q4c32c46
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 32: Toái Diệp phong vân (13)d
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
" Đúng vậy, đây là quy định của Đạo Hồi chúng ta. Theo quy định này hàng năm các giáo đồ phải đóng góp một số tài sản nhất định để trợ giúp những người nghèo khó cũng như cúng dường lên các tự viện. Chúng ta gọi đó là thiên khóa ( thuế trời). Cũng áp dụng giống như Đại Đường các ngươi thu 4% thuế. Như chúng ta đây thì số tài sản trị giá 1000 đồng dinail (tiền tệ của Đại Thực) thì phải giao nộp 25 đồng dinail. Dĩ nhiên, nếu như những người đã tình nguyện bố thí cứu giúp người nghèo khó thì sẽ không phải nằm trong diện bị thu thuế như vậy.
Nói tới đây, tren nét mặt của A Cổ Thập lộ ra một chút kiêu ngạo: " Theo ta được biết, mức thuế thấp nhất mà quý quốc đặt ra cũng đã gần 3% rồi. Hơn nữa cách đánh thuế cũng tùy ý thay đổi, không có quy định rõ ràng. Tất cả chỉ phụ thuộc vào sự hỉ nộ của hoàng đế mà định ra thuế. Năm nay có thể là 3% nhưng năm sau đã có thể là 10% rồi. Thậm chí, ngoài thuế ra các vị còn thường xuyên bắt người dân quyên góp, lạm thu một cách tùy tiện. Thật là tra tấn, vắt kiệt mồ hôi và sức lao động của người dân. Điều đó hoàn toàn không giống như Đại Thực chúng ta, chúng ta định ra tỉ lệ thiên khóa với giáo chúng một cách rõ ràng, công khai. Cho dù là Calipha đi chăng nữa cũng ko dám tùy tiện thay đổi.
" Nhưng các ngài đối sử với Chiêu Võ cửu quốc cùng Thổ Hỏa La không như vậy. Các ngài đánh thuế bọn họ rất nặng, thuế thân, thuế đất cũng lấy của họ một nửa thu nhập. Năm ngoài mặc dù áp dụng thuế 11% nhưng thuế tài sản tùy theo quan phủ quyết định. Mà không theo tài sản thật sự của dân. Chúng ta thấy dân chúng rất khổ cực. Chẳng lẽ đây là thuế khóa nhẹ nhàng của các ngài sao?"
A Cổ Thập lắc đầu: " Đó là do bọn họ không tin thờ thánh A La. Bọn họ không phải con dân của thánh A La dĩ nhiên không cần phải đối xư với họ theo giáo quy."
" Không đúng, thân vương đangsự lẫn lộn phải trái ở đây rồi" Thôi Diệu cười lạnh một tiếng tiếp tục nói: " Chính tai tôi khi ở Khang quốc đã nghe nói rằng, có rất nhiều người Khang quốc cho dù đã đi theo Đạo Hồi nhưng mức thuế mà họ phải nộp lên tới 11%, hoàn toàn không được hưởng sự " bao dung" và " tình thương" của thiên khóa. A Cổ Thập điện hạ, sự thật này người không định phủ nhận chứ."
A Cổ Thập nghe Thôi Diệu nói vậy liền cười một tiếng: " Cái này thì có quan hệ gì đâu, bọn chúng mặc dù đã quy thuận chúng ta, nhưng dù nói gì đi nữa thì chúng đều là những kẻ bị chinh phục. Nên việc chúng phải gánh chịu nhiều thứ thuế khác nữa cũng là điều đương nhiên. Nếu chỉ thu thuế bọn chúng theo thiên khóa thì Calipha lấy gì mà nuôi quân đội chứ. Chúng ta không giống như người Hán các người, đối với ngoại tộc thì bày trò nhân nghĩa giả tạo, còn đối với con dân của mình thì bóc lột tàn khốc. Không! Đại Thực chúng ta không bao giờ có chuyện đó, chúng ta muốn người Đại Thực được hưởng thụ thật nhiều tài phú và văn hóa. Còn ngược lại, những khổ cực vất vả thì bọn ngoại tộc kia chắc chắn phải gánh chịu rồi"
" Vì thế, cho nên Đại Thực của các vị mới đầy dã tâm xâm lược như vậy. Các vị mặt ngoài thì lấy danh nghĩa là truyền bá, mở rộng tông giáo đạo Hồi nhưng trên thực tế là ẩn chứa ý định cướp đoạt thật nhiều của cải, và trút bỏ thật nhiều những tai họa lên các dân tộc khác. Rõ ràng đó là cách làm thể hiện sự cực đoan ích kỷ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Ngài đã không nhận ra hạn chế đó, trái lại cỏn chỉ trích đường lối nhân nghĩa của Đại Đường chúng tôi. Trên thực tế, trong việc đối nội, triều đình Đại Đường không hề thi hành những chính sách thuế khóa, bóc lột tàn khốc như ngài đã nói. Hoàng đế bệ hạ đem lại đất đai và tài sản cho con dân Đại Đường, thực hành thu thuế với mức 1/20 (0,5%), quả thật là có cao hơn so với mức 1/40 (0,25%) của các vị. Nhưng với mức thuế ấy những người dân bình thường vẫn có thể hoàn toàn đóng góp được. Còn về phần các thuộc quốc ở Tây Vực, Đại Đường không hề tiến hành thu thuế, cũng không có hề lấy tiền gạo bồi dưỡng, biếu xén của bọn họ. Đồng thời không can thiệp vào việc tự trị của các dân tộc này. Vì thế cho nên bọn họ mới vui lòng quy thuận, xưng thần với Đại Đường chúng ta. Lấy nhân nghĩa để thu phục nhân tài đó là cái đạo của Đại Đường nói riêng và người Hán nói chung từ xưa đến nay. Mặc dù hiện tại bây giờ, hình thái chinh phục các dân tộc khác bằng vũ lực của Đại Thực các ngài đang thu được nhiều kết quả và bước vào giai đoạn cực thịnh. Nhưng ngài đã nghĩ tới chưa. Các dân tộc đó cũng có sự tự tôn, ý thức độc lập, và lòng căm thù. Trải qua trăm ngàn năm tích lũy đến khi đó thế hệ con cháu của ngài sẽ phải đối mặt ra sao với sự thù hận chồng chất đó.
Thái độ hùng biện mạnh mẽ cũng như lập luận chặt chẽ của Thôi Diệu khiến cho A Cổ Thập á khẩu, không thể nào phản bác lại được. Hắn thẹn quá hóa giận, đạp bàn một cái chát, trách mắng Thôi Diệu: " Ngươi đã quên thân phận của mình rồi hay sao. Có mấy tên tù binh được đãi ngộ ưu ái như ngươi chứ. Ngươi nên biết tự trọng một chút"
Nói xong, hắn phất mạnh ống tay áo, nổi giận đùng đùng xaoy người đi ra ngoài. Khi hắn vừa mới ra ngoài doanh trướng thì có một gã người hầu chạy tới bẩm báo: " Bẩm điện hạ, bên ngoài quân doanh có người xin cầu kiến"
" Là tổng đốc của Cáp Mã Đan phải không, nói với hắn ta không gặp"
" Không! Không phải tổng đốc Cáp Mã Đan, người đến là một thương nhân Túc Đặc. Hắn nói hắn vừa từ Tát Mã Nhĩ Hãn đuổi theo chúng ta tới đây" . Hắn nói hắn có biết điện hạ"
" Từ Tát Mã Nhĩ Hãn đuổi theo tới đây?" A Cổ Thập hơi ngẩn người ra một chút. Thương nhân Túc Đặc làm ăn ở Ba Cách Đạt thì có rất nhiều nhưng người này lại từ Tát mã Nhĩ Hãn cất công đuổi theo tới tận đây., Vậy hắn rốt cuộc là ai"
" Dẫn hắn vào đi"
Đột nhiên nhận được tin báo có khách tới thăm khiến cho A Cổ Thập hạ hỏa, bớt giận đi phần nào. Hắn quay lại đại trướng của mình. Sau đó người thương nhân Túc Đặc xin cầu kiến cũng được dẫn vào. Đó là một lão già chừng sáu mươi tuổi, trên nét mặt biểu thị sự mệt mỏi, phong trần.
" Là ngươi?" A Cổ Thập quả nhiên là biết người này. Người tới chính là con trai của tướng quốc Khang quốc trước đây. Ở Tát Mã Nhĩ Hãn ông ta là một thương nhân nổi tiếng tên gọi Mục Tháp
Người này quả thật là thương nhân Túc Đặc tên goi Mục Tháp. Ông ta cũng chính là người đã đưa Thôi Diệu tới Bạt Hãn Na. Khi ở Tát Mã Nhĩ Hãn , Mục Tháp nghe được thông tin là A Cổ Thập ở Bạt Hãn Na có bắt được một tên sứ giả của Đại Đường và đang trên đường áp giải về Ba Cách Đạt. Ông ta đoán ngay người bị bắt chắc chắn là Thôi Diệu cho nên rất lo lắng. Và vì muốn giữ lại cho Thôi Diệu một tính mạng cho nên ông ta đã không quản cả đêm tối đuổi theo đám người A Cổ Thập. Rốt cuộc khi tới Cáp Mã Đan thì cũng đuổi kịp bọn họ.
Mục Tháp tiến lên cung kính quỳ xuống hành lễ: " Thảo dân Mục Tháp bái lạy thân vương điện hạ"
" Ngươi tới đây làm gì? Chảng lẽ có kẻ nào dám làm khó dễ cho thương đội của ngươi hay sao" A Cổ Thập ngồi xuống, hắn thật sự suy nghĩ không ra tại sao những tên thương nhận vốn chỉ có biết đến lợi nhuận thì vì sao lại phải vượt cả ngàn dặm để đuổi theo hắn.
" Điện hạ, xin cho thảo dân hỏi một chút, có phải thân vương có bắt giữ một tên sứ giả của Đại Đường là Thôi Diệu phải không ạ"
" Đúng thì sao chứ" A Cổ Thập thoáng cái, ngồi thẳng lên, ngó nhìn Mục Tháp: " Chẳng lẽ ngươi có biết hắn sao"
Mục Tháp cười khổ một cái, đáp lời: " Thực không dám giấu diếm điện hạ, cái tên Thôi Diệu này, thảo dân khi ở Trường An cũng có biết, sau này ở Toái Diệp cũng có gặp mặt rồi cùng hắn đi tới Bạt Hãn Na kia. Thật sự thảo dân không hề biết hắn là sứ giả của Đại Đường. Nhưng thảo dân có biết thân phận thực sự của hắn"
" Thân phận thực" A Cổ Thập nghe Mục Tháp nói thế bỗng nhiên có hứng thú: " Ngươi mau nói thân phận thực của hắn là gì xem nào"
" Điện hạ, hắn chính là cháu đích tôn của Thôi Viên - tướng quốc Đại Đường trước đây. Ngay từ lúc còn nhở tuổi, hắn đã nổi tiếng thần đồng rồi. Trông hắn thì có vẻ già dặn chững chạc. Nhưng thực tế hắn mới chỉ có mười sáu tuổi thôi"
« Thì ra là như vậy » Trên nét mặt của A Cổ Thập biểu hiện có chút kinh ngạc. Hắn chặp tay ra sau lưng rồi bước tới ngoài cửa doanh trướng. Từ đó hắn đứng nhìn về căn lều trướng của Thôi Diệu ở xa xa kia, bỗng nhiên cười nói : « Mười sáu tuổi mà đã được cử làm đại biểu đại diện cho một nước lớn như Đại Đường, quả thật là không đơn giản chút nào. CaliphaCalipha nhất định là sẽ có hứng thú với hắn lắm đây »
« Còn cả ngươi nữa » A Cổ Thập quay đầu, thoáng nhìn lại về phía Mục Tháp, hắn ta khẽ mỉm cười nói: " Ngươi đã đã vì hắn mà bôn ba mấy ngàn dặm để đuổi theo tới đây, điều đó chứng tỏ giao tình của các ngươi cũng không tệ. Ngươi hãy ở lại, thay ta để ý tới hắn, dạy cho hắn tiếng Đại Thực, rồi ngày nào đó ta sẽ có trọng ta cho ngươi"
Mục Tháp mừng rỡ, ông ta cung kính dập đầu: " Thảo dân nguyện dốc sức theo lời sai bảo của thân vương"
Đến buổi sáng sớm ngày thứ hai, đội ngũ của của A Cổ Thập lại tiếp tục xuất phát. Con đường từ Cáp Mã Đan đến Ba Cách Đạt rộng rãi bằng phẳng cho nên chỉ sau ba ngày hành trình nữa bọn họ đã tới Ba Cách Đạt – đô thành của A Bạt Tư Calipha.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 32: Toái Diệp phong vân (13)e
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Ba Cách Đạt trong tiếng A Rập có nghĩa trời ban cho. Ban đầu nó chỉ là một thôn xóm nhỏ của Tát San vương triều. Vị Calipha đời thứ hai là Cổ Pháp Nhĩ đã tốn mất thời gian bốn năm để xây dựng và biến nơi đây thành một đô thành phồn hoa. Có thể nói sự ra đời của Ba Cách Đạt chính là kết quả của những biến động chính trị ở trong và ngoài của A Bạt Tư vương triều. Trong quá khứ, mặc dù chính quyền trung ương của Ngũ Mạch Diệp vương triều đã bị tiêu diệt hoàn toàn, nhưng trên lãnh thổ bao la rộng lớn của quốc gia này vẫn có những người cực lực phản kháng vương triều A Bạt Tư. Chính vì vậy Đại Mã Sĩ hiển nhiên là không thích hợp cho việc làm thủ đô của vương triều A Bạt Tư mới. Hơn nữa vị Calipha của A Bạt Tư vương triều khi đó mới có ba mươi bảy tuổi lại bị chết vì bệnh đậu mùa. Cái chết đột ngột của hắn, đã dẫn tới một cuộc đấu tranh kịch liệt trong nội bộ để tranh đoạt ngôi vị: đệ đệ của vị Calipha quá cố là Cổ Pháp Nhĩ trước sau đã giết chết thúc phụ của mình là A Bặc Đỗ Lạp cùng với lãnh tụ của Hô La San là Ngả Bặc, rồi từ đó cướp lấy vương vị. Nhưng từ những hành động đó cũng dẫn tới việc nổ ra các cuộc khởi nghĩa quy mô lớn. Đô thành ban đầu của A Bạt Tư vương triều là Khố Pháp, nhưng nơi đây lại là tụ điểm tụ tập rất nhiều những kẻ phản kháng. Vì thế cho nên Cổ Pháp Nhĩ buộc phải tìm kiếm một vị trí mới để đặt đô thành của vương triều. Ông ta đã tìm kiếm rất nhiều nơi, cuối cùng chọn được Ba Cách Đạt.
Ba Cách Đạt ban đầu có tên là Hòa Bình thành, nó nằm ở hữu nạn của con sông Cách Lý Tư. Tốc độ xây dựng của đô thành này cũng rất nhanh chóng, chỉ trong vài năm nó đã hoàn thành, nhưng không vì thế mà qua loa đại khái, ngược lại Ba Cách Đạt còn được mệnh danh là một trong ba đô thành lớn nhất của thời đại bấy giờ, gồm có Trường An, Quân Sĩ Thản Đinh Bảo và Ba Cách Đạt. Đế quốc A Bạt Tư có lãnh thổ cực kỳ rộn lớn, phía tây trải dài tới tận Lê Ba Lý xa xôi, phía đông thì kéo đến tận Thổ Hỏa La. Và trung tâm thống trị trung ương tập quyền của cái quốc gia vạn dặm này đã nằm ở Ba Cách Đạt.
Quân đội của A Cổ Thập đã tới nơi. Hắn hạ lệnh cho quân sĩ đồn trú ở bên ngoài thành. Còn bản thân mình thì dẫn theo hơn một trăm tên người hầu cùng với Thôi Diệu tiến thẳng vào đô thành phồn thịnh nhất của đế quốc A Bạt Tư – Ba Cách Đạt.
Đây là một tòa thành trì hình tròn, vì thế Ba Cách Đạt còn có tên gọi khác là Đoàn thành (thành hình tròn). Về kiến trúc, tổng thể Ba Cách Đạt được chia thành hai bộ phận: nội thành và ngoại thành. Cả nội thành và ngoại thành đều được dùng gạch để xây dựng nên. Bên trong nội thành có Tử Cấm Thành, tường xây cao vút tưởng như vươn tới tận mây xanh. Nó cùng với cung thành của Đại Đường ở kinh đô Trường An tạo thành thế nam bắc đối lập. Và dĩ nhiên cung điện của Cáp Lý sẽ nằm ở vị trí của trung tâm đô thành này rồi. Đây là một quần thể cung điện hình tròn, cùng với thành nội và thành ngoại tạo thành ba vòng tròn đồng tâm lấy cung điện của Calipha là tâm điểm mà mở rộng ra các hướng. Có bốn cửa cung thông ra các hướng đông, tây , nam, bắc bằng bốn con đường thẳng tắp, rộng rãi. Trên cao nhìn xuống trông chúng như những chiếc nan hoa của bánh xe bắn thẳng về các góc của đại đế quốc này.
Thôi Diệu cùng với đoàn người A Cổ Thập tiến nhập vào Ba Cách Đạt bằng cửa bắc. Vừa mới đặt chân vào thành, những tiếng la hét ầm ĩ, những âm thanh náo nhiệt đã đạp vào mắt vào tai của Thôi Diệu. Trên con đường cái, dòng người nối đuôi nhau như mắc cửi, nhiều đội lạc đà đến đây buôn bán, những tiểu thương đứng đầy hai bên đường. Bọn họ trao đổi buôn bán các loại mặt hàng. Không khí thật náo nhiệt sôi động. Ở xa xa, có một cái mộc đài khổng lồ được dựng lên để làm nơi buôn bán đầy tớ và nô lệ. Thôi Diệu từ xa có thể mơ hồ nhìn thấy những người nô lệ da đen bị buôn bán ở vùng Hạ Ai Cập, nay đang được đấu giá. Bên cạnh đó là một cái nhà thờ của đạo Islam, nó rất to lớn hùng vĩ. Dưới ánh sáng mặt trời rạng rỡ tòa nhà thờ đó lại càng thêm lấp lánh.
" Đây là ngoại thành của ba Cách Đạt, bình thường các thương nhân khi tới đây đều nghỉ lại ở chỗ này. Sinh sống ở ngoại thành này có ba mươi vạn người. Đồng thời cũng là nơi là nơi thường xuyên diễn ra những cơ hội, những vụ làm ăn lớn cũng như rất nhiều tài phú tiền bạc" Mục Tháp dùng tiếng A Rập giới thiệu một cách thật đơn giản cho Thôi Diệu về cái thành thị to lớn này. Hiện tại ông ta vừa là quản gia, vừa là tùy tùng của Thôi Diệu. Vị lão thương nhân Túc Đặc này đã đặt tất cả tương lai của gia tộc mình lên người của chàng trai trẻ mang thân phận quý tộc Đại Đường này.
Trừ số lượng nhân khẩu đông đảo và kiến trúc thành trì to lớn hùng vĩ, còn về mặt phong tục thì cũng không có gì khác biệt so với những thành thị khác của Đại Thực mà Thôi Diệu đã từng đi qua. Bản thân Thôi Diệu dù mới đặt chân đến đây nhưng cũng không quá ngạc nhiên hay choáng ngợp gì cả. Mặc dù hắn cũng có chút hứng thú với kiến trúc hùng vĩ to lớn của nơi này nhưng trong đầu hắn không thể không có sự so sánh đối chiếu nó với kinh thành Trường An. Tuy Ba Cách Đạt cùng với Trường An được gọi những tòa thành chứa được người của các thiên hạ. Nhưng nói thế nào chăng nữa thì về kích thước cũng như dân số cũng còn thua kém Trường An nhiều lắm.
Nghe Mục Tháp giới thiệu một cách lưu loát và tường tận như vậy, Thôi Diệu cười cười hỏi: " Dường như Đại Thúc đối với nơi này rất quen thuộc thì phải. Phải chăng trước đây thúc thường hay lui tới nơi này?"
Mục Tháp cười ha hả một tiếng :" Ta đã từng sinh sống ở đây năm năm. Ở chỗ quảng trường phía tây kia ta còn có một căn nhà nữa, đến bây giờ vẫn đóng cửa để không đấy. Nếu có cơ hội nhất định ta sẽ dẫn cậu tới thăm"
Đi tiếp được chừng năm dặm, bọn họ đã tiến vào bên trong của thành nội. Thành nội là là nơi các quý tộc, quan lại và những kẻ có tiền ở các địa phương về cư trú. Đồng thời đây cũng là nơi tập trung các cơ quan của chính quyền trung ương ở A Bạt Tư vương triều. Nếu kiến trúc ở thành ngoại lộn xộn, bất quy tắc, thì thành nội lại hoàn toàn trái ngược lại, kiến trúc của nó rất chỉnh tề, các tòa tháp, tòa thành nhỏ được xây dựng một cách có quy củ, tiếp giáp nhau. Các nóc nhà phần lớn được xây dựng theo kiến trúc mái vòm hình tròn kiểu Y Tư Lan(Islam). Những con đường tuy rộng rãi nhưng lại hết sức thưa thớt những người đi đường. Thỉnh thoảng mới có một chiếc xe ngựa được sơn son rát vàng lộng lẫy chạy qua. Ở phía xa xa có thể nhìn thấy những tòa dinh thự được xây dựng với quy mô lớn. Đó là có thể là Thư viện quốc gia, là Tổng cục thuế quốc gia, hay là một nhà thờ của đạo Islam ...
Tiến vào bên trong thành, không khí buôn bán xô bồ của các thương nhân ở thành ngoại đã hoàn toàn biến mất. Thay vào đó là không khí uy nghiêm của một đại đế quốc. Trên các con đường, đâu đâu cũng thấy những đội quân cận về của Calipha đi tuần tra. Bọn họ đội giáp trụ màu đen, trên người mang Tỏa Tử giáp (loại áo giáp đùng các khuyên sắt đan dày lại với nhau), vũ khí thì là chiến phủ hoặc là trường mâu, trên ưng còn khoác thêm cả khiên. Bọn họ cưỡi những những con chiến mã tốt nhất, tạo thành đội hình đi tuần tra. Khi gặp bọn người A Cổ Thập những binh lính này đều khom người kính cẩn cúi chào vị thân vương này.
Kiến trúc của thành nội so với thành ngoại cũng không lớn lắm. Bọn họ đi không bao lâu đã tới trước cổng của Tử Cấm Thành. Từ cửa lớn của Tử Cấm Thành nhìn vào bên trong có thể mơ hồ nhìn thấy vương cung trứ danh của Calipha. Phần mái của vương cung mà xanh lục, nó được thiết kế theo kiểu hình vòm. Và ngay tại phần đỉnh mái ấy có một bức tượng của một kỵ sĩ cưỡi ngựa, cầm trường mâu. Kỵ sĩ thì hùng dũng, con ngựa thì như đang phi thẳng lên trời. Khí thế của pho tượng rất lẫm liệt.
Cửa thành được canh phòng rất nghiêm ngặt, có hơn một ngàn tên lính thủ vệ được phân bố ỏ hai bên cổng thành. A Cổ Thập khoát tay áo ra lẹnh cho tất cả mọi người xuống ngựa. Sau đó hắn bước nhanh lên phía trước, trao đổi với quan quân giữ thành vài câu. Và ngay sau đó tên lính gác cổng lập tức chạy vào trong vương cung để bẩm báo với Calipha.
Trong vương cung của mình, Calipha Lạp Hy Đức đang nổi giận đùng đùng. Ông ta tay lăm lăm cây kiếm cứ thế là đâm chém loạn xạ đồ đạc ở trong cung điện.. Ngay cả một chiếc bàn làm từ gỗ trầm hương mà ông ta vốn rất yêu quý cũng đã bị ông ta tức giận mà chém cho nát bét. Mấy tên thái giám và cung nữ hầu hạ ở đó, tên nào tên nấy sợ hãi run như cầy sấy đứng nép mình góc tường. Duy chỉ có một viên quan đại thần đang nghiêm túc đứng nhìn sự trút giận của Lạp Hy Đức. Ánh mắt của ông ta bình tĩnh và nhẫn nại, đang chờ đợi Calipha bình thường trở lại.
Sở dĩ Lạp Hy Đức nổi giận như vậy là bởi vì ông ta vừa mới nhận được một tin tức, đó là trước đây Hồi Hột đã đáp ứng sẽ cùng với Đại Thực cùng liên minh để tấn công Bắc Đình. Nhưng hiện tại Trung Trinh Khả Hãn của Hồi Hột đã nuốt lời, rút quân trở về Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý. Chiến dịch Toái Diệp vốn đã được ông ta cố công hoạch định một cách hoàn mỹ: Tấn công Bắc ĐÌnh để kiềm chế viện quân của Đại Đường, và dĩ nhiên từ đó sẽ tạo thế có Đại Thực ở mặt trận Toái Diệp. Thế nhưng, đùng một cái Hồi Hột phản ngôn, nuốt lời. Còn hai vạn quân của ông ta căn bản là không làm nên cơm cháo gì cả. " Tô Nhĩ Mạn chết tiệt, lão đã hứa với ta như thế nào hả?" Lạp Hy Đức vô cùng tức giận, ông ta nguyền rủa cái tên người Ba Tư vô dụng kia.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 33: Toái Diệp phong vân (14)
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Có lẽ đâm chém từ nãy tới giờ nên Lạp Hy Đức cũng đã có phần hơi mệt. Ông ta tra kiếm vào vỏ, sau đó trở về cái ghế rộng rãi mà ông ta vẫn yêu thích và ngồi xuống. Lạp Hy Đức dường như đã bình tĩnh trở lại. Bản thân Lạp Hy Đức là một người có kinh nghiệm rất phong phú về chiến tranh. Nhớ lại mười năm trước đây, ông ta là thống soái tối cao của A Bạt Tư vương triều, suất lĩnh hơn hai mươi vạn Đại Thực quân đi tiêu diệt đế quốc Bái Chiêm Đình. Lần đó ông ta cũng vây hãm Quân Sĩ Thản Đinh bảo thành đến mấy tháng ròng. Như vậy thì kể từ Ngũ Mạch Diệp vương triều thì đây là lần thứ tư Quân Sĩ Thản Đinh bảo thành bị những người A Rập vây khốn. Và sau khi chiến dịch tiêu diệt Quân Sĩ Thàn Đinh bảo thành thắng lợi, Lạp Hy Đức đã giành được sự ủng hộ rất lớn từ phía quân đội, cho nên năm năm trước đây ông ta lật đổ huynh trưởng Cáp Địch để đoạt lấy vương vị,trở thành vị Calipha thứ năm của A Bạt Tư vương triều.
Chính lần vây khốn Quân Sĩ Thản Đinh bảo thành đã giúp cho Lạp Hy Đức có thêm kinh nghiệm chiến đấu, ông ta nhận rõ được tầm quan trọng của viện quân đối với quân địch đang bị vây khốn. Vì để đảm bảo cho chiến dịch Toái Diệp thắng lợi hoàn toàn, cho nên ông ra đã gần như là dốc hết tiền bạc ở trong quốc khố, cũng trì hoãn lại những cải cách về thuế khóa. Không thể gia tăng thêm quốc khố bằng cách đánh thuế nặng để duy trì cái cuộc chiến dằng dai hao tiền tốn của này được. Trong khi đó bọn người Hồi Hột từ chỗ ủng hộ nay lại quay ngược 180 độ phản lại lời thề liên minh. Cuộc chiến tranh mà Lạp Hy Đức nắm chắc phần thắng bây giờ đang bị phủ một màu ảm đạm.
" Bệ hạ đã bình tĩnh trở lại chưa ạ" Vị đại thần đứng ở cửa nãy giờ cuối cùng cũng đã lên tiếng. Ông ta tên gọi là Diệp Cáp Nhã, là người Ba Tư, cũng mang trong mình huyết thống của người phương đông. Tổ phụ của ông ta là một tăng lữ Phật giáo ở Thổ Hỏa La. Diệp Cáp Nhã hiện tại giữ chức Duy Tề Nhĩ ( tương đương chức tể tướng) của A Bạt Tư vương triều. Năm nay chừng sáu mươi tuổi. Ở A Bạt Tư vương triều này, ngoài Lạp Hy Đức ra thì ông ta là người có quyền thế nhất. Ông ta cũng là Ngả Mễ Nhĩ của Ba Cách Đạt . A Cổ Thập cũng là trợ thủ dưới trướng của ông ta hiện đang làm tổng đốc của Tát Mã Nhĩ Hãn.
Ngay cả số ruộng đất thuộc quyền sở hữu của Diệp Cáp Nhã cũng không cần phải giao nộp thuế cho Lạp Hy Đức. Thậm chí nói rằng cả một nửa A Bạt Tư vương triều này thuộc về gia tộc của ông ta cũng chẳng ngoa chút nào. Ông ta với Cáp Lập Đức (cha của A Bạt Tư Calipha Lạp Hy Đức) là bạn thân kiêm huynh đệ với với nhau. Còn bản thân ông ta cũng chính là khai quốc nguyên lão công thần của vương triều A Bạt Tư. Ngay cả Lạp Hy Đức cũng nhận ông ta là cha nuôi. Nếu liên hệ với người phương đông thì Diệp Cáp Nhã giống như Lã Bất Vi của Đại Tần năm xưa. Ở đây Lạp Hy Đức cũng gọi ông ta là phụ thân.
Diệp Cáp Nhã từ từ bước lên phía trước, giọng nhu hòa: " Calipha bệ hạ, người không nên tức giận như vậy, điều này không tốt cho việc dùng lý trí để đưa ra quyết sách"
Ông ta vung tay một cái ra hiệu, hơn mười tên thị vệ nhanh chóng chạy tới, thu dọn cái bàn xấu số vừa bị chém nát. Lạp Hy Đức dường như thức tỉnh, quả thật vị Calipha này không biết rằng Diệp Cáp Nhã đã vào vương cung. Ông ta vội vàng đứng lên, cung kính hành lễ: " Phụ thân đại nhân, xin tha thứ cho con tội nhất thời mất bình tĩnh. Chỉ vì bọn con quá lo lắng cho chiến dịch ở Toái Diệp, bọn người Hồi Hột kia đã phản bội lời thề"
Diệp Cáp Nhã cười lắc đầu: " Ta biết rồi, Hồi Hột giống như một con chim hai đầu, bọn chúng muốn tận dụng hết thời cơ ở cả phía đông và phía tây mà thu lợi. Ngay từ lúc Khả Hãn của bọn họ muốn lập cả công chúa Đại Thực và Đại Đường làm Vương hậu ta đã biết rằng Hột Hột không thể làm đồng minh với chúng ta được. Nhưng bất quá, trong tình huống này, ta vẫn có biện pháp khiến cho Hồi Hột phải thật tâm thật lòng theo chúng ta. Chẳng qua muốn làm được điều đó thì cần một chút kiên nhẫn cùng trí tuệ của bệ hạ nữa"
Thấy ánh mắt của dưỡng phụ nhìn mình đầy soi mói, khiến cho Lạp Hy Đức bùng tỉnh hoàn toàn khôi phục lại lý trí của một vị quân chủ. Ông ta mời Diệp Cáp Nhã đi vào phòng tác chiến, sau khi mời dưỡng phụ ngồi xuống, ông ta liền hỏi: " Xin phụ thân nói cho con biết, phải làm như thế nào để bọn người Hồi Hột kia hoàn toàn đi theo chúng ta"
" Người đã xem qua báo cáo của Tô Nhĩ Mạn hay chưa" Diệp Cáp Nhã thoáng mỉm cười nói: " Quân đội Hồi Hột vẫn có ý muốn cùng với Đại Đường khai chiến. Đồng thời với đó là phe thương nhân Túc Đặc, phe Ma Ni Giáo, tất cả đều trung thành với Calipha. Bọn họ chỉ vì Khả Hãn mà phải duy trì trạng thái trung lập. Nhưng một khi Trung Trinh Khả Hãn đột nhiên qua đời, thì Hồi Hột sẽ phải lập Khả Hãn mới. Vậy theo bệ hạ, Khả Hãn mới này sẽ theo bên nào?"
Lạp Hy Đức nghe xong thì bừng tỉnh hiểu ra. Diệp Cáp Nhã nói rất đúng, trong nội bộ Hồ Hột hiện nay, quá nửa các thế lực đã nghiêng theo Ba Cách Đạt. Bọn họ chẳng qua là bị cái quốc sách và tư tưởng trung lập của Khả Hãn gây trở ngại, nên không thể có nhiều hành động cụ thể được. Nhưng nếu như trừ khử được cái tên Trung Trinh Khả Hãn bội bạc kia, thì việc Hồi Hột nghiêng theo Đại Thực (phía tây) là điều không có gì cản trở được.
Diệp Cáp Nhĩ thấy Lạp Hy Đức hiểu được dụng ý của mình, cho nên ông ta cũng không nói thêm nữa, mà chuyển sang đề tài khác, đó là chiến dịch Toái Diệp đang diễn ra: " Bệ hạ, chúng ta không giỏi trong việc công thành, vì thế chúng ta cần trang bị thêm cho tiền phương máy ném đá cùng công thành chuy. Tháng trước bệ hạ đã điều động thêm năm trăm chiếc máy ném đá rất tốt tới Bạt Hãn Na. Hiện nay, mùa đông đang đến rất nhanh, vì thế xem chừng quân tiếp viện của Đường quân muốn tới đây cũng rất khó khăn. Bệ hạ cần chớp cơ hội nàu, lệnh cho A Lan có thể chính thức phát động tiến công được rồi"
Lạp Hy Đức gật gật đầu: " Được rồi, trẫm sẽ lập tức hạ lệnh"
Đang lúc này thì ở ngoài cửa truyền lại tiếng bẩm báo của tên thị vệ: " Bệ hạ, A Cổ Thập thân vương đã đến, đang chờ tiếp kiến ở bên ngoài vương cung"
" Cho hắn vào"
Lạp Hy Đức nhanh chóng liếc mắt nhìn sang Diệp Cáp Nhã. Diệp Cáp Nhã cười cười rồi đứng lên: " Ta còn có chuyện khác nên cần đi trước, huynh đệ các ngươi cứ từ từ mà bàn bạc với nhau đi"
Nói xong Diệp Cáp Nhã xoay người hướng bên ngoài đi ra. Chỉ thoáng một cái ông ta đã bước ra khỏi cửa cung. Lạp Hy Đức nhìn theo bóng lưng của ông ta với ánh mắt vô cùng oán độc.
Một lát sau, A Cổ Thập đã xuất hiện trong cung của Lạp Hy Đức, hắn bước nhanh vào phòng tác chiến. A Cổ Thập chính là cháu đích tôn của A Bạt Tư Calipha. Bởi vì Calipha Cổ Pháp Nhĩ trước đây thừa kế vương vị Calipha của huynh trưởng, nên thừ đó trở đi con cháu của của các đời Calipha không có cơ hội được ngồi lên ngôi vị quân vương của đế quốc A Bạt Tư nữa (ngôi vị chỉ truyền cho anh em, không truyền cho con cháu). Nhưng dù thế nào thì A Cổ Thập vẫn là tâm phúc của Lạp Hy Đức, chính vì thế mà hắn mới được bổ nhiệm là tổng đốc của Tát Mã Nhĩ Hãn, thông qua đó Lạp Hy Đức muốn phân tán bớt đi quyền lực và tầm khống chế của Diệp Cáp Nhã phía đông của sông A Mẫu hà. Nhưng hiện tại quyền lực của Diệp Cáp Nhã ở trong A Bạt Tư vương triều này quá lớn, thậm chí ngay cả một bộ phận tướng lãnh cũng bị ông ta khống chế. A Cổ Thập giống như một con cờ trong cuộc chơi quyền lực của Lạp Hy Đức và Diệp Cáp Nhã, hắn chỉ có thể cảm nhận và thấu hiểu cuộc đấy tranh quyền lực không thể nói bằng lời này.
" A Cổ Thập tham kiến Calipha bệ hạ" A Cổ Thập tiến lên, quỳ xuống hành lễ.
Lạp Hy Đức đứng trước bản đồ thật lâu, ông ta không nói gì. Một lúc lâu sau mới hỏi: " Lúc ngươi tới đây có gặp ông ta không"
" Ông ta" ? A Cổ Thập dĩ nhiên hiểu được ông ta ở đây là ai. Hắn lập tức đáp: " Dạ thưa, có gặp, Diệp Cáp Nhã chỉ hỏi về tình hình thu thuế má năm nay thế nào, còn không hỏi thêm gì nữa cả"
" Vậy tình hình thuế má năm nay đệ thu thế má năm nay thế nào rồi" Lạp Hy Đức bỗng nhiên xoay người lại, bởi vì đây cũng là một chuyện mà ông ta rất quan tâm. Số tiền thuế thu được từ thiên khóa thật chẳng đáng bao nhiêu cả. Mà nguồn thuế chủ yếu đóng góp cho quốc khố chính là tiền thuế của các thương nhân. Cả Tát Mã Nhĩ Hãn và Bố Cáp Lạp đều là những trung tâm buôn bán sầm uất, cho nên số tiền thuế cũng thu được nhiều. Hiện tại chiến dịch Toái Diệp đã bước vào hậu kỳ, tất cả các loại lương thực, quân nhu, cùng mọi thứ cần thiết cho chiến tranh đều cần phải chất cao như núi.Cho nên ông ta không muốn nguồn " tài nguyên" thuế bị cạn kiệt.
" Hồi bẩm bệ hạ, theo như báo cáo thống kê của Chính vụ thự vào tháng trước, thì tổng doanh thu hiện đạt ba ngàn sáu trăm vạn dinnar (tiền tệ của Đại Thực). Trong đó khấu trừ cho các quan thu thuế ở các địa phương mất sáu trăm vạn dinnar, chi cho chiến tranh mất một trăm ngàn dinnar, cuối cùng xin dâng lên bệ hạ hai ngàn vạn dinnar.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 33: Toái Diệp phong vân (14)b
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
" Mới chỉ có hai ngàn vạn thôi sao" Lạp Hy Đức nhướng mày, doanh thu năm ngoái còn được bốn ngàn vạn dinar, vậy mà năm nay làm sao doanh thu lại giảm mất một nửa. Nguyên nhân của việc doanh thu từ thuế bị giảm dĩ nhiên ông ta hiểu được , đó chính là kết quả của việc giảm nhẹ các loại thuế mà vị Tổng Đốc A Cổ Thập này đề ra. Lạp Hy Đức cũng tế nhị, ông ta tránh không đề cập sâu tới cái chủ đề thuế má này để tránh cho A Cổ Thập khỏi lúng túng. Ông ta ngồi xuống cười cười nói: " Đệ hãy nói qua tình hình ở Bạt Hãn Na một chút cho ta nghe xem tuyến vận chuyển vật tư có thuận lợi hay không?? Còn Tát Man gia tộc ở Bạt Hãn Na có tất thảy bao nhiêu binh lính.
A Cổ Thập trầm ngâm một chút liền nói: " Về cơ bản, chúng ta vận chuyển vật tư tới Toái Diệp bằng đường thủy, cũng coi như thuận lợi, không có trở ngại gì lớn cả. Còn về phần Tát Man gia tộc. Sau khi hai ngàn binh lính của bọn chúng khống chế được Bạt Hãn Na, thì bọn chúng đã tỏ ra rất lớn lối, không coi ai ra gì cả. Cụ thể là một nửa số tiền thuế thu được ở Bạt Hãn Na đều bị chúng tước đoạt và chuyển về Thạch quốc. Không chỉ có thế, chúng còn cư xử rất vô lễ với quốc vương của Bạt Hãn Na, thậm chí còn tùy tiện vào trong vương cung mà giết người. Thần đệ lo rằng những động thái ngông cuồng của Tát Mạn gia tộc sẽ gây ra một cuộc dân biến ở Bạt Hãn Na.
" Bọn người Tát Man dám xông vào vương cung để giết người, quả thật là có chuyện này sao" Lạp Hy Đức tuy hỏi như thế nhưng cũng không cần lời hồi đáp của A Cổ Thập, bởi vì thật ra thì mật thám mà ông ta cài cắm ở Bạt Hãn Na đã bẩm báo tin tức này với ông ta rồi. Lạp Hy Đức khẽ hừ một tiếng, chuyển sang đề tài khác: " Ta nghe nói đệ có đoạt được một tên sứ giả Đại Đường trong tay của bọn Tát Mạn kia. Người này bây giờ đng ở đâu rồi"
" Hồi bẩm bệ hạ, người này đang ở bên ngoài cung, hắn vốn là cháu đích tôn của tướng quốc Đại Đường trước đấy. Năm nay hắn mới có mười sáu tuổi nhưng cũng đã đỗ tiến sĩ rồi"
" Mười sáu tuổi, hà hà, quả nhiên là thiếu niên anh tài" Lạp Hy Đức gật đầu cười: " Năm ta mười sáu tuổi cũng đã được cử làm sứ giả đi sứ Hy Lạp. Nghe đệ nói về thiếu niên này, ta rất hứng thú muốn được gặp hắn ngay"
Nói đến đây Lạp Hy Đức quay đầu lại nói với tên thị vệ: " Nhanh lên, hãy đưa sứ giả Đại Đường trong số các tùy tùng của thân vương vào đây. Nhớ rằng không được thất lễ đấy nhé"
" Tuân lệnh" Thị vệ xoay người, khẩn trương đi ra bên ngoài cung.
Thôi Diệu cùng với hơn mười người thị vệ của A Cổ Thập đang đứng chờ chực ở phía trước của vương cung. Nơi này là trốn trọng yếu nhất của A Bạt Tư đế quốc, có hơn một vạn cận vệ quân canh giữ bảo vệ. Bất luận là kẻ nào đi nữa nếu như có những hoạt động chỉ khác thường một chút cũng bị các cận về quân này bắt giữ hoặc giết chết ngay tại chỗ. A Cổ Thập biết rõ nơi này được canh phòng nghiêm mật, nên hắn ta liên tục dặn dò Thôi Diệu phải cẩn thận không được có bất cứ hành động nào khác thường.
Lúc này, của lớn của cung điện từ từ được mở ra. Một chiếc xe ngựa cơ hồ được làm từ vàng ròng đang từ trong nội cung chạy nhanh ra ngoài. Xung quanh chiếc xe này có gần hai trăm tên kỵ sĩ hộ vệ. Đấy chính là đoàn người ngựa hộ tống Diệp Cáp Nhã xuất cung.
Tốc độ của chiếc xe ngựa ấy rất nhanh, chỉ trong nháy mặt nó đã chạy đến trước mặt của bọn người Thôi Diệu. Bỗng nhiên " két" , chiếc xe dừng gấp trước mặt Thôi Diệu. Diệp Cáp Nhã kéo tấm màn xe, nhìn chăm chú vào chàng thiếu niên đến từ phương đông kia: " Hắn có phải là sứ giả Đại Đường mà A Cổ Thập thân vương đưa tới phải không"
Tên đội trưởng đội thị vệ của A Cổ Thập vội vàng tiến lên, quỳ gối thi lễ: " Hồi bẩm Duy Tề Nhĩ đại nhân, đúng là hắn"
Diệp Cáp Nhã gật đầu, ánh mắt của ông ta chuyển sang nhìn Thôi Diệu, nhận thấy dường như hắn có hiểu câu hỏi của mình, nên ông ta không khỏi tò mò, cất lời hỏi hắn: " Ngươi có thể hiểu những gì ta vừa nói sao"
Thôi Diệu mỉm cười, khom người rồi dùng tiếng A Rập mà trả lời: " Tôi nghe không hiểu"
" Quả là một người không đơn giản. Mới chỉ có nửa tháng mà đã nghe hiểu được tiếng nói của chúng ta. Người trẻ tuổi này quả thật rất thông minh"
Diệp Cáp Nhã nhẹ nhàng vuốt chòm râu, rồi ông ta lại cười nói với Thôi Diệu: " Văn hóa của Đại Thực chúng ta và văn hóa Đại Đường của các người đều bác đại tinh thâm cả. Ta hy vọng ngươi có thể học tập được nhiều hơn khi ở đây. Nếu có gì cần cứ đến tìm gặp ta"
Thôi Diệu thấy thái độ của Diệp Cáp Nhã thân thiện khiêm tốn, khiến cho hắn không khỏi có thiện cảm đối với vị Duy Tề Nhĩ này. Hắn khom người thi lễ nói: " Đa tạ ý tốt của lão tiên sinh, nếu có thời gian tôi nhất định sẽ tìm hiểu về văn hóa của quý quốc."
Diệp Cáp Nhã nghe Thôi Diệu trả lời như vậy ngửa đầu cười ha ha một tiếng. Sau đó ông ta vung tay lên ra hiệu khởi hành, chiếc xe lập tức chuyển động nhanh chón rời khỏi vương cung. Khi Diệp Cáp Nhã và đoàn hộ tống của ông ta đã rời đi khuất, viên đội trưởng đội thị về mới dám lau mồ hôi, trong lòng hắn sợ hãi, lo lắng cho Thôi Diệu mà toát mồ hôi như vậy: " Gan ngươi cũng thật là lớn đấy, nhìn thấy ông ta mà dám không quỳ lạy . Ở A Bạt Tư vương triều chúng ta, Duy Tề Nhĩ Diệp Cáp Nhã là người uy quyền thứ hai sau Calipha. Một khi đắc tội với ông ta thì ngay cả Calipha cũng không cứu được ngươi đâu. Lần này ông ta không làm khó ngươi, xem ra đấy là vận may của ngươi đấy.
Thôi Diệu khẽ mỉm cười nói: " Thật ra càng là những đại nhân vật lại càng dễ nói chuyện. Bản thân ông ta thân phận tôn quý như thế, lẽ nào lại đi làm khó dễ một tiểu nhân vật như ta chứ"
Tên đội trưởng đội thị vệ cũng cười nói: " Ngươi nói quả không sai, ngay như điện hạ chúng ta cũng vậy, đối đãi với mọi người hết sức khoan dung, cho tới bây giờ ngài ấy cũng chưa có lúc nào tùy tiện phát nộ cả."
Lúc này cửa bên của vương cung được mở ra, một gã thị vệ trong cung đình chạy rất nhanh tới trước mặt đám người Thôi Diệu, hắn vừa thở hồng hộc vừa hỏi: " Trong số các ngươi, ai là sứ giả Đại Đường vậy"
Thôi Diệu giơ tay : « Chính là ta đây »
" Ngươi mau đi theo ta, Calipha bệ hạ muốn gặp ngươi"
Tên thị vệ dẫn Thôi Diệu đi một con đường mà hai bên trồng đường trồng hai hàng dài những cây cọ dừa. Trên những cây này đã ra rất nhiều những quả nhỏ. Đồng thời ở hai bên đường, tiếp ngay cạnh hàng cọ dừa là hai cái hồ nước xanh thẳm. Trên mặt hồ bỗng nhiên xuất hiện dòng suối nước phun ra. Và đứng ở giữa dòng nước đó là pho tượng người kỵ sĩ mặc khôi giáp đứng sừng sững. Bọn họ đi dọc con đường được lát đá cẩm thạch đen ấy rồi tiên thẳng vào vương cung.
Nhìn tổng thể, bên trong và bên ngoài của vương cung Đại Thực đều giống nhau ở chỗ tràn đầy phong cách xa hoa lãng phí. Bốn phía của vương cung đều treo đầy những trướng mạn được thêu dát cả vàng nữa. Đây chính là những kiệt tác của người Tự Lợi Á Nhân và những người Bái Chiêm Đình. Mỗi bưc thêu tấm màn trướng đều tinh xảo, đường thêu tỉ mỉ. Đặc biết là các nhân vật và các hoa cỏ trong các bức thêu đều rất sống động . Nghe nói trong vương cung này có treo tổng cộng ba vạn tám ngàn bức trướng mạn, đại đa số được làm từ lụa thượng hạng của phương đông. Ngoài ra còn hai vạn hai ngàn tấm thảm được chuyển từ vương cung Ba Tư tới đây. Đưa mắt nhìn xung quanh, có thể thấy vương cung này tràn ngập thứ ánh sáng ngọc của bảo thạch, cùng những viên trân châu cự đại. Vàng lá cũng được dát đầy trên vách tường. Còn có thứ ánh sáng lung linh, nhiều màu sắc của những viên pha lê nữa. Ở mỗi góc của cung điện đều có thể dễ dàng nhận ra bóng dáng thướt tha của các cung phi. Trang phục ai nấy cũng đều hoa lệ. Bọn họ đều nép mình sau những tấm màn trướng rồi lén nhìn, mà đánh giá về chàng thanh niên đến từ phương đông này.
Hoàng cung của Đại Thực cũng giống như hoàng cung của Đại Đường, đó là ở đây có thể rất dễ thấy được những tên hoạn quan có vóc người cao lớn. Bất quá, đám hoạn quan ở đây có kẻ da đen hay trắng mà thôi. Chỉ có điều trên nét mặt của tên nào tên ấy đều tỏ rõ sự thấp hèn, lưng chưa bao giờ đứng thẳng lên cả.
Hai người bọn họ đi qua đại môn với cánh cửa dầy cộp nặng nề. Khi bước vào trong Thôi Diệu đã nhìn thấy A Cổ Thập. Đứng ngay bên cạnh vị thân vương này là một người đàn ông có dáng người cao gầy, trông mảnh khảnh. Thoáng quan sát nhận thấy con người này, da trắng, sống mũi cao và thẳng, ánh mắt trông rất thâm thúy. Mới nhìn mà không chú ý thì cứ nghĩ đây là một nữ nhân ấy chứ. Bộ trường bào ông ta đang mặc được dệt từ các sợi vàng (hoàng bào) và còn được điểm xuyết bởi rất nhiều bảo thạch quý giá. Ngoài ra, trên tay ông ta còn cầm một cây quyền trượng được chế tác từ vàng ròng và đá kim cương. Qua trang phục và đồ dùng có thể thấy thân phận của con người này rất tôn quý.
" Ngươi thấy Calipha bệ hạ mà còn không mau quỳ xuống" Tên thị vệ nhắc nhở Thôi Diệu khẩn trương quỳ xuống.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 33: Toái Diệp phong vân (14)c
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Thôi Diệu làm như không hề nghe thấy lời nhắc nhở của tên thị vệ, hắn tiến lên một bước, cúi mình thật sâu thi lễ: " Sứ thần của Đại Đường hoàng đế tên gọi Thôi Diệu xin tham kiến Calipha bệ hạ" A Cổ Thập nhìn hắn một chút rồi quay đầu về phía Lạp Hy Đức cười nói: " Ta nghe nói hoàng đế Đại Đường trong những trường hợp không chính thức thì đều có thể bỏ qua việc quỳ lạy"
Lạp Hy Đức đối với việc Thôi Diệu có quỳ lạy trong khi hành lễ hay không, ông ta cũng chẳng có quan tâm gì nhiều. Ông ta đang quan sát một lượt Thôi Diệu, ông ta có chút ngạc nhiên hỏi: " Có thật là năm nay ngươi mới có mười sáu tuổi thôi sao. Ta xem chừng không giống thì phải"
Thôi Diệu không biết vì sao mà ông ta lại quan tâm đến tuổi tác của mình như vậy. Nhưng ngay lập tức, với thái độ bình thản, không chút xu nịnh hay phản kháng, hắn hồi đáp: " Hồi bẩm bệ hạ, quả thật năm nay thần mới có mười sáu tuổi. Nhưng thần thiết nghĩ điều này cũng không nói lên điều gì cả, chỉ cần thần không làm nhục quốc thể, không phụ sứ mệnh thì tuổi tác cũng không phải là vấn đề quan trọng. Bệ hạ nghĩ như vậy có đúng không"
Lạp Hy Đức khẽ mỉm cười, từ lời nói và cách thể hiện của thiếu niên này rõ ràng là thiếu sự khéo léo, linh hoạt của một sứ thần chuyên nghiệp. Hắn đang cố tỏ thái độ cứng cỏi không chịu hạ mình. Dường như hắn đang muốn thể hiện sự tự tôn, vị thế của quốc gia cũng như thể diện của quân chủ mà hắn tôn sùng. Ở đó còn mang theo thịnh khí, sự hiếu thắng của thiếu niên trẻ tuổi. Lạp Hy Đức thấy hắn cũng giống mình năm mười sáu tuổi. Khi đó ông ta phải đối mặt với hoàng thái hậu Ái Lợi Ni của Bái Chiêm Đình. Khi đó ông ta cũng cố gắng thể hiện để duy trì hình tượng của A Bạt Tư vương triều.
" Ban thưởng cho hắn chỗ ngồi"
Lạp Hy Đức xoay người trở lại ngồi trên chiếc ngai vàng đế vương của mình. Thôi Diệu cũng ngồi xuống một chiếc ghế khác ở cách chỗ ngồi của Lạp Hy Đức chừng mười bước. Còn A Cổ Thập thì phải đứng hầu bên cạnh vị quân chủ của hắn. Lạp Hy Đức nhìn Thôi Diệu một lát rồi thản nhiên nói: " Thật ra thân phận sứ thần của ngươi chỉ đến Bạt Hãn Na là hết rồi, ta thừa biết rằng trong ý chỉ của hoàng đế các ngươi đã viết rất rõ rằng, ông ta hy vọng Bạt Hãn Na có thể một lần nữa quy phục và đi theo Đại Đường một lần nữa. Hành động này chẳng khác nào ngươi tới ngự hoa viên của ta để hái trộm một quả cọ dừa. Cho nên khi ngươi bị bắt thì ngươi không thể còn thân phận sứ thần mà là một tên tiểu thâu (tên trộm). Theo quy định của Đạo Hồi chúng ta thì những tên tiểu thâu như vậy sẽ bị treo cổ thị chúng. Bất quá, vì yêu cầu của việc bảo tồn, không để Đạo Hồi bị mai một nên ta quyết định cứu vãn ngươi, với điều kiện ngươi phải trở thành sứ giả truyền bá văn hóa Islam cho Đại Thực chúng ta"
Lạp Hy Đức nói một cách rất chậm, có lẽ là để cho Thôi Diệu kịp tiếp thu. Về phần Thôi Diệu mặc dù vốn tiếng A Rập vẫn còn ít,, nhưng hắn có thể miễn cưỡng nghe hiểu những gì mà Lạp Hy Đức nói. Cho nên khi Lạp Hy Đức nói đến đây, hắn liền nổi ý tranh luận với ông ta: " Thần rất mong muốn được học tập và tìm hiểu văn hóa của quý quốc. Nhưng thần cần nói rõ, thần không phải là tiểu thâu. Thần chỉ đi tới mảnh đất trước đấy từng thuộc về Đại Đường, tới thăm những nữ nhân Đại Đường phải chịu đủ mọi ức hiếp, khi dễ. Nếu như Calipha nói thần là tiểu thâu, vậy thì Đại Thực các ngài có lẽ cũng từng sắm vai cường đạo rồi"
Sắc mặt của Lạp Hy Đức lúc này chìm hẳn xuống. Mắt của hắn nhìn trừng trừng vào Thôi Diệu. Ông ta đã tiếp kiến không biết bao nhiêu là sứ thần của các nước. Kẻ khác nhìn thấy ông ta nếu không khúm núm thì cũng phải tỏ thái độ xu nịnh, bợ đỡ của kẻ dưới. Vậy mà cái tên thiếu niên trẻ tuổi này lại dám mặt đối mặt cãi nhau với ông ta. Lạp Hy Đức cũng có chút nổi giận rồi.
A Cổ Thập đang đứng ở sau lưng Lạp Hy Đức cũng bị cách đối đáp của của Thôi Diệu làm cho hồi hộp, vị thân vương này còn lo sợ thay cho tên tiểu tử kia. Lập tức, A Cổ Thập khẽ ho khan một tiếng, mắt nháy Thôi Diệu , ý bảo hắn hãy nhanh chóng xin lỗi Calipha. Nhưng Thôi Diệu vẫn như không nghe thấy, nhìn thấy. Hắn cắn chặt môi, không nói một lời cũng nhìn thẳng về phía Lạp Hy Đức. Hắn tự biết rằng mình đang mang vinh nhục của quốc gia, cho nên hắn thà chết chứ không thể nào vứt bỏ đi khí tiết của sứ thần Đại Đường.
Cả hai người mắt nhìn mắt, giằng co nhìn nhau một lúc lâu. Sự tức giận trong mắt của Lạp Hy Đức dần dần thuyên giảm, bình thường trở lại. Hắn cười giễu cợt: " À! Ta quên mất, bản thân chúng ta bị bao vây trong vòng xoáy của chiến tranh thì đã không phân biệt ai là tiểu thâu ai là cường đạo rồi, chỉ có người chiến thắng và kẻ chiến bại. Khẩu khí của người xem chừng cũng giống như Đại Đường lôi, rất máu lửa. Được rồi! Người trẻ tuổi kia, ta tha thứ cho ngươi tội vô lễ"
Nói đến đây, ông ta chuyển sang một cách nói bình thản, từ tốn: " Ngươi nói cho ta biết một chút về hoàng đế Đại Đường của các ngươi, xem ông ta là một ngươi như thế nào. Theo như ta được biết thì ông ta cũng bằng tuổi của ta, lên ngôi cùng thời điểm với nhau. Cho nên ta đối với hoàng đế của các ngươi cảm thấy rất hứng thú."
Thôi Diệu cũng là một sĩ tử biết lễ nghĩa. Ngay từ nhỏ người thiếu niên này đã được tổ phụ của mình bồi dưỡng và rèn luyện cho đức tính khiêm tốn, biết tự kiềm chế bản thân. Khi thấy Calipha đã tỏ thái độ nhượng bộ dịu giọng, hắn cũng khiêm nhường đáp: " Calipha bệ hạ cũng giống với hoàng đế bệ hạ của chúng thần ở chỗ cả hai đều là những vị quân chủ hùng tài vĩ lược, có tấm lòng khoan dung độ lượng, đều là những anh hùng chân chính thời nay và là đối thủ trời sinh của nhau. Nhưng về cuộc sông riêng tư thì hai người dường như có sự bất đồng"
Lạp Hy Đức nghe Thôi Viên nói vậy, ông ta rất hài lòng, cười vui vẻ. Rõ ràng ông ta cảm nhận được sự thành thật trong lời tán dương của Thôi Diệu, đó là những lời tán dương xuất phát từ nội tâm của con người trẻ tuổi này, tuyệt đối không có ý xu nịnh gì cả. Việc Thôi Diệu tán tụng Lạp Hy Đức giống như hắn ca tụng vị quân chủ của mình lúc trước, bản thân vị Calipha này cũng có tự lý giải được. Một con người cũng dựa vào thực lực mà giành lấy ngôi vị thống trị Đại Đường đế quốc, đến nay lại dám dốc tất cả nguồn lực đất nước để cùng ông ta quyết một trận sinh tử, thì dĩ nhiên vị hoàng đế ấy chắc chắn có thể sánh vai cùng ông ta. Chỉ có điều, theo như lời Thôi Diệu thì cuộc sống riêng tư của hai người bất đồng, chuyện này khiến cho Lạp Hy Đức cảm thấy rất hứng thú.
" Vậy ngươi nói xem, rốt cuộc, đời sống riêng tư của chúng ta bất đồng ở chỗ nào"
Thôi Diệu nhìn những trâng sức xa xỉ được trưng bày, đính rát xung quanh cung điện một lần nữa, để đánh giá nơi này. Sau đó hắn ngẩng đầu lên, giọng nói có chút kiêu ngạo nói: " trọng cung, hoàng đế của chúng thần chỉ có hai trăm tên hoạn quan và ba trăm cung nữ làm việc. Còn hoàng hậu, cũng tự mình chăn tằm dệt gấm ở trong cung. Rất nhiều giày của các binh sĩ là do chính tay của người làm ra. Calipha bệ hạ có làm được những chuyện này không"
Lạp Hy Đức cảm thấy buồn cười quá, cái tên Thôi Diệu này thực chất là đang châm chọc ông ta xa hoa, lãng phí đây mà. Phàm là sứ thần của các nước khác khi tới cung điện của hắn, đều bị vẻ huy hoàng tráng lệ làm cho choáng ngợp, kêu than thán phục. Cũng không khỏi trầm trồ thán phục trước những phi tử xinh đẹp của ông ta. Chính vì nghe nhiều những lời ca ngợi tán tụng, cho nên Lạp Hy Đức cảm thấy chản ngán những mĩ từ ca ngợi sáo rỗng ấy rồi. Ngược lại những lời nói của Thôi Diệu khiến cho ông ta cảm thấy mới lạ, thích thú. Lạp Hy Đức nhẹ nhàng khoát tay, chặn Thôi Diệu nói: " Những thứ vật phẩm trong cung này phần lớn đều đến từ Đại Mã Sĩ , chúng cũng không phải là thuộc về cá nhân của ta, mà được dùng để biểu trưng cho sự giàu có của đế quốc A Bạt Tư này. Còn về phần thê thiếp, trên thực tế ta chỉ có mười mấy người, số nữ nhân còn lại ta dùng để ban thưởng cho các tướng lĩnh có công. Ngươi tuổi còn quá trẻ, chưa thể hiểu rằng một nam nhân hùng tài vĩ lược thì không thể nào sa vào nữ sắc. Ngược lại, ngươi thử ngẫm xem một vị quân chủ khi sa vào nữ sắc thì có bao giờ làm nên đại sự không"
Lạp Hy Đức đứng lên: " Tốt lắm, nhưng ta còn nhiều chuyện cần giải quyết cho nên không thể tiếp đãi ngươi lâu được. Nhưng ta có thể hứa với ngươi chỉ cần ngươi không dời khỏi Ba Cách Đạt này, ta tuyệt đối sẽ để cho ngươi được tự do. Ngươi hãy cố gắng tìm tòi, học tập lấy tinh hoa trong văn hóa của chúng ta, ta hy vọng một ngày kia ngươi trở về lại đất nước của mình, ngươi sẽ đem văn hóa của người A Rập truyền đến phương đông. Dĩ nhiên ta cũng hy vọng ngươi sẽ đem nhưng văn hóa tốt đẹp ưu tú của phương đông để truyền dạy cho chúng ta"
Dứt lời, ông ta vẫy tay cho tên đội trưởng đội thị vẹ lại gần, rồi chỉ tay về phía Thôi Diệu lệnh cho tên đội trưởng: " Ngươi hãy đưa vị khách quý này đi xuống đi, từ hôm nay trở đi đây chính là tân khách của ta, ngoại trừ khu vực cơ cấu quân sự, còn tất cả các nơi khác người này đều có thể xuất hiện, thăm thú được"
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 33: Toái Diệp phong vân (14)d
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
" Đa tạ Calipha bệ hạ, nhất định thần sẽ chăm chỉ để nghiên cứu và học tập văn hóa của quý quốc" Thôi Diệu khom người, thi lễ rùi từ từ lui xuống.
Khi Thôi Diệu vừa mới đi khỏi, A Cổ Thập liền trao đổi với Lạp Hy Đức: " Bệ hạ, có phải bệ hạ đã quá khoan dung đối với hắn chăng. Để cho hắn tuyệt đối tự do, đệ e rằng hắn sẽ chạy trốn, khi đó thì biết làm sao"
" Hắn sẽ không chạy trốn đâu" Lạp Hy Đức từ từ xoay người lại, mà cười nói với A Cổ Thập: " Mặc dù ta mới chỉ tiếp xúc trong thời gian ngắn, nhưng ta biêt rằng hắn là một văn nhân có lòng tự tôn đối Đại Đường quốc thổ của mình. Nếu như ta giam cầm hắn , hay sai người giám sát hắn thì có lẽ hắn sẽ chạy trốn. Nhưng ta cho hắn tự do tuyệt đối, thì chẳng những hắn sẽ không đi, mà ngược lại nếu muốn đi hắn cũng xin phép để nhận sự đồng ý của ta. Hắn tuyệt đối sẽ không làm tổn hại đến tôn nghiêm của Đại Đường đế quốc đâu. Đệ có tin chuyện này không"
A Cổ Thập nghe những lời phân tích của Lạp Hy Đức thì rất thán phục: " Lòng dạ của bệ hạ, thần đệ đây xâu hổ không thể nào sánh kịp"
Lạp Hy Đức khẽ thở dài một hơi nói: " Một thiếu niên trẻ tuổi, đứng trước Calipha như ta mà tiến thoái còn có lễ, không để làm nhục quốc thể. Ta càng thêm lo lắng cho chiến dịch Toái Diệp. A Cổ Thập à, ta thấy ta đã có chút khinh địch rồi"
Ông ta nói rồi chắp tay ra sau lưng, đứng hướng về phía cửa sổ. Ánh mắt của ông ta hướng về phương đông xa xôi, trong ánh mắt ấy chứa một nỗi u buồn.
Thời gian cứ thế trôi đi, dần cũng đã tới tháng mười một, đây chính là thời gian mà Toái Diệp bước vào mùa đông thực sự. Và cảnh vật ở nơi đây dường như thảy đổi tất cả khi mùa đông đến. Cả bầu trời rộng lớn ấy chỉ toàn một màu xám xịt, giống như sắc mặt của người ta sau khi cạo gió vậy. Kèm theo cái sắc trời ốm yếu ấy là một loại khí tượng hỗn độn, bất quy tắc: Toàn bộ mặt đất đều bị sương trắng phủ kín, trông khô ráo và cứng ngắc. Con sông hộ thành đã bị cái lạnh " ép" cho đóng băng mất rồi. Và trên cái mặt băng ấy là một cỗ công thành chùy vỡ vụn đang nằm chỏng chơ, cô độc. Và băng cũng đã kết đầy trên cái đống phế vật đó. Như vậy là kể từ tháng mười cho tới nay Đại Đường và Đại Thực đã " cố gắng bình tĩnh" được một tháng, binh sĩ cũng chủ yếu sống ở trong doanh trướng. Cái rét cái lạnh khiến cho họ bắt đầu cảm thấy nhớ nhà nhớ quê hương.
Bên trong thành Toái Diệp tình hình cũng rất im ắng. Chiến dịch này đã diễn ra được hai tháng, nhiều trận ác liệt đã nổ ra. Hai tháng dằng co, lúc nào cũng căng như dây đàn khiến cho ai cũng thất mệt mỏi. Trên đường cái thỉnh thoảng xuất hiện một đội binh sĩ đi tuần tra.
Vào lúc giữa trưa, trên đường phố bỗng nhiên vang lên những tiếng vó ngựa dồn dập, phá tan đi sự yên tĩnh ảm đạm của trời đông. Chủ soái Vương Tư Vũ cưỡi ngựa đi giữa, còn hai bên là một đội kỵ binh đi theo. Bọn họ quất ngựa chạy về phía bắc của thành. Vương Tư Vũ vừa nhận được một tin tức khiến cho ông ta vô cùng phấn chấn, vui mừng. Đó là một gã quân nhân trong đội quân giới đã phát minh ra một cách đối phó với công thành chùy của đối phương rất hiệu quả. Điều này khiến cho Vương Tư Vũ mừng rỡ đến phát điên lên được. Hai tháng trước đây, những cỗ máy công thành chùy cứ như những còn quái vật cuồng bạo ngay trước mắt, đe dạo rất lớn tới an nguy của tòa thành. Mặc dù lúc trước nó không cách nào để vượt qua con sông bảo vệ quanh thành, nhưng bây giờ khi mùa đông đến, mặt sông đóng băng cả rồi, tác dụng bảo vệ của con sông ấy lập tức biến mất. Nếu như không tìm ra cách chế phục cỗ máy công thành chùy kia thì e rằng việc Toái Diệp bị phá là điều không thể tránh khỏi.
Đội kỵ binh phi nhanh như gió bay, điện chớp đến thẳng một khu thao luyện. Bên trong khu thao luyện này cũng có xây dựng một tòa thành nhỏ theo mô hình của thành Toái Diệp nhưng tỷ lệ nhỏ hơn: tường cao bốn trượng, dài ba mươi trượng, và dĩ nhiên cũng có một con sông bao quanh để bảo vệ thành, chiều rộng của con sông là một trượng. Tại khu thao luyện này cũng đang bày ra mười mấy chiếc máy ném đá cùng mấy cỗ công thành chùy thu nhỏ. Năm trăm binh lính Đường quân chia làm hai nhóm thao luyện một bên công, một bên thủ.
Một gã Hiệu úy thấy chủ soái tới, hắn liền chào theo nghi thức quân đội, nhưng có chút hoang mang. Mất bình tĩnh: " Tham kiến đại soái"
" Miễn lễ" . Vương Tư Vũ khoát tay ra hiệu, rồi hỏi gấp. Có vẻ như vị chủ soái này cũng rất tò mò: " Cái biện pháp có thể chặn phá công thành chùy là gì, mau diễn luyện cho ta xem"
" Tuân lệnh" Tên Hiệu Úy đứng dậy hướng đám binh lính hô lớn: " Tất cả chuẩn bị xong chưa, bắt đầu công thành"
Viên Hiệu Úy vừa dứt lời, thì ngay lập tức mấy chục quả cầu nhỏ đã nhắm thẳng đầu tường thành mà lao đến. " Thình thịch, thình thịch" Những quả cầu lửa rơi thẳng xuống đầu tường thành, từ đó mà từng đám lửa cứ bùng bùng cháy dữ dội.. Vương Tư Vũ đứng trên một cái đài cao quan sát, toàn thân ông ta đều chăm chú hướng về cuộc thao diễn đang vào hồi tăng tốc. Lúc này, tiếng trống xuất quân lại vang lên, đây chính là Đường quân đang mô phỏng tiếng trống tiến công của Đại Thực. Tiếng trống làm hiệu, lập tức một cỗ máy công thành chùy, do ba mươi tên binh lính điều khiển ở phía sau bắt đầu tiến về phía chân thành. Dĩ nhiên, cái cỗ công thành chùy này cũng là Đường quân bắt chiếc theo cái cỗ công thành chùy ma thú của Đại Thực mà chế tạo ra. Nhìn cỗ công thành chùy này rất sống động, cũng có mấy phần dữ tợn giống như của Đại Thực. Cỗ công thành chùy đó vẫn chậm rãi tiến về phía trước. Trên đầu tường thành tên bắn xuống dày đặc như mưa, nhưng không thể nào gây trở ngại cho bước tiến của nó. Chốc lát cỗ công thàng chùy đó đã tới sát chân thành.
Đến lúc quyết định này Vương Tư Vũ vô cùng chăm chú, cả người ông ta chúi về phía trước quan sát, chân mày cau lai, đăm chiêu phán đoán. Cho đến tận lúc này ông ta vẫn không thể nhìn ra Đường quân sẽ dùng cách gì để chế phục cái công thành chùy đang lùi lũi tiên sát chân thành kia. Đầu chùy của cỗ máy ghớm ghiếc kia còn cách tường thành không tới ba thước. Chính trong lúc này từ trên bầu trời bỗng nhiên xuất hiện vô số những bóng đen. Và rồi trong tiếng gào thét của Đường quân, cả cỗ công thành chùy đồ sộ ấy lung lay. Chốc lát sau thì ầm ầm mà đổ sập xuống.
Vương Tư Vũ chứng kiến cảnh tượng ngoạn mục ấy không khỏi bất ngờ đến nỗi phải trợn mắt, há hốc mồm kinh ngạc. Đây chính là Đường quân đang tái hiện lại quá trình của cỗ Cự Vô Phách bị đổ sụp cách đây hai tháng về trước mà. Một lúc lâu sau, ông ta mới quay đầu lại hỏi: " Cách làm này là do ai nghĩ ra vậy"
" Khởi bẩm đại soái, cách làm này là do ty chức nghĩ ra ạ" Một gã binh sĩ trong đội quân giới, tuổi chừng ba mươi đứng lên hành lễ.
Vương Tư Vũ gật đầu: " Ngươi làm rất tốt. Thưởng cho ngươi năm trăm quán tiền, thăng thêm hai cấp"
Tên binh sĩ trong đội quân giới đó mừng rỡ, cuống quýt dập đầu tạ ơn. Vương Tư Vũ Thở dài một hơi, dường như ông ta có điều dự cảm gì đó, ngẩng đầu lên nhìn lên bầu trời chỉ toàn một màu xám mông lung. Một bông tuyết phiêu dạt trên không trung rồi rơi xuống mặt đất. Ngay sau đó hai bông, ba bông, rồi ngay càng có thật nhiều những bông tuyết khác. Chúng như ngàn vạn tinh thể tỏa sáng đang phấp phới giữa thiên không. Và dân dần những bông tuyết bắt đầu bao phủ cả vùng đất Toái Diệp. Nơi đây lại sắp xảy ra một màn ác chiến nữa rồi.
Đêm đã khuya.Một màn mây mù nặng nề bao phủ khắp thành Trường An. Gió bắc lạnh giá thổi ù ù. Cây cối xơ xác, trơ trọi, run rẩy trong gió rét. Trên đường phố, cũng thỉnh thoảng mới người qua lại. Khắp mọi nơi ở thành Trường An này đâu đâu cũng chỉ toàn là bóng tối bao trùm, duy chỉ có Tử Thần Điện trong Đại Minh cung là ánh đèn đuốc vẫn còn sáng trưng. Đây chính là nơi mà Trương Hoán đưa ra các đạo quân lệnh cho tiền phương. Tùy vào từng thời điểm chúng ta có thể bắt gặp những thị vệ làm nhiệm vụ truyền lệnh hỏa tốc bước ra khỏi điện. Đến lúc này cả đại điện tràn ngập một không khí khẩn trương trước cuộc chiến lớn sắp xảy ra.
Dù đã rất khuya nhưng Trương Hoán vẫn đang đứng trước tấm sa bàn khổng lồ, sắc mặt vô cùng nghiêm túc, đầy suy tính. Ngày hôm qua và ngày hôm nay, hắn đã nhận được hai tin tức. Tin tức ngày hôm qua hắn nhận được chính là việc người Hiệt Kiết Tư đã xuất ba vạn quân binh tấn công Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý, khiến cho Hồi Hột hoảng sợ, vội vàng phải triệt thoái toàn binh lính đang đóng quân ở gần Bắc Đình để trở về. Còn ngày hôm nay hắn nhận được tin báo từ Cung Nguyệt thành của Mã lão tướng quân. Theo đó thì Đường quân đã tiến tới sát Cung Nguyệt thành, bất kỳ lúc nào cũng có thể phát động tiến công vào lưu vực của sông Y Lệ hà.
Thời cơ quyết chiến đã chín muồi chủ động trong cuộc chiến này đang dần dần nghiêng về phía Đường quân. Trương Hoán nhìn chăm chú vào vị trí của Cung Nguyệt thành, tòa thành này cách Y lệ thành chừng bốn trăm dặm, cách Yêu Long thành năm trăm dặm. Nếu như Đường quân xuất binh kịp thời thì hoàn toàn có thể tiêu diệt được hai vạn quân Đại Thực đang trú đóng ở lưu vực sông Y Lệ hà. Giờ phút này, hào tâm tráng khí, nhiệt huyết của Trương Hoán sôi trào, vậy là sau mấy năm chờ đợi, chuẩn bị đến bây giờ đã có thể làm một trận quyết chiến định thiên hạ rồi. Sáu vạn Đường quân đã đi Bắc Đình, năm vạn quân đi Sơ Lặc. Trong suốt hai tháng qua bọn họ kiên trì giữ thành, nghiêm khắc quân kỷ, không hề nửa bước xuống dưới chân thành. Bước đầu đã có thể khẳng định Đại Đường đã chiến thắng về tinh thần và ý chí.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 34: Toái Diệp phong vân (15)
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
" Bệ hạ, thần cho rằng thời cơ lúc này đã chín muồi rồi" Lý Bí cầm lấy cây gậy gỗ dài chỉ vào Thổ Hỏa La nói: " Nơi này hiện tại có sáu vạn quân Đại Thực đồn trú, đây chính là số viện binh duy nhất của Đại Thực cho chiến trường Toái Diệp. Nhưng dù thế nào đi nữa thì Thổ Hỏa La vẫn là một mảnh đất có vai trò trọng yếu đối với Đại Thực. Cho nên chúng ta chỉ cần làm theo kế hoạch đã định: đem một vạn quân hư trương thanh thế tấn công, đoạt Thông Lĩnh, đồng thời huy động quân của Thổ Phiên từ Đại Bột Luật mà gây áp lực lên Đại Thực quân. Đến khi đó, cho dù có thế nào thì quân Đại Thực ở đây cũng không dám hành động thiếu suy nghĩ đâu. Như vậy ta có thể đem bốn vạn quân ở Sơ Lặc cùng phối hợp với sáu vạn quân ở Bắc Đình. Đến lúc ấy, chỉ cần không xảy ra sai lầm gì quá lớn, thì cuộc chiến ở Toái Diệp nhất định chúng ta sẽ nắm được ưu thế. Huống chi ta còn có kỳ binh trong tay nữa"
" Kỳ binh" Trương Hoán dùng cây gỗ dài chỉ vào A Sử Bất Lai thành: " Ý tiên sinh là nơi này sao"
" Không sai" Lý Bí vuốt râu cười nói: " Nếu như Đại Thực vì dẫn dụ được Hồi Hột xuất chiến mà bỏ qua A Sử Bất Lai thành, vậy thì chúng ta không nên bỏ qua việc lợi dụng cơ hội này. Cho dù là nó không đóng góp gì lớn cho toàn cục, nhưng ít ra cũng khiến cho sĩ khí của Đại Thực quân bị ảnh hưởng"
Trương Hoán nghe Lý Bí nói vậy, hắn hiểu và không nói thêm gì nữa. Trong đầu vị hoàng đế này đang chạy thử một lần 'kịch bản" của cuộc chiến này. Tất cả điều kín kẽ, không có gì sơ hở lắm. Bây giờ cần phải đưa ra các chỉ thị cụ thể cho các tướng lĩnh của mình để họ thực hiện thôi.
" Truyền mệnh lệnh của ta tất cả thực hiện ngay kế hoạch " Bạo phong tuyết" "
Tháng mười một năm Đại Trị thứ năm, sáu vạn quân ở Bắc Đình vốn chuẩn bị đã lâu, đến nay nhận được quân lệnh của hoàng đế bệ hạ, lập tức xuất binh. Dưới sự xuất lĩnh của Mã lão tướng, bọn họ từ Cung Nguyệt thành chia làm hai đường tấn công vào quân Đại Thực ở lưu vưc sông Y Lệ hà. Cánh quân thứ nhất gồm ba vạn quân, hành quân theo hướng tây vòng qua đường Yêu Long thành rồi tiêu diệt toàn bộ năm ngàn quân Đại Thực ở mặt phía tây này. Ngay sau khi hoàn thành nhiệm vụ, cánh quân này lập tức chuyển hướng về phía đông, cùng hội hợp với cánh quân phía đông ở Y Lệ thành, bao vây đường rút lui của một vạn năm ngàn Đại Thực quân còn lại. Trải qua ba ngày kịch chiến, quân Đại Thực vì số lượng không nhiều lại dàn trải không thể tương cứu lẫn nhau cho nên bị thất bại thảm hại: Gần chín ngàn người bị chết, năm ngàn quân bị bắt làm tù binh. Ngược lại Đường quân chiến thắng vang dội, quét sạch Đại Thực quân ở sông Y Lệ hà. Ngay sau đó số quân Bắc Đình này lại quay đầu xuôi nam, thẳng tiến tới Toái Diệp.
Khi Đường quân ở Bắc Đình xuất binh, thì Đường quân ở Sơ Lặc cũng đồng thời nhận được chỉ thị của Trương Hoán lập tức lên đường. Tào Hán Thần sau khi nhận lệnh, tự mình dẫn theo bốn vạn đại quân, theo đường Kim Long đại đạo tiến ra Vân Sơn khẩu, rồi thẳng tiến về hướng bắc. Đồng thời với đó, ông ta phái hơn một vạn đại quân nhưng hư trương thanh thế cho ra vẻ năm vạn đại quân vượt qua Thông Lĩnh, tiến tới Thổ Hỏa La. Đồng thời với đó, hai vạn quân của dân tộc Thổ Phiên cũng phối hợp với Đường quân, một lần nữa xuất binh đi Đại Bột Luật, gây áp lực cho Đại Thực ở Kiện Đà La.
Toái Diệp, chiến tranh tàn khốc lại một nữa bùng phát, lần này xem chừng còn ác liệt hơn nhiều. Hai mươi vạn quân Đại Thực bắt đầu rầm rộ tiến công vào Toái Diệp thành. Bọn họ cũng nhận được quân lệnh từ Ba Cách Đạt giống như những lần trước, đó là phải đánh hạ được Toái Diệp thành trước tháng mười hai.
Trên chiến trường lúc này, ba chiếc máy ném đá của Đại Thực đã bắt đầu hoạt động. Những quả cầu lửa cứ thế tràn ngập cả bầu trời lao về phía đầu của tường thành. Trên tường thành lúc này đã xuất hiện một biển lửa. Trong lần tái chiến này Đại Thực không chỉ tấn công mặt phía đông mà mặt bắc và mặt nam thành cũng là những mục tiêu công kích của chúng. Trong số ba mặt thành thì mặt bắc là nơi chịu sự tấn công dữ dội và khốc liệt nhất. Trong đêm tối, vô số những quả cầu lửa lao đi tạo thành một thứ ánh sáng loang loáng rừng rực. Những hỏa cầu này rơi rầm rầm lên đầu tường thành, bùng cháy khiến cho nơi này như bị bao phủ bởi một màn lửa, càng lúc càng bốc lên bùng cháy. Nó như một con quái thú điên cuồng mà cắn nuốt từng viên gạch , góc tường của mặt thành. Những quả cầu lửa cháy đỏ rực chiếu sáng cả bầu trời đêm, và làm tan cái giá lạnh của đêm đông nơi đây.
Nhận nhiệm vụ phòng thủ ở mặt bắc của Toái Diệp thành là đệ tam quân đoàn, cộng thêm một vạn hai ngàn người nữa. Số quân này chia làm hai kíp, có thể cùng chiến đấu với quân địch suốt đêm không cần nghỉ ngơi. Trên đầu tường thành lúc này, hầu như tất cả mọi chỗ đều đã bị Hy Lạp hỏa bao trùm hết cả rồi, đâu đâu cũng là lửa. Sáu ngàn Đường quân thủ thành được trang bị quân phục phòng lửa, nhưng bọn họ vẫn phải ẩn nấp sau những bức vách phòng lửa, cắn răng chịu đứng sức nóng của nhiệt độ cao đang thiêu đốt. Để đối phó với Hy Lạp hỏa, Đường quân đã cho thiết kế đường cản lửa. Bọn họ lấy gạch đá xây lên ở chỗ đầu tường thành những bức vách thật dày, bề rộng chừng năm thước để phòng ngừa và hạn chế sức công phá của những quả cầu lửa. Rất nhiều Đường quân đang chen chúc ẩn nấp sau những bức vách đó.
Lửa ở trước đường băng cản lửa mà Đường quân tạo ra càng ngày càng bùng cháy, nhiệt độ ở mặt trước và mặt sau, ngày càng tăng cao như thiêu như đốt lấy binh sĩ. Bên trong thông đạo không khí đã nóng ran, khiến cho nhiều người cơ hồ như không thể nào thở được nữa. Bỗng nhiên một đoạn thông đạo ở mặt phải trúng phải hỏa đạn công kích nên bị sụp xuống. Con quái vật lửa kia được thể nhe nanh giơ vuốt, cười khằng khặc phả ra hơi nóng kinh người cứ thế mà xông vào thông đạo. Hai trăm Đường quân bị lửa thiêu đốt ai nấy cũng đều kêu gào thảm thiết. Mười mấy tên binh lính cơ hồ như mất hết lý trí, cứ thể lao thẳng đầu vào biển lửa.
" Không thể lo cho bọn họ được nữa. Mau rút lui ngay" Trung lang tướng Hàn Việt nhận thấy tình thế nguy cấp. Hắn gào thét ra lệnh cho quân sĩ của mình. Trong khi Đường quân còn đang chuẩn bị, chưa ai kịp rút lui thì bỗng nhiên tất cả như chao đảo, ngã quỵ xuống. " Đùng" Một tiếng động thật lớn, kèm theo đó là sự rung chuyển dữ dội. Một đoạn thông đạo dài chừng ba mươi trượng bị đánh sập xuống. Hơn bốn trăm Đường quân không kịp tránh bị nhấn chìm trong biển lửa. Không khí vốn đã ngột ngạt giờ đây mùi thịt người cháy khét lẹt lại càng khiến cho con người ta không sao thở nổi.
Nhưng Đường quân cũng đã không còn cơ hội để mà thương cảm cho đồng đội, bởi vì những hỏa cầu của quân địch được bắn đi với số lượng mỗi lúc một dày đặc hơn. Và cuối cùng tiếng trống tùng tùng cũng vang lên báo hiệu một cuộc tiến công bằng binh lính. Dưới sự yểm hộ của Hy Lạp hỏa, có vô số quân Đại Thực bắt đầu hướng Toái Diệp thành mà tấn công. Trong thời gian hai tháng, bọn họ đã chế tạo được mấy trăm chiếc xe thang. Những chiếc thang cao vút đặt trên những chiếc xe, chúng cứ thế lù lù di chuyển về phía chân thành. Đi sau mỗi chiếc xe thang này là gần ngàn quân Đại Thực.
Về phía Đại Thực, đơn vị phụ trách tấn công mặt bắc của Toái Diệp thành là ba vạn quân Ai Cập. Số này được biên chế thành các nhóm và đi theo sau những chiếc xe thang công thành. Bọn chúng rầm rộ, lì lợm tiến sát chân tường thành. Còn bảy trăm bước nữa. Với khoảng cách này thì bọn chúng đã nằm trong phạm vi công kích của Đường quân. Nhưng Đường quân trên thành vẫn chưa phản công gì cả. Bọn họ vẫn cứ đứng ở các lỗ châu mai chăm chú nhìn vào kẻ địch bên dưới đông như kiến cỏ đang tiến lại gần. Khoảng cách giờ đây còn năm trăm bước nữa. Trung Lang tướng Hàn Việt hăng máu nện một đấm xuống mặt tường thành. Hắn quát ầm lên: " Mẹ khỉ, mọi người muốn chết hết hay sao mà còn chưa bắn tên đi hả"
Tiếng quát mắng của Hàn Việt vừa dứt thì ngay lập tức những tấm ván phòng lửa mà Đường quân vẫn ẩn nấp sau đó nãy giờ, bỗng nhiên được hất lên. Và sau đó là một trận mưa dày đặc những trái Đại Đường thiên lôi( đạn pháo) được bắn ra, nhắm thẳng số địch nhân đang tiến sát chân thành kia. Những tiếng nổ lớn, sức công phá mãnh liệt của " vũ khí tối tân" này, như nuốt chửng cả cái quân đoàn Ai Cập kia. Số binh lính Ai Cập này mới được bổ sung tham chiến cho Toái Diệp, cũng mới tới chiến trường này được một tháng và chưa có dịp thưởng thức " vũ khí uy lực nhất" của Đại Đường – Đại Đường lôi. Chỉ một thoáng thôi huyết nhục của những binh lính Ai Cập này đã tung tóe, có khi cả tứ chi cũng bị đứt lìa, hất tung lên cao mấy trượng. Từng mảng lớn những binh lính Ai Cập ngã xuống. Đó là chưa kể tiếng nổ long trời lở đất của Đại Đường thiên lôi đã khiến cho vô số người thủng cả màng nhĩ. Có vài chiếc xe thang đã bị trúng đạn, tan tành cả, và hơn năm mươi binh lính trên mấy cái xe thang ấy đều bị rơi xuống, kéo theo một số lượng lớn binh sĩ bị đè chết. Đến thời khắc này, cả lớp sóng người tiến công dưới chân thành kia đã có đôi chỗ xuất hiện tư tưởng chùn bước, sợ hãi. Và khi mà cái màu đen của thuốc súng tan dần, chiến trường hiện ra rõ hơn thì quân đội Ai Cập như bừng tỉnh, bọn chúng điên cuồng lùi về phía sau. Cái loại vũ khí chưa từng nghe qua này khiến cho bọn chúng chết quá nhiều nên đâm ra run sợ. Đại quân lùi cả lại phía sau, không kẻ nào liều lĩnh cả. Và trên chiến trường lúc này chỉ còn lại mười mấy chiếc xe thang trơ trọi.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 34: Toái Diệp phong vân (15)b
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Nhưng những tên Hô La San làm nhiệm vụ đốc chiến ở phía sau đã sớm dự đoán được việc những binh lính Ai Cập kia sẽ chùn bước rút lui, cho nên bọn chúng lớn tiếng quát tháo, dùng đao chém, mâu đâm để ép những binh lính Ai Cập kia phải quay trở lại chiến trường. Con sóng người vừa rút chạy lại tổ chức một đợt tiến công mới. Sau một loạt những tiếng nổ kinh khủng lần trước đến bây giờ bọn họ mới hoàn hồn đôi chút, sự sợ hãi cũng giảm đi phần nào. Họ đã bắt đầu ý thức được cái thứ vũ khí của Đường quân kia với biển lửa đang thiêu đốt trên tường thành cũng không có gì khác nhau cả. Và con đường duy nhất để họ thoát khỏi tử thần là chạy thật nhanh tới sát chân thành để tránh tầm sát thương của Đại Đường lôi.
Cho nên, biển người lại bất chấp nguy hiểm xông lên hy vọng tìm được sự sống mong manh trong cái chết. Và giữa tiếng nổ long trời kinh khủng, những chiếc mũ nồi ( kiểu mũ chụp đầu của người Ai Cập), những chân cẳng lại bay tứ tung trên chiến trường. Bọn họ đã không còn đường lui nữa, cứ thế cắm đầu tiến lên, và dĩ nhiên là ba vạn đại quân phải chịu tổn thất nặng nề. Nhưng cuối cùng cũng đã có nhiều người tới được sát chân thành. Khi đội quân tiến công này đã đến được vị trí cần thiết thì các hỏa cầu cũng dần dần ngừng bắn. Thế trận của bắc thành lúc này chính thức chuyển sang công thành.
Hơn ba mươi chiếc xe thang công thành được ùa lên, chúng nhanh chóng được đẩy lướt qua mặt băng của con sông hộ thành và dừng lại ngay sát bức tường kia. Và gần hai vạn tên binh lính Ai Cập còn sống sót sau loạt đạn pháo vừa rồi lại điên cuồng mà trèo lên. Những chiếc xe thang công thành này cao chừng bốn trượng, ở phía dưới có thang lầu có khả năng đảm bảo cho năm người cùng bước lên. Còn ở phía đầu thang có cái vách cản rất lớn, nếu thành trì nào đó không cao thì các vách cản này sẽ được buông xuống có thể trực tiếp bám chặt lên mặt của tường thành, còn đối với những tường thành quá cao thì các xe thang công thành này lại được rút cho cao lên nữa. Và lần tấn công Toái Diệp thành cũng vậy, các xe thang đều phải rút lên cao hết cỡ bởi vì tường thành cao vút, dễ có cao đên bảy tám trượng chứ chả ít. Quả thật là nếu không có các thang lầu này thì Đại Thực quân rất khó để leo lên được tới mặt tường thành.
Ba chiếc xe thang đồng thời bám chặt vào đầu của tường thành. Những chiếc móc sắt khổng lồ móc chặt thang với tường thành để đề phòng thang bị lật xuống. Những binh lính Ai Cập nhảy lên thang, cắm đầu cắm cổ mà trèo thật nhanh trên các bậc thang để lên đầu tường thành. Giờ phút này, biển lửa mà những hỏa cầu của Đại Thực vừa gây ra đã dần dần được dập tắt. Sáu ngàn Đường quân hất phăng các ván tránh lửa, tay cầm cung nỏ, bắn tên xuống dưới. Đường quân tên bắn như mưa, dày đặc như ngàn vạn mũi kim châm, cứ thế nhắm thẳng vào đầu của những tên lính Ai Cập điên cuồng kia mà giội xuống.
Dĩ nhiên, số quân Ai Cập kia cũng không thể cứ đầu trần mà để mặc cho trúng tên, bọn họ giơ những tấm chắn phòng ngự. Nhưng mỗi mũi tên của Đường quân đều rất uy lực, cho nên những tấm chắn của quân Ai Cập khó có thể cản nổi được. Và sau vài loạt tên, những tấm chắn này đã bị bắn thủng. Có rất nhiều nhóm binh lính trúng tên mà chết. Còn số binh lính ở trên thang cũng không lấy gì làm may mắn hơn, bọn họ cũng trúng tên mà rơi xuống đất. Những tiếng gào thét đầy chết chóc và thảm thiết.
A Lan vẫn phụ trách chỉ huy mặt trận tấn công phía bắc thành. Theo tin báo nhận được thì các đợt tiến công ở mặt phía đông và phía nam thành cũng bị chững lại và rất khó khăn. May ra thì chỉ có mặt bắc của ông ta là có xuất hiện cơ hội chuyển biến. Thật ra đây cũng là sách lược gây nhiễu của ông ta mà thôi. Đại Thực tấn công ba mặt bắc, đông, nam của Toái Diệp nhưng thật ra chỉ có mặt bắc của ông ta là mới tấn công thực sự. Ở đây tập trung số lượng máy bắn đá nhiều gấp đôi so với hai mặt trận kia. Ngoài ra, không chỉ có ba vạn quân Ai Cập trực tiếp tham giatham gia tấn công mà còn có thêm hai vạn quân Hô La San làm hậu viện dự phòng.
A Lan nhìn thấy việc tiến công đã có hiệu quả, liền lập tức hạ lệnh: " Điều thêm năm mươi xe thang công thành tới mặt bắc. Tăng viện thêm một vạn Hô La San quân."
" Tùng! Tùng!Tùng" . Tiếng trống trận từ phía Đại Thực lại dồn dập vang lên. Một vạn quân Hô La San đã xông lên, tham chiến. Và từ trên tường thành đạn lôi của Đường quân tiếp tục gầm rú mà bắn xuống. Nhưng số quân Hô La San này hiển nhiên là có sự chuẩn bị từ trước. Bọn họ không bộ hành mà phi ngựa xông lên. Khi vào tầm tên bắn của Đường quân, bọn chúng liền gia tăng tốc độ của ngựa, tay giơ cao các khiên chắn. Cho nên chỉ sau một loạt oanh tạc, bọn chúng như chớp giật đã đột kích vượt qua tầm sát thương của đạn lôi. Tổn thất có khoảng ngàn người mà thôi.
Một vạn Hô La San quân đột ngột tham chiến khiến cho tình hình của Đường quân ở mặt bắc này ngày càng căng thẳng và khó khăn. Số Hô La San quân này thực hiện chiến thuật lao mâu ngắn trên quy mô lớn. Bọn chúng lợi dụng tốc độ chạy nước rút của ngựa rất mạnh, đồng thời dùng sức mạnh của cánh tay lao những mâu ngắn nặng năm sáu cân đi xa đến năm mươi bước. Hơn nữa, bọn chúng thực hiện chiến thuật đó rất bài bản. Một ngàn kỵ binh ở cách tường thành độ ngoài hai trăm bước thì lập tức lao mâu, rồi nhanh chóng lùi ra nhường không gian để cho một ngàn kỵ binh khác chạy nước rút và phóng lao. Cứ như thế nhóm này xuống thì nhóm kia lên. Những loạt mâu ngắn cứ như mưa đổ ập lên đầu tường thành. Chiến thuật phản kích này quả thật đã mang lại hiệu quả, trên thành vang lên nhiều tiếng kêu thảm thiết, Đường quân cũng đã xuất hiện rất nhiều thương vong. Vì thế cho nên màn mưa tên cũng không còn duy trì được mật độ dày đặc như lúc trước nữa. Nhất là ở đoạn tường thành phía tây đã có mười mấy tên Ai Cập bị giết trong khi vừa mới vượt được thang trèo lên tường thành.
Chủ tướng Hàn Việt nhận nhiệm vụ trấn giữ bắc thành lúc này cũng đã mỏi mệt lắm, mồ hôi vã ra như tắm. Số Đường quân còn lại không tới bốn ngàn người, trong khi đó bản thân hắn cũng bị trúng phải một cây mâu ngắn nên gãy luôn cánh tay trái rồi. Mắt thấy quân địch đang huy động thêm năm mươi chiếc xe thang đang chuẩn bị tiến sát tường thành. Đồng thời ở phía xa kia, địch quân vẫn còn đông đảo, nhìn không cả thấy giới hạn dàn quân của chúng. Người thì như thế, tình hình thì như vậy cho nên chân tay Hàn Việt đã bắt đầu luống cuống.
Chính trong lúc này, đích thân chủ soái Vương Tư Vũ mang theo ba ngàn nỏ binh tới chi viện cho bắc thành. Mặc dù quân địch tổ chức tấn công Toái Diệp ở ba mặt thành, nhưng Vương Tư Vũ thấy có điều bất thường ở mặt bắc, vì dường như sự công kích của cầu lửa ở đây mãnh liệt hơn, số lượng quân địch cũng đông đảo hơn so với hai mặt còn lại. Cho nên ông ta lập tức điều quân dự bị chi viện cho bắc thành. Bản thân ông ta suất lĩnh ba ngàn tay nỏ trực tiếp tới đốc chiến.
Vừa tới nơi, Vương Tư Vũ thấy bắc thành ngổn ngang những xác người, Đường quân chết thảm quá nhiều, trong lòng ông ta không khỏi trầm xuống: " Hàn tướng quân, tình hình ở bắc thành thế nào rồi"
Hàn Việt thấy chủ soái trực tiếp đến đốc chiến, trong lòng hắn hơi bình tĩnh trở lại, bẩm báo với chủ soái: " Bẩm tướng quân, tình hình bắc thành vô cùng căng thẳng, chủ lực của địch quân là Hô La San dường như còn chưa tham giatham gia chiến đấu"
Vương Tư Vũ lúc này mới để ý thấy cánh tay của Hàn Việt đã bị gãy, ông ta lập tức lệnh cho Hàn Việt: " Ngươi đi xuống điều ba trăm bộ mô hình đá nhỏ lên đây. Ta sẽ trấn thủ nơi này"
Dứt lời, ông ta liền hét lớn một tiếng, trường thương trong tay ông ta huy động ngăn chặn mấy tên Ai Cập đang ngấp ngó trên tường thành. Trường thương trong tay Vương Tư Vũ như bão tố, thương pháp lại tinh chuẩn vô cùng. Mỗi lần xuất thương là lại có mấy địch quân bỏ mạng. Chỉ trong có nháy mắt thôi, mà đã có hơn mười mấy tên địch nhân bỏ mạng dưới trường thương của ông ta. Binh lính Đường quân thấy chủ soái của mình đích thân đốc chiến giết địch cho nên tinh thần của bọn họ vô cùng phấn chấn chỉ trong có một hồi trống mà đã đánh hạ được hơn ngàn tên Ai Cập quân khỏi những cái xe thang kia. Ngay sau đó, mũi thương của Vương Tư Vũ rung lên, ông ta với cây thương một hơi làm cho ba chiếc thang bị gạt ra khỏi tường thành. Những chiếc thang bị xô lệch kéo theo đó là một chuỗi những tiếng kêu thảm thiết của địch nhân bị ngã xuống. Nhưng khi mà cái thang này vừa bị hất xuống thì cái thang khác đã lại được dựng lên. Hơn nữa mâu ngắn của quân địch cứ như châu chấu, gào thét mà lao lên. Vì thế cho nên trong phạm vi gần tường thành ba trượng Đường quân không có cách nào tiếp cận được.
Lúc này, ý niệm trong đầu Vương Tư Vũ đột nhiên lóe lên, ông ta lập tức hạ lệnh: " Nhanh chóng điều hai ngàn Mạch đao quân"
Bởi vì ở khu vực bắc thành này số lượng các tảng đá ít hơn so với các khu vực khác hơn nữa toàn bộ đá lại được dùng cả vào việc xây dựng các công sự, cho nên trong cự ly gần như thế này Đường quân cũng không thể nào ném đá để chặn kẻ địch được. Trong tình huống này, chỉ có Mạch Đao quân được trang bị trọng giáp mới có thể không sơ đoản mâu của địch quân.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 34: Toái Diệp phong vân (15)c
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Toàn bộ ba mươi chiếc xe thang của địch quân đã bám chắc lên tường thành rồi. Đồng thời với đó là một vạn kỵ binh Hô La San cũng đã tiếp ứng đến nơi. Như vậy tính đến giờ phút này, chủ soái bên phía Đại Thực đã cho bốn vạn quân tham gia chiến đấu. Trong đó bao gồm cả quân chủ lực của bọn chúng – Hô La San quân. Số quân Hô La San này đang dần thay thế cho số quân Ai Cập trong chiến đấu. Một vạn quân Hô La San ào tới như những đợt thủy triều. Bọn chúng tên nào tên nấy cũng xông lên vô cùng hung hãn, cảm tưởng như chúng không sợ chết vậy. Trang bị của số quân này cũng rất chắc chắn: đầu đội hắc khôi, người mặc áo giáp, sức chiến đấu rất cường hãn, như những con ác thú khát máu. Trong khi đó Đường quân ở bắc thành này phần lớn lại là nỏ quân, khả năng cận chiến giáp lá cả có phần thua thiệt. Đã có vô số quân Hô La San lên được tường thành rồi, chúng ra sức chém giết. Đường quân chống cự rất vất vả, xuất hiện nhiều thương vong. Bắc thành Toái Diệp lại một lần nữa rơi vào tình thế nguy hiểm.
Chính trong lúc này, hai ngàn Mạch Đao quân từ dưới thành đã xếp thành đội ngũ xông lên. Việc Mạch Đao quân tham gia chiến đấu, khiến cho thế trận trên tường thành lập tức có sự đảo ngược. Với việc được trang bị trọng giáp và mạch đao bọn họ đứng dàn hàng cứ như là một bức tường án ngữ ngay đầu thành. Ngay lập tức Mạch Đao quân huy động mạch đao, ánh đao sắc lạnh lóe lên, kéo theo đó là huyết nhục của địch nhân văng tứ tung. Cả người lẫn thang đều bị chém thành những mảnh nhỏ. Thế tiến công của Đại Thực lại bị bẻ gãy một lần nữa.
Đi kèm theo những tiếng động đùng đùng như sấm nổ là ba trăm bộ mô hình đá nhỏ được đưa lên trên mặt thành. Đây là các bộ mô hình sử dụng kết cấu bàn xoay rất tinh vi và khéo léo. Kết cấu đơn giản chỉ có bao nhiêu đó thôi. Và cũng chỉ có bốn người điều khiển. Tầm bắn tối đa của nó chỉ có tám mươi bước trở lại, nhưng sự linh hoạt và cơ động của cỗ máy này khiến nó trở thành bảo bối trong việc phòng ngự ở cự ly ngắn.
Cơ chế hoạt động của nó cũng khá đơn giản: Hai gã Đường quân dùng sức quay cái bàn xoay. Cả cỗ máy chuyển động lạch cạch, cái bàn xoay được vặn căng hết sức. Trong khi đó một tên Đường quân khác nhanh chóng lắp đạn, và tên lính còn lại thì châm ngòi nổ. Đợi cho ngòi nổ cháy được một chút, hắn lập tức phất tay ra hiệu, hô to một tiếng: " Phóng" . Thế là thanh gỗ liền được thả cho bật tung ra, kéo theo đó là một quả đạn lôi màu đen được bắn vọt lên không trung. Bên cạnh nó là mấy trăm quả đạn lôi khác cũng thi nhau mà vọt lên. Những quả đạn lôi này vẽ lên không trung những đường cong, chúng hướng phía dưới chân thành mà rơi xuống.
Mấy trăm quả đạn pháo được bắn ra rơi thẳng xuống trận địa đang dày đặc người của quân địch ở dưới chân thành. Những tiếng nổ mãnh liệt vang lên, tưởng như có thể khiến cho trời long đất lở. Chiến mã hí vang, lửa đỏ rừng rừng ngút trời. Và kèm theo đó là những tiếng gào thét thảm thiết như điên như dại cùng tiếng rên la dậy đất. Sau một loạt tiếng nổ khủng khiếp đó là mấy trăm cột khói đen từ mặt đất ngùn ngụt bốc thẳng lên trời. Không chỉ có người chết mà mười mấy bộ xe thang công thành cũng bị nổ tan tành, chỉ còn là những mảnh vỡ. Chính trong lúc này bỗng vang lên những tiếng tù và phát ra từ chiến tuyến của Đại Thực. Đây là lệnh thu binh. Ở dưới chân thành, tất cả binh lính Đại Thực lại như một con thủy triều đồng loạt rút về phía sau.
" Nhanh chóng bắn triệt hạ bọn chúng" Vương Tư Vũ lúc này dường như không cần nghĩ ngợi gì cả, ông ta đang hạ lệnh theo bản năng. Và hưởng ứng lời của ông ta, những hỏa cầu từ trên thành lại tới tấp được bắn xuống dưới khiến cho cả mặt đất như chao đảo.
Nhưng những điều gì xảy ra sau đó lại không hề giống với những gì mà Vương Tư Vũ dự đoán. Toàn bộ Đại Thực quân ở phía đối diện bỗng nhiên yên lặng, án binh bất động. Đồng thời hơn một trăm chiếc máy ném đá hạng nặng cũng được từ từ cho lui về phía sau. Và theo thông tin nhận được từ chiến trường ở mặt đông và mặt nam thành thì quân Đại Thực cũng đang có những chuyển biến tương tự như thế.
Đường quân dường như cũng dự đoán được chuyện gì sắp xảy ra. Bọn họ ngẩng đầu nhìn về phương xa kia, ở đó có mấy con quái vật khổng lồ, đen sì bỗng nhiên chuyển động. Tất cả Đường quân không khỏi có một phút kinh tâm về mấy con quái vật kia và những giây phút chiến đấu với nó sắp tới. Theo sự chuyển động của chúng mặt đất cũng bắt đầu có sự chấn động, những tiếng rầm rập lại một lần nữa vang động ở phía chân trời kia. Lần này Đại Thực quân không chỉ sử dụng có công thành chùy ở một mặt trận. Mà cả ba mặt trận phía đông, phía bắc, và phía nam thành đều đồng loạt sử dụng công thành chùy để tấn công. Mấy con quái vật này cứ thế lầm lũi tiến sát tới chân thành. Quân Đại Thực ở phía dưới im lặng, không một tiếng động, còn Đường quân đứng trên thành ai nấy sắc mặt tái nhợt, ngây người nhìn những cỗ công thành chùy kia tới gần, Đây chính là đòn sát thủ cuối cùng của Đại Thực quân rồi.
" Đem phá chùy khí (vũ khí phá công thành chùy) tới đây" . Vương Tư Vũ sắc mặt trầm trọng, nhìn chăm chăm vào cái công thành chùy kia ra lệnh cho Đường quân. Không biết phá chùy khí mà Đường quân mới phát minh ra có đủ để đối phó với những cái công thành chùy khổng lồ của Đại Thực này không nữa.
Dưới thành, A Lan cũng lạnh lùng và chăm chú nhìn vào con quái vật công thành chùy đang tiến gần tới tường thành. Hai tháng trước đây khi con sông bảo vệ thành còn chưa đóng băng, cái công thành chùy này không thể làm ăn gì được. Nhưng giờ đây mặt sông đã đóng băng, lớp băng kết cũng dầy và chắc chắn, và như vậy là không có bất kỳ chướng ngại nào nữa. Để xem Toái Diệp thành lần này có thể kiên trì được trong bao lâu nữa.
" Tiến công" A Lan đã ban ra điều lệnh thứ nhất.
Bốn trăm thớt lạc đà kéo công thành chùy đã được giải tán, thay vào đó là ba ngàn tên lính trực tiếp dùng sức người đẩy nó về phía trước. Một khắc đồng hồ sau, công thành chùy đã cách tường thành không tới bốn trăm bước.
" Mai Tái Nhân tướng quân, ta cảm giác như có điều gì đó không ổn" Phó tướng Mặc Nhã Lợi nhìn chừng chừng lên tường thành: " Quá yên tĩnh, Đường quân chẳng lẽ lại bó tay chịu chết hay sao, thật kỳ quái"
A Lan được bộ tướng của mình nhắc nhở, nên ông ta cũng để ý về sự yên lặng của cả Toái Diệp thành. Sự yên tĩnh này khiến cho người khác cảm thấy thật ma quái. Quả thật là không nên yên lặng như thế chứ. Chẳng lẽ là Đường quân lại dám xuất thành để tập kích công thành chùy hay sao.A Lan nhướng mày suy đoán và ngay sau đó ông ta ra lệnh: " Lệnh cho một vạn kỵ binh Hô La San lập tức xuất kích bảo vệ công thành chùy. Nếu Đường quân dám xuất thành công kích thì chiếm ngay cổng thành"
Lệnh vừa ban ra, một vạn Hô La San liền lập tức xuất phát chia làm ba đội, tiến về phía ba chiếc công thành chùy kia, và hộ vệ cho chúng ở dọc hai bên sườn. Các công thành chùy tiếp tục được đẩy nhanh về phía trước. Còn hai trăm bước là tới chân thành. Ai nấy cũng đều hồi hộp, đến nỗi dường như tim đã thót lên tới cổ họng rồi ... Và còn năm mươi bước, ba mươi bước nữa, ba chiếc công thành chùy đều gia tăng tốc độ lấy đà để tạo ra một cú đâm đầu tiên thật kinh thiên động địa
Chính trong lúc này, từ trên đầu tường thành, bỗng nhiên có mấy trăm chiếc dây thừng chão được ném xuống. Mỗi cái dây thừng này to đến bằng cả cổ tay người, dài chừng trăm trượng. Mỗi đầu dây chão này được buộc vào một chiếc móc câu sắt rất lớn. Sau tiếng va chạm của những thứ kim khí chạm nhau thì người ta thấy có ít nhất là những chiếc móc câu của hơn một trăm chiếc dây thừng đó đã quặc vào những xích sắt của công thành chùy.
Rồi, các dây thừng chão này đột nhiên căng thẳng. Sở dĩ như vậy, là vì trên đầu tường thành thì mỗi dây thừng chão này được hơn một trăm Đường quân cầm kéo. Cả mấy trăm chiếc thừng chão ấy đồng loạt hò dô mà kéo. Công thành chùy tưởng chừng chắc chắn là thế nhưng đến giờ nó đã bắt đầu lung lay sang trái một chút rồi lại sang phải. Và rồi, dần dần con quái vật ấy lung lau dữ dội lắm. Quân Đại Thực ở phía dưới công thành chùy thấy vậy thất kinh, rối rít bỏ chạy tứ phía. Bỗng nhiên, cả công thành chùy bị co kéo mạnh mất trọng tâm nên đổ vật sang bên cánh phải. Một tiếng " Uỳnh" thật lớn vang lên, cả cái cỗ công thành chùy khổng lồ dường như không chịu nổi sức co kéo của Đường quân nên đã phải đầu hàng mà ngã vật xuống. Mặt đất đầy bụi bay lên sau cú ngã của con quái vật đó.
" Thành công rồi" . Ở trên thành nổi lên những tiếng hoan hô, nhảy múa vui mừng của Đường quân. Tiếng hân hoan gào thét của họ vang dội cả một góc trời Toái Diệp. Tình hình ở mặt trận phía nam và phía đông của Toái Diệp cũng diễn ra tương tự như ở bắc thành. Cả ba con quái thú khổng lồ kia đồng thời đã bị sự mưu trí của Đường quân làm cho hư hại đi rồi. Thế cho nên trên tường thành Toái Diệp đâu đâu cũng thấy sự vui mừng.
A Lan chứng kiến cả ba cỗ công thành chùy đều bị hạ đo ván một cách chóng vánh, cho nên ông ta rất tức giận, sắc mặt xanh mét. Ông ta hét lớn một tiếng: " Bắn đạn dầu hỏa cho ta. Ta xem ở trong biển lửa, còn kẻ nào có thể phá đám được nữa không"
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 35: Toái Diệp phong vân (16)
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
" Tướng quân, các công thành chùy đều đã ở quá gần tường thành, nếu như chúng ta bắn đạn dầu hỏa thì sợ rằng các công thàn chùy kia sẽ bị đốt cháy." Mặc Nhã Lợi vội vàng khuyên A Lan: " Hơn nữa, chúng ta bây giờ chỉ còn lại có một cỗ công thành chùy thôi, cho nên không thể sơ suất được nữa, chi bằng đổi sang dùng biện pháp khác đi"
" Ngươi nghĩ còn có biện pháp gì,mau nói đi" A Lan quay đầu lại hỏi Mặc Nhã Lợi.
" Mạt tướng nghe nói, Cáp Lý bệ hạ đã chuyển cho chúng ta năm trăm chiếc máy ném đá hạng nặng, mà hiện tại chúng vẫn đang ở Bạt Hãn Na kia. Nếu như chúng ta yêu cầu bọn họ vận chuyển số máy ném đá đó tới đây, cộng với ba trăm chiếc mà ta hiện có, như vậy tổng cộng là tám trăm chiếc máy ném đá. Khi đó, chúng ta sẽ sử dụng số máy này để liên hồi ném các tảng đá lớn vào một đoạn tường thành nhất định. Cứ như vậy, ta nghĩ rằng đoạn tường thành đó nhất định sẽ sụp xuống."
A Lan trầm tư một hồi lâu suy tính, hiện bây giờ trong tay ông ta chỉ còn có một cỗ công thành chùy mà thôi. Hơn nữa ông ta cũng không nắm được phần thắng là bao nhiêu.. Rốt cuộc, ông ta cũng gật đầu đồng ý với lời đề nghị của Mặc Nhã Lợi: " Được rồi, hãy truyền mệnh lệnh của ta, lệnh cho binh lính ở Thổ Hỏa La trong vòng năm ngày phải vận chuyển được các máy ném đá tới Toái Diệp này"
Trên thảo nguyên mịt mờ rộng lớn ở phía nam của A Sử Bất Lai thành, tiết trời bước vào đông với những trận bão tuyết dữ dội từ trên trời rơi xuống. Cả một khu vực rộng lớn vô biên vô hạn của thảo nguyên giờ đây là cả một cánh đồng tuyết trắng xóa, không hề có xuất hiện bóng dáng của con người nào cả. Những người dân du mục đã dẫn theo dê bò của họ xuôi về các thành trì ở phương nam để tránh trú đông, cho nên bây giờ ở đây rất trống vắng, cô liêu. Thỉnh thoảng mới thấy có một đám chim tước đang lúi cúi, lần mò những quả hạt còn xót lại ở trong tuyết. Dường như nơi này là một thế giới riêng của tuyết trắng vậy. Bỗng nhiên, từ phía phương bắc xuất hiện một vệt dài màu đen. Cái vệt đen này xuất hiện giữa cái thế giới tuyết trắng này có vẻ như không hợp lắm, nếu so sánh với một khối bạch ngọc tuyệt mỹ bị một vết nứt thì cũng không ngoa cho lắm. Cái vệt đen ấy càng ngày càng tới gần, mà càng gần thì lại thấy cái vệt đó càng dài ra. Và đây chính là đội kỵ binh gồm hai ngàn người. Và chính xác hơn thì là một đội kỵ binh Đường quân. Mỗi binh lính được biên chế hai con ngựa, tất cả bọn họ đang quất ngựa lao đi thật nhanh trong bão tuyết.
Dẫn đầu đội kỵ binh không phải ai khác chính là Thi Dương. Những tua đỏ trên mũ giáp tung bay. Bọn họ như đã định từ trước, trực chỉ hướng về mục tiêu ở phương nam xa xôi. Đó là Khát Tắc thành – đô thành của Bạt Hãn Na. Hiện Đường quân còn cách chỗ đó hơn hai trăm dặm nữa.
Chiến dịch Toái Diệp đã đi vào giai đoạn cuối và rốt cuộc tướng trấn thủ A Sử Bất Lai thành là Thi Dương cũng có cơ hội để lập được công rồi. Sự tình thế này, bảy ngày trước đây, bồ câu từ Toái Diệp đã mang mệnh lệnh của cấp trên chỉ thị cho hắn phải lập tức xuất binh tập kích, quấy rối Bạt Hãn Na. Mệnh lệnh này thật ra cũng hết sức đơn giản, nhưng xem ra Thi Dương muốn làm hơn thế bởi vì đây là cơ hội tốt nhất để hắn thể hiện bản lĩnh và sự lợi hại của mình. A Sử Bất Lai thành nơi Thi Dương đang trấn thủ nằm ở phía cực bắc của Bạt Hãn Na quốc. Từ đó mà tới Khát Tắc thành cũng phải tới ngàn dặm. Hành trình phải vượt qua sa mạc Qua Bích và thảo nguyên rộng mênh mông. Sau bảy ngày rong ruổi, luân phiên đổi ngựa, cuối cùng bọn họ cũng đến gần được mục tiêu.
Thi Dương phóng ngựa vượt trước lên một cái gò đất, hắn lấy bàn tay che ngang mày giúp hỗ trợ cho đôi mắt nhìn ra xa. Màu trắng đến mức chói sáng của cánh đồng tuyết khiến cho mắt của Thi Dương không thể tự chủ được cho nên hắn phải nheo mắt để nhìn. Lúc này, hắn quan sát thấy ở cách đó chừng hơn năm dặm, có xuất hiện một chuỗi những điểm đen nhỏ. Dường như là có nhiều người đang cưỡi lạc đà để hành trình. Và những người đó hiển nhiên là đã nhìn thấy bọn người Thi Dương, cho nên tất cả đều quay đầu chạy trốn ngay.
" Nhanh đi chặn bọn chúng lại" Thi Dương vung tay lên ra lệnh. Lập tức một đội gồm một trăm kỵ binh lập tức lao đi nhanh như thiểm điện. Chỉ trong chốc lát đã có người quay trở lại bẩm báo: " Tướng quân, đó là một đội thương nhân Túc Đặc, bọn họ đang định tới quá cảnh qua A Sử Bất Lai thành của chúng ta"
Thi Dương khé nhíu mày suy nghĩ. Hắn biết rằng tất cả những cơ hội có thể kiếm tiền mà đã lọt vào mắt của những thương nhân Túc Đặc này thì cho dù là chiến tranh đi nữa, bọn họ cũng không bao giờ bỏ qua. Nhưng ngoài việc biết cách kiếm tiền ra thì ít ra những tên Túc Đặc này cũng có thể cung cấp cho hắn được một vài thông tin tình báo
Thi Dương liền dẫn số Đường quân còn lại đi về phía trước. Và không lâu sau, bọn họ đã đi tới trước mặt của những thương nhân Túc Đặc kia. Đây là một thương đội ở quy mô trung bình với năm trăm thớt lạc đà vận chuyển. Đến lúc này tất cả số lạc đã đều đã được cho nằm xuống, xem lướt qua một lượt thì thấy trên lưng mỗi con lạc đà này đều chất đầy những rương hòm, cùng các túi da. Số lạc đà và hàng hóa này là do hơn hai trăm tên thương nhân Túc Đặc đồng sở hữu. Tất cả bọn họ ai nấy cũng đều hoảng sợ nhưng vẫn khư khư canh giữ hàng hóa của mình ở bên cạnh.
" Tướng quân, người này chính là đầu lĩnh của bọn họ. Thương đội Túc Đặc này chính là từ Khát Tắc thành mà đi ngang qua đây" Viên đội trưởng Đường quân đưa một tên thương nhân Túc Đặc dáng người gầy gò tới trước mặt Thi Dương. Thi Dương nhìn ông ta một lượt, đánh giá sơ bộ. Hơi thở thể hiện ông ta là người sắc bén và khôn ngoan. Còn cái miệng dẹp như miệng cá, da mặt sáng bóng như bôi sáp và đôi mắt rất linh động đã cho Thi Dương phần nào phán đoán được sự khôn khéo của người đầu lĩnh này.
" Kính chào tướng quân của Đại Đường, tôi xin được nguyện dốc sức vì ngài" Người thường nhân đầu lĩnh này đã rất khôn khéo, ông ta dùng vốn Hán ngữ thuần thục cùng với thái độ mềm dẻo để cố gắng lấy lòng vị tướng quân trẻ tuổi này: ' Chỉ cần tiểu nhân biết được tin tức gì sẽ nói hết cho ngài, tuyệt đối không hề giấu diếm gì cả"
Thi Dương thấy thái độ ôn hòa và hợp tác của ông ta cho nên cũng lấy làm hài lòng. Hắn biết và hiểu rõ về cái đạo sinh tồn của những thương nhân Túc Đặc này. Đối với họ tiền bạc và mạng sống đều quan trọng như nhau, chứ một chút tin tức thì đáng kể gì chứ.
" Ta hỏi ngươi. Có bao nhiêu quân Đại Thực đóng ở Khát Tắc thành"
" Có bao nhiêu Đại Thực quân" Tên đầu lĩnh của thương đội chần chừ một lúc, dù nói thế nào hắn cũng chỉ là một tiểu thương bình thường, làm sao có thể biết được những chuyện quân sự cơ mật. Ông ta hấp háy đôi mắt nhỏ, nhìn Thi Dương với vẻ mặt đầy hoang mang.
Thi Dương dường như cũng nhận thấy câu hỏi của mình đúng là có phần đường đột. Cho nên hắn liền thay đổi góc độ của câu hỏi: " Thôi được, vậy tình hình quân đội của Đại Thực ở Khát Tắc thành thế nào, ngươi hãy trình bày cho ta xem nào"
Vấn đề trong câu hỏi đã được mở rộng ra rồi. Người thương nhân Túc Đặc này nhanh chóng huy động, tập hợp những điều mắt thấy tai nghe ở Khát Tắc thành, rồi lựa chọn, chỉnh lý thông tin cho chính xác, rồi mới bẩm báo: " Hồi bẩm tướng quân, sở dĩ chúng tiểu nhân phải hành trình ngược lên phía bắc mà không dám từ Bạt Hãn Na trực tiếp đi thẳng sang phía đông là bởi vì, chúng tiểu nhân có nghe được một tin tức, đó là quân đội Đại Thực trú đóng ở Bạt Hãn Na đang tiến hành trưng thu lạc đà với số lượng lớn. Nghe nói là dùng để vận chuyển vật tư gì đó đến Toái Diệp. Hiện tại toàn bộ binh lính trong thành Khát Tắc đều là binh lính của gia tộc Tát Man. Dường như bọn họ đã khống chế được hoàn toàn Bạt Hãn Na rồi. Chúng tiểu nhân đã phải dùng năm trăm dinar (tiền tệ của Đại Thực) để mua một tờ giấy thông hành của bọn họ. Quả thật là tờ giấy thông hành này rất có hiệu quả, trên đường thương đội tuy có gặp mấy đồn biên phòng nhưng nhờ có tờ giấy thông hành này mà được bọn chúng buông tha."
Người đầu lĩnh của thương đội cẩn thận lấy từ trong ngực áo của mình ra một mảnh giấy cứng, hai tay dâng lên cho Thi Dương: " Đây chính là giấy thông hành, dòng chữ ở phía trên chính là do đích thân Tát Man ký tên xác nhận"
Thi Dương mặc dù tay nhận lấy tờ giấy thông hành, nhưng trong đầu hắn vẫn đang suy nghĩ về những lời mà người thương nhân Túc Đặc kia vừa mới nói. Đó là việc quân đội Đại Thực ở Bạt Hãn Na đang có dấu hiệu chuẩn bị đông tiến, mà tạm thời việc phòng thủ Khát Tắc thành lại hoàn toàn do binh lính của Tát Man gia tộc đảm nhiệm. Dĩ nhiên là tình huống này cũng còn có một khả năng khác, đó là việc quân đội Đại Thực vẫn sẽ đồn trú ở đây, nhưng bọn chúng sẽ không quản lý về mặt trị an của nơi này. Thi Dương trong đầu thì mải suy nghĩ, nên nhìn tờ giấy thông hành mà như thất thần, bỗng nhiên từ trong đầu hắn nảy ra một ý tướng, hắn lập tức hỏi người đầu lĩnh kia: " Ngươi vừa nói dọc đường đi có gặp phải mấy đồn biên phòng, vậy chúng nằm ở những địa điểm nào"
cter:line-break'>
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 35: Toái Diệp phong vân (16)b
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
" Dạ thưa, hồi bẩm tướng quân, buổi sáng ngày hôm qua chúng tiểu nhân đã đi qua một cái đồn biên phòng cuối cùng ở Khố Nạp sơn cốc. Nó ở cách nơi này chừng tám mươi dặm, có chừng mười tên binh lính của Tát Man gia tộc đồn trú. Ngoài ra, từ đó mà đi tiếp thêm khoảng năm mươi dặm nữa cũng có thêm một cái đồn biên phòng nữa. Như vậy là trừ hai địa điểm này ra, thì từ đây tới Khát Tắc thành không còn nơi nào có quân của Tát Man đồn trú nữa.
Thi Dương trầm tư một chút, sau đó hắn liền đem cái giấy thông hành kia cất đi, rồi nói với người thương nhân Túc Đặc kia: " Từ đây đi về phương bắc cũng không có quân đội gì đâu, vì thế cái giấy thông hành này cũng không cần thiết nữa, ngươi có thể để lại cho ta được chứ"
" Tiểu nhân nguyện vì Đại Đường mà dốc hết sức mình. Những thưa tướng quân tiểu nhân xin có một thỉnh cầu, ngài có thể cấp cho tiểu nhân một tờ giấy thông hành để chúng tiểu nhân tiến vào Bắc Đình của Đại Đường được thuận lợi, hay không ạ" Tên đầu lĩnh của đám thương nhân này thật là khôn khéo, ông ta muốn dùng một tờ giấy thông hành đã hết tác dụng để đổi lấy một tờ xác nhận ưu đãi miễn thuế trên đất Đại Đường.
Thi Dương nghe xong lời đề nghị kia, nhưng hắn không vội trả lời mà đưa mắt liếc nhìn hết một lượt những vẻ mặt hoảng loạn của đám thương nhân này. Một kế hoạch tuyệt diệu đã xuất hiện trong đầu hắn rồi.
Tiếp tục đi về phía nam, đoàn người của Thi Dương phải hành trình qua dải đất có nhiều núi non, gò đồi. Địa hình này không giống như ở phướng bắc có thể thoải mái dong ruổi hành trình, mà ở đây thì ngược lại đường xá gập ghềnh nên đi lại cũng nhiều khó khăn. Từ đó cũng dễ hiểu khi tốc độ của bọn họ cũng chậm hơn so với trước đôi chút. Đi thêm khoảng mười dặm về phía trước sẽ chính là Khố Nạp sơn cốc. Theo như lời của những người thương nhân Túc Đặc thì ở chỗ đó có một đồn biên phòng do binh lính của Tát Man đồn trú. Nói chính xác ra thì cái đồn này thực chất là một tòa thành. Trong quá khứ, vào năm Khai Nguyên thứ ba, Đại Đường An Tây đô hộ là Trương Hiếu Tung sau khi đánh bại bạch y Đại Thực ở Khát Tắc thành đã cho xây dựng tại Khố Nạp sơn cốc này một tòa bảo thành. Kiến trúc của nó là ngoài tròn trong vuông, là điển hình cho phong cách của phương đông. Thật ra thì cái đồn biên phòng này Thi Dương cũng có biết qua, bởi vì hai tháng trước đây hắn đã phải người tới Bạt Hãn Na để xem xét qua về địa hình ở khu vực này, và hắn biết rằng muốn tới được Khát Tắc thành thì nhất định phải qua được Khố Nạp sơn cốc này đã. Nhưng ở trên đỉnh núi có một cái phong hỏa đài. Phong hỏa đài này cũng là do Trương Hiếu Tung năm xưa cho xây dựng để làm công cụ báo động nếu như có quân Đại Thực xâm lấn. Một khi có Đại Thực quân đột kích thì các phong hỏa đài này lập tức sẽ được đốt lên, phát đi tín hiệu báo động. Khi đó Khát Tắc thành sẽ nhận được tín hiệu cấp báo, để kịp thời điều động quân đội. Mặc dù những phong hỏa đài này từ sau khi Đại Thực chiếm được Bạt Hãn Na đã bị bỏ không, nhưng Thi Dương tự ý thức được rằng từ khi Đại Đường chiếm đóng A Sử Bất Lai thành thì những phong hỏa đài này đã được sử dụng trở lại.
Thi Dương lúc này đã hóa trang trở thành một thương nhân Túc Đặc thứ thiệt. Hắn cũng cưỡi trên một thớt lạc đà, mặc một bộ y phục của thương nhân Túc Đặc, mặt cũng được bôi cho đen đi, cái mũ rộng vành gần như che hết cả khuôn mặt hắn. Đi theo sau Thi Dương là hai trăm Đường quân, cũng cưỡi lạc đà, cũng mặc trang phục của thương nhân Túc Đặc. Chỉ có điều hai trăm Đường quân này phần lớn là những người Đột Kỵ Thi. Với nét đặc trưng trên khuôn mặt của những người ở khu vực khác, nên thân phận Đường quân của bọn họ được làm mờ đi, ít ai có thể phát hiện ra được. Ở phía sau đoàn lạc đà chừng năm trăm bước là đại đội Đường quân. Bọn họ mặc toàn đồ trắng, ẩn mình trong tuyết trắng mà bám theo.
Đi bên cạnh Thi Dương là người đầu lĩnh của thương đội Túc Đặc, sắc mặt của ông ta đầy vẻ đau khổ. Đến bây giờ ông ta cảm thấy việc mình đầu tư hợp tác với Thi Dương để có được tờ giấy miễn thuế khi vào Đại Đường quả là sai lầm. Nếu như ông ta cứ đường đường chính chính mà nộp thuế thì cũng chỉ mất nhiều lắm là 250 xâu tiền. Thế mà mạo hiểm hợp tác với Thi Dương lần này chỉ sợ vừa mất tiền mà cái mạng của hắn cũng không giữ được lắm. Nhưng giờ khắc này, ông ta đã rơi vào hoàn cảnh thân bất do kỷ rồi. Cho dù là vị đầu lĩnh muốn hay không muốn cái giấy miễn thuế kia thì ông ta cũng nhất định phải đi chuyến này.
" Nếu như ông có thể giúp ta chiếm được tòa bảo thành này thì ta sẽ cấp cho ông năm tờ hóa đơn miễn thuế khi vào Đại Đường" Thi Dương dường như cũng hiểu được những điều mà người thương nhân Túc Đặc này đang suy nghĩ. Cho nên hắn liền đưa ra một lời đề nghị hậu hĩnh mà không một thương nhân nào có thể chối từ, để khích lệ tinh thần của ông ta. Quả nhiên, chiêu bài của Thi Dương có hiểu quả, người thương nhân này tinh thần đại chấn. Ông ta lập tức hạch toán trong đầu, năm cái hóa đơn miễn thuế thật ra có ý nghĩa rất lớn. Đó là cả một đống tiền Đại Đường chứ chẳng chơi.
" Tướng quân xin cứ yên tâm, những tên binh lính của Tát Man gia tộc tên nào tên ấy cũng đều tham lam vô cùng. Chỉ cần tiểu nhân thực hiện một kế nhỏ thôi cũng có thể giúp cho tướng quân một mẻ tóm hết được bọn chúng"
Vị đầu lĩnh của đám thương nhân Túc Đặc đang nói, rồi dừng lại một chút, ông ta còn có chút chưa yên tâm, nên bổ sung thêm một điều khoản nữa : " Chỉ có điều, số tiền mà tiểu nhân bỏ ra, sau khi xong việc xin tướng quân trả lại cho tiểu nhân"
" Được rồi, ngươi cứ yên tâm đi"
Thi Dương cười nhạt, hắn biết rằng người thương nhân này là một người quan trọng đối với hắn trong lúc này. Có thể nói chính những tin tức mà người thương nhân này cung cấp cho Thi Dương đã bổ sung cho các thông tin tình báo mà hắn thu được trước đó thêm tỉ mỉ và xác thực.
Rất nhanh, đoàn người của Thi Dương đã ngay trước Khố Nạp sơn cốc. Đứng ở xa xa nhìn lại, có thể thấy một tòa bảo thành đen sì đứng lừng lững. Ánh sáng của tuyết trắng và của ánh trăng khiến cho tòa bảo thành ấy hiện lên thật rõ ràng. Nó được xây trên một tảng đá khá bằng phẳng, cách đường thương đạo chừng hơn năm mươi bước. Lúc này Thi Dương vẫn không ngừng việc ngẩng đầu nhìn lên trên đỉnh núi. Bởi vì đỉnh núi cũng không cao lắm cho nên hắn dễ dàng có thể nhìn thấy được cái phong hỏa đài ở trên đó. Và dĩ nhiên một người tinh nhạy như hắn không thể không phái người đi triệt hạ cái phong hỏa đài kia. Mười tên binh lính thân thủ cao cường đã được hắn chỉ thị vòng qua mặt bên để lên đỉnh núi, chiếm lấy phong hỏa đài, cắt đứt việc truyền tín hiệu của Khố Nạp sơn cốc với nơi khác.
" Tướng quân, người nhìn kìa" Một gã binh lính tinh mắt đã phát hiện trên đỉnh núi kia đã có điều khác thường. Thi Dương cũng đã nhìn thấy, một luồng ánh sáng từ trên đỉnh núi chiếu thẳng tới chỗ hắn. Cái luồng ánh sáng đó tắt – sáng ba lần thật nhanh. Thật ra thì đó là cái gương đồng truyền tín hiệu của Đường quân, nó báo rằng phong hỏa đài trên đỉnh núi đã được Đường quân đắc thủ rồi.
" Dùng hết tốc độ tiến về phía trước" Thi Dương ra lệnh cho toàn đội. Đội lạc đà nhất loạt tăng tốc, phi nước kiệu tiến về phía trước.
Đinh đang! Đinh đang... Những tiếng chuông lạc đà vang lên du dương truyền đi xa xa. Có lẽ những thương đội với tiếng chuông lạc đà đặc trưng đã đánh động bọn binh lính trong bảo thành rồi. Bọn chúng đối với cái âm thanh này dường như có một loại nhạy cảm khác thường. Và ngay lập tức từ trong bảo thành chạy ta mười mấy tên binh lính, đồng thời liên tục có những tên lính khác từ trong thành lố nhố chạy ra ngó nghiêng. Đối với cơ hội kiếm chác mười mươi thế này làm sao chúng có thể bỏ qua được chứ.
" Đi xem một chút, xem cái thương đội nào lại tới vào giờ này" Từ trong gió lạnh truyền tới một giọng nói chắc nịch
Lập tức có một tên lính chạy xuống xem xét. Khi còn cách đám người Thi Dương chừng hơn hai mươi bước, hắn dừng lại quan sát và phán đoán về thương đội. Rồi sau đó quay trở lại bẩm báo: " Bẩm báo đầu lĩnh, đó là thương đội của người Túc Đặc"
" Bảo bọn chúng tới nộp thuế đi" Trong tiếng cười của tên đồn trưởng kia lộ ra đầy sự tham lam của hắn với kim tiền.
Tên lính lúc nãy lại chạy như bay tới chỗ thương đội, lần này hắn tới gần hơn và ngay lập tức hắn nhận ra người thương nhân đầu lĩnh của thương đội Túc Đặc, nên kinh ngạc hỏi: " Tại sao lại là các ngươi hả"
Người thương nhân Túc Đặc kia cười khổ một tiếng nói: " Ở phía bắc đâng có bão tuyết lớn quá chúng tôi không thể nào đi được cho nên đành quay lại đây"
" Trở lại cũng phải nộp thuế" Tên lính nói xong liếc mắt nhìn về phía sau một cái, giọng hắn nặng nề giải thích: " Các ngươi có chứng chỉ miễn thuế thật, nhưng chỉ được dùng một lần thôi, lần này nhất định phải nộp thuế. Đây là quy định rồi, các ngươi đã hiểu chưa hả"
" Tôi hiểu rồi mà" Người thương nhân Túc Đặc kia biết rằng không thể nói gì được, nên đành trả lời.
" Tốt lắm, vậy thì các ngươi vào trong đi"
Vị đầu lĩnh của đám thương nhân Túc Đặc cũng diễn khá tốt, ông ta vung tay nên nói to: " Tất cả mọi người nghe cho rõ đây, tiền thuế lần này ta tạm thời bỏ cho tất cả, đến khi trở về chúng ta sẽ tính toán lại với nhau đấy"
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 35: Toái Diệp phong vân (16)c
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Cả đội lạc đà rầm rộ đi về phía tòa bảo thành kia. Rất nhanh, bọn họ đã có mặt trên thương đạo. Ở phía trước mặt họ có mấy cây gỗ to chắn ngang đường đi. Sau khi giao nộp tiền thuế thì chướng ngại vật này mới được mở ra. Ở sườn dốc bên cạnh thương đạo, có rất nhiều binh lính đang đứng. Bọn chúng giống như những con sói đói bụng đứng trong đám tuyết, ánh mắt của tên nào tên nấy cũng đều toát ra sự tham lam, thèm thuồng nhìn những lô hàng hóa được chất nặng trên lưng lạc đà.
Đồn trú ở nơi này là một trung đội binh lính tương đương với một trăm quân. Do một tên Dát Y Đức( đây là một chức quan, nó tương đương với chức Hiệu Úy của Đại Đường) suất lĩnh. Trung đội binh lính này cũng không phải là quân Đại Thực chính quy mà là quân đội riêng của gia tộc Tát Man. Bọn này phần lớn là lính đánh thuê Đột Quyết, nổi tiếng là những kẻ phẩm hạnh bất lương ở hai bên con sôn Chân Châu hà. Cái tên Dát y Đức này là một tên Đột Quyết, tuổi chừng ngoài bốn mươi. Vóc người hắn mập mạp, ánh mắt âm hiểm. Hắn cũng đứng ở trên sườn dốc đó lóe ánh mắt tham lam nhìn thương đội Túc Đặc này, cái thương đội mà hai ngày trước đã từng quá cảnh qua đây. Trong mắt hắn đây là những con dê béo để hắn xà xẻo. Lần trước, là vì ban ngày ban mặt cho nên hắn chỉ vòi vĩnh một ít tiền rồi cho thương đội đi qua, chứ không dám mạo hiểm cướp bóc cho dù miếng mồi quá ngon như vậy, cho nên hai ngày hôm nay hắn cứ bứt rứt hối hận mãi. Vậy mà không ngờ ông trời lại thương hắn, để cho cái thương đội này quay trở lại, hơn nữa lại đến vào buổi tối nữa chứ. Đây có khác nào là ý trời cho hắn vụ làm ăn tốt. Tên Dát Y Đức này vui mừng kích động đến nỗi chân muốn phát run cả lên.
Người thương nhân đầu lĩnh đem hóa đơn kê khai hàng hóa đến trình báo và giao nộp tiền thuế cho tên lính: " Tổng số hàng hóa của chúng tội trị giá một vạn dinar, xin được các ngài xem qua"
Tên lính kia liền mang tờ kê khai trình lên cho đầu lĩnh Dát Y Đức. Bản tên Dát Y Đức này cũng chẳng thèm ngó qua, hắn vung tay lên nói: " Đồng ý nộp một ngàn dinar"
Tên Dát Y Đức này đã có chủ ý từ trước.Bởi vì nơi này căn bản không tiện cho việc động thủ, cướp bóc. Hắn sẽ chờ cho thương đội này đi qua khe núi kia đã. Nơi ấy hoang vu kín đáo rất thuận tiện để bọn chúng động thủ. Cho dù là chuyện này cóphát hiện đi nữa thì bọn chúng cũng dễ đổ thừa cho thổ phỉ hoặc là sói hoang tấn công.
Người thương nhân Túc Đặc kia hì hục mở cái mở một cái rương nhỏ trông có vẻ khá nặng. Cái hộp mở ra bên trong nó chứa đầy tiền vàng tươi rói, dễ có đến cả mấy ngàn dinar chứ chẳng ít đâu. Ở trên sườn dốc, bọn binh lính dĩ nhiên là cũng nhìn thấy, và tên nào cũng nhìn cái cái rương tiền vàng với con mắt tham lam, nuốt nước miếng thèm thuồng. Người thương nhân kia vừa ôm lấy chiếc rương nặng ấy, vừa thúc dục cho lạc đà đi lại đếm đếm chuẩn bị lấy một ngàn dinar. Và có lẽ là do lạc đà đi nhanh mà đường thì lại gập ghềnh, cho nên bất ngờ " rầm" một tiếng. Chiếc rương trên tay người thương nhân kia rơi, và bị lật nghiêng xuống mặt đất. Thế là cả mấy ngàn dinar bị văng vãi, và ánh kim quang lấp lánh ở khắp mọi nơi. Tất cả binh lính khi đó đều trố mắt ra nhìn, nhìn tới mức ngây cả người.
" Tiền của ta. Trời ơi" Người thương nhân Túc Đặc thấy chiếc rương tiền của mình rơi xuống không khỏi kêu lên đầy đau khổ. Ông ta tung mình nhảy xuống đất. Một tên sĩ quan bỗng nhiên cũng phản ứng như điện chớp, hét lớn: " Chờ chút đã"
Hắn cũng hét lên đầy kích động như người thương nhân Túc Đặc kia. Nhưng sau tiếng hét là nụ cười đầy âm hiểm: " Để chúng ta giúp ngươi nhặt lại tiền cho" . Rồi hắn vung tay lên: " Các huynh đệ chúng ta mau giúp hắn nhặt tiền đi"
Gần trăm tên lính đứng ở trên sườn dốc từ nãy đến giờ, nhìn cái rương đầy tiền như thế nên mạch máu của tên nào tên nấy đều căng phồng. Và bây giờ trông chúng chẳng khác nào những con sói đói vồ mồi. Tất cả bọn chúng đều từ trên sườn dốc mà nhảy xuống, tranh nhau thu nhặt tiền vàng trên mặt đất. Lúc này, lại có thêm mười mấy tên lính khác từ trong thành chạy ra. Bọn chúng ngửi thấy mùi tiền cũng giống như bầy sói ngửi thấy mùi máu tanh, hùng hổ xông ra. Lại có thêm mấy tên nữa gia nhập vào cuộc chiến tranh đoạt kim tiền này.
Tên sĩ quan lúc nãy cười ha hả, cao giọng nói: " Các huynh đệ hãy cẩn thận một chút, đừng để cho tiền vàng rơi vào hang chuột đấy nhé" .
Người thương nhân Túc Đặc kia nhìn số kim tiền của mình đang bị lũ lang sói kia xâu xé mà đau lòng, nhưng đồng thời ông ta cũng từ từ lui về phía sau. Nhận thấy cơ hội đã tới Thi Dương nhỏ tiếng phát lệnh tấn công. Đường quân lập tức lấy cung nỏ, lắp tên sẵn sàng, nhanh chóng tạo thế bao vây mà tiến lên.
Tên sĩ quan to mồm nãy giờ chính là tên đầu tiên phát hiện có sự khác thường ở đây. Hắn bất ngờ, há mồm trợn mắt khi thấy tên nỏ xuất hiện trong tay của những người thương nhân Túc Đặc này. Hắn quát to lên một tiếng báo hiệu cho đồng bọn, rồi lập tức xoay người bỏ chạy. Nhưng tay của Thi Dương đã nhấc, " vút" một mũi tên đã lao đi. Mũi tên ấy nhanh, mạnh vô cùng cắm thẳng vào bắp đùi của tên sĩ quan đó. Hắn kêu thảm một tiếng, rồi nhanh như chớp lăn mình xuống sườn dốc. Mũi tên của Thi Dương vừa rồi chính là mũi tên ra lệnh, và sau mũi tên của hắn Đường quân lập tức đồng loạt xuất thủ. Mấy trăm mũi tên rào rào bắn về phía cái đám địch nhân đang say mê thu lượm tiền tài kia. Nhất thời những tiếng kêu la thảm thiết vang lên khắp tứ phía. Sau loạt tên đầu tiên, hơn mười địch nhân đã trúng tên ngã xuống, những tên còn lại hoặc là đầu hàng, hoặc là lảo đảo chạy trốn tản mác ra bốn xung quanh. Nhưng tất cả đường trốn chạy của chúng đều đã bị chặn cả. Đường quân hạ thủ không chút lưu tình, tất cả những tên có ý đồ chạy trốn đều bị bắn chết ngay.
Đang trong lúc này, từ trong bảo thành vang lên những tiếng chuông dồn dập, rồi một cột lửa ngùn ngụt bốc thẳng lên trời. Đây chính là tín hiệu cấp báo nguy hiểm mà binh lính trong bảo thành truyền đi cho phong hỏa đài trên đỉnh núi. Nhưng cái phong hỏa đài kia như câm lặng, không có nửa điểm hồi đáp lại.
Thi Dương phấn khích cười ha hả. Hắn từ trên lạc đà tung mình nhả xuống, rút đao đi thẳng về phía tên sĩ quan kia. Tên sĩ quan ấy đang liều mạng lổm ngồm bò về phía trước. Nhưng dường như có cái gì sắc lạnh đang kề ngay trên cái cổ của hắn. Hắn từ từ quay đầu nhìn lại. Trước mắt hắn là một thanh hoành đao Đại Đường sắc bén. Lưỡi đao phát ra ánh hàn quang ghê người. Hắn sợ hãi, không chút phản ứng gì, chỉ cảm thấy đũng quân của mình nóng nóng, hắn bị dọa cho đến sắp phát khóc lên rồi.
" Mau khai báo tất cả những gì ta hỏi thì ta sẽ tha cho ngươi một mạng"
Kỵ binh Đường quân không quản thời tiết khắc nghiệt, quất ngựa chạy thật nhanh trong màn tuyết trắng. Bọn họ đi vòng qua Khát Tắc thành, thẳng tiến tới Chân Châu hà. Đại Thực quân trú đóng ở Bạt Hãn Na có cả thảy là một vạn quân Hô La San. Mấy ngày trước đây bảy ngàn quân đã được huy động để áp tải mấy trăm chiếc máy ném đá tới Toái Diệp , vì thế số quân Đại Thực còn ở đây là ba ngàn người. Bọn chúng trú đóng tại phía đông của Khát Tắc thành, cách thành này mười dặm. Và hiện tại toàn bộ Bạt Hãn Na đều do quân đi của Tát Man gia tộc khống chế. Chúng phần lớn trú đóng trong Khát Tắc thành, mà quân đội của Đại Thực cũng tập trung ngay ở phụ cận của tòa thành này. Từ đó mà dẫn tới việc trống rỗng phòng thủ ở bên bờ sông Chân Châu hà.
Đường quân một đường thẳng tiến nhanh như chớp giật, bọn họ vòng qua " làm thịt" tất cả các đồn biên phòng của địch quân trên lộ tuyến của mình. Và hai ngay sau bọn họ đã tới được sông Chân Châu hà. Hai tháng trước đây, ở con sông này các đội tàu thuyền tập trung nhiều như mây, người đông như kiến cỏ. Nhưng đến giờ phút này, con sông Chân Châu hà không còn sự tấp nập, bận rộn như thế nữa. Mặt sông đã bị băng kết, mấy trăm chiếc thuyền lớn đành đỗ lại trên bến. Bến thuyền này cách Khát Tắc thành chừng một trăm dặm. Trong những ngày mùa đông này, trông nó hoang vắng cô liêu vô cùng. Bề ngoài thì như thế những thực chất ở nay bên cạnh bên thuyền này là một cái kho hàng rất lớn. Bên trong đó là trên trăm vạn thạch lương thực, cùng các loại vật tư quân sự. Vào những thời gian được định sẵn của mỗi tháng, từ cái kho này lương thực và vật tư lại được chuyển cho Toái Diệp. Ban đầu ở đây có hai vạn quân canh gác, phòng về. Nhưng vừa rồi 1500 quân đã được điều đi vận chuyển năm trăm chiếc máy ném đá hạng nặng cho chiến trường Toái Diệp, nên hiện tại canh giữ nơi này chỉ có năm trăm quân.
Lúc này hoàng hôn đã buông xuống, cả không gian như chìm trong một màn mưa tuyết. Từ khi bước vào mùa đông tới nay, đây là trận mưa tuyết thứ hai mà Chân Châu hà phải đón nhận. Và rồi màn đêm buông xuống, cửa lớn của kho hàng kia đã đóng lại. Tất cả binh lính làm nhiệm vụ canh gác nơi này đều đã trốn vào trong tránh rét, chỉ còn có hai tên lính trinh sát đang đi đi lại lại trên tháp cao để quan sát tình hình. Gió bắc thổi ù ù, khiến cho những bông tuyết trên mặt đất bị cuốn lên một chút rồi lại hạ xuống, chỉ còn tiếng gió rít, gào thét trong đêm. Cách kho hàng đó chừng ba dặm, Đường quân đã chuẩn bị những khâu cuối cùng cho một cuộc tập kích: những chiến mã bị thương hay ốm yếu đều được loạt ra, chiến đao đã tuốt khỏi vỏ, tên nỏ đã lên dây, tinh thần chiến đấu của mọi người đều đang rất cao.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 35: Toái Diệp phong vân (16)d
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
" Mọi người nhớ kỹ động tác phải thật nhanh gọn, cũng không được tham lam lấy bất cứ vật tư nào cả. Chỉ cần đốt cháy hết là được. Lý Hiệu úy" Thi Dương đưa ánh mắt nhìn sang một gã Hiệu Úy, truyền lệnh cho hắn: " Trong kho tàng này có thế có dầu hỏa của Đại Thực, các ngươi phải chịu trách nhiệm tìm kiếm ra nó"
" Tuân lệnh"
Thi Dương thấy các tướng lĩnh của mình đã chuẩn bị sẵn sàng. Hắn quay đầu lại nhìn về cái kho hàng khổng lồ đen sì sì kia. Và rồi hắn vung tay, giọng trầm thấp hạ lệnh: " Xuất binh"
Tiếng vó ngựa ầm ầm vang động trong đêm, bộc phát một loại sát khí tràn trề. Hai ngàn kỵ binh Đường quân nhất tề giục ngựa chạy hết tốc độ, lướt thẳng về phía mục tiêu như một cơn hồng thủy. Vó ngựa đạp trên tuyết trắng khiến cho những bông tuyết tung bay đầy trên không trung. Khoảng cách ba dặm chớp mắt đã vượt qua. Lần tấn công này Đường quân không hề bí mật tập kích mà trực diện tấn công. Bọn họ như một cơn cuồng phong đạp đổ hàng rào phía trước kho hàng mà ập vào.
Hai tên binh lính Đại Thực canh gác trên tháp canh phát hiện thấy đại đội kỵ binh từ cách đó một dặm, cho nên bọn chúng hốt hoảng, thổi còi cũng như đánh thanh la báo động.. Và dĩ nhiên quân Đại Thực bên trong kho hàng cũng cực kỳ hỗn loạn. Năm trăm tên lính rối rít từ trong doanh trại chạy ra, chúng dàn quân án ngữ ngay ở trước doanh. Cuộc tấn công lần này giống như một cuộc tập kích bất ngờ cho nên bọn chúng không có mấy cơ hội tổ chức phòng ngự được rồi. Đường quân đã như tử thân mà ập tới ngay trước mắt, bọn họ căn bản là không tấn công trực tiếp vào cửa quân doanh mà đạp đổ hàng rào xung quanh để xông vào. Trong tiếng hò hét của Đường quân những hàng rào xung quanh kho hàng đã ầm ầm đổ sụp xuống. Đại đội của Đường quân như một cơn hồng thủy ào ào xông thẳng vào khu vực kho hàng. Nhưng bọn họ không xộc thẳng vào trong kho mà tập trung binh lực để tiêu diệt Đại Thực quân ở phụ cận trước cửa lớn kho hàng. Đường quân nhất thời dùng trường sóc đánh phủ đầu, và huyết nhục của địch quân đã bắn lên tung tóe, những tiếng kêu tiếng la hét vang động cả trời đêm. Dĩ nhiên là năm trăm quân Đại Thực cũng không thể bó tay chịu chết, bọn chúng cũng vội vàng nghênh chiến, nhưng chúng nào có thể là đối thủ của những chiến binh Đường quân sĩ khí đang lên như cầu vồng kia. Đại Thực quân thấy binh lính Đại Đường sử dụng trường sóc, nên chúng cũng sử dụng trường mâu trận, ngoan cố ngăn chặn Đường quân đánh sâu vào trong. Nhưng Đường quân huấn luyện linh hoạt, bọn họ lập tức thay đổi chiến thuật, chuyển sang dùng tên nỏ để đối phó với trường mâu. Mũi tên bay ra như châu chấu. Sau mấy loạt mưa tên, quân số của Đại Thực quân đã giảm đi gần một nửa. Lúc này ở phía cánh phải xuất hiện khoảng trống, nên một đội gồm năm trăm kỵ binh lập tức đột nhập vào cánh phải chiếm lấy tiên cơ. Và sau hai đợt liều chết xung phong bọn họ đã xé toang được trường mâu trận của quân Đại Thực, đẩy đối phương lâm vào trạng thái hỗn loạn, vỡ trận.
" Giết! Một tên cũng không được để lại" Thi Dương cuối cùng cũng hạ lệnh đồ sát tất cả. Đường quân toàn tuyến dâng lên ra sức tru diệt. Ba trăm tên Đại Thực quân còn lại cũng nhanh chóng bị nhấn chìm trong cơn hồng thủy của Đường quân. Ngay sau đó một ngọn lửa rất lớn từ trong kho hàng bùng bùng bốc thẳng lên thiên không, khói cuộn dày đặc. Lý Hiệu úy đã tìm thấy ba ngàn thùng dầu hỏa, còn thứ gì dẫn cháy tuyệt hơn nó. Vậy là gần trăm vạn thạch lương thực cùng với một số lượng lớn vật tư chiến tranh đã bị thiêu cháy. Cả kho hàng giờ chỉ còn là một cột lửa hừng hực, bốc cao gần trăm trượng. Và dĩ nhiên ở cách đó mười dặm cũng có thể nhìn thấy được đám cháy này. Đường quân cũng không nấn ná lâu, bọn họ nhanh chóng dời khỏi chỗ đám cháy, quay đầu hướng Khát Tắc thành mà lao đi để thực hiện một cuộc tấn công khác.
Đang đóng giữ ở Khát Tắc thành là ba ngàn Đại Thực quân. Hôm nay, khi trời còn chưa hừng sáng thì Khát Tắc thành đã nhận được tin báo về việc kho hàng ở bên sông Chân Châu hà gặp chuyện không may. Chủ tướng coi giữ nơi này là Tề Tái Nhĩ. Nhận được hung tin về kho hàng ông ta vừa tức giận, vừa lo lắng, nên lập tức suất quân thẳng tiến tới kho hàng kia. Thực ra thì cái kho hàng hóa ở bên sông Chân Châu hà cũng nằm trong diện hắn phải phụ trách. Nhưng năm ngày trước đây, chính hắn đã hạ lệnh cho kho hàng này chuẩn bị vận chuyển lương thực và điều động lạc đà để chuyển mấy trăm cỗ máy ném đá tới Toái Diệp. Đồng thời còn cho điều 1500 quân đang trông coi kho hàng để đi hộ tống. Có lẽ bão tuyết đã làm tê dại tính sự cảnh giác của hắn rồi, khiến cho hắn quên mất cái A Sử Bất Lai thành ở cách đó ngàn dặm. Hắn cứ nghĩ rằng điều động 1500 quân kia trong một kỳ hạn ngắn sẽ không nguy hại gì. Và từ đó cho thấy cái nguy cơ lần này không phải là ngẫu nhiên mà sự khinh thường cẩu thả hết lần này đến lần khác của hắn chính là nguyên nhân của hậu quả hôm nay. Tề Tái Nhĩ lúc này giống như một kẻ điên, phóng thẳng về phía kho hàng bên sông Chân Châu hà mà chẳng suy nghĩ hay lo lắng gì cho an nguy của Khát Tắc thành gì cả. Sở dĩ như vậy bởi vì nếu như Khát Tắc thành có gặp chuyện không may thì kẻ đầu tiên phải chịu trách nhiệm là Tát Man gia tộc, còn nếu như chiến dịch Toái Diệp vì hậu cần cung ứng không đảm bảo mà thất bại thì kẻ phải rơi đầu chính là hắn.
Từ Khát Tắc thành đến kho hàng bên sông Chân Châu hà cách nhau chừng một trăm dặm, nhưng đường đi bằng phẳng. Trên mặt đất tuy cũng có nhiều tuyết nhưng tạm thời chúng vẫn chưa hề đóng băng, nên cũng không ảnh hưởng nhiều tới việc hành quân của chiến mã. Nếu như bọn họ đi không ngừng nghỉ thì ước chừng đến lúc hoàng hôn là có thể tới được sông Chân Châu hà. Mặc dù biết là như thế nhưng lúc này Tề Tái Nhĩ lại tỏ ra vô cùng cẩn thận, ông ta không ngừng phải thám báo đi dò xét suốt dọc đường vid sợ giữa đường gặp phải mai phục của Đường quân.
Và vì thế mà mãi đến khi trời tối mò hắn mới tới được kho hàng bên Chân Chân hà. Ngọn lửa thiêu đốt kho hàng này suốt mười hai canh giờ rồi còn gì, thế nên phần lớn nơi này đều đã biến thành tro bụi, chỉ còn cái kho quân giới bên kia là lửa vẫn còn chưa cháy hết. Tề Tái Nhĩ bước thấp bước cao tiến vào quan sát kho hàng vừa vừa bị thiêu rụi. Thời khắc này trong lòng hắn sợ hãi đến cực điểm, ba tháng quân lương cho hai mươi vạn đại quân cùng với cỏ khô, số dầu hỏa thì đếm không hết, còn có trường mâu, khôi giáp và các vật tư khác nữa,vậy mà chỉ sau một mồi lửa mà đã chẳng còn gì nữa rồi.
Mãi cho đến khi trời bừng sáng hẳn thì Đại Thực quân mới dạp tắt hoàn toàn được ngọn lửa. Bọn họ vớt vát được hai ngàn cây trường mâu. Đây là thứ duy nhất còn sót lại sau vụ cháy vừa rồi. Tề Tái Nhĩ chỉ biết ngơ ngác đứng nhìn một đống trường mâu bị ám khói nên bây giờ trở nên đen sì hết cả. Trong lòng hắn trống rỗng, hắn tự hỏi phải làm gì bây giờ, làm sao hắn có thể khai báo được với Cáp Lý Phát chứ.
Bỗng nhiên có những tiếng vó ngựa dồn dập từ phía sau truyền lại. Hai gã kỵ binh Đạ Thực đang chạy thục mạng tới, trông ai nấy cũng cực kỳ hoảng sợ. Cả hai nhảy xuống ngựa, chạy tới chỗ Tê Tái Nhĩ bẩm báo: " Tướng quân, đại sự không hay rồi, tối hôm qua có một cánh quân Đại Đường đến công phá Khát Tắc thành. Quân Tát Man thương vong rất nhiều, Khát Tắc thành đã mất rồi"
" Cái gì" . Sự đảm lược của Tề Tái Nhĩ gần như đã bị tê liệt, có lẽ trong đời ông ta chưa từng trải qua một sự kích động nào ghê ghớm như thế này.. Cả người ông ta mềm nhũn ra, ngã vật xuống mặt đất.
Tháng mười một năm Đại Trị thứ ba, Đường quân xuất kỳ binh từ A Sử Bất Lai thành vượt qua quãng đường ngàn dặm để tập kích vào Bạt Hãn Na. Bọn họ lợi dụng việc quân Đại Thực phòng thủ có nhiều sơ hở nên đã đốt cháy kho hàng của Đại Thực ở đây và thiêu hủy nhiều loại vật tư khác. Không chỉ dừng lại ở đó, nhân đà thắng lợi Đường quân còn đánh úp vào Khát Tác thành – đô thành của Bạt Hãn Na. Vì sức chiến đấu của quân binh Tát Man gia tộc trấn thủ ở đây rất yếu cho nên Đường quân nhanh chóng thành công. Hai ngàn Tát Man quân bị đánh tan tác, và gần như là bị tiêu diệt hoàn toàn.
Thắng lợi của Đường quân không chỉ mang lại lợi ích cho Đại Đường, mà nó còn cổ vũ và khích lệ tinh thần để quốc vương Bạt Hãn Na là Khế Lực . Sau sự thất bại của Tát Man gia tộc, Khế Lực đã hiệu triệu dân chúng đứng lên chống sự thống trị của Đại Thực. Và cho đến thời điểm qua mùa đông, thì đã có khoảng hai mươi vạn dân chúng tụ tập ở Khát Tắc thành hưởng ứng cuộc nổi dậy. Những người Bạt Hãn Na này đã tiến hành khởi nghĩa vũ trang, thanh thế của cuộc khởi nghĩa ngày một dâng cao và lan rộng.
Cuộc tập kích thành công của Thi Dương đã không chỉ đem lại cơ hội cho Khế Lực mà quan trọng hơn nó đã tác động trực tiếp đến tình hình ở Toái Diệp. Trong tháng mười một , bảy ngàn Hô La San quân của Đại Thực trên đường làm nhiệm vụ vận chuyển các máy ném đã hạng nặng từ Bạt Hãn Na tới Toái Diệp đã chạm chán phải bốn vạn quân của Đại Đường từ Sơ Lặc tới chi viện cho Toái Diệp. Hai bên đã xảy ra kịch chiến, nhưng Đại Thực quân quả bất địch chúng, cho nên thua một trận tan tác. Năm trăm chiếc máy ném đá hạng nặng cùng với ba vạn thớt lạc đà đều rơi hết vào tay của Đường quân. Cùng lúc đó, ở phía nam của sông Y Lệ hà quân tiên phong của Đường quân cũng đã tới Chu Tước thành. Như vậy thế cục của chiến dịch Toái Diệp bắt đầu có cơ chuyển biến ='mso-special-character:line-break'>
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 36: Toái Diệp phong vân (17)
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Tại chiến trường Toái Diệp, trước những chuyển biến mau lẹ của thế cục, quân Đại Thực buộc phải thực hiện sách lược tấn công dồn dập, gây áp lực liên tục lên Toái Diệp thành hòng đánh nhanh thắng nhanh. Hai trăm chiếc máy ném đá hạng nặng được bọn chúng sử dụng hết công suất để thay nhau ném những khối đá lớn, công kích vào cửa đông của thành. Cái cửa sắt khổng lồ của cửa đông cũng đã bị những tảng đá ấy làm cho thủng lỗ chỗ rồi, đấy là còn chưa kể không ít chỗ đã bị đổ sụp dưới sự oanh kích của những chiếc máy ném đá để lộ ra những ngăn cửa đá vuông màu xám trắng ở bên trong. Và cuối cùng ở bên dưới cổng thành là một đống đá chồng chất như một ngọn núi nhỏ khiến cho cái cửa liên thành cũng bị đá lấp kín cả rồi. Nhưng quân Đại Thực bên kia vẫn còn chưa thôi oanh kích, có lẽ bọn họ muốn tạo ra một đường thoai thoải như sườn núi trên đống đá khổng lồ kia để cho quân đội của chúng có thể theo cái caí đường đó mà lên đầu tường thành. Đây có lẽ đã là phương án cuối cùng – được ăn cả ngã về không của Đại Thực rồi.
Hai ngày nay chủ soái bên phía Đại Thực là A Lan điên điên dại dại như một tên cờ bạc thua sạch vốn liếng vậy. Trước việc thế cục ở Bạt Hãn Na phát sinh nghịch chuyển, tất cả vật tư đều bị đốt sạch, rồi thảm bại ở sông Y Lệ hà, rồi bảy ngàn Hô La San quân tan tác ở Diệp Chi thành. Trong khi đó viện quân của Đường quân lại sắp tới . Đủ loại tin tức bất lợi cứ liên tiếp ập đến, thử hỏi ông ta không phát điên sao được. Vì hy vọng có thể xoay chuyển thế cục trong những ngày cuối cùng này, nên A Lan đã đưa ra quyết định tối hậu, đó là đem tất cả các xe thang công thành tham gia tấn công, bên cạnh đó còn cho sử dụng hết số dầu hỏa còn lại trút lên đầu thành Toái Diệp. Thế nhưng chỉ trong vòng hai ngày ngắn ngủi hầu hết các xe thang công thành đều bị tan tành, dầu hỏa cũng không còn lấy một thùng. Vậy mà Toái Diệp thành vẫn đứng đó sừng sững như thách thức Đại Thực quân. Hơn nữa mấy ngày nay tiết trời ngày càng lạnh lẽo, trên mặt đất cũng như trên tường thành, băng đã đóng rất dày. Việc công thành lại càng trở nên khó khăn.
Trải qua suốt mấy ngày oanh kích liên tục, các máy ném đá đã " tích lũy" và làm cho đống đá kia ngày càng cao lên. Dần dần thì nó cũng cao ngang với mặt tường thành Toái Diệp rồi. Nhưng hai trăm chiếc máy ném đá do sử dụng liên tục nên cũng đã hỏng hóc, hư hao mất quá nửa, chỉ còn lại có mười mấy cái" bền bỉ" tiếp tục " nhả" đá công kích. Đường quân ở trên thành cũng chẳng theo dõi quan sát gì cho mệt thân. Công việc của bọn họ lúc này là đun thật nhiều những vạc nước sôi. Rồi hơn ngàn Đường quân cứ thế rồng rắn, chuyền tay nhau những chậu nước nóng đổ vào các phễu, rồi cho chảy vào các ống trúc, để đem nước nóng đó tưới lên trên đống đá lù lù kia. Trời lạnh như thế cho nên lớp nước nóng trên mặt đống đá ấy nhanh chóng kết lại một tầng băng mỏng.
Nhưng chủ soái A Lan của Đại Thực hiển nhiên là không cam lòng. Khi mà mười mấy chiếc máy ném đá đó từ từ ngừng oanh kích thì hắn lập tức hạ lệnh. Và ba ngàn quân của Thạch quốc liền xung phong xông lên. Bọn chúng hò hét, nhắm thẳng cái đường dốc thoai thoải của núi đá cao vút kia mà lao đi. Nhưng cái núi đá " nhân tạo" này được tạo ra bằng cách " ném" những tảng đá chồng chất lên nhau một cách hỗn loạn, vì thế vô tình mà tạo ra " thế núi" hiểm trở, các tảng đá có cái thì lởm chởm cổ quái, có cái thì thì sắc như dao gọt khó có thể leo lên được, mà có khi lại còn là những cái bẫy hại người. Vậy mà vẫn có ba ngàn còn người không quản sống chết đang cố gắng lần mò để tìm được đường đi lên trên kia.
Địch quân thì đang ào ào xông lên như vậy nhưng Đường quân cũng không bắn đạn lôi, bọn họ cứ để mặc cho ba ngàn tên ấy lần mò, leo trèo tìm đường mà lên. Nhìn cảnh chiến trường lúc này thật là buồn cười. Ba ngàn quân Thạch quốc cứ như là một đám kiến đang bò đi tìm kiếm thức ăn vậy. Từng đám từng đám người đang cố bấu víu vào từng mỏm đá để cố gắng mà ngoi được lên trên kia. Nhưng cái núi đá " nhân tạo" này lại bóng loáng dị thường, vì thế mà thỉnh thoảng lại có tên lính trượt tay trượt chân rơi xuống thế là xương cốt gãy lìa. Nhưng ở đoạn tường thành phía nam đã có mấy trăm tên Đại Thực quân bò dần được lên đỉnh của cái núi đá đó , chỉ còn cách đầu thành chưa đến ba mươi bước nữa. Nhưng ở phía trước đó lại lòi đâu ra một cái khe rộng chừng ba trượng ngăn cách núi đá kia với tường thành. Hoàn cảnh này thật giống như chân trời góc bể cách nhau có gang tấc vậy. Có lẽ chỉ cần bắc một tấm ván gỗ là có thể đi qua tốt. Nhưng Đường quân nào cho bọn chúng cơ hội làm điều đó.
Chính trong lúc này trên đầu tường thành bỗng vang lên một loạt tiếng mõ hiệu lệnh, lập tức mấy ngàn nỏ binh của Đường quân xuất hiện. Cả vạn mũi tên cùng bắn đi, một trận mưa tên tràn ngập nhắm thẳng vào những tên lính Thạch quốc đang liều lĩnh đang lần mò kia. Núi đá nhân tạo ấy không chổ nào có thể ẩn nấp , nên bọn chúng dính tên rất nhiều, liên tiếp những tiếng kêu thảm thiết những tiếng lăn rơi của quân Đại Thực từ trên đỉnh núi xuống. Mấy trăm tên lính hoặc là trúng tên, hoặc là té ngã lăn xuống mà chết, không có một tên nào may mắn sống sót cả. Máu tươi nhuộm đỏ cả núi đá ấy. Số địch quân còn lại cũng bị làm cho sợ hãi mà quay đầu bỏ trốn.
A Lan giận tím mặt, hét lớn một tiếng nói: " Lệnh cho hai vạn tên nô lệ Đột Quyết tiếp tục xông lên. Người nào đầu tiên đánh được vào trong thành thì sẽ được thưởng một vạn dinar, một trăm mĩ nữ" . Tên lính làm nhiệm vụ liên lạc nghe xong, lập tức đi truyền quân lệnh.
" Đợi đã" . Phó tướng Mặc Nhã Lợi hô to lên một tiếng, ngăn tên lính liên lạc kia dừng lại. Hắn cảm thấy chủ tướng A Lan vì cay cú mà mất hết đi lý trí rồi, cho nên hắn vội vàng khuyên can A Lan: " Tướng quân, chúng ta nên lập tức từ bỏ cái chiến trường Toái Diệp này. Nhân lúc viện quân của Đại Đường còn chưa tới chúng ta nên rút quân ngay về Bạt Hãn Na để bảo toàn thực lực. Hiện tại nếu chủ soái cố sống cố chết công hạ Toái Diệp thành này để có tác dụng gì chứ. Quân đội của chúng ở trong thành cũng còn không ít, chắc chắn sẽ quyết chiến với chúng ta. Hơn nữa quân tiếp viện của chúng cũng sắp đến, khi đó chúng ta sẽ rơi vào cảnh hai đầu thụ địch. Vì vậy chúng ta rút quân bây giờ mới là thượng sách."
" Bỏ chạy" A Lan bỗng nhiên quay đầu ngó nhiên Mặc Nhã Lợi, vẻ mặt ông ta đầy kích động nói: " Ta đã tổn thất cho cái nơi này năm vạn người, vậy mà cam tâm rút quân sao? Calipha bệ hạ đã hạ lệnh cho chúng ta trước tháng mười hai phải hạ được Toái Diệp , nếu như chúng ta rút lui làm sao có thể ăn nói được với Calipha bệ hạ đây"
" Không có cách nào ăn nói, nhưng vẫn còn tốt hơn là toàn quân bị tiêu diệt hết. Chủ soái, chúng ta không thể nào tấn công Toái Diệp thành này được nữa, nên rút lui về phía nam thôi. Chúng ta cần phải bảo toàn lực lượng, đợi đến sang năm lại tiếp tục công thành" Mặc Nhã Lợi khẩn thiết khuyên bảo A Lan. Hắn cũng đã từng chính diện giao chiến với Đường quân cho nên hắn hiểu được sự lợi hại của Đường quân.
" Không" A Lan ngưng mắt nhìn lên cái thành trì ngạo nghễ như đnag thách thức ông ta. Dường như ông ta nghĩ tới điều gì, đồng tử từ từ thu liễm: " Có lẽ ta nên lợi dụng việc Đường quân đang tự tin có thể thay được chiến cuộc"
Sau đó ông ta quay người lại quả quyết hạ lệnh: " Lệnh tất cả thu binh về doanh, chuẩn bị rút lui về phía nam"
" Ồ !Ồ !Ồ" Những tiếng kèn đồng thật dài vang lên quanh quẩn khắp cả chiến trường. Tiếng kèn ấy chính là hiệu lệnh thu binh. Quân Đại Thực theo đó chậm rãi rút lui khỏi chiến trường trở về với quân doanh của mình.
Sắc trời lúc này đã chuyển sang hoàng hôn rồi, trời chiều sắc đỏ như màu máu dữ tợn chiếu lên cái núi đá chất chồng kia. Và ở trong những cơn gió bắc thổi mạnh kia, cái tòa núi đá mà Đại Thực quân đã tạo ra phảng phất như bốc lên một biển lửa lớn cháy hừng hực. Từ trong cái chân trời thê lương đang chìm dần vào bóng tối ấy bỗng xuất hiện một thân ảnh. Chủ soái của Đại Đường quân Vương Tư Vũ từ từ bước tới đầu tường thành. Ông ta thân thể khôi vĩ, dáng người hiên ngang, lộ ra khí chất của một người quân nhân bền bỉ, quyết đoán. Ông ta đứng nhìn thật lâu về phía quân doanh của đối phương mà không nói một lời nào cả. Mấy ngày qua, Đại Thực quân tấn công không hề có bài bản, sách lược gì cả: xe thang công thành bị phá hủy gần như chẳng còn gì, sau đợt tiến công ngày hôm qua thì dầu hỏa cũng chẳng còn lấy một thùng. Đến hôm nay bọn chúng lại còn ngu ngốc mà dùng máy ném đá để tạo thành một núi đá nhân tạo, hy vọng từ đó mà trèo được lên thành. Nhưng cuối cùng cũng chỉ là đầu voi đuôi chuột mà thôi, tấn công võ vẽ một chút rồi đã thu binh rút quân. Chẳng lẽ bọn chúng không biết rằng, trải qua một đêm đóng băng thì cái núi đá sẽ bị trơn trượt không thể nào trèo lên hay sao.
Trong ánh mắt của Vương Tư Vũ, biểu hiện sự thấu hiểu của ông ta đối với những thay đổi của tình hình chiến trường Toái Diệp hiện nay. Đại Thực quân tấn công liên tiếp nhưng lần nào cũng bị Đường quân đẩy lùi, nên tinh thần rất mệt mỏi, chủ soái thì trở nên hung hãn và đầy lo âu. Trong khi đó thế cục ở Bạt Hãn Na có biến đổi lớn, kho lương thực hậu cần của địch quân ở đây cũng bị thiêu rụi. Ngược lại Đường quân lại đang dần chiếm ưu thế, viện quân từ hai đường nam bắc đang cùng đến. Tình hình như thế quả thực là rất bất lợi cho Đại Thực. Ông ta cũng ý thức được rằng, sau mấy tháng tiến công, lực lượng của địch quân đã tiêu hao gần hết, cho nên việc bọn chúng xuất hiện tư tưởng rút quân là điều dễ hiểu.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 36: Toái Diệp phong vân (17)b
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
" Đại soái, người hãy nhìn xem, trời chiều đầy sắc đỏ như máu thế kia xem chừng có chút quỷ dị" Thị Ngự Sử Võ Nguyên Hành từ từ đi lên mặt thành. Ánh sáng của hoàng hôn chiếu hắt lên khuôn mặt hắn khiến cho sắc mặt của vị Thị Ngự Sử này đỏ gay như người bị say rượu vậy. Trong đôi mắt của Võ Nguyên Hành cũng như có hai ngọn lửa đang thiêu đốt vậy. Hắn đứng ở đầu tường thành chăm chú nhìn sắc hoàng hôn đỏ ngầu , lời nói có chút u buồn: " Những khi hoàng hôn mà mang thứ ánh sáng đỏ như máu này thường thường là điểm báo trước cho tai họa sắp xảy ra"
Hắn nói xong nhưng không thấy Vương Tư Vũ hồi đáp lại nên quay đầu nhìn lại vị chủ soái này. Chỉ thấy Vương Tư Vũ đang đăm đăm nhìn về quân doanh của Đại Thực ở xa xa, dường như ông ta không hề nghe thấy lời mà Võ Nguyên Hành vừa nói. Võ Nguyên Hành bất đắc dĩ đành phải cười trừ, hắn liền chuyển sang đề tài chính: " Đại soái, người có cho rằng tối nay Đại Thực quân sẽ cho rút quân toàn diện không" Vương Tư Vũ liếc nhìn hắn một chút, rồi cười nhạt nói : " Thế cục bây giờ đã quá rõ ràng, quân Đại Thực hoàn toàn rơi vào thế bất lợi, ngươi còn cho rằng bọn chúng sẽ không chịu rút quân sao"
Võ Nguyên Hành lắc đầu nói: " Chúng ta cùng với chủ soái của địch quân đã đấu trí, đấu lực suốt hai tháng nay, cho nên ta sớm đã hiểu thấu được tính cách của hắn rồi. Người này là một quân nhân có tính cách quật cường, ông ta sẽ không dễ dàng nhận thua đâu. Nếu không cùng chúng ta đáng một trận thật đã thì chắc chắn ông ta sẽ không cam tâm rút lui đâu. Cho nên theo tôi suy đoán thì tối nay ông ta sẽ cho rút quân, nhưng chẳng qua là để dụ cho chúng ta truy kích. Rồi sẽ quật lại thi triển đòn hồi mã thương với Đường quân. Có lẽ ông ta định một trận đánh tan chúng ta rồi thừa thế mà chiếm lĩnh Toái Diệp. Với ông ta đây sẽ là trận đánh mang hy vọng thay đổi chiến cuộc"
" Vũ ngự sử quả không hổ danh là người đến từ binh bộ. Mới nhìn thôi mà đã thấu triệt được tình hình" . Vương Tư Vũ tiếp tục đứng nhìn những chiếc máy ném đá hạng nặng của Đại Thực quân đang chậm rãi trở về quân doanh. Ông ta khẽ gật đâu, quả thật Võ Nguyên Hành phân tích rất có lý, khả năng bọn người Đại Thực kia tung ra đòn hồi mã thương là rất lớn. Cái tên chủ soái của Đại Thực quân này chắc muốn đánh cược một lần với Đường quân, nhưng nhất định sự điên cuồng của hắn sẽ chôn vùi chút hy vọng sống mong manh của toàn bộ Đại Thực quân. Vương Tư Vũ trầm ngâm một chút rồi nói: " Ta có một phương án, Vũ ngự sử hãy xem và bổ sung giúp ta cho thật thông suốt"
Trong buổi tối hôm đó, trong quân doanh của Đại Thực quân xuất hiện nhiều biến động khác thường. Tiếng người ồn ào, tiếng chiến mã hí vang suốt cả đêm. Và cho đến khi trời sáng thì Đại Thực quân bắt đầu rút lui. Đứng từ trên thành Toái Diệp nhìn xuống, trông đội quân ấy như một đám mây đen khổng lồ không nhìn ra đâu là giới hạn. Đám mây đen ấy đang di chuyển về phía nam. Lúc này, ở trên đầu thành Toái Diệp Đường quân bắt đầu mang những bát những chậu ra mà gõ. Ban đầu chỉ có thưa thớt vài người, nhưng càng về sau số binh lính gõ chậu gõ bát trên tường thành ngày càng nhiều. Cùng với tiếng gõ là những tiếng hoan hô vang lên tận mây xanh. Có vô số Đường quân ôm nhau khóc. Họ vui mừng quá. Ruốt cuộc Đại Thực quân đã lui binh rồi. Hơn hai tháng giữ thành tựa như một cơn ác mộng, nhưng hôm nay cơn ác mộng đó đã chấm dứt. Để đạt được thắng lợi này Đường quân cũng phải hy sinh thật nhiều – tám ngàn quân. Nhưng không gì có thể so sánh với chiến thắng đã cổ vũ tinh thần cho toàn quân.
" Đại soái, quân địch đã không còn lòng dạ nào mà chiến đấu nữa, chúng ta lẽ nào lại bỏ qua cơ hội đánh diệt chúng chứ"
" Đại soái, hiện nay tinh thần của quân ta đang lên rất cao, thế đã tụ đầy, hoàn toàn sẵn sàng cùng địch nhân quyết chiến một trận" . Các đại tướng thủ hạ của Vương Tư Vũ rối rít xin chủ soái truy đuổi quân Đại Thực. Trong suốt hai tháng đối đầu với địch quân, thật sự là bọn họ chưa được đánh một trận thống khoái nào với kẻ thù đáng gờm kia. Vậy thì sao có thể dễ dàng để cho bọn chúng rút chạy đi như thế chứ. Vương Tư Vũ sớm đã dự liệu được sẽ xuất hiện được tình huống này, ông ta khoát tay mỉm cười nói với chúng tướng: " Các ngươi an tâm, ngày hôm qua ta đã an bài đâu vào đấy cả rồi, Đại Thực quân tuyệt đối không thể chạy thoát được"
Tại phía bắc của Diệp Chi thành, Tào Hán Thần với bốn vạn đại quân đã tận dụng thời gian một ngày để đào một chiến hào dài đến ba dặm. Chiến hào này nằm ở vị trí bắc ngạn của sông Toái Diệp và ngay ở cửa ra của Diệp Chi cốc. Khoảng cách từ nó tới Toái Diệp là khoảng bốn mươi dặm. Nó chính là phòng tuyến của Đường quân án ngữ và triệt hạ đường rút chạy về phía tây của Đại Thực quân. Đường quân ở đây có sáu ngàn nỏ binh, năm ngàn Mạch Đao quân, hai vạn khinh kỵ binh cùng với năm ngàn thương binh(đội quân dùng thương làm vũ khí chủ yếu) hợp thành một đại quân tinh nhuệ. Ngoài ra còn có năm trăm chiếc " tích lịch chiến xa" thường xuyên tuần tra tới lui ở bờ sông đối diện, để đề phòng địch quân vượt sông chạy về phía nam.
Về nguồn gốc của số Đường quân trong trận này, bao gồm một vạn quân được điều từ Thông Lĩnh sau khi đã hoàn thành việc gây nhiễu loạn quân Đại Thực ở Thổ Hỏa La, còn có một vạn quân được điều từ Sơ Lặc, và tổng cộng có thêm sáu vạn quân nữa là các phủ binh tinh nhuệ đến từ Quan Trung, Ba Thục, Hà Đông, Lũng Hữu. Phần lớn số quân này trước đây thuộc biên chế của Tây Lương quân. Nhiệm vụ lần này của bọn họ là ngăn chặn quân Đại Thực rút chạy về phía tây.
Lúc này Táo Hán Thần đang đứng trên một gò cao, ông ta nhìn về Toái Diệp cốc ở phương xa đang chìm trong băng lạnh. Tối hôm qua, ông ta nhận được lệnh của chủ soái Vương Tư Vũ nói rằng có thể trong ngày hôm nay sẽ có một bộ phận của Đại Thực quân sẽ rút chạy qua đường phía tây của Toái Diệp cốc. Vì thế lệnh cho ông ta bằng bất cứ giá nào cũng phải ngăn chặn, và tiêu diệt không cho địch quân rút chạy về đường phía tây này. Vương Tư Vũ còn nhấn mạnh trận chiến này sẽ là trận chiến quyết định tới vận mệnh và vị thế của Đại Đường ở Tây Vực. Nhận được lệnh mà trong lòng Tào Hán Thần nặng trĩu. Mặc dù bản thân ông ta đã được phong lên chức Cao Xương Hầu, nhưng đây là lần đầu tiên ông ta trực tiếp chỉ huy một chiến dịch quy mô lớn thế này. Hơn nữa binh lực hiện tại trong tay ông ta cũng không nhều, vẫn còn tám vạn quân của liên quân các nước Tây Vực đang trên đường hành quân. Số quân này ít nhất phải mất hai ngày mới tới đây được.
" Đại tướng quân, người nhìn xem, là hồng ưng" Một tên binh lính chỉ lên không trung mà hô to. Tào Hán Thần lấy tay che ngang mày hướng mắt nhìn lên trên, chỉ thấy trên bầu trời mông lung xam xám kia có một con hồng ưng đang quanh quẩn chao liệng. Hồng ưng vẫn là một phương thức truyền tin truyền thống từ hồi Trươn Hoán ở Tây Lương quân. Bình thường thì nó dùng để cảnh báo. Nếu so sánh với phong hỏa đài thì nó còn bí mật hơn nhiều. Các hồng ưng đều do các thám báo quân huấn luyện và khống chế. Và hồng ưng xuất hiện vào lúc này thì có nghĩa là đại đội địch quân còn cách nơi này không tới mười dặm nữa thôi..
Tào Hán Thần lúc này hạ lệnh: " Nỏ cơ quân tiến vào trận địa, Mạch Đao quân chuẩn bị, kỵ binh bố trí ở hai cánh. Truyền mệnh lệnh nữa của ta, hỏa tốc điều ngay tích lịch xa đến trợ giúp"
Sáu ngàn nỏ cơ quân lập tức dàn làm ba hàng ở trên ngay phía trước của chiến hào. Bọn họ ngồi xổm xuống , tên được lắp, dây nỏ được kéo căng. Đây là những nỏ binh được huấn luyện đặc biệt, là đội quân có tầm bắn xa nhất, uy lực nhất và chuẩn xác nhất của Đường quân. Trong khoảng cách độ hơn trăm bước, tên nỏ vẫn hoàn toàn có thể xuyên thủng được tấm khiên chắn của địch quân. Nhưng khuyết điểm duy nhất của nó chính là lắp tên chậm, thao tác bất tiện, hơn nữa trong lúc trời mưa cũng không thể sử dụng được, cho nên Đường quân đã tiếp thu và sử dụng phương pháp bắn tiễn ba phân đoạn của Tần Quân Minh, đó là biên chế quân số thành ba hàng thay nhau bắn tên. Như vậy khi mà kỵ binh của địch chạy nước rút trong khoảng trăm bước thì mỗi nỏ binh sẽ có thể bắn ra được ba mũi tên.
Ở phía sau nỏ binh còn có năm ngàn Mạch Đao quân, số Mạch Đao quân này được xếp thành hai hàng, mạch đao trong tay họ có thể vươn xa tới hai trượng. Sau khi nỏ binh bắn hết ba loạt tiễn sẽ lùi lại, Mạch Đao quân này sẽ được đẩy lên làm tiền quân. Bọn họ chính là đội quân chủ lực để đối phó với kỵ binh của Đại Thực quân. Còn hai vạn khinh kỵ binh thì được bố trí ở hai bên, như hai cánh nhạn khép mở. Nhiệm vụ của khinh kỵ binh là ngăn chặn và tiêu diệt số địch quân bỏ chạy tản mác. Đứng ở vị trí sau cùng là năm ngàn thương binh (đội quân sử dụng thương làm vũ khí chủ yếu). Số thương binh này chính là đội quân " ruột" của Tào Hán Thần. Tất cả bọn họ đều đến từ Quan Trung, mỗi binh lính đều là những người thân thể cao lớn tráng kiện, tay cầm trường thương dài ba trượng, xếp thành một thương trận khổng lồ. Bọn họ cũng là một vũ khí lợi hại để đối phó với kỵ binh của địch.
Chốc lát sau, Đường quân đã chuẩn bị xong, tất cả các đơn vị đã vào vị trí. Và vừa lúc này từ phía chân trời xa xôi đã mơ hồ xuất hiện một vệt đen dài. Vệt đen ấy càng lúc càng tới gần và hiện rõ. Đó là bốn vạn Đại Thực quân do Mặc Nhã Lợi suất lĩnh. Bốn vạn quân này gồm có hai vạn quân nô lệ Đột Quyết và hai vạn Ai Cập quân. Nhiệm vụ của Mặc Nhã Lợi lần này cũng giống như nhiệm vụ của Tào Hán Thần, đó là ông ta phải chặn được đường bắc thượng của Đường quân, không cho Đường quân tập kích vào sau lưng của quân chủ lực Đại Thực. Trước mắt A Lan dẫn theo chủ lực của Đại Thực quân có lẽ đã tới Bùi La tướng quân thành, cách Toái Diệp năm mươi dặm. Thật ra Bùi La tướng quân thành là một tòa thành bảo về vòng ngoài cho Toái Diệp, mười vạn quân chủ lực của Đại Thực quân ở chẳng khác nào ác xà. Và chắc chắn con ác xà ấy sẽ nhe ngoác cái mồm đầy máu tanh để chờ đón Đường quân từ Toái Diệp tới.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 36: Toái Diệp phong vân (17)c
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Giờ phút này, Mặc Nhã Lợi cũng đã quan sát rõ được Đường quân ở phía xa kia. Hắn âm thầm lấy làm kinh hãi, mới ngày hôm qua hắn còn nhận được tin thám báo là Đường quân mới còn ở Diệp Chi thành, nào ngờ hôm nay Đường quân đã tới đây án ngữ rồi. Nhưng khoảng cách của Đường quân với Bùi La tướng quân thành gần như vậy, mà xem diện tích bọn họ dàn quân thì quân số xem chừng cũng chẳng ít hơn bốn vạn quân của Mặc Nhã Lợi đâu. Năm xưa, sau trận chiến ở Sơ Lặc, Mặc Nhã Lợi đã bị Đường quân bắt làm tù binh suốt ba năm, hắn bị bắt đến làm thợ khai mỏ ở mỏ bạc Toái Diệp. Và cách đây hai năm hắn mới được Đường quân phóng thích. Có lẽ khoảng thời gian bị bắt làm tù binh đủ cho hắn hiểu phần nào về Đường quân, cho nên khi trở về Đại Thực, hắn lại được phong làm phó tướng. Nhưng như một con thú bị thương luôn sợ thợ săn, trong tiềm thức của Mặc Nhã Lợi vẫn luôn có sự e ngại Đường quân. Kinh nghiệm 3 năm làm tù binh cho hắn biết Đường quân huấn luyện nghiêm chỉnh, quân kỷ nghiêm minh, trang bị đầy đủ. Và mặc dù Đại Thực có thể làm mưa làm gió ở phía tây nhưng đối với đội quân cường mãnh của phương đông này thì cái đoàn quân của Calipha kia cũng chẳng thể nào dọa nạt được họ, thậm chí vũ khí trang bị còn có phần kém hơn.
" Mặc Nhã Lợi tướng quân, chúng ta sẽ nghênh chiến ngay chứ" Một gã quân đoàn trưởng của quân đoàn Đột Quyết hung hăng đề nghị tấn công. Nguồn gốc của Đột Quyết nô đãi quân chính là những binh lính Đột Quyết mà Đại Thực bắt sống được trong trận chiến năm đó giữa Đại Thực với bọn người tây Đột Quyết. Sau khi số tù binh này được đưa về Đại Thực đã được chỉnh huấn lại thành quân đội của Đại Thực. Bọn họ trú đóng ở phía đông của sông A Mẫu hà. Mặc dù là nô lệ quân nhưng những binh lính này chủ yếu là đời thứ nhất của người Đột Quyết. Và trải qua hơn mười năm diễn biến, những người Đột Quyết đã trở thành một chủng tộc đặc thù ở Đại Thực, đời đời làm lính đánh thuê cho Đại Thực. Bọn họ cũng có vài điểm giống với đám quân hộ (quân hỗ trợ, hộ vệ của các thuộc quốc) của Đại Đường. Những binh lính Đột Quyết này tác chiến dũng mãnh, sức chiến đấu ngang ngửa với cận vệ quân của Calipha và Hô La San quân chính tông. Vì thế trong Đại Thực quân bọn chúng được đánh giá rất cao. Trên thực tế, ba trăm năm sau chính những người Đột Quyết này đã khống chế được cả quân sự và chính trị của hắc y Đại Thực và Calipha chỉ còn là bù nhìn cho bọn chúng giật dây. Và cái đội quân Đột Quyết này chính là tổ tiên của những người Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay.
Thật ra trong thâm tâm của Mặc Nhã Lợi mà nói, ông ta chẳng muốn khai chiến với Đường quân làm gì, thậm chí còn có ý muốn rút lui về phía sau. Nhiệm vụ của hắn là ngăn chặn không cho Đường quân ngược bắc, chứ không hề được chỉ thị phải chủ động quyết chiến với Đường quân. Nhưng bất quá, hắn cũng ý thức được rằng nếu như hôm nay hắn rút lui về phía sau thì con đường hoạn lộ sau này của hắn đã hoàn toàn chấm hết. Calipha sẽ tuyệt đối không dễ dàng tha thứ cho một tên tướng hèn nhát bỏ chạy.
Hắn trầm ngâm một hồ lâu rồi quay đầu sang hỏi bốn gã quân đoàn trưởng: " Ta cần một quân đoàn đi trước dò xét thực hư của Đường quân xem thế nào. Người Đột Quyết đánh trận đầu hay là để người Ai Cập đi thử trước đây"
" Điều này còn phải hỏi nữa sao" Hai gã quân đoàn trưởng của quân đoàn Đột Quyết liếc mắt nhìn nhau, lời nói đầy vẻ ngạo mạn: " Người Đột Quyết và Đại Đường mấy trăm năm nay liên tiếp đánh nhau. Còn có người nào nào đủ tư cách để đối trận với Đường quân chứ. Còn đám người đen trắng (chỉ Ai Cập quân) thì cứ đứng một bên đi đã"
" Tốt lắm! Vậy thì hai quân đoàn Đột Quyết sẽ đi khiêu chiến với Đường quân trước. Không cần phải đấu cứng với chúng, nếu như cảm thấy không đánh được thì lập tức rút lui về" Mặc Nhã Lợi phân phó hai câu, rồi lập tức hạ lệnh: " Quân đoàn 2 của Đột Quyết, xuất phát"
Sau khi Mặc Nhã Lợi ra lệnh một tiếng, lập tức một vạn Đột Quyết quân từ đại quân vọt lên phía trước, bọn chúng như một lưỡi đao sắc bén, tỏa ra sát khí đầy trời đất, lao thẳng về đội hình của Đường quân ở cách đó mấy dặm.
Cái đội quân Đột Quyết này không thể so sánh với đội quân Đột Quyết hùng mạnh năm xưa đã từng là đại kình địch ở phương bắc của cả nhà Tùy và nhà Đường trước đây. Khi đó quân Đột Quyết được biên chế cũng như trang bị rất tốt, không khác nhiều so với Đại Thực quân, hơn nữa vũ khí tầm xa còn có phần lợi hại hơn của Đại Thực. Sở dĩ như vậy là bởi vì bọn họ học được của người Hán kỹ thuật chế cung, nên cung tên bắn ta rất uy lực. Nhưng Đại Thực quân lại có sở trường dùng mâu ngắn, vì thế sau khi bị hợp nhất vào với Đại Thực quân, người Đột Quyết cũng bỏ cung tên và chuyển sang dùng mâu ngắn. Hơn nữa biên chế quân đội của họ cũng chuyển sang sao chép hoàn toàn của Đại Thực. Đó là lấy quân đoàn làm đơn vị tác chiến, gồm khoảng một vạn người. Mỗi quân đoàn lại chia thành mười đại đội, mỗi đại đội gồm một ngàn người. Dưới đại đội là trung đội, mỗi trung đội là một trăm người. Và cấp cuối cùng là tiểu đội, mỗi tiểu đội gồm mười người. Mỗi khi đội trưởng tử trận thì thì một thủ trưởng cấp trên sẽ bổ nhiệm đội trưởng mới.
" Giết" Kỵ binh Đột Quyết hò hét lao đi với một khí thế áp đảo. Rất nhanh, bọn họ đã vượt lên phía trước hơn năm trăm bước.
Địch quân đã tấn công, nhưng bên phía Đường quân, thế trận vẫn như bàn thạch không hề nhúc nhích gì cả. Sáu ngàn nỏ binh của Đường quân bắt đầu nâng những chiếc nỏ bắn tầm xa nặng đến hai mươi cân lên và đặt cái cán nỏ vào hõm vai của mình. Mắt nheo nheo lạnh băng điều chỉnh và ngắm cho đầu mũi nhắm thẳng vào địch quân đang đông nghịt xông tới ở ngay trước mặt. Khoảng cách lúc này là ba trăm bước, kỵ binh Đột Quyết đã nằm trong tầm bắn của tên nỏ, nhưng trong khoảng cách ba trăm bươc uy lực của tên sẽ bị tiêu giảm rất nhiều, sẽ không thể xuyên qua áo giáp hay tấm chắn được. Vì thế nỏ binh vẫn không nhúc nhích gì cả, bọn họ vẫn đang đợi tầm bắn tốt nhất. Đội nỏ binh này đến từ Hà Đông, sau khi trải qua khóa huấn luyện nghiêm khắc trong ba năm, khả năng xác định khoảng cách bằng cảm giác của họ đã khá tốt. Trước đó bọn họ đã nhận được lệnh chỉ phát tên trong tầm một trăm bước cho nên không cần trống hiệu lệnh họ cũng tự biết khi nào thì có thể phát tiễn được.
Khoảng cách là hai trăm bước, nhưng nỏ binh vẫn như bất động, chỉ có ánh mắt thêm phần lãnh khốc, chăm chú nhìn vào cả vạn con ngựa đang chồm lên kia cùng với những tên Đột Quyết. Bọn họ thậm chí đã có thể nhìn rõ những khuôn mặt đầy lông lá lún phún của bọn Đột Quyết kia.
Một trăm bước! Sau một tiếng " tách" nhẹ là những tiếng vun vút, xé gió mà lao đi. Hai ngàn mũi tên sắc lạnh, phảng phất như một đám mây đen xé tan đi cái giá lạnh của màn sương mà phi thẳng tới cái đám kỵ binh Đột Quyết đông như kiến cỏ đang ở ngay trước mặt kia. Những mũi tên đầy uy lực, xuyên thủng những tấm chắn, cắm thẳng vào đầu, vào ngực của địch quân. Những tiếng la hét thảm thiết vang lên liên tiếp. Những tên binh lính Đột Quyết trúng tên ngã vật xuống đất, và bị giẫm nát bởi những vó ngựa của chính đồng đội mình ở phía sau. Hàng tiễn thứ nhất đã có bốn trăm tên Đột Quyết tử trận. Cái quân đoàn ấy nhìn như bị cắt mất một lớp da đi rồi. Sau đó hàng tiễn thứ hai rồi hàng tiễn thứ ba thay nhau bắn tới. Sau hai loạt (sáu hàng) tên bắn, với uy lực mạnh mẽ nỏ trận của Đường quân đã khiến cho binh đoàn Đột Quyết thảm trọng, trên mặt đất có vô số binh lính bị chết và bị thương đang giãy giụa trên mặt đất và trở thành những vật cản cho những chiến mã ở phía sau xông lên. Và rõ ràng thế tiến công của bọn người Đột Quyết này đã bị chặn lại rồi.
" Tùng! Tùng! Tùng!" Chiếc trống da khổng lồ bên phía Đường quân được một lính lực lưỡng đánh lên. Đó chính là hiệu lệnh cho nỏ binh lập tức rút lui về phía sau bằng các khoảng trống của Mạch Đao quân. Rất nhanh chóng, số nỏ binh này nhanh chóng lùi về phía sau chừng hơn ba trăm bước và lại tiếp tục dàn trận nỏ ở đây. Nhưng bọn họ cũng đồng thời để cho gần ngàn nỏ quân dừng lại ở ngay sau Mạch Đao quân chừng sáu mươi bước. Gần một ngàn quân này, ngồi xổm xuống, lắp tên, kéo dây nỏ sẵn sàng. Bọn họ đang chờ đợi cơ hội bọn người Đột Quyết kia bị lỡ một nhịp để mà bắn hạ cái lũ chi" Đột Quyết " kia. Quân Đột Quyết bị cái hào rộng một trượng kia là cho phân tán sự chứ ý, bọn chúng rối rít cho ngựa thả chậm tốc độ lại để lấy tầm vọt qua chiến hào. Và trong khoảng thời gian ngắn khi và kỵ binh Đột Quyết thúc ngựa nhảy qua chiến hào thì nỏ binh cũng thần tốc vọt qua tầm ném của mâu ngắn bên phía Đại Thực. Đây chính là tác dụng của chiến hào. Mặc dù nó không thể ngăn cản kỵ binh Đột Quyết xung phong nhưng nó lại đem lại thời gian cho nỏ binh rút lui thành công, không bị mâu ngắn của Đại Thực gây thương tích. Có lẽ đây chính là chi tiết quyết định thành bại, thường thường chỉ cần một chi tiết nhỏ thôi nhưng cũng có thể cứu vãn tính mạng của cả trăm ngàn binh lính.
Sau khi vọt qua chiến hào, kỵ binh Đột Quyết chạy thúc ngựa chạy thật nhanh, trong khoảng bốn mươi bước là đủ để bọn chúng chạy đà cho việc ném mâu. Tốc độ và sức mạnh đã tích đủ , kỵ binh Đột Quyết rào rào ném những cây mâu ngắn về phía Đường quân. Nhưng lúc này, năm ngàn Mạch Đao quân đã chỉnh tề đợi sẵn, bọn họ hét lên một tiếng, nỏ binh triệt thoái ra phía sau đồng thời đứng áp sát, trợ lực ngay sau số Mạch Đao quân, tạo thành một bức tường đồng vách sắt kiên cố. Những đoản mâu kia lao đến gặp phải trọng giáp của Mạch Đao quân vang lên những tiếng đinh đang, đinh đang, rồi rơi lả tả xuống mặt đất. Những mâu ngắn này khó có thể mảy may làm xây xát được Mạch Đao quân. Năm ngàn Mạch Đao quân nhanh chóng giữ cầm ngang mạch đao. Năm ngàn mạch đao thẳng tắp, sắc nhọn và dày đặc như một rừng đao, phát ra hàn quang sáng lòe xông thẳng lên phía trước giết địch. p tới.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 37: Toái Diệp phong vân (18)
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Hơn trăm tên kỵ binh Đột Quyết ở hàng tấn công đầu tiên đã không kịp hãm đà lại nữa, cả người lẫn ngựa theo đà lao thẳng vào rừng đao nhọn hoắt kia. Thế là máu tuôn chảy như xối, chảy đàm đìa trên những thi thể của lính Đột Quyết. Thấy đồng đội trước mặt lâm vào thảm cảnh như thế, nên ngay lập tức những kỵ binh Đột Quyết ở phía sau cũng rối rít thắng cương, những con chiến mã bị hãm đà bất ngờ rối rít hí vang, hai vó trước tung lên thật cao. Thời khắc này chính là cơ hội của ngàn tên nỏ binh đang dàn quân cách đó sáu mươi bước. Ngàn mũi tên mạnh mẽ, xé gió lao đi,lướt qua đỉnh đầu của Mạch Đao quân bắn hạ mấy trăm địch quân như bắn mấy trăm con chim vậy
Năm ngàn Mạch Đao quân phòng thủ thì vững như bàn thạch, và lúc tiến công thì cả bức tường ấy đồng loạt xông lên. Đao phong lướt đi, thế như chẻ tre, uy mãnh vô cùng không gì cản nổi. Huyết nhục tán loạn, xương cốt đứt lìa, đầu người đen sì rơi lông lốc trên mặt đất. Tiếng gào khóc, rên rỉ đột nhiên vang lên dậy đất con chiến mà vô chủ hí vang đầy bi thương, lông bờm lõa xõa. Chúng lồng lộn, rồi chạy tán loạn tứ phía để thoát khỏi chiến trường khốc liệt này. Nhìn chúng như những con ngựa quỷ đến từ địa ngục vậy
Chừng nửa canh giờ sau, Tào Hán Thần quan chiến và nhận thấy bên phía địch quân đã dần đánh mất thế công kích và đang dần rơi vào hạ phong. Ngọn hồng kỳ được phất lên, sau đó là tiếng trống lệnh ở hai bên cánh cũng được gióng lên. Khinh kỵ binh của Đường quân ở hai bên cánh bắt đầu di chuyển, bọn họ tiến hành bao vây, co cụm chiến tuyến. Hai cánh khinh kỵ binh như hai mũi nhọn tiến nhanh về phía trước. Từ trên cao nhìn xuống, hai cánh kỵ binh Đường quân ở hai bên như hai cánh của con chim lớn đang chớp động, và hai cánh ấy đang gập lại, tựa như muốn bao vây, nhấn chìm đoàn quân Đột Quyết kia.
" Ồ !Ồ !Ồ" Tiếng kèn thu binh của Đại Thực quân từ xa truyền lại. Mặc Nhã Lợi đã nhìn thấy rõ cái binh đoàn vạn tên đầy tớ Đột Quyết đang rơi vào hiểm cảnh. Một khi hai cánh khinh kỵ binh của Đường quân khép kín được vòng vây thì chắc chắn cái quân đoàn kia sẽ bị " làm thịt" hoàn toàn, chẳng khác nào cây nắm ấm bắt được côn trùng. Cả cái quân đoàn ấy sẽ bị Đường quân làm thịt không còn một mống cho mà xem.
Nhưng tiếng kèn ra lệnh của Mặc Nhã Lợi vang lên đã muộn, chiến mã của kỵ binh Đường quân lao đi như bay, nhanh chóng khép kín chặt vòng vây. Mấy ngàn tên Đột Quyết còn lại cho dù mọc cánh cũng khó mà trốn thoát được.
" Mặc Nhã Lợi tướng quân, chúng ta phải huy động toàn quân xông lên để giải cứu cho các huynh đệ ngay" Một gã chỉ huy quân đoàn Đột Quyết hai mắt đỏ ngầu, lớn tiếng va chạm với Mặc Nhã Lợi: " Nếu ngài không xuất binh cứu viện, ta sẽ kiện ngài lên Calipha, nói ngài tư thông với địch, cố ý đẩy người Đột Quyết chúng ta đến chỗ chết"
" Ngươi đang nói lăng nhăng cái gì đấy hả" Mặc Nhã Lợi vô cùng tức giận, mắt đỏ ngầu nhìn trừng trừng vào tên kia. Sau đó ông ta quan sát chiến trường một lần nữa. Quả thật là cái quân đoàn Đột Quyết kia bị Đường quân bao vây kín mít, không có cách nào có thể tự phá vòng vây ra được. Rốt cuộc Mặc Nhã Lợi cũng quyết định, ông ta hạ lệnh: " Toàn quân xuất kích, đánh tan Đường quân"
Cả vạn con ngựa của Đại Thực lại thi nhau chồm lên, chạy hết tốc lực hướng về phía Đường quân mà quét ngàn qua. Bên phía Đường quân, chiếc trống khổng lồ lại được đánh lên, đó là hiệu lệnh cho năm ngàn thương binh bắt đầu tham gia trận đánh.
Lúc này năm ngàn Mạch Đao quân cũng bắt đầu biến trận, bọn họ chuyển sang thế trận hình chữ bát. Năm ngàn Mạch Đao quân chia làm 2 cánh triệt hạ nốt ba ngàn quân nô lệ Đột Quyết còn sót lại. Còn hai vạn khinh kỵ binh của Đường quân tựa như hai con cự long quay ngang đầu. Một trái một phải hướng đám Đại Thực quân đang xông tới mà chặn đánh.
Cuộc chạm trán bi thảm giữa Đường quân với Đại Thực quân, đến tảng sáng ngày hôm sau rốt cuộc đã phân định được thắng bại. Để tạo thế áp đảo cho cuộc chiến, Đường quân đã cho điều thêm năm trăm cỗ " tích lịch xa" tham gia chiến đấu. Với uy lực mạnh mẽ và khủng khiếp của những chiếc nỏ liên châu (nỏ bắn được nhiều tên cùng lúc)và của đạn lôi, bước ngoặt của trận chiến đã nghiêng hẳn về phía Đường quân. Dưới sự hỗ trợ của các cỗ nỏ liên châu và đạn Thiên lôi, cánh kỵ binh ở bên phải của Đường quân đã giao chiến đầy quả cảm và khiến cho quân đoàn Đột Quyết phải chịu thất bại nặng nề, quá nửa quân số bị chết và bị thương. Khiến cho những kẻ " to mồm" này lại là những kẻ thất bại và bỏ chạy đầu tiên. Sau khi quân đoàn hai của Đột Quyết thất bại và bỏ chạy đã dẫn tới việc sụp đổ của toàn hệ thống Đại Thực quân ở đây. Bọn chúng nhanh chóng vỡ trận và cũng tìm đường chạy trốn. Đường quân đuổi theo truy sát đến hơn mười dặm. Đại Thực quân, xác người chết, xác ngựa chết nằm la liệt trên chiến trường. Phó tướng Mặc Nhã Lợi chỉ còn vẻn vẹn không tới năm ngàn quân chạy thoát được về Bùi la tướng quân thành. Trong trận chiến này Đường quân cũng tử thương mất gần năm ngàn chiến binh, số trọng thương cũng rất nhiều.
Nhưng trận đánh này cũng đã làm cho cục diện chiến tranh hoàn toàn thay đổi. Hơn ba vạn Đường quân vừa mới tới từ Sơ Lặc, Cao Xương, Quy Tư và quân đội của hai mươi mấy tiểu quốc khác hợp thành một liên quân tám vạn người, áp sát Bùi La tướng quân thành từ phía nam. Khiến cho Đại Thực quân ở đâu hai mặt thụ địch, nên chúng vô cùng lúng túng và bấn loạn. Như vậy ý đồ sử dụng đòn hồi mã thương của A Lan nhằm phản kích truy binh từ Toái Diệp xem như đã hoàn toàn thất bại.
Đang trong lúc này, thì sáu vạn Đường quân từ Chu Tước thành đã vượt qua Cát Lĩnh, chịu trách nhiệm bao vây toàn bộ khu vực phía đông của Bùi La tướng quân thành. Bọn họ đóng quân cách tòa thành này chừng mười dặm. Cùng với đó từ Toái Diệp, Vương Tư Vũ đích thân thống lĩnh năm vạn đại quân từ phía bắc xuống, cũng đã tiến sát Bùi La tướng quân thành. Còn ở phía tây thì địa hình núi non hiểm trở, cho nên quân Đại Thực cũng khó thể đào thoát bằng đường này, nhất là trong thời tiết này. Như vậy mười ba vạn quân của Đại Thực bị hai mươi vạn Đường quân bao vây toàn diện và chỉ còn " thoi thóp" trong một khu vực dài chừng mười dặm, rộng chừng năm dặm. Trong khi đó tất cả các loại vũ khí hạng nặng cũng bị chúng vứt bỏ hết ở bên ngoài thành Toái Diệp. Mà trong cái lúc " ngắc ngoải" này số lương thực mà chúng mang theo cũng chỉ còn chưa tới mười ngày nữa thôi.
Ngày hai lăm tháng mười một năm Đại Trị thứ năm, Đại Thực quân bị bao vây đã bước sang ngày thứ ba. Chính trong thời gian này một trận cuồng phong bão tuyết bất ngờ ập xuống, cơn bão tuyết ấy gầm thét suốt cả một vùng Toái Diệp cốc.Và đến lúc giữa trưa, chính là đỉnh điểm cho sự dữ dội, và mãnh liệt của trận bão tuyết này. Gió lạnh thổi điên cuồng cuốn xoáy những bông tuyết. Người ta cảm thấy cơn bão tuyết khủng khiếp kia như một hung thần đang tàn phá, hủy diệt tất cả những gì mà nó gặp trên mặt đất. Những bụi đất cùng với đá nhỏ cũng bị cuồng phong cuốn đi, chúng như đang nhảy múa trong một không gian như ngày tận thế- cả thiên địa chỉ một màu u ám. Những chiếc lều bạt dưới sức gió của bão tuyết cũng nghiêng ngả, rên rỉ " than khóc"ó cái lều nào mà cọc đóng không chắc thì đều bị gió cuốn đi hết. Trước sức gió này, con người cũng không thể nào mà đứng thẳng được, bọn họ chỉ có thể bò lổm ngổm trên mặt đấy, hay quay lưng lại theo chiều gió để giảm lực cản mà thôi.
Trận bão tuyết này cứ thế mà " nhẩn nha" tàn phá, càn quét suốt hai ngày trời. Nó khiến cho những trận chiến đẫm máu, những trường sát kiếp của chiến dịch Toái Diệp bị ngưng trệ lại mấy hôm. Sau hai ngày gầm rú, cơn bão tuyết khủng khiếp ấy có vẻ đã " chán" nên " bỏ đi" . Không gian lại về với bình thường, cả một khu vực rộng lớn là một cánh đồng tuyết trắng xóa, tuyết đọng dầy ngập đến tận đầu gối người ta, nên người ngựa đi lại rất khó khăn. Mặc dù biết là vậy nhưng Đường quân vẫn hết sức cảnh giác, đề phòng Đại Thực quân lợi dụng thời tiết này để đột phá vòng vây.
" Đại soái, tôi xem chừng ngài lo lắng như thế là hơi quá rồi. Tuyết dầy như thế này làm sao quân Đại Thực có thể phá vây được chứ" Một đoàn người đang bước những bước đi khó khăn trên mặt tuyết. Đi tít tận phía trước là chủ soái Vương Tư Vũ , còn đi theo phía sau ông ta chính là Thị Ngự Sử Võ Nguyên Hành. Võ Nguyên Hành ở Toái Diệp nhận được thủ dụ của hoàng thượng nên sáng sớm hôm nay đã chạy đến đem thủ dụ ấy cho Vương Tư Vũ, nhưng lại gặp đúng lúc ông ta đang đi thị sát các trạm gác.
Vương Tư Vũ quay đầu lại nhìn Võ Nguyên Hành. Ông ta liền cười nói: " Vậy ngài thử nói xem, trong khi tuyết lớn đang đổ xuống Bạt Hãn Na, ai cũng cho rằng Đường quân chúng ta sẽ không nhân cơ hội có tuyết lớn mà đánh lén. Thế nhưng Đường quân chúng ta lại hết lần này đến lần khác đánh lén đắc thủ."
Võ Nguyên Hành có vẻ như không bước theo kịp được Vương Tư Vũ, cho nên vị Thị Ngự Sử này liền chạy đuổi theo chủ soái. Khi đến nơi hắn ta thở hồng hộc, tiếp tục biện giải phản bác: " Lần đầu đánh lén ở Bạt Hãn Na đắc thủ đó là vì khi đó tuyết không lớn, hơn nữa lại vào thời điểm sau khi tuyết rơi, cho nên chiến mã của Đường quân vẫn có thể phi tẩu trên mặt tuyết. Nếu như là trận tuyết ngày hôm nay thì Thi Dương tướng quân cũng không thể có cách nào mà xuôi nam được ấy chứ" ='mso-special-character:line-break'>
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 37: Toái Diệp phong vân (18)b
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Vương Tư Vũ nghe khẩu khí của Võ Nguyên Hành xem chừng hắn vẫn chưa phục lắm, cho nên vị chủ soái này tiếp tục cười nói: " Tốt lắm, đã vậy ta lấy ví dụ khác cho ngài xem. Mười mấy năm trước đây, ta theo bệ hạ đi đến Thiên Bảo huyện, Võ Uy quận. Chúng ta ở đó không mất nhiều thời gian nhưng vẫn hạ được Võ Uy. Ngài có biết vì sao lại hạ được Võ Uy trong thời gian ngắn như vậy không. Khi đó trời cũng có nổi bão tuyết, mà xem chừng trận bão tuyết đó còn có phần khủng khiếp hơn thế này, nhưng chúng ta vẫn đội rét đội tuyết, hành quân ba ngày ba đêm, vượt qua hơn một trăm dặm đường núi. Cái lạnh cắt da cắt thịt lúc đó xem chừng còn đáng sợ hơn sứ giả câu hồn do Diêm Vương phái đến lấy mạng. Dù bao tuyết gầm rú nhưng toàn quân vẫn cắn răng chịu đựng, gắng gượng đi xuống, cuối cùng bất ngờ tập kích, đắc thủ được Võ Uy."
" Còn có chuyện như vậy sao" Võ Nguyên Hành nghe kể mà cực kỳ kinh ngạc. Hắn có chút ngượng ngùng, gãi gãi sau gáy: " Trong văn thư của triều đình chẳng phải có ghi lại rằng, bệ hạ tiến vào chiếm được Võ Uy là do Vi Ngạc chủ động nhượng xuất hay sao? Sao lại có chuyện lén hạ Võ Uy trong bão tuyết là thế nào"
" Vi Ngạc chủ động nhượng xuất Võ Uy" Vương Tư Vũ cười lạnh, lộ vẻ khinh thường: " Thật nực cười, Vi Ngạc lúc bấy giờ chỉ hận là không băm thịt được chúng ta, chứ nói gì đến chuyện hắn tình nguyện dâng tặng Võ Uy cho hoàng thượng. Thôi! Nếu như trong văn thư của triều đình đã viết như vậy thì ta cũng không nói thêm gì nữa. Bất quá, ta chỉ nói thêm một điểm, trận chiến lần đó thật là gian khổ vô cùng, nếu như không thừa dịp đêm tối tuyết rơi mà đánh lén thì quả thật là chúng ta sẽ không thể nào mà hạ được Võ Uy"
Hai người Vương Tư Vũ và Võ Nguyên Hành vừa đi vừa nói chuyện. Lúc này bọn họ đã đến một trạm gác. Có mười mấy Đường quân bị gió tuyết thổi ngã, từ trên các tháp canh xuống đang được chữa trị tại đây: " Thế nào rồi! Các huynh đệ ở đây cũng không sao chứ"
Đám lính nghe thấy có tiếng người nói nên đồng loạt quay đầu lại. Thấy chủ soái đích thân tới đây, bọn họ tự nhiên thấy có chút sợ hãi, rối rít hành lễ: " Tham kiến đại soái"
Một gã đội trưởng bẩm báo với Vương Tư Vũ: " Bẩm báo đại soái, có một huynh đệ đang làm nhiệm vụ trên tháp canh bị gió tuyết thổi mạnh quá nên bị ngã gãy chân, nên đã được đưa về Toái Diệp trị thương rồi. Trừ lần đó ra không còn có thêm huynh đệ nào thương vong nữa"
" Không có thương vong là tốt rồi" Vương Tư Vũ gật đầu, tỏ ý hài lòng: " Đại Thực quân ở bên kia có lẽ có tình huống phát sinh. Các ngươi hãy nói cho ta xem có phát hiện dị thường gì từ phía địch quân hay không"
Câu nói của Vương Tư Vũ như nhắc nhở viên đội trưởng, hắn ta nhớ ra điều gì đó, vội vàng gật đầu nói: " Có! Chúng tiểu nhân có bắt được một gã hàng binh tới đây. Hắn là binh sĩ Bạt Hãn Na, là một tên lính trinh sát. Thừa dịp bão tuyết đã trốn tới đây để xin được đầu hàng Đường quân chúng ta"
" A! Có chuyện như vậy sao" Vương Tư Vũ cảm thấy rất hứng thú, ông ta vội vàng hỏi: " Tên hàng binh đó hiện tại ở chỗ nào, mau dẫn hắn tới gặp ta"
Tên đội trưởng vội vàng đứng dậy, hướng về phía chiếc lều ở xa xa mà chạy đi. Hắn lớn tiếng quát tháo mấy tiếng. Chốc lát sau có hai tên lính Đường quân dẫn theo một tên nam nhân tuổi chừng ba mươi mấy lại chỗ Vương Tư Vũ. Từ ngoại hình có thể đoán được hắn là người Đột Kỵ Thi. Tên lính bị bắt kia trông thấy Vương Tư Vũ liền quỳ rạp ngay xuống, hắn nói gì đó rất to nhưng bằng tiếng Đột Quyết. Một gã binh sĩ Đường quân gần đó có biết tiếng Đột Quyết nên làm người thông dịch: " Bẩm tướng quân, hắn nói là bên phía Đại Thực quân hình như đang có nguy cơ thiếu hụt lương thực. Hàng ngày bọn hắn chỉ được ăn có một chút ít đồ ăn, hơn nữa A Lan lại không cho phép được giết ngựa, nên thật sự là bọn chúng đói không chịu được nữa. Cho nên tất cả đều suy đoán rằng có lẽ Bạt Hãn Na đã xảy ra chuyện gì đó chẳng lành. Hắn vì đói vì nhớ thương người nhà mà thừa lúc bão tuyết nên bỏ trốn khỏi quân doanh. Hắn nói hắn không muốn đánh trận nữa."
Vương Tư Vũ trầm ngâm trong chốc lát, ông ta nói với người lính thông dịch: " Ngươi hãy hỏi hắn xem, trong Đại Thực quân có tất cả là bao nhiêu người Bạt Hãn Na giống như hắn"
Người lính thông dịch dùng tiến Đột Quyết hỏi tên hàng binh kia mấy câu, sau khi hắn trả lời, người lính ấy liền thuật lại với Vương Tư Vũ: " Bẩm tướng quân, hắn có hơn bốn ngàn người, hiện bọn họ cũng ở cách nơi này không xa lắm chỉ khoảng bốn năm dặm thôi. Cùng ở chung một chỗ với họ còn có người của Thạch quốc, Sử quốc" . Vương Tư Vũ nghe xong trầm ngâm không nói lời nào. Từ những lời khai của tên hàng binh nãy giờ, ông ta có thể đi đến nhận định, đó là lương thảo của địch quân không còn nhiều nữa rồi. Trong tình hình như vậy, chủ soái của Đại Thực dĩ nhiên có sự phân biệt đối xử, bên trọng bên khinh đối với các đơn vị quân đội. Và dĩ nhiên từ hành động này của ông ta, khiến cho binh sĩ của các nước cùng Đại Thực tham chiến bắt đầu cảm thấy bất mãn. Và nếu như những lời khai báo của tên hàng binh này là sự thật thì Vương Tư Vũ đang có cơ hội để phân hóa địch quân. Nhưng để thực hiện được nó thì vô cùng khó khăn. Phải làm như thế nào để cho những người Bạt Hãn Na khác biết tin tức đây"
Vương Tư Vũ liếc mắt nhìn về phía tên hàng binh người Bạt Hãn Na kia, rồi hướng tên binh lính thông dịch nói: " Ngươi hãy nói cho hắn biết, nếu như hắn tình nguyện trở về để thay ta truyền tin tức, thì sau khi chiến tranh kết thúc ta sẽ thưởng cho hắn một ngàn đầu dê và mười con ngựa. Ngươi hỏi xem hắn có đồng ý làm như thế không"
Tên binh lính Đường quân lại phiên dịch những lời của chủ soái Vương Tư Vũ cho tên hàng binh kia nghe. Hắn nghe đến đâu mắt sáng lên đến đấy, gật đầu lia lịa. Và không cần tên lính thông dịch kia nói lại Vương Tư Vũ cũng hiểu rằng, tên hàng binh kia đã đồng ý. Ông ta khẽ gật đầu, sau đó còn dặn dò hắn mấy câu rồi mới sai người thả cho hắn đi. Tên hàng binh người Bạt Hãn Na kia, được cởi trói, bước thấp bước cao từ từ đi về phía nam. Thân ảnh của hắn dần biến mất trong rừng cây.
Lúc này, Võ Nguyên Hành đi tới gần Vương Tư Vũ nói: " Đaị soái, tôi cho rằng nếu chỉ dựa vào tên này, sợ rằng khó có thể đạt được kết quả mà đại soái mong muốn. Chúng ta nên phái thêm người cho viết và sao chép các truyền thư bằng tiếng Đột Quyết. Nói rõ cho bọn chúng biết rằng nếu như lập tức đầu hàng Đại Đường thì sẽ được cấp lương thực và thả cho về nhà. Ngược lại nếu còn ngoan cố chống đối thì sau khi chiến trận kết thúc, sẽ bị bắt đi làm đầy tớ khổ sai ở mỏ bạc Toái Diệp trong vòng hai mươi năm. Một khi chúng ta gửi truyền thư dụ hàng tới địch quân, tôi nghĩ rằng bọn chúng sẽ không thể nào cưỡng lại được, giống như chim đói sao bỏ qua được độc xà. Nhất định là sẽ có không ít người ngoan ngoãn ra đầu hàng chúng ta"
Vương Tư Vũ gật đầu liên tục tán đồng: " Lời đề nghị của ngài rất hay, lát trở về ta sẽ cho người viết và sao chép truyền thư. Nhưng còn dùng biện pháp nào để chuyển truyền thư tới địch quân cũng là một vấn đề, ta phải suy nghĩ một chút đã"
Võ Nguyên Hành ngẩng đầu lên bầu trời, xác định hướng gió. Hắn khẽ mỉm cười nói: " Đại soái không cần lo lắng, tôi đã nghĩ ra một biện pháp rất hay"
Đêm xuống, hai ngàn Đường quân rối rít đem hơn năm trăm cái đèn trời ra đặt ở trên mặt tuyết, mỗi cái cao chừng một trượng. Đèn trời này được Gia Cát Lượng thời tam quốc sáng chế ra nên nó còn có tên khác là đèn Khổng Minh. Nhìn về tổng thể, những cái đèn này có hình dáng như một cái thùng gỗ tròn. Miệng đèn là một thanh tre được làm như cạp rổ và được dùng làm khuôn để phất giấy. Giấy phất đèn được làm bằng giấy bản để có độ bền dai và chịu được sức gió.Đường quân cứ hai người làm một tổ, hai người một trái một phải nâng cao chiếc đèn, rồi lại có một người khác châm lửa đốt con bấc lớn ở phía dưới chỗ gần miệng của đèn. " Bùng" Một ngọn lửa được bùng lên, người ta có thể nhìn thấy một cái hộp đựng đầy dầu hỏa để duy trì thời gian cháy, giúp đèn có thể bay được lâu. Phía bên dưới cái hộp dầu là một chiếc giỏ trúc, bên trong có truyền thư được viết bằng chữ Đột Quyết và chứ Túc Đặc. Khi hộp dầu được đốt cháy, hơi nóng làm cho chiếc đèn từ từ căng phồng và được đẩy dần lên, hai tên lính liền buông tay và thế là chiêc đèn cứ thế bốc dần lên cao. Cuối cùng khi lên tới độ cao chừng hai trượng, thì những chiếc đèn trời này với những chiếc giỏ đừng truyền thư đang đung đưa được gió bắc thổi hướng về phía trận địa của Đại Thực quân. Hơn năm trăm chiếc đèn Khổng Minh giăng đầy trên bầu trời, giống như đom đóm bay đầy trời đêm mùa hè. Chúng làm cho không gian vô cùng quỷ dị khiến cho người ta chói cả mắt.
Hiện nay Đại Thực quân đang bị vây khốn trong một tòa thành trì, đó là Bùi La tướng quân thành. Đây chính là một tòa vệ thành của Toái Diệp. Tuy nói là vệ thành nhưng tòa thành trì này cũng không phải là nhỏ. Nó có đủ sức chứa cho một vạn quân trú đóng và mấy ngàn hộ dân sinh sống bình thường. Thậm chí Bùi la tướng quân thành còn có thể dung nạp được ba vạn quân đội. Về tình hình Đại Thực quân tại Bùi La tướng quân thành hiện nay thì có hơn hai vạn Hô La San quân trú đóng ở bên trong thành, bọn họ được cung cấp đầy đủ lương thảo. Còn ở bên ngoài thành là gần ba vạn quân Ai Cập và hơn một vạn quân Đột Quyết. Bọn họ bị cắt giảm một nửa khẩu phần ăn so với trước đây. Tệ hơn nữa là những người của Khang quốc, Thạch quốc, An quốc ở vòng ngoài cùng... Số quân của các tiểu quốc này lên tới sáu vạn, nhưng lại là những đơn vị có địa vị thấp kém nhất, trang bị sơ sài nhất, sức chiến đấu yếu nhất và dĩ nhiên là chế độ đãi ngộ cũng thấp nhất. Mỗi ngày bọn họ chỉ được ăn có một bữa. Hơn nữa thống soái tối cao lại còn ra lệnh cấm giết thịt chiến mã, nếu ai trái lệnh thì sẽ bị cực hình
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 37: Toái Diệp phong vân (18)c
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Với việc bị đãi ngộ không công bằng, lại bị những cơn đói bụng dày vò khiến cho sĩ khí của sáu vạn binh lính kia ngày càng bị hao mòn. Hơn nữa từ sau cơn bão tuyết khủng khiếp, tuyết đại đa số binh lính của các nước như Thạch quốc, An quốc, Bạt Hãn Na quốc ... đều cho rằng việc phá vòng vây là hoàn toàn không có cơ hội. Bọn họ đối với tiền đồ ngày càng trở nên tuyệt vọng hơn. Đúng lúc này từ trên thiên không của Bùi La tướng quân thành xuất hiện vô số những đèn trời mang theo truyền thư chiêu hàng của Đường quân tới sáu vạn binh lính bị A Lan đối xử tệ bạc kia. Trong truyền thư đã chỉ rõ việc Tát Man gia tộc bị thất bại và Khế Lực đang khởi nghĩa. Đồng thời Đường quân cũng chỉ rõ những ưu đãi đối với kẻ chủ động đầu hàng, đồng thời nghiêm khắc cảnh cáo những kẻ ngoan cố. Bức truyền thư khiến cho tinh thần của sáu vạn con người " bị hắt hủi này" vốn đang rệu rã nay lại càng chán nản hơn. Những lời bàn tán sối nổi như mưa giăng đầy trời, đâu đâu cũng là cảnh binh lính bàn tán xôn xao. Chỉ còn một khoảng cách rất mong manh nữa là lòng quân sụp đổ hoàn toàn. Thế cục bên phía Đại Thực lúc này giống như dầu hỏa sôi trào, chỉ cần một tàn lửa thôi là có thể dẫn phát đến một cuộc đầu hàng Đường quân trên quy mô lớn. Nhưng trái lại với không khí sôi trào đó bên trongg Bùi La tướng quân thành không khí vẫn tĩnh lặng, im ắng như tờ. Tường thành cao ngất tựa như là những bức tường tránh lửa vậy. Có lẽ vì thế mà A Lan ở trong thành không chút nào cảm thụ được ngọn lửa đang sục sôi ở bên ngoài đang sắp nổ tung ra kia. Chính trong lúc này một chiếc đèn Khổng Minh đã bay vượt được vào trong Bùi La tướng quân thành, mấy tên thân binh cầm lấy truyền thư của Đại Đường, hoang mang sợ hãi chạy vào phòng họp nghị sự của thống soái.
" Rầm" Một âm thanh thật lớn vang lên, A Lan điên tiết đập mạnh tay xuống bàn một cái, khiến ho cái hồ lô Xyri bẳng vàng mà ông ta yêu quý nhất đang đặt ở trên bàn bị rơi mạnh xuống đất, khiến cho đáy của nó bị lõm đi một phần khá lớn. Nhưng đến giờ phút này ông ta cũng chẳng có thời gian mà quan tâm đến cái đồ vật đó. Ông ta tức giận hét lên: " Lập tức phái người đi lục soát, xem kẻ nào to gan a dua a tòng, kích động theo truyền đơn thì lập tức xử tử. Các ngươi hãy đi điều tra ngay"
" Dạ" Một tên quân đoàn trưởng của Hô La San quân lớn tiếng tuân lệnh. Hắn xoay người đi ra để xử lý cái chuyện ngoài dự kiến này. Mặc Nhã Lợi cũng đang đứng bên cạnh A Lan, ông ta thấy chủ soái của mình giận quá mất khôn, nên vội vàng khuyên nhủ: " Đại soái, theo mạt tướng chuyện này không thể xử lý qua loa như vậy được, chỉ e rằng nếu làm như thế sẽ rất dễ xảy ra binh biến"
" Vậy thì ngươi nói cho ta phải làm sao bây giờ" A Lan chợt quay đầu lại nhìn Mặc Nhã Lợi, rồi nói tiếp: " Chẳng lẽ ta phải đi trấn an bọn họ hay sao? Mà ta lấy gì để trấn an bây giờ. Lương thực chỉ còn lại có năm ngày. Dĩ nhiên là phải ưu tiên cho lực lượng quân đội có sức chiến đấu mạnh nhất. Còn những bọn ô hợp kia, căn bản không phải là quân đội trung tâm của Calipha. Cho nên nếu như không làm như thế thì biết xử lý như thế nào đây" Cơn thịnh nộ của A Lan đã tới mức cực điểm.
" Đại soái xin hãy bớt giận, thuộc hạ đề nghị thế này, hay là chúng ta hãy cho phép bọn họ được giết ngựa làm thịt để giải quyết vấn đề lương thực trước mắt. Sau đó đợi cho tình hình tạm thời lắng xuống một chút nữa, chúng ta đem chuyển đổi vị trí của chúng với Ai Cập quân. Như thế bọn chúng sẽ nằm trong vòng giữa, chúng ta sẽ ngăn ngừa được nguy cơ bọn chúng theo địch quân"
Sự cau có, tức giận biểu hiện trên nét mặt của A Lan dần dần được giãn ra, dịu đi. Giết ngựa để giải quyết vấn đề lương thảo là một điều tối kỵ trong quân đội. Nhưng từ thế cục hiện nay cho thấy, nếu như đặt ra mục tiêu là toàn quân rút chạy chót lọt thật là khó khả thi, như vậy thì phải có vật phải hy sinh. Và " cái đội quân ô hợp" kia chắc chắn sẽ phải là tảng đá kê chân cho Hô La San quân thoát đi trước. Cứ cho chúng giết ngựa, đến khi rút chạy, bọn chúng không có ngựa lại hay, khi đó chính những kẻ đó lại trở thành lực lượng giam chân Đường quân để A Lan rút lui. Nghĩ như thế cho nên A Lan gật đầu: " Được rồi, ta đồng ý cho bọn chúng giết ngựa để giải quyết vấn đề lương thực. Nhưng tuyệt đối không thể trấn an theo kiểu mềm mỏng được. Phải nghiêm khắc quân kỷ không thể nhân từ với chúng được. Cho nên lệnh của ta trấn áp kẻ có ý làm phản vừa rồi không thể thay đổi. Tất cả những tên nào to gan dám kích động theo truyền đơn đều phải xử tử"
Ra lệnh xong, A Lan lại ngồi xuống, dáng điệu ông ta hết sức mệt mỏi. Có lẽ dù trong mơ đi nữa ông ta cũng chưa bao giờ nghĩ rằng Đại Thực quân do ông ta thống soái lại có kết cục bi đát như ngày hôm nay. Một sự cơn bão tuyết khủng khiếp đã làm rối loạn và làm thay đổi hoàn toàn kế hoạch tác chiến của ông ta. A Lan – Mai Tái Nhân tướng quân đã từng theo Calipha Lạp Hy Đức viễn chinh đánh Bái Chiêm Đình có công, nên được mọi người kính trọng tôn xưng là Đại Thực danh tướng thủ vệ Lục Viên đỉnh cung. Vậy mà hôm nay vị danh tướng ấy lại đang phải đối mặt với một vấn đề vô cùng nghiêm trọng, đó là sự tồn vong của mười ba vạn quân đội. Cho đến tận lúc này, A Lan tự kiểm điểm lại và nhận thấy rằng, trong cuộc chiến Toái Diệp này , bản thân mình chưa hề phạm một sai lầm chiến lược nào cả. Quả thật là, trời cao đã cho ông ta khoảng thời gian hai tháng để công hạ Toái Diệp thành. Nhưng có lẽ cho tới bây giờ Đại Thực vẫn bị cái dớp " thất bại trong việc công thành" từ nhiều đời trước ám quẻ. Vô luận là từ khi còn là Ngũ Mạch Diệp vương triều hay cho đến sau này là A Bạt Tư vương triều thì sự yếu kém trong việc công thành cũng đã là một " truyền thống" có thừa rồi. Trong suốt mấy trăm năm, Đại Thực từng bốn lần vây hãm Quân Sĩ Thản Đinh bảo, vậy mà cả bốn lần đều thất bại, vì thế nói cho cùng việc thất bại trong lần công thành Toái Diệp này cũng chẳng phải là tình cờ. Mà nguyên nhân thất bại chính là việc Đại Thực quân đã " đánh giá thấp về độ khó" của việc công hạ Toái Diệp, đánh giá thấp về nghị lực và sự bền bỉ trong việc thủ thành của Đường quân, cũng như đã đánh giá thấp quyết tâm của Đại Đường hoàng triều trong việc dốc toàn lực quốc gia cho cuộc chiến Toái Diệp này. Tất cả những sự sai lầm trong cách đánh giá đó đã dẫn tới hậu quả như hôm nay. Chắc chắn rằng trời cao sẽ không cho ông ta thêm cơ hội lần thứ hai nữa. Ông trời đã cho hắn cơ hội, nhưng trong hai tháng ông ta không thể hạ được Toái Diệp. Trời " đã chán" Đại Thực, cho nên chuyển cơ hội phản công cho Đường quân. Đây cũng chính là một sự công bằng của tạo hóa mà thôi. Biểu hiện cụ thể của " lẽ trời " ấy chính là cơn bão tuyết khủng khiếp kia. Chính nó đã đem lại lợi thế cho Đường quân.
Trong phòng họp của thống soái lúc này vô cùng yên tĩnh. Những tên tướng lĩnh cấp cao đều im lặng, tất cả như nín thở chờ đợi ý kiến của Thống soái. A Lan hiểu được điều này, cho nên ông ta đang từ trầm mặc lập tức thức tỉnh, khoát tay nói: " Chúng ta hãy tiếp tục triển khai hội nghị, các tướng hãy bàn bạc xem có thể đột phá vòng vây từ phía đông được hay không"
Truyền thư chiêu hàng của Đường quân đã hoàn toàn kích thích và gây chuyển biến trong lòng quân của liên quân các tiểu quốc trong Đại Thực quân. Dường như ở trong các quân doanh của mỗi tiểu quốc này đâu đâu cũng có người đang công khai đàm luận về việc đi đầu hàng Đường quân như thế nào. Ngay cả những kẻ có chức vụ trong hàng ngũ quân đội của nhóm liên quân này cũng đang dao động theo truyền thư. Chẳng cần nói cũng biết không khí trong các quân doan lúc này khẩn trương và nguy hiểm như thế nào.
Trong đại doanh của binh lính Bạt Hãn Na quốc, tên hàng binh hôm trước được Đường quân thả về đang đứng trên một tảng đá lớn, hướng xuống ngàn tên lính khác đang đứng phía dưới để tuyên truyền giảng giải: " Hôm trước tôi mắc kẹt trọng trận bão tuyết khủng khiếp, cứ tưởng rằng sẽ chết đứ đừ, nhưng may mắn lại được Đường quân cứu giúp. Họ nói với tôi rằng, ở Bạt Hãn Na quê hương chúng ta đã xảy ra kinh biến rất lớn: Đường quân từ A Sử Bất Lai thành đã xuất binh, đột kích và thiêu hủy thành công kho quân lương của Đại Thực quân, tiêu diệt bọn chó săn Tát Man gia tộc. Hiện nay quốc vương Khế Lực đang khởi nghĩa vũ trang, chính thức cắt đứt quan hệ lệ thuộc với Đại Thực trước đây, mà chuyển sang hữu hảo với Đại Đường. Các huynh đệ còn nhớ không, trước đây khi chúng ta quy phục Đại Đường, bọn họ không hề thu của chúng ta một văn tiền thuế nào. Vậy mà bây giờ Đại Thực và Tát Man gia tộc không chỉ bóc lột chúng ta nhà tan cửa nát mà còn vô cớ chiếm đoạt những bãi chăn thả màu mỡ, lại còn bắt chúng ta phải ruồng bỏ đi tín ngưỡng của mình để mà tin theo cái tôn giáo của chúng. Các huynh đệ thấy với những kẻ thống trị hà khắc như thế chúng ta có nên bán mạng cho chúng không. Các huynh đệ hãy nghe tôi, chúng ta hãy đi đầu hàng Đường quân, hãy đi trợ giúp cho quốc vương Khế Lực đi
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 37: Toái Diệp phong vân (18)d
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Những lời của tên lính trinh sát đã khơi dậy được vô số ý kiến đồng tình của những người khác. Thậm chí có rất nhiều những kẻ giữ chức vụ trong quân đoàn cũng đã biểu hiện ý định đầu hàng Đường quân một cách rất mạnh mẽ. Ngay cả đến quốc vương của bọn họ cũng làm phản Đại Thực rồi, vậy thì bọn họ còn ở đây để hy sinh cho Đại Thực để làm gì cơ chứ.
« Người Hô La san đến rồi đấy » Không biết từ ở vị trí nào, nhưng một tiếng hô báo động vang lên. Chỉ thấy rằng, sau tiếng hô đó thì từ phía cửa doanh, có một đội quân đằng đằng sát khí đang xông tới. Bọn chúng có chừng một trăm người, tên nào tên nấy đều mặc áo giáp, mũ sắt, tay cầm loan đao, trông thật dáng vẻ thật là hung ác. Binh lính Bạt Hãn Na vừa nhìn thấy đám Hô La San quân đã bị dọa cho sợ hãi, người nào người nấy biến sắc. Bọn họ tựa như một đám cừu hiền lành thương xuyên chịu cảnh ức hiếp đe dọa, cho nên từ trong « tiềm thức » của họ luôn mang một sự e ngại, sợ hãi với bầy sói Hô La San quân.
Sau khi bắt được truyền thư từ trong tay của binh lính trong liên quân các tiểu quốc. A Lan đã phái ra mười đội quân Hô La San để đi tuần tra, tìm diệt kẻ kích động. Mỗi đội tuần tra gồm một trăm người. Và một đội Hô La San quân đã đến tuần tra quân doanh của binh lính Bạt Hãn Na.
« Các ngươi tụ tập ở chỗ này làm gì hả, định làm phản hay sao » Một tên trung đội trưởng của Hô La San quân lớn tiếng quát mắng binh sĩ Bạt Hãn Na. Tiếng của hắn khiến cho binh sĩ ở đây cảm tưởng như sấm nổ bên tai vậy. Tên trung đội trưởng của Hô La San quân đã nhìn thấy có kẻ đang đứng trên tảng đá lớn, tuyên truyền kích động, nên hắn lập tức chỉ tay về phía đó và ra lệnh : « Tên kia chính là phần tử có ý muốn tạo phản. Hãy bắt hắn lại ngay cho ta »
Lập tức có hơn mười tên Hô La San quân lao đến chỗ tảng đá nơi mà tên lính Bạt Hãn Na kia đang đứng. Đám binh lính Bạt Hãn Na ở xung quanh đó tuy đông nhưng cũng không dám phản ứng gì, chỉ khiếp đảm lùi về phía sau. Có lẽ, những con người này vì bị đè nén quá lâu mà dần dần mất đi dũng khí phản kháng. Tên lính Bạt Hãn Na thấy đám Hô La San quân đang hung hăng xông đến định bắt mình, cho nên trong lòng hắn cực kỳ tức giận mà lớn tiếng quát: " Các huynh đệ, tại sao mọi người lại không phản kháng gì thế hả. Chẳng lẽ mọi người cứu để mặc cho bọn Hô La San này giết ta hay sao"
" Giết chết hắn cho ta" Tên trung đội trưởng của Hô La San quân đứng ở dưới mặt đất tàn bạo ra mệnh lệnh giết chóc.
Hơn mười tên Hô La San quân đã bao vây xung quanh tảng đá lớn, rồi bọn chúng rối rít bổ đao nhắm tới người lính Bạt Hãn Na đó. Biết rằng đã hết đường lui, cho nên người lính ấy liền hét lớn một tiếng, rút kiếm rồi nhanh chóng lao về phía một tên Hô La San quân gần nhất. Lưỡi kiếm đâm xuyên qua lồng ngực của tên Hô La San xấu số. Nhưng bản thân hắn cũng bị một tên Hô Lan San khác chém trúng một nhát dao lên người. Máu túa ra ướt hết cả người, hắn lảo đảo chạy trốn. Khi chứng kiến máu của đồng đội bị đổ một cách vô ích bởi chính những kẻ mà họ đang bán mạng, khiến cho những người Bạt Hãn Na tức giận, bầu nhiệt huyết và lòng tự ái dân tộc trong họ bùng phát và dâng cao. Sự khiếp đảm, sợ hãi của những con cừu hoàn toàn biến mất trong họ thay vào đó là những tiếng hò reo , những tiếng " xung phong" , những tiếng " giết" . Vô số những thanh được rút ra, rồi bổ nhào về phía một trăm tên Hô La San quân mà chém giết không thương tiếc. Trong doanh trướng, nhiều binh lính Bạt Hãn Na cũng chạy ra. Cả bốn ngàn con người như một con thủy triều hung hãn và đầy giận dữ. Và hơn một trăm tên Hô La San quân cũng nhanh chóng bị con thủy triều ấy nhấn chìm, nuốt chửng.
" Chúng ta đánh ra ngoài đi rồi cùng đi đầu hàng Đường quân" Tiếng hô của một người Bạt Hãn Na nào đó nhanh chóng làn truyền sang khắp các quân doanh khác trong liên quân của các tiểu quốc. Và có vô số binh lính Bạt Hãn Na nhanh chân đã chạy thẳng đi theo hướng bắc tới nơi Đường quân đang đóng quân. Ngay cả tên quân đoàn trưởng cũng cởi bỏ quân phục của Đại Thực, hòa mình với đám binh lính để chạy trốn về phía bắc.
Việc những người Bạt Hãn Na bất ngờ tạo phản chẳng khác nào như châm lửa vào dầu cho nó bùng cháy. Từ cuộc làm phản của bọn họ đã gây ra một chuỗi hiệu ứng mà ta không thể nào lường trước được hết. Toàn bộ số binh lính Đại Thực ở vòng ngoài của Bùi La tướng quân thành bao gồm quân của Thạch Quốc, An quốc, Bạt Hãn Na...đều không còn nghe chịu khống chế của chủ soái nữa. Trên cánh đồng tuyết mịt mờ chỉ thấy vô số những chấm đen đang chạy bán sống bán chết về phía bắc, phía đông hoặc phía nam. Những con người này đối với chiến tranh đã vô cùng chán ghét, đối với tiền đồ phía trước thì hoàn toàn tuyệt vọng, cũng không thể chịu đựng đói rét được thêm một giây một phút nào nữa. Vì sự dồn nén ấy mà đã dẫn đến việc bọn họ giết chết đám lính Hô La San đi tuần tra. Và rồi không ai bảo ai, những con người cùng quẫn này tự phát mà hợp lại với nhau thành một đoàn người đông đảo, và chạy về phía Đường quân với quy mô lớn. Khi mà cái quân lệnh cho phép giết ngựa của A Lan được đưa tới thì tất cả quân doanh của liên quân các tiểu quốc này đã trống rỗng. Sáu vạn quân bây giờ chỉ còn lại có bốn năm ngàn những người già cả, ốm yêu hay thương binh. Căn bản là bọn họ cũng muốn nhưng không thể chạy đi được.
Việc liên quân các tiểu quốc phản lại Đại Thực quân, rồi chạy đi đầu hàng Đường quân đã làm cho chiến cuộc ở Bùi La tướng quân thành hoàn toàn thay đổi. Ngay tối hôm đó cả ba mặt bắc, đông, nam của Đường quân đều nhất tề tổng công kích. Hơn một trăm cỗ máy ném đá và cả ngàn quả đạn dầu mà Đường quân đã đoạt được của Đại Thực nay lại được họ sử dụng để tấn công chính quân của Đại Thực. Hàng ngàn thớt lạc đà kéo những cỗ máy ném đá đó tới gần mặt thành phía nam của Bùi La tướng quân thành. Trong khi đó đạn dầu thì cũng được Đường quân trút liên tiếp vào trận địa của Đại Thực quân. Lúc này cả Bùi La tướng quân thành và cả mấy vòng trận địa của Đại Thực đều đã trở thành biển lửa. Một địa ngục trần gian đã xuất hiện ở nơi đây:những tiếng kêu thảm thiết, mùi khét lẹt của đạn hỏa, của đồ đạc bị đốt cháy xuất hiện đầy trên vùng trời của Đại Thực quân. Hơn ba vạn binh lính bị Hy Lạp hỏa gần như thiêu sống hoàn toàn. Trước sức mạnh hủy diệt của Đường quân nên có vô số binh lính bên phía Đại Thực đã lao ra đầu hàng. Phó tướng Mặc Nhã Lợi cũng đầu hàng.
Còn một cánh quân khác của Đại Thực do thống soái A Lan suất lĩnh, với hai vạn kỵ binh Hô La San dự định mở một cuộc phá vây ở mặt phía đông. Nhưng tại mặt phía đông này A Lan lại bị sáu vạn quân của Đường quân Bắc Đình chặn lại. Rồi ngay sau đó, Vương Tư Vũ lại còn đánh bọc hậu phía sau. Triệt hạ tất cả các con đường và các cơ hội trốn thoát của A Lan và ba vạn kỵ binh kia. Vì sự chênh lệch quá lớn về quân lực cho nên chỉ sau hai canh giờ ác chiến, đội kỵ binh Hô La San đã bị Đường quân tiêu diệt hoàn toàn. Thống soái A Lan Mai Tái Nhân tự sát trong tuyệt vọng.
Từ đây, chiến dịch Toái Diệp đã kết thúc, sự toàn thắng cuối cùng đã thuộc về phía Đường quân. Chiến dịch quy mô lớn lần này được bắt đầu từ khi bọn người Cát La Lộc xuôi nam và kết thúc là vào tháng mười một của năm sau. Trải qua suốt một năm hai tháng ác chiến cả về trí và lực, hai đại đế quốc đều đã huy động và dốc hết sức mạnh quốc gia vào chiến dịch sinh tử này. Bên phía Đại Thực, từ đầu tới cuối đã động viên và huy động ba mươi vạn người tham chiến, quốc khố vì chiến dịch này mà cũng sạch bách. Còn bên phía Đại Đường, Trương Hoán đã điều động gần hai mươi vạn quân, gần trăm vạn người Hán cùng người dân của các tiểu quốc ở Tây Vực tham gia làm dân phu phục vụ. Tổng số lương thực sử dụng lên tới một trăm ngàn thạch, còn tiền bạc thì lên tới bốn trăm vạn quán. Kết quả cuối cùng là Đại Thực quân bị tiêu diệt gần như hoàn toàn, số hàng binh lên tới mười vạn. Đồng thời vì sự ngông cuồng của mình nên Cát La Lộc cũng bị diệt vong.
Kết quả của chiến dịch lần này có ảnh hưởng cực kỳ sâu sắc tới vị thế của hai đại đế quốc này, đã làm hoán đổi hoàn toàn tư thế chủ động và bị động của Đại Đường và Đại Thực đối với chiến lược phía tây Thông Lĩnh. Với việc chiến thắng trong chiến dịch Toái Diệp, Đại Đường đang từ chỗ bị coi là kém thế so với Đại Thực, nay nghiễm nhiên trở thành đế quốc chiếm được thế thượng phong. Và sau chiến dịch này Bạt Hãn Na quốc, Thạch quốc đều quy thuận Đại Đường và phạm vi ảnh hưởng của đế quốc này cũng lan rộng tới tận lưu vực của con sông Dược Sát hà. Gần trăm tòa thành trì ở trong Đát La Tư cũng đã bị Đường quân chiếm lĩnh. Tình hình này khiến cho cả Đại Thực chấn động, cực kỳ sợ hãi. Calipha vội vàng điều động tám vạn cận về quân tinh nhuệ nhất để tăng viện cho Tát Mã Nhĩ Hãn, đồng thời ông ta cũng phải xuống thang với Bái Chiêm Đình. Để hòa giải với Bái Chiêm Đình, Lạp Hy Đức đã cho hủy bỏ điều ước bất bình đẳng với Bái Chiêm Đình mười năm trước đây. Từ đó mà quân đội của ông ta ở Xyri và Á Mĩ Ni Á mới có thể theo đường Bái Chiêm Đình xuôi nam được. Còn về phía Đại Đường, tuy giành chiến thắng nhưng thực sự cũng đã rất mỏi mệt rồi, không còn hơi sức mà tiến hành tây chinh được nữa. Trong khi đó Thổ Hỏa La vẫn nằm trong tay của Đại Thực, mà Hồi Hột kia vẫn chưa bao giờ hết lòng dạ lang sói với Đại Đường. Vì thế cho nên Đại Đường hoàng đế Trương Hoán quyết định hạ lệnh cho Đường quân dừng lại tại sông Dược Sát hà, không được tiến thêm về phía tây nữa. Đến đây, có thể nói chiến dịch Toái Diệp của Đại Đường đã hoàn toàn thắng lợi.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 38 : " Hồi Hột kinh biến" (1)
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Trái với sự " sôi động" của Toái Diệp thì những trận gió tuyết trong tháng mười một đã giúp cho tình thế của Mạc Bắc có được sự hòa hoãn nhất định. Những người Hiệt Kiết Tư cũng không hề tổ chức tấn công mạnh vào Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý, bọn họ chỉ tổ chức vài lần tiến công qua loa, cho đến khi đại quân của Hồi Hột trở về thì lập tức những người Hiệt Kiết Tư này liền quay đầu chạy lên phía bắc. Trung Trinh Khả Hãn nghe tin Hàn Đóa Nhĩ Bát Lý bị tấn công thì vô cũng tức giận, liền phái đại quân truy kích người Hiệt Kiết Tư. Nhưng cơn bão tuyết ập xuống khiến cho đội quân của Trung Trinh Khả Hãn không thể ngược bắc báo thù được. Còn những người Hiệt Kiết Tư – bọn họ đã sớm trở về với mảnh đất cố thổ thân yêu của mình.
Đến đầu tháng mười hai, tin tức về việc Đường quân đã đại thắng ở Toái Diệp rốt cục cũng được truyền đến Hàn Đóa Nhĩ Bát Lý. Trung Trinh Khả Hãn nghe được tin tức này thì lập tức như tỉnh ngủ. Lúc này ông ta mới chợt nhớ tới công chúa Đại Đường đã bị ông ta quên lãng trong suốt hai tháng qua. Hiện tại Đại Đường công chúa vẫn còn đang ở Cáp Lâm thành, để chờ ngày cử hành hôn lễ với Khả Hãn.. Trung Trinh Khả Hãn xem xét tình hình, thấy bây giờ việc cử hành hôn lễ với công chúa Đại Đường đã gấp gáp lắm rồi, không thể trì hoãn thêm được nữa. Chuyện công chúa xấu hay đẹp thế nào cũng không quan trọng. Thậm chí cho dù đó là một người đàn bà xấu xí đi nữa thì Trung Trinh Khả Hãn cũng sẽ vẫn hoan hỷ mà đón rước nàng vào vương cung, yêu thương, trân trọng nàng mà phong nàng làm quốc mẫu. Đây chính là một biểu hiện rõ nhất sự trắng trợn trong khuynh hướng cư xử của Hồi Hột, bọn họ sẵn sàng " dầy mặt" để đạt được lợi ích của mình. Với chiến thắng Toái Diệp, vô hình chung công chúa Đại Đường đã được khoác lên mình một tấm áo với hòa quang chói lòa, và dĩ nhiên Trung Trinh Khả Hãn là người hiểu hơn ai hết. Và vào ngày mùng bốn tháng mười hai, một đội rước dâu của Hồi Hột vương triều gồm năm trăm người đã tới Cáp Lâm thành.
Bên ngoài thành Cáp Lâm, Phó sứ của đoàn hộ tống công chúa Đại Đường là Lâm Nguyên Lễ đang chắp tay chào đón Dược La Cát Linh. Hắn cười nói: " Lần này thứ tướng đã có thể ăn ngon, ngủ yên được rồi"
Dược La Cát Linh biết rằng trong lời nói của Lâm Nguyên Lễ đang bóng gió ám chỉ tới việc chiến thắng Toái Diệp của Đại Đường đã mang tới cho ông ta không ít những lợi thế về mặt chính trị ở Hồi Hột này. Sau chiến dịch Toái Diệp, phái Túc Đặc " thân Đại Thực" đã trở nên trầm mặc, phe quân đội của Hồi Hột trước đây kêu gào, ầm ĩ là chống lại Đại Đường thì nay cũng im thin thít. Mà Ma Ni Giáo cũng thay đổi truyền thống trước đây, bây giờ Ma Ni Giáo bắt đầu im lặng, không tham gia bàn luận về chính trị nữa. Và thời thế lúc này chỉ tạo điều kiện cho duy nhất phái " thân Đường" được " đứng dậy vương vai" . Bọn họ đưa lời trách móc và vội vàng yêu cầu Trung Trinh Khả Hãn bãi bỏ ngay ý định lập đồng thời hai Khả Đôn. Đồng thời phải lập tức cưới ngay công chúa của Đại Đường và lập nàng làm Khả Đôn của Hồi Hột. Là người đứng đầu phái " thân Đường" Dược La Cát Linh sao lại không tươi cười rạng rỡ trước thành công của Đường quân chứ. Bản thân lòng tin của ông ta với Đại Đường cũng tăng lên gấp bội.
Dược La Cát Linh vội tung mình xuống ngựa, ông ta hướng Lâm Nguyên Lễ đáp từ, tỏ vẻ biết ơn với Đại Đường. Nhưng sau đó vị thứ tướng này đưa mắt nhìn qua trái rồi nhìn qua phải. Ông ta có chút ngỡ ngàng hỏi: " Bùi sứ quân đâu, sao không thấy ngài ấy vậy"
" Bùi sứ quân đang bị cảm nhẹ một chút, cho nên không thể đến đây nghênh tiếp các vị được. Xin thứ tướng lượng thứ cho"
« Thì ra là như vậy » Việc đưa dâu, nghênh hôn là chuyện đại sự của cả hai nước. Vì thế nếu phó sứ ra mặt giải quyết thì e chừng không được đúng lễ nghi cho lắm. Dược La Cát Linh trầm ngâm một chút liền nói : « Bây giờ cũng đã muộn rồi, chúng tôi sẽ ra ngoài thành tá túc một đêm, chỉ mong rằng ngày mai Bùi sứ quân có thể hồi phục sức khỏe được để hai bên thương nghị thì tốt quá »
Trên thực tế Bùi Minh Viễn chẳng có đau ốm hay bệnh tật gì cả. Sở dĩ hắn không ra nghênh tiếp Dược La Cát Linh là bởi vì vị chánh sứ của đoàn đưa dâu này vừa nhận được một thủ dụ khẩn cấp của hoàng đế Trương Hoán. Tờ thủ dụ ấy vẫn còn đang nằm trên bàn, ngay trước mặt hắn.Vì tính khẩn cấp của mình, cho nên tờ thủ dụ này ban đầu được chuyển bằng chim bồ câu từ Trường An tới Cửu Nguyên. Sau đó từ Cửu Nguyên nó lại được dịch trạm của Đường quân sử dụng khoái mã mà chuyển đến Cáp Lâm thành cho Bùi Minh Viễn. Nội dung của thủ dụ khiến cho Bùi sứ quân này phải giật mình. Theo thủ dụ này thì Trương Hoán đã nhận được mật báo rằng các phái phản Đường trong Hồi Hột đang có một âm mưu kinh thiên động địa. Vì thế Trương Hoán lệnh cho Bùi Minh Viễn không được có những hành động thiếu suy nghĩ, càng không được nhúng tay can thiệp khi Hồi Hột xảy ra nội loạn. Đồng thời phải bảo vệ thật tốt cho công chúa Lý Tố. Nếu như ở Hồi Hột mà xuất hiện dị biến, thì bất luận như thế nào đi nữa cũng phải đưa công chúa về nước thật an toàn.
Đọc xong nội dung trong thủ dụ này, Bùi Minh Viễn trầm mặc hồi lâu không nói lời nào. Điều khiến cho hắn giật mình không phải nằm ở bản thân cái âm mưu kinh thiên động địa sắp diễn ra kia, mà hắn ngạc nhiên chính là vì thái độ của hoàng thượng đối với sự việc sắp sửa xảy ra này. Theo như những gì được viết trong thủ dụ thì hoàng thượng mặc kệ cho cái âm mưu đó diễn ra. Nói cách khác là Trương Hoán biết rằng phái phản Đường dù có âm mưu gì đi nữa thì cũng đều gây bất lợi cho Đại Đường. Nhưng Đại Đường sẽ không thèm can thiệp ngăn ngừa, mà thậm chí còn muốn đổ thêm dầu vào lửa nữa. Điều này thật là khó tin, không biết rằng rốt cuộc hoàng thượng đang muốn đi nước cờ nào đây.
Sau một lúc lâu chìm trong liên tưởng suy luận, cuối cùng Bùi Minh Viễn cũng đã ngộ ra được thâm ý của hoàng thượng. Xem ra hoàng thượng đã hạ mục tiêu chiến lược rồi, và mục tiêu đó dĩ nhiên là Hồi Hột rồi. Sau khi thông hiểu được điểm mấu chốt này Bùi Minh Viễn đã dễ dàng giải quyết được tất cả những nghi vấn thắc mắc trong lòng từ lúc nhận được thủ dụ đó. Thâm ý của hoàng thượng là thế này : Trong chiến dịch Toái Diệp, Hồi Hột đã biểu hiện rõ nhất bộ mặt của kẻ « mặt dầy » thấy người khác cháy nhà mà chạy sang hôi của, khiến cho người ta đã khốn khó lại phải lo lắng đến toát mồ hôi lạnh. Nếu không phải là hoàng thượng có dự liệu từ trước, sớm lên kế hoạch cho người Hiệt Kiết Tư ám kỳ tấn công Hãn Nhĩ Đóa Bát Lý thì chiến dịch Toái Diệp lần này ai chết vào tay ai còn chưa chắc đâu. Nhưng con cờ Hiệt Kiết Tư cũng chỉ có thể sử dụng được một lần thôi, nếu như lần sau xảy ra chiến dịch Thổ Hỏa La, hay chiến dịch Tát Mã Nhĩ Hãn, mà bọn người Hồi Hột kia lại nhảy ra hôi của thì còn có biện pháp nào để kiềm chế, bức lui chúng đây. Có thể thấy Hồi Hột mãi mãi là một con sói đói, muốn kiềm chế nó chỉ có thể đập cho nó chết hoặc là đánh cho nó một trận nhừ tử để nó không còn sức mà lớn lối. Có như vậy thì Đại Đường mới không bị « con sói đói Hồi Hột » kia uy hiếp nữa. Tất nhiên Đại Đường và Đại Thực sẽ không thể xảy ra chiến tranh trong một khoảng thời gian ngắn sắp tới. Vì thế đây chính là cơ hội để Đại Đường xử lý con sói Hồi Hột này.
Bùi Minh Viễn chắp tay ra sau lưng rồi từ từ đi về phía cửa sổ, trong ánh mắt của hắn tràn đầy sự thấu hiểu và cảm thông với nỗi khổ tâm của Trương Hoán. Nhìn lại lịch sử của người Hán từ trước tới nay : Đời Tần - Hán thì xảy ra cái nạn Hung Nô, đến Lưỡng Tấn thì Ngũ Hồ loạn Trung Hoa, rồi gần đây nhất là Tùy – Đường cũng bị bọn Đột Quyết nhiều lần xâm phạm. Có thể nói, các dân tộc du mục ở phía bắc từ đầu đến cuối luôn là cái mối đại họa của các vương triều ở Trung Nguyên. Không biết các đời sau này có xuất hiện thêm các dân tộc du mục mới nữa hay không, nhưng vì sự sinh tồn của các thế hệ con cháu Hán tộc sau này không bị các dân tộc du mục bắc phương uy hiếp, nên nhiệm vụ của bọn họ lúc này chính là tiêu diệt hoàn toàn các mối đe dọa từ phương bắc đối với Trung Nguyên.
« Sứ quân. Công chúa tới » Tên thị vệ ở ngoài cửa cất tiếng bẩm báo, cắt ngang dòng suy nghĩ của Bùi Minh Viễn. Hắn vội vàng xoay người lại, tiến đến thu hồi tờ thủ dụ kia. Chuyện này tạm thời không thể để cho công chúa biết được.
" Mời công chúa vào đi"
Cánh cửa thư phòng của Bùi Minh Viễn được đẩy ra, Hàn quốc công chúa Lý Tố bước vào. Chuyện Hồi Hột chính thức phái nghênh thân sứ giả tới Cáp Lâm thành này nàng đã biết rồi. Nói cách khác, cuối cùng thì nàng cũng được đem gả vào tòa cung điện đầy hoàng kim chói chang rực rỡ kia. Nhưng Lý Tố không có nửa điểm gì là sự vui sướng hạnh phúc hay e thẹn của một tân nương sắp về nhà chồng. Trong ánh mắt của nàng dường như mang một nỗi niềm ưu tư khó nói nên lời. Khi đã ở trong thư phòng của Bùi Minh Viễn, nàng nhanh chóng che dấu đi nỗi niềm riêng của cá nhân, thay vào đó là một thần sắc và tư thế cực kỳ bình thản.
" Ta nghe nói sứ quân bị cảm nhẹ, nên ta vội tới hỏi thăm ngài xem có sao không"
ặt tuyết. Nếu như là trận tuyết ngày hôm nay thì Thi Dương tướng quân cũng không thể có cách nào mà xuôi nam được ấy chứ" ='mso-special-character:line-break'>
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 38 : " Hồi Hột kinh biến" (1)b
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
" Đã không có gì đáng ngại cả rồi" Bùi Minh Viễn nhẹ nhàng khoát tay chặn lại nói: " Mời công chúa ngồi"
Lý Tố nhẹ nhàng ngồi xuống ở vị trí đối diện với Bùi Minh Viễn. Nàng mở chiếc túi đang cầm ở trong tay và lấy ra từ trong chiếc túi ấy một chồng sách thật dầy. Nàng đưa chồng sách cho Bùi Minh Viễn, rồi cúi đầu thở dài: " Bùi sứ quân, ta đem số sách này trả lại cho ngài"
" Công chúa đã xem xong rồi sao, người có muốn mượn thêm mấy quyển khác không" Bùi Minh Viễn khẽ mỉm cười nói.
Lý Tố lắc đầu, nhưng vẻ mặt bình tĩnh của nàng thì không thể nào duy trì được nữa. Lúc này trong lòng nàng trào dâng một cảm xúc đau thương vô hạn, nó khiến cho ánh mắt của nàng lộ ra sự buồn bã, ảm đạm. Nàng vẫn đang cố gắng khắc chế nội tâm của mình, không muốn bất cứ ai nhìn ra được sự mềm yếu trong nội tâm của mình. Nhất là khi đối diện với người nam nhân nho nhã tuấn tú này, nàng lại càng không muốn cho hắn biết nàng đang yếu mềm.
" Không được, cho dù ta có mượn nữa thì cũng sẽ không có cách nào mà trả lại cho ngài được" Khi nói những lời này, miệng nàng phát âm rất nhỏ, cơ hồ như không nghe được gì cả. Mi mắt đã chớp xuống, hai hàng lông mi dài khẽ run run.
Bùi Minh Viễn đã cảm nhận thấy trong lời nói của nàng có tâm sự gì đó khác thường. Hắn liền nhìn nàng thật sâu, rồi bản thân hắn cũng trút một tiếng thở dài. Trải qua mấy tháng cùng ăn ở, chuyện trò trong một không gian, khiến cho hai người bọn họ từ những người xa lạ đã trở nên quen thuộc, từ tình cảm quân thần đến tình bằng hữu. Thuở ban đầu, Bùi Minh Viễn tràn đầy sự kinh ngạc ngưỡng mộ trước một cô gái xinh đẹp có trái tim tràn đầy nhiệt huyết đối với quốc gia, xã tắc, rồi dần dần hắn cũng cảm nhận được người con gái ấy thật ra cũng có một trái tim khát khao yêu thương nhưng nàng luôn cố che giấu cái khát khao đó bằng một tâm thế bình tĩnh đến lạ lùng. Từ lúc Lý Tố đích thân đến mượn sách, rồi trả sách tận tay mình, Bùi Minh Viễn đã mơ hồ cảm nhận được một điều gì đó, nhưng lại không thể nói ra bằng lời được. Hắn chỉ biết rằng bản thân hắn là chánh sứ đưa dâu nhưng hắn lại mong cho cuộc hôn nhân này thất bại. Vì thế cho nên, từ góc độ này hắn tự thấy mình không hợp cách của một sứ giả đưa dâu.
Bùi Minh Viễn lặng lẽ đẩy chồng sách đó về phía Lý Tố: " Sách của ta, công chúa cứ giữ lại đi, trong tương lai thể nào nàng cũng có ngày nàng trở lại thăm người thân mà. Khi đó công chúa trả lại cho ta cũng được"
Lý Tố nghe những lời này, sắc mặt nàng đột nhiên thay đổi, sự bình tĩnh trong ánh mắt và thần sắc bên ngoài đã biến mất, thay vào đó là ánh mắt như tuyệt vọng. Nàng ngơ ngác nhìn Bùi Minh Viễn, đôi môi nàng khẽ mấp máy nhưng không một lời nào được nói ra cả. Trong ánh mắt của nàng đã bắt đầu mờ đi giống như một lớp băng phủ lên những thứ đồ vật thủy tinh. Hai hàng lông mi dài khẽ chớp động liên tiếp mấy cái.
" Huynh thật sự muốn muội được gả cho hắn sao" Nàng rốt cuộc cũng đã nói được ra các câu hỏi ngắn ngủi này. Nàng nói câu đó rồi nước mắt lăn dài, nghẹn ngào không thể nói được thêm câu nào nữa.
" Ta" Bùi Minh Viễn nghe lời nàng nói, hắn cúi đầu xuống. Trong lòng hắn bỗng nhiên trào dâng một cảm giác vô cùng áy náy. Cái cảm giác áy náy này chính là hắn đang tự trách mình bất lực, không thể nào cứu thoát công chúa thoát khỏi nỗi thống khổ này. Hắn đang sám hối trước người vợ của hắn đã mất hai năm trước đây vì sinh khó. Hắn tự cảm thấy sự chung thủy với người vợ quá cố đang bị mài mòn đi chút ít. Cái cảm giác có lỗi với người vợ đã mất, áy náy vì không giúp được công chúa khiến cho lồng ngực hắn cơ hồ muốn nổ tung ra.
" Nàng có lẽ sẽ không cần phải gả cho Khả Hãn kia đâu" Bùi Minh Viễn rốt cuộc cũng đã không thể nào kiềm chế được nữa, hắn đã úp mở phần nào nội dung cực kỳ bí mật trong thủ dụ mà hoàng thượng gửi cho hắn. Hắn nói xong biết mình đã nói ra điều đáng lẽ không được phép, cho nên hắn xoay người quay sang hướng khác, không dám nhìn thẳng Lý Tố nữa. Hắn nói lớn, như để át đi tâm trạng: " Công chúa không nên hỏi ta điều gì nữa. Người hãy về đi, chuyện sẽ không xấu như công chúa nghĩ đâu"
Bùi Minh Viễn nói xong cắn chặt môi không nói thêm lời nào nữa. Tuy môi hắn mím chặt không nói nhưng được cái mọi chuyện như thế là đã có thể tự hiểu rõ với nhau rồi. Hắn thấy mình như vừa mắc vào Thiên di đại tội, nhưng trong tim hắn cũng thật sự âm thâm thở phào nhẹ nhõm. Bản thân hắn làm sao có thể dễ dàng để cho một công chúa xinh đẹp tươi tắn đi lấy một tên nam nhân già nua, thô lỗ như thế chứ.
Ánh mắt của Lý Tố mở to sau khi nghe những lời nói của Bùi Minh Viễn, ánh mắt ấy đầy ngỡ ngàng như không thể nào tin vào những điều mà mình vừa nghe thấy. Trong nàng trào dâng một cảm giác thật đặc biệt nó như là khoảnh khắc bị chìm xuống vực sâu bỗng nhiên bắt được một tấm ván gỗ để cứu lại mạng sống. Ánh mắt của nàng dần dần sáng trở lại, nước mắt vẫn lăn trên má, nhưng đó là nước mắt của sự vui mừng chứ không phải là nước mắt đau khổ lúc trước nữa. Lý Tố nhẹ nhàng lau nước mặt, nàng từ từ đứng lên và bước ra phía cửa của ngự thư phòng. Bỗng nhiên Lý Tố quay đầu lại nhìn thật lâu về phía Bùi Minh Viễn, đây chính là người nam nhân duy nhất mà nàng muốn nương tựa, và nàng cảm nhận được trong lòng của người nam nhân ấy cũng rất quan tâm đến mình
" Cảm ơn huynh nhé" Lý Tố nói xong liền xoay người bước đi thật nhanh khỏi thư phòng. Bùi Minh Viễn vẫn lặng yên, đưa mắt nhìn theo bóng lưng của người con gái xinh đẹp ấy. Hắn cứ dõi theo cho đến khi bóng nàng khuất hẳn. Rồi chợt nghĩ ra điều gì đó hắn lại lấy tờ thủ dụ của hoàng thượng ra và đọc đi đọc lại. Bọn người Hồi Hột kia đang có âm mưu, vậy bản thân hắn nên làm điều gì đây"
Những âm mưu luôn được ẩn náu và bùng phát trong đêm tối. Vô luận là ở Trường An, Ba Cách Đạt hay là Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý thì quy luật đó luôn luôn đúng. Trong đêm đông, cái lạnh giá khiến cho trên đường cái của Hàn Đóa Nhĩ Bát Lý không hề có một bóng người đi lại, cũng không hề có bất kỳ một binh sĩ nào qua lại tuần tra. Chỉ trừ có mấy trăm tên thị vệ đang làm nhiệm vụ bảo vệ bên ngoài vương cung, còn lại cả Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý hoàn toàn yên lặng như một tòa thành ma vậy.
Ở phía tây của Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý có một tòa đại trạch chiếm giữ một diện tích rộng lớn. Tòa đại trạch này được xây dựng hoàn toàn bằng những tảng đá lớn. Nhìn từ xa trông tòa đại trạch đó chẳng khác gì một bảo thành nhỏ. Nơi này chính là tư gia của Hồi Hột tướng quốc – Hiệt Kiền Già Tư.
Hiệt Kiền Già Tư từ là thống soái quân đội, nắm trong tay quân quyền cao nhất của Hồi hột. Năm đó, khi được giao nhiệm vụ trấn áp bọn phản loạn ở Thác Bạt Thiên Lý , ông ta đã trực tiếp thống lĩnh quân đội cùng kịch chiến với quân phản loạn. Kết quả, lần đó ông ta vì Trung Trinh Khả Hãn mà lâp được đại công cái thế. Vậy là ông ta được Khả Hãn phong làm tướng quốc Hồi Hột. Bản thân vốn là một võ quan lại chuyển sang làm tướng quốc – một quan văn, thế nhưng trong giới quân đội, Hiệt Kiền Già Tư vẫn có uy vọng cực cao. Quân đội Hồi Hột có tất cả mười lăm tên vạn phu trưởng, thì có tới mười tên là tay chân thủ hạ của ông ta. Vì vậy Hiệt Kiền Già Tư còn là đại biểu cho thế lực của quân đội trong triều đình. Là một tướng quốc, lại nắm trong tay quân đội, như vậy quân sự và chính trị của Hồi Hột đều nằm trong tay ông ta. Có thể nói ông ta chín là nhân vật có quyền lực đứng thứ hai ở Hồi Hột này.
Suốt mấy ngày qua, Hiệt Kiền Già Tư cũng giống như những người Túc Đặc, người của Ma Ni Giáo đều trầm mặc, im lặng. Sự trầm mặc này xuất hiện chính là vì Đường quân đã đại thắng ở chiến trường Toái Diệp. Mặc dù Hiệt Kiền Già Tư không hề " bị sốc" khi mà người Đại Thực thất bại ở Toái Diệp, nhưng trước việc Đường quân đại thắng khiến cho tinh thần ông ta trở nên kích động, hung hăng hơn. Ông ta nhớ lại cuộc chiến ở An Tây năm xưa. Cuộc chiến đó mãi là sự sỉ nhục lớn đối với Hiệt Kiền Già Tư. Nhớ lại khi đó, ông ta dẫn theo mười vạn đại quân xuôi nam xuống Bắc Đình đầy hùng dũng. Nhưng cuối cùng ông ta phải nhờ có Trung Trinh Khả Hãn cầu xin, hòa giải với Trương Hoàn mà mới được trở về Mạc Bắc. Đây là một sự sỉ nhục mà cả đời ông ta sẽ không bao giờ quên được. Hiệt Kiền Già Tư luôn luôn mong muốn được cùng Đường quân quyết chiến một lần nữa, không lúc nào không mơ về việc mang đại quân xuống làm cỏ Trung Nguyên. Ông ta luôn mơ về một ngày nào đó chính tay ông ta đem hết tài phú cùng nữ nhân của Đại Đường trở về thảo nguyên phương bắc này.
Hiệt Kiền Già Tư năm này đã hơn năm mươi tuổi. Năm tháng đã mau chóng chôn vùi giấc mộng đế vương của hắn. Nhưng hiện tại lúc này, cơ hội lại bày ra trước mắt ông ta, mời gọi ông ta. Nói chính xác đây là cơ hội ngon ăn nhất từ trước tới nay, có lẽ nó cũng là cơ hội hấp dẫn nhất trong cuộc đời ông ta.
Không khí tại phòng hội họp ở tư gia của Hiệt Kiền Già Tư đang hết sức yên tĩnh. Hỏa lò đang cháy rất đượm, hỏa lò ấy vừa được dùng để sưởi ấm, vừa được dùng để đun sôi một bình sữa đang được treo dưới cái khung sắt kia. Bình trà sữa ấy đã sôi ùng ục rồi, nhưng Hiệt Kiền Già Tư vẫn cho thêm củi vào hỏa lò. Ông ta lặng yên nãy giờ để lắng nghe các vị khách quý của mình phân tích về tình hình trước mắt.
l> ='mso-special-character:line-break'>
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 38 : " Hồi Hột kinh biến" (1)c
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
" Thưa tướng quốc, thiện nay, trong số chín bộ tộc của Hồi Hột hiện nay, ngoại trừ bộ tộc Phó Cố và A Bố Tư là hai bộ tộc có khuynh hướng nghiêng về Đại Đường, thì các bộ tộc còn lại như Bạt Duệ Cố, Đồng La, Tư kết và Khế đều chủ trương mở rộng và bành trướng uy thế của Hồi Hột về phía nam, cướp lấy Bắc Đình và An Tây của Đại Đường. Chủ trương của họ cũng hoàn toàn giống với ý kiến của tướng quốc, cho nên tướng quốc tất nhiên sẽ nhận được sự ủng hộ của các bộ tộc này. Ngoài ra, người Túc Đặc là những người nắm giữ toàn bộ mặt kinh tế của Hồi Hột chúng ta, bọn họ cũng chủ trương phản Đường kịch liệt, đồng thời luôn có ý kết minh với Đại Thực. Những người Túc Đặc này tỏ ra rất thất vọng và bất mãn đối với việc Khả Hãn buông bỏ việc tấn công Bắc Đình vừa rồi.Thần mới nhận được một thông tin rất chính xác nói rằng những người Túc Đặc hiện nay đều cho rằng vì Khả Hãn của chúng ta phản bội lời minh thệ với Đại Thực nên mới khiến cho Đại Thực bị thảm bại ở Toái Diệp như vậy. Còn về phần Ma Ni Giáo. Bản thân bọn họ có nguồn gốc từ Ba Tư, vốn cùng với những người hắc y Đại Thực là đồng tông, đồng tổ. Hơn nữa lại có quốc sư Tô Nhĩ Mạn đây luôn một lòng trung thành ủng hộ tướng quốc, cho nên người không cần phải lăn tăn lo lắng về việc dư luận Hồi Hột sẽ bàn tán dị nghị về ngài. Bởi vì Ma Ni Giáo sẽ sử dụng tới lời dụ của thánh thần để giúp người đăng vị một cách hợp pháp, hợp lòng bá tính.
Người đang ngồi đối diện và chậm rãi nói với Hiệt Kiền Già Tư dĩ nhiên là một người khách quý của vị tướng quốc này. Kẻ đó không ai khác chính là quốc sư Tô Nhĩ Mạn. Trước khi chiến dịch Toái Diệp kết thúc, Tô Nhĩ Mạn đã nhận được mật lệnh của Calipha là phải tìm cách đảo chính, lật đổ được Trung Trinh Khả Hãn, và lập một nhân vật khác lên làm Khả Hãn, và tất nhiên nhân vật đó phải là nhân vật có khuynh hướng " thân Đại Thực" . Từ khi nhận được mật lệnh đó Tô Nhĩ Mạn liền ra sức tìm kiếm rất kĩ trong giới quý tộc Hồi Hột, nhưng tất cả đều không đạt tiêu chuẩn: Các con nối dõi của Đăng Lợi Khả Hãn trước đây đều đã bị giết hết rồi, trong khi đó những tên quý tộc trẻ tuổi khác, có kẻ thì mềm yếu có kẻ thì vô năng hoặc là không nhận được sự ủng hộ của quân đội. Mà điều kiện tiên quyết để lật đổ được Trung Trinh Khả Hãn chính là phải có sự hậu thuẫn tuyệt đối của quân đội. Tô Nhĩ Mạn đã xem đi xét lại, người mà vừa có tư tưởng chống lại Đại Đường mà lại vừa nhận được sự hậu thuẫn của quân đội, thì ở Hồi Hột này duy nhất chỉ có một người. Đó là tướng quốc Hiệt Kiền Già Tư. Trải qua mấy lần thăm dò, thậm chí còn cùng với nhi tử của Hiệt Kiền Già Tư mật đàm, cuối cùng Tô Nhĩ Mạn đã phát hiện và nhìn rõ bộ mặt thật của Hiệt Kiền Già Tư sau cái dáng vẻ đạo mạo trung thần kia. Thì ra vị tướng quốc này cũng tràn đầy dã tâm và dục vọng với vương quyền Khả Hãn.
Cho nên, Tô Nhĩ Mạn cũng không cần thiết phải quanh co, bóng gió che đậy gì cả, ông ta đã nói thẳng ra ý định của Đại Thực Calipha, đó là lật đổ Trung Trinh Khả Hãn, đồng thời lập tướng quốc Hiệt Kiền Già Tư lên làm tân Khả Hãn của Hồi Hột. Tô Nhĩ Mạn vừa truyền đạt lời của Calipha vừa đưa mắt quan sát thái độ của Hiệt Kiền Già Tư. Ông ta thấy vị tướng quốc này im lặng, không hề nhảy dựng lên chỉ trích ông ta tội đại nghịch bất đạo, xúi giục người khác làm phản. Và dĩ nhiên Tô Nhĩ Mạn thừa hiểu, Hiệt Kiền Già Tư tâm đã động, bất quá ông ta đang cần có người khơi mào để ông ta có thể mở lời và hành động một cách đường hoàng, " nhân danh chính nghĩa" mà thôi.
" Tướng quốc à, ngài cũng thấy đấy, Hạ Lộc Mạc Đạt Kiền giống như con chim hai đầu, lúc nào cũng do dự, dao động. Trong khi Đại Đường và Đại Thực đang ở thế giằng co thì ông ta hạ chỉ lập đồng thời cả hai công chúa của hai nước làm Khả Đôn. Vậy mà đến khi Đường quân giành chiến thắng ở Toái Diệp, ông ta lại lập tức muốn kết hôn với công chúa Đại Đường. Nói khó nghe một chút, ông ta lúc nào cũng giải quyết công việc theo kiểu nước đôi, không dứt khoát. Mà trên thực tế, Hạ Lộc Mạc Đạt Kiền cũng chỉ là một kẻ tiểu nhân tầm thường, không có hùng tâm tráng chí gì cả, cho nên ông ta không thể nào dẫn dắt Hồi Hột đi đến hưng thịnh được. Mà chỉ có anh hùng chân chính như tướng quốc đây, lúc nào cũng kiên trì nguyên tắc cứng rắn, đó là dốc sức khuếch trương biên giới Hồi Hột ra bên ngoài. Cho nên việc tướng quốc đăng vị sẽ không có bất cứ môt ai nghi ngờ, bàn cãi gì cả. Bởi vì tướng quốc lên ngôi báu là phù hợp với xu thế, phù hợp với lợi ích căn bản của Hồi Hột. Và dĩ nhiên tất cả dân chúng sẽ ủng hộ ngài.
Hiệt Kiền Già Tư khẽ thở dài một tiếng, ra chiều khó nghĩ: " Khả Hãn đối xử với ta cũng không tệ, ta làm sao có thể nhẫn tâm được chứ"
Tô Nhĩ Mạn âm thầm cười lạnh một tiếng. Năm xưa, Đăng Lợi Khả Hãn cũng đối xử với ông ta không hề tệ bạc một chút nào. Vậy mà tại sao lúc đó ông ta lại có thể nhẫn tâm sát hại Đăng Lợi Khả Hãn để theo chủ mới, còn bây giờ lại cố tỏ ra vẻ trung thần, " khó nghĩ" .Cái kẻ mặt dầy này thật khiến cho người ta bội phục vì khả năng diễn trò đạo đức giả quá đạt. Mặc dù trong lòng xem thường sự giả tạo của Hiệt Kiền Già Tư nhưng Tô Nhĩ Mạn không thể không thay ông ta bảo vệ cái vỏ bọc đạo đức giả kia mà vẫn phải đạt được mục đích thật sự của mình.
" Tướng quốc ơi, ngài đã sai lầm rồi, Hạ Lộc Mạc Đạt Kiền bấy lâu nay đối xử với tướng quốc mặc dù không tệ, nhưng tướng quốc đừng nghĩ rằng đó là vì ông ta cảm cái ân đức của tướng quốc. Nhưng mọi chuyện không phải như vậy đâu, Hạ Lộc Mạc Đạt Kiền thật ra đang dùng chính sách: bên ngoài thì công khai thăng chức cho tướng quốc, còn bên trong thì lại âm thầm tìm cách hạn chế, đoạt lấy quân quyền của ngài. Tướng quốc thử nghĩ xem, năm đó tướng quốc cùng với phụ thân của ông ta là Đốn Mạc Hạ Đạt Kiền đã cùng với tướng quốc cùng tranh đoạt ngôi vị Khả Hãn. Tướng quốc nghĩ xem, vết xe đổ cách đây không lâu, làm sao một kẻ như Hạ Lộc Mạc Đạt Kiền lại tin tưởng ngài chứ"
Những lời cổ động, phân tích của Tô Nhĩ Mạn đã làm Hiệt Kiền Già Tư động lòng. Trong bụng ông ta dần dần thức tỉnh. Ông ta trầm ngâm một lúc lâu, rồi mới chậm rãi nói: " Hạ Lộc Mạc Đạt Kiền cũng không có sai lầm gì lớn cả, ta cũng không muốn sau này mang tội danh giết vua đoạt vị. Vậy ngươi thử nói xem chuyện này phải làm sao cho hợp lý đây"
Tô Nhĩ Mạn cười âm hiểm: " Xin tướng quốc cứ yên tâm , thần đã sớm có kế hoạch chu toàn rồi"
Trên thảo nguyên ở vùng phụ cận với kinh thành Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý, quần thần của Hồi Hột đang cử hành nghi thức nghênh hôn giữa Trung Trinh Khả Hãn với Đại Đường công chúa. Nghi thức này diễn ra một cách đại quy mô và rất long trọng. Thể hiện rất rõ ở việc tuy thời tiết lúc này vẫn còn đang giá lạnh tuyết rơi. Nhưng người dân Hồi Hột vẫn hân hoan đi dự buổi lễ này như mùa xuân đã đến vậy. Bốn vạn dân chúng Hồi Hột từ khắp nơi, tự phát kéo nhau tới đây, ai nấy đều vui mừng như trảy hội. Đứng trên thảo nguyên có thể thấy biển người kia quả thật là đông đúc, náo nhiệt và rậm rộ chưa từng có. Trên mấy trăm khoảnh đất trống, sớm đã được người ta cho dựng gần ngàn lều trướng. Đại đa số những người tới dự buổi lễ nghênh hôn này là các quý tộc trong chín bộ tộc của Hồi Hột và các tộc nhân của họ. Ngoài ra còn có hơn hai vạn kỵ binh làm nhiệm vụ duy trì trật tự tại chỗ.
Nghi thức nghênh hôn cũng tương tự với nghi thức đính hôn hiện nay. Mặc dù trên nguyên tắc thì sau khi hôn lễ được cử hành thì cô dâu chú rể mới được động phòng hoa chúc. Nhưng thực tế thì sau nghi thức nghênh hôn, danh phận của bọn họ cũng đã được định rõ rồi. Nếu như không có lý do gì quá lớn như chiến tranh, hay một trong hai người bỏ mạng, thì nhất định công chúa Đại Đường sẽ trở thành thê tử của Trung Trinh Khả Hãn.
Không khí trong khu vực lều trướng quả thật là náo nhiệt vô cùng. Những tên lính thị vệ cùng những tên tôi tớ tạo thành một dây chuyền giết mổ và chế biến thịt dê. Lại có những người hầu khác bưng những chiếc khay nước hoa quả và mĩ tửu vào trong trong trướng chủ của buổi lễ nghênh hôn. Những cái khay này rất tinh xảo, nó chính là kết quả của những cuộc giao dịch giữa thương nhân Túc Đặc và tây phương. Còn bên trong đại trướng của Khả Hãn, người ta bố trí nơi đây thật hoành tráng với đầy vẻ bề thế rực rỡ, huy hoàng. Trên mặt đất là những tấm thảm được thêu vàng dát bạc rất cầu kỳ tinh xảo. Còn bốn xung quanh treo đầy loại màn trướng " xịn" đến từ Tát Mã Nhĩ Hãn. Đâu đâu cũng có thể nhìn thấy những vật dùng bằng vàng bạc, phát ra thứ ánh sáng lòe loẹt. Ở chính giữa của đại trướng, người ta đặt một chiếc ghế được nạm đầy những châu báu và đá quý, sau lưng ghế thì được dát vàng rất hoa lệ. Ở đó người ta còn đặt thêm một cái bàn cực kỳ rộng rãi, trên mặt bàn bày la liệt thịt dê béo thơm phức, lại còn có các loại rau quả ngâm nữa. Và có lẽ để tạo cho công chúa Đại Đường có cảm nhận gần gũi, cho nên ở bốn góc của đại trướng người ta đã cố tình đặt mấy chiếc bình sứ khổng lồ của Trung Nguyên vào đó. Hiệt Kiền Già Tư vẫn cho thêm củi vào hỏa lò. Ông ta lặng yên nãy giờ để lắng nghe các vị khách quý của mình phân tích về tình hình trước mắt.
l> ='mso-special-character:line-break'>
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 39 : " Hồi Hột kinh biến" (2)
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Ở trong một đại trướng khác, ta thấy của hồi môn của công chúa Đại Đường đã chuyển tới từ trước và được chất đầy ở đây, như: các loại sách vở, thư tịch, những thớt tơ lụa thượng hạng, hay những hòm vàng bạc châu báu và cả những hòm đựng đặc sản của Đại Đường nữa. Dĩ nhiên, đây chẳng qua là một phần lễ vật cực nhỏ, coi như là chút lễ vật riêng của công chúa gửi tới phu quân tương lai của nàng. Còn thực chất thì đồ cưới và của hồi môn mà Đại Đường chuẩn bị cho Lý Tố đã được lục tục chuyển tới Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý trong suốt cả năm qua: ba mươi vạn thạch lương thực, hai vạn thớt lụa, hai mươi vạn quán tiền, và ba trăm tay thợ xây dựng có tay nghề cao. Những điều đó thể hiện sự quan tâm của Đại Đường đối với chuyện hôn sự này là rất lớn và đặt rất nhiều hy vọng.
Trong giờ phút này, bên trong đại trướng, ngoại trừ mấy kẻ tôi tớ đang bày biện thức ăn ra, thì cũng còn có mấy tên giáo đồ của Ma Ni Giáo đang lúi húi trang trí lại. Ở Hồi Hột này, Ma Ni Giáo được xem là quốc giáo, nên trong nghi thức nghênh hôn như thế này cũng mang đậm màu sắc của Ma Ni Giáo. Biểu hiện rõ nhất của điều này là sự tồn tại của thánh hỏa. Thánh hỏa đang rực cháy trong chậu vàng, hay biểu tượng thánh hỏa cũng xuất hiện trên các màn trướng hay các tấm thảm...
Ba tên giáo đồ Ma Ni Giáo đang làm việc trong đại trướng hết sức bận rộn và khẩn trương. Có hai tên đang cùng nhau treo một tấm màn trướng, tên còn lại thì một mình trải thảm ra mặt đất, đồng thời phủ những tấm lụa để che lên các lễ vật dành cho công chúa. Nhưng không hiểu sao, tên giáo đồ Ma Ni Giáo làm công việc trải thảm đó lại thỉnh thoảng liếc nhìn về phía cái bầu rượu kia – cái bầu rượu được tráng men xanh, đang nằm ở trên cái bàn dát vàng. Bên cạnh bầu rượu ấy có hai cái chén nhỏ nữa. Rượu trong bình là một loại rượu rất ngon, tí nữa đây công chúa sẽ tự mình dâng rượu để mời Trung Trinh Khả Hãn.
Tên giáo đồ Ma Ni Giáo ấy lén lút liếc nhìn về phía sau một cái, hắn quan sát thấy hai tên đồng bọn còn lại đang đứng trên ghế cao để cài lắp tấm màn trướng. Và khi tấm màn trướng có hình thánh hỏa rủ xuống, che khuất đi tầm mắt của mọ người, cũng chính là lúc cái tên trải thảm ấy, lấy từ trong mũ của mình ra một gói giấy nho nhỏ, rồi hắn mở nắp bình rượu và trút thứ gì đó ở trong gói giấy vào trong bình.
Sắc trời vào lúc này cũng đang dần dần chuyển sang hoàng hôn. Ở cách trướng chủ chừng hơn trăm bước, mấy trăm tên quý tộc Hồi Hột, các quan viên, các tướng lính cao cấp, ngoài ra còn có cả thương nhân Túc Đặc, giáo chủ của Ma Ni Giáo. Tất cả những bọn họ đều đang đứng vây quanh Trung Trinh Khả Hãn trong trang phục chỉnh tề, đang trông ngóng, chờ đón công chúa Đại Đường tới.
Đứng ở bên trái của Trung Trinh Khả Hãn chính là quốc sư Tô Nhĩ Mạn, một mặt ông ta nói chuyện phiếm rất rôm rả với Tả Sát tướng quân nhưng thỉnh thoảng ánh mắt của ông ta lại len lén liếc nhìn về trướng chủ. Lúc này, ba tên giáo đồ của Ma Ni Giáo đã sắp xếp bày biện xong đâu đấy, nên chúng đi ra bên ngoài. Nhưng trước khi rút đi thì tên giáo đồ Ma Ni Giáo cuối cùng đã kịp nhìn và trao cho Tô Nhĩ Mạn một thông điệp qua ánh mắt. Dĩ nhiên là Tô Nhĩ Mạn khẽ mỉm cười ra chiều hiểu ý. Sau đó vị quốc sư này quay đầu lại, nhìn ngó một chút và thấy Hiệt Kiền Già Tư đang đứng cách đó không xa. Tô Nhĩ Mạn cũng khẽ gật đầu ra hiệu với vị tướng quốc này.
Trung Trinh Khả Hãn và đoàn nghênh hôn của Hồi Hột đã đợi rất lâu, trời cũng đã dần tới rồi, nhưng vẫn chưa hề thấy dấu hiệu xuất hiện của công chúa và đoàn đưa dâu Đại Đường đâu cả. Có rất nhiều dân chúng sốt ruột, không chờ đợi được thêm nữa nên rối rít rủ nhau trở về thành. Trung Trinh Khả Hãn rất bức xúc,ông ta quay đầu lại nói: " Mau phái người đi xem thế nào. Xem tại sao từ sớm đến giờ mà bọn họ còn chưa tới"
Trung Trinh Khả Hãn vừa dứt lời, thì mấy tên quý tộc bỗng nhiên chỉ vào phương xa mà hét toán lên. Chỉ thấy ở phía chân trời nơi mặt trời đang lặn, đã xuất hiện một đại đội nhân mã. Lập tức, trên thảo nguyên, những tiếng kèn chào mừng, những tiếng kèn hân hoan được cất lên. Công chúa Đại Đường sắp tới địa điểm tổ chức nghi thức nghênh hôn giữa nàng và Trung Trinh Khả Hãn. Còn vị Khả Hãn, khi thấy bóng hồng đã xuất hiện ông ta rất vui mừng, cười ha hả nghênh đón.
Ngồi trong xe ngựa lúc này chính là Đại Đường công chúa Lý Tố, nàng đến với buổi lễ nghênh hôn này không phải bằng sự vui mừng, hạnh phúc, mà trái lại càng đến gần đám lều trướng của người Hồi Hột kia thì tâm tình của nàng càng trở nên phức tạp. Một nhóm khá đông quý tộc Hồi Hột đang giục ngựa về phía nàng. Người đi đầu dường như là Trung Trinh Khả Hãn. Trong lòng Lý Tố cảm thấy một sự trĩu nặng, bế tắc. Bùi Minh Viễn liên tục nói rằng, có khả năng nàng sẽ không cần phải lấy Trung Trinh Khả Hãn. Nhưng đến giờ phút này, thì khả năng ấy ngày càng xa vời, khó thành sự thật rồi. Lý Tố len lén nhìn về Bùi Minh Viễn ở cách xe ngựa của nàng không xa, vẻ mặt của hắn cúng hết sức ngưng trọng. Lý Tố chỉ còn biết thở dài, than thầm rồi lại buông tấm màn xe xuống.
Bùi Minh Viễn cho đến giờ phút này vẫn mang một tâm trạng lo lắng, bồn chồn như trước đây. Mặc dù hắn đã nhận được mật chỉ của bệ hạ cảnh báo về việc phái " phản Đường" ở Hồi Hột sẽ có âm mưu. Nhưng cái âm mưu này sẽ diễn ra vào thời điểm nào, bọn " phản Đường" sẽ sử dụng cách thức thế nào, và hậu quả của âm mưu này sẽ đi đến đâu. Tất cả những điều này Bùi Minh Viễn không hề biết một mảy may gì cả. Hắn chỉ có thuận theo tình thế, cùng " nhảy múa" với âm mưu kia mà thôi. Nhưng hắn còn có trọng trách là phải bảo đảm sự an toàn của công chúa, hộ tống nàng trở về Đại Đường. Áp lực của nhiệm vụ ấy khiến cho nét mặt của hắn trở nên trầm trọng, không sao mà " nặn" ra được một sự tươi tỉnh của " người đại diện họ gái" được. Đã có lúc hắn nghĩ đến phương án, sử dụng thị nữ để giả mạo công chúa, nhưng một khi bị phát hiện thì tôn nghiêm của Đại Đường sẽ mất hết, và đây là một biện pháp cực kỳ ngu xuẩn. Bùi Minh Viễn đã đọc đi đọc lại thủ dụ của hoàng thượng hết lần này tới lần khác, hơn nữa hắn lại không thể cùng với Dược La Cát Linh thương lượng tìm cách thoát thân. Sau nhiều lần suy nghĩ nát óc, hắn chỉ có thể tìm ra biện pháp khả thi nhất đó là để cho công chúa và đoàn hôn sứ phải đến khi trời tối mới tới địa điểm diễn ra nghi thức nghênh hôn. Như vậy hắn sẽ viện lý do để trì hoãn chuyển nghi thức sang ngày hôm sau. Và chuyện gì sẽ diễn ra trong một cái buổi tối này đây.
Tiếng kèn càng lúc càng sục sôi làm cho một vùng thảo nguyên thêm náo nhiệt. Đại đội kỵ binh Hồi Hột đi nghênh đón công chúa đã có mặt ngay trước đoàn hôn sứ Đại Đường. Tinh kỳ phấp phới, tung bay trong gió lạnh, tạo ra một khí thế rất hoành tráng, long trọng. Hồi Hột tướng quốc Hiệt Kiền Già Tư cười lớn, hướng Bùi Minh Viễn chào đón. Ông ta dùng vốn Hán ngữ của mình nói: ' Bùi sứ quân, dọc đường đã vất vả nhiều rồi"
Bùi Minh Viễn vội vàng chắp tay cười nói: " Đại tướng đích thân tới tận đây nghênh đón, Minh Viễn tôi thật sự là không dám nhận đâu. Chỉ có điều công chúa quả thật là có hơi mệt mỏi vì hành trình, nên thỉnh cầu tướng quốc có thể để cho nàng ấy nghỉ ngơi chốc lát có được không"
" Bùi sứ quân cứ yên tâm, vấn đề này thì Khả Hãn chúng ta đã sớm dự liệu được rồi" Hiệt Kiền Già Tư chỉ tay về một đỉnh lều trướng ở phương xa, cười nói tiếp: " Lúc này trời cũng đã tối rồi, công chúa cứ trở về đại trướng kia nghỉ ngơi một đêm cho thất tốt đi đã, đến sáng mai khi tinh thần công chúa thật tốt chúng ta sẽ chính thức cử hành lễ nghênh hôn"
Bùi Minh Viễn khẽ gật đầu đáp lễ: " Vậy thì tôi đây đã làm phiền đại tướng quá rồi"
Trong lúc này, Trung Trinh Khả Hãn đã tiến đến trước xa giá của công chúa, ông ta khom người thì lễ, cười nói: " Bản Hãn sắp cùng công chúa trở thành người một nhà rồi. Ta hy vọng công chúa sẽ thích thú với thảo nguyển nơi đây, và giúp cho Đường – Hồi hai nước có được mối quan hệ đời đời hòa hỏa."
Một hồi lâu sau, Lý Tố mới ở trong xe ngựa hồi đáp : " Thưa Khả Hãn, thiếp đây có mang nhiều sách vở, thư tịch từ Đại Đường tới đây. Trong những sách vở này có ghi chép những văn hóa tiên tiến và tốt đẹp của Đại Đường và Hán tộc. Thiếp hy vọng trong lúc nhàn rỗi Khả Hãn có thể đọc nhiều nhiều một chút, để dùng chúng mà dạy bảo cho thần dân của mình. Ngoài ra thiếp còn đưa sang đây những người thợ trong lĩnh vực hội họa, kiến trúc, gốm sứ. Tương lai, những người này nhất định sẽ là những người thợ tài hoa, những nhà kiến trúc, nghệ nhân của Hồi Hột. Thiếp cũng hy vọng họ có thể mang đến cho vùng thảo nguyên này một sức sống mới, một hơi tở mới. Còn về phần quan hệ của hai nước chúng ta, chỉ cần Hồi Hột thật sự xác định và tâm niệm Đại Đường là người thân thật sự của mình, không để bị kẻ khác kích động, không được có những suy nghĩ " không an phận" với Đại Đường thì nhất định Đại Đường cũng sẽ không bao giờ bạc đãi với huynh đệ chi bang của mình."
" Công chúa quả là người hiểu rõ đại nghĩa, bản Hãn xin được thụ giáo. Nhưng hiện tại trời cũng đã tối rồi, xin công chúa trở về biệt trướng nghỉ ngơi, đến sáng ngày mai chúng ta sẽ chính thức cử hành nghi thức nghênh hôn. Còn lúc này bản Hãn rất hy vọng có thể nhìn thất nụ cười tràn đầy niềm vui hạnh phúc của công chúa"
" Vâng thưa Khả Hãn, nhưng bây giờ thân thể của thiếp thật sự mệt mỏi, bụi bặm nữa. Thần thiếp xin được về nghỉ trước"
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 39 : " Hồi Hột kinh biến" (2)b
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Sau khi Lý Tố nói xong thì lập tức xe ngựa cũng chuyển phương hướng, tiến thẳng tới biệt trướng, mà Hiệt Kiền Già Tư vừa chỉ, để cho công chúa nghỉ ngơi. Đường quân bố trí 1500 quân trú đóng ở vòng ngoài của mặt phía đông, cách lều trướng của công chúa chừng hai dặm. Và chỉ có khoảng hơn mười tên binh lính hộ vệ đi theo xe của công chúa tới tận lều trướng. Trung Trinh Khả Hãn dõi mắt nhìn theo chiếc xe ngựa chở nàng dần biến mất. Sắc mặt của ông ta nặng nề như đưa đám. Vốn là ông ta định tối nay sẽ cùng công chúa nói chuyện mặn nồng một chút. Nhưng trước thái độ của công chúa thế này, chắc nàng chẳng cho ông ta cơ hội thực hiện cái dự định đó đâu.
Doanh trướng của công chúa Đại Đường được sắp xếp cách trướng chủ của Trung Trinh Khả Hãn chừng hai dặm. Ngoài ra, hàng ngàn doanh trướng của các bộ tộc, Ma Ni Giáo, người Túc Đặc ... hầu hết cũng đều tập trung ở mặt phía đông ấy. Còn ở phương xa chính là thảo nguyên mịt mờ tít tắp. Trừ 1500 kỵ binh Đường quân ra, thì không có một binh một tốt của Hồi Hột nào trú đóng cả. Nghe nói đây chính là sự an bài của tướng quốc Hiệt Kiền Già Tư. Lý do mà ông ta đưa ra là không muốn cho một ngàn kỵ binh hộ về của công chúa ở quá gần đại trướng của Khả Hãn. Nhưng Bùi Minh Viễn lại cảm thấy các an bài này có chút kỳ quái. Trong trường hợp có sự biến gì phát sinh thì công chúa sẽ chạy thoát một cách vô cùng dễ dàng. Bùi Minh Viễn cảm giác rằng cách bố trí này nhất định là có một mục đích khác chứ không đơn giản như vậy.
" Bùi sứ quân" Một tên Đường quân chạy nhanh đến, quỳ trước mặt hắn thi lễ: " Lý đô úy có chuyện quan trọng cần bẩm báo, xin sứ quân đi ngay cho"
Bùi Minh Viễn trong lòng cả kinh, hắn vội vàng giục ngựa đi thẳng đến chỗ quân doanh trú trát tạm thời của Đường quân. Khi hắn vừa mới bước chân vào trong đại doanh thì Đô úy Lý Trọng Vũ đã vội vàng tiến nhanh nghênh đón, rồi giọng nói gấp gáp: " Bùi sứ quân, ta vừa mới nhận được tin thám báo. Một cánh quân gồm ba vạn người Hồi Hột đã xuất hiện ở phía bắc, cách đây chừng hơn hai mươi dặm. Và còn một cánh quân khác, bốn vạn người xuất hiện ở phía nam từ Cáp Lâm thành đang từ từ tiến đến chỗ này"
Bùi Minh Viễn nghe xong liền gật đầu, bây giờ thì hắn đã có thể hiểu được chuyện gì sắp xảy ra, và âm mưu mà Trương Hoán nói trong thủ dụ kia là gì. Quân đội Hồi Hột đang chuẩn bị thực hiện một cuộc đảo chính. Bất kể là âm mưu ấy có thành công hay không thì quân đội đều sẽ dùng vũ lực để khống chế cục diện. Sắp xếp cho công chúa ở tận điểm cuối cùng của mặt phía đông , tất nhiên âm mưu của chúng là muốn hạ thủ công chúa và Đường quân trước, sau đó sẽ nhân lúc hỗn loạn mà ám hại Trung Trinh Khả Hãn, rồi gài tang vật để đổ tội cho công chúa.
Hiệt Kiền Già Tư. Bùi Minh Viễn đã có thể chắc chắn, chính tên tướng quốc kia là chủ mưu của vụ đảo chính này. Bởi vì chỉ có hắn mới không chế được quân đội, chỉ có hắn mới không chế được thế cục của cả Hồi Hột.
Nghĩ tới đây, Bùi Minh Viễn lập tức phân phó cho Lý Trọng Vũ: " Ngươi lập tức thống lính toàn bộ kỵ binh hộ vệ cho công chúa đi trước, đến mặt phía đông chờ ta. Nếu như khi hừng sáng mà ta còn không hội họp với các ngươi thì các ngươi cứ đưa công chúa trở về Đại Đường không cần chờ ta nữa. Chuyện đang khẩn cấp, các ngươi lập tức đi chuẩn bị đi. Còn công chúa, ta sẽ đi khuyên nàng"
" Thôi, tiến hành ngay đi" Nói xong Bùi Minh Viễn xoay người đi thẳng ra ngoài trướng. Hắn lập tức bước thật nhanh đến biệt trướng của công chúa. Gặp thấy hai nữ thị vệ đang đứng canh gác trước cửa trướng, hắn liền tiến lên nói: " Xin hãy chuyển cáo với công chúa, ta có chuyện gấp muốn gặp nàng"
" Công chúa đã nghỉ ngơi rồi, Bùi sứ quân có gì xin hãy để mai nói sau" Hai người nữ thị vệ lạnh lùng cự tuyệt lời thỉnh cầu của Bùi Minh Viễn.
Tình hình vô cùng cấp bách, nhưng Bùi Minh Viễn vẫn cố nhẫn nại, nén giận trong lòng, tiếp tục thỉnh cầu: " Ta nói lại cho các ngươi một lần nữa, chuyện này vô cùng khẩn cấp, có liên quan đến sự an nguy tính mạng của công chúa, vì thế các ngươi mau đi bẩm báo cho ta"
" Là Bùi sứ quân sao" Từ trong đại trướng, truyền ra thanh âm của Lý Tố: " Cứ để sứ quân vào đi"
Hai người thị nữ nghe công chúa nói vậy đành bất đắc dĩ kéo tấm mành cho Bùi Minh Viễn đi vào. Bùi sứ quân liền khom người, bước vào trong đại trướng. Lúc này Lý Tố cũng chưa nghỉ ngơi gì cả, nàng vừa mới tắm rửa xong, vẫn còn đang mặc một bộ váy rộng thùng thình, mái tóc dài buông xõa xuống hai vai. Hai người thị nữ đang giúp nàng trải đầu. Trong đại trướng tràn ngập một mùi thơm nhàn nhạt.
" Bùi sứ quân, ngài nói xem rốt cuộc là xảy ra chuyện gì vậy" Lý Tố quay đầu lại hỏi Bùi Minh Viễn. Dưới ánh đèn nhu hòa, khuôn mặt của nàng vô cung thanh tú, đôi mắt sáng lên một vẻ đẹp lạ thường.
Bùi Minh Viễn gật đầu nói: " Xin công chúa lập tức thu thập các vật phẩm để đi ngay, đi càng nhanh càng tốt"
" Còn Bùi sứ quân thì sao" Lý Tố chăm chú nhìn vào mắt hắn, nàng thấp giọng hỏi: " Có phải ngài sẽ không đi cùng ta hay không"
" Không! Ta không thể đi với công chúa được. Trước khi chưa có chuyện gì phát sinh, ta phải trấn giữ ở nơi này, nếu không sẽ nguy hiểm đến sự an toàn tính mạng của công chúa"
Lý Tố đứng lên, nàng từ từ đi tới trước mặt của Bùi Minh Viễn, nàng nhìn hắn thật chăm chú, gằn từng chữ nói: " Ngài phải nói cho ta biết, rốt cuộc là sắp xảy ra chuyện gì. Nếu như ngài không nói, ta nhất định sẽ không đi đâu cả"
Bùi Minh Viễn cảm nhận được trong ánh mắt ngời sáng của nàng một sự kiên quyết chưa từng thấy, nàng nhất định sẽ không để hắn tìm lý do lẩn tránh. Bùi Minh Viễn âm thầm thở dài, hắn bất đắc dĩ nói: " Thám báo của chúng ta phát hiện có đại đội kỵ binh Hồi Hột đang tiến gần tới chỗ của chúng ta. Sợ rằng chỉ trong tối nay thôi ở đây sẽ phát sinh binh biến, cho nên xin công chúa hãy lập tức rời đi"
" Có phải ngài đã sớm biết từ trước hay không"
" Công chúa chỉ cần thu thập những vật phẩm tùy thân mà thôi, những thứ còn lại không cần mang làm gì cả" Bùi Minh Viễn không trả lời câu hỏi của Lý Tố, mà hắn xoay người phân phó công việc cho hai người thị nữ: " Các ngươi còn không mau thu thập đi, còn đứng đó là gì hả"
Hai thị nữ liếc nhìn về phía công chúa, thấy thái độ của nàng không tỏ thái độ gì, cũng không có hành động gì cả. Lý Tố ngơ ngác nhìn Bùi Minh Viễn. Khi nàng đi rồi, tất cả những nguy hiểm kia sẽ đều do một mình hắn gánh chịu. Và bỗng nhiên nàng đã hiểu được dụng ý thật sự của Bùi Minh Viễn, nguyên nhân thật sự mà hắn không chịu đi chính là hy vọng nàng có thể chạy thoát được khỏi kiếp nạn này. Đột nhiên trong trái tim nàng trào dâng một cảm xúc xót xa, và phức tạp. Nàng im lặng hướng về phía hai người thị nữ gật đầu ra hiệu. Lập tức bọn họ đi thu thập đồ đạc giúp nàng.
" Huynh sẽ chết sao" Lý Tố trông thấy Bùi Minh Viễn sắp sửa bước ra khỏi đại trướng. Nàng cảm thấy như sắp mất đi một thứ gì đó rất quan trọng nên đột nhiên hỏi.
Bùi Minh Viễn nghe Lý Tố nói vậy, đang bước đi liền đứng khựng lại, hắn đứng yên một hồi, rồi thản nhiên nói: " Ta có chết cũng không quan trọng gì cả, điều quan trọng nhất là nàng không thể chết được. Đây là trách nhiệm của ta, công chúa ạ" Nói xong hắn thẳng một mạch, bước thật nhanh ra khỏi doanh trướng của Lý Tố. Khi đã ra phía ngoài doanh trướng, hắn ngẩng đầu nhìn những vì sao trên trời, rồi trút một tiếng thở dài. Lúc này hắn đang nghĩ về cô con gái của hắn ở Trường An. Đứa con ấy chính là xương thịt, là sự sống của hắn. Năm nay nó mới có năm tuổi thôi, nếu như bản thân hắn có xảy ra chuyện gì bất chắc thì Bùi Oánh nhất định sẽ thay hắn nuôi nấng cô con gái ấy trưởng thành.
Lúc này, Lý Trọng Vũ suất lĩnh một đội kỵ binh năm trăm người chậm rãi đi tới . Trong đội ngũ ấy có cả xe ngựa của công chúa. " Bùi sứ quân, công chúa điện hạ đã thu thập xong chưa vậy"
" Ta đã thu thập xong rồi" Tấm mành của đại trướng được vén lên, công chúa từ bên trong đi ra. Lúc này, nàng mặc một chiếc áo choàng lông, chiếc mũ cao cao che lấp khuôn mặt của nàng. Mấy người thị nữ ôm mười mấy kiện hàng hóa đi theo sau. Một tên lính mở cửa xe. Lý Tố không nói gì với Bùi Minh Viễn cả, nàng trực tiếp bước vào trong xe ngựa, tiếp đó là mấy người thị nữ cũng chui vào theo. Sau đó tên lính kia lại đóng cửa xe lại. Lý Trọng Vũ ôm quyền chào Bùi Minh Viễn: " Xin sứ quân hãy bảo trọng, chúng ta xin đi trước vậy"
" Lý tướng quân, trên đường đi ngài cũng phải cẩn thận đấy"
Cỗ xe ngựa chậm rãi chuyển bánh, và tiếng vó ngựa cứ thế vang lên đều đều đi về phía đông. Lúc này tấm màn xe đột nhiên được kéo ra, từ đó lộ ra khuôn mặt của Lý Tố, nàng đang ngơ ngác nhìn về phía Bùi Minh Viễn rồi từ từ giơ tay lên, vẫy vẫy tạm biệt hắn. Trong ánh mắt của nàng tràn đầy sự xót xa, tiếc nuối, không muốn xa rời con người chấp nhận hy sinh vì nàng.
Bùi Minh Viễn cười, hắn chắp tay ôm quyền hướng về phía nàng thấp giọng nói: " Công chúa, người nhất định phải bình an trở về Đại Đường"
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 39 : " Hồi Hột kinh biến" (2)c
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Xe ngựa đi càng lúc càng xa và dần dần biến mất trong bóng đêm trầm mặc kia. Cõi lòng của Bùi Minh Viễn rốt cuộc cũng đã lặng xuống, không còn xúc động như trước nữa. Hắn quay đầu lại, nhìn về phía chủ trướng nơi sẽ diễn ra buổi lễ nghênh hôn ngày mai, rồi chăm chú nhìn ngọn lửa hồng đang rực cháy, ánh chiếu hỏa quang lên khắp cả một vùng rộng lớn. Không biết được trong đêm nay, nơi đó sẽ xảy ra chuyển gì đây.
Trong lúc này, Trung Trinh Khả Hãn vẫn đang đứng một mình trong trướng chủ. Thịnh yến tẩy trần cho Đại Đường công chúa vào tối này đã được chuẩn bị đâu vào đấy cũng bị ông ta cho hủy bỏ cả rồi. Quả thật lúc này, tâm tình ông ta không tốt một chút nào cả, cho nên đường đường là Khả Hãn mà một mình trong trướng uống rượu giải sầu. Trung Trinh Khả Hãn cũng không phải là một kẻ ngu dốt, ông ta hoàn toàn có thể cảm nhận được sự lãnh cảm của công chúa đối với mình. Nếu như là một tháng trước đây, ông ta sẽ chẳng thèm để ý đến cái sự thờ ơ, nhạt nhẽo ấy đâu mà chỉ đơn giản cho đó là lòng dạ hẹp hòi của nữ nhân không muốn gả tới phương bắc xa xôi này mà thôi. Nhưng hiện tại, sự lãnh cảm của công chúa khiến cho ông ta cảm thấy tự ái, đả kích rất lớn. Cách nói của nàng và nhữn gì nàng nói giống như thể hiện thái độ của kẻ bề trên đối với mình. Từ đó ông ta cảm thấy dường như Đại Đường đang có thái độ ngạo mạn coi thường Hồi Hột. Sau chiến thắng Đại Thực ở Toái Diệp, phải chăng Đại Đường muốn nhân thế đó mà xưng hùng xưng bá ở Tây Vực này. Và đương nhiên cả Hồi Hột và ngôi vị Khả Hãn của ông ta cũng chẳng đáng kể gì với Đại Đường đế quốc cả. Trng Trinh Khả Hãn nghĩ đến đây, đôi tay dần dần siết chặt, cái cốc rượu vàng cũng bị bópchặt trong tay ông ta. Ông ta tự hỏi chẳng lẽ Hồi Hột vĩnh viễn phải phụ thuộc vào Đại Đường hay sao?
" Bẩm báo Khả Hãn, quốc sư xin cầu kiến" Tử ngoài cửa doanh, một tên lính bẩm báo vọng vào trong trướng.
" Cứ để cho hắn vào đi" Chiếc cốc đang nằm trong tay, bỗng nhiên bị Trung Trinh Khả Hãn tiện tay ném qua một bên. Ông ta cầm hẳn cả bình rượu, trực tiếp mà cho vào miệng tu ừng ực từng ngụm lớn.
" Dường như tâm tình của Khả Hãn không được tốt thì phải" Tô Nhĩ Mạn đi vào trong doanh trướng. Sắc mặt ông ta bình thản, không hề bộc lộ bất cứ điều gì cả. Rồi tên quốc sư này đưa mắt liếc nhìn những đồ lễ vật hồi môn của công chúa, chúng vẫn được người ta xếp chồng lên nhau ở trong đại trướng này. Rồi Tô Nhĩ Mạn lại nhìn sang bình rượu ở trên bàn lớn kia, dường như Trung Trinh Khả Hãn chưa hề động tới nó một tí nào cả. Khi còn cách vị trí của Khả Hãn chừng vẻn vẹn năm thước, ông ta bèn tươi cười ngồi xuống, giọng điệu ân cần hỏi han: " Khả Hãn sắp có hỷ sự, đáng lẽ ra ngài phải cao hứng mới phải chứ, làm sao mà tâm tình của Khả Hãn lại ủ dột thế kia. Có chuyện gì đã xảy ra với Khả Hãn chăng"
" Không có vấn đề gì cả. Chỉ là công chúa kia thật là quá ngạo mạn, khiến cho ta cảm thấy ức chế, không thể chịu được" . Trung Trinh Khả Hãn uống rượu nãy giờ xem chừng cũng đã nhiều, đầu lưỡi của ông ta cũng đã có phần líu nhíu rồi. Khả Hãn hai mắt đỏ lừ liếc nhìn Tô Nhĩ Mạn: " Ngươi có làm một chén không hả" Nói rồi ông ta quờ quạng tìm chén cho Tô Nhĩ Mạn, nhưng không thấy cái nào cả. Ổng ta đang định gọi người đi mang chén tới. Nhưng Tô Nhĩ Mạn đã nhanh tay chỉ vào cái khay vàng ở gần đó: " Không cần đâu Khả Hãn, ở đây cũng có rồi mà"
Nói rồi Tô Nhĩ Mạn cầm hai chén ở đó, rồi tiện tay đặt cái khay sang một tên. Sau đó ông ta xách luôn bình rượu " đặc biệt mà tên giáo đồ Ma Ni Giáo vừa táy máy gì đó" qua chỗ Trung Trinh Khả Hãn.. Ông ta rót ra hai chén, rồi tự mình nâng chén rượu lên cười nói: " Bất kể cô ta ngạo mạn thế nào đi chăng nữa, thì tóm lại vẫn chỉ là người đàn bà của Khả Hãn mà thôi. Chờ đến khi cô ta vào trong hậu cung rồi, đến lúc ấy Khả Hãn cứ việc đóng cửa mà dạy bảo cô ta cũng không muộn màng gì cả"
Trung Trinh Khả Hãn cầm cốc rượu trong tay, dốc một hơi là hết sạch, rồi thở dài nói: " Nói là như vậy, nhưng chẳng qua nàng ta cũng chỉ là một nữ nhân, ta chẳng thèm để ý làm gì. Vấn đề mà ta lo lắng chính là thế lực của Đại Đường ngày càng trở nên hùng mạnh. Cứ thế này thì Hồi Hột ta chỉ có thể núp dưới cánh đại bàng của Đại Đường mà thôi. Nói không chừng trăm năm sau, cả Hồi Hội này sẽ trở thành thuộc quốc của Đại Đường mất. Ta phiền nào chính là vì chuyện này đây"
" Những điều mà Khả Hãn lo lắng quả thật là rất đúng. Thật ra thì không chỉ có một mình Khả Hãn lo lắng vấn đề này, mà ngay cả lão Khả Hãn lúc còn tại thế cũng đã ý thức rất rõ ràng về vấn đề này rồi. Cho nên người mới định ra quốc sách tây tiến. Nhưng lúc đó bọn người Cát La Lộc là một trở ngại rất lớn cho công cuộc tây tiến. Còn bây giờ khi mà người Cát La Lộc vừa bị tiêu diệt , thì Đường quân đã nhanh chóng chiếm lĩnh ngay lưu vực của con sông Y Lệ hà. Từ việc tu sửa Y Lệ thành cho thấy Đường quân hiển nhiên là muốn cùng Hồi Hột tranh đoạt Di Bá Hải rồi. Sự tình đã rõ mồn một như thế, sao Khả Hãn không cùng liên thủ với Đại Thực để chống lại Đường quân"
Tô Nhĩ Mạn nói xong, liền đem chiếc bình rượu bằng sứ đang đặt trên cái khay vàng kia, rồi rót cho Trung Trinh Khả Hãn một chén rượu. Trong khoảnh khắc này, ánh mắt của ông ta hiện ra một tia lãnh ý, nham hiểm nhưng rất kín đáo. Nhưng vị quốc sư này vẫn tiếp tục cười nói: " Không biết Khả Hãn có nhớ điều này hay không, chỉ cần Thổ Hỏa La còn đang nằm trong tay của người Đại Thực, thì Đường quân cũng không dám toàn diện tây tiến đâu. Thần dám chắc chắn rằng, chỉ mấy năm nữa thôi Đại Đường và Đại Thực tất sẽ xảy ra một cuộc ác chiến nữa. Chẳng lẽ Khả Hãn không nghĩ đến việc mình sẽ đóng vai trò gì trong cuộc chiến này hay sao"
Lúc này, Trung Trinh Khả Hãn vừa nâng chén rượu mà Tô Nhĩ mạn vừa rót lên, vừa lắng nghe những lời phân tích của Tô Nhĩ Mạn. Cốc rượu trong tay Khả Hãn đã nâng lên rồi bỗng dừng lại ở lưng chừng, ông ta chần chừ hỏi rồi hỏi: " Ngươi muốn nói rằng ta nên cùng Đại Thực liên thủ hay sao" Tô Nhĩ Mạn gật đầu, nhưng tên quốc sư này không hề nâng chén rượu lên: " Không sai, người Đại Thực cần có một đồng minh ở phương đông để kiềm chế sự bành trướng của Đại Đường. Dân tộc Thổ Phiên dĩ nhiên là không phù hợp với điều này rồi, chỉ có Hồi Hột chúng ta là đủ khả năng để chở thành tấm lá chắn, ngăn cản Đại Đường. Đến lúc ấy, thì Di Bá Hải, lưu vực của con sông Y Lệ hà và thậm chí là cả Toái Diệp nữa, người Đại Thực chắc chắn cũng sẽ giao cho Hồi Hột chúng ta. Chúng ta sẽ không dừng lại ở đây mà phải tiếp tục mưu đồ An Tấy và Bắc Đình. Đến lúc đó Khả Hãn phải xưng là " Thiên Khả Hãn" mới đúng"
" Thiên Khả Hãn! Thiên Khả Hãn" Trung Trinh Khả Hãn làm bầm trong miệng mấy chữ đó đến hai lần. Chợt ông ta cầm cốc rượu trong tay uống một hơi cạn sạch, sau đó đặt cái cốc đó xuống bàn một cách nặng nề: " Không sai, lần này vốn dĩ chúng ta đã có cơ hội thay đổi thế cục, vậy mà lại gặp cái bọn Hiệt Kiết Tư kia phá đám. Đến đầu mùa xuân ta nhất định sẽ phát binh tiêu diệt bọn chúng. Sẽ đem giết tất cả bọn người này, không cho một tên nào sống sót cả"
" Tốt lắm, vậy thần không làm phiền Khả Hãn nghỉ ngơi nữa" . Tô Nhĩ Mạn đứng dậy, cáo từ, rồi chậm rãi đi về phía cửa doanh trướng. Đi đến đây ông ta dừng lại quay đầu liếc nhìn về phía Khả Hãn bằng ánh mắt rất lạnh lùng. Chính lúc này, sắc mặt của Trung Trinh Khả Hãn đột nhiên đại biến, ông ta bóp bóp cào cào ở cổ họng của mình, ánh mắt thẫn thờ nhìn Tô Nhĩ Mạn đồng thời một tay chỉ về phía tên quốc sư này một cách bất lực. Khả Hãn đã nhìn thấy nụ cười lạnh lẽo trên môi Tô Nhĩ Mạn, nên dường như đã tự hiểu được chuyện gì đang xảy ra với mình. Nhưng lúc này Trung Trinh Khả Hãn không còn cất lời được nữa rồi. Rồi vị Khả Hãn ấy đổ gục xuống
" Khả Hãn người làm sao vậy" . Khi thấy Trung Trinh Khả Hãn gục xuống, ông ta liền giả nhân giả nghĩa lao nhanh đến ôm lấy Khả Hãn, rồi lớn tiếng gào thét: " Người đâu, mau tới đây"
Lập tức từ bên ngoài đại trướng, mười mấy tên thị vệ đã xông vào. Hiệt Kiền Già Tư cũng dẫn người ập vào. Tên tướng quốc này thấy Khả Hãn đã không còn cứu vãn được nữa, liền rút dao chỉ thẳng vào mặt Tô Nhĩ Mạn quát to, đầy vẻ thống thiết: " Ngươi nói cho ta xem rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra ở đây hả"
" Thần cũng không biết gì cả" Tô Nhĩ Mạn giơ hai tay lên giống như đang thề vậy, rồi với giọng điệu đầy căng thẳng ông ta đáp: " Sau khi Khả Hãn uống rượu xong thì đột nhiên lại như thế này"
Nói rồi, tên quốc sư này liền đảo mắt nhìn quang, rồi bỗng nhiên chỉ vào cái bình rượu bằng sứ mà chính tay hắn vừa rót cho Khả Hãn: " Chính là cái binh rượu này, sau khi Khả Hãn uống rượu trong đó xong thì người liền gục xuống"
Hiệt Kiền Già Tư cầm bình rượu kia lên xem qua rồi nói: " Đây là bình rượu quý mà công chúa Đại Đường hiến tặng cho Khả Hãn, làm sao có thể có độc được chứ"
" Ngươi lại đây" Hiệt Kiền Già Tư gọi một tên lính và sai bảo: " Ngươi hãy dắt một con chó lại đây cho ta"
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 40: Thị sát xưởng
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Chốc lát sau, tên thị vệ dắt một con chó tới. Hiệt Kiền Già Tư ấn đầu con chó xuống và đem đổ rượu ở trong cái bình kia vào miệng nó. Rất nhanh sau đóm con chó giật giật mấy cái, rồi tuyệt khí mà chết.
" Bọn người Đại Đường chết tiệt, dám hãm hại Khả Hãn chúng ta" Hiệt Kiền Già Tư hung hăng ném cả bình rượu đổ văng ra mặt đất: " Các ngươi lập tức điều binh, đem toàn bộ bọn người Đại Đường kia bắt hết lại cho ta"
Lúc này không khí trong toàn quân doanh đã như sôi trào lên hết cả, vô số binh lính hướng về phía đại trướng của công chúa Đại Đường mà vọt tới đầy giận dữ. Bùi Minh Viễn ở bên này nghe thấy có những tiếng dị động nên cũng lao ra khỏi lều trướng, thì cũng vừa lúc có mấy chục con chiến lao đến chỗ hắn ta. Dược La Cát Linh ngồi ở trên ngựa hô to: " Các người chạy mau, Hồi Hột đã phát sinh nội loạn. Hiệt Kiền Già Tư đã phái người đến để giết các ngươi đấy, hãy mau chạy về phía đông ngay đi. Ta sẽ phái người bảo vệ cho các ngươi rời khỏi đây"
Bùi Minh Viễn sớm đã có sự chuẩn bị rồi, thế cho nên Dược La Cát Linh vừa nói là hắn đã tung mình lên ngựa, hướng Dược La Cát Linh cao giọng nói: " Chúng ta cũng nhận được tin tức, có gần tám vạn đại quân Hồi Hột đang tiến thẳng về Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý. Nhất định là Hiệt Kiền Già Tư muốn đảo chính chiếm đoạt ngôi vị Khả Hãn rồi"
Sau khi khản cổ nói cho Dược La Cát Linh biết tình hình , thì Bùi Minh Viễn liền quất ngựa, nhắm thẳng hướng đông mà chạy đi, và rất nhanh chóng, bóng dáng của hắn đã biến mất trong màn đêm. Dược La Cát Linh sửng sốt hồi lâu, mà ngây người không có bất cứ phản ứng gì. Rồi bỗng nhiên, ông ta lại ra roi, quất mạnh vào chiến mã, nhắm hướng đông bắcà chạy đi như điên. Tháng mười hai năm Đại Trị thứ năm, trong cái đêm mà Hồi Hột tiến hành nghênh đón công chúa Đại Đường, thì cũng là đêm mà Trung Trinh Khả Hãn đột nhiên chết bất đắc kỳ tử. Tô Nhĩ Mạn và Hiệt Kiền Già Tư đã gài tang vật, vu oan cho công chúa Đại Đường cố tình dùng rượu độc để ám hại Trung Trinh Khả Hãn. Điều này đã khơi dậy sự tức giận vô cùng mãnh liệt của phe quân đội và thương nhân Túc Đặc. Bọn chúng rối rít yêu cầu được đuổi giết công chúa và đoàn sứ giả của Đại Đường. Nhưng nhờ có Dược La Cát Linh nhìn thấy được tình thế nguy ngập, nên đã dẫn theo toàn bộ người trong bổn tộc bảo vệ cho công chúa Đại Đường an toàn chạy thoát khỏi Hồi Hột. Và ngay sau cái chết của Trungg Trinh Khả Hãn, các thế lực ở Hồi Hột như quân đội, người Túc Đặc, Ma Ni Giáo đều nhất trí ủng hộ việc tôn tướng quốc Hiệt Kiền Già Tư lên làm tân Khả Hãn của Hồi Hột. Ngay sau khi Hiệt Kiền Già Tư đăng vị, ông ta đã chính thức tuyên bố hủy bỏ việc hôn sự với Đại Đường, và còn nói rõ Đại Đường và Hồi Hột từ nay sẽ là kẻ thù của nhau, đồng thời hủy bỏ tất cả các điều ước hữu hảo mà Khả Hãn tiền nhiệm đã từng kí kết với Đại Đường. Song song với đó, Hiệt Kiền Già Tư lại có nhiều hành động thể hiện rõ tư tưởng " thân Đại Thực" như: Lấy công chúa Đại Thực và lập nàng ta làm Khả Đôn, phái sứ giả sang Ba Cách Đạt để chính thức kết minh cùng Đại Thực. Có thể nói sau vụ chính biến ở Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý vừa qua, Hồi Hột đã chính thức nghiêng hẳn về phía Đại Thực rồi.
Trong tháng này tuyết rơi tại Trường An nhiều hơn so với các năm trước, cơ hồ mỗi ngày đều có những bông tuyết bay bay, cũng không dày đặc, những bông tuyết này bay múa trên không trung, rơi trên mặt đất, tạo nên một tầng tuyết hơi mỏng.
Ngày thứ ba sau tết Nguyên Tiêu, có vài cỗ xe ngựa do vài ngàn vũ lâm quân hộ tống rời thành Trường An, hướng về phía Đông nơi Tân Phong huyện, xe ngựa đi qua một bờ ruộng, cách đó không xa có một loạt tiếng cười cười nói nói truyền đến, trên chiếc xe ngựa màn xe được kéo ra, Lý Kỳ tò mò nhìn cảnh sắc phương xa.
Cánh đồng lúa ở phía xa xa, một nhánh sông Vị Hà chảy xuyên qua cánh đồng, đứng hai bên bờ sông có thể dễ dàng bắt gặp guồng nước cao lớn, lúc này trời bắt đầu lại có tuyết rơi, hoa mai cùng bông tuyết bay trên không trung tạo thành một mảnh tuyết vụ mông lung. Phương xa cảnh sắc trở nên không rõ rệt, cách đường cái không xa có khoảng hơn mười nông dân đang ngồi dưới gốc cây nghỉ ngơi uống nước. Bọn họ nói chuyện với nhau, mặc cho tiếng gió, bông tuyết rơi trên vai, rơi trên đồng lúa ở bên cạnh bọn họ. Bọn họ cũng không cảm thấy phiền hà, ngược lại càng thêm vui vẻ.
Lý Kỳ vươn tay, cảm nhận những bông tuyết phất phới trong suốt ngoài cửa sổ xe. Bông tuyết nhẹ nhàng rơi vào mu bàn tay hắn, lập tức hòa tan, cảm giác lạnh buốt khiến cho hắn nở nụ cười.
- Điện hạ đang cười gì vậy?
Sư phó Lý Bí cùng ngồi xe với hắn buông bức thư trong tay, ghé vào trước cửa sổ xe cười hỏi hắn.
- Khi chúng ta đi ngang qua thành Trường An toàn nghe thấy lời phàn nàn đối với việc tuyết rơi không dừng. Các thương nhân nói đường xá lầy lội khó đi, phàn nàn thời tiết không có ngày nào đẹp, ảnh hưởng đến việc buôn bán của họ. Tuy nhiên khi ra khỏi thành đến đồng ruộng này, lại nghe thấy nông dân ngợi khen bông tuyết, ta liền nghĩ, ông trời nên nghe ai, đến tột cùng là công thương quan trọng, hay là nông nghiệp quan trọng.
Lý Kỳ năm nay đã mười bốn tuổi, sau năm nay hắn sẽ không ở lại trong hậu cung nữa mà sẽ tới Ung Vương phủ của Thập Vương, mỗi ngày cùng bách quan vào triều. Tuy nhiên hắn phải tới Hoằng Văn quán ở Đông cung đọc sách, mỗi ngày học xong sẽ tới nội cung thỉnh an mẫu hậu , sau đó lại quay về vương phủ. Từ sau sự kiện leo cây lần trước, Trương Hoán vô cùng coi trọng sự phát triển giáo dục của con mình, cách hai ba ngày hắn sẽ chọn một việc nào đó do quan dân dâng tấu chương, sao thành bản phụ sai người đưa cho con đọc, xem con trai khi xem xong tấu chương sẽ phát biểu ý kiến của mình thế nào. Hoặc có khi hắn xuất ngoại thị sát, cũng nhất định mang theo con trai, giúp hắn ngoài việc học chữ, cũng có thể ra ngoài tìm hiểu một số việc. Hôm nay Trương Hoán đi Tân Phong huyện thị sát một xưởng dệt, đặc biệt mang theo con trai đi cùng.
Lý Bí thấy Lý Kỳ nói chuyện rất có hứng, rõ ràng là ý nghĩ của mình, lại đổ cho ông trời. Hắn cười cười nói:
- Đây không phải vấn đề bên nào nặng, bên nào nhẹ. Dân chúng phải theo thời tiết, nông nghiệp giống như trời, mà đất nước lấy tài làm phú, công nghiệp chính là đất, cũng có thể coi như âm dương, nông nghiệp là dương, công thương là âm. Nếu âm thịnh dương suy, mọi người đều theo thương đi kiếm tiền, triều đình muốn cổ vũ canh chức, sẽ tăng thuế áp thương.
Còn nếu dương thịnh âm suy, sẽ ảnh hưởng đến tài chính của triều đình. Cho nên triều đình vừa muốn giảm thuế thích hợp, lại muốn nâng cao sự tích cực của công thương, đương nhiên âm dương phối hợp là tốt nhất. Ngươi xem phụ hoàng ngươi đều làm như vậy, mười ngày trước mang theo ngươi đi thị sát thủy lợi, nói chuyện với nông dân tại đồng ruộng, hôm nay lại mang ngươi đi thị sát xưởng dệt, đây là hai sự phối hợp. Vì thế người chấp chính quan trọng không phải làm đại sự gì, mà là có thể phát hiện ra các vấn đề đang tồn tại trong luật pháp, tiến hành giải quyết ổn thỏa, làm cho Đại Đường có thể nhanh chóng khôi phục thực lực của đất nước, ngươi hiểu chưa?
Lý Kỳ dường như suy nghĩ cái gì, gật gật đầu
- Hôm trước ta xem một quyển tấu chương, là Hộ bộ thị lang viết, nói rằng từ mấy năm trước Trung Nguyên mở rộng trồng bông, đến nay nguyên liệu sung túc, triều đình bắt đầu khuyến khích người dân Quan Trung, Hà Đông hai khu thương nhân xây dựng nhà xưởng, kết quả có rất nhiều tá điền vào thành làm công, trong các trang viên xuất hiện tình trạng đồng ruộng bỏ hoang. Ở Quan Trung và Hà Đông có không ít nơi xuất hiện tình trạng bán tháo đất, hoặc là giảm tiền thuê xuống. Trong lịch sử hẳn chưa từng thấy qua, trăm năm nay đất đai Đại Đường luôn xuất hiện vấn đề về khế đất, ta quả thực rất cảm khái, xem ra phát triển công thương không phải là không có lợi.
Lý Bí nở nụ cười:
- Đây thực ra là do phụ hoàng ngươi cùng vài vị tướng quốc suy tính sâu xa mà có kết quả này. Mấy năm trước đầu tiên là nghiêm khắc loại bỏ chế độ nông nô, kê biên tài sản của hơn mười gia đình chống lại việc phế nô quyền quý, thậm chí ngay cả gia đình Quách Tử Nghi cũng bị xử phạt năm vạn xâu tiền, tịch thu tám vạn khoảnh đất. Sau đó tại Giang Hoài, Giang Nam, Ba Thục thu điền sản, dùng chỗ cao lương đó làm nguồn cung cấp lương thực cho Đại Đường. Đồng thời tiến hành khai thác mỏ bạc, thực hành chế độ đóng thuế, dùng tiền mặt đóng thuế, bức bách tất cả các gia đình có dư nhân khẩu phải làm cho công thương. Bởi vậy, dân chúng không làm ruộng cũng có cơm ăn, có một con đường khác để sống, ai còn nguyện ý làm tá điền để bị người khác bóc lột nữa? Những gia đình không còn trồng trọt, lại dư thừa nhân khẩu, thêm vào đó lại mất đi ý nghĩa của trồng trọt, hàng năm vẫn phải nộp một khoản thuế đất, cho nên trong hai năm qua việc đất đai không còn nghe nói đến nữa, thì ra là vì nguyên nhân này.
Lý Kỳ trầm ngâm một lát, lại hỏi:
- Bây giờ là do thiếu dân cư, nếu như tương lại dân cư đạt tới mức tám trăm vạn hộ như thời Khai Nguyên cường thịnh, thậm chí còn nhiều hơn, lương trồng trọt không đủ nuôi sống những người trong nước, khi đó liệu có thể tạo nên nhu cầu đất đai hơn không? /span>
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 40: Thị sát xưởng. (b)
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Việc này ngươi không cần lo lắng, thiên hạ rộng lớn không có gì không thể, nếu sản lượng lương thực cao hơn trồng trọt, tựa như bông, nếu không phải học được cách trồng loại bông vải và kỹ thuật dệt ở Ai Cập, vải Bạch Điệp cũng sẽ không có giá cả như hôm nay. Ngoài ra, vùng Tây Thổ bao la, dân cư nếu gia tăng có thể di dân đến phương tây. Đây là nguyên nhân chính phụ hoàng ngươi dùng lực lượng cả nước để gây chiến tranh, không chỉ là do mỏ bạc đang mang lại lợi ích chiến lược cho Đại Đường, quan trọng hơn là phải bảo vệ lãnh thổ quốc gia Tây Vực, đây là một cách giải quyết mâu thuẫn trong nước.
Sư phó giảng giải từng bước khiến cho Lý Kỳ được mở rộng suy nghĩ, hắn nhìn bông tuyết đang bay qua ngoài cửa sổ, lâm vào trầm tư thật sâu.
Giữa trưa, đoàn xe mới tới Tân Phong huyện, Tân Phong huyện từ sớm đã nhận được tin tức, sáng sớm đã chờ tại dịch trạm ở ngoài thành năm dặm chuẩn bị chờ đón hoàng thượng giá lâm, giữa trưa không bao lâu long giá hoàng thượng rốt cục đã đến.
Năm trước Trương Hoán đến nơi này thị sát, chủ yếu là vì Tân Phong huyện có một nhà xưởng dệt Quách Ký, có khoảng hai ngàn máy dệt, thuê hơn bốn nghìn công nhân, không chỉ dệt thành công vải Bạch Điệp, còn dệt được lụa nhẹ, hàng hóa cung không đủ cầu, mang đến lợi nhuận to lớn cho chủ xưởng, cũng mang lại khoản thu từ thuế khả quan cho Tân Phong huyện. Đây là một phường dệt điển hình, gây sự chú ý rộng khắp toàn triều.
Lần này cùng đi thị sát với Trương Hoán còn có công bộ thượng thư Lý Hàm, thiếu phủ giam lệnh Dương Trung Hòa, công bộ thị lang Tống Liêm Ngọc, cả đoàn người chầm chậm dừng trước trạm dịch, huyện lệnh Tân Phong cuống quit chào đón, quỳ xuống trước long giá:
- Thần huyện lệnh Tân Phong huyện Vương Hồng Hưng khấu kiến bệ hạ.
Cửa xe kéo ra, Trương Hoán xuống xe ngựa, thấy một mình hắn tới trước, không khỏi khẽ mỉm cười nói:
- Vương ái khanh hãy bình thân
- Tạ bệ hạ
Vương huyện lệnh đứng lên, lại nói:
- Thần nhận được thư cấp tốc từ triều đình, nói hoàng thượng không muốn quấy nhiễu dân chúng, thần đã sắp xếp xong xuôi hết thảy.
Dứt lời, hắn chỉ chỉ vài cỗ xe trong trạm dịch xe ngựa cách đó không xa
- Đợi lát nữa bệ hạ có thể ngồi xe ngựa vào thị trấn, phường dệt Quách Ký Công đã đông, khi bệ hạ tới, dân chúng trong thành sẽ không biết.
Trương Hoán gật nhẹ đầu:
- Vậy làm phiền ngươi
Hắn quay đầu lại hướng phía xe ngựa con trai nhìn nhìn, Lý Kỳ cũng đã xuống xe ngựa, phía sau là Lý Bí, Trương Hoán cười cười với con trai, nói:
- Hoàng nhi đói bụng rồi sao?
- Hồi bẩm phụ hoàng, nhi thần đã ăn chút điểm tâm trong xe, hiện tại không đói bụng
- Tốt lắm, chúng ta đổi xe ngựa, đi sớm về sớm.
Đoàn người đổi xe ngựa tại trạm dịch, dưới sự bảo hộ của hơn ba trăm vũ lâm quân tiếp tục đi tới thị trấn, một lát sau, đoàn người tiến vào huyện Tây Môn. Vào đến cửa thành, trên đường cái người người lui tới, có phần náo nhiệt, thực tế hồ thương rất nhiều, bọn họ đều là thương nhân trực tiếp đến phường dệt Quách Ký mua hàng, tiến vào phường dệt Quách Ký trước, từ xa đã nghe thấy tiếng máy dệt.
Phường dệt Quách Ký mới xây dựng tổng cộng có bốn phường nhỏ, trong đó lớn nhất là phường dệt ở cửa Tây. Diện tích khoảng 100 mẫu, có một tường viện dài bao quanh, chủ xưởng Quách Đông là thương nhân Trường An, nên gọi là Quách Phủ, do hai trăm thương nhân lập nên từ bốn năm trước. Chỉ trong ngắn ngủi vài năm đã phát triển trở thành phường dệt quy mô lớn với hai nghìn máy dệt. Hôm qua y cũng đã biết hôm nay hoàng thượng sẽ tới thị sát xưởng của y, mặc dù đã hơn nửa năm rồi, y đã tiếp đãi vài khách buôn quan lớn từ triều đình, nhưng lần này là hoàng thượng tự mình đến thị sát, quả thực khiến y kích động đến mất ngủ cả một đêm.
Sáng sớm y đã đứng chờ ở trước cửa lớn, trong sân đã được quét dọn sạch sẽ, đợi cả một buổi sáng liền có cảm giác giống như đã đợi vài chục năm rồi. Khi hắn vừa định đi ăn cơm trưa, ngoài cửa lớn liền truyền đến tiếng bước chân dồn dập, sau đó một nha dịch chạy vội đến, thấp giọng hô:
- Đến rồi, đến rồi, nhanh mở cổng chính!
Chủ xưởng Quách Đông khẩn trương đến mức như tim muốn nhảy ra ngoài, y đi tới phía trước mở cửa chính ra, chỉ thấy bên ngoài đã bị một nhóm binh lính bao vây, vài người đang đi về hướng cửa chính, bên trái chính là Vương huyện lệnh, y nhận ra hắn, một người khác là thiếu phủ giám lệnh Dương Mẫn đã từng đến đây vào tháng 11 năm trước, y cũng nhận ra, còn người nam tử đi ở chính giữa khoảng ba mươi mấy tuổi, đang mặc một trường bào trắng, đầu đội mũ, trên mặt luôn phảng phất nét cười, khiến cho người khác cảm thấy vô cùng thân thiết, bên cạnh hắn còn có một thiếu niên mười mấy tuổi đi cùng.
Quách Đông tim đập thình thịch, y biết rõ người này chính là Đại Đường hoàng đế, y liền tiến lên phía trước quỳ xuống:
- Thảo dân Quách Phủ khấu kiến bệ hạ, chúc bệ hạ vạn tuế, vạn vạn tuế!
Vương huyện lệnh vội vàng giới thiệu với Trương Hoán:
- Bệ hạ, hắn chính là chủ phường dệt Quách Ký Quách Phủ, người Trường An.
Trương Hoán vội vàng sai người đỡ hắn đứng dậy, khẽ cười nói:
- Trẫm hôm nay cải trang vi hành, Quách chủ không cần đa lễ.
- Tạ bệ hạ, thần không nói với người trong xưởng hôm nay bệ hạ tới, hết thảy đều giống như ngày thường, xin bệ hạ đi theo ta.
Dứt lời, hắn đi lên phía trước đẩy một cánh cửa khác:
- Bệ hạ, xin đi hướng này.
Trương Hoán nhẹ gật đầu, đi hai bước, hắn bỗng nhiên nghĩ tới một chuyện, quay đầu hỏi y:
- Trẫm nghe nói ngươi có một đứa con trai đang tòng quân tại Toái Diệp, có phải không?
Quách Đông chủ cuống quít đáp:
- Con trai thứ của thảo dân tham gia Toái Diệp tòng quân, mấy hôm trước có gửi thư về, nói hắn rất tốt, còn lập công được khen thưởng không ít.
- Trẫm cũng có một nghĩa tử đang ở Toái Diệp tòng quân, lần này cũng lập công, bọn nhỏ có tiền đồ, người làm cha chúng ta cũng cảm thấy vẻ vang.
- Vâng! Hai ngày trước Binh bộ phái người khua chiêng gõ trống, đem một bó hoa hồng treo trước cửa nhà ta ở Trường An, không biết có bao nhiêu người hâm mộ ta.
- Trẫm tại sao không có?
Trương Hoán quay đầu cười nói với Lý Hàm:
- Khi nào về trẫm phải kháng nghị với Binh bộ một chút, bọn họ rõ ràng đã quên đưa hoa hồng cho trẫm. Tất cả mọi người đều nở nụ cười, Quách Đông chủ thấy hoàng thượng hòa ái dễ gần, tâm trạng khẩn trương cũng dần dần biến mất, đưa Trương Hoán vào trong phường dệt. Từ bên ngoài nhìn vào rất nhỏ, nhưng bên trong lại chiếm một diện tích thật lớn, năm tòa nhà dài song song với nhau, mỗi phòng có ba trăm máy dệt, mấy trăm công nhân đang làm ở bên trong, phần lớn là nữ tử trẻ tuổi, đồng nhất mặc quần màu trắng, nhìn từ xa, căn phòng trắng như tuyết, vô cùng đẹp mắt.
Trương Hoán cùng mọi người đi vào một gian phòng, một dàn máy rất to, thanh âm vang dội, nơi này là phường dệt Chức Bạch Điệp, mỗi một máy đều có một khung lớn bày ở bên cạnh, bên trong những máy khác là từng lớp lớp sợi bông, có hai người đang thao tác máy, một người ban ngày canh cửi, buổi tối nghỉ ngơi, còn lại một người buổi tối canh cửi, ban ngày nghỉ ngơi. Như vậy máy dệt sẽ cuộn liên tục không cần nghỉ ngơi, mặt khác lại có vài chục người phụ trách vận chuyển theo đoàn, vải vóc ... ngoài ra còn có vài người đốc công mặc y phục đen, các nàng phụ trách đếm từng sản phẩm của mỗi công nhân.
Mọi người đều đang chuyên chú canh cửi, đối với việc Trương Hoán đi tới, không ai lưu tâm, mấy tháng nay quan lớn triều đình tới thăm không ít, các nàng cũng quen rồi.
- Ngươi trả cho các nàng bao nhiêu tiền công?
Đứng trước một máy dệt lớn, Trương Hoán cất giọng hỏi.
- Còn xem các nàng có thể dệt được bao nhiêu, bình thường ta trả giá tiền công là hai mươi văn tiền một thớt vải. Các nàng mỗi ngày làm năm canh giờ, nếu kỹ thuật thuần thục mỗi ngày có thể dệt được mười bảy bố, tính ra là hai trăm văn tiền, một tháng có thể được sáu xâu tiền, nhưng đại bộ phần để có thể lĩnh được ba đến năm xâu tiền gì đó, hơn nữa ta còn cung cấp lương thực, chợ phía đông Trường An bán a hoàn cũng chỉ nhiều như vậy thôi, giá này là hợp lý rồi. Rất nhiều người tranh nhau đưa nữ nhân tới, thậm chí còn có cả nữ nhân Trường An.
- Sao ngươi lại nghĩ tới mở xưởng ở đây, tại sao không mở xưởng ở Trường An?
Bên cạnh Lý Kỳ chen miệng vào hỏi.
Quách Đông chủ biết vị thiếu niên này chính là trưởng tử của hoàng thượng, Ung vương điện hạ, nếu như không có bất ngờ gì xảy ra, đây sẽ hoàng đế kế tiếp. Hắn không dám chậm trễ, vội vàng cung kính nói:
- Thưa điện hạ, chủ yếu là vì vật liệu Trường An quá đắt, mua đất ở tỉnh khác rẻ hơn, do đó ta đến Phong huyện, lúc này giá đất chỉ bằng một nửa ở Trường An, hơn nữa cũng cách Trường An khá gần, bởi vì hàng hóa của ta cung không đủ cầu, chợ phía đông Trường An và cửa hàng phía Tây đều tự mượn xe đến chở hàng, lại bớt được một số phí chuyên chở cho ta.
- Thì ra là thế.
Lý Kỳ bừng tỉnh đại ngộ, hắn ngẫm lại rồi hỏi:
- Vừa rồi ta thấy trên đường cái có rất nhiều Hồ thương, dường như là đến mua hàng của ngươi, vậy bọn họ trực tiếp đến mua tại đây liệu có lợi hơn hay đi chợ phía Đông sẽ lợi hơn?
- Không phải, không phải.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 40: Thị sát xưởng. (c)
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Quách Đông chủ vội vàng khoát tay.
- Giá cả đều như nhau, đây là luật lệ, ta không thể bán thấp hơn so với chợ phía Tây, nếu ta không tuân thủ, tất cả các cửa hàng sẽ không mua hàng của ta, chỉ có điều nếu trựa tiếp mua hàng của ta ở đây thì có thể mua nhiều hơn một chút, hơn nữa hàng lại có đủ, những hồ thương kia đều là những người nôn nóng.
Mọi người vừa nói vừa đi, Trương Hoán lại đột nhiên ngồi xổm xuống hỏi một nữ công nhân dệt tuổi còn nhỏ:
- Ngươi một tháng có thể kiếm được bao nhiêu?
Nữ công nhân kia mặt đỏ lên, cúi đầu nhỏ giọng nói:
- Ta mới tới nửa năm, còn chưa thuần thục, tháng trước kiếm được ba mươi lăm tiền.
Một xâu tiền tiêu chuẩn là một trăm văn, nói cách khác nàng buôn bán sẽ lời ba xâu năm trăm văn, một viên quan cửu phẩm tiền lương cũng chỉ năm xâu tiền, tất nhiên, huyện úy có thể thu được tiền đất đai và lương thực, nhưng kể cả như vậy, cũng là không tồi.
Trương Hoán đứng lên, nói với Quách Đông chủ:
- Chúng ta đi xem dệt khinh dung đi.
Khinh dung hay còn gọi là sa mỏng vô hoa, trước mắt hiện lên một loại sa nhẹ nhất, cầm trong tay không cảm giác được gì, nhìn thợ may dệt, tựa như một tầng sương mù bình thường, loại sa dệt này cực kỳ trân quý, đáng lẽ chỉ có Bạc Châu có hai phường dệt thế gia, đề phòng kỹ thuật dệt bị lộ ra ngoài, hai phường dệt thế gia này thông hôn với nhau để không cho kỹ thuật tiết lộ ra, tuy nhiên vào sáu năm trước khi Trung Nguyên loạn lạc, Bạc Châu cũng bị đánh tới, hai phường dệt thế gia này có vài người chạy trốn tới Trường An. Quách Đông chủ nhận được tin tức, liền bỏ ra số tiền lớn để học kỹ thuật từ trong tay một gia đình trong đó, hiện tại sa mỏng này là hàng hóa hắn kiếm lợi nhất, cung không đủ cầu, giá cả rất cao, đơn đặt hàng đã sắp xếp đến tận tháng mười năm này, cả khu Quan Trong cũng chỉ có phường dệt Quách Ký có thể làm ra loại sa mỏng này.
Hiện tại xưởng dệt khinh dung của Quách Đông chủ chỉ có ba mươi nữ công nhân dệt, mỗi người đều do hắn tỉ mỉ lựa chọn, thân thế trong sạch, hơn nữa đều có khế ước với hắn, sẽ không đem kỹ thuật truyền ra ngoài, tương tự thu nhập của các nàng cũng là cao nhất, người cao nhất mỗi tháng thậm chí có thể đạt được hai mươi xâu tiền.
Ra khỏi cửa chính xưởng Bạch Điệp, lỗ tai cảm thấy an tĩnh lại, xưởng dệt khinh dung nằm một mình trong sân, hơn nữa lại có tường bao quanh xưởng, cách xa các xưởng khác, có người gác, ngoại trừ quan lớn triều đình đến tham quan, người khác ai cũng không được phép vào.
Vào cửa, Trương Hoán thấy trong này canh gác sâm nghiêm, liền cười nói với mọi người:
- Xem ra, nếu Quách Đông chủ giữ bí kíp trân quý như vậy, chúng ta không nên tiến vào.
Quách Đông chủ liền vội vàng khom người nói:
- Hoàng thượng đi vào thì không sao, loại sa mỏng này kỹ thuật hết sức phức tạp, người ngoài nghề xem cũng không hiểu?
Trương Hoán đi tới trước cửa sổ, thấy bên trong gian phòng lớn cũng truyền đến tiếng máy dệt rất nhỏ, ba mươi nữ công nhân đang chăm chỉ dệt lụa mỏng, hắn quay đầu cười nói với Quách Đông chủ:
- Trẫm có một yêu cầu không an phận muốn mời Đông chủ đáp ứng.
Quách Đông chủ sợ tới mức vội vàng quỳ xuống:
- Bệ hạ xin cứ nói, thảo dân sao dám không đáp ứng.
- Là thế này.
Trương Hoán trầm ngâm nói:
- Hoàng hậu của trẫm vô cùng thích loại sa mỏng này, nàng cũng lập một nhóm cung nữ trong cung dệt sa mỏng, nhưng dù làm thế nào cũng không được như phường dệt, lần này trẫm tới thị sát, hoàng hậu đã đặc biệt dặn dò trẫm thỉnh một nữ công nhân tiến cung làm thầy dạy, không biết có được không?
Quách Đông chủ nội tâm nhảy dựng lên, như thế này chính là truyền kỹ thuật dệt sa mỏng đi. Hắn sao dám không đáp ứng, chỉ đành cắn răng nói:
- Yêu cầu của bệ hạ, thảo dân nào dám không đáp ứng, thảo dân nhất định sẽ phái nữ công nhân ưu tú nhất tiến cung dạy nghề.
Dứt lời, hắn nói với đốc công:
- Đi kêu Ngô nương tới đây.
Hắn lại quay đầu nói với Trương Hoán:
- Ngô nương trượng phu là quân nhân, năm trước bị điều đến An Tây tham chiến, thân thế rất trong sạch, xin bệ hạ chờ một lát. Một nữ tử trẻ tuổi mặc quần trắng bị dẫn tới, Trương Hoán từ xa nhìn thấy nàng, thấy nàng chỉ khoảng chừng hai mươi lăm hai mươi sáu tuổi, bộ dáng thanh tú, đến gần cảm thấy nàng có chút quen mặt, giống như đã gặp ở đâu, Ngô nương kia tiến lên đối diện với Trương Hoán, nàng cũng sững sờ, đột nhiên quỳ xuống cao giọng nói:
- Tiểu nữ tử khấu kiến hoàng đế bệ hạ.
Trương Hoán chần chờ hỏi:
- Trẫm thấy ngươi có chút quen mắt, chúng ta đã gặp nhau ở đâu rồi?
- Bệ hạ đã quên sao? Năm đó bệ hạ từng thị sát tại Vũ Uy việc di dân đến Thiên Bảo huyện, cha ta cùng bệ hạ đã nói chuyện về guồng nước, bệ hạ lúc đó còn cho ta một danh thiếp.
Trương Hoán nghĩ lại, sau đó đây chính là người phụ nữ tới Kim Thành cáo trạng, lật lại việc Trần Bình tham ô lương thực cứu tế, hắn cười ha ha nói:
- Thật sự là nhân sinh nơi nơi khó gặp, chúng ta lại có thể gặp nhau tại đây. Trẫm nhớ rõ ngươi họ Lưu, mau đứng lên, tại sao ngươi lại ở đây?
Ngô nương cũng hết sức cao hứng, nàng đứng lên nói:
- Phu gia của tiểu nữ tử họ Ngô. Hắn chính là một thân binh năm đó chém bị thương cha ta, bị bệ hạ xử phạt. Hắn áy náy lương tâm, thường xuyên tới chiếu cố chúng ta, thời gian dài sau này, tiểu nữ tử gả cho hắn, cũng sinh hai đứa con trai, hắn là người huyện Phụng Thiên, tích công được thăng làm đô uy, năm trước bị điều đến chiến tranh An Tây, hai đứa con hiện nay đều đang học ở Trường An, ta liền tới đây làm công, kiếm tiền trả học phí cho bọn chúng.
Trương Hoán nghe thấy thân binh của hắn biết sai có thể sửa, trong nội tâm cảm thấy vô cùng vui mừng, hắn liền cười nói với Ngô nương:
- Thật sự là khéo, thê tử của trẫm đang muốn mời một vị nữ công dệt sa mỏng tiến cung dạy các nàng tài nghệ dệt, Quách Đông chủ đã giới thiệu ngươi cho trẫm, ngươi nguyện ý đi không? Trẫm sẽ không bạc đãi ngươi, chỉ khoảng nửa năm, ngươi có thể tùy lúc xuất cung đi thăm con của ngươi.
Ngô nương nghĩ nghĩ liền gật đầu đáp:
- Tiểu nữ nguyện ý tiến cung dạy hoàng hậu nương nương kỹ thuật dệ sa mỏng.
- Hảo, ngươi đi thu thập đồ đi, chờ một lát trẫm phải về cung.
Trương Hoán quay đầu nói với Quách Đông chủ:
- Lần này trẫm đến thị sát cũng muốn nghe một chút ý kiến của thương nhân các ngươi, cảm thấy luật pháp triều đình có chỗ nào không hợp lý, cứ việc nói ra, trẫm muốn nghe lời nói thật.
Quách Đông chủ liền vội vàng khom người thi lễ nói:
- Thảo dân cảm thấy hiện tại triều đình đối với thảo dân đã rất rộng rãi, tuy nhiên thảo dẫn cũng thấy quả thật có hai điểm nho nhỏ không hợp lý lắm.
Có người đưa một chiếc ghế nằm cho Trương Hoán, hắn ngồi xuống, để cho Lý Kỳ ngồi bên cạnh mình, sau đó nói với Quách Đông chủ:
- Quách Đông chủ mời nói.
Quách Đông chủ nghĩ nghĩ liền nói:
- Thảo dân muốn nói về phần lớn các loại pháp lệnh triều đình áp dụng cho các thương nhân, có rất nhiều điểu mâu thuẫn. Năm kia có gian thương Hà Đông bán trà giả hãm hại dân chúng, triều đình liền áp đặt tất cả thương nhân Hà Đông đều không được bán trà, điều này thật sự là không hợp lý, đây là việc thứ nhất, ngoài ra thảo dân năm ngoái từng mở một nhà xưởng ba trăm máy móc tại Dương Châu, bên này phường dệt Quách Ký của ta ở Trường An đã đăng ký thương tịch, dựa theo chiếu thư Khánh Trị năm thứ mười ba quy định, xưởng ở Dương Châu có thể cùng nộp thuế ở Trường An, nhưng Diêm Thiết giám ở Dương Châu bên kia lại nói ta mở xưởng tại Dương Châu, theo chiếu thư Đại Trị năm thứ hai quy định, ta phải nộp thuế tại Dương Châu. Theo lý nếu dùng quy định Đại Trị làm bản chính, nhưng quy định Khánh Trị năm thứ mười ba lại không có hủy bỏ, kết quả ta phải đồng thời nộp thuế cả hai bên, bất đắc dĩ ta đành phải đổi tên xưởng ở Dương Châu, đăng ký thương tịch tại Dương Châu, chỉ có thể làm như vậy. Phường dệt Quách Ký này của ta đã nổi tiếng khắp nơi, theo ý của thảo dân, liệu triều đình có thể chỉnh sửa một quyển thương luật đầy đủ, không cần phải thay đổi hạ chiếu liên tục được không.
Trương Hoán trầm tư một lát rồi nói:
- Chuyện này trẫm biết, lại nói trong "Luật Vĩnh Huy" cũng có liên quan, chỉ là không đầy đủ, tháng trước trẫm đã hạ chỉ, lệnh cho Thôi tướng quốc đứng đầu Hình bộ, đem một số pháp lệnh bổ sung thêm, trong đó có cả thương luật, tương lại Đại Đường ta xử án hết thảy dùng "Luật Vĩnh Huy" này làm chuẩn, bất luận kẻ nào cũng không được tự ý vi phạm, nếu có vi phạm, cần trình báo Hình bộ cân nhắc quyết định. Ngươi nói tới những tình huống này, có thể ghi thành văn thư, Hình bộ tất nhiên sẽ tiếp thu.
Quay về Trường An đã là hoàng hôn, thị vệ đưa Ngô nương mang về cung, Lý Kỳ cũng trở về Ung Vương phủ của mình, còn Trương Hoán thì đi thẳng tới ngự thư phòng gặp các thần tử của mình, hôm nay một ngày không có trong triều, hẳn là tích lũy không ít tấu chương. Vừa đi tới cửa, hoạn quan An Trung Thuận liền vội vàng tiến lên bẩm báo:
" Bệ hạ, Hàn Quốc công chúa đã trở lại."
" Hàn Quốc công chúa?"
Tin tức này đột nhiên tới làm cho Trương Hoán ngây ngẩn cả người, trước đó một chút tin tức hắn cũng không biết.
" Nàng hiện tại ở đâu? Còn Bùi Minh Viễn? Hắn cũng trở về sao?"
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 41: Công chúa trở về
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Quả thực ngạc nhiên, hắn hỏi liền ba vấn đề liên tiếp, An Trung Thuận nghe thấy liền vội vàng đáp:
" Bẩm bệ hạ, Hàn Quốc công chúa được Hoàng hậu nương nương đón vào cung, Bùi đại phu cũng đã trở lại, buổi sáng hắn còn tới cầu kiến bệ hạ."
" Mau tuyên hắn tới gặp trẫm."
Không đợi An Trung Thuận nghe xong, Trương Hoán liền ngắt lời y, vội vàng ra lệnh triệu kiến Bùi Minh Viễn, hắn bước nhanh trở về ngự thư phòng, tâm tình kích động đã bình tĩnh trở lại, từ nửa tháng trước hắn đã biết trong Hồi Hột xảy ra nội chiến, Khả Hãn đã bị chết, Hiệt Kiền Già Tư được lập làm tân Hãn, ngoài ra có một ngàn người trung thành với Khả Hãn cũ cũng bị giết, mà điều mà Trương Hoán lo lắng chính là Hàn Quốc công chúa và Bùi Minh Viễn lại rời đi đúng thời điểm này, mặc dù tin tức truyền tới là sứ giả Đại Đường không gặp phải chuyện gì, những vẫn làm cho hắn lo lắng nửa tháng. Hôm nay Bùi Minh Viễn cùng Lý Tố đều có thể thuận lợi trở vệ, hắn cảm thấy rất vui mừng. Bùi Minh Viễn là tâm phúc của hắn, lại là gia chủ Bùi gia, tương lai là người hắn trọng dụng, lần này có thể thành công cùng công chúa bỏ chạy, cũng nói lên hắn có năng lực rất tốt.
Ước chừng khoảng nửa canh giờ sau, Bùi Minh Viễn được dẫn vào ngự thư phòng, so với thời điểm tại Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý hắn rõ ràng đã gầy hơn trước nhiều. Đường đi gian nan một tháng trời đã khiến cho tinh thần hắn mệt mỏi tới cực điểm, vừa rời khỏi Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý không bao lâu bọn họ liền bị quân Hồi Hột truy kích, trong thời khắc mấu chốt được người tộc La Cát Linh cứu giúp. Khi cách thành Tây Thụ Hàng khoảng ba trăm dặm, bọn họ lại một lần nữa bị mấy nghìn quân biên phòng Hồi Hột tập kích, gần hai trăm quân Đường phải bỏ mình, được hộ vệ quân Đường liều chết bảo vệ, cuối cùng bọn họ mới có thể trở lại Đại Đường.
" Thần Bùi Minh Viễn tham kiến bệ hạ."
Bùi Minh Viễn tiến lên một bước, thi lễ thật thấp với Trương Hoán.
Trương Hoán thấy hắn vừa đen vừa gầy, trên mặt mỏi nét mệt khó có thể che dấu, trong nội tâm cũng không nhịn được mà cảm khái. Hắn tự mình rót cho Bùi Minh Viễn một chén trà, nói:
" Hành trình Hồi Hột lần này, trẫm cũng biết là nguy hiểm cùng gian nan, ngươi có thể cùng công chúa bình an trở vệ, trẫm vạn phần mừng rỡ, mau mau ngồi xuống, kể lại chút kinh nghiệm khi tới Hồi Hột cho trẫm nghe."
Bùi Minh Viễn ngồi xuống. Hắn liền đem việc Khả Hãn muốn mau chóng tiến công Bắc Đình, sau lại có đột biến, khó dằn nổi ý nghĩa cưới công chúa Đại Đường, tuy nhiên ngay tại trước đêm tân hôn thì chết bất đắc kỳ tử, sau lại được tộc người La Cát Linh toàn lực trợ giúp bọn họ thoát hiểm, mọi việc đều kể lại rõ ràng rành mạch cho Trương Hoán nghe, cuối cùng hắn lại cảm thấy hơi chút lo lắng nên hỏi thăm:
" Bệ hạ, công chúa đã quay lại Đại Đường, vậy hôn ước của nàng cùng Hồi Hột kia nên xử lý thế nào?"
" Chắc ngươi cũng đã biết, tân Khả Hãn của Hồi Hột đã hủy bỏ hoàn toàn hiệp nghị đã ký kết với Đại Đường. Chuyện hôn ước tự nhiên cũng sẽ hủy bỏ thôi, việc chúng ta đáp ứng cấp cho Hồi Hột trăm vạn xe lương thực cũng không cần nhắc tới nữa."
Nói tới đây, Trương Hoán mỉm cười lại nói:
" Hiệt Kiền Già Tư nếu đã có ba thế lực lớn ủng hộ để làm phản, người Túc Đặc, ma giáo, quân đội Hồi Hột địa phương đều cùng hợp tác, như vậy hắn tất nhiên đã có dự tính trước. Tuy nhiên nếu hắn muốn phát binh tiến công Đại Đường, trẫm nghĩ hắn cũng có lá gan này đâu."
" Vì sao?"
Bùi Minh Viễn thốt lên, sau đó hắn lại kịp thời phản ứng.
" Bệ hạ nói là người Hiệt Kiết Tư"
" Đúng vậy, chính là người Hiệt Kiết Tư. Có bọn họ, người Hội Hột cũng không dám xuôi nam, trẫm chính là nhìn rõ điều này, mới để mặc cho bọn hắn nội chiến, tốt nhất tự giết lẫn nhau, đỡ khiến trẫm phải xuất binh đi thu thập bọn họ."
Bùi Minh Viễn đã hiểu một chút nên gật đầu, hắn bỗng nghĩ lại một chuyện, liền nói với Trương Hoán:
" Dược La Cát Linh khi cùng thần cáo biệt đã từng nói bọn họ có có ý nghĩ dời khỏi phía Nam, bây giờ trở về Hội Hột lại đúng thời kỳ trong nước đang phái phản Đường đang chiếm ưu thế tuyệt đối, tình cảnh của bọn hắn cũng vô cùng nguy hiểm, như bệ hạ đã nói, Hồi Hột rất có khả năng xuất hiện tình trạng phân liệt, bệ hạ vì sao không thuận theo thời thế, lôi kéo phái thân Đường, triệt để làm cho Hồi Hột phân liệt."
Trương Hoán đột nhiên nở nụ cười, hắn ý vị thâm trường liếc nhìn Bùi Minh Viễn, không nhanh không chậm nói:
" Làm sao ngươi biết ta không thuận thế làm theo? Đối phó với người mạn bắc Hồi Hột ta tộng cộng có năm bước quân cờ, đan xen với nhau, bước đầu tiên là giúp người Hiệt Kiết Tư, mặc kệ đám người Hồi Hột phản Đường là bước thứ hai, vừa rồi ngươi nói lôi kéo Dược La Cát Linh thân Đường ta đã phái người đi làm, đây là bước thứ ba, phía sau trẫm còn bước thứ tư, thứ năm, Minh Viễn nếu không ngại có thể đoán thử một cái."
Muốn để Bùi Minh Viễn đoán, nhưng Trương Hoán lại không cho hắn thời gian, hắn chuyển chủ đề lại áy náy cười nói:
" Minh Viễn vừa mới về nhà, đã bị trẫm gọi tới, khiến ngươi trễ nại đoàn tụ với hài tử, trẫm thật sự rất đau lòng."
Bùi Minh Viễn vội vàng đứng dậy khom người thi lễ.
" Bệ hạ quá lời, ngược lại là thần muốn cảm tạ hoàng hậu nương nương thay thần chiếu cố con gái, được bệ hạ cùng hoàng hậu ban ân đức, thần khắc sâu ghi nhớ."
" Tốt lắm! Tốt lắm. Chúng ta cũng không cần khách khí như thế."
Trương Hoán khoát tay cười nói:
" Hoàng hậu là thân muội của ngươi, nàng không chiếu cố thì ai chiếu cố? Ngược lại ngươi đấy, trẫm đã nghĩ cho ngươi tới một địa phương để tôi luyện vài năm, ngươi nên chuẩn bị tâm lý."
Địa phương! Bùi Minh Viễn âm thầm khẽ giật mình, hắn nhất thời không hiểu rõ ý tứ của Trương Hoán, trước khi trở về từ Hồi Hột, hắn đã tới đồng ruộng đất đai giám sát, nhậm chức ở Thường Châu một thời gian, làm gia chủ Bùi gia. Mọi việc trong gia tộc Bùi gia hắn đã buông tay mặc kệ, khiến cho rất nhiều người trong gia tộc bất mãn, khó khăn lắm mới mãn kỳ nhậm chức, trở lại Trường An, rồi lại hộ tống đoàn sứ giả đi Hồi Hột. Theo lý, sau khi hắn trở về sẽ trực tiếp vào triều làm quan mới phải, tại sao lại phái hắn tới địa phương nhậm chức, hoàng thượng cuối cùng là có dụng ý gì? Ánh mắt của hắn nghi hoặc nhìn Trương Hoán, hy vọng có thể cho mình một câu trả lời thuyết phục rõ ràng.
Trương Hoán không giải đáp nghi ngờ của hắn, chỉ trầm ngâm nửa ngày, sau đó mới cười nhạt một tiếng nói:
" Trẫm đã quyết định bổ nhiệm ngươi làm thứ sử Ích Châu kiêm tiết độ sứ Kiếm Nam, năm ngày sau chính thức đi Ích Châu nhậm chức."
Bùi Minh Viễn đi xa rồi, Trương Hoán vẫn chắp tay sau đít đi qua đi lại trong phòng, năm ngoái bởi vì chiến dịch Toái Diệp nổ ra, rất nhiều kế hoạch của hắn đều phải tạm thời dừng lại, nhất là việc thay đổi nhân sự cấp cao, việc này bốn năm nay trên cơ bản đều chưa từng thay đổi. Từ sau khi chiến tranh chấm dứt, cơ cấu quyền lực nên được cải tổ lại.
Tháng mười hai năm ngoái, tiền tướng quốc Đại Đường Thôi Viên từng nắm giữ triều đình suốt mười năm bất hạnh qua đời, sự ra đi của ông tất nhiên là một tổn thất lớn cho Đại Đường, nhưng lại có ý nghĩa là một thời đại đã chấm dứt. Năm đó thất đại thế gia gồm có Thôi Viên, Bùi Tuấn, Vi Ngạc, Trương Nhược Hạo, Vương Ngang, Dương, Sở Hành Thủy, trong đó Vi Ngạc đã chết vì bệnh từ năm kia, hiện tại ngoại trừ Sở Hành Thủy còn làm quan lớn trong triều ra, sáu người khác đều đã không còn tại nhân thế, năm đó Trương Hoán hắn cùng bảy người này âm thầm chiến đấu, nhưng bây giờ chỉ còn lại mình hắn tiếu ngạo thiên hạ.
Trương Hoán chậm rãi đứng trước cửa sổ, nhìn ngắm ánh trăng tròn bên ngoài cửa sổ chăm chú, cùng với gió nhẹ và sắc màu lam nhạt trên bầu trời phảng phất như càng thêm tịch mịch, hắn đột nhiên có cảm giác đứng ở trên cao nhưng không thấy thắng lợi, đã không còn kẻ thù chính trị, cuộc sống của hắn tựa hồ thiếu đi thứ gì đó, có lẽ địch nhân cũng được coi là một loại bằng hữu đặc thù. Hắn đột nhiên nghĩ tới một người, một địch nhân tại Ba Cách Đạt.
Hôm nay trong hậu cung vô cùng náo nhiệt, đầu tiên là Hàn Quốc công chúa quay lại Trường An, buổi chiều Trương Hoán lại thỉnh được Ngô nương trong hội chức khinh dung vào cung, nhóm thê thiếp của Trương Hoán cảm thấy vô cùng hào hứng, cho nên dù trượng phu chậm chạp chưa hồi cung, cũng không có ai để tâm, tuy nhiên hôm nay chỉ có một người lo lắng, đó là Thôi Ninh. Từ sáng đến tối, nàng đều đang chờ trượng phu trở về. Nguyên nhân khiến nàng lo lắng là sáng hôm nay nàng nhận được một tin khiến nàng vô cùng khiếp sợ. Cháu của nàng là Thôi Diệu bị bắt làm tù nhân, đưa tới Ba Cách Đạt, sống chết chưa rõ. Tin tức này khiến Thôi Ninh cảm thấy giống như bị sét đánh giữa ban ngày.
Phụ thân Thôi Diệu từ bỏ vị trí trưởng tôn. Trước khi phụ thân lâm chung, người đã kéo tay nàng nhắc nhở nhiều lần, nhất định phải bồi dưỡng Thôi Diệu trở thành trụ cột nhân tài cho Thôi gia. Tuy nhiên hiện giờ lời phụ thân vẫn còn bên tai, nhưng lại có tin truyền đến là Thôi Diệu bị bắt làm tù binh đưa đến Ba Cách Đạt. Việc này khiến cho lòng Thôi Ninh nóng như lửa đốt. Nếu Thôi Diệu có bất trắc gì, làm sao nàng dám gặp mặt ch dưới suối vàng đây.
Thôi Ninh đứng trên bậc thang lo lắng đi qua đi lại, nàng đã phái hai thái giám đi nghe ngóng tin tức của Hoàng thượng, hiện tại sắc trời đã muộn, sao hắn vẫn chưa trở về.
" Nương nương, bệ hạ đã trở về."
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 41: Công chúa trở về (b)
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Thị nữ bên cạnh của nàng đột nhiên chỉ vào một chuỗi đèn lồng xuất hiện từ xa la lớn.
" Hắn thật sự đã trở lại."
Thôi Ninh kéo váy chạy xuống bậc thang, chưa chạy được vài bước lại có chút do dự, tự mình chạy tới, người khác biết có thể nghị luận sau lưng nàng không.
Nàng nghĩ nghĩ, gỡ một cây trâm trên đầu xuống giao cho thiếp thân cung nữ, nói:
" Ngươi đưa nó giao cho bệ hạ, không cần nói gì cả."
Đoàn người cầm đèn lồng kia đúng là Trương Hoán đang đi tới, hắn bôn ba bên ngoài một ngày trời, quả thực rất mệt mỏi, thấy đêm đã khuya liền quay về cung nghỉ ngơi. Đi qua một cây cầu, An Trung Thuận đột nhiên bẩm báo từ bên ngoài cửa sổ xe:
" Bệ hạ, Nguyên Phi nương nương đưa cho người một cây trâm."
Cây trâm? Trương Hoán hơi kinh ngạc, Ninh Nhi đưa cho hắn cây trâm làm gì! Hắn tiện tay cầm lấy, quả nhiên là vật sở hữu của Thôi Ninh, sau đó hắn lại nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy thị nữ thiết thân của Thôi Ninh đứng bên ngoài xe, liền hỏi nàng:
" Nguyên Phi có chuyển lời gì cho ta không?"
Thị nữ cuống quít thi lễ:
" Nương nương không nói gì."
Trương Hoán trầm ngâm một lát, chẫm rãi hiểu ra, Thôi Ninh muốn đêm nay mình tới chỗ nàng. Hắn cười cười nói:
" Ngươi về nói lại với Nguyên Phi, trẫm đã hiểu."
Thị nữ lên tiếng, xoay người liền vội vàng chạy đi, Trương Hoán nhìn chằm chằm thân ảnh nàng biến mất, lại nhìn nhìn cây trâm trong tay, nhẹ nhàng lắc đầu, khóe miệng mỉm cười hiểu ý, Thôi Ninh đang sử dụng một chút thủ đoạn, thật làm cho hắn yêu mến.
Dựa theo thói quen bình thường, hắn luôn tới chỗ Bùi Oánh ăn cơm tối trước, sau đó mới quyết định nghỉ đêm tại đâu. Hôm nay cũng không ngoại lệ, hắn vừa đi vào tẩm cung Bùi Oánh, Bùi Oánh đã sớm ra đón, phía sau nàng còn có Hàn Quốc Công chúa Lý Tố, nàng liền tiến lên thi lễ với Trương Hoán:
" Lý Tố tham kiến hoàng huynh."
Trương Hoán khoát khoát tay, cười ha ha nói:
" Trẫm nghe nói ngươi bình an trở về, nội tâm vô cùng thoải mái, đêm nay trẫm muốn uống một chút rượu, ăn mừng một chút."
" Hoàng thượng lại đang kiếm cớ uống rượu."
Bùi Oánh tỏ vẻ mất hứng, nhưng cũng chỉ một lát, sau đó nàng cũng không nhịn được cười.
" Vậy uống ít một chút, nô tì giúp hoàng thượng hâm nóng rượu."
" Chờ một chút."
Trương Hoán giữ nàng lại cười nói:
" Hay là gọi mọi người đến cùng nhau uống một chén, được không?"
" Ngày mai mọi người sẽ cùng nhau uống rượu. Hiện tại các nàng đều đang học dệt vải, rất hào hứng, nhất là Bình Bình. Ngô tú nương là người quen biết cũ của nàng, cho tới bây giờ cũng không chịu ngồi yên, đang rất chăm chú học dệt vải sa mỏng."
Bùi Oánh lắc đầu cười nói.
" Tiểu muội sẽ không quấy rầy hoàng huynh uống rượu."
Lý Tố lại thi lễ một cái, muốn cáo từ.
" Hoàng tẩu."
Lý Tố mặt đột nhiên ửng hồng, nói nhỏ bên tai Bùi Oánh.
" Vừa rồi chuyện kia nhất định không được nói ra."
" Ta biết rồi, ngươi mau đi đi."
Bùi Oánh mập mờ nhìn nàng nháy mắt mấy cái. Lý Tố mặt đỏ bừng xoay người rời đi.
Trương Hoán cười cười, nhưng không hỏi kỹ, hắn đi vào ngồi xuống, Bùi Oánh gọi một bàn thức ăn, cùng một bầu rượu, ngồi bên cạnh hắn, nàng nghiêng người rót rượu, vừa nói:
" Lý Tố trở về từ Hồi Hột, vậy hôn nhân với người Hồi Hột còn tính không?"
" Người đều đã chết, hôn nhân đương nhiên hủy bỏ."
Trương Hoán một hơi uống cạn sạch rượu trong chén, cười nói:
" Minh Viễn cũng vừa hỏi trẫm vấn đề này, huynh muội các ngươi sao lại có cùng suy nghĩ như vậy."
" Minh Viễn cũng đã hỏi sao?"
Bùi Oánh cảm thấy hứng thú, nàng đột nhiên giống như đứa trẻ mười tuổi, ghé vào trước mặt Trương Hoán hưng phấn hỏi tiếp:
" Nói cho thiếp. Minh Viễn lúc đề cập chuyện của Lý Tố có thái độ gì không?"
Trương Hoán kinh ngạc cực kỳ, hắn dừng lại chén rượu trong tay hỏi:
" Nàng có ý gì?"
Hắn chợt nhớ vừa rồi Lý Tố bộ dáng ngượng ngùng, trong trong lòng liền hiểu đôi chút, cười nói:
" Chẳng lẽ nàng muốn làm hồng nương sao?"
Bùi Oánh một lúc lâu không nói gì, thê tử của huynh trưởng mấy năm trước đã qua đời, sau đó liền không tái giá, hắn lại chỉ có một nữ nhi, mà hắn lại là gia chủ Bùi gia, sao có thể không có con nối dòng. Vì chuyện này, Bùi Oánh đã khuyên bảo huynh trưởng không biết bao nhiêu lần, cho dù nạp thiếp cũng được, nhưng lại luôn bị hắn nhã nhặn từ chối, trong lòng hắn chỉ có một thê tử đã mất. Việc này đã trở thành đại sự của Bùi gia, hôm nay nói chuyện phiếm cùng Lý Tố, nàng luôn nói bóng gió chuyện của Bùi Minh Viễn. Điều này khiến cho Bùi Oánh hoài nghi, nhưng nàng cũng không muốn truy vấn. Bọn họ lúc đó quả thực có chút manh mối, vì thế Bùi Oánh hào hứng dạt dào, nhưng hiện tại lời nói của trượng phu lại làm Bùi Oánh như bị tạt một chậu nước lạnh. Nàng thoáng cái thanh tỉnh, đúng vậy, mấu chốt là Lý Tố có thân phận công chúa, huynh trưởng của mình làm sao có thể lấy nàng? Có thể sẽ ảnh hưởng đến tiền đồ của Bùi Minh Viễn.
Nghĩ vậy, nàng chăm chú nhìn trượng phu, hy vọng hắn có thể cho nàng một câu trả lời thuyết phục, Bùi Minh Viễn có thể không?
Ánh mắt thê tử tràn ngập mong đợi đương nhiên Trương Hoán hoàn toàn hiểu rõ, mấy chục năm trước thế gia sẽ không cùng tôn thất Lý thị liên hôn, bọn họ luôn bảo trì một tư thái cao ngạo, hoặc là thế gia nếu có liên hôn, hiện nay triều chính thế gia đã suy sụp, nhưng cũng chưa bị tiêu vong, đệ tử bọn họ lại có khả năng khống chế địa phương rất lớn. Bọn họ có được ưu thế mà không có người dân bình thường nào có được, có thể bồi dưỡng ra một lượng lớn nhân tài vĩ đại. mặc dù hắn đã quản lý trường học, các môn học và các phương diện khác đã có sự thay đổi rõ rệt. Tuy nhiên hắn cũng biết tình huống này cần thời gian ít nhất phải chục năm, nếu Bùi Minh Viễn lấy Lý Tố, chỉ sợ không phải mình sốt ruột, mà là những thế gia kia vẫn ngoan cố nghĩ đến lợi ích bản thân như cũ mà thôi.
" Chuyện này trẫm sẽ không can thiệp, cũng không hỏi đến."
Trương Hoán khẩu khí vô cùng bình thản, hắn uống một chén rượu, từ từ nói với Bùi Oánh.
" Trẫm đã quyết định, điều Minh Viễn tới Ích Châu làm thứ sử kiêm tiết độ sứ Kiếm Nam, năm ngày sau chính thức đi nhậm chức."
Ăn cơm nghỉ ngơi xong, Trương Hoán đứng dậy đi tới tẩm cung Thôi Ninh, hắn vừa vào liền nghe thấy bên trong có người thông báo:
" Nương nương, bệ hạ tới."
Ngay sau đó Thôi Ninh nhanh chóng chạy ra, nhưng trong ánh mắt nàng không phải là kinh hỉ cùng quyến luyến, mà là một loại lo lắng thậm chí sợ hãi. Đúng vậy thần sắc nàng lúc này tựa như một hài tử bị mất đồ chơi.
" Ninh nhi, xảy ra chuyện gì?"
Trương Hoán vội vàng đỡ nàng, kinh ngạc hỏi.
Thôi Ninh nắm chặt tay Trương Hoán, run rẩy nói:
" Hoán lang, Thôi Diệu còn cơ hội không?"
" Là ai nói cho ngươi biết việc này?"
Trương Hoán trong lòng có chút không vui, chuyện này hắn đã biết từ tháng mười hai do Toái Diệp phát cấp báo tới. Lúc ấy hắn cũng sợ Thôi Ninh và Thôi Viên biết rõ bệnh thêm tình nguy kịch nên một mực giấu diếm đến nay, thậm chí cả Bùi Oánh cũng không nói, không nghĩ tới Thôi Ninh lại biết, chuyện này là ai tiết lộ ra?
Trương Hoán lạnh lùng quay đầu liếc mắt nhìn mấy người phía sau, bọn họ đều sợ tới mức cúi đầu, nơm nớp lo sợ không ai dám thở mạnh.
" Hoán lang, ai nói cho ta biết ngươi cũng đừng hỏi đến, mấu chốt là Thôi Diệu có thể cứu về hay không?"
Thôi Ninh đã lo lắng tới cực điểm, nàng vốn muốn hỏi liệu Thôi Diệu còn sống không, nhưng nàng lại không dám nghĩ tới điều đó. Nàng dùng ánh mắt cầu xin nhìn trượng phu, hi vọng hắn có thể cho mình một đáp án thuyết phục.
Trương Hoán nhìn về phía Thôi Ninh ánh mắt đã trở nên ôn nhu, hắn có thể cảm nhận được sự khẩn trương trong lòng Thôi Ninh. Phụ thân nàng trước khi lâm chung đã phó thác chuyện Thôi Diệu cho nàng, nếu như Thôi Diệu gặp chuyện không may, nàng sẽ không thể nào cho cha mình một cái công đạo, Trương Hoán vỗ nhẹ tay nàng
" Chúng ta vào trong nói."
Hắn nắm tay Thôi Ninh vào bên trong, Trương Hoán ngồi xuống, ôm eo nàng thành khẩn nói:
" Nàng biết không? Lúc trẫm nghe nói Thôi Diệu bị bắt cũng vô cùng khẩn trương, trẫm cũng rất lo lắng hắn sẽ bị nguy hiểm, về sau khi trẫm biết hắn bị A Cổ Thập đưa tới Ba Cách Đạt, trẫm liền biết, ít nhất tính mạng của hắn vẫn được bảo vệ. Mặc dù trẫm chưa từng gặp qua người Calipha, nhưng hắn là vua một nước lớn, nếu như ngay cả một sứ giả cũng không thể tha, vậy hắn căn bản không thể khống chế một quốc gia lớn như vậy. Cũng giống như trẫm không giết A Cổ Thập, cuối cùng cũng thả hắn đi. Thôi Diệu nhất định cũng sẽ được phóng thích, khi hai nước kết thúc chiến tranh sẽ là thời điểm giải quyết chính trị, để giải quyết rất nhiều vấn đề tồn tại, kể cả việc trao tù binh. Tạm thời biên giới đã xác định, việc phóng thích Thôi Diệu sẽ được đưa ra trong khi đàm phán, cho nên nàng yên tâm, trẫm nhất định sẽ đưa hắn về. Hắn không chỉ là cháu ái phi của trẫm, quan trọng hơn hắn là sứ thần Đại Đường, điều này quan hệ đến tôn nghiêm đế quốc Đại Đường, nếu như hắn không trở lại, Bạt Hãn Na sẽ không chính thức tâm phục khẩu phục trẫm.
Tháng ba sông Y Lệ đang vào độ xuân, thảo nguyên mênh mông dần dần chuyển sang màu xanh đậm, gió phất phơ, khí hậu ấm áp dào dạt trời đất. Sáng sớm hôm nay, sương trắng bao phủ trên thảo nguyên, từ xa, tiếng vó ngựa dồn dập phá tan sự yên lặng trên thảo nguyên. Một con khoái mã xuất hiện trong đám sương, chạy như bay về phía Yêu Long thành, trên lưng ngựa Nhĩ Ban Đức cắn chặt môi, ánh mắt vì kích động phẫn nộ mà trở nên tuyệt vọng, hắn liều mạng quất roi ngựa, con chiến mã cuồng lên chạy như gió ào ào bay vào Yêu Long thành.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 42: Phiền não của Lạp Hi Đức
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Thành Yêu Long một lần nữa đã bị quân Đường khống chế, sau khi chiến tranh kết thúc, rất nhiều cư dân tị nạn theo quân Đường xuôi nam về nhà mình, sau đó xây dựng lại, trùng tu nhà cửa, bến tàu đệ nhất quân Đường xây cũng hoàn công thuận lợi, hai mươi thuyền vận chuyển cũng thuận lợi khởi hành. Việc tu sửa bến tàu khiến cho Yêu Long thành và sông Y Lệ nối liền với nhau. Tuy nhiên đây chỉ là bước đầu tiên của quân Đường, sau khi khống chế hoàn toàn khu vực sông Y Lệ, quân Đường sẽ tiến hành bước tiếp theo là khuếch trươngvề Di Bá hải, hoàn thành chiến lược bao vây Hồi Hột từ phía tây.
Hiện tại binh mã trong Yêu Long thành đều do đô úy Thi Dương tướng quân nắm giữ. Vị tướng quân trẻ tuổi này sau khi tốn nhiều mồ hôi công sức lập nên rất nhiều đại công, nhưng cũng không vì thế mà được thăng chức nhanh chóng, chức vị của hắn không thay đổi. Từ A Sử Bất Lai thành được điều về làm binh mã sứ Yêu Long thành. Thu hoạch duy nhất chính là chức quan nhỏ Ninh Viễn tướng quân, đây chỉ là chức võ quan hàm ngũ phẩm. Phong thưởng như vậy rõ ràng không xứng với công lao của Thi Dương, ngay cả trợ thủ của hắn Lại Kim Lân cũng đã được thăng làm đô úy tướng quân. A Sử bất lai thành binh mã sứ, có rất nhiều người trong quân đội thông cảm với Thi Dương. Tuy nhiên bản thân Thi Dương lại hết sức cao hứng, hắn rốt cục có thể ngồi vững vàng trên vị trí đô úy tướng quân, tương lai cũng không có bất luận kẻ nào có thể nói rằng hắn là vì thân phận bối cảnh mà được thăng chức. Đây mới là chuyện hắn coi trọng, về phần bị điều tới làm binh mã sứ Yêu Long thành, Thi Dương trong lòng càng rõ ràng, sau khi Đại thực chinh chiến qua đi, kế tiếp sẽ tới phiên Đại Đường và Hồi Hột phản chiến, mà Yêu Long thành là một trong những cứ điểm quan trọng của người Hồi Hột, đem hắn điều đến Yêu Long thành chính là muốn đem lại một cơ hội cho hắn lập công.
Đêm qua hắn được thám báo báo tin, sông Yêu Long đã có dấu hiệu tan tuyết, nếu như tuyết trên sông Yêu Long tan, như vậy có thể chính thức hành động rồi, lợi dụng đường sông vận chuyển vật tư qua sông Yêu Long.
Sáng sớm hôm sau Thi Dương liền suất lĩnh năm trăm kỵ binh chuẩn bị tự mình đi quan sát tình hình tuyết tan dọc ven sông. Đội kỵ binh vừa chạy ra khỏi khu rừng rậm, đằng sau liền truyền đến tiếng vó ngựa gấp gáp:
" Thi tướng quân, Thi Dương!"
Nghe được có người gọi hắn, Thi Dương quay đầu lại nhìn, liền thấy cách xa vài dặm có một con ngựa đang chạy tới, lập tức có người phất cánh tay, trong rừng rậm tối tăm không nhìn rõ hình dáng của người kia.
Chiến mã phi tới rất nhanh, cưỡi trên chiến mã chính là một người Hiệt Kiết Tư tên là Khố Nhĩ Ban Đức, thần sắc có chút lo lắng, hắn không phải tới A Sử Bất Lai thành sao? Sao lại tới đây làm gì? Chẳng lẽ đã có chuyện gì xảy ra? Thi Dương không nghĩ ra lý do gì khiến cho Khố Nhĩ Ban Đức lại lo lắng như vậy, hắn dừng chiến mã lại, đợi Khố Nhĩ Ban Đức đi đến.
" Thi tướng quân, Cổ Đại đã tới Ba Cách Đạt, ta không sao ngăn được nàng, ngươi đi đem nàng trở về đi."
Khố Nhĩ Ban Đức vô cùng kích động, lời nói cuối cùng của Cổ Đại vẫn còn quanh quẩn bên tai hắn:
" Khố Nhĩ đại ca, ngươi trở về đi! Đi chiến đấu cùng người Hiệt Kiết Tư đi, đi theo nữ nhân, ngươi vĩnh viễn cũng không trở thành anh hùng được."
Lời nói của Cổ Đại đánh thật mạnh vào tự tôn của Khố Nhĩ Ban Đức, vì thế, hắn phải nhanh chóng trở về thảo nguyên để thành anh hùng. Tuy hắn không yên lòng về Cổ Đại, nên đã tìm Thi Dương thương lượng, hắn hi vọng Thi Dương có thể phái người đi ngăn chặn Cổ Đại, bất luận thế nào cũng không cho nàng đi Ba Cách Đạt mạo hiểm.
" Thi tướng quân có thể gửi thư choquân Đường ở Thạch quốc không, để cho bọn họ chặn Cổ Đại lại, nàng một mình đi Ba Cách Đạt, thật sự quá nguy hiểm."
Trầm mặc nửa ngày, Thi Dương mới cười nhạt một tiếng nói:
" Ngươi nghĩ rằng ta và ngươi có thể ngăn nàng được sao? Huống hồ nàng biết rõ mọi chuyện nhưng một tháng sau mới đi tìm tình lang của mình, như vậy nàng đã xác định có sự lựa chọn kỹ càng, ta lấy lý do gì không cho nàng đi?"
Thái độ lãnh đạm của Thi Dương chẳng khác nào cho đối phương một chậu nước lạnh, hắn ngơ ngác đứng tại chỗ, có chút ngẩn ngơ không hiểu, thầm nghĩ nửa muốn đuổi theo Cổ Đại, nhưng hắn lại không có dũng khí này, thật là muốn quay lại Hiệt Kiết Tư. Trong lòng hắn không nỡ dứt đoạn tình duyên này, Thi Dương tựa hồ hiểu được tâm tư của hắn, nặng nề vỗ bả vai Khố Nhĩ Ban Đức:
" Ngươi theo ta."
Hắn thúc chiến mã đi lên một ngọn núi nhỏ, một ngón tay chỉ vào ánh bình minh phía Đông, nói với Khố Nhĩ Ban Đức:
" Ngươi thấy không, trời đất bát ngát vô cùng, mặc chúng ta tung hoành ngang dọc, lòng của chúng ta tại sao lại bởi vì một nữ nhân mà tâm tư tiều tụy, ta và ngươi đều là nam nhân, đại trượng phu cần đứng trên chiến trường kiến công lập nghiệp, lo gì không có vợ, ngươi trở về Hiệt Kiết Tư đi! Hi vọng chúng ta có thể gặp mặt trên chiến trường để càn quét Hồi Hột."
Thi Dương kích thích nhiệt huyết của Khố Nhĩ Ban Đức, hắn nhìn thảo nguyên mênh mông khôn cùng ở phía xa, đột nhiên ngửa mặt lên trời thét dài một tiếng, tiếng kêu sắc nhọn vang vọng xung quanh, hắn lập tức phóng ngựa lao xuống núi, phi về hướng phía Bắc xa xôi.
" Ngươi hãy nhớ, sẽ có một ngày, ta sẽ dùng máu kẻ thù nhuộm đầy chiến đao khiến ngươi hiểu rõ người anh hùng Hiệt Kiết Tư là thế nào?"
Ngoại thành Ba Cách Đạt người người hối hả, các tiểu thương rao hàng liên tiếp, các đội lạc đà vận chuyển hàng hóa đang trên đường hành tẩu, có đủ dạng người, đủ loại ngôn ngữ, đây là đô thị mang tính quốc tế. Thôi Diệu đang mặc một y phục màu đen của người Đại Thực cưỡi trên lạc đà, ung dung đi về phía thành. Hắn đã ở Đại Thực suốt nửa năm, ngôn ngữ đã không còn là trở ngại với hắn nữa. Hắn không chỉ có thể nói lưu loát tiếng A rập, thậm chí còn có thể sử dụng tiếng A rập sáng tác thơ văn. Hắn giới thiệu thi phú cùng lịch sử Trung Nguyên cho người Đại Thực, vì thế Ba Các Đạt còn mở một tiệm sách chuyên về lịch sử Đông Phương cho hắn, có hơn một ngàn con cháu danh môn học qua ngành này. Mấy tháng qua, Thôi Diệu đã bắt đầu có danh tiếng tại xã hội thượng lưu Ba Cách Đạt, được người Ba Cách Đạt vinh danh là ngôi sao mới nổi của Đông Phương.
Chiến tranh chấm dứt đã hơn bốn tháng, sau khi chiến bại, Ba Cách Đạt lâm vào tình trạng bi thảm, giá hàng tăng cao, trên phố lớn ngõ nhỏ đều có thể nghe thấy tiếng người khóc, chiến tranh thất bại chẳng những không có ảnh hưởng đến việc dạy học của hắn, hơn nữa vì trận chiến này mọi người càng bắt đầu chú ý tới Đại Đường. Những học sinh của Thôi Diệu bắt đầu từ một ngàn người tăng lên thành năm ngàn người. Đại điện để dạy học lúc ban đầu nay đã không đủ chỗ ngồi, hắn liền sửa thư viện thành chủ điện để dạy học, mỗi tuần dạy hai lần.
Thôi Diệu ở tại nhà của Mục Tháp đại thúc ở ngoại thành, Mục Tháp đại thúc đã đi Mã Nhĩ Hãn từ hai tháng trước để mua hàng, sau chiến dịch Toái Diệp, mặc dù những học sinh của hắn không ngại hắn là người Đại Đường, nhưng dân chúng ở Ba Cách Đạt thì chưa chắc đã không mang thù. Nhất là những thân nhân của binh lính chết nơi chiến trận, hận không thể cho hắn một đao. Bởi vậy, Thôi Diệu hàng ngày đều dùng khăn đen che mặt, đi lại cùng ăn ở đều ở bên trong thư viện.
Hôm nay không phải ngày dạy học, hắn giống như thường ngày chuẩn bị đi vào thư viện trong thành đọc sách. Hắn cưỡi lạc đà vừa đi tới cửa thành đột nhiên nghe thấy có sau lưng có người gọi:
" Thôi tiên sinh."
Thanh âm nhu hòa, là một nữ nhân trẻ tuổi.
Thôi Diệu quay đầu lại, chỉ thấy đằng sau là một chiếc xe ngựa cực kỳ hoa lệ. Xe ngựa dừng lại trước mặt hắn, trong xe lộ ra một khuôn mặt mỹ lệ, nàng ước chừng khoảng hai mươi tuổi, mỉm cười mê người, hàm răng xinh đẹp, lông mi đen nhánh, con ngươi màu lam, tóc màu nâu dài bao phủ bởi một tấm vải lưới bên ngoài. Thôi Diệu biết nàng, nàng là A Ba Tái, là muội muội của Lạp Hi Đức Calipha, cũng là công chúa được Lạp Hi Đức sủng ái nhất, thậm chí còn hơn cả con gái của hắn. Vì khiến nàng có thể vĩnh viễn ở tại bên người, Lạp Hi Đức thậm chí còn không cho phép nàng kết hôn lập gia đình, chỉ có một trượng phu trên danh nghĩa.
A Ba Tái cũng là một trong những đệ tử của Thôi Diệu, tuy nhiên nàng lại học Hán ngữ, đây là do nàng có tình yêu nhiệt tình với thơ ca Đại Đường, sùng bái nhất là thơ Lý Bạch. Vì để hiểu sâu sắc việc phẩm trà bình thơ Đường, nàng liền bắt đầu học Hán ngữ từ Thôi Diệu.
" Hôm qua ta học được một bài thơ Lý Bạch, ngươi nghe xem có đúng hay không?"
A Ba Tái giống như một đứa trẻ đọc thuộc lòng Hán ngữ:
" Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, cúi đầu nhớ cố hương."
" Rất tốt! Rất tốt!"
Trong xe đột nhiên có người vỗ tay, lúc này Thôi Diệu mới phát hiện trong xe ngựa còn có một người, là một nam nhân cực kỳ đẹp, làn da trắng nõn, khoảng chừng 30 tuổi, trong mắt mang theo một loại mộng ảo mê võng. Thôi Diệu cũng biết hắn, hắn tên là Triết Nhĩ Pháp Nhĩ, là con trai thứ của Cáp Nhã, cũng là tổng quản thuế vụ của A Bạt Tư, nắm quyền tài chính to lớn của cả nước. Mặt khác hắn cũng là thi nhân cùng nhà văn nổi danh nhất Ba Cách Đạt, viết chữ rất đẹp, hắn có chút lập dị, nhưng lại trở thành một điểm khác biệt. Ví dụ như cổ của hắn rất dài, quanh năm luôn mặc một kiểu quần áo cao cổ, kết quả loại quần áo cao cổ này liền trở thành kiểu dáng thịnh hành tại Ba Cách Đạt, lưu hành suốt một năm. Đến nay trào lưu đã hết, Triết Nhĩ Pháp Nhĩ cũng là một trong những đệ tử của Thôi Diệu, mỗi lần hắn giảng bài đều đến đúng giờ, chăm chú nghe giảng. Thực tế, hắn rất thích nghe Thôi Diệu giảng giải sử ký, quan hệ cá nhân với Thôi Diệu cũng rất tốt.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 42: Phiền não của Lạp Hi Đức (b)
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Triết Nhĩ Pháp Nhĩ cùng A Ba Tái ngồi cùng xe ngựa là vì hắn chính là trượng phu trên danh nghĩa của A Ba Tái. Bọn họ cũng không ở cùng một chỗ, bình thường cũng cực ít khi gặp mặt nhau, chỉ có khi nào trong cung cử hành yến hội long trọng, hắn mới lấy danh nghĩa trượng phu của A Ba Tái cùng nàng ngồi chung, tuy nhiên hôm nay hắn gặp A Ba Tái trên đường, nên mời nàng ngồi cùng xe ngựa với mình.
Nghe thấy Triết Nhĩ Pháp Nhĩ tán dương mình, A Ba Tái đỏ mặt, nàng kiều mỵ liếc nhìn hắn, lén bấm tay hắn một cái. Mặc dù động tác rất nhỏ, nhưng vẫn bị Thôi Diệu nhìn thấy. Hắn ra vẻ không thấy, thi lễ khẽ cười với Triết Pháp Khúc Nhĩ nói:
" Triết Nhĩ Pháp Nhĩ, lần trước ta đề cập tới phương pháp in ấn, ngươi đã thuyết phục phụ thân chưa?"
Thôi Diệu nói tới phương pháp in ấn chính là thuật in ấn của Đại Đường. Kỳ thật từ vài thập niên trước sau chiến tranh Đát La Tư Chi, do tù binh quân Đường rơi vào tay Đại Thực, nhưng lại không được người Đại Thực tiếp nhận, chủ yếu là giáo hội Đạo Hồi phản đối, các trưởng lão cho rằng, chỉ có lấy tay sao chép mới thể hiện sự tôn trọng với thực chủ, cho nên thuận in ấn tuy đã sớm được biết đến, nhưng vẫn chưa được chọn dùng. Tuy nhiên từ sau khi Lạp Hi Đức chấp chính đã tiến cử văn hóa phương Đông, các nền văn hóa tại Ba Cách Đạt giao hòa, bản thân hắn cũng không bài xích thuật in ấn. Nhưng quyền thần Diệp Cáp Nhã lại phản đối, vì ấn chế sách giáo khoa lịch sử, Thôi Diệp liền thỉnh cầu Triết Nhĩ Pháp Nhĩ, hy vọng hắn có thể thuyết phục phụ thân của mình để có được giấy phép đặc biệt sử dụng thuật in ấn.
Triết Nhĩ Pháp Nhĩ gật đầu nói:
" Ngay cả ta cũng không nghĩ tới sẽ thuận lợi như thế, phụ thân liền đáp ứng, không chỉ có đồng ý in ấn sách giáo khoa lịch sử của tiên sinh, ông ấy còn đồng ý mở rộng thuật in ấn tại Đại Thực, cũng quyết định tự mình làm sứ giả, tháng năm xuất phát tới Đại Đường cùng hội đàm với hoàng đế bệ hạ của các ngươi."
Thôi Diệu yên lặng gật đầu, đây là biến hóa do chiến tranh mang lại, chiến bại ở Toái Diệp khiến người Đại Thực từ trước chưa từng coi trọng Đại Đường, nay đã vài thập niên qua rồi người Đại Thực rốt cục cũng tiếp nhận thuật in ấn.
Lúc này, một con khoái mã từ trong thành chạy tới, trên ngựa là quan thị vệ của Lạp Hi Đức, hắn trông thấy Thôi Diệu, liền ghìm chặt chiến mã, lớn tiếng nói:
" Thôi tiên sinh, ta đang muốn đi tìm ngươi, Calipha bệ hạ muốn triệu kiến ngươi, lệnh cho ngươi lập tức tiến cung."
Thôi Diệu lập tức nói với A Ba Tái:
" Chiều nay vẫn còn thời gian giảng bài, ta sẽ dạy ngươi một bài thơ khác của Lý Bạch: " Tương tiến tửu" . Hy vọng công chúa có thể đến đúng giờ."
Sau đó, hắn lại hướng Triết Nhĩ Pháp Nhĩ thi lễ rồi đi theo quan thị vệ. Thôi Diệu vừa đi, Triết Nhĩ Pháp Nhĩ lập tức tức giận tái mặt nói với A Ba Tái:
" Vừa rồi cử động của ngươi thực liều lĩnh, nếu như bị người khác chứng kiến báo với Calipha, hắn sẽ hoài nghi quan hệ chân thật của chúng ta, hậu quả sẽ rất nghiêm trọng, ngươi hiểu chưa?"
Trong vương cung Đại Thực, Lạp Hi Đức đang chăm chú nhìn một người thợ Đột Quyết đang trong quá trình chế tác cung tiễn, chiến dịch Toái Diệp thảm bại khiến cho Lạp Hi Đức phải bắt đầu kiểm điểm lại toàn diện sự chênh lệch giữa Đại Thực và Đại Đường, về phương diện vũ khí sát thương, quân Đường có pháo Thiên lôi, nhưng bọn hắn cũng có lửa Hy Lạp, hai cái đều có uy lực không kém nhau. Nhưng trong phương diện cận chiến, quân Đường có hoành đao, bọn họ cũng có loan đao, chất lượng sàn sàn như nhau, mấu chốt chính là khả năng công kích từ xa. Đại Thực dùng mâu rõ ràng kém hơn cung tiễn của quân Đường, khi chiến đấu đây lại là khuyết điểm lớn, khiến cho quân Đại Thực trả một cái giá lớn, thậm chí đây chính là nhân tố trọng yếu trong sự thất bại chiến tranh lần này. Vì thế, hắn rút ra bài học kinh nghiệm xương máu, quyết định bỏ mâu mà đổi sang dùng cung tiễn. Đây không chỉ để đối phó với quân Đường, Lạp Hi Đức ý thức được, cung tiễn của quân Đường có lực xuyên thấu rất mạnh, như vậy có thể giúp hắn chiến thắng Bái Chiêm Đình và vương quốc Pháp Lan Khắc.
Trình độ chế tác cung tiễn của người Đại Thực cũng không cao, người Ai Cập mạnh hơn một chút, nhưng so ra vẫn là kém hơn trình độ chế cung của quân Đường. Tuy nhiên người Đột Quyết lại có thể phỏng chế ra loại cung tiễn sắc bén như Đại Đường, vì thế, Lạp Hi Đức mời một người thợ Đột Quyết kỹ thuật cao thâm giúp hắn vẽ bản vẽ chế tác cung.
" Calipha bệ hạ, đây là cung tiễn quân Đường sử dụng phổ biến, bọn họ bình thường chỉ dùng gỗ cùng gân động vật để chế tác, chúng ta có thể chọn dùng gỗ cao su hoặc là tuyết tùng cũng có thể, theo định hình, xoắn gân, thượng huyền, cuối cùng uốn thành cung ước chừng cần thời gian hai năm, tuy nhiên kỳ thật cũng tiễn cũng không phải là vũ khí sắc bén nhất của Đại Đường."
Lạp Hi Đức vừa nghe, lông mày nhăn lại một nhúm, làm ra một cung tiễn như quân đội Đại Đường lại cần thời gian những hai năm, nhưng lại không phải vũ khí sắc bén nhất, nhất thời hắn trầm mặt xuống, không vui nói:
" Vũ khí sắc bén nhất là cái gì, ngươi vì sao không vẽ ra?"
Người thợ người Đột Quyết thấy khẩu khí của Calipha bất mãn, hắn sợ hãi đáp:
" Hồi bẩm bệ hạ, vũ khí sắc bén nhất của quân Đường thực ra là nỗ, không chỉ có thể bắn tầm xa, hơn nữa lực xuyên thấu rất mạnh, ty chức cũng chỉ biết một chút, chỉ sợ không làm ra được loại tên nỏ giống quân Đường."
" Vô luận thế nào, ngươi cũng phải thử một lần, muốn dùng bao nhiêu tài lực ta cũng có thể cho ngươi, làm ra được ta có trọng thưởng, cho ngươi thăng quan tiến chức, nếu không làm ra được, ta sẽ lấy đầu của ngươi."
Lạp Hi Đức nói xong, nổi giận đùng đùng xoay người rời đi.
Mấy ngày nay, Lạp Hi Đức tâm tình quả thực không tốt, sau trận chiến Toái Diệp thất bại, quyền uy của hắn bị khiêu chiến nghiêm trọng, Diệp Cáp Nhã nhân cơ hội khơi mào gây rối loạn giữa người Ai Cập với người Hô La San , vì để dẹp loạn thế cục nghiêm trọng này, hắn bị ép nhượng quyền, bổ nhiệm tổng đốc Hòa Á Mỹ cùng Á tổng đốc thành Đô Hoán là tâm phúc của Diệp Cáp Nhã, đồng thời bổ nhiệm trưởng tử Pháp Đức Lặc làm quan tư pháp cao nhất, hơn nữa còn phong Triết Nhĩ Pháp Nhĩ con thứ làm quan thuế vụ, điều này khiến cho cả gia tộc Bá Nhĩ Mạch Khắc cơ hồ khống chế toàn bộ quyền lực đế quốc, mà Lạp Hi Đức quả thực không muốn trở bù nhìn của gia tộc này.
Lạp Hi Đức vừa đi tới cung điện của mình, quan thị vệ đã vội vàng ra chào đón:
" Calipha bệ hạ, Thôi tiên sinh đã tới, đang ở ngoài hậu cung."
Lạp Hi Đức nhẹ gật đầu:
" Đưa hắn vào trong điện của ta."
Hắn đẩy cửa cung, xuyên qua đại cung điện tiến vào một cái cửa nhỏ, đây là nội cung của hắn, tương đương với ngự thư phòng trong Đại Minh cung, là nơi hắn thường xử lý quốc sự. Bình thường trong nội cung có hai hoạn quan da đen phụ trách quét dọn, bọn họ đều không biết chữ, không có khả năng tiết l bí mật của hắn.
Lạp Hi Đức đi tới trước bàn ngồi xuống, trên bàn bày một số báo cáo, phần lớn là tình huống từ các nơi báo vệ, tuy nhiên có một báo cáo hấp dẫn sự chú ý của hắn, Diệp Cáp Nhã tháng năm tới muốn đi Đại Đường trao đổi tù binh. Như vậy chỉ còn hai tháng nữa, Lạp Hi Đức tựa hồ đang nghĩ tới điều gì, lại nhất thời chưa nghĩ ra.
Khi hắn đang trầm tư, cửa nội cung đột nhiên mở ra, quan thị vệ dẫn Thôi Diệu đi tới:
" Bệ hạ, hắn đã đến."
Thôi Diệu tiến lên một bước, hướng hắn thi lễ nói:
" Tham kiến Calipha bệ hạ."
Lạp Hi Đức đang suy nghĩ bị cắt đứt, hắn cười khoát tay nói:
" Ngươi ngồi xuống đi."
Quan thị vệ đem ghế mang lên, trong nội cung cũng chỉ còn lại có Lạp Hi Đức và Thôi Diệu hai người, Lạp Hi Đức tự tay rót cho hắn một chén trà, cười nói:
" Hiện tại tất cả mọi người đều gọi ngươi là Thôi tiên sinh, xem ra ngươi rất được hoan nghênh."
" Bệ hạ quá khen."
Thôi Diệu khẽ khom người khiêm tốn nói:
" Chủ yếu là do mọi người cảm thấy hứng thú đối với lịch sử Đại Đường , từ ban đối có hơn trăm người nay đã có năm ngàn người, khiến cho ta không khỏi cảm khái Đại Thực quả là một quốc gia hiếu học."
" Ngươi rất biết cách nói chuyện."
Lạp Hi Đức ngồi xuống, hắn dựa lưng vào ghế, tựa hồ đang trầm tư chuyện gì đó, thật lâu sau, hắn mới khẽ mỉm cười nói:
" Ta đã xem qua một ít sách giáo khoa lịch sử Đông phương, nói thật, ta rất hứng thú với nhân vật Tần Thủy Hoàng của các ngươi. Ta khâm phục hắn có khí phách cùng thủ đoạn, đáng tiếc sách lịch sử của ngươi ghi lại quá đơn giản, đọc không thú vị gì, cho nên ta mời ngươi đến, muốn ngươi một mình giảng cho ta một chút, vị vĩ nhân khai sáng nhất thống lịch sử này leo lên ngôi vị hoàng đế thế nào."
Thôi Diệu nhẹ gật đầu.
" Bệ hạ muốn nghe từ đâu."
" Từ người thương nhân họ Lữ đi."
Thôi Diệu đi rồi, Lạp Hi Đức rơi vào trầm tư, hắn vừa nghĩ thông suốt một việc, vì sao Diệp Cáp Nhã lại đích thân đi Đại Đường. Hắn đi chính là muốn làm công tác chính trị, nói trắng ra là muốn cho người trong nước biết, Calipha trẻ người non dạ, chơi với lửa. Hiện tại chỉ có Diệp Cáp Nhã mới có thể thu thập tàn cuộc. Mà một khi Diệp Cáp Nhã cùng Đại Đường kết thúc đàm phán, đổi tù binh Đại Đường, danh dự của hắn sẽ càng mạnh, quyền nắm giữ càng lớn, cho dù không đổi được, cũng không phải là tội lỗi nặng nề gì với Calipha .
ng. Thực tế, hắn rất thích nghe Thôi Diệu giảng giải sử ký, quan hệ cá nhân với Thôi Diệu cũng rất tốt.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 43: Phát hiện ngoài ý muốn
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Chiến dịch Toái Diệp giống như một làn gió thổi tan đám sương mù, thoáng cái đem thế cục nghiêm trọng bày ra trước mặt Lạp Hi Đức. Tình thế này đã rất sáng tỏ, Diệp Cáp Nhã chính là Lữ Bất Vi của đế quốc A Bạt Tư, hắn thậm chí còn có quyền thế ngập trời hơn so với Lữ Bất Vi. Hắn nắm giữ quyền lực của cả đế quốc, thậm chí hai đứa con trai của hắn còn nắm giữ quyền sở hữu tài sản cùng quyền thẩm phán của đế quốc. Với bố cục này, nếu như mình chết đi, quyền lực to lớn cũng sẽ nằm trong người của gia tộc Ba Tư này. Lạp Hi Đức xoa huyệt thái dương, với thế cục nghiêm trọng như thế này, hắn phải làm sao mới có thể phá vớ thế cục này đây? Diệp Cáp Nhã, Lữ Bất Vi, hắn nghĩ đi nghĩ lại đến hai cái tên này, đột nhiên, trong đầu hắn hiện ra một người can đảm.
Dường như suốt cả buổi chiều và buổi tối, Lạp Hi Đức đều lo lắng về kế hoạch của hắn. Hắn cân nhắc hết lần này tới lần khác, tìm ra một lỗ hổng trong kế hoạch này, suy nghĩ đến hậu quả xấu sẽ xảy ra. Đến sáng sớm ngày hôm sau, hắn rốt cục hạ quyết tâm, nói với quan thị vệ:
" Bây giờ ngươi đi mời Thôi tiên sinh tới, ta có việc muốn thương lượng cùng hắn."
Sáng sớm, Thôi Diệu theo kế hoạch sẽ đi vào thư viện của đế quốc, tuy nhiên không phải là đi dạy lịch sử Đông phương, ngày mai mới có giờ dạy lịch sử của hắn. Hôm nay hắn muốn đi dạy thơ đường cho công chúa A Ba Tái, bù lại việc xế chiếu hôm qua bởi vì phải kể lại lịch sử thời Tần cho Calipha mà chậm trễ chương trình học. Nơi học là tòa nhà phía Đông của thư viện, đây là nơi các vương công quý tộc thường lui tới. Nói chung, con gái Đại Thực không có nhiều cơ hội được học hành, cơ hội bước ra ngoài cũng rất ít. Tuy nhiên công chúa A Ba Tái thì ngoại lệ, nàng được hưởng thụ hết thảy những thứ tốt đẹp, trong đó có cả sự giáo dục tốt nhất. Lạp Hy Đức mời toàn các thày giáo nổi tiếng trong nước A Bạt Tư đến dạy cho nàng, thậm chí cả trưởng lão giáo hội cũng tới giảng giải chân lý đạo Hồi cho nàng.
Cứ thế, công chúa A Ba Tái đã trở thành nữ nhân trẻ tuổi nhất có học vấn cao nhất trong nước, trở thành điểm sáng nhất tại Ba Cách Đạt khiến người ta chú ý. Trên người nàng tập trung mọi ánh sáng, hàng vạn sủng ái, vô số người muốn kết hôn với nàng, nhưng Lạp Hi Đức lại công bố với cả nước, A Ba Tái vĩnh viễn sẽ không trở thành tân nương.
Thân ảnh Thôi Diệu mới xuất hiện tại hành lang, lập tức có hai gã người hầu do công chúa cử đến mời hắn tới một gian phòng. Hắn vào trong gian phòng thấy công chúa A Ba Tái đợi hắn đã lâu.
" Thôi tiên sinh tới đây."
A Ba Tái vội vàng đứng dậy thi lễ với hắn, khác với ngày hôm qua, hôm nay nàng có vẻ đoan trang an tĩnh, trên mặt đeo một màn lụa mỏng màu đen, chỉ lộ ra một đôi mắt sáng ngời, khiến cho làn da vốn đã trắng nõn của nàng càng thêm nổi bật động lòng người, điều này cũng khiến cho Thôi Diệu có chút kinh ngạc. Hắn dạy nàng Trung văn và thơ Đường trong ba tháng, chưa bao giờ thấy nàng đeo mạng bảo vệ, hôm nay sao lại như vậy?
Thôi Diệu không nghĩ nhiều, hắn hạ thấp người đáp lễ nói:
" Chúng ta hãy bắt đầu thôi."
Hắn lấy từ trong người ra một quyển thơ Đường đã chép lại đưa cho A Ba Tái.
" Hôm nay chúng ta học bài thơ " Tương tiến tửu" của Lý Bạch."
Hắn đi tới ngồi đối diện với A Ba Tái, nghiêm nghị nói:
" Ngươi trước tiên đọc thử xem, có chỗ nào không đọc được không?"
A Ba Tái yên lặng nhìn qua một lần, bắt đầu lắp bắp đọc, nàng mới học Trung văn không lâu, chỉ có ba tháng, nàng cũng không giống như Thôi Diệu có ưu thế về ngôn ngữ A rập. Đọc xong hai câu trước, nàng liền không đọc nổi nữa, chỉ có thể cười áy này, đưa quyển thơ ra phía trước, ý bảo Thôi Diệu dạy nàng.
Kết quả này cũng nằm trong dự liệu của Thôi Diệu, hắn uống một ngụm trà, nhuận nhuận yết hầu rồi nói:
" Trong thờ Hoàng Hà có nghĩa là đối với người Hán chúng ta mẫu thân như sông, tựa như con sông Cách Lý Tư của Đại Thực, dòng sông chảy siết, khí thế hùng hồn, thi nhân dùng nó để mở đầu bài thơ, coi như có sự cách điệu trong thơ. Trước tiên chúng ta nói đến câu thơ quân không thấy Hoàng Hà như nước không lên trời, đổ vào sông không trở lại, câu này có nhiều tầng ý nghĩa, giống như gió bão mưa sa, chỉ có thể đón nhận không thể ngăn cản. Ngươi có thể cảm nhận được khí thế mưa gió trong câu thơ của Lý Bạch, cũng giống như tấm lòng bao la rộng lớn của Đại Đường chúng ta, ngươi đọc theo ta một lần."
" Bất kiến hoàng hà chi thủy thiên thượng lai. Bôn lưu đáo hải bất phục hồi."
A Ba Tái dùng âm Hán ngữ lắp bắp của mình để đọc câu thơ này, trong mắt nàng có sự mê mẩn, phảng phất như có thế thấy rõ khí thế của nước sông. Nàng đọc theo Thôi Diệu một lần, miễn cưỡng cũng đọc xong, ánh mắt nàng lập tức chuyển xuống câu phía dươi. Đột nhiên la hoảng lên, câu thơ phía dưới, có một nửa chữ hán nàng có thể đọc được.
Quân bất kiến cao đường minh kính bi bạch phát. Triêu như thanh ti mộ thành tuyết.
Không cần Thôi Diệu giải thích, nàng yên lặng ngẫm nghĩ thâm ý của câu thơ này, nhân sinh mấy chục năm phảng phất như cô đọng lại trong một câu thơ ngắn ngủi. " Triêu như thanh ti mộ thành tuyết" . Đây là kết cục làm mỗi một nữ nhân đều tan tác cõi lòng. A Ba Tái đột nhiên nghĩ tới bản thân mình, nghĩ tới huynh trưởng ra lệnh cấm vĩnh viễn không cho nàng lập gia đình. Đôi mắt nàng chậm rãi trở nên mê ly, một cảm giác đau thương hiện ra trong đôi mắt xinh đẹp của nàng.
Đột nhiên, A Ba Tái che miệng chạy tới góc tường, nàng cúi đầu nôn khan, thị nữ ở phía sau cũng sợ hãi, các nàng chạy tới trước mặt công chúa, một thị nữ nghẹn ngào nói:
" Công chúa, người mau về nghỉ ngơi, phản ứng hôm nay còn nặng hơn hôm qua."
A Ba Tái đang cúi đầu thắt lưng đột nhiên trở nên căng cứng, nàng chậm rãi ngẩng đầu, hung ác nhìn chằm chằm thị nữ lắm miệng kia, sắc mặt thị nữ trở nên trắng bệch, nàng lại quay mạnh đầu nhìn về phía Thôi Diệu.
Lúc này, Thôi Diệu không tự chủ được nhớ lại buổi sáng hôm qua khi A Ba Tái véo nhẹ mu bàn tay của Triết Nhĩ Pháp Nhĩ, đây là một động tác thân mật cực kỳ tự nhiên. Có thể bọn họ đang giấu một bí mật gì đó không để cho ai biết? Hắn đột nhiên cảm thấy chính mình đã phát hiện ra một bí mật xấu hổ của người khác.
Lúc này, ngoài cửa có người cao giọng nói:
" Thôi tiên sinh có ở trong phòng không?"
" Có! Có"
Thôi Diệu như tìm được cứu binh, đi tới mở cửa phòng ra, thấy quan thị vệ của Lạp Hi Đức đứng ngoài cửa, hắn cung kính thi lễ một cái:
" Thôi tiên sinh, bệ hạ cho mời người."
" Hảo! Ta đi luôn."
Thôi Diệu cuống quít không kịp thu hồi đồ vật, giống như chạy trối chết ra ngoài cửa.
" Thôi tiên sinh!"
A Ba Tái đột nhiên gọi hắn lại, Thôi Diệu lúc này mới nhớ tới chưa cáo từ nàng. Hắn vừa quay đầu lại, nhưng một câu cũng không nói ra lời, hắn nhìn thấy khuôn mặt tuyệt luân và một đôi mắt bao hàm nước mắt cùng sự cầu xin, cặp mắt kia cất giấu bao nhiêu sự bất đắc dĩ cùng thống khổ, Thôi Diệu dường như hiểu được điều gì, hắn yên lặng gật đầu bước nhanh đi.
Giờ đã là nửa đêm, Thôi Diệu lại lần nữa đi vào hoàng cung Đại Thực, tâm tình của hắn vô cùng phức tạp, hình ảnh A Ba Tái hai mắt đẫm lệ luôn xuất hiện trong đầu hắn. Hắn nghe nói Lạp Hi Đức đã từng hạ mệnh lệnh, mệnh lệnh tàn khốc này đều xuất phát từ tình yêu Lạp Hi Đức đối với muội muội, điều này làm cho Thôi Diệu nhớ tới tổ phụ đã từng sắp xếp một cuộc hôn nhân cho hắn, trong lòng hắn cũng cảm thấy rất bất đắc dĩ.
" Thôi tiên sinh, bệ hạ chờ ngươi trong phòng."
Quan thị vệ đẩy cửa ra, mỉm cười nói với Thôi Diệu.
Lúc này Thôi Diệu mới giật mình, hóa ra mình đã đến trước nội cung Lạp Hi Đức, hắn lập tức gạt đi chuyện của A Ba Tái sang một bên, đẩy cửa đi vào, trong phòng ánh sáng ảm đạm, màn đã buông xuống, Lạp Hi Đức chắp tay sau đít đứng bên cạnh một bức bản đồ thu nhỏ. Đây là bản đồ khu vực sông ngọc trai và Tây Vực Đại Đường, bên cạnh có treo bản đồ Đại Thực, tuy nhiên Lạp Hi Đức đang chăm chú nhìn vào bức Tây Vực Đại Đường, lâm vào trầm tư.
" Bệ hạ, người tìm ta có việc sao?"
Thôi Diệu thấp giọng cắt đứt sự trầm tư của Lạp Hi Đức, Lạp Hi Đức quay đầu lại, ôn hòa cười nói:
" Hai ngày liền liên tục gọi ngươi tới, thật sự xin lỗi."
" Bệ hạ không cần khách khí, có chuyện gì xin cứ nói."
Thôi Diệu cũng khách khí nói, hắn cho rằng hôm qua mình kể chuyện cho Lạp Hi Đức còn chưa rõ ràng, nên hắn lại đặc biệt sai người gọi mình tới lần nữa.
" Ta có một vài ý kiến muốn thảo luận cùng ngươi."
Lạp Hi Đức chỉ một cái ghế, cười nói:
" Chúng ta ngồi xuống rồi nói."
Thôi Diệu ngồi xuống, hắn có chút không hiểu ý của Lạp Hi Đức. Hắn có một khoảng thời gian ngắn không gặp mình, hai ngày nay lại liên tiếp gặp mặt, trong cái hồ lô này rốt cuộc có cái gì? Chẳng lẽ hắn muốn thả mình trở về, hay là hắn tự cho mình chính là Tần vương Doanh Chính? Các loại ý tưởng đan xen vào trong, khiến ánh mắt hắn không khỏi toát ra chút mê võng.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 43: Phát hiện ngoài ý muốn. (b)
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Lạp Hi Đức liếc nhìn hắn một cái, tựa hồ hiểu được Thôi Diệu đang nghĩ gì, hắn trầm ngâm một lúc, sau đó thẳng thắn nói:
" Thôi tiên sinh đã sống tại Ba Cách Đạt được nửa năm, ngôn ngữ tiến bộ nhanh chóng, ta nghe nói ngươi có rất nhiều sách về văn hóa Y Tư Lan ở thử viện. Ta đã định hỏi ngươi, ngươi cho rằng A Bạt Tư và Đại Đường nước nào cường thịnh hơn, tương lai sẽ là ai nuốt chửng ai, là quân đội Calipha của ta chiếm lĩnh Trường An, hay là hoàng đế Đại Đường các ngươi chiếm lĩnh Ba Cách Đạt, ta hy vọng ngươi nói thật, không cần bởi vì ngươi là người Đại Đường."
Kỳ thực vấn đề này Thôi Diễu vẫn luôn suy nghĩ, đây là sự va chạm giữa hai nước, đến tột cùng ai sẽ thắng? Vì thế hắn đại khái đã đọc một vài cuốn sách của Ba Tư hiểu được văn hóa của bọn họ, hiểu được lịch sử thậm chí tôn giáo của bọn họ, đồng thời cũng kết giao rất nhiều bằng hữu Đại Thực. Sự hiểu biết của hắn với Đại Thực ngày càng khắc sâu thì sự nghi ngờ của hắn càng thêm sâu đậm. Hiện tại Lạp Hi Đức là vua của một nước đột nhiên hỏi đúng vấn đề hắn vẫn luôn nghi hoặc trong lòng, giống như một luồng ánh sáng chiếu vào mắt hắn, khiến cho hắn mở rộng tầm mắt.
Hắn lập tức cười cười, nói:
" Nếu như Đại Thực giống người Hán chúng ta trong lịch sự là dân tộc du mục phương Bắc, tính tình dã man lại không có văn hóa, thêm nữa các ngươi còn có vũ khí cường đại, hoặc là nếu như nội bộ Đại Đường chúng ta có hỗn loạn, như vậy các ngươi có thể chiếm được Đại Đường, bởi vì tương lai các ngươi cũng bị văn minh người Hán đồng hóa, nhưng nếu với hiện tại bây giờ, các ngươi vĩnh viễn cũng không chiếm được Đại Đường, không phải bởi vì vũ khí của các ngươi mạnh thế nào, mà là các ngươi với Đại Đường đều có văn hóa lâu đời, có nền văn minh khai sáng, hai bên đều không thể so sánh với nhau, tựa như người Hán sẽ không tiếp nhận Đạo Hồi, đồng thời các ngươi cũng sẽ không tiếp nhận tư tưởng Nho gia của chúng ta, kết quả không chỉ có một, vài trăm năm, thậm chí một ngàn năm chiến tranh sẽ không ngừng lại, hai nền văn minh cùng lưỡng bại câu thương, cuối cùng người Bái Chiêm Đình diệt vong khiến cho Đại Thực cực kỳ mệt mỏi, đương nhiên trái lại, cho dù Đại Đường ta đánh bại Đại Thực, nhưng vĩnh viến cũng không chiếm lĩnh được khu vực tín ngưỡng chữ phiến này. Cho nên, ta chân thành hy vọng hai nền văn minh này không cần khởi phát chiến tranh ý đồ hủy diệt đối phương, đây là một cuộc chiến không có người thắng cuộc."
Điều Thôi Diệu nói làm cho Lạp Hi Đức lâm vào trầm tư, nếu như trước khi có chiến dịch Toái Diệp, hắn sẽ chẳng thèm để ý tới quan điểm của Thôi Diệu. Chiến dịch Toái Diệp thất bại mới khiến hắn lần đầu tiên biết đến Đại Đường. Mấy tháng này, Thôi Diệu biên tập giáo trình lịch sử Đông Phương, hầu như mỗi một quyển hắn đều đọc cẩn thận. Những giáo trình lịch sử này của Thôi Diệu tuy chỉ vẻn vẹn có tính đề cương, từ chính sử ký, đến Hán thư, vô cùng đơn giản, dường như là những cuốn sách vỡ lòng, nhưng những quyển sách đơn giản này dường như đã mở ra một cửa sổ, làm mở rộng tầm mắt của Lạp Hi Đức, khiến cho hắn phải nhìn lại ý niệm chiếm lĩnh đối với Đại Đường của mình, các vật phẩm như lụa, lá trà, đồ sứ đều là hàng thượng phẩm. Nhưng từ sau khi thất bại của chiến dịch Toái Diệp, ý niệm này của hắn dần dần không còn mãnh liệt như trước nữa. Hắn cũng bắt đầu ý thức được, chiếm lĩnh phương Đông có lẽ chỉ là một giấc mộng mà thôi.
Nghĩ như vậy, Lạp Hi Đức khẽ mỉm cười nói:
" Kỳ thật ý nghĩ của ta với ngươi gần giống nhau, từ ngươi ta cũng có thể thấy được, văn minh Đại Đường cùng văn minh của Y Tư Lan chúng ta có thể giao hòa, nhưng bất luận thế nào cũng không thể nhập làm một. Giống như Thôi Diệu ngươi, cho dù sống tại Ba Cách Đạt hai mươi năm, ngươi cũng có thể trở thành học giả uyên bác nhất Y Tư Lan, nhưng ta tin ngươi tuyệt đối không bỏ được tư tưởng Nho gia."
Lạp Hi Đức vừa nói vừa đi tới bản đồ bên cạnh, hắn dùng cây gỗ chỉ về nước Bái Chiêm Đình phía Bắc:
" Kỳ thật đây mới thực sự là kẻ địch của chúng ta, như ngươi nói, nếu như binh lực của chúng ta bị kiềm chế tại Đại Đường, Ba Cách Đạt nhất định sẽ gặp phải tai họa, cho nên, ta A Bạt Tư tuyệt đối sẽ không đi chinh phục Đông Phương, hy vọng ngươi trở về đem quan điểm của ta truyền đạt rõ ràng cho hoàng đế Đại Đường của các ngươi, ta sẽ đích thân viết một bức thư, ngươi hãy mang về."
Thôi Diệu ngây ngẩn cả người, hắn chần chừ nửa ngày mới hỏi:
" Ý của bệ hạ là thả ta về nước sao?"
" Ngươi nói đúng, ta đã quyết định thả ngươi về nước."
Lạp Hi Đức có chút cảm khái cười nói:
" Kỳ thật ta cũng không hy vọng ngươi đi, ngươi mang đến cho chúng ta hiểu biết về văn hóa và lịch sử Đông Phương, ngươi là một thầy giáo được nhiều người tôn trọng, nhưng ngươi lại là cây cầu giữa hai nước, ta hy vọng ngươi có thể trở về, Ba Cách Đạt vĩnh viễn mở rộng cửa đón ngươi."
Nói xong, hắn lấy một kim bài từ trong người ra, đưa cho Thôi Diệu:
" Đây là lệnh bài Calipha, nó sẽ giúp ngươi bình an trở về cố hương của mình."
Thôi Diệu tiếp nhận kim bài, trong lòng hắn có sự cảm động không nói nên lời, thẳng thắn mà nói, hắn cũng không nghĩ hiện tại sẽ trở về, hắn còn muốn tìm hiểu văn hóa Y Tư Lan, tiếp tục làm thầy giáo, truyền bá lịch sự và văn minh Đông Phương, muốn cho học sinh của hắn cùng người dân Đại Thực biết, Hán tộc là một dân tộc trí tuệ rộng lớn, khắc kỷ phục lễ, chưa bao giờ chủ động đi chiếm lĩnh nền văn minh khác, nhưng tuyệt đối không phải là chú cừu non để người khác khi dễ, hắn gật đầu nói:
" Sau khi ta trở về sẽ truyền đạt lại lời nói của Calipha tới hoàng đế bệ hạ của chúng ta, hắn và Calipha đều là những quân chủ vĩ đại, tin tương các ngươi có thể hiểu thấu lẫn nhau."
Lạp Hi Đức ngồi xuống, cầm bút viết một phong thư thật dài cho hoàng đế Đại Đường, trong thư hắn đưa ra yêu cầu cùng điều kiện đều rõ ràng, sau đó viết tên mình xuống cuối bức thẻ tre. Hắn đưa thư cho Thôi Diệu, luôn miệng dặn dò hắn:
" Thư này rất quan trọng, liên quan đến lợi ích chiến lược của Đại Đường các ngươi, cũng quan hệ tới sự an toàn tính mạng của ta, ngươi nhất định phải bảo quản nó, nếu tình thế nghiêm trọng, ngươi bắt buộc phải hủy nó đi, ngươi hiểu ý ta không?"
Thôi Diệu tuy không biết hắn viết gì, nhưng nhìn biểu hiện nghiêm trọng của Lạp Hi Đức hắn liền biết bức thư này có ý nghĩa rất quan trọng, hắn cất thư cẩn thận, sau đó thành khẩn nói:
" Xin bệ hạ yên tâm, ta nhất định sẽ giao nó an toàn tới tay hoàng đế Đại Đường chúng ta, ngày mai ta sẽ xuất phát về nước."
" Không!"
Lạp Hi Đức lắc đầu:
" Đêm nay ngươi hãy bí mật xuất phát đi suốt đêm rời khỏi Ba Cách Đạt đi."
Bên bờ sông Cách Lý Tư là chỗ người giàu vui chơi, cây xanh và hoa cỏ mọc dọc theo cạnh sông, từng khóm hoa vàng rực rải rác trong các bụi cây, đây là nơi ở của các quý tộc Ba Cách Đạt, khung cảnh ưu nhã, yên tĩnh thoải mái, đang lúc hoàng hôn, một cỗ xe ngựa xuyên qua các dãy cây xanh, trực tiếp đi vào một cung điện có cây cối bao quanh. Xe ngựa dừng lại, A Ba Tái được hai thị nữ đỡ hạ từ trong xe đi ra, lo lắng đi tới hỏi thủ vệ cung điện:
" Triết Nhĩ Pháp Nhĩ có ở đây không?"
" Lão gia có nhà, xin công chúa đi theo ta."
Tòa cung điện này là hạ cung của Triết Nhĩ Pháp Nhĩ, xa xa có thể nhìn thấy sóng lăn tăn từ sông Cách Lý Tư, gió thổi phất phơ, vô cùng mát mẻ. Triết Nhĩ Pháp Nhĩ mùa hè đều sống ở đây, hôm nay tâm tình hắn rất tốt, nghe tin công chúa tới, liền cười đi tới đón:
" A Ba Tái thân yêu, ánh trăng của ta, sao hôm nay ngươi lại tới chỗ ta?"
" Triết Nhĩ Pháp Nhĩ, ta rất sợ hãi."
A Ba Tái cảm xúc vô cùng xấu, không bị nhiệt tình của Triết Nhĩ Pháp Nhĩ ảnh hưởng, nụ cười của Triết Nhĩ Pháp Nhĩ dần dần biến mất trên mặt, nhưng lời nói vẫn ôn nhu, nói với A Ba Tái:
" Đến chỗ này của ta, ngươi còn sợ cái gì?"
" Sớm biết ta đã không học thơ Đường."
A Ba Tài thở dài một hơi, sau đó đem chuyện nôn mửa buổi sáng bị Thôi Diệu chứng kiến đơn giản kể lại một lần.
" Ngươi nói ngươi bị Thôi Diệu nhìn thấy."
Triết Nhĩ Pháp Nhĩ nhìn thẳng A Ba Tái, đôi mắt thân thiết đa tình dần trở nên âm trầm, tâm tình đang tốt liền bị phá hư. Hắn biết rất rõ việc A Ba Tái mang thai nếu bị tiết lộ ra ngoài, hậu quả không chỉ khiến Caliphatức giận, ngay cả phụ thân hắn cũng không tha cho hắn, cả gia tộc bọn họ sẽ bị gièm pha rất lớn, hắn đã làm ô uế trong sạch của công chúa A Ba Tái.
" Triết Nhĩ Pháp Nhĩ, ngươi đừng dùng ánh mắt này nhìn ta, nội tâm của ta càng thêm khó chịu."
A Ba Tái ánh mắt xinh đẹp chứa đầy nước mắt ủy khuất.
" Ta muốn ngươi nghĩ biện pháp cưới ta, ta không muốn chúng ta lại sinh hài tử khác mà vĩnh viễn phải sống tại Mạch gia."
Sự thâm trầm trong mắt Triết Nhĩ Pháp Nhĩ thoáng chốc biến mất, đổi lại thành ôn nhu, hắn kéo A Ba Tái vào trong ngực, hôn một chút lên trán nàng:
" Ngươi yên tâm, ta đã sớm đáp ứng ngươi, nhất định sẽ lấy ngươi. Nhưng ta cần thời gian, cần dần dần thuyết phục Caliphathay đổi chủ ý, cả phụ thân ta nữa. Tuy nhiên phản ứng của ngươi ngày càng rõ ràng, bụng cũng mau chóng lớn lên, sớm muộn cũng sẽ bị Caliphaphát hiện, chúng ta cần phải tìm ra phương pháp che giấu. Ngươi lấy lý do đi Mạch gia hành hương ở lại một năm, nhân thể thăm tiểu Tát Nhĩ Bác của chúng ta, ngươi thấy thế nào?"
ment--> ng. Thực tế, hắn rất thích nghe Thôi Diệu giảng giải sử ký, quan hệ cá nhân với Thôi Diệu cũng rất tốt.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 44: Diệt cỏ tận gốc
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Tuy nhiên A Ba Tái tâm loạn phiền não, đây đã là hài tử thứ hai của nàng. Nàng không muốn tới Mạch gia, nhưng nàng lại rất nhớ đứa con ba tuổi của mình. Cuối cùng nàng ngẩng đầu nhìn Triết Nhĩ Pháp Nhĩ, đành khuất phục gật gật đầu nói:
" Được rồi, ngày mai ta sẽ tới nói với vương huynh."
Nàng chủ động hôn môi Triết Nhĩ Pháp Nhĩ, ôn nhu nói:
" Ta đi trước, nhớ kỹ nhất định phải tới Mạch gia thăm ta."
" Ta nhất định sẽ tới."
Triết Nhĩ Pháp Nhĩ ôm eo của nàng, đưa nàng lên xe ngựa, nhìn theo xe ngựa cho đến khi khuất hẳn trong rừng, ánh cười trên mặt dần dần biến mất, mặt âm trầm đi vào phòng mình.
Sáng nay hắn đã biết một tin tức, người Đại Đường kia sau khi rời khỏi thư viện lập tức vào hoàng cung. Hắn và Lạp Hi Đức nói chuyện rất lâu, trời biết bọn họ nói chuyện gì, tên người Đường họ Thôi kia cuối cùng có nói chuyện A Ba Tái mang thai cho Lạp Hi Đức hay không?
Triết Nhĩ Pháp Nhĩ trên trán đã lấm tấm mồ hôi, chuyện này hậu quả vô cùng nghiêm trọng, không chỉ là việc Lạp Hi Đức phẫn nộ, mấu chốt là chính phụ thân hắn. Ngươi đã nghiêm cấm gia tộc bọn họ có bất kỳ quan hệ gì với gia tộc Cáp Hi Mỗ. Việc này người ngoài không thể tưởng tượng được, gia tộc Bá Nhĩ Mạch Khắc cùng A Bạt Tư và Cáp Tây Mỗ đều là những gia tộc lớn có quan hệ thân thiết hơn ruột thịt, nhưng trên thực tế, sau khi Triết Nhĩ Pháp Nhĩ và A Ba Tái kết thành phu thê, Diệp Cáp Nhã đã tỏ thái độ kiên quyết phản đối. Hắn không chỉ cảnh cáo Triết Nhĩ Pháp Nhĩ, nếu như bị phát hiện, hắn sẽ bị hủy bỏ hết quyền thừa kế gia tộc, đây mới là việc khiến Triết Nhĩ Pháp Nhĩ thấp thỏm lo âu.
Hắn kiên trì chống đỡ nhu tình của A Ba Tái, nhưng rốt cuộc vẫn vượt qua được ranh giới này, không chỉ có quan hệ với nàng, ba năm trước đây A Ba Tái còn sinh cho hắn một đứa con trai, được giấu kín tại Mạch gia. Hiện tại nàng lại một lần nữa mang thai, nếu như phụ thân biết được chân tướng, hậu quả thật khôn lường.
Triết Nhĩ Pháp Nhĩ luống cuống chắp tay sau đít đi tới đi lui, Lạp Hi Đức có thể biết, cũng có thể không biết. Nhưng phụ thân hắn nhất định là chưa biết. Bây giờ hắn không ở Ba Cách Đạt, mấu chốt là làm thế nào để phong bế tin tức này. A Ba Tái tới Mạch gia ẩn cư có thể giấu diếm được nhất thời, nhưng có những chuyện không thể nào ngăn được miệng lưỡi người đời, nghĩ tới nghĩ lui, trong mắt Triết Nhĩ Pháp Nhĩ hiện lên một tia độc ác.
Thôi Diệu sống trong một tòa nhà bình thường ở phía Tây ngoại thành, đây là một tòa mục tháp tại Ba Cách Đạt, bình thường đều không có ai canh gác, cũng không có người hầu quét dọn, không có người hầu hầu hạ, chỉ có một người ở nên hắn thường đi sớm về trễ mỗi ngày. Một ngày ba bữa đều giải quyết ở thư viện. Hắn trở về chỉ để ngủ một giấc. Tuy thư viện cũng có chỗ cho hắn nghỉ ngơi nhưng hắn vẫn thích tư tưởng thị dân Ba Cách Đạt nơi này. Vậy mà khuya hôm nay hắn sẽ phải rời khỏi đây.
Ở tòa nhà này đã được nửa năm, Thôi Diệu cũng có cảm giác nhớ nhung nơi này. Màn đêm buông xuống, hắn từ thư viện về nhà mình, chuẩn bị thu thập đồ đạc để rời khỏi Ba Cách Đạt về nước, sau khi rời khỏi mục tháp Thôi Diệu có mời một nam bộc quét sạch phòng ở của mình. Khi cách tòa nhà khoảng trăm bước, hắn liền phát hiện có bất thường, cửa phòng ở của mình đột nhiên mở ra, bên ngoài cửa ra vào có một nhóm người vây quanh, mỗi người đều đang thăm dò nhìn vào trong phòng thì thầm to nhỏ. Mấy người lính đang cố duy trì trật tự. Nội tâm Thôi Diệu chợt cả kinh, hắn không biết đã xảy ra chuyện gì, nhưng lại không dám tiến lên, chỉ đứng ở sau đám người vụng trộm quan sát tình huống. Rất nhanh sau đó, đám người vây xem cấp tốc tản ra, lui về phía sau, vài tên lính từ trong phòng mang ra một thi thể đắp miếng vải đen. " A" Thôi Diệu suýt nữa hô lên, hắn nhận ra thi thể người chết, chính là người hầu của mình. Trong đầu hắn loạn lên, vì sao? Vì sao y lại bị giết? Chẳng lẽ có trộm vào nhà cướp tiền? Thôi Diệu lập tức chối bỏ ý nghĩ này. Trong nhà hắn vốn là trống không, căn bản không có vật gì đáng quý, chẳng lẽ có người muốn giết người Đại Đường sao? Lý do này cũng vớ vẩn. Hàng ngày hắn đều che mặt, lại có thể nói lưu loát tiếng A Lạp Bá, ngay cả những người sống ở bên cạnh nhà hắn cũng không biết hắn là người Đại Đường. Lúc này trong đầu Thôi Diệu đột nhiên nảy ra một cái tên. Diệp Cáp Nhã.
Tất nhiên, hắn là người bị hiềm nghi rõ nhất, hắn có lẽ đã biết nội dung cuộc nói chuyện giữa mình cùng với Lạp Hi Đức, muốn giết người diệt khẩu. Nghĩ vậy, Thôi Diệu không tự chủ được sợ sờ lên bức thư trong ngực. Lạp Hi Đức nói phong thư này quan hệ đến lợi ích chiến lược của Đại Đường và Phương Bắc, nói cách khác có quan hệ tới người Hồi Hột, đồng thời cũng liên lụy tới tính mạng của hắn. Bất kể thế nào cũng khiến mình toát mồ hôi.
Thôi Diệu không lộ vẻ gì khác thường quay lại cưỡi lên lạc đà, không chút hoang mang đi về phía Tây Môn. Hắn không thể đến tìm Lạp Hi Đức nữa, cũng không thể đụng tới thế lực Diệp Cáp Nhã, cũng không có cách nào vào hoàng cung. Chỉ có một kế duy nhất, đó là nhanh chóng rời khỏi thành Ba Cách Đạt, rời khỏi phạm vi thế lực của Diệp Cáp Nhã.
Cửa thành không có thay đổi gì, mặc dù trên người Thôi Diệu có kim bài của Cáp Lý Phát, nhưng hắn vẫn không dám đưa ra, như vậy sẽ gây chấn động, ngược lại gây bất lợi cho việc chạy trốn của hắn.
Trên người còn có một tấm thiết bài thông hành quan thị vệ Lạp Hi Đức cho hắn, có thể ứng phó với những binh lính tôm cua bình thường. Thôi Diệu đem thiết bài đưa cho binh sĩ canh cửa thành, nhóm binh lính này lập tức nghiêm mặt, để cho hắn ung dung ra khỏi cửa thành.
Ra khỏi thành, trời đã hoàn toàn tối đen, hắn lại không biết làm thế nào để trở lại Đại Đường, trên người không có một xu, không nói đến cơm ăn, ngay cả một tấm thảm để ngủ cũng không có, nhất thời Thôi Diệu không bước tiếp được, tự nghĩ đối sách.
Đúng lúc này, phía sau lưng cách đó không xa đột nhiên có tiếng vó ngựa dồn dập truyền tới. Một đội nhân mã hăng hái chạy tới, rất nhanh đã đi tới gân hắn, hắn lập tức quay lưng lại, dùng khăn đen che mặt.
" Thôi tiên sinh đi thong thả."
Cho dù hắn che dấu thế nào, đội kỵ binh vẫn nhận ra hắn, đội kỵ binh đứng phía sau hắn, Thôi Diệu chậm rãi quay đầu lại, tâm tình khẩn trương rốt cuộc được buông lỏng, người tới chính là quan thị vệ của Lạp Hi Đức.
" Thôi tiên sinh đi nhanh như vậy, đã xảy ra chuyện gì sao?"
" Ngươi không tới nơi ở của ta sao?"
Thôi Diệu có chút kinh ngạc hỏi.
Quan thị vệ lắc đầu nói:
" Vốn là muốn đi, nhưng lại nghe nói ở cửa thành có người dùng thiết bài của ta xuất môn, nên ta nghĩ chỉ có thể là ngươi, liền trực tiếp đuổi theo, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?"
Thôi Diệu biết rõ hắn là thân tín nhất của Lạp Hi Đức, liền khẽ nói với hắn:
" Ngươi hãy chuyển cáo với bệ hạ, Diệp Cáp Nhã muốn giết ta."
" Ai?"
Quan thị vệ đột nhiên lắc đầu nở nụ cười:
" Không có khả năng, hiện tại Diệp Cáp Nhã đang ở Đại Mã Sĩ Cách, hắn không thể biết chuyện của ngươi, càng không có khả năng giết ngươi."
Việc này, Thôi Diệu có chút hồ đồ, chẳng lẽ quả thực là cướp của giết người sao? Quan thị vệ thấy hắn có chút mờ mịt, lần đưa một phong thư cho hắn cười nói:
" Calipha bệ hạ lệnh cho ta thay người tới tiễn đưa, đây là thư viện đế quốc mở giấy thông hành cho ngươi, nhớ kỹ, ngươi được phái đi Tín Đức học Phạn văn, mà không phải
trở lại Đại Đường."
Dứt lời, hắn vung tay một cái, đằng sau hai mươi mấy người đều ngồi trên lạc đà, trên lạc đà chở rất nhiều vật tư, quan thị vệ chỉ vào bọn họ nói:
" Bọn họ đều là tôi tớ của ngươi, trên đường đi sẽ tận tâm phục vụ ngươi. Vốn dĩ bệ hạ muốn dùng đội vệ sĩ hộ vệ thiết thân để bảo vệ ngươi, nhưng công chúa A Ba Tái đột nhiên muốn đi Mạch gia, nên lại phải hộ tống nàng."
Công chúa A Ba Tái. Trong đầu Thôi Diệu giống như có ngọn lửa quang thạch mạnh mẽ phản ứng. Công chúa A Ba Tái tại sao đột nhiên lại tới Mạch gia, nhất định là nàng đi trốn tránh, như vậy người muốn giết mình diệt khẩu rất có khả năng là Triết Nhĩ Pháp Nhĩ. Đây là ý nghĩ khiến cho hắn khiếp sợ, càng nghĩ càng có thể, A Ba Tái biết mình đã phát hiện ra bí mật của nàng, liền lập tức tới thương lượng cùng Triết Nhĩ Pháp Nhĩ, tất nhiên sẽ có hai phương án, một là công chúa phải tới Mgia né tránh, phương án kia chính là giết mình diệt khẩu, chỉ có điều lại giết lầm người.
Nghĩ vậy, Thôi Diệu đột nhiên nảy sinh một cỗ hận ý với A Ba Tái. Mình giúp nàng che giấu, nàng lại phản lại mình, quả nhiên là không nên thương cảm. Hắn đột nhiên hạ quyết tâm, nói khẽ với quan thị vệ:
" Không nên hỏi ta vì sao, ngươi có thể bẩm báo với bệ hạ, kêu hắn phái người giám thị công chúa, bệ hạ có lẽ sẽ biết được điều người muốn biết."
Dứt lời, hắn chắp tay:
" Ta cáo từ, tướng quân xin bảo trọng."
" Thôi tiên sinh bảo trọng."
Trong màn đêm hai mươi mấy con lạc đà đi về phía Đông, dần dần biến mất trong sương mù nặng nề.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 44: Diệt cỏ tận gốc (b)
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Mười lăm ngày sau, Thôi Diệu đã tới thủ phủ Hô La San là Mộc Lộc Thành, đây chính là nơi khởi đầu của vương triều A Bạt Tư, khoảng năm mươi năm trước. Người Hô La San là đội ngũ những người đã tham gia vào chiến tranh vương triều Ngũ Mạch Diệp, cuối cùng thành lập nên vương triều A Bạt Tư. Bởi vậy người Hô La San đang được hưởng địa vị rất cao trong cả nước. Bọn họ chỉ cần nộp thiên khóa, mà không phải chịu các gánh nặng về thuế má khác, Mộc Lộc thành là nơi tụ tập một số lượng lớn quý tộc Hô La San, bởi vậy lúc này kinh tế phồn vinh, cư dân thành thì đông đúc, là thành phố lớn thứ hai trong khu vực sông gần Tát Mã Nhĩ Hãn.
Thôi Diệu cũng không vào thành, tổng đốc Mộc Lộc là tâm phúc của Diệp Cáp Nhã, hắn không muốn có sự cố, chỉ đơn giản mua chút đồ tiếp tế ở ngoài thành, sau đó đi qua thành. Đi qua Mộc Lộc thành khoảng ba mươi dặm, bọn họ đi vào sa mạc mênh mông.
Tháng sáu đúng vào thời điểm nóng bức nhất, nắng nỏng như nung lửa, ánh mặt trời chiếu thẳng xuống, mặc dù không nắng đến nỗi không thở nổi, nhưng bọn họ mỗi người đều mặc quần áo màu đen, càng hấp thu nhiệt, ngay cả lạc đà là loại động vật có tính chịu đựng cao cũng phải từng bước từng bước đi trong cồn cát.
" Mễ Lan Đức đại thúc, bao giờ mới đi tới đầu sa mạc?"
Trong bão cát Thôi Diệu lớn tiếng hỏi. Kỳ thật hắn đã đi qua con đường này lúc đến Ba Cách Đạt, chỉ có điều khi đó là mùa đông, hắn tràn ngập hiếu kỳ với nước ngoài, cho nên bất tri bất giác đã vượt qua sa mạc. Tuy nhiên bây giờ là mùa hè, mỗi một dặm đều cảm thấy vô cùng gian nan.
Trong đám tôi tớ, đầu lĩnh là một người tuổi khoảng năm mươi, tên là Mễ Đức Lan. Con đường này hắn thường đi nên hết sức quen thuộc. Hắn thấy Thôi Diệu đã có vẻ mất kiên nhẫn, liền cười nói:
" Tiên sinh không cần bực bội, sa mạc này phải đi ước chừng ba trăm dặm nữa mới tới A Mỗ Hà, nói chung ban ngày nghỉ bên đêm đi, mấu chốt là phải tìm được ốc đảo, chúng ta sẽ có thể dừng lại nghỉ ngơi."
Thôi Diệu nghe nói còn ba trăm dặm, hắn thoáng cái hết giận, lại nhịn không được hỏi:
" Ốc đảo gần nhất cách chúng ta còn xa không?"
" Nhìn kia! Ở phía kia"
Mễ Đức Lan tay chỉ về phía xa cười nói, Thôi Diệu nhìn theo hướng hắn chỉ, quả nhiên thấy phía trước có một bóng xanh, hắn hưng phấn kêu to một tiếng, thúc dục lạc đà, tinh thần phấn chấn gấp trăm lần đi nhanh về phía ốc đảo.
Ốc đảo không lớn cũng không nhỏ, diện tích khoảng hơn mười mẫu, nhưng bên trong có một dòng suối ồ ồ chảy ra, tạo thành một hồ nước nhỏ, nước hồ thanh tịnh ngọt, bốn phía trải dài rậm rạp khắp đồng cỏ và nguồn nước. Mọi người đều hoan hô, nhảy xuống lạc đà chạy tới hồ nước. Thôi Diệu cơ hồ đem cả đầu vùi vào trong nước, liều mạng uống nước ngọt trong suối. Chỉ có trải qua địa ngục sa mạc, mới có thể cảm nhận được nước quan trọng thế nào. Hắn uống no nước, chỉ tay lên trời nằm xuống, ánh mặt trời không còn gay gắt nữa. Bây giờ hắn mới phát hiện bầu trời thì ra tinh khiết như vậy.
Tất cả mọi người đều tranh thủ thời gian ở bên hồ để ngủ say, Thôi Diệu cũng dần dần đi vào giấc ngủ, đột nhiên hắn bị tiếng chấn động đánh thức, bây giờ là vào buổi tối, bầu trời đầy sao, phảng phất như chiếc áo trân châu bằng vải nhung. Thôi Diệu ngồi dậy, lắng tai yên lặng nghe, dường như là tiếng vó ngựa đang đi về phía ốc đảo này, số lượng cũng không nhiều, ước chừng khoảng hai ba mươi người. Thật kỳ quái, đi trên đường đều thấy thương nhân cưỡi lạc đà, không có kỵ mã, bọn họ làm sao có thể đi qua ba trăm dặm sa mạc lớn như vậy?
" Mễ Lan Đức đại thúc! Mễ Lan Đức đại thúc!"
Thôi Diệu vội vàng hô vài tiếng, tùy tùng xung quanh đều ngồi dậy, Mễ Lan Đức lại không thấy bóng dáng đâu, đúng lúc này, từ phía xa truyền đến một tiếng kêu thảm thiết thê lương, tất cả mọi người đều sợ tới mức giật mình.
" Không hay rồi, Mễ Lan Đức đại thúc!"
Thôi Diệu nhảy dựng lên, hai ba bước liền chạy tới lạc đà của mình, ngồi lên bướu lạc đà lớn tiếng thét to.
" Giá! Giá!"
Các tùy tùng khác cũng lần lượt lên lạc đà, Thôi Diệu nhìn lại, dưới ánh sau cách khoảng hai trăm bước, có mười mấy tên kỵ quân Đại Thực mặc giáp mang nón đang hăng hái chạy tới bên này, hắn phản ứng cực nhanh, hét lên với mọi người:
" Mọi người chia nhau ra trốn đi, nhanh!"
Không đợi mọi người đáp lời, hắn thúc giục lạc đà bỏ chạy về phía hướng chính Đông. Triết Nhĩ Pháp Nhĩ chết tiệt, đến bây giờ còn không chịu buông tha cho mình, hắn một bên thầm mắng, một bên hăng hái chạy trốn, sau lưng những tiếng kêu thảm thiết không ngừng truyền đến, đây đều là những tùy tùng của hắn. Lạc đà được nghì ngơi nửa ngày, thể lực hồi phục, chạy như điên dọc theo cồn cát, một hơi liền đi được bốn năm dặm đường. Thôi Diệu vụng trộm nhìn về phía sau, không khỏi âm thầm kêu khổ. Phía sau cồn cát đang có ba chấm đen nhỏ chạy theo hướng hắn, dưới ánh sao nhìn đặc biệt rõ ràng, những kỵ binh này nhất định không bỏ qua mục tiêu. Hắn liều mạng thúc giục lạc đà nhanh hơn, hận không thể tự mình khiêng lạc đà mà chạy.
Tuy sức chịu đựng của ngựa so với lạc đà không bằng, nhưng nếu chạy nước rút thì lại nhanh hơn, lạc đà không phải đối thủ của chiến mã, mắt thấy truy binh ngày càng tới gần, còn không đến hai dặm, liền lao xuống một cồn cát. Thôi Diệu tâm bỗng nhảy lên, rút ra một thanh đao sắc bén, thả người nhảy xuống lạc đà, trên cồn cát hắn liên tiếp đâm xuống mấy nhát mới chậm rãi dừng lại. Hắn bị ngã khiến đầu óc mê muội, miễn cưỡng bò tới phía bên phải mũi nhọn của cồn cát. Lúc này trên cồn cát cao hơn con đường truy binh phải vượt qua .
Sau một lát, tiếng thở dốc từ cồn cát truyền đến, ba gã kỵ binh đã xông lên cồn cát, bọn họ ngừng lại một chút, sau đó lại tăng tốc đuổi theo lạc đà phía trước. Khi bọn họ đi qua người Thôi Diệu, Thôi Diệu đột nhiên thả người rơi xuống, một đao chém đứt cổ tên kỵ binh đi cuối, hắn bị một cước đạp thẳng khỏi ngựa, không ngờ chiến mã liền bị sợ hãi, hí một tiếng dài, Thôi Diệu bắt được dây cương, cưỡi lên lưng ngựa, nhanh như chớp lao xuống cồn cát.
Hai gã kỵ binh còn lại thấy đồng bọn bị giết, không khỏi giận tím mặt, nhảy xuống ngựa xách đao đuổi theo hướng Thôi Diệu vừa đi. Cánh tay Thôi Diệu cũng bị đao quệt làm bị thương, máu chảy đầm đìa, đao cũng không biết đã ném đi đâu. Giờ phút này, hắn bất chấp xem xét miệng vết thương, lảo đảo liền đi về phía trước chạy trốn. Hắn mất quá nhiều máu, đầu đã dần choáng váng, thúc ngựa chạy về phía trước. Tuy nhiên trong lòng lại tự hiểu được, bản thân mình hôm nay có lẽ sẽ chết ở đây. Lúc này hắn thấy phía trước dường như có hai đội lạc đà, chẳng lẽ mình hoa mắt sao?
Nhưng đã không còn kịp rồi, truy binh từ phía sau chạy tới ngày càng gần, cách xa nhau không đến hai trượng, bọn họ giơ lên thanh đao sáng loáng thét lớn chạy về hướng Thôi Diệu.
Trong một thoáng sống còn này, một mũi tên bay tới, trúng ngay giữa khuôn mặt tên lính, Thôi Diệu chỉ nghe thấy một tiếng kêu khẽ bên tai:
" Để mạng lại!"
Tiếp theo là một tiếng thét dài thảm thiết, trong lòng hắn bỗng dưng buông lỏng, ngã ra trên mặt đất, trước mắt tối sầm, bất tỉnh nhân sự.
Thôi Diệu từ từ mở mắt ra. Lúc này không gian xung quanh đối với hắn thật mơ hồ. Và rồi phải đến một lát sau, khi mà mắt hắn đã quen dần với ánh sáng thì cảnh vật trước mặt mới được hiện lên một cách rõ ràng hơn. Hắn nhìn thấy trên nền trời xanh thẳm kia, có một đàn chim đang bay qua. Hắn cũng cảm nhận được sự mát mẻ của những cơn gió, nghe thấy những tiếng xào xạc của đám lau lách khi có gió thổi qua.
" Ta đang ở đâu đây"
Thôi Diệu từ từ quay đầu ngó nghiêng xung quanh, một hồ nước nước lăn tăn gợn sóng, phản chiếu ánh nắng mặt trời. Hắn cảm thấy nơi này dường như hắn có quen thuộc thì phải. Đúng rồi! Đây chính là cái ốc đảo mà xế chiều hôm qua hắn dừng lại để nghỉ ngơi mà. Nhưng vào tối hôm qua, hắn lại bị truy binh của Đại Thực truy sát. Trong lúc tối hậu chỉ còn lại hai gã hộ vệ liều chết bảo vệ hắn, không biết bây giờ bọn họ chạy đến chỗ nào rồi không biết. Thôi Diệu nhấc mình muốn ngồi dậy, nhưng bỗng nhiên hắn cảm thấy cánh tay trái đau nhức vô cùng. Cái cảm giác đau đớn khiên cho mồ hôi trên người hắn vã ra đầm đìa, cơ hồ như muốn ngất đi lần nữa vậy.
" A, huynh tuyệt đối không được cử động gì cả" Bên tai Thôi Diệu bỗng nhiên vang lên một âm thanh trong trẻo, dịu dàng. Trong lời nói đó toát ra một sự quan tâm, lo lắng cho hắn vô cùng. Giọng nói đó khiến cho Thôi Diệu cảm thấy chấn động như sét đánh bên tai vậy. Hắn quả thật là không thể nào tin vào tai của mình nữa. Là nàng sao? Rồi hắn lại tự phủ nhận: " Không nàng không thể xuất hiện ở nơi này được" . Nhưng giọng nói đó rõ ràng là thanh âm của nàng, làm sao Thôi Diệu có thể nhầm lẫn được chứ. Hắn như quên mất cánh tay đang đau đớn kia, từ từ quay đầu nhìn về phía phát ra giọng nói, và một khuôn mặt tiều tụy nhưng không mất đi vẻ xinh đẹp thanh tú hiện ra trước mắt hắn. Cái mũi thẳng dọc dừa, ánh mắt lấp lánh như bảo thạch, làn da mịn màng như được thoa một lớp phấn trang điểm. Đôi môi hồng tươi kia đã ám ảnh những giấc mơ của hắn. Những hình ảnh ấy đã lẻn vào trong giấc mơ của Thôi Diệu hàng đêm, để cho hắn luôn khắc cốt ghi tâm về một bóng hình. Và giờ đây, nụ cười của nàng đang hiện ra trước mắt hắn, tươi tắn như một bông hoa súng giữa sa mạc. Bông hoa ấy đang tươi cười khoe sắc.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 45: " Toái Diệp tiêu tức"
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
" Cổ Đại" . Giọng nói của Thôi Diệu run rẩy, đầy sự kích động. Cái tên đó đã nhiều lần vang lên trong giấc mơ của hắn. Nhưng giờ đây: " Thật là nàng sao. Không phải là ta đang nằm mơ đấy chứ"
Cổ Đại quá đỗi vui mừng khi Thôi Diệu tỉnh lại, những giọt nước mắt hạnh phúc cứ thế lăn dài trên má nàng. Nàng chậm rãi quỳ xuống bên cạnh tình lang. Nàng lau đi những giọt nước mắt hạnh phúc, đồng thời vuốt ve khuôn mặt gầy gầy xương xương, xạm nắng xạm gió của Thôi Diệu. Nàng nghẹn ngào nói: " Cái người ác tâm này, thiếp cứ nghĩ chàng sẽ không sống nổi đâu, chàng có biết chàng đã hôn mê bao lâu rồi không hả"
Thôi Diệu chỉ cảm thấy thân thể cực kỳ suy nhược, bản thân hắn cũng không biết mình đã hôn mê bao lâu nữa, Mọi chuyện với hắn cứ như ngày hôm qua vậy. Hắn đưa tay phải nắm thật chặt lấy bàn tay mềm mại của Cổ Đại. Trong lòng trào dâng biết bao nhiêu ngàn vạn những tình cảm, những lời nói. Đôi môi hắn mấp máy, nhưng cuối cùng hắn chỉ nói một câu: " Vì nàng, ta tuyệt đối sẽ không đi tìm cái chết đâu"
Nghe xong những lời ân tình ấy, Cổ Đại lại khóc như mưa, nước mắt cứ thế tuôn trên đôi má hồng. Suốt một tháng gian khổ bôn ba, suốt một tháng kiên trì không quản gió mưa để đi tìm tình lang. Nàng đã phải ượt qua bao hiểm nguy. Đã có lúc nàng mệt mỏi, mềm yếu muốn trở về nhà, sống yên ổn bên phụ thân. Nhưng nếu như thế thì những lời thệ hải minh sơn với ái lang đã tan thành mây khói rồi. Bỗng nhiên Cổ Đại ôm mặt khóc rưng rức. Tất cả hạnh phúc cùng với những vất vả, đắng cay đều được dòng nước mắt ấy cuốn trôi đi hết.
" Chàng có biết không? Tới hôm nay là chàng đã hôn mê ba ngày bốn đêm rồi đấy. Mỗi ngày, thiếp chỉ còn biết cho chàng uống nước, cố gắng hết sức để duy trì tính mạng cho chàng. Chàng làm thiếp lo lắng muốn chết đi được" Cổ Đại vừa nói, vừa dùng cái muỗng nhỏ bón cho hắn một chút nước mát mà nàng vừa lấy từ con suối ở ngay trước mặt. Nàng hé miệng cười rồi nói tiếp: " Thật ra thì ngay lúc ở Mộc Lộc thành thiếp đã nhìn thấy chàng rồi. Lúc đó thiếp cảm thấy người mặc bộ trang phục đen, che cả kín cả khuôn mặt đó trông rất giống chàng. Nhưng thiếp cũng không dám khẳng định chắc chắn, cho nên thiếp mới bám theo. Thật là quá nguy hiểm, nếu như thiếp không nhanh trí thì có lẽ giờ đây chúng ta đã âm dương cách biệt mất rồi. Chàng biết không, khi thiếp nghe nói chàng bị người Đại Thực bắt đi rồi, thiếp luôn nghĩ cách để cứu chàng ra, nhưng thật sự cho đến tận lúc này thiếp cũng chưa nghĩ ra cách nào để cứu chàng ra được"
Nói đến đây, dường như Cổ Đại lại muốn bật cười, bật cười vì tạo hóa đã thương xót bọn họ. Suốt một tháng lầm lũi hành trình tìm kiếm thì bỗng vô tình nàng lại gặp được tình lang của mình trong chốn sa mạc này. Cổ Đại tựa hồ còn rất nhiều lời muốn nói, nàng nói không chỉ bằng miệng mà ánh mắt của nàng cũng toát ta đầy sự hưng phấn, sung sướng. Nghĩ đến điều gì đó nàng bỗng nhiên nhướng mày hỏi Thôi Diệu: " Nhưng đám binh lính Đại Thực kia tại sao lại muốn đuổi giết chàng chứ. Chẳng lẽ chàng đã chạy trốn hay sao"
Cánh tay trái của Thôi Diệu ngoài việc bị chém mấy nhát đao ra, còn bị gãy xương nữa. Cũng may là Cổ Đại sớm phát hiện nên đã tìm mấy thanh gỗ làm nẹp để cố định lại chỗ xương gẫy đó rồi. Hắn tuyết đối không thể cử động cánh tay trái đó. Lúc này, Thôi Diệu thoải mái nằm ngửa trên một tấm nệm êm ái mà Cổ Đại đã công phu dùng thứ cỏ mềm để sắp xếp. Sau mấy ngày hôn mê chỉ uống nước cầm hơi, cho nên bây giờ hắn cảm thấy đói bụng, hắn đang nhớ tới những cái bánh mỳ thơm ngon, cho nên khi đáp lời Cổ Đại hắn cũng có phần mơ hồ: " Là bọn người ở Ba Cách Đạt muốn giết huynh, sở dĩ như vậy là vì huynh bị cuốn vào vòng xoáy đầu tranh quyền lực trong nội bộ Đại Thực. Tóm lại một lời thì không thể nào nói hết được chuyện này đâu. Chỉ lo không biết những người tùy tùng kia có thể giữ nổi tính mạng không nữa"
" Vẫn còn có bảy người sống sót mà, buổi sáng hôm nay bọn họ có tụ tập lại. Và hiền tại đã quay trở lại địa điểm cũ để tìm kiếm cái gì đó"
Thôi Diệu nghe vậy, ngẩn người ra, hắn kinh ngạc hỏi: " Là sao, nơi này chẳng lẽ là ốc đảo sao"
" Đến bây giờ huynh mới nhận ra điều đó hay sao hả" Cổ Đại liếc nhìn Thôi Diệu rồi nũng nịu nói tiếp: " Ốc đảo này, cách chỗ huynh vị tập kích chừng hơn năm mươi dặm. Chúng ta đã giết binh lính Đại Thực, nếu không trốn đi xa thì huynh nghĩ xem chúng ta liệu còn giữ nổi mạng sống hay không"
Thôi Diệu suy nghĩ một chút, xác nhận những lời của Cổ Đại quả thật rất đúng, binh lính Đại Thực vì cưỡi ngựa cho nên không thể nào tiến vào vùng sa mạc được, thế cho nên hắn mới có cơ hội chạy thoát được. Rồi đột nhiên Thôi Diệu như nghĩ ra chuyện gì đó, hắn cuống quyết sờ vào trong ngực áo. Sắc mặt đại biến. Phong thư mà Lạp Hy Đức đích thân viết đã không còn trong người hắn nữa rồi.
" Huynh đang tìm cái này có phải không" Cổ Đại lấy từ trong cái túi da ở bên cạnh một cái hộp nhỏ bằng vàng. Khi mở hộp ra, Thôi Diệu thấy tín thư của Lạp Hy Đức vẫn còn nguyên vẹn, không có bất cứ hao tổn gì cả. Đến lúc này hắn mới thở phào nhẹ nhõm, rồi đưa tay nhận lấy chiếc hộp từ Cổ Đại và cẩn thận cất chiếc hộp đó vào trong ngực áo của mình. Hắn trầm tư một lát rồi nói với Cổ Đại: " Hiện tại ta mang trên mình một sứ mệnh quan trọng không thể nào trễ nải trên hành trình được. Chờ sau khi những người kia quay trở về, chúng ta sẽ lập tức lên đường để sớm trở về Trường An
Cả một vùng bình nguyên Quan Trung lại đang bước vào vụ hè thu. Khắp nơi, đâu đâu cũng là những ruộng lúa vàng óng, trĩu bông. Cả một cánh đồng vàng ngút ngàn tầm mắt như không có giới hạn. Ở các thửa ruộng nông dân đang bận rộn thu hoạch lúa của nhà mình, những tiếng cười nói, hân hoan rộn rã. Năm ngoái Quan Trung xảy ra nạn hạn hán, cho nên sản lượng thu hoạch bị sụt giảm mất bốn phần. Rồi phải chi viện cho chiến tranh nữa, cho nên vô hình chung sau chiến dịch Toái Diệp, Đại Đường phần nào rơi vào tình trạng thiếu lương thực. Một đấu gạo tăng lên tới ba trăm năm mươi văn tiền. Lập tức triều đình phải tiến hành điều tiết ba trăm vạn thạch lương thực từ vùng Hoài Nam tới để giải quyết tạm thời tình trạng thiếu lương thực ở đây. Và hôm nay, cả Đại Đường lại bước vào một vụ thu hoạch mới, cũng rất may là cho tới tận đêm trước của ngày thu hoạch vẫn không hề xuất hiện thiên tai hay địch họa gì cả. Cho nên nhân dân cả một vùng bình nguyên Quan Trung ai nấy cũng đều vui mừng, phấn khởi. Bắt đầu từ trung tuần tháng sáu không chỉ Quan Trung mà thậm chí là cả Đại Đường cũng bước vào vụ gặt. Sau vụ thu hoạch hè thu, thì toàn bộ Hoài Bắc và một bộ phận các ruộng ở chân đất cao của Quan Trung, Hà Đông, Lũng Hữu lại bắt đầu bước vào cấy vụ lúa nước thứ hai trong năm. Còn các chân ruộng thấp hơn thì người dân cũng cho trồng các loại đậu đỗ. Còn ở khu vực phía nam của Hoài Thủy, khu vực này có đủ điều kiện để trồng cấy hai vụ lúa. Và lúc này, nơi đây cũng đang bước vào thu hoạch lúa sớm.
Mặc dù triều đình một mực khích lệ và thúc đẩy công thương nghiệp phát triển, nhưng vẫn luôn xác định nông nghiệp trước sau gì cũng là cơ sở để lập quốc. Dân lấy lương thực, ăn uống no đủ làm đầu. Điều này đã khắc sâu trong suy nghĩ và hành động của mỗi người dân thậm chí là mỗi viên quan của Đại Đường. Và cứ vào tháng sáu hàng năm chính là lúc mà cuộc sống ở Đại Đường trở nên bận rộn nhất trong năm. Từ hoàng đế tới từng cửu phẩm Chủ bạ, cho đến các quan viên đều phải xuống đến tận đồng ruộng. Tất cả bọn họ đều đội nón cỏ, tay cầm lưỡi hái, tay quệt mô hôi toát ra như tắm, hoàn toàn giống như một bách tính lao động bình thường. Đây là cảnh thường thấy của thời hoàng triều thịnh thế. Suốt một dải đất từ vùng ngoại ô phía đông của thành Trường An cho tới Tân Phong huyện, chính là khu vực gần với sông Vị Hà, cho nên ngay từ xưa nơi đây đã là một vùng đất giàu có của cả Quan Trung. Vốn dĩ chỗ này phân bố tổng cộng là hơn một ngàn nông trang lớn nhỏ. Phần lớn là tài sản riêng của các hoàng thân, quyền quý. Nhưng với việc thanh lọc và bãi bỏ nhưng đặc quyền của người trong hoàng thất ở năm Đại Trị thứ nhất và việc bãi bỏ chế độ nô lệ từ năm Đại Trị thứ tư, Trương Hoán thật sự đã thực hiện một cuộc cải cách lớn, mang tầm chiến lược: một số lượng lớn nông trang biến mất, hiện tại còn sót lại chưa đến một trăm nông trang. Số này phần lớn là đất đai thế tập vĩnh nghiệp của các đại gia tộc. Còn lại rất nhiều ruộng đất đã được chia cho nông dân, và dĩ nhiên là bọn họ trở thành những người có tài sản. Mỗi hộ tùy theo có thể nhận từ mười lăm đến hai mươi mẫu ruộng. Ngoại trừ binh lính có công và quan lại ra, còn tất cả đều nộp thuế lên triều đình với mức hai mươi phần trăm. Các loại thu nhập khác triều đình không đánh thuế người dân được hưởng hoàn toàn. Đồng thời triều đình còn ban ra thánh chỉ, nói rõ rằng, mức thuế ấy sẽ được thực hiện trong vòng năm mươi năm, cho dù gặp hoàn cảnh nào cũng không thay đổi. Điều này đã giúp cho dân chúng không còn băn khoăn lo ngại gì cả, tất cả đều yên tâm làm ăn, tăng gia sản xuất.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 45: " Toái Diệp tiêu tức"b
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Nếu như ai khôn khéo hay tinh ý một chút sẽ nhận ra chính sách mới về nông nghiệp của triều đình có điểm rất độc đáo. Đó là mỗi hộ dân dù nhân khẩu nhiều hay ít cũng đều được nhận cùng một tiêu chuẩn ruộng đất. Như vậy vô hình chung, quy mô của các hộ sẽ nhỏ đi đồng thời việc sinh con gái cũng sẽ trở thành một phong trào phổ biến. Điều này cũng chính là điều mong muốn của những nhân vật đầu não trong triều đình. Họ mong muốn rằng trong năm mươi năm này, số lượng nhân khẩu cùng ruộng cày có thể khôi phục đạt mức như năm Thiên Bảo thứ nhất, khi đó dân số Đại Đường là năm ngàn vạn người.
Sáng sớm hôm nay, Trương Hoán đã dẫn theo tất cả các quan lại trong triều đình đi tới ngoại ô phía đông của thành Trường An để giúp dân chúng thu hoạch lúa. Vị hoàng đế này, đầu đội mũ nan, chân đi giày vải, trên người mặc một chiếc áo ngắn, tay cầm lưỡi hái cùng thu hoạch lúa với dân chúng. Nhìn Trương Hoán như một nông dân thứ thiệt vậy. Đây cũng không phải là lần đầu tiên vị hoàng đế này cùng tham gia cắt lúa với bà con. Ngay từ lúc còn ở Võ Uy, Lũng Hữu, Trương Hoán cũng đã dẫn theo các quan viên của mình giúp dân chúng thu hoạch lúa. Và từ đó việc làm này đã trở thành thông lệ. Đối với các quan viên thì điều này không hề bắt buộc, tất cả đều có thể tham gia hoặc không tham gia. Nếu có thành ý thì tới, còn không muốn đi thì cũng không cần miễn cưỡng. Nhưng có điều đây cũng là một dịp để khảo hạch về điều thiện quan trọng nhất trong bốn điều thiện của kẻ làm quan: nghe được điều đức nghĩa.
Có thể cùng tham gia gặt lúa với dân chúng cũng chưa chắc là có thể nghe được những điều đức nghĩa. Nhưng nếu không tham gia thu hoạch lúa hay tham gia qua loa hời hợt cho có mặt thì tuyệt đối sẽ không thể nào nghe được dù chỉ một lời bàn luận về đức nghĩa. Hàng năm đều có các Ngự sử giám sát đi các nơi để điều tra, thu thập về tình hình quan lại ở các địa phương. Dĩ nhiên các Ngự sử giám sát này, một là không hỏi các quan viên, hai là không vào nha môn mà bọn họ đến tận các bờ ruộng, gặp từng người dân để hỏi han về các quan viên của địa phương đó. Ngoài ra, các Ngự Sử Giám Sát này còn thường xuyên nhận được các báo cáo bí mật của các phòng Giám sát. Ánh mắt của nhân dân sáng rõ như tuyết, sẽ không dễ dàng tha thứ cho bất cứ tên tham quan, hay những tên quan biếng nhác nào cả. Cho nên mỗi vụ thu hoạch lúa, các quan viên của Đại Đường đều ra tận ruộng, cùng với bách tính tham gia làm lụng trên các thửa ruộng.
" Bệ hạ, người cũng nên nghỉ ngơi một lát đi thôi" Hàn tướng quốc đứng thẳng người, lau mồ hôi cười nói với Trương Hoán.
Trương Hoán cũng gật đầu cười nói: " Được rồi, chúng ta nghỉ ngơi một chút đi"
Hắn nhìn về phía xa xa thấy nhi tử Lý Kỳ của mình đang thỉnh giáo một lão nông về cách cắt lúa. Trương Hoán cũng không quấy rầy việc làm của Lý Kỳ. Hắn ngồi bệt xuống một bờ ruộng ở gần đó để nghỉ ngơi. Một tên thị vệ bưng tới cho hắn một siêu nước. Sau khi uống mấy ngụm nước, hắn đưa mắt nhìn về phía Hàn tướng tướng quốc cười nói: " Hàn tướng quốc à, áo lao động khanh đang mặc hình như chính là cái mà khanh đã mặc khi đi thu hoạch lúa năm ngoái phải không"
Hàn tướng quốc kinh ngạc nói: " Cái áo mà thần mặc năm ngoái là máu trắng, năm nay thần đã đem nó nhuộm thành màu lam rồi. Sao bệ hạ lại có thể nhìn ra được vậy"
" Bởi vì những mụn vá này đây" Trương Hoán vừa nói vừa chỉ vào một đường khâu vá ở trên tay áo của Hàn tướng quốc: " Trẫm còn nhớ rất rõ, là năm ngoái tướng quốc làm không cẩn thận nên đã làm rách tay áo, chẳng phải là chỗ này hay sao"
Nói đến đây Trương Hoán khẽ thờ dài một hơi: " Khi còn ở Lũng Hữu trẫm đã nghe nói tướng quốc là người hết sức tiết kiệm, áo lông mặc mười năm mới bỏ đi, chỗ ở chỉ cần đủ tránh gió mưa, không vì người nhà mà tư hữu tài sản riêng. Thấy rằng tướng quốc là người thân phận đứng đầu bách quan mà vẫn cần kiệm, không hề thay đổi bản sắc của mình. So sánh một chút, trẫm tự thấy mình thật là xấu hổ."
Hàn tướng quốc vội vàng đứng lên khom người thi lễ nói: " Bệ hạ, xin người đừng tự trách mình như vậy, bệ hạ chính là một quân vương cần kiệm hiếm có từ xưa đến nay rồi. Cho đến nay, hậu cung bất quá chỉ có mười người, số cung nữ, hoạn quan cũng chỉ có năm trăm mà thôi. Năm xưa Huyền Tông hoàng đế, hậu cung có tới hơn bốn vạn người. Năm nào cũng tiêu tốn của quốc gia đến mấy trăm vạn bạc cho bọn họ. Vì vậy dù nói thế nào đi nữa thì cũng không thể không nói đây chính là một trong những căn nguyên của loạn An Sử. Trong khi đó từ khi bệ hạ lên ngôi tới nay mới có năm năm, nhưng luôn quan tâm chú trọng tang nông (dệt – nông nghiệp), phát triển công thương nghiệp, hạ thuế khóa, mở rộng giáo dục. Quả thật là đã rất được sự tin cậy của dân chúng. Thần sở dĩ là đơn giản tiết kiệm, cũng bởi vì ảnh hưởng đức tính của bệ hạ, không dám xa xỉ lãng phí.
Trương Hoán yên lặng, gật gật đầu, hồi lâu mới nói: " Mạnh Tử viết, sống trong gian nan cực khổ, thì khi chết đi sẽ được an lạc. Mấy tháng trước đây trẫm đã phóng túng cho hậu cung dệt may bộ quần áo xa xỉ này đây. Nghĩ lại trẫm thấy mình đã chi quá tay rồi. Vì thế trẫm đã hạ chỉ xuống bên dưới, không cho phép nhập các loại gấm Tứ Xuyên cũng như các mặt hàng xa xỉ phẩm khác vào trong hậu cung. Trẫm còn định nghiêm cấm thị trường, không cho phép bán ra các loại lụa là, gấm vóc Tứ Xuyên. Nhưng trẫm nghĩ lại thấy không chừng Hồi Hột lại cần những thứ này nên trẫm đã thay đổi chủ ý."
Nói tới đây, khóe miệng của Trương Hoán lộ ra một nụ cười cổ quái, hắn nhìn sang Hàn tướng quốc một chút, ý chừng muốn xem vị tướng quốc này có hiểu dụng ý của mình đang muốn chuyển sang chủ đề khác hay không. Hàn tướng quốc cũng cười, dĩ nhiên là ông ta hiểu được ý tứ của hoàng thượng. Sau chiến dịch Toái Diệp thành công thì Hồi Hột nhất định là mục tiêu tiếp theo cần xử lý. Nhưng dĩ nhiên là hoàng thượng không muốn lại phải dùng đến binh đao, mà dụng ý của ngài là hy vọng có thể khiến nội bộ Hồi Hột tự chém giết lẫn nhau, từ đấy mà dẫn đến tự sụp đổ. Để làm được điều này thì cần phải có thủ đoạn thật là cao minh, hoặc là mượn đao giết người, hoặc là phải ly gián, phân hóa. Có như vậy mới có thể tiêu diệt hoàn toàn cái mối uy hiếp lớn nhất với Đại Đường lúc này.
Trên thực tế, Đại Đường cũng đã từng áp dụng kế sách tương tự để làm cho dân tộc Thổ Phiên tự suy yếu, bạc nhược đi. Một mặt, Đại Đường vẫn tán đồng việc liên minh giữa hai nước, cổ vũ chủ trương mở rộng về hướng tây của Thổ Phiên. Nhưng mặt khác Đại Đường lại âm thầm, nghiêm khắc không chế việc giao dịch buôn bán với dân tộc Thổ Phiên. Đại Đường nghiêm cấm thương nhân và người dân của mình bán lương thực, đồ sắt và các loại vật tư chiến lược khác cho Hồi Hột. Mà chỉ bán hoặc trao đổi cho bọn họ các sản phẩm đồ sứ, tơ lụa, trà, và những sản phẩm xa xỉ khác để đổi lấy dê bò của họ. Từ đó từng bước là suy yếu, hao mòn thực lực của dân tộc Thổ Phiên. Từ đó đẩy dần, " giúp đỡ" để dân tộc này đi vào cái bẫy diệt vong. Cuối cùng cả Thổ Phiên chìm trong nội chiến liên miên. Đại Đường nghiễm nhiên " bất chiến tự nhiên thành"
Tình hình của Hồi Hột hiện nay cũng giống như vậy. Hai tháng trước đây Hồi Hột chính thức cùng với Đại Thực kết làm đồng minh, và ngược lại tuyên bố không đội trời chung với Đại Đường. Đồng thời đem sửa quốc danh từ Hồi Hột sang Hồi Cốt. Với việc thực hiện một loạt các hành động ấy, cùng với những mẫu thuẫn căng thẳng vốn đã tồn tại trong nội bộ Hồi Hột trước đó, thì chính tân Khả Hãn Hiệt Kiền Già Tư là người đã nhân danh vì tương lai của dân tộc quyết không chùn bước, mà quay sang đối đầu và gây hấn với Đại Đường. Chính những động thái này của ông ta đã khiến cho nội bộ Hồi Hột xuất hiện một cuộc nội chiến. Các bộ tộc " thân Đường" như Phó Cố, Hỗn, A Bố Tư cùng với những tộc nhân của Dược La Cát Linh, đã tập hợp lại với nhau, nhân số lên đến mấy chục vạn người. Tất cả những người này đều tiến về phía đông định cư khắp cả một dải Khả Đôn thành. Sau khi thương nghị tất cả đồng ý tôn Dược La Cát Linh lên làm Khả Hãn, thỉnh cầu Đại Đường để đứng lên chống lại Hiệt Kiền Già Tư.
Dĩ nhiên tin tức này đối với Đại Đường là một tin tức rất có lợi, nhưng Trương Hoán cũng không hề vội vàng xuất binh tấn công Hiệt Kiền Già Tư. Sở dĩ như vậy là bởi vì sau chiến dịch Toái Diệp, Đại Đường cũng đã mỏi mệt, cần phải có thời gian nghỉ ngơi để lấy lại sức. Lý do thứ hai chính là việc, bản thân Trương Hoán đã dự liệu đi năm nước cờ trong cuộc chơi này. Ở thời điểm hiện tại cũng chỉ có thể đi tới nước thứ ba mà thôi, đó là việc ủng hộ phái " thân Đường" thực hiện việc phân chia Hồi Hột, làm cho thực lực của Hiệt Kiền Già Tư bị hao mòn, suy giảm dần đi. Nước cờ thứ tư mà vị hoàng đế này định đi đó là phân hóa việc trao đổi buôn bán với Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý. Trương Hoán sẽ chỉ cho phép vận chuyển các đồ sứ, tơ lụa, các mặt hàng xa xỉ phẩm từ Đại Đường sang Hồi Hột trao đổi mua bán. Đồng thời nghiêm cấm mang các loại vật tư chiến lược lên phương bắc. Dĩ nhiên đây cũng chỉ là một cách ngăn ngừa kìm hãm Hồi Hột. Đồng thời còn phải khóa chắt một lối khác, đó là không để cho Hồi Hột nhận được vật liệu trợ giúp từ phía tây, cũng không được để cho Hồi Hột sử dụng các sản phẩm xa xỉ của Đại Đường đem đi trao đổi lương thực với phương tây.
ment--> ng. Thực tế, hắn rất thích nghe Thôi Diệu giảng giải sử ký, quan hệ cá nhân với Thôi Diệu cũng rất tốt.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 46: " Đại Hồ trúc thành
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Ngay sau đó Trương Hoán cầm lấy mấy bông lúa vừa cắt, rồi sắp xếp trên mặt đất một sơ đồ đơn giản. Sau đó hắn chỉ vào sơ đồ và nói với Hàn tướng quốc bằng một giọng nghiêm túcNếu như nơi này là Di Bá Hải. Hiện tại Toái Diệp quân của chúng ta đã không chế được hết cả lưu vực của con sông Y Lệ hà . Trẫm đang tính là sẽ cho Toái Diệp quân tiếp tục ngược lên phía bắc, rồi ở mặt phía nam và phía tây của Di Bá Hải ta định cho xây dựng ba tòa thành, để quân đội đồn trú lâu dài, như thế sẽ hoàn toàn cắt đứt việc trao đổi mua bán hàng hóa của Đại Thực với Hồi Hột. Và dĩ nhiên đến lúc ấy Đường quân chúng ta ở Di Bá Hải tất sẽ xảy ra những cuộc xung đột quy mô nhỏ với Hồi Hột. Trẫm muốn hỏi ý kiến của khanh xem nếu như trẫm vận chuyển một trăm vạn thạch lương thực đến Toái Diệp, thì trên đường tiêu hao ít nhất cũng là một trăm năm mươi vạn thạch. Ngoài ra còn phải có năm mươi vạn quan tiền, như vậy thì không biết triều đình có đáp ứng được hay không?"
Hàn tướng quốc trầm ngâm một lát rồi nói: " Vấn đề lương thực thì không quan trọng lắm, năm nay Lũng Hữu được mùa, nên hoàng thượng có thể trực tiếp hạ chỉ cho các quan lại ở Lũng Hữu trưng thu lương thực. Còn năm mươi vạn quan tiền thì không nhất thiết phải bắt buộc vận chuyển từ Trung Nguyên. Sơ Lặc là cơ sở đúc tiền của Đại Đường ta, cho nên chúng ta hoàn toàn có thể điều phối tiền bạc từ Sơ Lặc đến Toái Diệp. Như vậy chẳng phải là thêm thuận tiện hơn hay sao. Hơn nữa triều đình ta cũng không thiếu thốn gì năm mươi vạn quán tiền này. Những hành động quân sự vừa qua của bệ hạ đã mang lại những lợi ích chiến lược cho Đại Đường. Thần tin tưởng rằng nhất định các vị tướng quốc cũng sẽ ủng hộ chủ trương này của bệ hạ thôi"
" Trẫm cũng tin tưởng rằng, mọi người sẽ ủng hộ kế hoạch này. Chẳng qua là chiến dịch Toái Diệp vừa mới kết thúc, bây giờ nếu như xung đột ở Di Bá Hải lại dấy lên nữa, thì quả thật trẫm cảm thấy rất áy náy với dân chúng"
Trương Hoán vừa mới nói tới đây, thì bỗng nhiên có một kỵ binh cưỡi khoái mã chạy từ quan đạo tới chỗ hắn. tên kỵ binh kia chính là người chịu trách nhiệm truyền tin tức. Hắn tung mình nhảy xuống ngựa, bước nhanh tới chỗ Trương Hoán. Tên thị vệ hỏi hắn mấy câu rồi dẫn hắn tới chỗ hoàng thượng và Hàn tướng quốc đang ngồi nghỉ.
" Bệ hạ, ở đây cớ tin tình báo khẩn cấp từ Toái Diệp"
Trương Hoán nhận lấy tín thư được truyền bằng đường chim câu, hắn mở ra xem qua một lượt, trong ánh mắt lộ ra nét vui mừng, nhưng trên nét mặt dường như có băn khoăn. Hắn quay sang nói với Hàn tướng quốc: " Theo như tin tình báo này thì có hai tin tức truyền đến từ Toái Diệp, một là Thôi Diệu đã được tha và hắn có mang trở về một bức thư quan trọng của Đại Thực Calipha. Còn một tin tức khác đến từ Yêu Long thành, theo đó có một nhân vật trọng yếu của Đại Thực đã quá cảnh qua đây, nhân vật này hình như là tể tướng của bọn họ tên gọi là Diệp Cáp Nhã, ông ta đang định đi sang Hồi Hột"
Thời gian đã bước sang tháng bảy, đây chính là mùa mà khung cảnh của Di Bá Hải dễ làm say lòng người nhất. Thời tiết đang bắt đầu bước qua mùa hè, sự oi bức, nóng nực cũng đã biến mất. Nhìn bầu trời cứ như một người lữ khách kiệt sức, đang nằm thoi thóp hấp hối bên một dãy núi thấp. Mùa t đã bắt đầu buông rơi những hình ảnh của mình bên bờ hồ. Rừng tuyết tùng cứ trải dài mênh mông vô tận, và những thảm cỏ cũng như dày hơn . Trên thảo nguyên, những người chăn nuôi đang chăn thả cho bầy cừu của mình gặm cỏ. Khung cảnh ấy thật là bình yên.
Ngày hôm nay, bầu trời quang đãng, chỉ có những đám mây trắng nhẹ nhẹ, nhởn nhơ trôi. Ở phía xa kia, trên mặt hồ phẳng lặng như đang ngủ say, có một đội tàu thuyền đang rẽ sóng mà lướt đi. Cái đội tàu thuyền ấy nối đuôi nhau kéo dài dễ có đến mười dặm trên mặt hồ. Đội thuyền này tập hợp hơn ba trăm chiến thuyền với ba thuyền buồm dẫn đầu, làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực cũng như các loại vật tư quân sự khác. Những cánh buồm no gió " phưỡn cái bụng phệ" như cái trống vậy. Thuyền cứ thế nương theo gió nhắm thẳng hướng đông mà lướt đi. Cắm trên mũi của đại thuyền đi đầu hàng chính là Đại Đường long kì, với một mặt màu đỏ vàng. Lá đại kỳ đang phấp phới tung bay trong gió.
Chủ soái Vương Tư Vũ đứng trên mũi thuyền, ông ta phóng tầm mắt ngắm nhìn mặt hồ rộng vô biên vô tận tựa như biển khơi vậy. Thỉnh thoảng lại có những con quái ngư hình thể to lớn phi thẳng lên khỏi mặt nước, rồi chúng lại nặng nề mà trầm mình xuống hồ nước. Dường như chúng đang tỏ ý phản đối, không hài lòng với những vị khách không mời mà cứ ầm ầm kéo đến, làm rối loạn hết cả sự bình yên của Di Bá Hải này.
Nhìn tổng thể Di Bá Hải là một hồ nước có hình dáng hẹp và dài. Trong đó chiều đông –tây thì dài, còn chiều nam –bắc thì lại khá hẹp. Diện tích của Di Bá Hải rất rộng, nó gấp bốn lần diện tích của Thanh Hải hồ. Một điểm rất đặc biệt của Di Bá Hải chính là nước ở hồ này một nửa là nước mặn, một nửa là nước ngọt. Ở giữa có một bán đảo kéo dài dẫn vào hồ. Bán đảo này chia hồ nước thành hai bộ phận. Chiều rộng của bán đảo này chỉ có sáu, bẩy dặm thôi, nhưng bản thân nó lại có một đường nước nhỏ chảy thông suốt. Chính đường nước này đã đem nước ở trong hồ chia làm hai, phía tây là nước ngọt, phía đông là nước mặn. Đường quân đã cho xây dựng một tòa quân thành ở trên chính bản đảo này, và đặt tên cho nó là Đại Hồ thành.
Lần này Vương Tư Vũ tới đây là để thị sát về tiến độ và tình hình xây dựng Đại Hồ thành. Theo sự chỉ đạo của hoàng thượng cùng triều đình, thì Toái Diệp quân sẽ phải cho xây dựng xung quanh Di Bá Hải này tất cả là ba tòa quân thành. Hiện tại có hai tòa quân thành đã đang được xây dựng. Một ở phía bắc Di Bá Hải, gọi tên là Di Bá Hải thành. Và một tòa thành khác đang được xây dựng trên bán đảo của đại hồ và được gọi là Đại Hồ thành. Hai tòa thành trì này nằm ở vị trí đối diện nhau, cách nhau không tới mười dặm. Chúng sẽ cùng lúc ở hai phía bắc nam tạo thành thế gọng kìm bóp chặt eo biển Di Bá Hải. Số lượng Đường quân hiện tại ở hai tòa thành này là ba ngàn người, nhiệm vụ chính là ngăn chặn các thương đội của ngoại quốc thông thương với Hồi Hột.
" Đại soái, mau nhìn kìa" Một tên lính chỉ về phía xa xa rồi hô to báo cho Vương Tư Vũ. Vương Tư Vũ giơ tay che ngang mày để khỏi bị ánh nắng mặt trời làm chói mắt, rồi phóng tầm mắt. Ông ta thấy ở phía xa đó xuất hiện một vệt đen dài dài. Nơi đó chính là bán đảo của Di Bá Hải rồi.
Đại Hồ thành được bắt đầu khởi công xây dựng từ tháng tư. Khu vực khống chế và kiểm soát của Hồi Hột nằm ở phía đông của hồ, cách nơi này chừng sáu trăm dặm. Còn ở phía nam là sa mạc rộng mênh mông, bát ngát, đó là lãnh thổ sớm nhất của những người tây Đột Quyết. Năm Hiển Khánh thứ hai, tướng nhà Đường là Tô Định Phương đánh bại bọn người tây Đột Quyết và từ đó phần lãnh thổ của Di Bá Hải chính thức được sáp nhập vào bản đồ của Đại Đường. Ban đầu nó được quy về cho Bắc Đình đô hộ phủ quản hạt. Nhưng sau cuộc đại chiến Đát La Tư, Đường quân đã toàn diện rút linh khỏi khu vực phía tây Thông Lĩnh và nhân cơ hội đó bọn người Cát La Lộc đã cướp lấy toàn bộ lưu vực Di Bá Hải và Hồi Hột cũng nhân cơ hội Đường quân rút lui, đục nước béo cò, tiến hành bành trướng về phía tây và chiếm luôn bờ đông của Di Bá Hải. Mãi cho tới tận hôm nay, khi mà bọn người Cát La Lộc đã bị diệt vong, chiến dịch Toái Diệp cũng đã thắng lợi Đại Đường lại một lần nữa có cơ hội tây tiến và ngược bắc. Toàn bộ một khu vực lãnh thổ rộng lớn ở phía đông sông Dược Sát cũng đã nằm trong phạm vi kiểm soát của Đại Đường rồi.
Đại Đường cũng tùy theo tình hình mà thay đổi phương pháp thống trị. Triều đình cho thành lập các quân trấn (quân đội đồn trú ở một đơn vị hành chính như thị trấn, xã ...) như là một biện pháp hiệu quả nhất để bảo vệ và quản lý các phần lãnh thổ rộng lớn mà Đại Đường thực tế khống chế. Bắt đầu từ tháng tư, Toái Diệp chính thức trở thành trụ sở của Tây Vực đô hộ phủ. Và ngay sau đó , Đại Đường lại cùng với Thạch quốc, Bạt Hãn Na quốc, và một số nước khác, thành lập Đại Uyển đô đốc phủ. Phong cho Mã lão tướng quân làm Đại Uyển đô đốc, Võ Nguyên Hành làm Trưởng sử. Đại Uyển đô đốc phủ được chia ra làm mười quân trấn, như: Đát La Tư quân trấn, Câu Chiến Đề quân trấn, Bạch Thủy thành quân trấn, Chân Châu thành quân trấn, thậm chí là ở tận điểm xa nhất của phía bắc cũng có Tây Hải thành quân trấn ( Tây Hải ngày nay chính là Hàm Hải). Như vậy thì tính ra từ đô thành Thác Chiết của Thạch quốc tới đô thành Khát Tắc của Bạt Hãn Na quốc, số quân đồn trú đã lên tới hai vạn người. Với số quân đội này hoàn toàn đủ sức bảo vệ và khống chế được một vùng lãnh thổ rộng lớn ở phía tây Toái Diệp.
Đội tàu thuyền của Vương Tư Vũ chậm rãi tiến sát tới bến tàu. Bến tàu nằm ở đoạn giữa của bán đảo ở hồ lớn này. Ba mặt của nó là đất đai bao bọc, chỉ có một lối ra vào mà thôi. Đây có thể nói là một bến cảng rất tốt mà thiên nhiên đã tạo ra. Đại Hồ thành đã dựa trên cái vũng vịnh của thiên nhiên để mà tu tạo, xây dựng nên bến cảng cho phù hợp và hoàn mỹ hơn. Đại Hồ thành được xây dựng trên một gò núi, nó nằm cách điểm gần nhất của đại hồ chừng sáu bảy dặm, và cách với đất liền năm dặm. Xung quanh nó được bao trùm bởi rừng tuyết tùng rậm rạp. Ngay trước mắt, ở bên phía đối diện và Di Bá thành cũng đã được xây dựng xong trông rất chắc chắn, bề thế. Còn Hồ thành, xây dựng vẫn còn chưa xong, gần ngàn tên công binh đang làm việc ngày đêm để đẩy nhanh tốc độ xây dựng, cố gắng hoàn thành công việc trước mùa đông năm nay.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 46: " Đại Hồ trúc thành" b
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Khi đội tàu của Vương Tư Vũ vừa mới cập bến thì một loạt những tiếng vui mừng đã vang lên. Trên bến tàu, các binh sĩ theo thứ tự mà lần lượt cho các tàu thuyền của mình cập bến, neo đậu. Từ trên đỉnh núi mấy trăm tên Đường quân chạy ào xuống, để chuẩn bị vận chuyển các loại vật tư. Vương Tư Vũ lên bờ, nhìn ngó hai bên một chút như tìm kiếm ai đó, sau đó ông ta nói: " Thi tướng quân đâu rồi, sao không thấy hắn ra đón tiếp bổn soái"
Nửa tháng trước đây, Vương Tư Vũ đã bổ nhiệm Thi Dương làm Binh mã sứ của Đại Hồ thành, chịu trách nhiệm thống lĩnh năm ngàn quân đội của Đại Hồ thành và Di Bá thành. Chức vụ lần này mà hắn được nhận xem ra cũng chẳng được đề thăng là mấy nhưng nhiệm vụ và trách nhiệm thì lại nặng nề hơn nhiều. Đó là việc phải ngăn chặn một cách toàn diện việc ngoại quốc thông thương, và tuôn các loại vật tư vào Hồi Hột.
Một gã hiệu úy lập tức tiến lên phía trước báo cáo: " Hồi bẩm đại soái, sáng hôm nay, Thi tướng quân nhận được tin thám báo có một thương đội đang tiến về phía Hồi Hột, cho nên Thi tướng quân đã suất binh để đi đánh chặn rồi" – " Thì ra là như vậy" Vương Tư Vũ gật đầu, bước dọc theo thềm đá bước nhanh lên đỉnh núi.
Trong khi Vương Tư Vũ đang tiến hành công việc thị sát ở Đại Hồ thành thì cũng là lúc mà Binh mã sứ Thi Dương suất lĩnh hơn một ngàn kỵ binh cấp tốc tiến về phía nam. Bỏ lại sau lưng những tảng rừng tùng đen nhánh, Thi Dương cùng với binh lính tiến vào vùng sa mạc rộng lớn chỉ toàn một màu vàng của cát.
Sáng sớm hôm nay Thi Dương đã nhận được tin tức của tiểu đội thám báo. Theo đó Đường quân đã phát hiện ra ở dọc sa mạc đã xuất hiện một thương đội lớn của người Túc Đặc, với khoảng chừng một ngàn thớt lạc đà, cùng hơn ba trăm người áp tải. Trong hàng hóa có cả vũ khí. Đường quân mặc dù đã có cảnh cáo nhưng bọn chúng vẫn cố tình đi về phía đông.
Thi Dương suất lĩnh một ngàn kỵ binh đi theo đường vòng để đón chặn cái thương đội kia. Dựa theo tốc độ của lạc đà thì chắc chắn đội quân của Thi Dương sẽ đón lõng và đánh thẳng vào tiền phương của chúng. Lúc này, Thi Dương đứng trên một đồi cát, tầm mắt phóng ra xa về chân trời phía tây. Còn mấy tên thám báo khác thì thay nhau đi thám thính phía trước.
Lúc này, ở chân trời phía tây bỗng xuất hiện một chấm đen nhở đang chạy rất nhanh về phía Thi Dương. Và càng lúc thì cái chấm đen ấy lại càng hiện ra rõ hơn. Đó là một tên thám báo của Đường quân, hắn chạy nhanh như cơn lốc, đến trước mặt Thi Dương, ôm quyền bẩm báo: " Khởi bẩm tướng quân, thuộc hạ đã phát hiện ra hành tung của thương đội Túc Đặc, chúng còn đang cách chúng ta hai mươi dặm theo hướng chính tây"
" Được rồi! Cứ tiếp tục theo dõi tiếp đi" Thi Dương phân phó cho tên thám báo quân, còn bản thân mình thi vung tay lên, ra hiệu cho toàn quân di chuyển. Hắn dẫn đầu đại đội Đường quân di chuyển khỏi cái gò cát đó, nhắm theo hướng tây mà quất ngựa chạy đi như điên. Đường quân chạy được chừng mười dặm thì đã có thể nhìn thấy một hắc tuyến ở phương xa. Cái hắc tuyến ấy cũng đang di chuyển về hướng bọn họ. Trên sa mach này, dĩ nhiên là thương đội Túc Đặc cũng nhìn ra bọn họ, nên lập tức bọn chúng quay đầu về hướng nam mà bỏ chạy.
Thi Dương lập tức lạnh lùng ra lệnh: " Chặn bọn chúng lại, nếu kẻ nào to gan dám kháng cự thì giết ngay không cần hỏi" lệnh của Thi Dương ban ra, Đường quân sát khí nổi ầm ầm như xộc thẳng lên trời xanh. Trường sóc ngang yên ngựa, cung tên đã căng. Toàn đại đội Đường quân dàn trận như hình quạt nhắm thẳng thương đội mà ập tới.
Thương đội Túc Đặc này đến từ Bố Cáp Lạp, đây cũng là thương đội làm ăn và kiếm lời lâu năm trên đất Hồi Hột. Chủ nhân của thương đội này là một trong ba đại thương nhân Túc Đặc có danh vọng,và có ảnh hưởng nhất đối với thị trường buôn bán của quốc gia này. Ông ta là người nắm giữ và lũng đoạn các sản phẩm gang sắt và vải vóc của Hồi Hột. Lần này, bởi vì Hiệt Kiền Già Tư cần chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh, nên ông ta nhận được mệnh lệnh là phải vận chuyển hai mươi vạn cân sắt cùng một số lượng lớn vải vóc từ Bố Cáp Lạp thành tới Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý. Để đề phòng việc bị Đường quân chặn lại, nên thương đội này đã chọn đi theo đường sa mạc phía bắc có ít người qua lại. Ai ngờ khi đi qua Di Bá Hải này thì lại bị Đường quân phát hiện và truy kích.
Những tên quản sự chịu trách nhiệm áp tải số hàng hóa này khi phát hiện thấy có đại đội Đường quân ở xa xa kia, lập tức tên nào tên nấy đều luống cuống, mất hết bình tĩnh. Bọn chúng định sẽ cho lạc đà chạy vào sâu trong sa mạc để trốn tránh, nhưng tốc độ của lạc đà làm sao có thể bằng tốc độ chiến mã của Đường quân chứ. Không tới nửa canh giờ sau, đại đội Đường quân đã vây chặt cả cái thương đội ấy rồi.
" Giết" Thi Dương ra lệnh cho toàn quân tru diệt đám thương nhân kia. Vì phải nghiêm chỉnh chấp hành nhiệm vụ ngăn cản tuyệt đối hàng hóa vào Hồi Hột nên Thi Dương buộc lòng phải sử dụng đến biện pháp tàn khốc đối với những tên thương nhân ngu xuẩn không chịu nghe lời cảnh cáo. Hắn cho rằng chỉ có biện pháp này là hữu hiệu nhất để trấn áp đối phương.
Đường quân không hề hỏi han, hay cảnh báo một lời nào nữa, bọn họ huy động trường sóc, sát khí đùng đùng mà xông lên. Trong thương đội có nhiều người thấy Đường quân đã bắt đầu giết chóc không thương tiếc, nên vô cùng sợ hãi đến nỗi từ trên lạc đà mã té nhào xuống, rồi rối rít quỳ lạy van xin tha mạng, cũng có kẻ ngoan cố rút đao quyết liều mạng với Đường quân. Nhưng bọn chúng nào phải là đối thủ của Đường quân. Chỉ trong một chốc lát thời gian, gần trăm tên tùy tùng áp tải thương đội ngoan cố chống cự đã bị Đường quân giết chết không còn lấy một mống. Những tên thương nhân Túc Đặc còn lại, rối rít quỳ trên cát van xin tha mạng. Đường quân cũng không thèm chôn thi thể của những tên kia, bọn họ dắt theo lạc đà cũng những tên Túc Đặc đầu hàng trở về Đại Hồ thành.
Khi vừa mới trở về khu vực quân doanh ở Đại Hồ thành, Thi Dương đã được một tên lính báo cho biết việc chủ soái đã tới. Thi Dương liền quay đầu, phân phó cho một tên Hiệu úy: " Ngươi hãy đem bọn chúng tới công trường, còn các vật tư thì mang đến kho hàng"
Phân phó xong đâu đấy, Thi Dương vội vàng chạy đến chỗ công trường đang xây dựng Đại Hồ thành. Từ xa hắn đã nhìn thấy Vương Tư Vũ cùng với mấy tên tùy tướng đang đi xem xét tình hình xây dựng thành trì. Thi Dương cho ngựa chạy đến gần chỗ Vương Tư Vũ, rồi tung mình xuống ngựa, hắn liền quỳ theo kiểu quân đội, thực hiện nghi thức chào: " Đại Hồ thành Binh mã sứ Thi Dương tham kiến đại soái"
Vương Tư Vũ khoát tay áo cười nói: " Thế nào rồi, đi ra ngoài chặn đánh thương đội Hồi Hột có thu được kết quả gì không hả"
" Hồi bẩm đại soái, thuộc hạ đã chặn bắt được thương đội đó rồi. Kết quả thu được hai mươi vạn cân sắt, còn có một số lượng lớn vải bông nữa"
" Hai mươi vạn cân sắt ư" Vương Tư Vũ âm thầm giật mình kinh hãi. Với hai mươi vạn cân sắt này thì sẽ chế tạo được không biết bao nhiêu là binh khí. Điều này thể hiện cái gì đây, phải chăng Hồi Hột chuẩn bị phát động chiến tranh hay sao"
" Ngươi làm rất tốt" Vương Tư Vũ tỏ ý tán dương hắn: " Lần này ta mang tới cho các ngươi thêm ba vạn thạch lương thực, cùng với năm mươi cỗ máy ném đá, ngoài ra còn có đạn Thiên lôi, cung tiễn, lều bạt, quân khí, khôi giáp và nhiều loại vật phẩm khác nữa. Nếu như có thể ta hy vọng ngươi đốc thúc để hoàn thành việc xây dựng, sao cho cuối tháng mười chúng ta có thể vào đồn trú trong thành. Nếu như còn có khó khăn gì thì cứ nói cho ta biết."
" Tạ ơn tướng quân đã quan tâm. Nếu như cứ theo tiến độ xây dựng như thế này thì không cần đến tháng mười mà chỉ độ trung tuần tháng chín thì Đại Hồ thành sẽ được hoàn thành" Nói đến đây Thi Dương hơi chần chừ một chút, rồi lại nói tiếp: " Bất quá, thuộc hạ cũng có một thỉnh cầu với đại soái"
" Có thỉnh cầu gì ngươi cứ nói ra cho ta nghe xem"
" Hiện tại ở đây, chúng thuộc hạ mới có hai mươi chiếc thuyền tuần tra canh gác, lại còn phải sử dụng để thường xuyên tới lui Di Bá thành ở bên kia. Vì thế thuộc hạ muốn thỉnh cầu đại soái không biết người có thể để lại đây cho chúng thuộc hạ một trăm chiếc đại thuyền được không ạ"
Sắc mặt của trở nên Vương Tư Vũ trầm ngâm, ông ta đang suy tính điều gì đó. Hai mươi vạn cân sắt đã bị Đường quân chặn bắt đi hết, dĩ nhiên bọn người Hồi Hột kia sẽ không cam tâm chịu thất bại như vậy, chúng sẽ phái binh đến tấn công Đại Hồ thành này, để nhổ đi cái gai trong mắt. Cho nên nếu để lại đây một trăm chiến thuyền thì cũng rất có ích. Còn nữa, hai trăm chiếc thuyền còn lại cũng đủ để chở hai mươi vạn cân sắt mà Thi Dương vừa đoạt được. Nghĩ như thế Vương Tư Vũ liền gật đầu, sảng khoái cười nói: " Được rồi! Ta đồng ý với ngươi, sẽ để lại cho ngươi một trăm chiến thuyền"
Trên thảo nguyên, tinh kỳ phấp phới, kèn sáo vui tươi, phấn chấn. Hôm nay ở Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý diễn ra một buổi lễ nghênh tiếp có thể gọi là long trọng nhất trong năm. Hồi Hột Khả Hãn Hiệt Kiền Già Tư, đích thân dẫn theo các quý tộc Hồi Hột cả thảy là hơn ba trăm người, đi một quãng đường cách đô thành Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý năm mươi dặm để nghênh đón Duy Tề Nhĩ của Đại Thực là Diệp Cáp Nhã. Hiệt Kiền Già Tư hiểu biết rất rõ về địa vị của Diệp Cáp Nhã ở Đại Thực. Nên vị tân Khả Hãn này cũng đón tiếp ông ta với nghi thức long trọng, y như Calipha đích thân đến đây.
g hoàn thành công việc trước mùa đông năm nay.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 46: " Đại Hồ trúc thành" c
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Hiệt Kiền Già Tư mới đăng vị Khả Hãn được có mấy tháng, những Diệp Cáp Nhã đã từ Đại Thực mà lặn lội sang tận đây, điều này cho thấy Đại Thực rất coi trọng Hồi Hột. Trong lễ đón rước khách quý Diệp Cáp Nhã không chỉ có Hiệt Kiền Già Tư, mà còn có hơn mười người thương nhân Túc Đặc, quốc sư của Ma Ni Giáo Tô Nhĩ Mạn.
Sau khi Hiệt Kiền Già Tư sát hại Trung Trinh Khả Hãn bằng thuốc độc, rồi đăng vị , thì ở Hồi Hột không hề xuất hiện cục diện thuận lợi theo hướng một chiều được vạn dân ủng hộ như lời của Tô Nhĩ Mạn đã nói với ông ta. Mà ngược lại phái " thân Đường" kiên quyết không chấp nhận lý do công chúa Đại Đường hạ độc vào rượu của Khả Hãn, theo cách lập luận của họ thì công chúa từ đầu tới cuối không hề có cơ hội để đến gần Trung Trinh Khả Hãn chứ nói gì tới hạ độc. Nếu luận điệu của Hiệt Kiền Già Tư thì ai cũng có thể thủ phạm. Không chỉ biện hộ cho công chúa Đại Đường, phái " thân Đường" còn quay sang hoài nghi việc quân đội tại sao lại được điều động trước khi Khả Hãn chết. Bọn họ kết luận đây chính là một âm mưu đã được bày ra tỉ mỉ từ trước, và kẻ tình nghi số một trong chuyện này không ai khác chính là tân Khả Hãn Hiệt Kiền Già Tư. Bởi vì chỉ có ông ta mới có khả năng điều động một lượng lớn quân đội như thế, và cũng chính ông ta là người hưởng lợi ích lớn nhất sau cái chết của Trung Trinh Khả Hãn.
Nếu như Hiệt Kiền Già Tư sau khi lên ngôi Khả Hãn, mà thay đổi các chủ trương chính sách của Trung Trinh Khả Hãn trước đó như: Xóa bỏ quốc sách dao động, hoàn toàn ủng hộ và liên minh với Đại Đường, tiếp tục cưới và lập công chúa Đại Đường làm Khả Đôn, thì có lẽ phái " thân Đường" sẽ thừa nhận ngôi vị Khả Hãn của ông ta. Nhưng đằng này, Hiệt Kiền Già Tư ngay sau khi đăng vị cũng thay đổi quốc sách của Hồi Hột, nhưng lại hoàn toàn chuyển hướng Đại Thực. Chính điều này khiến cho phái " thân Đường" mất hết kiên nhẫn và " chút nhân tình" với ông ta. Bọn họ tập hợp mấy chục vạn người rời đi tới Khả Đôn thành ở phía đông Hồi Hột thành lập nước Đông Hồi Hột, chính thức cùng Hiệt Kiền Già Tư đối đầu. Từ đó khiến cho số lượng nhân khẩu của Hồi Hột mấy trăm năm gần đây vốn đã ít ỏi nay lại càng giảm đi nhiều nữa.
Sau tháng năm, Đại Đường tập trung điều động mấy chục vạn quân đội tới khắp biên giới Đường – Hồi. Theo đó Đại Đường cấm hoàn toàn việc vận chuyển buôn bán lương thực, muối, đường, gang sắt, đồng, dầu hỏa và các vật tư chiến lược khác, ngược bắc để chuyển sang Hồi Hột. Thậm chí ngay cả lá trà cũng cấm không cho ngược sang phía bắc. Lệnh đã ban ra mà kẻ nào cố tình vi phạm thì ngoài việc tịch biên gia sản, còn bị chém đầu. Đại Đường chỉ vẻn vẹn mở một địa điểm buôn bán nhỏ ở Cửu Nguyên, nhưng cũng chỉ cho phép mua bán trao đổi đồ sứ, tơ lụa và các mặt hàng xa xỉ với Hồi Hột.
Từ sau khi Hiệt Kiền Già Tư lên ngôi Khả Hãn thì quan hệ gữa Hồi Hột với Đại Đường ngày càng chuyển biến theo hướng xấu đi. Đó cũng chính là hậu quả của một loạt chính sách " thù hằn" mà ông ta đã thi hành với Đường triều. Dĩ nhiên bọn người Hiệt Kiền Già Tư cũng đã dự đoán được điều này, nhưng bọn chúng vẫn bình tĩnh không mấy lo lắng, bởi vì mặc đù Đại Đường cấm vận toàn diện việc trao đổi mua bán với Hồi Hột nhưng bọn họ vẫn có thể nhận được các vật tư cần thiết từ phía tây. Chính Diệp Cáp Nhã là người nói ra điều này.
Hai canh giờ sau, ba ngàn Đại Thực quân làm nhiệm vụ đi theo hộ tống xe ngựa của Diệp Cáp Nhã đã xuất hiện ở phía cuối thảo nguyên. Diệp Cáp Nhã bắt đầu khởi hành từ Ba Cách Đạt vào hạ tuần tháng năm. Trải qua hơn một tháng hành trình, bây giờ ông ta mới tới được Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý . Thật ra thì Hàn Đóa Nhĩ Bát Lý không phải là địa điểm chủ yếu trong hành trình của ông ta. Mục đích chuyến đi lần này của Diệp Cáp Nhã là tới Đại Đường, để cùng với Đại Đường hoàng đế thương lượng về vấn đề tù binh của chiến trường Toái Diệp. Ông ta tới Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý chẳng qua cũng chỉ là tiện đường nên rẽ vào thăm một chút. Cũng là tiện thể chủ động lôi kéo đại quốc du mục ở phương đông này về với Đại Thực.
Lợi dụng Hồi Hột để kiềm chế Đại Đường, chính là chủ trương mà Diệp Cáp Nhã theo đuổi và bảo vệ bấy lâu nay. Lệnh cho Tô Nhĩ Mạn giết Trung Trinh Khả Hãn bằng thuốc độc, rồi nâng đỡ, ủng hộ cho phái " thân Đại Thực" lên làm tâm Khả Hãn chính là chủ ý của ông ta. Lần này, những việc đó đều diễn ra suôn sẻ, nên kế hoạch của ông ta coi như đã thành công. Thành công này đã làm cho ông ta vui mừng không dứt. Trước khi đi Diệp Cáp Nhã còn thuyết phục Lạp Hy Đức phong Hiệt Kiền Già Tư làm Đông Phương Khả Hãn, ban thưởng cho hắn vạn lượng hoàng kim, mĩ nữ trăm người. a đó Đại Thực muốn có được sự thần phục và tin tưởng của Hiệt Kiền Già Tư.
Xe ngựa của Diệp Cáp Nhã từ từ chạy đến gần chỗ bọn người Hiệt Kiền Già Tư. Và vị Khả Hãn này cũng tự mình bỏ qua vị thế và sự tôn nghiêm của một vị quân vương, mà đích thân đến tận trước xe ngựa để hành lễ với Diệp Cáp Nhã – nhân vật quyền quý số một Đại Thực.
" Hồi Hột Khả Hãn Hiệt Kiền Già Tư tham kiến Duy Tề Nhĩ điện hạ của A Bạt Tư đế quốc. Điện hạ trên đường đi thật là chịu nhiều cực khổ rồi"
Cửa xe ngựa được mở ra, Diệp Cáp Nhã được hai tên thị về đỡ rước xuống xe. Ông ta cười sảng khoái, đáp lễ trả lời Hiệt Hiền Già Tư: " Khả Hãn đích thân đến tận đây nghênh đón, Diệp Cáp Nhã ta đây thật là nhận không nổi rồi. Lần này ta được Calipha ủy thác, đặc biệt tới đây để cùng Hồi Hột kết đồng minh, đồng thời bày tỏ sự ca ngợi trước sự ủng hộ của Khả Hãn đối với Đại Thực chúng ta."
Dứt lời, Diệp Cáp Nhã vung tay ra hiệu, ngay lập tức mấy tên thị vệ đã khiêng hai cái rương lớn nặng trịch tới đặt ngay trước mặt của Hiệt Kiền Già Tư. Ông ta sai người mở nắp rương, lập tức đập vào mắt mọi người là ánh kim quang sáng chóe. Trong rương đó chính là những thỏi vàng ròng. Đồng thời Diệp Cáp Nhã ra lệnh cho mười mấy chiếc xe ngựa khác tiến lại gần hơn, màn xe được kéo ra. Và ở bên trong những chiếc xe ngựa này chính là những mỹ nữ tây phương vô cùng kiều mị đẹp mê hồn. Ông ta chỉ vào số hoàng kim và một trăm mỹ nữ rồi nói với Hiệt Kiền Già Tư: " Một vạn lượng hoàng kim và một trăm mỹ nữ này là lễ vật Calipha bệ hạ ban tặng cho ngài. Ta biết rằng những lễ vật này chẳng làm cho Khả Hãn để mắt tới nhưng dù sao đó cũng là tâm ý của Calipha bệ hạ, xin Khả Hãn hãy vui lòng nhận cho"
Hiệt Kiền Già Tư đối với vạn lượng hoàng kim kia cũng không có mấy để ý, nhưng một trăm mỹ nhân da trắng nõn nà, dáng người cao thon thả, tóc vàng, mắt xanh biếc lại làm cho vị tân Khả Hãn này động tâm không ngớt. Hiệt Kiền Già Tư vui mừng khôn xiết, luôn miệng rối rít nói cảm ơn, rồi sai người đem hoàng kim và người đẹp đưa thẳng vào trong cung.
Ánh mắt sắc bén của Diệp Cáp Nhã không bỏ qua cơ hội này để quan sát Hiệt Kiền Già Tư. Từng biểu hiện nhỏ nhất trên nét mặt của vị Khả Hãn này đều lọt vào trong mắt của Diệp Cáp Nhã. Khi nhìn hoàng kim Hiệt Kiền Già Tư chỉ cười nhẹ một cái, còn khi nhìn thấy một trăm mỹ nữ tây phương, ánh mắt của ông ta sáng hẳn lên, không kiềm chế được bản năng nên nuốt nước miếng ừng ực. Chỉ với những biểu hiện như thế thôi Diệp Cáp Nhã đã đoán biết ngay Khả Hãn Hồi Hột chỉ là tên háo sắc mà thôi. Ông ta thích mỹ nhân không tốt sao? Ở A Bạt Tư đế quốc có rất nhiều mỹ nhân tuyệt sắc. Thậm chí Diệp Cáp Nhã còn muốn khuyên Lạp Hy Đức đem " ánh trăng của Ba Cách Đạt" là A Ba Tái gả cho ông ta, như thế Đại Thực sẽ khống chế được Hồi Hột một cách chắc chắn.
Nghĩ tới đây, Diệp Cáp Nhã khẽ mỉm cười, ông ta lấy ra một tờ chiếu lệnh được viết trên da dê, nói: " Lần này ta tới Hồi Hột, còn thực hiện một nhiệm vụ mà Calipha giao cho, đó là chính thức sắc phong Khả Hãn làm Đông Phương Khả Hãn. Việc sắc phong này hoàn toàn khác với việc sắc phong của Đại Đường. Nếu như Đại Đường sắc phong cho Khả Hãn như là một ân điển của bề trên với thuộc hạ, thì A Bạt Tư đế quốc chúng tôi sắc phong Khả Hãn thể hiện sự tôn kính của mình với người anh em Hồi Hột. Hy vọng Khả Hãn sẽ vui mừng đón nhận danh hiệu được phong này"
Hiệt Kiền Già Tư dĩ nhiên hiểu được đây chỉ là những lời nói có cánh, cho việc xã giao mà thôi, còn thực tế khi tiếp nhận sắc phong thì Hồi Hột sẽ chính thức phải thừa nhận quan hệ phụ thuộc với Đại Thực. Và tất nhiên, bản chất của bản sắc phong này cũng không khác gì với bản sắc của Đại Đường. Nhưng đến thời điểm này Hiệt Kiền Già Tư đã mất đi cơ hội được lựa chọn rồi. Nhân khẩu của Hồi Hột ngày một ít dần, thực lực của đất nước ngày càng suy yếu. Vì thế hơn lúc nào hết ông ta cần được Đại Thực ủng hộ một cách toàn diện. Hiệt Kiền Già Tư quỳ xuống, cùng kính nhần tờ chiếu lệnh viết trên da dê từ tay Diệp Cáp Nhã, rồi nói thật dõng dạc: " Hiệt Kiền Già Tư vui mừng tiếp nhận sắc phong của Calipha bệ hạ" – " Đại Hãn, xin người hãy mau đứng lên đi" Diệp Cáp Nhã tranh thủ đỡ ông ta đứng dậy. Khi ánh mắt của hai người vừa chạm vào nhau, thì không ai bảo ai cùng cười lên ha hả rất sảng khoái. Hiệt Kiền Già Tư chỉ tay về một đại trướng ở phía xa xa, nhiệt tình mời chào thượng khách Diệp Cáp Nhã: " Ta đã chuẩn bị cả núi thịt, biển rượu để chào mừng Duy Tề Nhĩ điện hạ. Hôm nay chúng ta không say không nghỉ đấy nhé"
" Được lắm, hôm nay chúng ta không say không về"
style='mso-special-character:line-break'> g hoàn thành công việc trước mùa đông năm nay.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 47: " Phong tỏa dữ phản phong tỏa"
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Bên trong đại trướng được phủ bằng vải màu trắng ấy là một tiệc rượu thịnh soạn đã được bày ra . Trên mỗi chiếc bàn nhỏ bày ra la liệt nào là thịt dê quay thơm nức, rồi những bình rượu làm từ sữa ngựa, trong những cái khay vàng là những chùm nho xanh và nhiều loại trái cây tươi ngon khác. Vì thân phận tôn quý nên Diệp Cáp Nhã được trang trọng ngồi ở vị chính giữa chủ tọa của bữa tiệc cùng với Hiệt Kiền Già Tư. Ngồi bên cạnh Diệp Cáp Nhã là Hồi Hột quốc sư Tô Nhĩ Mạn, bên dưới một chút nữa là Hồi Hột tướng quốc Giang Mộ Hạ Đạt Kiền, rồi đến các thương nhân Túc Đặc và các Diệp hộ đại diện cho quý tộc Hồi Hột.Còn ngồi bên cạnh Hiệt Kiền Già Tư cũng là một nhân vật trọng yếu khác của Đại Thực tên gọi là Hầu Tái Nhĩ. Hầu Tái Nhĩ chính là Tổng đốc của Tự Lợi Á, vị tổng đốc này tháp tùng Diệp Cáp Nhã trong chuyến đi này.
Cuộc đảo chính Hồi Hột đã thành công tốt đẹp, nên dĩ nhiên Diệp Cáp Nhã rất hài lòng về Tô Nhĩ Mạn. Vị Duy Tề Nhĩ của Đại Thực cũng liên tiếp mời rượu vị quốc sư này, đồng thời trong ánh mắt hiện lên đầy sự tán dương với Tô Nhĩ Mạn. Còn bản thân Tô Nhĩ Mạn cũng rất lấy làm hãnh diện về sự sủng ái đó. Ông ta đang nhớ lại lời hứa của Calipha với ông ta. Lạp Hy Đức đã hứa sẽ phong cho Tô Nhĩ Mạn làm Tổng đốc của Bố Cáp Lạp, đồng thời chấp thuận ban cho gia tộc của ông ta một vùng lãnh thổ rộng lớn ở Bố Cáp Lạp. Điều này thật sự có ý nghĩa rất lớn đối với gia tộc của Tô Nhĩ Mạn, bởi vì như vậy rốt cuộc sau nhiều năm chờ đợi cuối cùng bọn họ cũng có thể có bước đi đầu tiên trong sự nghiệp phục quốc của mình. Vậy là một trăm năm sau khi đế quốc A Bạt Tư sụp đổ thì đến ngày hôm nay, giấc mơ về vương triều Tô Nhĩ Mạn dần dần đã trở thành hiện thực rồi.
Mặc dù trong lòng Tô Nhĩ Mạn đang rất khao khát được Diệp Cáp Nhã tuyên bố điều này, nhưng Tô Nhĩ Mạn biết rằng, trong lúc này ông ta tuyết đối không được để cho Hiệt Kiền Già Tư nghi ngờ điều gì cả. Ông ta thấy Diệp Cáp Nhã quá chú ý đến mình nên vội ho lên một tiếng nói: " Duy Tề Nhĩ điện hạ, hiện tại Đại Đường đã phong tỏa hoàn toàn việc mua bán với Đại Thực, cho nên Hồi Hột rất thiếu thốn các loại vật tư, không biết A Bạt Tư đế quốc..."
Lời nói của Tô Nhĩ Mạn đã thu hút ánh mắt của mọi người xung quanh. Hồi Hột từ khi lập quốc đã là một nước du mục, cho nên nông nghiệp và thủ công nghiệp không được chú trọng, luôn tụt hậu ở phía sau. Suốt một trăm năm qua, Hồi Hột vẫn dựa vào việc Đại Đường bán giá ưu đãi, thậm chí là cung cấp vô điều kiện các mặt hàng như lương thực, gang sắt, lá trà và các loại vật tư khác. Trên thực tế thì các thương nhân Túc Đặc cũng có thể vận chuyển nhiều loại vật tư từ phương tây qua cho Hồi Hột. Nhưng không hề có chuyện ưu đãi hay miễn phí như Đại Đường. Bọn họ bắt người Hồi Hột phải dùng dê bò của mình để đổi lấy hàng hóa, nhưng dĩ nhiên là các hàng hóa này có giá rất cao. Cho nên đối với nhiều quý tộc Hồi Hột, việc Đại Đường không buôn bán, giao dịch với Hồi Hột chẳng khác nào bọn họ bị cắt đi một bữa trưa miễn phí. Tất cả đều không muốn mất đi một thói quen " tiết kiệm-hiệu quả này" Cho nên tất cả đều hướng ánh mắt về phía Diệp Cáp Nhã, hy vọng Đại Thực cũng có thể khẳng khái như Đại Đường trước đây.
Diệp Cáp Nhã âm thầm cười lạnh trong lòng. Rồi ông ta bưng bát cốc rượu đứng lên, cười nói đầy vẻ hào sảng với các quý tộc Hồi Hột: " Mọi người đều biết, A Bạt Tư đế quốc chúng ta theo tín ngưỡng Đạo Hồi. Trong giáo nghĩa của chúng ta đã tuyên bố rõ, đối với anh em huynh đệ thì thời thời khắc khắc phải quan tâm, đối với những người cần lao nghèo khó phải vô tư giúp đỡ, còn đối với những kẻ lười biếng thì phải cho chúng nhận sự trừng phát. Hồi Hột dĩ nhiên là huynh đệ của Đại Thực chúng ta, nhưng mọi người là những người cần lao hay là những kẻ lười biếng. Điều này do chính các vị quyết định. Chỉ cần các vị cho Calipha thấy được một mặt cần lao của các vị thì Hồi Hột sẽ có lương thực, sẽ có lá trà, sẽ c y phục vải vóc, sẽ có khôi giáp. Nói tóm lại là Hồi Hột muốn gì cũng đều được đáp ứng. Các vị hiểu ý của ta chứ."
Diệp Cáp Nhã lưu lại ở Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý trong ba ngày, sau đó ông ta lập tức xuôi nam đi Đại Đường. Sau khi vị Duy Tề Nhĩ này đi khỏi, Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý lại trở về với sự bình lặng vốn có. Hiệt Kiền Già Tư không làm được như hy vọng của Diệp Cáp Nhã là cố gắng trở thành một con người cần lao, chịu khó. Diệp Cáp Nhã đi rồi, vị Khả Hãn này " đóng đô" trong tẩm cung mười mấy ngày, không thèm ra ngoài cũng không thèm quan tâm chính sự. Trong tẩm cung, Hiệt Kiền Già Tư cùng với một trăm mỹ nhân kia uống rượu ca hát thâu đêm suốt sáng, tất cả chính vụ đều giao cho tướng quốc Giang Mộ Hạ Đạt Kiền. Đây cũng là một đặc điểm của Hiệt Kiền Già Tư, một khi ông ta đã hứng thú với cái gì là phải làm tận cùng mới thôi, và đối với nữ nhân thì phương châm đó cũng không ngoại lệ.
Vào một buổi sớm nọ, Tô Nhĩ Mạn cũng giống như những ngày khác, chuẩn bị đi tới thăm viếng các chùa chiền của Ma Ni Giáo. Tâm tình của ông ta không được tốt cho lắm. Vào một buổi tối Diệp Cáp Nhã đã triệu kiến riêng Tô Nhĩ Mạn, vị Duy Tề Nhĩ của Đại Thực đã nói rõ cho ông ta biết, trước những công lao mà ông ta vừa lập được, Calipha bệ hạ chắc chắn sẽ phong ông ta làm Tổng đốc Bố Cáp Lạp, nhưng còn việc gia tộc của Tô Nhĩ Mạn muốn nhận được môt khu vực đất đai rộng lớn ở Bố Cáp Lạp thì mấy cái công lao kia vẫn chưa đủ. Ông ta phải khiến cho Hồi Hột chăm chỉ, chịu khó hơn, phải cố gắng đi tấn công Đại Đường, làm suy yếu sự thống trị của Đại Đường ở Tây Vực, thậm chí nếu như có thể thì tốt nhất Hồi Hột phải tấn công thẳng vào nội địa Đại Đường. Nếu Tô Nhĩ Mạn làm được như thế thì gia tộc của ông ta mới có thể nhận được một diện tích đất đai rộng lớn và cả nô lệ nữa.
Nguyên nhân khiên Tô Nhĩ Mạn phiền lòng không phải là bởi vì ông ta không thể thuyết phục được Hiệt Kiền Già Tư tấn công Đại Đường. Bản thân Hiệt Kiền Già Tư cũng chính là người có tư tưởng phản Đường mạnh mẽ. Mà điểm mấu chốt khiến Hồi Hột không thể tấn công Đại Đường là vì đám người Hiệt Kiết Tư kia cứ như một thanh chủy thủ sắc bén, lúc nào cũng lơ lửng ở phía sau lưng Hồi Hột. Lại còn cả cái đám người phản bội " thân Đường" kia nữa, lúc nào cũng phải kiềm chế chúng. Bao nhiêu mối lo như vậy thì làm sao bọn họ có thể đem binh tấn công Đại Đường được chứ.
Còn một nguyên nhân trọng yếu khác khiến cho Hồi Hột càng lúc càng bạc nhược đó là việc Tô Nhĩ Mạn đã nhìn lầm người. Ban đầu ông ta cứ nghĩ rằng sau khi Hiệt Kiền Già Tư lên trị vì thì vị tân Khả Hãn này sẽ sẵn sàng xuất quân, chuẩn bị cùng Đại Đường quyết chiến. Nhưng Tô Nhĩ Mạn lại không lường được cái thói tham tửu sắc của Hiệt Kiền Già Tư. Mang tiếng là Khả Hãn mà cả ngày cùng nữ nhân uống rượu mua vui, bỏ mặc tất cả. Mấy lần Tô Nhĩ Mạn đã đề nghị là cần phải tiến lên phía bắc để dẹp ngay bọn người Hiệt Kiết Tư, nhưng vị Khả Hãn này lại mượn cớ cần phải bồi dưỡng và nâng cao thực lực Hồi Hột mà cứ trì hoãn, chậm chạp không chịu xuất binh Hiệt Kiền Già Tư đã hoàn toàn quên mất lời thề vào năm đầu tiên ông ta đăng vị, đó là đầu mùa xuân sang năm sẽ đem quân truy quét, giết sạch bọn người Hiệt Kiết Tư không còn một mảnh giáp. Vậy mà ngoại trừ việc khống chế tất cả quân quyền trong tay ra, còn lại tất cả chính vụ đều vứt cho tướng quốc Giang Mộ Hạ Đạt Hãn giải quyết, còn bản thân Hiệt Kiền Già Tư thì chẳng quan tâm đến việc gì cả.
Tình trạng này cứ thế tiếp diễn trong triều đình Hồi Hột. Mắt thấy Hiệt Kiền Già Tư ngày càng sa vào tửu sắc, vậy thì bao giờ mới có thể đứng lên trở thành con người cần lao chăm chỉ đây? Đến bao giờ gia tộc của mình mới nhận được đất đai ở Bố Cáp Lạp đây? Tô Nhĩ Mạn nhìn thực tế mà vô cùng lo lắng
Vừa mới đặt chân ra con đường cái, Tô Nhĩ Mạn đã chạm mặt ngay với một người đang vội vã hớt hải chạy đến chỗ ông ta. Tô Nhĩ Mạn lập tức nhận ra người này. Hắn tên gọi là Kha Đặc, là một trong ba đại thương nhân Túc Đặc có ảnh hưởng lớn nhất với kinh tế Hồi Hột. Gia tộc của Kha Đặc ở Bố Cáp Lạp cũng là một gia tộc đầy danh vọng. Vì có nhân duyên đồng hương là Bố Cáp Lạp nên quan hệ của Tô Nhĩ Mạn và Kha Đặc cũng rất tốt. Giờ phút này, ông ta thấy sắc mặt của Kha Đặc đầy vẻ kinh hoàng như vậy nên trong lòng cũng không khỏi kinh ngạc.
Kha Đặc chắc chắn là ông chủ của cái thương đội một ngàn thớt lạc đà mà đã bị Thi Dương " làm thịt" ở sa mạc kia. Trong tay ông ta tổng cộng có hai mươi thương đội, các thương đội này thường xuyên tới lui giữa Bố Cáp Lạp và Hồi Hột để buôn bán giao dịch. Một trong số các thương đội của ông ta làm nhiệm vụ vận chuyển gang, sắt từ Bố Cáp Lạp đến Hồi Hột, lẽ ra thương đội này phải tới Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý từ hai mươi ngày trước rồi, nhưng mấy ngày gần đây mà vẫn không thấy tăm hơi đâu cả, nên trong lòng Kha Đặc nóng như lửa đốt, bởi cái thương đội đó đã ngốn mất một nửa vốn liếng của ông ta rồi. Đến tận khuya ngày hôm qua ông ta mới nhân được thông tin xác thực, có người đi dọc theo sa mạc đã phát hiện ra thi thể của các tùy tùng đi theo áp tải cho thương đội đó.
Danh Môn
Tác giả: Cao Nguyệt
-- o --
Quyển 4: Đế quốc chạm trán
Chương 47: " Phong tỏa dữ phản phong tỏa"b
Nhóm Dịch: Hồng Mai
Biên dịch: DHN
Nguồn: banlong.us
Cái tin tức ấy khiến cho Khả Đặc như muốn phát điên lên được. Ông ta lập tức đi cầu kiến Hồi Hột Khả Hãn, nhưng lại bị cự tuyệt. Sau đó ông ta lại nghĩ tới Tô Nhĩ Mạn, nên vội vàng đi tìm vị quốc sư này. Khi vừa nhìn thấy Tô Nhĩ Mạn, Khả Đặc đã kích động gào to lên: " Quốc sư ơi, xin ngài hãy cứu tôi với, tôi sắp phá sản rồi" Tô Nhĩ Mạn ngần người ra, dừng ngựa hỏi ông ta: " Rốt cuộc là đã có chuyện gì xảy ra với ông"
" Thương đội của tôi đi qua phía nam của Di Bá Hải đã bị Đường quân chặn bắt hết cả rồi. Tất cả hàng hóa hiện giờ đang ở đâu cũng không rõ nữa. Van xin quốc sư hãy cứu tôi với" Khả Đặc kích động, khóc tu tu thành tiếng.
" Không nên gấp gáp – Không nên gấp gáp" Tô Nhĩ Mạn vội vàng an ủi Khả Đặc, nhưng trong lòng ông ta cũng cảm thấy có điều không ổn lắm. Việc Đường quân cho xây dựng các quân thành ở Di Bá Hải ông ta cũng đã biết, và nếu như Đường quân là thủ phạm của việc chặn bắt thương đội kia thì chẳng phải là Hồi Hột bị hoàn toàn phong tỏa hay sao. Như vậy thì cho dù là Đại Thực có ủng hộ thế nào đi nữa thì các vật tư cũng chẳng có cách nào mà lọt vào lãnh thổ Hồi Hột được. Nhưng đây cũng lại là một cơ hội. Trong lòng Tô Nhĩ Mạn đang nghĩ tới việc lợi dụng chuyện này như một biện pháp để khiến cho Hiệt Kiền Già Tư phải chịu khó hơn.
Lúc này bên trong vương cung Hồi Hột không khí rất im ắng, chỉ tràn ngập mùi rượu và mùi phấn sáp mĩ nhân xộc thẳng vào mũi những người đứng gần đó. Hiệt Kiền Già Tư cùng hai mươi mấy mĩ nữ uống rượu mua vui đến tận nửa đêm mới lăn ra ngủ. Cho đến bây giờ đã sáng bảnh mắt ra mà Khả Hãn vẫn chưa tỉnh dậy Khả Hãn Hiệt Kiền Già Tư nằm trên một chiếc giường bằng vàng, tiếng ngày của ông ta thì như sấm rền. Hai người thị nữ chỉ dám đứng ở ngoài cửa dáo dác ngó vào trong, chứ không có kẻ nào dám đi vào trong. Mặc dù quốc sư Tô Nhĩ Mạn đã nói là có quốc sự cần bẩm báo gấp nhưng bọn chúng đều không dám vào đánh thức Khả Hãn, bởi vì nếu làm vậy rất có thể chúng sẽ bay đầu. Hai người hầu biết rằng chúng không thể làm gì được nên liếc nhau một cái, rồi xoay người đi ra ngoài.
Ở bên ngoài cung điện, Tô Nhĩ Mạn đang chắp tay sau lưng đi tới đi lui trên bậc thềm. Ông ta đã chờ đợi cả một canh giờ rồi. Quả thật, trong lòng Tô Nhĩ Mạn lúc này cảm thấy có chút tức giận. Hiệt Kiền Già Tư đường đường là Khả Hãn vậy mà lại hoang dâm vô độ. Không biết trong cuộc sống của Khả Hãn này ngoài rượu và nữ nhân ra thì còn có cái gì nữa không. Kể từ khi xác định tư tưởng ủng hộ Hiệt Kiền Già Tư lên ngôi tới nay, thì đây là lần đầu tiên Tô Nhĩ Mạn cảm thấy hối hận. Hối hận không nên ủng hộ cái kẻ ham mê tửu sắc này lên làm Khả Hãn, để rồi hắn bỏ mặc chẳng thèm quan tâm đến sự sống chết của Hồi Hột một mảy may nào. Nếu như lần này mà Hiệt Kiền Già Tư không chiụ tấn công Đại Đường, thì tương lai của chính ông ta sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều.
" Quốc sư" Một gã người hầu cuối cùng cũng bước ra ngoài cửa. Hắn bất đắc dĩ nói với Tô Nhĩ Mạn: " Hay là quốc sư chiều hãy quay lại thôi, chúng tiểu nhân thật sự không dám đánh Khả Hãn dậy đâu"
" Thật là vô liêm sỉ" Tô Nhĩ Mạn rốt cuộc đã nổi giận, ông ta hung hắng dậm chân, bức xúc: " Rồi sẽ có một ngày Hồi Hột này chôn vùi ở trong tay lão ta mà thôi"
Mắng xong, Tô Nhĩ Mạn liền để lại một bức tin nhắn, rồi xoay người rảo bước ra khỏi cung điện.
Hiệt Kiền Già Tư ngủ ngáy say sưa, kéo thẳng một mạch cho đến tận lúc trưa mới tỉnh dậy. Trong đầu ông ta mơ mơ hồ hồ, tất cả đều hỗn loạn. Khi nghiêng người ngồi dậy, Hiệt Kiền Già Tư phát hiện có một phong thư ở gần đó. Việc dâm dục phóng túng một cách vô độ khiến cho ông ta không còn sức khỏe để hỏi đến chuyện quốc sự nữa. Vừa nhìn thấy chính sự là vị Khả Hãn này đã cảm thấy chán ngán, phiền toái lắm rồi. Ông ta dụi dụi con mắt, thì thấy cái phong thư kia là của Tô Nhĩ Mạn. Nếu như là của người khác thì có lẽ ông ta đã chẳng do dự mà ném đi rồi. Nhưng phong thư ấy là của Tô Nhĩ Mạn, Hiệt Kiền Già Tư cũng phải xem qua một chút.
Hiệt Kiền Già Tư mở phong thư ra đọc, ông ta chỉ mới đọc đến một nửa thì đã cả kinh, đứng phắt dậy. Đường quân đã chặn bắt thương đội của Kha Đặc, nên Tô Nhĩ Mạn hy vọng ông ta có thể phái binh đi đánh dẹp các cứ điểm của Đường quân ở vùng phụ cận Di Bá Hải. Hiệt Kiền Già Tư hiểu rằng việc làm đó của Đường quân sẽ gây cho Hồi Hột hậu quả lớn tới mức nào. Đại Đường nghiêm cấm Đường - Hồi buôn bán, trao đổi lương thực, chuyện này Hiệt Kiền Già Tư cũng chẳng mấy lo lắng, vì ông ta còn có Đại Thực để mà dựa dẫm. Nhưng hiện tại Đường quân đã phong tỏa nốt cái đường thông thương về phía tây ấy. Thế có nghĩa là Hồi Hột sẽ chẳng thể nhận được một tí vật tư nào, cuối cùng sẽ chỉ biết ngồi mà chờ chết thôi.
Hiệt Kiền Già Tư mặc dù là kẻ hoang dâm vô độ, nhưng đối với sự việc liên quan đến sinh tử tồn vong của Hồi Hột ông ta cũng không dám khinh thường. Ông ta bước đi vài bước, rồi ra lệnh: " Thông báo cho tướng quốc và quốc sư lập tức đến gặp ta" .
Công việc xây dựng Đại Hồ thành cũng đang dần dần được hoàn thành. Trong khoảng thời gian một tháng gần đây, Thi Dương liên tục phải dùng biện pháp mạnh để chặn đánh các thương đội Túc Đặc ngoan cố, không chịu nghe cảnh cáo, cố ý liều mạng vận chuyển vật tư tới Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý. Tuy nhiên, các thương đội này cũng không có quy mô lớn, đại đa số là do cá nhân tổ chức, vì tiền mà các thương nhân này chấp nhận mạo hiểm tính mạng. Trong những cuộc chặn đánh ấy, Đường quân đã giết không ít người, số còn thì bắt hết, giải đến công trường làm khổ sai. Nhưng rồi công việc xây dựng Đại Hồ thành cũng sắp kết thúc, vô hình chung hơn một ngàn tên thương nhân bị bắt này lại trở thành gánh nặng với Đường quân. Cho nên Thi Dương đành phải cảnh cáo chúng một chập nữa rồi phóng thích cho chúng đi.
Nhưng bản thân Thi Dương cũng tự xác định tinh thần rõ ràng, đó là bọn người Hồi Hột kia sẽ không bao giờ khoanh tay ngồi nhìn Đường quân ngang dọc như thế. Cho nên ngay từ đầu tháng tám hắn đã cho một lượng lớn các thám báo quân theo cả đường thủy và đường bộ đi điều tra, thu thập động tĩnh của Hồi Hột. Điều làm hắn thấy kỳ quái nhất là từ đầu cho đến tận bây giờ Hồi Hột quân vẫn không hề có bất cứ động tĩnh gì cả.
Vào một ngày tháng chín, một gã thám báo quân trình báo cho Thi Dương một tin tức, đó là cách Đại Hồ thành chừng hơn ba mươi dặm có phát hiện một thương đội có quy mô rất lớn, với hai nghìn thớt lạc đà, và hơn bốn trăm người hộ tống., và trang bị đầy đủ các loại hàng hóa. Thi Dương nghe xong tin báo thì cả người ngây ngẩn. Hắn đang thắc mắc tại sao cái thương đội này lại đột nhiên xuất hiện ở đây mà trước đó không hề có chút dấu hiệu nào.
Trải qua mấy tháng tiến hành ngăn chặn các thương đội từ tây phương sang Hồi Hột, Đường quân đã cho thiết lập một hệ thống khá hoàn chỉnh từ: cảnh cáo, cảnh cáo lần nữa, và cuối cùng mới là đánh chặn. Hệ thống ấy được thực hiện và vận hành vô cùng thuận lợi, không bỏ xót một thương đội nào cả. Vậy mà cái thương đội lớn như thế đột nhiên xuất hiện, làm loạn cả hệ thống kia, khiến cho các điểm chốt ấy không hề phát hiện ra. Vậy là sao chứ? Dĩ nhiên cũng có khả năng, thương đội này đi theo phía nam của Yêu Long thành, rồi xuyên qua sa mạc tới đây. Nhưng nếu là như vậy thì hắn đã phải nhận được tin báo từ Yêu Long thành chứ. Đằng này một chút tin tức cũng không có. Nếu là ở đó quên, thì cũng không thể quên cái thương độ hai ngàn thớt lạc đà chứ.
Thi Dương suy luận một cách đơn giản, hắn theo lôgic mà tự phán đoán: Cái thương đội kia chắc chắn là đồ giả. Nó có lẽ là mồi nhử của địch nhân, hoặc là do chính quân Hồi Hột giả trang. Như vậy rõ ràng, cái thương đội kia vừa là để dụ Đường quân, vừa ẩn chứa một âm mưu nào đó. Thi Dương trầm tư hồi lâu rồi sau đó hắn tự đưa ra một quyết định mạo hiểm.
Cách đại hồ chừng hơn ba mươi dặm về phía nam chính là chỗ tiếp giáp giữa rừng rậm và sa mạc. Một thương đội lớn gồm hai ngàn thớt lạc đà đang nhàn nhã đi về phía đông dưới sự chỉ huy của viên đội trưởng. Bọn họ cơ bản là không thèm để ý tới những thám báo của Đường quân thường xuyên tới lui điều tra tình hình ở các khu vực ven rừng rậm. Tên đầu lĩnh của thương đội là một nam nhân khỏe mạnh, chừng hơn ba mươi tuổi. Mặc dù hắn khoác lên người bộ trang phục của thương nhân Túc Đặc, nhưng qua khuôn mặt cho thấy thì hắn rõ ràng là người Đột Quyết, mà hắn cũng không hề có một mảy may sự ứng xử khôn khéo, mềm dẻo của thương nhân Túc Đặc, ngược lại hắn mang khí chất trầm ổn, uy nghiêm của một quân nhân. Đám tùy tùng theo sau áp tải hàng hóa cũng là những tên xốc vác, cường tráng. Ánh mắt và giọng nói rõ ràng là người phương bắc. Dĩ nhiên bọn chúng chẳng có tên nào là thương nhân Túc Đặc cả. Đây chỉ là thương đội do Hồi Hột quân giả dạng mà thôi. Chúng từ khởi hành từ nội địa Hồi Hột rồi đi một đường vòng lớn tới phụ cận của Đại Hồ thành. Những cái rương hòm trên lưng lạc đà không phải là hàng hóa, mà đó chính là gần hai nghìn tên binh lính Hồi Hột ẩn thân trong đó.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro