Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Dai tranh chi the

Khánh Kỵ lại nói:

“Lấy nông làm gốc, thương nghiệp làm hưng thịnh. Nước Ngô ta nằm ở góc đông nam, việc cổ vũ thúc đẩy sinh sản, cổ vũ việc ruộng đồng. Thuế ruộng không nên quá nặng. Tuy vậy khó có thể đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của triều đình, chỉ riêng điểm này mà nói, càng nên phát triển thương nghiệp, lấy thuế thương nghiệp để bù đắp cho thuế ruộng cũng chưa đủ. Huống hồ nước ta cách xa trung nguyên, thông qua các thương gia, trao đổi hàng hóa với nhau, có thể mang những đặc sản khắp nơi của nước ta như muối biển, tôm cá, hàng dệt may bán đến trung nguyên, thu được nguồn lợi lớn, làm dân ta giàu mạnh. Điểm này, đại tư đồ cũng phải thảo một tấu chương chi tiết.”

“Vâng!”

“Nay đã hết chiến sự, rất nhiều ruộng bỏ hoang đã thuộc về những loạn dân lưu lạc tha hương, năm nay cũng đã qua mùa cày cấy, họ không có kế sinh nhai, để lâu ngày sẽ sinh loạn. Chúng ta làm thuyền lớn, dệt lưới to, có thể thuê những người này làm, vừa cho họ có kế sinh nhai, lại có thể tránh việc làm loạn. Việc này, đại tư không cần thực hiện ngay.”

Giữa địa vị và uy nghi có sự tương ứng lẫn nhau, một tên ăn mày trán đầy đặn, cằm vuông vức, có làm thế nào cũng không thể có được khí chất vương giả. Nhưng nếu hắn là vua một nước, dù cho hắn có là đầu hoẵng mắt chuột, cổ rắn mõm chim, thần tử thấy nhất cử nhất động, vẫn cứ vâng vâng dạ dạ trong lòng, loại cảm giác này, là loại áp lực tâm lý được hình thành do địa vị đặc thù của hắn.

Địa vị của Khánh Kỵ ngày càng vững chắc, tuy ăn nói cử chỉ của hắn không khác xưa nhiều, nhưng cảm giác trong lòng của những người bên cạnh hắn đã bắt đầu thay đổi, ngay cả Chúc Dung ngồi trên ghế nghe hắn thao thao bất tuyệt, cảm giác trong lòng cũng dần thay đổi. Nghe hắn căn dặn, cũng bất giác chấp tay, cung kính đáp:

“Thần tuân chỉ.”

“Ừm! Muốn làm tốt công việc, phải có công cụ thích hợp. Hiện nay đa số những nông cụ của nông dân đều là cày đá, xẻng gỗ, dùng để trồng trọt đất đã khai hoang còn chê rách việc, còn như khai khẩn đất hoang khó khăn không cần nói cũng đủ biết, chỉ e ba ngày cũng không khải khẩn nổi một mảnh đất hoang, thì đã hư hết nông cụ rồi. Do vậy quả nhân muốn những hộ theo ngành luyện kim thuộc Nhâm gia sau này phải tinh luyện thêm nhiều nông cụ bằng sắt bằng đồng, như vậy ngành nông nước ta mới mau chóng phát triển.”

Anh Đào nói:

“Đại Vương, nông cụ quá đắt, nông phu sẽ mua không nổi. Nếu giá tiền quá rẻ, không có lợi, sẽ không ai làm, việc này e là khó.”

Khánh Kỵ nói: Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

“Sự tồn tại của quốc gia, của triều đình, của vương mệnh, chính là để thống trị, quy hoạch những việc tất yếu, không thể tất cả đều phó mặc buông xuôi, vạn sự thuận theo tự nhiên mà làm sao? Chuyện này là lệnh của triều đình nhất thiết phải làm theo, đương nhiên, có thể được ít lợi nhuận, không thể để họ bị lỗ vốn. Đại tư không có thể đi tìm hiểu thêm, định giá cho các nông cụ một mức giá mà các nông dâm có thể mua được, nếu giá bán ra không bù được giá vốn, thì triều đình sẽ bù lỗ thêm cho người thợ.” Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Xích Trung nghe xong xen vào một câu:

“Đại vương, nếu là vậy, lại e là có những kẻ dùng giá thấp để mua nông cụ, sau đó đem sang nước khác bán với giá cao hơn, hoặc giả mua về hủy trong lò rèn, lấy đồng sắt mà chế tạo công cụ khác để trục lợi.”

Khánh Kỵ vui mừng nói:

“Tốt! Nhắc nhở tốt, ngươi cũng chẳng phải thuộc hạng võ phu, ừm, Đại tư mã có thể thảo một bản tấu chương, những người mua nông cụ phải đăng ký theo nhà theo hồ, không được mua nhiều hơn, nếu nông cụ bị hư có thể dùng nông cụ hư để đổi mua nông cụ mới. Nếu có người lwoij dụng những kẻ hở của pháp luật, mà đầu cơ phi pháp, thì đó là việc của Đại tư khấu ngươi, một khi bắt được, phải trừng trị nghiêm khắc!” Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

“Thần tuân lệnh!”

Xích Trung vội vàng chấp tay đáp lại. Giang sơn nước Ngô đã định, hắn cũng nên hạn quyết tâm làm chức Đại Tư Khấu của hắn.

Sơ bộ quyết định những đại sự trên, chúng khanh gia hành lễ cáo từ, khi đó Khánh Kỵ liếc mắt nhìn Tôn Vũ, Tôn Vũ hiểu ý, nên bước chậm lại, đi phía sau cùng các đại thần.

Đợi khi tất cả đã ra ngoài, Tôn Vũ chấp tay, khẽ nói:

“Đại vương, còn việc gì cần căn dặn hạ thần chăng?”

KHÁNH Kỵ cũng khẽ trả lời:

“Đại sự thì không có, chỉ là muốn Trường Khanh cùng quả nhân đi một chuyến đến Tàng Bảo Lầu. Không lo liệu việc nhà thì không biết củi gạo đắt đỏ, không đi một chuyến xem có bao nhiêu châu báu của người Sở, quả nhân làm cái chức đại quản gia này, trong lòng cũng không yên!”

Khánh Kỵ và Tôn Vũ cùng nhau đi đến phía đông nội cung là nơi cất giữ kim ngân châu báu, nơi đây được thị vệ trong cung canh giữ nghiêm ngặt, bên trong các thái giám đang kiểm kê từng hạng mục, viết thành sổ sách.

Dãy phòng thứ nhất toàn là tơ lụa thượng hạng, lụa mịn của nước Tề nước Lỗ chất từ dưới đất cao lên nóc điện, từng hàng từng hàng ngay ngắn gọn gàng, Khánh Kỵ vui vẻ nói:

“Những tơ lụa này đều có thể xem như tiền để chi trả. Chỉ cần chiến loạn phân tranh liên miên không dứt, thì nhu cầu của các gia đình quyền quý ở các nước đối với những tơ lụa thượng hàng này càng lớn, Thành gia tự có con đường kinh doanh của họ, vì vậy chỉ cần thuận lợi vẫn chuyển những tơ lua này ra ngoài, là có thể bán với giá cao. Thành Tú hiện này đang làm quan nước Ngô ta, sẽ không che lại lương tâm mà gạt tiền của ta, số tơ lụa này có thể đổi lại cho chúng ta một lượng lớn gạo thượng hạng đây.”

Tôn Vũ mỉm cười nói:

“ Trong cung của đại vương cũng cần đến những vật phẩm này, đại vương đã đăng cơ, lập hậu nạp phi là việc trong năm nay hoặc sang năm, đến lúc đó sẽ cần dùng nhiều, hà tất phải đem bán ra ngoài, mai này lại phải đi mua lại sao? Xin đại vương xem, phía sau còn có mấy tòa đại điện, các loại bảo vật đều có đủ trong đó, tất cả đều là bảo vật trong hoàng thất nước Sở, giá trị liên thành, chỉ cần tìm được vài người mua trong số những thương gia lớn của các nước, cũng đã đủ cho nước ta ứng phí với nạn thiếu lương thực trong mùa thu năm nay và mùa xuân sang năm, đương nhiên, trước tiên vẫn là có thể mua được số lương thực này về, nếu là có người mua mà không có người bán, vậy là phiền phức rồi.”

Khánh Kỵ khẽ cười:

“Việc này khanh không cần lo, quả nhân và Thành Tú đã bàn kỹ rồi, con số lương thực mà Thành gia đã tích trữ được vô cùng to lớn, chỉ cần chuyển đến, số lượng đủ để ta dùng. Thành Tú đối với quả nhân, hắn chưa chắc đã đem toàn bộ tình hình trong việc làm ăn của Thành gia nói hết với ta, nhưng con số mà hắn tiết lộ, đã rất đáng kinh ngạc rồi.”

Khánh Kỵ than thở nói:

“Đấy chỉ là nghe những lời hắn nói thôi, ngươi mới thật sự hiểu được thế nào là vì làm giàu có thể bán nước. Gia sản của những đại thương đó, quả thật không phải là chuyện đùa.”

Tôn Vũ gật đầu ra vẻ tán thành nói:

“Cho nên, Thương gia tuy không là công khanh quý tộc gì, nhưng ngày càng được các nước chư hầu tôn kính và đối đãi theo lễ nghĩa. Với sức ảnh hưởng lớn có sẵn, có những nước chư hầu, trong nước nào có hai hay ba đại thương gia, thì nơi đó được xem như mạch máu kinh tế của cả nước, nếu những thương gia này đột nhiên dời qua nước khác, thì quốc gia sẽ lập tức sụp đổ, sức nước yếu ớt không thể chịu nổi một cuộc tấn công. Thành cũng thương gia, mà bại cũng thương gia, là họa là phúc đều khó mà dự liệu…”

Khánh Kỵ không nhịn được cười ha ha. Hắn vỗ vai Tôn Vũ nói:

“Trường Khanh, khanh lại ăn nói vòng vo để khuyên nhủ quả nhân à. Lúc trên điện, ta và khanh là phận quân thần, lúc chỉ còn hai ta, ta xem khanh như huynh như bằng hữu, nói chuyện cũng không cần quanh co như thế, khanh đang lo rằng ta sẽ xem trọng một số thế gia, khiến đất nước như rơi vào tay của một tư gia nào đó, một đại vương nước Ngô như ta mà phải chịu sự khống chế của một đại thần sao?”

Tôn Vũ bị hắn nhìn thấu tâm can, cười thẹn thùng. Khánh Kỵ cười nói”

“Thành thị, Nhâm thị đối với sự nghiệp phục quốc của quả nhân đều có công lớn, đương nhiên sẽ được trọng dụng, họ đều là những thương gia nổi tiếng trong thiên hạ, hoặc giỏi về kinh doanh, hoặc giỏi về chế tạo, đều là nhân tài xuất chúng trong hai giới công và thương, nếu được nâng đỡ, và trở nên lớn mạnh, thì lực lượng của nước Ngô ta mới có thể ngày càng lớn mạnh. Còn về tiền tài thì. Cứ để họ kiếm, họ càng kiếm được nhiều tiền, thì tài lực nước ta càng lớn mạnh, tuy nhiên những gia tộc này cần được nắm chắc trong tay triều đình, điều này sẽ cần dùng một số biện pháp. ĐIểm này ngươi có thể yên tâm, quả nhân sẽ không làm một hôn quân, chỉ vì một nụ cười của mỹ nhân mà khuynh nước khuynh thanh đâu.”

Khánh Kỵ nhân cơ hội này nói rõ cách nghĩ của hắn cho vị đại thần tâm phúc đáng tin cậy nhất này: 

“Lực lượng của thị tộc khi đã lớn mạnh, tất nhiên sẽ thần mạnh quân nhược, những thương gia lớn này, số gia tướng và nô bộc trong nhà, có thể lên đến hàng ngàn hàng vạn, những người này đều là tài sản riêng của họ, khi được võ trang thì không thể xem thường được, nên biết rằng đại đa số các nước chư hầu trong thiên hạ hiện nay, quân đội cả nước cũng chỉ vào khoảng mấy ngàn mấy vạn người. Kỳ thực không chỉ có họ, những vị công khanh đại phu được phong ấp. Qua mấy đời kinh doanh, trên đất phong của họ, cũng tự lập một bộ máy quan lại thống trị hoàn chỉnh và độc lập, tương đương như một nước nhỏ ở dưới triều đình. Đợi đến khi lực lượng của họ đã đủ lớn mạnh, thế là không tránh khỏi việc uy hiếp đến triều đình, quả nhân đang từng bước tìm cách loại bỏ khả năng này, nhưng những việc này không được làm quá, phải từ từ mà trị, từ từ mà đổi. Ý của quả nhân là, sau này nước Ngô ta mở rộng biên giới, mỗi khi chiếm được một mảnh đất, sẽ theo như nước Sở lập huyện để trị, phái quan quân đến chiếm đóng ở đó, sẽ không tiếp tục phong đất.”

“Còn nữa, nô lệ phụ thuộc vào chủ nhân, sinh tử do chủ nhân quyết định, là tài sản riêng của chủ nhân, họ đời đời kiếp kiếp đi theo chủ nhân, dựa vào gia chủ mà sinh sống, đương nhiên cũng chỉ phục tùng lệnh của chủ nhân, trong mắt cũng chỉ có chủ nhân, chứ không có quốc gia triều đình. Đó là nguyên nhân quan trọng mà các thế gia đại tộc một khi đã lớn mạnh có thể can thiệp vào việc triều chính.

Hiện nay chế độ nô lệ chỉ là hữu danh vô thực, ngày càng có nhiều người nô lệ bỏ trốn, quả nhân đang chờ đến khi nước nhà ổn định hơn, sẽ bãi bỏ chế độ nô lệ, biến nô lệ thành tá điền, người cày thuê, hoặc khai khẩn đất hoang thành của mình để trở thành nông dân tự do, như vậy sẽ làm suy yếu đi sự phụ thuộc của họ với địa chủ, gia chủ, tăng sự hảnh hưởng của triều đình với họ, đạt tới hiệu quả nhổ tận gốc rễ, giảm đi khả năng thị tộc thế gia nổi loạn. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Ngoài ra, về mặt quân sự cũng sẽ dần dần ban bố chế độ và điều lệ mới, tiến hành cải cách ở các mặt như trưng binh, luyện binh, dụng binh, tăng cường sự khống chế trực tiếp của triều đình, những dự định này, hiện thời chỉ có ngươi biết, ngươi là tướng quốc nước Ngô ta, rảnh rỗi có thể suy nghĩ, dần dần bổ sung để hoàn thiện hơn.”

“Đại vương anh minh, vi thần tuân lệnh!”

Tôn Vũ vui vẻ đáp lời, hai người vừa trao đổi vừa bước ra đại điện, tiếp tục đi về phía trước.

“Đại vương, dãy cung điện này, cất giữ những nhánh cây, keo bóng cá, lông vũ, sừng thú, gân trâu dùng để chế tạo cung tên và cả hàng vạn cây nỏ Sở, trường kiếm, mâu thuẫn giáo mác, những rương giáp trụ, và số lượng lớn những thỏi đồng, giá trị không tính hết được, những thé này đều được lấy trực tiếp từ võ khố của nước Sở, số lượng rõ ràng, sắp xếp ngay ngắn, nên đã dán niêm phong, tạm thời vẫn chưa mở ra.”

“Ừm!”

“Dãy cung điện này, cất giữ những kim ngân châu báu được lấy từ hoang cung nước Sở, quyền thần nước Sở, và trong phủ đệ của các thương gia giàu có, trước mắt vẫn đang được kiểm kê từng hạng mục để đưa vào sổ sách, đã xác định những loại nào có thể bán được, những loại nào để lại làm quốc bảo, loại nào đặc trưng quá rõ ràng, tạm thời cần được giấu kín…”

“Ừ, ta vào trong nào.”

Dãy đại điện này có trái phải giữa ba gian, mỗi gian ba tầng, trước cửa có võ tướng canh gác, khi vào được trong điện, nhìn thấy phía trước có một bàn thư án, sau bàn thư án có ba người đang ngồi, ngồi bên ngoài cùng là một người mặt trắng không có râu, mặt mập tròn vành vạnh, trong giống như một lão bà mặt mày hiền hậu, trên tay cầm một cây bút lông, trên bàn thư án để một quyển trúc giản đang mở, bên cạnh hắn, là những quyển trúc giản đã viết xong được chất cao như núi. Ngồi phía bên trong hắn là hai lão già nhưng trông vẫn còn được tráng kiện. Dưới cằm mỗi người đều có một bộ râu đẹp và dài đến tận bụng, trên bàn để đầy nào là dương chi mỹ ngọc, đá mắt mèo, tổ mẫu lục, trân châu mã não, san hô và kim ngân khí mãnh, hai người tùy tiện cầm một món bảo vật lên, gật gù đắc ý mà bình luận.

Ba người họ, liên tục lấy những châu báu để lên bàn, lại có vài tiểu đồng đều mặc những chiếc quần đát nhỏ và áo may ô mang những chây báu đi, mình để trần, Tôn Vũ nói:

“Đây, đại đa số là thái giám trong cung. Hai vị lão tiên sinh này, cũng đã định cư ở nước Ngô ba đời rồi, thân thế trong sạch, là người đáng tin cậy, sở trường về kiểm định ngọc ngà châu báu, bảo họ để mình trần, là sợ có người thấy tài nổi máu tham, tự ý giấu lại ít bảo vật, tuy nói là ra vào cung phải qua ba lần cửa để kiểm tra, nhưng làm như thế sẽ an toàn hơn.”

Khánh Kỵ gật đầu. Hắn không nghĩ là hôm nay có thể xem được tiết mục kiểm định châu báu này. Thấy những người trên điện vội vội vàng vàng, nên vẫn chưa phát hiện họ đã vào trong, hắn bèn ra hiệu cho tc, không cho binh sĩ đứng gác ở cửa thông truyền, nhẹ nhàng bước phái bên trong, đứng dựa vào cây bàn long lập trụ, xem xét tình hình trong phòng.

Trong đại điện này có rât nhiều giá xếp làm bằng gỗ tốt, trên đó bày đầy những châu báu rực rỡ muôn màu, rât nhiều châu báu lớn để trên mặt đất. Trên mặt đất lại để ngang để dọc rất nhiều rương, túi, những bảo thạch bên trong đó vẫn chưa được lau chùi sạch sẽ.

Chỉ thấy một vị lão nhân râu bạc trắng cất cao giọng:”

“Thụ tứ san hô cao 3 tấc, một đôi đạp yến ngọc mã, mười hai sợi dây chuyền bảo thạch, mười tám sợi dây chuyền trân châu, tám miếng đại hồng bảo thạch.”

Bên cạnh là một lão thái giám đang nhanh chóng viết vào trúc giản, Tôn Vũ nhẹ nhàng nói: ”Sáng nay thần có đến qua một lần, lúc đó tổng cộng đã kiểm định được năm trăm hai mươi hai sợi dây chuyền bảo thạch. Hơn một trăm viên đại hồng bảo thạch, lúc này lại tiếp tục sắp xếp để đưa vào sổ sách, vì đồ vật quá nhiều, nên chỉ có thể vào sổ từng món một, sau đó mới phân loại ra, để tính ra tổng số của mỗi loại bảo thạch.”

Khánh Kỵ gật đầu, chỉ nghe một vị lão nhân kế bên nói:

“Hai cây thất tinh bảo kiếm, mười cây ngọc như ý, tám chiếc chậu bạch ngọc, chính chén canh ngọc bích…”

Những tên thái giám nhỏ và hai vị chuyên gia giám định này thiết nghĩ chắc đã quen thuộc với công việc, một tiểu thái giám tay bưng một chồng chén đĩa bằng ngọc nạm vàng hiếu kỳ hỏi:

“Giới lão phu tử. Thanh bảo kiếm này không phải nên quy vào hàng binh khi sao. Sao lại được liệt kê vào hàng châu báu chứ?”

Vị lão nhân gia này rút ra một chiếc khăn tơ lau mồ hôi trên trán, cười nói:

“Trẻ con thì biết gì, hai thanh kiếm này đều là kiếm cổ được rèn luyện tinh xảo, giá trị của nó đã bỏ xa giá trị của các loại binh khí bình thường khác, vả lại vỏ kiếm được làm bằng da cá kình xanh, bên trên nạm hồng bảo thạch, lam bảo thạch, tổng cộng là một trăm lẻ tám viên bảo thạch, ở giữa có gắn bảy ngôi sao làm bằng ngọc cực phẩm, chỉ cần vỏ kiếm này thôi, đã ngàn vàng khó mua rồi, hiểu chưa?”

Vị tiểu thái giam như đã được giác ngộ. Khi vị lão nhân gia này nói chuyền với tên tiểu thái giám, một vị lão nhân khác rút từ trong đám châu báu ra một miếng ngọc đẹp, đang nhìn trên nhìn dưới tỉ mỉ tường tận, đột nhiên kinh ngạc kêu lên:

“Lão Giới, ông mau xem này, viên ngọc đẹp này, nhìn trong suốt, màu sắc của ngọc mượt mà, chiếu rọi sặc sỡ, nhìn chính diện thì là một viên ngọc đẹp màu trắng, nhưng khi nhìn nghiêng, có các màu trăng, xanh, tím, vàng đều rất rõ ràng, loại ngọc này, chỉ cần to bằng ngón tay cái thôi, đã là vật quý hiếm rồi, thế mà miếng ngọc này, to bằng đầu của một đứa bé, một viên ngọc cực phẩm to như thế thật là đáng quý, lão phu bính sinh chưa từng nghe nói có viên ngọc đẹp đến thế.”

“Ồ?”

Vị lão nhân họ Giới cảm thấy hứng thú, vội vàng đi qua, cười nói:

“Những bảo vật có thể khiến cho Giang huynh khen ngợi như thế thật hiếm thấy, để đệ thưởng thức một chút.”

Giới lão phu tử cầm lấy viên ngọc lớn, ngắm nghía một cách cẩn thận, lại kinh ngạc nói:

“Một viên ngọc to như thê, không chút tì vết, quả là hiếm gặp hiếm gặp. Bảo vật này, quả thật là kiệt tác của trời đất làm ra, có thể gặp chứ không thể cầu. Ngọc đẹp như thế, không thể là vật vô danh được, chắc chắn là bảo vật nổi tiếng của nước Sở.”

Lão Giang đứng bên cạnh xem viên bảo ngọc, kinh ngạc nói:

“Nhìn nghiêng là màu ngọc bích, nhìn thẳng là là màu trắng. Ôi. Viên ngọc quý này… viên ngọc quý này… ta nhớ ra rồi!”

Hai người nhìn nhau, cùng đồng thanh la lên:

“Hòa thị chi bích!”

“Hòa thị bích?”

Vừa nghe tên của đệ nhất bảo vật lưu danh thiên cổ này, Khánh Kỵ cũng không kềm được sự kinh ngạc, lập tức bước tới gần hỏi: Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

“Các ngươi nói, viên ngọc này là Hòa thị bích sao?”

Hai vị lão nhân nhìn Khánh Kỵ, nói chuyện cũng cẩn thận hơn, lão Giang do dự một lúc đáp:

“Viên ngọc này thuộc hàng cực phẩm, giá trị của nó, có thể so sánh với giá trị của Hòa thị bích. Hơn hai trăm năm trước, Biện Hòa nước Sở được viên ngọc quý này, sau đó hiến cho Sở Vương, việc xẻ đá được ngọc, trong sử sách ghi lại có đề cập đến viên ngọc nhìn nghiêng là màu ngọc bích, nhìn thẳng là màu trắng, rất phù hợp với viên ngọc này, nên tiểu nhân mới có sự phán đoán như thế.”

“Hòa thị bích giá trị liên thành, bảo vật này, không thể ngay cả hộp đựng cũng không có chứ?”

Khánh Kỵ hồ nghi nói

Một tên thái giám lấy hết sức can đảm nói:

“Đại vương, viên ngọc này vốn được để trong một chiếc hộp, vì lúc chuyển dời sợ rằng chiếc hộp đè lên sẽ làm viên ngọc bị tổn hại, nên tiểu nhân không có để hộp lên.”

“Mau đến cho ta xem.”

Vị thái giám đó mau chóng chạy đi tìm chiếc hộp của viên ngọc đẹp này, Khánh Kỵ đón lấy chiếc hộp, lật qua lật lại xem, quả nhiên dưới đáy hộp có ghi “Hòa thị chi bích” bốn chữ nhỏ, bất giác vui mừng nói:

“Đúng là nó, quả nhiên là nó! Mau đem đến cho ta xem nào!”

Lão Giới vội vàng hai tay dâng lên viên Hòa thị bích, Khánh Kỵ đón lấy, xem qua xem lại một cách tỉ mỉ trong hồi lâu, trong con mắt của người không biết về ngọc như hắn, đó chỉ là một viên đá màu trắng có vẻ trong suốt, nhìn nghiêng có chút màu xanh mà thôi, cái gọi là tinh xảo trong suốt xem ra không bằng Ngọc thụ chi.

Hai vị chuyên gia giám định này nhìn Khánh Kỵ với ánh mắt sôi nổi, đợi hắn khen ngợi, Khánh Kỵ nhìn thấy, đành giả vờ xem tiếp một hồi lâu, khen:

“Hảo ngọc! Quả nhiên là một viên ngọc cực phẩm!”

Tôn Vũ nói:

“Đại vương, tuy viên ngọc này giá trị liên thành, nhưng hiện giờ vẫn chưa được tiện…”

Khánh Kỵ cười nói:

“Quả nhân biết, viên ngọc này hiện giờ chưa thể lộ ra ngoài.”

Hắn cười ha hả để viên ngọc trên bàn, nói:

“Nếu đã không thể đem ra cho mọi người thưởng thức, thế thì thay đổi diện mạo để lại sử dụng vậy, hai vị lão tiên sinh có quen biết vị cao thủ điêu khắc ngọc nổi tiếng nào hay không?”

Lão giới mỉm cười, tuy ở trước mặt đại vương nhưng vẫn tự nhiên đưa tay lên, vuốt bộ râu dài đến bụng của hắn, lưng cũng thẳng hơn. Lão Giang ở bên cạnh cười nói:

“Đại vương, Giới Tông nguyên chính là cao thủ điêu khắc ngọc của nước ta.”

“Ồ?”

Khánh Kỵ bất ngờ nhìn lão Giới một lúc, nói:

“Nếu đã vậy, viên ngọc đẹp này ta sẽ giao cho Giới tiên sinh, xin người hãy thiết kế thật đẹp, điêu khắc nó thành một ngọc tỷ, để làm Trấn quốc chi bảo của nước Ngô.”

Giới Tông Nguyên vừa nghe xong trong lòng kích động, nếu viên ngọc giá trị liên thành này được khắc thành ngọc tỷ, trở thành quốc bảo nước Ngô, vậy tên tuổi của hắn cũng sẽ lưu danh mãi mãi gắn liền với viên ngọc này, đây là mơ ước của biết bao nhiêu người, lão Giang bên cạnh trên mặt cũng đã lộ ra vẻ ngưỡng mộ.

Giới Tông Nguyên vội vàng quỳ lại sát đất, xúc động nói:

“Tiểu dân tuân chỉ, tiểu dân tuân chỉ, không biết Đại vương muốn khắc những chữ gì trên ngọc?”

Khánh Kỵ hít sâu một hơi, cười nói:

“Vậy cũng cần hỏi sao? Đương nhiên là ... Thụ, Mệnh, Vu, Thiên, và Thọ Vĩnh Xương!”

Tôn Vũ nhìn Khánh Kỵ, trong lòng thầm nghĩ:

“Tại sao lại nói đương nhiên?”

Lần đầu đi tuần những cung điện cất giữ nào là vàng bạc châu báu và những món bảo vật khác, trong lòng Khánh Kỵ vui mừng hớn hở, công tử Quang cũng xem như đã vì hắn làm một việc tốt, đã tặng cho hắn một phần lễ hậu đến thế.

Nên biết rằng những người thời này thích tàng trữ đồ quý giá trong thành, và tài sản của một quốc gia đa phần đều được cất giữ ở bên trong thành trì, còn đô thành là nơi tập trung sáu đến bảy phần trong số mười phần tài sản của đất nước, Dĩnh Đô mấy trăm năm nay là đại đô thành của nước Sở vang danh nam phương đệ nhất quốc này, trong thành đã tập trung số lượng lớn tài sản đến nỗi không thể thống kê được, và trong số đó có một phần nhỏ đã được công tử Quang chuyển về nước Ngô.

Nước Ngô bất luận là diện tích biên giới hay là số lượng nhân khẩu, đều thua xa với nước Sở, do đó, số tài sản lớn như thế được dùng tại nước Ngô đúng là vô cùng dư dả, không chỉ có thể giải quyết được nhu cầu nhất thời của nước Ngô, mà nếu như đem toàn bộ tài sản đổi thành hiện kim, thì cho dù nước Ngô hiện tại có dốc toàn lực để phát triển kinh tế nông nghiệp, mua bán thương nghiệp và cả những ngành thủ công nguyên thủy, và có dùng ba mươi năm để tích lũy tài sản đi chăng nữa thì vẫn còn kém rất xa.

Đương nhiên, sự so sánh này chỉ là để đánh giá về giá trị tài sản mà thôi, số tài sản này không đại diện cho sức mạnh thật sự của một nước. Giữa hai điều này có sự khác biệt rất lớn, cũng giống như một thương gia làm ăn buôn bán từng bước từng bước tích lũy được năm trăm vạn gia sản, và một tên đột nhiên trúng giải độc đắc, lĩnh được năm trăm vạn hiện kim, trên bề mặt thì gia sản của hai người này đều như nhau, nhưng nếu luận về thực lực thì sẽ có sự khác biệt lớn. Nước Ngô được số tài sản khổng lồ này cố nhiên sẽ có được bước khởi đầu thuận lợi và tốc độ phát triển nhanh hơn, nhưng lại không thể vì thế mà trong nhất thời lại đòi hỏi cao hơn mục tiêu ban đầu.

Rời khỏi tàng bảo huyệt, Khánh Kỵ nói với Tôn Vũ:

“Trường Khanh, những người Sở này không nên tiếp tục giữ lại trong cung. Số tài sản lớn như thế. Trong quá trình thanh lý, cất giữ, vận chuyển khó lòng mà che được tai mắt thiên hạ, lâu ngày nhất định sẽ lộ tin tức ra bên ngoài. Ngươi hãy mau chóng sắp xếp cho những người Sở rời khỏi, tạm thời sắp xếp ổn thỏa cho họ ở trong quân doanh bên dưới núi Cô Tô.”

Tôn Vũ nghi hoặc hỏi:

“Đại vương không muốn họ biết được chân tướng, hà cớ không nhân lúc họ còn chưa hiểu ất giáp, biến họ thành nhân chứng cho ta, đuổi cổ họ về nước Sở?”

Khánh Kỵ mỉm cười:

“Những người Sở quyền quý này, quả nhân còn có chỗ dùng, nên tạm thời chưa thể cho họ trở về nước Sở được.”

“À…. Ý của đại vương là?”

“Nước Sở, liên minh với nước Ngô ta, chỉ là mối quan hệ lợi và hại nhất thời mà thôi. Không mất bao lâu, hai nước sẽ lại nảy sinh hiềm khích. Nhất là chúng ta lại lấy cớ trong cung bị hỏa hoạn, nuốt trọn số tài sản lớn như thế của nước Sở, tuy người Sở không có chứng cứ, nhưng lẽ nào họ lại ngoan hiền cam chịu khoanh tay đứng nhìn của cải bị mất sao? Cứ cho là không bằng không cớ sẽ không động đến binh đao, nhưng nếu họ trở mặt thì cũng khó lòng mà tránh khỏi.

Người Việt tuy rằng gian xảo, nhưng hiện tại vẫn chưa thể xem là tâm phúc đại họa của ta. Nếu nói về uy hiếp, nước Sở mới là nước thực sự uy hiếp nước Ngô ta, đừng nghĩ nước Ngô ta đã từng được thế như chẻ tre trực tiếp xông vào Dĩnh Đô, trên thực tế thực lực của nước Sở nằm ngoài khả năng của nước Ngô ta. Những người Sở quyền quý này sẽ tạm thời giữ lại, đến khi nước ta và nước Sở có khả năng xảy ra chiến tranh. Lại thả cho họ trở về, lúc đó sẽ thế nào nhỉ?”

Khánh Kỵ ung dung nói:

“Trường Khanh, người thân của những người Sở quyền quý này tất nhiên mong họ có thể sớm ngày trở về, nhưng những thế lực mới thay thế địa vị của họ, lấp vào những chức quan bị bỏ trống do họ bị bắt đi, trong số đó sẽ có bao nhiêu người không hoan nghênh bọn họ trở về. Đến lúc đó, thế lực mới đã có chỗ đứng vững chắc, đã có người ủng hộ và tâm phúc, sức ảnh hưởng của thế lực cũ vẫn còn, nền móng vẫn còn, lại có bao nhiêu đại quyền tâm phúc bị rơi vào tay kẻ khác, hy vọng có thể nhờ những thế lực cũ này để nắm lại quyền bính. Mấy trăm vị quyền quý của nước Sở này một khi về nước, còn lợi hại hơn việc chúng ta phái hơn hai mươi vạn đại quân đi…” Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Tôn Vũ như được giác ngộ, khen ngợi: Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

“Quả nhiên là kế hay. Bao nhiêu mưu kế như thế, Sở Vương lại còn nhỏ tuổi, gian thần hoành hoành, thần đã có thể mường tượng được tình hình của nội bộ nước Sở lúc đó.”

Hai người nhìn nhau, trên mặt lộ nụ cười gian xảo, trong họ thật là tâm ý tương thông.

“Đại vương, nếu đã vậy, thần lập tức đi sắp xếp, đồng thời, cũng phải nghĩ ra một cái cớ hợp lý, để kéo dài thời gian lưu giữ những người Sở ở lại nước ta.” Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

“Ừm, khanh hãy mau đi làm, cái cớ này cũng dễ thôi, dù cho có kiếm được một cái cớ đầy sơ hở đi chằng nữa, những thế lực mới không mong muốn những người Sở này trở về, cũng sẽ giúp ngươi một tay, ha ha…”

Khánh Kỵ nhập chủ Ngô cung, sau khi đại phong cho quần thần, đã lập tức kiến lập việc thống trị hiệu quả, vỗ về lòng dân, phục hồi sinh sản. Những cựu thần trong triều đều hy vọng có biểu hiện tốt trước mặt tân vương, ai cũng nỗ lực để hoàn thành tốt chức trách, nước Ngô mau chóng trở lại cảnh yên bình, dần dần mất đi ảnh hưởng của chiến loạn.

Hôm nay, Khánh Kỵ và Tôn Vũ đã nhiều lần nghị sự để chuẩn bị cho việc ban bố tân chính của nước Ngô, sau đó hắn rời khỏi cung đến thăm Quý Tôn Tiểu Man và Thúc Tôn Diêu Quang. Hai vị cô nương này hiện đang ngụ tại một phủ đệ cách hoàng cung không xa, quan hệ giữ hai vị cô nương này với hắn nay đã rõ ràng hơn, họ là người để hắn có thể kết liên minh với Tam Hoàn nước Lỗ, một khi đã liên hôn, tất nhiên sẽ tăng cường thêm quan hệ giữa Lỗ và Ngô, phía bắc có thể khống chế nước Tề, rất có lợi đối với mối quan hệ giữa nước Ngô và Đông Di.

Nếu gạt bỏ những nhân tố chính trị, thì hai vị cô nương này trông vô cùng xinh đẹp, đối với Khánh Kỵ lại nhất mực chunh tình, Khánh Kỵ cũng không thể phụ tâm ý của giai nhân. Huống chi Khánh Kỵ nay đã đăng cơ, hậu cung tất nhiên không thể để trống quá lâu. Đối với một vị vua trong số các chư hầu ở thời xuân thu mà nói, hôn nhân chính trị là chuyện khó tránh, về phương diện này, Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man đều không thể lường được, hậu cung của hắn sẽ phải có bao nhiêu công chúa của các nước lớn, tuy hắn yêu Diêu Quang và Tiểu Man, không muốn hai nàng chịu thiệt thòi, nhưng sự sắp xếp thứ tự trong hậu cung lại không thể theo buồn vui cá nhân của hắn được, đây là lợi ích cần thiết của nước Ngô, và cũng là nghĩa vụ mà vua của một nước phải gánh vác.

Lý trí và tình cảm, hai cảm giác này khiến lòng hắn rối như tơ vò. Vả lại, hiện nay Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man đều có thể nói là bỏ nhà ra đi, Khánh Kỵ khó tránh khỏi hiềm nghi là bắt cóc họ. Về phần Thúc Tôn Ngọc càng có chuyện để nói, nay hắn đã là chủ nước Ngô, thiết nghĩ vị lão trượng nhân này sẽ không gây trở ngại cho hắn, nhưng về phần Quý Tôn Tiểu Man thì lại dính líu đến vua Lỗ, Cơ Tống liệu có gây trở ngại cho hắn không, Quý Tôn ý Như là đại thần nước Lỗ, dưới áp lực Cơ Tống sẽ chọn lựa thế nào trước mắt vẫn cũng khó mà dự liệ được. Hiện giờ nếu Khánh Kỵ muốn liên hôn với nước Lỗ, thì không thể cứ giữ họ lại Cô Tô thành, trước khi sính lễ được đưa đi, thì hai vị cô nương phải trở về nước Lỗ mới được, Khánh Kỵ đang nghĩ nên ăn nói như thế nào với hai vị cô nương này đây. Một khi vua Lỗ cố tình làm khó. Thì nên ứng biến ra sao, trong lòng do dự không yên. Trong cái thời xem thiên hạ là nhà, thì giữa nước và nhà, có rất nhiều việc khó có thể phân chia rõ ràng, hậu cung, há cũng chẳng đơn giản là chuyện cưới vài thê tử.

Vừa bước ra nội cung, Khánh Kỵ thấp thoáng thấy một người cách đó không xa đi ngang qua, Khánh Kỵ đang có tâm sự, nên nhất thời không có phản ứng, đến khi bóng người đó đã dần khuất sau một vườn hoa cỏ, Khánh Kỵ chợt tỉnh ra. Vội vàng hô to:

“Thành Tú, Thành Tú!”

Hai tiểu thái giám khoảng chừng mười tuổi đang đi sau hắn, một đứa là Thư Khắc, một đứa là Thân Sinh, hai đứa trẻ này đã hầu hạ Khánh Kỵ nhiều ngày, biết vị đại vương này nói chuyện rất hay, dũng khí của họ cũng lớn hơn. Vừa nghe đại vương hô hoán người đi phía trước. Thư Khắc đã mau chóng chạy lên phía trên, giọng sang sảng kêu: Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

“Thành đại phu, Thành đại phu, đại vương triệu kiến.”

Thành Tú đang vội vàng bước về phía trước, vừa nghe có tiếng gọi gấp gáp bèn quay lưng lại. Đi theo Thư Khắc đến gặp Khánh Kỵ, vội vàng thi lễ nói:

“Vi thần tham kiến đại vương.”

“Thành khanh miễn lễ!”

Khánh Kỵ mở rộng một tay áo, biểu thị cho hai thám giám lui ra, sau đó nhẹ giọng hỏi:

“Thành Tú, tỷ tỷ của ngươi đến nay vẫn chưa có tin tức gì à?”

“Thành Tú ngẩn người, không nghĩ là hắn lại hỏi tin tức của Tỷ tỷ, ngơ ngác một lúc mới trả lời:

“Vâng, vi thần vẫn chưa nhận được tin tức của tỷ tỷ. Khi vi thần đến nước Sở không lâu, tỷ tỷ cũng đột nhiên rời khỏi Quý phủ, nhưng lại không đến nước Sở, cũng không hề liên lạc với vi thần. Thần cũng đang rất nóng lòng. Thành thị môn hạ phân tán trong các ngành nghề ở khắp các nước, thần cũng đã nhờ họ lưu ý. Cũng không hề có tin tức của tỷ tỷ, hiện nay các nước chiến loạn, trên đường đi đầy nguy hiểm, muốn biết tỷ ấy đi về phương nào e là cũng khó, haizzz…”

Hắn lại thở dài, liếc nhìn Khánh Kỵ, hơi chút do dự nói:

“Nhưng xin đại vương đừng quá bận tâm, bên cạnh tỷ tỷ có mang theo rất nhiều dũng sĩ… có lẽ không xảy ra chuyện gì. Hoặc giả… sẽ mau chóng nhận được tin tức của tỷ ấy.”

Trong lòng Khánh Kỵ như lắng xuống, dường như có những dự cảm không hay. Tuy nói rằng giữa các nước liên tục xảy ra chiến loạn, đường đi đầy nguy hiểm, nếu là bá tánh bình thường, trong tình hình này di chuyển qua lại giữa các nước, đừng nói là đi trong vài tháng, đi hơn một năm trời vẫn không lấy gì làm lạ, nhưng Thành Bích phu nhân há lại không thể so với bá tánh bình thường được sao? Nàng ấy rời khỏi nước Lỗ, tất nhiên là phải che giấu tung tích, để tránh người khác biết được nàng ấy đang ở đâu. Theo như Thành Tú nói, Thành Bích lập kế hoạch trên đường trở về Khúc Phụ, đã bị loạn phỉ giết, sau đó Thành Bích của Quý thị sẽ mãi mãi biến mất trên đời này, nàng ấy sẽ lặng lẽ đến đây để gặp ta. Nhưng đã qua một thời gian dài, tại sao vẫn chưa có tin tức gì của nàng ấy, cho dù nàng ấy có ngày nghỉ đêm đi, để che dấu tung tích, người khác không biết tung tích của nàng, cũng không lý nào nàng ấy che giấu cả đối với của tiệm của mình, cứ cho là tất cả vì an toàn, không lẽ nàng ấy che dấu đối với thuộc hạ tâm phúc sao, cũng nên thông qua họ đưa tin báo bình an cho ta, cho Thành Tú chứ?

Trong lòng Khánh Kỵ bắt đầu hoang mang, Thành Bích phu nhân diện mao xinh như hoa, trời sinh kiều diễm, lại thêm nàng ấy che dấu tung tích để chạy trốn, tất nhiên sẽ đem theo một ít kim ngân châu báu trong người, chẳng lẽ lại lộng giả thành chân, đã thật bị một toán loạn phỉ…, cũng có thể nàng ấy giả chết để thoát thân, và thị vệ bên cạnh lại nổi lòng tham, đối với nàng ấy…

Khánh Kỵ nhất thời lòng rối như tơ vò, Thành Tú cũng mặt đầy băn khoăn, nhưng khi thấy bộ dạng hoảng loạn của Khánh Kỵ, bèn an ủi hắn, nói: Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

“Đại vương đừng quá lo lắng. Tỷ tỷ túc trí đa mưu, thị vệ bên cạnh đều là tâm phúc nhiều năm, đối với tỷ ấy một lòng trung thành, theo thần nghĩ, tỷ tỷ nhất định sẽ không xảy ra chuyện gì, nay đại vương mới nhập chủ Ngô cung được hơn mười ngày, thần nghĩ, tỷ tỷ hay tin nhất định sẽ mau chóng đến đây.”

“Mong là vậy…”

Khánh Kỵ thở dài:

“Tình hình hiện nay, muốn chủ động đi tìm tung tích của nàng ấy cũng sẽ không biết nên bắt đầu từ đâu. Nhưng nếu nàng ấy cũng không biết nên bắt đầu từ đâu. Nhưng nếu nàng ấy có tin tức gì, chắc chắn sẽ liên lạc với ngươi, nếu nhận được tin của nàng ấy, ngươi phải lập tức báo cho quả nhân.”

“Vâng, vi thần tuân lệnh.”

“Uh, khanh lui được rồi. Đúng rồi, ngươi đang đi đâu thế?”

Thành Tú lại vội vàng thi lễ đáp:

“Thần phụng mệnh của tướng quốc đại nhân, nhập cung để kiểm định một số châu báu, chuẩn bị chuyển sang các nước bán.”

“À, khanh cứ đi tiếp đi.”

Thành Tú lại vái chào, rồi gấp rút rời khỏi.

Khánh Kỵ lại nghĩ đến việc tung tích của Thành Bích chưa rõ, trong lòng nặng trĩu, những suy nghĩ khủng khiếp bắt đầu xuất hiện trong đầu hắn, khiến hắn tâm trí rối bời. Đi khỏi cửa cung ngồi lên xe ngựa, đột nhiên trong lòng Khánh Kỵ chợ nảy ra một suy nghĩ kỳ lạ:

“Không đúng, bình thường nói chuyện phiếm cùng Thành Tú, nghe hắn kể chuyện của Thành gia, tên Thành Tú này là người hay thẹn thùng, năng lực có hạn, tuyệt đối không phải là một nhân vật lợi hại, cũng không thuộc hạng người mạnh vì gạo, bạo vì tiền, Thành gia có được sản nghiệp lớn như thế, có thể nói là do một tay Thành Bích kinh doanh mà nên. Tên Thành Tú này nếu không phải là thân phận đệ đệ của nàng ấy, thì với năng lực của cá nhân hắn, ngay cả làm một nhân tài kinh thương hắn cũng không thể làm nổi. Nếu Thành Bích mất tích một thời gian lâu như thế. Nhất là trong thời buổi chiến loạn này, sản nghiệp của Thành gia muốn duy trì liên lạc và kinh doanh bình thường, dựa vào năng lực của Thành Tú làm sao có thể làm được như thế?

Đó là điểm thứ nhất, điểm thứ hai là, vì Thành Bích mới là trụ cột của Thành gia, đồng thời Thành Tú cũng biết quan hệ yêu đương giữa ta và tỷ tỷ hắn, có thể nói sự nghiệp của Thành gia và cả tiền đồ của cá nhân Thành Tú, đều phải dựa vào sự tồn tại của Thành Bích. Nay khi ta nghe nói Thành Bích tung tích chưa rõ, trong lòng đã lo lắng sợ sệt, khó lòng mà cười nổi, vì sao Thành Tú lại có thể ung dung như thế, không có vẻ nóng lòng?”

Nhưng mà, bên trong chắc chắn có gian kế! Khánh Kỵ nghĩ lại tình hình Thành Tú và hắn đối đáp vừa rồi, và cả những biểu hiện gần đây của hắn, càng nghĩ càng thấy nghi vấn. Nếu Thành Bích đã có liên lạc với Thành Tú, vậy thì tại sao nàng ấy lại không vội đến đây để hội ngộ cùng ta? Người nữ nhi như nàng ấy, một khi đã động chân tình, thì có thể biến biển sâu thăm thẳm thành núi lửa hừng hực cháy. Nàng ấy đã cố tình không đến gặp ta, trong việc này…

Khánh Kỵ chớp mắt. Trên mặt bỗng lộ ra nụ cười đầy hứng thú, từ biểu hiện giấu đầu lòi đuôi của Thành Tú, hắn thật không tin Thành Bích đã gặp chuyện bất trắc, con hồ ly tinh chín đuôi xảo quyệt này không biết đang tính giở trò gì đây? Khánh Kỵ nóng lòng chờ tiếp chiêu đây…

“Diêu Quang…”

Khánh Kỵ bước vào phòng của Thúc Tôn Diêu Quang. Nhẹ giọng gọi. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Trong lòng không ai trả lời, Khánh Kỵ bước ra sau bức bình phong, thi thấy Thúc Tôn Diêu Quang đang ngủ trưa, trên người đắp một chiếc áo mỏng, hai má đỏ hây hây, tóc thề xỏa ra, vô cùng xinh đẹp, tiểu ni tử này ngủ cũng rất say.

Khánh Kỵ nhìn thấy, bèn bước nhẹ chân, đi tới ngồi bên cạnh nàng ấy. Áo lụa hoa. Gấm có mùi hương. Áo đẹp hoa lệ, chiếc khăn mỏng không thể giấu nổi thân hình mỹ miều của nàng. Thân hình nàng trông như ngọn núi xa được mây bao phủ, tuy không thể nhìn thấy rõ đỉnh núi, nhưng lại mê hoặc lòng người.

Trong không khí phảng phất hương thơm thường có trong khuê phòng của nữ nhi, Khánh Kỵ nhẹ nhàng cầm lấy đôi tay nàng, trên môi nở nụ cười ấm áp, từng ngón tay nàng vừa dài vừa mềm mại, mang theo hơi ấm của cơ tể, nhè nhẹ tỏa hương trên người nàng, mùi hương thật làm say lòng người, Khánh Kỵ nhất thời như chìm đắm trong mùi hương dịu dàng hiếm có này.

“A? Đại vương đã đến.”

Thúc Tôn Diêu Quang đột nhiên tỉnh giấc, vừa mở mắt đã nhìn thấy Khánh Kỵ, bèn xoay người ngồi dậy, Khánh Kỵ vội gữ đôi vai thon thả của nàng lại:

“Không cần hành lễ đâu, nàng cứ như thế. Khi chỉ có ta với nàng, nàng thích gọi ta thế nào thì cứ gọi, ta không xưng là quả nhân, nàng cũng đừng gọi ta là đại vương.”

“Sao có thể vậy được, tôn ti trật tự nó có quy luật, đại lễ quân thần không thể xem nhẹ được.”

Thúc Tôn Diêu Quang mặt ửng đỏ nói. Gặp Khánh Kỵ trong tình cảnh này, có vẻ như không được quang minh chính đại cho lắm, khiến nàng có chút không thoải mái. Khánh Kỵ nhẹ cười:

“Ồ? Theo như nàng nói thì, chuyện hành phòng của phu phụ cũng phải làm theo lễ chế sao? Vậy thì còn gì là thú vui nữa?”

“Đại vương…”

Thúc Tôn Diêu Quang mắng yêu một tiếng, nắm lấy đôi bàn tay đang đặt trên ngực nàng, đôi môi khẽ động, dở khóc dở cười liếc nhìn Khánh Kỵ.

Khuôn mặt tú lệ như thế, bỗng nhiên ngón trỏ của Khánh Kỵ bị đau, hắn kêu lên:

“Diêu Quang trong mắt không có quân vương, dám động thủ với cả quả nhân, ừm… nhất định phải phạt.”

Thúc Tôn Diêu Quang chớp chớp đôi mắt, nhỏ nhẹ đáp:

“Đại vương muốn trừng phạt thiếp như thế nào?”

“Ha ha, cái này là nàng tự làm tự chịu nhé, không thể trách Khánh Kỵ được nhé.”

Khánh Kỵ cười, đột nhiên chống tay xuống giường, nhoài người qua hôn nàng.

“Ơ…”

Đôi mắt long lanh của Thúc Tôn Diêu Quang khẽ mở to rồi nhanh chóng dịu lại, sau đó mặt nàng đỏ gay trông như người đang say rượu, nàng khép lại đôi mắt, trước tiên là bị động để Khánh Kỵ hôn lên đôi môi nàng, sau màn dạo đầu khiêu khích đó, Thúc Tôn Diêu Quang ưỡn ngực phát ra một tiếng rên uyển chuyển du dương, tiếng rên đó như thấm vào tận xương tủy, khiến lòng người phơi phới, liền sau đó, đôi tay mềm mại yêu kiều của nàng chủ động nắm lấy cổ tay của Khánh Kỵ, nhẹ nhàng như cánh hoa từ từ nằm xuống…

Khánh Kỵ đè trên người Diêu Quang, một cảm giác quyến luyến bịn rịn, chiếc chăn bằng áo lụa của Thúc Tôn Diêu Quang bị dày vò nên đã cuốn lên trên, để lộ ra một đôi chân đẹp và một chiếc đùi thon thả, đôi chân này như quấn vào nhau, từng ngón chân trông như những con tằm, lúc thì co lại, lúc thì mở ra, trong tình yêu thương của Khánh Kỵ khó trách những ngón chân ấy thể hiện ý kiến của nó, cứ như vết rách của con diều bay trong gió.

“Ưm… đừng, đáng ghét…”

Thúc Tôn Diêu Quang đột nhiên đẩy hắn ra, vừa mắc cỡ lại thấy khó xử che đôi ngực như đang nóng lòng muốn nhảy ra khỏi áo, xấu hổ nói:

“Không được, bây giờ… chưa được…”

Ánh sáng vẫn chiếu lên, đôi ngực nảy nở trắng như ngọc như tuyết, vẫn như đang ẩn hiện dưới đôi tay nàng, đỏ hồng, run lẩy bẩy, thoắt ẩn thoắt hiện, như hoa thược dược trong sương mờ, cảnh đẹp như thế, đúng là xem mãi không chán.

Thấy Khánh Kỵ say mê nhìn ngay trước ngực nàng, Thúc Tôn Diêu Quang xấu hổ xoay người lại nằm trên giường, chiếc chăn mỏng kéo lên đến tận eo, che chắn chiếc eo nhỏ nhắn của nàng, thế nhưng lại khiến cho đôi mông tròn trịa của nàng hiện ra rõ hơn.

“Ha ha…, còn nhớ khi ta lẻn vào phủ của nàng, bị nàng cho một đá, liền ngã đè lên người nàng, lúc đó nàng dùng hết sức để đánh ta, trông giống như một con ngựa hoang vậy, bây giờ sức mạnh của nàng đâu hết rồi?”

Khánh Kỵ cười tinh quái, tay nhè nhẽ vỗ vào đôi mông tròn trịa của nàng. Mông nàng tròn trịa mượt mà, cảm giác đầy đặn, chắc nịch, khiến người không nỡ bỏ tay.

Thúc Tôn Diêu Quang đánh “bốp” một tiếng vào cái tay đang vỗ mông nàng, nhíu mày:

“Sao lúc đó thiếp không cho cái tên xấu xa như chàng thêm vài đá, bây giờ lại ăn hiếp thiếp như thế.”

“Ha ha, nếu lúc đó nàng đá thêm vài đá, e là bây giờ đã đau khổ chẳng thiết sống rồi.”

Khánh Kỵ cười, bàn tay lại vỗ lên lưng nàng. Lúc này Thúc Tôn Diêu Quang không có vẻ cự tuyệt, nàng nhắm mắt lại thoải mái, ngoan ngoãn trông như con mèo:

“Đại vương ngày lo trăm việc, sao hôm nay lại rảnh rỗi đến đây thăm Diêu Quang?”

“Ta muốn… hai ngày sau sắp xếp cho hai nàng về nước Lỗ.”

“Hả?”

Thúc Tôn Diêu Quang đột nhiên ngẩng đầu lên, kinh ngạc nhìn hắn, Khánh Kỵ sớm biết phản ứng này của nàng nên đã nhoài người qua, hôn nhẹ lên đôi môi nàng, sau đó nói nhỏ bên tai:

“Tiểu yêu tinh à, tiếp tục giữ nàng bên cạnh ta, ta không thể đảm bảo có thể để nàng toàn vẹn, trong sạch mà trở về nước Lỗ được.”

Thúc Tôn Diêu Quang dần dần hiểu ra, sa vào lòng của Khánh Kỵ, vui mừng nói:

“Chàng… cuối cùng chàng cũng chịu mang sính lễ sang nhà ta cầu thân rồi!”

Khánh Kỵ và Diêu Quang tâm sự hồi lâu, họ cùng thương lượng những tình huống mà nàng ấy có thể gặp phải sau khi về nước, nhất là việc vua Lỗ Cơ Tống có thể sẽ gây khó dễ cho Quý Tôn Tiểu Man, thì đến lúc đó nên ứng phí như thế nào. Thúc Tôn Diêu Quang so với Quý Tôn Tiểu Man thì chững chạc hơn nhiều, những việc này hắn chỉ đành cùng thương nghị với Diêu Quang.

Vấn đề mà Khánh Kỵ muốn bàn bạc nhất, kỳ thực là việc sắp xếp ngôi thứ cho nữ nhi của các chư hầu trong hậu cung như thế nào. Vấn đề này xem ra có vẻ buồn cười, thế nhưng lại trực tiếp liên quan đến sự hòa thuận sau này giữa hậu cung phi tần với nhau và giữa hậu cung phi tần với hắn, việc này tuyệt đối không dễ.

Cũng như các triều thần võ tướng dưới trướng hắn, dù cho bình thường thân thiết thế nào, cùng sống trong quân ngũ hòa thuận thế nào, dù bình thường xem thường danh lợi thế nào, nhưng đến khi hắn ngồi trên đại điện, đại phong cho quần thần, tất cả họ đều mở to mắt nhìn, lắng tai nghe sự an bài của hắn đối với quần thần.

Ai xứng làm thượng khanh, ai có thể làm trung khanh, ai nên làm hạ khanh, trong lòng mỗi người đều đã tính toán sẵn, nếu như an bài của Khánh Kỵ quá khác xa so với suy đoán của họ, lại không có lý do khiến người khác tín phục, sẽ khiến họ tức tối trong bụng và sinh lòng oán hận. Chén nước này được bưng thế nào vĩnh viễn cũng không thể khiến cho tất cả mọi người hài lòng, cho nên từ xưa đến nay đằng sau niềm vui khi khai quốc quân vương đại phong cho quần thần, ít nhiều gì cũng có người không vui.

Kỳ thực là trong lòng bất mãn, trong bụng tức tối, thậm chí do vậy mà trút giận lên cả những bằng hữu khi xưa, những đại phu và tướng quân cùng chung sống trong quân ngũ, chưa hẳn họ làm thế vì ham hố danh lợi, đố kỵ với người khác cấp bậc cao hơn mình một bậc, hoặc giả chức vụ quan trọng hơn của mình, mà nguyên nhân là vì điều này liên quan đến sự cực khổ và những hy sinh của bản thân có được thừa nhận hay không, năng lực của bản thân có được nhận thấy hay không. Dù cho Khánh Kỵ có hao tâm tổn huyết để sắp xếp thế cân bằng trong triều. Lại được Tôn Vũ, Yểm Dư, Chúc Dung ba vị tướng lãnh đức cao vọng trọng này đến báo tin trước, thì dù hắn có làm bao nhiêu chuyện, cũng sẽ có người cảm thấy an bài không công bằng, họ sẽ không dám nói ra ở trước mặt Khánh Kỵ, nhưng sau đó sẽ bày tỏ ấm ức với các đồng liêu.

Trong quân như thế, trong triều như thế, trong cung há cũng chẳng như thế sao? Những nữ tử này dẫu rằng không để tâm đến bản thân ý nghĩa của địa vị cao thấp, cũng sẽ để tâm đến việc an bài như thế nào để chứng minh địa vị của họ trong lòng của Khánh Kỵ, Khánh Kỵ thật không mong muốn trong lòng họ có khúc mắc, mà diễn nên vở kịch chiến tranh lạnh, thậm chí là đại chiến trong hậu cung nước Ngô. Cho nên hắn muốn bàn bạc trước với họ về sự an bài này. Đành rằng những việc này nói trong bầu không khí như thế này thì thật là tréo nghoe, Khánh Kỵ nhiều lần do dự, nhưng vẫn cảm thấy khó mà mở lời.

Hai người nói chuyện rất lâu. Thúc Tôn Diêu Quang lưu luyến bịn rịn ôm lấy hắn hôn một cái, buồn bã nói:

“Thật không nỡ để chàng đi. Chàng mà bước ra khỏi căn phòng này rồi, e là trước khi thiếp lên đường trở về nước Lỗ, chàng bận đến nỗi khó mà đi khỏi được, lại không thể gặp được chàng.”

Khánh Kỵ hôn lên trán nàng, an ủi:

“Ta thì lại mong đến lúc đó, nàng vừa bước chân rời khỏi, sứ giả sẽ mang sính lễ lập tức lên đường. Đợi đến khi ta lại đón nàng về, thì chúng ta đã là phu phụ, có thể ngày ngày gặp nhau, suốt đời không chia lìa nữa.”

Thúc Tôn Diêu Quang bĩu môi:

“Không dám đâu, chàng đừng có mà dỗ ngọt thiếp. Nam nhân các chàng xưa nay đều lấy sự nghiệp làm trọng, đến lúc đó một lòng lo việc quốc gia đại sự, thiếp vẫn là không thể gặp được chàng sao.”

“Sao thế được, nay ta đã là đại vương nước Ngô, có nhiều việc chỉ có thể ngồi yên mà ra quyết sách, không có cách nào đích thân đi làm, có bận rộn hơn nữa, mỗi ngày cũng có thể ở bên cạnh nàng mà.”

“Vậy sao?”

Thúc Tôn Diêu Quang dở khóc dở cười ngồi dậy, chăm chú đếm từng ngón tay:

“Chỉ e đến lúc đó đại vương nhà ta vẫn phải dùng đến thuật phân thân, nào là Tiểu Man, nào là Thành Bích. Thật đáng tiếc, à… chỉ e còn có một vị Nhâm Băng Nguyệt cô nương cũng không thoát khỏi lòng bàn tay của đại ma vương Khánh Kỵ chúng ta. Còn ai nữa nhỉ? Tạm thời chưa thể nghĩ ra. Nhưng với thân phận của phụ thân thiếp, đã có vô số thê thiếp rồi, huống chi đường đường là đại vương nước Ngô, tương lai đương nhiên chỉ có thể nhiều hơn chứ không thể ít hơn. Ôi, thiếp vẫn mong chàng là đương thế anh hùng, lập nên những chiến công hiển hách, nhưng chỉ nghĩ đến những điều này thôi, thiếp lại ước chàng chỉ là một bá tánh bình thường. Nhưng nếu chàng lại là một bá tánh vô danh tiểu tốt, thiếp lại không cam lòng, nghĩ đi nghĩ lại thật là mâu thuẫn quá.”

Khánh Kỵ nắm những ngón tay của nàng, mỉm cười nói:

“Nếu chỉ vì khuôn mặt xinh đẹp, ta sẽ nạp vào hậu cung, cũng sẽ không thả Tiểu Nhã, Tiểu Trúc sáu vị cô nương rời khỏi. Khi Khánh Kỵ gặp hoạn nạn ở nước Lỗ, khi đã đi đến đường cùng. Diêu Quang đối với ta vẫn một lòng một da, từ đó luôn ở bên cạnh ta không rời nửa bước, tình cảm của nàng Khánh Kỵ sốt đời không quên, càng không đối xử lạnh nhạt với nàng.”

Thúc Tôn Diêu Quang trong lòng cảm thấy ấm áp, đẩy hắn ra nói:

“được rồi, chàng giờ đã là Đại vương, mà vẫn để tâm đến thiếp, Diêu Quang đã mãn nguyện lắm rồi, xem vẻ mặt lưu luyến của chàng kìa, chàng có nhớ là phải đi gặp Tiểu Man không? Bây giờ chàng còn bận nhiều việc quốc sự, thiếp sẽ không bá chiếm chàng nữa đâu.”

Khánh Kỵ lại hôn lên má nàng, thân mật nói:

“Diêu Quang của ta ngày càng dịu dàng và hiểu chuyện hơn rồi, chuyện của Tiểu Man, e rằng Cơ Tống sẽ kiếm cớ để ngăn cản, ta sẽ căn dặn nàng ấy vài điều. Yên tâm đi, muộn nhất là tháng ba năm sau, Khánh Kỵ nhất định đón Diêu Quang về!”

“Vâng”

Thúc Tôn Diêu Quang cười ngọt ngào, híp đôi mắt lại nói:

“Nhớ năm xưa Diêu Quang chỉ thích mặc y phục của nam nhân, ngang nhiên huênh hoang với người đời, không những thường bị phụ thân quở mắng, mà rất nhiều cụ già trong đô thành vừa gặp ta đã lắc đầu, thường nói Tiểu nha đầu ngạo mạn như ta sẽ không thể lấy được một tấm chồng tốt. Hi hi, lần này trở về, khoác lên người giá y, phu quân mà Thúc Tôn Diêu Quang muốn gả không những là anh hùng đương thế, mà còn là vua của một nước, để xem, họ còn lời nào để nói nữa không.” Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Diêu Quang nói chuyện vô cùng vui vẻ, khiến cho Khánh Kỵ muốn nói nhưng đành phải nuốt lại vao trong, trong lòng hắn không biết nên làm thế nào nên thở dài, Thúc Tôn Diêu Quang với ánh mắt ấm áp như nước xuân đã tiễn Khánh Kỵ ra khỏi cửa.

Khánh Kỵ đứng lặng dưới mái hiên một hồi, mới tiếp tục đi về phía nơi ở của Quý Tôn Tiểu Man. Nơi này có rất nhiều nô tì hầu hạ, họ đều là nô tì của Nhâm gia được Nhâm Nhược Tích phái đến hầu hạ hai vị cô nương, những đại hào môn đều có rất nhiều nguyên tắc, những nô tì này đã được huấn luyện rất kỹ, nên khi thấy Khánh Kỵ vẫn rất ung dung, khụy gối xuống hành lễ, cử chỉ và thái độ rất có phong thái. 

Khánh Kỵ đã đến nơi mà Quý Tôn Tiểu Man ở, thấy bóng một người vừa đi ra khỏi cửa, thân hình người này không cao, có vẻ hơi ốm yếu, nhưng lại đeo kiếm bên người, bước chân có vẻ thành thơi, nhất cử nhất động như núi cao sừng sững, có vẻ chín chắn chững chạc khó ta. Đến khi phát hiện Khánh Kỵ, thần sắc người đó mới có vẻ kinh ngạc, vội vàng bước nhanh hơn, tiến lên quỳ lạy nói:

“Vi thần Viên Tố, tham kiến Đại vương!”

Tên Viên Tố này không giỏi về việc chém giết lẫn nhau trên chiến trường. Khi Khánh Kỵ và nước Ngô đánh giết nhau, hắn được phong làm thủ lĩnh đội trinh sát, dựa vào kiếm thuật cao siêu và thân thủ cao cường, thâm nhập vào hậu phương của địch mà dò thám tình hình, truyền tin tình báo về. Nay Khánh Kỵ đã phục quốc, những thị vệ bên cạnh như A Cừu, Tái Cừu đã được phong đại tướng lãnh binh ở bên ngoài, nên sẽ do Viên Tố thống lĩnh cấm vệ trong cung, chưởng quản tả hữu thị vệ. Đồng thời còn phụ trách dạy quyền thuật cho quân Ngô, tuy chức vụ không cao, nhưng quyền bính lại rất mạnh.

“Viên khanh bình thân. Vừa nãy đến gặp Tiểu Man à?”

“Vâng! Đại vương có cần vi thần hộ giá hồi cung?”

Viên Tố không lập gia đình, cũng chẳng có con cái, từ lâu đã xem Quý Tôn Tiểu Man như cốt nhục thân sinh của mình. Nhắc đến Tiểu Man trên mặt hắn lộ ra nụ cười vui vẻ thanh thản.

“Không cần đâu, Quả nhân cũng muốn đến gặp Tiểu Man cô nương. Khanh hãy tự về cung đi.”

“Vi thần tuân chỉ.”

Viên Tố nghiêng người tránh sang một bên, Khánh Kỵ tiếp tục bước đi.

Đến trước cửa phòng Quý Tôn Tiểu Man, Khánh Kỵ gõ lên cửa, gọi:

“Tiểu Ngải?”

“Ơ, Viên thúc thúc sao người quay lại rồi?”

Trong phòng vọng ra một giọng nói vui vẻ, liền sau đó cửa phòng mở ra. Quý Tôn Tiểu Man lê theo đôi guốc gỗ vui vẻ mở cửa, vừa thấy Khánh Kỵ đứng ngay trước cửa, liền thay đổi sắc mặt nói:

“Thì ra Đại vương còn biết thiếp đang ở đây, ngày nào cũng chẳng thấy ngài đến. Còn cho rằng Khánh Kỵ Đại vương bận rộn trăm bề đã quên mất trên đời này còn có một Quý Tôn Tiểu Man chứ. Muốn đi gặp ngài, lại bị ngăn bởi tường cao của cung điện, bao nhiêu là thị vệ đứng gác, thật là vinh quang không ai bằng, sao hôm nay ngài lại chịu hạ cố đến đây?” Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

“Thì dạo này không phải bận sao? Ha ha, sao thế, không cho ta vào à?”

Quý Tôn Tiểu Man đôi mắt tinh ranh linh động, vẻ mặt thanh tú đáng yêu. Thiết nghĩ chắc cũng vừa ngủ trưa dậy, mái tóc thề có chút rối, khuôn mặt lười trang điểm trông thật hoạt bát dễ thương. Nhất là nàng ấy chưa bao giờ xem Khánh Kỵ là một quân vương cao cao tại thượng. Điều này khiến Khánh Kỵ ở trước mặt nàng vô cùng ung dung tự nhiên. Nhìn vẻ mặt vừa tức vừa vui của nàng, tâm trạng của Khánh Kỵ bỗng vui vẻ trở lại. Gánh nặng trong lòng hắn vơi đi phần nào.

“Muốn vào thì vào, cả nước Ngô này đều là của ngài, ai dám ngăn ngài chứ?”

Quý Tôn Tiểu Man xoay người, để ngỏ lối vào rồi tự đi vào bên trong.

“Bốp” một tiếng, mông của nàng bị vỗ một cái, Khánh Kỵ đóng cửa phong lại, cười hi hi theo nàng bước vào.

Quý Tôn Tiểu Man xoa mông kêu lên một tiếng, quay người sang, mắt to tròn liếc hắn nói:

“Cái tên này, sao lại đánh vào mông ta?”

Khánh Kỵ cười nói:

“Cả nước Ngô này đều là của ta, Tiểu Ngải sao có thể ngoại lệ chứ? Ai nói đó là mông của nàng, đó là mông của ta mà, ha ha ha…”

Quý Tôn Tiểu Man nhịn không được cũng cười “hi hi”, liền sau đó lại nghiêm mặt nói:

“Đừng có mà hi hi ha ha với thiếp nữa, Quý Tôn Tiểu Man là người Lỗ, Đại vương nước Ngô như ngài còn lâu mới quản được thiếp.”

Khánh Kỵ bước vào bên trong, thản nhiên ngồi trên giường của nàng, trên giường của Tiểu Man có một chiếc chăn mỏng chưa được xếp gọn gàng, quả nhiên là trước khi gặp Viên Tố nàng ấy đang ngủ trưa. Khánh Kỵ an vị xong cười nói:

“Hiện giờ tuy nàng là người nước Lỗ, nhưng sẽ nhanh chóng không phải là người Lỗ rồi. Tiểu Ngải, ta muốn… hai hôm sau sắp xếp cho nàng và Diêu Quang trở về nước, sau đó, phái sứ giả đến nước Lỗ cầu thân.”

“Hả?”

Quý Tôn Tiểu Man vốn còn định cãi nhau với hắn, vừa nghe xong lời này bèn trở nên căng thẳng, ngoan ngoãn đến trước mặt hắn ngồi xuống, lo lắng hỏi: Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

“Thiếp phải… về nước Lỗ sao? Đã bỏ nhà đi lâu thế, không biết gia chủ có… có thể nào gây khó dễ cho thiếp không?”

Khánh Kỵ nói:

“Nếu là Quý Tôn Ý Như, thì nàng không cần quá lo lắng. Hôm nay đã khác xưa, ta nghĩ sẽ không có chuyện gây khó dễ cho nàng, người mà ta lo lắng chính là vua Lỗ Cơ Tống, hắn rất thích nàng, ta e sau khi nàng trở về, hắn sẽ cố ý gây khó dễ cho nàng.”

“À, hắn à”

Trên mặt Quý Tôn Tiểu Man xuất hiện nụ cười ngọt ngào:

“Về phía tên đó thì chàng không cần phải lo lắng, hắn dám gây khó dễ cho thiếp sao, thiếp sẽ xông vào cung đánh hắn y như đầu heo luôn, hắn chẳng dám đụng đến thiếp đâu.”

“Nha đầu ngốc”

Khánh Kỵ véo mũi nàng, nói:

“Hắn đường đường là vua một nước, còn không đối phó nổi nàng sao? Lúc trước, hắn muốn làm nàng vui lòng, nên việc gì cũng nhường nhịn nàng, cho dù thế nào, hắn cũng vẫn là vua Lỗ.”

“Vậy cũng đâu cần lo gì, chỉ cần gia chủ không gây khó dễ cho thiếp, thì hắn làm gì được chứ? Vua nước Lỗ của thiếp, trước nay đều chỉ là vật trang trí mà thôi, hắn cũng phải xem sắc mặt của Tam Hoàn mà làm việc vây.”

Khánh Kỵ khẽ gật đầu, vẻ mặt nghiêm trong nói:

“Hôm nay đã khác xưa… Công Sơn Bất Nữu và Trọng Lương Hoài đã gia nhập hàng ngũ phản loạn của Triển Chích, gây chia rẽ sức mạnh của gia tộc Quý thị, chiếm lĩnh một số ấp phong ấp của Quý thị, dù ít dù nhiều cũng đã làm suy yếu đi sức mạnh của Tam Hoàn. Trong thời gian nay, nước Lỗ lại khai chiến với nước Tề. Lại phải bình định phản loạn trong nước, những hành động này đều vì mục đích để cho Cơ Tống nắm giữ ấn soái thống lĩnh đại cuộc, tên Khổng Khâu này cũng rất tinh ranh, đã lợi dụng cơ hội này, dần dần nâng cao địa vị của Cơ tống trong lòng người Lỗ, đến ngay cả Tam Hoàn, cũng không dám đối đầu với hắn không kiêng nể như ngày xưa. Cho nên, điều mà ta lo nhất chính là hắn có thể gây bất lợi cho nàng.”

Tuy Quý Tôn Tiểu Man rất thích cãi lời Khánh Kỵ, kỳ thực nàng ấy còn nghe lời Khánh Kỵ hơn cả Thúc Tôn Diêu Quang, Khánh Kỵ đã nói vậy rồi, Quý Tôn Tiểu Man trở nên căng thẳng hơn, lo lắng hỏi:

“Sức mạnh hiện tại của hắn có thật đã lớn đến thế không? Vậy... vậy thiếp không về nước nữa có được không?”

“Vậy đâu có được!”

Khánh Kỵ dở khóc dở cười nói:

“Dù là bá tánh bình thường cầu thân, cũng không thể đón cô nương nhà họ về trước. Sau đó mới đem lễ vật đến các bậc trưởng bối để cầu thân chứ? Huống chi đây là liên hôn giữa hai quốc gia.”

Chung thân đại sự của mình, Quý Tôn Tiểu Man rốt cuộc đã không giở tính ngang ngược nữa. nàng ấy nắm lấy ta Khánh Kỵ, căng thẳng hỏi:

“Vậy… vậy nếu hắn ép thiếp phải lấy hắn thì biết làm sao?”

Khánh Kỵ lại nắm ngược lại bàn tay nàng, nhìn thẳng vào đôi mắt, vẻ mặt rất nghiêm túc, Quý Tôn Tiểu Man càng khẩn trương hơn, lại nghe Khánh Kỵ thì thầm bên tai:

“Nàng yên tâm, nếu quả thực nàng phải gả cho Cơ Tống. Ta nhất định sẽ cơ hội cùng nàng hội ngộ dưới âm ti.”

“Chàng…” 

Chiếc mũi của Quý Tôn Tiểu Man bị chọc tức đến độ xì hết cả hơi ra, nàng nói to:

“Thiếp nói nghiêm túc mà!”

Khánh Kỵ mở bàn tay ra nói:

“Nàng xem ta nghiêm túc biết bao nhiêu, có chỗ không đàng hoàng đâu?”

Quý Tôn Tiểu Man tức tối liếc hắn hồi lâu, đột nhiên cười “hi hi”. Chuyển sang vẻ mặt nũng nịu, đưa đôi tay ra ôm chầm lấy cổ hắn, nhẹ nhàng nói:

“Chàng đã nghĩ được cách rồi, đúng không nào?”

Khánh Kỵ chớp mắt cười:

“Không phải đã nói rồi sao, ta sẽ tìm cơ hội đến nước Lỗ cùng nàng hội ngộ dưới âm ti.”

“Khốn kiếp!”

Quý Tôn Tiểu Man vừa mắc cười lại vừa tức, đấm cho hắn hai cái, bỗng nhiên khuôn mặt xinh đẹp trở nên nghiêm túc, trịnh trọng nói:

“Nếu vậy thị, thiếp nhất quyết sẽ không gặp chàng, chàng xem thiếp hiền thục ngoan ngoãn như thế, trông giống một thê tử không biết giữ phụ đạo sao?”

Khánh Kỵ cười nói:

“Bây giờ thì không giống. Nhưng nếu bị ta dụ dỗ. Vậy mới giống.”

Quý Tôn Tiểu Man lúng túng, giận dỗi nói:

“Ta cắn chết chàng!”

Nói xong vừa xoay người đã bổ nhào vào hắn.

Hai người ngã trên giường. Giỡn nhau cười hi ha một hồi, Khánh Kỵ bỗng nhiên kề sát tai nàng nói nhỏ vài câu, Quý Tôn Tiểu Man nghe xong mắt trợn tròn, kinh ngạc nói:

“Không phải chứ… cách của chàng tồi tệ thế?”

“Cách làm tuy là tồi, nhưng tuyệt đối hiệu quả, nàng nói xem đúng không?”

Quý Tôn Tiểu Man nhoài người ra trước ngực hắn, tay xoa cằm nghiêm túc suy nghĩ, lại cười nói:

“Khoan đã, cách này tuy là tồi, nhưng nhất định dùng được, đặc biệt là nước Lỗ của thiếp, ha ha, tên Cơ Tống đó nhất định sẽ không dám phạm điều cấm kỵ nhất trong thiên hạ đâu. Còn về phía gia chủ, bây giờ thiếp cũng chẳng thèm sợ nữa.”

Đôi chân mày của nàng ấy hếch lên, đắc ý nói:

“Thiếp không còn là tiểu hồ ly tội nghiệp không ai thèm ngó ngàng tới nữa rồi, nay có Ngô vương Khánh Kỵ đứng sau chống lưng cho thiếp, xem ai còn có thể ăn hiếp ta nữa.”

“Ha ha, ta đã nói cách này nhất định sẽ thành mà?” Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

“Thành cái gì mà thành!”

Quý Tôn Tiểu Man mở to đôi mắt, lại ra oai nói:

“Nếu theo như cách của chàng, thì danh dự của thiếp đã mất hết rồi, sau này còn có mặt mũi mà gặp người đời sao?”

Khánh Kỵ ôm lấy chiếc eo nhỏ nhắn của nàng, xiết nhẹ, cười nói:

“Nàng chẳng cần phải gặp ai cả, sau này sống trong cung của Ngô Vương, chỉ cần gặp ta là đủ rồi.”

Quý Tôn Tiểu Man híp lại đôi mắt xinh đẹp của nàng, nhìn hắn đầy uy hiếp:

“Những lời này… chàng chỉ nói với mình thiếp thôi sao? Chàng đến gặp thiếp đầu tiên đúng không?”

“Đương nhiên”.

Khánh Kỵ vội vàng nghiêm chỉnh nói:

“Gần đây bận rộn việc quốc sự, nàng cũng biết mà, vừa hết bận, người đầu tiên ta đến gặp là nàng, chút nữa ta sẽ qua thăm Diêu Quang.”

Quý Tôn Tiểu Man tươi cười rạng rỡ, chủ động hôn lên má hắn một cái, ngọt ngào nói:

“Xem như chàng có lương tâm, vậy thiếp sẽ không giận chàng nữa.”

Khánh Kỵ thở phào nhẹ nhõm, Quý Tôn Tiểu Man thấy kỳ lạ hỏi:

“Sao chàng thở dài?”

Khánh Kỵ than:

“Lúc nãy ta còn nói phải đến nước Lỗ để dụ dỗ Man phu nhân, nhưng giờ thì, hình như Man phu nhân đang dụ dỗ ta mất rồi.”

Quý Tôn Tiểu Man nghe hắn gọi một tiếng là Man phu nhân, trong lòng nàng như xuất hiện một cảm giác rất kỳ lạ, như là bản thân trong phút chốc trở nên trưởng thành hơn, ngọt ngào và ấm áp đến tận đáy lòng, nhưng những lời của Khánh Kỵ lại khiến nàng vừa mắc cỡ vừa lúng túng, nàng cãi lại:

“Đừng nói bậy, thiếp nào có dụ dỗ chàng chứ?”

“Không có sao?”

Khánh Kỵ gối đầu lên cánh tay, thẳng cái lưng ra:

“Nàng xem bộ dạng của hai ta như thế này. Chẳng lẽ là ta đang dụ dỗ nàng sao?”

Lúc này Quý Tôn Tiểu Man mới phát hiện ra mình đang nằm đè trên người hắn, cánh tay đặt trên ngực hắn, bụng nàng sát ngay eo hắn, một chiếc đùi rất tự nhiên nằm giữa cặp đùi của hắn, toàn bộ thân hình bé nhỏ của nàng đang đè trên người hắn, nàng mắc cỡ, xoay người tính bước xuống. nhưng động tác của Khánh Kỵ nhanh hơn, thân thể nàng vừa khẽ động, đôi tay Khánh Kỵ vươn ra, đã ôm trọn thân hình nhỏ bé của nàng. Xoay người lại, đè nàng nằm bên dưới thân thể của hắn…

Khánh Kỵ rời khỏi phủ đệ mà hai vị cô nương đang cư ngụ, bước lên xe hắn đau đầu thở dài một tiếng. Thật khó mở lời quá, chuyện nam nữ này, vốn là hai bên tình nguyện, một khi liên quan đến hàng loạt lợi ích, là sẽ khác ngay. Bên Thúc Tôn Diêu Quang đã không cách nào mở lời được, bên Quý Tôn Tiểu Man càng không kiếm được cơ hội để nói, lại thêm tiểu ni tử này sao có thể nghĩ đến vấn đề phức tạp thế.

Còn có thể thương lượng với ai đây? Khánh Kỵ đột nhiên nhớ tới Nhâm Nhược Tích. Trong số các nữ nhi chư hầu mà hắn biết, người vừa thông hiểu thế sự lại rất lý trí, chỉ có tb phu nhân và Nhâm Nhược Tích.

Theo lệ thường, nam nhân đều thích nữ nhi cảm tính, nữ nhi quá lý tính sẽ làm giảm đi cảm giác thú vị của tình yêu, nhưng khi cần cùng nhau đối diện với một số vấn đề, thì nữ nhi lý tính sẽ là người bạn thích hợp. Cũng sẽ càng lý trí hơn khi cùng nhau đối diện, giải quyết vấn đề.

Tb phu nhân đã trải qua nhiều thăng trầm cuộc đời, lý tính của nàng ấy, bao gồm cả vạn loại phong tình trong đó, cùng nàng ấy thương lượng khiến hắn có cảm giác như được tắm gió xuân, không hề cảm thấy khô khan bực bội, cũng không dễ gì cảm nhận được trong sự nũng nịu thùy mị của nàng là sự bình tĩnh và nhìn xa trông rộng. Về phía Nhâm Nhược Tích, tuy vẫn còn trẻ tuổi, nhưng nhuệ khí và tài hoa của nàng đều thể hiện ra bên ngoài, khi nàng ấy bình tĩnh, thì thật khiến người khó tiếp cận. Đó cũng là nguyên nhân mà Khánh Kỵ không tìm nàng ấy để cùng thương lượng. Xem ra lúc này, chỉ có thể tìm nàng ấy để cùng thương nghị.

Khánh Kỵ nghĩ đến đây. Đá vào vách xe, căn dặn:

“Đến phủ đệ của Nhâm gia!”

Tại nơi Nhâm gia đã bị đốt thành đống hoang tàn, trước mắt đang được xây lại, mà quy mô còn lớn hơn trước nhiều. Trước khi nơi này xây xong, tỷ muội họ vẫn ở tại phủ của Triết Đại phu. Nhâm gia và Thành gia đối với việc Khánh Kỵ phục quốc đã ra nhiều công sức, nếu không kể đến chuyện tình nam nữ, cho dù chỉ là muốn tạo nên một tấm gương sáng cho các đại thế tộc của nước Ngô noi theo, Khánh Kỵ cũng không thể đối đãi tệ bạc với họ, nay Thành Tú được phong làm Trung Đại Phu, chức vụ dưới trướng của Đại Tư Không, trong lúc trùng kiến lại nước Ngô, việc bán bảo vật, mua lương thực và nhiều miếng thịt béo bở khác cũng đều giao cho hắn, khá được trọng dụng.

Còn về Nhâm gia, vì quản gia lại là một đôi tỷ muội, không thể nhậm chức trong triều. Nhâm gia vốn tính đào tạo Nhâm Thành Kiệt trở thành người đại diện cho Nhâm gia, và cũng để thay thế cho Nhâm Nhược Tích không tiện xuất đầu lộ diện, tương lai cũng có thể tìm được một chức quan trong triều đình. Không ngờ tên Nhâm Thành Kiệt này như bị ma xui quỷ khiến, vừa nắm được quyền lực trong tay đã tự cho rằng có thể thoát khỏi sự khống chế của gia chủ, mà còn nhất quyết về phe Chúc Dung. Tuy Nhâm Nhược Tích là hạng nữ lưu, nhưng cương quyết xử tội tên này, Khánh Kỵ vừa về đến, Nhâm Nhược Tích đã lập tức dùng thủ đoạn, đưa tên Nhâm Thành Kiệt này vào trong núi để khai thác mỏ, triệt để loại bỏ dã tâm của hắm, ổn định sự thống nhất của Nhâm gia, cũng vì thế mà khiến quyền uy của nàng vững vàng hơn.

Nhưng do thế, mà khi Khánh Kỵ phong thưởng cho những công thần, đối với việc nên an bài Nhâm gia như thế nào cũng gặp chút khó khăn, đành tạm thời gác lại, truy phong Nhâm Tử Anh là Trung Đại Phu, ban cho danh hiệu Trung Nghị, xem như là bù đắp, và cũng để an ủi trên dưới Nhâm gia. Nhâm Tử Anh được phong Đại Phu, Nhâm gia từ một thế gia chỉ lo việc buôn bán đơn thuần, đã trở thành Sĩ Tộc, tạo nền móng cho Nhâm gia sau này có người được làm quan trong triều.

Hành ddoonhj này, cả hai bên đều ngầm hiểu, huống hồ thân tộc cũng đã sớm nghe phong phanh là đương kim gia chủ Nhâm đại tiểu thư có thể trở thành phi tần của Ngô Vương, an bài như thế tất nhiên sẽ rất hài lòng. Và cũng vì nguyên nhân này, Khánh Kỵ đến nhà thăm hỏi, Nhâm Nhược Tích đãn theo các Tộc lão trưởng bối đón tiếp hắn vào phủ, sau khi hàn huyên được một lúc, thì tự mỗi người tìm cớ mà lui ra, trong sảnh chỉ còn Khánh Kỵ và Nhâm Nhược Tích, tạo cho hai người cơ hội để bàn việc riêng.

“Đại vương hôm nay sao rảnh rỗi đến thăm tệ xá.”

Hai người đã nảy sinh tình ý, chỉ thiếu mỗi danh phận chưa định, gặp lại Khánh Kỵ, Nhâm Nhược Tích khó tránh có chút ngượng nghịu, không thản nhiên như bình thường gặp mặt, các tộc lão vừa lui ra, hai má nàng đã như nóng bừng lên.

“À! Ta đế là muốn bàn một số việc với nàng.”

Khánh Kỵ thở dài, ấn hai đầu gối nói:

“Quả nhân chuẩn bị phái người hộ tống Tiểu Man và Diêu Quang về nước lỗ…”

“Vâng”

Đôi mắt như hồ thu của Nhâm Nhược Tích nhìn chăm chú vào Khánh Kỵ, trên môi mỉm cười:

“Đại vương chuẩn bị… phái sứ giả đến cầu thân hai vị cô nương à?”

Khánh Kỵ mỉm cười nói thêm:

“Không phải là hai, mà là ba.”

Hai má Nhâm Nhược Tích ửng đỏ lên trông như đám mây hồng, ánh mắt nàng nhìn sang nơi khác, nói không được tự nhiên:

“Ba vị? Không biết vị thứ ba là cô nương nhà nào?”

“Ha ha, muốn ta trực tiếp nói luôn không? Đương nhiên là Nhược Tích cô nương của Nhâm thị nước Ngô rồi!”

Thân thể nàng khẽ run rẩy, ngước mắt nhìn lên, bắt gặp ánh mắt của Khánh Kỵ, Khánh Kỵ nhẹ đưa người ra, nắm lấy bàn tay nàng ấy, dịu dàng nói:

“Nhược Tích, giữa ta và nàng, hai bên đều tình nguyện, có một số việc ta không cần vòng vo với nàng nữa.”

Hắn thẳng lưng ra, cười nói:

“Kỳ thực những lời này, ta vốn nên phái một vị đại thần, đến bàn với gia chủ Nhâm gia. Nhưng… nàng là gia chủ của Nhâm gia. Đương nhiên ta cũng không tiện cho người khác đến gặp nàng. Tâm ý của quả nhân, Nhược Tích, nàng có đồng ý gả cho ta không?”

Đôi vai Nhâm Nhược Tích bất giác vươn ra, như muốn đứng dậy che giấu thẹn thùng, nhưng Khánh Kỵ đang nắm lấy đôi tay nàng, muốn tránh cũng khó tránh, chỉ đành cúi đầu, thẹn thùng đáp:

“Nhược Tích là con dân của nước Ngô, chàng là Đại vương nước Ngô. Bất luận chàng quyết định thế nào, Nhược Tích… Nhược Tích cũng sẽ cúi đầu nghe theo.”

Khánh Kỵ mừng rỡ nói:

“Nàng trả lời rất uyển chuyển và súc tích. Được, cứ cho là quả nhân lệnh cho nàng nhập cung được rồi, nhưng mà hiện giờ trong lòng ta có một việc rất khó nói, không thể cùng thương lượng với Diêu Quang, lại càng không cách nào nói với Tiểu Man, suy đi nghĩ lại, cũng chỉ có nàng giúp ta đưa ra chủ ý.”

Nhâm Nhược Tích hiếu kỳ hỏi:

“Dưới quyền Đại vương biết bao nhiêu là văn thần võ tướng, có điều gì mà không tiện thương lượng với họ, mà lại cần một nữ nhi như thiếp giúp Đại vương đưa ra chủ ý?”

“Đương nhiên là việc hậu cung.”

“Hứ, Đại vương lại trêu chọc Nhược Tích rồi.”

Khánh Kỵ nghiêm chỉnh nói:

“Tuyệt đối không phải là trêu chọc, việc này đích thực là việc hậu cung, nên ta muốn nghe xem cách nghĩ của nàng thế nào.”

Nhâm Nhược Tích chớp mắt, trong lòng hiếu kỳ, vội hỏi:

“Không biết Đại vương đang khó xử việc gì?”

Chương 241 

Công Dục Thiện Kỳ Sự 

Nhóm dịch: huntercd

Nguồn: vipvandan

Khánh Kỵ hứ môt tiếng to, nghiêm mặt nói: 

“Trường Khanh, ngươi hãy nhớ kỹ, cho dù khanh một lòng trung thành, xuất phát từ lòng ngay thật, nhưng nếu khanh không nói trực tiếp với quả nhân, dùng mưu dùng kế, tự cho rằng có thể trêu chọc quả nhân như giỡn trên lòng bàn tay, khanh cũng không thoát nổi tội xem thường quả nhân đâu, một khi bị phát hiện, quả nhân tuyệt đối không tha !”

Khánh Kỵ giọng nói sắc mặc đều nghiêm khắc, Tôn Vũ nghe xong mặt mày biến sắc, vội vàng khấu đầu vâng dạ, trên trán đã dần dần xuất hiên mồ hôi. Khánh Kỵ lúc này mới phất tay áo cho hắn lui.

Người làm vua đại kỵ, là bị người khác khống chế. Một người vốn trung thành, nhưng nếu dung túng quá lâu, dần dần cũng khó tránh vì ngạo mạn mà nảy sinh dã tâm. Cho nên một khi có đầu mối, nhất định phải ngăn chặn kịp thời, không thể vì những nhận định trong lịch sử đối với Tôn Vũ mà sơ ý được.

Ngày Chu công hoảng sợ vì lời đồn đại, còn Vương Mãng lại được lòng người, nếu năm xưa đã chết rồi, một đời là gian hay trung nào ai biết. Ngay cả trong sử sách đã có nhận định đối với nhân vật nào đó, và định luận này là thật, thì cũng chỉ là kết luận về một mặt nào đó trong sự phát triển của lịch sử mà thôi.

Nay lịch sử đã có thay đổi, nếu hắn dùng người mà đều dựa vào những gì sử sách chép lại, trong sử sách nói hắn là trung, thì dùng mà không nghi, không có quản thúc, không có đề phòng, vậy thì thật đáng thương. Cái phức tạp nhất của tính cách là, dễ dành xuôi theo sự thay đổi của địa vị, hoàn cảnh mà thay đổi, khi lịch sử thay đổi, những người mà lịch sử đã có nhận định cũng có khả năng đi trên một đường đời khác hoàn toàn, Khánh Kỵ không mong một Tôn Vũ tuổi còn trẻ đã nắm đại quyền trong tay sẽ có một ngày vì sự dung túng của hắn, mà đi trên một con đường hoàn toàn khác.

Tôn Vũ không ngờ rằng việc hắn thông qua Thái Chúc và Tông Bá, dùng một số thủ đoạn uyển chuyển để đại vương chịu đưa sính lễ đến cầu thân công chúa nước Tần lại khiến Khánh Kỵ tức giận đến thế, từ lúc hắn đi theo Khánh Kỵ, Khánh Kỵ đối với hắn đều theo lễ nghĩa, đây là lần đầu tiên Khánh Kỵ nổi trận lôi đình với hắn. Tôn Vũ vâng vâng dạ dạ lui ra khỏi cửa, một cơn gió mát thổi quá, lúc này hắn mới phát hiện áo hắn đã ướt đẫm mồ hôi, Tôn Vũ bất giác ngấm ngầm cảnh giác. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Trên điện, Khánh Kỵ lại hừ một tiếng, lại nghĩ đến việc Câu Tiễn đột nhiên đi sứ: “Câu Tiễn? Tên cao thủ tuỳ cơ ứng biến, mặt dày và lòng dạ đen tối này, lại không biết sống chết tự đến nạp mạng, tâm trạng của quả nhân không được tốt, thật đúng lúc có thể lấy hắn ra mà tiêu khiển, tiêu khiển !”.

Gió thu xào xạc, trong Cô Tô thành trời đã bắt đầu se lạnh. Lúc này không có mùa đông ấm, ở phía nam vào mùa đông thường có tuyết rơi, nhưng vào mùa thu, tuy bốn mùa ở đây không rõ ràng như ở phương bắc, nhưng cũng cảm nhận được cái lạnh của khí trời, những người đi ra ngoài cũng nên khoác thêm một chiếc áo.

Đoàn dù lọng vương giá của Khánh Kỵ kéo dài từ con đường lớn trong thành uốn lượn theo hướng bắc về phía Tề Môn. Khánh Kỵ thường xuất cung tuần du, nên cảnh tượng này đã trở thành chuyện thường ngày ở Cô Tô, các bá tánh trong thành cũng đã quen mắt, vì vậy trên phố cũng rất trật tự, không bị hỗn loạn. Chỉ là khi đoàn dù lọng đi qua, thì họ bớt ồn ào huyên náo hơn.

Phía bắc Cô Tô thành có hai cửa thành, một là Tề Môn, một là Bình Môn, tên của hai cửa thành này ghép lại sẽ là “Bình Tề”, nước Tề là đông phương đệ nhất đại quốc, Khi Hạp Lư xưng vương, đã xây đại thành Cô Tô, cố ý đặt cái tên này cho hai cửa phía bắc, ý đồ của hắn đã rõ ràng, nhưng nay đại thành Cô Tô vẫn còn, chỉ là chủ nhân của thành đã là người khác rồi.

Khánh Kỵ tha thiết căn dặn Diêu Quang và Tiểu Man: 

“Diêu Quang, Tiểu Man, khí trời đã bắt đầu se lạnh, càng đi về phía bắc, khí trời sẽ càng lạnh, qua sông rồi, khí hậu ở phía nam lại khác hoàn toàn, các nàng nhớ mặc thêm áo ấm, tránh dọc đường lại nhiễm phong hàn.”

Ngoài Tề Môn, cành dương liễu đong đưa, bên dưới là nước hồ xanh biếc, phản chiếu một bầu trời đầy mây trắng và bóng dáng lung linh của ba người, nam thì tráng kiện, nữ thì thướt tha, như cùng hòa vào cảnh đẹp của đất trời. Lời của Khánh Kỵ làm cho Thúc Tôn Diêu Quang nghĩ đến nỗi sầu biệt ly, đôi mắt nàng đỏ gay, môi nàng khẽ run run, như sắp rơi lệ.

Quý Tôn Tiểu Man lại nhìn Khánh Kỵ với ánh mắt xinh đẹp, hết kiên nhẫn nói: 

“Thiếp nói đại vương à. Hình như thiếp và Diêu Quang tỷ mới là người phương bắc mà, phía bắc đại giang là nóng hay là lạnh, hai thiếp còn rõ hơn chàng, chuyện này cũng cần chàng nhắc nhở sao.”

“Nha đầu thúi, để ta bày tỏ một chút chân tình nàng sẽ chết à !” 

Khánh Kỵ dở khóc dở cười tức giận với nàng ấy.

Quý Tôn Tiểu Man ối dào một tiếng. Lấy tay che đầu nói: 

“Chết thì không đến nỗi. Nhưng nghe một đại nam nhân như chàng ăn nói lôi thôi như thế, thiếp cảm thấy ớn lạnh quá. Diêu Quang tỷ tỷ, tỷ có muốn khoác thêm áo không ?”

Thúc Tôn Diêu Quang bị trêu đến nỗi cười “hi hi”, tâm trạng đã đỡ hơn nhiều: 

“Đại vương, thiếp và Tiểu Man phải lên đường đây. Hai thiếp… sẽ ở nước Lỗ chờ tin của Đại Vương.”

“Nàng yên tâm, mọi chuyện ta sẽ an bài thỏa đáng”, 

Khánh Kỵ giúp nàng buộc chặt lại chiếc áo khoác, nhẹ giọng nói: 

“Lần này về nước Lỗ, trước tiên sẽ phải qua Đông Di, Đông Di và nước Ngô ta từ lâu đã có quan hệ mật thiết với nhau. Thấy trên xe có cờ phướn của nước Ngô, họ sẽ không gây khó dễ cho hai nàng. Đợi khi đến nước Lỗ, tự sẽ có người thường xuyên giữ liên lạc với hai nàng.”

Khánh Kỵ cười nói: 

“Mạng lưới cửa tiệm của Thành gia rất lớn, chỉ cần chỉnh đốn lại một chút, là đã có thể lập nên một đội ngũ mật thám xuất sắc, ta đang chuẩn bị lấy đó để làm nền móng, tạo dựng cho nước Ngô một mạng lưới tin tức rộng khắp thiên hạ, nay dùng để trao đổi tin tức với nàng, chỉ là dùng thử con dao mổ trâu này mà thôi. Nhất định sẽ không thành vấn đề.”

Thúc Tôn Diêu Quang buồn bã liếc hắn, nhẹ nhàng trách mắng: 

“Chàng rõ biết thiếp không phải ý này mà.” Tiếc là giọng nàng quá nhỏ, cũng chỉ có mình nàng nghe được.

Một con cá nhảy lên khỏi mặt nước, thân uống cong như lưỡi câu, nhảy khỏi mặt nước rồi lại chui đầu vào trong nước, trên mặt nước sóng gợn lăn tăn.

“Cá nhỏ mong nước trong, thiếp mong tin chàng sớm đến. Đại vương, thần thiếp… xin cáo từ…” 

Thúc Tôn Diêu Quang lưu luyến nhìn hắn, tay nàng nắm lấy tay của Quý Tôn Tiểu Man. Từ từ bước lên chiếc xe đang đứng chờ họ để xuất phát.

“Bảo trọng !” 

Khánh Kỵ nhẹ nhàng chấp tay. Mắt nhìn họ rời khỏi. Hơn hai trăm kỵ sĩ toàn bộ vũ trang bảo vệ chiếc xe ngựa của họ đang lăn bánh trên đường về hướng bắc, Khánh Kỵ đứng dưới bóng cây, cho đến khi xe ngựa của họ khuất xa tầm mắt.

Khánh Kỵ vẫn chưa quay đi, đôi mắt vẫn nhìn về phía xa xa, bỗng nhiên hô to: 

“Thành Tú !”

“Hả ! Có vi thần !” 

Thánh Tú bất thình lình được hắn gọi, chút sau mới đáp lại, bèn kéo vạt áo khoác, vội vàng chạy ra từ trong đám đông.

“Diêu Quang và Tiểu Man cô nương lần này trở về Lỗ… “

“Đại vương xin yên tâm, vi thần đã phái người bàn bạc với bên Đông Di, họ sẽ không gây khó dễ cho hai vị cô nương này. Tại Đông Di, hiện nay đều dưới quyền cai trị của Đông Di nữ vương, bên trong có rất nhiều lưu manh thổ phỉ, nên vì đảm bảo an toàn, nữ vương Đông Di sẽ phái hơn trăm thị vệ đi theo hộ tống, những người này đều là Đông Di tộc thần tiễn thủ, họ sẽ hộ tống hai vị cô nương cho đến khi an toàn vào đến biên cương nước Lỗ.” Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

“Ừm, Vậy tại nước Lỗ…”

“Tại nước Lỗ cũng không thành vấn đề, thần đã phái người xuất phát trước hai vị cô nương, thông báo với Quý thị và Thúc thị hành trình của hai vị cô nương, Dương Hổ đại nhân sẽ đích thân sắp xếp người ngựa ra tiếp ứng, sẽ không để đám người Triển Chích và Công Tôn Bất Nữu thừa cơ làm loạn.”

“Vua Lỗ Cơ Tống lâu nay vẫn rất yêu thích Tiểu Man, quả nhân lo là hắn vì đố kỵ mà sinh hận, sẽ giở một số thủ đoạn, nên khi hai vị cô nương về đến nước Lỗ, không có nghĩa là mọi phiền phức đều đã hết. Về phía nước Lỗ nếu có động tĩnh gì, ngươi phải kịp thời báo cho quả nhân biết, tránh lỡ đại sự.”

“Vâng vâng, xin đại vương yên tâm. Trong số hạ nhân ở phủ Thúc Tôn và Quý Tôn, đều có tai mắt của thần, trong cung vua Lỗ, trước mắt cũng đang tiến hành đồng thời hai mặt, một mặt dùng kim ngân mua chuộc quản sự trong cung, một mặt sắp xếp cho người của ta nhập cung làm tạp dịch, chỉ cần bên đó có động tĩnh gì, sẽ không qua khỏi tai mắt của đại vương.”

Khánh Kỵ đột nhiên quay người lại, đôi mắt nhìn chằm chằm vào Thành Tú, Thành Tú chợt lui lại một bước, thấp thỏm hỏi: 

“Đại vương… đại vương thấy có chỗ nào chưa được hài lòng chăng ?”

Khánh Kỵ mỉm cười, nói: 

“Không, chỉ là trong thời gian ngắn, khanh đã có thể sắp xếp ổn thỏa những việc này, quả nhân rất vui mừng. Đúng rồi, việc bán châu báu, đổi lương thực, và vận chuyển số lượng thực này về nước đã làm đến đâu rồi ?”

Thành Tú nuốt nước bọt, nói: 

“Vi thần vẫn đang tiến hành, việc bán châu báu, trước tiên phải tìm được người mua thích hợp, đồng thời, hiện nay chiến sự căng thẳng, ở các nước lương thực thuộc loại hàng tiêu thụ mạnh, lương thực mà Thành Gia dự trữ phải thông qua rất nhiều khâu mới chuyển đến được nước Ngô, dọc đường phải kiểm lại số lượng, khai thông, an bài, và nhiều khâu khác nữa, mọi việc đều không được sơ sót, không để xảy ra nhầm lẫn, vì vậy việc không thể gấp được.

Vả lại, dùng tiền bán châu báu để mua tiếp lương thực tại nơi bán châu báu. Cũng phải làm cẩn thận mới thành. Đại vương đã ủy thác cho thần trách nhiệm trọng đại, Thành Tú không dám chậm trễ, những ngày này chạy qua chạy lại trong cung để kiểm số châu báu, tìm cách bán ra, vồi vận chuyển lương thực, thần bận đến nỗi những việc khác lo không xuể nữa. Hiện nay tin tức mới được đưa ra, tin rằng chỉ trong vài ngày sẽ có thể nhận được tin phản hồi từ chủ hiệu buôn ở các nơi.”

“Ồ… bận đến nỗi những việc khác lo không xuể nữa à ?”

Khánh Kỵ chớp mắt, cười khó hiểu: 

“Thành khanh quên ăn quên ngủ, cả ngày bận việc bán châu báu và chuyển lương thực, trung thành đáng khen. Đợi đến khi lương thực lần lượt được chuyển về nước, là khanh đã vì nước Ngô lập được đại công. Quả nhân tự sẽ có phong thưởng.”

Thành Tú vừa nghe mừng rỡ ra mặt, vội hành lễ nói: 

“Tạ đại vương, đây là bổn phận của hạ thần. Đại vương khen ngợi như vậy, thần nguyện dốc hết tâm sức, nguyện làm tôi tớ cho đại vương.”

“Vậy… về phía tỷ tỷ của ngươi, đã tìm được tung tích của nàng ấy chưa ?”

“Tỷ tỷ ?” 

Thành Tú lặng người một hồi. Như là mới vừa nhớ ra vậy, lắp bắp nói: 

“Vẫn… vẫn chưa ạ…”

“Chưa à ?” 

Khánh Kỵ hầm hầm giận dữ: 

“Xem bộ dạng úp úp mở mở của khanh, khanh vốn không hề đi tìm ? Mặc dù quốc sự đang gấp, nhưng tỷ tỷ khanh sống chết chưa rõ, tung tích chưa biết, mà khanh lại có thể thản nhiên, máu lạnh đến thế, thật khiến người phải chê cười !”

“Không phải, ta là… đại vương… vi thần…”

Khánh Kỵ nghiêm giọng nói: 

“ Im miệng, người có đức có tài thì là trụ cột quốc gia, có đức mà không tài là hiền lương. Không tài không đức thì chỉ là người thường, mà có tài lại không có đức, lại là mối nguy cho quốc gia. Nếu khanh vì ham mê quyền vị, có thể không lo cho tỷ tỷ, có thể máu lạnh bạc tình như thế, quả nhân còn dám dùng khanh sao ?

Thành Tú, khanh nghe rõ cho quả nhân, chuyện ở nước Lỗ, khanh không được sơ sót điều chi, việc mua lương thực, liên quan đến đời sống bá tánh nước Ngô, càng không thể có sai sót. Còn Thành Bích phu nhân… khanh cũng phải dốc sức tìm kiếm, quả nhân hạn cho khanh trong vòng một tháng, đến lúc đó nếu vẫn chưa có tin tức của Thành Bích phu nhân, hừm !”

Khánh Kỵ phất tay áo bỏ đi, Thành Tú bị hắn quở mắng đến không dám ngẩng đầu lên, đứng như trời trồng ở đó. Khánh Kỵ lên xe ngựa nghênh ngang bỏ đi. Xe ngựa vừa khởi động, bụi bay mù mịt, bao nhiêu dũng sĩ mặc giáp chạy theo sau.

Thành Tú đợi đến khi xe ngựa của hắn đã khuất xa, mới từ từ thẳng lưng lên, đưa vạt áo lên lau mồ hôi đang vả ra trên trán, lẩm bẩm nói: 

“Lúc nãy còn mưa thuận gió hòa, đột nhiên lại nổi trận lôi đình, tỷ tỷ nói quả không sai, bên cạnh vua như bên cạnh hổ !”

Sau khi Khánh Kỵ tiễn Diêu Quang và Tiểu Man xong, mỗi ngày hắn đều triệu tập quần thần vào nội đình nghị sự, buổi sáng thương nghị dân chính với Tư Đồ, Tư Không, Tư Khấu và các quan viên khác, buổi chiều chủ yếu thương nghị quân sự với Tư Mã, Thiếu Phủ, Võ Khố, Vệ Binh và các võ quan. Tin Khánh Kỵ đại vương mong cải cách chính trị cũ, ban hành luật pháp mới ngay cả những bá tánh bình thường trong thành đều có nghe qua.

Cuối thời Xuân Thu, chế độ cũ đã sụp đổ, các nước đều đang tham vấn sách lược trị quốc mới, nên tư tưởng mới xuất hiện nhiều như măng xuân mọc sau cơn mưa, mức độ cởi mở trong tư tưởng của mọi người cao hơn, bất cứ học thuyết nào, đều có thị trường của nó, đều có người đồng tình. Các nước không trước thì sau cũng đều áp dụng biến pháp mới, nguyên nhân thất bại của nhiều quốc gia, là do tân chính không thích hợp, là do những người cầm quyền bị phản đối.

Khánh Kỵ lại không gặp khó khăn ở phương diện này. Trước tiên, hắn có ký ức và nhận thức của Tịch Bân, tuy Tịch Bân không phải là chính trị gia, tư tưởng gia gì, nhưng lại có kiến thức của hai ngàn năm, hiểu rõ lịch trình phát triển của lịch sử, do vậy hắn sẽ không chọn những quan niệm trị quốc không hợp thời, cũng sẽ không thực hiện những cải cách vượt quá những điều kiện cho phép của thời đại như Vương Mãng của đời Hán.

Một Khánh Kỵ vượt thời gian đến thời Xuân Thu này, mỗi lần nghĩ đến những việc mà Vương Mãng đã làm , kết hợp với những kinh nghiệm của mình, hắn cũng rất nghi ngờ không biết tên này có phải cũng đến từ thời đại khác như hắn không.

Vương Mãng là hoàng thích nhà Hán, chưa từng chịu sự ức hiếp của ngoại tộc, nhưng bản năng hắn lại thù ghét Hung Nô và roi gậy, hắn đã từng bất chấp tất cả để thảo phạt Hung Nô, từ sau thời Hán Võ, hắn là người tích cực nhất. Là một đại hiền nhân được những nho sĩ xem trọng và kính phục, hắn rất dễ tiếp nhận những sự vật mới, không lấy làm lạ với khoa học thực nghiệm và phát minh sáng tạo, nên ở thời Vương Mãng, khoa học kỹ thuật cổ đại của nước ta phát triển rất nhanh. Khi nghe nói có người chế tạo khí cụ bay, có thể mang người đi xa mấy trăm bước, hắn còn lấy danh nghĩa của hoàng đế mà triệu kiến, lấy tiền ủng hộ người đó tiếp tục thực nghiệm.

Khánh Kỵ đã phát minh máy xay bằng thủy lực và cánh buồm, còn Vương Mãng phát minh thước đo, thống nhất cách đo trong cả nước, từ nguyên lý, tính năng, và cách dùng, loại thước này rất giống với thước đo hiện đại, đã xuất hiện sớm hơn so với phương tây đến hơn 1700 năm.

Vả lại Vương Mãng rất căm ghét chế độ nô lệ. Chú trọng đến cuộc sống của bá tánh, xem trọng giáo dục, thực hiện cải cách ruộng đất và quốc hữu hóa ruộng đất, thực hiện chính sách cho vay và cải cách chính sách tiền tệ, đã rất tự tin khi đề ra lý luận kế hoạch kinh tế. Bình ổn giá cả, điều tiết thị trường, thực hiện gói đầu hàng hóa, trưng thu thuế. Và rất nhiều chính sách rất giống với chính sách thời hiện đại.

Theo Khánh Kỵ thấy, những nội dung biến pháp mà Vương Mãng thực hiện không phải là vô lý, mà là quá tiên tiến, hoàn toàn không nghĩ đến sức sản xuất và điều kiện xã hội đương thời, các cải cách của của Vương Mãng, khiến cho người đã trải qua những điều tương tự Vương Mãng như Khánh Kỵ, không khỏi nghi ngờ hắn cũng là người đến từ thời đại khác.

Nhưng khi nghĩ đến Vương Mãng đã từng chơi ác đổi tên “Hung Nô Đơn Vu” thành “Giáng Nô Phục Vu”, đổi “Cao Câu Lệ” thành “Hạ Câu Lệ”, thú vui này…, nghĩ lại tên Vương Mãng này quả thật đến từ thời đại khác, và cũng là tên thiếu thực tiễn xã hội, cũng chỉ như một tên học sinh cao trung quá lý tưởng hóa và vẫn còn tánh tình trẻ con.

Nhờ có vết xe đổ của hắn. Khánh Kỵ đương nhiên sẽ không dại dột tiến hành những cuộc cải cách nhảy vọt như thế, các nội dung biến pháp tuy nhỏ nhưng cụ thể của Khánh Kỵ đều rất thích hợp với nền chính trị cuối thời Xuân Thu này, chỉ là theo kiến thức của hắn, giúp quá trình phát triển của nước Ngô ít phải đi đường vòng hơn. Do vậy, các triều thần cũng dễ dàng tiếp thu.

Ngoài ra, Khánh Kỵ không phải theo con đường bình thường mà thuận lợi đăng cơ, mà là dựa vào bản thân để giành lại giang sơn, như vậy tiếng tăm và quyền lực của hắn, khiến nhiều cựu thần dù không đồng ý với cách làm của hắn, cũng không dám phản đối. Người duy nhất có khả năng gây áp lực cho hắn chỉ có Diên Lăng Quý Tử, nhưng vị vương thúc tổ này lại không màng việc chính trị, sau trận chiến ở Cô Tô thúc đã trở về Diên Lăng, không xuất đầu lộ diện nữa, nên cả nước Ngô không còn ai có thể phản kháng ý chí của Khánh Kỵ

Khánh Kỵ không hề nhắm mắt làm liều, không chỉ ở trong cung tiến hành thảo luận, đợi khi những cải cách mới đã được hình thành, hắn bèn dẫn theo những triều thần có liên quan bắt đầu thực hiện điều tra đối với các điều kiện cơ bản và thực thi cơ bản của nước Ngô. Ngày hôm nay, hắn và Tư Mã, Thiếu Phủ, Võ Khố, Binh Mã và các quan viên có liên quan khảo sát tình hình chế tạo binh khí của nước Ngô, nên đã đến Nhâm gia nổi tiếng là đệ nhất gia chế tạo binh khí của nước Ngô này.

Đại Vương nước Ngô đích thân đến thăm Nhâm gia bảo. Ngày hôm nay đại khái là ngày vinh dự nhất của Nhâm gia kể từ khi lập nghiệp ở nước Ngô, tin rằng ngày này sẽ được xem là sự kiện trọng đại không thể quên và sẽ được ghi chép trong tộc phổ của Nhâm gia. Tỷ muội Nhâm Nhược Tích đã trở về Thành Bảo trước hắn một ngày, để chuẩn bị đại lễ cho việc tiếp đón đại vương, các chi tiết không nói cũng biết, nhưng Khánh Kỵ lại đến vội vàng, đến Nhâm gia bảo chỉ ngồi nghỉ ngơi một lúc, gặp mặt những nhân vật quan trọng trong Nhâm gia, sau đó lập tức ngồi dậy đi đến khảo sát phòng chế tạo binh khí, thật là uổng phí sự sắp xếp chu đáo của Nhâm gia.

Nhâm gia bảo được xây dựa vào lưng núi, một bên là thành, một bên là núi. Ở phía sau núi đều là những tác phường rộng lớn. Những đệ tử Nhâm gia đã giải giáp quy điền, đều đang vội vã sản xuất, đâu đâu cũng thấy lửa đỏ rực.

Trước khi đi đến các tác phường, Nhâm Nhược Tích đã đi thay xiêm y, nàng mặc một bộ võ phục, dáng vẻ hiên ngang, vô cùng đẹp đẽ. Nàng đi phía trước, theo sau nàng là Khánh Kỵ, Tôn Vũ, Anh Đào, và một số võ tướng trong triều, nàng giới thiệu với họ công dụng của từng tác phường.

“Đại Vương, những binh khí do Nhâm gia sản xuất sở dĩ có thể khác với mọi nơi , chủ yếu là có sự độc đáo trong khâu luyện và đúc, khiến chất lượng được nâng cao, không dễ bị gãy nát, nên rất được võ sĩ nước xem trọng.”

Thuật luyện kim của Nhâm gia là nguyên nhân chủ yếu có thể đưa Nhâm gia trở thành đại gia chế tạo binh khí nổi danh khắp thiên hạ, đấy là độc môn bí truyền của Nhâm gia, Nhâm Nhược Tích đương nhiên không dễ gì tiết lộ ra, nên sau khi giới thiệu sơ qua, nàng bèn chuyển đề tài nói:

“Việc sản xuất binh khí của Nhâm gia, chủ yếu phân làm ba phương diện như cận công, viễn xạ và vệ thể.”

“Điểm khác nhau giữa việc chế tạo binh khí của Nhâm gia và các nước khác là, ở phương bắc có riêng một tác phường để chế tạo chiến xa, nhưng do nhu cầu của nước Ngô ta đối với chiến xa không cao, nên không hề lập một tác phường riêng. Còn như những vũ khí để công thủ thành trì, xưa nay đều rất thô sơ và nặng nề, không tiện vận chuyển đường dài, vả lại chỉ cần lấy vật liệu tại chỗ, người thợ bình thường đều có thể làm được, do vậy Nhâm gia cũng không sản xuất.

Các vũ khí cận công của Nhâm gia, chủ yếu là kiếm, kích, mâu, thương. Các vũ khí viễn công chủ yếu là cung, nỏ, mũi kích. Vũ khí vệ thể chủ yếu là giáp, mũ, thuẫn. Trong đó có nỏ đang được cải tạo theo loại nỏ mà đại vương đem từ nước Sở về, tin rằng sau khi cải tạo thành công, ta có thể sản xuất hàng loạt, uy lực sát thương cũng không thua kém gì nỏ nước Sở, nhưng chất lượng sẽ tốt hơn.

Ngoài ra, Khi đại vương bao vây Cô Tô đã dùng loại vũ khí mới là máy bắn đá, Nhược Tích cũng đã cho thợ làm một chiếc giống vậy, hiện đang nghiên cứu nên chế tạo như thế nào để việc lắp ráp các bộ phận được nhanh hơn, một khi thành công, sẽ bắt đầu chế tạo. Đương nhiên, loại máy bắn đá mà Nhâm gia chế tạo, sẽ nhỏ hơn nhiều so với cái dùng lúc công thành, dễ dàng mang theo, và tháo ráp. Là một loại vũ khí viễn công trên chiến trường, mà khi sắp tấn công có thể bắn những viên đá nhỏ vào địch quân, tin rằng sức sát thương và phạm vi sát thương của mỗi chiếc sẽ không kém gì hơn trăm cây nỏ được bắn cùng lúc.”

Tôn Vũ và Anh Đào nhìn nhau, trong ánh mắt họ đều lóe lên sự vui mừng.

Khánh Kỵ gật đầu, đi theo Nhâm Nhược Tích tiếp tục xem xét, cho đến khi đi hết các tác phường. Về đến đại sảnh, Khánh Kỵ nói: 

“Các tác phường của Nhâm gia kỹ thuật tinh xảo, với quy mô lớn như thế, số lượng binh khí sản xuất cũng tương đối khả quan, nhưng quả nhân cho rằng, có một vài điểm vẫn có thể cải thiện hơn, quả nhân có hai ý này, ha ha, quả nhân chỉ là người ngoài ngành, cũng chẳng biết nói có hợp lý không…”

Nhâm Nhược Tích có vẻ không phục nói: 

“Xin đại vương chỉ giáo, dân nữ nguyện được lắng nghe.”

Nói đến cùng. Nàng ấy mới là cao thủ trong ngành này, tuy nói Khánh Kỵ là đại vương, lại là người nam nhân mà nàng yêu, nhưng nàng không tin rằng Khánh Kỵ chỉ đi tham quan các tác phường của Nhâm gia một vòng, lại có thể nêu ra được những sai sót, nêu được những quá trình có thể cải tiến để ưu việt hóa hơn đối với ngành nghề mà Nhâm gia lấy làm tự hào này.

Khánh Kỵ cười, nói: 

“Thứ nhất, ta thấy ở mỗi tác phường, đều có rất nhiều thợ cả. Mỗi thợ cả, lại có rất nhiều trợ thủ, đồ đệ giúp họ hoàn thành một món binh khí. Ví dụ như cây mâu, mũi mâu cần được rèn, luyện, mài. Thân mâu, cần chọn một cây gỗ bản dẹp tốt, cắt gọt thành hình bát lăng, sau đó dùng nan tre đã qua tám lần nước sôi, dán lên bát lăng, dùng da trâu buộc chặt lại, tiếp đó mới gắn mũi mâu ở trên, quấn chặt mũi mâu lại. Sau đó là sơn, ghi tên, sửa chữa…, trong các quá trình này, đều do một vị thợ cả và các trợ thủ, đồ đệ của hắn cùng nhau hoàn thành đúng không ?”

“Đúng vậy”, 

Đôi mắt xinh đẹp của Nhâm Nhược Tích nhìn hắn, không biết hắn lại tìm ra được chỗ sai sót nào.

“Ừm, những công việc theo thứ tự này, nếu từ một người học nghề, đến khi trở thành thợ cả, có khả năng dẫn dắt một đám đồ đệ, tự mình sản xuất, ước chừng mất khoảng bao nhiêu thời gian ?”

Nhược Tích không cần suy nghĩ đã trả lời: 

“Nếu muốn trở thành một thợ cả, ít nhất cũng cần bảy đến tám năm trở lên, nếu muốn tay nghề được thuần thục, thì cần lâu hơn, nên những người thợ cả, đều được trả công rất cao.”

Khánh Kỵ gật đầu nói: 

“Vậy, nếu tập hợp các thợ cả độc lập tác chiến này lại, các khâu rèn, luyện, và mài sẽ do ba vị thợ cả mỗi người phụ trách một khâu, các khâu làm thân mâu như cắt gọt, dán nan tre, buộc lại bằng da, sơn, gắn mũi mâu, ghi tên và sữa chửa, cũng sẽ do một vị thợ cả phụ trách, như vậy xem ra cũng như tập hợp mấy vị thợ cả cùng nhau chế tạo một cây mâu, nhưng tốc độ không phải là nhanh hơn so với việc mỗi thợ cả đều phải bắt đầu làm từ bước đầu tiên, tự mình làm ra cây mâu sao ?”

Nhâm Nhược Tích nghe đến đây, đôi mắt chợt sáng lên, mừng rỡ nhìn Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ nói tiếp: 

“Mỗi vị thợ cả đều phụ trách một khâu, người rèn thì lo rèn, người mài thì lo mài, vậy thì các đồ đệ của họ, chỉ học được một khâu mà thôi, còn cần đến bảy hay tám năm mới có thể tự mình làm sao ? Nếu tiếp tục duy trì chế độ như thế, sau này cho dù có làm nên bao nhiêu vũ khí lợi hại, mỗi thợ cả chỉ tinh thông sở trường của mình, vậy thì ngay cả khi tất cả họ đều bỏ trốn. thì có phải lo lắng họ sẽ tiết lộ bí quyết gia truyền không ?”

Nhâm Nhược Tích nghe đến đây, ngực nàng phập phồng xúc động.

Khánh Kỵ càng nói càng vui, tiếp tục: 

“Còn nữa, mỗi thợ cả khi tự mình chế tạo, đều có thói quen và đặc điểm riêng của mỗi người, những vũ khí làm ra dù ít hay nhiều, đều có sai lệch, cái do người này làm ra, rất khó để người kia dùng được. nay nếu cho họ phối hợp cùng làm, bất luận là cách rèn hay bất cứ khâu nào, cũng có thể quy thành một tiêu chuẩn thống nhất, như vậy vật mà một khâu làm ra, mới có thể để thợ cả của khâu tiếp theo tiếp tục chế tạo. Cứ thế, cùng một vũ khí thước tấc, hình thái, trọng lượng và quy cách sẽ không có sai biệt lớn, một món vũ khí nếu bị hư hại phần nào, lại có thể cùng một vũ khí khác bị hư hại ở phần khác hợp lại, mà không cần phải chuyển ra hỏi chiến trường, lại đo ni đóng giày cho nó bộ phận mới. Quả nhân gọi cách này là, tiêu chuẩn hóa sản xuất, chế tạo theo hình thức nước chảy, nàng cảm thấy… có thể làm được không ?”

Nhâm Nhược Tích còn chưa nói câu nào, Tôn Vũ và Anh Đào đã chen ngay vào khen ngợi:

“Tuyệt, cách này của Đại Vương, quả thật là nghĩ những việc mà tiền nhân chưa nghĩ đến, làm những việc mà tiền nhân chưa hề làm !”

Nhâm Nhược tích nhìn đôi mắt Khánh Kỵ như đang chờ câu trả lời của nàng, không kềm được nàng cười mỉm, mừng rỡ nói: 

“Sở trường của hai vị tướng quân đây là điều binh khiển tướng, tung hoành trên chiến trường, còn có thể thấy được cái tuyệt diệu trong phương pháp của đại vương, Nhược Tích vốn là con nhà rèn, sao lại không biết cái lợi và hại trong đó chứ ?”

Nàng nói đến đây bèn chớp mắt, thở nhẹ nói: 

“Chỉ là đổi phương pháp thôi, Nhược Tích đã có thể tưởng tượng được, Nhâm gia từ đây sẽ xảy ra những biến đổi động trời gì rồi, sao thiếp lại chưa từng nghĩ đến phương pháp này nhỉ ? Quả thật là sửa dở thành hay…”

Nói đến đây nàng bèn mở to mắt, ngạc nhiên nhìn Khánh Kỵ: 

“ Trừ phi… trừ phi đây cũng là phương pháp mà đại vương học trên tiên giới ?”.

Khánh Kỵ đối với câu hỏi của Nhâm Nhược Tích chỉ cười mà không trả lời. Nếu không phải bất đắc dĩ, thì hắn cũng chẳng muốn dùng những thứ như quỷ thần để trêu chọc người khác, nhất là đối với người nữ nhi của mình, nhưng hắn lại không thể phủ nhận. Về phía Nhâm Nhược Tích lại cho rằng, thái độ do dự này của hắn như là không muốn tiết lộ thiên cơ, tuy không nói ra, nhưng lời nói của nàng lại không kềm nổi sự kính sợ trong đó, lại hỏi: Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

“Vậy thì, điều thứ hai mà đại vương muốn nói, lại là việc gì ?”

Khánh Kỵ đột nhiên đưa tay vào trong lòng, như muốn lấy một vật mẫu ra, nhưng bên trong lại trống không, lúc này mới nhớ ra dao Lỗ của hắn đã tặng cho Thi Di Quang. Sau khi hắn về nước Ngô, đã phái người đi đón phụ tử vị ân nhân này, nhưng đến nay vẫn chưa có tin tức, có thể là sau khi tiễn Khánh Kỵ, Thi lão đại đã dẫn theo người nhà mai danh ẩn tích để tránh tai họa, người Khánh Kỵ phái đi chỉ có thể âm thầm tìm kiếm, nên trong nhất thời chưa tìm ra tung tích của họ.

Khánh Kỵ buông thỏng tay nói: 

“Đao Trịnh, búa Tống, dao Lỗ, kiếm Ngô Việt, đều được xưng thiên hạ thần binh. Trong bốn loại binh khí cận chiến này, xưa nay đều xưng tôn kiếm Ngô Việt của ta, nhưng theo quả nhân thấy, nếu là cận chiến, đao có thể quét ngang, lại đâm được chém được, thực sự là vua trong binh khí, còn kiếm là quân tử trong binh khí, bá khí không bằng đao, nước Ngô ta đã có thể rèn được thanh kiếm tốt, tại sao lại không rèn đao ?

Chương 242

Tuyển Hiền Nhâm Năng 

Nhóm dịch: huntercd

Nguồn: vipvandan

Nhâm Nhược Tích nghe xong bèn trả lời: 

“Đại vương có điều chưa biết, trong số các binh khí mà nhà Chu sáng chế từ lúc đầu chỉ có đao đồng nhưng không có kiếm đồng. Thanh Đồng đại đao lúc đó, chuôi ngắn đao dài, sống đao dày và lưỡi đao sắc nhọn, ở đầu chuôi đao là một vòng hình tròn, cho nên có tên là “Hoàn Bính Đao”. Đao Trịnh ngày nay do kế thừa từ loại vũ khí không được lợi hại mấy trong số vũ khí trong thiên hạ là Hoàn Bính Đao và Đồng Đao, cho nên trong các loại binh khí thuộc dạng đao này, nước Trịnh rèn có tiếng nhất mà thôi.

Vì Thanh Đồng giòn và cứng, không lợi cho việc bổ và chém, nếu cố dùng sức, đao sẽ gãy đôi. Do vậy tuy đao nặng nề, nhưng lại không thực dụng. Ngay từ lúc ban đầu, kiếm xuất hiện ở bộ lạc Bắc Địch. Kiếm đồng cũng vậy không lợi cho việc bổ và chém, nhưng so với đao đồng, thì linh hoạt và nhẹ hơn nhiều, và rất lợi để đâm thẳng, do đó ưu thế của kiếm dần dần rõ ràng hơn, ở Trung Nguyên cũng rất được ưa chuộng, nên đã được quân tử và võ sĩ trong thiên hạ yêu thích. Nhưng dù là vậy, do đồng dòn và cứng, trong thiên hạ cũng rất ít có những trường kiếm dài ba thước có thể dùng để thực chiến, kiếm dài ba thước, lại có thể dùng để tác chiến được thuộc loại thần kiếm chỉ có thể tình cờ gặp chứ không thể cưỡng cầu.”

Khánh Kỵ thầm nghĩ: 

“Thì ra vào thời đại này kiếm không bán được, là do nguyên nhân này. Sắt vẫn chưa qua được ải, mà đồng thì không thích hợp rèn đao.”

Khánh Kỵ lại nghĩ nói: 

“Theo quả nhân biết, sau này trong thiên hạ, đồ sắt sẽ dần dần thay thế đồ đồng, dùng sắt để rèn binh khí, sẽ ưu việt hơn đồng.”

Nhâm Nhược Tích gật đầu đáp: 

“Đại vương nói chí phải, sư huynh của gia phụ là Âu Trị Tử đại sư đã từng rèn ba thanh bảo kiếm, thanh thứ nhất tên là Long Uyên, thanh thứ hai là Thái A, thanh thứ ba gọi là Công Bố, đều là những bảo kiếm đạt đến độ dài ba thước, trong đó Thái A thần kiếm độ dài đạt đến bốn thước hơn, sắc bén vô cùng, độ dẻo rất tốt, đã dùng sắt lạnh từ trên trời rơi xuống mà rèn thành. Gia phụ từng thỉnh giáo Âu Trị Tử đại sư về cách luyện sắt, trước mắt ở Nhâm gia cũng có vài vị thợ cả kỹ thuật cao siêu đang chuyên tâm nghiên cứu, hy vọng có thể dùng sức người mà luyện được sắt thép cứng như thiên thạch, chỉ là đến nay vẫn chưa có tiến triển gì.”

“Âu Trị Tử ?” 

Thần sắc Khánh Kỵ bỗng thay đổi: 

“Quả nhân cũng từng nghe qua tên của người này, người này hiện đang ở đâu ?”

“Đại sư là người Việt, cả đời chỉ mê rèn kiếm, thường đích thân đi lên rừng xuống biển, tìm vật liệu rèn kiếm. Lúc còn trẻ, bá bá từng đến nhà thiếp làm khách, lúc đó bá nói muốn đến nước Sở để tìm vật liệu thượng đẳng dể làm vật liệu rèn kiếm. Từ đó đến nay vẫn chưa có tin tức gì của bá ấy.”

“Ồ…” 

Khánh Kỵ thở dài, nói: 

“Ứng dụng của đồ sắt, sẽ tốt hơn đồ đồng, điều này là đúng. Quả nhân không hiểu về thuật luyện kim, nên cũng chẳng cách nào giúp nàng, nhưng chất lượng của sắt không được tốt, ta nghĩ nguyên nhân chủ yếu là, do nhiệt độ trong lò rèn chưa đủ cao, sắt được rèn ra lẫn quá nhiều tạp chất, nàng có thể cho những thợ cả lành nghề bắt đầu từ phương diện này mà làm, làm thế nào để nâng nhiệt độ trong lò rèn cao hơn, trở đi trở lại mà rèn, đẩy cao độ thuần khiết của sắt.

Còn nữa, khi luyện đồng cần lẫn một ít khoáng thạch khác, luyện sắt cũng không ngoại lệ, nàng có thể thử thêm các loại khoáng thạch khác nhau, không ngừng điều chỉnh và so sánh sự ảnh hưởng của nó đối với chất lượng sắt, quá trình này tuy phức tạp và lâu dài, nhưng một khi nghiên cứu thành công, thì có thể vượt lên trên những người khác, lúc đó Nhâm gia không còn là một trong những đại gia chế tạo binh khi, mà là đệ nhất gia chế tạo binh khí trong khắp thiên hạ !”

Cái danh thiên hạ đệ nhất này, dù là đối với người theo bất cứ ngành nghề nào mà nói, đều có sức hấp dẫn rất lớn. Nhâm Nhược Tích tuy chỉ là hạng nữ lưu, nhưng lại mang trách nhiệm nặng nề với Nhâm gia, nhất là sau khi phụ thân vì tương lai của gia tộc mà kiên quyết hy sinh thân mình, nàng càng cảm thấy cái nặng của chiếc gánh trên vai mình. Trong lòng nàng cho rằng Khánh Kỵ đã từng đến phủ đệ của thiên thần, những lời hắn nói tất nhiên đều có căn cứ, do vậy đối với những lời mà Khánh Kỵ nói vừa nãy nàng không hề mảy may nghi ngờ, nàng đã quyết tâm tiếp tục đầu tư lớn hơn, để cho một toán người chuyên tâm nghiên cứu việc luyện sắt thuần khiết, giúp cho Nhâm gia luôn giữ vị trí bất bại ngành nghề chế tạo binh khí ở khắp thiên hạ.

Lúc này, tại một ngọn núi thấp ở địa khu Lạp Trạch, một nông phụ hái lá dâu ngưng làm với người bạn trên tay, vén lều nhìn ra xa, đột nhiên khinh ngạc kêu lên: 

“Ồ, các người mau đến xem, đó là đội quân của vị đại nhân nào thế, đại kỳ của nước Ngô ta đã đổi thành Long Phụng kỳ rồi, họ vẫn chưa biết sao, sao họ vẫn còn dùng Long kỳ hả ?”

Kế bên là một thiếu nữ chừng mười bảy hay mười tám buông chiếc giỏ trên tay, gỡ chiếc khăn trên đầu xuống, lau đi mồ hôi trên hai má, híp mắt lại nhìn về phía xa, đột nhiên kinh ngạc kêu lên: 

“Thím ơi, thím xem nhầm rồi, đó không phải là Long kỳ của nước Ngô ta, mà là Xà kỳ của nước Việt.”

“Gì chứ ?” 

Người nông phụ lại nhìn kỹ hơn, khuôn mặt biến sắt: 

“Không xong rồi, mau trở về thôn thôi, nói với mọi người mau chóng lên núi tránh nạn, những người Việt giết người không gớm tay này, nước Ngô ta vừa mới ổn định được vài ngày, sao họ lại giết đến tận đây rồi.”

“Ối dào, chẳng giống người Việt giết đến tận đây đâu, thím xem, bên đó còn có hai cây đại kỳ, chính là Long Phụng kỳ của nước Ngô ta đấy.”

“Đâu, đâu, cho xem với.” 

Vài nông phụ như bầy ong xông lên phía trước, tay vén lều, chen lấn nhau nhìn ra phía xa.

Đoàn người đó đang rầm rộ đi từ xa đến, chính giữa là hơn mười chiếc xe ngựa, chiếc xe ngựa ở phía trước nhất có treo cờ phướn, là Xà kỳ của nước Việt, hai bên có hơn hai trăm võ sĩ mặc giáp cầm mâu hộ tống, cờ mà họ cầm lại là Long Phụng kỳ của nước Ngô, đại kỳ tung bay trong gió, làm phát ra những tiếng phần phật. Đoàn người này chính là đoàn sứ tiết của Việt thái tử Câu Tiễn, còn những võ sĩ hộ tống xung quanh là do Kinh Lâm phái đến.

Câu Tiễn từng gây trọng thương cho Khánh Kỵ, hiểm đến nỗi suýt tý nữa là Khánh Kỵ đã chết dưới kiếm của hắn. Đừng nói là những binh sĩ bình thường này nhìn hắn với ánh mắt căm thù, ngay cả Kinh Lâm khi thấy Câu Tiễn, cũng nông nổi muốn một kiếm cắt lìa cái cổ của hắn. Nhưng hai nước giao tranh không chém sứ giả, trên chiến trường cho dù ai thắng ai thua, đó đều là chuyện đã qua. Chiến sự thì sẽ kết thúc trên chiến trường, nay mọi người đều thiện đãi sứ giả, nếu một kiếm giết chết hắn, loại việc hạ lưu này, ngay cả một người chưa từng đọc qua sách hoặc giả là một sơn tặc có máu mặt cũng không làm được. là tướng lĩnh của một nước, hắn vẫn là phải giữ lấy cái phong thái của quân tử này. Do vậy không những không được động đến Câu Tiễn, mà còn phải phái người hộ tống hắn đến, đương nhiên trong đó còn có mục đích giám sát những từng động tĩnh của hắn nữa.

“Điện hạ, phía trước đã là Lạp Trạch, không lâu sẽ đến được Cô Tô.” 

Phó sứ nước Việt Nhược Thành trèo lên xe ngựa của Câu Tiễn, vén bức màn bước vào trong, bên trong xe, Câu Tiễn đang lim dim đôi mắt.

“Ừm,” 

Câu Tiễn mở mắt. mỉm cười: 

“Mệt mỏi, nghỉ ngơi nhiều hơn đi. Sao, trong lòng bất an à ?”

Nhược Thành chau mày, trong lòng lo lắng nói: 

“Vâng, điện hạ đã từng trọng thương Khánh Kỵ, nay lại đích thân đi vào chỗ hiểm, xuất sứ nước Ngô, việc này quả là hung hiểm, nên quả thật thần có chút không an tâm.”

Câu Tiễn uể oải căng cái lưng ra, đôi mày hơi nhếch lên, cười nhạt nói: 

“Có gì mà phải lo lắng ? Nay nếu ta ở nước Việt, Khánh Kỵ sẽ hận đến nổi muốn một kiếm giết chết ta mới cam tâm. Nhưng ta chủ động đến nước Ngô, dù cho hắn có hận ta đến tận xương tủy, cũng không thể động vào ta, mà còn phải toàn lực bảo vệ sự an toàn của ta, ha ha, ngươi yên tâm đi, ta ở nước Ngô sẽ rất an toàn.”

“Hey, tuy là nói vậy, nhưng việc tranh ngôi ở nước Ngô, chúng ta cũng có phầm tham dự vào, điện hạ cũng đã từng trọng thương Khánh Kỵ, dã tâm muốn thôn tính nước Ngô của nước Việt ta cả thiên hạ đều biết, muốn tránh cũng khó mà tránh được. Khánh Kỵ tất nhiên căm hận trong lòng, cứ cho là hắn không giết điện hạ, nhưng nếu hắn lấy đó làm cớ giam lỏng điện hạ, vậy cũng như là xôi hỏng bỏng không.”

“Điều này… ta đã từng nghĩ đến.”

Câu Tiễn chau mày, lại cười: “Nhưng quân Ngô đã đóng quân ngay dưới thành, ta không thể không đi vào hang hùm. Khánh Kỵ vừa nhất thống nước Ngô, quân Ngô khí thế đang thịnh, nếu nước Ngô thừa thắng xông lên, tấn công vào nước Việt ta, nói thật, lực lượng hai bên quả thật khác biệt quá lớn, nước Việt ta sao chịu nổi một đợt tấn công chứ ?

Nay thượng tướng Kinh Lâm nước Ngô đóng quân tại Võ Nam, A Cừu và Tái Cừu hai vị tướng lĩnh tâm phúc của Khánh Kỵ đóng quân ở Túy Lý, Ngự Nhi thành, cái thế cục mà hắn bày ra, đã có ý muốn trực tiếp giành lấy nước ta rồi, ta còn có thể làm gì được nữa ? Lại không thể chờ quân Ngô vừa đến, ta lại rút vào chốn thâm sơn đại trạch mà đọ sức với hắn ba năm hay năm năm hử ? Phụ vương những năm gần đây long thể không tốt, thường hay sinh bệnh, sao có thể chịu nổi cảnh bôn ba khốn khổ chứ.” Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Câu Tiễn chậm rãi nói: 

“Ta lấy cương vị là thái tử, đích thân đi sứ nước Ngô, Khánh Kỵ dầu sao cũng phải gặp ta một lần, nghe thử xem ta sẽ nói những gì, như vậy sẽ tranh thủ được thời gian, ừm…, nay ta đã đến Lạp Trạch, tính theo thời gian thì, Cao Như thượng tướng quân lúc này thiết nghĩ đã đến nước Sở rồi, hy vọng tướng quân có thể thuyết phục nước Sở, nếu nước Sở gây áp lực với nước Ngô, Khánh Kỵ nếu muốn động đến nước Việt ta cũng phải cân nhắc cân nhắc.”

Thần sắc của Nhược Thành dịu lại, nói: 

“Cao Như thượng tướng quân chuyến này sang Sở, chắc sẽ không làm điện hạ thất vọng. Nay Phí Vô Kỵ đã một tay nắm hết đại quyền nước Sở, trong triều không ai dám kháng cự. Người này ham mê nữ sắc, lại tham tiền tài, Cao Như thượng tướng quân biết rõ sở thích của hắn, nhất định có thể thuyết phục được hắn. Hơn nữa, Khánh Kỵ đã đoạt lại Cô Tô thành, nhưng lại không hoàn lại số bảo vật cho nước Sở, lại không thả các đại thần của nước Sở, lòng dạ khó lường, nước Sở đang định phái Sứ giả đến chất vấn, lúc đó nước Sở cũng cần sự tồn tại của nước Việt ta, để khống chế nước Ngô vậy.”

Câu Tiễn gật gật đầu: 

“Không sai, cho nên ta giúp họ tranh thủ thời gian, mạo hiểm đi sứ nước Ngô là rất xứng đáng.”

Hắn vén một góc màn xe, nhìn ra bên ngoài một lượt, sau đó ngồi thẳng lại, nhắm mắt, có vẻ như đang cười, nói: 

“Về xe nghỉ ngơi đi, nếu đã đến rồi, thì cứ yên tâm mà nghỉ lại, mọi chuyện chờ khi đến Cô Tô gặp Khánh Kỵ rồi hẵng tính tiếp. Trong lòng ta đã có tính toán, Câu Tiễn ta đâu phải là một con dê chờ bị giết, dù Khánh Kỵ có là một mãnh hổ, nếu cứ cố nuốt chửng miếng mồi khó nhai này, hắn cũng sẽ bị thương tích đầy mình !” 

Biến pháp tân chính của nước Ngô cuối cùng đã chính thức ra đời.

Trước tiên là chế độ tuyển chọn quan lại, nước Ngô đã làm giảm đi việc chế độ thế khanh lấy quan hệ huyết thống tông pháp làm nền móng, từng bước tăng cường cho các tầng lớp trí thức không có cha truyền con nối ra làm quan. Nước Ngô đi đầu trong việc phá bỏ tục cũ, cho tầng lớp này được làm lên địa vị thượng khanh, chế độ tuyển quan mới từng bước được hoàn thiện như những ai hiền lương, có thể nhờ lập công mà tiến vào con đường làm quan, tiến cử để thăng tiến, hiến kế sách để thăng tiến, tin rằng không chỉ riêng trí thức ở nước Ngô, mà các sĩ tử lang thang ở các nơi khác cũng sẽ vì thế mà đến nước Ngô, để mưu cầu tiền đồ của mình. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Cái tiếp theo là chế độ nhậm chức của quan lại. Văn võ phân chức, chính trị và quân sự phân ra. Do văn võ phân chức, quyền lực của đại thần sẽ bị phân tán, bên là thống soái, bên là đại thần, sẽ không thể lên ngựa quản quân, xuống ngựa quản dân, thuế khoá quân đội ở địa phương và tư pháp dân dịch cũng không thể do một mình hắn thâu tóm hết được, vậy là có thể tạo nên tác dụng khống chế lẫn nhau và giám sát nhau, rất hiệu quả trong đề phòng và khống chế các đại thần lạm quyền tạo nên sự uy hiếp đối với đại quyền của vua, đồng thời, cũng rất thích hợp với như cầu phân công của nền chính trị và quân sự lúc bấy giờ.

Điều thứ ba, lại có quan hệ tương hỗ và phối hợp với các cải cách chính sách trên như làm suy yếu thế khanh, trọng dụng tầng lớp trí thức, văn võ phân quyền. Một là đối với những thế khanh chưa được phong đất, hoặc đất phong của các thế khanh mà trong thời gian xảy ra nội chiến đã bị công tử Quang, Phù Sai giết hết cả nhà, sẽ không tiếp tục phong cho các thế khanh khác nữa, mà sẽ thuộc về quốc hữu, trở thành quận huyện. Hai là đối với các phong quân thế khanh hiện đang tồn tại ở nước Ngô, vẫn tiếp tục cho họ giữ quyền được kế thừa, duy trì chế độ hiện có, nhưng do văn võ đã được phân chức, nên đã chia nhỏ chức quyền cho nhiều quan lại khác nhau, thế nên quyền thống trị của họ trên đất phong sẽ vô cùng yếu ớt, vừa không thể quản quân, lại không thể quản dân, chỉ là có quyền được hưởng các thuế khoá nông nghiệp trong thái ấp mà thôi.

Điều thứ tư, là dân chính. Đã quy định rõ ràng chính sách của các phương diện như dân dịch, thuế dân, quản lý đất đai. Xem trọng việc khai khẩn ruộng đất mới, khen thưởng cho ai canh tác tích cực, giảm nhẹ thuế ruộng.

Điều thứ năm, là thương chính. Cổ vũ thông thương, nhưng đối với các chủng loại mà thương nhân buôn bán, loại nào được phép bán, loại nào không được phép bán, ngay cả ngành nghề, vận chuyển, nạp thuế đều được quy định rõ ràng.

Điều thứ sáu, là lập bộ luật rõ ràng công khai. Đối với quan lại, sĩ dân, thương nhân đã làm ra những hành vi trái pháp luật ở từng phương diện khác nhau đều có giới định và mức độ xử phạt.

Điều thứ bảy. Là cải cách chế độ quân ngũ. Cải cách quân ngũ thành một hệ thống độc lập, trong đó điều chủ yếu quan trọng nhất là lời mà hắn đã từng tuyên bố khi triệu tập binh mã ở nước Lỗ, “Cổ vũ lập quân công, người lập được công, dù là thường dân cũng sẽ được phong quan.”

Biến pháp và tân chính của Khánh Kỵ đã hao phí nhiều tâm huyết của hắn và các đại thần trong triều, bỏ cái nhược giữ cái ưu, tăng thêm ý mới, quả thật đó là một bộ kinh hay. Nhưng nếu người niệm kinh lại không thích hợp, vậy sẽ trở thành tà kinh. Trong quá trình thi hành, năng lực làm việc của các quan viên như thế nào, năng lực ứng biến ra sao, có thể đảm nhận tốt chức vụ hay không, đã trở thành vấn đề quan trọng then chốt quyết định sự thành bại của biến pháp. Điều mà Khánh Kỵ lo lắng nhất chính là phó thác nhầm người.

Những người cũ dưới trướng hắn đa số là võ tướng, hiện những người mới được đề bạt từ tầng lớp trí thức năng lực ra sao còn phải chờ mà quan sát, những sĩ tử hiền năng có thể yên tâm mà dùng đã trở thành vật quý hiếm, sự thiếu thốn nhân tài, đã biến thành tâm bệnh của Khánh Kỵ, đến nỗi khi hắn đã đến tàng bảo khố, đích thân lựa chọn vài món châu báu làm sính lễ chuẩn bị cho sứ giả đem đến cầu thân với nữ nhi của các công thất nước Tần, nước Lỗ, hắn vẫn còn nghĩ đến vấn đề này. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

“Phạm Lãi, Văn Chủng… Muốn nói đến vấn đề dân chính, kinh tế, dưới trướng của ta, không một ai có thể rành rẽ hơn họ, nếu hai người này đến nương tựa nước Ngô ta, quả nhân há chẳng là được thêm vây thêm cánh sao. Nay sự phát triển của nước Sở đã khác so với những ghi chép của lịch sử, cũng chẳng biết hai tên này ở nước Sở đã làm nên những gì rồi. Phải tìm một cách, đem họ về nước Ngô ta mới được…”

Khánh Kỵ đứng trong tàng bảo khố, đôi mắt nhìn ngắm những châu báu rực rỡ muôn màu của nước Sở, lại nhớ đến nhân tài của nước Sở…

Phía nam Kỷ sơn, là Dĩnh thành kinh đô nước Sở. Một Sở đô vốn vô cùng ồn ào náo nhiệt, nay lại điêu tàn như thế, đều do quốc khố trống rỗng, thuế phiên trước cửa thành tăng gấp mười lần, nên rất ít người vào thành.

Kinh Sở xưa nay đất đai màu mỡ, nông nghiệp phát đạt, công thương nghiệp cũng rất quy mô, mà nước Sở đất rộng tài nguyên dồi dào, sức nước hùng hậu, nếu được bồi dưỡng phát triển, chắc chắn sẽ thoát cảnh khốn đốn vùng dậy lần nữa, nhưng hiện nay lệnh doãn nước Sở Phí Vô Kỵ háo công háo lợi, chỉ thích mau chóng thỏa mãn những lợi ích trước mắt của hắn, nên muốn đốt cháy giai đoạn, dã tâm của hắn càng khiến cho Dĩnh Đô tiêu điều hơn, các thần tử trong triều đa số đều là người của hắn, Sở vương lại vì tuổi nhỏ nên không thể đích thân xử lý việc triều chính, chỉ đành mặc cho hắn làm xằng làm bậy.

Lệnh doãn phủ, hơn trăm võ sĩ hộ tống một chiếc xe ngựa vừa mới đi vào tiền viện, xe ngựa vừa dừng, bèn có một võ sĩ mang kiếm nhanh chóng bước tới, mở cửa xe ra, bỏ cái bàn đạp xuống.

Phí Vô Kỵ chậm rãi bước từ trong xe bước ra, phủi nhẹ áo bào, hiên ngang bước xuống xe. Sắc mặt hắn hồng hào, trên người hắn phảng phất mùi rượu, hiển nhiên là mới vừa dự yến tiệc về. Phía sau xe có người đang khiêng xuống hai chiếc rương, không cần hắn ra lệnh, như đã quen tay quen chân đưa vào hậu trạch

“Chúc mừng đại nhân, người Việt lại tặng cho ngài thêm một phần hậu lễ.” 

Tên võ sĩ trẻ tuổi chăm chú nhìn chiếc rương nặng nề, cười nói với Phí Vô Kỵ. Phí Vô Kỵ nấc lên một tiếng, vỗ vai tên võ sĩ, cười ha ha nói: 

“Ừ, Lý Hàn này, lão phu quả không dùng sai người, ngươi đúng là rất thông minh, ha ha, Cao Như nước Việt quả nhiên còn giữ lại ít tài sản, lão phu chỉ hơi làm khó một chút, hắn liền ngoan ngoãn dâng lên cho ta một phần đại lễ. Nếu không phải ngươi nhắc nhở ta, lão phu đã thiệt thòi với hắn rồi.”

Thì ra tên võ sĩ trẻ tuổi đó là Lý Hàn, hắn biết đại thế của Phù Sai đã qua, nên khi Chuyên Nghị đơn thân một mình vào doanh trại thích sát Khánh Kỵ, để cho hắn một mình quay về Cô Tô, hắn suy đi nghĩ lại, quyết định không từ mà biệt đi đến nước Sở, nay đang nương tựa Phí Vô Kỵ, dựa vào tài cán hùa theo ý thích người khác của hắn, rất mau chóng đã trở thành tâm phúc không thể thiếu bên cạnh Phí Vô Kỵ.

“Đại nhân quá khen, đại nhân quá khen, đại nhân, Văn Chủng, Phạm Lãi lại có điều muốn tâu với đại nhân, tấu chương lưu loát phong phú đến hơn mấy ngàn chữ, đả kích sách lược trị quốc của đại nhân, yêu cầu đại nhân rộng lượng đãi dân, bồi dưỡng phát triển…”

Lý Hàn chưa kịp nói hết, Phí Vô Kỵ đã nổi nóng, tím mặt nói: 

“Hai tên khốn không biết thức thời đó, lão phu chẳng thấy ở họ có điểm nào tốt cả, còn thưởng cho họ hai chức vị Trung đại phu, hai tên thất phu này, không biết cảm kích, mà còn khăng khăng chống đối với lão phu, có lý nào lại như thế chứ.”

Lý Hàn cười thầm, nói: 

“Hai người này không biết tốt xấu, nếu đại nhân thấy họ chướng tai gai mắt, sao không đuổi cổ họ đi, xem như nhổ được cái gai trong mắt vậy ?”

Phí Vô Kỵ nhổ nước bọt, trầm ngâm nói: 

“Hai người này, ít nhiều gì cũng từng lập được công lao, tiếng tăm cũng không tệ, hơn nữa chức vị họ thấp, nếu lão phu gây chuyện phiền phức với họ, khó tránh tự hủy hoại thân phận của mình, sẽ khiến người đời chê cười…”

Hắn nói đến đây, đột nhiên thấy Lý Hàn che miệng cười, hắn ngẩn người, lập tức chỉ vào Lý Hàn cười lớn nói: 

“Tên tiểu tử này, chắc chắn đã nghĩ ra gian kế gì rồi, mau mau nói ra, đừng có mà phô trương nữa !”

Chương 243 

Lưu đày và đi sứ

Nhóm dịch: huntercd

Nguồn: vipvandan

Từ Dĩnh Đô mà xuất phát, đầu tiên chiếc xe sẽ đi theo hướng đông nam, đến Thạch Thủ sẽ theo đường thủy đi về hướng tây nam. Đã đi được nửa ngày đường rồi, con đường thủy ở phía trước dần dần hẹp lại, những cây cổ thụ hai bên bờ cao đến tận trời, tiếng vượn hú nghe như tiếng than khóc, chiếc thuyền lớn chở Phạm Lãi và Văn Chủng đã không thể nào tiến thêm được nữa, họ chỉ đành xuống thuyền đi bộ. Lại đi thêm một canh giờ nữa, thì ngay cả con đường mòn gần như cũng không còn thấy, đó là một lối đi nhỏ mọc đầy cỏ dại mà dường như trước kia đã từng là một con đường, những viên đá vụn rơi xuống từ hai bên sườn núi sau mùa mưa làm tắc nghẽn phần lớn con đường, đường như thế đi lại rất khó khăn, lúc thì bước thấp lúc thì bước cao, Phạm Lãi, Văn Chủng và cả những võ sĩ đi theo đều mồ hôi mồ kê nhễ nhại.

“Thiếu Bá cẩn thận !” Văn Chủng đột nhiên kéo cánh tay Phạm Lãi lại, Phạm Lãi dừng bước, nhìn về phía trước theo hướng mắt của Văn Chủng, bất giác như hút phải một luồng hơi lạnh, hắn nhìn thấy một con rắn to lớn hoa văn ngũ sắc, đang ngẩng đầu lè lưỡi, hiên ngang nằm chặn trên con đường, vì con đường này mọc đầy cỏ dại, nên cũng không nhìn rõ là con rắn này rốt cuộc là dài bao nhiêu, chỉ thấy nó ngẩng cao phần đầu, thì đã cách mặt đất hơn ba thước.

Chiếc đầu hình tam giác của con rắn lớn như cái chén, trên đó đầy những con sâu độc, đôi mắt nhìn thẳng, như không coi ai ra gì, chiếc lưỡi dài màu đỏ không ngừng thụt ra thụt vào, nó uể oải bò trên một bên con đường. Phạm Lãi vội vàng nắm chặt cây kiếm, và đám người Văn Chủng nín thở đứng yên, chỉ e kinh động đến con rắn độc này sẽ bị nó nuốt chửng mất. Con rắn này như đang duyệt binh vậy, với một điệu bộ vô cùng cao quý, nó bò ngang qua và đi mất, bất chấp ánh mắt chăm chú nhìn của hai vị đại phu, và hai mươi tên võ sĩ.

Phạm Lãi thở dài thườn thượt, núi rừng xanh um tươi tốt ở phía trước, rừng sâu cây nhiều, cao đến nỗi che hết cả bầu trời, khiến cho con đường mòn vừa ẩm ướt lại vừa âm u. Một võ sĩ tay cầm cây kiếm sắc bén, vừa cẩn thận dọn những cây cỏ ở hai bên để mở đường, vừa lẩm bẩm tự nói: “Trên này à, đâu chỉ có mỗi rắn độc muỗi độc, ngay cả sói lang mãnh hổ, cũng nhiều vô kể, mong là chúng ta có thể bình an mà đến nơi.”

Những người còn lại đều im lặng, nhưng trong lòng họ lại thầm cầu nguyện, tiếp tục đi về phía trước, vượt qua một cánh rừng núi non trùng điệp. Dưới sườn dốc phía trước là một phiến đá đen xì, phía bên này nham thạch liền thành một khối, mỗi khi mưa lớn liền được lũ từ trên núi chảy xuống gột rửa, do vậy phía trên đá rất sạch sẽ, chỉ có lác đác vài cây cỏ dại, cảnh vật chung quanh nhìn sơ qua đã thấy hết, không lo ngại dã thú, rắn độc sẽ bất ngờ xuất hiện, lúc này mọi người mới tìm một chỗ để ngồi xuống, để cho đôi chân đã mỏi nhừ được nghỉ ngơi đôi chút.

Phạm Lãi và Văn Chủng tìm được phiến đá khá bằng phẳng, họ ngồi trên đó, phiến đá bị ánh mặt trời chiếu rọi đến nóng rang lên, đã lót tay nải bên dưới để ngồi mà sức nóng vẫn như thiêu như đốt, một trận gió thổi đến, trên khuôn mặt vẫn còn những giọt mồ hôi chưa khô lại như được hưởng thêm chút mát mẻ, cách đấy không xa có một con suối nhỏ, ào ào đổ thẳng xuống khe đá, có người đã lấy chiếc túi da qua đó lấy nước.

Phạm Lãi nhìn dãy núi bao la ở phía xa, than thở nói: “Có nơi gọi là Lễ Bộc này. Tử Cầm có nghe nói qua chưa ?”

“Ta có nghe qua”, Văn Chủng cũng thở dài, đáp lại: “Lễ Bộc cách phía nam Thạch Thủ hơn trăm dặm, đó là nơi núi sâu rừng già, đâu đâu cũng là chướng khí, trong rừng sâu có một toán dã nhân chưa khai hóa sinh sống. Nơi đó… ngoài tầm với của nước Sở ta, chỉ có bộ lạc của một số dã nhân không phục vương đạo sinh sống mà thôi.”

Phạm Lãi cười gượng nói: “Đúng vậy, muốn chúng ta đi đến nơi đó để làm gì ? Đi vào chỗ chết à ? Chúng ta chỉ muốn khuyên nhủ đại vương là vừa bình định chiến loạn xong, nên vỗ về lòng dân, an định dân tâm, không nên bóc lột quá nhiều, làm dân oán hận, kết quả… Phí Vô Kỵ liền trả đũa lại, nói một cách hay ho vinh quang rằng thì là cử chúng ta đến Lễ Bộc nhậm chức huyện doãn, huyện tư mã, để an ủi lòng dân, cai quản nơi này, nhưng… Lễ Bộc cái nơi hoang vu không phục vương đạo này làm gì có dân nước Sở ta mà cai quản chứ.”

Bãi đất hoang mà hai người họ vừa nhắc đến, kỳ thực từ thời xa xưa nơi đó đúng là có một nền văn minh còn cổ xưa hơn cả nước Sở tên gọi là nước Bộc. Năm xưa khi Vũ vương phạt Trụ, thì nước Bộc đã được lập cách đây rất lâu đời, là một đất nước lớn mạnh ở phương nam, và đã từng tham gia vào phe của Chu Vũ vương mà phạt Trụ.

Những năm đầu Tây Chu, người Bộc dần dần tiến về phía đông, trở thành láng giềng với Ba Thục và nước Trịnh. Nước Sở hiện nay là nằm ở phía tây nam, rải rác giữa Trường Giang và Hán Thủy. Lúc đó sức mạnh của họ là lớn nhất phương nam, từng đứng đầu hai mươi sáu nước Nam Di và Đông Di, thế mạnh như lửa rừng rực cháy, không nước nào có thể sánh bằng.

Sau đó, nước Sở dần dần hùng mạnh lên, và đã tiến hành tấn công người Bộc, chiếm đất đai của họ, đuổi hết dân của họ đi. Người Bộc lúc này đã yếu dần, với sự tấn công của nước Sở, nước Bộc đã bị diệt vong. Người Bộc bị bức bách phải chạy trốn về hướng nam. Họ tiến dần dần về phía nam và phân tán ở lưu vực Lễ Thủy và Nguyên Thủy. Một nước Bộc lớn mạnh năm xưa nay đã bị chia năm xẻ bảy. Với điều kiện và hoàn cảnh sinh tồn khó khăn gian khổ, họ chỉ có thể tụ tập hơn trăm đến hơn ngàn người sống thành bộ lạc, phân tán cư trú trong những khu rừng nguyên thủy, bách Bộc li cư. Nước Bộc cũng do vậy mà đổi tên thành Bách Bộc.

Sau này những dân tộc thiểu số như Di Tộc, Cáp Ni Tộc, Thổ Tộc, Bố Lãng Tộc, Ngoã Tộc, Ngật Lão Tộc, Đức Ngang Tộc đều là hậu duệ của người Bộc. Vào thời điểm đó mà nói, họ là đại diện cho sự lạc hậu và dã man. Vả lại người Bộc rất hận người Sở đã khiến họ nước mất nhà tan, ép họ phải sống trong rừng núi hoang vu. Do vậy họ vô cùng căm hận người Sở. Những người Sở đơn thân bị lạc cũng chẳng dám đi sâu vào nơi ở của các bộ lạc người Bộc, dù đó có là bộ lạc có người Bộc và người Sở cùng chung sống với nhau. Lễ Bộc, nơi mà Phạm Lãi và Văn Chủng phải đến cũng như thế. Năm xưa khi truy sát những người Bộc phản kháng, cũng chỉ có quân tiên phong của nước Sở đã từng đến qua nơi này. Để cho Phạm Lãi và Văn Chủng đem theo mấy mươi tên võ sĩ đến đó làm quan, quả là ý đồ muốn giết người đã hoàn toàn lộ rõ chẳng cần phải che đậy.

“Tử Cầm, ngươi đã biết tình hình ở Lễ Bộc, đã có dự tính gì chưa ?”

Văn Chủng lấy từ trong túi ra một miếng thịt khô, và túi nước. Đang ăn uống, nghe những lời này ngạc nhiên hỏi: “Dự tính ? Ý Thiếu Bá muốn ám chỉ gì ?”

Phạm Lãi quay đầu nhìn chung quanh, nói: “Phí Vô Kỵ vì chán ghét hai chúng ta chống đối với hắn, nên muốn đưa chúng ta vào chỗ chết, chẳng lẽ ngươi vẫn không nhìn ra sao ?”

Văn Chủng than thở: “Điều này đương nhiên vãn bối nhìn ra được. Đi được đến đây đã bị rắn muỗi hại, chướng khí khắp nơi, càng không cần phải nói ra cũng đủ biết Lễ Bộc là nơi thế nào rồi, những người như ta và ngươi chưa từng sống cuộc sống nơi hoang dã này, đến được nơi đó rồi cũng sẽ không hạp thuỷ thổ, nếu mà bị bệnh thì chẳng bao lâu sau cũng sẽ mất mạng. Huống hồ, người Bộc bị người Sở ta đuổi khỏi cố hương, phải chạy vào rừng sâu mà sống, xưa nay đều thù ghét người Sở, Phí Vô Kỵ đuổi cổ hai ta đến đó, nói không chừng còn muốn mượn tay người Bộc mà lấy mạng của ta và ngươi.”

Phạm Lãi nói: “Nếu ngươi đã hiểu rõ cái lợi và hại bên trong, chẳng lẽ còn muốn mau chóng đến đó nộp mạng sao ?”

Văn Chủng mỉm cười, nhìn xung quanh, nhẹ giọng nói: “Cũng không hẳn thế, Thiếu Bá, ngươi có điều chưa biết, ta ở Dĩnh Đô đã làm một chức quan nhỏ trong vài năm, cũng đã kết giao được với một số bằng hữu, trong đó có một lái buôn, thường đem đặc sản núi rừng và đồ da đến Dĩnh Đô bán, ta thường chiếu cố đến hắn, giao tình giữa hai bên cũng không tệ. Người này là người Bộc đang sống trong các Thành Ấp của nước Sở ta, do thu mua da thú, và đặc sản núi rừng, nên cũng quen biết nhiều với những người Bộc sống trong rừng núi hoang vu này.

Hôm qua lệnh vua vừa được ban xuống, Phí Vô Kỵ đã phái ngay tên Lý Hàn đem người giám sát nhất cử nhất động của ta và huynh, muốn có hành động gì cũng không tiện, ta lấy danh nghĩa là sắp phải đi nhậm chức nơi xa, đã mời mấy người bằng hữu cùng uống rượu, trong đó có người này. Ta đã căn dặn hắn lên đường trước, mau chóng đến Lễ Bộc, có hắn ra mặt, người Bộc ở đó sẽ không gây khó dễ cho ta và ngươi, ta và ngươi cũng có thể học được những cách sinh tồn nơi rừng núi hoang vu này từ các bá tánh ở đấy.” Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Phạm Lãi nhè nhẹ vuốt râu, khuôn mặt hắn chẳng có vẻ gì là ngạc nhiên, nói đến đây Văn Chủng cúi đầu xuống uống nước, Phạm Lãi bèn hỏi: “Dù cho là vậy, cứ cho không phải chết, chẳng lẽ ta và ngươi từ nay về sau ở đó làm một đôi dã nhân à ?”

Văn Chủng cố gắng nuốt trôi miếng thịt khô cứng, mỉm cười nói: “Đương nhiên không chỉ như thế, chúng ta có thể xem đó là thời cơ, nói không chừng chúng ta không những có thể có chỗ đứng nơi đó, mà còn có thể dạy cho dã nhân biết trồng trọt, xây thành. Dần dần sẽ khiến cho những dã nhân không phục vương trị này lại bị khuất phục dưới quyền cai trị của ta, chỉ cần chúng ta thành công, thì sẽ có nhiều người Bộc và đất đai của họ sẽ nằm dưới tên nước Sở ta. Thiếu Bá, đó còn là công lao mở mang bờ cõi đấy, Phí Vô Kỵ dù có muốn ngang tàng đến đâu, cũng chẳng dám phạm vào điều đại kỵ trong thiên hạ, gây khó dễ cho người có công mở mang bờ cõi như ta và ngươi đâu.

Ngươi nghĩ xem, đại vương nay tuổi còn nhỏ, đương nhiên sẽ tuỳ cho Phí Vô Kỵ muốn làm gì thì làm, nhưng đại vương đã mười tuổi rồi, qua thêm vài năm nữa là đã có thể đích thân xử lý việc triều chính. Phí Vô Kỵ tên gian tặc này một mình nắm lấy quyền lực, ức hiếp vương thất, lúc đó nhất định sẽ bị tru sát, đến lúc đó, chính là lúc ta và ngươi nở mày nở mặt, có thể oai phong mà trở về Dĩnh Đô, muốn được đại vương ta trọng dụng cũng không có gì khó.”

Phạm Lãi nhìn hắn hồi lâu, nhè nhẹ lắc đầu: “Tử Cầm, ngươi nghĩ đơn giản quá, Nang Ngoã và Phí Vô Kỵ đều là bậc tướng sư, tuy là gian thần, nhưng mưu trí, bản lĩnh đều bất phàm, bằng không hắn đã không thể đứng trên cả đại vương nước Sở ta, nhổ tận gốc lẫn rễ những lão thần có căn cơ thâm hậu mặt không hề biến sắc như Ngũ Xa, Bá Uyển , càng không thể hô phong hoán vũ được như ngày nay, không thể xem thường được.”

Văn Chủng ngây người ra: “Vậy thì… ý của Thiếu Bá là ?”

Phạm Lãi chậm rãi nói: “Tên Phí Vô Kỵ ngang tàng cuồng vọng này, hắn muốn trừ khử ai, chưa chắc đã có thể nhẫn nại mà ngồi chờ, mượn tay của rừng thiêng nước độc, và những sơn dân dã tính chưa thuần ở đó để lấy mạng của ta và ngươi đâu. Ta và ngươi đã đắc tội với Phí Vô Kỵ, hắn đã quyết tâm xua đuổi lưu đày ta và ngươi, e rằng nước Sở tuy lớn, nhưng về sau lại không còn chỗ cho chúng ta dung thân.”

Ánh mắt Văn Chủng chăm chú, thần sắc có vẻ căng thẳng: “Thiếu Bá chẳng lẽ muốn đến nương nhờ nước khác ?”

Phạm Lãi trầm ngâm, không đáp mà hỏi ngược lại: “Tử Cầm, ngươi xem đương kim Ngô vương Khánh Kỵ, người này thế nào ?”

Văn Chủng thần sắc có chút thay đổi, đáp: “Thiếu niên anh hùng, có chí lớn.”

Phạm Lãi hài lòng cười, nói tiếp: “Mà còn mới đăng vương vị, đang muốn tạo nên thành tựu lớn. Triều thần nước Ngô vừa được thay mới, trong nước còn nhiều việc dang dở cần được tiếp tục, đúng là nơi thi thố tài năng của những kẻ sĩ có chí lớn.”

“Thiếu Bá chẳng lẽ muốn đến nương nhờ Ngô vương Khánh Kỵ ?”

“Không phải ta, mà là ta và ngươi.”

Văn Chủng im lặng không nói câu nào.

Phạm Lãi khuyên: “Nói cho cùng, hôm nay Phí Vô Kỵ có thể một tay che trời là do đại vương tuổi còn nhỏ, nhưng lúc Nang Ngoã, Phí Vô Kỵ trừ khử hai vị lão thần thế khanh Ngũ Xa, Bá Uyển, trong đó không hẳn là không có ý của đại vương. Đương kim đại vương nay đã nằm trong lòng bàn tay của Phí Vô Kỵ, hắn có thể thoát khỏi sự khống chế của Phí Vô Kỵ để làm một minh quân hay không vẫn chưa thể dự liệu được, còn nay hai ta đã đắc tội với Phí Vô Kỵ, đã là đại hoạ lâm đầu rồi. Chi bằng ta và người cùng đến nương nhờ Ngô vương Khánh Kỵ, dưới trướng của một minh quân, hoặc giả có thể tạo dựng nên một sự nghiệp oanh oanh liệt liệt, lập công lớn trong thiên hạ, vang danh tứ hải.”

Văn Chủng chần chừ do dự, nhè nhẹ lắc đầu nói: “Thiếu Bá, ta nghĩ ngươi đã suy nghĩ quá nhiều, Phí Vô Kỵ quyền bính cao, địa vị cao quý, hắn thấy chúng ta chướng mắt, đuổi đi là được rồi, không hẳn đã vội cho người truy sát hai ta. Ta và ngươi đều là quan nước Sở, cũng không có mối huyết hải thâm thù như đám Ngũ Viên, vô duyên vô cớ bỏ trốn đến nước khác, còn gì là đạo lý nữa ?”

Phạm Lãi không lấy làm lạ nói: “Năm xưa Khương Thượng cũng là đại thần nước Thương, cũng vì giúp đỡ bảo vệ Chu thất mà lưu danh thiên cổ sao ? Chủ cũ mà Quản Trọng theo phò tá đã chết dưới sự bức bách của Khương Tiểu Bạch, Quản Trọng cũng vẫn giúp đỡ và bảo vệ Tiểu Bạch, lưu danh muôn đời ? Thường nói là: Chim khôn chọn cành mà đậu, hiền thần chọn chủ mà thờ, những đại hiền thần này không đáng để ta noi theo sao ?”

Mặc cho Phạm Lãi khuyên nhũ thế nào, Văn Chủng vẫn cứ ôm mộng tưởng do dự không quyết, không chịu hạ quyết tâm, Phạm Lãi thấy tình hình như thế chỉ đành thở dài ngao ngán: “ Thôi rồi, nếu đã vậy, Phạm Lãi này đành liều mạng cùng ngươi đến Lễ Bộc một chuyến, chỉ là… nếu trên đường đến Lễ Bộc, Phí Vô Kỵ quả nhiên phái người truy sát, lúc đó ngươi tính thế nào ?”

Văn Chủng chau mày, nói: “Nếu Thiếu Bá quả nhiên đoán đúng, Văn Chủng sẽ không do dự nữa, lập tức theo ngươi đến nương nhờ nước Ngô.”

“Được, quân tử nhất ngôn !”

“Khoái mã nhất biên !”

Mỗi người đưa một tay ra, “bốp bốp bốp” ba kích chưởng, Phạm Lãi đứng thẳng dậy, đứng trên phiến đá lớn nhìn ra xa, lẩm bẩm tự nói: “Đi tiếp về phía trước, chính là Ngãi Bình. Chỉ cần đi ra khỏi Ngãi Bình, chính là thiên hạ của dã nhân, chuyến đi này, có rất nhiều đường mòn, không ai có thể biết rõ chúng ta đang đi trên con đường nào, nhưng Ngãi Bình là nơi buộc phải đi qua. Phí Vô Kỵ nếu muốn phái người theo giết, vậy đây sẽ là cơ hội cuối cùng, ta và ngươi phải cẩn thận hơn.”

Văn Chủng cười hi hi nói: “Thiếu Bá, ngươi lại chẳng phải con sâu trong bụng Phí Vô Kỵ, sao cứ đoán là hắn sẽ phái người giết ta trên đường đi chứ.”

Phạm Lãi mỉm cười nói: “Không sai, ngươi không có nỗi lo gia thất, ta thì thê nhi đều có, hôm qua khi ngươi bận tiếp đãi bằng hữu, an bài việc định cư ở Lễ Bộc, ta cũng đã mời một số bằng hữu thân thiết, làm tiệc chia tay. Lúc đó, ta đã sắp xếp cho người nhà xong xuôi, bảo họ sau khi ta và ngươi rời khỏi, hãy mang theo thê nhi của ta rời khỏi nước Sở, ta lại an bài một số võ sĩ tâm phúc, tiếp ứng ở Ngãi Bình.” Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Văn Chủng nghe xong há hốc cả mồm, than thở: “Thiếu Bá quả là suy nghĩ chu đáo, nhưng thật ra cũng cẩn thận quá đỗi, nếu Phí Vô Kỵ không phái người phục kích ngươi và ta thì sao ?”

Phạm Lãi mỉm cười: “Không sao, cứ chống mắt mà chờ xem.”

Phí Vô Kỵ từ trong cung trở về, vui mừng ra mặt, trước tiên là vì việc hắn đã đuổi cổ được hai cái gai trong mắt là Phạm Lãi và Văn Chủng, hôm nay những ý kiến của hắn lại được Sở vương chuẩn tấu, đã nhận đại lễ của người Việt, nên hắn giúp họ hoàn thành đại sự này vậy. Phí Vô Kỵ đắc chí hài lòng trở về phủ đệ, vừa gặp Lý Hàn đã vội nói: “Lý Hàn, chuyện đó làm đến đâu rồi ?”

Lý Hàn vội vàng tiến lên phía trước đáp: “Đại nhân yên tâm, tiểu nhân đã an bài thỏa đáng, đã sắp xếp bốn mươi võ sĩ cải trang, mang theo cung và tên độc của người Bộc mai phục ở ngay con đường mà họ buộc phải đi ngang qua, đến lúc đó họ sẽ bỏ mạng nơi hoàng tuyền, người đời chỉ biết là họ do những người Bộc dã man giết chết, chứ không hề có bằng chứng nào mà nghi ngờ đến đại nhân.”

Phí Vô Kỵ cười lớn ha ha: “Rất tốt. Ngươi mau đi, triệu Cao Như nước Việt đến gặp lão phu.”

Lý Hàn vui mừng nói: “Đại sự đã thành rồi ?”

Phí Vô Kỵ kiêu ngạo nói: “Lão phu đã xuất mã, nhất định sẽ mã đáo thành công.”

“Vâng vâng vâng”, Lý Hàn cười tươi như hoa tiến lên phía trước đỡ lấy tay hắn: “Đại nhân có cần về phòng nghỉ ngơi không ?”

Phí Vô Kỵ nói: “Hầy, trời còn chưa tối, nghỉ ngơi gì chứ, vẫn còn chút thời gian, để lão phu đi thăm mấy vị mỹ nhân của nước Việt đã, nữ nhi nước Việt làn da trắng nhất thiên hạ, quả đúng là danh bất hư truyền. Mấy nàng mỹ nhân nước Việt này, da thịt mềm mại mịn màng, một khi đã trút bỏ xiêm y, thì trông như những bông tuyết trắng, đúng thật là trắng đến lóa mắt, nhưng lại có thể sờ vào được, hi hi hi…, lão phu phải đi hưởng thụ một chuyến …”

“Đại nhân mời…” Lý Hàn vẫn giữ nụ cười trên môi chấp tay nhìn Phí Vô Kỵ lắc lư bước vào hậu trạch, sau đó vội vàng quay người lại, đi ra khỏi cửa đánh chiếc xe ngựa đi về phía dịch quán mà Cao Như thượng tướng quân của nước Việt đang ở. Chuyến đi này, lại có thêm một món hời nữa đây, nghĩ đến đấy, Lý hàn vui như mở cờ trong bụng…

Sở đại phu Khuất Đoan vẫn chưa đến Cô Tô, còn cách thành khoảng ba mươi dặm, đã dược đại tư mã Anh Đào và đại hành nhân Thái Nghĩa của nước Ngô dùng nghi lễ mà tiếp đón long trọng. Vị Khuất đại phu này người vừa cao lại gầy, chiếc cằm nhọn, gò má nhô cao, một đôi chân mày đậm và dài, đôi má gầy gò, miệng hơi nhô ra, trông có vẻ khá buồn cười.

Người Ngô phạt Sở, giới quyền quý của nước Sở bị bắt đi hơn nửa, sau khi Sở Vương trở về Dĩnh Đô, Phí Vô Kỵ một mình nắm hết đại quyền, vị Khuất đại phu này vì hùa theo sở thích của hắn, dâng lên tài sản và mỹ nữ, nên rất được lòng của Phí Vô Kỵ, nhận được chức vụ đại hành nhân. Lần này xuất sứ nước Ngô, vốn dĩ trong lòng hắn có chút thấp thỏm không yên, nhưng vừa thấy người Ngô nghênh tiếp hắn long trọng như thế, khuôn mặt vốn dĩ rất nghiêm túc của hắn lộ ra sự vui vẻ và thoải mái.

Vào hai năm trước, đương kim đại vương nước Ngô từng đích thân dẫn đại quân tấn công nước Sở; Còn vào vài tháng trước, lại vừa mới bị tiên vương của nước Ngô, là người đã bị đương kim đại vương nước Ngô giết chết, xông vào Dĩnh Đô, giết người và cướp bóc trắng trợn, sau đó… hai nước lại liên minh với nhau, một quan hệ liên minh vô cùng yếu ớt, quan hệ giữa hai nước đích thực là rất mờ nhạt. Để đại hành nhân của một nước chiến bại xuất sứ sang nước chiến thắng, hai nước lại hình thành một liên minh kỳ dị, nên tâm trạng của hắn không cần nói ra cũng dư biết.

Nước Sở xưa nay là một nước lớn, không chỉ ngự trị trên cả nước Ngô, mà còn ngự trị trên cả nhiều nước chư hầu khác trong thiên hạ, có thể đối kháng với Tề Tấn, khinh thường những nước lớn trong thiên hạ như nhà Chu. Nhưng đại quốc này, mà lại bị nước Ngô tấn công vào kinh đô, để lại một nỗi nhục lớn, nên sau khi Khánh Kỵ phục quốc, trong một thời gian khá dài nước Sở án binh bất động, chờ nước Ngô chủ động đem trả số châu báu và những người quyền quý trở về, không phải tiểu Sở vương tự cao tự đại, mà thực ra là nước Sở không chịu xuống nước mà phải sứ giả đến nước Ngô đòi lại.

Sau một thời gian khá lâu, nước Ngô vẫn không có động tĩnh gì về việc hoàn trả người và số châu báu, quân thần nước Sở mới không nhịn được nữa, vạn bất đắc dĩ, chỉ đành phái sứ giả đến, hy vọng là có thể nhờ đàm phán mà đạt được mục đích của họ. Vai gánh trọng trách, Khuất Đoan quả thật có chút khẩn trương. Nhưng khi thấy lễ nghĩa và cách đón tiếp của nước Ngô, lòng hắn đã dần dần yên tâm hơn.

Đoàn dù lọng cách thành đến hơn mười dặm, Anh Đào và Khuất Đoan ngồi cùng một xe, đang chuyện trò vui vẻ, đột nhiên ở ngã rẽ phía trước xuất hiện một đám người ngựa, ai ai cũng không còn manh giáp, vũ khí cũng không nguyên vẹn, thấy đoàn dù lọng cũng không thèm để mắt đến, la hét ầm ĩ giành đường để chạy về hướng Cô Tô thành.

Khuất đại phu hoảng hồn nói: “Những người đó là ai ?”

Trong tích tắc, một viên tướng lĩnh vội vàng chạy đến bẩm báo với Anh Đào: “Bẩm báo đại tư mã, những bại quân vừa nãy được phái vận chuyển lương thảo ra ngoài, gặp phục kích của những tàn binh thổ phỉ, nên mới chạy về Cô Tô.”

Anh Đào hầm hầm giận dữ, trừng mắt hét to: “Những tên sơn tặc thổ phỉ này càng ngày càng hoành hành. Sẽ có một ngày, bổn tướng quân sẽ xin đại vương ban lệnh, cho ta đích thân đi tiêu diệt những tên không xem vương pháp ra gì này. Hừ ! Những binh lính của Xích Trung cũng thật kém cỏi, đây đã là lần thứ mấy bị cướp quân lương rồi, giờ còn ở trước mặt sứ tiết nước Sở làm ra chuyện mất mặt thế !”

Khuất đại phu hoảng hồn hỏi: “Tư mã đại nhân, đã xảy ra chuyện gì ?”

“À, cũng chẳng có chuyện gì lớn , đã làm Khuất đại phu kinh sợ.”

Khi Anh Đào quay mặt sang phía hắn, vẻ mặt đã vui vẻ hòa nhã lại: “Từ khi công tử Quang bị bại ở nước Sở, khi trở về đến bên dưới núi Thiên Mục đã bị chúng ta phục kích, bị đánh tan tác, rất nhiều binh sĩ đã bỏ trốn. Sau khi công tử Quang chết, những người này lại không muốn quy thuận đại vương ta, lại không biết lấy gì mà sống qua ngày, chỉ đành đi cướp bóc, nên đã trở thành sơn tặc. Ngài đừng nghĩ rằng ngày trước họ chiến đấu không được anh dũng như binh lính của ta, nhưng hiện nay họ đơn thuần chỉ vì sự sinh tồn, nên ai ai cũng rất liều mạng, có thể một đánh mười, cho nên không thể xem thường được.”

Khuất đại phu nghe xong lập tức đã tin như thật, vẻ mặt vẫn còn nỗi kinh sợ hắn nói: “Đội quân vừa nãy đi qua, quân số cũng vào khoảng năm trăm người, nhiều… nhiều người như thế, mà vẫn không phải là đối thủ của đám binh tặc đó sao, họ… sức mạnh của đám sơn tặc này quả thật là không thể xem thường được.”

Hắn quay đầu lại nhìn ba trăm thị vệ mà hắn mang theo, trong lòng sợ hãi nói: “Cũng may, trên đường đi ta không gặp phải bọn họ, bằng không thì hôm nay e rằng đã không gặp được Anh Đào đại nhân rồi.”

“Đúng vậy, đúng vậy, những tên cướp này lẩn trốn khắp nơi, một khi đại binh đến gần, liền chạy vào nơi sông hồ rừng núi, hễ nghe nói nơi đâu có người có của, liền mò qua để cướp. Tay chân vô cùng lanh lẹ, muốn tróc nã cũng không dễ dàng gì, thật khiến ta phải đau đầu. Lần này đại phu đến may mắn là không gặp phải bọn họ, quả thật là may mắn vô cùng.”

Khuất đại phu trong lòng thầm nghĩ: “Xem ra tuy Khánh Kỵ đã là đại vương, nước Ngô trước mắt vẫn chưa được thái bình, chả trách hắn không lo tới chuyện của nước Sở ta. Ừm, nếu là vậy, xem ra người Ngô không có ý nuốt chửng số châu báu của nước Sở ta, chuyến nay ta đi rất có hy vọng sẽ thành công.”

Nghĩ đến đây, trong lòng Khuất đại phu bắt đầu thư thái hơn, nhưng hắn lại e ngại Anh Đào sẽ cho rằng hắn nghe được tin nước Ngô có thổ phỉ làm loạn nên vui vẻ mà cười trên sự đau khổ của họ, nên lại không tiện thể hiện ra, nên chỉ đành vểnh môi lên, hai đôi mày chau lại, khuôn mắt vốn không khó coi của hắn lại thêm cái thái độ kỳ quặc này, khiến hắn trông giống một con khỉ.

Khuất đại phu vào Cô Tô thành, chỉ thấy cảnh tượng trong thành lại một phen giật mình. Vừa nãy hắn thấy đoàn dù lọng trên đường của Anh Đào áo giáp sáng bóng, các quân sĩ mặt mày nghiêm chỉnh, không ngờ những thủ binh trước cửa thành lại ăn mặc rách rưới, đường phố trong thành lác đác vài người đi lại, thỉnh thoảng lại thấy những người già và trẻ, đều mang bộ dạng khốn khổ chán nản. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Thỉnh thoảng ở đâu đó lại bất chợt thấy một số người đẩy những chiếc xe chở xác người vội vội vàng vàng đi qua, phía sau còn có một đám phụ nữ và hài nhi khóc thút thít, cũng chẳng biết đã xảy ra việc gì, đại chiến đã qua lâu rồi, mà vẫn còn có người chết hàng ngày vậy sao. Khuất đại phu cũng không tiện hỏi, nào là loáng thoáng nghe được chuyện ôn dịch gì đó. Lại nhớ đến địa khu Đại Mộng Trạch nước Sở, số binh sĩ tử trận lên đến hàng vạn người, xác phơi đầy đồng hoang, mùi xác thối bốc lên nồng nặc, những nhà nông cạnh bên cũng bị nhiễm ôn dịch chết không biết bao nhiêu người, Khuất đại phu thầm than khổ, trước mặt Anh Đào lại không thể lập tức lấy khăn mặt mà che miệng lại, chỉ đành cố gắng hít thở không khí ở nước Ngô ít lại, thế là hắn tập trung nín thở, hít một hơi dài, nín đến khi nào mặt đỏ cả lên mới lấy tay che mũi lại lén lút hít thêm một hơi, vẻ mặt vểnh môi chau mày vừa nãy của hắn trông như một con khỉ, lúc này lại trông giống như một con ếch đang ngồi trên xe, Anh Đào liếc mắt thoáng thấy những cử động của hắn, cười thầm trong bụng.

Đến phía trước vương cung, Khuất đại phu xuống xe, cầm theo kiếm, do Anh Đào, Thái Nghĩa và thái giám trong cung cùng hắn đi vào chính điện, trên đường đi, thấy không ít thợ thủ công, lực sĩ và nô lệ, lúc thì dùng xe lừa, lúc thì dùng sức người, gánh đi và chuyển đi không biết bao nhiêu là đất cát, đá lớn, cây gỗ lớn và nhiều vật liệu khác vào phía sau hậu cung.

Lúc này đã đi vào Vương cung, sắp được diện kiến đại vương, phải giữ lễ tiết, nên Khuất Đoan không tiện hỏi, trong lòng hắn thầm cảm thấy kỳ lạ: “Nước Ngô vừa đánh xong mấy trận chiến lớn, nơi đây đã cần bao nhiêu là gỗ lớn, chẳng lẽ là xây lại vương cung ? Nếu Khánh Kỵ là một kẻ ham hố hưởng thụ như thế, thế thì ta cũng chẳng cần chi phải lo lắng nữa.”

“Sứ thần nước Sở Khuất Đoan đại phu cầu kiến !”

‘Truyền !”

Tin tuyên triệu từ đại điện truyền ra, Khuất Đoan cùng với Anh Đào, Thái Nghĩa bước vào đại điện, hai bên điện có rất nhiều quan viên đang ngồi, trước mặt mỗi người đều có một bàn kỷ án, thấy hắn bước vào, tất cả họ đều chăm chú nhìn, còn có người lấy tay áo che miệng bàn tán xì xầm với người bên cạnh.

Khuất Đoan mắt nhìn thẳng, đi một mạch vào trong đại điện, vái lạy rồi nói: “Sở đại phu Khuất Đoan, tham kiến Ngô vương bệ hạ.”

“Khuất đại phu miễn lễ bình thân, mời an toạ.”

“Tạ đại vương !”

Phía bên trái Khánh Kỵ có một bàn kỷ án để trống, Khuất Đoan tạ lễ, theo thái giám qua đó an tọa. Khuất Đoan an tọa xong, chấp tay nói: “Đại vương đã thu phục được nước Ngô, đúng là đáng vui đáng mừng. Khi Khuất Đoan chuẩn bị lên đường, đại vương ta đã nhiều lần căn dặn, phải thay người chúc mừng đại vương, nguyện cho nước Ngô ngày càng hùng mạnh, tình hảo hữu Ngô Sở, vững vàng đến muôn đời.”

Khánh Kỵ cười nói: “Khi quả nhân đăng cơ ở ngoài thành Cô Tô, nước Sở cũng đã phái sứ giả đến chúc mừng, lúc đó giang sơn chưa định, bên trong Cô Tô thành hãy còn Phù Sai đang loạn chính, vậy mà nước Sở có thể đứng về phía Khánh Kỵ kiên định ủng hộ, quả nhân sẽ ghi nhớ trong lòng. Ngô và Sở đều cùng nằm ở Giang Nam, nếu đời đời hữu hảo, kết thành huynh đệ bang giao, đó cũng hợp ý nguyện của quả nhân. Lần này quý Sứ đến ngước Ngô ta, không biết là mang theo sứ mệnh gì của Sở vương bệ hạ đến ?”

Khuất Đoan lưỡng lự một hồi, chỉ đành miễn cưỡng nói: “Khuất Đoan lần này đến quý quốc, mang theo hai sứ mệnh của đại vương ta. Khi Hạp Lư tập kích vào Dĩnh Đô, từng cướp đi rất nhiều ngọc ngà châu báu của nước Sở ta, trong đó có nhiều vật báu đã được kế thừa nhiều năm, có ý nghĩa trọng đại với nước Sở. Sau khi Đại vương ta trở về Dĩnh Đô, suốt ngày buồn bã không vui, không còn mặt mũi vào Tông Miếu mà gặp tổ tiên. Đại vương nay đã đánh bại Phù Sai, có thể nhất thống thiên hạ, đại vương ta hay tin rất đỗi vui mừng, mong chờ đại vương có thể sớm ngày hoàn lại những báu vật của nước Sở ta đã bị cướp đi. Nhưng do nước Ngô mới ổn định, còn nhiều việc dang dở cần phải tiếp tục, đại vương ta nghĩ đại vương ngày lo trăm việc, bận rộn quốc gia đại sự. Thế nên bèn phái hạ thần đi Sứ sang Cô Tô, để vận chuyển những báu vật của nước Sở về.”

Chương 244 

Ba Lần Trêu Chọc Sứ Giả 

Nhóm dịch: huntercd

Nguồn: vipvandan

“À ! Thì ra Khuất đại phu là vì việc này mà đến…” Khánh Kỵ vừa nghe xong, sắc mặt trở nên u ám, chúng thần ở hai bên cũng tự ghé tai nhau mà thì thầm, tiếng xì xầm vang lên ở khắp nơi.

Khuất Đoan thấy tình hình trên, không kềm được hiếu kỳ hỏi: “Đại vương hà cớ lại trầm ngâm, chẳng lẽ có điều chi khó xử chăng ?”

Khánh Kỵ nói: “Quả nhân và nước Sở từng kề vai sát cánh chống lại Hạp Lư, hai bên lại là liên minh, Hạp Lư phá Sở, cướp đi bảo vật của nước Sở, sau khi quả nhân chiếm được Cô Tô, cũng muốn sớm ngày đem hoàn lại những bảo vật này, xem như là báo đáp cái ơn của nước Sở, và cũng để vẹn toàn tình nghĩ huynh đệ. Nhưng… hầy !”

Khánh Kỵ thở dài nói: “Trước mặt quý Sứ, quả nhân có một số lời quả thật khó nói ra !”

Khuất Đoan khẩn trương đứng dậy hỏi: “Đại vương… xin người cứ nói.”

“Khuất đại phu, thật không dám giấu !” phía bên phải Khánh Kỵ, một nam tử ngồi đối diện với Khuất Đoan đột nhiên chấp tay nói: “Phù Sai quyết giữ Cô Tô thành, từng thề sẽ cùng chết với thành, do vậy hắn đã giết hết cả nhà nhiều thế khanh công tộc, đồng thời để sẵn nhiều vật dẫn lửa trong thành, một khi thành bị phá, sẽ đốt lửa hỏa thiêu thành. Việc này, tin rằng Khuất đại nhân cũng từng nghe qua. Khi đại vương ta đăng cơ ngoài thành Cô Tô, Sứ giả của quý quốc và các nước chư hầu khác đã đến chúc mừng trước, nên đối với những gì Phù Sai đã làm hẳn đều đã biết rõ.” Trong lòng Khuất Đoan bắt đầu bất an, hắn đã biết rằng sứ mạng quan trọng này e là sẽ sinh nhiều trắc trở đây. Hắn gượng cười, nói: “Vị này, thiết nghĩ chính là Ngô Tướng Quốc Tôn Vũ đại phu chăng ?”

“Chính là tại hạ !”

“Đại danh của Tôn Tướng Quốc, Khuất Đoan đã ngưỡng mộ từ lâu.” Khuất Đoan nói một câu khách sáo, lại nói: “Nhất cử nhất động của Phù Sai, quả thật là Khuất Đoan có nghe qua, nhưng Khuất Đoan nghe nói đại vương đã mời đại hiền Quý Tử ra mặt, thuyết phục những thủ quân trong thành mở cửa đầu hàng, nên đã có thể ung dung mà thu phục Cô Tô. Khuất Đoan vào thành, những gì được thấy trên phố, cũng có thể chứng thực lời đồn là đúng…”

Khánh Kỵ như trút được gánh nặng nói: “ Nếu quý sứ đã biết tường tận tình cảnh vào thành của quả nhân, vậy thì càng dễ giải thích cho quý sứ hiểu, bằng không thì quả nhân đúng là có một số điều khó mà mở lời.”

Nụ cười trên mặt Khuất Đoan có vẻ gượng gạo: “Đại vương… người nói vậy là có ý gì ?”

Tôn Vũ nói tiếp: “Khuất đại phu từ xa đến, đại vương nước ta còn đang lo rằng người không hiểu tình hình trong Cô Tô thành, khó mà bộc bạch, nếu đại nhân đã rõ việc của nước Ngô ta, vậy thì dễ nói rồi. Đại vương ta giành được Cô Tô, là nhờ Quý Tử cao hiền xuất đầu lộ diện, thuyết phục thủ quân bỏ thành mà đầu hàng, tránh việc Cô Tô thành và tên Phù Sai đó bị vùi trong biển lửa. Lúc đó Tôn Vũ là người đầu tiên dẫn quân tiến vào trong thành, tiếc là vẫn chậm một bước, đã để cho tên Phù Sai chạy được vào vương cung. Phù Sai không kịp hỏa thiêu toàn thành, nhưng lại kịp hỏa thiêu vương cung, hắn đã đóng chặt cửa cung, lệnh cho tử sĩ giữ chặt cửa, một mình hắn chạy về hậu cung, đốt cháy toàn bộ những đình đài lầu các để cất giữ ngọc ngà châu báu, lửa cao đến tận trời, cả thành đều nhìn thấy, lúc Tôn Vũ xông được vào cung, chỉ kịp chặn được nguồn lửa, tránh cho lửa lan rộng đốt cháy cả vương cung, còn về Phù Sai và tàng bảo khố… đều đã hóa thành tro bụi rồi…”

Khuất Đoan nghe xong trợn mắt há hốc mồm, một hồi lâu sau mới kinh hãi kêu lên: “Cái gì ? Toàn bộ tài phú của nước Sở ta, đều bị hóa thành tro bụi sao ?”

Khánh Kỵ mím môi mím lợi nói: “Đâu chỉ có nước Sở, ngay cả tích cóp nhiều năm của nước Ngô ta, đều đã hóa thành hư không, thành ra quả nhân nhập chủ Ngô cung, vì quốc khố trống rỗng, tài lực khiếm khuyết, muốn chấn hưng thiên hạ, mà lại nghèo rớt mồng tơi thế này. Tên Phù Sai đó đã bị thiêu thành tro bụi trong Trích Tinh lầu, nếu không thì… dù đã có giao ước trước với Quý Tử đại hiền, quả nhân cũng nhất định phanh thây xẻ thịt hắn, để hả mối hận trong lòng !”

Khuất Đoan lẩm bẩm nói: “Vậy … vậy số ngọc ngà châu báu chất cao như núi ấy, vậy mà… vậy mà đều bị hủy trong một ngọn lửa sao ?”

Anh Đào ho một tiếng, đau khổ tột cùng nói: “Phù Sai cương dũng tàn bạo, dũng võ hơn người, mê rượu và dâm lạc, sủng ái mỹ nữ. Những hành động của hắn, khác gì so với Trụ vương, cái chết của hắn, cũng gần giống như Trụ vương năm xưa đã mặc Bảo Y lên Lộc đài hỏa thiêu. Chỉ là từ đó đến nay, đại vương ta tự cảm thấy không biết làm sao nói rõ với quý quốc, nên thường nghĩ đến mà buồn bã trong lòng, được biết quý sứ sắp đến, cũng vì đó mà thấp thỏm không yên, điều may mắn là, Khuất đại nhân lại biết rõ tình cảnh của nước Ngô ta, thiết nghĩ cũng biết việc vương cung Cô Tô bị hỏa thiêu, hiện nay đình đài lầu các trong Ngô cung đã bị tàn phá phần lớn, đang ngày đêm tiến hành trùng tu, À! Vừa nãy khi vào cung, tin rằng Khuất đại nhân cũng có nhìn thấy những người thợ xây đang làm việc.”

Khuất Đoan nghe xong có khổ mà không dám nói, hắn cố ý đưa ra một số tin tức mà hắn nghe được, vốn dĩ là muốn đánh động đến Khánh Kỵ, để cho hắn biết nước Sở không phải là không biết gì đến tình hình ở nước Ngô, không ngờ người Ngô lại cứ khẳng định số bảo vật đã bị Phù Sai thiêu rụi. Phù Sai đã chết, hắn còn có thể đối chất với ai đây ? Lúc Khánh Kỵ phá thành, trong vương cung từng có hỏa hoạn lớn đó là sự thật, hắn cũng không có chứng cứ xác thực chứng minh bảo vật của người Sở không hề bị thiêu hủy trong biển lửa, càng không thể cứ mặt dày mà chất vấn Khánh Kỵ. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Khánh Kỵ thở dài than thở, hắn ra vẻ tiếc nuối và đau buồn đối với việc không thể hoàn trả lại số bảo vật cho người Sở, Khuất Đoan không còn gì để nói, bỗng nhiên nhớ đến sứ mạng thứ hai. Chính là phụng lệnh của đại vương, đón hơn trăm người quyền quý đã từng bị Hạp Lư bắt làm con tin về nước. Nhắc đến những người này, Sở vương cố nhiên rất mong họ sớm ngày trở về, do đó trước lúc hắn lên đường vương thái hậu đã từng triệu kiến hắn, nhưng tên Phí Vô Kỵ đang nắm giữ quyền hành hiện nay lại không muốn những người quyền quý này trở về, làm rối việc an bài chính trị của hắn, do đó cũng từng căn dặn trước mặt Khuất Đoan.

Khuất Đoan vốn dĩ dựa vào Phí Vô Kỵ mà được thăng quan tiến chức, do vậy, đương nhiên sẽ nghe theo lời của hắn, nhưng số tài phú khổng lồ mà Sở vương và Phí Vô Kỵ quan tâm nhất đã bị một ngọn lửa của Khánh Kỵ thiêu sạch, hắn không thể không nhắc đến những người Sở quyền quý đang bị nhốt trong Cô Tô thành, cái món nợ hồ đồ của nước Sở này, phụ tử người mắc nợ đều đã chết rồi, nếu không có bằng chứng xác thực, nước Sở quả thật không thể làm gì được Khánh Kỵ. Nói không chừng những người Sở quyền quý này sẽ biết được một số nội tình trong đó, cho dù thế nào cũng phải gặp mặt họ trước đã, khi đã nắm được chứng cứ, mới bắt đầu gây khó dễ cho Khánh Kỵ.

Nghĩ đến đây, Khuất Đoan kềm lại cơn giận, nói: “Đại vương ta trong lòng rất vui mừng, mong chờ Khuất Đoan có thể viên mãn mà trở về, không ngờ… không ngờ lại thành cục diện thế này, ôi ! Đại vương ta chắc chắn sẽ rất thất vọng. Việc này không phải là lỗi của đại vương, đại vương cũng không nên quá lo lắng. Lần này Khuất Đoan đến nước Ngô, việc thứ hai là, muốn đón các thế khanh công tộc nước Sở đã bị bắt làm con tin, không biết hiện giờ họ đang ở đâu ? Khuất Đoan muốn được gặp họ, đồng thời xin đại vương rộng lòng sắp xếp giúp cho họ trở về nước.”

“Việc này không khó !” Khánh Kỵ đã đồng ý ngay. Nói: “Số người quyền quý của nước Sở bị bắt về đây tổng cộng có một trăm ba mươi bốn người, trên đường đi đến đây, và trong thời gian giam giữ ở Cô Tô thành đã có ba người chết vì bệnh. Nay còn có một trăm ba mươi mốt vị công khanh đại phu, vì bệnh ôn dịch hoành hành trong thành, nên hơn trăm người họ ở cùng một chỗ sẽ rất nguy hiểm, quả nhân đã sắp xếp cho họ ở tạm trong binh doanh dưới núi Cô Tô, nơi đó non xanh nước biếc, không khí trong lành, an toàn hơn nhiều so với việc tìm một đại trạch trong thành cho họ cư trú.”

Khuất Đoan hoảng hốt, thất thanh hỏi: “Hiện đang có bệnh ôn dịch hoành hành trong thành sao ?”

Khánh Kỵ đánh bốp xuống vương toạ, nói: “Đúng vậy, trong thành đã chết nhiều người, nhất là vào lúc Phù Sai đồ môn diệt tộc, vì muốn trấn áp nhân tâm, hắn đã ra lệnh không cho chôn các thi thể, mà bắt phải treo lên để mà thị chúng, thời tiết oi bức, mùi xác thối khó ngửi, đến nay đã trở thành dịch bệnh, trong thành đã chết không biết bao nhiêu người.”

Dịch bệnh là đại sự mà có thể khiến cho người nghe mặt mày biến sắc, một khi ôn dịch hoành hành, những người được trị khỏi có thể đếm trên đầu ngón tay, và chỉ còn cách là ráng chống chọi qua ngày với cái chết, đợi khi ôn khí đã qua mùa thì sẽ tự động tiêu tan, đó quả thật là một trận chiến chết chóc mà không có cách nào kháng cự được. Khuất Đoan nghe xong lại thầm than khổ, chuyến sang nước Ngô này của hắn thật không đúng lúc, hắn chỉ hận một nỗi là không thể lập tức ba chân bốn cẳng chạy khỏi thành Cô Tô mà thôi.

Anh Đào đứng bên cạnh an ủi: “ Quý Sứ xin đừng lo, dịch quán mà ta sắp xếp cho quý sứ, trước mắt vẫn chưa phát hiện có người bệnh, trong Cô Tô thành, ngoại trừ vương cung ra, thì đó đã là nơi an toàn nhất rồi.”

Ngồi phía sau Anh Đào là Xích Trung, Anh Đào vừa nói dứt lời, Xích Trung đã ho lấy ho để, ho đến độ tím tái mặt mày, Anh Đào và người ngồi bên trái hắn bèn lén lút né qua một bên, cứ như là sợ nước dải của hắn văng ra trúng mình vậy.

Xích Trung ho xong, vừa thở hổn hển vừa nhiệt tình nói với Khuất Đoan: “Khuất đại phu yên tâm, người là khách quý của nước Ngô, đại vương ta nhất định sẽ tiếp đãi ngài rất chu đáo, dịch quán đó là do ta đích thân đưa người đến an bài, tuyệt đối sạch sẽ an toàn. Khi ra khỏi vương cung, kẻ hèn này xin được phép dẫn ngài qua đó.”

Khuất Đoan hãi hùng khiếp vía hỏi: “Không biết vị đại phu này cao danh quý tánh là gì ?”

“Kẻ hèn này là tư khấu nước Ngô Xích Trung, khụ khụ khụ… , thật đáng trách, gần đây… gần đây ta chỉ bị cảm nhiễm phong hàn, không có gì đáng ngại cả.”

Khuất Đoan vừa nghe xong có cảm giác như bị ác quỷ bắt mất hồn phách, sao dám theo hắn đi chứ, vội vàng nói với Khánh Kỵ: “Đại vương ta rất bận tâm đối với những thế khanh công tộc đang bị giam giữ tại nước Ngô, Khuất Đoan thân là thần tử, theo lý phải biết lo nỗi lo của vua. Nếu các công khanh nước Sở ta đều đang ngụ dưới núi Cô Tô, Khuất Đoan cũng nên đến đó mà thăm viếng họ, cùng họ đồng cam cộng khổ, dịch quán trong thành Khuất Nguyên sẽ không ở nữa, chỉ cần sắp xếp cho Khuất Đoan một chỗ ở dưới núi Cô Tô là được.”

Xích Trung vừa nghe đã vội nói: “Khụ khụ khụ…, nếu đã vậy, thì Xích Trung đành cùng đi với đại phu xuống núi Cô Tô vậy.”

Thái Nghĩa cười nói: “Xích Trung tướng quân đã cảm nhiễm phong hàn, hay là cứ về phủ nghỉ ngơi cho tốt. Khuất đại phu là do hạ quan và tướng quốc đại nhân tiếp đón, thì cũng nên do chúng ta tiễn ngài xuống núi Cô Tô vậy mới hợp đạo lý.”

Khuất Đoan nghe xong, không kềm được nhìn hắn với ánh mắt cảm kích.

Trong quân doanh dưới núi Cô Tô, những người Sở quyền quý bị giam giữ ở nước Ngô hiện đang tạm cư ngụ ở đây. Thận phận hiện giờ của họ không còn là con tin nước Sở nữa, mà là khách quý nước Sở, cho nên rất tự do tự tại. Nhưng khi họ di cư ra khỏi thành chưa bao lâu, đã nghe tin trong thành Cô Tô có ôn dịch, nên ở đây cũng bắt đầu thấy căng thẳng, tuy không phải lo chuyện cơm áo, nhưng nhất cử nhất động cũng chịu sự quản thúc.

Ngô vương Khánh Kỵ cũng rất chăm lo cho họ. Để đề phòng bất trắc, hắn đã sớm phái thái y trong cung đến đây để chăm sóc cho họ, mỗi ngày đều sắc thuốc phòng dịch cho họ uống. Những thảo dược dùng để sắc thuốc cũng chẳng biết là dùng loại thảo dược nào, lúc không uống thì vẫn còn khoẻ, một khi đã uống vào rồi, thì trong bụng cồn cào như biển dậy sóng, những lão đại nhân trước nay đều ăn ngon mặc đẹp đành bịt mũi uống hết chén thuốc, không được bao lâu thì đã nôn lên nôn xuống, họ vốn dĩ mặt mày hồng hào, bụng béo phệ, còn nay thì ai ai cũng mặt mày trắng bệch, ốm đi rất nhiều.

Nhưng từ khi uống thuốc này rồi, trong lòng họ trở nên thực tế hơn nhiều, bằng không thì cứ ngày nào cũng nghe trong thành hôm nay chết bao nhiêu người, ngày mai nhà ai chết không còn một mạng, thì trong lòng đã hãi hùng khiếp vía, ăn ngủ không yên rồi, nhất là vào hai hôm trước trong doanh trại quả nhiên có một binh sĩ bị nhiễm ôn dịch mà chết. Mỗi người họ đều tự nhốt mình trong ngôi nhà lá của mình, ngay cả mở cửa tán gẫu cũng đã ít hơn trước.

Trên núi này muỗi và côn trùng nhiều vô kể, cũng chẳng biết là do những người quyền quý nước Sở này do thuỷ thổ không hạp, hay là muỗi của nước Ngô lợi hại hơn muỗi của nước Sở, chỉ cần bị cắn một nhát, vết cắn đó sẽ đỏ và sưng lên cỡ nắm đấm bàn tay, vừa sưng vừa ngứa, gãi đến nỗi vỡ ra thì sẽ chảy máu, dăm bữa nửa tháng cũng chưa thấy khỏi. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Họ đòi người Ngô cho họ loại nhang thượng hạng, lại nghe nói Phù Sai trước khi chết đã đốt hết toàn bộ tàng bảo khố của Ngô cung, đến ngay cả Ngô vương Khánh Kỵ hiện đang dùng cũng chỉ là loại nhang Ngãi Cao mà thôi. Họ chỉ đành nhập gia tuỳ tục, hằng ngày ở trong phòng đốt nhang Ngãi Cao mà đuổi muỗi. Lúc đầu thấy mùi khói khó chịu, lâu dần lại không còn nghe mùi nữa, thế là lại tiếp tục ung dung tự tại.

Khuất Đoan được tướng quốc Tôn Vũ và hành nhân Thái Nghĩa đưa đến bên dưới núi Cô Tô, cái nơi mà Khánh Kỵ đại vương gọi là non xanh nước biếc, không khí trong lành này, chỉ thấy ở đấy có từng dãy nhà gỗ, khói bay mù mịt, thấp thoáng trong đó là những ngôi nhà gỗ, trông như một chiếc lư hương khổng lồ. Một mùi hương khó ngửi của cây Ngải bị đốt, xen lẫn trong đó còn có mùi của các loại thảo dược khi được đun nấu, khói nhiều đến độ người cũng không thở nổi, chung quanh có rất nhiều binh sĩ đi tuần đều dùng khăn ướt mà che miệng lại. Trước tình cảnh này thì, dường như bệnh ôn dịch đang hoành hành trên núi, và sớm biến bệnh tình nơi đây nghiêm trọng gấp trăm lần so với bên trong thành.

Khuất Đoan nhìn thấy tình cảnh này sắc mặt hắn có chút thay đổi, chân hắn chần chừ không muốn bước tiếp, Thái Nghĩa biết tâm ý của hắn, vội nói: “Khuất đại phu yên tâm, đại vương ta rất coi trọng những quý nhân nước Sở này, chăm sóc họ vô cùng chu đáo, những người quyền quý của quý quốc chưa từng có ai bị bệnh cả, sắc những thảo dược này, chẳng qua là phòng bệnh mà thôi.”

Vừa nói dứt lời, một tên binh sĩ mặt bịt khăn ướt chỉ còn lộ ra đôi mắt, tay bưng một chén thuốc còn bốc khói nghi ngút chạy đến: “Xin quý Sứ hãy uống chén thuốc phòng bệnh dịch này.”

Khuất Đoan đón lấy chén thuốc, nhìn Tôn Vũ và Thái Nghĩa, nghi ngờ hỏi: “Hai ngươi…”

Hai người họ cười thân mật với hắn, đồng thanh đáp: “Khuất đại phu cứ việc dùng, hôm nay chúng tôi đã dùng thuốc rồi.”

Trong Vương cung Cô Tô, khi Khuất Đoan vừa đi khỏi, Khánh Kỵ bèn ha ha cười lớn, màn kịch để trêu đùa Khuất Đoan hôm nay rất ư là thú vị, ngay cả một người gần đây suốt ngày lo buồn về quốc sự như hắn cũng không kềm được vui mừng.

Chúc Dung buồn rầu nói: “Đại vương làm như vậy, thật là thiếu nghiêm túc, năm xưa Tề Khoảnh Công trêu chọc sứ giả bốn nước, dẫn đến đại họa vào thân, đã có vết xe đổ ở phía trước, sao chúng ta lại có thể tiếp tục dẫm vào chứ.”

Chuyện mà hắn nói đến chính là chuyện Tề Khoảnh Công đã trêu chọc sứ giả các nước vào hơn một trăm năm trước. Lúc đó nước Tấn mất ngôi vị bá chủ, và người thay thế ngôi vị đó là Sở Trang Vương cũng vừa mới băng hà, ngôi vị bá chủ ở Trung Nguyên tạm thời bị bỏ trống, Tề Hoàn Công đã từng mang danh Trung Nguyên đệ nhất bá chủ có người cháu là Tề Khoảnh Công, là vua một nước mạnh, nên hắn có chút khinh thường các chư hầu trong thiên hạ.

Đương thời Tấn, Lỗ, Vệ, Tào bốn nước cửa sứ giả đến thăm viếng nước Tề, điều trùng hợp là trọng thần của cả bốn nước cử đến có tật, trung quân thống soái chấp chính nước Tấn là Khắc lại bị chột một mắt; Thượng khanh nước Lỗ Quý Tôn Hành Phụ là một tên hói đầu; Thượng khanh nước Vệ Tôn Lương Phu lại bị què; Công tử Cơ nước Tào là tên lưng gù. Thế là Tề Khoảnh Công bèn nổi tính trẻ con, phái những Hành Nhân đi đón tiếp họ lên điện diện kiến vua cũng là những người có tật chột mắt, hói đầu, què và lưng gù.

Nếu chỉ có một người trùng hợp thì thôi, nhưng những Hành Nhân đi đón sứ giả bốn nước đều có những khiếm khuyết giống họ, rõ ràng là muốn trêu chọc họ, khiến sứ giả của bốn nước nộ khí xung thiên, do đó đối với nước Tề luôn canh cánh mối hận trong lòng. Hai năm sau, Tề Tấn lại khai chiến như cũ, chấp chính nước Tấn là Khắc đã đích thân dẫn tám trăm chiếc chiến xa, cùng những nước Lỗ, Vệ, Tào đã từng chịu sự sỉ nhục, hợp thành “liên quân tứ quốc” giận giữ kéo đến, nước Tề đại bại, bản thân Tề Khoảnh Công cũng suýt tí nữa bị bắt làm tù binh.

Khánh Kỵ cũng biết câu chuyện lịch sử này, bèn cười nói với chúc Dung: “Tư Không không cần lo lắng, tình hình hôm nay của quả nhân khác xa với cái thời của Tề Khoảnh Công, Tề Khoảnh Công vì ham vui nhất thời, muốn trêu trọc thì trêu chọc, lợi bất cập hại. Quả Nhân lại không như thế, vì tiền đồ của nước Ngô, có một số thủ đoạn, đến lúc cần dùng thì vẫn phải dùng đến thôi.”

Chúc Dung còn muốn tiếp tục khuyên nhũ, Yểm Dư e sợ hắn khiến Khánh Kỵ không vui, vội nói: “ Khuất Đoan đã đi đến núi Cô Tô, tin rằng vài tiếng ho của Xích Trung đại nhân, đã dọa cho hắn sợ không dám quay lại vương thành nữa. Vì ứng phó với tên sứ giả nước Sở này, chúng ta cũng đã trễ nãi không ít việc, nếu không còn việc gì khác, đại vương cũng nên thoái triều, để cho quần thần tiếp tục hoàn thành chức trách.”

Khánh Kỵ khẽ gật đầu, thái giám ngự tiền được hắn ra hiệu, bèn đứng ngay trước bệ đang chuẩn bị cao giọng tuyên bố thoái triều, bỗng có một thị vệ vội vội vàng vàng lên điện, chạy lên phái trước vái lạy: “Khải bẩm đại vương, đoàn xe ngựa của thượng tướng quân Kinh Lâm hộ tống thái tử nước Việt đã đi đến Xà Môn.”

Khánh Kỵ vừa quay người để đi ra bức bình phong phía sau vương tọa, vừa nghe những lời này hắn lập tức dừng bước, đôi mắt híp lại, giọng trầm trầm hỏi: “Ngươi nói.. câu Tiễn đã đến à ?”

Chương 245 

Mỗi người một âm mưu

Nhóm dịch: huntercd

Nguồn: vipvandan

Câu Tiễn, tuy đã nghe danh từ lâu, nhưng trước nay vẫn không được một Khánh Kỵ bận rộn phục quốc này liệt vào hàng đối thủ. Hắn và tên danh nhân lịch sử này chỉ là gấp gáp gặp mặt nhau một lần, thậm chí đến ngay cả một câu đối đáp với hắn cũng chưa kịp nói, thì đã chịu một kiếm của hắn, hiểm đến nỗi suýt mất cả mạng, và con người này, lại sắp xuất hiện ngay trước mặt hắn. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Khánh Kỵ biết rất rõ, thực lực của Câu Tiễn và nước Việt chưa từng vượt trên nước Ngô, mặc dù theo như lịch sử ghi lại, nước Ngô đã bại dưới tay hắn. Hắn đã dùng hai mươi năm để bồi dưỡng và phát triển, đã dùng hai mươi năm để ủng hộ và mê hoặc Phù Sai đi khai chiến khắp nơi, làm tiêu hao sức nước, sau cùng vẫn là dùng kế điệu hổ ly sơn và tập kích Cô Tô mới có thể một bước quyết định thắng bại.

Giá như năm xưa Phù Sai không kéo hàng vạn binh tinh nhuệ đến Hoàng Trì để tranh đoạt bá chủ thiên hạ; Giá như Câu Tiễn không nhờ mưu kế mà tập kích chiếm lĩnh Cô Tô; Giá như Phù Sai khi phóng thích cho Câu Tiễn về nước, có thể như các quân vương khác ràng buộc khống chế nước lệ thuộc, từ đầu đến cuối có thể khống chế quân sự và ngoại giao của nước Việt trong tay, vậy thì cho dù Câu Tiễn có tiếp tục nhẫn nhịn, cho dù có những hiền thần Phạm Lãi và Văn Chủng giúp hắn bày mưu tính kế, thì nước Việt vẫn chẳng làm gì được nước Ngô. Ngay từ vị trí địa lý của nước Việt, ông trời cũng đã sớm hạn chế sự phát triển sức nước của nó, cho dù có quân thần Tôn Vũ dưới trướng của hắn chăng nữa, và chỉ cần Phù Sai không ra hôn chiêu, hắn cũng chẳng nghịch được ý trời.

Tất cả, chỉ là giá như, nay đối thủ của hắn không còn là Phù Sai nữa, mà là ta. Cứ cho rằng Câu Tiễn nếm mật nằm gai ngay từ cái ngày mà hắn mới được sinh ra, còn có tác dụng gì nữa chứ ? Mép môi Khánh Kỵ nhếch lên mang theo đó là một nụ cười lạnh lùng…

Khi Câu Tiễn lên điện, nhìn thấy bộ dạng này của Khánh Kỵ. Hắn ngồi trên ngai vàng, mình mặc vương bào, hàng rèm châu của vương niệm rũ xuống đến tận môi trên, phần môi trên có lông tơ, ẩn hiện nụ cười lạnh lùng, có khí phách oai nghiêm nhưng lại không có vẻ giận dữ. Câu Tiễn đứng trước mặt hắn, mình mặc một chiếc áo dày, đầu đội ngọc quán, tay áo phất phơ, cũng có sự oai nghiêm của kẻ đã từng ngồi ở địa vị cao lâu ngày. Thần sắc lại mờ mờ ảo ảo lộ ra một chút nham hiểm.

“Đông Hải tội thần Câu Tiễn, tội đáng chết vạn lần, xin bái kiến đại vương bệ hạ.”

Câu Tiễn nói xong bèn cất bước tiến lên trước, thi lễ vái lạy Khánh Kỵ một cách long trọng nhất. Quân thần trong thời này, trừ phi vào những dịp đại lễ long trọng, bằng không thì khi gặp quân vương chỉ cần vái một vái, và không nhất thiết phải hành lễ quỳ bái. Nước Việt trên danh nghĩa là nước lệ thuộc vào nước Ngô, Câu Tiễn thân là thái tử của ngoại thần, càng nên được nước Ngô đối đãi rộng lượng hơn, hắn không cần thiết hành đại lễ này, với việc hành lễ của Câu Tiễn, chúng thần hai bên ở trên điện vốn thờ ơ lạnh nhạt liền có chút xôn xao, thái độ thù địch đối với hắn cũng đã giảm đi nhiều.

Trong mắt Khánh Kỵ lộ ra một chút hài lòng, so với những hành vi mà Câu Tiễn đã từng làm đối với Phù Sai, và những hành vi ngày hôm nay của Câu Tiễn cũng chỉ là những điều nhỏ nhặt mà thôi. Đương nhiên, Câu Tiễn lúc đó có nỗi đau mất nước, Phù Sai có mối thù mất cha, đối lập giữa hai bên cũng thêm sâu đậm. Do đó Câu Tiễn không thể không làm quá hơn nữa, để có thể lấy được lòng tin của Phù Sai.

Ánh mắt của Khánh Kỵ ẩn sau bức rèm châu, chăm chú nhìn nhất cử nhất động của Câu Tiễn. Đối với hạng người như Câu Tiễn, hắn không dám có chút xem thường. Công bằng mà nói, về phương diện trị quốc, Phạm Lãi và Văn Chủng đích thực là nhân tài bậc nhất, nhưng về phương diện chính trị, mưu kế, họ chẳng thể nào làm nổi thầy của Câu Tiễn, mà có làm một học sinh cũng e là theo không kịp hắn. Câu Tiễn đến nước Ngô làm con tin ba năm, Phạm Lãi cũng đi theo hầu hạ hắn. Thân là thần tử, hắn có thể khuyên đại vương nhẫn nhịn, nhưng những kiến nghị để đại vương hiến Vương Hậu cho Phù Sai hưởng lạc, và nếm phân cho Phù Sai để làm hắn vui lòng này không thể xuất phát từ miệng của Phạm Lãi, mà nhất định là chủ ý của Câu Tiễn. Câu Tiễn ở nước Ngô ba năm, Văn Chủng thay hắn lo cho nước Việt, gần hai mươi năm kể từ khi hắn về nước, lại là Phạm Lãi, Văn Chủng lo liệu mọi việc trong nước cho hắn, nhưng một khi phạt Ngô thành công, Câu Tiễn muốn giết họ chỉ cần cho người mang đến một thanh bảo kiếm lệnh cho họ tự sát, hoàn toàn không lo lắng rằng có những lực lượng trung thành với họ sẽ tạo phản, hoặc giả có vị đại thần nào đó sẽ phản đối. Có thể thấy rằng từ đầu chí cuối hắn đều nắm chặt quân quyền và chính quyền trong tay, người như hắn, tuyệt đối không phải tầm thường. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

“Câu Tiễn !” Khánh Kỵ lên tiếng, trên đại điện yên lặng đến độ một cây kim rơi xuống cũng có thể nghe được rõ ràng, giọng nói sang sảng của Khánh Kỵ âm vang khắp mọi ngóc ngách.

Câu Tiễn lại cúi vái một vái, đầu lại thấp hơn vài phân: “Có tội thần.”

“Ngươi có tội gì ?”

“Tội của thần, có ba tội.”

“Nói thử ta nghe xem.”

“Thần thân là hạ quốc thái tử, nên phụng dưỡng hầu hạ Ngô Vương bệ hạ, thế mà lại không biết thời thế, bị nghịch thần nước Ngô lừa gạt, nên đã dám làm cờ hiệu cần vương, kéo quân đến biên giới, đối địch với vương sư. Đó là tội thứ nhất.” Câu Tiễn ngay thẳng mà nói. Quần thần hai bên lắng nghe, và cũng không ngừng quan sát sắc mặt của Khánh Kỵ. Tấm rèm châu đã che đi khuôn mặt của hắn. Bức rèm châu trĩu xuống từ vương niệm không hề lay động, cũng không thể thấy rõ sắc mặt của Khánh Kỵ

“Trận chiến ở Ô Trình, Câu Tiễn và Phù Sai liên thủ, đã dẫn một đội võ sĩ bao vây đại vương, nhân lúc địa vương lực còn suy yếu. Điều may mắn là chỉ khiến đại vương bị thương. Đấy là tội dĩ hạ phạm thượng, và cũng là tội thứ hai.”

Khánh Kỵ nghe từng từ hắn nói, đúng là ỷ đông hiếp cô, ỷ vào việc có mặt nhiều người mới nói là may mắn chỉ khiến ta bị thương, giữ thể diện cho ta, không kềm được hắn cười ha ha: “Lúc đó Phù Sai mới là chủ của nước Ngô, ngươi trợ giúp hắn, âu cũng hợp tình hợp lý. Quả nhân bị thương cũng đã bị rồi, không cần dùng lời hay mà che giấu.”

“Vâng vâng, tội thần đa tạ đại vương đã rộng lòng khoan dung. Đại vương nhập chủ Ngô cung cho đến nay, tội thần một là không kịp thời đến triều kiến, hai là không vào Ngô để thỉnh tội, thật không biết tự lượng sức mình, lúc nào cũng nghĩ mình gặp may, cho đến khi đại quân của đại vương kéo đến sát biên giới, trong lúc đó, mới bàng hoàng kinh sợ, mà đến yết kiến đại vương, đây là tội thứ ba.”

Sắc mặt Khánh Kỵ lạnh lùng, trầm giọng hô to: “Câu Tiễn, ngươi đã biết có tội, lại còn dám đến triều tấn kiến, không sợ quả nhân sẽ giết ngươi sao ?”

Câu Tiễn sắc mặt không đổi, cúi đầu than thở đáp: “Câu Tiễn tự biết thân mang tội chết, nay tội thần đáng chết vạn lần xin được quỳ dưới chân đại vương, cam chịu mọi trừng phạt của đại vương. Câu Tiễn chết không đáng tiếc, chỉ cầu mong cho đại vương, khoan dung độ lượng đối với người Việt, cho dù thần có chết chín lần, cũng sẽ ngậm cười nơi cửu tuyền.”

Câu Tiễn nói xong ung dung ngẩng đầu lên, rút cây ngọc trâm, cởi bỏ ngọc quán, sau đó cởi cả áo bào, chỉ còn mặc một chiếc áo bằng vải bố. Cởi bỏ xiêm y xoã tóc, trông hình dạng như một phạm nhân, rồi lại tiếp tục quỳ lạy.

Trong nhất thời, trên đại điện im ắng vô cùng, chỉ nghe những tiếng thở nặng nề. Khánh Kỵ ngồi yên không động đậy, đôi mắt khẽ trĩu xuống, chăm chú nhìn tên Câu Tiễn đang quỳ mọp dưới đất không dậy.

Tôn Vũ thân là đứng đầu văn thần, đứng bên phải trên cùng, con ngươi hắn chuyển động, ra hiệu cho Anh Đào đứng ở đối diện, Anh Đào từ sớm đã nóng lòng muốn nói, nên khi thấy hắn ra hiệu, lập tức bước lên tâu: “Khải bẩm đại vương, Câu Tiễn đã trợ giúp Phù Sai, Phù Khái, trước là đối địch với đại vương, sau là gây nên vết thương chí mạng cho đại vương ta, nay tuy đã đến thỉnh tội, nhưng tội không thể dung, theo lý nên xử trảm, để lấy đó mà làm tấm gương xấu.”

Đôi mắt Khánh Kỵ có sự vui mừng liếc nhìn hắn, vui vẻ nghĩ: “Tên ranh này, muốn học theo Ngũ Tử Tư sao, may là quả nhân không phải Phù Sai, nhắc đến Phù Sai… đúng rồi, tên Tiểu nha đầu Thi Di Quang bây giờ cũng không biết thế nào rồi, lịch sử đã có biến đổi, Câu Tiễn chắc sẽ không đưa nàng ấy đến nước Ngô ? Tiểu nha đầu này, đúng là mỹ nhân trời sinh, chỉ là tuổi tác có hơi nhỏ. Cho dù muốn dùng mỹ nhân kế, cũng phải mất năm hay sáu năm nữa, mà lại chẳng biết lúc này tiểu nha đầu đó đang ẩn thân nơi đâu…, Quả nhân đã phí nhiều công sức, cũng không tìm ra được, cũng chẳng biết cả nhà họ Thi ấy thế nào rồi…”

Khánh Kỵ nhất thời thất thần, tâm tư không biết đã bay bổng đến nơi nào, chúng thần trên đại điện đều đang chăm chú nhìn sắc mặt của Khánh Kỵ, nay tâm phúc trọng thần của hắn là Anh Đào, đã ra mặt xin được xử tử Câu Tiễn, Khánh Kỵ lại im lặng không nói không rằng, trên điện lúc này có nhiều đại thần tự cho rằng đã đoán được tâm ý của Khánh Kỵ, nghĩ rằng hắn không muốn giết Câu Tiễn, để lại tiếp tục gây chiến với nước Việt. Thế là Phù Công đại phu lập tức giành trước tiến lên một bước, chấp tay nói: “Đại vương, người xưa có câu, chu hàng sát phục, hoạ đến tam kiếp. Nay Câu Tiễn với danh nghĩa là thái tử nước Việt đã trút bỏ xiêm y, cởi bỏ ngọc quán mà thỉnh tội, tuy là có tội, nhưng tội không đáng chết, đại vương hồng ân, hà cớ không tha hắn một mạng, như vậy người Việt sẽ càng cảm kích trước ơn đức của đại vương, thuận lòng quy phục, và cũng là thể hiện oai nghiêm của đại vương ta.”

Khánh Kỵ nhẹ nhàng đưa tay, về phía không trung, Phu Công lập tức im lặng, Khánh Kỵ phẩy nhẹ tay, Anh Đào và Phu Công đều lui về vị trí cũ, Khánh Kỵ từ từ bỏ tay xuống, nhè nhẹ gác tay trên tay vịn của vương toạ, rồi lại nhẹ nhàng nắm chặt lại. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

“Nước Việt, sớm muộn gì ta cũng sẽ đánh. Muốn được thiên hạ, thì cần ổn định hậu phương trước, nước Việt là con rắn độc trong bụng ta, nhất định phải trừ khử. Nhưng đây có phải là thời cơ thích hợp mà dụng binh với nước Việt không ? Hạng người như Câu Tiễn, bây giờ giết hay không giết ? Nếu muốn trừ khử hắn, cũng không có gì trở ngại. Dù cho công khai giết hắn không thành, chỉ cần giam lỏng hắn ở nước Ngô, để tìm một cơ hội cho hắn bệnh chết cũng có thể được. Chỉ là… nếu như vậy, chẳng qua cũng chỉ là lấy vải thưa mà che mắt thánh. Việt vương Doãn Thường sẽ cứ bất chấp tất cả mà tạo phản.

Vấn đề lương thực của mùa thu năm nay và mùa xuân sang năm vẫn chưa được giải quyết, trong nước đang cần bỗi dưỡng phát triển. Nước Sở là bạn hay thù trong nhất thời vẫn chưa biết được, vấn đề Đông Di cũng nên nhân lúc có áp lực của người Tề đang xâm lược phía nam mà sớm giải quyết, lúc này nếu khai chiến với nước Việt, thì sẽ ra sao ? Với sức của nước Ngô, đánh trận này chẳng thành vấn đề, vấn đề là làm sao thu xếp tàn cuộc.

Với sức mạnh trước mắt của ta, chỉ có thể đánh bại nước Việt chứ không đủ sức giành được nước Việt, một khi Doãn Thường dẫn quân chạy vào trong núi sâu đánh du kích với ta, có thể ta sẽ giống như quân Mỹ đã lún sâu vào vũng lầy chiến tranh Việt Nam, vấn đề là hiện nay quốc nội chưa ổn định, thiên hạ vẫn còn loạn, cũng không có tài lực phong phú như những nước khác, một khi đã lún vào chiến trường của nước Việt, ta có thể đánh nổi, nhưng lại không chi tiêu nổi.

Hơn nữa, thế giới ngày nay, đạo nghĩa vẫn rất được xem trọng, có nhiều lúc nó quả thật có thể làm xuất hiện những sức mạnh to lớn. Hơn trăm năm trước, binh lực của Tấn Huệ Công nhiều hơn gấp đôi so với binh lực của nước Tần, kết quả lại bị thua tả tơi hoa lá trong tay của nước Tần, chính là do hắn nói không giữ lời, nói nhưng không nói, thế là tam quân của hắn ngại ngùng khi giao đấu với nước Tần. Nay ta muốn làm nước Ngô giàu mạnh, ngoại trừ không ngừng tăng cường thực lực bản thân, cũng cần tạo dựng hình tượng của nước Ngô trong mắt các nước chư hầu khác.

Câu Tiễn đã đánh trống khua chiêng vào nước Ngô, đã bày ra màn kịch này, cho dù lúc trước hắn có bao nhiêu tội, nhưng nay về mặt đạo nghĩa hắn đã nắm chắc trong tay, nếu ta tuỳ tiện giết hắn thì các nước chư hầu sẽ xem ta như thế nào ? Huống chi âm mưu nguy hiểm vạn phần này, năm xưa mượn miệng của Bá mà hắn dựng Hạp Lư di mệnh cờ hiệu, thế thì hắn không những không tạo phản, mà ngược lại là trung thần của nước Ngô, cả thiên hạ đều cho rằng nước Việt nhỏ bé, không chịu nổi một đợt tấn công của nước Ngô, Câu Tiễn lại chơi thêm khổ nhục kế, nếu thật giết hắn thì sao ? Chỉ riêng nước bọt người đời thôi cũng đủ dìm chết người, thật khốn khiếp, quả là chó cắn phải nhím, không biết nên bắt đầu từ đâu.

Khánh Kỵ trầm ngâm hồi lâu, chậm rãi nói: “Câu Tiễn.”

“Có tội thần !”

“Nếu ngươi đã đến thỉnh tội, cớ sao không bắt nghịch thần Bá đến gặp quả nhân ?”

“Đại vương, Bá đã đến rồi.”

“Ồ, thế hắn đâu ?”

“Hồi bẩm đại vương, Bá đã chết, tội thần đã mang đến thủ cấp của hắn, vì sợ thối rửa, nên đã dùng vôi bọc lại, cất giữ trong hộp, nay thủ cấp đang ở ngoài điện, đại vương có thể cho người kiểm tra.”

Trong điện lập tức nhốn nháo cả lên, Khánh Kỵ khẽ khép đôi mắt lại, hỏi: “Ngươi đã giết hắn ?”

Câu Tiễn cúi thấp đầu xuống, cao giọng đáp: “Tội thần không dám, Bá sau khi say rượu đã lỡ lời, nói ra chân tướng, tội thần một lòng muốn bắt Bá đến thỉnh tội với đại vương. Không ngờ, Bá tự biết tội nghiệt nặng nề, sợ phải chịu hình phạt cắt da xẻ thịt, nên đã nhân lúc mọi người chưa kịp chuẩn bị đã tự vẫn mà chết, thần không còn cách nào khác, đành mang thủ cấp của hắn đến thỉnh tội với đại vương.”

Khánh Kỵ ngớ người ra, dần dần cười lớn: “Tự vẫn ? Chết hay lắm ! Chết rất hay ! ha ha ha…”

Khánh Kỵ đứng hẳn dậy, từng bước bước xuống bậc tam cấp. Câu Tiễn đang quỳ mọp bên dưới, chỉ đành lê gối mà lui xuống, Khánh Kỵ dừng lại, hắn lại vội vàng cúi thân thấp xuống, trán hắn chạm vào mũi hài của Khánh Kỵ. Khánh Kỵ cúi thấp đầu, nhìn chiếc cổ dài của hắn, dường như có cảm giác chán ghét.

Phù Sai tuy tàn bạo, nhưng trong lòng Khánh Kỵ vẫn là một đại trượng phu. Còn tên Câu Tiễn này, hễ gặp hắn, là Khánh Kỵ có cảm giác như gặp phải rắn độc, một sinh vật thân mềm bò sát, ướt át, loè loẹt sặc sỡ nhưng độc ác. Còn cái gọi là đại trượng phu ? Cho dù có bất chấp thủ đoạn hơn nữa, mất nguyên tắc làm người thế nào đi chăng nữa, chỉ cần hắn thực hiện được việc báo thù, vậy cũng được coi là đại trượng phu sao ?

Không sai, đại trượng phu mà muốn sống trong đời này là phải lập nên sự nghiệp, nhưng điều đó không có nghĩa là sự nghiệp cao hơn tất cả, thâm chí cao hơn cả tình thân, tôn nghiêm và nhân cách con người. Nếu phải hy sinh tất cả những thứ đó, để tự biến mình thành một con dã thú không có gì là không bỏ qua.

Vì đạt được mục đích, bất chấp thủ đoạn, hoặc giả cũng là triết lý nhân sinh của một số người thành công. Nhưng, tất cả những gì đạt được đều có cái giá của nó, đó là logic của cuộc sống. Một người vô tình vô nghĩa, ngoại trừ cái gọi là thành tựu của hắn, hắn còn có gì nữa chứ ?

Khánh Kỵ cười, nụ cười có vẻ tàn nhẫn. Tiếc là tên Câu Tiễn đang quỳ dưới chân hắn lại không nhìn thấy vẻ sắc bén trong ánh mắt của hắn: “Bỉ ổi là giấy thông thành cho những kẻ bỉ ổi, cao thượng là những gì được khắc trên mộ của những kẻ cao thượng à ? Thế sự không có gì là tuyệt đối ! Cho dù ngươi không tiếc bỏ cả tự tôn và nhân cách để mưu cầu được chút thành tựu, ta cũng sẽ đoạt lấy nó từ trong tay ngươi. Khánh Kỵ không phải là Phù Sai, ta sẽ không để cho tiểu nhân đắc ý, đến cùng người sẽ không làm nên chuyện gì cả !”

Khánh Kỵ nhìn Câu Tiễn, Câu Tiễn trong lòng lo ngay ngáy, qua hồi lâu, Khánh Kỵ mới thản nhiên cười: “Câu Tiễn, ngươi đứng dậy, nếu chỉ có mình người, thì chết không đáng tiếc. Quả nhân niệm tình hàng ngàn hàng vạn bá tánh hai nước Ngô Việt, miễn cho ngươi tội chết.”

Câu Tiễn len lén thở dài nhẹ nhõm, vội vàng tạ ân nói: “Tội thần được hậu ân của đại vương, mới bảo toàn mạng hèn này, thần thật đáng hổ thẹn. Tội thần Câu Tiễn xin dập đầu tạ ơn.” Nói xong lại dập đầu ba cái, rồi mới đứng dậy.

Nụ cười trên mặt Khánh Kỵ vụt tắt, trầm giọng nói: “Nhưng… tội chết có thể miễn, tội sống khó tha. Ngươi nhân lúc quả nhân trong nước có loạn, ngang nhiên chấn hưng quân ngũ, giết bá tánh và binh sĩ ta, tội này há có thể xem nhẹ sao ? Nay lo sợ trước quân uy, lại đến xin hàng, quả nhân nếu cứ thế thả ngươi về nước, há chẳng phải là phi nhân nghĩa ân đức với nước ta, mà còn bạc đãi các con dân tướng sĩ nước Ngô ta sao.

Câu Tiễn không dám ngẩng đầu, vội vàng khom lưng, thấp giọng nói: “Tội thần xin được nghe đại vương căn dặn.”

Khánh Kỵ nhè nhẹ gật đầu, rồi đột nhiên xoay người, từng bước bước lên bậc tam cấp, đến trước vương tọa bèn quay người ngồi xuống, bức rèm châu trước mặt lạo xạo vang lên rồi lại thôi, lại tiếp tục đung đưa nhè nhẹ.

“Nước Ngô và nước Sở do tranh nhau rừng dâu mà nổi chiến tranh, chinh chiến nhiều năm nay, không hề ngơi nghỉ. Từ khi Công Tử Quang giết vua soán vị, lại thêm loạn trong nước, chiến sự liên miên, đến nay mới dứt, bá tánh lưu lạc khắp nơi, ruộng đất bỏ hoang, người dân không có kế sinh nhai. Còn nước Việt ngươi thừa cơ gặp nạn mà đi cướp bóc, tội này không nhẹ, nay chỉ có thể lấy công chuộc tội, lại có thể tránh nạn binh đao.”

Câu Tiễn cúi đầu đáp: “Không biết đại vương có căn dặn gì, nếu trong khả năng của tội thần, thần quyết không chối từ.”

Khánh Kỵ chớp mắt, nói: “Nay người Ngô vì chiến loạn liên miên, không có người trồng trọt, ngũ cốc năm nay không đủ, thu năm nay và xuân sang năm, đã có dấu hiệu thiếu lương thực, vạn dân chịu đói. Nước Việt là thuộc quốc của ta, lại đang mang trọng tội, về tình về lý, cũng nên ra tay trợ giúp. Quả nhân muốn mượn của ngươi vạn thạch lương, ngày sau khi lương thực nước Ngô đã đầy đủ sẽ trả lại cho ngươi, ngươi thấy thế nào ?”

Câu Tiễn kinh ngạc, hoảng hốt nói: “Đại vương có lệnh, tội thần không dám không tuân theo, có điều… có điều là vạn thạch lương thảo, nước Việt ta nghèo nàn, nên chẳng biết xoay sở từ đâu, tội thần không dám vì cầu được miễn xá, mà tùy tiện hứa với đại vương, để rồi lại phạm tội khi quân. Người Việt nghèo khổ, trong dân gian còn có nhiều bá tánh không lo nổi cơm ăn áo mặc, vạn thạch lương thảo, thật là… thật là nước Việt không đảm đương nổi, xin đại vương khai ân.”

Khánh Kỵ cười ha ha nói: “Muốn lấy những lời trống rỗng này mà lừa dối quả nhân sao ? Nước Việt nghèo khổ à ? Nước Việt là nước giàu nhất trong thiên hạ, trong dân gian vẫn có bá tánh không lo nổi cơm ăn áo mặc và lưu lạc khắp nơi sao. Dân tuy nghèo khó, nhưng nước Việt mấy năm nay đều an phận ở phía Đông Nam, có nước Ngô ta là bức bình phong để bảo vệ, rất ít có chiến loạn phân tranh, chỉ là một ít lương thảo, chẳng lẽ phủ khố nước Việt cũng chẳng lo nổi sao ?”

Câu Tiễn lại bái, nài nỉ cầu xin, lại than vãn kể khổ, Khánh Kỵ đã không tiện ra mặt, Tôn Vũ từ sớm đã bước ra cùng hắn đấu võ mồm, Khánh Kỵ ngồi ở trên nhìn hai người họ thao thao bất tuyệt, đại khái là nói quốc dân của nước mình nghèo khổ ra sao, khốn khó ra sao, đều mang bộ dạng “ai thảm hơn ta”, khiến mọi người không nhịn được cười.

Trải qua cuộc tranh luận này, cuối cùng Câu Tiễn chống đỡ không nổi, Tôn Vũ cũng nhường một bước, sau cùng đã đạt thành thỏa thuận mượn sáu ngàn thạch lương thảo của nước Việt, Khánh Kỵ lại nói vương cung bị hỏa hoạn, tường thành bị hư hại nhiều, muốn nước Việt phải cho thợ rèn, thợ mộc, thợ đá và nhiều thợ khác, lại thêm gỗ và khoáng thạch, lao phu dân dịch, Câu Tiễn có rất nhiều gỗ, nên đã đồng ý ngay. Ghi chép trên điện từ sớm đã rồng bay phượng múa, ghi chép lại hiệp nghị, Câu Tiễn vừa gật đầu, thư ký đã viết xong khế ước, đưa ra trước mặt hắn, để hắn ký tên đóng ấn, Câu Tiễn chẳng biết làm sao, đành ký vào.

Đến khi những điều khoản này đã được bàn bạc xong, thần sắc Khánh Kỵ hòa nhã hơn nhiều, nói với Câu Tiễn: “Những tội danh người vừa nêu, ngươi đã dám thừa nhận, đủ thấy có lòng thành thật hối cải. Nhưng ngươi đã giết vua đoạt ngôi mang tội dĩ hạ phạm thượng, cũng phải chịu sự trừng phạt, Huống hồ, người Việt có thật bị Bá lừa gạt, phải chăng đã không còn mưu đồ, quả nhân và các triều thần vẫn chưa hết nghi hoặc, Quả nhân muốn ngươi ở lại nước Ngô làm con tin, để tỏ rõ lòng thành, ngươi thấy thế nào ?”

Câu Tiễn nghe xong trong lòng thầm nghĩ: “Tên Khánh Kỵ này, há chẳng phải là Đệ nhất dũng sĩ nước Ngô trước giờ rất quang minh chính đại, tấm lòng trong sáng vô tư sao, sao giờ đây lại trở thành nham hiểm và tham lam thế. Trước hắn lừa ta lập khế ước, lúc này nếu rút lại, hắn bèn có cớ để phạt Việt. Đợi đến khi mọi chuyện đều ổn thỏa, còn chưa chịu ngừng tay, còn muốn bắt ta làm con tin. Lần này ở lại, khi nào được trở về e là không do ta quyết định được, đến lúc đó, ta như miếng thịt nằm trên thớt của Khánh Kỵ, muốn tròn hay muốn dẹp, chẳng phải là việc chỉ bằng một câu nói của hắn à ?”

Thời xuân thu chiến quốc này, các hoạt động bang giao giữa các nước chư hầu rất nhiều. Và trong việc kiến lập các hoạt động bang giao, chữ “Tín” là nhân tố quan trọng nhất, để đảm bảo cho việc bang giao được tiến hành thuận lợi. Giữ lại “Con tin” để làm “tín vật” là hình thức chủ yếu và đã bắt đầu xuất hiện rộng rãi. Nhất là khi có sự liên minh giao kết về vấn đề nào đó giữa hai nước thực lực không ngang nhau, nước yếu gởi con tin sang nước mạnh để được lòng tin của đối phương đã là việc thường thấy, nên điều kiện này của Khánh Kỵ là thiên kinh địa nghĩa, Câu Tiễn quả thật không thể chối từ, bằng không nước Ngô sẽ lấy cớ này chất vấn thành ý của nước Việt thậm chí là xuất binh thảo phạt, đó đều là danh chánh ngôn thuận cả.

Câu Tiễn cúi đầu chần chừ không quyết, Khánh Kỵ thấy thế bèn đốc thúc hắn, cười lạnh lùng nói: “Làm con tin ở nước Ngô, để thể hiện thành ý của nước Việt, nay ngươi cứ lưỡng lự không quyết, trừ phi trong lòng có tính toán ?”

“Tội thần không dám !” Câu Tiễn lại vội vàng quỳ mọp xuống đất, chỉ trong tích tắc đã nước mắt chảy ròng ròng, nghẹn ngào nói: “Làm con tin ở nước Ngô, có thể đích thân hầu hạ đại vương bệ hạ, được thường xuyên nghe lời chỉ dạy của đại vương, Câu Tiễn có cầu cũng không được.”

Hắn nói vài câu nịnh hót đến phát nôn, rồi lại nói tiếp: “Nhưng… Phụ thân thần đã già yếu lắm bệnh, thường hay nằm trên giường không thể ngồi dậy, Câu Tiễn thân là hài nhi của người, nếu không thể kề cận chăm sóc, sắc thuốc thử thuốc, khó tránh không làm tròn được đạo làm con. Trung hiếu không thể lưỡng toàn, Câu Tiễn cả hai bên đều khó, nên đã thất lễ trước mặt bệ hạ, khẩn xin thứ tội.”

Trong trăm việc thiện lấy chữ hiếu làm đầu, vào thời đó phụ tử là đạo của trời còn quan trọng hơn cả đạo quân thần, bằng không Khổng Khâu đã không kiến nghị nên xem đạo quân thần ngang bằng với đạo phụ tử. Câu Tiễn đã chuyển hướng đến Doãn Thường, nói phụ thân hắn bệnh nặng nằm trên giường đã lâu ngày, nếu Khánh Kỵ cứ cố giữ hắn lại không cho về nước, vậy thì có chút không hợp tình hợp lý.

Khánh Kỵ cười lạnh lùng: “Nếu nói thế, nước Việt khó có thể ở lại nước Ngô làm tin rồi ?”

Câu Tiễn khóc lóc nói: “Không phải là không thể, chỉ là thân là hài nhi, phụ thân lại lâm trọng bệnh, Câu Tiễn theo lý nên kề cận trước mặt phụ thân mà làm tròn chữ hiếu, xin đại vương ân chuẩn, giữ lại người khác làm con tin.”

Khánh Kỵ ngừng cười nói: “Làm gì có cái lý ấy, Việt Vương Doãn Thường chỉ có một thái tử là ngươi, còn có người nào có thể làm con tin chứ ? Trừ phi tùy tiện đuổi cổ một tên tôn thất tử đệ để lấy lệ với quả nhân, vậy há chẳng thành trò đùa sao ?”

Chúng thần trên điện bèn rộ lên tiếng cười châm chọc.

Câu Tiễn lau nước mắt trên mặt, lớn tiếng nói: “Tội thần nào dám trêu đùa đại vương, nếu đã làm con tin ở nước Ngô, người làm con tin đương nhiên cũng sẽ có thân phận phù hợp.”

Khánh Kỵ cười nói: “Được, nếu phụ thân ngươi đã bệnh tật liên miên, quả nhân nếu cứ cố giữ ngươi lại nước Ngô, e là không hợp tình hợp lý, nếu ngươi đã chọn được người thích hợp, quả nhân cũng không phản đối. Nhưng… nếu là công chúa của quý quốc, tuy cũng là nữ nhi của quả quân quý quốc, quả nhân xin được từ chối.”

Lời này của Khánh Kỵ có ý chê cười nước Việt mỗi khi giao hảo với quốc quân và quyền thần các nước thường dùng cách hiến tặng mỹ nữ của nước Việt, mặt Câu Tiễn đỏ gay, nói: “Nước Việt làm con tin ở nước Ngô, là bang giao đại sự, đương nhiên không dám để cho bậc nữ lưu xen vào.”

Khánh Kỵ gật đầu đáp: “Tốt, vậy thì… nước Việt sẽ để ai lại làm con tin ?”

Câu Tiễn đáp lại: “Người ở lại làm con tin đang đứng ngoài điện, xin đại vương cho phép lên điện kiến giá.”

Khánh Kỵ vô cùng kinh ngạc nhìn hắn, gật đầu nói: “Chuẩn tấu !” trong tích tắc, hai tên võ sĩ dẫn theo một người vào điện, quần thần đều hiếu kỳ nhìn về phía người ấy, chỉ thấy người này mặc một chiếc áo màu xanh bích, độ khoảng tam tuần, tướng mạo tương đối đẹp, thân hình đẫy đà, nhất định là một nữ nhi. Người nữ nhi này trong tay bồng một đứa trẻ, bụng và những nơi dễ bị tổn hại được quấn trong một chiếc lụa, chiếc chân trắng trẻo mập mạp lộ ra bên ngoài, trông như một chiếc ngó sen vậy, thật là đáng yêu.

Câu Tiễn vừa nói rằng sẽ không lấy bậc nữ lưu làm con tin, vậy thì người phụ nữ trên điện này sẽ không phải là con tin, chẳng lẽ…

Ánh mắt của mọi người đều tập trung vào đứa bé, ngay cả Khánh Kỵ khi thấy đứa bé, hai mắt cũng như nhìn thẳng tắp. Đứa bé được người phụ nữ bế trong lòng, trong miệng còn đang mút đầu ngón tay, đôi mắt đen lay láy nhìn qua nhìn lại, nhìn các văn thần võ tướng trên điện một cách hiếu kỳ, thiết nghĩ thường này cũng đã quen thấy đông người, nên không hề sợ hãi.

“Đây… đây… đây là ai ?” Khánh Kỵ chỉ vào đứa bé, bất giác có chút lắp bắp.

Câu Tiễn xúc động nói: “Đó là hài nhi của hạ thần tên Dự, Vương thái tôn nước Việt, có thể thay phụ thân ở lại nước Ngô làm tin. Câu Tiễn đối với đại vương là một lòng trung thành, xin đại vương ân chuẩn.”

Khánh Kỵ nhìn Câu Tiễn hồi lâu không nói, trong lòng lại nghĩ: con người này, quả thật có thể nhẫn nhịn những điều mà người thường không thể nhịn được, vì đạt mục đích mà bất chấp thủ đoạn, bất cứ người nào cũng có thể trở thành công cụ để hắn lợi dụng. Nếu là ta, e là cho dù tình thế có nguy hiểm hơn nữa, cũng không nỡ đem đứa bé còn nhỏ tuổi thế tặng vào tay người khác chỉ để lấy được lòng tin của người đó. Nhưng, từ cổ chí kim đế vương của các quốc gia, lại có mấy người trọng tình trọng nghĩa chớ ? Có thể tuyệt tình như Câu Tiễn, đâu chỉ có mình hắn ?

“Đến gần đây, đem đưa bé cho quả nhân.”

Người phụ nữ này thiết nghĩ là vú nuôi của đứa bé, ở nước Việt chắc bà ấy cũng đã từng gặp qua nhiều công khanh đại nhân, nhưng suy cho cùng thì ở đây là nước Ngô, nên thần sắc có vẻ sợ hãi. Thái giám bước lên, bồng đứa bé từ trong tay bà, bà vội vàng ngoan ngoãn buông tay ra. Thái giám bồng đứa trẻ bước lên bậc tam cấp, trình ngay trước mặt Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ bồng đứa bé lên xem xét kỹ lưỡng, đứa bé tên Dự à ? Đứa bé này, chắc tuổi tý, Câu Tiễn thì cổ như cổ rắn, hai phụ tử này mà hợp lại, há chẳng là một ổ rắn chuột sao ? Nhưng con chuột nhắt này xem ra dễ nhìn hơn tên Câu Tiễn nhiều, đứa bé trắng trẻo mập mạp, đôi mắt tú lệ, con ngươi đen láy điểm sơn, khi nhắm lại thật đáng yêu. Thường mà nói, nam tử thì giống mẫu thân, nữ tử thì giống phụ thân, đứa bé này thiết nghĩ là giống mẫu thân, nếu mà giống tên Câu Tiễn thì, đúng thật là bà cũng không thân mà cậu cũng chẳng yêu, thật khiến người chán ghét rồi.

Đứa bé không sợ người lạ, ở trong Việt vương cung chắc cũng đa được nhiều người bế nên đã quen, khi rời khỏi vòng tay của vú nuôi vẫn không hề khóc, vừa được Khánh Kỵ bế trên tay, đôi mắt đen lay láy của nó lập tức như có hứng thú với bức rèm châu trên vương niệm của Khánh Kỵ, nó đưa bàn tay trắng trẻo mập mạp ra để bắt lấy những viên ngọc châu trên vương niệm, thỉnh thoảng còn vang lên những tiếng cười hi hi. Còn Khánh Kỵ mình mặc bộ quán phục nặng nề, trong tay lại bế một đứa trẻ, khuôn mặt tươi cười rạng rỡ, gần như không để ý đến cử động của đứa bé. Ở trước mặt bá quan văn võ trên đại điện, đột nhiên diễn nên một cảnh ấm ấp tình yêu thương, trông thấy thật khiến người tức cười

Chương 246 

Cách vào thành của tiểu la lị 

Nhóm dịch: huntercd

Nguồn: vipvandan

“Trước tiên là phụ thân lâm trọng bệnh, sau đó là để vương thái tôn lại làm tin, trung hiếu hai đường, đều không thể bắt bẻ được, khiến cho ta không còn lý do nào mà cố giữ hắn lại nước Ngô. Đứa bé này có qua thêm vài năm nữa cũng chỉ là một đứa trẻ, lúc đó nếu nước Việt thật tìm cơ hội khai chiến với nước Ngô ta, chẳng lẽ ta có thể chịu mọi mắng chửi trong thiên hạ mà đem đứa bé này giết đi sao ? Hảo thủ đoạn, hảo mưu kế…”

Khánh Kỵ không thể kềm nổi sự chán ghét và muốn giết chết tên câu Tiễn này, bỗng nhiên cái ý nghĩ khiến cho tên Câu Tiễn này trộm gà không thành mà còn mất cả gạo xuất hiện , Khánh Kỵ bế lấy Dự cười lớn: “Tốt, nếu ngươi đã cho Vương thái Tôn làm tin, quả nhân ưng thuận với ngươi. Quả nhân rất thích đứa trẻ này, muốn nhận nó làm nghĩa tử, ngươi có đồng ý chăng ?”

Câu Tiễn nghe xong lời đề nghị của Khánh Kỵ thì trong lòng vui mừng, tuy nói là do bức bách không còn cách nào khác, hắn chỉ đành nhẫn tâm đưa con trẻ làm tin với nước Ngô, nhưng đứa trẻ này rốt cuộc vẫn là cốt nhục của mình, nếu Khánh Kỵ chịu nhận đứa trẻ này làm nghĩa tử, sau này đứa trẻ sẽ thêm phần an toàn, nghĩ đến đây, Câu Tiễn lập tức trả lời: “Hài nhi của hạ thần, có thể được đại vương để mắt tới, Thần rất đỗi vui mừng.”

“Ha ha ha…, được !” Khánh Kỵ bế đứa bé, nhè nhẹ tung lên, rồi lại đỡ lấy, chơi vui đến nỗi chiếc miệng nhỏ xíu của Dự cười hi hi, thấy Khánh Kỵ ôm lấy mình không tung lên nữa, Dự còn chưa cam tâm nên đá hai chiếc chân nhỏ xíu, chiếc lưng nhỏ nhắn giẫy giụa, lại có chút chơi chưa chán.

“Nước Việt tuy đã mạo phạm quả nhân trước, nhưng niệm tình ngươi đã kịp thời đến thỉnh tội, giao ra tên phản nghịch, lại cho mượn lương thực, hiến tặng gỗ và khoáng thạch, và dịch phu thợ cả, lại cho vương tôn làm tin ở nước Ngô, đủ thấy ngươi thành thật thỉnh tội, từ đây quả nhân sẽ miễn tội cho Câu Tiễn, tạm đưa vào dịch quán cư ngụ, đợi khi lương thực và gỗ được chuyển đến nước Ngô, thực hiện xong khế ước, sẽ cho câu Tiễn về nước. Bãi triều !”

Câu Tiễn vội vàng nói: “Đại vương, vú nuôi của đứa bé…”

Khánh Kỵ trầm ngâm một lúc, biết đứa trẻ này vẫn còn nhỏ tuổi, nếu không giữa lại vú nuôi bên cạnh, Câu Tiễn sẽ khó tránh hoài nghi hắn muốn trộm long tráo phụng, vàng thau lẫn lộn, bèn cười nói: “Đứa bé đã quen thuộc với vú nuôi, đương nhiên cũng được lưu lại, ha ha…, ngươi cứ yên tâm, đứa bé này vẫn là người chủ tương lai của nước Việt, quả nhân sẽ cho người tận tâm chăm sóc, hai nước Ngô Việt, từ đây sẽ là huynh đệ chi bang, vĩnh kết hảo hữu !”

Gánh nặng trong lòng Câu Tiễn đã được bỏ xuống, người đứng trên bậc người đứng dưới bậc, mỗi người đều ôm một mưu đồ riêng mà cười …

Mắt nhìn Câu Tiễn rời khỏi, nụ cười trên môi Khánh Kỵ vụt tắt, trao đứa bé cho một thái giám, căn dặn: “Chuẩn bị xe ngựa, quả nhân phải đến Nhâm phủ một chuyến, mang theo cả vú nuôi và Việt vương tôn.”

Phủ đệ Nhâm gia, xe ngựa của Khánh Kỵ lặng lẽ chạy đến.

Nhâm Nhược Tích là người ưa sạch sẽ, mỗi ngày mục dục ba lần. Lúc này đã là chiều, nàng mặc một chiếc áo mỏng nhẹ và thoải mái, vừa từ trong dục thất trở về phòng mình. Thị nữ đang đứng phía sau chảy lại mái tóc bồng bềnh như mây của nàng, bỗng nhiên, nghe vài tiếng gõ cửa bên ngoài, một giọng nói nhỏ nhẹ vang lên: “Tiểu thơ, đại vương đã đến.”

“Sao ?” Nhâm Nhược Tích kinh ngạc, vội vàng đứng dậy nói: “ Sao đại vương lại đến, mau mau thay xiêm y cho ta.”

Nhìn bộ dạng tóc tai đang rối của mình trong gương, nàng luống cuống chân, lại ngồi trở xuống, gấp gáp nói: “Mau qua đây, giúp ta chải lại tóc.”

Vài nô tì ở cạnh bên nàng rối hết cả tay chân, vừa bới lại tóc cho nàng xong, đã nghe tiếng bước chân đang đi trên hành lang, cánh cửa vừa mở, vài thị nữ bên cạnh Nhâm Nhược Tích gấp gáp quỳ lạy: “Nô tì tham kiến đại…”

“Miễn lễ bình thân, các ngươi lui ra.”

Vài thị nữ lập tức làm theo lời lui ra, Nhâm Nhược Tích lúc này mới đỏ cả mặt mà quay người lại thi lễ nói: “Thần thiếp tham kiến đại vương.”

“Miễn đi, miễn đi” Khánh Kỵ mỉm cười ngắm nhìn nàng, Nhâm Nhược Tích khuôn mặt tuyệt đẹp, đôi mắt như tranh vẽ, làn da mới vừa mục dục xong của nàng trắng trẻo hồng hào, mịn màng mượt mà, vừa săn chắc như thiếu nữ, lại vừa ung dung yêu kiều như thiếu phụ.

Khánh Kỵ khen ngợi: “Tuyệt đẹp, nghĩ lại thì khi mỹ nhân vừa mục dục xong càng thêm xinh đẹp tuyệt trần, tiếc là quả nhân đã đến chậm một bước, quả là không có được phần phước này.”

“Đâu phải đại vương chưa từng thấy qua.” Nhâm Nhược Tích yêu kiều liếc hắn: “Nhược Tích chuyến này trở về đô thành, không hề báo hành tung cho đại vương biết, sao đại vương lại gấp gáp đến đây, làm cho thiếp không kịp điểm tô son phấn, thật là thất lễ với đại vương.”

Khánh Kỵ cười nói: “Nàng là chuẩn vương phi của quả nhân, hành tung của nàng dù không nói ra, cũng tự có người đến báo với ta. Uhm, kỳ thực ngày trước nàng vừa về đến là ta đã biết, nhưng cho đến lúc này ta mới có thể đến thăm nàng được, ta và nàng trước giờ gặp nhau ít nhưng xa nhau nhiều, chẳng ngờ đến lúc nước Ngô đã được yên ổn, quả nhân vẫn cứ bận rộn thế này.” Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Khánh Kỵ vừa nói vừa mở rộng đôi tay ôm lấy Nhược Tích vào lòng, hai người cùng ngồi trên chiếc giường. Tông Bá và Hành Nhân đã đưa sính lễ sang Nhâm Phủ, đã chính thức xác định thân phận vương phi của Nhâm Nhược Tích, chỉ còn chờ Quý Thị và Thúc Thị nước Lỗ đưa nữ nhi sang thành thân, thì có thể cùng lúc nhập cung với Diêu Quang và Tiểu Man. Danh phận phu thê đã định, nên khi gặp nhau riêng tư thế này, cũng có phần ung dung và thoải mái hơn, Nhâm Nhược Tích cũng không thận trọng như trước nữa.

“Đại vương, sứ giả nước Sở đã được an bài xong rồi à ?”

“Đương nhiên, không chỉ có sứ giả nước Sở, Câu Tiễn nước Việt cũng vừa đến Cô Tô.”

“Câu Tiễn ? Hắn đến làm gì ?”

Khánh Kỵ kể lại đầu đuôi câu chuyện, rồi hỏi: “Nhược Tích, Nàng thấy sao ?”

Nhâm Nhược Tích dựa vào trước ngực hắn, chăm chú suy nghĩ rồi nói: “Nước Việt đối với nước Ngô, trước giờ vẫn chưa từng có ý tốt gì, bây giờ không có, sau này cũng sẽ không có. Nước Việt bị nước Ngô áp chế ở một góc Đông Nam, con đường quan trọng để họ bắc tiến đến Trung Nguyên, liên hệ với các nước chư hầu trong thiên hạ đã bị nước Ngô khống chế, cứ như một con đại bàng mà bị cắt đi đôi cánh, nếu Việt Vương là một người biết an phận thủ thường không có dã tâm thì cũng đành, bằng không, cho dù ai làm Việt Vương, thì việc đầu tiên chính là đánh bại nước Ngô, nếu không đánh được nước Ngô, nước Việt vĩnh viễn không có ngày được xuất đầu lộ diện. nào là huynh đệ chi bang, vĩnh thế hảo hữu, đều không thể tin được, Đại vương sao không nhân cơ hội này mà lấy mạng của Câu Tiễn ?”

“Ha ha, đúng là cách nghĩ của phụ nữ !”

Khánh Kỵ ôm lấy chiếc eo nhỏ nhắn mềm mại của nàng, hôn nhẹ lên đôi môi đỏ hồng: “Mối họa của nước Ngô là nước Việt, chứ không phải là Câu Tiễn. Giết Câu Tiễn, diệt nước Việt, đây là chuyện tuy một mà hai, tuy hai mà một, nếu hiện giờ quả nhân không thể thu phục nước Việt, vậy thì giết một tên Câu Tiễn có tác dụng gì. Hôm nay giết một tên Câu Tiễn, chắc gì ngày mai ở nước Việt sẽ không xuất hiện một tên Câu Tiễn khác ? Thời cơ chưa chính mùi ngược lại sẽ bị nắm thóp. Tên Câu Tiễn đó có thể nhẫn nhịn đến thế, chẳng lẽ quả nhân lại không thể nhẫn nhịn sao ?”

Nhâm Nhược Tích thở dài: “Đại vương không bị những thủ đoạn của Câu Tiễn mê hoặc là tốt, nhưng vậy cũng đâu cần nhận hài nhi của hắn làm nghĩa tử, có thêm danh nghĩa phụ tử này, sau này đại vương dụng binh với nước Việt, khó tránh vướng tay vướng chân, chẳng làm được gì.”

“Ai nói thế ?”, Khánh Kỵ cười gian xảo: “Ta lại nghĩ rằng có thêm danh phận này rồi, càng lợi cho ta hành sự sau này.”

Nhâm Nhược Tích ngồi thẳng dậy, hỏi: “Vậy vương thái tôn nước Việt, hiện đang được nuôi dưỡng trong cung sao ?”

Khánh Kỵ mỉm cười nói: “Không, ta đã đem đến đây cho nàng, chút nữa nàng an bài thỏa đáng, để đứa bé vào ở trong Nhâm gia bảo.”

Nhâm Nhược Tích kinh ngạc: “Nhâm gia Bảo? Đứa bé này được giữ lại nước Ngô làm con tin, thân phận khác người thường, để đứa bé ở tại Nhâm gia bảo, điều này… có thích hợp hay không ?”

“Có gì mà không thích hợp, dựa vào lực lượng của Nhâm Gia Bảo, muốn bảo vệ một đứa bé chẳng phải dễ như trở bàn tay sao ?” Khánh Kỵ mỉm cười: “Đứa bé đó trông rất đáng yêu, ta không muốn giữ nó trong cung, đã là người thì nhất định sẽ có tình cảm, nếu giữ đứa bé lại bên cạnh lâu ngày, ta e sẽ ảnh hưởng đến quyết đoán của ta sau này.”

“Đại vương…”, Nhâm Nhược Tích lo lắng nhìn hắn, lắp bắp nói: “Đại vương dự tính… dự tính sau này sẽ làm gì đứa bé ?”

Khánh Kỵ cười, bản tính người mẹ của con gái đúng là dạt dào, vừa nãy nàng còn trách sao Khánh Kỵ không một kiếm giết chết Câu Tiễn, nhưng đối với đứa bé, dù là một đứa bé không có can hệ gì với mình, nàng ấy cũng đã động lòng thương xót.

“Nàng yên tâm đi, đứa bé là vô tội, ta sẽ không làm hại nó, nhưng thân phận đặc thù của nó, đã xác định rõ ràng lập trường giữa ta và nó, đã xác định có một số việc nó nhất thiết phải gánh chịu và đối mặt. Sau này, cũng có thể ta sẽ đoạt lấy một số cái của nó, nhưng ta sẽ tặng cho nó những món khác, ta tin rằng như vậy đối với nó, đối với tử tôn của nó mà nói, không phải là họa, mà là phước.”

Nhâm Nhược Tích nghe xong cũng không hiểu cho lắm, nhưng nàng biết việc này có liên quan đến mối quan hệ trọng đại giữa hai nước trong tương lai, hiện giờ Khánh Kỵ sẽ không nói quá rõ ràng với nàng, bèn nói: “Nếu đã vậy thì, chàng cứ yên tâm. Là vua một nước, có lúc khó tránh phải dùng một số thủ đoạn, nhưng… hễ nghĩ đến việc chàng sẽ ra tay với một đứa trẻ vô tội, thiếp vẫn cảm thấy khó chịu.”

“Đương nhiên là không, người, có chuyện nên làm, có chuyện không nên làm, không phải cứ vì đạt được mục đích mà bất chấp thủ đoạn. Người như thế, có khác gì so với cầm thú ?” Khánh Kỵ vỗ vỗ vào vai của nàng, nhẹ nhàng cười nói: “Đợi khi nàng sinh cho ta một hài nhi nàng sẽ biết, ta rất là thích trẻ con.”

Nhâm Nhược Tích ngay tức thì thẹn thùng đỏ mặt, nhỏ nhẹ nói: “Nói một hồi chàng lại không nghiêm túc, ai phải sinh hài nhi cho chàng chứ ?”

Khánh Kỵ nghiêm mặt nói: “Nam nữ yêu nhau, nối dõi tông đường, việc đại sự như thế, còn có việc gì nghiêm túc hơn chứ ?”

Đôi tay Khánh Kỵ đột nhiên ôm chặt hơn, kề sát bên tai Nhâm Nhược Tích nói nhỏ nhẹ: “Ta và nàng danh phận đã định, chi bằng hôm nay cùng quả nhân làm chuyện nghiêm túc thì thế nào ?”

“Thiếp mới không thèm…”, Nhâm Nhược Tích cười rồi ngồi dậy muốn chạy ra, bị Khánh Kỵ kéo, lại ngã ngay vào người hắn.

Khánh Kỵ vừa rút cây ngọc trâm trên tóc nàng, vừa nhỏ nhẹ nói: “Còn mắc cỡ gì, nàng đã là người của ta rồi, chẳng lẽ có thể chạy thoát khỏi tay ta sao ?”

Cây ngọc trâm vừa được rút ra, mái tóc đen và xinh đẹp của nàng xõa xuống, tóc dài đến tận eo, đôi mắt mơ màng của nàng như chứa đầy những cơn sóng nhỏ, một cảm giác khó tả đã làm rung động đến tâm hồn Khánh Kỵ. Nhâm Nhược Tích lúc này trông thật có phong vị của nữ nhi, trong tích tắc như đã nhóm lên ngọn lửa trong lòng Khánh Kỵ.

“Hãy giao nàng cho ta”, Khánh Kỵ dùng giọng nhỏ nhẹ nói: “Diêu Quang và Tiểu Man còn nhỏ tuổi, quả nhân không muốn họ sớm sinh đẻ, Nhược Tích, nàng hãy vì quả nhân… sinh một tiểu vương tử đầu tiên, được không ?”

Đầu óc Nhâm Nhược Tích như đang quay cuồng, giống như vừa bị ai đó trút một ly rượu nồng, đôi mắt nàng say, thân thể nàng say, lòng nàng cũng say, say đắm trong những lời nói ngọt ngào của Khánh Kỵ, nàng không hề chống cự đã được Khánh Kỵ cởi thắt lưng, trút bỏ chiếc áo tơ mỏng.

Thân thể nàng trông đẹp đẽ vô cùng, mái tóc đen bồng bềnh và thân thể trắng nõn nà như tuyết tương phản nhau đến là thú vị, dung nhan tú lệ trông thật đáng yêu, đôi vai thon thả và bộ ngực nở nang đầy đặn như tạo nên những đường cong uyển chuyển.

Khánh Kỵ ngắm nhìn đến nỗi si mê, hơi thở cũng dần gấp gáp hơn, tay hắn ôm lấy thân thể như ngọc như ngà của mỹ nhân, nhẹ nhàng đè nàng xuống giường, vuốt ve cơ thể nàng. Nhược Tích đã bị cái lưỡi của hắn chặn lại trên môi, chỉ có thể phát ra những tiếng rên nhỏ nhẹ.

Sau một hồi âu yếm vuốt ve, Nhâm Nhược Tích hơi thở gấp gáp, trong đôi mắt nàng như long lanh nước, vẻ mặt như đang ý loạn tình mê. Nàng đã động tình, lúc này đã không thể suy nghĩ được gì nữa. Cuối cùng nàng bỏ luôn chút thận trọng cuối cùng, ôm chặt lấy hắn, nhỏ nhẹ thì thầm: “Đại vương, hãy yêu thiếp…”

“Được !” Khánh Kỵ gỡ bỏ đôi hoa tai óng ánh của nàng, đôi tay từ từ di chuyển về phía dưới, nâng chiếc mông tròn trịa của nàng, nhỏ nhẹ nói bên tai nàng: “Bây giờ, để chúng ta cùng làm chuyện nghiêm túc nhé…”

Sứ giả hai nước Ngô Sở trong cùng một ngày đến Cô Tô, nhưng Khuất Đoan nước Sở chỉ ở lại trên núi Cô Tô ba ngày, đã sợ cuống cuồng mà về nước. Hắn đã mất một món tiền lớn mới được chức quan này, nên không muốn bệnh chết ở nước Ngô, để cho tên Phí Vô Kỵ lại đem bán chức quan của hắn cho người khác với giá tiền tốt hơn.

Còn Câu Tiễn muốn đi cũng đi không được, mỗi ngày đều gióng mắt mà trông bên Nước Việt mau chóng đem lương thực, khoáng thạch đến, để sớm thực hiện lời hứa với nước Ngô và đón hắn trở về. Hắn biết, không ít người Ngô hận hắn đến tận xương tủy, rất nhiều người đều mong Khánh Kỵ đem hắn đi chém, nếu cứ tiếp tục ở lại nước Ngô, Khánh Kỵ có thể nào một ngày nào đó đột nhiên hối hận mà thay đổi chủ ý.

Câu Tiễn vẫn chưa chờ được tin tức của nước Việt, thì sứ giả nước Sở lại đến. Trước khi Câu Tiễn đi sứ sang Ngô vì để đề phòng vạn nhất, nên đã phái sứ giả đến bái kiến Phí Vô Kỵ, để chuẩn bị cho đến lúc then chốt thì gây áp lực với nước Ngô. Nay Khánh Kỵ không có ý gây khó dễ cho câu Tiễn, nên Phí Vô Kỵ cũng không cần phí sức lực, mà được hưởng trắng một mớ châu báu và mỹ nữ, nhưng cái mà hắn quan tâm nhất vẫn là số châu báu đã bị nước Ngô cướp đi, nên lần này sứ giả mà hắn phái đi kiên cường hơn Khuất Đoan nhiều. Được biết Câu Tiễn không bị hề hấn gì, nên vị sứ thần này bèn thực hiện sứ mệnh thứ hai, kịch liệt chỉ trích nước Ngô đã tham lam nuốt trọn số tài phú của nước Sở, yêu cầu họ giao ra bảo vật. Về phần nước Ngô thì cứ khẳng định chắc nịch là số tài phú đã bị ngọn lửa của Phù Sai đốt thành tro bụi, sứ giả nước Sở lại không thể xông vào nội cung để mà tìm chứng cớ, nên đôi bên chỉ là đấu võ mồm với nhau mà thôi, đấu võ mồm với nhau đến mất cả vui, vị sứ giả đó đến cuối cùng cũng chẳng lo gì đến đám quyền quý nước Sở đang ngắm phong cảnh ở trên núi Cô Tô, thì đã tức tối bỏ về nước rồi. Nghe nói Ngô và Sở đang gây nhau ác liệt, Câu Tiễn thầm mừng trong bụng, nhưng nay hắn thân đang ở tại Cô Tô, nên đại kế nước Sở và nước Việt cùng nhau chống lại nước Ngô trong nhất thời không thể thực hiện được. Câu Tiễn ngày ngóng đêm mong, cuối cùng cũng mong được tin tức của nước Việt. Số lương thảo, vật liệu và những người thợ vừa qua đến biên giới, Kinh Lâm đã cho người cưỡi ngựa nhanh đưa tin về Cô Tô, Khánh Kỵ cũng rất mau lẹ, vừa hay tin đã liền căn dặn trong cung thiết đại yến tiêc, để tiễn Câu Tiễn về nước.

Câu Tiễn được trở về nước, gánh nặng trong lòng đã được trút bỏ, nhất thời mặt mày hớn hở, tinh thần phấn chấn. Trong yến tiệc ăn uống no say, cười nói vui vẻ. Rượu quá tam tuần, hắn bèn nâng ly, mời rượu Khánh Kỵ nói: “Hoàng tại thượng lệnh, chiếu hạ tứ thời, tính tâm sát từ, nhân giả đại vương. Cung thân hồng ân, lập nghĩa hành nhân. Cửu đức tứ tấc, uy phục quần thần. Vu hồ hưu tai, truyền đức vô cực, thượng cảm thái dương, giáng thuỵ dực dực. Đại vương trường thọ vạn tuế, trường bảo Ngô quốc. Uy danh khắp tứ hải đều thừa nhận, chư hầu tuân phục. Xin kính người ly rượu này, vĩnh thọ vạn phúc !”

Nói xong quỳ xuống hành đại lễ, nâng ly uống cạn. Khánh Kỵ mỉm cười, cũng nâng ly nhấp môi một ngụm, sau khi nhận xong lễ này của hắn, Câu Tiễn quay về chỗ ngồi, thần sắc ung dung, rò ràng hắn nhìn thấy kế bên có người gai mắt vì những lời nói nịnh hót của hắn, mà vẫn thản nhiên như không có gì.

Chúc Dung thấy vậy cười lạnh lùng, nhè nhẹ nghiêng người, thì thầm với Yểm Dư: “Để ấu tử phải làm tin ở nước Ngô, đến lúc gần về cũng không lo đến thân thích, cũng chẳng cầu được gặp mặt, người này quả là không có lương tâm.”

Yểm Dư khẽ cười, đáp lại: “Chưa hẳn là thế, chỉ là tâm đủ tối, và da đủ dày thôi !”

Ở bàn thiện án bên kia, Anh Đào cũng đang thì thầm to nhỏ, hắn nói nhỏ với Tôn Vũ, Tôn Vũ ngước mắt nhìn, tuỳ tiện liếc nhìn Câu Tiễn, rồi lại mỉm cười, nhỏ giọng đáp: “Anh tướng quân đừng xem thường hắn, hắn cố tình làm như thế, tỏ ra khiêm nhường, chẳng qua là vì muốn đại vương xem thường hắn mà thôi.”

“Ồ ? thì ra tên tặc tử này có ý đồ khác !” Anh Đào lại trợn mắt liếc Câu Tiễn, lại nhỏ giọng nói với Tôn Vũ: “Người này lòng dạ khó lường, không phải là láng giềng tốt, thả hắn về nước, chẳng khác nào thả hổ về rừng. Đại Vương đã căn dặn không được giết hắn, hà cớ gì chúng ta không âm thầm ra tay ?”

Tôn Vũ nhấp một ngụm rượu, lớn tiếng nói vài câu vui đùa với mọi người, rồi lại thì thầm nói với Anh Đào: “Ngươi có kế sách gì ?”

Anh Đào mắt nhìn lướt qua xung quanh, nhỏ giọng đáp: “Nếu như Câu Tiễn trên đường trở về bị thổ phỉ giết, vậy là không liên can gì đến ta rồi ?”

Tôn Vũ cười nhạt, lắc đầu đáp: “Chỉ cần Câu Tiễn chết trên đất Ngô, bất luận là lý do gì, cũng khó tránh miệng lưỡi thiên hạ.”

Anh Đào chậc lưỡi, không cam tâm nói: “Vậy thì, cứ để hắn như thế về nước sao ?”

Tôn Vũ đưa mắt nhìn Khánh Kỵ, Khánh Kỵ đang cầm đũa gấp thức ăn, bất chợt vén tay áo nâng ly, cùng với các đại thần kính rượu mình, lúc Tôn Vũ đưa mắt nhìn lên, Khánh Kỵ như có cảm giác, ánh mắt hắn cũng nhìn lại về phía Tôn Vũ, anh mắt hai người gặp nhau, Khánh Kỵ mỉm cười, dường như đã nắm được toàn bộ tâm tư của hắn trong lòng. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Tôn Vũ thôi nhìn, nâng ly uống cạn, rồi nhẹ nhàng buông ly xuống bàn, nói: “Tâm tư của đại vương ngày càng kín đáo, mỗi khi ra mưu kế cứ như ngựa chạy trên không, không hề để lại dấu vết, khiến người không thể đoán được. Ta cũng chưa đoán được đại vương đang có dự tính gì, nhưng… ta nhìn thấy được, đối với hạng người như Câu Tiễn, đại vương còn nhìn sâu và thấu đáo hơn cả ta và ngươi, đối phó với hắn, thiết nghĩ đại vương cũng đã có kế, nếu chưa được đại vương ra hiệu, ngươi không nên manh động, kẻo làm hỏng việc tốt của đại vương.”

Anh Đào nghe xong bán tín bán nghi, nhưng thấy Tôn Vũ nói một cách trịnh trọng, Anh Đào chỉ đành gạt bỏ cái ý nghĩ này.

Sau yến tiệc, Khánh Kỵ bày đầy đủ nghi lễ, đích thân tiễn Câu Tiễn ra Xà Môn. Khánh Kỵ nhận Dự làm nghĩa tử, nên cũng như có tình huynh đệ với Câu Tiễn, được Ngô vương Khánh Kỵ đích thân đưa tiễn, cũng không có gì là quá đáng, chỉ là lần này lễ nghi rất long trọng, rất nhiều bá tánh trong thành xếp hàng dài đứng xem. Trong chốc lát ở đầu thành Cô Tô lại trở nên huyên náo hơn.

Ngoài Xà Môn, Câu Tiễn dừng bước. Tạ lễ lần nữa, mời Ngô vương trở về. Khánh Kỵ dừng bước cười nói: “Vương nhi Dự ngoan ngoãn dễ thương, Vương phi Nhâm thị của quả nhân vô cùng yêu thích, nay đã đưa đến ở tại Nhâm Gia Bảo, thái tử đang nóng lòng muốn trở về, không thể gặp mặt Dự một lần, thật là đáng tiếc.”

Câu Tiễn vội đáp: “Thần phụ bệnh đã lâu, Câu Tiễn luôn lo lắng trong lòng, nay được lệnh của đại vương, há dám chậm trễ lên đường sao ? còn Dự nhi, được đại vương yêu thích, có đại vương chăm sóc, có khác nào phụ thân thân sinh. Do đó, thần rất là an tâm.”

Khánh Kỵ cười cười, đưa tay ra hiệu cho người mang lên rượu tiễn đưa, nói: “Hai nước Ngô Việt, hiềm khích đã lâu, nay thái tử đích thân đi sứ sang, thỉnh tội với nước Ngô, quả nhân đã miễn tội nhận tử, cũng đã biểu thị thành ý của quả nhân. Nguyện hai nước Ngô Việt từ đây hoá can qua thành ngọc bạch, đời đời hảo hữu, quả nhân và thái tử cùng nhau nỗ lực vì điều này !”

Câu Tiễn nâng ly, nghiêm mặt nói: “Đại vương miễn tội chết cho thần, được sống mà quay về nước. Tình sâu nghĩa nặng này, Câu Tiễn không dám phụ lòng, nguyện cùng nước Ngô, vĩnh kết hảo hữu, có trời đất và thần linh chứng giám, nếu trái lời, trời chu đất diệt.”

Nói xong nâng ly uống cạn, Khánh Kỵ gật đầu, cũng nâng ly uống cạn, cười nói: “Tiễn quân ngàn dặm, cũng có lúc chia tay. Quả nhân dừng bước tại đây, chúc thái tử bình an.”

“Tạ đại vương !” Câu Tiễn vái dài tận đất, quay người lên xe, cùng với đoàn binh sĩ hộ tống của nước Ngô chầm chậm rời khỏi Cô Tô. Xe giá vừa khởi động, chầm chậm lăn bánh, cho đến khi qua một chiếc cầu nhỏ, ngón tay cái bị Câu Tiễn nắm chặt trước ngực giờ mới được buông lỏng: “Khánh Kỵ quả không nuốt lời, quả nhiên thả ta về nước. Lần sang sứ nước Ngô này, đã hoá giải được mối nguy nước Ngô phạt Việt, để cho nước Việt ta có cơ hội thở phào nhẹ nhõm, ngày sau khi có cơ hội…, hôm nay ta đã bò dưới chân ngươi thế nào, ngày sau ta bắt ngươi trả lại thế ấy !”

Đoàn xe của Câu Tiễn đã đi xa, Khánh Kỵ quay trở về thành, nhưng khi thấy trên thành dưới thành đều là con dân nước Ngô, Khánh Kỵ bèn vẫy tay với họ, biểu thị chút tâm ý. Sau khi Khánh Kỵ thu phục Cô Tô rất là biết lo cho dân, những gì hắn làm đã nằm sâu trong tim của mỗi người dân, vừa thấy Khánh Kỵ vẫy tay, các bá tánh phút chốc đứng cả dậy, huyên náo hô hào đại vương, vui mừng hớn hở, lòng kính yêu của họ đều bộc lộ trong từng câu hoan hô.

Khánh Kỵ thấy vậy không tiện bước vào xe, chỉ đành mỉm cười tiếp tục vẫy tay với người dân. Lúc đó, trong đám đông có ba người quần áo rách rưới không ngừng hô to đại vương, đồng thời cố gắng chen lên trước, những thị vệ thân cận của Khánh Kỵ hợp thành một bức tường người, để ngăn không cho mọi người tiến gần đại vương, lúc này thấy có ba người miệng gọi và muốn xông qua, các binh sĩ liền chĩa mũi mâu ra ngoài, miệng la lớn: “Đứng lại, đứng lại, đại vương khởi giá, đừng đứng đó mà cản đường.”

Hai người nam tử quần áo rách rưới bị trường mâu cản lại, mắt nhìn Khánh Kỵ sắp rời đi, mà mắt mở to lại không biết phải làm sao, tuy họ đã lớn tiếng kêu gào, nhưng do bá tánh xung quanh cũng đang hô to đại vương, âm thanh vang vọng đến tận biển tận núi, nên đã hoàn toàn lấn áp tiếng êu gào của họ, ngay cả những người ở gần bên cũng không nghe thấy.

Một tên tiểu ăn mày kế bên trên mặt dính nào là tro nào là bùn thấy tình hình như thế bèn đứng vững chân, rồi đưa tay vào trong ngực, lấy ra một món đồ, cố hết sức ném về phía Khánh Kỵ

“Không hay rồi, có thích khách !” tên binh sĩ đó không ngờ rằng một tên ăn mày nhỏ nhoi lại cất giữ vũ khí trong người, hắn ngăn lại không kịp, lập tức hét to. Khánh Kỵ đã nhiều phen chết đi sống lại, nay hắn đã là đại vương, trước mắt vẫn chưa có người nối dõi, giang sơn nước Ngô có thể nói hoàn toàn được định đoạt trên sự an nguy của hắn, cho nên khi đã vào Cô Tô thành, Tôn Vũ đã chọn ra một số võ sĩ tinh nhuệ trung thành, do Cấm Vệ Thống Lĩnh Viên Tố đích thân huấn luyện võ nghệ, để trở thành thị vệ bên cạnh Khánh Kỵ.

Những người này phản ứng mau lẹ, vừa thấy trên không trung có một dị vật, đang bay về hướng Khánh Kỵ, họ lập tức lao đến, một tên binh sĩ đã giương thuẫn đỡ lấy, “bốp” một tiếng đã đỡ được vật lạ đó, Khánh Kỵ đang đứng đó mỉm cười vẫy tay không hề có đề phòng, đã bị một đám thân binh loạn tay loạn chân giữ hắn nằm sấp xuống đất, chỉ nghe những tiếng “bùm bùm loảng xoảng” vang lên, các tấm khiêng đã che chắn xung quanh và trên dưới Khánh Kỵ đến nỗi mưa gió cũng không lọt qua được.

Bá tánh xung quanh kinh hoàng la lớn: “Đại vương bị hành thích !” trong phút chốc chạy toán loạn cả lên, đội thị vệ của Khánh Kỵ như gặp đại địch đến, mười mấy tay kiếm vây lấy chung quanh Khánh Kỵ, các cung thủ thì giương cung sẵn sàng, mũi tên sắc nhọn hướng về phía đám đông, bất cứ lúc nào cũng có thể bắn, ngoài ra còn có các binh sĩ cầm mâu cầm thương tiến về phía ba tên ăn mày, mười mấy cây trường mâu trông cứ như là gai nhọn trên lưng nhím, lập tức xù ra, hướng vào những chỗ trống chung quanh ba tên ăn mày, vây chặt lấy họ.

Ba người này thấy tình hình thay đổi nhanh chóng sợ đến nỗi trợn tròn mắt há hốc mồm ra, tên tiểu ăn mày mới lúng túng giải thích nói: “Ta… ta chỉ là muốn gọi thúc ấy mà thôi…”

Những mũi dao sắc nhọn xung quanh dao động, tên tiểu ăn mày giật nảy mình, đột nhiên mở to họng, hét to đến tận mây xanh: “Khánh Kỵ đại thúc, ta sắp chết rồi !”

Lúc này trên phố không còn tiếng kêu la, nên tiếng gọi cao mấy đề-xi-ben này nghe rất rõ ràng. Khánh Kỵ nghe tiếng gọi này rất quen tai, nên vội vàng đẩy những chiếc thuẫn đang che hắn đến độ mưa gió không lọt ra, lồm cồm bò dậy một cách thảm hại. Nhìn tứ phía nói: “Vừa nãy ai đã gọi quả nhân ?”

“Là hắn, tên tiểu ăn mày đó. Ăn mày mà to gan dám gọi tên huý của đại vương !” Hữu vệ binh Sở Kiệt phẫn nộ hét to về phía tên tiểu ăn mày.

Khánh Kỵ nhìn theo hướng tay hắn chỉ, nhìn thấy tên tiểu ăn mày, liền ngây người ra. Tên tiểu ăn mày thấy hắn nhìn mình, cũng không màng đến những mũi mâu sắc nhọn đang vây chung quanh, vội vàng giơ tay nói: “Đại thúc, là ta, ta là Thi Di Quang đây.”

“Di Quang ?” Khánh Kỵ hoảng hốt, vội vã đẩy những hộ vệ ra tiến lên phía trước, đồng thời căn dặn: “Sở Kiệt, hãy thu lại người ngựa của ngươi, đừng làm kinh động đến bá tánh, họ không phải là thích khách.”

Khánh Kỵ vừa hạ lệnh, những mũi mâu sắc bén xoạt một tiếng đã được thu lại hết, Khánh Kỵ đi đến bên cạnh Thi Di Quang. Thi Di Quang bổ nhào vào trong lòng hắn, hai tay ôm lấy eo hắn, vùi đầu khóc nức nở.

Khánh Kỵ liền an ủi nói: “Đừng sợ, đại thúc ở đây, sẽ không ai làm hại ngươi đâu, ngươi đến đây với ai, cha ngươi đâu ?”

Khánh Kỵ vừa hỏi, vừa đưa mắt dáo dác tìm trong đám đông, những đã nhìn qua nhìn lại hết hai lượt, vẫn không thấy bóng dáng của Thi lão đại, nhưng lại bị thu hút bởi hai nam tử quần áo rách rưới.

Thi Di Quang nghe hắn nhắc đến phụ thân, càng khóc thê thảm hơn, hai người đó do dự một hồi, mới bước đến trước mặt Khánh Kỵ, chấp tay thi lễ nói: “Đào thần nước Sở Phạm Lãi, Văn Chủng, tham kiến đại vương”

Khánh Kỵ ngạc nhiên nói: “Quả nhiên là các ngươi, sao các ngươi lại ăn mặc như thế, sao Thi Di Quang lại đi chung với các ngươi ?”

Phạm Lãi lắc đầu thở dài nói: “Việc này quả thật một lời khó mà nói hết được, à… đại vương quen biết Di Quang sao ?” Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Khánh Kỵ càng ngạc nhiên hơn, hắn nhìn chung quang, nói: “Việc này… quả nhân cũng một lời khó nói hết được, vả lại đây cũng không tiện nói chuyện, nào, các ngươi hãy cùng quả nhân lên xe, chúng ta về thành nói tiếp.”

Hai người họ hoảng hốt nói: “Không dám, mời đại vương lên xe, Phạm Lãi, Văn Chủng đi theo xe là được.”

Khánh Kỵ không lấy làm ngạc nhiên nói: “Các ngươi và quả nhân vẫn là bằng hữu cũ, đã đến đây thì là khách, đừng chấp nhặt lễ quân thần. Mau cùng quả nhân lên xe.” Hắn nói xong bèn ngồi xổm xuống, lau nước mắt cho Thi Di Quang, nhỏ nhẹ nói: “Di Quang, theo thúc thúc về nhà nhé, có việc gì thúc thúc sẽ làm chủ cho ngươi, được chưa nào ?”

“Uhm !” Thi Di Quang mặt đầy nước mắt, khóc thút thít mà gật đầu, đôi tay nhỏ bé vẫn nắm chặt lấy áo Khánh Kỵ, quay mặt về phía Phạm Lãi, gọi một tiếng: “Nghĩa phụ.”

Phạm Lãi gật đầu đồng ý nói: “Uhm, nếu là vậy, nữ nhi cùng đại vương lên xe đi.”

“Cái gì ? Cái gì cái gì ?” Khánh Kỵ hiếu kỳ hỏi: “Thiếu Bá, ngươi gọi Di Quang là gì ?”

Phạm Lãi lúng túng đáp: “Trên đường Phạm Lãi đến nước Ngô, đã cứu được Thi Di Quang trong tay một bên lái buôn. Phụ mẫu Di Quang đều đã mất, không nơi nương tựa, nên đã bái Phạm Lãi làm nghĩa phụ, nên gọi nhau là nghĩa phụ và nữ nhi. Sao… sao thế ?” 

“Nữ nhi ?”

Tiểu Tây Thi trong lòng Khánh Kỵ còn đang nước mắt giàn giụa, lại quay đầu sang nhìn khuôn mặt dơ dáy và sa sút của Phạm Lãi, nét mặt có vẻ kỳ quái.

Chương 247 

Ta không phải lão cá vàng 

Nhóm dịch: huntercd

Nguồn: vipvandan

Lúc này Sở Kiệt đã nhặt lại được vật mà Thi Di Quang đã ném đi, đi đến trước mặt hắn dâng lên nói: “Đại vương, đây là… vật mà vị cô nương này đã ném đi lúc nãy.” Vật mà Sở Kiệt đang cầm trên tay chính là con dao Lỗ mà Khánh Kỵ đã tặng, hắn thấy đại vương rất xem trọng tên tiểu ăn mày này, nên cũng chẳng dám mở miệng ra là gọi ăn mày nữa. Thi Di Quang cầm lại dao Lỗ trên tay, cứ như một đứa trẻ tìm thấy lại vật yêu thích vậy.

Khánh Kỵ đầu óc loạn cả lên, vội làm rõ lai lịch của họ, bèn nói: “Mau qua đây, chúng ta lên xe rồi nói tiếp.”

Chiếc bánh xe của ngự xa cao gần bằng một người, với độ cao của càng xe Thi Di Quang không thể trèo tới được, Khánh Kỵ bèn đưa cánh tay, nhẹ nhàng đỡ lấy chân của Di Quang, ôm lấy mông nàng, rồi quay người bước về phía vương xa. Chiếc vương xa rộng hơn so với những chiếc xe thường khác gấp ba đến bốn lần, muốn nằm nghỉ ngơi ở bên trong cũng không thành vấn đề, nếu cả ba cùng ngồi cũng không thấy chật hẹp. Còn như tiểu cô nương Thi Di Quang này, chuyến này đã không biết phải chịu bao nhiêu khổ sở, mà từ khi gặp lại Khánh Kỵ liền nắm chặt lấy áo hắn không hề nới lỏng chút nào. Khánh Kỵ bèn để Di Quang ngồi trên đùi hắn, may mà vị tiểu cô nương này không nhẹ, không nặng hơn một chú mèo là mấy, nên không có cảm giác nặng nề.

Đoàn dù lọng kéo nhau về thành. Phạm Lãi, Văn Chủng bèn kể lại lịch trình của mình. Thì ra không ngoài dự đoán của Phạm Lãi, Phí Vô Kỵ quả nhiên đã sắp xếp sát thủ để giết họ trên đường đi. Phạm Lãi cũng đã an bài trước những võ sĩ thân tín của mình để tiếp ứng, chỉ là hắn trăm tính ngàn tính, cũng không tính được là Phí Vô Kỵ lại phái đến hơn trăm sát thủ bày ra thế cục lớn đến thế.

Kỳ thực là do tên Lý Hàn khi lần đầu làm việc cho Phí Vô Kỵ, đã bị một bài học do khinh địch mà thất bại ở nước Lỗ, nên lần ám sát này hắn không muốn thất thủ, nên đã phái đi rất nhiều sát thủ. Quân số hai bên cách biệt quá lớn, nên chỉ mới giao đấu một trận, Phạm Lãi đã thua tơi bời hoa lá. May mắn là những tâm phúc võ sĩ của họ đều là những hảo hán không sợ chết, tuy thất bại nhưng không hề lui bước, họ liều chết chiến đấu, có gắng yểm trợ cho hại vị đại phu chạy thoát.

Phạm Lãi, Văn Chủng kiếm nghệ không bằng những võ sĩ dưới trướng, có ở lại cũng chẳng giúp được gì, chỉ đành bỏ chạy thục mạng. Nơi đó núi cao rừng rậm, đã lâu không có bóng dáng người, hai người họ đã mất phương hướng, nên lần đào tẩu này đã bị lạc đường, hoàn toàn mất liên lạc với bộ hạ. Họ e sợ tên Phí Vô Kỵ sẽ lại phái thêm nhiều người để tìm tông tích của họ, nên đành nhân cơ hội này dứt áo ra đi, một mình đi về hướng đông. Do những hành lý mà họ đều được các võ sĩ thân tín mang theo, nên họ chẳng còn gì để phòng thân, chỉ nhờ vào hai cây đoản kiếm để phòng thân, đi săn thỏ hoang, hái ít quả dại mà ăn lót lòng.

Họ ăn gió nằm sương, cuối cùng cũng đi ra hỏi núi sâu, vào đến biên giới nước Ngô. Khi vừa ra khỏi núi, hai vị đại phu vốn dĩ phong độ phi phàm quần là áo lụa đã trở thành rách rưới thế này, mặt mày dơ dáy, trông không bằng một tên ăn mày. Với dáng vẻ đó nhìn làm sao cũng giống những nô lệ bỏ trốn khổi một đại hào môn nào đó. May là lúc này lệnh của Khánh Kỵ đã được ban bố, trên dưới nước Ngô đều biết đại vương đang chiêu nạp những lưu dân ở các nước, do đó họ không bị những tướng sĩ giữ cửa thành và thủ hạ của các quan viên trên đường đi bắt giữ, và cũng chẳng gây khó dễ cho họ.

Nước Ngô vì muốn tăng nhanh dân số, nên đã quy định rằng phàm là những bá tánh đã đến nương nhờ nước Ngô, bất luận là làm việc đồng áng, trồng dâu nuôi tằm, đánh cá, buôn bán, hay lao dịch, đều được đối đãi tốt. Đối với những người lo việc đồng áng, trồng dâu nuôi tằm và đánh cá, triều đình sẽ cho mượn công cụ và một năm lương thực, một năm sau sẽ trả lại, đồng thời chia đất hoang, núi hoang cho họ, những mảnh đất hoang khai hẩn được, những ruộng dâu đều sẽ thuộc sở hữu của họ. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Những thương nhân đương thời rất nhiều, trong tình hình tài nguyên của các nước lưu thông không tiện cũng có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, nước Ngô bèn quy định những thương nhân đến nước Ngô buôn bán sẽ được giảm một nửa thuế trong vòng ba năm. Thương nhân muốn mở rộng việc buôn bán, phát triển các nguồn hàng cũng phải bỏ ra nhiều công sức. Một khi đã thu hút họ đến đây, giúp họ có chỗ đứng vững vàng, vậy thì sau khi thời hạn ba năm trôi qua, chỉ cần thuế khóa ở nước Ngô không cao hơn các nước khác, họ cũng sẽ không dễ dàng bỏ qua mối kinh doanh này. Còn với những dịch dân đến nước Ngô để bán sức lao động của mình mà mưu sinh, đã quy định trong ba năm không cần nộp thuế.

Do vậy nên chuyến này Phạm Lãi và Văn Chủng đến đây, có không ít bá tánh từ nước Sở, Việt di cư đến, Phạm Lãi và Văn Chủng bèn trà trộn trong đó, xin nhà này một ít nhà kia một ít, bữa đói bữa no, cũng xem như đã chịu đựng được đến nay.

Họ thấy trên đường có một tên nam nhân đang đánh mắng một tiểu cô nương, nghe họ nói chuyện thì biết đó là một con buôn, bèn trượng nghĩa ra tay cứu giúp vị tiểu cô nương này, đó chính là Thi Di Quang. Thi Di Quang cơ trí thông minh, biết rằng đơn thân một mình dù có thoát khỏi bàn tay độc ác của tên buôn người kia, cũng khó tránh lại rơi vào tay người khác, bèn bái Phạm Lãi làm nghĩa phụ, theo họ đến đây. Phạm Lãi không ngờ nghĩa nữ ngang hông này lại có quen biết với Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ nghe nói họ đến nước Ngô để nương nhờ mình. Không kềm được vui mừng hớn hở, hắn đã suy nghĩ nát óc tìm cách đem Phạm Lãi, Văn Chủng hai đương thế hiền tài này đến nước Ngô, nhưng khổ nỗi họ lại là thần tử nước Sở nên chẳng biết bắt đầu từ đâu, không ngờ tên gian thần Phí Vô Kỵ quả nhiên lại giúp hắn một tay.

Khánh Kỵ cũng nói sơ qua về việc hắn và Thi gia quen biết nhau thế nào, sau đó nói với Thi Di Quang: “Tiểu Quang, thúc thúc vừa về nước đã phát người đến nước Việt tìm các ngươi, nhưng trước sau vẫn không có tung tích gì của các ngươi, phụ mẫu của tiểu Quang sao rồi ? Sao ngươi lại rơi vào tay của bọn buôn người ?”

Vừa nãy nghe Phạm Lãi nói Thi Di Quang phụ mẫu đã mất, không nơi nương tựa, trong lòng đã có cảm giác không hay. Lúc này hỏi đến, đôi mắt Di Quang lại đỏ ngầu, nước lại bắt đầu tràn ra mí mắt, nàng thút thít nói: “Mẫu thân ta… đã bệnh chết rồi. Cha vì cứu ta thoát thân, cũng đã bị quân Việt giết chết, cha nói với ta rằng, trừ phi là gặp được đại quan của nước Ngô, bằng không tuyệt đối không thể nói ra mối quan hệ giữa nhà ta và đại vương. Một mình ta chạy thoát, vừa mệt vừa đói, tên buôn người đó thấy ta thân cô thế cô, nên đã bắt ta lại, nói là phải đem ta đến Xương Lư bán, trên đường đi ta muốn bỏ trốn, liền bị hắn đánh đập, may mà… may mà được nghĩa phụ và Văn bá bá cứu giúp.”

Thi Di Quang khóc thút thít mà kể lại đầu đuôi câu chuyện. Thì ra sau khi Khánh Kỵ bỏ trốn, Thi lão đại và Thi Di Quang cũng chia nhau mà chạy thoát thân, chạy đến nhà thân thích của họ ở trong thành. Việt quân đã vẽ lại chân dung của Thi lão đại đem dán khắp nơi mà truy nã. Do lúc đó hắn đứng trên bè, lại đội nón tre, nên bức chân dung vẽ rất mơ hồ, nếu không phải là người quen thì khó mà nhận ra được, mà những người quen biết với Thi lão đại đương nhiên cũng sẽ không đi báo quan, do vậy việc này đã trở thành án chưa được giải quyết.

Sau đó, bệnh tình thê tử Thi lão đại trầm trọng, Thi lão đại chỉ đành lấy miếng ngọc mà Khánh Kỵ tặng đem đến tiệm cầm được một món tiền lớn, mời y sư về nhà chẩn trị, nhưng do bệnh của thê tử hắn đã lâu ngày, thuốc thang khó khỏi, cuối cùng đã qua đời.

Khó khăn này vừa qua, khó khăn khác lại đến. Thi lão đại đang lúc nước mắt đầm đìa mà lo chuyện hậu sự cho thê tử. Không ngờ Việt binh lại tìm đến cửa. Thì ra viên ngọc mà Thi lão đại đem ra tiệm cầm màu sắc rất đẹp, nhất định là loại ngọc thượng đẳng. Tên chủ hiệu cầm đồ đó mới đem bán lại cho quan viên địa phương, lại tuỳ tiện nói ra lai lịch của miếng ngọc. Tên quan đó nghe nói một tên đánh cá bình thường mà cũng có thể có viên ngọc màu sắc đẹp đến thế, lập tức trong lòng nghi ngờ, bèn phái người đến tra hỏi. Không ngờ lại phát hiện rằng hình dáng của Thi lão đại rất giống với hình vẽ tên tội phạm đang bị tróc nã. Thi lão đại nào dám theo họ về để chịu sự tra hỏi, chỉ đành bỏ trốn. Kết quả Thi lão đại bị trúng tên của Việt binh, Thi Di Quang thì nhảy xuống sông mà chạy thoát. Cho đến khi bị tên buôn người bắt, rồi gặp Phạm Lãi và Văn Chủng…

Nghe Di Quang thuật lại những điều đã trải qua. Khánh Kỵ ôm lấy thân hình nhỏ bé của Di Quang. Hồi lâu không nói một lời, tiếng bánh xe lộc cộc, mỗi người đều đang có tâm sự trong lòng. Phạm Lãi và Văn Chủng bên cạnh Khánh Kỵ, không ngờ vị đại vương nước Ngô này lại ngồi cùng xe với họ. Lúc này nghĩ nãy vẫn cứ như đang nằm mộng. So sánh sự xem trọng của Khánh Kỵ, lại nhớ đến lần gặp nhau tại nước Sở, trong lòng hai người họ vô cùng xúc động. Khánh Kỵ trầm tư hồi lâu, lại nhỏ nhẹ nói với Di Quang: “Di Quang, ngươi có biết đại thúc vừa tiễn ai đi không ?”

“Biết.” Thi Di Quang gật đầu đáp: “Vừa nãy có nghe bá tánh trong thành nói qua, người đó là Việt thái tử Câu Tiễn.”

“Vậy ngươi có hận thúc không ?”

“Hả ?” Thi Di Quang mở to mắt nhìn: “Di Quang tại sao lại hận đại thúc ?”

“Cha ngươi vì cứu ta, nên cuối cùng mới bị quân Việt giết chết. Thi lão đại là ân nhân cứu mạng của ta, mà ta lại thả tên Việt thái tử đi, ngươi không hận thúc sao ?”

Thi Di Quang buồn bã nói: “Nhưng người giết cha ta đâu phải Việt thái tử, trong lòng ta vẫn nhớ rất rõ tên hung thủ đã giết cha ta, đại thúc là đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc, sau này Di Quang phải theo thúc, học võ nghệ của thúc, khi trưởng thành sẽ trở về giết chết tên đó báo thù cho cha.”

Khánh Kỵ lắc đầu, nhẹ nhàng nói: “Ngốc à. Tên đó chỉ là tên lính quèn làm theo lệnh người khác mà thôi, cũng giống như con dao Lỗ trong tay ngươi. Có giết người hay không, giết những người nào, không phải là chuyện mà hắn có thể tự làm chủ. Hung thủ thật sự không phải là hắn, mà là người ra lệnh cho hắn. Bây giờ ngươi vẫn chưa hiểu, nhưng sau này trưởng thành, ngươi sẽ hiểu đạo lý bên trong đó.”

Thi Di Quang chớp mắt, hai bàn tay nắm chặt lại, tuy nàng vẫn không hiểu cho lắm những lời Khánh Kỵ nói, những cũng đã đôi chút hiểu điều mà Khánh Kỵ muốn ám chỉ: “ Ý đại thúc là, Việt thái tử Câu Tiễn mới là kẻ thù của ta ?”

“Uhm !” Khánh Kỵ nắm lấy tay nàng: “Nhưng ngươi cũng không cần học những thứ võ công chém chém giết giết này, ngươi chỉ cần nhớ, hôm nay hắn có thể trốn về nước Việt, nhưng rồi sẽ có một ngày, đại thúc sẽ bắt hắn, dùng đầu người của hắn, mà tế vong linh của cha ngươi !”

Phạm Lãi và Văn Chủng nhìn nhau, từ mắt của đôi phương đều hiểu ý nhau, câu nói ẩn đầy sát khí của Khánh Kỵ, đã đủ để hai người họ tài trí như họ suy đoán được những hàm ý bên trong đó. Chỉ với câu nói này, sau này chính sách của nước Ngô về các mặt chính trị, quân sự và ngoại giao với nước Việt, trong lòng họ đã cảm thấy rất rõ.

Quốc sách như thế. Tất nhiên là việc cơ mật của nước Ngô. Thế mà Khánh Kỵ lại nói trước mặt hai người Sở vừa chạy đến nước Ngô hoàn toàn không hề ngần ngại gì, rất thẳng thắn để cho họ thấy dã tâm của mình. Đây có thể là sự thể hiện lòng tin tuyệt đối nơi họ, những phải chăng cũng có nghĩa là, nếu họ không làm việc cho Khánh Kỵ, thì ngay cả việc còn sống mà rời khỏi nước Ngô đã biến thành không thể ?

“Tướng Quốc, Tư Đồ, hôm nay quả nhân lưu lại hai người này, là vì mưu một chuyện lớn.”

Về đến cung. Khánh Kỵ đã sắp xếp cho Phạm Lại, Văn Chủng và Di Quang đi rửa ráy và ăn uống. Sau đó lập tức triệu kiến Tướng Quốc Tôn Vũ và đại tư đồ Yểm Dư vốn đã được lệnh ở lại chờ từ trước. Hưng phấn nói: “Phạm Lãi và Văn Chủng từ nước Sở đến nương nhờ nước Ngô ta, quả nhân muốn phong cho hai người họ trọng trách, do đó muốn thương nghị trước với hai khanh.”

Yểm Dư lo lắng hỏi: “Đại vương, hai người này là đào thần nước Sở. Hiện nay đương quyền nước Sở là lệnh doãn Phí Vô Kỵ, cách đây không lâu chúng ta lại vì chuyện số châu báu bị huỷ mà có hiềm khích với nước Sở. Nếu còn tiếp tục thu nhận đào thần nước Sở. Há chẳng phải khiến tên Phí Vô Kỵ trong lòng sinh oán hận sao ?”

Khánh Kỵ cười nói: “Những chuyện khác, quả nhân còn có thể phần nào nể mặt hắn, chỉ là Phạm Lãi và Văn Chủng không phải hạng tầm thường. Quả nhân nếu được hai vị cao hiền đại tài này phò tá, thì cho dù có đắc tội với mười tên Phí Vô Kỵ, cũng rất xứng đáng.”

Tôn Vũ do dự một hồi, chấp tay hỏi: “Đại Vương đã tiến cử như thế, nhưng lại chưa biết tài năng của hai người họ đến đâu ?”

Khánh Kỵ giãn đôi chân mày ra, sang sảng nói: “Hai người này à, văn có thể an bang, võ có thể định quốc !”

Tôn Vũ nghe xong những lời đánh giá này, bất giác giật nảy mình. Nói đến cùng, Tôn Vũ cũng là Binh Thánh mà người đời sau tôn sùng. Năng lực của hắn chủ yếu thể hiện trên sự vận dụng của các chiến thuật chiến lược. Còn Phạm Lãi, Văn Chủng về điều binh khiển tướng và việc vận dụng cụ thể những chiến thuật có thể thua xa Tôn Vũ. Nhưng họ có thể dựa trên chiếc lược vĩ mô, mà kết hợp một cách hoàn mỹ các mặt kinh tế, chính trị, ngoại giao với các ý đồ quân sự. Khi họ chế định ra những hạng mục quá độ hơn mười năm về các mặt chiến lược chính trị, chiến lược quân sự đều có thể nhìn thấy được toàn cục diện. So ra, năng lực này nằm ngoài khả năng của Tôn Vũ.

Nhưng hiện giờ hai người họ vẫn là hạng vô danh tiểu tốt, chưa hề nghe danh qua, cũng chưa thấy họ có những công lao kinh thiên động địa gì. Khánh Kỵ lại mạo muội nói ra những lời này, ngay cả Tôn Vũ vốn là người rộng lượng, tuyệt đối không phải hạng quân tử hẹp hòi mà trong lòng còn cảm thấy khó chịu.

Yểm Dư lại càng thấy khó chịu hơn, lập tức nói: “Phải chăng đại vương đã quá lời ? Hai người họ trước khi đến đây chẳng qua cũng chỉ là trung đại phu nước Sở, dưới quyền thống trị lớn nhất cũng chỉ có một huyện, và cũng chưa từng nghe họ có chính trách lớn lao gì. Đại vương sao có thể khẳng định họ có tài an bang? Nói đến võ thì có thể định quốc, lại càng chưa từng nghe qua võ dũng của hai người này. Công tử Quang phạt Sở, Sở soái cần vương, trước sau đánh không biết bao nhiêu trận. lại càng không thấy họ có tác dụng gì.”

Khánh Kỵ nói: “Người có thể trị vì một huyện, chưa chắc có thể trị vì một nước; có thể trị tốt một nước, chắc gì đã trị nổi một huyện. Huống hồ triều đình nước Sở gian thần đương đạo, nào có cơ hội cho họ thể hiện ? nói đến võ dũng, hai người này quả thật không giỏi võ lực, hai người họ dù có liên thủ cũng e là không phải đối thủ của quả nhân. Nhưng… thượng binh phạt mưu, lại không phải cái dũng của hạng thất phu.”

Tôn Vũ nghe xong câu “Thượng Binh Phạt Mưu”. Trong ánh mắt như đang cười. Lúc này hắn đã bắt đầu viết binh thư, bản thảo đã từng đưa cho Khánh Kỵ xem qua. Câu nói “Thượng Binh Phạt Mưu” là câu dẫn đầu trong chương đầu tiên mang tên “Mưu chính biến” của hắn.

Tôn Vũ suy nghĩ: “Theo như lời đại vương nói, hai người này chắc là nhân tài thống soái mưu lược chăng ? Nếu họ quả thật có tài xuất quỷ nhập thần như thế. Đối với bá nghiệp của đại vương sẽ rất có ích, dù là đắc tội với một tên Phí Vô Kỵ cũng rất xứng đáng. Nhưng… trong lòng hai người này có thể tính toán được sâu xa đến thế sao ? Chưa từng thấy ở họ có những tài cán kinh người nào, lại chưa từng lập qua công lao to lớn gì, nếu mạo muội cho đảm nhận trọng trách, bá quan trong triều chắc chắn có người không phục. Cứ cho rằng hai người có học rộng hiểu nhiều, nhưng nếu quan lại các bộ không chịu phối hợp, tìm cách gây khó dễ, họ cũng khó mà làm nên thành tích. Lúc đó quan lại các bộ thêm phần chỉ trích, e là ngay cả chức vị họ cũng không giữ nổi. Đại vương cầu người hiền tài là chuyện tốt, nhưng nếu quá ưu ái, đối với họ e rằng chỉ có hại chứ không có lợi.”

Nghĩ đến đây, Tôn Vũ tâu: “Lời của đại vương thần không dám nghi ngờ, nhưng thần vẫn không tán thành họ vừa đến nước Ngô đã được đảm nhận trọng trách.”

“Hả ?” Khánh Kỵ liếc nhìn hắn: “Lý do ?”

“Vâng !” Tôn Vũ lấy hết dũng cảm nói: “Kẻ làm quan, đương nhiên phải xem phẩm hạnh, năng lực của hắn. Sau đó, mới có thể thống nhất một bộ, trên truyền dưới đạt. Danh vọng và thực lực của chủ quan cũng chính là cái để đảm bảo họ có thể dạy bảo được thuộc hạ, và hoàn thành các sứ mạng được giao. Hai người này vốn là người Sở, vừa mới đến nước Ngô đã được đại vương giao cho trọng trách, họ vừa không có căn cơ, lại chẳng có danh vọng, không thể dạy bảo được thuộc hạ, vả lại cũng dễ bị các đồng liêu đố kỵ. Nếu đại vương đã xem trọng họ như thế, quá ưu ái với họ ngược lại chính là hại họ.” Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Khánh Kỵ ha ha cười lớn đứng dậy: “Rất tốt. Trường Khanh cuối cùng cũng đã không vòng vo nói chuyện với quả nhân nữa. Uhm, quả nhân cần chính là cái này của ngươi. Quần thần chúng ta tình như huynh đệ, nếu nói chuyện mà cũng phải giấu đầu lòi đuôi, quả là mất hết thú vị.”

Hắn vừa ngừng cười, mặt nghiêm nghị nói: “Năm xưa khi ta vừa gặp Trường Khanh, đã biết khanh có tài xoay chuyển tình thế, chặn đá giữa dòng, nên đã lập tức bái làm đại tướng. Lúc đó, Trường Khanh còn là người Tề vừa nương tựa quả nhân, vả lại chưa từng dẫn binh qua. Cũng chưa vang danh thiên hạ. Quả nhân có hề do dự chút nào không ?

Đội nhân mã ở Phi Hồ cốc, là sức mạnh quan trọng để quả nhân thu phục nước Ngô, nhưng khi Trường Khanh nương tựa quả nhân chưa quá hai tháng, quả nhân đã vội sANg nước Vệ, để lại toàn bộ nhân mã này cho khanh. Thậm chí lúc phạt Ngô, quả nhân ở nước Sở xa xôi, việc quân sự quan trọng này vẫn toàn bộ do khanh làm chủ. Trường Khanh có từng làm quả nhân thất vọng chưa ? Cái gọi là dùng thì không nghi, nghi thì không dùng, quả nhân đối với tài cán và lòng trung thành sau này của Phạm Lãi, Văn Chủng, cũng giống như đối với khanh năm xưa, đó là tuyệt đối tin tưởng.”

Tôn Vũ trong lòng xúc động, mắt ươn ướt, những ngày tháng Khánh Kỵ ở nước Vệ, hắn một mình lãnh binh ở Phi Hồ cốc, chưa từng nghĩ đến những điều này. Hắn không thể hiểu được, tại sao Khánh Kỵ chỉ nói vài câu với hắn, đã có thể tin tưởng mà giao đội quân tinh nhuệ quan trọng như thế cho hắn, một người mà chưa hề dẫn binh bao giờ để mà huấn luyện. Tại sao một người Tề như hắn chỉ làm môn hạ của Khánh Kỵ chưa quá hai tháng, mà khi Khánh Kỵ đi xa đến nước Vệ đã có thể yên tâm đem những đại quyền điều độ chỉ huy quân đội đều giao cho hắn.

Khi hắn dẫn theo đội quân này giết vào nước Ngô không hề chùn bước, trong lòng hắn trước sau chỉ vương vấn mãi câu: “Kẻ sĩ nguyện chết vì tri kỷ !”

Cho đến khi những ngày tháng máu đổ đầu rơi đã trở thành quá khứ, mỗi khi nhớ lại trong lòng hắn vẫn rất xúc động. Lúc này nghe chính miệng Khánh Kỵ nói ra, như có một luồng hơi ấm tràn vào phổi hắn. Bỗng nhiên hắn có đôi chút hiểu về cách làm của Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ nghiêm mặt nói với Tôn Vũ và Yểm Dư: “Tài năng của hai người này không cần phải nghi ngờ nữa, quả nhân cũng rất biết cách nhìn người. Điều lo lắng của Trường Khanh tuy không phải là không có lý, nhưng quả nhân cứ khăng khăng muốn họ giữ những chức vụ trọng yếu, cũng là có suy nghĩ kỹ càng. Thứ nhất, đối với Phạm Lãi, Văn Chủng mà nói, họ ở nước Sở không có nơi thi thố tài năng, lại bị tên Phí Vô Kỵ hãm hại, đến nỗi suýt mất cả mạng. Nếu đã đến nước Ngô, quả nhân có thể hậu đãi họ, uỷ thác trọng trách, nhất định có thể khiến họ nhất mực trung thành với quả nhân, vì nước Ngô mà tận sức, huống hồ, lúc họ ở nước Sở đã là trung đại phu, tuy chỉ là một chức vụ nhàn nhã, nhưng cấp bậc cũng không thấp, quả nhân cũng không thể mạo muội mà đề bạt họ lên thượng khanh ngay được, nếu lại không uỷ thác trọng trách, sao có thể biểu hiện được sự tín nhiệm của quả nhân với họ chứ ? Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Thứ hai, từ khi nước Ngô ta tuyên bố chế độ khai khẩn ruộng đất, cho đến ngày hôm qua, bá tánh các nước đến nương nhờ nước ta tổng cộng đã hơn một ngàn tám trăm hộ, giả trẻ lớn bé hơn sáu ngàn năm trăm người, nhưng tất cả họ đều là nông phu và thợ thủ công, không hề có một sĩ tử nào. Nước Ngô đồng thời cũng ban bố việc mở rộng ngôn lộ, thực hiện quốc sách chọn những người trong tầng lớp trí thức ra làm quan, nhưng cho đến nay, tầng lớp trí thức trong nước thì hăng hái, tầng lớp trí thức ở các nước chư hầu vẫn còn đang quan sát, nhưng vẫn chưa có ai đến nương nhờ nước ta. Thử nghĩ mà xem, nếu hai tên đại phu chỉ làm huyện doãn, huyện tư mã ở nước Sở đến nước Ngô ta vẫn có thể đảm nhận trong trách, vậy thì tương lai sẽ thu hút đến đây biết bao nhiêu anh tài ?”

Yểm Dư và Chúc Dung nghe đến đây, ánh mắt như sáng hắn lên, vào lúc này vẫn chưa có việc Yến Chiêu Vương muốn xây hoàng kim đài mà thu nạp anh tài trong thiên hạ, nhưng cách làm này của Khánh Kỵ có tác dụng lớn lao đến đâu, cho dù không có cái ví dụ của Yến Chiêu Vương, Yểm Dư và Tôn Vũ cũng có thể tưởng tượng ra được.

Khánh Kỵ lại nói: “Do đó, quả nhân mới quyết định, một là không dùng, nếu đã dùng thì phải uỷ thác cho trọng trách. Những điều mà Trường Khánh lo lắng, quả nhân cũng có cách ứng phó.”

Hắn cười cười nói: “Yểm Dư vương thúc, Trường Khanh, hai người là trọng thần mà quả nhân tin tưởng nhất. Vừa là người nhân hậu rộng lượng, lại có tác phong của quân tử, để tránh việc sau khi họ nhậm chức, lại bị người khác đố kỵ, bộ hạ bằng mặt mà không bằng lòng, đồng liêu nói ra nói vào, ta muốn sắp xếp để hai người họ ở bên cạnh các ngươi, làm trợ thủ cho các ngươi, có các ngươi giúp đỡ chăm lo, tin rằng sẽ không ai cố ý gây khó dễ với họ.”

Yểm Dư và Tôn Vũ nhìn nhau, đồng loạt đứng dậy, chấp tay thi lễ nói: “Thần tuân theo ý chỉ của đại vương, quyết không phụ việc đại vương uỷ thác.”

“Rất tốt !”Khánh Kỵ vui mừng nói: “Nếu đã vậy, ngày mai thiết triều quả nhân sẽ ra chỉ dụ, phong Phạm Lãi là Thiếu Tể, hỗ trợ tướng quốc; Văn Chủng là Thiếu Tư Đồ, hỗ trợ đại tư đồ; hai người đều là giới khanh, có quyền nghị triều chính như tam công lục khanh !”

“Di Quang, có thích nơi này không ?”

Khánh Kỵ nắm lấy tay của Thi Di Quang, một Thi Di Quang vừa mục dục xong đang dạo bước trong cung Ngô vương, một chiếc áo tơ nhỏ, tóc xoã sau vai, răng trắng môi đỏ, mắt sáng long lanh, như một viên ngọc đã được mài dũa, thật rất đáng yêu.

“Uhm, rất đẹp, đây là nhà của đại thúc… đại vương sao ?”

Khi vào cung được Phạm Lãi dặn dò nhiều lần, nàng ấy đã hiểu rằng nơi đây không thể gọi Khánh Kỵ đại thúc nữa rồi. Ở quê nàng đã quen mang giày cỏ, lúc này đôi chân trắng đẹp của nàng lại đang mang một đôi giày gỗ cao, đi đường lộc cà lộc cộc một cách cẩn thận, e sợ rằng sẽ bị ngã, thế nên một bàn tay nhỏ bé cứ nắm chặt lấy bàn tay to lớn của Khánh Kỵ.

“Ha ha ha…” Khánh Kỵ vui vẻ cười to: “Đúng vậy, đây là nhà của thúc, ngươi thấy có đẹp không ?”

So với cái ổ của Di Quang ở, nàng chưa từng nhìn thấy nhiều toà kiến trúc to lớn như thế, nhất thời đầy hiều kỳ: “Uhm uhm, rất đẹp, nhà của đại thúc… thật là lớn. Phòng cũng lớn, cây cột cũng lớn, cửa cũng rất lớn, thật không hổ danh là đại vương.”

Khánh Kỵ ngừng cười nói: “Thì là ý của từ đại vương, chính là trong nhà cái gì cũng lớn sao ? ha ha, nha đầu này, thật là thú vị.”

Hắn đột ngột dừng bước, đặt tay lên đôi vai nhỏ bé của Di Quang, nhìn chằm chằm vào nàng.

“Hả ?” đôi mắt to tròn long lanh chớp chớp mắt: “Đại vương nhìn gì thế, ta bị sao à ?”

“Không sao cả…” Khánh Kỵ lại đột nhiên cười: “Tiểu nha đầu, ngươi có biết là, từ ngày người quen biết ta, ngươi đã mất đi một cơ hội để vang danh thiên cổ rồi không ?”

“Vang danh thiên cổ ?” lời của đại vương, Di Quang nghe không hiểu, rất là danh tiếng à ?”

“Uhm, nếu không có ta, ngươi sẽ rất danh tiếng, rất rất rất danh tiếng.”

Thi Di Quang nghiêng đầu suy nghĩ, đột nhiên lại lắc đầu: “Di Quang không cần danh tiếng, những người nữ nhi có danh tiếng đều xấu xa cả.”

“Hử ?” Khánh Kỵ chau mày: “Có người nữ nhi danh tiếng nào mà xấu xa vậy, nói ta nghe xem.”

Thi Di Quang thật thà nói: “Di Quang từng nghe cha kể lại chuyện của họ, Muội Hỷ, Đắc Kỷ, Bao Tự… họ đều rất danh tiếng, nhưng đều là những tiếng xấu, kết cục đều rất thê thảm.”

Khánh Kỵ nhìn nàng hồi lâu, nhẹ nhàng vuốt ve đôi má mịn màng của nàng, cười: “Uhm ! Di Quang rất thông minh, có danh tiếng không có nghĩa là hạnh phúc, ngươi nhất định sẽ rất hạnh phúc, đi thôi, nghĩa phụ ngươi đã đợi lâu rồi, ta đưa ngươi đi.”

“Hả ! Đại vương không cho Di Quang ở nhà của người à ? Nhà người có biết bao nhiêu phòng, cũng không nỡ cho ta một căn sao.” Di Quang kéo lấy tay hắn nũng nịu nói.

“Người không thích nghĩa phụ sao ?”

“Uhm… nghĩa phụ là người tốt, nhưng người rất buồn, mỗi lần buồn người đều ngồi ngẩn cả người ra, cũng chẳng biết là đang nghĩ gì, nếu không thì nói những điều mà Di Quang không hiểu với Văn bá bá, Di Quang chỉ thích ở chung với đại vương thôi.”

“Nghĩa phụ ngươi có nữ nhi, tuổi tác cũng cỡ ngươi thôi, ta đã phái người đi đón về rồi, đợi khi người nhà của nghĩa phụ ngươi đến đây, ngươi sẽ không thấy buồn nữa. Con trẻ, không thích hợp để sống trong cung. Nơi đây tuy là đẹp, nhưng quá lớn, cũng rất là sâu, ở lâu rồi, trẻ con cũng sẽ bắt đầu biết âm mưu, bớt đi vẻ ngây thơ, và cũng trầm mặc hơn, không còn lanh lợi nữa.”

Thi Di Quang lại nghiêng đầu suy nghĩ, hỏi: “Cũng giống như… con chim nhỏ bị nhốt trong lồng”

“Thông minh !”

“Uhm…” Thi Di Quang bịn rịn nắm lấy tay hắn, đôi mắt long lanh hỏi: “vậy thì… Di Quang ở nhà của nghĩa phụ, người có thường xuyên đến thăm Di Quang không ?”

“Đương nhiên !”

“Vậy thì… nếu Di Quang nhớ người, có thể đến nhà người để tìm người không ?”

“Đương nhiên !”

Di Quang cười khúc khích: “ Được, vậy chúng ta đi thôi.”

Di Quang quay người đi được vài bước, đột nhiên lại dừng bước, suy nghĩ một hồi, lại nói: “Người nói nhà người không thích hợp để trẻ con ở, vậy đợi đến khi ta trưởng thành, người có thể đón ta đến nhà người ở không ?”

Khánh Kỵ buông tay, đưa tay lên xoa cằm, nhìn nàng hồi lâu không nói.

Di Quang lại nũng nịu, chi chiếc miệng nhỏ xíu lên: “Ta biết mà, người gạt ta.”

Trong mắt Khánh Kỵ lộ ra nét thú vị, hắn bỗng nhiên cười, cúi người xuống, vịn vào vai Di Quang, dùng nụ cười của một lão cá vàng nói với nàng: “Uhm, đợi ngươi trưởng thành rồi, nếu thích dọn vào nhà của đại thúc ở, đại thúc sẽ đón ngươi về, được chưa ?”

“Hi hi, được !” Thi Di Quang thường dùng chiêu này với phụ thân, lần này cũng vẫn có hiệu nghiệm, nên đã tươi cười hớn hở, nhảy chân sáo nói: “Người lớn không được gạt trẻ con nhé, chúng ta nhất ngôn cửu đỉnh !”

“Nhất ngôn cửu đỉnh !”

Khánh Kỵ đưa ra bàn tay to lớn, vui vẻ nhìn Di Quang, cứ như đang nhìn một con cá vàng đã mắc câu vậy, Di Quang cũng vui vẻ đưa tay ra, đánh ba kích chưởng vào bàn tay to lớn của hắn, cười tươi như hoa nở.

Thời gian trôi nhanh, thấm thoát lại một tháng đã qua, hôm nay, sắc trời âm u, cây cỏ đã bắt đầu rơi rụng, gió cuốn những chiếc lá khô đi khắp đầu phố cuối hẻm. Khí trời không được tốt, nên rất ít người đi lại trên đường, thế mà Ngô Vương Khánh Kỵ lại cùng với Tôn Vũ, Yểm Dư, Phạm Lãi, Văn Chủng đứng trên đầu thành Tề Môn, mà hóng gió, nhìn về phía xa xăm, chuyến lương thực đầu tiên của Thành Tú đã được vận chuyển đến nước Ngô thuận lợi.

Nhìn đoàn xe dài thườn thượt, Văn Chủng vui mừng nói: “Thành Tú quả thật là có cách, ha ha, hắn trở về thật là đúng lúc, số lương thực tích trữ trong Cô Tô thành, và sáu ngàn thạch lương thảo mà nước Ngô chuyển đến không đủ để bá tánh nước Ngô và các di dân chống đỡ trong nửa năm, trước mắt các bá tánh trong thiên hạ đang lần lượt không ngừng kéo đến nước Ngô ta, nhất thiết phải tăng cường dữ trữ đầy đủ, nếu không có số lương thực mà Thành Tú chuyển về, Thiếu tư đồ như thần cũng hết đường xoay sở.”

Chương 248 

Mưu Đồ Thiên Hạ Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Nhóm dịch: huntercd

Nguồn: vipvandan

Từ sau khi Phạm Lãi và Văn Chủng đến nước Ngô, bỗng nhiên được đề bạt vào vị trí quan trọng chỉ sau Tướng Quốc và Đại Tư Đồ, quả thật đã gây nhiều tranh cãi tại nước Ngô, nhưng hai người này quả không phụ lòng mong đợi của Khánh Kỵ, vừa lên nhậm chức, đã thi thố hết những tài năng đặc biệt khác với người thường, chỉ với công sức trong một tháng, những lời đàm tiếu đã dần dần biến mất, cho dù vẫn có người trong lòng không phục, nhưng cũng không thể trách tội họ được, điều này thật khiến Khánh Kỵ vui mừng.

Trị vì sự vụ của một nước vô cùng nhiều và phức tạp, mà Phạm Lãi và Văn Chủng đặc biệt là sở trường xử lý các việc chính vụ, dân sinh của họ, đã bù đắp cho những khiếm khuyết mà Yểm Dư và Tôn Vũ vốn là người được sinh ra trong giới công khanh quý tộc thường mắc phải, với sự hỗ trợ của họ, tướng quốc Tôn Vũ và Đại Tư Đồ Yểm Dư đã sắp xếp nước Ngô một cách có trật tự, mọi việc mọi mặt đều đã đi vào quỹ đạo, nước Ngô đã bắt đầu có sức sống mới.

Do tác dụng của những tấm gương là Phạm Lãi và Văn Chủng, tầng lớp trí thức ở các nước trong lòng cũng bắt đầu xao động, đã có người đi đến nước Ngô, tin rằng sau mùa đông này, đến đầu xuân sang năm, sẽ càng có nhiều sĩ tử lần lượt kéo đến đây.

Việc khảo hạch các quan lại đều do Khánh Kỵ đích thân làm, luôn theo nguyên tắc đúng người đúng việc, đồng thời cũng không làm tổn thương đến bầu nhiệt huyết của sĩ tử các nước, nên phàm là những sĩ tử đã đến đây, được Khánh Kỵ khảo hạch sơ bộ, ít nhiều gì cũng cho họ một chức vụ, đồng thời đặt thêm cho chức quan đó một cái tên rất mới mẻ là “Thử Việc”, trong thời gian thử việc nếu biểu hiện tốt sẽ có thể làm tiếp, có biểu hiện ưu việt thì được đề bạt lên, cũng có thể miễn tên gọi các chức vụ đó, nhưng nếu làm thế thì không sợ bị chê trách, lại có thể loại bỏ những sĩ tử không phù hợp.

Trùng kiến nước Ngô, có những anh tài này giúp đỡ vốn không có gì là khó khăn, cái khó là ở chỗ làm thế nào để nhanh nhóng nâng cao thực lực tổng hợp của nước Ngô, nền móng của nước Ngô rất yếu so với các nước lớn ở trung nguyên, lại vừa trải qua mấy năm tiêu hao vì chiến tranh, khó khăn trước mắt chính là số nhân khẩu không ngừng gia tăng, nhưng số lương thực lại cung ứng không đủ. Khánh Kỵ lại không muốn vì thế mà làm chậm tốc độ cường hóa nước Ngô, nên dạo gần đây sứ mạng của Thành Tú đã trở nên rất quan trọng, vì muốn hắn an tâm mà lo việc thu mua lương thực, Khánh Kỵ không hề hối hắn cái kỳ hạn trong một tháng phải tìm ra Thành Bích, việc nào nặng việc nào nhẹ hắn vẫn phân biệt rất rõ.

Thời khắc này, chuyến lương thực đầu tiên đã chuyển đến nước Ngô thuận lợi, điều đó cũng có nghĩa là hắn đã thành công tìm được con đường thông suốt, những chuyến lương thực sau sẽ tự đến không dứt, căn cứ theo số liệu mà Thành Tú trình báo, dựa vào số lương thực này, nước Ngô có thể an nhàn mà qua mùa đông năm nay và mùa xuân sang năm. Rồi từ đó về sau, chỉ cần có người khai khẩn ruộng đất, chỉ cần nước Ngô tránh chiến loạn, trong cái thời đại đất hoang màu mỡ, nhân khẩu còn ít này, chẳng lo có hiểm họa thiếu lương thực.

“Đại Vương, số châu báu trong quốc khố, sau khi được quy thành kim ngân, trước mắt ngoài việc thu mua lương thực, số còn lại đã giao cho Nhâm gia, xem như là số tiền mà Triều Đình bù đắp, cho những nông cụ mà Nhâm gia chế tạo để bán cho các nhà nông, ngoài ra còn chi trả một phần cho Lữ gia, để họ thu mua trâu cày. Số còn lại, thần dự tính…”

Đoàn xe lương càng lúc càng tiến gần hơn, Văn Chủng lại bắt đầu vui mừng hớn hở mà tính toán. Từ khi hắn đảm nhận chức Thiếu Tư Đồ, đã tốn công sức trong bảy ngày dẫn toàn bộ nhân viên đem tất cả châu báu trong quốc khố tính toán lại rất rõ ràng, sau đó lại cứ giống như một bà quản gia tính toán chi li, mỗi một món tiền chi tiêu, hắn đều tính toán tỉ mỉ nên trả bao nhiêu thu bao nhiêu. Nếu cảm thấy số tiền chi ra với cái được lại không phù hợp, hoặc giả không phải nhu cầu cấp thiết, hắn quyết không chi ra một văn tiền nào, nên các công khanh đại phu trong Cô Tô thành đã đặt cho hắn biệt hiệu là Văn keo kiệt.

“Số tiền còn lại, dĩ nhiên là vẫn tiếp tục thu mua lương thực.”

Khánh Kỵ ngắt lời hắn, kéo chặt chiếc áo khoác ngoài, rồi quay đầu lại cười nói: “Tử Cầm, ngươi hãy tính toán cho kỹ càng, để lại những khoản cần dùng, số còn lại toàn bộ đều đưa cho Thành Tú để mua lương thực. Số lương thực tích trữ của Thành Gia đã mua sạch rồi, thì phải ra giá cao mà mua lương thực từ các đại phú hào và thương buôn của các nước khác.” 

Văn chủng ngẩn người ra, nói: “Đại Vương, thần đã tính toán qua, mấy chuyến lương thực của Thành Tú đã đến, đã có thể giải quyết vấn đề thiếu lương thực của nước Ngô ta vào mùa đông nay và xuân sang năm. Sau đó, với quy mô trồng trọt hiện có, lại thêm các di dân khai khẩn ruộng hoang, đất hoang, ra biển đánh bắt cá, các chính sách này đều được thi hành, cho dù căn cứ theo thống kê lương thực của nước ngô vào năm ngoái khi còn chiến loạn. nước Ngô cũng đã đủ tự nuôi mình.”

Khánh Kỵ chỉ hắn cười: “Tử Cầm tính toán quả rất rõ ràng. Thế quả nhân hỏi ngươi, nước Ngô ta nếu muốn trở thành nước lớn trong thiên hạ như Tề Tấn, phải làm cách nào mới được thế ?”

Vấn đề này lại can thiệp đến nhiều mặt khác nhau, Muốn trở thành cường quốc trong thiên hạ, không ngoài những mặt Chính trị, kinh tế, quân sự phải lớn mạnh. Nhưng phía sau mỗi phương diện có những vấn đề còn sâu xa hơn. Văn Chủng đã từng nghĩ qua, đang không biết nên bắt đầu nói từ đâu. Khánh Kỵ đã nói: “Tử Cầm không cần phải nói dài dòng. Quả nhân chỉ hỏi ngươi. Nước Ngô nếu muốn trở thành cường quốc trong thiên hạ, chỉ dựa vào điều kiện nhân khẩu của nước Ngô hiện nay, cả việc binh sĩ tinh nhuệ và lương thực đầy đủ, đã có thể vang danh thiên hạ chưa ?”

Thời đại này, dân số đông quyết định sức mạnh của hai bên là mạnh hay yếu. Với số nhân khẩu hiện nay của nước Ngô, cho dù có lương thực như núi, nhà nhà no ấm, cũng khó mà xưng bá thiên hạ, cho nên Văn Chủng đã lập tức đáp lại : “Không thể !”

Khánh Kỵ nói: “Vậy là đúng rồi, thiên hạ ngày nay, tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá một quốc gia có mạnh hay không, chính là ở sự đông đúc của nhân khẩu. Nhân khẩu đông mới có thể đảm bảo việc trồng trọt canh tác, đảm bảo có đủ nhân khẩu để phục dịch nạp thuế, đảm bảo các mặt nông công thương đều dùng đủ người, đảm bảo lúc lâm trận có đủ nguồn binh sĩ. Ngược lại, một nước giàu mạnh, quốc gia ổn định, bá tính ấm no, trẻ em ra đời nhiều, khẳng định quốc gia này có thể an tâm mà lập nghiệp, lúc đó mới nhiều người phục dịch, ngược lại cũng có thể chứng minh nước đó mạnh.”

Hắn nói đến đây, híp mắt lại nhìn đoàn xe càng lúc càng gần, sau đó chỉ Tôn Vũ, hỏi: “Trường Khanh, quả nhân cho ngươi năm năm thời gian, có thể huấn luyện cho quả nhân một đội binh hành quân cấp tốc, quân kỷ nghiêm minh, lâm trận anh dũng không ?”

Tôn Vũ suy nghĩ một chút, khẳng định đáp: “Có thể !”

Khánh Kỵ lại quay về phía Văn Chủng, nói: “Tử Cầm, Quả nhân cho ngươi thời hạn năm năm, để ngươi thi thố hết mọi tài năng, có thể tạo cho quả nhân vạn mẩu ruộng tốt, quốc khố đầy tràn, bá tánh ấm no không ?”

Văn Chủng trước giờ đều rất cẩn thận, suy đi nghĩ lại, mới nói: “Nếu nước Ngô ta có thể tạm ngừng binh đao, để thần có thể dễ dàng điều lý, để bá tánh có thể được bồi dưỡng phát triển. Với quốc sách hiện nay của nước Ngô ta, thần có thể làm được.”

“Được ! Thiếu Bá, Trường Khanh và Tử Cầm chỉ cần thời gian năm năm, đã có thể cho quả nhân tinh binh và lương thực đầy đủ. Quả nhân cũng cho người thời hạn năm năm, có thể khiến nước Ngô ta văn thần, võ tướng, sĩ tử đông như mây ? Nước Ngô ta có thể có hơn trăm vạn cường đinh, các ngành nghề sĩ nông công thương đều đầy rẫy nhân tài ?”

Chức quan Tướng Quốc, nắm giữ và xây dựng lục điển, để giúp vua trị bang, các nội dung phụ trách cụ thể rất phức tạp và nhiều, từ phương châm quốc gia cho đến cuộc sống thế tục và cả nông điền thủy lợi, rồi lại đến giáo dục phổ cập, không có gì là nằm ngoài quyền xử lý của hắn, nay Tôn Vũ làm tướng, nhưng chủ yếu thiên về quân sự, còn dân chính đa phần do Phạm Lãi phụ trách, vậy thì vấn đề giáo dục và vấn đề nhân khẩu đều do hắn phụ trách, nên Khánh Kỵ mới hỏi hắn.

Phạm Lãi suy nghĩ trong đầu nhanh chóng, lờ mờ nắm được mạch suy nghĩ của Khánh Kỵ, nhưng lúc này Khánh Kỵ đang hỏi, hắn cũng không cách nào mà suy nghĩ tiếp, chỉ đành chau mày, lắc đầu nói: “Thời hạn năm năm, hoàn thành yêu cầu của đại vương, còn khó hơn lên trời. Dạy con phải có cách, một năm trồng ngũ cốc, mười năm trồng cây, trăm năm trồng người. nếu muốn nhân tài đầy rẫy, cần mở rộng các trường học, dạy cho dân chúng tứ thuật lục nghệ, vương quan chi học, thuật nghệ phổ thông. Mới có thể đào tạo được nhân tài. Nếu tính đi tính lại, chí ít cũng mất hơn mười năm thậm chí đến hơn trăm năm mới có hiệu quả.”

Tứ thuật lục nghệ, vương quan chi học, là khởi nguồn của chư tử chi học, chư tử chi học lại là khởi nguồn của quan học, nho gia xuất xứ từ tư đồ chi quan, đạo gia xuất sứ từ sử quan, âm dương gia xuất sứ từ Hy Hòa chi quan, Pháp gia xuất sứ từ lý quan, danh gia xuất sứ từ lễ quan, mặc gia xuất sứ từ thanh miếu quan, tung hoành gia xuất sứ từ hành nhân chi quan, Tạp gia là của nghị quan, nông gia là của nông tắc quan, Gia là của Bái quan.

Khởi nguồn của các học thuyết luôn xuất hiện không ngừng, mỗi học thuyết lại có sở trường riêng, và từ sớm đã có lý luận căn cơ thâm hậu, những danh nhân nổi tiếng của các học thuyết này, đều là kế thừa và phát triển các học thuyết của tiền nhân, rồi phát dương quang đại mà thôi, chứ không phải chỉ trong vòng mấy trăm năm thời xuân thu chiến quốc này, lại đột nhiên xuất hiện nhiều học thuật cao thâm đến thế.

Thời này các sĩ tử công khanh đều được học các tri thức trong các học phủ do quan phủ mở, còn về mặt tư học tuy sau này Không Khâu là nổi danh nhất, nhưng hắn lại chẳng phải người đầu tiên mở tư học, đương thời trường tư thục trng dân gian ở các nước đã có quy mô rất lớn, nên Phạm Lãi đã liệt đó vào để bổ sung cho Quan học.

Phạm Lãi lại nói: “Nếu muốn làm được đinh dịch đều đầy đủ, cứ cho là bây giờ bắt đầu khuyến khích việc kết hôn, sinh sản, cũng phải chờ hai mươi năm sau mới có hiệu quả. Muốn có trăm vạn tráng đinh, dù từ giờ không động binh đao, chuyên tâm sản xuất, phát triển sức dân, e là cũng phải hơn trăm năm trở lên.”

Khánh Kỵ nói: “Đúng vậy, quả nhân có những đương thế anh tài như các ngươi trợ giúp, càng có hy vọng khiến nước Ngô lớn mạnh. Về việc muốn nước Ngô lớn mạnh, trong các nhân tố hạn chế việc phát triển của nước Ngô, điều mà nan giải nhất, cần nhiều thời gian để giải quyết nhất, chính là nhân tài và nhân khẩu. nếu nước Ngô ta muốn tự bồi dưỡng nhân tài mà cần thời gian dài thế, vậy thì tại sao lại không thu nạp nhân tài của các nước khác chứ ?

Trong triều của quả nhân, Trường Khanh là người nước tề, Anh Đào là người nước Lỗ, Tử Cầm và Thiếu Bá lại đến từ nước Sở, các ngươi hiện đều là cánh tay đắc lực của quả nhân, quả nhân hy vọng có thể chiêu mộ thêm nhiều hiền tài làm trụ cột trong triều đình nước Ngô ta. Còn về sức dân, nếu việc tự tăng cường số đinh tráng không có kế sách gì tuyệt diệu để không cần chờ đến trăm năm mới thấy hiệu quả, vậy tại sao lại không thu hút di dân các nước đến nước Ngô, để làm việc cho quả nhân chứ ?”

Yểm Dư trong lòng thắc mắc, xen vào hỏi: “Đại vương, nước Ngô ta chẳng phải đang chiêu hiền nạp sĩ, thu hút di dân các nước sao ?”

Khánh Kỵ trả lời: “Không sai, nhưng quả nhân thấy tiến triển có vẻ chậm, bá tánh di cư từ các nước khác đến cần thời gian khá dài, chỉ dựa vào quốc sách ưu tiên cho việc khai khẩn ruộng đất của nước Ngô ta, chưa chắc đủ để các bá tánh hạ quyết tâm mà di cư đến nước Ngô. Trước mắt nước Tấn nam hạ bị ngăn bởi Tần Sở, nước Tề nam hạ lại bị ngăn bởi nước Lỗ và Đông Di, cuộc chiến giữa các nước chư hầu, e là cũng sắp chấm dứt chiến tranh, rút binh nghị hòa. Đến lúc đó, những bá tánh có lòng muốn di cư mà chưa kịp đi sẽ lại tiếp tục định cư trở lại, nước Ngô ta sẽ không chiêu nạp đủ nhân khẩu, vậy thì lỡ mất cơ hội rồi !”

“À !” Cuối cùng Phạm Lãi đã hiểu ý của Khánh Kỵ, vui mừng mà vỗ tay một cái, khen ngợi: “Tuyệt, vi thần đã hiểu ý của đại vương. Nếu các nguyên nhân khách quan không đủ để thôi thúc các bá tánh đến nước Ngô, vậy chúng ta nên tạo ra một ít nguyên nhân chủ quan để mà thúc đẩy họ. Cuộc chiến giữa các nước lần này đã đánh từ mùa đông năm ngoái đến nay, các nước đều vì chiến sự mà bỏ lỡ việc đồng áng. Trước mắt các nước vẫn còn dư lương thực, nên chưa thấy cái khốn khó, nhưng lương thực của các nước e là không đủ để chống chọi đến mùa thu sang năm. Do đó chỉ cần qua thêm vài tháng, nạn đói sẽ dần dần xuất hiện, cho đến khi cả thiên hạ đều chịu nạn. Nếu chúng ta đi trước một bước, mua lại lương thực tích trữ trong tay công khanh và thương buôn các nước. Đợi đến khi nạn đói bắt đầu xảy ra…”

Mọi người nghe hắn nói, cũng đã hiểu ý của Khánh Kỵ, Văn Chủng thì há mồm tặc lưỡi, mắt trợn to hồi lâu, rồi lại vội vàng cúi đầu tính toán nói: “Thần đã hiểu, thần đã tính toán kỹ càng, còn có thể lấy đâu ra tiền, toàn bộ đều mua lương thực hết…”

Mỗi khi Văn Chủng bắt đầu tính toán, như ngay lập tức hắn lại rơi vào cái thế giới của hắn, hai mắt thẳng tắp, trong miệng lẩm bẩm, cũng chẳng nghe rõ hắn đang lẩm nhẩm cái gì. Khánh Kỵ và mọi người nhìn thấy, không kềm được cười.

Bên dưới cửa thành rộng mở. Chiếc xe lương đầu tiên đã vào thành, Khánh Kỵ đi đến bên tường thành, tay vịn vào tường, mắt nhìn ra xa, nói: “Lê dân bá tánh phụng dưỡng quả nhân, phải đổ cả máu và làm ra miếng ăn để nạp thuế. Cái họ cần chẳng qua là một nơi có thể an cư lạc nghiệp. Quả nhân mong sớm lập công lớn, là vì giang sơn xã tắc, cũng là vì lê dân bá tánh có thể an cư mà lạc nghiệp. nay Tần, Sở đều đang yếu thế, Tề Tấn Lỗ Tống đều đang lo loạn trong nước, đây chính là lúc mà nước Ngô ta phải hăng hái lên. Các Khanh có biết chí hướng của quả nhân là ở đâu không ?”

Yểm Dư, Tôn Vũ nhìn nhau, cuối cùng Tôn Vũ tiến lên chấp tay nói: “Đại vương muốn cửu hợp chư hầu, nhất thống thiên hạ, xưng bá với các chư hầu.”

Khánh Kỵ cười cười, chớp mắt nói: “Xưng bá với các chư hầu ? Tề Hoàn Tấn Văn, Tần Mục Sở Trang. Nay có an phận không ? Xưng bá một triều một đời rất oai phong sao ? Nếu vậy thì, chi bằng quả nhân an phận ở nước Ngô mà hưởng phước, quân thần chúng ta phú quý một đời là đủ rồi, hà tất phải lao tâm khổ trí, chiêu nạp hiền lương khắp nơi ?”

Tôn Vũ kinh ngạc, vội hỏi: “Vậy thì… chí hướng của địa vương là”

Khánh Kỵ chậm rãi nói: “Các khanh đều là tâm phúc của quả nhân, quả nhân không ngại nói cho các khanh biết. Chí hướng của quả nhân không phải là xưng bá, mà là mưu quốc !” tay hắn chỉ về phái trung nguyên, nói từng chữ từng chữ một: “Cái quả nhân cần mưu, là thiên hạ nhà Chu !”

Lời Khánh Kỵ vừa nói ra, mấy vị trọng thần bênh cạnh đã hoảng hồn. Trên thành nhất thời im ắng vô cùng, có có tiếng cờ bay phần phật.

Một hồi lâu sau, Yểm Dư hoảng hốt nói: “Chí hướng của đại vương quá xa, Yểm Dư quả thật chưa từng nghĩ qua việc này. Nhưng… muốn làm được vậy, cần mất bao nhiêu năm thời gian? Chúng ta có thể thành công không ?”

Khánh Kỵ cười nói: “Ân Thương tồn tại hơn sáu trăm năm, đến cuối cùng, khi các chư hầu ra đời, Đại Thương đã lẫm liệt mà đứng đó, khi họ già đi, Đại Thương vẫn cứ lẫm liệt mà đứng đó, thế là rất nhiều nhiều đã quen thuộc với sự tồn tại của nó, có nằm mơ cũng không dám nghĩ đến chuyện thay ngôi đổi vị, cũng giống như các khanh hiện giờ.

Thế là Vũ Vương đã nghĩ, và cũng đã hành động, chỉ với hai huyện Phong, Cảo trong tay mà khởi binh phạt Trụ, kết quả thế nào ? Chúng khanh gia, thành sự tại nhân, nếu không làm thì suốt đời ngươi cũng không biết là có thể thành công hay không. Đại thế trong thiên hạ, chia cắt lâu ngày rồi cũng sẽ tái hợp, đó là xu hướng của địa thế, hôm nay quả nhân không làm, cũng có một ngày người khác sẽ làm, cho đến khi xe cùng một đường, sách cùng một chữ, người cùng một đạo lý, mà sáng tạo nên một thế giới mới. Đời người không quá trăm năm, chúng khanh có đồng ý giúp quả nhân hoàn thành đại nghiệp này không ?”

“Làm khai quốc công thần, được phân phong với thiên hạ, làm chư hầu một phương.” Chỉ nghĩ đến mục tiêu này thôi, mọi người đã không kềm được rạo rực trong lòng, tim cũng đập thình thịch cả lên.

Khánh Kỵ đương nhiên sẽ không nói họ biết dự định này của hắn không hề chỉ là nói cho vui. Có hắn ở đây, nước Ngô trở thành cường quốc sẽ ít phải đi đường vòng hơn, nhưng nếu đợi đến khi những điều kiện để nhất thống thiên hạ chín muồi, e là những năm hắn còn sống cũng khó mà làm được. Nhưng khi Tần Hiếu Công biến pháp cường quốc, mục tiêu của hắn không phải nhất thống thiên hạ, mà là tạo ra điều kiện, thế là Doanh Chính đã làm được.

Từ nay trở đi Khánh Kỵ đã bắt đầu tích trữ lực lượng, hắn tin rằng sẽ nhanh hơn tiến trình của nước Tần nhiều, khi nước Ngô của hắn có đủ sức để mà nhất thống thiên hạ, thì từ lúc đó trở đi một nước Tần lại suy yếu lần nữa, e là sẽ còn suy yếu hơn cả nước Tây Thùy nhỏ nhoi đã từng bị nước Ngụy nuốt trọn. Cho dù sự nghiệp vĩ đại này không thể được hoàn thành bởi tay hắn, nhưng chưa chắc đã không thể để cho tử tôn của hắn làm tiếp bước cuối cùng này. Đến thời đại này cũng đã lâu rồi, ở đây hắn có người thân, có bằng hữu, có các thuộc hạ trung thành, không lâu nữa, hắn sẽ có thê tử của hắn, hài nhi của hắn, hắn cũng chẳng còn xa lạ gì với cái thế giới này, hắn như đã hoàn toàn hào hợp vào đó, đồng thời dã tâm và hoài bão của hắn cũng đã giao phí cho cái thế giới này.

Công lao một đời, nhất thống thiên hạ, đây đúng là mục tiêu chỉ dám mơ chứ không dám làm, nhưng hạng người như Tôn Vũ, Phạm Lãi không nghĩ thế. Họ tài trí khác với người thường, lòng ôm chí lớn, vào cái niên đại tư tưởng mở rộng, nhiều học thuyết mới lạ và các giả thuyết chính trị tương tự nhau, nên họ rất dễ tiếp nhân những quan điểm mới đến kinh thiên động địa. Huống hồ, có tấm gương thành công của Vũ Vương, mà Khánh Kỵ lại là người được thần linh xem trọng, lại là vị vua từng ngao du thiên phủ tiên quốc, một khi họ tiếp nhận cái chí hướng này, ngược lại còn có lòng tin hơn cả Khánh Kỵ.

Khánh Kỵ nói: “Trường Khanh, Quả nhân lệnh cho ngươi xây Lăng Yên các, sau khi Lăng Yên các được xây xong, sẽ chuyên để cung phụng những bức họa của các đại thần có công mở mang bờ cõi, bắt đầu từ triều đại của Khánh Kỵ ta trở đi, sẽ cùng với tông thất thái miếu nước Ngô ta, hưởng hương hỏa của nước Ngô, được các tử tôn quỳ lễ !”

Hạng người như Tôn Vũ sau khi nghe xong đã hào khí lên mây, huyết mạch sục sôi, những suy nghĩ về việc kiến công lập nghiệp bắt đầu xuất hiện…

Trong nghị chính sảnh của Vương cung, đám người Tôn Vũ đang trình bày ý kiến của mình, thao thao bất tuyệt. Việc xưng bá và mưu quốc khác nhau, theo chí hướng của Khánh Kỵ, đám người Tôn Vũ đã thực hiện một loạt những quy hoạch đối với chính sách đối ngoại. Hiện giờ có thêm Phạm Lãi, Văn Chủng là hai nhân tài chính trị trời sinh, lại thêm binh thánh Tôn Vũ, hợp mưu hợp sức, cùng nhau nghiên cứu, rất mau chóng đã đưa ra được một sách lược tường tận, ngày ngày đều cùng Khánh Kỵ thương thảo, rồi lại hiệu chỉnh, để mau chóng đưa ra một phương hướng chính trị cụ thể, và theo đó mà phát triển.

Tôn Vũ đang phân tích các hình thế xung quanh nước Ngô, ý kiến này của hắn ngày hôm qua đã thảo luận riêng với Khánh Kỵ, lúc này hắn đang nói với đám người Phạm Lãi, Khánh Kỵ vì đã nghe hắn nói qua rồi, nên không chú ý lắm, hắn bắt đầu nghĩ đến tâm sự trong lòng.

Thành Tú vừa chuyển lương thực về Cô Tô thành, Văn Chủng đã rất nhanh chóng kiếm được một món tiền lớn lại đuổi cổ hắn đi tiếp. Bôn ba giữa các nước tuy là cực khổ, nhưng Thành Tú lại thấy vui mừng, xem ra đúng là hắn có ý muốn né tránh Khánh Kỵ, sợ là Khánh Kỵ lại truy hỏi hắn tung tích của Thành Bích. Khánh Kỵ biết rõ bụng dạ của hắn, nhưng Thành Tú thì cứ kiếm cớ che giấu né tránh, nên Khánh Kỵ lại càng khẳng định hắn đã nhận được tin tức của Thành Bích.

Nhớ lại dáng vẻ lưu luyến không nỡ của Thành Bích khi hắn rời khỏi nước Lỗ, Khánh Kỵ quả thật nghĩ không ra nàng ấy vì lý do gì mà đã đến bên cạnh hắn rồi, lại không chịu gặp mặt hắn. Khánh Kỵ không hề cho rằng Thành Bích đã gặp nguy hiểm gì, nếu quả thật nàng ấy gặp nguy hiểm, Thành Tú sẽ không ung dung tư tại như thế mà bôn ba khắp nơi vì hắn, càng không che giấu hành tung của Thành Bích với hắn.

Trừ phi… Thành Bích vì hôn sự của hắn với Diêu Quang, Tiểu Man và Nhược Tích mà tỏ lòng ghen tuông, nên đã cự tuyệt gặp hắn chăng ? Theo lý mà nói cũng không đúng, tính cách của người nữ nhi thời địa này như Thành Bích, sẽ không có loại giác ngộ này, với thân phận của hắn, cho dù có cưới công chúa của thiên hạ đệ nhất đại quốc, vả lại còn hay ghen tuông, cũng không thể ngăn hắn nạp thêm phi tử. vậy chẳng lẽ trong lúc hắn rời khỏi nước Lỗ nàng ấy đã tìm được niềm vui mới ?

Cái ý nghĩ này vừa xuất hiện trong đầu Khánh Kỵ, liền bị Khánh Kỵ gạt bỏ ngay, Thành Bích tuy rất phong tình, trời sinh kiều diễm, đó chỉ vẻ đẹp hại nước hại dân mà ông trời đã ban cho nàng, chứ người nữ nhi này không phải là một người lẳng lơ, với nhan sắc và thân phận của nàng, nếu nàng ấy là người tùy tiện như thế, cũng sẽ không vì một phu quân không hề yêu thương đã qua đời từ lâu mà giữ thân như ngọc. Nói cho cùng, thậm chí nàng ấy còn có vẻ sợ hãi và chán ghét nam nhân, cho đến khi nàng ấy gặp hắn…

“Thành Bích, sao nàng lại trốn tránh ta chứ ? chẳng lẽ là vì thân phận của Tiểu Man ? Nói đến cùng thì Tiểu Man cũng được xem là như con của nàng, mà cũng không đúng, thời đại này, thê thiếp của phụ thân con trai cũng có thể tiếp nhận được, Cô và cháu cùng lấy một phu quân, Cháu cùng được gả với thúc mẫu ở góa cũng là chuyện thường tình, với thân phận của Thành Bích, Tiểu Man trước sau gì cũng không thể xem nàng ấy là mẫu thân, nên thân phận này sẽ không gây trở ngại gì, vậy thì… chẳng lẽ là do sự căm thù của Tiểu Man với nàng ấy ?”

Khánh Kỵ tay chống cằm nghĩ đến xuất thần, Tôn Vũ cứ cho rằng đại vương đang chăm chú lắng nghe, nên càng hứng thú mà nói: “Từ những phân tích trên, nước Ngô ta tuy chỉ nằm ở một góc đông nam, chưa chắc đã đủ mạnh để mà giành lấy Trung Nguyên. Nội bộ Tề Tấn ngoài mạnh trong yếu, công khanh làm loạn, các chư hầu ở trung nguyên thì cứ thủ cựu không có tinh thần tiến thủ, nước Ngô ta nên đánh nước Việt trước, rồi tiếp đến là Kinh Sở. Kinh Sở rất nhiều ruộng hoang màu mỡ, sĩ dân giàu có, nếu chiếm làm của riêng, thì có thể đứng vững mà nhìn thiên hạ.”

Phạm Lãi nói: “Ý của đại vương là, lúc này ta cần bồi dưỡng và phát triển, tích trữ sức nước. Do đó có thể tránh được binh đao thì cứ tránh, nếu bất đắc dĩ, cũng phải hạn chế quy mô của chiến tranh ở mức thấp nhất, nước Sở tuy vừa mới bại dưới tay nước Ngô, nhưng thực lực vẫn còn, nên không dễ gì chiếm được. Vì vậy thần cho rằng, đợi đến khi thời chơ chín muồi, có thể dấy binh mà đánh nước Việt, củng cố hậu phương, loại bỏ hậu hoạn. Đối với nước Sở, phải dùng kế lâu dài. Đại vương đã phái sứ giả đến nước Tần cầu thân, nếu nước Tần ưng thuận, kết thành hôn sự này, thì hai nước đông nam sẽ kết thành hảo hữu, nước Sở ở trong thế gọng kềm, sẽ dễ dàng bị đại vương không chế.

Hơn nữa,Vương thái hậu nước Sở vẫn là trưởng công chúa của nước Tần, một khi đại vương lập tiểu công chúa nước Tần làm vương hậu, vậy thì Ngô vương hậu sẽ là ấu muội của Sở thái hậu. Nước Ngô ta có thể nhờ vào mối quan lệ này mà tăng thêm sự ảnh hưởng đối với nước Sở, nếu nước Tần không ưng thuận hôn sự này, cũng không ảnh hưởng đến con cờ Sở thái hậu này, khi thần còn ở nước Sở, cũng có hiểu biết đối với các thế lực trong triều, nay tên Phí Vô Kỵ một mình nắm đại quyền, xem Sở vương như bù nhìn, Vương thái hậu cũng rất lo buồn, rất muốn trừ khử tên Phí Vô Kỵ này. Nhưng người là bậc nữ lưu, trong triều lại chẳng có ai, vua Tần lại bế quan tự thủ, không muốn can thiệp đến chuyện bên ngoài, nên Sở thái hậu chỉ có một bàn tay không làm được gì, chỉ đành nhẫn nhịn, cho dù không có quan hệ hôn nhân này, chỉ cần để cho người cảm thấy chúng ta có thể khống chế được tên Phí Vô Kỵ, khuếch đại sức ảnh hưởng của Sở vương, thần chắc chắn sẽ thuyết phục được người, khiến người có thể phối hợp và thỏa hiệp với nước Ngô ta.” Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Văn Chủng lắc đầu nói: “Nếu không thì, thần cho rằng việc phạt Việt không là chuyện gấp nhất thời, tranh đoạt thiên hạ cũng không phải chuyện một sớm một chiều. Cấp bách trước mắt chính là làm nước ta cường mạnh, việc của nước Sở nên tạm gác lại một bên, về mặt ngoại giao, nên thể hiện sự kém cỏi để mà tự giữ mình, giao hảo với nước Tần, thân cận với nước Lỗ, lôi kéo nước Sở, liên kết với Tống Vệ mà quan sát động tĩnh trong thiên hạ, chờ thời cơ thích hợp.

Về mặt nội chính, chiêu nạp di dân, khai khẩn ruộng hoang, phát triển việc trồng dâu nuôi tằm, làm đầy các phủ khố, để nhân dân được lợi, tăng cường sức nước; tăng dân khẩu, mở rộng quân đội, gióa dục, đề bạt sĩ tử. Về mặt quân sự, thần cho rằng việc cần trước mắt ngược lại chính là việc người Tề nam tiến, Đông Di đang đứng trước nguy cơ trùng trùng. Ta nên nhanh chóng phát binh, lấy cớ yểm trợ Đông Di mà tiến vào đóng quân trên lãnh thổ Đông Di, trước tiên nên tạo tình huống ta đã chiếm cứ được Đông Di, sau đó lại đề nghị liên hợp với nữ vương Đông Di, như vậy chúng ta mới ở thế chủ động được.”

Yểm Dư nghe đến đây bèn gật đầu nói: “Thần và người Sở đã tác chiến nhiều năm, lại từng ở nước Sở hơn một năm trời để đối địch với công tử Quang, nên rất hiểu nước Sở. Người Việt sở dĩ trở thành mối họa đầu tiên, hoàn toàn là do vị trí địa lý của họ. Nếu nói về đối thủ đáng gờm. cũng chỉ có nước Sở. Nước Sở to lớn này, bất luận là về mặt biên cương, nhân khẩu, kinh tế hay là binh lực chúng ta đều thua xa.

Điều may mắn là, hiện nước Sở gian thần đang đương đạo, Sở vương vô năng, nên mối uy hiếp lớn này tạm thời vẫn chưa đủ gây áp lực với nước ta, nhưng dựa vào lực lượng nước Ngô ta hiện giờ mà muốn chủ động công đánh nước Sở là không thể nào được, khoan nói đến việc thực lực của nước Sở, những nước nhỏ phụ thuộc vào nước Sở nhiều vô số kể, những nước nhỏ của các bộ tộc man di này dưới sự thống trị của nước Sở đã hơn trăm năm, trong lòng không phục, lúc nào cũng muốn làm cho ra lẽ, nếu chúng ta đi trước một bước chiếm lấy những vùng đất này, ngoại có thể ứng phó sự phản kích của nước Sở, nội có thể áp chế sự phản kháng của họ, để tránh việc lún sâu vào bùn không thể thoát thân được, nếu như vậy sẽ làm hỏng kế hoạch lâu dài của đại vương, nhưng ngoài ra, nên diệt Việt trước hay chiếm Đông Di trước, thần vẫn chưa nghĩ thông suốt, nhưng thần thấy Văn Chủng nói rất có lý, về đối ngoại ta không thể không có động thái gì, nhưng trước mắt việc chính vẫn là bồi dưỡng phát triển tích lũy sức nước.”

Tôn Vũ tổng kết nói: “Tổng hợp lại ý kiến của các vị đại nhân, đối nội, ý kiến của mọi người đều nhất trí, không cần bàn thêm. Đối ngoại, những vấn đề mà nước Ngô ta cần đối mặt chủ yếu là nước Việt, nước Sở và Đông Di. Nước Việt nằm kề ngay nước ta, từ khi Doãn Thường xưng vương, bắt đầu nổi dã tâm, thế lực ngày càng bành trướng, bất luận nước Ngô muốn phát triển theo hướng nào, đều nhất thiết phải diệt nước Việt trước, mới có thể tiến vào mà chiếm cứ cả phái đông nam, củng cố cơ nghiệp, bằng không chẳng có tí an toàn nào. Về nước Việt cũng chỉ có thể đánh bại nước ta, mới có thể quật khởi ở Đông Nam, giữa Ngô và Vietj nhất định sẽ có chiến tranh. Nhưng muốn đánh một trận thắng nước Việt rất dễ dàng, còn muốn nuốt trọn nước Việt, thì động tĩnh có lớn hơn chút, nên có thể tạm gác một bên, để chờ thời cơ thích hợp.

Nay nước Sở là liên minh với nước ta, nhưng mối quan hệ này vô cùng mỏng manh, nay vì chuyện châu báu nước Sở, câu lưu con tin và trọng dụng hai vị đại nhân là Thiếu Bá và Tử Cầm, đã gây hiềm khích với Phí Vô Kỵ, nên mối quan hệ này càng hữu danh vô thực. Vả lại về mặt địa lý mà nói, nước Ngô ta muốn đứng vững ở Đông Nam, nhìn khắp thiên hạ, cũng nhất thiết phải mưu dồ lãnh thổ nước Sở. Chí ít cũng phải có được những nơi như Tiềm, Lục ở Đại Biệt sơn và ngay cả một mảnh đất lớn ở phia sbawcs, nếu vậy mới có thể xme là có được một Đông Nam hoàn chỉnh và kiên cố, dựa vào cái hiểm của đại giang, và sự kiên cố của sơn xuyên, tiến có thể đánh trung nguyên, lui có thể thủ.

Nhưng theo những lời mà Đại Tư Đồ vừa nói, lực lượng của nước Sở quá hùng hậu, một khi dấy binh bất chấp tất cả mà công đánh, chúng ta có thể tranh thủ những hành động liên tục về mặt chính trị, ngoại giao, kinh tế, để đạt được mục đích, còn có thể lấy cớ về việc chiến tranh giành quyền lực trong nội bộ nước Sở mà tranh thủ được sự ủng hộ của Sở thái hậu, sử dụng đả kích quân sự với quy mô nhỏ, từ từ mà nuốt chứng nước Sở đang suy yếu này, dùng phương pháp hòa bình mà đạt được mục đích. Đó là một hành động liên tục và lâu dài, bây giờ đã có thể bắt đầu thực hiên, nhưng không thể thấy hiệu quả ngay tức thì.

Muốn củng cố Đông Nam, phải giành được Giang Hán; muốn chiếm trung nguyên, phải lấy được Hoài Tứ. Nếu có Giang Hán mà không có Hoài Tứ, sức nước sẽ yếu; Có Hoài Tứ mà không có thượng du Giang Hán, thì quốc gia sẽ nguy. Chỉ duy nhất có cách biến Giang Hán và Hoài Tứ nằm trong phạm vị thể lực của nước Ngô, khiến trung và hạ lưu của đại giang đều hợp thành một thể, lại thêm lưu vực sông Hoài liền thành một khối, năm bắc đều xuyên suốt, vậy mới có thể hình thành mục đích mà đại vương thường nói, đó là lấy các thế lực liên minh ở lưu vực đại giang đối kháng với chư hầu các nước ở lưu vực Hoàng hà.

Giang Hán ở Sở, Hoài Tứ ở Di, nếu chiến lược đối với nước Sở cần phải dùng kế sách lâu dài trên nhiều phương diện, vậy thì việc cần trước mắt chính là chiếm lấy khu vực Hoài Tứ. Vốn dĩ nếu chúng ta dẫn binh vào nơi này, nhất định sẽ bị Tề Tấn can dự vào, vì vậy muốn được nơi này vẫn cần phải diệt nước Việt trước, để nước Ngô ta không còn mối lo ở phía sau mới có thể bày mưu tính kế tiếp được, nhưng hiện nay Tề Tấn đều đang chiến tranh, Đông Di lại có ý theo nước Ngô ta, đây quả là thời cơ tốt mà trời ban cho nước Ngô ta. Do vậy, ý của thần và Văn Chủng đều giống nhau, giành Đông Di trước, không biết ý đại vương thế nào ?”

Khánh Kỵ vẫn đang chống cằm mà suy tư, Yểm Dư vội nói: “Đại vương cho rằng nên giành nơi nào trước ?”

“Hả, cưới trước… cưới trước…, A! giành trước… giành nơi nào trước à ?”

Chương 249 

Giáp Cốc chi minh 

Nhóm dịch: huntercd

Nguồn: vipvandan

Khánh Kỵ mặt như mới mơ ngủ, chúng thần thấy vậy đều nhìn nhau, Khánh Kỵ bèn đỏ mặt, nói: “Quả nhân cũng đang suy nghĩ… suy nghĩ đến những mặt lợi và hại của việc mưu đồ các phương, nhất thời nhập tâm quá, nên chưa nghe hết kết luận, Tướng quốc hãy nói lại lần nữa.”

Tướng quốc và chúng thần bèn nói lại lần nữa một cách giản lược, Khánh Kỵ trầm ngâm nói: “Nước Sở sẽ đặt ở sau cùng, còn về nước Việt và Đông Di sẽ chiếm nơi nào trước…”

Đúng vào lúc này một người vội vã đi vào đại sảnh nghị chính, trình lên một bức mật hàm đã được niêm phong. Khi Khánh Kỵ cùng quần thần bàn luận những việc quan trọng, có bất cứ việc gì cũng không thể làm phiền, chỉ có một ngoại lệ, đó chính là Nhĩ Mục Tư, đó là cơ cấu tình báo mà Khánh Kỵ đã xây dựng dựa trên mạng lưới tình báo thương nghiệp của Thành Tú, hoặc giả đó cũng là cơ cấu tình báo chuyên nghiệp trong cái thời xuân thu chiến quốc này. Người đến từ tương lai như Khánh Kỵ biết rất rõ tầm quan tọng của tin tức, do đó cả cơ cấu tình báo này đều nằm trong tay hắn, đồng thời quy định hễ có tin tức quan trọng gì bất kể thời gian bất kể trường hợp đều có thể trình báo với hắn.

Khánh Kỵ cầm lấy mật hàm khiểm tra lại dấu niêm phong, rồi lấy con dao nhỏ gỡ bỏ dấu niêm phong, bên trong là một miêng vải trắng, chúng thần im lặng, Khánh Kỵ xem bức mật hàm một cách kỹ càng, ngẩng đầu lên nhìn nói: “Không cần bàn bạc thêm nữa, thời cơ không thể để lỡ, nếu đã lỡ mất thì sẽ không có lại được, nay chúng ta cần đi trước một bước tiến quân vào Đông Di, càng nhanh càng tốt.”

Yểm Dư sắc mặt biến đổi nói: “Đại vương sao lại nói vậy, chẳng lẽ có tin tức quan trọng gì sao ?” Khánh Kỵ pha phẩy miếng vải trắng trên tay, sắc mặt bình thản nói: “Nước Lỗ truyền tin đến, Tề Lỗ có ý muốn ngừng chiến, sắp tới, sẽ nghị hòa ở Giáp Cốc.”

Núi Giáp Cốc, danh chúc kỳ sơn, là sơn cốc được bao quanh bởi các dãy núi, phong cảnh thanh tú mĩ lệ, nằm ở giữa đường biên giới được kiểm soát chặt chẽ của hai nước. Đây chính là nơi được chọn làm địa điểm để tổ chức hội minh đàm phán hiệp ước hòa bình lần này.

Đoàn xe của Lỗ quân Cơ Tống chậm rãi tiến đến. Phía trước nghi trượng đã đến cửa cốc. Cơ Tống ngồi trên xe nhìn thấy sắp vào cốc, trên gương mặt trắng bợt không ngừng hiện lên từng đợt đỏ gay. Là quân vương của một nước, nhưng đây là lần đầu tiên hắn gặp mặt quốc vương nước khác, tâm trạng khó tránh khỏi căng thẳng, lại mang theo một hưng phấn không rõ ràng.

Khi Tề Lỗ thụ phong lập quốc. Chu Thành Vương đã từng ban cho hai nước minh ước “ Thế thế tử tôn vô tương hại dã” ( con cháu đời đời không hại đến nhau). Thời Tây Chu, hai nước Tề Lỗ luôn luôn tuân theo lệnh của Thành Vương. Láng giềng hòa thuận hữu hảo, thân thiết gắn bó khăng khít, đồng lòng bảo vệ Chu Thiên Tử. Nhưng đến thời Xuân Thu, vương thất suy bại dần dần mất đi lực khống chế chư hầu. Hai nước Tề Lỗ cũng vì lợi ích riêng mà nảy sinh mâu thuẫn, dẫn đến không ngừng đánh nhau. Mối quan hệ của hai nước trở nên ngày càng trầm trọng.

Hai nước lúc chiến lúc hòa. Từ thời Lỗ Ân Công đến nay, chưa quá hơn hai trăm năm, Tề xâm lấn Lỗ 15 lần, Lỗ phạt Tề tám chín lần. Đối với hai quốc gia mà nói, tần suất chiến tranh như thế này đã rất cao rồi, nhưng cùng theo đó hai bên triều mời liên kết đồng minh cũng đã được hơn 30 lần. Tề Lỗ liên minh công phá nước khác bao nhiêu lần thì Tề Lỗ giúp nhau giải vây bấy nhiêu lần. Chuyện hai bên nhận lời lấy con gái kết thông gia thường xuyên diễn ra. Mối quan hệ hai bên khi bạn khi thù, rối rắm không rõ ràng.

Giờ đây dưới sự chủ trương của Điền Khất, Tề Lỗ kết đồng minh với Ngô quốc, phát binh xuống phía nam, giành lấy Đông Di. Từ thời Tề Hoàn Công đến nay, lãnh thổ của người Đông Di đã bị Tề thôn tính quá nửa, Người Đông Di bị bức lại di chuyển xuống phía nam, hiện nay đã không còn đường lui. Bị bức bách người Đông Di tổ chức thành liên minh bộ lạc chống lại Tề quốc, bầu ra Doanh Thiền Nhi hậu duệ của Thiếu Hạo làm nữ vương. Họ rất có thực lực tổ chức liên bang tạo thành một nước. Điều này Tề quốc từ khi bắt đầu lại chưa lường trước được.

Lỗ quốc lo lắng một khi Tề quốc thâu tóm được bộ lạc Đông Di, sẽ hình thành tư thế bao vây một nửa nước Lỗ. Khi ấy nước Lỗ sẽ hoàn toàn bị quản chế bởi nước Tề. Do đó Lỗ quốc tuy không có dã tâm mở rộng lãnh thổ, nhưng trước tình hình nguy cấp lại quả quyết xuất binh ngăn cản quân Tề xuống phía nam. Quân Tề lại bị ngăn cản, nhuệ khí dần tiêu tan. Trong lúc đó Hạp Lư liên minh Ngô quốc bị giết. Nước Tấn và Tần Sở chuẩn bị đình chiến nghị hòa, muốn lấy Đông Di đã không có điều kiện. Thế là Tề quốc lại chiếm thế thượng phong. Dưới nỗ lực thúc đẩy của Yến tướng, Quốc quân Tề quốc cuối cũng quyết định gặp quốc quân Lỗ quốc nghị hòa đình chiến.

Đây chính là tình hình hiện nay. Lỗ quân Cơ Tống vừa mới trở thành quân vương một nước liền chủ đại sự cùng Tề quốc tác chiến, hơn nữa lại ép buộc Tề quốc nghị hòa. Điều này khiến uy danh của hắn tức khắc nổi lên như cồn. Tuy mới trở thành quốc quân chưa đầy hai năm, nhưng so sánh với phụ thân ở Lỗ quốc thì sức ảnh hưởng của hắn lớn hơn nhiều.

Từ khi hắn lên ngôi trọng dụng Khổng Khâu cho đến nay, Khổng Khâu đã giúp hắn dự tính, xây dựng lại quyền lực quốc quân. Thực hiện đại kế phu tử quân thần chi trị. Thành quả tác chiến với Tề khiến kế hoạch này có tia hy vọng.

Nhưng cùng lúc đó Triển Chích, Trọng Lương Hoài, Công Sơn Bất Nữu lại tạo phản. Triều đình nhiều lần bao vây tiễu trừ nhưng hiệu quả không nhiều. Đối với hắn kế hoạch xây dựng lại uy quyền của Quốc quân, thay đổi hiện trạng cường chi nhược can của Tề quốc tạo thành uy hiếp rất lớn. Đây là thử thách nghiêm trọng nhất đối với năng lực chấp chính của hắn, khiến hắn ăn ngủ không yên.

Hắn cần phải cân nhắc làm thế nào để giải quyết tranh chấp Tề Lỗ, làm thế nào để dẹp yên bọn tạo phản Triển Chích, làm thể nào để chỉnh hợp lực lượng của Tam Hoàn, hùng mạnh quân quyền. Những quốc sự này đối với hắn mà nói thực là lực bất tòng tâm. Đồng thời, Tiểu Ngải, người con gái mà hắn ái mộ từ thuở nhỏ đã trở về, nhưng lại có tin đồn lan truyền nàng muốn lấy Khánh Kỵ người đứng đầu Ngô quốc. Chuyện này khiến Cơ Tống trong lòng vừa hận vừa đố kỵ. Bao nhiêu lần hắn tìm gặp Quý Tôn Ý Như thương lượng, nhưng Quý Tôn Ý Như cáo già xảo quyệt, thái độ mập mờ. Bây giờ thì sứ giả cầu hôn của Ngô quốc đã đến rồi, hắn lại không chịu biểu hiện rõ ràng thái độ. Cơ Tống lúc này thân ở Giáp Cốc nhưng tâm trí thì còn vướng bận Tiểu Ngải trong thành Khúc Phụ. Nhiều nỗi băn khoăn tâm sự khiến trong lòng vị thiếu niên quân chủ hỗn độn ưu phiền, trên gương mặt không ngừng hiện lên nét lo âu.

“ Quân thượng bớt buồn rầu, có hạ thần ở đây, quân thượng cứ ung dung ứng đối. Tề quốc quốc quân đã chủ động đàm hòa, cũng có lý do không thể không đàm hòa. Lỗ quốc ta tuy yếu hơn Tề quốc nhưng thực lực cũng không dễ khinh thường. Huống hồ thần sớm đã có sắp đặt. Hội minh lần này quốc quân nhất định hoàn thành sứ mệnh, bình yên trở về.” Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Nhìn Cơ Tống tinh thần bất an, Khổng Khâu liền nói những lời động viên. Nói xong ông liền hướng ánh mắt dò hỏi sang viên võ tướng bên cạnh. Viên tướng quân khẽ gật đầu, biểu thị mọi chuyện đã sắp xếp ổn thỏa. Gương mặt Khổng Khâu liền nhẹ nhõm một chút.

Khổng Khâu là hành nhân Lỗ quốc, am hiểu lễ chế. Đồng thời ông cũng là đại thần được Cơ Tống coi trọng nhất. Vì thế hội minh lần này phía Lỗ quốc do ông đảm nhận phụ lễ, sắp xếp các việc của hội minh. Không Khâu nói ung dung khiến Cơ Tống trong lòng cảm thấy có chút yên tâm, gật đầu nói: 

“ Quả nhân hiểu ra rồi, mọi thứ xin nhờ vào Khổng khanh”. 

“ Vâng, thần sẽ dốc hết khả năng, nhất định bảo đảm nghị hòa thành công, nhất định bảo vệ quân thượng an toàn, nhất định không để uy danh của Lỗ quốc ta suy yếu trong tay quân thượng.”

Khổng Khâu chắp tay vừa nói dứt lời, nhìn phía trước cửa cốc sứ giả Tề quốc đã tới nghênh đón đoàn xe của Lỗ quân, trong lòng thầm nghĩ: 

“ Lần này đàm phán liên minh với Tề quốc, là lần đầu tiên Quân thượng và Khổng Khâu cùng quân chủ nước họ gặp mặt, ta nhất định phải hết sức cẩn thận, cố gắng đạt được hòa đàm, không cao ngạo không tự ti, dựa vào lý lẽ mà đấu lý, không để xảy ra bất cứ chuyện gì bôi nhọ danh sự quốc thể, đảm bảo chắc chắn uy danh của quân thượng không giảm sút.

Nghĩ tới đây, Khổng Khâu nắm chặt bội kiếm bên hông thở một hơi dài.

Trong Giáp Cốc, Tề quốc quốc quân Khương Xử Cữu đã sai người dựng lên một cái đài cao, quan viên Tề quốc theo cấp bậc khanh đại phu lần lượt đứng trên cao đài, thấy đoàn xe của Lỗ quốc vào Cốc, nhìn không chớp mắt, hết sức trang nghiêm.

Khổng Khâu nhìn thấy liền mỉm cười, ra hiệu cho thuộc hạ. Xe trượng của Lỗ quân Cơ Tống dừng lại, một người được sai leo lên trước yết kiến xướng to, báo cho Tề quốc quốc quân Khương Xử Cữu đang trên cao đài biết, sau đó mới bắt đầu nghi thức. Lỗ quỗc thần tử cũng đứng ngay ngắn thứ tự leo lên bậc thềm. Khổng Khâu thì theo phía sau Cơ Tống, mang theo kiếm lên đài.

Khổng Khâu đã sớm sai người đi báo Lỗ quân giá đáo, Khương Xử Cữu có làm như không nghe thấy cố ý lề mề chậm chạp cũng không được, chỉ còn cách đứng lên xuống bậc thềm đón chào. Cơ Tống theo lời dặn dò của Khổng Khâu không chút hoang mang, bước đi điềm tĩnh, tuy nhìn thấy Khương Xử Cữu chắp tay đứng ở bậc trên nhưng cũng không vội vàng không chậm chạp, ung dung bước tới trước mặt Khương Xử Cữu mới hành lễ vái chào hỏi thăm.

Hai vị quân chủ hàn huyên một lúc, Khương Xử Cữu tóc trắng xóa sóng vai cùng Cơ Tống lên đài, người bên trái người bên phải cùng ngồi xuống. Hai vị quốc quân lần này hội minh, nhân vật chính trị quan trọng nhất của Lỗ quốc là Lỗ quốc Tam Hoàn và hai thế lực chính trị lớn nhất của Tề quốc là thủ lĩnh Yến Tử và Điền Khất đều không xuất hiện. Trên thực tế, muốn đạt được mục đích gì, giới hạn có thể nhượng bộ thấp nhất là bao nhiêu, trước khi hội minh đàm phán, bọn họ đã sớm có quyết định rồi. Vốn cũng không cần thiết bọn họ phải đến nơi này để hóa trang lên sân khấu cùng với đối phương giương thương múa kiếm một phen. Khi một sự kiện đã được đặt lên bàn đàm phán, tác dụng chủ yếu của nó sẽ biến thành một màn chính trị đẹp mắt. Từ cổ chí kim, xưa nay đều như vậy.

Hai bên ngồi xuống lại hỏi thăm nhau một hồi. Lời khách sáo nói xong rồi, phụ lễ Lê Di của Tề quốc liền lấy ra hiệp ước nghị hòa sớm viết đâu vào đấy thao thao bất tuyệt đọc lên. Tề quân Khương Xử Cữu vê vê ria mép mỉm cười, dáng vẻ ung dung. Cơ Tống thì chăm chú lắng nghe. Khổng Khâu ngồi quỳ bên cạnh Cơ Tống vừa tập trung lắng nghe Lê Di đọc rành rọt hiệp ước vừa lặng lẽ quan sát thần sắc của Khương Xử Cữu và đám chúng thần Tề quốc.

Đợi khi nghe xong nghị hòa hữu hảo Tề Lỗ, “cùng nhau xuất binh thảo phạt Đông Di, đất đai chiếm được sẽ phân chia cho hai bên”, Khổng Khâu lạnh nhạt cười, dùng ngón tay chọc nhẹ vào sau lưng Cơ Tống. Cơ Tống tinh thần đột nhiên rung lên, trong lòng thầm nghĩ: 

“ Không ngoài dự liệu của Khổng khanh, bọn Tề quốc quả nhiên dã tâm không bỏ. Cùng xuất binh phạt Đông Di ư? Nói hay thật. Lỗ quốc ta luôn luôn vì lợi ích quốc gia dân tộc mà nhường nhịn nhau, hoà thuận hữu hảo với nước bạn. Há có thể vì thế mà phá hủy uy danh nhân nghĩa mấy trăm năm của Lỗ quốc ta, phá hoại quốc sách dài lâu vì lợi ích quốc gia dân tộc mà nhường nhịn nhau của Lỗ quốc ta. Thêm nữa, hiện nay Triển Chích vẫn đang gây loạn, kiềm chế quân lực của quả nhân, nếu hai nước cùng xuất binh, lãnh thổ chiếm được thuộc về hai bên, Lỗ quốc ta có thể xuất bao nhiêu binh? Có thể chiếm được bao nhiêu? Không được. Vì ngăn cản Tề quốc các ngươi chân tay vươn đi quá xa, Lỗ quốc ta mới xuất binh ngăn cản, nếu đồng ý điều kiện, thế chẳng phải biến thành các ngươi đã đạt được mục đích rồi sao. Như thế mục đích quả nhân đến đây lần này là vì cái gì?”

Cơ Tống lập tức cất cao giọng nói: 

“ Hãy khoan. Lỗ quốc ta luôn kết hảo lân bang, láng giềng chung sống hòa thuận, hành đạo nhân nghĩa, vì lợi ích quốc gia dân tộc nhường nhịn nhau, không đánh những trận chiến bất nghĩa, không xuất binh vô danh. Bộ lạc người Đông Di không hại gì đến chư quốc, quả nhân làm sao nhẫn tâm hành quân làm hại? Tề Lỗ đình chiến hữu hảo là điều quả nhân mong muốn. Nhưng cùng xuất binh thảo phạt Đông Di, xin hỏi Đông Di có tội danh gì mà cần Tề Lỗ liên minh xuất binh thảo phạt? Phu thiên hạ giả, đều là con dân của thiên tử, lễ nhạc chinh phạt tự Thiên Tử xuất, không phải vương mệnh. Yên lòng mà lấy danh Thiên Tử thảo phạt thiên hạ? Điều này vạn điều không thể.”

Khương Xử Cữu nghe Cơ Tống bài trí từ trước đem Chu Thiên Tử ra, trong lòng vô cùng không cho là đúng. Nhưng Tề quốc luôn đánh chiêu bài “ Tôn Vương nhưỡng Di” thôn tính các nước chư hầu, mở rộng lãnh thổ. Hắn đương nhiên không thể trước mặt công chúng mà phủ nhận quyền uy tuyệt đối của Chu Thiên Tử. Lê Di nghe Cơ Tống nói lý do từ chối không khỏi lâm vào thế khó xử, không thể tiếp tục đọc tiếp được, chỉ còn cách nhìn về phía Quốc quân.

Khương Xử Cữu nhíu lông mày trắng định nói tiếp thì Cơ Tống đã chuyển ngữ khí nói: 

“ Tề quốc là đông phương đại quốc, lấy nhân nghĩa mà chinh phục tứ phương, đức cao vọng trọng, uy danh vang tới tận nơi biển xa. Theo quả nhân thấy, sớm muộn gì tất Mông Thiên Tử ủy nhiệm trưởng chư hầu, nếu như có một ngày Tề quân trở thành bá chủ các phương. Khi đại hành vương trị, thảo phạt các nước chư hầu bất nghĩa, nếu có lệnh quả nhân chắc chắn phụng mệnh làm theo.”

Khi Khương Xử Cữu ở trong nước đã bàn bạc bí mật với các đại thần tâm phúc, biết rằng Lỗ quốc không hề có dã tâm thôn tính nước khác, cũng không muốn thế lực của Tề quốc vươn xuống phía nam mới xuất binh ngăn cản Tề quốc xuống Nam xâm lấn Đông Di. Muốn họ hợp lực phân chia Đông Di, khả năng xảy ra tương đối nhỏ. Bây giờ thấy Lỗ quân Cơ Tống lời lẽ đanh thép, ngữ khí khước từ rất kịch liệt, biết rằng việc này khó thành nhưng Khương Xử Cữu chưa từ bỏ ý định vẫn ra sức khuyên nhủ. Cơ Tống thì lại bám vào chưa phụng mệnh của Chu Thiên Tử, không xuất binh chinh phạt. Hai bên thảo luận rất lâu. Khương Xử Cữu cuối cùng bất đắc dĩ ra hiệu Lê Di bỏ điều ước đó đi. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Tiếp tục đọc, trong hòa ước Tề quốc lại đề cập tới trong tương lai nếu Tề quốc có khai chiến với một nước hầu nào đó, Lỗ quốc nhất định phải phái đi ít nhất 300 xe thừa binh trợ chiến, nếu không chính là phá hoại liên minh. Điều này trong đối sách Quốc quân thần bàn bạc chưa từng nghĩ tới. Cơ Tống vốn có sự chuẩn bị ứng đối từ trước cũng không khỏi ngây người. Trong lòng tuy biết không ổn nhưng không biết nên phản bác lại thế nào.

Khổng Khâu ở sau lưng ra hiệu với Cơ Tống vài lần, thấy Cơ Tống lúng túng không nói lên lời, trong lòng nôn nóng liền đứng thẳng lên thay Cơ Tống phản bác nói: 

“ Lê Di đại nhân dừng lại đã. Lỗ quốc ta không phải là quy thuộc Tề quốc. Dụng binh xuất binh là quyền tự chủ của Lỗ quốc ta, Tề quốc nếu có khai chiến với nước khác, Lỗ quốc ta dựa vào cái gì phải xuất binh tương trợ?”

Tề quân Khương Xử Cữu cười híp mắt nói: 

“ Tề Lỗ kết minh, là huynh đệ chi bang. Tề quốc có sự, huynh đệ tất nhiên nên tương trợ. Đương nhiên, nếu Lỗ quốc muốn khai chiến với nước khác, quả nhân tất nhiên không thể làm ngơ, phải xuất binh tương trợ.”

Khổng Khâu nói: 

“ Theo lời Tề quân nói, hai nước minh ước đã định, tình như huynh đệ, lẽ ra phải cùng nhau trông coi, đồng tâm hiệp lực?”

“Đó là điều đương nhiên.”

Khổng Khâu hành lễ lạy dài, nói: 

“ Nếu như thế thỉnh Lê Di đại phu thêm một điều ước nữa. Minh ước đã định, Tề quốc sẽ trả lại các vùng đất đã chiếm trước kia của Lỗ quốc là Vận, Ninh Dương, Quy Âm, Vấn Dương… để tình nghĩa huynh đệ chi bang được vẹn toàn.”

“ Điều này…” 

Lê Di ngẩn người, theo bản năng nhìn về phía Khương Xử Cữu. Khương Xử Cữu thẹn quá hóa giận, đập bàn nói: 

“ Làm gì có cái lý đó. Quả nhân hết sức chân thành, có lòng cùng Lỗ quốc hữu hảo. Người Lỗ các ngươi lại không hề có thành ý, vô cớ đùa bỡn quả nhân, Tề quốc tôn nghiêm, há dễ khinh thường!”

Khương Xử Cữu đập bàn, dưới đài đột nhiên xông ra một đám võ sĩ mặc áo giáp, tay cầm dao cung tên vây quanh đám người của Cơ Tống. Những người này đều là võ si Lai Di, cũng thuộc tộc người Đông Di, bởi vì nhiều năm trước bị Tề quốc thôn tính nên bây giờ phục vụ cho Tề Quốc. Nhưng võ sĩ Lai Di vẫn còn giữ nguyên một số đặc điểm tộc người của họ, đầu cắm lông gà, trên mặt vẽ những vết to màu đất, thế võ lộ ra tính hoang dã.

Khổng Khâu bình thản không hề sợ sệt, đưa tay ra ngăn, võ sĩ thuộc hạ cũng chạy lên vây quanh bảo vệ Cơ Tống mặt mày đang tái mét, giương cung bạt kiếm giằng co với võ sĩ Lai Di. Còn Khổng Khâu thì một mình cầm kiếm đi lên phía trước, hằm hằm bước lớn đi tới trước mặt Tề quân Khương Xử Cữu. Nghiêm nghị quát lớn: 

“ Hai vị Quốc quân đã hội minh hòa hảo, tại sao lại dùng người Lai Di lấy vũ lực uy hiếp? Đây là cách thức mà Tề quốc mệnh lệnh chư hầu sao! Duệ bất mưu hạ, Di bất loạn Hoa, phù bất can minh, binh bất bức hảo. Ngài làm như thế này, thần vi bất kính, đức vi khiên nghĩa, nhân vi thất lễ! Đường đường Tề quốc, đường đường Tề quân, giữa ban ngày ban mặt lại dùng thủ đoạn như thế này, không sợ chư hầu thiên hạ chê cười sao?”

Khổng Khâu thân hình cao lớn cường tráng, tay án lợi kiếm, chòm râu như bị kích động, đôi mày rậm vểnh hẳn lên, khí thế khiến cho người ta sợ hãi, lời lẽ đanh thép, tiếng hét như sấm sét chấn động đến nỗi chiếc cốc trên bàn của Khương Xử Cữu rơi xuống đất xoảng một tiếng. Khương Xử Cữu nhìn thấy sức mạnh như thế thì không khỏi khiếp đảm.

Trước kia khi Khổng Khâu đến cậy nhờ Tề quốc cũng từng triệu kiến Khương Xử Cữu. Lúc đó cung cách của Khổng Khâu là một nhà bác học bậc túc nho, nho nhã lễ độ. Khương Xử Cữu chỉ biết Khổng Khâu thượng hiền hảo lễ, tuyệt nhiên không biết Khổng võ dũng mãnh phi thường như thế này. Phẫn nộ một trận lôi đình lại có thanh thế to lớn như thế. Nhìn thấy Khổng Khâu án kiếm phủ phục, mắt giận dữ nhìn hằm hằm, Khương Xử Cữu thật sự sợ Khổng Khâu liều lĩnh rút kiếm xông lên trên.

Hắn giờ đây đã già yếu rồi, có muốn chạy trốn thì chân tay cũng không linh hoạt nữa rồi, bên cạnh tuy có võ sĩ bảo vệ hầu hạ nhưng nhìn dáng vẻ Khổng Khâu, võ sĩ bên cạnh chưa chắc đã ngăn được hắn ta. Khương Xử Cữu vội vàng nói: 

“ Đám dã nhân Lai Di không biết lễ nghi. Ai cho phép các ngươi xông lên? Lui ra, lui hết ra!”

Đám võ sĩ Lai Di trên đài bị Khương Xử Cữu quát, vội vàng rút lui xuống phía dưới. Khương Xử Cữu hậm hực nói: 

“ Khổng đại phu mời quy tọa. Nếu Lỗ quốc không đồng ý liên minh xây dựng công thủ hỗ trợ, điều này bỏ đi cũng được. Khụ, Lê Di, ngươi tiếp tục đọc.”

Một hồi xung đột vô hình tiêu tan. Khổng Khâu quay lại đằng sau Cơ Tống. Lê Di tiếp tục đọc những điều ước dài dòng, Khương Xử Cữu thầm hận, trong lòng nghĩ ngợi : 

“ Lỗ quốc không chịu cùng quả nhân thảo phạt Đông Di, cũng không chịu lệ thuộc Tề quốc. Xây dựng công thủ đồng minh chẳng nhẽ lần này hợp minh hoàn toàn không được gì, cứ như thế này bỏ qua, hòa hợp êm thấm tiễn bọn chúng rời đi. Nếu văn đã không được, quả nhân tại sao lại không tìm cơ hội bố trí quân mai phục, dùng vũ lực cưỡng ép bắt Cơ Tống làm con tin, ép buộc bọn chúng phải ký kết hiệp ước cầu hòa với quả nhân?”

Khương Xử Cữu suy nghĩ, trong mắt ánh lên một tia đen tối gian ác. Đúng lúc này, một viên võ tướng nhẹ nhàng tiến sát vào bên cạnh hắn, thì thầm vào tai hắn vài câu. Khương Xử Cữu đột nhiên giật mình, kinh ngạc nhìn Cơ Tống ngồi đối diện, sát khí trên mặt tức khắc giảm đi.

Hóa ra, tên võ tướng kia nói: 

“ Quốc quân, phía Lỗ quốc, trong khu rừng rậm, ở hai bên sườn của sơn cốc phát hiện số lượng lớn quân Lỗ mai phục.”

Đã biết Lỗ quốc có chuẩn bị, Khương Xử Cữu sẽ không thành công nếu đánh nhau, đành phải dẹp bỏ ý định dùng vũ lực. Đợi đến khi điều ước đình chiến nghị hòa dựa theo ý kiến của hai bên một lần nữa được định ra, do phụ lễ của hai bên tường tận đọc không sai một chữ, do Quốc quân hai nước đóng con dấu ngọc tỉ mang theo người, thì minh ước này mới được coi là đã ký kết. Hai bên văn võ nhìn thấy rồi mới thở phào nhẹ nhõm, không khí căng thẳng dần giảm xuống.

Tề quốc lần này là chủ minh quốc, nên phụ trách thủ tục tiếp đãi. Lê Di liền tiến lên phía trên nói: 

“ Dâng tiệc, tấu nhạc tứ phương.”

Tiệc rượu được dâng lên. Dưới đài trên những bậc thềm dài mâm cỗ cũng được bày lên, công khanh đại thần hai nước nhập tọa, chén rượu giao thoa, không khí liền được xoa dịu. Quan viên hai nước vốn quen biết nhau, còn bưng chén rượu sang kính rượu nhau. Trong bầu không khí thân thiện này hoàn toàn không nhìn thấy trước khi tờ giấy hiệp ước được ký kết, hai bên địch quốc bọn họ còn chỉ huy quân giao chiến.

Một đội nhạc công cùng vũ nữ được gọi lên trên đài, diễn hợp tấu khèn tiêu, các vũ nữ đẹp của Tề quốc đến bên quốc quân đại thần hai nước uống rượu góp vui. Những vũ nữ trẻ xinh xắn thanh tú, y phục rực rỡ trên người đẹp đến mê hồn. Cơ Tống rút cuộc cũng còn trẻ, vả lại ở Lỗ quốc luôn tuân theo Chu lễ, bình thường tất cả các vũ nữ múa hát làm gì có chuyện được mặc lộ liễu như thế kia, làm gì có sức mê hoặc quyến rũ như thế. Cơ Tống nhìn những vũ nữ dị tộc đầy tình cảm, hai mắt tham lam nhìn chằm chằm vào bộ ngực, bắp đùi tràn đầy sức thanh xuân lưu luyến không rời.

Những vũ nữ này dung nhan xinh xắn, vừa đánh trống vừa cười, quyến rũ mê hồn. Các nàng mặc chiếc váy lông vũ ngắn, bắp đùi tròn trịa thon dài đều lộ ra hết. Trên người mặc y phục nhiều màu sắc dệt bằng lụa tơ tằm, trên eo thon nhỏ lộ ra cơ bụng trắng như tuyết. Hai cánh tay như ngọc hồng óng ánh không che đậy, trên cổ tay buộc một chuỗi chuông đồng múa lên nhẹ nhàng thực sự muốn trêu người, khiến Cơ Tống ngẩn ngơ si mê, ngồi trên ghế mà như mất hồn, Khương Xử Cữu nói chuyện với hắn hắn cũng không có phản ứng gì. Khương Xử Cữu và đám quần thân Tề quốc không khỏi cười thầm trong bụng.

Khổng Khâu nhìn thấy tức giận, lập tức đứng dậy tiến lên phía trên, cao giọng quát bảo ngưng lại nói: 

“ Tề Lỗ hai nước lúc này ngưng chiến nghị hòa, ký kết minh ước. Đây là đại sự thần thánh thiêng liêng, tại sao lại diễn tấu âm nhạc Di Địch, nhảy điệu múa Di Địch như thế này? Ta tin đây không phải chủ ý của Tề quốc quả quân, chẳng nhẽ là sự sắp xếp của Lê Di đại phu? Đây chính là ngài vì Tề quốc phụ lễ, sắp xếp như thế này hợp lý sao?”

Khương Xử Cữu xưa này không thích cái thứ nhã nhạc cung đình nghe mà khiến người ta mệt mỏi muốn ngủ, ngược lại lại thích ca hát tạp kỹ hài kịch. Vũ nhạc Man Di, điệu múa của tộc người Di này có phong vị đặc biệt, đang là thứ Tề quốc quốc quân Khương Xử Cữu yêu thích nhất, không ngờ lại bị Khổng Khâu chê bai bài xích. Khổng Khâu kia từng câu từng chữ đều dựa vào Chu lễ, Khương Xử Cữu muốn phản bác cũng không được, va đúng phải kỳ đà cản mũi, Khương Xử Cữu đành phất tay lệnh cho đám vũ nữ lui xuống, trong lòng thầm căm hận: 

“ Thật may lúc đầu quả nhân không trọng dụng một tên ngu si dốt nát như hắn. Yến tướng cũng thường xuyên đến khuyên quả nhân nhưng cũng không giống hắn cứng nhắc vô vị như thế này.”

Yến tiệc há có thể không có ca múa, Lê Di bị ấm ức tiến lên trên đề nghị nói: 

“ Quốc quân, đã không tấu nhạc Di Đích, vậy có sai đám hát kịch trong cung Tề quốc ta để làm vui lòng khách không?

Khương Xử Cữu đang thấy khó chịu, mặt không biến sắc, liền hừ lên một tiếng nói: 

“ Ngươi đi sắp xếp.”

Trong chốc lát, hai nước quân chủ hội minh chủ trì trên đài, lại có một đám hề và người lùn đi vào. Tề quốc giàu có lớn mạnh, trong cung vốn không thiếu gì kiểu ca múa như thế, nhưng Quốc quân Khương Xử Cữu trước nay không thích kiểu vũ nhạc chính thức. Với hắn khi giải sầu không phải là ca vũ Di Đích thì sẽ là tạp kỹ hài kịch. Đám hề người lùn này mặc xiêm y muôn hình muôn vẻ tiến lên trên đài thật sự khiến người Lỗ luôn luôn câu nệ tôn nghiêm trong trường hợp chính thức này mở rộng tầm mắt. Đám quần thần dưới đài tức khắc thì thầm với nhau, bàn bạc sôi nổi.

Đám hề và người lùn vừa đứng lên trên đài liền ra sức diễn. Tiết mục của bọn họ vừa diễn được một lát, nét mặt Khổng Khâu liền biến sắc rất khó coi. Đám hề người lùn kia diễn tạp kỹ hài kịch chỉ cốt chế nhạo người uyên bác, động tác tức cười, lời lẽ thô tục. Khổng Khâu xem quả thực rất khó coi. Để quốc quân Lỗ quốc thưởng thức loại tiết mục này quả thật nhục nhã, điều này một khi truyền ra ngoài, cái gọi là Chu lễ xuất phát từ Lỗ quốc há chẳng phải trở thành trò cười cho thiên hạ chư hầu sao?

Khổng Khâu lập tức bước nhanh lên đài, quát lớn nói: 

“ Đám thất phu tiểu nhân kia, lấy hình dạng xấu xí dữ tợn trêu đùa chư hầu. Tội này đáng chém. Chờ lệnh quan xử trí!”

Khương Xử Cữu đang xem mặt mày tươi cười, nhìn thấy Khổng Khâu lại chạy ra phá rối, không khỏi tức giận, không đồng tình nói: 

“ Khổng đại phu sao lại kinh ngạc như thế? Những người lùn diễn kịch chẳng qua chỉ là diễn tạp kỹ hài kịch, chọc cho mọi người cười thôi, sao lại gây tội làm ô nhục chư hầu?”

Khổng Khâu nghiêm mặt nói: 

“ Quốc quân hai nước hội minh, các công khanh đại nhân có mặt ở đây đều là nhân vật bề trên của triều đình, không khí nghiêm trang nghiêm túc như thế lại có một đám thất phu tiểu nhân đến làm trò hề tác quái, trêu đùa vô ý, chẳng nhẽ vẫn không phải làm ô nhục chư hầu? Lỗ quốc quốc quân ưng thuận ký ước mà đến, chính là quý khách của Tề quốc, quân thượng nếu dung túng cho những kẻ tiểu nhân này, chẳng nhẽ coi thường Lỗ quốc quốc quân?”

Khương Xử Cữu không hề giận giữ, xua tay nói: 

“ Khổng đại phu nặng lời rồi, nặng lời rồi. Chẳng qua là gọi bọn họ lên đài ca tạp kỹ một chút, làm mọi người vui vẻ…”

Khổng Khâu chắp tay ngăn lời Khương Xử Cữu lạnh lùng nói: 

“ Theo Chu lễ, thất phu tiểu nhân mà mê hoặc người chư hầu, tội đáng chém, nếu không trừng trị tội chết, uy nghiêm quân thượng ở đâu? Quốc quân nước ta chịu nhục, thân là thần tử, Khổng Khâu cảm thấy chẳng khác nào mình chịu, giận không thể ngăn. Nếu Tề quân không đành lòng trị tội, Khổng khâu nguyện cống hiến chút sức lực. Người đâu!”

Phía Lỗ quốc đột nhiên xông ra một đám binh tướng, Khổng Khâu một tay chỉ lớn tiếng quát: 

“ Đám hề diễn kịch này mê hoặc chư hầu, tội đáng chém, ngươi theo luật đem bọn chúng thủ túc dị môn nhi xuất (chém ngang lưng)!”

“Thủ túc dị môn nhi xuất” chính là hình chém ngang lưng. Khổng Khâu lần này đi dự họp đã sớm chuẩn bị. Cơ Tống mang theo bên mình những người này đều là những võ sĩ trung thành biết nghe lệnh hành sự. Vừa nghe hạ lệnh, một võ tướng lập tức dẫn đầu nhóm võ tướng sĩ Lỗ quốc như hổ như sói tóm gọn đám hề người lùn.

Đám hề người lùn này không còn khả năng sinh tồn, chỉ biết chút ca hát tạp kỹ diễn một vài tiết mục, vừa hay Khương Xử Cữu lại thích trò này, bọn họ mới có thể mưu sinh kiếm bát cơm ở Tề quốc. Nào đâu biết diễn kịch tiêu khiển lại liên quan đến tội danh nghiêm trọng làm ô nhục chư hầu, dẫn đến họa sát thân. Bọn họ lập tức quỳ xuống cầu xin tha mạng, tới tấp dập đầu, mồm năm miệng mười nói: 

“ Quân thượng tha mạng, đại phu tha mạng, tiểu nhân hèn mọn không biết quy tắc lễ nghĩa, chỉ là cố gắng những gì tiểu nhân có khả năng làm vui lòng quý thượng. Quân thượng khai ân, đại phu khai ân, xin tha mạng cho bọn tiểu nhân.”

Khổng Khâu ngang tàng muốn giết bọn họ để ra uy, lấy lại thể diện lễ nghi cho Lỗ quốc, tìm cách giành được danh tiếng cho Lỗ quân. Khổng Khâu nghe xong bọn họ cầu xin, không mảy may động lòng, lạnh lùng cười quát lớn: 

“ Chấp hành!”

Những võ sĩ kia thực sự cần thể hiện vũ dũng của người Lỗ trước mặt người Tề để tránh cho Tề quốc coi thường Lỗ quốc, cho rằng Lỗ quốc chỉ biết khiêm tốn thủ lễ, không có dòng máu anh dũng. Họ lập tức bắt đám hề đào kép mang xuống dưới đài, không chút nương tay hành hình chém ngang lưng ngay trước đám quần thần hai nước. Trong chốc lát máu vung ra khắp nơi, gan phủ tạng chảy ra. Hình thù kì dị khiến cho rất nhiều công khanh đại thần Tề quốc kinh hãi mặt không còn chút máu, chỉ muốn nôn mửa. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Khương Xử Cữu mặt mày tái mét ngồi trên đài, hai tay vịn vào bàn run rẩy, không nói lên lời. Hắn có phục binh, nhưng Lỗ quốc cũng có phục binh. Mặc dù hận tím mặt nhưng hắn lại không thể làm bừa tỏ ý căm hận, đành để trong lòng. Hội minh kết thúc, Quốc quân hai nước Tề Lỗ chắp tay vái chào cáo biệt, mỗi người lên xe trở về, xe giá quay về. Vừa rời Giáp Cốc, Cơ Tống liền vui sướng cười lớn: 

“ Khổng Khanh hữu dũng hữu mưu, sát phạt quyết đoán, thể hiện uy phong, khiến Lỗ quốc ta mở mày mở mặt. Hội minh ở Giáp Cốc lần này, thanh uy của Lỗ quốc vững tại Tề quốc rồi. Ha ha ha…

Chương 250 

Binh quý thần tốc 

Nhóm dịch: huntercd

Nguồn: vipvandan

Hồ nước bị gió thổi dậy lên từng đợt sóng, cỏ lau sậy bên hồ dần mất đi màu xanh bị gió thổi phát ra những tiếng ào ào. Mùa này không phải là ngày vụ, những người dân sống nhờ vào đất trong mùa này thường thì khá nhàn rỗi. Những năm nay lại khác, họ có rất nhiều việc để làm.

Các thanh niên trai tráng đi đốn củi, làm thuyền, kiếm thêm thu nhập nuôi gia đình, có người lại đến bãi muối đang xây dựng làm việc. Còn những phụ nữ và trẻ em già yếu thì ở bên hồ đan lưới đánh cá. Một tấm lưới to được người ta dùng dây thừng buộc ở giữa hai cây lớn, có năm sáu người đang đồng tâm hiệp lực đan mắt lưới. Họ tuy tuổi cao nhưng thủ pháp rất thành thục, làm cái nghề này một cậu thanh niên cũng chưa chắc đã làm nhanh bằng họ. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Một đại hán đầu vấn khăn vải, người mặc áo dài ngắn làm bằng vải sợi gai cũng ở giữa bọn họ, một tay giơ một cây trúc cùng hai người già phối hợp đan tấm lưới to, đồng thời cao giọng nói cười:

“Đúng thế, ta đã thám thính qua rồi, từ Ngũ hồ đến Nam Vũ hồ chỗ chúng ta đây, theo hướng đông bắc có đường sông rất rộng, ở giữa chỉ một vài chỗ bị tắc nghẽn, chỉ cần dọn dẹp sạch là thuyền có thể thông hành một cách thuận tiện. Từ Nam Vũ hồ chỗ chúng ta lại quay ngược trở lại, là đến Vọng Ngu hà khẩu,cách Đại Giang rất gần, đại khái chỉ còn hai ba dặm nữa là có thể trực tiếp đi thẳng vào Đại Giang. Sau khi khơi khoét đường sông đó ra, từ chỗ chúng ta ở đây, dựa vào một chiếc thuyền có thể theo hướng tây đến đô thành Cô Tô, theo hướng bắc đến Đại Giang, sau đó ngược dòng mà lên Kinh Bắc, hoặc theo hướng đông vào Đại Hải, còn có thể trực tiếp qua sông vào Đông Di, Trần Quốc, Tống Quốc, Lỗ Quốc…

Cho nên chúng ta ở bãi muối này làm muối, đợi thuyền lớn lưới rộng làm xong, đội tàu ra biển đánh bắt tôm cá, không lo không bán được. Đến lúc đó tất có nhiều thương nhân đến nhà thu mua. Các vị lão nhân à, hai năm nay thiên hạ không bình yên. Khi nào thiếu lương thực lúc đó tôm cá, muối của chúng ta vẫn có thể bán được giá, hãy chờ mà xem, bỏ công sức không đến hai năm, nhà nhà ở đây sẽ giàu có.”

“Ây da, đương nhiên, đương nhiên, lời tốt lành của Thừa đại tướng quân mà.” 

Mấy lão nhân nghe rất vui vẻ, cười đến nỗi nếp nhăn nơi khóe mắt cũng nhô cả lên.

Một thanh niên trên dưới hai mươi tuổi mang theo hai cái tiểu lại đi tới. Lau lau mồ hôi trên mặt, hướng vào đại hán áo sợi dài chắp tay nói:

“Hạ quan Thạch Trạm bái kiến Thượng tướng.”

Hóa ra vị đại hán áo sợi dài chính là Thượng tướng quân Lương Hổ Tử đóng quân tại thành Nam Vũ Ngô quốc, hắn quay đầu lại nhìn, hỏi: 

“Ồ, nông hộ mới đến thu xếp ổn cả rồi?”

Thạch Trạm mừng phấn khởi đáp: 

“Vâng, các gia đình mới đến đây có mười một hộ, gồm ba mươi chín người, đã để binh sĩ giúp họ cất nhà, phân chia đất hoang để họ trồng trọt cày cấy. Lúc này đúng mùa nông nhàn, vừa hay kịp khai hoang. Trong đó có mấy thanh niên trai tráng được hạ quan sắp xếp đến bãi muối, xưởng thuyền làm việc. Theo hạ quan thấy, với tốc độ người dân hội tụ, đến đầu mùa xuân sang năm, một thành mới sẽ xuất hiện.”

Thạch Trạm này là người nước Tống, là một quý tộc lụi bại. Tuy rằng học vấn tứ thuật lục nghệ, học thức đầy người, nhưng gia đạo suy bại, cầu sĩ vô môn, không những tiền đồ vô vọng, mà quê nhà còn phải chịu sự ức hiếp, lăng mạ của những kẻ dựa vào kinh doanh buôn bán mà dần dần trở nên giàu có. Nghe nói Ngô quốc quảng chiêu sĩ tử liền dẫn cả nhà đến Ngô quốc.

Được Khánh Kỵ đích thân kiểm tra thu nhận, phái đến làm thuộc hạ của Lương Hổ Tử. Hiện nay ở Nam Võ đông thành mười dặm, mới định rõ một vùng, các hộ gia đình đang không ngừng gia tăng, theo việc mở rộng quy mô, đã xác định biên chế thành huyện, mệnh danh là Bắc Võ huyện. Sau khi hắn ta đến đây, liền trở thành thừa huyện Bắc Võ huyện, chủ quản dân chính nơi này. Hiện giờ Ngô quốc phàm là từ trên đất hoang xây lên khu vực hành chính nhưng đại thể không phân ấp phong kiến mà nhất loạt thiết huyện lập quận.

Thạch huyện thừa đáp xong liền nói: 

“Thượng tướng quân triệu hạ quan đến, không biết có điều chi dặn dò?”

Lương Hổ Tử đưa cây trúc cho một lão nhân đan lưới, xoay người đi đến trước mặt hắn, cùng hắn sóng vai vừa đi vừa nói: 

“Bắc Võ huyện dựa theo dân số gia tăng, đã dần trở thành huyện thực thụ, đều nhờ vào huyện lệnh và ngươi huyện thừa đại nhân, ngươi đã phải bận rộn rồi. Hôm nay trong triều lại phái đến năm sĩ tử mới thu nạp. Hai người là người nước Ngô, còn lại ba người đến từ nước Sở, nước Trần và nước Thái. Ta chọn ra trong số đó hai người cho ngươi,một người thiên về quản lý tài vụ, đến huyện sẽ nhận chức khố sắc phu (chủ quản tiền nong tạp vụ), người kia làm huyện Tư Khấu. Bắc Võ là tân thành, dân số đến từ nhiều nơi khác nhau, nhiều người nói còn nặng tiếng địa phương, khi giao tiếp với người khác đều rất khó khăn, có nhiều người chơi bời lêu lổng quen rồi, vốn là lưu manh thích đánh nhau, cần phải sớm có người quản thúc, tránh sinh chuyện thị phi.”

Thạch Trạm đang cảm thấy công việc ngày càng nhiều, có phân thân cũng không làm hết, vừa nghe nói phái đến cho hắn hai trợ thủ đắc lực thì không khỏi vui mừng khôn xiết, Lương Hổ Tử nói: 

“ Đi, chúng ta về thành, ta đưa ngươi đi gặp bọn họ, sau đó ngươi dẫn người của ngươi đi.”

Trước mắt khu vực Nam Võ chưa có chủ quản dân chính quan viên trông coi việc chăn nuôi, nên Lương Hổ Tử tạm thời kiêm quản lý dân chính và quân vụ. Sau khi hắn đến thành Nam Võ liền mạnh mẽ quả quyết luyện binh khai hoang, đóng thuyền đan lưới, nỗ lực đưa quân Ngô mà hắn dẫn đầu luyện thành đội ngũ thủy quân vừa quân vừa nông.

Giao thông nội địa Ngô quốc đa phần đi trên sông ngòi, coi thuyền là xe, coi mái chèo là ngựa, vì thế vị trí của thủy quân vô cùng quan trọng. Lương Hổ Tử sau khi đến Nam Võ đã chọn ra một vài nơi thích hợp bỏ neo xây dựng bến tàu, xưởng sữa chữa, huấn luyện thủy quân trên hồ.

Về mặt dân chính, khích lệ dân chúng khai hoang trồng trọt, trồng nhiều các loại cây trồng như lúa gạo, kê, lúa mạch, đậu. Khích lệ họ đi thuyền đánh cá, dựa vào sông nước kiếm ăn. Phạm Lãi sau khi chủ chính, lại bày kế cho hắn ở khu vực ven biển khoanh vùng làm muối, mở rộng ruộng muối, khoanh bãi đánh bắt cá, bãi chăn nuôi. Những công việc làm muối, đánh bắt cá, dân chính, quân chính đều do Lương Hổ Tử đảm nhận khiến hắn bận tối tăm mặt mày.

May là Khánh Kỵ cũng biết hắn không giỏi về dân chính, mà thành Nam Võ vốn lại là thành trì chủ yếu dùng với mục đích quân sự, lực lượng quan viên nơi này cực kỳ yếu kém, thế nên Khánh Kỵ liên tục phái quan viên dân chính đến cho hắn. Họ đều là những thanh niên trẻ được cất nhắc trong đám các sĩ tử xin góp sức đến từ Ngô quốc và các chư quốc khác.

Ở thời đại này mọi người quan niệm về gia tộc rất nặng nề, họ coi trọng sự phát triển của gia tộc và tiền đồ cá nhân. Vì sự tiếp nối của gia tộc mà họ có thể không chút do dự hi sinh chính bản thân mình, nhưng quốc gia đối với họ mà nói, chỉ có khái niệm là nơi cư trú mà thôi, ngoài ra đối với họ không hề có can hệ trọng đại nào. Nếu là công khanh cha truyền con nối của quốc gia, vì sự vinh nhục của gia tộc, của cá nhân và sự hưng vong vui buồn của quốc gia có tương quan, thì còn tốt một chút, người dân bình thường thì hờ hững lãnh đạm hơn nhiều. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Những gia tộc mà tổ tiên của họ đã từng rất huy hoàng hiện giờ đã từ đại quý tộc suy bại xuống sĩ tộc, địa vị gia tộc không ngừng sa sút. Mà họ lại cảm thấy có chút bổn phận, chỉ là không được trọng dụng nên dễ dàng ra đi. Điều này có điểm giống với những người giữ chức vụ trong công ty ở thế kỷ 21, khi tiền đồ vô vọng thì không cam tâm chịu sa sút, nhảy sang một nơi khác.

Những người như thế một khi đến cậy nhờ Ngô quốc, đều muốn làm nên một điều gì đó. Bọn họ đa phần đều là thanh niên, dám nghĩ dám làm, tinh lực dồi dào, đầy bầu nhiệt huyết. Lại phần lớn có học thức năng lực, đối với Ngô quốc, một quốc gia thiếu thốn nhân tài trầm trọng thì đây đúng là một dòng máu tươi mới khó mà có được.

Nhờ vào việc quan viên dân chính liên tục gia tăng, trọng trách trên vai Lương Hổ Tử mới nhẹ dần. Hắn dẫn huyện thừa Bắc Võ trở về thành, giới thiệu rồi phân cho hắn hai quan viên, sau đó để hắn đưa về Bắc Võ nhậm chức. Thạch Trạm vừa bước đi liền có một kỵ binh cưỡi ngựa bay tới, mang đến quân lệnh triệu kiến khẩn cấp của Ngô Vương.

Lương Hổ Tử không biết Cô Tô đã xảy ra chuyện gì, trong lòng có chút lo sợ. Vội vàng đem công việc giao cho thuộc hạ, sau đó liền theo người mang tin cưỡi ngựa tốc hành trở về Cô Tô.

Đến thành Cô Tô Lương Hổ Tử mới biết Tề Lỗ sắp đàm phán hòa bình, Ngô quốc nếu không cấp tốc hành động sẽ mất đi thời cơ tốt nhất để chiếm Đông Di, Khánh Kỵ lệnh cho Lương Hổ Tử lập tức dẫn quân bắc thượng. Lập doanh trại đóng quân ở Đông Di, một khi Tề Lỗ nghị hòa thành công, Lỗ quân rút khỏi khu vực Đông Di, lập tức lấp vào vị trí Lỗ quân để lại.

Do hội nghị đồng minh vẫn còn cơ mật với Đông Di và Ngô quốc, nên lần này xuất quân liền tìm lý do khác là do nạn trộm cướp ở Đông Di và quân phỉ thường xuống phía nam quấy rối biên giới, cướp bóc tài sản của dân, nên lần này xuất quân là tiêu diệt toàn bộ nạn thổ phỉ, dẹp yên cho biên cương.

Lương Hổ Tử phấn kích nhận lệnh, Anh Đào đã giúp hắn chọn ra từ trong quân phòng ngự thành Cô Tô và quân đóng ở gần thành Vệ rất nhiều binh sĩ dày dặn kinh nghiệm chiến trận, tổ chức thành lực lượng tinh nhuệ luôn trong tư thế sẵn sàng chờ lệnh. Lương Hổ Tử phong trần chưa tẩy, liền đến nhận đội quân. Trong đội quân này có rất nhiều lão binh Lương Hổ Tử đã từng dẫn, bọn họ hiện giờ đều là quan quân giữ chức từ nhị Tư Mã trở lên, thế nên đội quân này tuy mới hợp thành nhưng Lương Hổ Tử vẫn dễ chỉ huy như thường, kỷ luật nghiêm minh.

Có câu quán ngữ: Binh mã vị động, lương thảo tiên hành. Hiện nay Văn Chủng coi giữ lương thảo của Ngô quốc, Lương Hổ Tử nóng lòng xuất binh, nghiệm thu quân binh, lập tức đích thân đến nhằm Văn Chủng thúc dục lương thảo, nhưng không ngờ cái tên “ Văn bủn xỉn” quả là danh bất hư truyền. Đối diện với Lương Hổ Tử một thượng tướng quân Ngô quốc mà Văn Chủng vẫn cứ rán sành ra mỡ, vắt chày ra nước. Cầm lấy danh sách số lượng lương thảo Lương Hổ Tử liệt kê, hắn chỉ ngón tay lẩm bẩm đọc giống như một tên nho sĩ, rồi lớn giọng kể lể Ngô quốc hiện nay các nơi dùng bao nhiêu tiền, một đại chưởng quỹ như hắn thật không dễ dàng. Lải nhải đến nửa ngày cũng không chịu trích cấp, cuối cùng khiến Thượng tướng quân Lương Hổ Tử bừng bừng tức giận.

Lương Hổ Tử túm lấy cổ áo của hắn, to tiếng gầm rít: 

“ Đừng nói với bản tướng quân những lời thối của nhà ngươi, không có lương thảo, ngươi để bản tướng quân xuất chinh tác chiến thế nào đây? Tề Lỗ một khi nghị hòa, e rằng Đông Di cũng lật lọng, không chịu quy thuận Ngô quốc ta, chuyện xuất binh không thể chậm trễ, ngươi dám gây khó khăn, việc đại sự như thế này ngươi chịu trách nhiệm được không? Ta không cần biết Thiếu Tư Đồ nhà ngươi là cái thá gì, tin hay không bản tướng quân cho ngươi một nhát kiếm.”

Lương Hổ Tử gào thét như sấm, nước bọt văng vào mặt Văn Chủng. Văn Chủng bị hắn giơ lên, hai chân gần như cách mặt đất, nước bọt trên mặt cũng không lau, đảo cặp mắt trắng dã, kỳ quái nói: 

“ Hóa ra thượng tướng quân cũng biết xuất quân không thể chậm trễ, nhưng lại không biết đại Tư Mã đưa cho tướng quân bao nhiêu nhân mã?”

Lương Hổ Tử thấy hắn hỏi số lượng binh mã, cứ nghĩ tên “ Văn bủn xỉn” này bị một phen chửi đau khiếp đảm tòng mệnh liền buông tay ra, căm giận nói: 

“ Một vạn nhân mã.”

“ Một vạn nhân mã, liệu có ích được việc gì?”

“ Ngươi thì biết cái gì!”

Lương Hổ Tử rất khinh thường những tên không có công lao trong chiến đấu, những tên quan chỉ dựa vào mồm mép vị cực nhân thần, anh cười lạnh nói: 

“ Binh quý thần tốc, bản tướng quân nhất định phải tranh thủ tiến quân đi, trước khi tin Tề Lỗ nghị hòa truyền đến tai người Đông Di. Lúc này tiến đến, người Đông Di hoan nghênh còn kịp. Khi bọn họ biết được tin Tề Lỗ nghị hòa, người Tề không xuống nam nữa, lúc đó họ muốn đổi ý thì khó rồi. Mở cửa đón chúng ta vào thì dễ, muốn đuổi chúng ta đi thì không phải chuyện đơn giản.”

Văn Chủng cười khà khà, chắp tay nói: 

“ Hóa ra … cần phải binh quý thần tốc, thụ giáo, thụ giáo. Tướng quân đã nói như vậy, Văn Chủng đã hiểu một chút rồi, nếu là chuẩn bị khối lượng lớn lương thảo lên phía bắc, đồ quân nhu quân dụng theo xe mà đi, như thế còn bàn gì tới binh quý thần tốc? Chỉ sợ khi tướng quân thong dong tới, người Đông Di đã hoan hỉ giải tán liên minh rồi, riêng phần mình dẹp đường về phủ.

Lương Hổ Tử ngây người nói: 

“ Thế có gì khó? Bản tướng quân có thể lệnh cho binh sĩ mang theo người lương thực của mấy ngày, đêm ngày hành quân như tên bắn đến Đông Di, lương thảo đồ quân nhu có thể đến sau.” Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Văn Chủng lại giống như tên nho sĩ tầm thường bấm vào đầu ngón tay nói: 

“ Một tên binh sĩ ngoài binh khí, áo giáp, mũ ra thì lương thực mang theo người nhiều nhất chỉ có thể đủ cho bảy đến mười ngày ăn. Ừm, trong khoảng thời gian này vừa đủ nhân mã của tướng quân đến được Đông Di. Sau đó thì sao? Lương thảo đồ quân nhu đi sau, ít nhất phải nửa tháng mới có thể đến được, không biết mười ngày tiếp theo tướng quân chuẩn bị sống như thế nào?

Lương Hổ Tử lại ngây người ra, nhất thời không biết trả lời như thế nào. Văn Chủng lẩm nhẩm nói tiếp: 

“ Còn nữa, lương thảo và đồ quân nhu này cần chuẩn bị một lượng lớn xe ngựa, phải chiêu mộ một đám ngự giả dịch phu. Những tên dịch phu này không biết phải hao tốn bao nhiêu lương thảo. Nhiều lương thảo như vậy không có quân đi áp tải, một khi bị kẻ khác cướp mất cắt đứt lương thảo của tướng quân thì tướng quân nói phải làm thế nào? Thế nên còn cần một nhóm binh sĩ đủ số lượng đi áp tải, những binh sĩ này trên đường cũng phải ăn uống chứ? Đến lúc đó, chuẩn bị hơn một trăm xe lương thảo, vận chuyển đến chỗ tướng quân cũng chỉ còn lại nhiều nhất là một nửa mà thôi, cũng không biết tướng quân có thể chống đỡ nổi đến khi lương thảo đến hay không…”

Lương Hổ Tử nghe lúc này giật mình lo lắng, phương pháp dùng binh đánh trận trên chiến trường đối với hắn không khó khăn gì. Nhưng, khi xưa lúc Khánh Kỵ vị Ngô quốc phạt Sở, hắn vẫn chỉ là một tên quan quân trung cấp dưới trướng Khánh Kỵ, quân nhu cung cấp vận chuyển phân phát không cần hắn phải nhọc lòng lo nghĩ. Công tử Quang đoạt ngôi, Khánh Kỵ chạy sang Vệ quốc, lại chỉ huy quân sát phạt Sở quốc. Trong thời gian đó, trên có liên bang Vệ, Sở cung cấp lương thực, khi trở về Ngô quốc lại dùng thuyền buồm lớn chở cả lương thực cả binh trở về, trận chiến đầu tiên giành thắng lợi, liền có các quan đại phu quý tộc âm thầm cung cấp lương thực, thế nên từ đầu tới giờ Lương Hổ Tử chưa từng gặp phải vấn đề lương thảo.

Hắn vì có nhiều công lao trên chiến trận mà có được địa vị cao như ngày nay, cũng chưa từng học qua binh thư sách lược. Trong cuộc đời binh nghiệp trước đây hắn cũng chưa có kinh nghiệm về vấn đề quân nhu cung ứng cấp phát, cho nên đã sơ sót vấn đề quan trọng như thế này.

Lương Hổ Tử kinh hãi toàn thân toát mồ hôi lạnh, song lại thấy Văn Chủng cười ngâm nga nói: 

“ Thượng tướng quân, lần này đi Đông Di, trong mắt người Đông Di tướng quân đến để giúp người Di chống lại ngoại xâm, có tướng quân ở đó, cơ hội bọn họ ra trận chém giết đổ máu ít đi nhiều, để người Đông Di cung cấp lương thực, bọn họ chắc không thể từ chối phải không? Trước mặt hai nước Tề Lỗ, tướng quân đánh cờ hiệu, nhưng xuất binh tiêu diệt thường vượt biên đánh bắt bọn phỉ hại con dân nước Ngô, tướng quân đến Đông Di nhất định cùng với họ đánh mấy trượng.

Ôi, cái thế đạo bây giờ là thứ dân bần cùng, chư hầu cũng bần cùng. Bởi vì thứ dân là người bị cướp bóc, chư hầu lại là người dùng binh tiêu tiền. Chỉ có hai loại người không nghèo, một loại là công khánh thế tộc, còn một loại, chính là thổ phỉ cường đạo. Tướng quân chỉ cần quét sạch hang ổ của bọn chúng. Đạt được những thứ bẩn thỉu của kẻ trộm chẳng nhẽ còn phải dán thông văn kiện công thị, chiêu người nhận lãnh hay sao?”

“ Hử?” 

Lương Hổ Tử mắt sáng lên. Thái độ ngạo mạn dần tiêu tan: 

“ Ý của Thiếu Tư Đồ là… dĩ chiến dưỡng binh, tựu địa thủ lương (lấy lương thực ngay tại chỗ để nuôi quân chiến đấu).

Văn Chủng cười đầu giống như đầu con hồ ly, vui mừng gật gật nói: 

“ Thượng tướng quân thấy kế này có được không?”

Lương Hổ Tử chắp tay, lớn giọng nói: 

“ Lương Mỗ thụ giáo, thỉnh Thiếu Tư Đồ đại nhân vì Lương Mỗ chuẩn bị mười ngày lương thảo, chiều nay Lương Mỗ sai người đến lấy, lập tức phát binh, thẳng hướng Đông Di!”

Khi hai nước Tề Lỗ ở Giáp Cốc liên kết đồng minh, thì đại quân mã của Lương Hổ Tử không ngừng đế đất đã đến Đông Di, nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt của bộ lạc người Đông Di. Lương Hổ Tử khước từ lời mời gặp mặt của nữ Vương Doanh Thiền Nhi, chỉ hướng về phía trước tới chỗ trưởng lão bộ lạc Đông Di đặt vấn đề, do đại quân của hắn tốc hành đến chi viện, lương thảo cung ứng không nhiều, hi vọng bộ lạc Đông Di có thể cung cấp để giải quyết khó khăn.

Bộ lạc Đông Di tuy kinh tế lạc hậu và cũng không giàu có gì, nhưng do trước nay ít khi liên quan tới chiến loạn, nên lương thực không quá túng thiếu. Mặc dù cung cấp lương thực cho đội quân một vạn người có chút trầy trật, nhưng nhiều ít cũng có thể lấy ra cứu trợ, nên trưởng lão đồng ý ngay.

Đợi trưởng lão Đông Di bước đi, Lương Hổ Tử lập tức theo chỉ thị của Tôn Vũ dẫn quân theo hướng tây lao thẳng tới Bành Thành. Bành Thành chính là Từ Châu sau này, nằm ở đồng bằng Hoàng Hoài, phía đông giáp Hoàng Hải, phía tây nối với Trung Nguyên, phía bắc tựa vào vùng núi Lỗ Nam, phía Nam được ngăn bởi đầm nước Giang Hoài, đường bộ tập trung, đường thủy thông suốt, lân cận có sông Biện sông Tứ hợp dòng. Xung quanh dãy núi nhấp nhô, đồi núi vây quanh trở thành tấm bình phong tự nhiên che chắn Bành Thành. “Độc sử phương dư kỷ yếu” viết: “ Bành Thành chi địa, nam thủ tắc lược Hà Nam Sơn Đông, bắc thủ lược khám Hoài Tứ, kinh doanh thiên hạ, há khả dĩ Bành Thành vi hậu đồ.” Có danh xưng “ Trấn quan trọng nằm phía nam, cửa bắc chính là chìa khóa”, “ Bành Thành thành hay bại, chính là có liên quan đến thịnh suy của nam bắc. Sau khi Triển Chích chỉ huy quân tạo phản, không thuyết phục được ý chí của Quý Thị Gia Thần, Trọng Lương Hoài, Công Sơn Bất Nữu cùng nhau tạo phản, lần lượt chiếm lĩnh nhiều nơi phong ấp của Quý Thị, Dương Hổ dẫn quân đi thảo phạt, thu lại được một vài phong ấp thành trì. Triển Chích mưu đồ đại kế phái Trọng Lương Hoài dẫn quân xuống phía Nam, nhân cơ hội hai nước Tống Vệ và nước Tấn đang giao chiến không có lực lượng trông coi phía đông chiếm giữ thành trì phía đông vốn thuộc về nước Tống

Chương 251 

Nội chính ngoại giao

Nhóm dịch: huntercd

Nguồn: vipvandan

Khánh Kỵ chí tại thiên hạ, trấn quan trọng phía đông Trung Nguyên này, nơi giao thông thủy lục xung yếu đã trở thành chiến lược yếu địa mà Tôn Vũ muốn có được. Vừa hay Trọng Lương Hoài giờ đây như kẻ ăn cướp Bành Thành, điều này đã cho Lương Hổ Tử một lý do đường đường chính chính xuất cảnh tiêu diệt bọn cướp, phát binh diệt giặc, nhân cơ hội chiếm Bành Thành, đông vọng Hoài Di, bắc ngăn Tề Lỗ, hô ứng cùng Đông Ngô bên sông.

Triển Chích và Công Sơn Bất Nữu đều là tướng lĩnh thiện chiến, hiện giờ đang tunh hoành ngang dọc ở Đông Di và tam phúc Lỗ quốc, giao chiến với Lỗ quốc. Trọng Lương Hoài tuổi lớn rồi, hai năm dẫn quân đánh trận chưa bì kịp Triển Chích và Công Sơn Bất Nữu, được phái đến Bành Thành trấn giữ. Bành Thành được coi là yếu địa chiến lược mưu cầu thiên hạ, đối với một nước không có dã tâm như nước Tống mà nói thì công dụng không nhiều. Hiện nay Bành Thành hướng bắc là sứ giả hòa bình Lỗ quốc, hướng đông là bộ lạc Đông Di không có quốc gia nào tồn tại, hướng nam là Việt quốc và Sở quốc ẩu đả hết năm này sang năm khác, thế lực trước nay chưa từng kéo dài đến Đại Giang để tới phía bắc của Ngô quốc. Có thể nói ở Bành Thành Tống quốc là nơi không có khả năng xảy ra chiến sự nhất, bởi vì hiệu quả sách lược hoàn toàn không biểu hiện được, hơn nữa biên thành này khá cằn cỗi đất đai bạc màu, do đó quân đóng giữ có hạn.

Hiện này bọn họ và Vệ quốc lại đang bận khai chiến với nước Tấn, phía đông không có lực lượng canh phòng. Vì thế thành trì này một khi chiếm lĩnh, Trọng Lương Hoài canh giữ trong thành quả thực là vững như thái sơn, phóng tầm mắt nhìn ra cũng không thể tìm ra lực lượng nào có thể hợp lại uy hiếp hắn. Nhưng hắn tuyệt đối không nghĩ ra, kẻ địch tại thời điểm không thể nhất bất thình lình lại xuất hiện ngay dưới mắt hắn.

Trọng Lương Hoài tuy không am hiểu chỉ huy quân chiến đấu, nhưng trước nay cũng tự khởi binh đánh mấy trận, quân Lỗ, Tề hay bộ lạc Đông Di đều giao chiến rồi. Nhưng nếu luận về đấu lực thì những đội quân này một chút cũng không sánh được với quân Ngô, huống hồ bây giờ bọn họ gặp lại là đội quân tinh nhuệ trong đội ngũ quân Ngô.

Lương Hổ Tử đột nhiên cho quân vây hãm bốn phía thành, đánh cho Trọng Lương Hoài không kịp trở tay, đáng sợ hơn là không biết quân Ngô đã sử dụng loại vũ khí nào mà từ trong rừng bắn ra một loạt thứ gì đó tròn tròn. Lúc ở phía xa xa vẫn là một vòng tròn đen nghìn nghịt, đến gần đã tản ra như một mảnh dây gai liên kết chặt chẽ, trong tay đều nắm hòn đá lớn nhỏ, ném tới đập vào đầu người vỡ ra chảy máu, binh lính canh giữ thành đổ ngã như mưa. Những binh lính này đều chưa trải qua thử thách chiến trận tàn khốc, ý chí chiến đấu rất yếu kém. Trong trường hợp bị công kích ngay khiên mây, khiên da cũng bị đập thủng, hoàn toàn không có cách nào chống đỡ được thì lập tức bọn chúng bỏ chạy tan tác.

Trọng Lương Hoài kinh hãi khiếp đảm, trốn xuống thành lầu, vội vàng chạy về phủ thu dọn đồ đạc, hoảng sợ mở thành chạy thục mạng. Vì sợ quân Ngô mai phục ngoài thành, Trọng Lương Hoài dặn dò thân binh mở rộng cổng thành bốn phía, chạy lẫn vào dân chúng trong thành, nhân lúc hỗn loạn, mới chọn một con đường chạy bán sống bán chết.

Khi Trọng Lương Hoài và Công Sơn Bất Nữu phản Quý Thị nương nhờ Triển Chích, mang theo rất nhiều tiền, lương thực và gia nô tôi tớ của Quý Thị Phong Ấp, cần người có người, cần tiền có tiền. Đáng thương cho Triển Chích không biết làm thế nào, rõ ràng biết Lương Trọng Hoài này không thể đỡ được đống bùn trên tường, nhưng cũng không thể không sắp xếp cho hắn một vị trí quan trọng, dẫn đến để gấu chạy mất, dễ dàng đánh mất một yếu địa chiến lược.

Khánh Kỵ ở Cô Tô nhận được tin của Lương Hổ Tử, vui mừng quá đỗi. Ngô quốc xuất binh đến Đông Di, đánh theo chiêu bài diệt thổ phỉ, lại được người Đông Di hoan nghênh tiếp đón, cũng được coi là ra trận nổi danh. Tin tức truyền đến Lỗ quốc, Lỗ quốc quần thần cũng có hoài nghi Khánh Kỵ không phải vì diệt thổ phỉ. Nhưng bọn họ cũng không nghĩ ra được sách lược ứng phó. Lại có tin tức truyền đến nói quân Ngô đánh bại Trọng Lương Hoài chiếm Bành Thành của Tống quốc, Lương Trọng Hoài mất rất nhiều lương thảo tiền của, sợ hãi chạy đến nương nhờ Công Sơn Bất Nữu.

Từ xưa tới nay, là người làm chủ hận nhất là tôi tớ của mình tạo phản. Lỗ quốc quần thần nghe nói Trọng Lương Hoài bại trận phải trở về, làm mất thành ấp quan trọng của Triển Chích thì không khỏi vui mừng hớn hở. Đúng là một người làm quan cả họ được nhờ, mượn thế lực của quân Ngô làm suy yếu thế lực của Triển Chích. Suy cho cùng mưu đồ của Triển Chích là giang sơn Lỗ quốc, mà người Ngô cho dù có mưu đồ, cũng là người Lỗ vốn không muốn đem lực lượng quân sự vươn sang lãnh thổ Đông Di.

Với Lỗ quốc Tam Hoàn, Quý Thị, Thúc Tôn Thị và Khánh Kỵ đều có liên hệ tương đối mật thiết. Nếu như bọn họ phải lựa chọn một trong ba người là người Tề hay người Ngô thống trị lãnh thổ Đông Di hoặc Đông Di tự lập kiến quốc, thì bọn họ tình nguyện chọn người Ngô. Dù sao thì Ngô quân và Lỗ quân cũng đồng tổ đồng tông, đều là dòng máu Cơ Thị, đây là trên đạo lý có thể thuyết phục được thần dân bản địa.

Từ góc độ chính trị mà nói, nếu thế lực người Ngô kéo dài đến tận đây, như thế đối với tình hình Lỗ quốc cũng rất có ích. Tề quốc sẽ không dám áp bức quá đáng Lỗ quốc. Một khi có sự, bọn họ có thể liên Ngô kháng Tề, cũng có thể liên Tề kháng Ngô, tùy vào Ngô để hành xử, mọi bề suôn sẻ, nâng cao ảnh hưởng của Lỗ quốc ra khu vực xung quanh. Suy xét đến hôn sự của Tiểu Man, Quý Tôn Ý Như vẫn bị ám ảnh. Vốn dĩ Lỗ quân Cơ Tống từ Giáp Cốc trở về, do uy danh của hắn tăng lên nhiều, quốc dân có chút quy thuận, Quý Tôn Ý Như cũng có chút thay đổi. Cơ Tống muốn lấy thân phận là quốc quân ép Tiểu Man vào cung làm Lỗ quân phu nhân, nhưng cái tin quân Ngô tiến lên phía bắc, hắn lại do dự, không biểu hiện rõ thái độ khi Cơ Tống hết lần này đến lần khác yêu cầu, hắn muốn kéo dài để xem tình hình.

Vì những nguyên nhân trên, người Lỗ quyết định tạm thời không phát biểu bất kỳ ý kiến nào đối với việc Ngô quân lên Bắc thượng. Thực ra nguyên nhân chính là bọn họ đang vì chuyện Lỗ quân muốn đề bạt Khổng Khâu làm Đại Tư Khấu mà tranh cãi liên hồi, bọn họ dồn hết tinh lực vào chuyện này.

Đại Tư Khấu là một trong sáu công khanh của Lỗ quốc, tuy nói không thể sánh được với thế lực lớn mạnh của Tam Hoàn, nhưng dù sao cũng danh chính ngôn thuận là quan đại thần Hình Bộ Thượng Thư quản lý hình án của Lỗ quốc. Hiện giờ thế lực của Lỗ quân so với trước dĩ nhiễn đã được nâng cao hơn rất nhiều, Tam Hoàn lại vì hai gia thần trọng yếu làm loạn mà mất đi không ít thực lực sức mạnh. Bên này mất bên kia tăng thêm, nếu như lại để vị trí Đại Tư Khấu vào tay Lỗ quân, đối với bọn Tam Hoàn cực kỳ bất lợi.

Nhưng Khổng Khâu lần này chủ trì hội minh Giáo Cốc, biểu hiện rất tuyệt, danh tiếng đã truyền bá đến các nước chư hầu. Tam Hoàn muốn ngăn cản Lỗ quân đề bạt Khổng Khâu, về tình lý nói không thông. Tinh lực của quân thần Lỗ quốc đều nhập vào trong nội bộ tranh quyền đoạt thế.

Lúc đó, ở bên Ngô quốc, các mục quốc sách đối nội đối ngoại chỉ dựa vào thủ hạ tài năng làm thần tử nhưng lại tiến hành đâu ra đấy. Đối với Việt quốc, tướng quốc Tôn Vũ bụng dạ đen tối bày mưu cho Kinh Lâm không ngừng đánh trận lẻ. Hôm nay gây một ít xung đột, mai tìm thứ yếu điểm, cố ý làm ra vẻ kiêu binh, ngông nghênh làm nhục biên quân Việt quốc, thử thách độ nhẫn nại của Câu Tiễn.

Đại Tư Không Chúc Dung thì không ngừng phái người đến Việt quốc đòi nguyên liệu đá, gỗ, những vật liệu xây dựng lớn và các loại thợ thủ công. Đây là nghĩa vụ phải làm của nước thuộc địa. Việt vương Doãn Thường muốn tạm thời ở ẩn tập trung lực lượng, lúc này không thể phản kháng. Hơn nữa bọn họ cũng hi vọng Ngô quốc rầm rộ xây dựng sẽ tiêu tốn nhiều sức người sức của, lúc ấy hữu cầu tất ứng.

Để cố gắng tiết kiệm sức vận chuyển nhân lực cho phát triển sản xuất ở Việt quốc, Việt quốc đã không ngừng mở rộng đường thủy, tu sửa đường bộ đến nước Ngô phục vụ cho việc vận chuyển thuận tiện hơn. Việc này vô hình theo đúng kế hoạch của Tôn Vũ, để Ngô quân phạt Việt tạo nên rất nhiều tiện lợi.

Đối với Sở, Ngô quốc lại áp dụng thủ đoạn khác. Một mặt Phạm Lãi sai người mang một số tiền lớn đến hối lộ Phí Vô Kỵ và quyền thần thân tín khác, một mặt phái sứ giả đến cố gắng kéo dài việc Sở Vương và Phí Vô Kỵ đòi lại tài vật bị cướp và thúc dục phóng thích những nhân vật quyền quý của Sở quốc. Đồng thời để yên lòng dân chúng nước Sở, tạm thời phóng thích đám quyền quý Sở quốc có thân phận không quan trọng. Những người này sau khi về nước sẽ vì chuyện phân chia quyền lực, gây cho Sở vương và Phí Vô Kỵ không ít phiền phức, hại người Sở tự tìm lý do kéo dài, không muốn đón toàn bộ người về nước quá sớm.

Về phía Đông Di, do Ngô Vương Khánh Kỵ đích thân phụ trách, thường xuyên gặp gỡ tiếp xúc với Nữ vương Đông Di, thương thảo cụ thể thực thi kế hoạch quân Ngô đóng quân ở Đông Di, nạp Đông Di là thuộc địa của Ngô quốc, trong đó bước đóng quân tại Đông Di đã hoàn thành. Sau khi tin Tề Lỗ nghị hòa được truyền ra, có một vài trưởng lão bộ lạc của Đông Di có đề nghị xóa bỏ liên minh, khôi phục thống trị cố hữu của bộ lạc, nữ vương Đông Di Doanh Thiền Nhi hiển nhiên là không muốn từ bỏ quyền lực trong tay mình, bắt đầu sai thân tín đi khắp nơi gieo tin tuyên bố kẻ thù truyền kiếp của Đông Di chỉ giả vờ tạm ngừng, thế nào cũng lại lần nữa dấy binh chiếm lĩnh Đông Di, cướp mảnh đất sinh sống cuối cùng của người Đông Di. Mặc dù Lương Hổ Tử đã cố gắng trợ giúp đánh đuổi quân phỉ Triển Chích, nhưng trong nội bộ Đông Di cường đạo khắp nơi tán loạn, lại không dễ dàng tiêu diệt, khiến Đông Di vẫn hỗn loạn. Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Trong nội bộ Ngô quốc, nhân lúc mùa đông rất nhiều ngành nghề ngừng hoạt động nhân lực dồi dào, tăng tốc độ gấp rút xây dựng các hạng mục cơ bản, để sang năm khai xuân bách nghiệp có điều kiện chấn hưng.

Tuyết rơi, thành lầu Cô Tô bông tuyết bay nhè nhẹ.

Trận tuyết đầu tiên luôn khiến có người ta thích thú. Nhưng tuyết rơi ở đây, phương bắc có biết rằng ngoài lương thực mua với giá đắt đỏ từ Sở quốc vẫn đang bí mật vận chuyển bằng hai con đường thủy bộ hướng về Ngô quốc. Các con đường vận chuyển khác đã đã ngừng rồi. Khánh Kỵ đích thân đến thành lầu thu nhận xe lương thảo cuối cùng đến từ phương bắc, sau đó lên xe hồi cung.

Trên đường đã trải đầy một lớp màu trắng dày, đi trên mặt tuyết tựa như đi trên một lớp bông mềm mại, hít chút khí vào trong lồng ngực cái mát lạnh lan tỏa khắp cơ thể. Có vài tiểu hải tử chạy trên phố bất chấp mưa tuyết đang nô đùa, chốc chốc lại nhìn thấy một đám thiếu nữ hô gọi bạn chạy lên trên đường chơi ném cầu tuyết.

Khánh Kỵ ngồi trong xe cuộn một bên bức màn, mỉm cười ngắm cảnh trong thành Cô Tô. Phạm Lãi ngồi một bên không để mất thời giờ báo cáo với Khánh Kỵ những vấn đề gặp phải trong biến pháp cách tân và đề xuất cách giải quyết.

“Đại vương. Thứ dân, công thương và nô lệ là cơ cấu con dân Ngô quốc cơ bản nhất. Thứ dân lấy gặt hái nông nghiệp làm nghề nghiệp, những thứ đạt được ngoài phải giao nộp thuế nông nghiệp họ còn phải đảm nhận lao dịch. Trong một quốc gia dân chúng là quan trọng nhất, trước mắt chúng ta giảm nhẹ thuế má lao dịch cho dân chúng, giá thấp dành cho các loại sản xuất công cụ. Thu nhận rộng rãi di dân các nước, phân chia đất hoang, khích lệ khai khẩn, các loại biện pháp lợi dân thi hành vẫn không tồi.”

“ Ừm, Công thương thì sao?”

“ Đối với công thương vụ, hiện nay rất nhiều người mới vào nghề, tiền kiếm được vẫn chưa đủ nuôi gia đình sống qua ngày, vì vậy những gia quyến này triều đình vẫn phải phân phát đất trồng trọt mới có thể sinh sống. Theo phân chia trước kia là công thương vụ, một hộ dựa vào công thương nghiệp phải nộp thuế. Nhưng hiện giờ xem ra nếu làm như thế sẽ khiến rất nhiều người mới vào nghề khó mà chống đỡ được. Vì vậy các quan viên đang một lần nữa tiến hành phân chia lại. Đối với những công thương mới bắt tay vào nghề, nộp thuế đinh kế thương, những người khác trong gia đình nộp theo thuế nông, hoặc phu dịch.”

Khanh Kỵ cười khà khà nói: 

“ Một nhà hai chế độ, ừm. Nên như thế. Linh hoạt một chút, cho dù thống kê, quản lý phải tốn nhiều công sức. Sự việc làm tỉ mỉ một chút bao giờ cũng có lợi cho dân.”

Khánh Kỵ nói xong đưa một bàn tay ra ngoài cửa sổ, hứng lấy vài bông tuyết vào lòng bàn tay, bông tuyết nhanh chóng tan thành vài giọt nước trong suốt lóng lánh. Có mấy thiếu nữ đang ném cầu tuyết, một quả bị ném chệch hướng rơi ngay vào xe Khánh Kỵ, võ sĩ giơ thương lên hướng về phía mấy thiếu nữ kia trừng mắt đe dọa. Những thiếu nữ kia không những không sợ lại còn lè lưỡi làm mặt hề trêu lại, sau đó tung tăng hướng về phía Đại Vương tốt bụng thương dân của họ vẫy chào. Khánh Kỵ cũng hướng về phía những thiếu nữ này cười vẫy tay chào, hại các thiếu nữ cơ hồ hạnh phúc té xỉu.

Phạm Lãi cũng cười: 

“ Đại Vương thường xuyên vi hành trên phố phường, các thiếu nữ này không còn biết sợ nữa rồi. Đại Vương, về việc người làm công thương nghiệp, thần vẫn còn một chuyện, cũng là chế độ cũ của Ngô quốc, cần đại vương quyết định sửa đổi mới được.”

“ Nói đi !”

“ Vâng, những nhà công thương nghiệp, một khi đăng kí trong danh sách, sẽ mang thân phận thế tập, không thể tùy ý thay đổi nghề nghiệp. Cứ như vậy, có người muốn làm nhà công thương lại chùn bước do dự, mà những người đang theo ngành công thương lại muốn thay đổi thân phận. Nhưng khổ nỗi ngành nghề bọn họ có bây giờ khó mà thay đổi…” 

“ Xóa bỏ điều này!”

Khánh Kỵ ngắt lời Phạm Lãi nói: 

“ Làm nhà công thương, trong đó có rất nhiều người hiền lành giỏi tay nghề nhờ kinh doanh mà phát tài. Bọn họ hoặc là bản thân cực kỳ tài hoa, hoặc là sau khi có điều kiện rồi, để con cháu đọc đủ thứ thi thư, có năng lực làm quan, nhưng lại bị ràng buộc bởi thân phận không thể phát triển. Ngô quốc duy tài thị dụng, duy tài thị cử, không tính đến xuất thân, quy định cũ này nhất định phải xóa bỏ.”

“ Vâng, sau khi thần vạch ra quy định chi tiết, mời đại vương xem qua. Ngoài ra, là chuyện liên quan đến nô lệ. Theo ý chỉ của đại vương thần đã đặt ra những quy định cụ thể, từ nay về sau không được mua bán nô lệ, cũng không được tự bán mình làm nô lệ. Hiện nay nô lệ, gia chủ có thể tòng quân phục dịch để khấu trừ thuế nông nghiệp, mà tòng quân phu dịch lập công, triều đình sẽ xóa bỏ thân phận nô lệ… Các loại biện pháp chỉnh một chút, liền có thể nhanh chóng chuyển một bộ phận nhưng người đó thành thứ dân.

Hiện giờ trong tư gia và quan phủ đều có rất nhiều nô lệ, nô tì hoặc người hầu. Những đầy tớ trẻ thường là tham gia lao dịch trong nhà, còn chăn nuôi thì nô lệ chuyên quản lý việc chăn thả gia súc bò ngựa. Trong quan phủ lại có một đám nô lệ có tay nghề, nô lệ tư gia muốn chuyển thành thứ dân phải dần dần mới được, nô lệ của quan phủ thì chỉ cần đại vương nói một tiếng là được. Nhưng hiện nay đâu đâu cũng phải dùng tiền, nếu lập tức giải phóng toàn bộ họ thành thứ dân thì sau này cần bọn họ làm việc, lại phải trả ra một số tiền công lớn. Trước mắt mà nói, đối với tài chính của Ngô quốc ta không khác nào họa vô đơn chí. Ý của thần là, nên đợi sau khi tình hình triều đình chuyển biến tốt đẹp, lúc ấy hãy thay đổi thân phận của bọn họ.”

“ Nên thế, vạn sự nếu nóng vội hấp tấp, hảo tâm cũng làm hỏng sự. Giải phóng nô lệ thành dân thường, một là không để tái xuất hiện gia nô thượng vạn, động một tí là thế gia cự tộc biến nô lệ thành quân binh uy hiếp sự thống trị của triều đình; Hai là gia tăng thêm người làm công nông thương, gia tăng thanh niên khỏe mạnh trồng trọt, gia tăng cơ số trưng binh, gia tăng thuế nông; Tất cả vì mục đích ổn định và phát triển Ngô quốc. Hiện tại chưa thích hợp thực thi, coi như mệnh lệnh của quả nhân cũng có thể thay đổi.”

Hai quân thần bàn chuyện vào đến hoàng cung. Đến Nghị Chính Điện, hai tên hầu Thư Khắc và Thân Si chạy lên phía trước lau những vệt tuyết còn lưu lại trên áo cho đại vương và Phạm tiểu tế, hai người vào trong điện cởi bỏ giày ngồi xuống.

Trong điện bốn cái vạc đồng lớn lửa than đang cháy rừng rực bên trong, cháy làm ấm cả không gian trong điện. Khánh Kỵ gọi hầu bếp mang lên một món cùng ăn với Phạm Lãi. Hai người trò chuyện vui vẻ, bữa ăn gần kết thúc, một thị vệ vội vàng lên điện đưa cho Khánh Kỵ một bức mật thư. Khánh Kỵ buông đũa, mở thư ra xem xong, cười khà khà nói:

“ Lỗ quốc Khổng Trọng Ni ở Giáp Cốc chi minh đại khai sát giới, khiến Tề quốc quốc quân mặt xám mày tro, công phu lần này không thể bỏ qua, Lỗ quốc quốc quân ra sức sắp xếp hội nghị công chúng, đang cố ý đề bạt Khổng Trọng Ni làm Lỗ quốc Đại Tư Khấu đấy.”

Phạm Lãi cười nói: 

“ Khổng Khâu này vốn có danh tài hiền đức, hơn nữa không sợ quyền quý, ở hội Giáp Cốc lại thể hiện sát phạt quyết đoán. Bằng tâm mà nói, nếu làm một Đại Tư Khấu chủ chưởng hình luật cũng xứng đáng. Chỉ là Tam Hoàn chưa hẳn đồng ý buông tay, giờ để xem Lỗ quân có bao nhiêu quyết tâm kháng lại áp lực từ Tam Hoàn.”

Khánh Kỵ cười nói:

“ Theo quả nhân thấy, Khổng Khâu chức quan phù hợp nhất với Khổng Khâu là Thái Sử, còn các chức khác ư, đều phải kém một chút.” Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Thái Sử, ở Hạ Thương đời thứ ba nhà Chu là người đứng đầu Sử quan và Lịch quan, phụ trách quản lý các việc như khởi thảo văn thư, sách mệnh công khanh đại phu, ghi lại sử sự, kiêm quản lý sách cổ, lịch pháp, cúng tế, với lại quản lý giáo dục học phủ.

Khánh Kỵ nói đến đây, trong đầu đột nhiên nghĩ ra một câu liên quan đến ghi chép về Khổng Tử. Khổng Khâu từ Đại Tư Khấu lên làm Nhiếp Tương Sự ( Tướng quốc), coi việc triều chính, cầm quyền được bảy ngày tâu với vua Lỗ giết gian thần Thiếu Chính Mão, giết ở Lưỡng Quán. Trong ghi chép không rõ ràng như vậy, nhưng đại khái là ý tứ này, dường như học trò của Khổng Tử Tử Cống còn chất vấn thầy giáo lý do giết người.

Không được, Khổng Khâu và Thiếu Chính Mão là đại văn nhân của Lỗ quốc, Khổng Khâu chủ trương phục cổ, Thiếu Chính chủ trương cải cách, đúng là trời sinh đối thủ không đội trời chung. Hơn nữa Khổng Khâu trong tay Thiếu Chính Mão không ít lần bị khinh. Nếu như Khổng Khâu cứ theo tiến trình lịch sử làm Đại Tư Khấu, liệu có lợi dụng việc công báo thù riêng giết Tư Chính Mão không? Truyện "Đại Tranh Chi Thế " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Khánh Kỵ đứng dậy đi ra ngoài điện, đứng dưới hành lang ngắm nhìn những bông tuyết nhẹ nhàng bay lượn rơi rơi xuống, suy nghĩ kỹ càng hồi lâu, tự nhủ: 

“ Chuyện Khổng Khâu được thăng chức Đại Tư Khấu rất có khả năng thành công.”

Phạm Lãi theo ra ngoài điện, đứng bên cạnh Khánh Kỵ, nghe những lời ấy liền hỏi: 

“ Đại Vương căn cứ vào đâu?”

Khánh Kỵ phân tích nói: 

“ Một là, Cơ Tống dưới sự trợ giúp của Khổng Khâu, gần đây thanh thế lên cao, mà Tam Hoàn lại vì gia thần tạo phản, thế lực có chút suy yếu. Hơn nữa tại Giáp Cốc chi minh biểu hiện của Cơ Tống quân thần rất xuất sắc, Tam Hoàn không tìm ra được lý do xác thực phản đối; Thứ hai, Quả nhân cử sứ giả đến Quý Thị, Thúc thị cầu hôn, Quý Thị tuy đến nay vẫn không có biểu hiện rõ ràng, nhưng đối với Lỗ quân hắn cũng không đồng ý. Lỗ quân và Tam Hoàn tuy rằng tranh đấu gay gắt, tranh quyền đoạt lợi, nhưng bọn họ đều là quả trên một cây, vui buồn tương quan, cùng vinh cùng nhục. Trong thời khắc mấu chốt nội ưu nội hoạn, quân thần bọn họ quyết không thể bất hòa để người ngoài nhân cơ hội. Vì thế Quý Tôn Ý Như rất có khả năng trong chuyện bổ nhiệm Đại Tư Khấu nhượng bộ Lỗ quân, để hàn gắn lại vết rạn nứt trong mối quan hệ đôi bên.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: