra cũng có một cái lợi.

- ông thuyền trưởng nói. - Bọn phản loạn khác đang ở trong rừng tức phải chạy mất. Giờ này thủy triều đang rút xuống thấp nhất và lương thực của chúng ta chắc chắn được lộ ra. Tôi yêu cầu hai người tình nguyện đi vớt nó.

Hunter và Gray trang bị vũ khí đầy người sẵn sàng đi trước. Chỉ trong giây lát, họ đã vượt qua khu rừng nhỏ ngăn cách chúng tôi với bờ biển. Nhưng hỡi ôi! Bọn cướp đã đi trước một bước. Yên tâm được khẩu đại bác của Israel Hands bảo vệ, Silver và bốn tên bộ hạ của hắn đang loay hoay lấy lương thực của chúng tôi. Mỗi tên cướp lúc này mang một khẩu súng trường mà có lẽ chúng đã lấy ra từ một nơi cất giấu chỉ riêng chúng biết.

Trong pháo đài, ông thuyền trưởng đang ngồi trước cuốn nhật ký đi tàu của mình và viết như sau:

"Alexandre Smollett, thuyền trưởng của chiếc tàu hai buồm Hispaniola, David Livesey, bác sĩ phẫu thuật, John Trelawney, chủ thuyền, Richecd Joyce và John Hunter gia nhân của chủ thuyền, hành khách trên tàu, Abraham Gray thợ phụ đóng tàu; các người kể tên trên đây là những người duy nhất trung thành với bổn phận, hôm nay đã lên Đảo Châu báu. Họ đã treo cờ trên pháo đài. Lương thực chỉ đủ ăn để cầm hơi trong mười ngày. Thomas Redruth, người gác rừng đi trên tàu đã bị bọn nổi loạn bắn chết. Jim Hawkins, thủy thủ tập sự..." Lúc đó, chúng tôi nghe tiếng một người gọi từ một phía đối diện với biển.

- ông thuyền trưởng! Bác sĩ! Phải các ông ở đó không?

Tôi chạy ra cửa và trông thấy Jim bình an vô sự đang chạy về phía pháo đài..

7. Pháo đài lâm nguy

Tôi thấy lá cờ Anh phấp phới trên các ngọn cây. Ben Gunn cũng nhìn thấy nó, bèn dừng lại, đặt tay lên vai tôi.

- Các bạn của cậu kia rồi! - Anh ta nói.

- Tôi sợ đó là bọn nổi loạn. - Tôi đáp.

- Không phải đâu! Trên một hòn đảo chỉ có bọn cướp biển thì Silver thế nào cũng treo cờ màu đen. Các bạn của cậu đó, tôi chắc mà. Đã có đánh nhau, điều đó đã rõ và các bạn của cậu đã thắng.

- Vậy thì, chúng ta hãy mau mau đến với họ.

- Riêng tôi thì không được đâu, cậu ạ. - Ben Gunn đáp lại. - Tôi đâu phải là người khờ dại.

Tôi sẽ không tiến thêm một bước nào nữa trước khi gặp ông Trelawney. Tôi cần phải có gì bảo đảm mới được... Khi nào cần đến Ben Gunn các bạn có thể tìm gặp hắn. Nếu ai muốn đến, nhớ phải cầm trên tay một chiếc khăn tay màu trắng.

Nếu có gặp Silver, cậu đừng tiết lộ về tôi, Jim nhé?

Một quả đạn đại bác vèo qua trên đầu rồi rơi bụp xuống cách chúng tôi chừng năm chục thước. Cuộc nói chuyện của chúng tôi thế là ngưng. Chúng tôi mỗi người đi một ngả.

Đằng xa, ở giữa đám cây có một bếp lửa đang lập lòe. Bọn cướp đi đi lại lại từ nơi đó đến tàu Hispaniola bằng một chiếc thuyền nhỏ.

Rượu rum đã làm bọn chúng say chếnh choáng.

Cách đó một khoảng, trong một lỗ trống giữa các bụi rậm, tôi còn thấy một tảng đá màu trắng.

Hẳn đó là "tảng đá trắng" mà Ben Gunn đã nói với tôi. Thế là tôi liều mạng men theo cánh rừng đi lại. Khi đi đến pháo đài từ phía đối diện biển, tôi được các bạn tiếp đón một cách trìu mến.

Tôi thuật nhanh chuyến phiêu lưu của mình.

Sau đó, tôi nhìn quanh phía trong pháo đài. Tình trạng ở đây thật bi thảm. Gió lạnh ban đêm thổi qua các khe hở, cát mịn lọt vào như mưa phủ đầy mình chúng tôi, cát bay vào mắt, vào răng, vào ngay cả thức ăn tối của chúng tôi gồm một lát thịt heo muối với một ly rum. ống thông khói là một lỗ trống trên nóc. Khói từ bếp củi thật lớn chỉ thoát ra một ít. Còn lại bao nhiêu đều ùn lại bên trong pháo đài làm chúng tôi phát ho và phải giụi mắt..Thêm vào đó, Gray - lính mới của chúng tôi đang quấn một băng vải quanh mặt (vì bị thương khi thoát khỏi tay mấy tên làm loạn) và xác của Redruth, mình phủ lá cờ Anh đang còn nằm dài cứng đờ cạnh bức tường.

Nếu được phép ngồi không chẳng phải làm gì thì e chúng tôi đã buông xuôi tuyệt vọng, nhưng thuyền trưởng Smollett không muốn điều ấy xảy ra. ông ta sai gọi tất cả chúng tôi lại và chia thành hai nhóm. Một bên gồm ông bác sĩ, Gray và tôi. Nhóm kia có nhà quý tộc Hunter và Joyce. Bất kể chúng tôi đang mệt mỏi, ông ta lập tức giao cho đủ thứ việc: hai người đi kiếm củi; hai người khác đào huyệt chôn Redruth. ông bác sĩ được cử làm đầu bếp; tôi làm lính gác đứng ở cửa. ông thuyền trưởng hết đến gần người nọ lại tới người kia động viên, lúc cần ông còn giúp chúng tôi nữa.

Thỉnh thoảng, ông bác sĩ đến bên cửa hít một chút không khí trong lành và cho đỡ cay mắt. Mỗi lần đứng nghỉ, ông đều nói chuyện với tôi:

- Lão Smollett này, - Có lần ông nói. - có giá hơn tôi nhiều. Tôi nói như vậy, không phải đùa đâu, Jim ạ.

Một lát sau, ông trở lại tìm tôi, im lặng vài giây rồi nghiêng đầu chăm chú nhìn tôi và hỏi:

- Gã Ben Gunn ấy có là một người bình thường không?

- Thưa ông, tôi không rõ lắm, tôi không chắc anh ta có đầy đủ lí trí.

- Cậu chưa tin chắc chuyện đó thì có nghĩa anh ta không phải người điên đâu. Một người sống cô độc ba năm trên một đảo hoang không thể có trí óc lành mạnh như cậu và tôi: như vậy là trái tính người. Cậu đã nói chắc với tôi là anh ta rất thèm pho mát phải không?

- Thưa ông, phải.

- Tốt lắm Jim, đôi khi tham ăn cũng có lợi đấy. Chắc chắn cậu đã thấy cái hộp thuốc lá của tôi, phải không? Cậu thấy tôi có hút gì đâu. ấy là vì tôi đang cất trong đó một miếng pho mát của ý rất bổ. Thôi được, Jim, cái đó sẽ dành cho Ben Gunn!

Trước khi ăn cơm tối, chúng tôi đem chôn lão Tom Redruth xuống cát rồi đứng đầu trần trong gió, quanh nấm mộ của ông ta một lúc.

Lương thực dự trữ của chúng tôi thiếu trầm trọng, khó lòng cầm cự được một cuộc bao vây dài ngày. Chúng tôi đi đến quyết định hạ gục bọn làm loạn càng nhiều càng hay, buộc chúng phải đầu hàng hoặc xuống tàu chạy trốn. Chúng tôi cũng có thể trông cậy vào hai đồng minh lớn:

khí hậu và rượu rum. Nói đến đồng minh thứ.nhất, ông bác sĩ quả quyết chỉ chưa đầy một tuần lễ nữa là bọn chúng sẽ bị sốt rét ngóc đầu không nổi vì ở trong đầm lầy mà thiếu thuốc men. Về đồng minh thứ hai, tuy ở cách xa chỗ bọn cướp đang tụ tập, ban đêm chúng tôi vẫn nghe chúng cười, hát đến khuya.

Tôi mệt lả và chỉ vài giây sau đã lăn ra ngủ khoèo. Khi tôi mở mắt ra, mọi người đã thức dậy. Tôi vừa bị đánh thức bởi một giọng nói lớn:

- Một lá cờ trắng!

Tôi chạy đến đứng nhìn qua lỗ châu mai, rất ngạc nhiên thấy chính John Silver và một tên bộ hạ của gã đang phất một tấm vải màu trắng.

Bên ngoài hàng rào, rõ ràng có hai người:

một tên đang vẫy tấm vải trắng, tên kia là Silver bằng xương bằng thịt hẳn hoi đang đứng yên lặng bên cạnh.

Trời còn rất sớm, gió lạnh buốt xương. Khí lạnh và sương mù làm người ta nghĩ hòn đảo này chẳng có tích sự gì: chắc chắn đây là một nơi nước độc, ẩm thấp và dễ bị sốt rét.

Ông thuyền trưởng nói:

- Các bạn cứ ở lại pháo đài. Tôi cam đoan đây là một cái bẫy.

Sau đó, ông hỏi vọng ra:

- Ai đó? Đứng lại! Không chúng tôi bắn bây giờ.

- Chúng tôi đến thương lượng. - Silver nói lớn.

Ông thuyền trưởng cẩn thận nấp sau cửa vòm, đề phòng một viên đạn bắn lén. Quay lại phía chúng tôi, ông nói:

- Nhóm của bác sĩ hãy vào vị trí canh phòng!

Bác sĩ Livesey, đứng về phía bắc; Jim ở phía đông.

Gray ở phía tây. Nhóm kia hãy nạp đạn vào súng.

Nhanh lên các bạn và nhớ coi chừng!

Sau đó, quay về phía bọn hải tặc, ông la lớn:

- Các người muốn thương lượng chuyện gì?

Lần này, tên kia hét to đáp lại:

- Thuyền trưởng Silver yêu cầu lên tàu để điều đình.

- Thuyền trưởng Silver à? Đây không biết -Smollett nói.

- Thưa ngài, chính là tôi. - John nói tiếp. -Các thủy thủ đã chọn tôi làm người chỉ huy sau khi ông đào ngũ (y dằn mạnh từ này). Chúng tôi sẵn sàng phục tùng nếu đạt được những điều kiện thỏa đáng. Thuyền trưởng Smollett, giờ tôi chỉ yêu cầu ông một điều duy nhất là ông giữ lời hứa cho tôi rời nơi đây bình an vô sự và cho tôi hai phút để đi khuất tầm súng trước khi tiếp tục giao chiến.

- Này anh bạn, tôi không muốn nói chuyện với anh. - ông Smollett đáp. - Nhưng nếu anh muốn nói gì với tôi thì cứ đến. Nếu phản bội thì liệu hồn đấy!.- Đồng ý! - Silver vui vẻ nói. - Một lời ông nói ra thế là đủ. Tôi dám khẳng định với ông rằng tôi là người biết trọng danh dự.

Tên cướp cầm lá cờ trắng muốn giữ Silver lại, nhưng Silver không thèm nghe vẫn chống nạng tiến về phía pháo đài. ông thuyền trưởng ngồi chờ gã trên ngưỡng cửa, chúm miệng thổi một bài dân ca quen thuộc.

- Chuyện gì nào? - Thuyền trưởng lên tiếng khi John Silver đã ngồi trước mặt ông.

- Chúng ta hãy bàn ngay vào vấn đề. - Silver trả lời. - Chúng tôi muốn kho báu và chúng tôi sẽ lấy được. Về phần các ông, tôi nghĩ các ông thoát mạng là đủ hài lòng lắm rồi. Các ông có giữ một bản đồ, phải không ông thuyền trưởng?

- Điều ấy có thể đúng!

- Các ông có, tôi chắc chắn như vậy. Và chúng tôi cần phải có tấm bản đồ ấy. Về những chuyện khác, chúng tôi chưa bao giờ muốn làm hại các ông...

- ồ, anh biết về vấn đề đó chúng tôi đã quyết rồi mà. Chúng tôi đã biết những toan tính của anh và tiện đây cũng xin báo anh biết là chúng tôi không ngán gì đâu. Anh không thể nào thực hiện các dự tính ấy được đâu.

Ông thuyền trưởng vừa nhét thuốc vào tẩu vừa nhìn y.

Hai vị đặc sứ ngồi yên lặng hút ống tẩu suốt cả năm bảy phút. Cảnh ấy trông thật đáng buồn cười.

Đến lượt tên cướp biển lên tiếng phá tan sự im lặng.

- Vậy thì các ông hãy trao bản đồ ấy cho chúng tôi và cam đoan không ghết người của phe tôi nữa. Rồi tôi sẽ cho các ông chọn một trong hai giải pháp. Một là các ông trở về tàu với bọn tôi khi kho báu đã được tìm ra. Tôi hứa đưa các ông đến một nơi yên ổn. Hai là các ông có thể ở lại đây. Chúng ta sẽ chia nhau lương thực và tôi hứa sẽ phái tới chỗ các ông chiếc tàu đầu tiên tôi gặp. Nói vậy chắc ông cũng thấy phải, đúng không nào?

Ông Smollett đứng lên, gõ ống tẩu vào bàn tay trái để tàn rớt ra rồi hỏi:

- Nói hết chưa?

- Hết, tôi quả quyết như vậy. Nếu các ông từ chối những điều kiện tôi đưa ra, chắc chắn sẽ ăn đạn thôi.

- Được rồi. - ông thuyền trưởng nói, vẫn giữ vẻ bình tĩnh. Đây là câu trả lời của tôi: Nếu các anh đến đây, lần lượt từng người không mang theo vũ khí, tôi cam kết sẽ xiềng các anh lại và đưa về Bristol để xét xử trước tòa án hàng hải.

Nếu các anh không đồng ý, hãy đợi xem, chắc.chắn các anh sẽ đi đời nhà ma. Các anh sẽ chẳng tìm thấy kho báu. Các anh cũng chẳng biết lái tàu. Không còn cơ hội nữa đâu, ông Silver ạ. Đây là lần cuối cùng tôi nói cho anh hay. Lần sau còn thấy anh, tôi sẽ cho anh một phát đạn vào lưng. Còn bây giờ hãy cút đi mau!

Silver tức khí bừng bừng. Gã gõ cái tẩu cho tàn thuốc rơi xuống rồi la lên:

- Có ai giúp tôi đứng dậy được không?

Chúng tôi không ai nhúc nhích. Gã vừa lẩm bẩm chửi rủa thậm tệ vừa lê mình tới cho đến khi chống được nạng đứng lên. Hắn nhổ nước bọt và hét:

- Ra bọn mày như thế đấy. Nội một giờ nữa, pháo đài của bọn mày sẽ ra tro. Được, cứ cười đi. Cười người chớ vội cười lâu... có chết cũng chẳng ai thương!

Gã lảo đảo bỏ đi trên cát rồi mất dạng dưới hàng cây.

Ông thuyền trưởng nhìn theo cho đến khi Silver lẫn vào trong rừng, ông mới quay vào pháo đài và nhận ra chúng tôi không ai ở đúng vị trí của mình, ngoại trừ Gray. Lần đầu tiên chúng tôi thấy ông thật sự nổi giận.

- Mọi người về đúng vị trí của mình đi! -ạng ta hét lên.

Chúng tôi vâng lệnh, mặt mày tiu nghỉu. ông nói thêm:

- Gray, tôi sẽ ghi tên anh vào sổ nhật ký hàng hải: anh đã làm đúng bổn phận của một thủy thủ thật sự. ông Trelawney, tôi thật ngạc nhiên về ông quá! Còn ông nữa, bác sĩ, tôi vẫn tưởng ông đã từng mang quân phục của nhà vua rồi chứ! Nếu bại trận Fontenoy mà ông phục vụ kiểu ấy thì thưa ông, ông nằm nhà ngủ còn hơn!

Tốp của bác sĩ đã trở lại bên các lỗ châu mai. Mấy người kia loay hoay nạp đạn vào các khẩu súng dự bị; chúng tôi ai nấy đều đỏ mặt thẹn thùng như chó cụp tai theo kiểu người ta thường nói.

Ông thuyền trưởng lặng lẽ nhìn chúng tôi một lát rồi nói:

- Này các anh, tôi đã mắng cho thằng Silver một trận nên thân. Tôi đã cố ý công kích hắn mãnh liệt và theo như hắn nói thì nội một giờ nữa, chúng ta sẽ bị tấn công. Các anh biết rằng chúng hơn chúng ta nhiều về quân số nhưng chúng ta sẽ đánh nhau ở thế được che chở trong pháo đài và như lúc nãy chỉ cách đây một phút tôi có thể nói: chúng ta có kỷ luật. Tôi chắc chắn chúng ta có thể đánh cho bọn chúng liểng xiểng nếu các anh quyết chí..Nói xong, ông đi một vòng tuần tra và ông phải công nhận chúng tôi chuẩn bị như vậy là tốt hết chỗ chê.

- Tắt lửa đi! - ông thuyền trưởng nói. - Hết lạnh rồi không nên để khói xông vào mắt.

Ông Trelawney mang cái rổ sắt ra ngoài. Các tàn than từ từ tắt ngấm trong cát.

- Hawkins chưa ăn sáng, - ông thuyền trưởng nói tiếp. - Cậu hãy lấy phần rồi trở về vị trí mà ăn. Nhanh lên, vì sắp cần đến cậu. Hunter hãy rót cho mỗi người một li rượu.

- ông Trelawney ạ, ông là người bắn súng giỏi nhất. ông và Gray đứng ở phía bắc lo năm lỗ châu mai. Phía đó là nơi nguy hiểm nhất, Hunter đứng ở phía đông và Joyce ở phía tây.

Còn bác sĩ, ông lo phần cửa, tôi trông cậy ở ông đó. Jim, tôi và cậu bắn xoàng. Chúng ta chuẩn bị sẵn sàng lại nạp đạn vào vũ khí và ra sức giúp họ.

Ai cũng đã ở vào đúng vị trí, tất cả đều nóng lòng sốt ruột. Một giờ trôi qua.

- Cầu cho quỷ bắt chúng đi. - ông Smollett nói. - Thật chán như mặt biển lặng.

Ngay lúc ấy, có những dấu hiệu báo động bọn chúng sắp khởi sự tấn công. Joyce đưa súng lên vai, bắn ngay. Một loạt đạn nổ vang ở bên ngoài. Nhiều viên đạn bay trúng pháo đài nhưng không một viên nào lọt vào trong. Thình lình một đám phản nghịch từ trong khu rừng ở hướng bắc phóng ra, chạy thẳng về phía chúng tôi. Súng từ bốn phía lại bắt đầu nã vào pháo đài, làm khẩu súng của ông bác sĩ bị vỡ tan từng mảnh.

Ông Trelawney và Gray mỗi người bắn hai phát.

Ba tên gục ngã. Một tên xem ra sợ hãi hơn là bị thương, bởi vì nó lại đứng lên, chạy băng qua khu rừng. Trong khi đó, bảy tám tên cướp đang núp trong rừng bắn liên tục vào pháo đài. Bốn tên tấn công khác phóng nhanh về phía chúng tôi, vừa chạy vừa la những tiếng man rợ. Các tay súng của chúng tôi vội quá nên chẳng viên nào trúng đích. Tên thuyền phó Job Anderson thò mặt ở lỗ rào chính giữa.

- Tất cả xông vào! - Hắn hét lên.

Cùng lúc ấy, một tên khác chụp nòng súng của Hunter, giựt súng ra khỏi tay anh ta. Rồi hắn dùng báng súng nện một cú rất mạnh ngay giữa ngực anh chàng đáng thương làm anh ta ngã lăn bất tỉnh. Một tên nữa đi quanh pháo đài, xuất hiện ở cửa, tay cầm dao nhào lên người ông Livesey.

Tình thế bị lật ngược. Lúc cuộc tấn công mới bắt đầu chúng tôi bắn vào một kẻ thù dễ thấy. Bây giờ chúng tôi nằm trước mắt những kẻ địch vô hình. May thay, nhờ có khói nên chúng.tôi tương đối được che khuất. Cách nhau ba bước nhìn nhau cũng không thấy. Những tiếng kêu la hỗn độn. Thêm vào đó là những phát súng hỏa mai, tiếng rên rỉ đau đớn, rồi tiếng ông thuyền trưởng la lớn:

- Ra ngoài, các anh! Mọi người ra ngoài hết!

Dùng dao!

Tôi vớ lấy một con dao trong đống đồ rồi phóng ra ngoài trời nắng. ông bác sĩ đuổi theo kẻ tấn công ông ta. ông ta bổ cho hắn một nhát vào đầu.

- Hãy dàn quanh pháo đài! - ông Smollett hô lên.

Tôi nhận ra lúc đó giọng ông đổi khác rõ rệt. Tôi quay lại phía đông, cây dao lăm lăm trong tay. Bỗng tôi thấy mình đang đứng trước mặt Job Anderson. Nhanh như chớp, tôi nhảy sang một bên và bị trượt chân trên cát. Tôi chúi đầu lăn theo sườn dốc và đứng lên lom khom khó nhọc. Lúc ấy, thắng bại đã rõ. Và chiến thắng ngả về phe chúng tôi.

Gray nãy giờ theo sát sau lưng tôi. Anderson chém hụt tôi, hắn chưa kịp đưa tay lên thì đã bị Gray hạ ngay. Một tên cướp khác bị trúng một viên đạn của chúng tôi bắn qua lỗ châu mai hồi nãy bây giờ đã tắt thở. ông Livesey đã thanh toán xong tên thứ ba. Tên thứ tư trong số xông vào pháo đài hoảng hốt vội bỏ dao lại lủi vào rừng.

Chúng tôi trở vào pháo đài. Những tên chạy thoát có thể trở lại tấn công bất cứ lúc nào. Khói đã tan. Chúng tôi chiến thắng với một giá quá đắt. Hunter nằm bất tỉnh dưới chân lỗ châu mai.

Joyce bị một viên đạn vào đầu đã tắt thở. ông Trelawney đang đỡ ông thuyền trưởng mặt mày tái xanh như sắp chết.

- ông thuyền trưởng bị thương. - Nhà quý tộc nói.

- Bọn chúng chạy hết rồi phải không? - ông Smollett hỏi.

- Những đứa đi được đã đi rồi. - ông Livesey nói. - Nhưng có năm đứa sẽ không bao giờ chạy trốn được nữa!

- Năm đứa! - ông thuyền trưởng kêu lên. -Chúng ta đây còn bốn người chống lại chín đứa.

Vậy cũng còn hơn bảy chống mười chín, như chúng ta ngày hôm qua. Thế là tốt..

8. Chiếm tàu Hispaniola

Không có cuộc tấn công mới, bọn phản nghịch cũng chẳng bắn phát súng lẻ nào. Theo lời ông thuyền trưởng nói, bọn chúng đã có "khẩu phần trong ngày". Nhờ thế chúng tôi có rộng thời giờ để săn sóc những người bị thương và chuẩn bị bữa ăn sáng. ông quý tộc và tôi nấu ăn ở ngoài pháo đài, bắt chấp nguy hiểm.

Ngay trong những điều kiện này, trí óc chúng tôi cũng chẳng được tỉnh táo là bao. Các bệnh nhân của ông bác sĩ than vãn kêu ca càng khiến lòng dạ chúng tôi lo lắng không yên.

Trong tám người ngã gục trong cuộc giao chiến, chỉ có ba người còn thoi thóp: tên cướp bị thương trước lỗ châu mai, Hunter và thuyền trưởng Smollett. Hai người đầu xem như vô phương cứu chữa. Quả vậy, tên nổi loạn đã chết khi đang được ông bác sĩ mổ còn Hunter, dù chúng tôi đã dồn hết nỗ lực, vẫn cứ mê man bất tỉnh. Suốt ngày anh ta nằm vật vờ, thở hùng hục như lão cướp biển ở lữ quán Đô đốc Benbaw khi lão bị chứng lên máu; anh ta đã bị đâm thủng mạng sườn và té vỡ sọ. Ngay đêm đó, anh nằm không nói một lời và lặng lẽ trút bỏ linh hồn.

Về phần ông thuyền trưởng, các vết thương của ông tuy nặng nhưng không đến nỗi nguy đến tính mạng. Không một bộ phận nào trong người ông bị tổn thương quá trầm trọng. Viên đạn của Job Anderson (người bắn ông trước tiên) làm ông bể xương mỏ ác nhưng chỉ chạm nhẹ vào phổi.

Viên thứ hai chỉ xé toạc phần mềm ở bắp chân ông. ông bác sĩ quả quyết thế nào ông ta cũng lành nhưng phải mất nhiều tháng không được đi lại hay cử động cánh tay và cũng không được nói trừ trường hợp cần thiết.

Các ngón tay của tôi chỉ bị đao chém sướt nhẹ. Bác sĩ Livesey đắp lên đó một lớp băng mỏng và còn véo hai tai tôi một cái.

Sau bữa ăn trưa, nhà quý tộc và ông bác sĩ họp bàn một lúc khá lâu bên giường của ông thuyền trưởng. Khoảng mười hai giờ rưỡi sau khi họ đã nói hết mọi ý kiến, ông bác sĩ vớ lấy mũ và những cây súng lục của mình, dắt một con dao vào thắt lưng, đút tấm bản đồ vào túi rồi vác súng lên vai, vượt qua hàng rào ở mạn bắc rồi nhanh chân tiến vào đám cây rừng. Tôi và Gray nãy giờ ngồi ở đầu kia của pháo đài để không nghe cuộc nói chuyện của các vị thủ lĩnh. Thấy ông bác sĩ ra đi, anh bạn tôi sửng sốt ngạc nhiên đến nỗi anh gỡ ống tẩu ra mà suýt quên đặt nó lại vào miệng.

- Lạ chưa! - anh kêu lên. - Bác sĩ Livesey điên rồi sao?

- Dĩ nhiên là không. Tôi chắc chắn trong bọn chúng ta ông ấy là người vững vàng nhất làm sao hóa điên được.

- Thôi đi, anh bạn ạ. Có thể cậu nói có lý, nhưng nếu ông ta không điên thì chính tôi mới điên, cậu hiểu ý tôi nói chứ?

- Theo tôi, ông bác sĩ định làm gì đấy và nếu tôi không lầm, ông ta đi đến thăm Ben Gunn.

Sau này tôi biết là tôi nói đúng. Thế nhưng trong lúc chờ đợi, bên trong pháo đài nóng ngột ngạt và bãi cát nhỏ bên ngoài hàng rào chói mắt dưới nắng trưa, tôi chợt nghĩ ra một ý hoàn toàn rồ dại: tôi thèm muốn bỏ trốn một lần nữa. Tôi nhét bánh quy vào đầy các túi quần áo, chụp hai khẩu súng lục giấu vào trong áo khoác cùng với thuốc súng và đạn. Vì biết chắc người ta không cho phép tôi rời pháo đài nên tôi chuồn đi lặng lẽ không để ai hay biết. Làm vậy tôi thấy mình rất có tội. Nhưng bấy giờ tôi còn quá non nớt không cưỡng lại được sức mạnh của sự cám dỗ.

Tôi tiến thẳng về phía bờ biển tránh để bọn người nổi loạn trông thấy. Chỉ một lát sau, tôi nhận ra chiếc tàu Hispaniola có treo lá cờ đen đang nằm bất động. Mặt trời đang khuất dần sau đồi "Viễn Vọng kính". Từ vùng đầm lầy dâng lên một màn sương mù dày đặc. Màn đêm sắp buông xuống. Nếu muốn tìm ra chiếc xuồng độc mộc của Ben Gunn thì đừng để mất thời gian.

Tảng đá trắng hiện rõ trên các bụi cây cách chỗ tôi đứng ba bốn trăm bước. Tôi bò tới để khỏi bị trông thấy và cuối cùng khi tôi đến nơi, trời đã tối hẳn. Bên dưới tảng đá, tôi nhận ra một thứ như túp lều bằng da dê che khuất bởi các bụi cây rậm rạp. Tôi nâng một góc của chiếc lều và trông thấy chiếc xuồng nhỏ của Ben Gunn.

Đó là một chiếc thuyền độc mộc bằng gỗ cứng, hình thù dị dạng và sù sì, lót những tấm da để mặt có lông xuống dưới chẳng khác gì một sàn tàu. Xuồng nhỏ quá đến nỗi tôi ngồi còn chật. Với một ghế ngồi chèo thấp tủn, chỗ tựa chân bấp bênh thiếu chắc chắn và một cặp dầm bơi tạo sức đẩy, tôi không hiểu được làm sao người ta có thể sử dụng một chiếc xuồng như thế..Tôi bỗng nảy ra một sáng kiến. Tại sao tôi lại không lợi dụng đêm tối, nhờ chiếc thuyền của người trên đảo để bơi đến sát tàu Hispaniola, cắt đứt dây neo cho tàu trôi giạt tấp vào một bến bờ nào đó? Tôi nghĩ rằng, sau cuộc bại chiến sáng nay, bọn cướp sẽ chỉ còn nước tính đến việc nhổ neo ra khơi. Tôi có thể ngăn bọn chúng chạy trốn.

Sương mù vẫn dâng lên mãi và đêm tối mịt.

Tôi ngồi xuống ăn một chiếc bánh quy. Sau đó tôi vác chiếc thuyền của Ben Gunn lên vai rồi mò mẫm tiến ra biển. Quanh chỗ tàu đậu chỉ nhìn thấy hai điểm: điểm thứ nhất là một ngọn lửa to gần đầm lầy. Bọn cướp đang ngồi quanh lửa uống rượu để quên đi nỗi nhục thua trận; điểm kia là một đốm sáng mờ nhạt leo lét trong màn sương cho biết con tàu đang ở đó.

Kể ra, chiếc xuồng của Ben Gunn khá vững vàng, chèo nhẹ hoàn toàn thích hợp với một tay lái có sức nặng và tầm vóc như tôi. Chỉ phiền một nỗi là nó lóc chóc khó điều khiển. Tôi cố xoay xở đủ mọi cách nhưng nó cứ muốn sang ngang và quay tròn như con vụ. Nếu không có nước thủy triều xuống, chắc tôi đã không bao giờ đến được tàu Hispaniola. Chẳng mấy chốc, tôi thấy chiếc tàu hai cột buồm sừng sững trước mắt, một khối đen thẫm trong đêm tối. Tôi thấy rõ vỏ con tàu và đồ đạc ở bên trong. Cuối cùng cứ theo dòng nước cuốn, tôi luồn qua sợi thừng lớn và chụp lấy nó.

Sợi dây neo căng như dây cung và dòng nước chảy xiết đến nỗi con tàu Hispaniola kéo giật cả neo. Chỉ cần chặt một dao thì chiếc tàu hai buồm này sẽ theo thủy triều trôi ra khơi. Thật quá đơn giản. Nhưng tôi chợt nhớ rằng một sợi thừng căng mà cắt đột ngột một cái là điều nguy hiểm chẳng khác gì một cú ngựa đá hậu. Nếu bất cẩn chặt đứt neo, chiếc xuồng và tôi sẽ bị bắn lên không. Nghĩ thế, tôi dừng tay. Nếu cơ may không đến một lần nữa, có thể tôi đã bỏ dở dự tính của mình.

Đang lúc tôi nghĩ ngợi như thế, thì gió đã đổi chiều qua hướng tây nam. Tôi mừng rỡ thấy sợi cáp trong tay tôi chùng lại và bàn tay tôi đang nắm nó rớt tòm xuống nước. Tôi lập tức bắt tay hành động. Tôi cầm con dao, lần lượt cưa từng tao dây một cho đến khi chỉ còn hai tao để giữ con tàu. Rồi tôi dừng lại chờ để cắt hai tao cuối vì dây neo bị gió thổi căng trở lại.

Ngay khi ấy, tôi nghe trong phòng khách có những tiếng người nói. Tôi nhận ra ngay giọng.nói của Israel Hands, tên thuyền phó trước kia từng là pháo thủ của Flint. Giọng nói kia là của tên phản tặc đã tấn công vào pháo đài. Hai tên đều say khướt. Chúng nói bằng giọng sôi nổi và hình như đang tức giận bừng bừng. Chúng chửi nhau và lúc nào tôi cũng tưởng là chúng sắp thượng cẳng chân hạ cẳng tay.

ở trên bờ, xuyên qua đám cây ven biển, tôi trông thấy ánh sáng rừng rực của một bếp lửa lớn những tên hải tặc đã đốt lên. Một tên ca bài hát cũ mèn, thủy thủ thường hay hát. Cuối mỗi đoạn hắn đều cất giọng rung dài, rồi cả bọn hát câu điệp khúc vốn rất quen thuộc đối với tôi:

Có mười lăm thủy thủ Trên chiếc rương người chết Mười lăm lính thủy, mười lăm thủy thủ Dô-ô-ô! Dô-ô-ô...

Đòi xin ngụm rượu.

Cuối cùng tôi cảm thấy sợi thừng dưới bàn tay tôi lại chùng. Con tàu Hispaniola lắc nhẹ trong bóng đêm. Bằng một nhát dao dứt khoát, tôi chặt đứt những sợi dây gai cuối cùng. Chiếc thuyền độc mộc ngay tức khắc bị thủy triều cuốn tấp vào chiếc tàu buồm. Con tàu bắt đầu quay mũi từ từ rồi trôi giạt theo dòng nước.

Tôi vội dùng cây dầm để bơi. Nhưng thấy không thể tách con thuyền mong manh của tôi xa khỏi con tàu, tôi bèn quyết định chỉ còn một cách là chèo ra sau đuôi. Cuối cùng tôi cũng tách được ra khỏi kẻ láng giềng đáng sợ. Ngay lúc ấy hai tay tôi sờ trúng một sợi thừng thòng dài từ mạn thuyền xuống nước và tôi bèn nắm lấy ngay.

Tại sao lại làm thế? Tôi thật khó nói vì sao.

Trước hết đó là một động tác do bản năng. Sau đó là do tính tò mò. Tôi đu người vào dây, từ từ leo một cách khá nguy hiểm lên ngang tầm cửa sổ tàu. Hands và bạn hắn đang quần nhau chí tử và siết cổ nhau.

Tôi đu mình theo dây để tuột xuống thì bỗng thình lình, con tàu giạt mũi thật mạnh và nghiêng ít nhất hai mươi độ. Cùng lúc ấy nhiều tiếng la vang lên ơi ới kéo dài ở trên tàu. Tôi nghe tiếng những bước chân nặng nề leo lên cái thang ở nắp hầm máy. Tôi đoán biết hai tên say rượu đã ngưng đấu đá, và ý thức được tình trạng lâm nguy của mình.

Tôi nằm rạp xuống đáy chiếc thuyền nhỏ đáng thương của tôi và thành khẩn dâng linh hồn cho Chúa. ở đầu eo biển kia chắc chắn chúng tôi sẽ gặp những con sóng cuồng nộ và những đau khổ đời tôi rồi cũng sẽ kết thúc nhanh chóng..Nhưng cho dù tôi có thể chấp nhận cái chết thì tôi cũng không thể nào đủ sức để nhìn định mệnh của mình đang từ từ tiến đến gần.

Tôi phải nằm như thế trong nhiều tiếng đồng hồ, bị sóng dồi không ngớt và chốc chốc lại bị bọt nước bắn ướt dầm dề, chờ đợi cái chết mỗi khi chiếc xuồng hụp xuống. Dần dần tôi mệt lả, nỗi khiếp đảm làm trí óc tôi tê cóng lại. Cuối cùng tôi ngủ thiếp đi và trong đáy chiếc xuồng bập bềnh theo sóng vỗ, tôi nằm mơ thấy quê nhà và lữ quán của gia đình.

Khi tỉnh dậy, trước tiên tôi thấy hốt hoảng, giận mình đã ngủ mê. Cho dù bị trôi giạt, tôi vẫn đang cùng đường với chiếc tàu. Tôi vui mừng vẫn còn thấy nó.

Đảo qua đảo lại, hết tiến lại lùi, lúc đi về bắc lúc quay về nam, lúc rẽ sang đông lúc tạt sang tây, tàu Hispaniola khi chậm khi nhanh đột ngột, lệch qua lệch lại, buồm căng gió mà như vẫn đứng nguyên một chỗ. Tôi hiểu ra là do không có ai cầm lái. Nếu vậy người trên tàu đâu cả rồi? Bọn chúng hoặc đã say như chết hoặc chúng đã bỏ tàu. Dù trường hợp nào đi nữa, tôi nghĩ nếu lên được trên tàu, có thể tôi sẽ đưa được con tàu về trả lại cho ông thuyền trưởng.

Dòng nước cuốn trôi chiếc xuồng và chiếc tàu buồm về hướng nam, hai chiếc đi nhanh bằng nhau. Nhưng chiếc tàu đi loạng quạng, giật tới giật lui và nhiều lúc bị kẹt trong luồng gió nên không những chẳng vượt hơn tôi mà còn thụt lại một khoảng. Chỉ cần tôi dám ngồi xuống và bơi dầm, chắc chắn tôi có thể bắt kịp nó. Dự định ấy có phần phiêu lưu làm sức lực tôi hồi sinh.

Bây giờ, tôi nhìn thấy chiếc tàu buồm rõ hơn.

Tôi có thể thấy màu đồng lấp lánh của chiếc cần lái lắc lư qua lại nhưng không một bóng người trên boong. Tôi đoán bọn chúng đã bỏ tàu. Hoặc bọn chúng đã say mèm đang nằm bẹp bên dưới.

Trong trường hợp này, tôi sẽ có thể sập cửa hầm tàu để nhốt chúng, sau đó muốn lái tàu đi đâu tùy thích.

Từ nãy đến giờ, cách di chuyển của tàu His-paniola làm tôi quá sức bực bội. Nó dóng mũi về hướng gần chính nam nhưng tự nhiên cứ luôn luôn chạy tạt sang đường khác. Mỗi lần chệch luồng gió, buồm căng nửa vời, tức khắc nó lại lướt phăng phăng tới trước. Tôi đã nói đó là điều làm tôi hết sức bực mình. Thật thế, mặc dù chiếc tàu có vẻ bất lực, buồm đập đùng đùng nghe như tiếng đại bác và các ròng rọc lăn gõ vào boong nhưng nó vẫn cứ dần xa tôi mãi, không.những vì dòng nước chảy siết mà còn do sức giạt của tàu rất mạnh.

Cuối cùng tôi cũng gặp may. Gió lặng gần như im phắc trong một vài giây và theo dòng nước đẩy từ từ, tàu Hispaniola chầm chậm xoay đằng lái về phía tôi. Cửa sổ phòng lái mở toang, ngọn đèn trên bàn còn cháy. Cánh buồm chính rũ xuống như một lá cờ rủ. Nếu không có dòng nước, chiếc tàu ắt sẽ nằm hoàn toàn bất động.

Trong những phút vừa rồi, tôi đã tụt lại phía sau, nhưng lúc này tôi cố hết sức để bắt đầu đuổi theo chiếc tàu giống như đuổi bắt một kẻ đào tẩu.

Tôi chỉ còn cách con mồi chừng một trăm thước trời bỗng nhiên nổi gió. Buồm căng đầy và con tàu lại lướt nhanh trên biển, nghiêng về một bên, như con chim én bay là là trên mặt nước.

Tôi bắt đầu thấy tuyệt vọng thì tình thế xoay chiều có lợi cho tôi. Chiếc tàu buồn từ từ trở mũi quay hông về phía tôi, sau đó tiếp tục xoay và rút ngắn khoảng cách giữa tàu và xuồng của tôi xuống còn một nửa, một phần ba, rồi một phần tư. Nằm trên đáy xuồng, tôi thấy con tàu hiện ra cao vời vợi.

Lúc ấy, không có thì giờ suy nghĩ, tôi chỉ kịp thời hành động để thoát thân. Tôi đang ở trên đầu một ngọn sóng thì chiếc tàu buồm đâm xuống từ trên đầu ngọn sóng tiếp theo. Tôi trông thấy cột buồm cái ngay bên trên đầu tôi. Tức thì tôi đứng dậy, nhảy phóng lên cao, chân đạp mạnh làm chiếc xuồng ngập xuống nước. Một tay tôi nắm cột buồm trong khi chân tôi tìm điểm tựa.

Tôi còn đang hổn hển bám vào cột thì nghe một tiếng cụp, chiếc tàu buồm vừa va vào và tán nát chiếc xuồng. Từ lúc đó, tôi ở trên tàu Hispaniola mà không thể nào lui bước được nữa..

9. Tôi là thuyền trưởng của một con tàu

Tôi nhảy phóc lên ngồi kẹp hai chân trên cột buồm. Boong tàu không bóng người. Tôi té xuống sàn mũi, nằm mê man nhắm nghiền hai mắt. Đờ đẫn cả người nên tôi lăn ra ngủ. Sóng vỗ bập bềnh đưa tôi chìm vào giấc mơ. Khi tỉnh dậy, trời đã sáng rõ. Tôi trông thấy hai người đang canh gác: Hands ngồi tựa vào bao lơn tàu, cằm gục xuống ngực, hai tay buông thõng, sắc mặt nhợt nhạt như màu sáp. Tên kia, đứa đã tấn công vào pháo đài đang nằm ngửa, cứng đơ như khúc củi, hai tay dang thẳng như kẻ bị đóng đinh trên thập tự giá. Hai hàm răng của hắn nhe ra giữa đôi môi méo xệch như nụ cười nhếch mép hiểm độc. Bên cạnh chúng, trên sàn tàu còn vấy những vệt máu lớn nên tôi nghĩ ngay đến chuyện chúng đã đánh nhau chí mạng trong lúc uống rượu say cuồng.

Yên tĩnh một lát rồi sau đó lão Hands xoay người nằm nghiêng. Lão cất tiếng rên khe khẽ, ngóc người lên rồi lại nằm trở về thế như cũ.

Tiếng rên ấy chứng tỏ lão đang đau đớn dữ dội và hoàn toàn kiệt quệ khiến tôi phải động lòng.

Nhưng nhớ lại những gì đã nghe lúc ở trong thùng táo, tôi không còn thương xót lão chút nào.

- Thưa ông Hands, tôi đã trở về đây. - Tôi mỉa mai lên tiếng.

Lão chẳng hề tỏ chút ngạc nhiên vì sức lão quá yếu. Lão chỉ lẩm bẩm mấy tiếng:

- Rượu mạnh!...

Tôi lẻn ra đuôi tàu, bước xuống phòng khách.

Cảnh tượng trước mắt tôi hỗn độn không thể tả.

Bao nhiêu rương hòm và ngăn kéo đã bị phá tung, có lẽ để tìm tấm bản đồ. Mỗi khi tàu lúc lắc, hàng đống chai lọ rỗng không chạm nhau lách cách trong các góc xó. Tôi đi xuống buồng chứa lương thực. Tất cả các thùng rượu đã biến mất tiêu. Chắc chắn tên nào cũng đã say túy lúy kể từ lúc bắt đầu xảy ra vụ nổi loạn. Cuối cùng tôi tìm được một chai rum cho lão Hands. Phần tôi thì quơ lấy những chiếc bánh qui, một chùm nho khô và một miếng pho mát. Tôi quay lại chỗ lão Hands, đưa cho lão chai rượu. Tôi ngồi vào một góc và bắt đầu ăn..- ông bị thương nặng lắm phải không? - Tôi hỏi.

- ừm! - Lão đáp, - Giá có mặt ông Bác sĩ ở trên tàu hẳn ông ta sẽ chữa cho tớ lành ngay.

Nhưng tớ không được may mắn. Còn thằng chó chết kia, - lão vừa nói vừa chỉ vào bạn của lão, - hắn đã chết queo rồi.

Im lặng một lát lão nói:

- Cậu từ đâu chui ra vậy, Jim?

- Tôi lên đây để chiếm lấy tàu Hispaniola.

Ông hãy xem tôi như thuyền trưởng của ông cho đến khi có lệnh mới.

Lão chẳng đáp nửa lời, chỉ nhìn tôi cay cú.

Hai má của lão bây giờ đỡ xanh xao hơn. Mỗi lần tàu lắc, lão lại trượt trên boong.

- ông Hands ạ, - Tôi nói tiếp - Trên tàu này tôi không thể chấp nhận lá cờ đen. ông cho phép tôi hạ nó xuống. Thà không có còn hơn treo cờ màu ấy!

Tôi nói là làm ngay và ném lá cờ xuống biển.

Cuối cùng lão nói:

- Thưa thuyền trưởng Hawkins, tôi thiết tưởng ông có ý trở lại bờ. Vậy chúng ta hãy bàn về chuyện ấy một chút.

- Sẵn sàng, ông Hands ạ, chúng ta hãy nói chuyện.

Tôi tiếp tục ăn một cách ngon lành.

- Tôi đề nghị như thế này, - Tên cướp nói.

- Cậu hãy cho tôi ăn uống gì một chút. Cậu hãy lấy một chiếc khăn tay cũ băng vết thương cho tôi. Xong rồi tôi sẽ chỉ cho cậu cách lái tàu.

- Tôi cần nói cho ông biết điều này, - Tôi đáp, - Tôi không muốn trở lại chỗ đậu tàu của thuyền trưởng Kidd. Tôi muốn đi vào cái vịnh nhỏ ở phía bắc và cho chiếc tàu giạt vào bờ ở đó.

- Tất nhiên! - ông ta kêu lên. - Đó là một ý rất hay. Vả lại tôi đâu có quyền chọn lựa. Chính cậu là thuyền trưởng. Vậy chúng ta sẽ đi về hướng cái vịnh nhỏ phía bắc...

Tôi cho lão nói như vậy cũng khá hợp lý.

Chúng tôi đồng ý giao ước. Ba phút sau, tàu His-paniola lướt theo chiều gió dọc theo bờ Đảo Châu Báu.

Tôi buộc cần lái lại rồi bước xuống hầm tàu để tìm trong rương của mình một chiếc khăn tay bằng lụa mỏng của mẹ tôi. Tôi dùng nó để băng vết thương rộng và đang chảy máu trên đùi lão Hands.

Sau khi ăn một chút thức ăn và uống hai ba hớp rượu mạnh, lão bắt đầu cảm thấy khỏe hẳn ra, đứng thẳng người hơn, giọng nói mạnh và rõ ràng hơn. Dường như lão đã trở thành một người khác hẳn..Được lên nắm quyền chỉ huy, tôi mừng quýnh. Tôi ngây ngất nhìn bầu trời trong trẻo, chan hòa ánh nắng cũng như những cảnh đẹp khác trên bờ. Bây giờ tôi tha hồ có nước uống và thức ăn ngon. Lương tâm tôi trước đây vốn bị cắn rứt rất nhiều vì tội bỏ trốn lúc này đã trở nên thoải mái vì tôi đã thực hiện được một việc quan trọng. Tôi nghĩ mình chẳng cần đòi hỏi gì hơn nữa, nếu như Ixrael Hands không theo dõi những việc làm của tôi bằng ánh mắt đùa cợt và trên môi lúc nào cũng mỉm nụ cười quái lạ. Đó là nụ cười biểu lộ sự đau khổ và yếu đuối, cái cười mỉm ngu ngơ của một ông già, nhưng trong đó tôi cũng nhận thấy một chút gì đó chế giễu, nham hiểm thoáng qua trong lúc lão già quỉ quyệt không ngừng theo dõi công việc tôi đang làm.

Gió dường như cũng biết vâng lời chúng tôi, nên đã thổi xoay qua hướng tây. Chúng tôi dễ dàng đi đến mạn đông bắc của hòn đảo nằm ngay ở phía bắc lối vào cái vịnh. Một khi đến đó, chúng tôi chỉ còn biết khoanh tay chờ lúc thủy triều dâng lên cao nhất vì chúng tôi không còn có neo. Lão Hands bày cho tôi cách phải làm sao để tàu đứng yên một chỗ. Để tiêu tốn thời gian chúng tôi đem đồ ra ăn.

Lão thuyền phó nói:

- Jim à, nếu không phiền xin cậu làm ơn xuống phòng khách đem lên đây giúp tôi một chai rượu nho. Thứ rum này làm thân già tôi chịu hết nổi!

Giọng lão ngọt xớt làm tôi thấy nó không được tự nhiên. Lời nhờ vả ấy che giấu một cái gì mờ ám. Lão Hands mà lại thích rượu vang hơn rum sao! Thật không tin được. Đây chỉ là một cớ để đẩy tôi rời khỏi boong trong chốc lát.

Nhưng với mục đích gì? Chắc chắn lão đang âm mưu một chuyện gì đây. Với một kẻ đần độn như lão, tôi chẳng khó gì để che giấu không cho lão biết tôi đang nghi ngờ. Tôi bình tĩnh trả lời:

- Rượu vang ông uống hợp hơn là rum. ông muốn loại đỏ hay loại trắng?

- Loại nào cũng được, Jim ạ. Cái đó tùy cậu.

- Vậy tôi sẽ đi kiếm cho ông một chai rượu nho.

Tôi đi về phía phòng khách, cố gây tiếng động càng nhiều càng tốt. Xong rồi, tôi cởi giày ra, nhón gót chạy dọc theo hành lang trong hầm tàu đến tận cầu thang ở đằng mũi rồi thò đầu lên buồng lái, ở một chỗ lão Hands sẽ không ngờ bắt gặp tôi ở đó. Những gì tôi nghi ngờ là hoàn toàn chính xác!

Ixrael Hands đang bò lồm cồm, chống hai tay xuống đất. Lão cố nén những tiếng rên rỉ.ngoài ý muốn vì chân lão đang đau đớn không chịu nổi. Tuy vậy lão vẫn bò ngang qua boong khá nhanh. Lão nhặt một bó dây thừng, một con dao to dính máu đến tận chuôi rồi giấu vào dưới áo khoác và trở về chỗ cũ. Có một điều gần như chắc chắn là tôi không có gì phải sợ trong khi chúng tôi chưa đưa con tàu vào nơi an toàn. Cả hai người, tôi và lão đều muốn cho con tàu giạt vào một bãi cát khuất gió. Khi kế hoạch đó chưa thực hiện được, nhất thiết lão vẫn cần phải có tôi.

Tôi rón rén đi về phía phòng khách. Tôi lặng lẽ đi giày vào không gây bất kỳ một tiếng động nào, vớ lấy chai rượu đầu tiên tôi trông thấy rồi trở lên boong. Lão thuyền phó đang nửa nằm nửa ngồi tại chỗ cũ lúc tôi bỏ đi. Lão ngẩng đầu khi tôi lại gần. Lão uống một ngụm ngon lành rồi nằm yên. Khoảng mười lăm phút trôi qua, lúc đó Hands mới bắt đầu lên tiếng cho tôi hay là thủy triều lúc này đã dâng khá cao.

- Này thuyền trưởng Jim Hawkins, bây giờ hãy làm theo lời tôi chỉ dẫn, và tôi bảo đảm với ông chiếc Hispaniola chẳng mấy chốc sẽ vào được bờ an toàn.

Chúng tôi còn phải đi gần hai hải lý nữa.

Nhưng lối vào chỗ đậu tàu rất hẹp nên khó qua.

Tôi phải lái rất chính xác để tránh mọi tai nạn.

Tôi cẩn thận theo lời chỉ dẫn của Hands. Chúng tôi tiến tới không có gì trắc trở.

Lão Hands nói:

- Thôi, bây giờ cậu hãy chú ý Jim ạ, kia là nơi có vẻ rất thích hợp để cho tàu giạt vào bờ.

Không có một tảng đá, chỉ có cát mịn đẹp, chung quanh có cây cối.

- Thế sau khi nên bờ rồi, - tôi nói, - chúng ta sẽ làm sao để đẩy nó xuống biển được?

- Cậu chớ lo, rồi ta sẽ có cách! Nhưng nãy giờ đã nói chuyện nhiều, đây là lúc quyết định.

Chiếc tàu đi quá nhanh. Cần lái sang bên phải!

Giờ xoay sang trái! Từ từ! ấy! ấy! Được rồi đó!...

Nãy giờ loay hoay điều khiển tàu khiến tôi lơ là cảnh giác kỹ lưỡng tên chủ tàu. Tôi quá bận tâm vào việc cho tàu lên bờ đến nỗi quên bẵng mối nguy hiểm đang lơ lửng trên đầu. Cúi người trên bao lơn ở mạn phải, tôi ngắm nhìn các rãnh nước tỏa rộng ra trước sống mũi tàu.

Giá tôi không ngoái đầu lại vì một nỗi lo bất chợt ập đến thì có lẽ tôi đã chết không kịp chống cự rồi. Có thể vì tôi đã nghe tiếng kêu răng rắc và liếc thấy một bóng người di chuyển, hoặc có thể tôi chỉ làm theo bản năng giống như một con mèo: thực tế là, vừa quay lại tôi liền thấy lão Hands đã thu ngắn khoảng cách từ bao lơn đến chỗ tôi, con dao cầm lăm lăm trên tay..Khi bốn mắt gặp nhau, cả hai chúng tôi đã kêu rú lên cùng một lúc, nhưng trong khi tôi kêu rú lên vì khiếp sợ, thì lão ta rống to như một con bò mộng đang lồng lộn tức tối nhào lên tấn công. Cùng một lúc, lão đâm bổ về phía trước còn tôi nhảy né sang một bên, tay buông cần lái làm nó thình lình bật sang bên trái. Nhờ đó tôi thoát nạn, bởi vì cái cần đánh trúng ngay giữa ngực của lão Hands, làm lão mất đà đứng khựng lại.

Trước khi lão hoàn hồn, tôi đã ra khỏi cái góc nơi tôi đang bí lối. Trước mắt tôi giờ đây là cả một boong tàu rộng rãi nên tôi có thể dễ dàng né tránh địch thủ. Đến dưới chân cột buồm cái, tôi đứng lại rút khẩu súng lục trong túi ra, lấy hết bình tĩnh để nhắm (mặc dù tên chủ tàu đã xoay người lại và bước thẳng về phía tôi) rồi bóp cò. Cò súng mổ xuống nhưng không có lửa lóe và tiếng nổ: nước biển đã làm ngòi nổ không còn hoạt động được. Tôi cay đắng tự trách mình đã quá sơ hở.

Tại sao lâu nay tôi không chịu nạp đạn và thay lại ngòi nổ cho vũ khí duy nhất tôi đang có? Nếu không tôi đã đâu đến nỗi phải chạy trốn như một con cừu trước một tay đồ tể ấy.

Quả là ngạc nhiên khi thấy lão ta tuy bị thương nhưng vẫn di chuyển nhanh lẹ. Mái tóc hoa râm của lão phủ xuống khuôn mặt đỏ gay như màu lá cờ hàng hải trong khi lão vội vàng và điên cuồng giận dữ. Tôi không kịp sử dụng đến khẩu súng lục kia của mình. Thật ra tôi cũng chẳng thiết gì đến nó vì tôi biết chắc nó cũng sẽ không thể dùng được. Có một điều rõ ràng là tôi không nên tháo lui trước sự tấn công của lão.

Bằng không lão sẽ mau chóng dồn tôi về phía đuôi tàu. Để kẹt vào một nơi như thế thì chín mười nhát dao vấy máu sẽ chấm dứt cuộc đời phiêu lưu của tôi trên thế gian này. Tôi chống hai bàn tay vào cột buồm chính to lớn, chờ đợi hết sức căng thẳng.

Thấy tôi không có ý định chạy trốn, lão cũng dừng lại. Lão giả bộ tấn công tôi hai ba lần, tôi đều có những động tác phản xạ nhanh nhẹn. Hồi còn ở nhà, tôi đã thường hay chơi cái trò này giữa các tảng đá trên vịnh Đồi Đen nhưng nói thật chưa bao giờ trống ngực tôi đập dồn dập đến như thế. Tuy nhiên, như tôi đã nói, đó chỉ là một trò chơi trẻ con và tôi tin mình có thể thắng dễ dàng một tên thủy thủ già đùi đã bị thương. Thực ra, tôi đã lấy lại được một ít can đàm để dám nghĩ thoáng qua một đôi điều về kết cục có thể xảy ra của trận chiến này: dù tin chắc có thể kéo dài cuộc giao chiến, nhưng tôi chẳng thấy có chút hi vọng nào thoát nạn.

Ngay lúc ấy, chiếc tàu buồm đụng phải bãi cát. Nó chòng chành rồi đột ngột đứng lại, lật.nghiêng về phía trái. Một khối nước lớn chồm qua bao lơn, quét bay mọi thứ trước mặt nó.

Chúng tôi đều mất thăng bằng và cùng một lúc ngã lăn trên boong. Tôi đứng dậy trước tiên.

Nhanh như chớp, tôi nhào tới những sợi thừng dằn cột buồm, leo lên như một con khỉ cho đến khi đến được trục buồm mới dừng lại.

Tên cướp đứng ở dưới nhìn lên chỗ tôi, ngạc nhiên và tức giận đến ngẩn cả người. Tôi thay ngòi nổ của khẩu súng lục. Lão Hands thấy tôi làm như vậy, lão biết lão sắp nguy nếu không hành động tức thời. Lão ngậm con dao giữa hai hàm răng, đu người leo lên dây cột buồm một cách khó nhọc. Cái chân bị thương của lão đau đớn không kể xiết. Lão vừa rên rỉ vừa chửi thề.

Lão leo lên được một phần ba đoạn đường thì tôi la lớn:

- ông Hands, nếu ông leo thêm một bước nữa tôi sẽ bắn ông vỡ sọ.

Lão dừng lại, tỏ ra ngần ngừ, bỏ con dao ở miệng ra nói:

- Cậu Jim à, chúng ta đồng cân đồng sức.

Nếu tàu không bị lắc mạnh, tôi đã tóm được cậu rồi. Tốt hơn chúng ta nên điều đình.

Tôi lắng tai nghe lão nói, không nín được cười và cực kỳ đắc thắng. Thình lình có cái gì bay vèo như một mũi tên. Tôi cảm thấy đau nhói.

Vai tôi dính chặt vào cột buồm...

Trong khi tôi vừa ngạc nhiên vừa đau đớn đến tận cùng ở giây phút đó - có một điều đã xảy ra ngoài ý muốn của tôi - một phát súng nổ rồi khẩu súng lục rớt ra khỏi tay tôi.

Lão Hands la lên một tiếng thật lớn, buông tay ra và rơi chúi đầu xuống biển.

Đầu óc tôi dần dần bình tĩnh lại, tim đập đều hơn và tôi có thể suy nghĩ tiếp theo tôi phải làm gì. Tôi tìm cách rút con dao ra. Nó cắm sâu đến nỗi tôi phải cố sức nên cảm thấy đau dữ dội.

Tôi buông tay, giật mình một cái thật mạnh.

Rất may, cử động đó giúp tôi thoát nguy.

Con dao chỉ còn dính vào một chút da ở trên vai. Cú giật mình như thế làm chỗ da bị rách và tôi tự do cử động, chỉ còn vướng chiếc áo sơ mi và áo khoác. Máu chảy mỗi lúc một nhiều hơn.

Tàu lắc một lần nữa làm áo quần tôi toạc ra nên tôi chẳng còn dính vào cột buồm. Thế rồi tôi theo dây buồm, leo xuống boong hết sức nhanh.

Tôi cố băng vết thương đang nhức nhối mặc dù nó không trầm trọng. Bây giờ là chủ chiếc tàu Hispaniola, tôi nghĩ đến việc tống khứ tên hành khách cuối cùng, bạn của lão Hands. Những chuyến phiêu lưu mạo hiểm đã làm tôi dày dạn không còn thấy sợ hãi trước sự chết chóc. Tôi.ôm cái xác của tên gian ác như ôm một bao cám rồi thả tuột xuống biển, vang một tiếng "ùm...u...m..." thật to.

Bây giờ chỉ còn độc mình tôi trên tàu. Thủy triều đang xuống. Gió chiều nổi lên. Các sợi thừng trên tàu kêu cót két nhẹ nhàng và buồm đánh phập phồng.

Nước đã rút cạn. Tôi chụp lấy sợi dây neo vẫn còn đong đưa lòng thòng từ lúc bị tôi cắt đứt. Tôi từ từ tuột xuống, cho đến khi chân chạm đất. Tôi đi vào bờ, nước ngập đến thắt lưng. Thế là tôi rời bỏ chiếc tàu buồm đang nằm nghiêng cùng với lá buồm trải rộng ở bên cạnh.

Tôi khá mãn nguyện về mình vì tôi chẳng trở về với hai bàn tay không. Chiếc Hispaniola không còn một bóng tên cướp nào và lại sẵn sàng lên đường cùng với những kẻ trung thành. Tôi vội vàng tìm lại các bạn tôi và kể lại cho họ nghe những chiến công của tôi. Tôi hy vọng chính thuyền trưởng Smollette cũng phải thừa nhận là tôi đã không phí thời gian uổng công. Tôi hớn hở tiến về pháo đài. Chỉ cần đi ngang qua khu rừng rậm rạp, chẳng mấy chốc tôi đã đến gần nơi tôi gặp người đàn ông sống trên hoang đảo.

Trời tối rất nhanh, ngay việc mò đường mà đi cũng đã là gian nan. Bóng hai ngọn đồi sát bên nhau đằng sau lưng tôi và đồi Viễn Vọng Kính bên tay phải càng lúc càng mờ. Sao trên trời thưa thớt và không sáng lắm. Tôi lang thang trên những vùng đất thấp, hết đâm vào bụi cây lại ngã lăn xuống hố cát.

Bỗng tôi thấy quanh mình tràn ngập một thứ ánh sáng mờ ảo. Một vừng hồng nhạt ánh lên trên đỉnh đồi Viễn Vọng Kính. Một lát sau, tôi trông thấy một cái đĩa bạc lớn nhô lên ở chân trời đằng sau đám cây: trăng vừa lên.

Nhắm theo chỗ sáng ấy, tôi nhanh chân vượt nốt quãng đường còn lại. Lúc đi, lúc chạy, tôi nóng lòng mong sao chóng đến pháo đài. Tuy vậy, lúc đi vào khu rừng ở trước vòng rào, đầu óc tôi đủ tỉnh táo để chậm bước lại và tiến tới một cách thận trọng. Nếu để chính các bạn tôi giết lầm tôi, thì chắc chắn cuộc phiêu lưu của tôi đã kết thúc một cách bi thảm.

Mặt trăng bây giờ cao hơn. ánh sáng bắt đầu rọi xuống các chỗ cây thưa nằm rải rác trong rừng tạo thành từng mảng rộng. Đột nhiên thẳng trước mặt tôi, giữa đám cây xuất hiện một ánh sáng có màu khác. ánh sáng ấy đỏ thắm, thỉnh thoảng mờ đi một chút, như thể nó phát ra từ những cây củi cháy dở của một bếp lửa lớn sắp tàn.

Tôi hoàn toàn mờ mịt không thể biết đó là cái gì..Cuối cùng, tôi tới được khoảng rừng thưa.

Cuối rừng phía tây ngập tràn ánh trăng. Các nơi khác và ngay cả pháo đài vẫn còn chìm trong bóng tối mờ đục, lấp lánh những dải ánh sáng bạc thật dài cách quãng nhau. Phía bên kia pháo đài, có một bếp lửa lớn vừa tàn than còn đỏ rực.

Không một bóng người. Ngoài tiếng gió thổi lao xao không còn một tiếng động nào khác.

Tôi dừng lại, vừa ngạc nhiên vừa có phần sợ hãi. Chúng tôi trước giờ không hề đốt lửa to bởi vì theo lệnh ông thuyền trưởng, chúng tôi phải rất tiết kiệm củi đốt. Cho nên tôi đâm ra sợ có một tai họa gì đó đã giáng xuống trong khi tôi vắng mặt.

Tôi đi quanh vòng rào qua ngả phía đông, cẩn thận núp mình trong bóng tối; sau đó tôi trèo qua rào ở một nơi thuận lợi nhất có bóng tối dày đặc bao phủ.

Để đảm bảo an toàn, tôi chống hai tay hai gối xuống đất rồi lặng lẽ bò về phía pháo đài không gây một tiếng động. Khi lại gần mục tiêu, tôi thấy nhẹ cả người. Cái thứ tiếng tôi đang nghe đây, bình thường vốn chẳng dễ chịu, thậm chí tôi đã nhiều lần than phiền về nó, nhưng lúc này nghe các bạn tôi đồng loạt ngáy to và êm đềm như thế thì đúng là tai tôi đang nghe nhạc.

Tiếng kêu của người gác biển, tiếng kêu tuyệt vời "Mọi sự tốt lành" cũng chưa bao giờ đem lại cho tôi một niềm phấn khởi lớn lao đến như thế.

Tuy nhiên, có điều không ổn: Chẳng một bóng người canh gác. Giả sử Silver và các đồ đệ của gã ở vào chỗ của tôi thì sẽ không một ai trong bọn tôi thức dậy để nhìn thấy mặt trời mọc. Tôi tự nhủ "nếu ông thuyền trưởng không bị thương, chắc chắn đã không xảy ra như vậy".

Một lần nữa tôi tự trách mình thậm tệ khi nhìn thấy họ ở trong một tình trạng nguy hiểm đến thế vì thiếu người canh gác.

Lúc ấy, tôi đã đến bên cửa và đứng thẳng người lên. Bên trong tối om chẳng thấy được gì.

Nhưng tôi không còn nghe tiếng ngáy đều đặn của những người đang ngủ mà chỉ nghe những tiếng động khe khẽ ngắt quãng giống như tiếng ngòi bút sột soạt hay tiếng chim gõ mõ hoàn toàn chẳng hiểu là tiếng gì.

Bỗng trong bóng tối có một giọng nói the thé vụt la lên:

- Những đồng ăn tám!... Những đồng ăn tám!...

Những đồng ăn tám... những đồng ăn tám!...

Đó là con vẹt của John Silver, thuyền trưởng Flint. Nó đứng canh giỏi hơn cả người và cất giọng eo éo la lên như thường lệ để báo động có tôi xuất hiện. Tôi chưa kịp hết ngạc nhiên thì.những người đang ngủ giật mình thức giấc đều đã đứng bật dậy.

- Ai? - Tiếng của John Silver hét vang.

Tôi muốn bỏ chạy nhưng liền đập mạnh vào một kẻ đang đưa hai tay ôm lấy tôi. Tôi bị giữ chặt, đứng yên và sợ run cầm cập.

- Dick đâu! Đi tìm đèn đuốc! - Tên đầu bếp la to.

Một đứa trong bọn đi ra và trở vào ngay với một thanh củi đang cháy rực.

Ngọn lửa soi rõ bên trong pháo đài chứng tỏ những điều tôi lo sợ quả không sai. Bọn phản nghịch đang làm chủ nơi đây và mọi lương thực dự trữ đang bị chúng chiếm giữ. Nhưng điều làm tôi rợn người kinh hãi là chẳng thấy dấu vết nào của những tù binh. Vậy là các bạn tôi đã chết, còn tôi đã bỏ họ trốn đi!

Bây giờ chỉ còn sáu tên cướp. Năm đứa vây quanh tôi. Đứa thứ sáu đang nằm, xanh xao nhợt nhạt. Đầu hắn cuốn dải khăn bê bết máu. Con vẹt đứng trên vai Silver tiếp tục kêu không ngừng.

Mặt gã tái mét và nghiêm nghị hơn thường lệ.

Cái áo gã mặc lấm đầy vết dơ và bùn. Gã nói:

- › kìa, Jim Hawkins đến thăm chúng ta.

Thật tôi chẳng ngờ. Dẫu sao cũng rất cám ơn sự ân cần của cậu!

Gã ngồi trên thùng rượu rum, lấy tay nhồi thuốc vào tẩu.

- Các cậu cứ ngồi xuống thoải mái đi. Chắc chắn ông Hawkins sẽ tha thứ cho các bạn. Còn cậu Jim, thế là cậu đã đến đây. Thật là điều bất ngờ thú vị cho ông bạn già của cậu. Tôi vốn biết cậu là người bản lĩnh. Hồi chúng ta gặp nhau lần đầu tôi đã nói với cậu như thế. Nhưng sự có mặt của cậu ở đây làm tôi bất ngờ.

Tôi chẳng nói chẳng rằng, chỉ dựa lưng vào tường và lo lắng chờ đợi.

John Silver vẫn giữ vẻ bình tĩnh, phì phèo hút tẩu. Gã nói tiếp:

- Jim ạ, tôi xin nói thẳng với cậu. Cậu biết tôi xưa nay vẫn thương cậu. Tôi vẫn hằng mong muốn cậu theo về phe chúng tôi, mong cậu được chia một phần kho báu để một ngày kia được chết trong cảnh phong lưu. Bây giờ, cậu đã ở đây với chúng tôi cậu chớ để mất cơ hội ấy, cậu ạ.

Thuyền trưởng Smollette là một lão già đi biển giữ kỷ luật nghiêm khắc quá, cậu hãy nhớ vậy.

Ông bác sĩ cũng không hài lòng về cậu. ông gọi cậu là tên đào ngũ. Bọn họ không cần đến cậu nữa, cậu không thể trở về với họ đâu. Cậu biết điều thì hãy phục vụ theo lệnh của thuyền trưởng John Silver..Qua lời gã thuyết giảng, tôi chỉ nắm một điều này: Các bạn tôi vẫn còn sống và không bằng lòng về tôi. Lòng tôi bớt đi một gánh nặng vô cùng to lớn.

- Jim ạ, tôi cần phải lưu ý rằng cậu đang nằm trong tay chúng tôi, chúng tôi muốn làm gì mà chẳng được? Xưa nay tôi là người lịch sự, ghét nhất là những lời hăm dọa. Nếu cậu thuận theo lời đề nghị của tôi, cậu cứ nói thẳng ra. Nếu không cậu cũng cứ việc nói ra ý nghĩ của cậu, anh bạn ạ.

- Nếu tôi phải chọn, - tôi đáp lại lời y bằng giọng quả quyết, - trước tiên tôi muốn biết tại sao các ông lại ở đây thay vì các bạn của tôi.

- Tôi sẽ nói cho cậu rõ, Jim ạ. Sự thật là thế này, sáng sớm hôm qua, ông bác sĩ đến gần chúng tôi với cây cờ tỏ ý muốn thương thuyết. ông ta nói với tôi: "Này ông Silver, ông đã bị người ta phản bội. Chiếc tàu buồm đã biến mất." Suốt đêm qua, chúng tôi uống rượu quá nhiều và không nghĩ đến chiếc tàu. Chúng tôi quay nhìn về phía bến neo tàu. Chiếc Hispaniola không còn ở đó... Cậu phải biết chúng tôi đã điên đầu suy nghĩ như thế nào. Thế rồi, ông Livesey đề nghị với chúng tôi một thỏa thuận. Tôi trả lời ông ta: "Chúng tôi đồng ý điều đình". Đó là lí do tại sao chúng tôi lại ở đây trong pháo đài này cùng với tất cả lương thực dự trữ. Nhưng cậu chớ nghĩ trong thỏa thuận ký kết có nói đến phần cậu, Jim ạ. "Cầu cho quỉ tha thằng thủy thủ tập sự đi. Chúng tôi chán nó và bực bội về những lần nó bỏ trốn lắm rồi". Đó là những lời sau cùng ông bác sĩ nói với tôi.

- Thế là hết rồi phải không? - Tôi hỏi.

- Phải, tôi nói với cậu thế là hết, cậu ạ.

- Được rồi, - Tôi la lên. - Tôi biết những gì đang chờ đợi tôi. Muốn ra sao thì ra, tôi chẳng cần. Tôi đã quá nhiều lần giáp mặt với cái chết trong những ngày vừa qua nên chẳng lấy gì làm sợ lắm đâu. Hãy để tôi nói cho ông biết điều này.: tình cảnh của ông bây giờ không thể nào nhử tôi được đâu. Các ông không có tàu, không có kho báu, trơ lại năm người, nói tóm lại âm mưu của các ông đã không thành và chính tôi đã làm cho nó thất bại. Phải, tôi đã nấp trong cái thùng táo khi chúng ta đến gần, trông thấy hòn đảo. Tôi đã nghe các ông nói và thuật lại hết cho ông thuyền trưởng. Còn chiếc tàu buồm ư? Chính tôi đã cắt dây neo của nó, chính tôi đã giết lão Hands và chính tôi đã dẫn tàu đến nơi các ông sẽ không tìm ra được. Nào, cứ để tôi nói, tôi đã lèo lái mọi chuyện ngay từ lúc ban đầu. Bây giờ nếu muốn, ông cứ giết tôi đi, tôi chẳng thiết... Tôi sẽ không van xin một lời. Nếu các ông không giết tôi thì khi các ông ra tòa vì tội cướp biển, tôi sẽ bào chữa cho các ông. Hãy chọn đi! Nếu các ông giết tôi, thử hỏi các ông được lợi gì thêm? Nếu các ông để tôi sống, có thể tôi sẽ giúp các ông thoát bị treo cổ...

Đến đây, một lão thủy thủ già mà tôi đã gặp trong quán rượu của Silver tại Bristol, tên là Mor-gan nói xen vào:

- Chính nó đã nhận diện ra lão Chó Mực!

- Chưa kể chính nó đã lấy tấm bản đồ trong rương của Bill Bonne! - Silver thêm vào.

- Còn chần chờ gì nữa, để tôi giết nó cho xong. - Morgan vừa gầm lên vừa rút con dao của hắn ra.

- Khoan đã, Morgan. Anh chưa phải là thuyền trưởng. - Tên đầu bếp đáp lại gay gắt. -Xin anh hãy coi chừng đấy, anh bạn thân mến, nếu anh không muốn đi theo những kẻ tôi đã giết từ ba mươi năm nay...

Lão già dừng lại. Bọn kia cất tiếng càu nhàu.

Một đứa nói:

- Morgan nói có lý đấy.

John Cao nghiêng người về phía trước, tay phải vẫn cầm ống tẩu đang đốt, hỏi oang oang:

- Có ai trong các anh muốn chống đối tôi phải không? Có ý đồ gì, các anh cứ việc nói thẳng ra, các anh đâu có phải là câm, phải không nào?

Kẻ nào muốn kiếm chuyện với tôi sẽ biết tay tôi.

Ngày nào còn sống tôi sẽ không để một thằng đốn mạt nào dám cả gan đứng ra cản đường tôi đi từ nay cho đến lúc nhắm mắt! Các anh hiểu biết rõ các tục lệ bởi theo như các anh nói, các anh đều là những người xuất thân từ tầng lớp phong lưu... Được rồi, tôi sẵn sàng. Ai cả gan cứ việc cầm lấy con dao của mình, tôi sẽ phơi ruột của y cho các anh thấy trước khi hút hết tẩu thuốc này mặc dù tôi phải chống nạng.

Không một đứa nào nhúc nhích; không một đứa nào lên tiếng.

Silver lại đưa tẩu lên miệng và nói tiếp:

- Vậy ra các anh là hạng người như thế sao?

Nói thật, các anh đàn đúm với nhau coi bộ ăn ý lắm đó! Còn việc đấu đá, chắc chắn các anh chẳng ra gì. Nhưng có lẽ các anh đủ khả năng để hiểu người ta muốn nói gì với các anh. Tôi đã được anh em bầu làm thuyền trưởng. Tôi là thuyền trưởng của các anh vì tôi là người có trình.độ hơn xa các anh. Các anh không muốn giao chiến, những kẻ xuất thân từ tầng lớp phong lưu cũng sẽ làm vậy thôi. Như thế thì, mẹ kiếp! Các anh sẽ tuân lệnh tôi, tôi tin chắc điều ấy! Tôi mến thằng bé này, tôi chưa bao giờ thấy đứa nào xứng đáng hơn nó. Nó can trường hơn tất cả bọn nhát cáy các anh. Tôi nói cho các anh biết điều này: Không một ai được đụng đến nó, nếu không thì liệu đấy!... Phải, tôi cam đoan như thế.

Sau khi bài phát biểu này chấm dứt, mọi người im lặng một lúc thật lâu. Tôi đứng thẳng đơ, dựa người vào tường. Trống ngực tôi vẫn đập thình thịch liên hồi nhưng bây giờ tôi thấy lóe lên một tia hi vọng. Silver, đứng dựa tường, hai tay vòng lại, tẩu thuốc ngậm ở khóe môi, có vẻ bình thản như đang ở trong nhà thờ. Tuy nhiên gã vẫn không ngừng lấm lét nhìn quanh, liếc mắt trông chừng những tên đồng bọn bướng bỉnh. Bọn này từ từ kéo nhau về phía đầu kia của pháo đài. Tiếng thì thầm của chúng vang mãi bên tai tôi nghe như tiếng suối rì rào.

Thỉnh thoảng hết đứa này đến đứa kia ngẩng đầu lên, ánh đuốc đỏ hồng soi rõ vẻ mặt lo âu của chúng, nhưng chúng lo lắng nhìn về phía Sil-ver chứ không phải về phía tôi. Sau đó bọn chúng ra ngoài để bàn bạc với nhau.

- Jim ạ, cậu hãy nghe tôi nói đây. - Silver bình tĩnh nói tiếp. - Tính mạng cậu đang lâm nguy, điều ấy chắc chắn. Nhưng dù gì đi nữa tôi sẽ không bỏ rơi cậu đâu... cậu thấy đó, đã ra nông nỗi này rồi, lại còn phải bị treo cổ nữa.

Bây giờ tôi đã hiểu cậu là người rất tốt và tôi tự nhủ: "Hãy cứu Hawkins rồi Hawkins sẽ cứu lại người. ăn miếng chả, trả miếng nem. Hãy tìm cho mình một nhân chứng rồi có lẽ ngươi sẽ thoát được tội".

Tôi ngạc nhiên trước lời đề nghị ấy. Không hiểu sao tên cáo già vẫn còn giữ được một chút hi vọng?

- Tôi sẽ làm cho ông những gì trong khả năng tôi làm được. - Cuối cùng tôi nói.

- Thế là chúng ta thỏa thuận xong. - Silver la lên. - Cậu là người can trường, tôi biết mà.

Cậu sẽ thấy đâu phải tôi không biết chơi lá bài cuối cùng! Tôi đâu có ngu, đúng không nào? Bởi vậy bây giờ tôi đứng về phía nhà quí tộc. Hẳn nhiên cậu biết con tàu đang ở đâu, và đi đâu để tìm lại nó. Tôi không đòi hỏi ở cậu điều gì cả.

Tôi biết tôn trọng quyền của người khác. Nhưng cậu thử nói cho tôi hay vì lẽ gì ông bác sĩ đã trao lại cho tôi tấm bản đồ của hòn đảo nhỉ?.Điều này cũng làm cậu ngạc nhiên chứ? Tuy nhiên sự thực đúng như thế. Chắc chắn trong đó có cái gì bí ẩn...

Bọn cướp bàn với nhau đã được một lúc lâu rồi một tên trở vào pháo đài. Sau khi đứng chào đúng mực theo lễ nghi quân cách của lính thủy, hắn xin phép mang cây đuốc đi một lát. Silver đồng ý, tên kia đi ra, để lại hai chúng tôi chìm trong bóng tôi.

- Này Jim, Trời đang nổi lốc - John Cao trở giọng thân mật xởi lởi nói với tôi.

Tôi nhìn qua lỗ châu mai gần nhất. Than của bếp lửa lớn gần tàn hết, tỏa ra một thứ ánh sáng mờ mờ nên tôi hiểu tại sao bọn kia cần đến cây đuốc. Bọn chúng tụ họp nhau ở ngay giữa pháo đài và vòng rào. Một tên cầm đuốc, tên thứ hai đang quì giữa bọn chúng và tôi thấy hắn nắm trong tay một con dao đã bóc ra khỏi vỏ sáng lấp loáng dưới ánh đuốc và ánh trăng. Những đứa còn lại cúi người chồm lên hắn hình như đang quan sát hắn làm gì. Tôi chỉ trông rõ ngoài con dao ra hắn còn cầm một cuốn sách. Tôi còn đang tự hỏi làm sao chúng lại tìm ra được một vật bất ngờ như thế thì tên cướp đang quì đứng bật dậy, vụt chạy về phía pháo đài. Cả bọn lục đục chạy theo sau.

- Bọn chúng trở vào. - Tôi vừa nói vừa lui về chỗ cũ, không muốn để chúng biết tôi đang nhìn trộm sợ mất thể diện.

Silver tươi tỉnh đáp:

- Không sao! Chúng trở vào mặc chúng, cậu ạ. Tôi có chán gì cách đối phó.

Cánh cửa mở ra và năm tên cướp ùn lại trên ngưỡng cửa, đẩy một tên tới trước. Giá như mọi lúc khác thì cảnh ấy trông thật buồn cười. Hắn bước đi, hai chân rụt rè đặt từng bước trên mặt đất, bàn tay phải nắm lại và đưa ra phía trước.

- Lại gần đây, cậu em - Silver quát lớn - Tôi chẳng ăn thịt cậu em đâu. Cậu hãy đưa cái đó cho tôi! Đồ thủy thủ nước ngọt! Tôi biết rõ luật lệ; đời nào tôi lại hãm hại một người được chọn làm đại biểu.

Được khích lệ như thế, tên cướp biển vội bước nhanh sau khi đã trao tay cho John Cao một vật gì đó, hắn vội rút lui về phía đồng bọn, chân bước còn nhanh hơn ban nãy.

- Cái dấu màu đen! Tôi không tin. - Gã một chân nói. - Các anh đã moi miếng giấy này ở đâu ra? ôi thôi! Tôi hiểu rồi... Các anh đã cắt cái hình tròn này trong một cuốn Kinh thánh!.Thế là mang họa rồi! ít ra các anh sẽ bị treo cổ cả lũ...

Tên cướp khi nãy bước vào đầu tiên, lên tiếng:

- Đừng có nói nhiều, Silver. Các thủy thủ đã họp nhau, đồng lòng gởi cho ông cái dấu đen.

Vậy ông hãy nhìn xem nó viết gì trong ấy. Sau đó rồi hãy nói.

- Cám ơn anh bạn George thân mến. Tôi biết các anh am tường luật lệ. Xem nào! Chà!...

Bị tước quyền... chữ viết trông như tuồng chữ in... Chính anh viết đấy phải không George? Anh sắp trở thành nhân vật quan trọng rồi đó! Có lẽ anh sẽ được bầu làm thuyền trưởng chứ gì? Các anh đừng quên là bao giờ tôi cũng vẫn là cấp trên của các anh cho đến khi nào các anh đã trình bày hết sự bất bình của mình và tôi giải đáp xong. Trong khi chờ đợi, cái dấu đen của các anh chẳng có giá trị gì cả.

- ông đã làm hỏng bét phi vụ này. - George nói. - ông đã để kẻ thù ra khỏi pháo đài này trong lúc bọn chúng chết kẹt ở đây như sa bẫy.

Kế đến ông đã ngăn không cho bọn tôi đuổi theo bọn chúng. Bọn tôi biết cái trò bắt cá hai tay của ông. ông muốn dành cho mình một cửa thoát, sau hết, điều bất bình cuối cùng của bọn tôi là thằng bé kia.

- Có thế thôi, phải không? - Silver lạnh lùng cất tiếng hỏi.

- Vậy chưa đủ sao? - George nói. - Vì ông mà bọn tôi sẽ bị treo cổ cả lũ!

- Được rồi, bây giờ tôi xin trả lời từng điểm một. Các anh nói tôi đã làm hỏng chuyến đi chứ gì? Có chắc là tôi không? Giá các anh theo kế hoạch của tôi, giờ này tất cả chúng ta đã ở trên chiếc tàu buồm chất đầy vàng dưới hầm rồi. Các anh đã không muốn nghe lời tôi, các anh đã bắt ép tôi. Vậy lỗi tại ai? Đó là lỗi của Anderxen, lỗi của Hands và lỗi cả anh nữa George Merry ạ. Thế mà bây giờ anh dám hỗn láo đòi làm thuyền trưởng chỉ huy chúng tôi. Anh thật quá táo tợn!

Đó là tôi trả lời về nỗi bất bình thứ nhất.

Nhắc lại những chuyện đó tôi thấy ngán đến tận cổ. Còn điểm bất bình thứ tư ư? Các anh tưởng trong lúc này một con tin không có giá trị gì sao? Giết đứa bé này à? Chắc chắn là không rồi, ngu gì mà giết. Có lẽ nó là cơ may cuối cùng để chúng ta thoát nạn. Bây giờ hãy xét điểm thứ ba.

Được một bác sĩ thứ thiệt đến xem bệnh cho bọn ta mỗi ngày, các anh không thấy quí sao?.Có lẽ các anh không biết có một chiếc tàu đang trên đường đi đến đảo này. Còn về điểm thứ hai... Tại sao tôi đã điều đình với những kẻ trong pháo đài? Thì chính các anh, một lũ hèn nhát, đã nài nỉ tôi làm chuyện đó. Cái ấy các anh chán nản, hai ba ngày nữa các anh sẽ chết đói. Tuy nhiên, chuyện đó chưa đáng kể. Lý do này mới quan trọng.

Gã ném xuống đất một tờ giấy mà tôi nhận ra ngay. Đó là tấm bản đồ đã ố vàng. Tôi không thể hiểu tại sao ông bác sĩ lại cho gã tấm bản đồ ấy.

Những tên nổi loạn nhảy xổ tới tấm bản đồ như một lũ mèo vồ một con chuột, cười la như trẻ con. Chúng vui mừng còn hơn tìm được vàng.

Một đứa nói:

- Phải rồi, đó là nét chữ nguệch ngoạc của Flint. Tôi còn nhớ ông ta thường ký chữ ký đó.

- Thế này thì rất tốt. - George trả lời. -Nhưng không có tàu, làm thế nào chúng ta đi khỏi nơi đây?

- George! - Silver quát lớn - Tôi chán lắm rồi, tôi báo trước cho anh biết! Nếu anh còn nói thêm một tiếng, thì biết tay tôi. Anh đã làm mất chiếc tàu. Còn tôi đã tìm ra vàng. Ai giỏi hơn ai? Mẹ kiếp, tôi xin từ chức, nói có trời làm chứng. Các anh hãy tự chọn cho mình một thuyền trưởng khác. Tôi không gánh trách nhiệm ấy nữa đâu.

- Silver vạn tuế! - Bọn cướp la lớn. - Silver là thuyền trưởng của chúng ta!

- Chà! Thế này cũng lạ - Lão cụt chân đáp lời. - Thôi nhé, anh bạn Merry tội nghiệp ơi, rồi sẽ có ngày đến lượt anh. Anh hãy lấy làm mừng là tôi không biết thù oán...

Sự cố đến đây là chấm dứt. Mỗi người uống một chầu rượu rồi chúng tôi nằm ra đất ngủ đến tận sáng. Silver chỉ trả thù George Merry bằng cách bắt hắn đứng canh cửa, dọa rằng nếu không canh gác cẩn thận sẽ bị ăn đạn vào bụng.

Tôi thức giấc khi nghe một giọng nói sang sảng và dõng dạc phát ra từ bìa rừng, hay nói đúng hơn là tất cả chúng tôi đều thức giấc, bởi vì tôi thấy ngay cả tên đứng gác nãy giờ dựa mình vào cánh cửa thiêm thiếp ngủ cũng đột ngột đứng lên.

Tiếng la cất to.

- Bớ những người trong pháo đài! Bác sĩ đến đây!.Quả đúng đó là ông bác sĩ. Mặc dù nghe giọng của ông tôi lấy làm mừng nhưng niềm vui không trọn vẹn. Tôi đỏ mặt xấu hổ nhớ lại việc mình đã bất tuân kỷ luật và đã trốn đi. Nghĩ đến những nguy hiểm đã làm tôi chạy trốn, những người bạn đồng hành tôi đã gặp, tôi cảm thấy sẽ không dám nhìn thẳng mặt ông.

Chắc hẳn bác sĩ đã thức dậy từ khuya vì lúc này trời chưa sáng hẳn. Khi chạy tới một lỗ châu mai và nhìn ra ngoài, tôi thấy ông đứng trong làn sương mù là là trên mặt đất ngập đến đầu gối, giống Silver vào hôm y đến thương lượng.

- Thì ra là ông, bác sĩ! - John cao kêu lên, mặc dù vừa thức dậy nhưng giọng rất tỉnh táo và tỏ vẻ hết sức thân ái. - Xin chúc mừng ông!

Rõ ràng trông ông thật tươi tắn và thoải mái lúc sáng sớm. Tục ngữ có câu: "Chim dậy sớm bắt được mồi ngon." George, nhanh nhảu lên một chút coi nào. Hãy đỡ bác sĩ leo qua vòng thành đi. Tất cả các bệnh nhân của ông đều khỏe cả...

Bọn họ đang trong tình trạng tiến triển khá và đầy hứa hẹn.

Gã đứng nói như vậy trên đỉnh gò, một tay chống nạng, một tay vịn vào thành pháo đài. Qua giọng nói, thái độ và nét mặt, gã giống hệt như John cao ngày trước.

- Thưa ông, chúng tôi có một điều ngạc nhiên dành cho ông. Gã nói tiếp. - Đó là một vị khách nhỏ bé... hừ, hừ... một người mới đến xin trọ rất ư khỏe mạnh. Cậu ta đã ngủ li bì bên cạnh lão John... cả đêm, hai chúng tôi nằm sát bên nhau.

Lúc ấy, bác sĩ Livesey đã vượt qua vòng rào, đến đứng gần gã đầu bếp. Tôi nghe ông hỏi lạc cả giọng:

- Có phải Jim không?

- Đúng như vậy; Jim bằng xương bằng thịt.

Ông bác sĩ ngưng bặt không nói một lời, có đến mấy giây sau ông vẫn đứng ngây người không nhúc nhích. Cuối cùng, ông chậm rãi lên tiếng:

- Thôi được rồi. Làm nhiệm vụ trước đã, chuyện đó tính sau, hẳn anh cũng thường nói thế.

Chúng ta hãy thăm các bệnh nhân xem sao.

Một lát sau, ông đi vào pháo đài. Sau khi gật đầu chào tôi với vẻ nghiêm khắc, ông bắt đầu săn sóc cho các con bệnh. Tuy ông cũng biết đứng giữa bọn quỉ gian manh ấy, tính mạng của ông ngàn cân treo sợi tóc, nhưng có vẻ như ông chẳng chút gì sợ sệt. ông nói với các "thân chủ" của mình như trong một buổi đến thăm bệnh.bình thường tại một gia đình người Anh hiền hòa.

Tôi nghĩ thái độ của ông đã ảnh hưởng đến bọn cướp vì bọn chúng xử sự với ông như thể không có điều gì xảy ra: như thể chúng vẫn là những thủy thủ trung thành trước mặt ông bác sĩ trên tàu.

- ‰m cả rồi, anh bạn ạ. - ông nói với tên đầu quấn băng. - Anh có thể tự hào đã may mắn thoát chết. Còn George, sáng nay đã khá chưa?

Lá gan của anh chắc bị lộn phèo vì mặt anh vàng dữ quá.

Anh đã uống thuốc chưa? Các anh thấy không, đây là một vấn đề danh dự buộc tôi không được để mất người nào trên giá treo cổ.

Bọn cướp nhìn nhau như không tên nào lên tiếng.

Ông bác sĩ nói tiếp:

- Các anh thật đúng là ngu như lừa. Các anh khờ đến nỗi không thích không khí tốt lành hơn là không khí tù đọng của chốn đầm lầy hay sao?

Tất cả các anh sẽ khó lòng thoát khỏi cái bệnh sốt rét nơi này! Còn anh Silver, tuy anh không đến nỗi khờ như mấy anh kia, nhưng hình như anh cũng chẳng có ý niệm gì về vệ sinh cả!

Nói xong, ông phát cho bọn cướp một thứ thuốc mà chúng phải nhăn nhó mặt mày mới nuốt trôi.

- Thôi, hôm nay thế là đủ. - ông Liversey nói thêm. Bây giờ vui lòng cho tôi nói đôi lời với cậu bé kia, được chứ?

- Thưa bác sĩ, - Silver nói giọng hết sức lịch sự. - Tôi đã nghĩ đến việc dành cho bác sĩ niềm vui đó, bởi vì tôi biết ông yêu cậu ta. Hawkins, cậu hãy hứa với tôi là cậu sẽ không đột ngột bỏ chúng tôi mà đi nhé!

Tôi vui vẻ hứa như lời gã đòi hỏi.

Tên đầu bếp cáo già nói tiếp:

- Thưa bác sĩ, ông hãy đi ra tận bìa rừng kia.

Tôi sẽ dẫn cậu bé đến với ông, ở đó hai người có thể chuyện trò thoải mái.

Ông Liversey vừa đi khỏi, mấy tên kia sừng sộ với John Silver. Bọn chúng kết tội gã chơi trò hai mặt và hành động chỉ riêng cho bản thân, hi sinh lợi ích của đồng bọn.

Chiến thắng tối hôm qua đã giúp Silver thêm tăng uy thế. Gã quát to:

- Trời đất ơi, đến khi cần chúng ta sẽ xóa bỏ thỏa ước. Nhưng trong thời gian chờ đợi, chúng ta hãy làm cho ông bác sĩ thấy vui lòng....Gã bước ra, một tay chống nạng, tay kia đặt lên vai tôi, bỏ lại đồng bọn đang bối rối, lặng thinh vì thấy gã nổi giận hơn là vì nghe gã nói có lí.

Chúng tôi đi xuống phía ông Livesey đang đợi tôi. Silver lùi lại khá xa để không còn nghe được chúng tôi nói chuyện. Gã vừa ngồi trên một thân cây vừa huýt sáo miệng. Thỉnh thoảng gã ngoái cổ nhìn bọn côn đồ vô kỷ luật của gã đang đi tới đi lui phía trước pháo đài.

- Hóa ra là cậu, Jim - ông Livesey buồn bã nói. - Tôi chẳng nỡ lòng trách cậu. Tuy nhiên có một điều tôi buộc lòng phải thừa nhận: Giá như thuyền trưởng Smollette không bị thương, cậu đã không bao giờ bỏ trốn... Điều đó làm tôi buồn về phẩm hạnh của cậu.

Tôi òa khóc nức nở.

- Bác sĩ ơi, chính cháu cũng tự trách mình nhiều lắm. Cháu phải trả giá đắt cho lỗi lầm của mình và nếu không có Silver che chở chắc cháu đã chết rồi. Có lẽ y sẽ không thể che chở cháu lâu thêm nữa. Nếu đáng chết thì cháu sẽ chịu chết... Nhưng cháu sợ một điều duy nhất, là sự tra tấn...

- Jim à, - ông bác sĩ nói giọng khác hẳn, -hã y đưa tay cho tôi nắm rồi chúng ta chuồn thật nhanh.

- Không được đâu. - Tôi trả lời. - Cháu đã trót hứa mất rồi.

- Phải, tôi biết vậy. Nhưng biết sao bây giờ?

Tôi không thể để cậu lại đây, tôi không đành lòng. Nào, lại đây...

- Không! - Tôi đáp lại. - Vào địa vị cháu, chính ông cũng sẽ không làm vậy. ông thuyền trưởng lẫn ông Trelawney cũng sẽ không làm thế.

Cháu đã hứa. Cháu sẽ giữ lời. Nếu bọn chúng tra tấn cháu, cháu sẽ nói chiếc tàu buồm đang ở đâu.

- Chiếc tàu buồm! - ông Livesey rú lên.

Tôi kể nhanh cuộc phiêu lưu cho ông bác sĩ nghe.

- Cậu đã nhiều lần cứu mạng chúng tôi. Cậu đã phát hiện âm mưu của bọn cướp, cậu đã tìm thấy Ben Gunn, cậu đã đưa chiếc tàu buồm vào nơi trú ẩn. Lẽ nào chúng tôi từ chối không cứu cậu. Lẽ nào phụ công của cậu, hỡi cậu bé đáng thương. - ông gọi lớn - Silver! Silver!

Khi tên đầu bếp đến gần, ông nói tiếp:.- John ạ, tôi xin khuyên ông một điều rất có lợi: ông chớ quá vội đi tìm kho báu.

- Nói thật, thưa ông, tôi muốn cố gắng hết mình, nhưng điều ấy chắc chắn không được đâu.

Đành thất lễ với ông, việc đi tìm kho báu chính là cách duy nhất để có thể cứu mạng tôi và cậu bé này. Xin ông biết cho.

- Nếu vậy, tôi nói thêm cho anh rõ: Khi tìm thấy kho báu, anh phải đề phòng bất kỳ nguy hiểm nào!

- Thưa ông, thẳng thắn mà nói hình như ông chưa nói rõ mọi chuyện đến nơi đến chốn. Mục đích các ông muốn gì, tại sao các ông bỏ pháo đài mà đi và tại sao các ông lại cho tôi tấm bản đồ? Tôi hoàn toàn chẳng hiểu gì cả. Tuy nhiên, tôi đã nhắm mắt theo lời các ông, mà có hề nghe một lời kì vọng nào đâu! Nhưng lần này, thế là hơi quá đáng. Nếu ông không chịu nói thẳng cho tôi biết rõ sự tình, tôi sẽ bỏ quyền chỉ huy ở đây.

Ông bác sĩ có vẻ nghĩ ngợi và nói:

- Không, tôi không được quyền nói rõ hơn nữa. Silver, anh không thấy sao, đó không phải là bí mật của tôi; nếu là bí mật của tôi, tôi cam đoan sẽ nói cho anh hay. Tuy nhiên biết đến đâu tôi sẽ nói đến đó, rõ hơn một chút cũng được, nhưng chắc tôi sẽ bị ông thuyền trưởng mắng nhiếc hoặc tôi nói nhầm mất cả! Trước hết, tôi sẽ cho anh một chút hi vọng: nếu cả hai chúng tôi thoát ra khỏi cái bẫy người này mà còn sống, tôi sẽ cố gắng hết sức để cứu anh, ngoại trừ việc làm chứng gian.

- Thưa ông, giá ông là mẹ tôi, chắc hẳn ông cũng không thể nói rõ hơn! - Tên đầu bếp thốt lên, mặt mày rạng rỡ.

- Đó là điều thứ nhất tôi hứa giúp anh, còn điều thứ hai, tôi khuyên anh như vầy: hãy giữ cậu bé này bên cạnh anh và khi nào anh cần người đến cứu thì hãy gọi to lên. Tôi sẽ đi kiếm anh, như vậy chứng tỏ cho anh thấy rằng tôi không nói hão đâu. Thôi, tạm biệt Jim.

Nói xong, bác sĩ Livesey siết tay tôi qua vòng rào, gật đầu với Silver một cái rồi nhanh chân tiến vào khu rừng..

10. Truy tìm kho báu

Khi chỉ còn hai chúng tôi với nhau, Silver nói:

- Jim à, tôi đã cứu sống cậu và cậu đã cứu mạng tôi. Chuyện đó tôi sẽ không quên. Tôi đã thấy ông bác sĩ ra dấu bảo cậu trốn... Phải, tôi đã liếc mắt trông thấy ông ta và tôi đã thấy cậu từ chối, rõ ràng tôi nghe tiếng cậu. Jim ơi, cậu làm như vậy là rất đáng khen. Từ khi thất bại đến nay, tôi vừa mới thấy được tia hi vọng đầu tiên và được thế cũng là nhờ cậu. Bây giờ, Jim ạ, chúng ta sắp bắt đầu lên đường đi tìm kho báu và hơn nữa phải đi theo những mệnh lệnh bí mật, điều này tôi chẳng thích thú gì. Tôi và cậu, chúng ta không được rời nhau một bước; phải ở sát cánh bên nhau và mặc cho số phận run rủi chúng ta sẽ vẫn giữ được tính mạng.

Ngay lúc đó, một tên cướp trong bọn lớn tiếng gọi chúng tôi báo cho biết bữa ăn đã chuẩn bị xong. Tôi chẳng muốn ăn chút nào. Còn bọn cướp ăn ngấu nghiến ngon lành và mừng vui hí hửng nghĩ đến số tiền to lớn chúng sắp bỏ túi.

Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi bọn họ đã lấy lại được khí sắc vui vẻ. Về phần tôi, tôi vô cùng thất vọng. Nếu kế hoạch Silver vừa mới phác họa có vẻ thực hiện được, tên đầu bếp vốn đã hai lần phản trắc tất sẽ không ngần ngại dở cái trò cũ ấy. Bên nào gã cũng có lợi và có lẽ gã thích của cải, sống tự do với bọn cướp biển, hơn là khả năng có thể thoát khỏi án treo cổ (viễn tưởng duy nhất do bên phe chúng tôi hứa hẹn cố gắng giúp gã).

Vả lại cho dù y bắt buộc phải giữ lời hứa với bác sĩ Livesey, trước mặt chúng tôi còn biết bao nguy hiểm! Một khi đồng bọn của gã biết chắc chắn gã đã phản bội như chúng nghĩ thì bấy giờ chúng tôi phải chiến đấu để giữ mạng sống. Giờ phút đó kinh hoàng biết bao vì bên chúng tôi chỉ có một người tàn tật như gã và một đứa bé con như tôi làm thế nào chống lại năm tên thủy thủ khỏe mạnh và cương quyết!

Ngoài hai điều lo sợ ấy lại còn việc bí ẩn trong cách xử sự của các bạn tôi: Không hiểu sao.họ lại bỏ pháo đài mà đi, không giải thích được việc họ giao lại tấm bản đồ cho Silver. Điều làm tôi khó nghĩ hơn hết là lời cảnh báo sau cùng của ông bác sĩ nói với tên đầu bếp: "Khi tìm thấy kho báu, hãy đề phòng bất trắc." Bởi thế tôi ăn bữa cơm sáng chẳng thấy ngon và lòng tôi bồn chồn không yên khi ra đi tìm kho báu, dưới sự kèm cặp của chúng.

Nếu có ai nhìn thấy cảnh chúng tôi hôm ấy ắt phải lấy làm lạ. Đứa nào đứa ấy mặc quần áo thủy thủ lấm lem bẩn thỉu và trừ tôi ra, tất cả đều mang vũ khí đầy người. Silver đeo hai khẩu súng trường lòng thòng, một ở trước ngực, một ở sau lưng và để trong mỗi túi áo vạt vuông một khẩu súng lục.

Ngoài cách ăn mặc kỳ cục, y còn đem thêm con vẹt "thuyền trưởng Flint" đậu trên vai, chốc chốc nó lại tuôn ra mấy câu lảm nhảm đầu Ngô mình Sở liên quan đến biển. Tôi bị cột một sợi thừng ngang lưng để đi ngoan ngoãn theo tên đầu bếp. Khi thì ngã nắm chắc đầu dây trong tay. Khi thì gã cắn nó giữa hai hàm răng. Trông gã dẫn tôi đi giống hệt như đang dẫn một con gấu của phường xiếc.

Bọn kia khuân theo nhiều thứ: một số vác cuốc xẻng (đây là những món đầu tiên chúng mang từ tàu Hispaniola lên bờ); mấy đứa khác mang theo thịt heo, bánh quy và rượu mạnh để ăn trưa. Nhìn thấy toàn bộ thực phẩm vốn là những thức ăn dự trữ của chúng tôi, tôi mới hiểu lời Silver nói đêm hôm trước là đúng. Nếu gã không điều đình với ông bác sĩ, gã và bọn phản loạn sau khi đã mất tàu sẽ phải sống bằng nước lã và những gì chúng săn bắn được. Nước lã ắt không hợp khẩu vị của bọn chúng và thủy thủ hiếm khi biết bắn giỏi. Vả lại nếu đã cạn lương thực thì chắc bọn chúng không còn mấy thuốc súng.

Cả đoàn cứ như vậy cùng đi, chúng tôi tiến từ từ theo lệnh của Silver để khỏi kiệt sức trước khi đến nơi. Sau khi đi được chừng nửa dặm thì bỗng nhiên từ giữa đám cây sừng sững trước mặt chúng tôi vang lên một giọng nói lanh lảnh, run run hát bản nhạc quen thuộc:

Bọn họ có mười lăm thủy thủ.

Trên chiếc rương của người chết Mười lăm lính thủy, mười lăm thủy thủ Dô ô ô! Dô ô ô!

Chưa bao giờ tôi thấy bọn cướp biển khiếp hãi đến như thế khi chúng nghe giọng hát ấy.

Morgan nhào sấp mặt xuống đất. Tất cả im lặng, tái mét và run rẩy..- Đúng là Flint rồi! - George Merry nói lầm thầm không ra hơi.

Bài hát đột nhiên ngưng lại. Silver cố gắng hết sức mới mấp máy được cặp môi nhợt nhạt và nói:

- Nào, tất cả đứng lên! Chúng ta hãy xem cho rõ thực hư như thế nào. Có thể đó chỉ là tiếng nói của một tên nào đó muốn bỡn cợt...

- Cho một ly rum! - Giọng nói run run lại cất lên - Darby Mac-Graw! Darby Mac-Graw!

Bọn cướp đứng chôn chân tại chỗ, mắt mở thao láo. Morgan lên giọng rành rẽ:

- Đó là những lời cuối cùng Flint nói trước khi nhắm mắt.

Đứa nào đứa nấy răng đánh cầm cập. Silver cũng run. Nhưng y cố trấn tĩnh nói tiếp:

- Trên đảo này không thể có ai nghe nói đến Darby Mac-Graw, không ai ngoại trừ chúng ta!

Này các bạn, tôi đến đây để tìm kho báu, dù người hay quỷ cũng không làm tôi lùi bước. Khi lão Flint còn sống tôi còn chẳng sợ. Nay hắn chết rồi còn sợ quái gì... Cách đây một phần tư dặm có đến bảy ngàn quan đang nằm đó, các bạn chớ quên điều ấy...

- Đúng như vậy! - Merry nói - Silver, anh quả là người rất tỉnh táo khôn ngoan. Bây giờ bình tĩnh nghĩ lại, tôi nghe nó hơi giống tiếng của Flint nhưng có điều không được oai vệ bằng, nghe như tiếng của một ai khác thì đúng hơn, như tiếng của...

- Của Ben Gunn! Đúng rồi, mẹ kiếp, còn ai vào đây nữa! - Silver xen ngang.

- Phải đấy, đó là tiếng của Ben Gunn - Mor-gan đứng dậy kêu to.

Tôi kinh ngạc thấy chúng lấy lại can đảm rất nhanh và trở nên tươi tắn như thường. Chẳng mấy chốc, chúng lại bắt đầu nói chuyện, thỉnh thoảng ngừng câu chuyện lại để lắng tai nghe ngóng. Một lúc sau, không còn nghe tiếng gì nữa, chúng vác dụng cụ lên vai rồi tiếp tục lên đường.

Merry đi đầu, cầm theo cái la bàn của Silver để nhắm đường đi thẳng đến đảo Hòn Cốt. Y đã nói lên sự thật: dù Ben Gunn còn sống hay đã chết cũng không ai quan tâm đến anh ta.

Duy chỉ có một mình Dick lúc nào cũng lè kè cuốn Kinh thánh và đưa mắt nhìn quanh sợ sệt. Nhưng chẳng ai ưa hắn, cả Silver cũng ra mặt chế nhạo tính cẩn thận của hắn.

- Tôi đã bảo là cậu đã làm hư cuốn Kinh thánh rồi. Quyển ấy đem dùng để thề nguyền.còn chẳng được, làm sao anh mong nó đủ linh thiêng để xua tà đuổi quỷ? Nó đâu còn giá trị gì nữa!

Rồi gã ngừng lại một lát, tựa người trên nạng, bẻ những đốt ngón tay to mập của mình kêu răng rắc.

Nhưng Dick vẫn không lên tinh thần được.

Tôi biết ngay là hắn đang ngã bệnh. Trong tình trạng nóng nực, kiệt sức và bị tác động bởi một số triệu chứng, cơn sốt được bác sĩ Livesey tiên đoán có lẽ đã nhập vào người hắn và trở nên càng ngày càng nặng.

Silver chống nạng đi tập tễnh, miệng càu nhàu. Lỗ mũi gã thở phập phồng. Gã chửi thề như một thằng điên khi ruồi nhặng đậu lên khuôn mặt đang bị nắng cháy và nhầy nhụa mồ hôi của gã. Gã kéo sợi dây thừng đang buộc tôi với gã một cách thô bạo, thỉnh thoảng lườm mắt nhìn tôi với vẻ độc ác. Chỉ cần nhìn qua là biết ngay tâm địa gã vì gã chẳng còn thèm giấu giếm ý nghĩ trong đầu. Gần đến kho báu, gã liền quên hết mọi chuyện; lời gã hứa hẹn và lời cảnh báo của ông bác sĩ bây giờ thuộc về dĩ vãng. Tôi dám chắc gã đang mong chiếm được kho báu, tìm lại được con tàu Hispaniola, thừa lúc tối trời sẽ giết hết những người lương thiện trên đảo rồi sau đó ra khơi theo dự tính của gã lúc ban đầu là chiếm lấy của cải và không từ tội ác.

Khi đến gốc cây cao lớn đầu tiên, bọn chúng xác định vị trí của nó nhưng không phải. Cây thứ hai cũng không. Cây thứ ba mọc cao chưa đến sáu chục thước giữa một khu rừng rậm.

- Nào các bạn, chạy mau lên! - Merry la lớn.

Những tên đi trước chúng tôi ùa nhau lao tới. Chúng vừa chạy mươi bước thì đột ngột dừng lại. Silver chống nạng lóc cóc chạy đến như một tên khùng.

Dưới chân chúng tôi là một miệng hố rộng.

Dưới hố có một cán mai và các mảnh ván của nhiều thùng gỗ. Trên một mảnh ván có ghi hàng chữ lớn khắc bằng sắt nung đỏ có tên Walrus, là tên chiếc tàu của Flint.

Chúng tôi đến quá muộn mất rồi! Kho báu đã có người khám phá và lấy đi hết. Bảy trăm ngàn quan tiền không còn ở đó nữa.

Sáu tên cướp ngây người sững sờ như sét đánh ngang tai. Tuy nhiên chỉ cần một giây sau, Silver đã bình tĩnh lại. Y bảo tôi:

- Jim, cậu cầm lấy khẩu súng lục này và đề phòng chúng làm loạn!.Ngay lúc đó, gã bước giạt qua phía tay phải và sau bốn bước nhảy giữa chúng tôi và đồng bọn của gã đã được ngăn cách bởi cái hố.

- Thế là chúng ta nguy đến nơi rồi. - Gã nói với tôi giọng vẫn thân mật.

Thấy con người gã luôn luôn thay đổi, tôi tức giận không sao nhịn được. Nhưng tôi vẫn thận trọng không trả lời một tiếng. Mấy tên kia chửi thề, la hét. Merry gào lên:

- Bảy trăm ngàn quan tiền của ông đó phải không sếp? Kết quả của bao nhiêu kế hoạch đẹp đẽ của ông là như thế đấy.

Lần này tất cả đều đứng về phe Merry. Vậy là chúng tôi một bên hai, một bên năm. Giữa hai bên là cái hố. Không ai quyết định gây sự trước.

Silver không nhúc nhích, chống nạng đứng thẳng người, quan sát địch thủ, vẫn giữ nguyên bình tĩnh. Rõ ràng gã là đứa gan dạ. Đột nhiên...

Đùng!... Đùng!... Đùng!... Ba phát súng nổ vang trong rừng cây bên cạnh. Merry và tên cướp buộc băng trên đầu ngã nhào xuống hố, trúng đạn tử thương. Ba tên kia quay đầu bỏ chạy không kịp kêu một tiếng nào.

Ngay lúc đó, ông bác sĩ, Ben Gunn và Gray từ cánh rừng xuất hiện, chạy đến với chúng tôi.

Ông bác sĩ la lớn:

- Chúng ta phải truy kích, ngăn ba tên khốn nạn ấy chạy đến những chiếc thuyền.

Chúng tôi vội vã chạy băng qua rừng cây, lủi trong cỏ cao ngập lên đến tận vai. Silver gồng hết sức mình để chạy theo chúng tôi. Thế là bây giờ gã thiết tha muốn ở lại với chúng tôi! Chẳng mấy chốc chúng tôi đến mé bãi cát nổi giữa biển.

- Bác sĩ nhìn kìa! - Tên đầu bếp nói lớn. -Chúng ta không cần phải vội.

Trong một khoảng rừng trống, chúng tôi thấy rõ ba tên đào tẩu đang chạy về phía vịnh Mât-de-Misaine. Chúng tôi đã ở giữa khoảng đường từ chỗ bọn chúng đến những chiếc thuyền.

Vậy là chúng tôi có thể ngồi nghỉ lấy hơi.

- Này, Ben Gunn. Lúc già, anh đã trở thành kẻ làm hề cho mọi người vui rồi! - Silver nói, vừa đưa tay lau trán và mỉm cười.

- Phải, chính tôi là Ben Gunn đây. - Người trên đảo đáp.- Thế nào, ông mạnh giỏi chứ, ông Silver?

- Chà! Ben, anh chơi xỏ tôi đến thế là cùng!

Ông Livesey bèn thuật lại những gì đã xảy ra. Trong những lúc đi lang thang, một hôm Ben Gunn đã phát hiện ra kho báu nhờ dấu chôn còn trông thấy khá rõ. Anh đã đào xới cái hố bằng.cái cán mai chúng tôi thấy lúc nãy ở dưới đáy hố. Sau đó anh chuyển dần từng ít một cho đến khi hết kho báu vào trong một cái hang anh đã tìm thấy được qua những lần dạo thơ thẩn trên đảo. Số vàng của Flint đã nằm ở hang này hơn ba tháng trước khi tàu Hispaniola đến gần đảo.

Ông bác sĩ đã tìm mọi cách làm Ben Gunn tiết lộ bí mật ấy vào buổi chiều ngay sau khi bọn cướp tấn công pháo đài. ông cũng lo tính chuyện phải sớm rời xa địa điểm độc hại trước khi bệnh sốt rét xuất hiện. Việc chiếc tàu biến mất, mong muốn được đến gần kho báu để bảo vệ nó, sự tin chắc Ben Gunn đã tích trữ nhiều lương thực trong chỗ ẩn náu của anh, tất cả những điều ấy khiến ông Livesey quyết định nhường tấm bản đồ kể từ nay đã thành vô dụng và bỏ đi khỏi pháo đài.

Ngày hôm ấy, biết thế nào tôi cũng phải vướng vào cơn thịnh nộ ghê gớm của bọn phản loạn nên ông đã phái Ben Gunn đi trinh sát.

Chúng tôi đến bên những chiếc thuyền nhỏ.

Ông bác sĩ dùng mai đập mạnh phá hư một chiếc.

Rồi chúng tôi lên chiếc kia chèo ra biển để đến bờ vịnh phía bắc. Chuyến đi vượt qua khoảng chín mười hải lý. Mặc dù đã mệt nhoài nhưng Silver vẫn cầm một mái chèo như mấy người khác và chiếc thuyền lướt tới nhẹ nhàng trên mặt biển phẳng như gương.

Cách vịnh chừng ba hải lý, chúng tôi đã trông thấy tàu Hispaniola đang lênh đênh trên biển một mình vì thủy triều đã đưa nó nổi lên. Chúng tôi leo lên tàu, lục tìm một cái neo tạm ở đáy hầm.

Tất cả mọi việc đều làm nhanh trong chốc lát.

Sau đó chúng tôi bơi thuyền trở lại Vũng Rhum, điểm nằm gần cái hang của Ben Gunn nhất.

Nhà quý tộc đang đợi chúng tôi trên đỉnh con dốc thoai thoải chạy từ bãi cát đến miệng hang. Đối với tôi ông tỏ ra ân cần thân ái và không nói ra một lời trách móc hay một tiếng khen ngợi nào về việc tôi bỏ trốn. Nhưng thấy Silver chào ông một cách lễ phép, ông nổi giận đỏ mặt, nói dõng dạc:

- John Silver, anh là một thằng đểu cáng đê tiện và là một tên dối trá... một tay điếm đại bợm anh biết không? Người ta đã yêu cầu tôi đừng đưa anh ra tòa, vậy tôi sẽ tha cho việc ấy.

Nhưng những người đã chết sẽ chẳng khác gì những viên đá treo vào cổ anh, ám ảnh anh suốt đời.

- Tôi chân thành đội ơn ngài. - John cao lại cúi chào lễ phép nói..Nhà quý tộc la lớn:

- Tôi cấm anh không được cám ơn tôi! Tôi đã trở thành kẻ mang tội vì đã có những thiếu sót nghiêm trọng. Hãy lui ra!

Nhà quý tộc nói xong, tất cả chúng tôi vào trong hang. Hang rộng rãi, rất thông thoáng, có một dòng suối chảy qua và một đầm nước trong chung quanh mọc đầy dương xỉ. Mặt đất toàn là cát. Thuyền trưởng Smollett đang nằm dài trước một bếp lửa lớn. Trong một xó khuất mờ mờ dưới ánh sáng bập bùng của ngọn lửa, tôi trông thấy những đống tiền lớn và vàng thỏi chất thành những chồng vuông vức. Đó là kho báu của Flint mà chúng tôi đã phải vượt qua bao nhiêu dặm đường để đến đây tìm kiếm và nó đã làm mất đi mười bảy mạng người trên tàu Hispaniola.

Trước khi được tìm ra, nó đã giết chết biết bao nhiêu cuộc đời, làm đổ biết bao nhiêu máu và nước mắt, bao chiếc tàu xinh đẹp đã bị đánh đắm giữa biển khơi, bao nhiêu thủy thủ dũng cảm phải chịu cực hình bám vào tấm ván lênh đênh trên mặt nước, bao nhiêu phát đại bác bắn ra, bao nhiêu tủi nhục, dối trá và tàn bạo kể không sao xiết. Thế nhưng trên hòn đảo này vẫn còn lại ba người: Silver, lão già Morgan và Ben Gunn.

Chúng đã nhúng tay vào các tội ác ấy, vậy mà vẫn vừa hi vọng hão huyền được chia phần kho báu vừa tìm ra.

- Vào đây, Jim. - ông thuyền trưởng bảo tôi.

- Cậu là một người can đảm, can đảm theo kiểu của cậu. Nhưng tôi không tin rằng chúng ta có thể đi biển chung với nhau. Tôi thấy cậu đúng là đứa con được nuông chiều thái quá. Kìa, John Silver, anh lại có mặt ở đây ư? Sao anh đến đây?

- Tôi trở về đảm trách công việc cũ, chủ tướng ạ.

- à ra thế! - ông thuyền trưởng chỉ đáp lời như vậy.

Tối hôm ấy, tôi được ăn một bữa ngon lành với đông đủ các bạn: chúng tôi cùng ăn thịt dê muối của Ben Gunn, chén một ít bánh kẹo và dùng một chai rượu vang lâu năm lấy từ tàu His-paniola!

Tôi chắc chắn không bao giờ có một buổi họp mặt nào vui vẻ và sung sướng hơn thế.

Silver cũng tham gia với chúng tôi, nhưng ngồi tách riêng một chỗ khuất trong bóng tối. Gã ăn uống ngon lành, luôn sẵn sàng chạy vội đi lấy bất cứ thứ gì chúng tôi cần, ngay cả khi thấy chúng tôi cười, gã cũng cười theo một cách kín đáo. Tóm lại, gã vẫn là một Silver như cũ, một kẻ hòa nhã, lễ phép, khúm núm mà chúng tôi đã gặp trước đây trong lúc lênh đênh trên biển..Ngày hôm sau, sớm tinh mơ, chúng tôi bắt tay vào công việc ngay bởi vì với một số người ít ỏi như vậy, việc chuyển vận một khối lượng vàng đồ sộ đó xuống tàu Hispaniola chẳng phải là chuyện nhỏ.

Có những đống tiền đủ loại, đủ kiểu, hình dáng khác nhau. Về số lượng thì nhiều đến nỗi các ngón tay tôi đếm mãi đến tê dại. Công việc kéo dài nhiều ngày. Mỗi buổi chiều chúng tôi tải một số của cải lên tàu, ngày mai lại có một số khác đang chờ chúng tôi trên đảo.

Một tối kia, khi ông bác sĩ đang đi dạo với tôi trên sườn đồi, chúng tôi chợt nghe trong gió vẳng lên một điệu hát, gần giống một tiếng kêu.

Rồi mọi vật lại rơi vào im lặng.

Ông Livesey bảo:

- Những kẻ phản loạn khốn khổ ấy mà, cầu Chúa tha tội cho chúng!

- Bọn chúng say. - Silver đáp.

- Say hoặc mê sảng vì sốt rét.

- Say hay mê, đằng nào cũng thế thôi!

Ông bác sĩ nói tiếp một cách mỉa mai:

- Này thầy Silver, tôi đánh giá rất thấp về lòng nhân đạo của ông đấy. Nếu tôi biết chắc bọn chúng mê sảng, cam đoan với ông là tôi sẽ đến săn sóc những kẻ đáng thương ấy.

- Thưa bác sĩ, ông đã lầm. Bác sĩ sẽ bỏ mạng ở đó, chắc chắn là như vậy, trong khi mạng ông quý hơn mạng chúng. Chúng không biết giữ lời hứa đâu. Thậm chí chúng sẽ không bao giờ hiểu được tại sao ông lại giữ lời hứa của ông.

- Câu nói ấy cũng thích hợp với anh quá chừng. Anh đã cho chúng tôi thấy anh giữ lời hứa ra sao rồi.

Một cuộc họp được tổ chức để quyết định số phận của những kẻ phản loạn và chúng tôi quyết định bỏ chúng lại trên đảo - Ben Gunn vô cùng vui sướng.

Kho báu đã được đem xuống tàu. Một buổi sáng đẹp trời, chúng tôi nhổ neo, chỉ có ba người quay trục nên rất khó khăn. Bỏ lại ba kẻ phản loạn trên đảo chúng tôi thấy đau lòng nhưng chúng tôi không thể liều lĩnh để xảy ra một vụ nổi loạn thứ hai nữa.

Chúng tôi không thể tính chuyện trở về Bris-tol nếu không có một đoàn thủy thủ mới. Vì thế chúng tôi đi về phía bờ biển gần nhất, ở Nam Mỹ. Mặt trời lặn xuống gần chân trời khi chúng tôi quăng neo tại một vịnh xinh đẹp. ông Tre-.lawney và ông bác sĩ dắt tôi lên bờ. Khi chúng tôi trở lại tàu Hispaniola thì trời đã sáng rõ.

Ben Gunn đang đứng gác trên boong. Với sự thông đồng của y, Silver đã bỏ đi bằng một chiếc xuồng ở cảng. Y thề với chúng tôi y thuận tình để tên kia trốn đi cốt là để tính mạng chúng tôi được an toàn. Nhưng kẻ một chân ấy không phải đã trốn đi tay không. Hắn đã đục vách ngăn lấy được một túi vàng chứa đến tám hoặc mười ngàn ghinê, nói là để làm lộ phí! Nói cho cùng, chúng tôi cũng cảm thấy hài lòng khi tống khứ được gã.

Đó là sự kiện quan trọng cuối cùng xảy ra trong chuyến đi. Chúng tôi bổ sung người cho đoàn thủy thủ không khó khăn gì. Gió thổi thuận chiều. Chúng tôi cập bến ở Bristol, đem lên bờ kho báu gần như nguyên vẹn. Trong số những người ra đi tìm nó, chỉ có năm kẻ trở về bến cảng.

Theo những điều khoản quy định trước lúc ra đi, Nhà nước và người nghèo được chia phần trước tiên. Rồi sau đó, mỗi người chúng tôi nhận lĩnh phần mình.

Thuyền trưởng Smollett bị vết thương hành mãi. ông lui về sống gần Bristol. Gray bây giờ là thuyền phó của một chiếc tàu hai buồm có phần hùn của anh. Ben Gunn nhận phần mấy ngàn quan rồi đem ra ăn uống hay đánh mất chỉ trong vòng ba tuần lễ. Nhà quý tộc, chủ lâu đài giao cho y một chân gác rừng. Đó là một công việc y đã từng rất sợ khi tôi gặp y ở trên đảo.

Bây giờ y vẫn còn sống và rất được người trong vùng yêu mến. Không ai còn nghe nói đến Silver, tên thủy thủ thọt chân khủng khiếp. Tôi nghĩ gã đã tìm lại được bà vợ, hiện đang sống hiền hòa trong một góc trời nào đó với bà ta và con vẹt của gã.

Không thể diễn tả được sự sung sướng của tôi khi gặp lại người mẹ đau khổ của tôi và tôi cảm thấy rất hãnh diện khi đủ sức bảo đảm cho bà một cuộc sống hạnh phúc, yên bình! ông bác sĩ tính chuyện cho tôi đi học lại. Theo ông cố gắng làm việc tốt thì không bao giờ có chuyện quá trễ. ông muốn tôi trở thành một bác sĩ tài giỏi. ông bảo: "Chỉ trong nghề ấy, một người lương thiện mới có thể một mình giúp ích cho đồng loại". ông Trelawney cũng đồng ý như vậy và có lẽ các bạn cũng nghĩ như tôi rằng tôi chẳng còn biết phải làm gì hơn là cứ để đời mình đi theo sự dẫn dắt của hai con người tuyệt vời ấy..

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro