Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 85: Chu Cao Sí tỉnh ngộ

Chương 85: Chu Cao Sí tỉnh ngộ

Tháng mười năm Kiến Văn thứ hai, tại Bắc Bình.

Mới hôm qua trời còn trong xanh se lạnh, vậy mà chỉ sau một đêm, tuyết đã rơi lả tả khắp nơi.

Mạnh Thanh Hòa đẩy cửa bước ra, giậm chân, xoa xoa tay rồi thổi một hơi, may mà hơi thở nóng hổi vẫn xua tan được chút khí lạnh.

Tin tức từ Nam Kinh vừa truyền đến, đại quân do Thịnh Dung suất lĩnh đã xuất phát, không bao lâu nữa sẽ tới Tế Nam. Hoạn quan trong cung làm việc rất tận tụy, công tác tình báo được thực hiện vô cùng tỉ mỉ, tất cả, từ tướng lĩnh cho đến các binh sĩ dưới trướng, lộ trình hành quân cho đến kế hoạch tấn công đại khái, vân vân,... đều được mật báo cho Yên Vương.

An Lục Hầu Ngô Kiệt đang trấn giữ thủ Đức Châu chịu áp lực lớn nhất, một khi Thịnh Dung đến Tế Nam, chắc chắn sẽ đánh Đức Châu trước. Không hạ được Đức Châu, có tiến quân vào Hà Bắc cũng sẽ luôn thấp thỏm không yên.

Yên Vương triệu tập chúng tướng lĩnh lại để bàn kế sách, ai cũng đề nghị tiến quân về Sơn Đông, tranh thủ cắm chốt trước khi đại quân triều đình đến.

Không ngờ khi lệnh ban xuống, mục tiêu của Yên quân lần này lại là Liêu Đông.

Liêu Vương sớm đã bị Kiến Văn Đế triệu về Nam Kinh, sau khi vào kinh đã bị giam trong phủ Liêu Vương ở Nam Kinh, đãi ngộ chẳng hơn gì Tề Vương đang bị giam lỏng là mấy.

Vùng đất Liêu Đông, đại đa số châu phủ đã quy thuận Yên Vương, những nơi còn lại toàn là xó xỉnh hẻo lánh, ngay cả huynh đệ hàng xóm Bắc Nguyên nghèo rớt mồng tơi còn chê, chẳng thèm đến cướp phá. Ở những nơi đó, ngoài khổ cực ra cũng chỉ còn lại sự rét buốt có thể khiến kẻ khác đông cứng. Thậm chí, chưa cần nói đến châu huyện, ngay cả đồn điền biên ải cũng ít ỏi, giữa mùa đông mà phái quân đi đánh những nơi này, chẳng phải là ăn no rửng mỡ lắm hay sao?

Các tướng lĩnh rất không hiểu, Yên Vương xưa nay vốn anh minh quyết đoán, sao lại đưa ra kế hoạch quân sự cứ như động kinh lên cơn vậy chứ....

Nhưng lệnh đã ban, phản đối cũng vô ích.

Quân lệnh như núi, Trương Ngọc, Chu Năng và các tướng lĩnh khác đành phải tuân lệnh hành sự.

Thẩm Tuyên vẫn suất lĩnh nhóm quân tiên phong, Dương Đạc vừa từ thảo nguyên trở về được biên chế vào dưới trướng Chu Năng.

Chu Cao Hú và Chu Cao Toại cùng đi chinh phạt, Bắc Bình giao cho Chu Cao Sí phòng thủ. Có bài học từ Lý Cảnh Long, dù biết Chu Đệ rời Bắc Bình, Thịnh Dung cũng không dám mạo hiểm tấn công thẳng vào địa bàn của Yên Vương. Dù có đánh Bắc Bình, bọn họ cũng phải nhẫn nại đợi đến mùa xuân sang năm.

Nếu không, Chu Cao Sí lại nổi hứng, mở một cuộc triển lãm điêu khắc băng nữa thì binh sĩ đâu mà chịu cho nổi?

Mạnh Thanh Hòa không đi theo đại quân, thời tiết đột ngột trở lạnh, hắn cũng đổ bệnh, sốt cao không ngừng, còn ho khan tắt tiếng, Triệu đại phu xem qua nói là thương tích cũ tái phát, thương tổn đến thân thể, cần phải tĩnh dưỡng.

Chu Cao Sí nhân cơ hội xin Yên Vương để người lại phụ giúp hắn ta, trời đông giá rét, Mạnh Đồng Tri đi theo đại quân cũng chẳng phát huy được tác dụng gì lớn, chi bằng ở lại Bắc Bình giúp Thế tử xử lý chính sự, tiện thể để đại phu trong phủ chăm sóc. Tiễn được hai đệ đệ cái gì cũng dốt đặc cán mai đi vẫn chưa đủ để giải quyết các vấn đề của Chu Cao Sí, cái hắn ta cần là người thực sự hữu dụng, Mạnh Đồng Tri ốm đau liên miên, không rõ những người khác thế nào chứ Thế tử nhìn mà cười muốn nở hoa....

"Mạnh Đồng Tri còn chưa đến hai mươi, tài năng xuất chúng, nếu không bảo trọng thân thể, sau này làm sao đủ sức phò tá phụ Vương, vậy chẳng phải sẽ lãng phí tài năng của Mạnh Đồng Tri sao?"

Dù Chu Cao Sí có mục đích gì, nhưng đúng là hắn ta cũng đã giúp được Mạnh Thanh Hòa.

Nếu lần này thật sự đi theo đại quân, Mạnh Thanh Hòa cũng không rõ hắn có chịu đựng nổi không.

Mùa đông năm nay, dường như còn rét buốt hơn cả năm trước.

"Thế tử nói cũng có lý, vậy Mạnh Đồng Tri có thể ở lại Vương phủ, mọi việc cứ nghe theo Thế tử là được."

"Tạ phụ Vương."

Để Mạnh Thanh Hòa ở lại, phần lớn là vì các bộ lạc thảo nguyên đã quy thuận kia.

Sau khi các dũng sĩ được chọn từ các bộ lạc đi theo đại quân xuất chinh, nhóm lão nhân, hài tử, phụ nhân còn lại vẫn phải được sắp xếp nơi ăn chốn ở cho tử tế, đây là nhiệm vụ Yên Vương giao cho Chu Cao Sí, Chu Cao Sí biết không thể tự mình hoàn thành, đương nhiên phải tìm người giúp sức. Kỳ quái là tìm khắp Bố Chính Sứ Ty và cả Vương phủ Bắc Bình, cũng không ai có thể giao tiếp thuận lợi, trôi chảy với người Mông Cổ, duy nhất chỉ có Mạnh Thanh Hòa – Mạnh Đồng Tri là ngoại lệ.

Ngôn ngữ bất đồng ư? Không phải lo, có phiên dịch cả. Khẩu âm nặng quá, nghe không rõ, không phiên dịch được chứ gì? Than đây, giấy đây, vẽ là được, muốn cái gì cứ vẽ cái đó, vẽ đến khi nào bên kia đoán đúng thì thôi!

Khi các bộ lạc Mông Cổ phái người đại diện đến xin lương thực, muối và các vật tư khác, quan văn quen thói sĩ diện, cả bụng đều là học thuyết thánh hiền, không muốn so đo với đám mãnh nam cơ bắp vạm vỡ ba chuyện vụn vặt, quan võ thì thô lỗ nóng tính, chỉ cần không hợp ý là là sẽ phồng mang trợn má, bàn không lật được thì xắn tay áo đập ghế.

Nhưng nếu là Mạnh Thanh Hòa, từ tiếp đón đến mặc cả rồi tiễn người đi, thời gian còn không quá hai chung trà.

Hầu Hiển cũng được phái đến dưới trướng Chu Cao Sí để phụ giúp, thấy hiệu suất đàm phán của Mạnh Đồng Tri thì không khỏi cảm thán, nếu lúc trước có Mạnh Đồng Tri đi cùng, số bộ lạc bị lừa... à đâu, vì mến mộ Vương gia mà quy thuận chắc chắn sẽ nhiều gấp đôi bây giờ.

Thực ra, thủ đoạn của Mạnh Thanh Hòa cũng chẳng hơn gì Hầu Hiển và những người khác là bao, chỉ là kiếp trước, dù sao hắn cũng là dân buôn bán, khả năng quan sát sắc mặt người khác đã luyện đến mức thượng thừa, có thể to gan phỏng đoán ý đồ của các bộ lạc này ở mức cao nhất. Từ đó mới bắt đầu mặc cả xuống.

Hắn cũng không quan trọng sĩ diện như quan văn, không có điều kiện để vừa nổi giận là đập bàn, đói chém người như quan võ, nên cách làm việc của hắn rất được lòng các tráng hán Mông Cổ.

Muốn có lương thực? Được.

Muốn thêm muối và hương liệu? Cũng được.

Muốn vải vóc? Càng không thành vấn đề!

Nhưng mà, không thể cho không được.

Mạnh Thập Nhị Lang cười híp mắt gảy bàn tính: "Giờ nơi dựng lều của các vị đều do Vương gia ban cho. Đồng cỏ để chăn thả sau khi xuân về cũng do Vương gia phân chia, chẳng lẽ các vị không muốn có đồng cỏ tốt hơn, nuôi được nhiều bò dê hơn, sống tốt hơn ư?"

Một câu nói đã gãi đúng chỗ ngứa của đối phương.

Mấy tráng hán vạm vỡ không đập bàn nữa, cũng không trợn mắt nữa, bắt đầu chăm chú nhìn Mạnh Thanh Hòa, mắt long lanh như thể sắp nặn ra sao trời đến nơi....

Tuấn mã mặc sức cưỡi thoả thích, bò dê đi thành đàn, không còn phải lo lắng mùa đông gia súc chết đói, người trong tộc chết rét.

Cuộc sống tốt đẹp xiết bao!

Các bộ lạc này bị Hầu Hiển thuyết phục, bằng lòng quy phục, nguyên nhân mấu chốt cũng vì không thể sống nổi trên thảo nguyên nữa.

Cuộc sống của dân du mục vốn đã chẳng dễ dàng, nay lại thêm nội chiến liên miên, các bộ lạc lớn liên tục chèn ép, số lượng gia súc và nhân khẩu trong bộ lạc liên tục giảm sút. Người lớn như bọn họ không đủ ăn, hài tử trong bộ lạc không nuôi nổi, làm sao đấu tranh với môi trường sống khắc nghiệt bây giờ? Cứ tiếp tục như vậy, sớm muộn gì bọn họ cũng bị các bộ lạc khác thôn tính.

Vinh quang của Thành Cát Tư Hãn vĩ đại chỉ còn có thể hồi tưởng trong giấc mộng, hoàng tộc Mông Cổ nay đã suy tàn. Các bộ lạc Khất Nhi Cát Tư, A Tô Đặc được tách ra từ bộ lạc A Lỗ Thai và bộ lạc Vệ Lạp Đặc đang không ngừng hỗn chiến, cuộc sống của người dân du mục trên thảo nguyên cũng bị cuốn vào vòng xoáy chiến hỏa ấy, có muốn yên bình sinh sống cũng không được.

Cá lớn nuốt cá bé, cá bé lại nuốt tôm tép, vòng luẩn quẩn như vậy cứ luôn tuần hoàn, đến khi cá bé bị nuốt hết, cá lớn chỉ có thể quay lại tự triệt tiêu lẫn nhau, điểm cuối cùng chờ đợi những con cá lớn này cũng chỉ là cái chết.

Lời chiêu dụ của Hầu Hiển và Dương Đạc đã mang đến cho những bộ lạc này một tia hy vọng, giờ Mạnh Thanh Hòa lại dạy cho bọn họ một đạo lý, muốn có lợi ích thì phải trả giá.

"Vương gia nhân từ, đã cho chư vị một nơi dung thân, chư vị cũng nên có hồi báo. Dù sao trên đời này không có bữa cơm nào miễn phí, cũng không có lợi ích nào cho không."

Mạnh Thanh Hòa mỉm cười trầm ổn, phong thái đầy tự tin. Hắn đã dò hỏi rõ ràng lai lịch của những bộ lạc này từ Hầu Hiển, nói sao cho khéo để bọn họ chấp nhận điều kiện mà hắn đưa ra không phải là chuyện khó. Trước đây không thể đàm phán được, chẳng qua là do quan viên tiếp xúc không hiểu rõ đối phương, lại một đám thì sĩ diện, một đám thì nóng tính, có thể thương lượng ra được kết quả gì mới là chuyện lạ.

Nghĩ đến đây, Mạnh Thanh Hòa không khỏi thở dài, các quan văn không biết tiếng Mông Cổ, cớ sao không đi hỏi? Bộ hỏi một câu thì đạo lý thánh hiền trong đầu bọn họ rớt mất một phần sao? Bắt bọn họ đi thỉnh giáo hoạn quan như Hầu Hiển hay các võ tướng đã sống lâu năm ở biên ải khiến bọn họ mất mặt đến thế ư?

Xem ra, không chỉ quan văn dưới trướng Kiến Văn đế không ra gì, mà đám quan văn dưới trướng Yên Vương cũng vậy.

Nói trắng ra là, đám thư sinh chỉ biết đọc sách thánh hiền, dưỡng thành thói kiêu ngạo, khinh thường quân nhân, đối với hoạn quan, bọn họ càng không muốn tiếp xúc, khinh người ta đã mất đi thứ tượng trưng cho khí khái nam nhi. Đám quan văn đó không nhảy dựng lên mắng chửi người ta đã là tốt lắm rồi, còn thỉnh giáo ư? Hoàn toàn không thể.

Mạnh Thập Nhị Lang lắc đầu, mâu thuẫn văn võ, triều đại nào cũng có, nhưng ở Đại Minh thì đặc biệt gay gắt, hai bên đối chọi đến mức ngươi chết ta sống.

Cái này.... cũng coi như là một nét đặc sắc của triều đại đúng chứ?

Các tráng hán Mông Cổ lực lưỡng cuối cùng đã bị Mạnh Thanh Hòa thuyết phục, chủ động giảm một nửa số lượng lương thực và vải vóc đã yêu cầu trước đó, dùng trâu bò dê cừu trong bộ lạc để đổi lấy gà vịt và muối, ấn dấu tay lên khế ước trao đổi do Mạnh Đồng Tri vừa soạn, rồi vui vẻ kéo theo những chiếc xe ngựa được Mạnh Đồng Tri "hữu hảo" tặng thêm trở về lều trại.

Trước khi đi, còn vỗ ngực, mặt mũi đỏ bừng, khoé mắt rướm lệ, xưng huynh gọi đệ với Mạnh Đồng Tri.

Mạnh Thanh Hòa mỉm cười nhìn theo những chiếc xe ngựa dần đi xa kia, một chút cũng không hề cảm thấy áy náy.

Nhìn bầy gia súc bốn chân đang chen chúc trong sân viện, Chu Cao Sí và các quan viên trong Vương phủ hồi lâu không nói nên lời.

Mạnh Đồng Tri vừa ra tay thì gạo chắc chắn sẽ xay thành cám! Các bộ lạc không chỉ tự nguyện giảm một nửa số lượng lương thực đã yêu cầu trước đó, mà bọn họ còn thu về được hơn trăm đầu gia súc!

"Bẩm Thế tử, đây chỉ là tiền đặt cọc." Mạnh Thanh Hòa chắp tay, nói với Chu Cao Sí: "Còn hai trăm năm mươi đầu gia súc nữa, sẽ được đưa đến trong vòng ba ngày."

"Bao nhiêu cơ?"

"Hai trăm năm mươi." Mạnh Đồng Tri vô thức giật khóe miệng, lúc định ra con số này, hắn cũng không ngờ người ta vừa nghe đã gật đầu luôn, chẳng cần phải tốn nước bọt mặc cả.

Chu Cao Sí mừng rỡ, vỗ tay cười lớn, nói: "Mạnh Đồng Tri quả đúng là tri kỷ của Cô, Cô bị đám người Mông Cổ này làm cho đau đầu, mãi mà không nghĩ ra biện pháp thỏa đáng. Mạnh Đồng Tri đã thuyết phục bọn họ như thế nào vậy?"

Mạnh Thanh Hòa không nói, chỉ lấy từ trong ngực ra một xấp "khế ước" đã đóng dấu, hai tay dâng lên.

Chu Cao Sí tò mò cầm lên xem, càng xem, vẻ mặt lại càng kỳ lạ.

Tờ giấy đầu tiên, ừm... hắn ta biết, trên giấy là một con dê dữ tợn, năm hình người vẽ đơn giản. Giấy nợ trong tay Đóa Nhan Tam Vệ cũng là kiểu hình vẽ này.

Tờ thứ hai, cũng là một con dê dữ tợn, hai con gì đó tròn trịa, là thứ gì vậy?

Ánh mắt Thế tử nhìn sang, Mạnh Thanh Hòa cười phớ lớ: "Bẩm Thế tử, là gà."

Chu Cao Sí: "..."

Chém năm đầu người đổi được một con dê, một con dê lại chỉ đổi được hai con gà?

Đây là đạo lý đổi chác của gian thương thời nào vậy? Có biết tính toán không đấy? Thế mà đám Mông Cổ kia cũng đồng ý?

Mạnh Thanh Hòa tỏ vẻ, nội dung hợp đồng hắn soạn chính là như vậy, đôi bên buôn bán công bằng, sòng phẳng, đâu có ai kề dao lên cổ bắt ấn tay đâu chứ!

Để đám tráng hán cơ bắp vạm vỡ đó thấy mọi điều khoản do hắn soạn ra đều hợp lý, Mạnh Thập Nhị Lang đã dẫn cả đám đi tham quan "trại gà" do hoà thượng Đạo Diễn chủ trì xây dựng.

Trước khi Yên Vương tạo phản, vì phải giữ bí mật cho xưởng chế tạo vũ khí ngầm, trong phủ đã nuôi rất nhiều gà vịt, thậm chí còn bị bách tính xung quanh kêu ca ồn ào, kiện lên đến tận Bố Chính Sứ Ty.

Lúc đó, Vương phủ dùng lý do nuôi gà vịt để cầu phúc, kiên quyết không giết để lừa gạt, qua mặt Trương Bỉnh. Sau khi chiếm được Bắc Bình, số gia cầm này được chuyển đến một khu vườn hẻo lánh trong phủ, số lượng ngày càng nhiều. Giết một đợt, lại có một đợt khác đẻ hàng loạt, lớn nhanh như thổi, dùng làm quân lương không có lợi, chi bằng đem đổi chác với các bộ lạc Mông Cổ mới quy phục còn có ích hơn.

Vấn đề của các bộ lạc được giải quyết, đống gia súc thu được có thể dùng để trả nợ cho Đóa Nhan Tam Vệ.

"Ty chức cho rằng, những bộ lạc này quy phục Vương gia, cũng là vì miếng cơm manh áo. Tráng hán trong bộ lạc theo Vương gia xuất chinh, mùa đông lại không có đồng cỏ thích hợp để trao đổi, chi bằng đổi gà vịt lấy gia súc của bọn họ, có thịt và trứng gia cầm để ăn, dư thừa còn có thể đem ra chợ đổi lấy những thứ cần thiết khác."

Mạnh Thanh Hòa lại lấy ra mấy tờ giấy, trên giấy vẽ hai vòng tròn lớn nhỏ tương đương, một vòng tròn vẽ hai con dê, vòng tròn còn lại vẽ bảy tám con gà.

"Trên thảo nguyên, các bộ lạc này phải di chuyển theo nguồn nước và đồng cỏ tươi tốt để chăn thả gia súc, sau khi quy phục Vương gia, một số thói quen có thể thay đổi, chỉ cần cuộc sống tốt hơn, bọn họ cũng sẽ không oán trách."

Lời Mạnh Thanh Hòa nói có phần hơi mơ hồ, nhưng Chu Cao Sí vừa nghe đã hiểu.

"Ngươi đã hứa cho bọn họ đồng cỏ? Để bọn họ chăn thả gia súc sao?"

"Vâng." Mạnh Thanh Hòa đáp: "Nhưng ty chức không nói rõ là ở đâu, đợi Vương gia hoàn thành đại nghiệp, Bắc Nguyên chia năm xẻ bảy, chắc chắn không phải đối thủ của Vương gia. Chiếm lấy vài bãi cỏ chăn thả rồi chia cho bọn họ, chắc chắn không thành vấn đề."

Những lời sau đó, Mạnh Thanh Hòa không nói, một khi các bộ lạc đã quen với cuộc sống định cư, liệu bọn họ có còn muốn quay lại thảo nguyên chịu cảnh dãi gió dầm sương, mưa nắng dãi dầu hay không?

Đương nhiên là không muốn.

Chu Cao Sí gật đầu, cầm hai xấp giấy đưa cho quan văn bên cạnh, bảo tên đó truyền cho mấy tên bên dưới xem: "Các ngươi xem qua đi, phụ Vương giao việc này cho Cô, là tin tưởng Cô. Cô nhờ vả các ngươi, cũng là coi trọng tài năng của các ngươi. Cô thông cảm cho khó khăn của các ngươi, nhưng có vẻ các ngươi đã quên ai là chủ tử thì phải? Có từng nghĩ việc các ngươi chả làm được trò trống gì cũng sẽ ảnh hưởng đến Cô không?"

Ai nấy đều lộ vẻ hổ thẹn, Mạnh Thanh Hòa ngồi bên cạnh lại âm thầm kêu khổ.

Chu Cao Sí là coi trọng hắn hay muốn hại hắn vậy? Cái này rõ ràng là đang khiến hắn bị đám thư sinh kia ghét bỏ!

Có nên cảm thấy may mắn vì hắn kiên định đi theo con đường quan võ, không cần thường xuyên giao thiệp với đám quan văn hay ghi thù này không?

Mạnh Thanh Hòa tặc lưỡi, chuyện đã rồi, hắn cũng chỉ có thể bó tay.

Đêm đó, Mạnh Thanh Hòa trằn trọc, suy nghĩ miên man. Ở lại Bắc Bình có lẽ không phải là một chủ ý hay. Thật sự đi theo Yên Vương xuất chinh ư? Nhưng hắn không muốn đem thân thể mình ra đùa giỡn.

Hoà thượng Đạo Diễn niệm kinh Phật cả đêm, tinh thần vẫn rất tốt. Nghe hoạn quan bên cạnh nói vấn đề của các bộ lạc quy phục đã được giải quyết, lập tức cho người mời Mạnh Thanh Hòa đến, lại cho người bẩm báo với Thế tử, hôm nay ông ấy muốn cùng đồ nhi bàn luận Phật pháp, mong Thế tử lượng thứ.

Ý tứ ngầm là: Lão hòa thượng này muốn tâm sự với đồ nhi, Thế tử muốn có người sai vặt thì tạm thời tìm người khác đi.

Có thể tạm thời thoát khỏi công việc nặng nhọc, Mạnh Thanh Hòa đương nhiên vui mừng. Cái giá phải trả là sẽ bị lão hòa thượng lải nhải tà giáo bên tai, dù có nghiến răng nghiến lợi, hắn cũng phải cố gắng chịu đựng.

Bước vào phòng của Đạo Diễn, một luồng hơi ấm phả vào mặt.

Căn phòng bài trí đơn giản, thậm chí có thể nói là sơ sài, ngoài một giá sách, một cái bàn gỗ, hai cái bồ đoàn, không còn gì khác.

Đạo Diễn ra hiệu cho Mạnh Thanh Hòa không cần câu nệ, ngồi xuống nói chuyện.

Trên lò than đặt một ấm nước, còn có mấy cái bánh nướng vàng ruộm, tỏa ra mùi thơm lúa mạch hấp dẫn.

Mạnh Thanh Hòa nhìn chằm chằm vào bánh nướng, mắt cũng không chớp.

Đạo Diễn mân mê chuỗi tràng hạt, mỉm cười: "Đồ nhi đói bụng rồi sao?"

"C... Cũng hơi đói." Đối với việc Đạo Diễn lúc nào cũng gọi hắn là đồ nhi, Mạnh Thanh Hòa đã nghe nhiều đến mức chai lỳ rồi.

Gọi thì cứ gọi, dù sao hắn cũng chẳng mất miếng thịt nào.

"Nếu vậy, thì cùng dùng bữa với vi sư đi."

Lập tức, có hoạn quan dâng lên cháo trắng và mấy món ăn kèm, Đạo Diễn gắp bánh nướng, đặt vào bát trống trước mặt Mạnh Thanh Hòa: "Ăn nhiều một chút, ăn nhiều mới cao lớn được."

Bánh nướng thơm phức nóng hổi, cắn một miếng, mùi thơm lúa mạch quyện với mùi thịt.... ể.... Từ từ....

Mạnh Thanh Hòa kinh ngạc, trợn mắt nhìn Đạo Diễn, nhân thịt?

Hòa thượng không thành thật!

Đạo Diễn bẻ bánh nướng trong đĩa của mình, nhìn qua vẫn là nhân chay, rau xanh mơn mởn, ý tứ rất rõ ràng, đồ ăn mặn là chuẩn bị cho đồ nhi thân thể ốm yếu, ông ấy là người xuất gia, sao có thể dễ dàng phá giới.

Người xuất gia?

Mạnh Thanh Hòa lại cắn thêm một miếng bánh, húp cạn nửa bát cháo. Người xuất gia lục căn thanh tịnh, lục đạo giai không, coi thế tục như hư vô, làm gì có ai lại hao tâm tổn trí xúi giục Yên Vương tạo phản như hoà thượng Đạo Diễn?

Đạo Diễn như đoán được suy nghĩ của Mạnh Thanh Hòa, cũng không giải thích, chỉ lặng lẽ ăn bánh, uống cháo. Ăn uống xong xuôi, hoạn quan thân cận dâng trà nóng, Mạnh Thanh Hòa thở dài một hơi, đã lâu lắm rồi hắn mới được ăn uống thoải mái như vậy.

Uống trà xong, căn phòng lại chìm vào im lặng. Đạo Diễn đương nhiên có thể ngồi thiền cả ngày, nhưng Mạnh Thanh Hòa thì không, nên hắn chỉ đành lên tiếng hỏi trước: "Đại sư gọi ta đến, chẳng hay có việc gì phân phó?"

"Đúng là có việc cần đến đồ nhi." Đạo Diễn gật đầu, lấy từ trên kệ xuống một cuốn sách đưa cho Mạnh Thanh Hòa, giọng nói đầy thâm ý: "Quyển sách này, mong đồ nhi hãy bỏ công ra nghiên cứu."

Mạnh Thanh Hòa nhìn Đạo Diễn, rồi lại nhìn bìa sách, ba chữ "Đạo Đức Kinh" to tướng dát vàng như đang muốn chói mù mắt hắn.

"Đại sư, ngài chắc chắn muốn ta nghiên cứu, tinh thông quyển sách này sao?"

Là một hoà thượng, vậy mà lại để đệ tử nghiên cứu "Đạo Đức Kinh" của Lão Tử? Cho dù ông ấy có đưa "Kim Cang Kinh" cũng còn tử tế hơn "Đạo Đức Kinh" nhiều... Hành động này khác nào bảo hắn phản bội sư môn?

Không đúng, hắn còn chưa bái sư, cũng không có ý định gia nhập môn phái bất lương của hòa thượng này! Sư môn ở đâu ra chứ!!

Chưa kịp để Mạnh Thanh Hòa đoán biết ý đồ thực sự của Đạo Diễn, quyển sách trong tay bỗng bị lấy đi.

Mạnh Thanh Hoà ngẩng đầu, thấy trên mặt hòa thượng Đạo Diễn thoáng hiện vẻ lúng túng: "Vi sư lấy nhầm, phải là mấy quyển này mới đúng."

Mạnh Thanh Hòa nhận lấy, cúi đầu nhìn xuống: "Kinh Dịch"..... cái này cũng chẳng khá khẩm hơn "Đạo Đức Kinh" là bao...

Mạnh Thanh Hoà nhìn Đạo Diễn với ánh mắt nghi hoặc, vị này thật sự là đệ tử Phật môn đấy à? Hay là phường lừa đảo đấy?

"Đại sư đã có lời thì ta nhất định sẽ bỏ công nghiên cứu."

Mạnh Thanh Hoà nhìn chất giấy, quyển "Kinh Dịch" trong tay hắn chắc chắn là bản cổ, e rằng đã được lưu truyền từ trước thời Tống. Không bàn đến nội dung trong sách, chỉ riêng niên đại của quyển sách đã cho thấy nó là bảo vật vô giá.

Cả "Đạo Đức Kinh" và "Kinh Dịch" đều không phải điển tịch Phật gia, hành động vừa rồi của hòa thượng là sơ suất hay cố ý?

Đạo Diễn mân mê chuỗi tràng hạt, đang muốn nói vài câu để cứu vãn hình tượng trong lòng đồ nhi, thì Mạnh Thanh Hòa đã đứng dậy, chỉ nói hôm nay gặp gỡ đại sư, thu được vô vàn lợi ích, sau khi trở về nhất định sẽ khổ tâm nghiên cứu điển tịch, tuyệt đối không phụ sự kỳ vọng của đại sư.

"Đại sư, Mạnh mỗ xin cáo từ."

Mạnh Đồng Tri xoay người rời đi, động tác vô cùng dứt khoát gọn gàng.

Đạo Diễn ngây người ngồi trên bồ đoàn hồi lâu, nửa ngày không nói nên lời.

Lát sau, ông ấy đột nhiên nhắm mắt khẽ cười, lại tiếp tục niệm kinh Phật.

Tiểu đồ nhi đó của ông ấy đúng là ranh mãnh, chiếm được chỗ tốt rồi, vẫn sống chết không chịu gọi ông ấy một tiếng sư phụ.

Không sao, hòa thượng đây có thừa kiên nhẫn!

Đồ nhi đã chui vào bát, sao có thể thoát được.

Tiếng sư phụ này, gọi hay không gọi, cũng chẳng sao.

Mấy ngày tiếp theo, Mạnh Thanh Hòa thường xuyên được Đạo Diễn mời đến "đàm luận Phật pháp", Chu Cao Sí mỗi lần muốn tìm người phụ giúp chính sự đều bắt hụt.

Chuyện này cũng thật quá trùng hợp? Mãi đến khi Yên Vương phi nhắc nhở, Chu Cao Sí mới chợt hiểu ra:

"Phụ Vương giao phó chính sự Bắc Bình cho con, cũng là muốn xem xét năng lực quản lý thuộc hạ của con." Sức khoẻ của Yên Vương phi vẫn còn hơi yếu, nhưng sắc mặt đã tốt hơn nhiều so với hai tháng trước: "Mạnh Thập Nhị Lang đúng là rất có tài, nhưng con muốn dùng hắn, cũng cần phải suy nghĩ xem nên dùng như thế nào."

"Nhi thần..."

"Con từ nhỏ được nho sư dạy dỗ, không giống như hai đệ đệ của con, tính tình ương bướng, ngang tàng, đây là điều tốt." Yên Vương phi dừng lại một chút, rồi nói tiếp: "Nhưng cũng đừng học theo mấy tay thư sinh bụng dạ quanh co, khiến người khác lạnh lòng."

Chu Cao Sí im lặng, không nói gì.

"Phụ Vương con vì sao được người người ủng hộ? Hai đệ đệ của con vì sao lại được các tướng lĩnh khen ngợi?" Yên Vương phi nhìn Chu Cao Sí, ánh mắt sắc bén như chim ưng: "Con ngày càng lớn, mẫu Phi không muốn nói nhiều, chỉ muốn nhắc con một điều, nhìn Hoàng đế ở Nam Kinh đi, con còn chưa hiểu sao?"

"... Nhi thần.... đã biết."

Rời khỏi chính điện của Yên Vương phi, trán Chu Cao Sí lấm tấm mồ hôi.

Nghĩ đến lời mẫu Phi vừa nói, tâm trạng hắn ta không khỏi chùng xuống.

Vì sao hoà thượng Đạo Diễn đột nhiên có hứng thú đàm luận Phật pháp với Mạnh Thanh Hòa, vì sao mẫu Phi lại đột nhiên dạy bảo như vậy, còn lấy hai đệ đệ ra so sánh với hắn ta?

Đạo đối đãi với kẻ dưới ư?

Chu Cao Sí thở dài, trong lòng mơ hồ như chợt hiểu ra điều gì đó.

Sau cuộc nói chuyện giữa Vương phi và Thế tử, số lần Đạo Diễn gọi Mạnh Thanh Hòa đến đàm luận Phật pháp dần ít đi. Ít nhất, khi Vương An đến tìm Mạnh Đồng Tri, mười lần thì hết ba, bốn lần cũng sẽ gặp được người, không phải rơi vào tình trạng tuyệt vọng, người không nhà trống như trước nữa.

Bầu không khí trong phủ cũng thay đổi. Công việc Thế tử giao cho Mạnh Thanh Hòa dần nhẹ nhàng hơn, những ánh mắt dò xét hắn cũng ít dần đi. Cho dù có, cũng không còn sắc bén như trước, khiến Mạnh Thập Nhị Lang thoải mái hơn rất nhiều.

Tranh thủ thời gian rảnh rỗi, Mạnh Thanh Hòa bắt đầu nghiền ngẫm những cuốn điển tịch mà Đạo Diễn đã đưa cho.

Kinh Dịch rất khó hiểu, nhưng mỗi lần đọc kỹ, hắn lại có những cảm ngộ khác nhau. Trí tuệ mà người xưa tích lũy được quả là báu vật khó tìm thấy trong xã hội hiện đại xô bồ.

Tĩnh tâm lại, hắn mới phát hiện ra bản thân còn nhiều thiếu sót.

Tính hay khôn vặt, tranh cường háo thắng, lòng dạ mềm yếu, lo trước lo sau.

Hắn cứ tưởng mình đã đủ khiêm tốn, nào ngờ đã sớm trở thành cây đinh nhô ra, lồ lộ trong mắt người khác.

Tự cho rằng bước đi của mình đã đủ vững chắc, nào hay mình vẫn đang dò dẫm trên cây cầu độc mộc, dưới chân cầu là vực sâu vạn trượng, chỉ cần sẩy chân là sẽ vạn kiếp bất phục.

Dần dần, Mạnh Thanh Hòa cũng hiểu được ý đồ ẩn phía sau của Đạo Diễn.

Một hôm, lại được Đạo Diễn gọi đến đàm luận Phật pháp, Mạnh Thập Nhị Lang thành tâm thành ý hành lễ, nói: "Đa tạ đại sư."

Đạo Diễn mân mê chuỗi tràng hạt, hỏi: "Vẫn không muốn gọi bần tăng một tiếng sư phụ sao?"

Mạnh Thanh Hòa: "..." Biết ơn thì biết ơn, nhưng gia nhập môn phái bất lương thì miễn bàn đi.

"Không sao." Đạo Diễn mỉm cười: "Vi sư đợi con, rồi cũng sẽ có ngày đó thôi."

Đồ nhi ngoan à, xem con còn cứng miệng được bao lâu!

Giữa tháng mười, tin tức từ tiền tuyến truyền về Bắc Bình.

Yên Vương hạ lệnh chinh phạt Liêu Đông, nhưng giữa đường lại chuyển hướng xuống phía nam, mượn đường lộ của Thiên Tân, xuyên qua Trực Cô, thẳng tiến đánh vào Thương Châu vừa bị Từ Khải chiếm được.

Các tướng lĩnh đều không hiểu tại sao phải vòng vèo như vậy, lý do Yên Vương đưa ra là: "Đêm qua Cô quan sát thiên tượng, thấy có hai luồng khí trắng, từ đông bắc chỉ về tây nam, như đang muốn Cô đi theo nó, thẳng tiến về hướng Nam thì sẽ gặp chuyện đại cát đại lợi!"

Chuyện mượn danh mê tín như thế này, Yên vương đã làm nhiều đến mức trơn tru.

Ông trời đã chỉ đường, phía nam tốt, phía nam có đại cát đại lợi, chúng ta không đi Liêu Đông nữa, tấn công về phía Nam!!!

Trước khi xuất binh, Yên Vương và Đạo Diễn đã định ra kế hoạch "giương đông kích tây" này, nhằm đánh lạc hướng quân triều đình, khiến đối phương trở tay không kịp. Ngay cả các đại tướng như Trương Ngọc, Chu Năng, hai người cũng giấu kín. Sau khi xuất binh, các tướng lĩnh phát hiện hướng đi của quân tiên phong không đúng, hỏi ra thì Yên vương mới nói rõ nguyên do.

Mùa đông giá rét, mưa tuyết lầy lội, công thành không phải chuyện dễ dàng. Chỉ có đánh úp bất ngờ, nhanh chóng kết thúc chiến tranh mới có thể giảm thiểu tổn thất xuống mức tối đa.

Từ Khải đóng quân ở Thương Châu là bại tướng dưới tay Chu Đệ, đánh một trận là hạ được, không thành vấn đề.

Sau khi chiếm được Thương Châu, sẽ tiến vào Sơn Đông, hội quân với Ngô Kiệt ở Đức Châu, cùng quyết chiến với quân triều đình.

"Thời tiết giá lạnh, mặt sông đóng băng, đúng là thời cơ để vượt sông, thẳng tiến đến dưới thành Thương Châu."

Thẩm Tuyên dẫn đầu quân tiên phong xuất phát, Dương Đạc dẫn ba nghìn kỵ binh yểm trợ hai bên sườn. Gặp quân trinh sát của quân Nam Kinh trên đường, lập tức bắt giết.

Khi quân tiên phong của Yên quân đến Thương Châu, Từ Khải đóng quân ở đây vẫn chưa hề hay biết, vẫn đang tập trung đốc thúc binh sĩ xây dựng công sự phòng ngự, đề phòng Chu Đệ.

Mãi đến khi Thẩm Tuyên và Dương Đạc dẫn kỵ binh xuất hiện dưới chân thành, quân thủ thành mới phát hiện ra tình hình không ổn.

Yên quân đến quá nhanh, Từ Khải không hề nhận được bất kỳ tin tức nào báo về.

Không phải trước đó mật thám đã nói, Yên vương đột nhiên nổi hứng đi đánh Liêu Đông rồi ư? Sao lại đột ngột xuất hiện ở Thương Châu thế này?

Lợi dụng sự hỗn loạn trong thành, Yên quân tấn công tràn vào, bao vây bốn phía.

Dưới sự yểm trợ của cung tên, Yên quân dựng thang mây, leo lên tường thành.

Quân thủ thành chém chết một người, lập tức có người thứ hai nối tiếp leo lên. Khí thế liều chết của Yên quân nhanh chóng đánh tan ý chí của quân thủ thành.

Từ Khải đích thân đốc thúc chiến trận cũng không thể giữ vững được, đặc biệt là khi Thẩm Tuyên cũng leo lên tường thành, rút đao ra, một tên lính Nam Kinh từng trải qua trận chiến ở sông Bạch Câu nhận ra được sát thần Thẩm Tuyên thì hét lên kinh hãi, nhóm đồng liêu trên tường thành quay đầu nhìn, sau đó cũng bỏ chạy tán loạn.

Vị sát thần này không dễ chọc, ngay cả Đô Đốc Bình An dũng mãnh cũng không địch nổi, không chạy chẳng lẽ bắt bọn họ chờ chết sao?

Thẩm Tuyên cầm đao, nhìn quân Nam trên tường thành như thủy triều rút xuống, Yên quân liên tục leo lên tường thành đuổi theo phía sau, vẻ mặt vô cùng khó tả.

Trương Ngọc nhìn Thẩm Chỉ Huy bị người người nhà nhà thi nhau ghét bỏ,"cô lập", cố nén cười.

Chu Năng thì không khách sáo như vậy, vỗ mạnh vào lưng Thẩm Tuyên, há miệng cười lớn: "Tiểu tử ngươi đúng là lợi hại! Lão tử đây chém chết Cù Năng cũng không được bọn họ đối đãi giống như ngươi đâu."

Thẩm Tuyên: "..."

Thương Châu thất thủ chỉ trong một trận đánh, Chủ tướng Từ Khải, Đô Đốc Trần Xiêm, Đô Chỉ Huy Du Kỳ, Triệu Hổ đều bị bắt sống. Yên quân chém đầu hơn vạn người, số còn lại đều đầu hàng.

Ngoài ra, bọn họ còn thu được một lượng lớn quân nhu, ngoài số cần thiết để bổ sung cho đại quân, tất cả đều được vận chuyển về Bắc Bình.

Quân tiên phong đều có chiến lợi phẩm, riêng Thẩm Chỉ Huy lại không lấy được một thủ cấp địch nào.

Cứ mỗi khi y đến gần, quân Nam Kinh đều bỏ chạy tán loạn.

Không chạy được cũng lập tức đầu hàng, kiên quyết không cho y cơ hội rút đao múa kiếm.

Có thể thấy, thực lực quá mạnh, khí thế quá mức hung tàn, đừng nói là bằng hữu, ngay cả kẻ thù cũng khó mà tìm được.

Cuộc đời của Thẩm Chỉ Huy, đúng là oai hùng biết bao!

Mạnh Đồng Tri không có mặt, không ai có thể xua tan sát khí trên người Thẩm Chỉ Huy, các tráng hán vai năm tấc rộng, thân mười thước cao của Yên Sơn Hậu Vệ chỉ có thể thầm khấn vái tổ tiên ông bà cho bọn họ nhanh chóng vượt qua kiếp nạn này..... 


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro