Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Quyển 2 :)

Từng thề ước | Quyển 2 – Chương 1

Chương 1: Dù chẳng tương tư cũng khó quên­­[1]

Sáu mươi năm thư qua tin lại, hắn chỉ thoáng trông đã nhận ra nét chữ của A Hành, nhìn thấy nét chữ quen thuộc như máu thịt, lòng hắn chợt quặn lên như dao cắt, đau đến nghẹt thở, nét chữ vẫn đây mà người nay đâu?

[1] Trích trong bài tử Giang thành tử – Ghi lại giấc mộng đêm hai mươi tháng Giêng năm Ất Mão của Tô Đông Pha (1036-1101). (ND)

Thế sự tựa bể dâu biến đổi vô thường, cả quãng thời gian dài đằng đẵng chẳng qua cũng như là bóng câu ngang cửa sổ.

Thiếu niên áo bào ngựa quý đã nằm dưới ba thước đất, thanh nữ dung mạo như hoa chỉ còn xương trắng cốt khô, biết bao bi hoan ly hợp ân oán tình thù đều trở thành câu chuyện phiếm cho đám người lê la đầu đường xó chợ, dẫu là truyền kỳ hào hùng mỹ lệ nhất cũng phai nhạt dần theo năm tháng rồi tan đi trong gió. Chỉ còn những đóa hoa dại nơi sườn núi ấy tự nở tự tàn, tự khoe sắc tự tỏa hương, tháng lại tháng, năm lại năm vẫn vẹn nguyên vẻ rỡ ràng ngày cũ.

Viêm Đế đời thứ tám Du Võng đã đăng cơ được hai trăm lẻ ba năm, người trên đại hoang cũng lãng quên Viêm Đế đời thứ bảy từ lâu, truyền thuyết về Thần Nông Thị nếm thử hàng trăm loại cỏ cây, sau cùng độc phát thân vong chỉ còn là câu chuyện nửa hư nửa thực.

Hiên Viên thành của Hiên Viên quốc nằm ở phía Đông Nam Hiên Viên, xung quanh được núi cao bao bọc, có lịch sử hơn ngàn năm nay, tuy không đồ sộ nhưng quy hoạch rất tề chỉnh, đẹp đẽ, lại là một tòa sơn thành, dễ thủ khó công.

Trong quán rượu ở Hiên Viên thành, một lão già tuổi chừng sáu mươi, nét mặt khắc khổ, lưng đeo cây tam huyền cầm đi khắp các bàn, tới bàn nào cũng cười cầu tài hỏi: “Khách quan muốn nghe một khúc nhạc không?”

Khách khứa trong quán vừa ngẩng đầu nhìn thấy lão đã bực bội xua tay lia lịa.

Một nam tử vẻ mặt thờ ơ lãnh đạm, mình vận hồng bào, dáng dấp cao lớn, đường nét rắn rỏi đang ngồi tại chiếc bàn kê sát bên song, nhìn chỉ ngoài đôi mươi nhưng gương mặt lại tái mét như có bệnh, hai bên tóc mai lốm đốm bạc, đượm vẻ phong trần.

“Khách quan có thích nghe tấu nhạc hay kể chuyện không?”

Nam tử thẫn thờ trông ra ngoài song cửa, chẳng buồn ngoảnh lại, chỉ thuận tay quăng cho lão già một xâu tiền, xua tay đuổi lão đi.

Tay lái buôn mập mạp thấy vậy liền kêu lên: “Này lão già, nhận tiền rồi thì mau kể chuyện giải sầu cho chúng ta đi.”

“Chẳng hay khách quan muốn nghe chuyện gì?”

“Tùy lão, chuyện gì cũng được, miễn là hay.”

Lão già ngồi xuống khẽ gảy cây đàn tam huyền tính tang mấy tiếng rồi hắng giọng kể: “Vậy lão xin kể chuyện tiệc Bàn Đào hầu khách quan. Truyền thuyết kể rằng, xưa kia cứ cách ba mươi năm Vương Mẫu trên Ngọc sơn lại bày tiệc Bàn Đào một lần, khách khứa tới dự được mời dùng đào tiên, nếm ngọc tủy, trước lúc ra về còn được tặng báu vật, quả là sự kiện trọng đại trong thiên hạ. Khách mời đều là những đại anh hùng trong Thần tộc, Yêu tộc và Nhân tộc. Ngọc sơn cao chót vót hơn vạn trượng, người thường vốn không thể leo lên, những kẻ phàm nhân như chúng ta chỉ có thể nghe kể lại mà thôi.”

Khách khứa trong quán thảy đều đặt đũa xuống, dồn mắt vào lão già, tay lái buôn mập ú được thể lên giọng kể cả: “Đúng thế đấy, ông cố ta cũng từng kể lại. Thuở ông cố ta còn nhỏ từng gặp người trong Thần tộc, chính vị bằng hữu Thần tộc đó kể với ông cố. Tiếc rằng về sau Vương Mẫu chẳng bày tiệc Bàn Đào nữa, bằng không biết đâu ông cố lại nhờ vả được vị bằng hữu kia đánh cắp cho mình một trái đào tiên, cũng không tới nỗi qua đời sớm như vậy.” Dường như thấy mình pha trò rất thú vị, tay lái buôn phá lên cười ha hả.

Đám khách khứa lao xao hỏi: “Về sau sao Vương Mẫu lại không bày tiệc Bàn Đào nữa?”

Lão già vuốt vuốt chòm râu dê đáp: “Hơn hai trăm năm trước, Thần tộc xảy ra một sự kiện long trời lở đất, Viêm Đế đời thứ bảy của Thần Nông tộc qua đời, Viêm Đế đời thứ tám là Du Võng được sự phò tá của Đốc Quốc Đại tướng quân Xi Vưu lên ngôi kế vị. Nghe nói khi tin Viêm Đế qua đời truyền tới Ngọc sơn, đến trời xanh cũng phải tiếc thương Viêm Đế, Ngọc sơn vốn quanh năm đều ấm áp như mùa xuân, vậy mà lần này lại đổ tuyết, cả núi trắng xóa một màu, hoa đào ngàn năm không tàn úa bấy giờ nhất loạt héo khô rơi rụng, không còn hoa đào đương nhiên sẽ chẳng có trái đào, càng không có tiệc Bàn Đào.”

Khách khứa trong quán thảy đều thở than tiếc nuối: “Đến Ngọc sơn cũng tiếc thương mà đổ tuyết, xem ra Viêm Đế năm xưa quả nhiên là người tốt.”

Chỉ mình tay lái buôn phản bác: “Tốt cái gì? Chính ông ta hại mọi người không còn đào tiên mà ăn, cũng chẳng biết bao giờ rừng đào trên Ngọc sơn mới ra trái lần nữa. Lão già kia, kể chuyện nữa đi.”

Lão già chẳng buồn đôi co với hắn, chỉ gảy gảy dây đàn, nghĩ ngợi một hồi rồi chậm rãi kể: “Vậy lão xin thuật lại một chuyện bí mật giữa Hiên Viên tộc và Thần Nông tộc vậy. Hơn hai trăm năm trước Thần Nông và Hiên Viên khai chiến, tranh đấu liên miên mãi đến nay, bên nào cũng có thương vong, Tam vương tử của Hiên Viên chết trận, Chúc Dung của Thần Nông trọng thương, đến giờ vẫn phải bế quan chữa trị.”

Gã lái buôn sốt ruột ngắt lời: “Chuyện này ai mà chẳng biết, có gì bí mật đâu?”

Lão già thong thả đáp: “Nhưng theo lão được biết, Chúc Dung bị thương là do một nguyên nhân khác.”

“Lão nói xem nào! Đừng có câu giờ! Rốt cuộc là kẻ nào đả thương Chúc Dung?” Đám khách khứa nghe đến mê mải, hối hả giục.

Lão già cười khà đáp: “Thật ra Chúc Dung không phải bị người của Hiên Viên đả thương, mà chính là bị Hậu Thổ đánh trọng thương.”

“Gì cơ?”

Thấy mọi người kinh ngạc xôn xao, lão già đắc ý, lại khoan thai gảy mấy tiếng tinh tang, “Nguyên nhân cụ thể thì lão đây không rõ, chỉ biết hai trăm năm trước, Hậu Thổ một thân một mình xông vào doanh trại của Chúc Dung đánh cho y trọng thương, thậm chí linh thể suýt nữa bị tiêu tan, tĩnh dưỡng suốt hai trăm năm chưa khỏi.”

“Vậy mà Viêm Đế cũng để yên sao? Chắc người nhà của Chúc Dung phải thù Hậu Thổ đến ghi xương khắc cốt, vật nài Viêm Đế trừng trị Hậu Thổ ấy nhỉ?”

“Người nhà của Chúc Dung đáng lẽ nên cảm tạ Hậu Thổ mới phải.”

“Này lão kia, lão già quá lú lẫn rồi à? Đánh người ta gần chết còn đòi cảm tạ cái gì?”

Lão già cười hăng hắc, “Nếu Chúc Dung không bị Hậu Thổ đánh trọng thương, rồi thừa dịp đó trốn vào cổ trận trên Thần Nông sơn tĩnh dưỡng thì e rằng đã bị Xi Vưu giết chết, hoặc bị Xương Ý và Xương Phó suất lĩnh tinh binh Nhược Thủy ám sát từ lâu. Lão nghe nói sau khi Chúc Dung trọng thương được đưa vào bí trận, Xi Vưu vẫn không chịu buông tay, y điên cuồng tấn công cổ trận, toan xông vào lấy mạng Chúc Dung, Viêm Đế phái mấy trăm thần tướng đến cũng chẳng ngăn nổi. Về sau Viêm Đế phải năn nỉ Xi Vưu đừng phá hủy cổ trận kẻo làm tổn hại tới lăng mộ các đời Viêm Đế, y mới niệm tình thầy trò với Viêm Đế đời trước mà ngừng tay. Có người lại kể Xương Ý và Xương Phó dẫn theo một đội tinh binh Nhược Thủy nửa đêm tập kích Thần Nông, đến chẳng thấy hình đi không thấy bóng, chỉ trong một đêm đã giết chết mười tám thần tướng của Thần Nông, khiến cả Thần Nông hoang mang rối loạn, tướng sĩ Thần tộc chẳng ai dám chợp mắt, chỉ sợ nhắm mắt ngủ rồi sẽ không bao giờ tỉnh lại nữa.”

Khách khứa trong quán cười rộ lên, nhao nhao phản bác: “ Lão già này tham gạt gẫm chút tiền thưởng, bắt đầu đặt điều rồi, Tứ vương tử của Hiên Viên chúng ta nổi danh hòa nhã, cả đại hoang ai mà không biết.”

Tay lái buôn chợt buột miệng: “Nghe ông cố ta kể, năm xưa trong Thần tộc ngấm ngầm đồn đại rằng Hiên Viên vương cơ bị người trong Thần Nông tộc hại chết.”

Đám khách khứa khinh khỉnh vặn lại: “Vậy Đại vương tử phi của Cao Tân bây giờ là ai? Người ta vẫn còn sống sờ sờ trên Ngũ Thần sơn kìa.”

Tay lái buôn bị căn vặn chỉ biết ngượng ngập cười: “Thế nên mới nói là đồn đại!”

Một người khách Cao Tân có chút kiến thức lại hỏi: “Tạm không bàn tới việc Xương Ý hành thích Chúc Dung có thật hay không, chỉ xét chuyện Xi Vưu thôi nhé. Tuy Xi Vưu hung tàn bạo ngược nhưng không phải kẻ điên, vì sao y muốn lấy mạng Chúc Dung? Tại sao ngay đến Viêm Đế cũng chẳng ngăn nổi?”

Cả quán rượu đột nhiên lặng phắc như chết, từ đầu đến giờ khách khứa ai nấy đều cố không đề cập tới Xi Vưu, gắng lờ đi cái tên đồng nghĩa với tử vong này, nhưng trong lòng lại lấn cấn một nỗi tò mò rờn rợn.

Một gã thiếu niên Cao Tân vừa theo cha lên thuyền phụ việc, nghé con chưa biết sợ hổ liền nằn nì: “Ông ơi, ông kể chuyện về Xi Vưu cho mọi người nghe đi!”

Lão già gật gật đầu với thiếu niên, gảy lên mấy tiếng đàn tinh tang vui tai rồi kể tiếp: “Các vị có nghe nói tới Cửu Lê tộc của Thần Nông bao giờ chưa?”

Thiếu niên le te đáp: “Cháu biết rồi! Đó là thị tộc sản sinh ra anh hùng, rất nhiều mãnh tướng Thần Nông là người Cửu Lê tộc, ngay cả Xi Vưu cũng vậy!” Giọng điệu đầy vẻ kính trọng xen lẫn sợ sệt.

Lão già lại gảy dăm tiếng đàn, “Hơn sáu trăm năm trước, Cửu Lê còn bị gọi là Cửu Di, dân chúng Cửu Lê bị xem như tiện dân, đàn ông phải làm tôi tớ, phụ nữ phải làm thị tỳ, không có cả tư cách hầu hạ người trong Thần tộc mà chỉ có thể làm nô lệ cho Nhân tộc.”

Khách khứa trong quán đều trợn tròn mắt nhìn lão già đầy nghi hoặc, Cửu Lê tộc, nơi sản sinh ra lớp lớp anh hùng mà là tiện dân ư?

Lão già nheo mắt hồi tưởng lại: “Mãi tới khi Xi Vưu xuất hiện mới thay đổi được tình cảnh đó, nghe nói Xi Vưu đấu với Thần tộc suốt trăm năm, buộc Thần tộc phải xóa bỏ cái tên miệt thị Cửu Di, Viêm Đế đời trước vô cùng nhân hậu, chẳng những không trách tội Xi Vưu, ngược lại còn nhận Xi Vưu làm đồ đệ, đến khi đương kim Viêm Đế lên ngôi, Xi Vưu lại được phong làm Đốc Quốc Đại tướng quân, nhưng khắp trên dưới Thần Nông không ai chịu phục y cả, ai nấy đều cười chê y, chửi rủa sau lưng y, thậm chí còn nói y sống không quá ba trăm năm nữa. Nhưng rồi suốt hai trăm năm, bọn họ dần dà trở nên khiếp sợ Xi Vưu, ở trước mặt Xi Vưu còn chẳng dám thở mạnh, chỉ e hễ sơ sảy sẽ chuốc lấy cái chết…”

Lão già ngưng bặt, vẻ sợ sệt ánh lên trong mắt, chỉ chăm chú gảy đàn, tấu lên một khúc réo rắt bi thương. Lạ thay, đám khách khứa cũng chẳng giục giã như mọi bận, ai nấy đều trầm lặng làm thinh. Mấy kẻ thuộc Thần Nông tộc càng tái mét mặt, nét kinh hoàng hằn lên ánh mắt.

Hồi lâu mới lại thấy lão già cất giọng khàn đặc thê lương: “Đám quý tộc Thần Nông vẫn luôn bất hòa với Xi Vưu, đôi bên tranh đấu kịch liệt, Xi Vưu dùng thủ đoạn tàn khốc tiêu diệt sạch những kẻ đối chọi mình, cải cách toàn bộ triều chính, khiến tám mươi bảy hộ của Thần Nông quốc phải diệt môn, Thần tộc, Nhân tộc, Yêu tộc đều không ngoại lệ, những kẻ bị xử cực hình mà chết lên tới năm ngàn ba trăm chín mươi sáu người! Nghe nói Đại vương cơ Vân Tang của Thần Nông vốn đứng về phía Xi Vưu, lúc Xi Vưu còn chưa đủ lông đủ cánh, Đại vương cơ từng chở che bênh vực cho y suốt một thời gian dài, nhưng dù sao Đại vương cơ vẫn là quý tộc, không chấp nhận nổi thủ đoạn tàn bạo của Xi Vưu, bèn lập mưu liên kết với Hậu Thổ để kiềm chế y. Sự việc bị Xi Vưu phát hiện, y chẳng chút niệm tình, một lèo giết sạch tâm phúc của Đại vương cơ, ép Đại vương cơ phải thề độc trước mọi người trên đỉnh Tử Kim, từ nay về sau không can dự triều chính nữa, nếu trái lời thề sẽ chết không toàn thây.”

Lão già thở dài cảm thán: “Xi Vưu quả là kẻ lãnh khốc vô tình, bị Thần Nông chư hầu coi như ác ma, nhưng trong dân gian, tiếng tăm của y không quá tệ, bởi xưa nay y vẫn lấy lễ đối đãi với bọn giặc cỏ dân đen, đám thanh niên trai tráng chẳng những không sợ y, ngược lại còn coi y như đại anh hùng, hy vọng một ngày có thể tự mình tạo dựng sự nghiệp vang danh đại hoang như các tướng quân dưới trướng Xi Vưu vậy.”

Gã thanh niên Cao Tân gật đầu lia lịa, hào hứng nói: “Nếu Cao Tân có được một người như Xi Vưu thì hay quá, cháu cũng khỏi phải theo cha lên thuyền làm thuê, biết đâu còn có thể lên triều kiếm một chức quan, dẫn quân ra trận nữa kìa.”

Nghe con trai nói vậy, phụ thân gã đằng hắng mấy tiếng, hạ giọng mắng mỏ: “Con nói nhảm gì thế? Thân phận chúng ta… đừng có si tâm vọng tưởng!”

Thiếu niên bị mắng tiu nghỉu mặt mày nhưng dù sao vẫn là thiếu niên, chỉ lát sau hắn đã lấy lại tinh thần, cao hứng kể: “Có lần cả đám bạn bọn cháu tranh cãi với nhau xem Xi Vưu, Thiếu Hạo, Thanh Dương ai lợi hại hơn, suýt nữa còn động tay chân, bà chủ quán rượu bèn trêu: ‘Chỉ cần gói gọn ba câu về ba vị anh hùng của đại hoang là đủ. Thiếu niên đều hy vọng được trở thành Xi Vưu, thiếu nữ đều mong được gả cho Thiên Hạo, bậc làm cha mẹ đều muốn có đứa con trai như Thanh Dương’.”

Khách khứa trong quán càng nghĩ càng thấy chuẩn xác. Thiếu niên nào chẳng ngông cuồng ngạo mạn, mong một ngày được phong hầu bái tướng, thúc ngựa rong ruổi khắp núi sông, thả sức tung hoành như Xi Vưu? Thiếu nữ nào chẳng rộn rã lòng xuân, mong lấy được người chồng anh tuấn hào hoa, nổi danh thiên hạ, nghĩa nặng tình sâu như Thiếu Hạo? Cha mẹ nào lại chẳng mong con cái được giỏi giang, tiền đồ rộng mở, cung kính hiếu thuận như Thanh Dương?

Lão già vuốt chòm râu dê mỉm cười: “Bất kể người của Thần Nông khen hay chê Xi Vưu, hiện giờ y cũng nắm giữ một nửa quân đội Thần Nông, chỉ cần ho một tiếng thì cả Thần Nông phải run sợ, đúng là Đốc Quốc Đại tướng quân oai phong lừng lẫy.”

Chủ quán cũng lắc đầu thở dài: “Quân đội của Xi Vưu quả là ác mộng của Hiên Viên chúng ta.”

Bầu không khí trong quán vừa chùng xuống đã lại căng lên như dâu đàn, ngay gã lái luôn cũng phải thầm thở dài.

Chỉ mình thiếu niên ngơ ngác không hiểu, láu táu hỏi: “Sao lại thế?”

Tiếng đàn của lão già lại vang lên dồn dập mà réo rắt, tựa mây đen vần vũ, thành trì thất thủ, khiến lòng người nơm nớp không yên. Lẫn trong tiếng đàn là giọng nói trầm trầm nặng nề của lão: “Xi Vưu chỉ đích thân cầm quân đánh với Hiên Viên một trận duy nhất. Tám mươi hai năm trước trong trận Đại Thì sơn, Hiên Viên tộc giết chết Tĩnh tướng quân dưới trướng Xi Vưu, Xi Vưu liền đem quân tấn công Đại Thì sơn, tuyên bố nếu không đầu hàng sẽ đồ sát toàn thành. Nhưng binh lính Hiên Viên kiên cường bất khuất, anh dũng thiện chiến nổi tiếng đại hoang, đương nhiên không chịu đầu hàng mà quyết tử chiến cùng Xi Vưu. Sau khi phá được thành, Xi Vưu liền hạ lệnh đồ sát toàn thành.”

Lão già tay run bắn, tiếng đàn chợt ngưng bặt, khách khứa ngồi đây đa phần là người Hiên Viên, từng nghe thuật lại trận chiến đó, ai nấy đều cúi đầu trầm mặc.

Đột nhiên lão già lại cất tiếng phá tan bầu không khí ắng lặng: “Một trận chiến! Chỉ một trận chiến thôi! Mười hai vạn người bị giết! Hơn chín vạn trong số đó là dân thường! Từ đó cái tên Xi Vưu trở thành cơn ác mộng của dân chúng Hiên Viên!”

Khách khứa trong quán thảy đều làm thinh, chỉ mình gã thiếu niên Cao Tân vẫn lẵng nhẵng hỏi về việc Xi Vưu muốn lấy mạng Chúc Dung: “Ông lão, có phải vì Xi Vưu bênh vực cho những người như chúng ta, còn Chúc Dung lại đứng về phía quý tộc quan lại nên Xi Vưu muốn lấy mạng Chúc Dung không?”

Lão già ngẩn người, chợt nghe thiếu niên gọi: “Ông lão ơi?”

“Ừm!” Lão già định thần lại, vừa nghĩ ngợi vửa kể: “Có lẽ căn nguyên là bởi Chúc Dung và Xi Vưu đại diện cho lợi ích của hai loại người khác nhau, đôi bên thế như nước lửa, không thể dung hòa, còn bí mật như người ta đồn đại chỉ là ngòi nổ mà thôi.”

“Bí mật gì cơ?” Gã thiếu niên hồi hộp hỏi.

Lão già giơ tay che miệng, ráng nói thật khẽ nhưng tất cả mọi người đều nghe thấy, “Nghe đồn Chúc Dung giết chết Đại vương tử phi của Cao Tân các ngươi nên Xi Vưu muốn lấy mạng hắn báo thù.”

Gã thiếu niên ỉu xìu trách móc: “Ông gạt người ta!”

Khách khứa trong quán cũng cười rộ lên, bầu không khí nặng nề mà chuyện về Xi Vưu mang lại khi nãy liền bị xua tan.

Lão già cười cười thi lễ cáo từ tất cả khách khứa, “Chỉ là chuyện trà dư tửu hậu, nghe cho vui thôi mà.” Đoạn lão đeo cây đàn tam huyền cầm đứng dậy, vừa đi vừa lắc lư ngâm: “Thực là giả thời giả cũng thực, giả là thực thời thực cũng giả, thực thực giả giả đều là tướng, giả giả thực thực thảy đều không…” Bước ra khỏi quán, lão bất giác ngoảnh lại, trông thấy hồng y nam tử bên song cửa, lập tức sững cả người. Mấy trăm năm trước dưới Bác Phụ sơn, nam tử này trông cũng y như vậy, mấy trăm năm sau vẫn chẳng hề thay đổi. Năm đó lão tự phụ tu vi, nhận ra thanh y nữ tử xuất thân Thần tộc, bèn khích nàng ra tay dập lửa, nhưng không mảy may nhận ra nam tử kia có linh lực, đủ thấy linh lực của hắn sớm đã cao thâm khó lường.

Lão già râu dê vội quay vào quán, bước đến gần hồng y nam tử, cung kính hành lễ, “Không ngờ lại gặp người quen cũ, chẳng hay Tây Lăng cô nương có khỏe không?”

Hồng y nam tử chẳng buồn đáp, chỉ có chén rượu trong tay hơi sóng sánh, lão già lại cười hỏi tiếp: “Năm xưa lão có mắt như mù, dám hỏi công tử quý tính đại danh?”

Hồng y nam tử ngoảnh lại lạnh nhạt nhìn lão, khẽ thốt ra hai tiếng: “Xi Vưu!”

Lão già râu dê loạng choạng lùi lại rồi ngã phệt xuống đất, mặt cắt không còn giọt máu, ngây ra một thoáng, đoạn lết xết chạy thẳng ra ngoài, cả cây đàn tam huyền cầm cũng chẳng kịp nhặt lên. Khách khứa trong quán thấy vậy đều cười ầm ĩ, “Lão già này mới mấy chén đã say bò lăn bò càng rồi!”

Cả quán rượu xôn xao tiếng cười tiếng nói, riêng một người trơ trọi.

Xi Vưu cầm chén rượu vơi, đăm đăm nhìn về hướng Tây. Đương lúc mặt trời lặn, chân trời rạng rỡ lớp lớp mây ráng muôn màu, hoa lệ như gấm, tươi thắm tựa son nhưng trong mắt hắn chỉ có ngàn non tuyết muộn, vạn dặm mây chì.

Xi Vưu ngửa cổ dốc cạn chén rượu, đoạn đi thẳng ra cửa, đi mãi đến một nơi yên tĩnh mới gọi Tiêu Dao lại, bay về phía Cửu Lê.

Hôm nay là ngày giỗ của A Hành, hằng năm cứ đến ngày này hắn đều tới Ngu uyên cúng tế nàng, sau đó về Cửu Lê ở lại một đêm.

Tiêu Dao bay rất nhanh, chưa đầy một tuần trà đã đưa hắn tới Cửu Lê.

Xi Vưu bước vào gian nhà sàn giữa rừng hoa đào, lặng lẽ ngồi xuống, ánh trăng trong như nước loang khắp hiên nhà, gió lùa qua khóm trúc phượng vĩ vi vu. Xi Vưu tay phải bưng một ống trúc đầy Ca tửu, tay trái mâm mê Trụ Nhan hoa, vừa uống rượu vừa đăm đắm ngắm hoa đào nở đầy trên núi.

Đương vào độ tháng Tư, hoa đào nở rộ khắp núi đồi, rực rỡ như mây sớm ráng chiều, nhưng dưới cội hoa đào, nào đâu thấy người từng hẹn ước?

Xi Vưu nửa say nửa tỉnh, chếch choáng rút Bàn Cổ cung lấy được dưới địa cung Ngọc sơn từ mấy trăm năm trước ra, dốc hết linh lực giương cung thật căng bắn về phía Tây, nhưng chẳng thấy bất cứ động tĩnh gì.

Hai trăm năm nay, không biết bao nhiêu lần hắn giương Bàn Cổ cung lên, nhưng cây cung được truyền tụng có thể giúp người ta gặp lại người mình nhung nhớ bất kể ở chân trời góc biển nào lại chưa từng phát huy tác dụng.

Xi Vưu vẫn chưa chịu ngừng, liên tiếp giương cung, nhưng dù giương thế nào cũng vô hiệu. Lần nào lần nấy đều dốc hết toàn lực bắn ra, dù Xi Vưu thần lực cao cường cũng không sao duy trì được mãi, dần dà hắn sức cùng lực kiệt, ngã bệt xuống đất.

Xi Vưu nghiêng ống trúc, ừng ực dốc rượu vào miệng.

Xa xa trong núi, nghe văng vẳng khúc sơn ca vọng lại.

Tiễn chàng tiễn đến bên song

Mở toang cửa sổ mà trông lên trời

Trăng tròn vành vạch chàng ơi

Mà sao mãi chẳng thấy người đoàn viên?

Chàng đừng lầm lẫn tội em

Cuồng phong canh một, tạnh liền canh hai

Thoắt mưa đổ, thoắt nắng tươi

Đã trở mặt chẳng nhận người năm nao!

Ống rượu trong tay rơi tuột xuống sàn, Xi Vưu lắng tai nghe, nhưng tiếng hát đã ngừng bặt.

“A Hành!”

A Hành, nàng đang trách móc ta ư? Hắn nhảy xuống đất, đạp lên ánh trăng, loạng choạng tiến vào trong núi.

Càng đi sâu vào núi càng thấy bạt ngàn những cội đào, muôn vàn cánh hoa rụng rơi tan tác như mưa, đậu xuống mái đầu, xuống bờ vai, hoa rơi chẳng làm ướt áo, lại thấm ướt tim người.

“A Hành, A Hành, nàng ở đâu?”

Xi Vưu không ngừng réo gọi, gọi mãi gọi mãi, nào thấy bóng ai dưới cội đào?

Chỉ có gió đêm lạnh lẽo thổi tung mưa hoa, khi dồn dập, lúc lưa thưa, lả tả điêu linh như nước mắt đau thương của người con gái.

Hơi rượu tan dần, Xi Vưu từ từ tỉnh lại, nhận ra A Hành sẽ mãi mãi không bao giờ tới nữa.

Hắn đứng thẫn thờ nhìn gốc đào trước mặt, năm năm tháng tháng hoa như cũ, tháng tháng năm năm người nơi đâu?

Ánh trăng xuyên qua tán lá rọi lên thân cây lấp loáng, Xi Vưu chậm rãi lại gần, thấy trên thân cây khắc chi chít hai chữ “Xi Vưu”.

Hai năm sau khi A Hành ra đi, cũng vào tết Khiêu Hoa, hắn mặc tấm áo đỏ nàng may, đợi suốt đêm dưới cội hoa đào rồi say vùi giữa đám hoa tàn nhị rụng, trong cơn bi thống, hắn đột nhiên hận lây sang cội đào, giơ tay toan đập gãy gốc cây, vô tình phát hiện ra thân cây chi chít những chữ, định thần nhìn kỹ, là vô số chữ “Xi Vưu”.

Sáu mươi năm thư qua tin lại, hắn chỉ thoáng trông đã nhận ra nét chữ của A Hành, nhìn thấy nét chữ quen thuộc như máu thịt, lòng hắn chợt quặn lên như dao cắt, đau đến nghẹt thở, nét chữ vẫn đây mà người nay đâu?

Vô vàn chữ “Xi Vưu” chi chít trên cây, chữ vạch nông, chữ khắc sâu, cũng là bao nôn nóng và vô vọng đợi chờ của nàng.

Mấy trăm chữ “Xi Vưu”, từng đường từng nét đều chứa chan tình ý, mỗi khía mỗi vạch thảy chất ngất bi thương, rốt cuộc hôm ấy nàng đã đợi mất bao lâu? Để rồi khi rời khỏi ôm theo niềm tuyệt vọng đến nhường nào?

Xi Vưu nhắm mắt lại, miết tay theo từng nét chữ như muốn xuyên qua thời gian đằng đẵng hai trăm năm, thổ lộ với người con gái đứng dưới cội đào này hai trăm năm về trước, nỗi đau đớn và tương tư ứ đầy lòng.

Cứ miết hoài miết mãi, lòng bàn tay nóng rực lên, mà không sao sưởi ấm nổi những con chữ lạnh lẽo.

Đột nhiên, tay hắn miết phải một hàng chữ nhỏ, cả người run bắn, đau đớn ra mặt, rõ ràng hắn sớm đã khắc sâu những lời này trong dạ, những vẫn tỉ mẩn lần đọc từng chữ một như tự trừng phạt chính mình.

Là một hàng chữ nhỏ dùng trâm ngọc vạch nên, nét chữ ngả nghiêng rối loạn tố cáo nỗi thương tâm phẫn nộ của nàng lúc khắc.

“Đã chẳng giữ lời, sao còn hứa hẹn?”

Nàng chưa từng thất hứa, kẻ thất hứa luôn là hắn!

Nàng tin tưởng hắn, yêu thương hắn, bảo vệ hắn, nhưng hắn lại nghi kỵ nàng, căm hận nàng, làm tổn thương nàng!

Giọng nói tiếng cười của Xi Vưu bỗng hiện lên rành rành trước mắt, nàng đăm đăm nhìn hắn nửa hờn nửa giận.

Xi Vưu gục mặt vào thân cây, rưng rưng nước mắt, mấy lần tưởng không kìm nén nổi.

Hắn cũng như bao con đực trong rừng, sau khi chọn được kẻ phối ngẫu, liền dâng cho nàng đóa hoa đẹp nhất, thứ quả ngon nhất, thậm chí không tiếc mạng sống bảo vệ nàng, nhưng yêu nàng càng nhiều thì nghi kỵ càng sâu, hắn sợ nàng coi rẻ những thứ đó, lo nàng không hiểu ý mình khi hồi hộp dâng lên những hoa thơm trái ngọt đó, sợ nàng phụ bạc hắn, mà đâu ngờ rằng, nàng còn hiểu ý nghĩa của từng trái ngọt hoa thơm kia hơn hắn, nàng nhìn thấu trái tim hắn, cũng vô vàn trân trọng trái tim hắn.

Sau cùng, lại là hắn phụ lòng nàng.

Bàn tay Xi Vưu chà miết lên từng con chữ của nàng, như muốn cảm nhận hơi ấm ngón tay nàng, mùi hương trên tóc nàng. Nhưng nào đâu thấy hơi thở người xưa.

Hai trăm năm! Nàng ra đi đã hai trăm năm rồi!

Nước mắt không cầm giữ nổi tràn ra khóe mắt Xi Vưu, chảy dài trên thân cây, thấm loang lổ hai chữ “Xi Vưu”. Dù lật tung ngũ hồ tứ hải, tìm khắp lục hợp bát hoang, hắn cũng chẳng thể nào bù đắp được cho nàng nữa.

Cách đó ngoài ngàn dặm, ở nơi mặt trời lên – Thang cốc.

Khác với Ngu uyên là nơi mặt trời lặn, quanh năm vần vũ khói đen, bầu trời Thang cốc luôn trong xanh sáng sủa. Trông về hướng Đông mênh mông sóng biếc vờn gió nhẹ, chín gốc phù tang[2] cực lớn sừng sững nhô lên giữa bể khơi, tán xòe rộng như trái núi, đầu cành đỏ rực những hoa, từ xa nhìn lại hệt như từng cụm mây hồng dập dềnh trên nền xanh thăm thẳm.

[2] Loài cây được tôn xưng là thần thụ, sinh trưởng ở Thang cốc, nơi mặt trời mọc.

Giữa hai màu xanh đỏ đan xen, chợt điểm xuyết một đốm trắng và một vệt lam.

Bạch y nam tử ngồi trên cành phù tang, khoan thai gảy đàn, thư thái tựa gió lành thấm áo. Lam y nam tử say sưa múa kiếm, thần thái như mây trôi nước chảy, kiếm khí tung hoành rực rỡ tựa cầu vồng, hoa tuyết lả tả tuôn rơi theo mũi kiếm, băng tuyết mù mịt phủ quanh mình, nhưng gương mặt y còn lạnh lẽo hơn cả băng tuyết.

Hai nam tử này chính là Thiếu Hạo và Thanh Dương nổi danh khắp đại hoang.

Hoa tuyết càng đổ càng mau, nhiệt độ càng lúc càng xuống thấp theo kiếm thế.

Chờ Thanh Dương múa hết bài kiếm, Thiếu Hạo lập tức nhảy xuống, bưng ngay lấy vò rượu rót chừng lưng chén lưu ly, nhấp một ngụm rồi xuýt xoa khen ngợi: “Ngon thật, ướp lạnh vừa đến độ!” Nói đoạn y lại rót một chén rượu bồ đào đưa cho Thanh Dương.

Thanh Dương nhấp một ngụm, hờ hững nhận xét: “Vị rượu hơi chát nhưng dư vị lại thơm ngát, tay nghề ủ rượu của ngươi càng ngày càng cao minh rồi.”

Thiếu Hạo đắc ý: “Người khác chẳng ai nhận ra được đâu, luận về phẩm rượu, nếu ngươi đứng hàng thứ hai thì không kẻ nào dám xưng đệ nhất cả.”

“Ở nhà cũng chẳng đến lượt ta xếp thứ nhất đâu, A Hành mới…” Thanh Dương thoáng khựng lại, rồi thản nhiên nói tiếp, “A Hành từ nhỏ đã mê rượu, trong lúc người khác dốc sức luyện công, muội ấy chỉ chăm chăm tìm cách lấy trộm rượu, vị giác được rèn giũa ngày ngày, vô cùng linh mẫn”

Thiếu Hạo tắt hẳn nụ cười, lặng lẽ rót rượu cho Thanh Dương, Thanh Dương lại một ngụm cạn chén.

Đột nhiên, y lên tiếng hỏi: “Phụ vương ngươi gần đây có phản ứng gì không?”

“Người trên đại hoang đồn đại suốt hai trăm năm nay, lẽ nào phụ vương ta không nhận ra sự thật? Nhất định phụ vương đã biết vương tử phi trong Thừa Hoa điện là giả từ lâu rồi.”

“Vậy ngươi tính sao?”

“Phụ vương không hỏi thì ta cũng vờ như không biết thôi!”

“Đám đệ đệ như hổ sói của ngươi đời nào để yên cho ngươi, sớm muộn gì cũng xảy ra chuyện, chẳng phải Trung Dung đã thăm dò mấy lần rồi đấy sao? Vương tử phi bệnh liệt giường suốt hai trăm năm, nói cho cùng cùng chẳng hay ho gì.”

Thiếu Hạo cười đáp: “Sao ngươi hồ đồ thế? Chỉ cần phụ vương vẫn muốn liên minh với Hiên Viên, Người sẽ không để bọn chúng gây chuyện, dù vương tử phi đó là giả cũng chẳng hề gì. Có điều một khi Hiên Viên hết giá trị lợi dụng thì dẫu kẻ kia là thật cũng không tránh nổi tai vạ.”

Thanh Dương lại hỏi: “Nghe nói Tuấn Hậu đang thuyết phục Tuấn Đế lập một nữ tử Thần Nông tộc làm chính phi cho Yên Long?”

Thiếu Hạo lắc lắc chén rượu trong tay, cười đáp: “Phụ vương ta hành sự khá cảm tính, vì sự vụ đăng cơ năm xưa mà vẫn luôn cảnh giác Thần Nông tộc, chưa chịu nhận lời vương hậu. Nếu ngươi không muốn Cao Tân liên minh với Thần Nông thì mau chớp thời cơ đi, dù sao ngươi vẫn chưa lập chính phi, sao không chủ động mở lời với Du Võng xin cưới vương cơ Thần Nông tộc. Tuy Vân Tang đã có ý trung nhân, e khó mà nhận lời ngươi, nhưng vẫn còn Mộc Cận kia mà.”

Thanh Dương cười thiểu não, “Ngươi định xui khiến huynh đệ ta lục đục à? Bao năm nay, phụ vương ta cũng phải bó tay với tên Xương Ý cứng đầu cứng cổ kia rồi.” Từ khi A Hành qua đời đến nay, Xương Ý vẫn chưa hề trò chuyện với Thanh Dương nửa lời, hơn nữa còn tâu rõ với Hoàng Đế, trừ phi Du Võng giết chết Chúc Dung và Xi Vưu bằng không y thề không đội chung trời với Thần Nông, Hoàng Đế phí bao tâm huyết mới thu phục được Nhược Thủy, vậy mà giờ lại không dám phái các chiến binh Nhược Thủy ra trận.

Thiếu Hạo cũng than thở: “Đúng là mặt sứa gan lim, dù phụ vương ngươi có ba đầu sáu tay, đụng phải Xương Ý cũng đành hết cách!”

Thanh Dương xách vò rượu lên nốc ừng ực, hôm nay là ngày giỗ tiểu muội y, dường như chỉ có say mèm may ra mới xoa dịu được nỗi lòng.

Sau khi A Hành mất, Thanh Dương từ mê rượu đã thành ra nát rượu, Thiếu Hạo muốn khuyên cũng chẳng biết phải khuyên từ đâu. Y đành giương mắt nhìn Thanh Dương chìm đắm trong hơi men, hốt nhiên nhớ lại tình cảnh lúc gặp Thanh Dương lần đầu hơn hai ngàn năm về trước.

Đó là một chiều mùa hạ oi ả, y đang ngồi hóng mát dưới gốc hòe trong sân.

Thanh Dương miệng ngậm cọng cỏ, lưng đeo thanh kiếm gãy, nghênh ngang bước vào lò rèn, toét miệng cười hì hì nói với y, nụ cười chói ngời như nắng: “Huynh đài, nghe nói ngươi là thợ rèn giỏi nhất vùng này, sửa giùm ta thanh kiếm này nhé, ta sẽ mời ngươi uống rượu!”

Y nheo mắt nhìn Thanh Dương, chẳng hiểu sao trên đời lại có nụ cười phóng khoáng hào sảng đến thế, trong khoảnh khắc ấy, y thậm chí còn sinh lòng đố kỵ với gã thanh niên này.

Y sửa kiếm giùm Thanh Dương, Thanh Dương bèn mời y đi uống thứ rượu nóng khé cả cổ, đúng là loại rượu dở nhất mà y từng uống trong đời. Lúc này, y mới chừng vài trăm tuổi, còn chưa hiểu được rằng, trên đời này chẳng có gì là “nhất”, chỉ có “hơn”.

Có lẽ vì tay nghề y giỏi, mà cũng có lẽ vì y dễ gạt, chỉ cần vài chén rượu xoàng trả công là xong, khỏi phải mất tiền, nên Thanh Dương luôn tìm tới y nhờ sửa kiếm, về sau, chẳng hiểu sao lại thành ra: Thanh Dương tới nhờ y sửa kiếm, y mời Thanh Dương uống rượu, lúc tiễn biệt còn tặng cho Thanh Dương một bộ đồ, một vò rượu.

Thanh Dương chẳng hề thấy có gì không ổn, y cũng không lấn cấn điều gì, chỉ có hai tên ngốc hằng ngày thụt bễ phụ y cho rằng Thanh Dương lợi dụng y, còn khuyên y nên cẩn thận.

Năm y năm trăm tuổi, cũng tròn năm trăm năm ngày giỗ mẹ y, phụ thân lại cưới thêm hai phi tử, đồng thời lập Đại Thường Hy thị, mẹ ruột Yên Long làm chính phi, y bị gọi về tham gia đại lễ sách phi. Y trở về, tươi cười suốt từ đầu buổi đến cuối buổi, còn tươi tắn hơn cả Yên Long.

Tối hôm đó, y cưỡi Huyền điều bay thẳng về phương Bắc, đuổi theo vì sao tít tắp cuối trời Bắc. Thuở nhỏ, mỗi khi y khóc đòi mẹ, vú nuôi lại ôm lấy y, trỏ vì sao ở tận cùng phía Bắc, dỗ dành: “Nhìn thấy chưa? Kia là mẹ con đấy, mẹ con vẫn luôn nhìn con kìa!”

Huyền điểu cứ thế bay bay mãi, tới khi y cạn kiệt linh lực mới đậu xuống.

Vùng cực Bắc ngàn dặm phủ băng, mênh mông tuyết trắng, ánh mặt trời cũng ngại rọi tới, một mình y trơ trọi lê bước, chẳng biết nên đi về đâu, cũng chẳng rõ mình không cam tâm cái gì.

Dưới trời gió tuyết lồng lộng, rét thấu xương, tối như hũ nút, y lạc mất phương hướng, linh lực đã cạn, chỉ tâm tâm niệm niệm rằng phải đi tiếp, không được dừng lại, hễ dừng lại là chết. Y chẳng hề sợ sệt, bởi vì từ nhỏ đến lớn, y vẫn luôn phải đơn độc lê bước thế này. Có điều y thấy sao mà cô đơn quá, như thể cả thế giới này chỉ còn lại mình y vậy.

Đúng vào lúc y cảm thấy gió tuyết vần vũ mãi không ngừng, bóng tối trải dài ra ngút ngàn, con đường lê thê, vĩnh viễn chẳng bao giờ đi hết, toan nằm xuống nghỉ ngơi, chợt có một tia sáng lóe lên giữa trời tuyết trắng. Y loạng choạng lết đến, thấy Thanh Dương mình khoác tấm lòng thú rậm dày, thò đầu ra cười hì hì: “ Gió tuyết liên miên bắn băng hồ, bập bùng đống lửa say mỹ tửu, vào đây uống rượu đi.”

Mỹ tửu cái đầu! Còn khó nuốt hơn cả bữa rượu xoàng lần trước, nhưng y uống vào lại thấy ấm ran cõi lòng.

Y chẳng hỏi tại sao Thanh Dương lại ở đó, Thanh Dương cũng không giải thích, nhưng tối đó y đã nói thật với Thanh Duong: “Ta mang họ Cao Tân.” Tuy rằng y hiểu Thanh Dương đã biết từ lâu, bằng không hẳn chẳng có mặt ở đây.

Thanh Dương vừa nhồm nhoàm nhai thịt hồ ly, vừa lẩm bẩm: “Ta họ Hiên Viên.” Rồi giơ ngón cái bóng nhẫy mỡ, kiêu hãnh trỏ vào ngực mình: “Ta, Hiên Viên Thanh Dương!”

Trong mắt Thanh Dương, dòng họ Cao Tân khiến cả đại hoang phải biến sắc cũng chỉ ngang hàng với dòng họ Hiên Viên của mình.

Thấy vậy, Thiếu Hạo bỗng thấy thoải mái hẳn, y phá lên cười ha hả, gió tuyết vần vũ ngoài kia chỉ càng làm cho bữa rượu túy lúy của cả hai thêm phần ý vị. Khi ấy, hai người đâu có ngờ, ngàn năm sau, Hiên Viên quả thật đã sánh ngang hàng với Cao Tân.

Mấy trăm năm sau, Hiên Viên tộc từ một Thần tộc nhỏ lẻ vô danh đã trở thành một trong ba đại Thần tộc hùng mạnh nhất, còn phụ thân y cũng chuẩn bị kế vị Tuấn Đế. Mười vạn đại quân Thần Nông vây chặt dưới thành, chỉ một mình y vung kiếm kháng cự, liên tiếp đánh bại sáu mươi đại tướng Thần Nông, nhưng Thần Nông vẫn không chịu lui binh, trong khi đó quân đội Cao Tân sau lưng y đã ngã lòng. Nửa đêm, đúng lúc y đang âm thầm trị thương, chợt Thanh Dương đeo kiếm lù lù xuất hiện, mặc một bộ đồ giống hệt y, đắc ý cười: “Thế nào? Giống lắm phải không? Từ giờ trở đi, ta cũng là Cao Tân Thiếu Hạo.”

Hôm sau, đại quân Thần Nông kinh hoàng phát hiện Cao Tân Thiếu Hạo chẳng khác nào một vị chiến thần có linh lực dồi dào, không bao giờ cạn, kế xa luân chiến nhằm vắt kiệt linh lực của y trở nên vô dụng. Trong ngày hôm đó, Thiếu Hạo liên tiếp đánh bại cả trăm người. Tới ngày thứ ba, khi Cao Tân Thiếu Hạo tràn trề linh khí, chẳng có vẻ gì là đã khổ chiến hai hôm bước lên đầu thành, vỗ kiếm cười hỏi: “ Còn ai muốn giao đấu với ta nữa không?”, quân sĩ Thần Nông rụng rời chân tay, đến dũng sĩ kiêu hùng nhất cũng không dám bước ra ứng chiến.

Tối hôm đó, đại quân Thần Nông thừa cơ lui binh, quân đội Cao Tân thấy tình thế không ổn, vội đem mấy viên tướng có ý chống đối giam lại, trình lên Thiếu Hạo.

Chẳng ai biết có hai kẻ thương tích đầy người loạng choạng xông vào một quán rượu cũ nát, vừa uống rượu vừa cười sằng sặc.

Thanh Dương chuếnh choáng say, bèn lôi đệ đệ ra khoe khoang với Thiếu Hạo, khoác lác nào là đệ đệ mình tuấn tú thế nào, thông minh ra sao.

Thiếu Hạo lè lưỡi nói, trẻ con trên đời đều như thế hết. Nghe vậy Thanh Dương đùng đùng nổi giận, kéo y bay về nhà mình, ôm em trai ra, buộc y phải thừa nhận đó là đứa trẻ tuấn tú nhất, thông minh nhất trên đời. Thiếu Hạo chẳng nhớ rốt cuộc mình có thừa nhận hay không, chỉ biết hai người bọn họ ôm theo đứa nhỏ, lại tiếp tục đi uống rượu. Uống đến say khướt, nhìn ra đường thấy quân lính rầm rập, gà bay chó sủa loạn lên, cả hai ngơ ngác không hiểu xảy ra chuyện gì. Chủ quán bèn thở vắn than dài nói con trai tộc trưởng bọn họ mới mấy tháng tuổi đã bị mất tích, chẳng hiểu tên trời đánh nào gây ra chuyện thất đức này. Thiếu Hạo và Thanh Dương phá lên cười nhạo: “Thật vô dụng, đến cả con mình đánh mất, đòi làm tộc trưởng gì chứ, nào, chúng ta uống tiếp đi!”

Uống mãi uống mãi, đôi bên nhìn nhau, đều cảm thấy có gì đó không ổn, Thiếu Hạo ngắm đứa nhỏ thiêm thiếp ngủ trong làn, bóp trán nghĩ ngợi một hồi buột miệng: “Thanh Dương này, hình như cha ngươi là tộc trưởng!”

Thanh Dương chăm chú nhìn đứa nhỏ, cau mày nghĩ ngợi. Say túy lúy mấy ngày, đầu óc y đâm ra u mê hẳn, nghĩ hoài chưa ra.

Thiếu Hạo lần theo bờ tường lẻn ra khỏi quán, lập tức chuồn về Cao Tân, vừa may kịp chuếnh choáng tới dự đại lễ đăng cơ của phụ vương.

Quãng thời gian đó thật sảng khoái vui vẻ, lần đầu tiên trong đời, y biết được thế nào là “huynh đệ bằng hữu”, lúc tịch mịch có thể cùng uống rượu ấu đả, dịp vui cười có thể chuốc chén say mèm, khi phiền não có thể dốc bầu tâm sự…

Từ khi Tuấn Đế đăng cơ đến nay, thấm thoát đã hơn hai ngàn năm.

Trong hai ngàn năm đó, Hiên Viên tộc đã trở thành một trong ba đại Thần tộc thao túng vận mệnh cả đại hoang, Hoàng Đế lập nên Hiên Viên quốc, lên ngôi xưng đế, nhưng mẹ của Thanh Dương đã chẳng còn là người phụ nữ duy nhất của ông ấy.

Trong hai ngàn năm đó, Thanh Dương đã có hai em trai. Y từng thấy Thanh Dương mừng rỡ khoe rằng Vân Trạch đã biết kêu mình bằng Đại ca, Thanh Dương hết sức cưng chiều Vân Trạch, y cũng coi Vân Trạch như em ruột mình, dạy cho Vân Trạch tất cả những gì nó muốn học. Vân Trạch quả là đứa nhỏ thông minh tuấn tú nhất trên đời, đúng như Thanh Dương nói, bất kể cái gì cũng học một biết mười, hơn nữa còn rất nhiều chuyện, biết quan tâm, chủ động gánh vác hết mọi trách nhiệm mà Đại ca lười không muốn gánh.

Trong hai ngàn năm đó, y đã chứng kiến Vân Trạch lìa đời, nghe Thanh Dương đau đớn khóc gào thảm thiết, tận mắt thấy địa vị và tính mạng Luy Tổ lâm nguy, Thanh Dương cũng dần đánh mất nụ cười tươi tắn cùng nhiệt tình hào sảng trong tim.

Gã thiếu niên lưng đeo thanh kiếm gãy, miệng ngậm nhành cỏ, vừa đi vừa lắc lư, có nụ cười rạng rỡ khiến người khác phát ghen ấy đã hoàn toàn biến mất.

Suốt mấy canh giờ, Thiếu Hạo cùng Thanh Dương đã uống sạch mười mấy vò mỹ tựu.

Thiếu Hạo nằm phục trên cành phù tang với tay vớt trăng đáy nước, cành cây đung đưa, y cũng lắc lư theo, bỗng ùm một tiếng, y ngã nhào xuống nước, mất dạng.

Thanh Dương nằm dài trên cây, giơ cao vò rượu lên, há miệng vừa đu đưa theo cành lá,vừa dốc rượu vào miệng.

Nốc hết hũ rượu vẫn chưa thấy Thiếu Hạo nhô lên, Thanh Dương bèn vỗ vào thân cây gọi ầm ĩ: “Thiếu Hạo, ngươi còn không chịu lên, ta sẽ uống sạch rượu đấy.”

Thấy mặt nước vẫn lặng như tờ, Thanh Dương toan nhảy xuống vớt Thiếu Hạo thì đột nhiên thấy y nhô đầu lên, Thanh Dương liền đập cho y một chưởng: “Ngươi chưa say chết dưới đó à?”

Thiếu Hạo nghiêng mình tránh né: “Ta vừa phát hiện cái này lạ lắm, ngươi xuống mà xem.”

Thấy y không có vẻ đùa bỡn, Thanh Dương đành nhảy theo xuống nước, Thiếu Hạo dẫn đường phía trước, hai người cùng bám theo gốc phù tang mà lặn xuống. Nước ở Thang cốc rất lạ, theo lẽ thường càng lặn sâu xuống đáy hồ càng tối, nhưng hồ nước ở đây càng xuống dưới càng lóa mắt, cứ thế lặn xuống không mù mắt là may, đừng hòng nhìn thấy gì.

Hai mắt Thanh Dương đang khó chịu chợt dịu hẳn đi, trông thấy một hạt châu xanh biếc bập bềnh giữa vầng sáng lấp loáng, tỏa ra ánh sáng mát mắt.

Thiếu Hạo lên tiếng: “Lạ lắm phải không? Thang cốc là nơi mặt trời lên, nguồn nước nơi đây tinh khiết nhất trong thiên hạ, chẳng dung dưỡng sinh vật nào, thậm chí chín gốc phù tang từ thời thượng cổ mà người đời vẫn nói rằng sinh trưởng tại đây, thực ra cũng bắt rễ ở nơi khác.”

“Ừm.” Tuy Thanh Dương linh lực cao cường nhưng không sao mở miệng nói chuyện trong nước như Thiếu Hạo được.

“Tuy hơn trăm năm nay ta chưa hề lặn xuống Thang cốc nhưng bọn Yên Long nhất định đã có kẻ lặn xuống, thế mà chẳng ai phát hiện ra, vậy chỉ có thể giải thích rằng khi đó thứ này không tồn tại.” Thiếu Hạo cau mày nghĩ ngợi, “Rốt cuộc nó ở đâu ra nhỉ? Thang cốc là cấm địa của Cao Tân, muốn đem hạt châu lớn nhường ấy vào hẳn không dễ, nhiều khả năng hạt châu này dần nổi từ dưới kia lên.” Bản thân y cũng chẳng thể lặn sâu thêm nữa, nghe nói dưới đó mới chỉ có Bàn Cổ khai thiên lập địa từng xuống mà thôi, có điều mặt trời lặn xuống Ngu uyên rồi lại mọc lên ở Thang cốc, như vậy ắt Thánh địa Thang cốc và Ma vực Ngu uyên phải thông nhau.

“Bất kể… đợi… xem qua… là biết thôi.” Tuy Thanh Dương đã vận linh lực gắng mở miệng, nhưng tiếng nói vẫn bị nước hồ át đi gần hết.

Thiếu Hạo gật đầu, y vận linh lực nhấc hạt châu lên nhưng không sao nhấc nổi, Thanh Dương phải phụ một tay, hai người cùng vận linh lực ra sức kéo hạt châu lên mặt nước.

Lên tới mặt nước, Thiếu Hạo ngạc nhiên than: “Cái gì thế này? Trong thiên hạ lại có thứ phải hai ta hợp lực mới nhấc lên, nói ra chắc chẳng ai tin nổi.”

Thanh Dương cúi nhìn Bích ngọc châu bồng bềnh trên mặt nước, nom chẳng khác nào cánh bèo trôi nổi dập dềnh, ấy vậy mà khi nãy y phải hợp lực với Thiên Hạo mới kéo lên được.

Thanh Dương chạm vào hạt châu, thấy bỏng rãy tay, Thiếu Hạo vừa đụng tay vào cũng rụt ngay lại. Chẳng hiểu sao, Thanh Dương chợt thấy trong lòng dấy lên một cảm giác dịu dàng khó tả, lưu luyến mãi không nỡ rời.

Y rúng động, vội vung kiếm rạch một đường vào lòng bàn tay, máu tươi tứa ra, nhỏ xuống hạt châu, liền bị hạt châu hút sạch.

Thiếu Hạo thấy vậy cũng vô cùng kinh ngạc, lòng nhen lên một tia hy vọng mong manh, tim đập rộn lên vì hồi hộp. Y cầm lấy thanh kiếm từ tay Thanh Dương, giơ tay ra nhưng trù trừ mãi không rạch xuống, chỉ sợ hy vọng mong manh trong lòng tan mất.

Thanh Dương sốt ruột giục: “Thiếu Hạo!”

Thiếu Hạo lướt tay qua mũi kiếm, máu tươi phun ra, bắn lên hạt châu rồi từ từ chảy xuống, chẳng hề được hút vào.

Thanh Dương và Thiếu Hạo mừng rỡ, liền xúm lại cùng xem xét hạt châu.

Hồi lâu, Thanh Dương mới lên tiếng: “Tuy nói rằng Ngu uyên nuốt chửng mọi thứ nhưng theo truyền thuyết Bàn Cổ đại đế đuổi theo mặt trời từng nhảy xuống Ngu uyên, rồi chạy thẳng tới Thang cốc, ngươi bảo liệu A Hành có…” Thanh Dương khựng lại không nói tiếp nữa, chỉ áp bàn tay đầm đìa máu lên hạt châu, linh lực và máu tươi của y lập tức bị hạt châu hút ngay lấy. Trong nháy mắt, sắc mặt Thanh Dương đã nhợt nhạt hẳn đi, Thiếu Hạo phải giằng tay y ra, “Ngươi điên rồi à? Nếu thứ này thật sự từ Ngu uyên trôi tới thì chẳng biết là yêu hay là ma đâu!”

Thanh Dương cự lại: “Nhất định nó có liên quan tới A Hành, ta phải đem nó về gặp cha mẹ.”

“Để ta đi cùng ngươi.”

Thanh Dương lập tức từ chối: “Không cần đâu, đây là chuyện riêng của nhà ta.”

Thiếu Hạo sực hiểu ra, trong chớp mắt mọi thứ vụt trở về hiện thực, y là Cao Tân Thiếu Hạo, còn Thanh Dương là Hiên Viên Thanh Dương.

Chương 2: Gặp nhau há dễ nhận được liền[1]

Xi Vưu không sao tin nổi, thiếu nữ áo xanh trước mặt giống hệt A Hành trong ký úc của hắn, cũng chính là người con gái hắn tương tư suốt hai trăm năm, nguyện từ bỏ mọi thứ để đổi lấy nàng, vậy mà hai trăm năm sau gặp lại đã thành người dưng xa lạ, bao ân oán dây dưa thuở trước dường như chưa từng xảy ra.

Thà rằng nàng căm hận hắn, còn hơn là lãng quên hắn!

[1] Xem chú thích đầu chương 1.

Thanh Dương vừa đem hạt châu về Triêu Vân phong, Luy Tổ lập tức phái người đi mời Hoàng Đế tới.

Hoàng Đế căn vặn thật kỹ lai lịch của hạt châu, lại thấy hạt châu hấp thụ tinh huyết linh lực, bèn thuyết phục Luy Tổ: “Ta biết sau khi Hành nhi qua đời, bà đau lòng khôn xiết, ta cũng mong Hành nhi có thể trở về, nhưng thứ này không phải Hành nhi, chỉ là ma vật do Ngu uyên kết thành, nếu không hủy đi e hậu họa vô cùng.”

Luy Tổ xuất thân từ “Tứ thế gia” danh môn thượng cổ, hiển nhiên biết rõ ma vật đáng sợ nhường nào. Bà mân mê hạt châu, hồi lâu mới đáp: “Dù là ma vật cũng do Hành nhi biến thành, thiếp không tin nó lại hại cả cha mẹ đại ca.”

Thanh Dương và Xương Ý nhất loạt quỳ xuống dập đầu cầu khẩn Hoàng Đế.

Hoàng Đế bất đắc dĩ đành đồng ý thử một lần, “Nếu quả thật đây là ma vật hại người, phải lập tức trừ khử trước khi nó gây họa cho nhân thế đó.” Nếu để người trong thiên hạ biết được Hoàng Đế dung dưỡng ma vật, danh vọng của ông sẽ bị hủy hoại, cực kỳ bất lợi cho vương đồ bá nghiệp.

Hoàng Đế bí mật triệu Tri Mạt thạo bày trận pháp lên Triêu Vân phong bày bố Thần trận, lại cắt đặt hai tâm phúc của mình là Ly Chu và Tượng Võng trấn trận.

Hoàng Đế, Luy Tổ, Thanh Dương, Xương Ý đồng thời rỏ linh lực cùng tinh huyết của mình vào hạt châu.

Hệt như Ngu uyên nuốt chửng mọi thứ, hạt châu này cũng tham lam hút hết linh lực và tinh huyết rỏ xuống, họ càng đổ nhiều tinh huyết và tinh lực thì hạt châu càng hút mạnh. Hoàng Đế thấy tình thế không ổn, bèn quả quyết cắt đứt mối dây liên kết giữa mình và hạt châu, nhưng Luy Tổ, Thanh Dương, Xương Ý rõ ràng cảm thấy như bị Ngu uyên nuốt chửng, vẫn khăng khăng không từ bỏ.

Sắc mặt Luy Tổ nhợt hẳn đi, hệt như gốc đại thụ bị rút kiệt nước. Hoàng Đế phải cưỡng chế kéo bà ra, đồng thời cao giọng hạ lệnh ngừng trận pháp.

Xương Ý bủn rủn ngã lăn ra đất, hai mắt nhắm nghiền, mặt vàng như nghệ, cả người run lên cầm cập, rõ ràng đã bị trọng thương. Xương Phó trấn giữ bên ngoài trận pháp thấy vậy vội nhào tới giúp y bảo hộ linh thể.

Thanh Dương tái mét mặt, đờ người ngã phịch xuống đất, mất hết tri giác. Tuy y thần lực cao cường nhưng chính vì ỷ vào thần lực, lại áy náy trước cái chết của A Hành nên khi nãy đã bất chấp nguy hiểm, dốc hết linh lực và tinh huyết hơn cả, một lòng muốn cứu sống em gái, bởi vậy nên bị thương nặng hơn hết, nếu không phải Hoàng Đế kịp thời ngăn cản, e rằng tính mạng cũng khó giữ.

Thấy hạt ma châu này suýt hại chết hai đứa con mình, Hoàng Đế nổi giận đùng đùng, hạ lệnh cho Ly Chu: “Mang Tứ Tượng kính lại đây, bày Diệt Ma trận, tiêu hủy ma vật này đi.”

Luy Tổ yếu ớt níu tay áo Hoàng Đế vật nài: “Đừng mà!”

Nhìn dáng vẻ già nua tiều tụy của Luy Tổ, Hoàng Đế cũng chạnh lòng xót xa, bèn kiếm lời an ủi: “Hành nhi là đứa con gái duy nhất của ta, bà tưởng ta không thương nó ư? Có điều thứ này không phải Hành nhi, Thanh Dương vẫn luôn hổ thẹn trong lòng vì cái chết của Hành nhi, Xương Ý lại là đứa chấp mê bất ngộ, một ngày chưa trừ khử hạt châu này, hai đứa nó nhất định sẽ nghĩ cách đánh thức nó dậy. Hôm nay may mà có ta và Tri Mạt ở đây, giữ được mạng cho chúng, nhưng lần sau thì sao? Ta thật không muốn mất thêm hai đứa con trai nữa đâu. Đã mất một đứa con gái rồi, lẽ nào bà đành lòng vì nó mà đánh mất nốt hai đứa con trai sao?”

Nhìn hai đứa con trai trọng thương dưới đất, Luy Tổ hiểu Hoàng Đế nói phải, không thể giữ hạt ma châu này lại được. Nhưng từ tận đáy lòng, bà luôn cảm thấy đó là hóa thân của A Hành, lòng đau như dao cắt, nước mắt lã chã. Hoàng Đế biết Luy Tổ rất có ảnh hưởng đối với bọn Tri Mạt, sợ lát nữa Luy Tổ lại lên tiếng ngăn cản, bèn âm thầm vận linh lực khiến bà hôn mê, ngủ thiếp đi rồi sai cung nữ đưa Luy Tổ, Thanh Dương, Xương Ý về Triêu Vân điện.

Ly Chu bẩm: “Tứ Tượng kính đem đến đây rồi, bày trận luôn bây giờ ư?” Diệt Ma trận là sát trận do Bàn Cổ lập ra, bất kể thần hay ma, một khi vào trận ắt cầm chắc cái chết, xưa nay chưa từng thấy kẻ nào sống sót bước ra khỏi Diệt Ma trận. Muốn bày trận cần tới thần khí Tứ Tượng kính, từ sau khi Bàn Cổ qua đời, Tứ Tượng kính do tổ tiên Tây Lăng Thị cất giữ, sau này Luy Tổ gả về Hiên Viên tộc, Tứ Tượng kính cũng trở thành của hồi môn của bà.

Đặt tay lên hạt châu, Hoàng Đế cũng cảm nhận được mối ràng buộc máu thịt giữa hạt châu và mình nên chần chừ chưa quyết.

Ly Chu kính cẩn đứng một bên đợi lệnh.

Nói cho cùng Hoàng Đế cũng là bá chủ một phương, dù lòng không nỡ nhưng ông tuyệt đối không để tình cảm chi phối, trù trừ hồi lâu bèn gật đầu ra hiệu cho Tri Mạt. Tri Mạt nhận lệnh, bắt đầu bày Diệt Ma trận.

Trận pháp vừa rậm rịch bày bố, sắc trời tối sầm lại, mưa to gió lớn ào ào trút xuống. Trời cao như cũng cảm nhận được mọi chuyện, bèn giáng sấm chớp xuống ì ùng.

Khí thiêng trong trời đất được Tứ Tượng kính triệu hồi vần vũ tụ lại. Thanh Dương và Xương Ý cũng cảm nhận được sự thay đổi của đất trời, đồng loạt tỉnh dậy, trông ra ngoài thấy sắc trời đen kịt, mưa như trút nước, lập tức hiểu ra mọi chuyện, liền gắng gượng vùng dậy, nhưng Hoàng Đế sớm lường trước mọi chuyện, đã sai Thần tướng canh giữ, không cho hai người rời khỏi phòng nửa bước.

Xương Ý bất chấp thương thế, toan xông ra can ngăn, liền bị hai viên Thần tướng cản trở, ấn xuống giường, lấy xích Long Cốt xích lại. Mặc cho Xương Ý vừa giận vừa cuống chửi toáng lên, hai viên Thần tướng ngoài miệng thì “Điện hạ thứ tội” nhưng ra tay rất mau mắn, hiển nhiên Hoàng Đế đã ban nghiêm lệnh.

Thanh Dương cử động khó khăn lại hiểu con người Hoàng Đế hơn ai hết, tự biết chẳng có cơ hội xông ra, y chỉ ngồi lặng, đăm đăm trông về đỉnh Hiên Viên – sau màn mây dông vần vũ đang cuồn cuộn tụ về trên đỉnh Hiên Viên kia, thấp thoáng lóe lên ánh chớp, chờ tới khi bày xong trận pháp, sấm nổ vang trời, trận pháp sẽ tự động dẫn lửa trời giáng xuống, ngũ lôi oanh kích công phá hạt châu, triệt để hủy diệt nó.

Từ sau khi A Hành qua đời, Xương Ý không buồn mở miệng trò chuyện với Đại ca, lúc này thấy tình thế cấp bách, chẳng biết làm sao, mới đành lên tiếng cầu khẩn: “Đại ca, huynh cứ thế giương mắt nhìn tiểu muội tan xương nát thịt ư? Đệ không cần biết nó có phải ma hay không, đệ chỉ biết nó là muội muội của mình thôi.”

Y vừa dứt lời đã thấy Xương Phó khoác áo choàng, bưng hai hộp đồ ăn bước vào. Nàng đặt đồ ăn xuống đất, ghé tai Xương Ý nói nhỏ: “Thiếp đã huy động tinh binh Nhược Thủy, nhất định phải tìm cách trộm hạt châu đem ra.”

Xương Ý rung động cả tâm thân, siết chặt lấy tay Xương Phó, lòng rưng rưng bao điều muốn nói mà không sao thốt nên lời. Chống lại Hoàng Đế là tội chết, vậy mà Xương Phó vẫn bất chấp hậu quả, chẳng nề đem số mệnh cả tộc ra đối chọi với Hoàng Đế, nhưng y có thể ích kỷ, thí bỏ cả Xương Ý và Nhược Thủy tộc sao?

Hiểu lòng y đang nghĩ gì, Xương Phó dịu giọng: “Chàng quên lời thề giữa hai ta trong đêm tân hôn rồi ư? Phu thê một lòng, bên nhau suốt kiếp, sống chung chăn gối, chết chung huyệt mộ! Muội muội của chàng cũng là muội muội của thiếp, muội muội của thiếp chính là người của Nhược Thủy tộc, bất kể nguy hiểm đến đâu, Nhược Thủy tộc bọn thiếp quyết không bỏ rơi người của mình!”

Thấy Xương Ý gật gật đầu, Xương Phó kiên quyết đứng phắt dậy, toan bước ra ngoài, xông vào màn mưa gió, chợt Thanh Dương lạnh lùng lên tiếng: “Nếu đám bán yêu Nhược Thủy tộc cũng có thể phá giải Diệt Ma trận mà Hiên Viên tộc bày bố, Hiên Viên chẳng được cả đại hoang tôn xưng là một trong Tam đại Thần tộc. Giờ đây muội đã thành trưởng tộc, hành sự phải động não một chút, đừng tưởng cứ đâm đầu tìm chết là anh dũng đâu!”

Xương Ý rối cả ruột, liền trừng mắt nhìn Thanh Dương, vùng vẫy định nhào tới đánh cho y một trận, chỉ có Xương Phó tinh tế, nhận ra ẩn ý trong lời Thanh Dương, “Đại ca thấy làm vậy không ổn, vậy huynh có cách nào hay hơn không?”

Thanh Dương hờ hững đáp: “Giờ đây người nên ra tay cứu A Hành nhất không phải muội, mà muội cũng chẳng có năng lực đó.”

Xương Ý giận dữ buông lời chế nhạo: “Vậy ai mới nên? Chắc là chàng rể huynh chọn cho A Hành, Cao Tân Thiếu Hạo hả? Tuy hắn có năng lực thật đấy, nhưng chúng ta lấy đâu ra Hà Đồ Lạc Thư mà trao đổi nữa!”

Thanh Dương chẳng chấp Xương Ý, chỉ ngoảnh sang bảo Xương Phó: “Muội cưỡi tọa kỵ của ta đi tìm Xi Vưu, báo tin cho hắn hay.”

Xương Phó sực hiểu ra, hàng năm nàng đều cùng Xương Ý tới Ngu uyên bái tế A Hành, suốt hai trăm năm, năm nào cũng thấy ngoài Ngu uyên có thêm mấy gốc đào. Mấy năm đầu Xương Ý thường nổi giận nhổ sạch, nhưng Xi Vưu lại lặng lẽ trồng xuống, Xương Ý nhổ bao nhiêu, hắn trồng lại bấy nhiêu, về sau Xương Ý chẳng buồn nhổ nữa, chỉ cười nhạt nói: “Để xem hắn trồng được bao lâu”, thật chẳng ngờ, hắn đã trồng suốt hai trăm năm.

Thanh Dương lại dặn dò: “Muội bảo Chu Du lập tức báo cho Thiếu Hạo hay.”

Thấy Xương Ý định phản đối, Thanh Dương trừng mắt nhìn y: “Dù sao A Hành cũng là vợ cưới hỏi đàng hoàng của Thiếu Hạo, cứu hay không cứu là do hắn, nhưng phải cho hắn biết tình hình hiện tại, huống hồ thêm một người là thêm một cơ hội kia mà.”

Xương Ý trầm ngâm giây lát rồi gật đầu với Xương Phó, nàng liền khép vạt áo, bước ra ngoài trời mưa gió.

Vì bày bố Diệt Ma trận, trăm dặm quanh Hiên Viên sơn vần vũ mây đen, mưa rào rào như trút nước, ánh chớp lấp loáng sau màn mây dông tựa vô số rắn vàng uốn éo, cả bầu trời như một mảnh vải đen kịt thêu đầy những hoa văn vàng rực rối mắt.

Mưa gầm gió rít thổi bạt đi tất cả âm thanh, vậy mà trong tiếng mưa gió sầm sập, vẫn nghe văng vẳng giọng ca thê thiết.

“A ối à ối a

Mình đành nhắm mắt mãi sao

Chẳng buồn hé mở chút nào nhìn ta

Nếu ta làm nát lòng hoa

Xin mình cứ móc mắt ta cho rồi

Miễn mình mở mắt ra thôi…

A ối à ối a

Mình đành quên lãng thế sao

Quên bao ngày tháng xiết bao hẹn thề

Vì ta, mình luồng tái tê

Móc tim, ta cũng sá gì mình ơi

Miễn mình lại tái sinh thôi…”

Xi Vưu giẫm trên lưng đại bàng, áo đỏ phần phật, xé gió băng mưa mà đến.

Ly Chu bước ra quát: “Mau dừng bước, phía trước là cấm địa của Hiên Viên tộc.”

Xi Vưu chẳng buồn nhìn lão, cao giọng nói với Hoàng Đế trên đỉnh núi: “Ta là Xi Vưu, Đốc Quốc Đại tướng quân của Thần Nông, mấy hôm trước lỡ đánh mất một hạt tâm châu, ngày đêm trăn trở không yên, nghe nói Hoàng Đế nhặt được bèn vội vã tới xin lại, mong ngài ban trả cho ta, Xi Vưu vô cùng cảm kích.”

Ly Chu hỏi: “Chẳng hay Đại tướng quân làm sao chứng minh được hạt châu đó là của ngài?”

Xi Vưu bèn tả lại rành rọt từ kích cỡ đến màu sắc hạt châu khiến Ly Chu cứng họng không vặn vẹo nổi. Thấy vậy Tượng Võng khẽ bẩm Hoàng Đế: “ Hay là để thuộc hạ dẫn binh đuổi hắn đi?”

Hoàng Đế lắc đầu: “Xi Vưu tính tình cuồng ngạo, hắn vừa nhận mình là Đốc Quốc Đại tướng quân của Thần Nông nhằm chứng tỏ rằng hắn có thể huy động quân đội Thần Nông, cảnh cáo chúng ta nếu không muốn hắn động binh thì đừng dại động binh trước. Lỡ chúng ta không chứng minh được hạt châu đó không phải của hắn thì hắn sẽ thắng thế, mà quả thực hiện giờ chúng ta chưa có cách nào chứng minh được cả.” Hoàng Đế không muốn vạch áo cho người xem lưng nên chẳng hề cho bọn Ly Chu biết lai lịch hạt châu, càng không đời nào tiết lộ với người đời rằng hạt ma châu đó là hóa thân của con gái mình. Nếu người trong thiên hạ biết con gái ông đã thành ma, danh tiếng của ông ta sẽ phải chịu đả kích ghê gớm.

Tượng Võng giận dữ thét: “Đánh thì đánh! Ai sợ hắn chứ?” Những tướng sĩ bỏ mạng trong trận Đại Thì sơn đa phần là thuộc hạ của Tượng Võng, nên lão thù Xi Vưu tới tận xương tủy.

Hoàng Đế trừng mắt với Tượng Võng: “Sao ngươi mãi không sửa được tính nóng nảy thế? Ta đã bảo ngươi bao nhiêu lần, phải cẩn thận kẻo rút dây động rừng kia mà? Không nhịn việc nhỏ sẽ hỏng hết việc lớn! Hiện giờ quốc lực Hiên Viên có thể toàn diện khai chiến được với Thần Nông sao?” Thấy Tượng Võng cúi đầu làm thinh, Hoàng Đế nghĩ ngợi rồi lạnh lùng phán: “Cứ để hắn biết khó khắc lui! Xưa nay chưa một ai vượt qua được Diệt Ma trận, nếu hắn cứ muốn đâm đầu thì càng hợp ý ta, dù hắn bỏ mạng trong trận cũng không liên quan gì tới chúng ta cả!”

Ly Chu hiểu Hoàng Đế muốn dựa vào Diệt Ma trận để lấy mạng Xi Vưu, bèn cao giọng bảo hắn: “Hạt châu này hút máu người, đoạt mạng người, hẳn không phải tâm châu của Đại tướng quân. Hiện giờ Diệt Ma trận đã bày xong, mời Tướng quân đích thân vào thử xem, một khi xác định không phải tâm châu, xin ngài tức tốc lui ra, để khỏi bị ma vật liên lụy, rước họa vào mình.”

Lão vừa dứt lời, mọi người đều lục đục lui xuống.

Xi Vưu rảo bước tiến vào Diệt Ma trận. Viêm Đế từng giảng giải cho hắn về uy lực của trận thế này, Diệt Ma trận do thượng cổ thần khí Tứ Tượng kính bày ra, bao gồm bốn trận pháp, ngụ ý chỉ tứ tượng trong đời người – tử, sinh, ảo, diệt. Trận pháp vô cùng quái dị, xưa nay chưa kẻ nào vượt qua nổi, vô số cao thủ xông vào, không hóa điên thì bỏ mạng, nghe nói Bàn Cổ từng tuyên bố kẻ nào vượt qua được Diệt Ma trận sẽ ban cho Tứ Tượng kính, mãi về sau một tên ngốc nhà Tây Lăng không có chút linh lực nào lạc vào trận pháp, lại lớ ngớ thoát ra được, Bàn Cổ bèn ban Từ Tượng kính cho tổ tiên Tây Lăng Thị.

Xi Vưu đã bước vào tượng đầu tiên của Diệt Ma trận – Tử kính.

Hai mươi tư khối đá tảng được chạm trổ thành hai mươi tư thần tướng thân mang kim giáp, vung kích vàng, trợn mắt hung hãn nhìn Xi Vưu.

Kim Giáp thần dũng mãnh vô song, lại không có máu thịt, không biết mệt mỏi đau đớn, càng chẳng biết sợ sệt, tựa hồ chẳng hề có khuyết điểm, nhưng thực tế, ưu thế của chúng chính là khuyết điểm, không có cảm giác, hành động sẽ rất cứng nhắc, thiếu linh hoạt. Đối phó với chúng, hạng cao thủ tuyệt đỉnh linh lực cao thâm như Xi Vưu chỉ cần dùng hư chiêu đến dử, dần dà sẽ tìm ra sơ hở trong chiêu thức rồi dựa vào đó mà phản công. Nhưng hắn đang lo lắng cho A Hành, lòng như lửa đốt, nào dám lãng phí thời gian, vừa ra tay đã dốc hết toàn lực, lấy cứng chọi cứng, Kim Giáp thần cương mãnh thì Xi Vưu còn cương mãnh hơn, một mình hắn đấu ngang ngửa với hai mươi tư pho tượng đá.

Có điều, dần dà Xi Vưu phát hiện ra, dùng linh lực công kích chẳng thương tổn được Kim Giáp thần, chúng không ngại nước lửa, cũng chẳng sợ gì đao kiếm.

Tẳng mây đen kịt trên không càng lúc càng trĩu xuống, Xi Vưu nôn nóng muốn dứt điểm, thầm hạ quyết tâm dù chết cũng phải vượt qua trận này.

Thấy một tên Kim Giáp thần tấn công mình, hắn không tránh không né, chỉ gầm lên 1 tiếng, hai tay đưa ra đối chiêu với Kim Giáp thần. Tuy Xi Vưu cương mãnh nhưng dù sao cũng là máu thịt đối chọi với đá tảng, hắn không khỏi thấy huyết khí cuộn lên trong lồng ngực, song vẫn thừa cơ túm lấy tay Kim Giáp thần, thét lớn, bẻ gãy rời vứt xuống đất, đoạn phun ra một bụng máu.

“Tới đi!”

Xi Vưu gầm lên, dùng phương pháp hoang dã nhất mà cũng hữu hiệu nhất, đối phó với đám Kim Giáp thần.

Chỉ một tuần hương, hai mươi tư Kim Giáp thần đều biến thành những pho tượng đá cụt tay, không ngăn cản nổi Xi Vưu nữa, đổi lại, hắn cũng phải trả giá đắt, khắp người đầy thương tích, đồng thời gãy mất hai rẻ xương sườn.

Đây mới là tượng đầu tiên trong tứ tượng!

Xi Vưu ngước mắt nhìn mây đen vần vũ trên đầu, lao vút đi.

Tượng thứ hai là Sinh kính, tên sao trận vậy, không có tấn công, cũng khỏi cần trả giá hay đổ máu, thoạt nhìn vô cùng yên bình. Trận pháp hội tụ băng tuyết do hàn khí kết thành, chẳng có xảo quyệt gì phá được, cách duy nhất chỉ là lê bước băng qua gió tuyết mà thôi.

Xi Vưu bước vào giữa một trời gió tuyết, càng đi sắc trời càng tối sầm lại, tuyết đổ càng nhiều, lạnh đến đông cứng cả xương cốt, dẫu thần tiên linh lực cao thâm bậc nhất cũng không sao chịu nổi cái giá buốt do hàn khí chí âm của trời đất tạo thành. Mới đầu Xi Vưu thấy lạnh buốt cả xương, phải liên tục vận linh lực phản kháng, nhưng cứ đi đi mãi, hắn dần dà lạnh đến mất đi cả tri giác, không còn cảm thấy lạnh, cũng chẳng cảm nhận được gió tuyết nữa, thần trí chỉ còn là một mảnh mơ hồ, chừng như đã quên cả mình là ai.

Trong cơn mơ màng, hắn tựa hồ quay trở lại thuở ấu thơ, khi còn là một con dã thú tung hoành giữa rừng già, không ngừng giết chóc, giành giật địa bàn, cướp đoạt thức ăn.

Đồng loại của hắn hoặc chết hoặc tới mùa xuân lại đi xây tổ ấm, hễ hắn mon men lại gần, chúng đều nhe nanh múa vuốt gầm gừ đe dọa. Hắn không hiểu tại sao lại thế, chỉ thấy mình vô cùng cô đơn, nỗi cô đơn còn buốt giá hơn băng tuyết.

Năm này qua năm khác, toàn là giết chóc, đổ máu, chết thảm, năm này qua năm khác, đám dã thú trong rừng dường như cũng nhận ra hắn khác bọn chúng, không chịu gần gũi với hắn nữa, năm lại năm, chỉ còn mình hắn tung hoành. Nỗi cô đơn mỗi lúc một thêm nặng trĩu, nỗi cô đơn trơ trọi bởi không tìm được đồng loại trên thế gian, niềm đau khổ dồn nén lại, không nơi giãi bày thổ lộ, nhưng hắn cũng chẳng hiểu nổi, mình đau khổ vì lẽ gì?

Có lần hắn tò mò mon men tới một thôn trang của con người, thấy đám trẻ tung tẩy nô đùa, hắn thích thú vô cùng, dường như những tiếng cười giòn tan ấy có thể xua tan hết bao đau khổ dồn nén trong lòng vậy. Hắn muốn lại gần bọn họ, nhưng bọn họ ném đá vào hắn, lấy lửa đốt hắn, vung đao kiếm đâm hắn.

Đầu hắn bị đá ném trúng, lông lá trên người bị lửa thiêu, thân thể bị thương vì đao kiếm, hắn đành vắt chân lên cổ mà chạy, chạy đến lúc mệt nhoài.

Trời đất tối đen, như đang dịu dàng dỗ dành hắn, nghỉ ngơi đi, nghỉ ngơi thôi! Chỉ cần ngủ thiếp đi, sẽ chẳng phải chịu đau đớn nữa!

Xi Vưu toan ngả lưng nằm xuống đánh giấc, nhưng tận sâu trong đáy lòng cứ nhức nhối một chấp niệm, dường như trái tim hắn đã khuyết đi một mảnh, dù muốn ngủ cũng phải tìm lại được mảnh tim đã mất, dựa vào nó mà ngủ thì sẽ có thể sở hữu tiếng cười xua tan hết thảy tối tăm và đau khổ, sẽ có được sự dịu dàng, sẽ không còn cô đơn nữa.

Rốt cuộc là thiếu mất cái gì nhỉ? Và mảnh khuyết đó giờ đang ở đâu?

Xi Vưu ngửa mặt đón gió, tiếp tục lê bước, lảo đảo băng qua bão tuyết.

Đột nhiên tuyết tạnh mây tan, trời trong nắng ấm, ánh mặt trời rọi lên mình Xi Vưu, trông hắn hệt như một cây cột băng tuyết, chẳng còn ra hình người, từ đầu đến chân đều đóng băng, mặt mũi bị băng tuyết phủ kín.

Xi Vưu sững sờ khựng lại, ngơ ngác không hiểu mình đang ở đâu, cũng chẳng rõ mình là ai. Trước đây cũng từng có kẻ kiên trì vượt qua được Sinh kính nhưng bước ra khỏi trận là mất hết thần trí. Vốn dĩ Bàn Cổ dùng khí âm hàn giá buốt nhất đất trời trong trận này để ví von với cuộc đời lạnh lẽo tàn khốc, khảo nghiệm ý nghĩa cuộc sống của con người ta: ngươi vượt qua được Tử trận của Kim Giáp thần, chứng tỏ ngươi đủ năng lực giành lấy mọi thứ mà ngươi muốn, nhưng bất kể vì danh, vì lợi, vì quyền, vì tình, vì nghĩa, chấp niệm của ngươi có thể sưởi ấm kiếp sống lạnh lẽo của ngươi không? Có thể khiến ngươi kiên cường đối mặt với hết thảy giá buốt trên thế gian, chống đỡ cho ngươi vượt qua phong ba bão táp trong đời chăng?

Chỉ lát sau, Xi Vưu đột ngột vùng khỏi đống băng tuyết đông cứng trên người, dang tay ngửa mặt nhìn trời, thét lớn: “A Hành! Là A Hành! Ta phải tìm được A Hành!”

Hắn biết sấm sét đã giáng xuống bên ngoài trận pháp, A Hành sắp gặp nguy ngập nên chẳng dám chần chừ, lập tức tiến vào tượng thứ ba – Ảo kính.

Trời nhẹ mây cao bát ngát, núi rừng xanh ngắt mênh mông, loài hoa dại không tên nở khắp sườn đồi, khiến khung cảnh đượm vẻ bình yên mà mỹ lệ.

Xi Vưu loạng choạng chạy như điên như dại, A Hành, đợi ta, ta đến bây giờ đây! Lần này ta quyết không làm nàng thất vọng nữa đâu!

Cứ chạy mãi chạy mãi, đột nhiên hắn thoáng thấy Thiếu Hạo áo trắng như tuyết, dung mạo tuấn tú, phong thái ung dung đang đứng đón gió giữa đồng hoa, còn cười bảo hắn: “Ngươi tới chậm một bước, ta đã cứu được A Hành rồi!”

“A Hành đâu?”

Vừa dứt lời đã thấy A Hành khoan thai tiến lại, nắm chặt lấy tay Thiếu Hạo, tựa người vào y, đắm đuối ngước mắt nhìn y.

Thiếu Hạo nắm lấy tay nàng leo lên lưng Huyền điểu, ném lại một câu: “Ngươi mau ra khỏi trận đi, ta đưa A Hành về Cao Tân đây!”

“A Hành, A Hành!”

Bất luận hắn thét gọi thế nào, A Hành chỉ một mực tươi cười, tựa vào lòng Thiếu Hạo.

Xi Vưu hồn xiêu phách lạc lê bước, mặc cho Tiêu Dao sà xuống bên cạnh, xót xa nhìn hắn. Cơn giận điên cuồng trào lên trong lòng Xi Vưu, hắn rốt cuộc có chỗ nào không bằng Thiếu Hạo? Vì sao hết lần này tới lần khác nàng đều chọn Thiếu Hạo mà vứt bỏ hắn? Tại sao nàng không tha thứ cho hắn, trong khi lại dễ dàng quên khuấy Thiếu Hạo từng vì nửa mảnh Hà Đồ Lạc Thư mà bỏ rơi nàng? Lẽ nào bởi Thiếu Hạo xuất thân tôn quý, sẽ có ngày trở thành vua một nước hay sao?

Được lắm! Ta sẽ cho nàng thấy rốt cuộc ta và y, ai mới thành vua một nước?

Nói là làm, hắn liền cưỡi Tiêu Dao quay về Thần Nông, vung kiếm huy động đại quân, vó sắt quét qua, máu rải vạn dặm, hạ hết toàn thành này tới tòa thành khác, diệt Hiên Viên, hủy Cao Tân, cả thiên hạ đều quỳ dưới chân hắn, tướng lĩnh thuộc hạ hắn đồng loạt rộ lên hoan hô. Nhưng người quỳ rạp dưới chân hắn ngày càng đông, ánh mắt mọi người càng kính sợ e dè, hắn càng cảm thấy khó chịu, tiếng hoan hô vang trời dậy đất của bao nhiêu người chỉ làm hắn day dứt nhớ vò rượu Du Võng lén trộm đến Thảo Ao lĩnh cho hắn.

Hắn xách rượu tới tìm Du Võng, Du Võng lạnh lùng nhìn hắn: “Ngươi đến ban chết cho ta phải không? Nghe nói đám tướng quân kia khuyên ngươi phế tên vô dụng ta đây, tự lập làm đế.”

“Không, ta chỉ tới tìm ngươi uống rượu.”

Du Võng quay lưng lại phía hắn, bóng lưng y lẻ loi mà cao khiết, “Lòng ngươi tanh lòm những máu, làm ta phát nôn!”

Xi Vưu lẳng lặng lui ra khỏi đại điện, ngửa cổ dốc rượu vào miệng, nhưng không sao tìm lại mùi vị xưa kia nữa. Những tháng ngày trên Thảo Ao lĩnh, khi hắn còn chạy bằng bốn chân như dã thú, hung tợn trừng mắt nhìn Du Võng, trong khi Du Võng chỉ ngốc nghếch cười khì, dùng rượu dụ dỗ hắn, làm thân với hắn cũng chẳng cách nào quay trở lại.

Đại quân bao vây quanh đô thành của Cao Tân, chỉ còn Cao Tân vương thất cố thủ trong thành, đây đã là trận chiến cuối cùng.

Nửa đêm, A Hành lẻn đến thổ lộ tâm tình khiến Xi Vưu hắn vui mừng vô hạn, hai người hoan lạc suốt đêm.

Nhưng ngày hôm sau, đội quân của hắn bị mai phục, vô số binh lính bị giết, hắn trông thấy Phong Bá, huynh đệ keo sơn của hắn khắp người đầm đìa máu, chết ngay trước mắt mình, đám Si Mỵ Võng Lượng[2] chỉ mặt A Hành gào lên: “Là ả bán đứng chúng ta! Chính ả đã hại chết Phong Bá!”

[2] Si Mỵ Võng Lượng: theo truyền thuyết là thuộc hạ dưới trướng Xi Vưu, sau này được dùng để chỉ chung các loài yêu ma quỷ quái. (ND)

Xa xa, Thiếu Hạo dẫn theo thiên quân vạn mã ập đến, dịu dàng gọi: “A Hành.”

Xi Vưu lạnh buốt cả người, trợn mắt nhìn A Hành, “Là nàng làm phải không? Nàng bảo Thiếu Hạo mai phục chúng ta ư?”

A Hành làm thinh, chỉ ngồi lặng.

Si Mỵ Vọng Lượng lại bày ra la liệt tội chứng của A Hành, khiến tất cả binh sĩ kích động, mặt đầy những máu, vung giáo tuốt gươm, sôi sục căm thù đòi giết nàng.

Xi Vưu nhìn Phong Bá ngã gục dưới chân, lại nhìn A Hành bên cạnh, lòng như chìm xuống hầm băng, đau đớn quặn lên trong dạ.

A Hành không cầu khẩn, cũng chẳng biện minh, chỉ ngẩng đầu lặng lẽ nhìn hắn.

Xi Vưu đột nhiên hồi tưởng lại những chuyện xa xưa, hoa đào nở rộ, A Hành tay xách giày thêu, tay vén quần lụa tung tăng giữa dòng suối, đuổi theo vờn nghịch những cánh hoa rơi, muôn vàn cánh đào lả tả rụng xuống trước mặt hắn, khiến hắn chợt nhớ trước khi nàng rơi xuống Ngu uyên còn khóc ra máu, gằn từng chữ: “Nếu hôm nay đổi lại là ta, ta sẽ tin tưởng ngươi!” Lòng hắn từ từ lắng xuống, hết thảy mọi nôn nóng, nghi kỵ, thậm chí đau đớn và cô đơn đều tan biến cả. Thì ra rất nhiều đau khổ trên đời này đều từ lòng mình mà ra, nếu lòng tĩnh tại thì đâu đâu cũng là miền an lạc.

Xi Vưu kiên quyết nói với bọn Si Mỵ Võng Lượng như chém đinh chặt sắt: “Ta tin nàng, vì nàng là A Hành của ta! Nếu các ngươi muốn giết nàng thì phải bước qua xác ta trước đã!”

Vừa dứt lời, A Hành, Phong Bá, Si Mỵ Vọng Lượng đều biến mất cả.

Chẳng có Thiếu Hạo, chẳng thấy chiến trường, cũng không hề có máu tươi hay thi thể, hết thảy mọi thứ đều không có.

Xi Vưu ngây người ra, không dám tin rằng hết thảy giang sơn nhuốm máu, sinh tử hào tình kia chỉ là ảo ảnh!

Cảm thán thay, bóng câu qua cửa, lửa xẹt đá mài, trần ai trong mộng[3], được rồi mất, mất rồi lại được, dường như cả cuộc đời này chỉ là một trường ảo tưởng trong trận pháp vừa rồi mà thôi. Vui vì có được ư? Đau bởi mất mát ư? Ảo ảnh tan rồi, điều quan trọng nhất còn đọng lại trong lòng người là gì đây?

[3] Nguyên văn: “嘆隙中駒, 石中火, 夢中身” (Thán khích trung câu, thạch trung hỏa, mộng trung thân), ba câu này rút từ bài Hành Hương tử của Tô Đông Pha (1036-1101) thời Tống, có thể hiểu là: cảm thán thay, cuộc đời thoảng qua như chớp mắt, chẳng khác nào bóng câu bay ngang cửa sổ, ngọn lửa xẹt ra khi đánh lửa hay những câu chuyện vụt trôi qua trong cơn mộng mị. (ND)

Từ mấy trăm năm trước, khi được Viêm Đế đưa về Thần Nông sơn, bắt đầu học làm người, hắn vẫn luôn hoang mang lạc lối giữa đa đoan nhân tính, mãi đến lúc này, hắn mới sực hiểu ra mình muốn có thứ gì.

Diệt Ma trận được coi là trận pháp lợi hại nhất của Bàn Cổ, nhưng trừ trận đầu tiên, còn lại đều là đấu tranh nội tâm, tự mình vật lộn giằng co với chính mình, lẽ nào kiếp người cũng là như thế? Để đánh bại Kim Giáp thần cản đường, cần phải có thực lực nhất định, nhưng chướng ngại vật chắn lối thực sự lại chính là bản thân mình, hết thảy vui buồn được mất thật ra đều nằm trong tay mình cả, được cũng do mình, mất cũng do mình.

Xi Vưu không khỏi tự hỏi Diệt Ma trận của Bàn Cổ, rốt cuộc dùng để diệt thứ yêu ma gì? Là ma quái trên thế gian, hay thế gian vốn không có ma quái, mọi thứ đều khởi từ tâm ma?

Từ xưa tới nay, vì tâm cao khí ngạo, vì chút tự ái như có như không giấu tận đáy lòng, hắn nhất mực không chịu thừa nhận rằng mình thua kém Thiếu Hạo, kỳ thực, hắn luôn ghen ghét đố kỵ với Thiếu Hạo, đố kỵ trước phong thái hào hoa, thân phận tôn quý cùng mối duyên trời ban của y với A Hành, sâu thẳm trong lòng hắn từng giờ từng khắc đều lo sợ A Hành sẽ thay lòng, yêu càng nhiều thì nghi kỵ càng sâu, mới tạo thành thảm kịch năm xưa.

Nếu vừa nãy hắn không tin tưởng A Hành thì sẽ xảy ra chuyện gì nhỉ?

Oành oành, ùng ùng!

Tiếng sấm nổ vang trời truyền đến khiến Xi Vưu chẳng còn lòng dạ nào suy ngẫm hàm nghĩa Diệt Ma trận của Bàn Cổ nữa, hắn lập tức chấn chỉnh lại tinh thần, rảo bước tiến vào tượng thứ tư của Diệt Ma trận – Diệt kính.

Hạt châu xanh biếc đang nằm trên phiến đá, bị xích Long Cốt chằng chịt khóa chặt, mây mù đen kịt tụ lại dày đặc phía trên, rung lên theo từng luồng sấm sét nhoáng nhoàng, như có thể giáng xuống bất cứ lúc nào.

Xi Vưu chạy như bay đến, “A Hành, ta đến rồi đây!” Y phục trên người hắn rách tơi tả, thương tích đầy mình nhưng nét mặt và đáy lòng lại rộn lên vui sướng.

Sấm chớp đột nhiên nổi lên ùng oàng như vô số rắn vàng uốn éo trên không, cả nền trời đen kịt lấp loáng ánh chớp, thoắt tối thoắt sáng.

Vô số rắn vàng từ bốn phương tám hướng đổ xô lại, hợp thành một con rắn khổng lồ vẫn không ngừng lớn mãi, chỉ lát sau đã hóa thành một con mãng xà. Ngũ lôi giáng xuống đánh ầm một tiếng, ánh chớp loang loáng, hệt như một con mãng xà vàng rực bổ xuống hạt châu.

Xi Vưu vội xông tới lấy thân mình che cho hạt châu.

Đoàng!

Sấm sét giáng trúng lưng Xi Vưu, toàn thân hắn không ngừng co giật, rũ rượi nằm đè lên hạt châu.

Trước cơn thịnh nộ lôi đình của đất trời, dù là kẻ thần lực cao cường nhất Thần tộc cũng không sao chịu nổi, chỉ trong nháy mắt, Xi Vưu đã bị đánh đến nỗi khí tức rối loạn, linh lực tan tác.

Mây dông trên trời đang ngưng tụ lại, chuẩn bị cho đòn sấm sét nặng nề hơn.

Xi Vưu toan di chuyển hạt châu, nhưng hạt châu trước sau vẫn dính chặt lấy phiến đá như thể mọc lên từ đó, chẳng hề nhúc nhích mảy may.

Cuồng phong rít gào, mưa táp xối xả, Xi Vưu ngẩng đầu nhìn trời, thấy mây dông đen kịt lại đè xuống hệt một trái núi, sấm chớp loang loáng tựa từng lưỡi gươm sắc bén từ từ tụ lại, hợp thành một con rồng vàng rực chói lòa, khiến bốn bề sáng trưng như ban ngày.

Nếu Xi Vưu còn chút lý trí, hắn hẳn đã nhận ra mình không thể đỡ nổi đòn này. Tuy thiên lôi giáng xuống quả là đáng sợ, nhưng chỉ tấn công vào ma châu, ví như hắn vứt hạt châu lại mà bỏ chạy, ắt vẫn còn kịp giữ mạng.

Có điều Xi Vưu chẳng những không hề sợ sệt, mà còn cười sằng sặc, rút trường đao rạch lên hai tay, để linh huyết từ thân thể mình chảy sang hạt châu rồi ngẩng nhìn trời cao giọng chửi: “Nàng hút máu thì ta vui vẻ dâng máu, nàng hút linh lực, ta cũng vui vẻ dâng linh lực, việc gì đến ngươi? Ai khiến ngươi chõ mõm vào? Ngươi dám hủy diệt nàng, ta sẽ hủy diệt ngươi!”

Thiên lôi uỳnh một tiếng bổ xuống, từng đạo sét đều nhằm vào hạt châu, Xi Vưu tóc tai rũ rượi, hai mắt đỏ ngầu, vung trường đao chém xuống con rồng vàng rực đang nhào tới, liều mạng đối chọi cả với trời, “Thiên đạo của ngươi quả là vô lý, ngu muội tối tăm, ta phải hủy diệt thứ thiên đạo này!”

Mây dông ập xuống như núi, sấm sét bổ xuống như rồng, Xi Vưu hộc ra mấy búng máu, chẳng nể tan xương nát thịt, hồn phách tiêu tan, linh lực tản mác, gắng gượng ngưng tụ một nguồn linh lực vượt quá sứa chịu đựng của cơ thể, lưỡi đao nở phình ra quét ngang trời đất, mây dông sấm sét đều bị dồn ép, tốc độ chậm hẳn lại.

Nhưng đại thể khó cưỡng, mây dông như núi lở, sấm sét tựa rồng thần vẫn từ từ ập xuống Xi Vưu, khiến ánh đao đỏ rực dần thu nhỏ lại, Xi Vưu lảo đảo chực ngã, ngũ quan ứa máu, máu loang đầy cả mặt, tóc tai phấp phới, trông chẳng khác nào ác ma.

“Ta nói cho ngươi hay, Bàn Cổ tạo ra được ngươi thì ta cũng hủy diệt được ngươi!” Xi Vưu gầm lên với trời cao, dốc toàn lực vung đao chém lên trời, cắt đôi sấm sét sáng lòa như rồng thần đó. Oành một tiếng, mây dông tan biến, ánh sáng rợp trời, vô số tia sét lấp loáng tựa sao băng từ người hắn bắn ra. Thân thể Xi Vưu bị đánh thủng lỗ chỗ, máu tuôn ra như suối, nhỏ xuống hạt châu, đem theo cả linh khí cuồn cuộn trong trời đất.

Hút đủ máu tươi và linh lực, hạt châu bỗng đỏ rực lên, uỳnh một tiếng, ánh đỏ phụt ra xông thẳng tới chín tầng mây, đất trời lúc thì vàng rực, khi lại đỏ ối, lấp loáng chói cả mắt, sông núi cũng ngả nghiêng như sắp đến ngày tận thế.

Thiếu Hạo đến chậm hơn Xi Vưu một bước, khi y tiến vào Tử kính của Diệt Ma trận, cũng gặp phải hai mươi tư Kim Giáp thần.

Giao đấu một hồi với Kim Giáp thần, cũng như Xi Vưu, y mau chóng phát hiện ra khuyết điểm của bọn chúng, tuy đánh bại chúng không khó nhưng muốn đánh bại ngay tức khắc lại chẳng dễ dàng gì, mà để cứu được A Hành, phải càng nhanh càng tốt.

Thiếu Hạo ngẫm nghĩ rồi thình lình biến thành một vị Kim Giáp thần. Nước là cội nguồn của vạn vật, có thể tùy ý thay đổi hình dạng, mà y lại tu luyện thủy linh, đương nhiên thừa sức mô phỏng vạn vật, Thiếu Hạo thần lực cao cường, Kim Giáp thần do y biến ra giống y như đúc, dù Hoàng Đế đích thân tới cũng không phân biệt được.

Hai mươi tư Kim Giáp thần ngơ ngác nhìn nhau, quả nhiên thấy dôi ra thêm một người. Đột nhiên một tên Kim Giáp thần hung tợn vung tay đánh một tên khác, tên kia trả đòn, lại đánh trúng một tên khác. Chẳng bao lâu đám Kim Giáp thần đã quấn lấy nhau đánh đấm loạn xà ngầu, mù mịt cả đất trời, cát bay đá chạy, mỗi đòn giáng xuống đều nặng tựa ngàn cân, trận pháp trở bỗng chốc rối tung.

Đợi đến khi sóng yên gió lặng, đám Kim Giáp thần kẻ cụt tay người mất chân, hết thảy đều tan thành xác pháo, chỉ còn duy nhất một tên đứng giữa bãi chiến trường, chẳng sây sất mảy may, đột nhiên hắn mỉm cười, biến trở lại thành Thiếu Hạo.

Nhìn đống đá ngổn ngang dưới chân, Thiếu Hạo lắc đầu: “Dù sao cũng không phải còn người có máu có thịt, hèn chi chẳng linh hoạt cơ biến gì cả!”

Nói rồi y tiếp tục bước, tiến vào tượng thứ hai của Diệt Ma trận – Sinh kính.

Gió tuyết vần vũ đầy trời, tiêu điều giá buốt. Thiếu Hạo vừa đi vừa không ngừng cảnh giác, tâm trí cứ miên man nghĩ ngợi, tại sao tượng này lại gọi là Sinh kính nhỉ?

Để chống chọi giá rét, y đã phải dốc hết thần lực. Nhìn gió tuyết mịt mù phía trước, chẳng trông thấy đường, Thiếu Hạo chỉ biết hồi tưởng lại tết thả đèn của Cao Tân, nhớ tới những ngọn đèn lung linh muôn màu, ấm áp mà mỹ lệ, lấy đó làm động lực cất bước.

Mỗi ngọn đèn đều do một tay ai đó thắp lên nhằm sưởi ấm cho một người nào đó, y phải bảo vệ những ngọn đèn đó, giữ gìn hơi ấm cho họ, nhưng còn y thì sao? Có ai từng thắp đèn vì y? Có ai bằng lòng đem lại hơi ấm cho y?

Trời mỗi lúc một thêm lạnh buốt, nhưng y tìm mãi chẳng thấy ngọn đèn nào thắp lên vì mình, giữa cuồng phong bão tuyết, tất cả đèn đuốc đều dần dần lụi tắt, bóng đêm và giá rét ập đến, buộc y nếm trải hết thảy tàn khốc và lạnh lẽo trong đời thêm lần nữa.

Lúc mẹ y qua đời, phụ vương từng hứa sẽ chăm lo cho y thật tốt, nhưng từ khi Thường Hy bộ đưa hai chị em như ngọc như ngà tiến cung, phụ vương liền quên bẵng mẹ y, cũng quên luôn lời hứa với bà. Phụ vương càng có thêm nhiều con trai, y càng hiếm khi được gặp Người, hằng ngày y đều phập phồng chờ mong được gặp phụ vương, nhưng đợi hoài đợi mãi, sau cùng chỉ thấy Đại Thường Hy thị, mẹ ruột Yến Long mỉm cười bước ra thông báo: phụ vương chơi với Yến Long và Trung Dung đã mệt, hiện giờ đang nghỉ ngơi, bảo y cứ về trước. Thỉnh thoảng, lúc gọi phụ vương, y đột nhiên lo lắng, chẳng hiểu phụ vương có nhớ ra mình không? Vú già vẫn chăm sóc y từ nhỏ cũng phụng mệnh hai chị em Thường Hy thị hạ độc y, tuy không phải độc dược chết người nhưng dần dần sẽ làm tổn thương tới trí lực, khiến đầu óc y ngày càng sút kém, càng lúc càng ngốc nghếch, tới chừng nào không thể tranh đoạt vương vị với Yến long được nữa. Lòng đầy uất ức, y tưởng phụ vương sẽ làm chủ cho mình, bèn thật thà kể hết với Người, nào ngờ Thường Hy thị làm mình làm mẩy, khóc lóc đòi tự vẫn khiến phụ vương quay quắt lại khiển trách y, mắng y mới mấy tuổi ranh mà đã nham hiểm độc ác, rắp tâm vu vạ cho mẫu phi. Bấy giờ y mới vỡ lẽ, tòa cung điện nơi y sinh ra và lớn lên, từ lâu đã chẳng còn chỗ cho y nữa. Từ đó trở đi, y buộc lòng phiêu bạt giữa nhân gian, gắng gạn lọc lấy chút hơi ấm trong ngọn lửa phừng phừng của lò rèn. Y luôn nỗ lực hoàn thành tốt mọi chuyện, muốn làm một vị vương tử tốt trong lòng dân chúng, làm một đứa con trai ngoan của phụ vương, nhưng những cố gắng của y chỉ đổi lại được thái độ nghi kỵ ngày càng tăng của Người…

Sự lạnh lẽo vô tình trên Ngũ Thần sơn khiến y nghẹt thở.

Lạnh quá đi mất! Trên người, trong lòng đều lạnh ngắt, chẳng tìm nổi chút hơi ấm!

Tại sao không ai thắp cho y một ngọn đèn?

Đột nhiên y trông thấy mẹ mình đứng phía cuối con đường tăm tối, tươi cười vẫy tay gọi y, như thể nói: lại đây con, sà vào lòng mẹ ngủ một giấc đi. Chỉ đợi có vậy, y mỉm cười tiến lại, đi về phía bóng đêm thăm thẳm, về phía giấc ngủ vĩnh hằng.

Từng bước từng bước, khi cả thân hình sắp chìm sâu vào bóng đêm, y chợt thoáng thấy một bóng người quen quen, hơi rượu thơm nức xộc lên cổ họng, chút hơi ấm nhỏ nhoi dần dần nhen nhóm trong lòng.

Y ngỡ ngàng ngoảnh lại, chỉ thấy gió tuyết mịt mù, đất trời tối đen như mực, nhưng dường như xa xa thấp thoáng ánh lửa, có người đang nhen lửa, uống rượu, đợi y.

Thiếu Hạo ngơ ngác nhìn mẹ mình đang đứng cuối con đường tăm tối, rồi lại nhìn sang đốm lửa lập lòe kia, phân vân chẳng biết nên đi về hướng nào.

Chợt y nghe thấy tiếng chân người, bóng một thiếu nữ áo xanh mờ mờ ảo ảo vụt qua, nắm lấy tay y, kéo y đi về phía ánh lửa lập lòe.

Chẳng hiểu sao lòng y bỗng thấy ấm áp lạ lùng, hơn nữa còn dâng lên một niềm kiên quyết, nhất định không được từ bỏ, không thể chết tại Ngu uyên!

Ngu uyên? Ngu uyên là đâu nhỉ?

Y chẳng rõ nữa, chỉ biết chật vật lê bước về phía ngọn lửa lập lòe xa tít đằng kia, càng tiến gần đến ngọn lửa, thân thể y càng lạnh buốt, như thể cả người đã đông cứng thành băng, mấy lần toan dừng lại nhưng hơi rượu thơm lừng cứ vướng vất bên cánh mũi, trong cổ họng, nữ tử áo xanh vẫn nắm chặt tay y, nhen lên chút hơi ấm trong lòng y.

Cuối cùng y cũng trông rõ gã thiếu niên ngồi bên đống lửa cười tươi tắn, còn rạng ngời lóa mắt hơn cả ánh mặt trời chói chang mùa hạ, bên tai Thiếu Hạo chợt nghe sang sảng giọng gã: “Ta họ Hiên Viên.” Đột nhiên, y sực nhớ ra gã thiếu niên có nụ cười khiến người ta phát ghen tỵ ấy, là Thanh Dương! Còn thiếu nữ kéo y đến đây chính là A Hành. A Hành nghiêng đầu cười rồi biến mất, bóng Thanh Dương cũng tan đi trong màn tuyết trắng, chỉ còn hơi ấm ngập đầy lòng y.

Bóng đêm đen kịt trước mặt dần tan biến, vầng dương bắt đầu ló dạng.

Thiếu Hạo khắp mình đầy băng tuyết, đứng ngây như phỗng, lát sau mới từ từ bóc từng khối băng trên người ra, ngẩng đầu nhìn thái dương.

Thì ra đây chính là Sinh kính!

Y vừa ra đời đã mất mẹ, vú già nuôi y khôn lớn lại ngày ngày hạ độc y, các đệ đệ luôn rắp tâm tìm cách hại chết y, y coi phụ vương là người cha thân yêu nhất, nhưng ông lại không coi y là đứa con thân thiết nhất… Dường như trời cao luôn tàn nhẫn ngăn cách y với mọi người, nhưng giờ đây y chợt nhận ra, ông trời đã ban cho y ánh lửa ấm áp mà y luôn khao khát.

Thanh Dương, ta nhất định sẽ cứu được A Hành!

Thiếu Hạo chạy như bay về phia tượng thứ ba của Diệt Ma trận – Ảo kính.

Núi non trùng điệp, đường sá quanh co, bôn ba một hồi, y mới trông thấy hạt châu tít trên vách núi, y đánh bại mấy con yêu thú chặn đường, giao hạt châu cho Thanh Dương rồi cùng nhau nghĩ cách cứu sống A Hành.

Phụ vương cuối cùng cũng nhận ra y thích hợp làm người thừa kế hơn Yến Long, bèn truyền vương vị cho y.

Rốt cuộc y cũng hoàn thành giấc mộng từ thuở nhỏ của mình, trở thành Tuấn Đế, bảo vệ cho từng ngọn đèn lung linh trên sông nước Cao Tân. Y dốc lòng lo cho dân cho nước, xây dựng Cao Tân ngày một thêm tươi đẹp phồn vinh.

Hoàng Đế phát động chiến tranh, đưa đại binh tiến về phía Đông, sau khi đánh bại Thần Nông, cũng hủy luôn giao ước với Cao Tân. Y bèn dẫn binh giao chiến với Hoàng Đế.

Thiên quân dấy động, vạn mã tung vó, y và Thanh Dương gặp nhau trên chiến trường, đành phải động tới binh đao.

Ánh đao bóng kiếm, máu chảy thành sông, như bao lần đánh lộn trước đây, họ bất phân thắng bại. Sau cùng y đứng đối diện với Thanh Dương, thắng thua lần này phụ thuộc vào chính bản thân bọn họ. Có điều lần này không chỉ là tỷ thí để phân định thắng thua, mà là quyết đấu để tranh sinh tử.

Hai người đánh nhau suốt ba ngày ba đêm, thương tích đầy mình, nếu còn dẳng dai nữa, ắt trong quân sẽ sinh biến.

Thiếu Hạo ngưng tụ linh lực toàn thân vào mũi kiếm, đâm thẳng về phía Thanh Dương, Thanh Dương cũng vung kiếm quét qua y.

Y thật sự phải lấy mạng Thanh Dương sao?

Y có thể do dự được ư? Chỉ cần thoáng do dự, y sẽ chết dưới kiếm của Thanh Dương!

Không phải Thanh Dương chết, thì là y chết!

Tròng mắt Thiếu Hạo co rút lại nhưng ngọn kiếm vẫn lấp loáng lạnh người, bổ xuống Thanh Dương.

Đột nhiên, đoàng một tiếng, ánh hồng phủ ngập bầu trời, xua tan tất cả.

Thiếu Hạo đầu bù tóc rối, máu vấy đầy áo, nắm chặt kiếm đâm tới, nhưng trước mặt chẳng thấy một ai, Y sững sờ nhìn thanh kiếm trong tay mình, ngơ ngác không hiểu một kiếm vừa rồi đã chém xuống chưa? Nếu không chém xuống, Thanh Dương có giết y không? Nếu đã chém rồi, vậy…

Thiếu Hạo run lẩy bẩy, mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa, y chẳng dám nghĩ tiếp nữa, chỉ biết mừng thầm vì tất cả là ảo ảnh.

Nhưng có thật đó chỉ là ảo ảnh không?

Thiếu Hạo ngẩng đầu nhìn trời cao, mãi một lúc lâu, ánh sáng chói lòa kia mới dần tan biến, mưa tạnh gió ngừng, trận pháp đã bị phá.

Hai người hôn mê bất tỉnh nằm dài trên phiến đá, một người là Xi Vưu, dù ngất lịm vẫn dang tay che chở cho kẻ bên dưới, kẻ kia cả người không một mảnh vải, cuộn tròn lại như đứa trẻ sơ sinh trong lòng Xi Vưu, chính là A Hành.

Thấy A Hành trần truồng, Thiếu Hạo vội quay ngoắt đi, cởi phăng áo ngoài, gọi Xương Phó và Chu Du đứng chờ bên ngoài vào bế nàng ra.

Phát hiện A Hành đang ôm chặt một chú chim, Xương Phó ngạc nhiên hỏi: “Sao lại có con chim ở đây thế?”

Thiếu Hạo không ngoảnh lại, thuận miệng đáp: “Hẳn là con Lang điểu đã chết theo A Hành đấy mà.”

Xương Phó nghe nói chợt sinh lòng kính trọng, bèn nhẹ nhàng gỡ Lang điểu ra khỏi tay A Hành.

Xương Phó và Chu Du vừa mặc xong y phục cho A Hành đã thấy Hoàng Đế xuất hiện, vẻ mặt tái xanh, thần tình nhớn nhác như không tin nổi có người phá được Diệt Ma trận. Bất ngờ bắt gặp Thiếu Hạo, Hoàng Đế sững người hỏi: “Sao con lại ở đây?”

Thiếu Hạo cung kính hành lễ: “Nghe nói A Hành đã sống lại. con tới đón nàng về.”

Hoàng Đế đưa mắt nhìn A Hành, vẻ mặt dần dịu xuống, ông bước lại vén tay áo nàng lên, tìm vết sẹo nơi cánh tay. Đó là vết thương hồi nhỏ của A Hành, để phạt tội nàng ham chơi, Hoàng Đế đã hạ lệnh khắc sâu vết sẹo đó lên người nàng, mãi mãi không thể tẩy xóa. Xác nhận người này đích thực là A Hành, nghĩ lại mối liên minh với Cao Tân lại được củng cố, Hoàng Đế đổi giận làm vui, tươi cười bảo Xương Phó: “Con mau đưa Hành nhi về Triêu Vân phong để mẫu hậu gặp mặt, hẳn bà ấy sẽ khỏe lại ngay.”

Xương Phó băn khoăn nhìn Xi Vưu đang hôn mê rồi lại phân vân nhìn sang Thiếu Hạo, thấy Thiếu Hạo gật đầu tỏ ý mọi chuyện đã có y lo liệu, nàng mới yên tâm ôm A Hành bay về phía Triêu Vân điện.

Hoàng Đế liếc nhìn Xi Vưu đang trọng thương ngất lịm, ánh mắt lóe lên như đã có sẵn tính toán trong lòng. Thấy vậy, Thiếu Hạo ung dung bước tới chắn trước mặt Xi Vưu, mỉm cười hành lễ với Hoàng Đế, “Vừa nãy trên đường tới đây con thấy đại quân Thần Nông đã đóng ngoài biên ải như đang đợi ai đó, còn loáng thoáng nghe thấy mấy tên vô lại Si Mỵ Võng Lương bàn tán cái gì mà nếu không thấy quay về thì cứ xông vào là xong.” Mọi người đều biết thuộc hạ của Xi Vưu toàn những kẻ xuất thân thảo mãng, ngỗ ngược khó thuần, đến Du Võng chúng cũng chẳng coi ra gì, chỉ thần phục một mình Xi Vưu.

Hoàng Đế cười nhạt hỏi: “Con định nán lại đây mấy ngày, hay quay về Cao Tân ngay?”

Thiếu Hạo khom lưng hành lễ: “Con định ở lại mấy hôm.”

Hoàng Đế gật đầu vẻ hài lòng: “Chuyện ở đây đừng tiết lộ với kẻ khác, bất lợi cho A Hành đã đành, còn bất lợi cả cho con nữa.”

Thiếu Hạo lễ phép: “Con hiểu.”

Hoàng Đế vừa đi khỏi, Thiếu Hạo liền sai Chu Du đỡ Xi Vưu dậy, kiểm tra thương thế một lượt, thấy hắn bị thương không nhẹ, lại sợ Hoàng Đế âm thầm giở thủ đoạn, y quyết định tự mình đi một chuyến, “Chúng ta đưa Xi Vưu về Thần Nông trước đã.”

Chu Du thắc mắc: “Điện hạ gặp Si Mỵ Võng Lượng khi nào thế? Tôi cùng điện hạ tới đây, sao tôi chẳng thấy gì cả? Nghe nói bốn người bọn họ là huynh đệ sinh tử, dung mạo giống hệt nhau, tôi luôn muốn gặp mặt xem thử!”

Thiếu Hạo hỏi ngược lại: “Hằng ngày điện hạ nhà ngươi dạy ngươi thế nào?”

“Hỏi ít, làm nhiều.”

Nghe vậy Thiếu Hạo nhìn Chu Du cười không đáp. Bất giác, Chu Du cảm thấy tuy Thiếu Hạo tươi cười hòa nhã, nhưng ánh mắt sắc lạnh chẳng kém Thanh Dương, đành nuốt hết bao thắc mắc vào lòng.

Một tháng sau A Hành mới tỉnh lại, nhưng người tuy tỉnh mà thần trí vẫn ở đâu đâu, cả ngày chỉ ngây người, chẳng nói chẳng rắng, hệt như một pho tượng vô tri vô giác.

Trước tình cảnh đó, Thanh Dương vẫn thờ ơ lạnh lùng, chẳng rõ trong lòng y nghĩ gì, chỉ thấy y sai Chu Du đi khắp nơi kiếm linh đan diệu dược, tìm đủ cách điều dưỡng cho A Hành.

Trái với Thanh Dương, Xương Ý ngày ngày kề cận bên A Hành, dắt nàng đi khắp mọi nơi mà bọn họ từng chơi đùa hồi nhỏ, hy vọng có thể khơi gợi quá khứ của nàng.

Có điều A Hành một mực làm thinh không nói, cũng chẳng hề để lộ chút sinh khí. Xương Ý vẫn vô cùng kiên nhẫn, nàng làm thinh cả ngày thì y một mình lải nhải cả ngày, kể lể hết mọi chuyện khi xưa cho nàng nghe.

Ngày qua ngày, Xương Ý cứ kiên trì nhẫn lại, còn A Hành vẫn ngây ngô như cũ.

Một hôm A Hành ngồi như tượng gỗ trong sân, cúi đầu đờ đẫn ngắm ngón chân mình, như đang say ngủ, lại tựa hồ trầm tư.

Xương Phó ngồi xuống bên cạnh, nàng cũng chẳng buồn ngẩng lên.

“Lần đầu tiên ta gặp Xương Ý là khi chàng tới Nhược Thủy nhậm chức. Nghe trưởng lão trong tộc thông báo vương tử của Hiên Viên tộc sắp tới, dặn bọn ta không được gây chuyện, ta rất ấm ức, người Nhược Thủy bọn ta tự tại đã quen, cớ gì phải nghe người ta sai khiến? Cuối cùng ta bèn cải trang đi nghênh tiếp gã vương tử đó. Dọc đường, ta hoạnh họe làm nhục Xương Ý vô số lần nhưng chàng chẳng hề tức giận, ngược lại ta dần dần bị cảm hóa bởi tấm lòng và khí phách của chàng. Quen biết chàng từng ấy năm, ta chưa hề thấy chàng giận dữ, lần đầu tiên chứng kiến chàng nổi cơn thịnh nộ là vì muội. Hai trăm năm trước, chàng cùng ta lên đến Thần Nông, chỉ trong một đêm ám sát mười tám viên Thần tướng của chúng, khiến phụ vương nổi giận lôi đình, giam chàng vào Hỏa ngục. Đối với kẻ tu luyện mộc linh, bị giam vào Hỏa ngục chính là cực hình sống không bằng chết, phụ vương nói hễ chàng nhận lỗi sẽ lập tức thả ra, nhưng suốt một năm trời, chàng thà chịu giày vò hành hạ đến nỗi chỉ còn da bọc xương cũng quyết không nhận lỗi, sau cùng phụ vương đành bó tay, vừa mắng mỏ chàng cứng đầu cố chấp, vừa bất lực thả chàng ra…”

Xương Phó cứ thế rủ rỉ chuyện trò, thuật lại những chuyện xoay quanh Xương Ý suốt hai trăm năm qua, y đau buồn ra sao, y oán giận Thanh Dương nhường nào, khi phát hiện ma châu y đã mừng đến thế nào, rồi để cứu A Hành, y và Thanh Dương suýt nữa đã cạn kiệt linh lực tinh huyết mà chết.

Hoàng Đế và Luy Tổ đã có mật chỉ, Thanh Dương và Xương Ý lại kín miệng như bưng nên chẳng mấy ai biết tới chuyện ma châu, ngay cả A Hành cũng mãi đến giờ mới biết, hóa ra nàng khó khăn lắm mới có thể tỉnh lại.

Xương Phó vuốt tóc A Hành, “Tiểu muội à, đối với muội thì chỉ là một giấc ngủ, có lẽ muội còn tiếc nuối sao thức dậy quá mau, khiến nỗi đau trong lòng muội chưa kịp tiêu tan, nhưng đối với Tứ ca muội đã là hai trăm năm rồi đó! Dù muội đã quên hết mọi chuyện trong quá khứ nhưng trái tim muội vẫn là máu thịt, nhất định có thể cảm nhận được những đau buồn của Xương Ý, ta xin muội đấy, đừng làm Tứ ca muội buồn thêm nữa. Đã hai trăm năm rồi ta chưa hề thấy chàng cười, chỉ mình muội mới có thể trả lại cho chàng nụ cười thực sự mà thôi.”

Xương Ý xách một chú cá lại gần, thấy thê tử và muội muội cùng ngồi dưới gốc phượng hoàng hóng mát liền cười hỏi: “Nàng nói gì với tiểu muội thế?”

Xương Phó cười đáp: “Có gì đâu.”

Xương Ý giơ cá lên khoe với A Hành, “Tối nay ăn cá nhé?”

Thấy A Hành vẫn ngây ra như phỗng, chẳng nói chẳng rằng, Xương Ý cũng đã quen, đành tự trả lời: “Ta đưa cá tới nhà bếp rồi quay lại với muội.”

“Dâu lạnh.”

Giọng nói rất khẽ vang lên sau lưng khiến Xương Ý đột ngột quay ngoắt lại, vẻ mặt đầy kích động: “Muội bảo gì cơ?”

A Hành đưa mắt nhìn cây dâu, vẻ mặt vẫn đờ đẫn, chỉ có giọng nói là rành rọt: “Dâu lạnh, muội muốn ăn dâu lạnh.”

Xương Ý mừng rỡ như điên, quăng luôn cả cá đi, gào lên gọi lớn: “Mẫu hậu, mẫu hậu! Đại ca, Đại ca! Mọi người mau ra đây, A Hành đòi ăn dâu lạnh này!”

Luy Tổ và Thanh Dương cuống quýt chạy ra, Xương Ý ngồi xuống bên A Hành dè dặt hỏi, như chưa dám tin rằng nàng đã thật sự tỉnh lại: “Muội nói lại xem, muội thích ăn gì nào?”

Luy Tổ và Thanh Dương đăm đăm nhìn nàng đầy mong đợi, nhưng A Hành chỉ trân trân dán mắt vào cây dâu, khẽ đáp: “Dâu lạnh.”

Nghe nàng nói, Luy Tổ mừng mừng tủi tủi, miệng cười mà nước mắt rưng rưng. Thanh Dương vẫn giữ gương mặt thản nhiên, chẳng nói một lời, chỉ phất tay giáng tuyết, có điều lòng y đang xúc động khôn cùng, linh khí bất ổn, băng tuyết lại hóa ra mưa đá lộp độp đổ xuống, khiến mọi người trở tay không kịp.

Xương Ý một tay che chắn cho Xương Phó, một tay kéo A Hành chạy vào nhà, cười chế giễu: “Đại ca, huynh làm được không thế? Hôm qua đệ vừa kể cho A Hành biết sự lợi hại của huynh, thế mà hôm nay huynh lại làm mất mặt đệ, A Hành chứng kiến có khi chẳng nghĩ là huynh kém, mà sẽ cho rằng đệ huênh hoang khoác lác cũng nên, phải không, tiểu muội?”

Thanh Dương căng thẳng nhìn A Hành, hồi lâu mới thấy nàng mím môi, khẽ gật đầu, y chợt thấy lòng mình ấm lại.

Xương Phó cũng góp chuyện, lắc đầu quầy quậy đùa: “Đại ca thừa sức làm ấy chứ. Nhất định khi nãy Đại ca có mưu tính cao siêu gì đó, chẳng qua chúng ta không nhận ra thôi, đằng sau trận mưa đá này hẳn phải ẩn giấu tâm cơ phi thường.”

Luy Tổ phì cười, cốc cho Xương Phó một cái: “Con bé này chỉ được cái mồm mép, lại đi đôi với Xương Ý cứng đầu cứng cổ, cạy răng không được một câu, đúng là bù trừ cho nhau.”

Xương Phó đỏ mặt ngượng ngùng, vội giấu mặt vào vai A Hành.

Bao cảm xúc chua xót, đắng cay, ấm áp đồng loạt trào lên trong lòng Thanh Dương, y gắng gượng trấn định lại tinh thần, từ từ mới biến được mưa đá thành mưa tuyết.

“Nào, mình đi ăn dâu lạnh.” Xương Phó dắt tay A Hành chạy vào rừng dâu, còn vui vẻ kéo nàng quay một vòng. A Hành cũng vui lây theo Xương Phó, dần he hé nụ cười.

Xương Phó không quên ngoảnh lại gọi Thanh Dương và Xương Ý: “Đại ca, Xương Ý, cùng đi hái dâu lạnh nhé!”

Xương Ý đùa bỡn ẩy Thanh Dương chạy lên trước, Thanh Dương tuy có phần miễn cưỡng, nhưng vẫn không giấu được nét tươi cười nơi khóe mắt.

Luy Tổ ngồi dưới hiên nhà, ngắm nhìn các con nô giỡn dưới màn mưa tuyết, môi cười tươi tắn mà mắt rưng rưng lệ.

Sau khi chịu mở miệng nói chuyện, A Hành cũng dần dần nhớ lại những chuyện xưa kia, có điều ký ức của nàng hầu hết đều lung tung lộn xộn, cái nhớ cái quên, ví dụ như hỏi những chuyện thuở nhỏ, nàng có thể kể ra vanh vách, nhưng hỏi tới chuyện khi ở Cao Tân, nàng lại quên sạch.

Thầy thuốc nói, có thể những hồi ức đó quá đỗi bi thảm nên thần thức của nàng sau khi chịu tổn thương đã tự động loại bỏ chúng, chỉ còn ghi nhớ những chuyện vui vẻ mà thôi.

Luy Tổ chẳng hề để tâm chuyện đó, Xương Ý thì vô cùng mừng rỡ, lấy làm may mắn. Chỉ mình Thanh Dương ngấm ngầm lo lắng, dẫu sao trên đời cũng có những chuyện không thể cứ lãng quên là né tránh được.

Hoàng Đế giấu kín tin A Hành tái sinh, người đời chỉ biết Đại vương tử phi của Cao Tân hơi khó ở, được Thiên Hạo đưa về Triêu Vân phong tĩnh dưỡng chứ chẳng rõ đầu đuôi câu chuyện.

Xi Vưu thân mang trọng thương, đi lại cũng khó khăn, không cách nào lên tới Triêu Vân phong được, may mà có Xương Phó lén lút đưa tin, báo cho hắn biết sức khỏe A Hành đã khá dần lên, khuyên hắn đừng quá lo lắng.

Vừa xuống giường đi lại được, Xi Vưu lập tức tới Triêu Vân phong cầu kiến, nhưng Luy Tổ và Xương Ý không bằng lòng cho hắn gặp A Hành.

Thanh Dương chỉ lạnh lùng nói: “A Hành không phải trẻ con, gặp hay không gặp cứ để nó quyết định.” Nói rồi y liếc Xương Ý, “Năm xưa khi còn là một gã vô danh tiểu tốt, Xi Vưu đã dám đỡ một kiếm của ta, lẻn lên Triêu Vân, nếu bây giờ hắn muốn gặp A Hành thì ai mà cản được?”

Nhớ lại hôm tới tìm Xi Vưu thông báo rằng A Hành có lẽ vẫn còn sống, hắn đã mững mừng tủi tủi, lập tức vứt bỏ mọi thứ, bất chấp sinh mạng tới cứu tiểu muội, Xương Phó quyết định đứng về phía Thanh Dương. Nàng siết tay Xương Ý, dịu giọng: “Để tiểu muội tự quyết định đi!”

Cung nữ dẫn Xi Vưu băng qua tiền điện, chỉ cho hắn con đường mòn quanh co, “Tướng quân cứ đi theo con đường này sẽ tới, Vương cơ đang đợi ngài.”

Xi Vưu guồng chân chạy như bay, chỉ hận không thể trông thấy A Hành ngay lập tức.

Hai bên đường trồng đầy những gốc phượng hoàng cao ngất, hoa nở đỏ rực trên cành, đong đưa đón gió, dưới đất cũng rợp một lớp hoa tàn đỏ ối. A Hành vận áo xanh đứng dưới bóng cây âm u, khiến dáng người nàng càng thêm phần mong manh yếu đuối.

Thoạt trông thấy A Hành, Xi Vưu chợt khựng lại, tim đập như trống làng, đắng cay và mừng rỡ đan xen trong lòng, tương tư đằng đẵng suốt hai trăm năm, vậy mà hôm nay gặp gỡ bỗng hóa ra gần quê[4] mà nơm nớp.

[4] Nguyên văn: ‘cận hương tình khiếp’, chỉ nỗi lòng của kẻ xa quê lâu ngày nay mới trở về, càng gần tới quê nhà lòng dạ càng thấp thỏm lo âu, chỉ sợ ở quê đã xảy ra chuyện gì đó không may, vật đổi sao dời. (ND)

Hắn khẽ khàng lại gần, hồi lâu mới dám mở miệng dịu dàng gọi một tiếng “A Hành”, như sợ chỉ hơi sơ sẩy, giấc mộng đẹp này sẽ tan đi mất.

A Hành khoan thai quay lại, trông thấy một nam tử áo đỏ phía sau, giữa cả trời hoa rụng tơi bời, vẻ mặt hắn mừng mừng tủi tủi, cặp mắt đen láy rực lên niềm xót xa cùng vui sướng.

Nàng gật đầu cười, “Ta A Hành đây, ngươi là Xi Vưu của Thần Nông ư?”

Vừa nghe được nửa câu đầu, đôi mắt Xi Vưu đã sáng lên mừng rỡ, niềm vui chân thành toát ra từ tận đáy lòng hắn khiến A Hành cũng cảm động lây, tim đập thình thịch. Nhưng nghe nốt nửa câu sau, ánh mắt hắn liền tối sầm lại, đau đớn trào lên trong mắt, vô duyên vô cớ, ruột gan nàng bỗng quặn thắt như bị ai cào xé.

A Hành lộ vẻ áy náy: “Ta vừa qua cơn bệnh nặng, quên mất rất nhiều chuyện xưa kia, nghe Đại ca nói trước đây chúng ta từng quen nhau, nhưng ta thực không nhớ ra ngươi!”

Xi Vưu không sao tin nổi, thiếu nữ áo xanh trước mắt giống hệt A Hành trong kí ức của hắn, cũng chính là người con gái hắn tương tư suốt hai trăm năm, nguyện từ bỏ mọi thứ để đối lấy nàng, vậy mà hai trăm năm sau gặp lại đã thành người dưng xa lạ, bao ân oán dây dưa thuở trước dường như chưa từng xảy ra.

Thà rằng nàng căm hận hắn, còn hơn là lãng quên hắn!

“A Hành, ta là Xi Vưu, là…” Hắn là gì của nàng đây? Xi Vưu chợt khựng lại. Hắn chẳng rõ trong lòng nàng mình là gì nữa. Hắn vội hốt hoảng kể lại mọi chuyện xưa kia giữa hai người, lời hứa dưới cội hoa đào, ân ái triền miên giữa nhà sàn…

A Hành đỏ bừng mặt quát: “Đừng nói nữa! Ta biết cả rồi, Đại ca kể với ta, nói ta… nói ta và ngươi… là tình nhân.” Nàng cắn môi, “Đại ca nói ngươi và Chúc Dung đã ép ta rơi xuống Ngu uyên, có phải không?”

“Nhìn bề ngoài thì là lỗi của Chúc Dung, nhưng thực ra không liên quan tới hắn, là do ta sai.”

“Nhưng Đại ca cũng nói ngươi bất chấp tính mạng cứu sống ta.”

Xi Vưu lặng yên, bồn chồn nhìn nàng.

A Hành mỉm cười: “Ngươi hại chết ta, rồi lại cứu sống ta, chúng ta coi như dứt điểm, từ nay không ai nợ ai, được chứ?”

Xi Vưu nghe như sét đánh ngang tai, lòng quặn lên đau buốt, hắn thê thiết nhìn A Hành, không sao tin nổi nàng lại thốt ra những lời lạnh lẽo vô tình nhường ấy.

A Hành cười: “Có lẽ ngươi và A Hành khi trước rất hạnh phúc, nhưng ta không phải cô ấy, những chuyện giữa ngươi và cô ấy đối với ta chỉ như chuyện của một người xa lạ thôi, ta không muốn ôm nỗi đau của cô ấy mà sống. Trời cao đã cho ta cơ hội tái sinh, ta muốn bắt đầu lại từ đầu.”

Nói rồi nàng hành lễ với Xi Vưu, “Dù sao ta cũng là gái có chồng, ta và Thiếu Hạo lại không phải thường dân, hôn nhân của chúng ta còn liên quan tới quốc thể, ngài thân là Đại tướng quân Thần Nông quốc, hẳn có thể hiểu cho cái khó của ta. Sau này mong Tướng quân hãy coi ta như người dưng nước lã.” Đoạn nàng giơ tay tiễn khách, “Đại tướng quân, mời ngài về cho!”

“A Hành!” Lòng nghẹn ứ bi thương và khao khát, Xi Vưu dang tay ra như khẩn cầu, mong được ôm lấy nàng lần nữa.

A Hành phất tay áo, lập tức ngọn lửa bùng lên tận trời cao, ngăn cách nàng và Xi Vưu.

A Hành lùi lại mấy bước, vẻ không vui: “Dù trước đây chúng ta từng quen biết, nhưng ta đã nói rõ ràng rồi, xin Tướng quân tự trọng.”

Bên kia màn lửa phừng phừng, Xi Vưu bật cười thảm thiết: “Nàng quên nhưng ta vẫn ghi tâm khắc cốt.”

A Hành cau mày bực bội: “Phụ vương nói hôm nay Thiếu Hạo sẽ tới Triêu Vân phong đón ta về Cao Tân, ta phải về thu dọn hành lý, xin Tướng quân cứ tự nhiên!” Nói rồi nàng giũ áo đi thẳng.

Xi Vưu khao khát được tận tay ôm lấy A Hành, linh lực của hắn cũng theo ý niệm trỗi lên, biến ra mấy sợi dây leo vươn về phía nàng. Thấy vậy, A Hành hốt hoảng lùi lại, thét lên thất thanh: “Ngươi định làm gì?”

Dáng vẻ hoảng hốt của nàng vẫn y hệt hai trăm năm về trước, Xi Vưu nhìn mà tê tái cõi lòng, linh lực tiêu tan cả, mấy sợi dây leo cũng biến mất.

A Hành cuống quýt bỏ chạy, thoáng cái đã mất dạng, để lại Xi Vưu hồn xiêu phách lạc đứng ngây ra dưới gốc phượng hoàng.

Nàng đã quên, nàng quả thực đã quên rồi!

Xi Vưu chỉ thấy trước mắt tối sầm lại, hết thảy đều biến sắc.

A Hành quả thực đã quên hắn!

Hai ả cung nữ lại gần cúi người hành lễ, rồi khẽ khàng cất tiếng: “Tướng quân, Đại điện hạ sai chúng tôi tiễn ngài xuống núi!”

Chiều hôm đó, Thiếu Hạo vừa tới Triêu Vân phong, Thanh Dương liền sai cung nữ tới bẩm với A Hành.

Thấy A Hành hết thay đồ lại kiểm tra hành lý, lề mề mãi không ra, Luy Tổ cười, khẽ đẩy vai nàng: “Sáng mai mới về kia mà, đâu phải về ngay đâu, con lo gì chứ?”

A Hành bước ra khỏi cửa liền trông thấy Thanh Dương, Thiếu Hạo, Xương Ý và Xương Phó đều đang ngồi trên bãi cỏ, vừa uống rượu vừa ngắm hoàng hôn, chốc chốc lại rộ lên một trận cười, chẳng hiểu họ nói chuyện gì. Ánh ta dương rọi lên người bọn họ một màu đỏ ối, toát lên vẻ ấm áp khôn tả.

A Hành lặng lẽ ngắm nhìn hồi lâu rồi mỉm cười chạy lại: “Đại ca, Tứ ca, Tứ tẩu.”

Mọi người nhất loạt ngoảnh lại, Thiếu Hạo lập tức đứng dậy, trông thấy A Hành, y bỗng hơi hồi hộp.

Thanh Dương giới thiệu với nàng: “Đây chính là Thiếu Hạo, phu quân của muội, y tới đón muội về Cao Tân đó.”

A Hành bình thản hành lễ, chỉ nghe Thiếu Hạo hỏi: “Nghe Thanh Dương nói nàng đã quên những chuyện khi xưa?”

“Vâng, có những chuyện thiếp vẫn nhớ, nhưng có những việc lại quên khuấy mất.”

“Nàng còn nhớ ta không?”

A Hành hổ thẹn lắc đầu: “Thiếp chỉ nhớ mẹ và các anh thôi.”

Thiếu Hạo tỏ vẻ cảm thông: “Đó hẳn là những ký ức vui vẻ nhất của nàng, đương nhiên sẽ nhớ kỹ.”

Cả hai đều gượng gạo làm thinh, chẳng biết phải nói gì thêm nữa. Thấy vậy Thanh Dương liền xách hồ rượu bỏ đi, Xương Phó len lén giật tay áo Xương Ý rồi cũng lặng đi nốt, để hai người ở lại.

Thiếu Hạo hỏi: “Nàng muốn đi dạo một lát không?”

A Hành gật đầu, hai người cùng sánh vai, vừa đi Thiếu Hạo vừa thủ thỉ kể lại chuyện xưa, họ đã gặp nhau lần đầu ở Ngọc sơn ra sao, nàng từng sống ở Cao Tân thế nào, A Hành chỉ một mực yên lặng lắng nghe.

Tới bên vách núi, A Hành chợt dừng bước, Thiếu Hạo cũng dừng lại, đứng bên nàng, cùng ngắm hoàng hôn.

Bên dưới vách núi chằng chịt những dây leo, cành lá đan vào nhau xanh ngắt, giữa đám lá xanh lại nổi lên một chéo áo đỏ, chính là Xi Vưu đang đu người bám lấy dây leo.

Hai người trên đỉnh núi gượng gạo lặng thinh, kẻ dưới thung sâu nín thở theo dõi, chỉ có gió lồng thổi tung muôn ngàn cánh phượng hoàng.

A Hành chợt chun mũi hít hít rồi thốt lên: “Rượu thơm quá!”

Thiếu Hạo bật cười đưa hồ rượu cho nàng, “Đây là Thư Điền tửu ta cất dựa theo bí quyết nàng tặng đó.”

A Hành uống ừng ực liền mấy ngụm cho đã thèm mới chịu trả hồ rượu cho Thiếu Hạo, giữa lúc kẻ đưa qua, người đưa lại, bầu không khí gượng gạo cũng xẹp bớt vài phần.

A Hành uống hơi nhanh, hơi rượu bốc lên khiến nàng đỏ bừng hai má, mấy cánh phượng hoàng hoa vương trên tóc càng tô điểm thêm vẻ hồng hào.

Thiếu Hạo định giơ tay phủi tóc giùm nàng nhưng A Hành vô thức né đi, khiến y ngượng ngùng rụt tay lại.

“Xin lỗi!”

Hai người đồng thanh tạ lỗi, rồi đồng thời sững người, trên đời đâu có đôi vợ chồng nào lại khách khí với nhau thế này?

Vầng dương đã khuất hẳn dưới Ngu uyên, bầu trời đen thăm thẳm.

Thiếu Hạo đứng bên vách núi, vạt áo phất phơ trong gió, toát lên vẻ quạnh hiu vô hạn: “A Hành, nàng còn nhớ những lời hai ta từng nói lúc ở Ngu uyên không?”

A Hành cau mày nghĩ ngợi một hồi rồi hổ thẹn lắc đầu: “Thiếp quên cả rồi.”

“Khi đó ta bị Yến Long đánh lén, sắp bỏ mạng tới nơi, nàng vốn có thể bỏ chạy một mình, nhưng vì cứu ta mà kẹt lại Ngu uyên. Chúng ta cho rằng mình đã cầm chắc cái chết, trước lúc lâm chung, ta từng nói nếu còn có kiếp sau, chúng ta sẽ kết thành chồng vợ.”

A Hành cười, “Chẳng phải bây giờ chúng ta đang là vợ chồng đây sao?”

Thiếu Hạo lắc đầu, “Chúng ta chỉ là bất đắc dĩ bị Cao Tân và Hiên Viên trói lại với nhau mà thôi.”

Thấy A Hành làm thinh, Thiếu Hạo khẽ nói tiếp: “Kể từ khi chúng ta bước lên cầu Nhân Duyên do Huyền điểu bắc nên, ta và nàng đã bị trói chặt vào nhau cả đời cả kiếp, có bằng lòng hay không cũng mặc. Hiện giờ trời cao để nàng sống lại, có lẽ cũng chính là ban cho chúng ta một cơ hội, nàng có muốn thử không? Thử cho hai ta một cơ hội, làm vợ chồng thật sự?”

A Hành không đáp, chỉ thẫn thờ ngắm nhìn vòm trời mênh mang, chẳng hiểu đang nghĩ gì.

Thiếu Hạo lại hỏi: “Nàng còn nhớ Xi Vưu không?”

“Thiếp không nhớ.”

Thiếu Hạo toan nói thêm gì đó, nhưng bị A Hành chặn lại, “Đã quên được hắn cũng không có gì quan trọng, thôi cứ để quên luôn đi!” Đoạn nàng cười nhìn Thiếu Hạo, “Đại ca nói thiếp và Xi Vưu từng là tình nhân, chàng có để bụng chuyện đó không?”

“Đương nhiên không rồi. Hai ta đã định nhân duyên từ lâu, nếu ta có lòng với nàng thì kẻ nào dám tranh đoạt chứ, là tự ta đẩy nàng ra xa thôi.”

“Vậy sao bây giờ chàng còn muốn làm vợ chồng với thiếp?”

“Ta… ta… dạo tân hôn, chúng ta từng giao hẹn chỉ làm vợ chồng hờ.” Thiếu Hạo xưa nay luôn ung dung hoạt bát, vậy mà lúc này lại căng thẳng đến lắp ba lắp bắp, “Giờ đây, ta thấy hối hận.”

A Hành đăm đăm nhìn Thiếu Hạo như muốn thấu cõi lòng y. Thiếu Hạo bỗng thấy tim đập thình thịch, dường như cả đất trời đều tan biến trong khoảnh khắc, chỉ còn lại nàng A Hành trước mặt, mỗi hơi thở tựa hồ xé nát trái tim y.

Hồi lâu A Hành chìa tay cho Thiếu Hạo, “Vậy được, chúng ta bắt đầu lại từ đầu, bỏ qua tất cả mọi chuyện khi trước, kể từ nay về sau, thiếp sẽ làm vương tử phi thật sự của chàng.”

Dưới vách núi chợt vang lên tiếng thở hổn hển, Thiếu Hạo giơ tay toan đánh xuống, chợt trông thấy một con vượn thả mình tuột khỏi vách đá, túm lấy dây leo mà đu lên cây, y liền ngừng tay, nắm chặt lấy tay A Hành, kéo nàng vào lòng, rồi dịu dàng hôn lên trán nàng. A Hành tựa vào người y, không hề cự tuyệt.

Thiếu Hạo vòng tay ôm chặt lấy A Hành, thì thầm thề với nàng lời thề trang trọng nhất trong đời: “Ta không chỉ muốn một vị vương tử phi, mà còn muốn nàng một lòng một dạ làm vợ ta suốt đời suốt kiếp này.”

A Hành run bắn cả người, toan ngẩng lên nói gì đó nhưng bị Thiếu Hạo ngăn lại, “Đừng nói gì cả, ta không muốn nghe gì hết, nàng chỉ cần nhớ lấy lời thề của ta là đủ.”

A Hành cảm nhận được bàn tay y khẽ run rẩy như một lời khẩn cầu thầm lặng, hồi lâu, nàng ngả đầu vào vai y, từ từ nhắm nghiền mắt.

Hỏa minh châu treo trong sơn đình tỏa ánh hồng rực rỡ, rọi sáng cho Thiếu Hạo và A Hành, bóng hai người hắt lên vách núi đối diện, má tựa vai kề, vô cùng thân mật âu yếm.

Xi Vưu tựa lưng vào vách núi, bám chặt lấy dây leo, treo mình lơ lửng trên không, vừa khéo đối diện với hai cái bóng trên vách.

Sắc mặt hắn tái mét, cặp mắt trân trân dán vào hai bóng người kề cận nhau trên vách núi, gió núi lồng lộn thổi, dây leo đu đưa khiến thân hình hắn lắc lư theo, hệt như một chiếc lá khô trơ trọi lay lắt trên cành, chỉ chực buông mình theo gió.

 Chương 3: Trời dẫu có già, tình chẳng đổi

Đối với đàn ông, dù là kẻ bình phàm hay người vĩ đại đều hạnh phúc vô vàn khi thấy bản thân có thể đem lại nụ cười cho người mình yêu thương nhất, hạnh phúc ấy nồng nàn tới nỗi trở thành niềm kiêu hãnh của anh ta. Công danh lợi lộc có đáng gì đâu chứ? Có thể đem lại nụ cười thật sự cho một người mới là việc khó nhất trên đời!

Xi Vưu bi thương nhìn hai bóng người tựa vào nhau trên vách núi.

Lúc này hai đại cao thủ Thanh Dương, Thiếu Hạo đều có mặt trên Triêu Vân phong, nếu đổi lại là kẻ khác, bản thân đang trọng thương chưa khỏi, ắt sẽ thấy khó mà lui, từ từ tìm phương cách khác, nhưng tính tình Xi Vưu xưa nay chỉ biết lao thẳng tới trước, đời nào chịu chừa chỗ quay đầu.

Vẻ bi thương trong mắt hắn dần chuyển thành tàn nhẫn, hắn đột ngột túm lấy dây leo tung người đu lên, vung đao chém về phía Thiếu Hạo.

Bị bất ngờ không kịp phòng vệ, Thiếu Hạo vội dốc hết linh lực toan đẩy lùi đối phương, nào ngờ vừa lấy cứng chọi cứng, y kinh hãi thấy mình bị chấn động tê rần nửa người, trong khi kẻ kia vẫn vững vàng, chẳng lùi nửa bước.

Tay trái Xi Vưu vung đao chắn ngang ngực, tay phải túm lấy A Hành cười ha hả, “Thiếu Hạo, bao năm nay ngươi chẳng tiến bộ gì cả!”

Nhận ra Xi Vưu, biết y nhất định không hại A Hành, Thiếu Hạo cũng yên tâm phần nào. Tay phải y cầm một thanh thủy kiếm long lanh, cười nhạt, “Tướng quân tiến bộ nhanh quá, chắc không lo bị ta đánh rớt xuống nước nữa đâu.”

Xi Vưu chẳng hề dao động trước lời mai mỉa của Thiếu Hạo, nhơn nhơn cười đáp, “Thế nên lần này ta phải đem A Hành đi.” Nói rồi hắn kéo A Hành toan bỏ chạy, nào ngờ tay trái Thiếu Hạo vẫn nắm chặt tay A Hành, chưa từng lơi lỏng.

Thiếu Hạo vung thủy kiếm đâm thẳng vào Xi Vưu, Xi Vưu chẳng dám khinh địch, vội quay quắt lại trả đòn, cả hai đang nắm tay A Hành, đều sợ làm nàng bị thương, bởi thế đôi bên cùng thu liễm linh lực, chiêu thức chỉ chạm tới là ngừng, bỗng dưng ba người tạo thành một vòng tròn nho nhỏ, bên trong lấp loáng ánh đao kiếm.

A Hành bị kéo nghiêng bên phải rồi ngả bên trái, lại bất ngờ chạm mặt Xi Vưu, khó tránh tâm tình kích động, không khống chế được linh lực, cả người nóng rãy lên, đến nỗi hai đại cao thủ như Thiếu Hạo và Xi Vưu cũng chẳng chịu nổi, theo phản xạ đều rụt phắt tay về, buông nàng ra.

Thiếu Hạo và Xi Vưu trợn mắt nhìn hoa cỏ héo quắt dưới chân A Hành, lại nhìn sang đám dây leo trên vách đá đang úa dần trước sức nóng của nàng, lòng đầy kinh ngạc: A Hành vốn tu luyện mộc linh, sao có thể hủy diệt linh khí của thảo mộc được?

Thấy vẻ bàng hoàng trong mắt hai người, A Hành không khỏi ngượng ngùng, liền lùi lại, lạnh lùng nói: “Các người thấy rồi đấy, ta không còn là A Hành khi trước nữa rồi.”

Mặc Thiếu Hạo trầm tư tìm căn nguyên mọi chuyện trước mắt, Xi Vưu chỉ một mực quan tâm tới A Hành, thây kệ tất cả, thấy nàng đang đứng bên vách núi, hắn liền bật cười đắc ý, nhào tới.

Thiếu Hạo lập tức vung quyền, một con rồng trắng khổng lồ đâm bổ vào Xi Vưu, toan đánh dạt hắn ra, nhưng Xi Vưu chẳng buồn tránh né, liều mạng ôm chặt lấy A Hành, mặc cho nó lao tới.

Con rồng húc mạnh vào lưng Xi Vưu, đẩy hắn rớt xuống vách núi, cả A Hành cũng rớt xuống theo.

“Á!!!!!!!!!!”

A Hành thét lên, níu chặt lấy Xi Vưu theo phản xạ, gió rít ù ù bên tai nàng, mai tóc nàng xõa tung, vướng cả tầm mắt.

Trong khoảnh khắc đó, hai người cùng rơi thẳng xuống vách đá cao vạn trượng hệt một ánh sao sa, sinh mệnh họ đã gắn liền với nhau, thế giới của nàng chỉ còn lại mình hắn, nàng không thể không dựa vào hắn.

A Hành trừng mắt nhìn Xi Vưu đầy oán hận: “Buông ta ra!”

Sau lưng vừa trúng một chưởng của Thiếu Hạo, trước ngực còn phải ôm A Hành nóng như hòn than, Xi Vưu nghiến răng ken két vì đau đớn nhưng vẫn không thôi cợt nhả: “Ta không buông đấy, cô có giết ta ta cũng không buông!”

Thấy A Hành rớt xuống vách núi, Thiếu Hạo lập tức nhảy lên lưng Huyền điểu đuổi theo.

Mắt thấy Xi Vưu và A Hành sắp rơi xuống đất tan xương nát thịt, đột nhiên Xi Vưu huýt lên lanh lảnh, Tiêu Dao từ đáy sơn cốc bay vù lên, đỡ lấy hai người, lượn quanh một vòng rồi bay vút đi, Xi Vưu phá lên cười đắc ý, nhanh miệng làm mặt quỷ trêu y.

Tiêu Dao vừa vỗ cánh đã bay vụt đi, Huyền điểu không cách nào đuổi kịp, Thiếu Hạo chỉ còn biết ngây người nhìn bầu trời thăm thẳm, gió đêm lành lạnh xua mây núi sương khe tụ tụ tan tan, hơi ấm của A Hành còn vương vấn nơi đầu ngón tay, vậy mà y lại để nàng tuột khỏi mình lần nữa.

Tâm tư Thiếu Hạo rối như tơ vò, y thừa sức phái thủ hạ đi khắp nơi tìm kiếm A Hành, nhưng y dám làm thế ư? Giữa muôn mối bi thương ngổn ngang trong lòng, y lại thấy có phần ngưỡng mộ Xi Vưu. Dường như tất cả nam nhân trên đời này đều khao khát được ngông cuồng phóng túng, thả sức làm theo ý mình, bất chấp ánh mắt người đời như hắn đây?

Tiêu Dao bay nhanh hơn hai trăm năm trước nhiều, chưa tới một tuần trà, bọn họ đã tiến vào địa giới Thần Nông, Tiêu Dao cũng dần dần chậm lại, sà xuống, cuối cùng dừng ở Cửu Lê.

“Buông ta ra!” A Hành vùng vẫy kịch liệt, chỉ mong thoát khỏi Xi Vưu.

Hắn liền nhanh nhẹn rút ra một sợi gân rồng, cột chết tay trái mình lại với tay phải nàng, kiên quyết nói: “Khi nào cô nhớ lại mọi chuyện về ta ta mới cởi dây.”

A Hành giận dữ quát lên: “Nếu cả đời không nhớ ra thì sao?”

“Thì hai ta cứ như vậy cả đời.”

Nói rồi hắn lôi xềnh xệch nàng đi.

Giữa chốn rừng sâu núi thẳm xa cách hồng trần này, dường như hai trăm năm đằng đẵng chẳng là gì cả, mọi thứ vẫn y hệt khi xưa.

Căn nhà bên bụi trúc phượng vĩ vẫn chẳng hề thay đổi, mấy chú chim nhỏ ríu ran nhảy nhót ngoài lan can.

Tế Thiên đài bằng đá trắng vẫn được đám vu sư ngày ngày bảo hộ, thanh khiết như mới, chẳng vướng bụi trần, những chiếc chuông gió bằng xương thú treo quanh đó, cái trắng toát, cái ngả vàng, mỗi khi có gió lại tinh tang khe khẽ.

Xung quanh đài tế trồng rặt những đào, lá xanh mơn mởn. Hai trăm năm trước, nơi này chưa nhiều đào như bây giờ, xem ra những gốc đào ở đây đa phần mới được trồng trong khoảng hai trăm năm nay.

Xi Vưu đẩy cửa nhà sàn, kéo nàng lên lan can, “Còn nhớ chỗ này không?”

A Hành đáp lạnh băng: “Không nhớ!”

Hắn lại chỉ những gốc đào trên núi hỏi: “Nhớ nơi đó không?”

“Không nhớ!”

Xi Vưu ôm lấy nàng nhảy xuống nhà sàn, cùng thả bộ giữa rừng đào, “Nhớ ra được chút gì chưa? Chúng ta từng hẹn ước với nhau, dù ở chân trời góc biển nào, hằng năm mỗi khi hoa đào nở rộ sẽ gặp nhau dưới cội đào, không gặp không về.”

Nhìn hoa đào nở rợp trời, A Hành thoáng trầm ngâm nghĩ ngợi, thấy vậy, ánh mắt Xi Vưu lại sáng lên hy vọng.

Đột nhiên, A Hành cười hững hờ, “Ta sực nhớ ra lần đầu gặp Thiếu Hạo cũng là dưới cội hoa đào, hôm đó là tết thả đèn của Cao Tân, y đưa ta đi ngắm song đèn, chúng ta cùng cưỡi trên lưng Huyền điểu, từ trên không nhìn xuống, cả Cao Tân giăng kín muôn ngàn ánh sao, đẹp vô cùng!”

Xi Vưu cau mặt, siết chặt lấy tay nàng, khiến A Hành phát bực, “Ngươi đừng phí thời gian nữa, đã bảo quên là quên rồi mà.”

Hắn lại kéo nàng tới một gốc đào cổ thụ, “Còn nhớ chỗ này không?”

A Hành chán ngán đưa mắt nhìn, “Chỉ lớn hơn những gốc đào khác thôi mà, có gì lạ đâu.”

Xi Vưu cầm tay nàng sờ lên những hàng chữ trên thân cây, “Thế còn những chữ này?”

A Hành lạnh nhạt liếc qua, cười khẩy, “Viết bao nhiêu chữ Xi Vưu đó làm gì? Là A Hành khi trước viết phải không? Cô ta rỗi việc quá nhỉ?”

“Chúng ta hẹn gặp nhau dưới cội hoa đào, không gặp không về, nhưng ta đã thất hẹn. Lần thứ nhất, vì Viêm Đế qua đời đúng hôm đó, Vân Tang ra lệnh phong tỏa Thần Nông sơn nên ta không tới được; lần thứ hai, ta giận cô kết hôn cùng Thiếu Hạo, cho rằng cô đã thay lòng, sau khi nhận được tấm áo cô gửi, tuy hiểu rõ lòng cô, nhưng lại giận cô lăng nhăng ong bướm. Thực ra về sau ta cũng có tới, thấy tấm áo rơi xuống đất, ta lại nhặt đem về.” Xi Vưu ấn mạnh tay A Hành lên những dòng chữ vạch bằng trâm ngọc, “Cô mắng đúng lắm, ‘Đã không giữ lời, sao còn hứa hẹn?’, ý nghĩa của lời hẹn ước chính là, dẫu biết không thể thực hiện, không thực hiện được, cũng phải liều mạng mà thực hiện.”

Xi Vưu lại cầm lấy những ngón tay lạnh buốt, cứng đờ của A Hành đặt lên ngực mình, “Đời này kiếp này, nhất định sẽ không có lần thứ ba đâu!”

A Hành vùng ra khỏi tay hắn, lạnh lùng, “Nếu cần lời thề của đàn ông, ta cũng tự biết đi tìm Thiếu Hạo chồng mình, không đến phiên ngươi nhúng vào.”

Xi Vưu sa sầm mặt đứng lặng giây lát rồi dắt A Hành đi tiếp, vừa đi vừa ngắm cảnh vật xung quanh, đi mãi đến tế đài, hắn mới kéo nàng ngồi xuống, “Hai trăm năm không gặp, cô không muốn biết những năm qua ta đã làm gì ư?”

A Hành thấy nực cười, “Đến ngươi ta còn chẳng nhớ, hơi đâu quan tâm mấy chuyện đó làm gì?”

Xi Vưu rầu rĩ nhìn nàng, nhưng A Hành chỉ cúi đầu giật mạnh sợi gân rồng, toan cởi ra.

Rừng đào bát ngát trải dài trước mắt bọn họ, mỗi khi gió thổi qua, muôn ngàn đọt lá non lại xao xác lên như những làn sóng biếc, hòa cùng tiếng ngân nga của bao chiếc chuông gió quanh tế đài.

Tinh tang, tinh tang…

Âm thanh trong trẻo ngân dài, càng làm tổn lên vẻ tĩnh mịch của núi rừng.

Trầm mặc hồi lâu, Xi Vưu đột nhiên cất tiếng, giọng trầm buồn, “Vu vương cô từng quen đã mất từ lâu, Mê Đóa và Kim Đan cũng đi rồi, lúc về già, Mê Đóa luôn muốn gặp lại cô, còn nói chẳng mong điều gì, chỉ muốn được nấu một bữa cơm cho cô. Cô ta hết lần này sang lần khác vặn vẹo hỏi cô đang ở đâu, ta chỉ biết im lặng. Mê Đóa còn nhớ cô thích Ca tửu, năm nào cũng dùng vò đá ủ một vò ngon nhất chôn dưới gốc đào, mấy chục cây đào quanh đây, dưới gốc đều chon một vò rượu của Mê Đóa ủ cho cô. Đến lúc già khọm, mắt lòa cả rồi, cô ta vẫn gắng gượng ủ nốt cho cô một vò rượu.”

Chẳng hiểu sao bàn tay đang cố tháo gân rồng của A Hành chợt khựng lại, nàng trân trân nhìn rừng đào phía trước, cắn môi im lặng.

“Mấy chục năm đầu, cứ mỗi tháng Tư, khi đến Cửu Lê, ta đều quây quần uống rượu với hai người họ, Kim Đan theo ta đi trồng đào, còn Mê Đóa chôn rượu xuống gốc cây, ta thích nghe bọn họ kể chuyện về cô, như thế dường như cô vẫn còn ở bên bọn ta vậy. Về sau họ lần lượt qua đời cả, chỉ còn trơ lại mình ta, trong vô vàn đêm trằn trọc mất ngủ, ta mới thật sự thấu hiểu cảm giác của sư phụ năm xưa, thời gian đằng đẵng chính là hình phạt tàn khốc nhất, đến nỗi rất nhiều lần ta phải phá lên cười, thấy mình thật đáng kiếp!”

Xi Vưu cúi gằm mặt xuống nên A Hành không trông rõ vẻ mặt hắn, chỉ thấy tóc mai hắn đã bạc trắng, trái hẳn với tuổi tác và thần lực. Nàng khẽ thở dài, dịu dàng an ủi, “Dù sao ta cũng quên cả rồi, ngươi đừng để trong lòng nữa, cứ coi như ta chưa từng sống lại, quên ta đi!” Vừa khuyên giải, nàng vừa lặng lẽ tháo sợi gân rồng ra.

Xi Vưu trầm giọng hỏi: “Phải làm thế nào cô mới tha thứ cho ta?”

A Hành thình lình bật dậy chạy thẳng, “Để ta bắt đầu lại cuộc sống từ đầu, ta sẽ tha thứ cho ngươi.”

Xi Vưu phản ứng cực nhanh, lập tức đuổi theo, sau cùng cũng bắt được nàng trong rừng đào, mặc cho A Hành vừa đánh đập vừa mắng mỏ: “Ta đã quên hết rồi, ta muốn làm lại từ đầu, ta phải làm lại từ đầu!”

Xi Vưu rầu rĩ đứng lặng nhìn A Hành rồi đột nhiên xốc nàng lên vai, nhảy lên lưng Tiêu Dao, “Được, ta sẽ để cô bắt đầu lại!”

Mặc A Hành liên tục giãy giụa đấm đá đòi thả ra, Xi Vưu vẫn trơ như phỗng, cưỡi Tiêu Dao lao đi vun vút.

Chỉ lát sau, Tiêu Dao đã đổ xuống một bãi hoang, Xi Vưu đặt ngay A Hành xuống, hệt như gieo một cây mạ. Chỉ đợi có thế, nàng liền quay người chạy vụt đi.

Xi Vưu tựa vào Tiêu Dao, ung dung cười, “Cô chạy đi, cô cứ chạy ta lại đi bắt lại, thử xem cô chạy nhanh hay ta bắt nhanh nào.”

A Hành dừng phắt lại, vừa bất lực vừa giận dữ ngoảnh đầu quát: “Rốt cuộc ngươi muốn gì đây?”

“Chẳng phải cô muốn bắt đầu lại ư? Chúng ta cùng bắt đầu lại!”

A Hành lia lịa chắp tay hành lễ với Xi Vưu, gần như van vỉ: “Xi Vưu, Xi Vưu Đại tướng quân, ngài đường đường là Đại tướng một nước, cớ sao ta đã quên rồi mà ngài vẫn bám dai như đỉa thế? Thật không bằng cả phường vô lại!”

Xi Vưu vẫn tựa vào Tiêu Dao, khoanh tay nhe nhởn cười, “Ta bám dai như đỉa đấy thì sao? Ta vô lại đấy, làm sao nào?”

A Hành tức đến xịt khói lỗ tai, chửi toáng lên, “Đồ khốn nạn, quân cầm thú, tên khốn chẳng bằng cầm thú, lòng lang dạ sói…”

Xi Vưu cười tít mắt, vừa nghe vừa bình luận, “Câu ‘không bằng cầm thú’ chửi hay lắm, cầm thú bì sao được với ta, thấy ta, chúng vắt giò lên cổ chạy còn không kịp nữa là! Lòng lang dạ sói, chà chà…” Xi Vưu tặc lưỡi, lắc đầu, “Không hay, không hay! Nhẹ nhàng quá! Cô mau nghĩ ra con gì ác độc hơn làm ví dụ đi…”

A Hành tức run cả người, nói lý không được, chửi bới không xong, cơn giận bốc lên đầu, nàng liền xắn tay áo lao vào đánh nhau!

Mây cuộn lửa phừng phừng lao vào Xi Vưu, hắn ù té chạy, nàng tức tốc đuổi theo, đôi bên cứ thế chạy lòng vòng rồi lạc vào một tòa thành. Dường như hôm nay trong thành là ngày tết, người qua kẻ lại nô nức trên đường, xôn xao cười nói.

Thấy một thiếu nữ mảnh mai hộc tốc đuổi theo một gã trai cao lớn, vài ba kẻ thương hương tiếc ngọc chợt nổi máu anh hùng, rào rào ném gạch đá rau quả về phía Xi Vưu nhằm cản hắn lại.

Xi Vưu luồn lách trốn giữa đám đông, mỗi lần sắp bị A Hành đánh trúng, hắn lại lẩn đi như trạch, khiến A Hành càng thêm tức giận, bất chấp mọi thứ để bắt hắn.

Xi Vưu vừa chạy vừa hét: “Vợ yêu, ta biết lần này ta sai rồi, là ta làm cô đau lòng, lần sau ta không dám thế nữa đâu, ta nhất định sẽ tin tưởng cô, tôn trọng cô, yêu thương cô, bảo vệ cô… Ta không tin những gì trông thấy, cũng không tin những gì nghe được, ta chỉ tin những gì ta cảm nhận được thôi! Vợ yêu, tha thứ cho ta một lần đi, chỉ một lần này thôi mà…”

Tưởng họ là đôi vợ chồng son đang giận dỗi, mọi người xung quanh cười rộ lên, ra sức khuyên ngăn.

Thấy vậy A Hành đỏ bừng mặt, chẳng hiểu vì giận hay vì thẹn, hai mắt mọng lên chực khóc, nàng tức tối giậm chân gào lên với Xi Vưu: “Ta là vợ Thiếu Hạo, không phải vợ ngươi!”

Xi Vưu dừng bước quay phắt lại nhìn nàng, vừa buồn vừa giận, đanh giọng: “Y đừng hòng!”

Nhìn dáng vẻ căm tức của hắn, cơn giận trong lòng nàng cũng tiêu tan, liền cười nói: “Miễn ta bằng lòng là được! Ngươi đừng chõ vào!”

Xi Vưu càng cau có, A Hành càng thích chí, nàng chẳng thèm đánh nhau với hắn nữa, quay đầu chạy thẳng.

Xi Vưu lặng lẽ nhìn theo bóng nàng, cố nén cơn giận trong lòng, ngưng tụ linh lực.

Phía Nam đột ngột vang lên mấy tiếng ầm ì như sấm dậy, tựa hồ có thứ gì đó sắp bùng nổ, sắc đỏ bốc lên ngút trời, chân trời phía đó thoắt chốc chìm trong biển lửa, ánh lửa bao phủ toàn thành.

Mọi người trong thành đều nín thinh, trợn tròn mắt nhìn về phía Nam, bầu không khí bỗng chốc lặng phắc, hệt một tòa thành chết. Hồi lâu, một ông lão chợt giơ hai tay lên trời gào khóc: “Trời ơi, sơn thần trên Bác Phụ sơn lại nổi giận rồi!”

Nam phụ lão ấu thảy đều quỳ rạp xuống, dập đầu lạy Bác Phụ sơn, khóc lóc xin sơn thần bớt giận, đột nhiên, một kẻ buột miệng: “Chúng ta đi cầu khẩn Tây Lăng nương nương.” Mọi người nghe nói liền rào lên phụ họa, họ xúm lại thành một đoàn, cứ đi một bước lại quỳ một bước, tiến về phía đài tế ở ngoài thành.

A Hành hoảng hốt nhìn quanh, thì ra đâu chính là Bác Phụ quốc, hèn chi nàng cứ thấy quen quen.

Ngọn lửa đỏ rực cuối trời che phủ cả ngàn sao, làm lu mờ cả ánh đèn, khắp đường lớn ngõ nhỏ đều chìm trong ánh lửa mịt mù, Xi Vưu khoác tấm áo đỏ rực, đứng sừng sững ngay giữa đường, bất động, đầu đội trời chân đạp đất, như chẳng coi vạn vật thế gian vào đâu cả, càng không quan tâm bất cứ thứ gì.

A Hành kinh hãi nhìn hắn: “Ngươi điên rồi à!”

Xi Vưu cười đáp: “Hai trăm bảy mươi năm trước, từng có một cô gái tên gọi Tây Lăng Hành đã hủy lò luyện công của Chúc Dung, cứu cả Bác Phụ quốc, đến nay khắp nơi trên Bác Phụ quốc đều có tế đàn thờ phụng Tây Lăng Hành, hôm nay chính là tết Dập Lửa cầu chúc Tây Lăng nương nương. Hai trăm bảy mươi năm sau, đến lượt Xi Vưu này châm lửa đốt Bác Phụ sơn, nếu cô muốn đi thì cứ đi đi, mặc cho lửa cháy, để ta xem giờ đây kẻ nào trong thiên hạ dám dập lò lửa của Xi Vưu?” Hai trăm năm nay tại Thần Nông quốc, dưới bàn tay sắt đá, thủ đoạn tàn bạo của hắn, cái tên Xi Vưu đã được đánh đồng với tử vong, chẳng ai dám chống lại.

A Hành trân trân nhìn ngọn lửa đỏ rực cuối trời.

Tiếng khóc trẻ nhỏ, tiếng mọi người rì rầm dập đầu cầu khẩn cứ vang vọng bên tai.

Lát sau, nàng chạy vụt về phía đám lửa.

Xi Vưu lặng lẽ theo sau nàng, chỉ cần hắn chưa muốn buông tay, bất kể mệnh trời ra sao, hắn cũng dốc sức khắc phục. A Hành muốn bắt đầu lại thì cứ bắt đầu lại đi! Nhưng không phải bắt đầu lại với Thiếu Hạo, mà bắt đầu lại từ nơi hai người họ quen nhau!

Lửa cháy ngút trời, dưới Bác Phụ sơn đầy rẫy những luồng khí nóng rực và dung nham bỏng rãy.

A Hành thận trọng dò từng bước, đột nhiên sau lưng vang lên một tiếng rên rỉ khiến bước chân nàng chợt khựng lại. Nàng chẳng ngoảnh đầu nhưng cũng chẳng dám đi tiếp nữa, bèn dè dặt lùi mấy bước. Thình lình “đoàng” một tiếng, luồng khí nóng từ dưới đất bừng lên, nổ tung tất cả đất đá xung quanh.

Sau lưng vang lên tiếng cười của Xi Vưu, “Vợ yêu, sao cô lại dừng?”

A Hành nghiến răng ken két vì giận, chỉ muốn bỏ đi ngay lập tức, mãi mãi không gặp lại gã Xi Vưu này nữa, nhưng hắn vốn là kẻ nói được làm được, nếu hôm nay nàng đi, lửa trên Bác Phụ sơn này ắt sẽ chẳng bao giờ tắt.

A Hành tiếp tục đi, còn Xi Vưu đằng sau tiếp tục cười đùa cợt nhả, liến thoắng gọi nàng “vợ yêu” này, “vợ yêu” nọ. Đầy một bụng tức tối không biết trút vào đâu, nàng đành nghiến răng làm thinh.

Đi đến một vũng lầy, A Hành lội thẳng xuống, sau lưng nghe tiếng ho khù khụ của Xi Vưu.

Thấy hắn ho, nàng khoái chí cười nhạt, càng dần bước nhanh hơn, chẳng buồn ngó ngàng tới hắn.

Muôn vàn bọt khí vàng ệch đem theo hơi độc trong lòng đất ùng ục nổi lên, Xi Vưu càng lúc càng ho rũ rượi nhưng A Hành cứ tảng lờ, đắc ý nghênh ngang đi tiếp.

“Ài, ta quên khuấy đi mất, vợ yêu đã đọc Thần Nông Bản Thảo Kinh, đâu có coi chất độc này ra gì? Xem ra cô nhớ kỹ mấy thứ ông già kia dạy nhỉ!” Tiếng cười vang lên từ phía sau.

A Hành giận dữ siết chặt nắm tay như muốn bóp chết chính mình, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, nàng đành gân cổ vặc lại: “Ta vốn có chuyện nhớ chuyện quên, lạ lắm à?”

Thân thể hiện giờ của A Hành được hoài thai tạo Ngu uyên, sinh ra ở Thang cốc nên chẳng hề sợ lửa, nàng đi thoăn thoắt, chẳng bao lâu đã tới dưới chân Bác Phụ sơn, chỉ mất phân nửa thời gian so với trước đây.

Thấy nàng bắt đầu trèo lên núi, Xi Vưu lếch thếch chạy theo, vừa chạy vừa rên rầm, “Vợ yêu, cô đi từ từ thôi, ta đau quá, không trèo nổi đâu.”

A Hành tảng lờ hắn, nhưng trong bụng rủa thầm, “Vờ vịt! Ngươi cứ vờ vịt tới chết luôn đi!”

Mấy quả cầu lửa bay xuống, A Hành chẳng buồn né tránh, chỉ phẩy tay nhẹ nhàng gạt chúng ra. Đột nhiên sau lưng nàng vang lên tiếng hét thảm thiết, A Hành nhịn không nổi, cười nhạt giễu, “Đại tướng quân, ngài vờ vĩnh suốt cả chặng đường không mệt sao?”

“Vợ yêu, cứu ta với…”

A Hành ngán ngẩm lắc đầu, tiếp tục đi.

Đi mãi một hồi lâu, sau lưng nàng vẫn im ắng như tờ.

Dọc đường Xi Vưu không liến thoắng chọc ghẹo A Hành thì cũng rên rẩm kêu đau, khiến nàng vừa bực vừa tức, nhưng nãy giờ chẳng thấy hắn lên tiếng, nàng lại cảm thấy có gì thiêu thiếu.

“Xi Vưu, ngươi chán vờ vịt rồi à?”

Không nghe tiếng đáp, A Hành bỗng thấp thỏm, chẳng hiểu tên Xi Vưu này lại bày quỷ kế gì! Dù sao, nàng cũng nhủ lòng sẽ không mắc lỡm hắn.

Nhẫn nhịn hồi lâu, sau cùng A Hành đành mượn cớ vén vạt váy để khom người xuống, lén liếc ra sau, nhưng Xi Vưu đã biến mất!

Nàng vội quay ngoắt lại nhìn quanh, chỉ thấy rợp trời lửa đỏ, nào đâu kẻ vận hồng bào ngông nghênh đáng ghét kia.

A Hành vội vã vòng lại, trông thấy Xi Vưu ngất lịm bên đường, cả người đầy bùn đất, may có tảng đá gồ lên chặn lại, bằng không ắt đã lăn xuống vực.

Nàng cau mày bực bội, “Này, ngươi đừng làm bộ nữa được không?”

Bốn bề im ắng.

A Hành do dự lại gần kiểm tra thân thể hắn, mới phát hiện ra Xi Vưu quả thật bị trọng thương chứ chẳng phải giả vờ.

Trong Diệt Ma trận, hắn từng bị thương rất nặng, vẫn chưa khỏi hẳn, vì tranh đoạt A Hành mà hứng chịu một chưởng của Thiếu Hạo, chưa kịp điều tức đã phải cưỡi Tiêu Dao bay khắp nơi, còn bất chấp thương thế, gắng ngưng tụ linh lực thiêu cháy Bác Phụ sơn. Dọc đường hắn vẫn cố gượng duy trì, gắng chịu đau, mãi đến khi sức tàn lực kiệt, không sao chịu nổi nữa mới ngất lịm đi.

Cả người Xi Vưu nóng như hòn than, mặt đỏ bừng, nhưng vẫn mơ màng hé mắt ra nhìn rồi cười toe toét: “Vợ yêu, lại phiền cô cõng ta rồi!”

A Hành trừng mắt lườm hắn, tức đến nỗi thở hồng hộc, mãi một lúc lâu cũng chẳng biết làm sao, đành xốc hắn lên lưng cõng đi, “Ta bảo cho mà biết, ngươi còn dám nói hươu nói vượn, ta sẽ quăng luôn vào lửa cho chết đấy!”

“Cô đành lòng sao? Chỉ sợ ta đau thân thể còn cô đau lòng thôi.” Đã bị thương đến đi không nổi nhưng cái miệng trơn như mỡ của Xi Vưu vẫn chưa chừa, liến thoắng lấn át A Hành.

A Hành chẳng nói chẳng rằng đi thẳng tới bên vách đá, làm bộ ném xuống, khiến Xi Vưu phát hoảng, cuống quýt xin tha, “Được rồi, được rồi, cô nói được làm được, nói được làm được mà!”

A Hành cười nhạt, cõng hắn đi tiếp.

Xi Vưu mê mệt vì sốt, gục đầu lên vai A Hành, chốc chốc lại cười khùng khục.

“Ngươi cười cái gì?”

“Cười cô ngốc chứ gì! Năm xưa, nhằm thăm dò cô, ta cố ý biến hóa để mình nặng trịch như núi, vậy mà cô chẳng hề nhận ra, vẫn lầm lũi cõng ta đến nỗi mồ hôi đầy đầu, còn sợ ta bị lửa thiêu.”

A Hành nghiến răng nghiến lợi vì tức, nhưng ngoài miệng chỉ hờ hững đáp, “Ngươi ích kỷ đa nghi như thế, hèn chi ta chẳng nhớ gì về ngươi, xem như ngươi ác giả ác báo!”

Thấy Xi Vưu nín lặng không đáp, A Hành lại lo lắng gọi: “Ngươi đừng có ngủ, kẻo nhiệt độc trên núi xâm nhập vào tâm mạch đó.”

Xi Vưu gục mặt vào cổ A Hành thì thào bên tai nàng: “A Hành, là ta ác giả ác báo!”

A Hành làm thinh, gắng trèo lên tới đỉnh núi rồi đặt Xi Vưu xuống, “Ngươi cố chịu đựng một lát, để ta đi dập lửa.”

Xi Vưu níu nàng lại: “Hay là ta đi cùng!”

Nàng chán nản mắng: “Điên à! Đốt lửa cũng là ngươi, dập lửa cũng là ngươi, ngươi không cần mạng thì thôi, nhưng đừng xem thường mạng sống của người khác chứ!” Dứt lời nàng giằng tay hắn ra, “Ngồi yên đấy chờ đi!”

A Hành rút cây trâm ngọc chạm hình Huyền điểu trên tóc xuống, loại thủy ngọc này do thủy linh vạn năm dưới Quy khư ở Cao Tân ngưng tụ mà thành, có thể chống lửa, biến hình, trị thương, đúng là trân bảo hiếm có. Đây là sính lễ năm xưa Cao Tân quốc đưa tới nhưng nàng chưa từng mang, mãi tới lần này, Luy Tổ mới lục ra cài lên tóc nàng, những mong thân thể nàng mau khỏe lại, nào ngờ…

A Hành khẽ thở dài, quăng thủy ngọc trâm ra, lập tức cây trâm biến thành một con Huyền điểu xanh biếc như nước, cất tiếng kêu thánh thót. Được linh lực của nàng thúc động, Huyền điểu liền vỗ cánh bay về phía ngọn lửa, bay đến đâu lửa tắt đến đó, không hổ là thủy linh của vạn thủy. Huyền điểu bay lòng vòng quanh Bác Phụ sơn, mãi tới khi dập xong lửa mới ung dung đỗ xuống đỉnh núi, biến thành một tảng đá hình Huyền điểu, phong kín mắt lửa lại.

Ngọn lửa tắt ngúm trả lại một bầu trời đêm thăm thẳm, A Hành ngẩng đầu ngắm nhìn muôn ngàn vì sao lấp lánh giăng khắp nền trời, hệt như vô vàn viên bảo thạch.

Nàng ngoảnh lại nhìn Xi Vưu, mái tóc dài mượt không có trâm cài xõa tung, tuôn chảy, dưới ánh sao, càng toát lên vẻ quyến rũ mê người.

Xi Vưu uể oải tựa lưng vào tảng đá ngắm A Hành, mặt tươi hơn hớn.

A Hành đỡ hắn dậy hỏi, “Ngươi định đi đâu dưỡng thương đây?”

“Cửu Lê.” Hắn khẽ vuốt tóc nàng rồi tiện tay vấn lại, dùng Trụ Nhan hoa cài lên.

A Hành biến hẳn sắc mặt, rút phắt Trụ Nhan hoa xuống ném trả Xi Vưu, “Ta đưa ngươi đi một lần cuối cùng! Nếu ngươi còn bám lẵng nhẵng như đỉa đói thì đừng trách hai tộc Cao Tân Hiên Viên không khách khí!” Ánh mắt nàng lạnh buốt, thấp thoáng sát khí vương giả hiếm hoi.

Xi Vưu ủ rũ, đành nín lặng dựa vào A Hành, người nóng như lửa đốt, hơi thở rối loạn.

Dường như hắn và Tiêu Dao tâm ý tương thông, mới đó đã thấy Tiêu Dao lù lù xuất hiên, xẹt xuống như sao băng. A Hành nửa ôm nửa đỡ Xi Vưu ngồi lên lưng nó, “Tiêu Dao, ngươi bay chậm thôi. Xi Vưu đang bị thương, linh lực của ta không khống chế được tốc độ quá nhanh đâu.”

Tiêu Dao khẽ gục gặc đầu rồi dang cánh từ từ bay về phía Cửu Lê.

Gió đêm lành lạnh, sao sáng đầy trời, Tiêu Dao bay chầm chậm, A Hành cũng chẳng buồn để ý đến Xi Vưu nữa, chỉ chăm chú ngắm nhìn cảnh sắc xung quanh.

Sau khi rời khỏi Bác Phụ quốc, bầu trời sao sáng dần thưa thớt hẳn khiến A Hành tiếc rẻ mãi, may mà giữa biển mây vẫn còn một vầng trăng tròn vành vạch, mây đuổi trăng, trăng vờn mây, cũng là cảnh đẹp hiếm thấy.

Xi Vưu khẽ nói: “Lần đầu tiên ta tới Triêu Vân phong tìm cô rồi A Tệ đưa cả hai bỏ trốn cũng vào một đêm trăng sáng thế này, dạo đó tuy ta bị Đại ca cô đánh trọng thương, nhưng trong lòng rất hạnh phúc.”

A Hành nhắm mắt lại không ngắm trăng nữa, dùng hành động trực tiếp trả lời hắn.

Nhìn một A Hành lạnh lùng trước mặt, Xi Vưu chợt hoang mang, trời nghiêng có thể chống, đất lệch có thể đắp, nhưng cõi lòng tan nát rồi có vá víu lại được chăng? Biết dùng cái gì để vá víu đây?

Thấy Tiêu Dao đột nhiên đỗ xuống, A Hành liền mở bừng mắt nhìn quanh, “Đây không phải Cửu Lê, mày đưa chúng ta đến đâu thế?”

Tiêu Dao phớt lờ nàng, cứ thế dang cánh bay thẳng, bỏ lại Xi Vưu và A Hành giữa vùng hoang sơn.

A Hành tức tối giậm chân bình bịch, Xi Vưu ức hiếp nàng đã đành, ngay đến con chim của hắn cũng bắt nạt nàng nữa!

“Xi Vưu, Xi Vưu, tỉnh dậy đi, chúng ta lạc đường rồi.” A Hành lắc lắc Xi Vưu.

Xi Vưu sốt mê man, khó chịu cau rúm mày lại.

A Hành bắt mạch cho hắn, thấy khó mà chịu nổi đến khi tới Cửu Lê, phải sắc ít thuốc trị thương ngay đã. Nàng nhìn quanh nhìn quất, thấy hai bên đường núi non trùng điệp, cây cối xanh rì, lại thêm một khe suối nhỏ uốn mình, chảy xuyên qua hẻm núi.

A Hành liền cõng hắn men theo khe suối mà đi, vừa đi vừa tìm hái thảo dược.

Tùy theo hẻm núi khi rộng khi hẹp, khe suối cũng có khúc chảy xiết, có quãng chảy chậm, A Hành cõng theo Xi Vưu, hành động vô cùng khó khăn, lại thêm đá suối trơn như bôi mỡ, hai người cứ chệnh choạng mà đi, ướt sũng cả quần lẫn giày, may mà hái được không ít thảo dược.

Đi mãi đến hồ nước, khe suối cũng đổ vào trong hồ này, bên hồ lô nhô mấy tảng đá, A Hành bèn chọn một phiến đá bằng phẳng, đặt Xi Vưu lên.

Nàng nghiền nát thảo dược, múc nước hồ chiêu cho Xi Vưu uống rồi cởi bỏ y phục của hắn, dùng mười mấy ngọn lá thông lớn có nhỏ có, ngưng tụ linh lực châm vào huyệt đạo hắn nhằm khơi thông linh khí, làm dịu cơn đau. Chẳng có linh đan diệu dược gì, A Hành đành đốt ngải cứu hơ vào đỉnh đầu và gan bàn chân hắn, dốc hết linh lực bức nhiệt khí trong cơ thể hắn ra. Nhờ đó, Xi Vưu dần dần hạ sốt.

A Hành dù sao cũng mới ốm dậy, tất bật nãy giờ khiến nàng mệt lử, rã rời cả tay chân, bèn bó gối ngồi nghỉ bên cạnh.

Xung quanh hồ lởm chởm toàn đá là đá, lại thêm cây cối rậm rạp, ánh trăng len qua tán lá chiếu lên mặt đá thành những đốm tròn nho nhỏ, trăng rọi bóng cây, cây soi xuống suối, suối vỗ vào đá, đá nâng niu bóng trăng, trong tĩnh có động, trong động có tĩnh, đẹp không bút nào tả xiết.

A Hành khoan khoái hít sâu mấy hơi, thấy vô cùng dễ chịu. Giày và quần nàng đã ướt sũng lúc lội qua suối, lại dính đầy bùn đất, đi rất khó chịu. Thấy Xi Vưu đã ngủ say, hơi thở trầm trầm, hẳn chưa thể tỉnh ngay được, nàng liền rón rén cởi bỏ y phục, ngâm mình xuống hồ, gột sạch quần và giày vắt lên tảng đá cho khô rồi ngoảnh lại trông chừng Xi Vưu, thấy hắn vẫn mê mệt, nàng yên tâm ngụp xuống hồ bơi lặn.

Nàng vui vẻ thi với đàn cá dưới nước, bơi từ bên này hồ sang bên kia hồ, rồi lại từ bên kia bơi về xem ai nhanh hơn, chợt thấy bao phiền não trong lòng đều tan đi theo làn nước.

Núi non bốn bể xanh biếc một màu như vẽ, đỉnh vút tận mây, khiến cả khung trời bất giác trở nên chật hẹp, vầng trăng tròn vành vạnh đang treo trên mảnh trời nhỏ hẹp đó, A Hành nằm ngửa trên mặt nước, giơ tay ra toan chạm vào mặt trăng, tuy biết rõ không thể nào chạm được nhưng vẫm thích giơ tay ra. Có lẽ nàng thích động tác vớt lấy mặt trăng bởi nó khiến lòng vô cùng khoan khoái, cũng có lẽ nàng chỉ thích ngắm làn nước trong veo chảy dài qua kẽ ngón tay mình, ánh trăng bàng bạc rọi xuống, trông như muôn ngàn viên ngọc long lanh, rơi tí tách xuống mặt hồ phẳng lặng tựa gương.

Đột nhiên, mấy cánh hoa đào đỏ thắm từ đâu bay lại, đậu xuống má A Hành. Nàng nhón lấy cánh hoa vẻ ngạc nhiên, bấy giờ đã là giữa hạ, lấy đâu ra hoa đào? Ngấng đầu trông lên, bấy giờ đã là giữa đỉnh núi, sườn núi xung quanh đều hồng rực sắc đào, sắc thắm ấy còn tiếp tục lan xuống dưới, chỉ lát sau, ngàn vạn gốc đào đã theo nhau nở rộ khắp cả đất trời đang chìm trong đêm tối cũng sáng bừng lên.

Ánh trăng trong như nước dịu dàng soi xuống, cánh đào rụng lả tả như mưa, khi mau lúc thưa, không ướt áo cũng chẳng lạnh người, chỉ thoang thoảng hương thơm ngan ngát.

Nhìn hoa bay rợp cả đất trời, A Hành như lạc vào cõi mộng, mơ màng ngoảnh lại, bắt gặp Xi Vưu đang ngồi trên tảng đá tươi cười ngắm hoa đào nở rực núi đồi, sắc mặt hắn tái nhợt, toàn thân run rẩy, hiển nhiên đã tốn rất nhiều linh lực mới có thể nghịch thiên tạo nên khung cảnh này.

“Ta trị thương cho ngươi không phải để ngươi vận linh lực làm hoa nở trái mùa.”

Xi Vưu ngẩng đầu ngắm vầng trăng vằng vặc, lẩm bẩm một mình: “Năm trăm năm trước, linh lực của ta còn rất thấp, Chúc Dung kéo theo một đám cao thủ Thần tộc tới đuổi giết ta, ta trọng thương, lại phải chạy quanh tìm nơi lẩn trốn, nhưng không sao trốn thoát. Khi chạy tới nơi này, ta nghĩ mình chẳng cầm cự được bao lâu nữa, nhưng ta thà chết cũng không muốn chết trong tay Chúc Dung. Trong lúc tuyệt vọng toan tung mình nhảy xuống vách núi, đột nhiên ta trông thấy một thiếu nữ áo xanh, tay vén váy, tay xách giày đi vào sơn động. Bấy giờ đương là lúc hoa đào nở rộ, giống như hôm nay vậy, rực rỡ đầy trời, đẹp như giấc mộng.”

Xi Vưu chìa tay ra hứng lấy những cánh hoa đào, mỉm cười nhìn nàng, “Cô thiếu nữ đó cũng lội xuống nước nô đùa hệt như bây giờ, chẳng khác nào tinh núi hồn hoa. Ta nấp trên đỉnh núi nhìn nàng, cảm nhận được sức sống căng tràn của ngày xuân, còn ta giống như loài dã thú động tình giữa mùa xuân, trong khoảnh khắc ấy, thân thể mới thật sự cựa mình tỉnh giấc, linh trí cũng theo đó mà thức tỉnh, lần đầu tiên nhận ra mình là ai.”

Nói rồi, hắn tuột khỏi tảng đá bước xuống hồ, tiến về phía A Hành. Nàng chợt thấy miệng khô lưỡi ráo, vội lùi lại, may sao trên mặt nước rụng đầy cánh hoa, che đậy giùm thân thể nàng.

Xi Vưu kể tiếp: “Ta chẳng rõ mình có cha mẹ hay không, càng chẳng biết mình từ đâu tới. Từ khi hiểu chuyện, ta đã sống cùng dã thú trong khe núi, nhưng lớn lên, hình dáng ta lại khác hẳn loài hổ báo. Thuở nhỏ, ta cũng thắc mắc vì sao mình không giống bọn chúng, tại sao chúng có vô số đồng loại mà ta chỉ trơ trọi một mình, ta muốn tìm được một kẻ làm đồng loại. Ta lẻn đến gần sơn trại, lén nhìn đám trẻ nô đùa, học tiếng của bọn chúng, bắt chước bọn chúng đi bằng hai chân, thậm chí còn trộm quần áo của chúng mặc lên mình cho giống với chúng, những muốn được chơi đùa cùng chúng, nhưng đám trẻ ném đá vào ta, phụ nữ lấy lửa đốt ta, đàn ông bắn tên vào ta, ta đành chạy tháo thân vào núi.”

Xi Vưu chỉ vào trái tim mình, “Lúc đó linh trí ta chưa thức tỉnh, còn chưa hiểu tại sao nơi này lại khó chịu đến thế, ta nổi giận giết sạch gia súc của họ, phá sập nhà họ, khiến bọn họ trông thấy ta là vắt giò lên cổ chạy, không dám bắn ta đánh ta nữa, nhưng chỗ này của ta vẫn chẳng dễ chịu chút nào, trái lại càng đau đớn hơn. Ta nấp trong bóng tối nhìn trộm họ, thấy mỗi khi uống rượu họ đều cười rộ lên vui vẻ, bèn đánh cắp rượu của họ, học theo bọn họ uống rượu, ngỡ rằng trong vò rượu có giấu bí mật để tươi cười vui vẻ, nhưng ta luyện mãi đến ngàn chén không say vẫn chẳng phát hiện ra bí mật gì cả, rốt cuộc phải làm sao mới có thể vui vẻ tươi cười đây?”

Xi Vưu thẫn thờ ngẩng mặt nhìn ánh trăng vằng vặc giữa trời, dáng vẻ bất lực chưa từng thấy ở hắn khiến A Hành kinh ngạc. Xem ra, dù ngày nay đã tung hoành bốn bể, đánh đâu thắng đó, nhưng hình bóng Tiểu Xi Vưu cô độc bơ vơ vẫn luôn canh cánh trong lòng hắn.

“Viêm Đế nói muốn mang ta tới Thần Nông sơn, tuy bề ngoài ta tỏ vẻ rất miễn cưỡng, khiến ông ta phải mời ta, cầu ta, nịnh nọt ta, nhưng kỳ thực trong lòng ta rất vui. Xưa nay chưa một ai mời ta tới nhà mình chơi cả, Viêm Đế là người đầu tiên. Ta lên Thần Nông sơn theo Viêm Đế học làm người, nơi đó có rất nhiều kẻ giống ta, ta có thể cùng bọn họ ngồi bên đống lửa uống rượu, nhưng ta còn cô độc hơn thuở sống trong rừng. Dạo ở trong rừng, ít ra ta có thể tự do tự tại nhảy nhót tung tăng, cao hứng thì hú lên, giận dữ thì gào rú, nhưng trên Thần Nông sơn, ta không thể sống hoang dã như thế được. Những kẻ tưởng chừng là đồng loại của ta luôn nhìn ta bằng ánh mắt sắc lạnh như dao, chúng e sợ ta, căm ghét ta, cười nhạo ta là cầm thú, chỉ có ta ngốc nghếch đáp lời hết lần này sang lần khác, còn ngỡ rằng có thể chơi đùa với chúng, làm đủ mọi động tác như chúng yêu cầu, nào là đi bốn chân như sói, nhảy nhót trên cành giống khỉ, chúng cười ta, ta cũng ngẩn ngơ cười với chúng. Tới khi bị Du Võng bắt gặp, mắng cho chúng một mẻ, ta mới hiểu ra cầm thú là để sỉ nhục, chúng bắt ta biểu diễn những động tác kia để làm nhục ta. Ta căm ghét ánh mắt bọn chúng, ghét tiếng cười của chúng, ta không muốn làm người nữa! Nghĩ là làm, ta liền phá sập học đường, trốn khỏi Thần Nông sơn. Du Võng nửa đêm đuổi theo ta, khuyên ta quay lại nhưng ta đánh y chửi y, đuổi y về, ấy vậy mà y vẫn đi cùng ta, còn nói ‘Chỉ cần ngươi tìm được nơi mình thực sự muốn đến, ta sẽ đi ngay. Ngươi muốn đi đâu?’ Ta ngẩn người ra, không biết phải trả lời y thế nào nữa. Dã thú trong núi lớp lớp chết đi, rồi lớp khác sinh ra, những con dã thú quen biết ta khi xưa đã chẳng còn, ngọn núi này hay ngọn núi khác cũng thế cả, chẳng có ý nghĩa gì với ta, bốn phương tám hướng đều là đường đi, nhưng ta biết phải đi đâu đây? Đông Tây Nam Bắc với ta cũng như nhau, chẳng có gì khác biệt. Ta đứng ngây ra giữa giao lộ, từ nửa đêm đến sáng sớm, từ sáng sớm đến hoàng hôn, thiên hạ rộng lớn, nhưng ta lại chẳng biết phải đi về đâu. Du Võng vẫn một mực đứng đó cùng ta, y hỏi, ‘Sao ngươi lại bằng lòng theo phụ vương về Thần Nông sơn? Sao lại muốn làm người?’, ta sực nhớ tới lúc mình hú lên trên đỉnh núi, nàng thiếu nữ dưới khe suối đó đã ngẩng đầu nhìn ta, nhoẻn miệng cười với ta.”

Xi Vưu cúi đầu nhìn A Hành, “Nhớ lại hình ảnh nàng khi ấy, ta bỗng thấy làm người cũng chẳng đến nỗi vô vị, dù chỉ để có được nụ cười ấy trong một khoảnh khắc thôi. Nhận ra lòng ta có khúc mắc, Du Võng ôn tồn nói, ‘Làm người không tồi tệ đến thế, phải không? Chúng ta về thôi.’ Cuối cùng ta theo Du Võng trở về Thần Nông sơn.”

A Hành nhìn Xi Vưu, há hốc miệng vì kinh ngạc. Hắn ôn hòa cười, “Bốn trăm bảy mươi năm trước, chính tại khe núi này, ta đã gặp cô lần đầu. Nhất định cô không nhớ được chuyện này.”

A Hành cắn môi không đáp. Đêm hôm đó, thấy một con dã thú ngẩng đầu tru lên dưới ánh trăng, nàng đã ngước nhìn rồi tươi cười vẫy tay với nó, bởi trong khoảnh khắc đó, cả đất trời không chỉ thuộc về nàng, mà còn thuộc về nó.

Xi Vưu và A Hành cùng đứng dưới hồ, mặt đối mặt, cánh đào rơi lả tả như một tấm màn the hồng nhạt, phủ mờ diện mạo cả hai.

Xi Vưu ngước mắt ngắm hoa bay tơi tả khắp trời, chậm rãi kể tiếp: “Nhờ Viêm Đế dạy bảo, qua hai trăm năm cần cù học tập, ta đã trở thành một kẻ rất ra dáng con người, ta biết phẩm trà bình rượu, gảy đàn thổi sáo, cũng hiểu cả những lễ nghi phiền phức chán ngắt, giỏi tán hươu tán vượn. Hai trăm bảy mươi năm trước, Chúc Dung luyện công bằng địa hỏa của Bác Phụ sơn, khiến cả Bác Phụ quốc khói lửa ngút trời, tiêu điều hoang vắng, tên ngốc Du Võng lòng dạ thiện lương nghe được tin đó bèn nài nỉ ta tới Bác Phụ quốc điều tra thực hư. Đương lúc ta tra rõ mọi sự, chuẩn bị quay về, đột nhiên ngoảnh lại, ta liền trông thấy thiếu nữ áo xanh kia đang từ phía ráng chiều khoan thai tiến đến. Niềm vui bất ngờ khiến ta đờ cả người, nhưng ta không dám tiếp cận nàng, thậm chí còn hoảng hốt đến nỗi định co chân bỏ chạy.”

A Hành mấp máy môi như chẳng thốt nổi tiếng nào, kẻ luôn lao về phía trước như Xi Vưu mà cũng có lúc khiếp sợ ư?

Xi Vưu kể lại: “Hơn sáu trăm năm trước, có một thằng nhỏ theo cha vào núi đi săn, cha nó bị hổ vồ, nó cũng sắp bị hổ ăn thịt. Trông thấy thằng bé đó, ta rất vui mừng, bèn cứu mạng bọn họ, giữ thằng nhỏ lại chơi cùng ta. Ta cùng nó cưỡi hổ ngao du khắp rừng, còn sai vượn hái những quả ngon nhất trên vách núi cho nó ăn, bắt chim cho nó nghe tiếng hót, dắt nó đi xem tất cả hang động của ta, để nó ngủ trên chiếc ổ êm ái nhất của ta. Ta rất thích chơi với nó, cứ ngỡ rằng nó cũng thích chơi với ta, nào ngờ lòng nó vẫn luôn hướng về làng cũ, chỉ giả bộ vui vẻ chơi đùa cùng ta thôi. Khi đó ta chỉ biết mừng rỡ thì rú rít, giận dữ thì kêu gào, tưởng rằng thỏ không thích chơi với sói, hễ thấy sói là chạy, nào hiểu được lòng người đa đoan xảo trá. Một thời gian sau, khi nó đã tường tận tất cả hang ổ của ta, cha nó liền dẫn đám thợ săn tới giết ta.” Xi Vưu chợt ngừng lời, rồi hờ hững bổ sung, “Là nó dẫn đường.”

Thấy ánh mắt A Hành long lanh lệ, Xi Vưu cười nhạt, “Ta rơi vào cảnh thập tử nhất sinh, nhưng cuối cùng vẫn sống sót. Ta giết nó, giết cha nó, giết cả đám thợ săn! Để diệt trừ ta, dân chúng mấy thôn đã hè nhau phóng hỏa đốt rừng, khiến ta vắt chân lên cổ mà chạy. Bọn chúng phát hiện ta bị trúng tên nên cứ đuổi riết, ta phải trốn chui trốn nhủi từ núi này sang núi khác, sau cùng chạy đến Cửu Lê. Ta nấp dưới đáy hồ, nghe thấy bọn chúng yêu cầu Cửu Lê tộc hợp sức cùng giết ta, nào ngờ bị vu sư Cửu Lê từ chối. Ông ta nói, ‘Lúc đói săn thú lấy thịt ăn, khi rét săn thú lấy da mặc, không đói không rét thì giết muông thú làm gì?’”

Nghe Xi Vưu tâm sự, A Hành vô cùng ngạc nhiên, nàng cứ ngỡ Xi Vưu sinh ra lớn lên ở Cửu Lê, nào ngờ hắn lại không phải người gốc Cửu Lê, chuyện này e rằng Viêm Đế cũng chẳng biết. Người ta vẫn nói thỏ khôn có tới ba hang, chẳng rõ Xi Vưu có bao nhiêu cái.

Hắn cười nhạt kể tiếp: “Hơn sáu trăm năm nay, con người không sợ hãi ta thì muốn lấy mạng ta, ngay cả Viêm Đế đối tốt với ta nhất cũng hạ độc ta vì an nguy của tộc dân, nhưng ta vẫn một lòng kính trọng, xem ông như cha mình, bởi ông chưa từng lừa dối ta. Có lần ông dạy ta viết hai chữ đại nghĩa, ta hỏi thế nào là đại nghĩa, ông giải thích cả nửa ngày ta vẫn ù ù cạc cạc, sau cùng ông lấy một ví dụ, nếu buộc ông phải lựa chọn giữa ta và tộc dân của mình thì dù áy náy vô cùng, ông cũng phải kiên quyết xuống tay giết ta, đó chính là đại nghĩa. Có lần ông đã thản nhiên nói rằng, năm đó ông muốn nhận ta làm đồ đệ vì thấy ta có thiên bẩm, ngày sau có thể giúp ông bảo vệ Thần Nông quốc. Cả gã Du Võng mà ta coi như huynh trưởng kia nữa, thực ra ta rất không đồng tình với cách làm việc mềm dẻo nhu nhược, thiếu quyết đoán của y, nhưng vì y là kẻ thành thực nên ta vẫn luôn coi y là huynh đệ, trung thành với y, có điều, nếu một ngày y phản bội lại lời thề, quay ra nghi ngờ ta, ta sẽ là người đầu tiên giết chết y!”

A Hành trân trân nhìn Xi Vưu, hắn cũng chăm chú nhìn nàng, “Ta không để bụng việc những kẻ khác săn đuổi ta, nhưng ta không thể tha thứ cho thằng bé dẫn thợ săn tới bắt ta! Ta có thể bỏ qua cho những kẻ khác gạt ta, nhưng nhất định không tha thứ cho Viêm Đế hay Du Võng nếu họ lừa dối ta! Hai trăm bảy mươi năm trước, ta trơ mắt nhìn cô quay lưng bỏ đi mà không dám tiếp cận, vì ta sợ đến một ngày nào đó, ta sẽ giết cả cô!”

A Hành chợt ớn lạnh cả người, chẳng biết là lạnh do nước hồ hay run rẩy trước câu nói của Xi Vưu.

Xi Vưu cười giễu: “Ta sống sót được đến giờ chính bởi ta là dã thú, ta có thừa xảo trá, độc ác và tàn nhẫn.”

Nhưng con “dã thú” này để trả ơn vị vu sư Cửu Lê đã có lời bênh vực y, liền nhận mình là người Cửu Lê, bảo vệ Cửu Lê suốt mấy trăm năm, không tiếc đánh đổi cả sinh mạng chống chọi với Thần tộc, biến những người dân hèn hạ từng bị rẻ rúng trở thành một bộ tộc sản sinh ra các anh hùng; biết rõ Viêm Đế lợi dụng mình để bảo vệ Thần Nông mà vẫn hào sảng hứa phò trợ Du Võng.

Chân trời đằng Đông đã sáng lên tự lúc nào, ánh nắng mai lành lạnh chênh chếch rọi qua tán lá, chiếu lên mình hai người thành những mảng sáng tối giao thoa, khi lạnh khi ấm.

Xi Vưu đăm đăm nhìn A Hành, “Ta sinh ra trong núi hoang, lớn lên giữa bầy dã thú, gia thế, học vấn và phong thái đều không bì được với Thiếu Hạo, cũng chẳng thể giống như y, cho cô địa vị cao quý nhất, để cô trở thành vương hậu một nước, khiến cả thiên hạ phải kính trọng cô. Đi theo ta, nhất định cô sẽ bị người đời xỉ vả, nhưng… Nếu cô vẫn không muốn nhớ lại mọi chuyện về ta, ta sẽ trao cho cô thứ duy nhất mà ta có.” Xi Vưu đấm mạnh tay vào ngực mình, sang sảng nói, “Chính là trái tim ta!”

A Hành bĩu môi toan cười nhạt, nhưng nhìn gã Xi Vưu có đôi phần xa lạ trước mặt, nàng không sao nhếch mép nổi. Hắn đã trút bỏ tất cả lớp ngụy trang bề ngoài, tựa như rắn độc bẻ đi răng nanh, hổ sói thu lại móng vuốt, nhím xù cởi bộ lông gai lởm chởm, bộc lộ phần hồn yếu đuối nhất, mong manh nhất trước mặt nàng, chẳng còn đâu một Xi Vưu ngông nghênh tùy tiện, ngạo mạn thờ ơ, lạnh lùng giễu cợt tất thảy, giờ đây đứng trước nàng chỉ là một nam tử bình phàm từng gánh chịu tổn thương, đã hiểu được thế nào là đau đớn, thế nào là xót xa, càng hãi sợ phải nhận lấy đau thương lần nữa.

Thấy A Hành ngập ngừng không nói, Xi Vưu cũng làm thinh, đăm đăm nhìn nàng, ánh mắt thăm thẳm muôn ngàn lời mà chẳng thốt nổi một câu. Hồi lâu hắn quay lưng lội vào bờ, mặc lại quần áo, “A Hành, bất kể cô quên thật hay vờ, ta nói cho cô biết, cô là người phụ nữ của ta, ta cũng là người đàn ông của cô, trước đây là thế, bây giờ là thế, sau này cũng là như thế. Nếu cô không muốn thì ngay bây giờ, nhân lúc ta đang bị trọng thương, giết phắt ta đi, bằng không đợi ta trị khỏi vết thương, nhất định sẽ bất chấp thủ đoạn bám riết lấy cô đấy!”

Xi Vưu đứng quay lưng về phía A Hành, bất động.

A Hành đứng lặng người, lòng quặn lên đau thắt, mãi một hồi lâu, nàng bèn lội vào bờ, bình thản mặc lại quần áo rồi lạnh lùng cất tiếng, “Được, vậy để ta giết ngươi!”

Nàng tiến về phía Xi Vưu, đặt tay lên lưng hắn, chỉ cần dồn linh lực ra, Xi Vưu sẽ lập tức đoạn khí mà chết.

Hắn nhắm nghiền mắt lại.

A Hành nghiến răng tống linh lực ra. Xi Vưu đã sức tàn lực kiệt, liêu xiêu ngã ngửa ra sau, đột nhiên, nàng ôm chặt lấy hắn, “Tại sao thà chết cũng không chịu buông tay?”

Sắc mặt Xi Vưu tái nhợt, hắn bình thản nhìn nàng, không gợn chút sợ sệt hay sầu lo trước cái chết, cũng chẳng còn vẻ xảo trá hung tàn, đôi mắt hắn thăm thẳm tựa hồ trong veo thấu đáy, chỉ còn in bóng riêng nàng.

A Hành giận dữ trừng mắt nhìn Xi Vưu, nước mắt nhòe mi: “Chàng thừa biết nếu chàng bị thương ta sẽ rất xót xa, vậy mà còn cố tình ép buộc ta. Thật lòng ta chỉ muốn giết quách tên khốn chuyên nghề hành hạ người ta như chàng…”

Xi Vưu thoạt nghe thấy nửa câu đầu đã nhoẻn miệng cười, lập tức lấy lại sinh khí, vòng tay siết chặt A Hành vào lòng. A Hành vội đẩy hắn ra, như không muốn để hắn ôm, nhưng động tác chẳng lấy gì làm quyết liệt, nàng giằng giằng co co với hắn một hồi, lòng nửa mừng nửa giận, nửa oán nửa ghét…

Xi Vưu ghì chặt nàng vào lòng, toàn thân run rẩy, chẳng rõ bởi mừng vui hay sợ hãi, hắn luôn miệng thì thầm: “A Hành, A Hành, A Hành, A Hành của ta…”

Những vùng vẫy của A Hành dần biến thành ôm ấp, hai tay nàng siết chặt Xi Vưu, rúc vào lòng hắn âm thầm khóc, khóc mãi khóc mãi, từ khóc thầm đổi sang thút thít, từ thút thít trở thành nức nở, sau cùng khóc đến kinh thiên động địa, như muốn trút hết bao đau đớn oan ức suốt mấy trăm năm.

Hau người ôm chặt lấy nhau, cả hai đều run lên. Xi Vưu dịu giọng dỗ dành, “Ta biết sai rồi, ta là đồ khốn, là đồ khốn không biết tốt xấu gì…”

A Hành nức nở khóc, đột nhiên nghẹn ngào lên tiếng: “Chúng mới là đồ khốn!”

“Ai cơ?”

A Hành vừa khóc đến đứt ruột đứt gan vừa giận dữ nói: “Mấy tên khốn dám hà hiếp chàng trên Thần Nông sơn chứ ai nữa!”

Xi Vưu thoáng ngẩn người, ai dám hà hiếp mình nhỉ? Hắn sực nhớ lại chuyện cũ, chỉ thấy lòng dạt dào vui sướng, tình ý triền miên, bao đau khổ tủi hờn đều biến mất theo câu nói này của nàng. Xi Vưu thở dài một tiếng, vòng tay siết chặt nàng vào lòng, như muốn hòa tan nàng vào cơ thể mình, đời này kiếp này không bao giờ chia lìa nữa.

Mặc cho Xi Vưu ra sức dỗ dành, A Hành vẫn khóc nức lên, càng khóc càng thảm thiết, mãi không chịu nín. Sợ nàng khóc nhiều sinh mệt, hắn bèn chín phần thật một phần giả xuýt xoa “ai da”. Quả nhiên A Hành quên khuấy thương tâm, vội cuống quýt kiểm tra vết thương của hắn, vừa chữa trị vừa trách móc: “Lần sau chàng còn dám bỏ mặc chuyện sống chết của bản thân thế này ta sẽ không phí sức mà trị cho chàng nữa đâu.”

Xi Vưu không đáp, chỉ lặng lẽ nhìn A Hành, nhìn nàng lo lắng cho hắn, xót xa cho hắn, cười vì hắn, khóc vì hắn, một làn hơi ấm trong sâu thẳm đáy lòng từ từ lan ra, khiến hắn quên hết mọi đau đớn trên mình.

A Hành định đi tìm hái thêm vài loại thảo dược, nhưng Xi Vưu níu nàng lại không cho đi.

“Ta đi rồi sẽ về mà.”

Xi Vưu vẫn chăm chăm nhìn A Hành lắc đầu quầy quậy, hệt như một đứa nhỏ bướng bỉnh.

A Hành đành bó tay, “Vậy vết thương của chàng làm sao đây? Chàng không muốn khỏe lại à?”

“Vết thương của ta ở trong lòng chứ không phải ở trên người, nàng chính là thuốc của ta rồi, chỉ cần nàng ở bên ta, vết thương của ta tự khắc sẽ khỏi thôi.”

A Hành vừa tức vừa buồn cười, “Nói vớ nói vẩn!”

“Thật mà, nàng quên rằng ta có thiên bẩm khác với mọi người à? Chỉ cần giữ tâm an tĩnh, hòa mình vào cùng trời đất, trời đất vạn vật đều có thể truyền cho ta linh khí, giúp ta trị thương.”

Xi Vưu dán mắt vào nàng, “Ta không nỡ ngủ, ta cứ muốn ngắm nàng thế này mãi mãi cơ, nhưng ta càng không nỡ để nàng lo lắng cho thương thế của ta. Thôi ta ngủ một lát nhé, nàng đừng đi đâu đấy.”

A Hành vừa xua tay ngăn ánh mắt chòng chọc của Xi Vưu, vừa đỏ bừng mặt, phì một tiếng mắng: “Muốn ngủ thì ngủ đi, làm gì có kẻ nào ngủ một giấc mà lắm lời thế?” Mắng thì mắng vậy, nhưng lòng nàng lại rộn lên vui sướng lẫn ngọt ngào.

Xi Vưu cười toe toét nhắm mắt lại, lập tức chìm vào giấc ngủ.

A Hành ngồi lặng ngắm hắn ngủ, nghe lòng bình thản lạ lùng, mí mắt cũng dần dần trĩu xuống. Đã hai ngày nay bị Xi Vưu hành tội, nàng chưa hề chợp mắt, bây giờ cũng mơ mơ màng màng thiếp đi.

Lúc mở mắt ra đã là chính Ngọ, vầng dương chói lóa đang treo trên đỉnh núi. Hai người chụm đầu vào nhau mà ngủ, đôi bên đều cảm nhận được hơi thở của người kia, đều biết đối phương đã tỉnh, nhưng không một ai lên tiếng, sợ phá vỡ cảm giác ấm áp lúc này.

Sơn cốc tĩnh mịch yên ắng, cây cối ngời lên xanh biếc dưới anh dương, càng tôn lên vẻ diễm lệ của hoa đào, lòng người vừa lắng lại, liền nghe thấy tiếng hoa rơi xao xác, tiếng nước róc rách luồn qua kẽ đá cùng tiếng chim cuốc văng vẳng trong núi.

A Hành hỏi khẽ: “Đêm đó chàng ở đâu?”

Câu hỏi của nàng không đầu không cuối, nhưng Xi Vưu vừa nghe đã hiểu, bèn cười cười chỉ lên đỉnh núi bên trái.

“Chàng nhìn thấy hết cả ư?”

“Ừ, nhìn rõ mồn một.”

A Hành vùi mặt vào vai Xi Vưu, đấm ngực hắn thùm thụp khiến Xi Vưu bật cười khanh khách vang cả sơn cốc. Đột nhiên hắn cảm thấy A Hành gục trên vai mình, chẳng nói chẳng rằng, vội thấp thỏm hỏi: “Nàng sao thế?”

A Hành nhỏm người ngồi dậy, vẻ mặt nghiêm trang như có điều muốn nói, nhưng tựa hồ lại có phần sợ sệt, không dám mở miệng. Xi Vưu cũng thu lại vẻ cười cợt đùa bỡn, chỉ ngồi yên lặng, dịu dàng nhìn nàng khích lệ.

“Ta không còn là A Hành khi xưa nữa, thật đó, không phải gạt chàng đâu, ta thực sự không còn là A Hành ngày trước nữa, ta có lẽ… là ma!”

Xi Vưu cười, chẳng hề để tâm: “Nguồn sức mạnh trong người nàng rất lạ, nhưng thế thì đã sao?”

A Hành khẽ đáp: “Còn rất đáng sợ nữa đó.”

Nàng bèn bước tới bên một cây đại thụ, đặt tay lên cây rồi thận trọng trút linh lực ra từng chút từng chút một, lập tức đại thụ ngàn năm bắt đầu khô héo, lá rụng rào rào, chỉ lát sau, cả thân cây đều cháy đen thui, A Hành nhấc tay ra.

Một cơn gió thổi qua, cả gốc đại thụ tan đi theo gió thành những mạt vụn đen sẫm, chẳng lưu lại chút dấu tích gì trên mặt đất, như thể chưa từng tồn tại, chỉ còn vảy tro tàn dưới chân A Hành, nhắc nhở rằng hết thảy đều là sự thật.

Sắc mặt A Hành tái xanh tái xám, nàng nhìn xuống tay mình, thấy run rẩy sợ hãi chính mình, ngoảnh đầu nhìn Xi Vưu, nàng cũng đọc thấy trong mắt hắn vẻ kinh hãi.

A Hành lên tiếng: “Đây mới chỉ là chút sức mạnh của ta thôi. Phụ vương rất sợ sức mạnh của ta, bèn cùng mẫu thân hạ cấm chế, giúp ta phong bế chúng lại. Đại ca còn dặn lại ta không được tiết lộ với bất kỳ ai, huynh ấy sợ người khác sẽ diệt trừ ta như diệt ma vậy.”

Xi Vưu tiến lại cầm lấy tay nàng, lòng bàn tay nàng đã tróc hết da, cánh tay cũng sưng phù lên như bị lửa đốt, nổi mụt nước lấm tấm. Hắn liền ngâm tay nàng xuống nước, giúp nàng trị thương, đoạn dịu giọng: “Lửa có thể sưởi ấm cho người, cũng có thể thiêu cháy người, nước có thể tưới mát cho cây, cũng có thể làm cây úng chết, mặt trời có thể giúp vạn vật sinh trưởng, cũng có thể khiến vạn vật tử vong, sức mạnh không có gì đáng sợ, chỉ sức mạnh quá mức mới đáng sợ mà thôi. Nàng đừng căm ghét bản thân, chẳng qua nàng chỉ lỡ có được nguồn sức mạnh không thuộc về mình, có điều nàng phải cẩn thận, sức mạnh này giống như hồng thủy mãnh thú vậy, thả ra thì dễ, thu về thì khó, nàng nhất định đừng sử dụng chúng quá mức. Sức mạnh này không phải do nàng bỏ công tu luyện mà thành nên thân thể nàng không khống chế hoàn toàn được, nàng đả thương người khác đồng thời bản thân cũng hứng chịu tổn thương, như khi nãy vậy, nàng chỉ định làm rụng lá cây, nhưng lại không kiềm chế nổi, sau cùng thiêu cháy cả cây, mà chính mình lại bị bỏng.”

Từ khi tỉnh lại, mọi người lúc nào cũng dặn dò nàng không được để lộ cho bất kỳ ai, tuy hiểu rằng họ quan tâm đến mình, nhưng sự quan tâm đó lại ngầm ám chỉ năng lực không lành của nàng, khiến nàng cũng nảy sinh ác cảm với chính mình. Có điều giờ đây, những lời an ủi của Xi Vưu đã xua tan ác cảm nàng dành cho bản thân, nàng cắn môi hỏi: “Nếu thật sự ta là yêu ma được hoài thai dưới Ngu uyên như phụ vương nói thì sao?”

Xi Vưu cười, “Nếu nàng là ma, ta sẽ hóa ma cùng nàng, vậy há chẳng hay sao? Chúng ta có thể thoát khỏi bao nhiêu chuyện vớ vẩn, cũng thoát khỏi những kẻ lắm lời, chỉ còn ta và nàng thôi.”

A Hành vừa buồn cười vừa tức, nửa mừng nửa giận, “Thôi thôi, chàng đừng khua môi múa mép nói ngon nói ngọt nữa.”

Nhìn dáng vẻ nàng, Xi Vưu chợt thấy lòng rạo rực, liền cúi xuống dịu dàng hôn lên môi nàng.

Dưới ánh mặt trời ấm áp, ở nơi lần đầu tiên trông thấy nàng, cuối cùng hắn cũng thực hiện được điều mấy trăm năm nay luôn khao khát.

Sau phút ái ân, A Hành rúc nào lòng Xi Vưu, nhắm mắt lắng nghe tiếng tim hắn đập thình thịch bên tai. Bốn bề lặng phắc, chỉ có tiếng tim đập vang vang đầy mạnh mẽ đem lại cho nàng cảm giác êm đềm khó tả.

Xi Vưu vuốt ve tấm lưng nàng, nheo mắt nhìn vầng dương đã ngả về Tây, lại một ngày nữa sắp trôi qua.

A Hành nói nhỏ: “Ta phải về thôi, lần này Đại ca và mọi người nhất định đang tìm ta khắp nơi, nếu còn nấn ná e rằng sẽ rước vạ đấy.”

Xi Vưu cười, chẳng buồn đếm xỉa, “Ý nàng là Đại ca nàng sẽ tới làm phiền ta? Hay là cả Thiếu Hạo nữa?”

“Nói cho cùng, ta vẫn là vương tử phi của Cao Tân, dù Thiếu Hạo không để bụng thì vương tộc Cao Tân cũng không để yên cho kẻ khác cướp vương tử phi của họ đi đâu, chuyện này liên quan đến thể diện quốc gia mà.”

Xi Vưu nghiêm trang nói, “A Hành, đi theo ta đi! Sáng mai ta sẽ bố cáo thiên hạ chuyện hai ta ở bên nhau, mặc kệ Hoàng Đế, Tuấn Đế hay Thanh Dương, Thiếu Hạo, dù sao nàng cũng là người của ta, nếu họ không đồng ý thì phải qua được cửa ta đã!”

Trước ánh mắt nóng bỏng nhiệt thành của Xi Vưu, A Hành chỉ muốn bất chấp tất cả nhận lời hắn, nhưng từ nhỏ nàng đã được dạy dỗ phải nghĩ kỹ rồi làm, tính chắc hẵng động, hơn nữa nàng còn cha mẹ anh em, không thể tùy ý hành động mặc kệ hậu quả như Xi Vưu được… Muôn mối tơ vò giằng xé trong lòng, khóe mắt nàng dần đỏ lên.

Từ sau khi tỉnh lại, mọi người chỉ kể cho nàng những chuyện vui, ngay đến Đại ca cũng chẳng đôn đốc nàng nữa, nhưng qua những lời xì xào to nhỏ, nàng cũng biết được hai trăm năm nay phụ vương rất lạnh nhạt với Đại ca, trong khi đó Cửu ca Di Bành lại được ngài dốc sức dạy dỗ, cơ hồ đã có thể ngang vai ngang vế với Thanh Dương, Tam phi Đồng Ngư thị thì ngày càng bức hiếp mẹ nàng, Triêu Vân phong bề ngoài có vẻ thanh bình, thật ra bốn bề đều có nguy cơ tiềm ẩn.

Bao năm nay Xi Vưu cưỡng ép thúc đẩy việc cải cách thể chế ở Thần Nông, tuyển dụng nhân tài không câu nệ, những người thề sống chết đi theo hắn ngày càng nhiều, nhưng những kẻ hận hắn thấu xương còn nhiều hơn, một khi bị kẻ địch nắm lấy nhược điểm, dù Du Võng muốn che chở cũng không che chở nổi cho hắn, bởi nước có phép nước.

Thấy A Hành cúi đầu, nước mắt lã chã, Xi Vưu thở dài, “Thôi thôi! Ta thua nàng rồi, nàng nói phải làm sao đây?”

A Hành đáp: “Dạo tân hôn, ta đã giao ước với Thiếu Hạo, đến một ngày y sẽ cho ta cơ hội được tự do lựa chọn. Dù sao ta cũng đã gả đi rồi, chỉ cần phía Cao Tân không truy cứu chuyện của ta, phụ vương sẽ chẳng ý kiến gì đâu.”

Xi Vưu vặn lại, “Vì sợ Cao Tân nên nàng chấp nhận rời xa ta, quay về bên Thiếu Hạo?”

“Không phải. Không chỉ là Cao Tân, mà còn bởi mối tương quan ràng buộc, cùng chung vinh nhục giữa Thiếu Hạo và Triêu Vân phong nữa. Nếu y bị đánh đổ, e rằng mẹ ta và Đại ca… tới chừng đó Tứ ca cũng… Mẹ và Tứ ca đối xử với ta ra sao, chàng thấy cả rồi đấy, ta không muốn vì mình mà làm tổn hại đến mẹ và Tứ ca, chàng cho ta chút thời gian đi, được không?”

Hiểu nguyên do vì sao A Hành chưa chịu rời Thiếu Hạo, Xi Vưu thấy lòng nhẹ nhõm hẳn, liền tươi cười kéo A Hành tới trước mặt, hôn lên những giọt lệ đọng khóe mi nàng, cợt nhả “Dù xảy ra chuyện gì ta cũng mãi mãi ở sau nàng. Nàng đừng sợ, nếu kẻ nào dám hà hiếp nàng, chỉ cần gọi một tiếng ‘Xi Vưu’, ta sẽ xông đến cắn chết hắn ngay!”

A Hành bật cười, “Rốt cuộc chàng là Đại tướng quân Thần Nông quốc, hay là sói hoang?”

Xi Vưu nháy mắt cười, huênh hoang, “Cứ xem như sói đi, nhưng không phải sói thường, mà là con sói hết dạ trung thành với A Hành, dũng cảm kiên cường, thông minh cơ trí, thần công cái thế, anh tuấn vô địch, trên trời dưới đất độc nhất vô nhị.”

A Hành nghe nói bật cười khanh khách, bao ưu sầu đều tan biến cả. Xi Vưu âu yếm nhìn nàng, đối với đàn ông, dù kẻ bình phàm hay người vĩ đại đều hạnh phúc vô vàn khi thấy bản thân có thể đem lại nụ cười cho người mình yêu thương nhất, hạnh phúc ấy nồng nàn tới nỗi trở thành niềm kiêu hãnh của anh ta. Công danh lợi lộc có đáng gì đâu chứ? Có thể đem lại nụ cười thật sự cho một người mới là việc khó nhất trên đời!

A Hành vòng tay ôm chặt lấy Xi Vưu. Trời dần ngả về đêm, nhưng vầng mặt trời trong lòng nàng lại đang tỏa nắng chói chang, ấm áp.

Chương 4: Đường trắc trở, tự mình tìm lối[1]

Thiên Hạo đứng bên ngoài điện, đôi mắt nhìn theo đoàn người khuất bóng cuối chân trời.

Y ngoảnh đầu, bắt gặp A Hành đang đứng lặng dưới gốc đào, hoa hồng mặt ngọc chiếu rọi lẫn nhau, nhưng ánh mắt nàng lạnh buốt như băng giá.

[1] Trích trong bài Cửu ca – Sơn quỹ của Khuất Nguyên. (ND)

Xi Vưu đưa A Hành về đến tận Triêu Vân phong. Nàng lưu luyến nhìn theo bóng hắn mãi tới khi khuất dạng mới ngoảnh lại, liền trông thấy Đại ca và Tứ ca đang đứng ngay sau lưng mình.

Xương Ý hỏi thẳng: “Muội nhớ ra Xi Vưu rồi ư?”

A Hành đỏ mặt lúng túng, nói không nên lời.

Đến lượt Thanh Dương hỏi: “Tìm muội khắp nơi không thấy, Thiếu Hạo sợ xảy ra chuyện gì bất trắc nên đã quay về Cao Tân rồi, muội vẫn định về Cao Tân đấy chứ?”

A Hành vội đáp: “Phải về chứ, mai muội về luôn.”

Thanh Dương thở phào nhẹ nhõm, định nói thêm gì đó nhưng lại thôi, Xương Ý liền chen vào hỏi: “Vậy muội và Xi Vưu…”

A Hành cúi đầu: “Tứ ca, muội tự biết chuyện của mình mà.”

Xương Ý nghe nói gật đầu, ôn tồn bảo: “Muội đến dập đầu từ biệt mẹ đi.”

Sau khi từ biệt Luy Tổ, A Hành đem theo Liệt Dương rời khỏi Triêu Vân phong. Nàng vẫn chưa vội về Ngũ Thần sơn ngay, mà đi thẳng đến Ngu uyên trước.

Hơn hai trăm năm trước, tuy chẳng cây cối chim thú nào sinh sôi được ở Ngu uyên, nhưng ngoại vi Ngu uyên vẫn có sông ngòi hồ ao, cây cối rậm rì, vậy mà từ khi một con yêu quái vừa giống hổ vừa giống cáo tới đây tu hành, cả miền này đã biến thành vùng đất chết, không nhú nổi cọng cỏ.

Chẳng rõ ai trồng, chỉ biết ngoại vi Ngu uyên có một rừng đào, quanh năm xanh tươi mơn mởn, không bao giờ héo khô, còn xua tan nắng hạn cho cả vùng. Mỗi khi đến mùa hoa đào nở, con yêu quái đó đều hú lên thê thiết suốt đêm, khiến trăm họ Thụ Sa quốc phải dựng tế đàn trong rừng đào tôn nó làm Tệ Quân, cầu xin nó đừng gieo hạn hán cho Thụ Sa quốc.

Tệ Quốc ở Ngu uyên ngày ngày tu luyện, sớm đã nhập Ma đạo từ lâu. Nhưng vì đủ thứ nguyên nhân, những người biết chuyện đều không hẹn mà cùng giấu giếm việc ở gần Ngu uyên có một con yêu quái đã thành ma.

Một con chim trắng khổng lồ lướt qua bầu trời đêm, xông qua màn khói đen vần vũ phía trên Ngu uyên, lượn quanh mấy vòng rồi đậu xuống vách đá tối thui.

A Hành từ trên lưng bạch điểu chậm rãi bước xuống, cười nói: “Cảm ơn Liệt Dương.”

Chỉ trong nháy mắt, bạch điểu đã biến thành một cậu nhỏ áo trắng chừng mười một mười hai tuổi, dung mạo đẹp như ngọc, hai mắt xanh biếc, mái tóc dài chấm eo, trắng toát.

Vạn vật đều coi Ngu uyên là nỗi kinh hoàng nhưng A Hành và Liệt Dương lại chẳng hề sợ hãi, chỉ mải lắng nghe từng tràng tiếng hú thê thiết từ xa vẳng lại.

Khói đen mờ mịt tràn lan khắp Ngu uyên, mênh mông chẳng thấy bến bờ, không một sinh vật nào sống nổi trong làn khói độc ấy, nhưng Tệ Quân vẫn sống ở đó suốt bao năm nay.

A Hành rơm rớm nước mắt, quay sang bảo đứa nhỏ: “Liệt Dương, gọi nó về đi.”

Liệt Dương liền rít lên một tiếng the thé chói tai, ngược hẳn với vẻ ngoài thanh tú xinh xẻo.

Tệ Quân đang bay lòng vòng giữa màn khói đen mịt mù, nghe thấy Liệt Dương gọi liền bối rối ngưng bặt tiếng kêu. Lần theo tiếng rít của Liệt Dương, nó bay thẳng về phía Đông, một hồi lâu mới thấy hai bóng người giữa làn khói đen đặc, tỏa ra khí thức vừa quen vừa lạ.

Tệ Quân chần chừ giảm bớt tốc độ, khụt khịt mũi đánh hơi như để xác định thật giả, thình lình nó hú lên mừng rỡ, toan nhào tới, nhưng rồi lại phân vân. Sống giữa Ngu uyên bao năm nay, nó chẳng còn là chú hồ ly đẹp đẽ đáng yêu thuở xưa nữa, giờ đây cả người nó đều hôi rình tanh tưởi, nanh chìa ra lởm chởm, gương mặt trở nên méo mó đáng sợ vô cùng.

Thấy A Tệ định lẩn đi, Liệt Dương liền nhào tới, biến nguyên hình rồi đậu xuống vai nó, vừa quang quác mắng mỏ vừa dang cánh đập lia lịa vào đầu nó.

A Tệ bị đánh đến choáng váng đầu óc, quên khuấy ý định lẩn tránh, bèn ngoan ngoãn bay đến trước mặt A Hành. Chợt nó ngượng ngùng co rúm người lại, như sợ máu mủ tanh hôi trên người mình dây sang A Hành, gương mặt hung ác đầy vẻ bồn chồn hồi hộp.

A Hành liền ngồi thụp xuống, ôm chầm lấy nó.

“Bất kể mày là tiểu yêu tinh A Tệ hay là ma thú Tệ Quân, dù biến thành thứ gì, mày vẫn là tiểu hồ ly biết bay của ta.”

Bao đau khổ và cô quạnh suốt hai trăm năm đợi chờ đằng đẵng đều tan biến theo một lời này.

A Tệ dụi đầu vào lòng A Hành, nước mắt lã chã.

“Sao mày lại đợi ở Ngu uyên? Ai cũng bảo Hồ tộc thông minh, thế mà mày chẳng thừa hưởng được tí gì cả? Ngốc ạ!” A Hành vuốt ve những vết thương chi chít trên mình A Tệ, khóc nức lên.

Tuy A Tệ đã nhập ma, dáng vẻ hung ác nhưng tâm tư vẫn rất đơn thuần, thấy A Hành đau lòng, nó liền nghiêng đầu nhìn nàng, híp mắt lại thành hai vành trăng nhỏ cong cong, ve vẩy cái đuôi xù, định chọc nàng cười.

A Hành vẫn rầu rầu, A Tệ cau mày nghĩ ngợi giây lát rồi ngẩng đầu gầm lên với Liệt Dương, bày ra ma tướng cực kỳ đáng sợ.

Liệt Dương bị bất ngờ, sợ đến nhảy dựng cả lên, mặt mày tái mét.

A Tệ lấy làm đắc ý, tựa vào người A Hành vênh mặt cười hăng hắc, ha ha ha, Liệt Dương cũng biết sợ nó rồi!

Bị A Tệ hù dọa, Liệt Dương nổi giận rít lên một tiếng rồi xông tới, khạc ra cả chuỗi cầu lửa tấn công A Tệ, A Tệ lập tức co giò bỏ chạy, Liệt Dương đuổi sát sau lưng, cả hai lại chí chóe nhau, hệt như mấy trăm năm trước.

Thấy cảnh tượng ấy, A Hành nín khóc phá ra cười, đợi chúng nó giỡn chán chê, nàng bèn gọi: “Lại đây, mình về Cao Tân đi.”

Liệt Dương trợn mắt, nó vốn chẳng có thiện cảm với Thiếu Hạo, cũng chán ghét Cao Tân. Chỉ riêng A Tệ mừng rỡ chạy lại với A Hành, miễn là được sống cùng với A Hành và Liệt Dương thì ở đâu cũng thế cả.

Cuối tháng Bảy, chính đương độ nắng chiếu sen hồng thấm vị riêng[1]. Cao Tân nhiều hồ nhiều sen, dân chúng rất chuộng hoa sen, đi đến đâu cũng thấy bát ngát lá xanh, hương thơm ngan ngát. Đã hai trăm năm không tiếp xúc với thế nhân, A Hành bèn dắt theo A Tệ và Liệt Dương thong thả tản bộ giữa đêm thanh, vừa thưởng thức phong cảnh nhân gian vừa tìm hiểu tình hình Cao Tân hiện tại.

[1] Câu thơ trích trong bài Sáng sớm rời chùa Tịnh Từ tiễn Lâm Tử Phương của Dương Vạn Lý (1127 – 1206). (ND)

Nàng về gần đến Ngũ Thần sơn, Thiếu Hạo nhận được tin báo liền tự mình ra đón, y cũng chẳng nhắc tới chuyện Xi Vưu, chỉ hỏi thăm nàng đi đường có được bình an.

A Hành ôm A Tệ hỏi thẳng: “Chàng có thể tìm cách giúp bọn thiếp vào Thang cốc được không? Thiếp muốn trị những vết loét vì ma khí xâm thực trên người nó, mấy hôm nay đã tìm hái được vài loại thảo dược trong núi rồi, chỉ cần thêm nước của Thang cốc nữa thôi.” Thang cốc là thánh địa của Cao Tân, không dễ vào được, hơn nữa hiện giờ A Tệ lại bị coi là ma vật.

Thiếu Hạo mau mắn đáp: “Không vấn đề gì, vừa khéo bây giờ ta đang phụ mệnh phụ vương canh giữ Thang cốc.”

A Hành kinh ngạc vô cùng, Thang cốc là nơi hoang vắng ở cùng trời cuối đất, canh giữ Thang cốc có khác nào lưu đày? Nhưng thấy Thiếu Hạo không định giải thích, nàng cũng chẳng vặn hỏi nguyên do.

Giữa đêm khuya thanh vắng, A Hành dẫn A Tệ tới thẳng Thang cốc.

Thang cốc là chốn mặt trời lên, nguồn nước ở đây có thể nói là tinh khiết nhất trong thiên hạ. A Tệ vừa bị nhúng xuống nước đã run lẩy bẩy vì đau, A Hành và Liệt Dương phải mỗi người một bên ôm chặt lấy nó, A Hành vừa dịu dàng hát cho nó nghe như như dỗ trẻ nít vừa nhỏ nhẹ: “A Tệ ngoan nào, gắng chịu một chút, một chút nữa thôi là được mà.”

Mãi đến hết một tuần trà, nàng mới cho phép A Tệ lên bờ. A Tệ đau đến lả cả ra, Liệt Dương nhìn nhỏ người nhưng rất khỏe, liền vác A Tệ lên “hòn đảo” do chín gốc phù tang chụm lại.

Thấy A Tệ run cầm cập vì đau, Thiếu Hạo bèn đặt tay lên trán nó, cơn đau trên mình A Tệ được năng lượng thủy linh nhu hòa xoa dịu, nó ngủ thiếp đi.

Liệt Dương thấy A Tệ đã ổn bèn biến lại nguyên hình, rúc vào giữa đám lá gà gật ngủ.

A Hành xách một xô tướng ăm ắp thuốc vừa sắc lại, bắt đầu bôi thuốc cho A Tệ.

Thiếu Hạo ngồi dưới bóng trăng, lặng lẽ gảy đàn. Tiếng đàn dịu dàng như ru, dẫn dắt linh lực trong mình A Tệ hấp thụ dược tính.

Bôi xong thuốc, A Hành rửa sạch tay rồi ngồi xuống bên Thiếu Hạo. Thiếu Hạo mỉm cười, tiếp tục gảy đàn.

Hoa phù tang đỏ rực như từng ngọn đèn lồng lung linh đầy cành, Thiếu Hạo vận bạch y ngồi dưới gốc cây, toát lên khí chất tao nhã vô song, đến nỗi ánh trăng lạnh lẽo rọi xuống người y cũng trở nên ấm áp. Vậy mà con người tài hoa xuất chúng, ý chí cao vời đó lại bị biếm đi tận cùng trời cuối đất canh giữ Thang cốc.

A Hành khẽ hỏi: “Thiếp nhớ hai trăm năm trước quan hệ giữa chàng và phụ vương đã có phần dịu lại, sao giờ thành ra thế này? Chàng làm gì mà phụ vương căm ghét chàng đến thế?”

Thiếu Hạo dừng tay gảy đàn: “Sau khi nàng rớt xuống Ngu uyên, Hậu Thổ đánh Chúc Dung trọng thương, Chúc Dung phải trốn vào cổ trận của Thần Nông. Dẹp được chướng ngại vật lớn nhất, Xi Vưu bắt đầu thả sức làm theo ý mình. Chắc nàng cũng nghe nói, hai trăm năm nay đã có mấy mươi gia tộc bị hắn diệt môn chứ? Dưới chính sách tàn khốc của hắn, chế độ cũ ở Thần Nông đã bị đánh đổ hoàn toàn. Thần Nông hiện giờ vô cùng thịnh vượng, ai ai cũng phát huy được sở trường. Nhìn Thần Nông biến đổi từng ngày, ta nhất thời nôn nóng, định dựa vào quân đội trong tay, cưỡng chế thúc đẩy Cao Tân cải cách. Nào ngờ bọn Yến Long lại gièm pha đơm đặt, khiến phụ vương đùng đùng nổi giận, cho rằng ta có lòng soán vị, cấm ta can dự vào việc triều chính, còn sai đi trấn giữ Thang cốc.”

“Chẳng phải Yến Long đã mất một cánh tay rồi sao?”

“Hắn mất một cánh tay, công lực suy giảm dần, nếu là người khác, hẳn cũng chẳng coi trọng kẻ tàn phế quá nửa như vậy nữa, nhưng phụ vương ta xưa nay nặng tình, lại càng thương Yến Long hơn cả khi xưa. Mấy năm gần đây, phụ vương thường nói với chúng thần, ‘Trong tất cả các con, Yến Long giống ta hồi trẻ nhất’, bọn họ hết thảy đều hiểu ý phụ vương.” Thiếu Hạo thở dài, mặt buồn hiu hắt, “Tính tình phụ vương dịu dàng đa cảm, thích xem mỹ nhân ca vũ, ham đọc thơ văn tài tử, quả thật ta không giống với phụ vương, khiến ngài rất thất vọng. Thêm nữa, hẳn phụ vương cũng biết Hiên Viên Bạt trong Thừa Hoa điện là giả nên chẳng coi ta ra gì.”

“Chàng cam lòng trấn giữ Thang cốc hoang vu này mãi mãi, đợi Yến Long đăng cơ ư?”

Thiếu Hạo khẽ cười, “Đương nhiên không rồi, ngày Yến Long đăng cơ chẳng những là ngày chết của ta, mà còn là ngày chết của cả Cao Tân tộc. Ta chết chỉ là việc nhỏ, nhưng quyết không thể để Cao Tân diệt tộc được!”

“Vậy chàng tính…”

Nụ cười của Thiếu Hạo thoáng vẻ lạnh lùng, “Ta định nhờ nàng giúp một việc.”

“Giúp việc gì cơ?”

“Cao Tân tộc đã có lịch sử mấy vạn năm, trải qua Bàn Cổ đại đế đến giờ, chuyện tranh đấu trong cung đình tiếp diễn liên miên nên thần khí nghiệm độc bao giờ cũng sẵn, chẳng chất độc nào lọt lưới được. Có lẽ chỉ có Thần Nông Thị nếm mọi loại cây cỏ, lấy thân thử độc mới có cách mà thôi. Bởi vậy ta muốn nhờ nàng phối chế giùm ta một loại thuốc có thể lọt qua mọi thần khí thẩm tra, không cần lấy mạng đối phương, chỉ cần khiến hắn dần dần mệt mỏi ốm yếu, phải nằm liệt giường là được.”

Hiểu ý Thiếu Hạo muốn ép Tuấn Đế thoái vị, A Hành làm thinh không nói.

Thiếu Hạo nói tiếp: “Ngũ Thần quân của phụ vương suốt ngàn năm nhàn hạ quen thân, chỉ còn cái vỏ bề ngoài, kỳ thực bên trong đã mục ruỗng từ lâu, chẳng có gì đáng ngại. Tuy Yến Long nắm hai bộ Thường Hy và Bạch Hổ, nhưng Thanh Long bộ huyết mạch của ta mới là bộ tộc thiện chiến nhất trong bốn bộ, nhờ Nặc Nại giúp sức, Hy Hòa bộ cũng hoàn toàn quy thuận ta rồi. Nếu muốn phát động binh biến không phải là không được, có điều ta chẳng muốn động vũ lực, bởi một khi binh biến xảy ra, đôi bên sẽ phải trở mặt sống mái với nhau cho tới khi một trong hai phe chết sạch mới thôi, như vậy dù ta có chấp nhận, những tướng quân theo ta mưu phản há yên lòng được ư? A Hành, ta không muốn làm hại phụ vương, đây chính là phương pháp vẹn cả đôi đàng đấy!”

Thiếu Hạo khẽ gảy mấy dây đàn, ánh mắt thăm thẳm bi thương: “Hơn hai ngàn năm nay, lúc nào phụ vương cũng nơm nớp đề phòng ta soán vị. Thật ra ta chưa hề nghĩ tới chuyện đó, chỉ một lòng một dạ muốn phò tá phụ vương, muốn làm một đứa con ngoan ngoãn, nào ngờ cuối cùng lại đến ngày này, tất cả trở thành sự thật! Có lẽ các sử quan đời sau sẽ ghi chép rằng ta là kẻ lòng lang dạ sói, nuôi chí làm phản, ủ mưu bao năm mới hành sự. Nếu sau này ta có con trai cũng chẳng biết phải giải thích thế nào với nó, có lẽ nó cũng vĩnh viễn không thể thông cảm cho ta. A Hành, thật lòng ta không muốn đi đến bước này, nhưng ta đã bị ép vào đường cùng rồi! Bọn Yên Long đẩy ta đến Thang cốc rồi vẫn chưa chịu buông tha, mấy năm nay chúng ngày đêm nghĩ cách làm tan rã Thanh Long bộ, nếu ta còn khoanh tay ngồi nhìn, những người một lòng một dạ đi theo ta sẽ bị Yến Long hại chết hết, sau cùng cả ta cũng không tránh khỏi cái chết!”

Nếu Thanh Long bộ tan rã thì dù Nặc Nại muốn giúp Thiếu Hạo, Hy Hòa bộ chắc chắn sẽ không ủng hộ một tên vương tử cầm chắc thất bại, để tự bảo vệ mình, bọn họ ắt sẽ quy thuận Yến Long. A Hành ngẫm nghĩ hồi lâu rồi dịu giọng: “Thiếp hiểu tình cảm của chàng mà, thôi, để thiếp giúp chàng!”

Dù cả thiên hạ không dung thứ, chỉ cần một người hiểu cho mình thôi cũng đủ. Nghe được câu nói này, nỗi đau thương trong lòng Thiếu Hạo cũng vơi đi nhiều, y bất giác nắm chặt tay nàng, “A Hành, đa tạ nàng! Ta thật lòng nghĩ…”

A Hành khẽ rút tay ra: “Chàng cần gì phải khách khí? Lẽ nào chàng quên giao ước giữa chúng ta lúc mới kết hôn rồi ư? Chúng ta là đồng minh, hôm nay thiếp giúp chàng, ngày sau chàng cũng phải giữ lời hứa của mình đấy.”

Thiếu Hạo vô cùng thông minh, vừa nghe liền phát hiện A Hành đã nhớ ra mọi chuyện, cũng hiểu ngay ý nàng, lòng cảm thấy vô cùng khó tả, nhưng y vẫn gắng giữ vẻ thản nhiên, thu tay vào trong áo, hờ hững hỏi: “Nàng nhớ ra tất cả rồi sao?”

“Ừm.” A Hành đỏ bừng mặt, áy náy do dự hồi lâu, như thể nghĩ ngợi gì đó, “Thiếp…” Thấy A Hành lúng túng, Thiếu Hạo liền mỉm cười, ôn tồn cắt lời nàng: “Ta sẽ giữ lời. Trời sáng đến nơi rồi, nàng ở đây lâu không tiện đâu, mau về nghĩ đi, để ta đi xem A Tệ thế nào.”

A Hành đi được một quãng, chợt quay lại nhìn, dưới ánh trăng, Thiếu Hạo ngồi xuống xếp bằng giữa rợp bóng hoa phù tang đỏ rực, đối mặt với bao la sóng biếc, bạch y phất phơ trong gió, tiếng đàn mạnh mẽ như đẽo vàng cắt ngọc, đầy hùng tâm tráng chí của kẻ sắp bước lên ngôi trị vì thiên hạ, nhưng cũng dằng dặc cô đơn lạc lõng.

Theo lời Thiếu Hạo, vương thất Cao Tân trải qua mấy vạn năm đấu đá lẫn nhau trong cung đình đã tích lũy được không ít kinh nghiệm, quy trình kiểm soát dược tính vô cùng chặt chẽ hoàn chỉnh, muốn chế ra một loại độc dược có thể lọt qua cửa thẩm tra lại chỉ vừa đủ khiến cho người ta ốm liệt thật chẳng dễ chút nào. A Hành lôi Thần Nông Bản Thảo Kinh ra đọc từ đầu đến cuối, từ cuối lên đầu, cuối cùng chỉ chế ra được một loại thuốc tương đối phù hợp với yêu cầu của Thiếu Hạo.

Nàng giao thuốc cho y, căn dặn: “Thuốc này chỉ có thể tạm coi là phù hợp với yêu cầu của chàng thôi, thành phần chủ yếu lấy từ máu A Tệ, nó sẽ hủy hoại linh lực của người trong Thần tộc từng chút một, giống như Ngu uyên vậy, khiến người ta dần dần bải hoải toàn thân, hành động bất tiện.”

Thiếu Hạo hỏi: “Có thuốc giải không?”

“Nó không phải là thuốc độc nên cũng không có giải dược. Chỉ cần ngừng hạ độc, dần dần thân thể sẽ tự hồi phục, người khỏe khoắn trở lại. Ta chế ra hai lọ, theo ý chàng.”

Thiếu Hạo cẩn thận cất thuốc đi: “Cảm ơn nàng.”

“Chúng ta là đồng minh, chỉ cần chàng nhớ giữ lời thề của mình là được.”

“Ta nhất định sẽ nhớ!”

Dưới sự sắp xếp của Thiếu Hạo, “bệnh tình” của A Hành bắt đầu thuyên giảm, mỗi lần thầy thuốc trong cung tới thăm mạch đều có lời chúc mừng hai người, theo đó, tin Đại vương tử phi đang khá dần lên cũng lan truyền khắp trong ngoài cung.

Tuy Thiếu Hạo thất thế nhưng A Hành vẫn là vương cơ duy nhất của Hiên Viên tộc, từ sau khi nàng khỏe lại, thiếp mời dự đủ các tiệc bắt đầu tới tấp theo nhau bay đến.

Nghĩ tới việc “Hiên Viên Bạt” trước đây đã nằm liệt giường hai trăm năm, A Hành cũng không dám ra vẻ khỏe như vâm ngay, hầu hết tiệc tùng nàng đều lấy cớ thân thể còn yếu để từ chối, nhưng có những buổi tiệc không thể không đi, bởi nàng nhất định phải chứng minh mình là Hiên Viên Bạt thật sự.

Thấy Tuấn Hậu tuyên triệu mình vào cung gặp mặt, A Hành hiểu ngay mình sắp bị kiểm chứng thân phận.

Nàng bèn trang điểm lộng lẫy, lên xe đi bái kiến Tuấn Hậu.

Xe đến cửa điện thì dừng lại, tên tùy tùng bên cạnh cười giải thích: “Vương tử phi vừa khỏi bệnh, vốn dĩ nên cho xe thẳng tiến thẳng vào trong điện để vương tử phi đỡ mệt, nhưng đây là quy củ, bề tôi đến cửa điện phải xuống xe đi bộ, hiện giờ Tuấn Đế chỉ ban cho mình Nhị điện hạ được ngồi xe vào tấn kiến thôi.”

Đám người hầu hạ trong cung luôn là những kẻ giỏi xét mặt đón ý, mềm nắn rắn buông nhất trên đời, A Hành lẽ nào không hiểu ý bọn chúng. Xem ra Tuấn Đế rất căm ghét Thiếu Hạo, đến nỗi ghét lây sang cả con dâu. Nàng bèn cười nhạt bước xuống xe: “Bao năm nay ta không đến thỉnh an mẫu hậu được, quả thật chưa tròn đạo hiếu, xuống xe đi bộ vào là phải lẽ thôi.”

Cả tòa cung điện rộng mênh mông, choán gần hết ngọn núi, A Hành lại muốn chóng xong nên rảo bước đi thật mau. Đến vườn Y Thanh, vẫn chưa thấy Tuấn Hậu ở đó, chỉ nghe đám thị nữ bẩm: “Tuấn Hậu đang rửa mặt chải đầu, xin vương tử phi đợi một lát.”

Cao Tân nằm về phía Đông Nam, khí hậu ôn hòa, mùa đông ấm áp chẳng kém tiết xuân ở những nước phương Bắc, còn mùa hạ lại nóng nực oi nồng. Tuy nhiên Ngũ Thần sơn nằm giữa biển, gió biển thổi vào xua tan phần nào cái nóng nên không tới nỗi nóng nực lắm, thêm vào đó, cung điện ở đây cũng được thiết kế theo phong cách kiến trúc Cao Tân để tránh nóng.

Phỏng theo lối thiết kế đó, khắp nơi trong vườn Y Thanh đều xum xuê cây cối, nhan nhản ao hồ, hoặc thác nước, hoặc khe suối, quanh co uốn lượn, lăn tăn dập dềnh, nhỏ thì không tới một thước, lớn thì đủ để chèo thuyền.

A Hành đợi đến phát chán, trong thấy trong vườn không có ai, bèn men theo dòng suối lững thững đi vào.

Càng đi sâu vào trong, phong cảnh càng thêm đẹp, hai bên là suối chảy róc rách, thế núi uốn lượn, trúc xanh tùng biếc, cây cối um tùm, dăm ba cánh hạc tiên lội dưới suối kiếm ăn, dáng dấp tiêu sái, nhìn thấy A Hành cũng chẳng hề hoảng hốt.

Sâu trong bờ nước là một rừng trúc xanh biêng biếc, trùng trùng điệp điệp, thấp thoáng bóng nam tử bạch y nửa nằm nửa ngồi tựa lưng vào tảng đá say sưa ngủ, cuốn sách lụa phủ trên mặt. Dưới con suối cách đó không xa, hai cặp uyên ương đang bơi qua bơi lại giỡn nước, quấn quýt sánh đôi, nhởn nhơ thoải mái.

A Hành toan trở gót quay lui nhưng chẳng kịp, nam tử kia đã tỉnh giấc nhỏm người dậy, cuốn sách trên mặt rơi xuống để lộ dung mạo thanh nhã, khí độ xuất trần, dưới bóng trúc mờ mờ, quang âm dào dạt, chẳng khác nào ẩn giả trong núi.

Nhận ra Thiếu Hạo, A Hành tươi cười tiến lại.

Nam tử kia lơ mơ hé mắt nhìn, vẻ mặt bực bội ra mặt vì mất giấc mộng đẹp. Nhìn nghiêng người này giống Thiếu Hạo như đúc, nhưng A Hành lập tức nhận ra ông ta không phải Thiếu Hạo! Thiếu Hạo chưa bao giờ giận ra mặt, nhất định cũng chẳng bao giờ bực bội vì những chuyện nhỏ thế này.

Nghe tiếng bước chân, nam tử kia liền quay lại, tuy dung mạo người đó rất giống Thiếu Hạo nhưng khí chất đôi bên khác hẳn nhau, nam tử này chỉ có vẻ dịu dàng tình tứ như nước, thiếu nét cứng rắn trầm ổn tựa như núi của Thiếu Hạo.

A Hành vội quỳ xuống thỉnh an, “Phụ vương.”

Tuấn Đế nhìn nàng, trầm ngâm một thoáng mới nhận ra, “Sao con lại đến đây?”

A Hành không biết Tuấn Hậu triệu mình vào cung có việc gì nên chẳng dám nói bừa: “Nhi thần tiến cung bái kiến mẫu hậu nhưng người đang bận việc, thấy phong cảnh bên suối đẹp quá, nhi thần bèn tản bộ ngắm cảnh, nào ngờ lại kinh động phụ vương, xin phụ vương xá tội.”

Tuấn Đế hỏi: “Cảnh đẹp ư? Đẹp thế nào? Nếu con trả lời được thì miễn tội, bằng không ta cũng trị luôn Thiếu Hạo tội bất kính, cùng với con.”

A Hành cười đáp: “Tâu phụ vương, vườn này tên Y Thanh, chỉ riêng cái tên đã lột tả hết vẻ đẹp của cảnh sắc nơi đây rồi. Quả là ‘gió nhẹ mưa phùn nào rát mặt, ấm mềm vạt áo lúc oi nồng.’”

Tuấn Đế điềm đạm nói: “Tên vườn này do ta đặt, con đã thích nơi này, ta sẽ dẫn con đi dạo một vòng. Bốn chữ ‘gió nhẹ mưa phùn’ thoạt nghe rất đơn giản nhưng người thật sự hiểu được chẳng có mấy ai, con người ta có khi nào chịu bình thản tĩnh tâm mà thưởng thức cảnh sắc đâu.”

A Hành theo Tuấn Đế cùng tản bộ ngắm cảnh, vừa đi Tuấn Đế vừa chỉ cảnh trí, giảng giải cho nàng nghe hết lai lịch từng hòn đá khóm hoa nơi đây. Từ nhỏ, nàng lớn lên cùng vị Tứ ca thông hiểu thơ từ ca múa, chim cá lá hoa, nên mấy thú chơi đó nàng cũng chẳng kém ai, về sau lại học được Thần Nông Bản Thảo Kinh, cực kỳ tinh thông các loại hoa thơm cỏ lạ, đôi bên càng thảo luận, nàng càng hợp chuyện với Tuấn Đế, khiến ông mừng như bắt được tri âm.

Đột nhiên Tuấn Đế bất ngờ hỏi: “Sao con bệnh suốt hai trăm năm thế?”

Vấn đề này Thiếu Hạo đã dặn nàng kỹ cách trả lời, nhưng giờ đây, đối diện với con người ôn tồn hòa nhã, chẳng hề giống một vị đế vương, A Hành lại không sao nói nên câu được. Im lặng càng lâu, nàng càng lúng túng chẳng biết phải trả lời như thế nào cho phải, lý do mà Thiếu Hạo sắp sẵn cũng không thể áp dụng được nữa, A Hành cứ bồn chồn bứt rứt nghĩ cách đến nỗi lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi.

Thấy nàng không trả lời, Tuấn Đế chẳng những không bắt lỗi mà ngược lại còn tỏ ra vui mừng, mỉm cười nói: “Cũng nực cười thật, vương thất Cao Tân xưa nay xem trọng lễ nghi, ưa thích những thứ đẹp đẽ thanh tao, ta lại là nhân tài kiệt xuất trong số đó, từ nhỏ đã lấy làm tự phụ về dung mạo tài hoa của mình, bất luận một khóm hoa hay một người con gái đều yêu cầu phải thật hoàn mỹ, thậm chí còn xem mặt đặt tên quần thần, ưu ái những kẻ bề ngoài xuất chúng, lời nói lịch thiệp. Trong tất cả các con trai, ngoại hình Thiếu Hạo giống ta nhất, vừa ra đời lại mất mẹ nên ta luôn yêu thương nó, giữ nó bên mình, gần như cầm tay chỉ dạy cho nó mọi thứ, tiếc rằng càng lớn nó càng trở nên xa lạ. Con với nó…” Tuấn Đế lắc đầu, “không hợp nhau chút nào.”

A Hành vừa kinh ngạc vừa sợ hãi đến cứng đờ cả người, mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa.

Tuấn Đế khẽ thở dài, vẻ mặt chất chứa sầu muộn, “Nhưng trong vương thất có được mấy cặp vợ chồng hòa hợp với nhau đâu? Hầu hết đều là người lừa ta, ta gạt người, lấy hạnh phúc giả tạo che mắt người đời vậy thôi.”

Bấy giờ A Hành mới dám thở phào nhẹ nhõm, khôi phục tri giác.

Tuấn Đế ngồi xuống phiến đá bên bờ suối, “Gần đây chẳng hiểu sao ta hay bị mệt đột ngột, người ngợm bải hoải, chẳng có sức lực gì cả.” Đoạn ông chỉ phiến đá đối diện, “Con cũng ngồi xuống đi!”

Hai ả thị nữ từ đâu hớt hải chạy đến, vẻ mặt hoảng hốt quỳ xuống thỉnh tội với Tuấn Đế: “Tuấn Hậu đang đợi vương tử phi, nô tỳ đi tìm mấy vòng mà chẳng thấy, không ngờ vương tử phi lại đi cùng bệ hạ.”

A Hành vội hành lễ với Tuấn Đế xin cáo lui, Tuấn Đế gật gật đầu, tỏ ý cho phép.

Đi một quãng xa, A Hành mới dám len lén ngoảnh lại, thấy Tuấn Đế vẫn ngồi lặng bên dòng suối, ngơ ngẩn đối diện với bóng mình dưới nước.

Tuấn Hậu vừa trong thấy A Hành đã vồn vã thân mật, một mực giữ nàng lại đến tối để dự tiệc.

Tiệc tối có đông đủ tất cả vương tử phi và vương cơ, ai nấy đều mượn lối đùa cợt nô giỡn giữa đám phụ nữ khuê phòng để thăm dò xem Hiên Viên Bạt là thật hay giả.

Hiên Viên Bạt vốn là vàng thật, đương nhiên không sợ lửa, hễ binh đến tướng ngăn, nước lên đất chặn.

Yến tiệc còn huyên náo đến nửa đêm, tới giờ đóng cửa cung mới giải tán.

Hiên Viên Bạt vừa ra khỏi cửa điện, thị vệ đã tươi cười đánh xe đến.

Nàng thoáng ngạc nhiên bèn vén rèm lên nhìn, thấy Thiếu Hạo ngồi bên trong bèn nhảy lên xe, “Sao chàng lại đến đây?”

Y đáp: “Nàng đi suốt cả ngày, ta không yên tâm.”

“Mẫu hậu thăm dò cả ngày nay, hẳn đã tin thiếp chính là Hiên Viên Bạt rồi. À phải, hôm nay thiếp gặp phụ vương.”

“Phụ vương khỏe không?”

“Phụ vương dắt thiếp đi ngắm hoa lan ngài trồng, thiếp nức nở khen ngài mát tay trồng lan, thoạt đầu ngài còn tưởng thiếp nịnh hót, về sau nghe thiếp phân tích rành rọt nguyên do, ngài có vẻ vui lắm. Thiếp cùng phụ vương đi tản bộ một quãng, ngài bắt đầu thấm mệt, thiếp…” A Hành ngập ngừng, vẻ mặt buồn bã, “Thiếp thấy rất áy náy, phụ vương không phải người xấu, thậm chí ngài ấy còn tốt hơn rất nhiều, rất nhiều người…”

Thiếu Hạo thuyết phục nàng: “Phụ vương là công tử phong lưu nhàn tản, chỉ thích thưởng thức thư họa ca múa, bình phẩm chim cá lá hoa, cuộc sống của ngài sau này vẫn sẽ được giữ nguyên như bây giờ mà.”

Sẽ giữ nguyên được thật ư? Mong là thế! A Hành làm thinh không nói nữa, Thiếu Hạo cũng nín lặng ngồi yên.

Xe về đến cổng Thừa Hoa điện, A Hành tưởng Thiếu Hạo sẽ âm thầm trở về Thang cốc, nào ngờ y đột nhiên nói: “Tối nay nàng có khách quý tới thăm, ta không tiện vào cùng. Nàng cứ đi vào bình thường, đến hoa phòng đợi ta. Ta sẽ lặng lẽ lẻn vào phủ rồi tới hoa phòng gặp nàng.” Nhớ khi xưa, vì A Hành thích trồng hoa tỉa lá nên Thiếu Hạo đã xây dựng hoa phòng này cho riêng nàng, kẻ không biết chỉ cho là hành vi xa hoa vung tiền lấy lòng vợ đẹp, kỳ thực bên trong được Nặc Nại thiết kế đủ mọi loại cơ quan, có thể nói, đây chính là mật thất để Thiếu Hạo bàn bạc những việc quan trọng, tránh tai mắt người đời.

A Hành cười khổ não, Thiếu Hạo quả thật đã bị Yến Long và Tuấn Đế ép tới đường cùng, đến nỗi phủ đệ của chính mình mà cũng chẳng được đàng hoàng bước vào, phải lén lén lút lút như kẻ trộm. Nàng rầu rĩ hỏi: “Ở Cao Tân, thiếp có thể có khách quý gì đây?”

Thiếu Hạo cười bí ẩn, “Đợi đến lúc nàng sẽ biết.”

A Hành trở về phòng thay y phục tắm rửa rồi thong thả ăn chút đồ lót dạ, xong xuôi mới xách lẵng hoa và kéo, lấy cớ muốn cắt vài đóa hoa tươi đặt bên giường cho dễ ngủ, lững thững đi tới hoa phòng.

Một cô gái lạ mặt, dung mạo thanh tú, dịu dàng diễm lệ đang đứng trong bóng tối hoa phòng, thấy nàng bước vào liền tiến lại hành lễ: “Nô tỳ tên gọi Khấp Nữ, là thị nữ của Nặc Nại tướng quân. Nặc Nại tướng quân đang đợi Vương tử phi.”

Té ra là y! A Hành gật đầu. Khấp Nữ liền xăng xái đi trước dẫn đường, trông có vẻ thông thuộc các cơ quan ở đây hơn cả vị chủ nhân này, xem ra Nặc Nại rất tin tưởng ả. Thấy A Hành âm thầm quan sát mình, Khấp Nữ ngoảnh lại cười: “Nghe tên nô tỳ vương tử phi thấy lạ phải không? Cha nô tỳ một lòng muốn có con trai, nhưng trong nhà lại sinh tất cả chín chị em gái, đến nô tỳ là đứa thứ mười, cha suýt nữa định vứt nô tỳ đi, ngay đến cái tên cũng không buồn đặt. Nô tỳ chẳng được ăn no, ngày đêm cứ khóc lóc nhèo nhẹo, mọi người đều gọi nô tỳ là Khấp Nữ. Hai trăm năm trước, không chịu nổi ngược đãi, nô tì bèn bỏ trốn khỏi nhà, may sao lúc bệnh nặng sắp chết thì gặp được Nặc Nại tướng quân, mới có chỗ nương nhờ. Bởi nô tỳ là nữ tử, không gây chú ý nên lâu nay nô tỳ thường xuyên yểm trợ cho tướng quân tới đây gặp Đại điện hạ.”

A Hành khen ngợi: “Nặc Nại tướng quân là nhân tài xuất chúng, nay thị nữ của y cũng là vạn người chọn một.”

Khấp Nữ dịu dàng cười, mở cửa cho A Hành: “Tướng quân đang đợi bên trong, mời vương tử phi vào, nô tỳ sẽ đứng ngoài.”

Hai người ngồi trong phòng nghe tiếng động đều đứng cả dậy, một kẻ chính là Nặc Nại dung mạo tuấn tú, phong thái phiêu dật, người kia chính là một nữ tử dung mạo bình thường, trông thấy A Hành, nàng liền gỡ mặt nạ bằng nhân diện tằm xuống.

“Vân Tang tỷ tỷ!” Nhận ra Vân Tang, A Hành reo lên mừng rỡ, nhào tới ôm chặt lấy nàng.

Vân Tang rưng rưng nước mắt, xem ra còn kích động hơn cả A Hành, “Muội không biết bao năm qua ta khổ sở chừng nào đâu.”

“Hiện giờ muội đã bình an vô sự rồi mà.”

Vân Tang nắm chặt lấy tay nàng, chăm chú nhìn A Hành từ đầu đến chân, cười nói: “Đúng là muội rồi, ta phải viết thư ngay cho Hậu Thổ để hắn khỏi áy náy buồn rầu nữa, bao năm nay tên ngốc đó cứ dằn vặt mình không thôi.”

A Hành ngẩn người một thoáng mới hiểu ra: “Tỷ cho muội gửi lời hỏi thăm hắn nhé,” đoạn cười hỏi tiếp: “Sao tỷ tỷ lại đến đây?”

Vân Tang đỏ bừng mặt khẽ thì thào: “Ta đã ở Cao Tân một thời gian rồi.”

A Hành nghe nói liền nhìn sang Nặc Nại, mím môi nén cười. Vân Tang gắng lấy lại bình tĩnh nói tiếp: “Trên Tử Kim đỉnh, tên khốn Xi Vưu bắt ta thề không can dự vào triều chính nữa, bằng không sẽ chết chẳng toàn thây! Ta ở lại Thần Nông cũng chẳng có việc gì làm, tới Cao Tân thăm thú thì có vấn đề gì chứ?”

A Hành xua tay, “Không có gì, không có gì.”

Nặc Nại bước lên hành lễ với nàng, “Hôm nay tôi đưa Vân Tang tới đây một là để nàng tận mắt thấy vương tử phi, từ rày yên lòng khỏi lo lắng, hai là muốn cầu xin vương tử phi một việc.”

Vân Tang liền nói: “Ta đi xem sao mãi Thiếu Hạo chưa tới.” Nói rồi nàng vội vã đeo mặt nạ lên, rời khỏi mật thất.

Nặc Nại mời nàng ngồi xuống, thong thả nói: “Vương tử phi chớ thấy Vân Tang chửi rủa Xi Vưu mà lầm, thật ra trong lòng nàng biết rõ, Xi Vưu là muốn tốt cho nàng. Chúc Dung bất ngờ bế quan, Xi Vưu không còn trở ngại gì, lập tức thực hiện cải cách. Nhờ phương pháp cứng rắn của hắn, mấy chục năm trước Thần Nông đã ổn định cục thế. Có điều Vân Tang giờ đây chỉ còn lại Viêm Đế là ruột rà máu mủ, vương tử phi biết tính nàng rồi đó, nàng làm đại tỷ đã quen, chuyện gì cũng không yên tâm, chuyện gì cũng lo lắng, chỉ mãi nghĩ cho người khác mà quên cả bản thân mình, dù tôi có khuyên thế nào nàng cùng không đành lòng bỏ rơi Viêm Đế, lại thêm Cộng Công và Hậu Thổ cứ tới tìm Vân Tang nhờ giúp đỡ. Hết cách, ta đành tới nhờ Xi Vưu, nói rõ tình cảm của ta dành cho Vân Tang, hy vọng Vân Tang có thể yên lòng mà sống. Xi Vưu thật không hổ là đại trượng phu! Hắn chẳng nể nang tiếng vong ân phụ nghĩa, buộc Vân Tang phải thề độc không được tham gia triều chính. Nhìn bề ngoài làm vậy có vẻ tàn nhẫn vô tình, nhưng thực ra đó là vì muốn tốt cho Vân Tang, vừa buộc nàng dứt ra, vừa khiến bọn Hậu Thổ thấy Vân Tang không còn giá trị lợi dụng, để chúng khỏi kéo nàng vào vòng tranh đấu quyền lực nữa.”

Nặc Nại thở phào cười: “Bây giờ tôi liền ép Vân Tang tới Cao Tân.”

A Hành hỏi lại: “Ép ư? Ta thấy Vân Tang tỷ tỷ rất vui, e rằng đã vui quên đường về rồi!”

Nặc Nại tràn trề hạnh phúc, hành lễ với nàng, “Vân Tang đã đồng ý gả cho tôi, phiền vương tử phi tác thành.”

“Ta dĩ nhiên bằng lòng, nhưng việc này chẳng phải tướng quân nên đi nhờ Thiếu Hạo hơn ư?”

Thiếu Hạo cùng Vân Tang một trước một sau tiến vào, nghe nàng nói, y bật cười đáp: “Chuyện này nàng giúp được nhiều hơn ta đấy.”

Nặc Nại đỡ lời: “Hiện giờ điện hạ đang phải trấn giữ Thang cốc, cả năm cũng khó mà giáp mặt Tuấn Đế một lần. Nếu điện hạ có ý bái kiến Tuấn Đế xin ban hôn, lại thêm thân phận đặc biệt của Vân Tang, e rằng sẽ khiến Tuấn Đế sinh lòng nghi kỵ. Nhưng vương tử phi lại khác, lúc nào vương tử phi cũng có thể vào cung. Tuấn Đế thích thơ từ ca phú, ham nuôi trồng các loại kỳ hoa dị thảo, mà luận về thơ từ ca phú trong thiên hạ không ai hơn được Xương Ý, hiểu biết về kỳ hoa dị thảo, trên đời cũng chẳng ai bì được Viêm Đế đời trước. Vương tử phi là kẻ duy nhất trong thiên hạ kế thừa được sở trường cả của hai người, hơn hai trăm năm trước, Tuấn Đế đã có thiện cảm với vương tử phi, thậm chí vì thế mà tử tế hơn với điện hạ. Chỉ cần vương tử phi lựa lúc thích hợp, nói giùm tôi và Vân Tang mấy lời trước mặt Tuấn Đế, với bản tính đa tình của ngài, hẳn sẽ lập tức phê chuẩn.”

“Hóa ra là thế.” A Hành nghĩ ngợi một lát rồi cười: “Dạo trước, trên đường từ Hiên Viên về Cao Tân, ta tìm được mấy giỏ lan hiếm có, cũng vừa mới vun xới cho ra dáng, ngày kia ta sẽ vào cung dâng phụ vương.”

Nặc Nại mừng rỡ, cảm ơn luôn miệng, “Đa tạ, đa tạ vương tử phi.”

Thiếu Hạo cười bảo: “Đều là người nhà cả, cần gì giữ lễ như thế? Đợi hai người thành hôn, cả hai kính A Hành mấy chung rượu là được mà.”

Vân Tang cúi đầu ngồi im trong góc phòng, mặt đỏ bừng vì thẹn. A Hành cười nắc nẻ, chợt liếc qua cánh cửa khép hờ, trông thấy Khấp Nữ đứng giữa bóng tối bên ngoài đang chòng chọc nhìn Vân Tang, ánh mắt vừa ghen tỵ vừa buồn bã, vô cùng phức tạp. Phát hiện ra A Hành đang nhìn mình, ả liền gượng cười hành lễ rồi khép cửa lại.

Như Nặc Nại dự liệu, A Hành vốn tinh thông thơ từ ca phú, trồng cỏ chăm hoa, rất tương đắc với Tuấn Đế. Thêm vào đó nàng lại cố ý lấy lòng nên chưa đầy một tháng, đã được Tuấn Đế cưng chiều yêu quý hơn cả con gái.

Một hôm, A Hành mượn cớ tán thưởng bức họa uyên ương hồ điệp rồi khéo léo liên hệ sang mối tình của Nặc Nại và Vân Tang, vì thân phận khác biệt mà phải chịu bao đau khổ, cầu xin Tuấn Đế thành toàn cho hai người. Nghe nói chàng có tình, thiếp có ý, Tuấn Đế chẳng những không coi là ngỗ nghịch mà còn tươi cười cho phép bọn họ thành hôn.

A hành vui mừng, vội quỳ xuống lạy tạ. Tuấn Đế chỉ cười bảo: “Trời cao luôn muốn tác thành cho uyên ương chắp cánh, hồ điệp cùng bay, tuy ta không dám bì với trời nhưng cũng rất mong người có tình trong thiên hạ đều được thành đôi lứa. Nếu ai ai cũng hạnh phúc, hẳn thế gian sẽ bớt được ít nhiều phân tranh.”

Đột nhiên A Hành thấy bứt rứt khôn tả, chẳng rõ mình giúp Thiếu Hạo hạ độc con người ôn hòa đa tình này liệu có đúng chăng? Nhưng nếu không giúp, Thiếu Hạo nay đã bị dồn vào chân tường, hẳn sẽ phát động binh biến, e rằng giang sơn lại một phen máu chảy thành sông, thây phơi đầy nội. Nàng đành tự nhủ rằng Thiếu Hạo ắt sẽ không hại chết Tuấn Đế, nhằm nén nỗi day dứt trong lòng xuống.

Sau khi về phủ, A Hành lập tức viết thư báo tin mừng với Nặc Nại và Vân Tang. Theo “kế hoạch tuyệt mật” của Thiếu Hạo, Nặc Nại đã bị phái đến biên cương, trấn thủ Hy Hòa bộ, một là để kiềm chế Bạch Hổ bộ, hai là phòng khi trong nước có biến, các nước láng giềng thừa nước đục thả câu, dẫn quân xâm phạm. Bởi thế Nặc Nại và Vân Tang đều không ở kinh đô.

Cuối thư, A Hành phân vân giây lát rồi viết thêm một đoạn. Khấp Nữ sớm chiều hầu hạ bên Nặc Nại suốt hai trăm năm, e rằng đã sớm nảy sinh tình cảm với y, tuy chẳng ngại ả gây bất lợi gì cho Vân Tang, nhưng nảy sinh tình thế hiện giờ đối với cả hai người đều không ổn, hy vọng Nặc Nại lưu ý xử lý chuyện này cho thỏa đáng.

Thư phúc đáp của Nặc Nại khiến A Hành rất yên tâm. Vì Vân Tang, cũng là để báo đáp lòng trung thành của Khấp Nữ hai trăm năm nay, y sẽ sắp xếp ổn thỏa cho Khấp Nữ trước khi thành hôn. Y định nhận Khấp Nữ làm muội muội, chọn cho ả một người chồng ưu tú. Nếu tạm thời ả chưa muốn lấy chồng, y sẽ đưa Khấp Nữ về bầu bạn với mẹ mình, chờ ả tìm được người vừa ý.

Hôn sự của Nặc Nại và Vân Tang đã chính thức công bố. Tuy Vân Tang hạ giá lấy Nặc Nại hết sức sức đột ngột, nhưng được sự đồng ý của hai vị đế vương Tuấn Đế và Viêm Đế, mọi chuyện đều trở nên danh chính ngôn thuận.

Nặc Nại tự mình tới Thần Nông sơn định ngày thành hôn với Viêm Đế. Theo kế hoạch, vào mùa xuân sang năm, khi muôn hoa đua sắc, y sẽ tới rước dâu.

Cuối năm, Tuấn Đế trở nên bệnh nặng, không gánh vác nỗi việc triều chính, bèn ủy thác mọi việc cho Yến Long xử lý thay, thấy vậy cả triều đình đều cho rằng đã tìm được nơi gửi gắm lòng trung. Nhưng trong tiệc tiên năm cũ mừng năm mới, Tuấn Đế lại than nhớ con, truyền triệu Thiếu Hạo bị biếm đi trấn thủ Thang cốc trở về.

Thiếu Hạo vừa về đến Ngũ Thần sơn, Tuấn Đế liền cho tuyên triệu ngay lập tức, ân cần dặn dò đủ điều, hai cha con trò chuyện suốt cả buổi chiều.

Thấy vậy, các triều thần lại càng hồ đồ, không sao đoán nổi ý Tuấn Đế. Thật ra, mọi chuyện đều bắt nguồn từ lòng nghi kỵ của đế vương mà thôi. Tuấn Đế rất yêu thương Yến Long, định sau khi qua đời sẽ truyền ngôi cho hắn. Có điều giờ đây ông mới mang bệnh chứ chưa qua đời, tạm thời phải giao việc triều chính lại cho Yến Long, nhưng lại lo Yến Long thừa cơ tước đoạt quyền lực của mình, bèn cho triệu kẻ đối đầu với Yến Long là Thiếu Hạo về kinh, để y kiềm chế Yến Long.

Tiếc rằng hai đứa con của Tuấn Đế đều đã trưởng thành, đâu còn là đứa con nhỏ bi bô học nói, đương nhiên không chịu làm quân cờ cho cha sắp xếp.

Dưới sự hỗ trợ của Tuấn Hậu, Yến Long bèn nhân cơ hội này dốc toàn lực khuếch trương thế lực bản thân, ra sức thay đổi quan lại trong triều.

Thiếu Hạo rời xa Ngũ Thần sơn đã quá lâu nên chẳng có mấy quan hệ với quan viên trong triều, không biết phải làm sao, đành án binh bất động.

Hơn ba tháng sau, khi ngọn gió xuân hây hẩy dạo khắp Giang Nam, chính là mùa đẹp nhất trong năm của Cao Tân, nơi nơi mịt mù mưa bụi, hoa thơm đua sắc, oanh hót én bay.

Tuấn Đế được tiến cống một chậu mỹ nhân đào, hết sức vui mừng thích thú, hệt như trẻ nhỏ được quà, chỉ lăm le muốn đem khoe với bạn, lập tức sai người tới truyền A Hành vào cung, khoe với nàng cây đào trong đình viện.

A Hành nghi hoặc hỏi: “Đây là loại hoa đào cánh kép nhưng sắc hoa lại màu phấn hồng, có phải bích đào không ạ?”

Tuấn Đế cười thành tiếng, tựa mình vào chiếc gối nền trắng hoa xanh, rủ rỉ giảng: “Con vừa thấy hoa cánh khép hiếm gặp, lại có màu phấn hồng đã đoán ngay là bích đào, không phải đâu. Tuy hoa đào cánh kép rất hiếm nhưng còn chia ra làm mười loại, có loại màu hồng, màu trắng, màu phấn hồng, hồng trắng đan xen, nên trắng đốm đỗ, bông lớn bông bé khác nhau, dựa theo màu sắc và hình dáng mà đặt tên, có uyên ương đào, thọ tinh đào, nhật nguyệt đào, thụy tiên đào, mỹ nhân đào…”

Tuấn Đế đang hào hứng giảng giải, thấy Thiếu Hạo lững thững lại gần, ngạc nhiên cười hỏi: “Sao chẳng nghe tùy tùng thông báo là con tới? Đến rồi thì lại đây cùng ngắm gốc đào quý này với ta.”

Thiếu Hạo quỳ xuống dập đầu, dâng lên Tuấn Đế một bản tấu chương liệt kê mọi hành vi của Yến Long trong thời gian gần đây, nghiêm trọng nhất là hắn dám thay đổi cả thị vệ canh giữ cung đình, điều mà các đế vương xưa nay vẫn kiêng kỵ nhất.

Sắc mặt Tuấn Đế càng lúc càng khó coi, ông giận dữ thét gọi nô tài, toan sai bọn chúng lập tức tuyên triệu Yến Long, nhưng gọi mãi chẳng thấy tên nào chạy vào.

Cảm thấy không ổn, Tuấn Đế trừng mắt nhìn Thiếu Hạo, “Thị vệ đâu cả rồi? Ngươi định làm gì đây?”

Thiếu Hạo liền tâu: “Nhi thần đã theo lời căn dặn của phụ vương, nghĩ giùm Người một đạo ý chỉ. Yến Long câu kết với Tuấn Hậu, ý đồ làm loạn, cộng tất cả tội chứng lên tới một trăm mười mấy tội, chứng cứ như núi. Phụ vương đã quyết định giam cầm Yến Long, phế bỏ Tuấn Hậu.”

Tuấn Đế tái mặt, ánh mặt sắc lạnh như dao: “Quyết định của ta ư?”

“Vâng, là quyết định của phụ vương!” Thiếu Hạo bình tĩnh đáp, vẻ kiên định. Ánh mắt sắc như dao của Tuấn Đế gặp phải khí thế cứng rắn trầm ổn của y, lập tức tiêu tan.

Tuấn Đế uất ức gầm lên, nhưng dù thét lớn đến đâu cũng chẳng tên thị vệ nào tiến vào. Ông sực hiểu Thiếu Hạo đã khống chế cả cung điện rồi.

Tuấn Đế trợn trừng mắt nhìn Thiếu Hạo, y cũng lặng lẽ nhìn ông.

Bầu không khí trong phòng yên ắng tới nỗi có thể nghe thấy tiếng thở dốc của ba con người với bao giằng xé nội tâm.

Một hồi lâu, ánh mắt Tuấn Đế từ từ chuyển sang A Hành, nàng vội cúi đầu, không dám nhìn thẳng vào mắt ông. Tuấn Đế khẽ hỏi: “Con có biết không?”

A Hành không sao trả lời được, Thiếu Hạo đành phải đáp thay: “Nàng không biết.”

Tuấn Đế gật đầu cười: “Vậy thì tốt, coi như không phụ gốc đào này.”

Thiếu Hạo trải một vuông lụa trắng tinh ra trước mặt Tuấn Đế: “Xin phụ vương hạ chỉ.”

Tuấn Đế vung bút một lượt, tuyên bố phế bỏ Tuấn Hậu, giam cầm Yến Long, đoạn cầm cả bút lẫn lụa ném vào mặt Thiếu Hạo: “Đem đi ngay!”

Ngọn bút chưa khô vẩy đầy mực lấm lem lên mặt lên người Thiếu Hạo, y lặng lẽ lau sạch mực trên mặt mình, âm thầm nhặt mảnh lụa lên, trao cho viên tướng đứng hầu ngoài rèm.

Một đội thị vệ bước vào, đều là những gương mặt lạ hoắc.

Thiếu Hạo bẩm: “Mời phụ vương dời đến Kỳ viên để tiện tĩnh dưỡng.”

Tuấn Đế giận đến run bắn người lên: “Ngươi nôn nóng đến thế ư?”

Thiếu Hạo mặt lạnh tanh, khom lưng đáp: “Nhi thần kính mời phụ vương dời giá.”

Bi ai và phẫn nộ đồng loạt cuộn lên trong lòng Tuấn Đế. Biết cục thế đã không sao cứu vãn nỗi, ông hít sâu mấy hơi, bất lực ra lệnh: “Đi thôi!”

Đám thị vệ lập tức tiến lại vực Tuấn Đế ngồi lên ngai. Tuấn Đế nhắm nghiền mắt, chẳng nói chẳng rằng.

Dưới sự “hộ tống” của hơn trăm tên thị vệ, cả đám người rầm rộ bay về phía Tiệm Châu phong, ngọn núi nằm về cực Đông của Ngũ Thần sơn. Từ đây muốn liên lạc với đất liền phải vượt qua bốn đỉnh núi khác trong Ngũ Thần sơn, nên các đời đế vương đều thu xếp cho huynh đệ hoặc thái hậu bất hòa với mình tới đây ở, cũng là một hình thức giam cầm biến tướng.

Thiếu Hạo đứng bên ngoài điện, dõi mắt nhìn theo đoàn người khuất bóng cuối chân trời.

Y ngoảnh đầu, bắt gặp A Hành đang đứng lặng dưới gốc đào, hoa hồng mặt ngọc chiếu rọi lẫn nhau, nhưng ánh mắt nàng lại lạnh buốt như băng giá.

A Hành hỏi: “Gốc đào này là chàng sai người dâng lên phụ vương phải không? Chàng thừa biết phụ vương có được trân phẩm, nhất định sẽ cùng thiếp thưởng thức mà.” Nàng biết sớm muộn gì Thiếu Hạo cũng sẽ ra tay, nhưng chẳng ngờ lại là hôm nay, càng không nghĩ y lại lợi dụng mình để phân tán sự chú ý của Tuấn Đế.

Thiếu Hạo lặng người ngắm gốc đào nở hoa rực rỡ.

Tiếng phụ nữ khóc than văng vẳng vọng lại, xem ra các vị tướng sĩ đang di dời hậu cung của phụ vương.

Tuấn Đế vốn ưa đàn sáo sênh ca nên các nữ tử trong hậu cung đều hát hay đàn giỏi, bất cứ khi nào đi ngang đều nghe văng vẳng tiếng trúc tơ hòa cùng giọng ca cao vút. Khắp điện nhan nhản kỳ hoa dị thảo được vun trồng kỹ lưỡng, mỗi khi có gió, hương hoa thơm ngát cả điện, dẫu lặng gió, trong điện vẫn phảng phất một mùi hương thầm lặng. Ai ai bước vào tòa cung điện nguy nga lộng lẫy này đều hoa mắt mê mẩn, đến nỗi vương tử Thần Nông quốc năm đó đến Thừa Ân cung một lần mà không sao quên nổi, bèn giật dây Viêm Đế đời thứ bảy tấn công Cao Tân quốc.

Suốt từ sáng sớm, các cung nhân cũ, kẻ bị giết người bị giam, mười phần đã giảm bớt đến bảy tám. Còn một nhóm cận thần cung phi cuối cùng, hoặc bị xử tử, hoặc bị giam lỏng. Cả cung điện vắng hoe không một bóng người, trừ đám binh sĩ xách dao xách kiếm.

Cung điện mênh mông đột nhiên trở nên quạnh quẽ yên ắng, khác hẳn khi trước.

An Tấn và An Dung bước vào, hai huynh đệ họ xuất thân từ Thanh Long bộ, cùng tộc với mẹ đẻ Thiếu Hạo, có quan hệ bà con với y, đồng thời cũng là tâm phúc của y.

An Tấn tướng quân bước đi như rồng như hổ, toát lên vẻ mạnh mẽ ngang tàn của quân nhân, sang sảng tâu: “Điện hạ, tất cả phi tần trong hậu cung, hễ chưa sinh con cái đều bị trục xuất khỏi Thừa Ân cung, đưa đến Tích Hương cư dưới Ngũ Thần sơn.”

An Dung tướng mạo tuấn tú, vóc dáng cao to thong thả lên tiếng: “Các cung nhân được giữ lại đều là người đáng tin cậy, thần đã tuyển lựa kỹ càng rồi. Trước khi điện hạ vào ở Thừa Ân cung, có cần tuyển thêm một đợt mới không?”

Thiếu Hạo liền đáp: “Khỏi đi, chỉ có ta và vương tử phi thôi mà, các cung nhân còn lại, cộng thêm người của Thừa Hoa điện là đủ rồi.”

An Tấn xoa tay nói: “Đúng thế! Trước đây một người phụ nữ cần đến mười mấy kẻ hầu hạ, hiện giờ đã đuổi hết đám nữ nhân đó ra khỏi cung, đương nhiên chẳng cần nhiều nô tỳ như thế nữa. Thời gian tuyển nô tì, chi bằng nghĩ kế đánh giặc còn hơn.”

An Dung kéo tay ca ca rồi nhỏ nhẹ góp ý với Thiếu Hạo: “Quả thật hiện giờ chỉ có điện hạ và vương tử phi, nhưng sau khi đăng cơ, điện hạ sẽ phải lập thêm phi tần, cần có tỳ nữ hầu hạ các vị vương phi chứ.”

An Tấn trừng mắt, “Tuyển phi tần cái gì? Ta cảnh cáo tên tiểu tử đệ, chớ xúi bậy điện hạ mải mê nữ sắc, học mấy trò nhảm nhí!”

An Dung dở khóc dở cười, “Tuấn Đế các đời trước đều chọn nữ tử trong tứ bộ phong làm phi tần, Đại ca huynh tưởng rằng bọn họ xinh đẹp hơn người thật ư? Sau khi điện hạ đăng cơ, phải tiêu diệt kẻ địch, còn phải luận công ban thưởng cho quần thần nữa, Thanh Long bộ của chúng ta không nói làm gì, nhưng lòng trung của của Hy Hòa bộ đối với điện hạ, chẳng lẽ không cần báo đáp sao? Cách báo đáp tốt nhất là gì? Chẳng phải là tuyển nữ tử của Hy Hòa bộ vào cung, để hoàng tử tương lai mang huyết mạch Hy Hòa bộ sao? Thường Hy bộ e khó mà lôi kéo được, Bạch Hổ bộ lại kết bè với bọn Yến Long, Trung Dung, nếu điện hạ chọn phi tử trong Bạch Hổ bộ, chỉ sợ một nữ tử vào cung liền kéo theo vô số âm mưu.”

An Tấn nghe đến váng cả óc, bèn xua tay, hành lễ cáo từ Thiên Hạo, “Hai người cứ từ từ bàn bạc đi, hễ có đánh nhau nhớ đừng quên ta đấy.”

Thấy An Tấn đã lui ra, An Dung lại cười hỏi: “Điện hạ có cần thần để mắt chọn lọc nữ tử trong tứ bộ không? Tuy thân phận huyết thống là quan trọng nhất, nhưng dung mạo tính tình nhất định không làm ngài khó chịu đâu.”

Thiếu Hạo thẫn thờ nhìn theo hướng A Hành khuất bóng, chẳng nói chẳng rằng, hồi lâu mới buột miệng: “Khỏi cần.”

An Dung tái mặt, “Điện hạ, tuy chúng ta thành công tạm thời nhưng không thể xem thường thế lực bọn Yến Long và Trung Dung được. Nếu muốn củng cố đế vị, nhất định phải…”

“Ta đã bảo không cần cơ mà!”

An Dung rùng mình, sực nhận ra kẻ trước mặt đây không còn là Thiếu Hạo nữa, mà đã trở thành đế vương của Cao Tân, vội quỳ sụp xuống: “Thần hiểu.”

Thiếu Hạo cúi người giơ tay nâng hắn dậy, “Biểu đệ, ta biết ngươi một lòng muốn tốt cho ta, nhưng… chuyện này để sau hãy nói đi, ta không tin Thiếu Hạo ta phải dựa vào nữ nhân mới thu phục được giang sơn này!”

Nghe cách xưng hô của y, An Dung mới yên lòng, liền hành lễ cáo từ, “Bên Kỳ viên điện hạ còn dặn dò gì không?”

Thiếu Hạo trầm ngâm hồi lâu rồi trỏ gốc đào: “Sai người đào gốc cây này lên cẩn thận, đưa đến Kỳ viên.”

An Dung vâng dạ, hắn chần chừ toan nói gì đó, nhưng rồi lại nén xuống.

Đêm đó, Thanh Dương cưỡi Trùng Minh điểu, nhân lúc khuya khoắt bay thẳng đến Thang cốc hoang vu nằm ở cực Đông của đại hoang.

Dưới gốc phù tang la liệt những vò rượu rỗng, Thiếu Hạo đã say bí tỉ.

Thanh Dương lặng lẽ ngồi xuống dựa lưng vào gốc cây, đập vỡ niêm phong một vò rượu, ngửa cổ uống ừng ực.

Thiếu Hạo cười hỏi: “Sao ngươi không chúc mừng ta? Hôm nay ai gặp ta cũng chúc mừng ta hết đó!”

Thanh Dương lạnh nhạt hỏi: “Chúc mừng cái gì? Chúc mừng ngươi hại cha giết em ư?”

Thiếu hạo phá lên cười ngặt nghẽo, hồi lâu mới vừa cười vừa lè nhè nói: “Ta khống chế được tình thế mà, không đến nỗi làm nghiêng trời lệch đất, cạn tàu ráo máng đâu.”

Thanh Dương làm thinh không đáp. Có những con đường một khi đã đặt chân lên thì chẳng thể quay đầu lại nữa, chỉ có thể đi mãi đi mãi về phía bóng đêm thăm thẳm, dù bản thân có muốn cũng khó mà khống chế.

Thấy Thiếu hạo ném cho mình một lọ thuốc, Thanh Dương liền hỏi: “Gì thế?”

Thiếu Hạo say khướt, trông càng tuấn tú phong lưu hơn hẳn khi tỉnh táo, y cười đáp: “Thứ này sẽ khiến phụ vương ngươi lâm bệnh, không thể xử lý chính sự.”

Thấy Thanh Dương biến hẳn sắc mặt, Thiếu hạo cười cười bồi thêm: “Không ai tra ra được đâu!”

Thanh Dương thất thanh hỏi: “Lẽ nào phụ vương ngươi thật sự không sinh bệnh? Ta tưởng ngươi chỉ nắm lấy cơ hội trời ban thôi chứ?”

Thiếu Hạo phá lên cười, “Thanh Dương tiểu đệ, ta tưởng lòng dạ ngươi đã sắt đá rồi, nào ngờ vẫn khờ khạo thế kia à! Lấy đâu ra cơ hội trời ban? Chỉ có cơ hội do mình tạo ra mà thôi! Hơn hai ngàn năm, ta đợi hơn hai ngàn năm để được cái gì? Tính tình Hoàng Đế ra sao ngươi cũng biết rồi, ngươi muốn đợi cái gì hả? Ngươi tưởng ngươi có thể đợi được cái gì? Đồng Ngư thị trong Chỉ Nguyệt điện sẽ bỏ qua cho ngươi, bỏ qua cho mẹ ngươi sao?”

Thanh Dương nắm chặt lấy lọ thuốc, gân xanh nổi đầy tay.

Thiếu Hạo nói tiếp: “Có mỗi lọ thuốc này thôi đấy, phải dùng thật đúng chỗ.”

“Ở đâu ngươi có thuốc này? Ngươi không sợ bị bại lộ ư?”

“Suỵt!” Thiếu Hạo đặt ngón trỏ lên môi ra hiệu, cười ngất ngư, “Không cho ngươi biết đâu! Ta nói với kẻ chế thuốc là một lọ để cho phụ vương, một lọ cho Yến Long, nàng ta cứ ngỡ lọ thuốc này dành cho Yến Long, chẳng biết gì cả.”

Thấy Thanh Dương nhận lấy lọ thuốc, Thiếu Hạo liền tươi cười giơ vò rượu lên, “Nào! Chúc mừng hai ta sánh vai tác chiến, vật lộn với sinh tử!”

Thanh Dương cũng nâng vò rượu cụng đánh cốp với Thiếu Hạo, hai vò rượu lập tức vỡ nát, vẩy đầy người cả hai.

“Rượu ngon!” Thiếu Hạo phá lên cười, cả người lảo đảo rồi ngả ngửa ra giữa những vò rượu ngổn ngang.

Thanh Dương đứng dậy gọi Trùng Minh điểu lại, chuẩn bị quay về.

Thiếu Hạo lẩm bẩm trong cơn say: “Đợi ngươi đăng cơ trở thành Hoàng Đế, chúng ta sẽ cùng nhau tranh đoạt thiên hạ. Thanh Dương, nếu ta chết trong tay ngươi, ngươi cứ táng ta trong vò rượu. Còn nếu ngươi chết trong tay ta, ta sẽ…” Y mơ màng nghĩ ngợi, “Ta sẽ đem đầu lâu ngươi làm thành vương tọa, hàng ngày lên triều đều ngồi, ngày ngày ngồi, tháng tháng ngồi, ngồi đến khi ta chết mới thôi.”

Thanh Dương vốn lạnh lùng cũng phải bật cười hỏi: “Sao lại thế? Ngươi hận ta tranh đoạt thiên hạ với ngươi ư?”

Thiếu Hạo cười hì hì, xua tay, “Đâu có, ta báo thù cho ngươi đó chứ! Khiến kẻ ngồi trên vương tọa đó ngày ngày đều phải nhớ đến ngươi, suốt ngày đều bồn chồn lo lắng còn gì!”

Thanh Dương đang cười ha ha chợt ngẩn ra rồi tắt hẳn nụ cười, lòng trào lên bao nỗi muộn phiền hiu quạnh, không sao nén xuống được. Y huýt một tiếng lanh lảnh, lập tức Trùng Minh điểu vỗ cánh bay vút lên trời, biến mất giữa biển mây.

Tuấn Đế hạ chỉ bố cáo thiên hạ, nói mình lâm bệnh nặng, không thể tiếp tục trị vì nên nhường ngôi cho Đại vương tử Thiếu Hạo tài đức kiêm toàn, nhân hiếu cung khiêm đủ cả.

Thiếu Hạo khước từ mấy bận rồi cũng chính thức đăng cơ, chuyển vào ở trong Thừa Ân cung Ngũ Thần Sơn, trở thành Tuấn Đế đời thứ tám, phong Hiên Viên Bạt làm vương phi. Mọi người đoán già đoán non rằng hai người bọn họ phu thê ân ái, vậy mà Thiếu Hạo lại không phong Hiên Viên Bạt làm Tuấn Hậu, hẳn là vì thân thể nàng quá yếu đuối, mấy trăm năm vẫn chưa sinh con.

Đại tiệc chúc mừng Thiếu hạo đăng cơ được ở tiền điện Thừa Ân cung, có mặt đông đủ bá quan văn võ.

Hiên Viên Bạt ngồi dự một lát rồi cáo mệt xin về nghỉ. Biết nàng đã bệnh liệt giường hai trăm năm, mọi người cũng chẳng lấy thế làm lạ.

Về đến tẩm cung, Hiên Viên bạt mới cảm thấy thư thái tinh thần, bèn cho tất cả thị nữ lui ra. Đang thay y phục, chợt thấy kẻ nào đó vươn tay toan siết chặt lấy eo lưng, nàng lập tức nghiêng mình tránh né, lật tay trả đòn rất nặng.

“Là ta!”

Lực đánh của nàng lập tức tiêu tan, thân thể bị Xi Vưu kéo vào lòng, chưa kịp nói năng gì, một nụ hôn dài mà mãnh liệt đã áp lên môi.

Xi Vưu cười hỏi: “Sao ra tay tàn độc thế?”

A Hành tựa vào lòng hắn, uể oải đáp: “Tuy Yến Long đã bị giam nhưng bọn Trung Dung vẫn nhởn nhơ bên ngoài. Dạo này nghe đồn định hành thích Thiếu Hạo nên tinh thần lúc nào cũng căng như dây đàn.”

Xi Vưu thẳng thắn: “Nếu là Thiếu Hạo, ta sẽ giam quách hai mươi mấy huynh đệ đó lại, kẻ nào giữ lại được thì giữ, kẻ nào không giữ lại được thì giết, việc gì phải tạo thêm phiền toái cho mình như thế?”

A Hành mỉm cười đáp: “Bởi vì người thiên hạ có gọi chàng là ma đầu hay không, chàng cũng chẳng để tâm, nhưng Thiếu hạo thì khác, y muốn làm một đế vương tốt. Dùng bạo lực có thể đoạt được thiên hạ, nhưng để trị vì thiên hạ lại phải dựa vào nhân hiếu lễ nghi, hơn nữa, sát nghiệp quá nặng cũng chẳng hay ho gì. Phải rồi, sao tự dưng chàng tới đây?”

Xi Vưu áp đầu A Hành vào ngực, để nàng nghe được tiếng tim mình đập: “Nàng nghe thấy tiếng của nó không? Nó đang nói nhớ nàng đấy, thế còn nàng? Có nhớ ta không?”

A Hành không đáp, chỉ níu lấy cổ Xi Vưu, ghì đâu hắn xuống hôn lên má.

Xi Vưu hớn hở kéo A Hành lại phía cửa sổ: “Ta đưa nàng đi chỗ này.”

Hai người vừa nhảy ra ngoài cửa sổ, đột nhiên Thiếu Hạo tươi cười bước vào tươi cười gọi: “A Hành, A Hành.”

A Hành vội đẩy Xi Vưu một cái, hắn nhanh như chớp dán sát người vào bức tường bên song. Từ trong nhà nhìn ra, chỉ thấy mình A Hành đứng ngoài cửa sổ.

“Sao chàng lại đến đây? Tiệc tan rồi à?”

Nụ cười trong mắt Thiếu Hạo lan xuống khóe môi, “Chưa, ta lấy cớ đi tiểu lén chuồn ra đó.”

“Có chuyện gì ư?”

“Không có gì, chỉ tiện thể tới xem nàng thôi. Nàng mới chuyển vào ở đây có quen không?”

“Còn thoải mái hơn ở Thừa Hoa điện ấy chứ. Trước đây đi đến đâu cũng bị cả đám cung nữ thị vệ lẳng nhẳng đi theo, giờ thì dễ chịu hơn nhiều rồi, cảm ơn chàng.”

Thiếu Hạo cười nói: “Đám đại thần đó còn sợ chúng ta thiếu người hầu hạ, nào biết chúng ta đã được ‘hầu hạ’ đến phát khiếp lên rồi, người bên cạnh càng ít càng mừng!”

Thấy Xi Vưu sốt ruột giật giật tay áo mình giục giã, nàng liền hỏi: “Chàng còn chuyện gì nữa không?”

“Hết rồi, nàng nghỉ ngơi đi.” Thiếu Hạo quay gót trở lui.

Ra khỏi cửa điện, đi được một quãng, y chợt dừng bước ngẩng đầu nhìn trời, nhưng bầu trời đêm thăm thẳm, nào thấy bóng ai?

Trong tay áo rộng còn giấu vò rượu, vốn là cống phẩm từ một đảo nhỏ phía Nam dành riêng cho bữa tiệc hôm nay, được ủ từ trái dừa, cả thảy chỉ có hai vò, y uống một ngụm, cảm thấy mùi vị rất đặc biệt, khác hẳn những thứ rượu từng uống khi trước, bèn nhân lúc mọi người không để ý, lén trộm lấy một vò định mang tặng cho A Hành.

Y trở gót quay lại, thấy đám thị nữ đang gà gật bên hành lang.

Thiếu Hạo khẽ khàng bước vào tẩm điện, nhưng chỉ còn phòng trống, người đã đi rồi.

Cửa sổ mở toang, gió lùa vào phòng, thổi phần phật cánh màn.

Y lặng lẽ đặt vò rượu dừa lên đầu giường nàng, khép cửa sổ lại rồi bước ra khỏi điện.

Tiêu Dao bay khoảng hai canh giờ thì đỗ lại Thần Nông sơn, Xi Vưu nắm tay A Hành nhảy xuống.

A Hành thảng thốt nhìn về phía đỉnh Tiểu Nguyệt, bao chuyện cũ vẫn như đang sờ sờ trước mắt, tựa hồ nàng mới từ biệt Viêm Đế hôm qua. Thực tế thì hài cốt Viên Đế chắc đã mục dưới mồ.

“Sao lại đưa ta đến đây?”

Xi Vưu trỏ sơn cốc đối diện, A Hành căng mắt nhìn kỹ mới lờ mờ trong thấy một đoàn người.

“Đêm nay Chúc Dung xuất quan, mấy kẻ nàng thấy kia là tùy tùng của hắn. Chắc người của Hậu Thổ và Cộng Công cũng nấp đâu đó, âm thầm bảo vệ hắn.”

“Chàng định làm gì?”

“Không phải là định làm gì, mà là nàng muốn làm gì?”

“Hả?”

Xi Vưu quàng tay ôm lấy nàng từ phía sau, tì cằm lên vai A Hành, “Nàng có muốn lấy mạng Chúc Dung không?”

“Khỏi đi.” A Hành quay lại, nắm lấy tay hắn, “Đừng bức bách đám danh gia vọng tộc đó quá đáng. Tuy hiện giờ chúng sa sút nhưng chúng có nền tảng mấy vạn năm ở Thần Nông, chàng chỉ thấy cành là héo khô trên mặt đất, chứ không biết được cội rễ dưới đất sâu đến chừng nào.”

“Một là không làm, hai là làm đến cùng, diệt cỏ phải diệt tận gốc!”

A Hành toan khuyên nữa, nhưng nghĩ đi nghĩ lại vẫn còn Du Võng ở đó, nàng không cần phải quá lo. Viêm Đế năm xưa hẳn đã lường trước sự hung tàn của Xi Vưu nên mới cố ý dùng tính tình ôn hòa của Du Võng để trung hòa bớt.

Xi Vưu lại kéo A Hành lên lưng Tiêu Dao, bay về phía Cửu Lê, “Nàng đã không muốn giết Chúc Dung thì chúng ta về Cửu Lê, đào một vò Ca tửu của Mê Đóa ủ lên uống.”

Đột nhiên ánh sáng từ đâu bùng lên rực rỡ, từng đoạn hồng quang tỏa khắp đất trời.

A Hành và Xi Vưu chẳng hẹn mà cùng ngoảnh lại, thấy cả dãy Thần Nông sơn chạy dài ngàn dặm phủ kín bởi hồng quang, như thể hai mươi tám ngọn núi đều biến thành lò lửa.

A Hành ngẩn người nhìn, lẩm bẩm: “Có lẽ giờ đây Chúc Dung mới xứng được gọi là Hỏa Thần.”

Cũng như A Hành, Xi Vưu rất kinh ngạc trước thần lực của Chúc Dung. Có điều xưa nay hắn chẳng biết lo nghĩ là gì, cứ phởn phơ cười, kéo gương mặt nàng lại gần: “Này, đêm xuân ngắn ngủi, từ giờ trở đi, trong mắt nàng, trong lòng nàng chỉ được có mình ta thôi đó.”

A Hành đăm đăm nhìn hắn, không khỏi bật cười. Có lẽ ngay từ đầu nàng đã yêu tính tình ngông cuồng ngạo ngược này của hắn, dẫu trời long đất lở cũng chẳng buồn quan tâm.

Hồng quang rợp trời, chấn động cả đại hoang, nhưng trong mắt hắn chỉ có nàng, trong mắt nàng cũng chỉ có hắn.

Chương 5: Gió Đông Bắc, hoan tình nhạt nhẽo (1)

A Hành thoáng vẻ ngượng ngùng, nhưng giọng nói vẫn rất kiên quyết, “Thiếp đã hứa với Xi Vưu rằng sẽ ở bên hắn, hắn đi đâu thì thiếp đi đó.” Câu nói hằng ấp ủ trong lòng cuối cùng cũng có thể đường đường chính chính nói ra, nàng thấy người nhẹ nhõm hẳn, như vừa trút bỏ được một tảng đá, cảm giác hết sức thản nhiên tự tại, bất kế kết quả ra sao.

[1] Trích trong bài từ Thoa đầu phượng của Lục Du (1125-1209). (ND)

Ở Thần Nông, Chúc Dung vừa xuất quan đã hiển lộ thần lực khiến cả thiên hạ kinh hoàng. Hơn hai trăm năm nay, dưới bàn tay sắt của Xi Vưu, các danh gia vọng tộc dần dần sa sút, bơ vơ vất vưởng, mãi đến giờ, nhờ có Chúc Dung như cứu tinh, chẳng mấy chốc đã tạo nên một lực lượng không thể coi thường, chống đối lại Xi Vưu.

Tại Cao Tân, sau khi đăng cơ, Thiếu Hạo hết sức nôn nóng muốn cải tổ mọi thứ, nhưng y biết mình không thể đi theo con đường của Xi Vưu, bởi y và hắn xuất thân khác nhau. Lực lượng chủ yếu ủng hộ y là đám quý tộc trẻ nắm giữ binh quyền, bọn họ nhận ra nguy cơ Cao Tân, mong mỏi Cao Tân giàu mạnh hơn, nhưng không thể chấp nhận công cuộc cải cách mạnh mẽ, hủy diệt lợi ích gia tộc của họ. Bởi thế, Thiếu Hạo đành lựa chọn phương pháp thay đổi từ từ.

Về phía Hiên Viên, Hoàng Đế ẩn nhẫn mấy ngàn năm, cuối cùng cũng cất lên tiếng kèn đưa quân Đông tiến, chính thức tấn công Thần Nông tộc, giành được thắng lợi liên tiếp, chẳng những thu lại được đất đai bị xâm chiếm hai trăm năm trước, mà còn hạ liền một lúc sáu tòa thành của Thần Nông.

Tin Hiên Viên chiến thắng liên tiếp báo về khiến Du Võng đứng ngồi không yên, thậm chí Thiếu Hạo cũng thấp thỏm lo lắng. Y biết Hiên viên vẫn luôn che giấu thực lực nhưng chẳng ngờ thực lực ấy lại hùng mạnh đến vậy, ít ra thì Cao Tân cũng không thể liên tiếp hạ sáu thành của Thần Nông như thế. Thêm vào đó, còn một việc mà y vắt óc nghĩ mãi không ra, tại sao Hoàng Đế lại ồ ạt động binh đúng vào thời điểm này? Rõ ràng ông ta có thể khoanh tay đứng ngoài để Chúc Dung và Xi Vưu đấu đá lẫn nhau cho tới khi đôi bên đều tổn thất thì ra tay làm một mẻ cơ mà. Hiên Viên Hoàng Đế đã nhẫn nhịn mấy ngàn năm nay, sao bây giờ lại vội động binh?

Vì đế vị thay đổi, lại thêm chiến tranh giữa Hiên Viên và Thần Nông đột ngột bùng nổ, Nặc Nại bèn chủ động dâng thư hỏi ý Thiếu Hạo xem có phải lùi ngày cưới của mình và Vân Tang không.

Thiếu Hạo cân nhắc kỹ lưỡng, suy nghĩ rất lâu rồi hạ chỉ: Hôn lễ vẫn cử hành đúng hạn.

Lòng A Hành ngổn ngang muôn mối, lần trước Xi Vưu tới gặp nàng đã thẳng thắn đề nghị nàng rời xa Thiếu Hạo, có điều hiện giờ Hiên Viên vừa tuyên chiến với Thần Nông, tuy Đại ca và Xi Vưu chưa trực diện giao phong nhưng nếu phụ vương muốn Đông tiến, sớm muộn gì bọn họ cũng gặp nhau trên chiến trường.

Nàng xin Thiếu Hạo cho phép mình đi vắng ít ngày, y cũng chấp thuận. Bây giờ tình thế đã khác xưa, chẳng ai giám sát nhất cử nhất động của họ nữa, về phần nghi lễ cung đình, Thiếu Hạo chỉ cần làm một con rối đặt lên giường là xong, dù sao cả thiên hạ cũng biết vương phi ốm yếu lắm bệnh.

A Hành đem theo A Tệ và Liệt Dương bay đến Nhược Thủy.

Đây là lần đầu tiên nàng đến thăm đất phong của Tứ ca. Tuy nơi này trập trùng núi biếc, nhưng thế núi không được nguy nga như phương Bắc, lại thêm bao nhiêu ao hồ sông suối lượn quanh khiến phong cảnh đượm phần tú lệ.

Đến phủ của Xương Ý, nàng đã cố ý tránh bọn lính canh, định để cho Tứ ca bất ngờ.

Trong khoảng sân nho nhỏ trồng hai gốc nhược mộc đang kết nụ, từng nụ hoa đỏ hồng chúm chím trên cành chẳng khác nào gọn đèn lồng lộng lẫy.

Xương Ý khoác tấm áo thiên thanh nghiêng mình ngồi trước song cửa lục lăng, dung mạo ôn hòa, nụ cười còn động trên môi.

Xương Phó vận chiếc váy hoa đỏ rực, tựa vào người Xương Ý tập thổi tiêu, thổi chưa được mấy câu đã vấp. Xương Ý chỉ cười cầm lấy cây tiêu, biểu diễn lại một lần rồi nhẹ nhàng hướng dẫn thê tử.

Tập đi tập lại mấy lần, cuối cùng Xương Phó cũng thổi mạch lạc được một khúc, bèn nhảy cẫng lên cười vang: “Thiếp biết thổi tiêu rồi nhé!”

Chiếc váy hoa đỏ rực soi vào đôi mắt tràn đầy hạnh phúc của Xương Ý. Xương Phó xoay tròn quanh y, khẽ hôn lên môi y, tươi cười rạng rỡ, trong khi y đỏ mặt vì thẹn, đưa mắt liếc cửa sổ theo phản xạ.

Xương Phó dịu dàng an ủi: “Không sao đâu, hôn nhiều nhiều mới tình cảm chứ, hôn mãi thành quen, sau này dù đứng trước mặt toàn tộc chàng cũng chẳng ngại nữa đâu!”

Nàng an ủi như thế còn tệ hơn không an ủi, Xương Ý đỏ mặt tía tai, cau mày mắng: “Chẳng đứng đắn gì cả!”

A Hành chứng kiến từ đầu đến cuối, không nhịn được phì lên cười.

Xương Phó biến sắc, chỉ thấy hàn quang lóe lên, nàng nhanh như chớp, bước đến trước mặt A Hành.

“Tứ tẩu, là muội, là muội đây mà.” A Hành la lên.

Xương Phó vội xoay người, thu chủy thủ lại, “Sao muội lại đến đây?”

A Hành nháy mắt: “Muội đến nghe hai người thổi tiêu.”

Xương Phó mặt dày mày dạn, chẳng hề lấy làm thẹn thùng, chỉ có Xương Ý đỏ mặt mắng: “Đến chẳng gọi người thông báo, lại nấp bên ngoài rình lén, càng ngày càng không ra sao cả!”

A Hành le lưỡi với Xương Phó, cả hai cùng cười.

Xương Ý bó tay, đành giận dỗi cầm sách lên đọc, mặc kệ cả hai.

Xương Phó gọi thị nữ lại, sai lo liệu bữa tối, còn căn dặn nhất định phải chuẩn bị thật nhiều rượu.

Đợi rượu và đồ nhắm bưng lên, ba người quây quần bên bàn, vừa uống rượu vừa trò chuyện.

Xương Ý hỏi A Hành: “Giờ muội là vương phi của Cao Tân rồi, sao nói đi là đi ngay thế?”

“Thiếu Hạo bao che cho muội mà, y nói được, ai dám nói không chứ?”

Xương Phó cười: “Thiếu Hạo đối tốt với muội ghê.”

Xương Ý lạnh lùng: “Hạng người đó có ưu điểm là kỹ lưỡng tỉ mỉ, chăm sóc chu đáo, nhưng chỉ trong mấy việc lặt vặt thôi, hễ động tới lợi ích bản thân, chúng còn tuyệt tình hơn ai hết.”

Xương Phó lại hỏi: “Tiểu muội, muội và Xi Vưu rốt cuộc là sao thế?”

Mặt A Hành đỏ dừ, “Lần này muội đến chính là muốn bàn bạc với Tứ ca Tứ tẩu. Muội và Xi Vưu… đã cùng nhau từ lâu rồi.”

Dứt lời, nàng hồi hộp nhìn Tứ ca Tứ tẩu, đợi phản ứng của bọn họ.

Xương Ý nghe xong vẫn bình thản như thường, chẳng hề lộ vẻ ngạc nhiên, còn Xương Phó lại bật cười khì, “Ta biết ngay mà! Tiểu muội ngoài lạnh trong nóng, phải có một ngọn lửa phừng phừng thiêu hủy lớp vỏ ngoài của muội để muội lộ nguyên hình, cả hai cùng cháy lên hết mình mới được. Gã Xi Vưu đó còn đáng sợ hơn lửa, đúng là hợp với tiểu muội! Thiếu Hạo chính ra lại không ổn, nhìn bề ngoài có vẻ ôn hòa, thực tế còn lạnh lùng hơn Đại ca.”

A Hành nóng bừng hai má, lí nhí: “Xi Vưu bảo muội đi theo hắn, Thiếu Hạo cũng đã hứa với muội, muội có tư cách thoát thân, nhưng xem ra tình thế hiện giờ, chỉ e sớm muộn gì Đại ca và Xi Vưu cũng phải giao chiến, muội thật chẳng biết tính sao nữa cả.

Xương Ý cau mày trầm tư còn Xương Phó thở dài, khuyên: “Nam nhân bọn họ muốn đánh đánh giết giết thì cứ mặc cho bọn họ đánh đánh giết giết, dù thắng dù thua, bọn họ cũng mãn nguyện. Bản thân họ không oán không hối, muội tội gì phải nghĩ ngợi nhiều? Có nghĩ nát óc cũng không cởi được gút mắc này đâu.”

“Tứ tẩu, nếu là tẩu, tẩu sẽ làm sao?”

“Kiếp người ngắn ngủi, ta sẽ lập tức đi tìm Xi Vưu! Nếu muội thật lòng yêu hắn, hẳn có thể vì hắn mà vứ bỏ tất cả mọi thứ. Nếu hắn thật lòng yêu muội, đương nhiên cũng sẽ nghĩ cho muội, không đến nỗi ép muội vào đường cùng đâu!”

Xương Ý gượng cười nhìn thê tử: “Xi Vưu mua chuộc nàng từ bao giờ thế?”

“Không phải mua chuộc, là thiếp ngửi ra được thôi, trên người hắn có mùi giống như bọn thiếp.” Xương Phó đưa tay chỉ dãy núi xanh biếc trập trùng ngoài song cửa, “Hắn cũng sinh ra từ núi rừng mà.”

Xương Ý nói: “Sự tình đâu có đơn giản như thế.”

Xương Phó gượng cười, thở dài nói với A Hành và Xương Ý, “Đó chính là điểm khác biệt giữa bọn ta với các vị, đối với bọn ta, mọi thứ đều hết sức đơn giản, nếu không biết phải làm sao thì chỉ cần nghe theo trái tim mình là đủ.” Nàng chỉ vào lồng ngực mình, “Người già trong tộc từng nói, tiếng tim đập chính là âm thanh chân thực nhất trên đời. Xương Ý, hẳn chàng cho rằng em gái mình yêu Xi Vưu thật là đáng thương, nhưng kỳ thực Xi Vưu yêu tiểu muội còn đáng thương hơn! Hắn phải ra sức kiềm chế dục vọng của mình, học cách thông cảm và thấu hiểu cho sự do dự và đắn đo của tiểu muội, đồng thời cũng chiều theo cách hành xử của muội ấy.”

Xương Ý liếc Xương Phó, như cười mà chẳng phải cười, “Cái gì mà chàng thế này ta thế khác? Thế nàng có đáng thương không?”

Xương Phó chợt đỏ bừng hai má, hạ giọng nói thật nhanh: “Thiếp rất vui… Thiếp rất hạnh phúc mà…”

A Hành thấy thế che miệng cười thầm, đúng là vỏ quýt dày có móng tay nhọn.

Xương Ý lại quay sang hỏi nàng: “Muội đã có tính toán gì chưa?”

A Hành đáp: “Muội muốn hỏi ý kiến huynh.”

“Trước đây ta từng nói đấy thôi, muội là muội muội duy nhất của ta, dù muội có làm gì đi nữa, ta cũng hết lòng ủng hộ, nếu phụ vương và Đại ca không chúc phúc cho muội thì còn có ta và mẹ kia mà.”

Thấy A Hành rơm rớm nước mắt, Xương Ý mỉm cười dỗ dành: “Muội đừng lo, ta không ra trận, cũng chẳng hứng thú với việc giao tranh. Tuy ta không thể khuyên can phụ vương đừng tranh đoạt thiên hạ nhưng ít ra ta cũng không để các dũng sĩ Nhược Thủy trở thành xương trắng lót đường cho phụ vương bước lên vương tọa đâu. Bọn họ phải được sống bên người mình thương mến, cùng nhau sinh con đẻ cái đến đầu bạc răng long.”

Thấy A Hành gật gật đầu, Xương Phó cười trêu nàng, “Được rồi, tiểu nha đầu muội trốn theo tình lang thì mau thu dọn hành lý đi, không cần lo chúng ta đối đầu với tình lang muội trên chiến trường đâu.”

A Hành tươi cười đứng dậy, “Vậy muội đi đây.”

“Muội không muốn nán lại một đêm ư?”

“Thôi, mười ngày tới là hôn lễ của Nặc Nại và Vân Tang rồi, Thiếu Hạo giao cho muội phụ trách chuẩn bị, chắc đây là công việc cuối cùng của muội tại Cao Tân. Vì Vân Tang, muội không thể để sơ sẩy điều gì được.”

Tiễn nàng ra cửa, Xương Ý còn cười nói: “Năm xưa khi Vân Tang còn ở Triêu Vân phong, ta từng lén bảo mẹ xui Đại ca cưới Vân Tang tỷ tỷ làm Đại tẩu. Mẹ cũng xiêu xiêu, nói rằng cứ mặc cho hai người bọn họ ở bên nhau, thuận theo tự nhiên. Tiếc rằng sau đó Tinh Vệ chết đuối ở dưới Đông Hải, Vân Tang chỉ ở Triêu Vân phong mười năm đã phải vội quay về Thần Nông sơn. Mà trong mười năm đó, Đại ca chẳng về Triêu Vân phong lần nào, hai người bọn họ còn chưa có dịp gặp mặt. Nếu họ gặp nhau một lần, không chừng hỷ sự này lại rơi vào nhà ta ấy chứ.”

A Hành bật cười theo: “Tiếc thật tiếc thật.”

Vừa nói tới đó đã thấy A Tệ và Liệt Dương đỗ xuống sân đón nàng.

Từ sau khi “sống lại”, Liệt Dương đối với ai cũng tỏ vẻ lạnh lùng, thù địch, chỉ riêng với Xương Ý là khác, thậm chí còn hành lễ với Xương Ý.

Xương Ý dặn nó: “Ta đã tra cứu điển tịch, theo lý thì chỉ Yêu tộc một khi có thể biến hình, sẽ có khả năng hóa thành người trưởng thành, nhưng mày thì khác, mày hấp thụ sức mạnh của Ngu uyên, linh khí biến đổi, sinh ra biến hình sớm nên chỉ có thể hóa thành trẻ con. Mày đừng nôn nóng, cứ yên tâm tu hành, từ từ thân hình sẽ cao lên.”

A Hành phì cười xoa đầu Liệt Dương, “Ai da, thì ra Liệt Dương công tử của chúng ta sợ rằng sẽ phải làm đứa nhỏ cả đời.”

Liệt Dương hậm hực gạt tay nàng ra, “Đừng coi ta như trẻ con chứ!”

A Hành chẳng thèm để tâm đến thái thái độ của nó, trái lại còn thừa cơ véo đôi má trắng nõn: “Mày đúng là một chú nhóc mà!” Nói rồi trước khi Liệt Dương kịp phát khùng, nàng liền ôm cổ A Tệ bay vút đi, “Tứ ca, Tứ tẩu, muội đi đây.”

Liệt Dương giận dữ giậm chân một cái, biến lại nguyên hình rồi vừa quang quác chửi rủa vừa vỗ cánh đuổi theo.

Xương Ý nhìn theo bóng A Hành xa dần, giơ tay vẫy vẫy.

Xương Phó nép người bên khung cửa tươi cười nhìn phu quân, ánh mắt chan chứa tình nồng.

Sau khi lên ngôi, Thiếu Hạo đã lấy lại nửa mảnh Hà Đồ Lạc Thư từ chỗ Tuấn Đế, chuyên tâm nghĩ cách phá giải, nhưng bất kể thử thế nào cũng vô dụng. Hà Đồ Lạc Thư chỉ có nửa mảnh thì chẳng khác nào phế vật.

Rốt cuộc trong Hà Đồ Lạc Thư ẩn giấu bí mật kinh thiên động địa gì? Tại sao các Thần tộc từ thời thượng cổ đều truyền tụng nhau về nó, coi trọng nó đến vậy?

Thiếu Hạo bất lực thở dài, thu dọn mọi thứ lại, đoạn ra khỏi mật thất.

A Hành chẳng biết về tự khi nào, đang đợi y trong đại điện. Nhìn nàng gục đầu xuống án thư thiêm thiếp ngủ, hẳn đã phải đợi khá lâu.

Thiếu Hạo mỉm cười, lấy áo mình khoác lên vai nàng rồi dẹp hết văn thư tấu chương qua một bên, ngồi lui vào góc phòng, bắt đầu giở ra xem.

Xem xét mãi đến nửa đêm, nghe chừng thấm mệt, y bèn đặt tấu chương xuống, nhắm mắt dưỡng thần.

Thừa Ân điện hiện nay rất vắng người, bởi thế tuy ban ngày tĩnh mịch trang nghiêm nhưng đêm xuống lại im lìm như chết. Giữa đêm khuya thanh vắng, tiếng tí ta tí tách của đồng hồ nước nghe vang vang như thể khắp nơi trong tòa cung điện mênh mông này đều có hồi âm vọng lại. Thảng hoặc y cũng nghĩ, có khi nào phụ vương sợ nghe tiếng vọng quạnh quẽ của chiếc đồng hồ nước, nên mới cho tấu đàn thổi sáo suốt ngày hay không?

Vậy mà đêm nay, y chẳng hề nghe thấy âm thanh lạnh lẽo đó.

A Hành đi đường xa đã mệt, lại phải nằm sấp mà ngủ nên cả người dâm dấp mồ hôi, hơi thở dồn dập, càng tăng thêm vẻ thơ ngây đáng yêu của nàng.

Thiếu Hạo chống cằm say sưa ngắm nàng, khóe miệng hé lộ nụ cười.

A Hành chợt động cựa rồi mơ màng mở mắt, trông thấy Thiếu Hạo, nàng thoáng bối rối, vội cau mày cố nhớ xem mình đang ở đâu, dáng vẻ hệt như một chú mèo lười biếng.

“Thiếp ngủ quên mất, sao chàng không gọi dậy?”

Thiếu Hạo cười, “Có sao đâu, ta cũng phải xem tấu chương mà.”

A Hành đưa chiếc áo khoác trên người lại cho y, “Thiếp có chuyện muốn nói với chàng.”

“Nàng cứ nói đi.”

“Chàng còn nhớ giao ước giữa hai chúng ta hồi mới cưới không? Chàng đã thực hiện được ba điều, chỉ còn một điều nữa thôi.”

Thiếu Hạo rúng động cả cõi lòng, khẽ gật đầu, “Ta nhớ chứ, nàng giúp ta đăng cơ, ta để nàng được tự do lựa chọn, đi hay ở là tùy nàng.”

“Giờ chàng đã đăng cơ, thiếp được tự do lựa chọn rồi chứ?”

Bàn tay Thiếu Hạo giấu trong tay áo khẽ siết lại thành quyền, “Nàng nói đi.”

“Thiếp muốn đi.”

“Nàng định đi đâu?”

A Hành thoáng vẻ ngượng ngùng, nhưng giọng nói vẫn rất kiên quyết, “Thiếp đã hứa với Xi Vưu rằng sẽ ở bên hắn, hắn đi đâu thì thiếp đi đó.” Câu nói hằng ấp ủ trong lòng cuối cùng cũng có thể đường đường chính chính nói ra, nàng thấy người nhẹ nhõm hẳn, như vừa trút bỏ được một tảng đá, cảm giác hết sức thản nhiên tự tại, bất kế kết quả ra sao.

Thấy Thiếu Hạo cau mày trầm tư, A Hành nôn nóng bồi thêm, “Đây là giao ước giữa chúng ta đó! Giờ chàng đã thành vua một nước, tuy yêu cầu này có phần hoang đường, nhưng chẳng gây thiệt hại gì cho dân chúng Cao Tân, cũng không ảnh hưởng gì đến an nguy của chàng cả, dựa vào cơ trí và tài năng của mình, chàng hoàn toàn có thể sắp xếp ổn thỏa kia mà.”

Thiếu Hạo mỉm cười: “Nàng đừng nóng, ta đã hứa thì nhất định sẽ thực hiện. Chỉ là ta đang nghĩ nên làm thế nào thôi.”

A Hành nghe vậy mới thở phào. Thiếu Hạo nói tiếp: “Cuộc hôn nhân của chúng ta thực chất là đại diện cho mối liên minh giữa hai bộ tộc. Hiện giờ Hoàng Đế đang tiến hành đánh Thần Nông, chắc chắn không muốn phá vỡ liên minh, còn ta vừa mới đăng cơ, đế vị chưa vững, cũng chẳng thể hủy bỏ liên minh này.”

“Thiếp hiểu, mẹ và đại ca thiếp cũng không muốn phá vỡ mối liên minh này.”

Thiếu Hạo ngẫm nghĩ, “Ta định nhận Xương Phó, Tứ tẩu của nàng làm muội muội, dùng đại điển long trọng nhất sách phong nàng ta làm vương cơ Cao Tân, như vậy có nghĩa là, qua Xương Phó và Xương Ý, ta và Hoàng Đế vẫn giữ mối thông gia với nhau, đồng thời làm tăng thêm giá trị của Xương Phó và Xương Ý trong lòng Hoàng Đế, dù sau này Hoàng Đế có giận nàng, cũng không đến nỗi trút giận lên Tứ ca và mẫu hậu nàng.”

Thiếu Hạo quả là nhân tài xuất chúng, thoáng chốc đã nghĩ ra giải pháp vẹn cả đôi đàng thế này. A Hành mừng khôn tả xiết, luôn miệng cảm ơn y rối rít.

Thật ra, trong lòng Thiếu Hạo còn ấp ủ một kế hoạch quan trọng hơn, nếu Thanh Dương có thể thuận lợi đăng cơ thì dù A Hành có muốn đi hay ở đều có thể giải quyết ổn thỏa, chỉ là hiện giờ y không thể tiết lộ với nàng, nhất định phải vỗ yên A Hành, tranh thủ thời gian giúp Thanh Dương giành được đế vị.

Thiếu Hạo đề nghị: “Cho ta chút thời gian để sắp xếp, được không? Kỳ thực Thanh Dương thương nàng hơn ai hết, hai người bọn ta chắc chắn sẽ trả lại tự do cho nàng.”

A Hành đang mừng rỡ, liền đồng ý ngay: “Một lời đã định chứ?”

“Một lời đã định!” Thiếu Hạo phóng mắt ra ngoài cửa sổ, nhìn lên bầu trời đêm thăm thẳm không một ánh sao. Giờ đây Thanh Dương đang làm gì? Hoàng Đế đã bắt đầu “sinh bệnh” hay chưa? Chỉ cần Thanh Dương đăng cơ thì việc trả tự do cho A Hành dễ như trở bàn tay.

Y còn dặn thêm: “Trong thời gian chuẩn bị rời khỏi Cao Tân này, nàng có thể tự do ra vào Ngũ Thần sơn nhưng đừng để Xi Vưu lên đây nữa, đám thị vệ đã đổi trận pháp mới rồi.”

A Hành đỏ mặt thẹn thùng, khẽ đáp: “Vâng, thiếp về nghĩ đây.” Tiếng vạt áo loạt xoạt xa dần rồi mất hẳn.

Thiếu Hạo vẫn ngồi lặng bên bàn, hồi lâu chẳng hề cử động.

Trong đêm tối, tấm màn xanh biếc như nước tỏa ra lam quang lành lạnh, đồng hồ nước vẫn tí tách đều đều, âm vang, văng vẳng giữa đại điện mênh mông.

Tí tách, tí tách, tí tách…

Được Thiếu Hạo dốc sức ủng hộ, lại có A Hành dày công bố trí, hôn lễ đã được chuẩn bị đâu ra đó, chỉ đợi đến giờ lành ngày mai, Nặc Nại sẽ dẫn đội rước dâu đích thân tới biên giới giữa Cao Tân và Thần Nông đón Vân Tang.

Tối hôm đó, Nặc Nại bị An Dung, An Tấn cùng cả đám bạn bè quây lấy trêu chọc, ồn ào đến nửa đêm, khó khăn lắm mới giản tán được bọn họ. Có điều lòng cứ rộn rã hân hoan, y không sao ngủ nổi, bèn trở dậy kiểm tra lại hành trang thật kỹ, nhất định phải dành cho Vân Tang một hôn lễ hoàn mỹ nhất.

Trời còn chưa sáng, A Hành đã dậy rửa mặt chải đầu, vận cung trang rồi cùng Thiếu Hạo tới tiễn Nặc Nại.

Vừa đến nơi, Nặc Nại đã mũ áo chỉnh tề, phấn chấn đứng đợi, dường như chỉ nôn nóng muốn lên đường lập tức. Thấy vậy, Thiếu Hạo bèn chọc ghẹo y vài câu, khiến cả đám huynh đệ đứng đó cười rộ lên.

Đoàn người rầm rộ tiến thẳng ra ngoại thành, bọn An Tấn còn xoa tay bàn mưu náo loạn động phòng một trận ra trò. Đột nhiên một tiếng thét thất thanh vang lên, dàn nhạc hỷ đang véo von chợt ngưng bặt. Nhóm đi đầu đứng lại, nhưng mọi người ở phía sau vẫn tiến lên, khiến cả đội ngũ nhất thời rối loạn.

Chưa cần biết phía trước có chuyện gì, An Dung lập tức quát gọi người bảo vệ Tuấn Đế, sợ trong lúc hỗn loạn lại xảy ra biến cố. Tức thì, đám thị vệ đang ẩn náu xung quanh rào rào rút binh khí, bóng đao ánh kiếm lạnh ngắt xói vào mắt A Hành, khiến nàng hoảng hốt đưa mắt tìm Thiếu Hạo.

Thiếu Hạo nắm chặt lấy tay nàng, cao giọng lệnh cho tất cả mọi người đứng yên đợi lệnh.

Giọng nói uy nghiêm trầm tĩnh của y đã trấn áp được cả đoàn, mọi người dần ổn định trật tự. Thiếu Hạo nắm lấy tay A Hành bước lên trước, đoàn người tự động giãn ra, nhường đường cho họ.

Dần dần, bọn họ trông thấy thành lâu. Cổng thành mở toang, trước cổng giăng đèn kết hoa, chính giữa cổng treo lủng lẳng một thi thể phụ nữ. Nàng ta ăn vận theo lối phục sức của tân nương cung đình Cao Tân, mình khoác áo cưới đỏ rực, đầu đội mũ phượng lộng lẫy, quay mặt về phía đội rước dâu. Gió sớm khiến thi thể nàng lắc lư lay động, hệt như người sống, đang đợi tân lang của mình tới đón đi.

Nhận ra thi thể này chính là Khấp Nữ, A Hành thét lên kinh hãi, suýt nữa ngất xỉu, Thiếu Hạo phải giơ tay đỡ lấy nàng.

Nặc Nại đứng phía sau mặt mày tái nhợt, trừng ngừng nhìn thi thể Khấp Nữ.

An Tấn luôn miệng phỉ phui, sai binh lính hạ thi thể xuống rồi quay sang khuyên giải an ủi Nặc Nại: “Chỉ là một tỳ nữ, đừng vì chuyện này mà buồn rầu, làm ảnh hưởng đến hôn lễ”, đoạn sa sả chửi rủa: “Con tiện tỳ khốn kiếp, dám làm ra chuyện động trời, hỏng mất cả ngày vui.”

Thường Hy bộ xưa nay đều dùng phượng làm dấu ấn, hỷ phục của Khấp Nữ lại thêu chim phượng, mũ đội đầu cũng là mũ phượng, đều mang dấu ấn của Thường Hy bộ, đủ thấy thân phận của ả chẳng tầm thường chút nào. An Dung vội giật giật áo An Tấn, ra ý ngăn hắn đừng rủa sả Khấp Nữ nữa.

Nặc Nại bước tới trước mặt Thiếu Hạo, chỉ vào thi thể Khấp Nữ dưới đất, vặn hỏi: “Rốt cuộc nàng ta là ai?”

Thiếu Hạo thoáng trầm ngâm, “Ta tưởng nàng là thị nữ ngươi nhặt về.”

Nghe hai người một hỏi một đáp, A Hành cảm giác hình như bọn họ đều đã biết thân phận của Khấp Nữ, nhưng vẻ mặt cả hai khiến nàng lạnh toát người, chẳng còn lòng dạ nào tìm hiểu lai lịch ả nữa. Nàng muốn la lên bảo Nặc Nại, mặc kệ chuyện đó, mau đi rước dâu đi, Vân Tang đang đợi ngươi! Nhưng Khấp Nữ nằm kia vẫn đang mở to mắt lặng lẽ nhìn nàng, khiến nàng không sao cất nên lời.

Nặc Nại khàn khàn hỏi lớn: “Có ai từng gặp cô gái này chưa? Ai biết thân phận của cô ấy là gì không?”

Hồi lâu mới thấy một phụ nữ trang điểm lộng lẫy run rẩy bước ra hành lễ với Thiếu Hạo và Nặc Nại, “Thiếp thân học đòi kim chỉ, cũng có chút danh tiếng, từng tới Thường Hy bộ dạy mấy vị tiểu thư may vá thêu thùa, vị này chính là Băng Nguyệt tiểu thư của Thường Hy bộ, phụ thân cô ấy chính là cậu ruột của Nhị điện hạ.”

Gương mặt Nặc Nại thoát trắng bệch, y từ từ ngồi thụp xuống, hồn xiêu phách lạc nhìn Băng Nguyệt vận y phục đỏ rực, ánh mắt đầy hổ thẹn và áy náy.

Thường Hy bộ, Yến Long? A Hành dần hiểu được lại lịch của Khấp Nữ, thì ra đó chính là cô gái từng có hôn ước với Nặc Nại, cái tên Khấp Nữ hẳn là vì bị Nặc Nại ruồng rẫy mà khóc khô nước mắt. Có điều trước đây Nặc Nại và cô ta chưa từng gặp nhau, dù ngưỡng mộ dung mạo và tài hoa của y rồi bị y phũ phàng từ hôn, cũng đâu đến nỗi phải lao tâm ẩn náu bên y suốt hai trăm năm, để cuối cùng yêu y tha thiết, đành dùng cái chết phản đổi hôn sự này.

Thấy đôi môi anh đào của Bạch Nguyệt hơi he hé như đang ngậm vật gì đó, Nạc Nại liền nhẹ nhàng vạch miệng cô, lập tức một miếng bạch ngọc rơi xuống tay y, cặp mắt cô cũng theo đó mà khép lại, tựa hồ đã nói hết điều cần nói, từ nay yên lòng ra đi.

Nặc Nại run lẩy bẩy, nắm chặt lấy miếng ngọc, trừng trừng nhìn Thiếu Hạo, thét lên: “Năm xưa rốt cuộc ngươi đã làm gì để ép Thường Hy bộ hủy bỏ hôn ước hả?”

An Dung vội túm lấy chặt tay Nặc Nại, đẩy cho An Tấn giữ, rồi quỳ xuống dập đầu thỉnh tội với Thiếu Hạo, “Nặc Nại bi thương nôn nóng quá độ, nói năng không biết giữ gìn, xin bệ hạ niệm tình tha cho tội bất kính.”

Đột nhiên từ đằng xa vang lên tiếng la thét và khóc than, xem ra Thường Hy bộ đã nghe ngóng được tin, đang dẫn người đuổi tới. Kẻ nào đó còn cao giọng la lớn: “Giết chết Nặc Nại! Bắt hắn đền mạng cho tiểu thư!”

An Dung vội tâu: “Băng Nguyệt là biểu muội của Yến Long và Trung Dung, lại bị Nặc Nại từ hôn, e rằng chuyện này đã bị Trung Dung lợi dụng, gây ra đại loạn. Để bảo đảm an toàn, xin mời bệ hạ và vương phi lập tức về cung.”

Thiếu Hạo gật đầu, “Để bảo đảm an toàn cho Nặc Nại, đưa cả hắn về Thừa Ân cung cùng chúng ta.”

Cả đoàn người vội vã trở về Thừa Ân cung.

Thiếu Hạo cho tất cả thị vệ lui ra, chỉ để lại mình, A Hành và Nặc Nại, rồi lẳng lặng nhìn y chờ đợi. Nặc Nại cầm mảnh bạch ngọc đặt xuống trước mặt Thiếu Hạo, chất vấn: “Bệ hạ học thức uyên bác, hẳn biết rõ thứ này là gì? Vì sao Băng Nguyệt tiểu thư phải ngậm nó mà tự vẫn chứ?”

A Hành trân trân nhìn miếng ngọc trắng tinh thuần khiết trên bàn, sực nhớ tới một câu chuyện lưu truyền trong đám khuê các ở Cao Tân. Chuyện kể rằng có cô gái đã có hôn ước nhưng cha mẹ cô thèm muốn quyền thế, ép con gái cải giá. Trước ngày đại hôn, cô gái tiết liệt đó tự ví mình như bạch ngọc, trong trắng tinh khiết, quyết không thể làm hoen ố, bèn nắm lấy miếng ngọc trắng mà hôn phu khi trước tặng, nhảy xuống sông mà chết. Từ đó, khi nữ tử Cao Tân xuất giá, thường nắm một miếng bạch ngọc trong tay, tượng trưng cho phẩm chất của mình, kiên trinh thanh bạch như ngọc trắng.

Thiếu Hạo thẫn thờ nhìn miếng ngọc trên bàn, vẻ mặt phức tạp, hồi lâu mới lên tiếng: “Năm xưa, ngươi say rượu rồi ngang nhiên hẹn ước chuyện hôn nhân trước mặt mấy vị vương tử, phụ vương hết sức coi trọng lễ nghi, hậu cung lại bị tỷ muội Thường Hy thị thao túng hoàn toàn, hôn sự này coi như đã được xác định, không cách nào thoái thác được. Ta đã vắt óc tìm trăm phương nghìn cách, nhưng tất cả đều vô dụng. Có điều bất kể vì ngươi hay vì chính bản thân ta, ngươi cũng không thể cưới một nữ tử Thường Hy thị được. Cuối cùng ta đành dùng hạ sách, sai người gài bẫy Băng Nguyệt, chứng minh cô ta đã thất thân với kẻ khác, mới bức được Thường Hy bộ hủy bỏ hôn ước.”

“Ngươi…” Nặc Nại tím mặt lại, khàn giọng hỏi: “Ngươi có biết danh tiết của nữ tử Cao Tân quan trọng nhường nào không?”

“Dĩ nhiên ta biết, nhưng nếu ta không làm vậy, ngươi có biết hậu quả sẽ ra sao không? Băng Nguyệt bị người nhà làm công cụ, gả cho kẻ đã có ý trung nhân là ngươi, chẳng nhẽ ngươi sẽ tìm được hạnh phúc ư? Hy Hòa bộ quy thuận Yến Long, ngươi đành lòng giương mắt nhìn Yến Long giết chết ta, An Dung, An Tấn sao?”

Nặc Nại bỗng sụp xuống ủ rũ, nói cho cùng, tất cả đều tại y hồ đồ tự chuốc vạ vào thân. Thiếu Hạo chỉ giúp y thu dọn cục diện mà thôi.

“Thực ra, ta vốn định đền bù cho Băng Nguyệt.”

Nặc Nại giễu cợt: “Đền bù ư? Ngươi dùng thủ đoạn hạ lưu đó đối phó với một nữ tử yếu đuối bơ vơ, định lấy gì để đền bù đây? Dù ngươi có dùng uy quyền ép buộc kẻ nào đó kết hôn với nàng, thì phu quân của nàng cũng sẽ khinh miệt nàng suốt đời!”

“Nhất định không có chuyện đó! Bởi vì ta định sẽ cưới nàng, đương nhiên ta biết nàng còn thanh bạch!”

Nặc Nại sững người, Thiếu Hạo cay đắng nói tiếp: “Lúc đó ta định sau khi đăng cơ sẽ cưới nàng vào cung, long trọng sách phong nàng, vừa để đền bù, cũng vừa là bảo toàn nàng, đồng thời có thể giúp ta chia rẽ, lôi kéo Thường Hy bộ, nhưng…” Thiếu Hạo liếc nhìn A Hành, “Nhưng gần đây nhiều việc bộn bề, nhất thời chưa nghĩ tới chuyện lập thêm phi tần, nào ngờ lại chậm một bước.”

Nặc Nại thẫn thờ hồi lâu rồi phá lên cười thê thiết, dập đầu binh binh lạy Thiếu Hạo, “Thuở nhỏ ngươi thường chê ta hành sự quá cảm tính, còn ta lại cười ngươi làm việc quá lý trí kín kẽ, cái chết của Băng Nguyệt nói cho cùng đều là lỗi của ta, ngươi chẳng làm gì sai cả, khi nãy ta nóng giận trách lầm ngươi là bởi ta sợ sẽ mất đi tất cả, không dám thừa nhận chính mình đã hại chết Khấp Nữ… Băng Nguyệt.” Dứt lời, y đứng dậy, liêu xiêu bước ra khỏi điện.

“Nặc Nại.” A Hành cuống quýt gọi giật y lại, ngập ngừng hỏi, “Vân Tang… tỷ ấp làm sao đây?”

Nặc Nại ngoảnh lại nhìn nàng, vẻ mặt đau đớn in hằn trên mặt, ánh mắt chất chứa tuyệt vọng: “Vương phi nghĩ nàng có thể hân hoan bước qua cổng thành từng lủng lẳng thi thể Băng Nguyệt mà gả cho ta không? Ta đã hại chết Băng Nguyệt, chẳng lẽ còn muốn Vân Tang phải gánh lấy lời sỉ vả của người trong thiên hạ hay sao?”

Đột nhiên trước mặt A Hành hiện lên cảnh tượng Băng Nguyệt thân mang áo cưới, đầu đội mũ phượng, treo lủng lẳng trước cổng thành, cặp mắt tròn xoe trong vắt vẫn chăm chăm nhìn Nặc Nại. Nàng chợt thấy hơi lạnh từ đáy lòng lan đến đầu lưỡi, khiến lưỡi nàng đông cứng chẳng thốt nên lời, đành giương mắt nhìn Nặc Nại lảo đảo đi khỏi.

Suốt mấy ngày, bên ngoài cung náo động hỗn loạn, không sao dẹp yên được, nhưng trong cung lại yên lặng như tờ. Thiếu Hạo sợ bọn Trung Dung lấy cớ giết chết Nặc Nại, bèn ra lệnh giám sát Nặc Nại thật chặt, không cho phép y rời Thừa Ân cung nữa bước.

Nhờ Thiếu Hạo ra sức át đi, việc Băng Nguyệt tự vẫn cũng dần dần lắng xuống, chẳng ai dám nhắc đến cái chết của cô, càng không ai dám đả động đến hôn sự của Vân Tang và Nặc Nại nữa, như thể chuyện đó chưa hề tồn tại.

Nặc Nại đều ngày ngày uống say bí tỉ, không một ai tới tìm y, y cũng chẳng hề hé răng nói năng gì, chỉ ôm lấy hũ rượu ngủ vùi.

A Hành không biết làm sao, đành đi hỏi Thiếu Hạo. Y đáp: “Băng Nguyệt ở bên Nặc Nại suốt hai trăm năm, đã trở thành thân tín của Nặc Nại. Rõ ràng nàng ta có vô số cơ hội báo thù y, vậy mà lại chọn lấy cách tuyệt vọng nhất. Nàng ta vận đồ tân nương, trang điểm lộng lẫy rồi treo cổ tự vẫn ngay trước cổng thành chính là muốn phá tan hôn lễ của Vân Tang và Nặc Nại. Trung Dung lại nhân cơ hội làm toáng chuyện này lên, khiến toàn thành đều biết Nặc Nại hủy hôn để lấy người khác, tham vọng trèo cao, vì muốn kết hôn với Trưởng vương cơ Thần Nông địa vị cao quý mà bức một nữ tử thanh bạch kiên trinh vào đường cùng, phải lấy cái chết tỏ lòng. Hiện giờ cả Cao Tân đều đang chửi rủa Nặc Nại, căm ghét Vân Tang. Ta có thể áp chế bọn Trung Dung nhưng không thể bịt được miệng dân chúng, đừng nói là hôn sự của hai người họ, ngay chức tước của Nặc Nại cũng khó mà giữ được, mấy hôm nay ngày nào cũng có quan viên dâng sớ vạch tội y.” Thiếu Hạo đẩy một chồng tấu sớ tới trước mặt A Hành.

A Hành buồn bã: “Hết cách thật rồi sao?”

Thiếu Hạo trầm ngâm đáp: “Đành chờ thời gian đưa ra kết quả cuối cùng chứ biết sao. Vết thương Băng Nguyệt gây ra cho Nặc Nại cũng cần thời gian bình phục, dân chúng mãi rồi sẽ quên lãng chuyện này thôi.”

A Hành đành viết thư an ủi Vân Tang. Vân Tang gửi thư phúc đáp, giọng điệu vẫn vô cùng bình thản, hệt như tính tình Vân Tang vậy, càng ở vào thời khắc bi thương lại càng trấn tĩnh. Vân Tang còn tha thiết khuyên nàng: đời người biến ảo khó lường, họa phúc chỉ cách nhau gang tấc, quan trọng nhất là biết trân quý cái mình đang nắm giữ, đừng để Xi Vưu mòn mỏi đợi chờ thêm nữa!

A Hành nắm chặt phong thư, ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, chớp mắt đã sắp mùng tám tháng Tư, lại đến tết Khiêu Hoa ở Cửu Lê rồi. Nàng chợt thấy mình không sao chịu nỗi bầu không khí nặng nề u ám ở Thừa Ân cung nữa, nàng muốn gặp Xi Vưu, nàng muốn gặp hắn ngay lập tức.

Sắp xếp xong mọi chuyện trong cung, A Hành liến bay thẳng tới Cửu Lê.

Hoa đào trên núi Cửu Lê nở rộ như lửa như tranh, thấp thoáng giữa rừng đào là căn nhà sàn khép cửa, lặng lẽ đợi người về.

Có lẽ vì tự do đang ở ngay trước mắt, nên khi mở cửa ra, A Hành chợt có một cảm giác là lạ, khác hẳn trước đây. Nàng bước ra sân phơi, đưa mắt ngắm núi non quanh đó, càng ngắm càng nghe lòng rộn rã, bèn quanh sang hỏi A Tệ: “Sau này chúng ta sẽ ở lại đây, được không?”

A Tệ nhoẻn cười, lăn tròn trên mặt đất, huơ huơ bốn chân, tỏ vẻ thích thú.

“Mày thấy thế nào, Liệt Dương?”

Liệt Dương ngồi vắt vẻo trên cành đào, hờ hững đáp: “Cô thấy thích là được.”

A Hành vỗ tay đánh đét: “Hay lắm, vậy từ mai chúng ta bắt đầu bày biện nhà của bọn mình!”

Sáng hôm sau tỉnh dậy, A Hành ra chợ dạo quanh một vòng mua cả đống đồ đạc, về tới nhà đã thấy Liệt Dương và A Tệ quét dọn sạch sẽ phòng ốc từ trong ra ngoài, khiến ngôi nhà sàn được thay áo mới.

A Hành sắp xếp phòng ở cho mình và Xi Vưu xong, lại bố trí riêng cho Liệt Dương một căn phòng, đồng thời làm luôn cho nó một cái tổ trên cây, rồi quay sang hỏi A Tệ: “Hàng ngày mày ngủ dưới gốc đào, bầu bạn cùng Liệt Dương, khi nào mưa thì lên nhà sàn, được không?”

A Tệ hớn hở chạy vòng vòng quanh gốc đào.

Xong xuôi mọi việc, A Hành đứng trước nhà quan sát từng thứ một, rèm bích loa, sa thiên thanh, trúc phượng vĩ, rừng hoa đào… hình như còn thiếu gì đó?

Nàng chạy vút vào nhà, lục rương cũ lấy ra chiếc chuông gió bằng răng thú vẫn treo trên Ngọc sơn năm xưa, tuy chuông gió đã úa màu thời gian nhưng lại đượm một niềm ngậm ngùi xưa cũ.

Treo dưới hiên nhà, gió vừa lướt qua, từng chuỗi tinh tinh tang tang, tang tang tinh tinh lại cất lên êm đềm hệt như ba trăm năm về trước.

Xi Vưu cưỡi Tiêu Dao đến Cửu Lê, đã thấy A Hành đợi dưới cội đào tự khi nào.

Hắn vội nhảy xuống ôm chầm lấy A Hành, cười hỏi: “Nàng đến lâu chưa? Đi nghe sơn ca không?”

A Hành lắc đầu cười rồi kéo tay hắn: “Mình về nhà đi.”

Hoa đào nở đỏ rực rỡ trên núi, căn nhà sàn biếc xanh sắc trúc thấp thoáng giữa rừng hoa, chưa lại gần đã nghe thấy tiếng chuông gió tinh tang, như không như có, êm đềm rất mực. Xi Vưu bất giác rảo bước thật mau, đến khi tới trước cửa nhà, hắn bỗng sáng cả mắt lên.

Xung quanh nhà là một hàng giậu trúc, bên giậu trồng đủ tường vi, thạch cúc, khiên ngưu, đỗ quyên… vàng, đỏ, trắng, lam… các loại hoa đủ màu sắc nở rực trước giậu. Sau nhà còn một mảnh vườn mới cuốc, Liệt Dương đang chỉ huy hơn mười mấy chú chim bay qua bay lại gieo hạt, tíu tít cả lên, trong khi A Tệ uể oải nằm dài dưới gốc đào, thoạt nhìn hệt như một con chó canh cửa.

Xi Vưu đứng ngây ra, sững sờ. Từ bé hắn lớn lên nơi rừng hoang núi vắng, ngạo nghễ tự tại giữa sơn lâm, thả sức rong ruổi cùng mây nước, cả đất trời đều thuộc về hắn, nhưng hắn chưa từng có một mái nhà. Thuở nhỏ hắn từng trông thấy mỗi khi khói bếp lững lờ bốc lên, đám trẻ đều hớn hở chạy về nhà trong tiếng ời ời của mẹ, hồi đó hắn còn chưa hiểu tại sao mình thà bị đánh đuổi cũng vẫn quanh quẩn gần làng mạc, không chịu bỏ đi, về sau mới vỡ lẽ ra, hắn mới thật sự hiểu ra, đứa trẻ hoang dã, sống cuộc sống như muông thú năm xưa cứ quanh quẩn ngoài bản, nấp trong rừng lén rình rập từng nhà, bởi nó cũng khao khát được bước vào một ngôi nhà thuộc về mình.

Xi Vưu cố nén bao niềm cảm khái đang cuộn trào trong lòng, lên tiếng: “Nếu mở cửa ra lại thấy một mâm cơm sẵn sàng nữa, mới đúng là về nhà.”

A Hành liền vén rèm lên: “Chúng mình về nhà thôi.”

Đồ ăn trên bàn đang bốc hơi nghi ngút, mùi thơm nức mũi. Xi Vưu lặng lẽ tiến lại, ngồi xuống ăn hết sức ngon lành. A Hành cũng ngồi xuống cạnh hắn nhưng vừa nếm một miếng đã cau mày, nàng chỉ quen trồng hoa tỉa lá chứ chẳng giỏi nấu ăn, mấy món này quả là miễn cưỡng lắm mới nuốt được.

Xi Vưu cười bảo: “Từ sau cứ để ta làm cơm.”

Vừa nghe thấy câu “từ sau”, A Hành đã mừng rơn, gật đầu lia lịa, “Nói lời phải giữ lấy lời nhé, ai không giữ lời thì là…” Nàng chợt khựng lại, chửi người khác là súc sinh tức là xúc phạm người ta, nhưng nói Xi Vưu là súc sinh chẳng khác nào đang khen hắn, làm hắn cao hứng! A Hành cau mày nặn ra một câu khác, “Ai không giữ lời thì là người!”

Xi Vưu vừa hớp một ngụm Ca tửu, nghe nói liền phun ra.

A Hành nhìn hắn cười khúc khích, trên đời này có niền hạnh phúc nào bằng được trông thấy người mình yêu thương tươi cười chứ?

Dùng cơm xong, hai người lại ra trước cửa ngồi uống trà hóng mát. Xi Vưu hỏi nhỏ: “Căn nhà này là nàng dành cho ta thật ư?”

“Cũng là chàng dành cho ta đó.”

“Thế còn căn nhà của Thiếu Hạo dành cho nàng?”

A Hành cười khúc khích, nhân tiện thừa nước đục thả câu, cố ý trêu Xi Vưu, “Nếu biểu hiện của chàng tốt, ta sẽ rời xa Thiếu Hạo.”

Bấy giờ Xi Vưu mới hởi lòng hởi dạ, liền mặt dày nâng cằm A Hành lên, nửa cười nửa không, hỏi: “Nàng nói về phương diện nào thế? Trên giường hả?”

A Hành thẹn thùng vung tay đấm hắn, Xi Vưu bèn ôm nàng đặt lên đùi, vòng tay siết chặt lấy A Hành để nàng khỏi vùng vẫy làm loạn. A Hành tựa đầu vào vai hắn hỏi: “Lần này chàng nán lại được mấy ngày?”

“Nàng ở bao lâu, ta cũng ở bấy lâu.”

“Trong cung đã có con rối thay chân ta, lại được Thiếu Hạo che chở, khó mà phân biệt được thật giả, hơn nữa mọi người đều biết ta yếu đuối lắm bệnh, không thể gặp khách khứa, ta có nán lại vài ngày cũng chẳng ai phát hiện ra đâu, nhưng chàng là Đốc Quốc Đại tướng quân kia mà.”

“Chúc Dung vừa xuất quan đã tất bật bắt tay vào xử lý công việc, mấy trăm năm nay tuy Du Võng không nói ra, nhưng trong lòng hắn cũng thấy ta quá mức tàn bạo, lần này hắn định dựa vào Chúc Dung để xoa dịu nỗi oán giận của đám chư hầu quý tộc kia, nên hiện giờ ta rất nhàn nhã.”

A Hành hỏi đầy hàm ý: “Chàng nhàn nhã như thế, có thể lui về ở ẩn được chăng? Chúng ta có thể định cư ở Cửu Lê, chàng trồng đào, ta chăn tằm.”

Xi Vưu cười cười không đáp, hồi lâu mới nói: “Nhất định sẽ có ngày như thế! Nhưng trồng đào ta thấy suốt ruột lắm. Ta muốn đưa nàng và Tiêu Dao đi làm vài việc mà người đời chưa từng làm qua. Mọi người đều nói Thang cốc là cực Đông của đại hoang, Ngu uyên là cực Tây, Nam minh là cực Nam, Bắc minh là cực Bắc. Nhưng cực Đông của Thang cốc, cực Tây của Ngu uyên, cực Nam của Nam minh, cực Bắc của Bắc minh là gì? Lẽ nào Thang cốc Ngu uyên, Nam minh Bắc minh là chốn mênh mông bát ngát không có bến bờ ư? Tới chừng đó, hai ta sẽ cưỡi Tiêu Dao đi tới nơi mà người đời chưa từng đặt chân tới.”

“Còn cả Liệt Dương và A Tệ nữa chứ.”

“Ừ, cả Liệt Dương và A Tệ!”

A Hành nhoẻn cười, chìa ngón út ra, “Ngoéo tay treo cổ!”

Xi Vưu cũng bật cười, ngoắc tay với nàng, “Nhất định giữ lời!”

Ngón út của cả hai ngoắc lấy nhau, kéo qua kéo lại mấy lần, còn hai ngón cái lại áo vào nhau, như hai kẻ đang hôn nhau say đắm, bọn họ chăm chú nhìn ngón tay mình rồi phá lên cười, chẳng hẹn mà cùng xòe cả năm ngón tay ra, đan vào tay đối phương.

Xi Vưu dùng tay kia bế thốc A Hành vào phòng, đặt lên giường, cởi bỏ y phục của nàng rồi áp tay lên bụng nàng, từ bụng lần lên ngực, từ ngực lại men xuống cánh tay, đan tay mình vào tay nàng, khăng khăng khít khít.

Chiếc chuông gió dưới hiên nhà lại reo lên rộn rả như trước làn gió xuân hây hẩy.

Ngày tháng giữa núi rừng trôi qua rất mau, thoáng chốc Xi Vưu và A Hành đã ở lại Cửu Lê hơn một tháng.

Có lúc A Hành cảm giác những tháng ngày này sẽ dài ra vô tận, miễn là bọn họ ở ẩn nơi đây, dù bên ngoài xảy ra chuyện gì cũng không liên quan tới họ.

Nhưng dù có lãng quên thế giới ngoài kia thì thế giới ngoài kia cũng không chịu bỏ qua cho họ.

Xích điểu mang theo thẻ ngọc bay đến Cửu Lê.

Xi Vưu đọc xong mấy dòng ghi trên thẻ ngọc, ngẩng lên bảo A Hành: “Ta phải về đây. Hoàng Đế ngự giá thân chinh, đã đánh bại Cộng Công, khiến quân sĩ Thần Nông hoang mang bối rối. Du Võng bị Chúc Dung xúi giục cũng chuẩn bị ngự giá thân chinh, dẫn quân giao chiến với Hoàng Đế.”

“Gì cơ?” A Hành kinh hoàng, không dám tin vào tai mình nữa.

“Thần tộc đến giờ vẫn còn truyền tụng mãi chuyện ba ngàn năm trước Hiên Viên Hoàng Đế chỉ trong một đêm hạ mười tám ngọn núi Yên Bắc. Vừa nghe nói Hoàng Đế ngự giá thân chinh, tướng lĩnh Thần Nông quốc sợ kinh hồn bạt vía cả. Du Võng liền cử Cộng Cộng ra ứng chiến, nhưng Cộng Công thảm bại khiến trên dưới Thần Nông đều khiếp hãi, kích động sĩ khí, lại được thêm Chúc Dung xúi bẩy, Du Võng cũng quyết định ngự giá thân chinh, đại quân đã xuất phát rồi.”

Hoàng Đế và Viêm Đế đích thân giao chiến với nhau ư?

A Hành choáng váng, vội vịn vào song cửa rồi từ từ ngồi phệt xuống đất. Mới lưu lại nơi đây một tháng mà thế gian đã mây vần gió giục, đất trời biến sắc nhanh thế kia ư?

Xi Vưu xưa nay quen thói hành sự dứt khoát, hắn vòng tay siết chặt lấy A Hành lần cuối rồi nhảy lên lưng Tiêu Dao, “Sau khi dẹp yên mọi chuyện, ta sẽ về tìm nàng.”

A Hành lẳng lặng gật đầu mà lòng nặng trĩu, đột nhiên, nàng níu chặt lấy hắn: “Chàng đừng đi có được không?”

Xi Vưu nhướng mày cười, “Nàng hiểu tính người đàn ông của mình mà, A Hành. Lúc ta bị Chúc Dung truy sát, Du Võng nửa đêm tới quỳ xin Viêm Đế thu hồi lệnh giết ta; sau khi ta đến Thần Nông, mọi người đều khinh bỉ ta, sợ hãi ta, chỉ có Du Võng đối xử tử tế với ta, mang rượu tới uống cùng ta; khi ta nổi cơn thịnh nộ đánh bị thương mọi người, trốn khỏi Thần Nông sơn, ngay đến Viêm Đế cũng quyết định vứt bỏ ta, Du Võng lại đuổi theo ta suốt đêm, bầu bạn cùng ta mấy ngày. Nếu không có tên Du Võng hiền từ đôn hậu, nhu nhược, cả nể đó thì cũng chẳng có Xi Vưu ta ngày hôm nay, chúng ta cũng chẳng thể gặp lại nhau.”

Xi Vưu nói chẳng sai, ngay cả Viêm Đế cũng mưu mô tính toán với hắn vì Thần Nông tộc, chỉ có mình Du Võng từ trước đến nay luôn chân thành đối đãi, tuy hắn đối với kẻ địch hết sức hung tàn nhưng đối với ân nhân lại dốc hết sức hết lòng báo đáp, A Hành còn biết nói gì nữa đây.

Xi Vưu rướn người qua cửa sổ, nồng nàn đặt lên môi nàng một nụ hôn, “Ta đi đây!”

A Hành vẫn bịn rịn nắm chặt tay hắn không buông!

Tiêu Dao từ từ bay lên cao, tay hắn cũng dần rời khỏi tay nàng. Dường như cũng hiểu được nỗi lòng của A Hành, Tiêu Dao không bay vút đi ngay, mà chỉ từ từ bay xa dần. Xi Vưu ngoảnh lại quyến luyến nhìn nàng.

Triền núi bạt ngàn những gốc đào, bấy giờ đã bào độ hồng phai lục thắm. Gió Đông tiễn xuân đi, cuốn theo ngàn ngàn vạn vạn hoa tàn nhị héo lả tả đầy trời. Trong căn nhà sàn xinh xắn lẻ loi giữa rừng đào, A Hành thẫn thờ bên cửa sổ, nhìn theo dáng Xi Vưu đi khỏi, bóng áo xanh quạnh quẽ càng thêm phần cô độc giữa một trời thắm đỏ mưa hoa.

Biết Xi Vưu cũng rầu rĩ chẳng nỡ xa mình, A Hành ra sức vẫy tay, cố lấy giọng vui vẻ nói vọng theo: “Lần sau chàng về, chúng mình có thể ăn rau tự trồng lấy rồi!”

Nghe thấy câu nói của nàng, Xi Vưu chợt thấy lòng bối rối khôn xiết, khóe mắt cay cay, bao hào tráng chí căng tràn lồng ngực dường như đều hóa thành niềm ôn nhu mềm mại vấn vít giữa ngón tay. Ai bảo anh hùng không xúc động, chẳng qua chỉ là chưa tới lúc rơi lệ mà thôi.

Thấy bóng A Hành xa mờ dần cuối chân trời, Xi Vưu bèn quay ngoắt đi, vừa sai Tiêu Dao tăng tốc, vừa cao giọng ca vang, dốc hết nhiệt tình căng tràn lồng ngực vào khúc tình ca nồng nàn say đắm, thổ lộ tình cảm trong lòng mình cho cả trời đất cùng hay.

 Chương 6:

Lần đầu tiên A Hành nghe thấy Tiêu Dao rít lên thê thảm nhường ấy, tuy nàng bay về phía Đại ca, nhưng bên tai cứ văng vẳng tiếng kêu bi thiết của Tiêu Dao, một tiếng rít như một câu hỏi xoáy vào lòng nàng, Xi Vưu đang bị trọng thương, vì sao cô có y thuật cao siêu lại không ra tay cứu hắn? Vì sao cô nhẫn tâm nhìn Xi Vưu mất mạng? Vì sao? Vì sao hả?

A Hành dọn dẹp nhà cửa gọn gàng rồi lên đường quay về Cao Tân.

Cuộc đối đầu chính diện giữa hai vị đế vương đã làm chấn động cả đại hoang, điều này dọc đường đi nàng có thể cảm nhận rất rõ.

Phố phường phồn hoa giờ vắng hoe vắng hoắt, con đường lớn ngoài thành lúc nào cũng rầm rập xe ngựa lao như bay về phía Cao Tân, trên xe lúc nhúc những người xách nách mang đủ thứ, có lẽ bởi Cao Tân không tham gia vào cuộc chiến nên đã trở thành chốn bình yên cuối cùng tại đại hoang, dân chúng đều đổ xô về đó.

Mặt mày ai nấy đều đăm chiêu rầu rĩ, kẻ có người nhà ra trận lo lắng cho an nguy của thân nhân đã đành, người chẳng có cũng thấp thỏm không yên, bởi chồng con họ bất cứ lúc nào cũng có thể bị gọi nhập ngũ.

Trong khi Thần Nông quốc vần vũ mây đen thì Cao Tân quốc lại nhộn nhịp khác thường, trà lầu tửu quán càng lúc càng ăn nên làm ra, sau một ngày bận rộn, mọi người đều thích tụ về đây để nghe đám dân chạy nạn từ Thần Nông quốc đến kể chuyện về cuộc chiến cách họ xa lắc xa lơ.

Chiến tranh chỉ đớn đau nếu nó trực tiếp tác động đến bản thân, còn đối với kẻ vô can, đó là một cuộc vui bất tận.

Dân chúng Cao Tân chỉ mãi hả hê thưởng thức câu chuyện truyền miệng hấp dẫn của đám dân tị nạn chứ nào hiểu nỗi lo lắng ưu tư của Thiếu Hạo cùng mọi điều mà y đã, đang và sắp phải làm để bảo vệ bình yên cho họ.

Về đến Ngũ Thần sơn, A Hành lập tức tới tìm Thiếu Hạo, nàng nóng lòng muốn biết mọi thông tin về cuộc chiến.

Thiếu Hạo đang ngồi lặng nơi thềm điện, giữa ánh tà dương. Cả cung điện nguy nga lộng lẫy vắng tanh, giường như chỉ còn mình y đơn độc.

Chốc chốc lại thấy một cánh Huyền điểu chấp chới bay tới, sà xuống tay y, báo cáo tin tức.

Trông thấy A Hành, y bình thản cười: “Nàng về rồi.”

A Hành ngồi xuống thềm điện, bên cạnh y: “Chàng bảo, rồi sẽ ra sao?”

“Chỉ có hai khả năng, hoặc là Hiên Viên thắng, hoặc là Thần Nông thắng, thế thôi. Ta cũng chẳng biết rốt cuộc ai sẽ thắng nữa.”

“Chàng muốn bên nào thắng?”

“Nàng muốn ta nói thật ư?”

“Chàng nói đi.”

“Hai phe cùng bị diệt chắc rằng không thể, ta chỉ hy vọng đôi bên đều thương tổn thôi.”

A Hành gượng cười: “Thật chẳng hiểu sao Đại ca thiếp lại chịu nổi chàng?”

Thiếu Hạo cũng bật cười theo, nhưng ánh mắt vẫn đầy tư lự, Thanh Dương, rốt cuộc ngươi đang làm gì? Sao không gửi thư trả lời ta?

“Tình hình hiện giờ ra sao rồi?” A Hành hỏi.

“Tin tình báo mới nhất cho biết song phương đang dàn quân hai bên bờ Phản Tuyền[1], tình hình rất căng thẳng.”

[1] Theo truyền thuyết, đây là nơi Hoàng Đế giao chiến với Viêm Đế. (ND)

Một cánh Huyền điểu xuyên qua bóng chiều đậu xuống ngón tay Thiếu Hạo, y lặng lẽ đọc những dòng ghi trên thẻ ngọc rồi nhấc tay, Huyền điểu lại vỗ cánh bay đi.

“Ứng Long đã dẫn theo hai lộ quân Yêu tộc từ cánh Nam bắt đầu tấn công. Yêu tộc nhanh nhẹn hơn hẳn Thần tộc và Nhân tộc, ắt hẳn Hoàng Đế muốn tận dụng lợi thế này để vượt Tề thủy[2].”

[2] Tên con sông thời xưa, bắt nguồn từ Hà Nam, chạy qua tỉnh Sơn Đông vào Bột Hải, Trung Quốc. (ND)

“Đại ca từng khen Ứng Long là viên tướng tài hiếm có, trí dũng song toàn, xem ra phụ vương định ra tay trước đây mà, đối thủ bên kia là ai?”

“Hậu Thổ.”

Nếu là Hậu Thổ, e Ứng Long khó nắm chắc phần thắng. A Hành trầm tư nghĩ ngợi, Thiếu Hạo cũng đăm chiêu suy tính.

Chẳng bao lâu, Huyền điểu lại bay về.

“Di Bành lại dẫn hai đạo quân xuất phát từ cánh Tây, bọn họ sẽ đụng độ Chúc Dung.”

A Hành khẽ buột miệng: “Di Bành tính tình kiên nhẫn, hành xử thận trọng, nhưng Thần lực của Chúc Dung bây giờ đã hơn hẳn năm xưa, Di Bành không đấu lại hắn đâu.”

“Nàng chớ quên Hoàng Đế là người mưu lược tính toán giỏi nhất trên đời, Hiên Viên Huy, anh cùng cha khác mẹ của Di Bành từng bị Chúc Dung thiêu sống, Di Bành đợi cơ hội phục thù mấy trăm năm nay, ắt hẳn sẽ liều chết chiến đấu, hơn nữa Hoàng Đế ban cho y toàn quân tinh nhuệ, dù Chúc Dung có Thần lực cao tới đâu chăng nữa, cũng phải sợ chết, vậy ít ra Di Bành còn chắc thắng bốn phần.” Thiếu Hạo thở dài, có phần giễu cợt, “Hoàng Đế nắm rất rõ con cờ nào nên đặt xuống vị trí nào, đến cả mối hận của con mình, ông ta cũng sẵn sàng lợi dụng để đạt mục đích.”

A Hành chỉ biết làm thinh không nói, người người đều tôn sùng Hoàng Đế, nhưng nỗi lòng những kẻ làm con Hoàng Đế, có mấy ai hiểu được đâu.

Hoàng hôn lụi dần, sắc trời đã chuyển sang tối sầm.

Bình minh dần ló dạng, sắc trời cũng hửng lên.

Từng cánh từng cánh Huyền điểu cứ bay đi rồi lại bay về.

Trải qua một ngày một đêm, Ứng Long và Hậu Thổ vẫn đang quyết chiến, Di Bành và Chúc Dung cũng ở vào thế giằng co ác liệt.

Một cánh Huyền điểu lại bay tới, Thiếu Hạo lên tiếng: “Phụ vương nàng dẫn theo bốn lộ quân xuất phát, đụng độ với đại quân của Xi Vưu.”

A Hành mặt mày tái mét còn Thiếu Hạo lại cau mày trầm tư, Thanh Dương đâu rồi? Thanh Dương đang ở đâu? Chiến dịch này quan trọng nhường ấy, Hoàng Đế sao có thể không dùng y cơ chứ?

Y khoát tay, lập tức một bức địa đổ do thủy linh ngưng tụ hiện lên trước mặt, địa hình quanh Phản tuyền cũng theo đó mà bày ra rành rành, nào là Phản sơn cao chót vót, Phản tuyền gồm bảy nguồn suối thông nhau, Phản tuyền thành hiểm yếu, Tề thủy nước xiết…

Thiếu Hạo vừa quan sát vừa lẩm bẩm: “Tề thủy chỉ có khúc này là hẹp nhất, rất tiện qua sông, bởi thế Hoàng Đế mới lệnh cho Yêu tộc thông thạo thủy tính, linh hoạt nhanh nhẹn tiến công vào đây, quả là sách lược tấn công sáng suốt. Viêm Đế hẳn cũng đoán ra chuyện đó nên sai kẻ thận trọng chín chắn như Hậu Thổ trấn giữ ở đây, sách lược phòng thủ này không tồi.”

Y lại lấy tay chỉ quanh Phản sơn, “Di Bành xuất phát từ chỗ này, quân Chúc Dung đóng ở đây, tinh nhuệ đụng độ với tinh nhuệ, Hoàng Đế tiến quân từ đây, quân Xi Vưu đóng chỗ này, Hoàng Đế lấy uy thế của mình chóng chọi với sự hùng mạnh của Xi Vưu.” Thoạt nhìn, kế hoạch của Hoàng Đế hết sức kín kẽ, ông đang dốc toàn lực để đánh chiếm Phản thành, nhưng… rốt cuộc là không bình thường ở đâu? Không bình thường ở đâu nhỉ?

Thiếu Hạo cau mày ngẫm ngợi hồi lâu, dưới ánh trăng, bức địa đồ do thủy linh tụ thành cũng xanh ngời lóng lánh, hắt lên mặt y, khiến gương mặt đượm vẻ thâm sầu khó lường.

A Hành góp lời: “Từ nhỏ phụ vương đã dạy bọn thiếp phải biết bảo toàn thực lực, tính kỹ hẵng làm, một đòn tất trúng, thiếp thật chẳng ngờ lần này phụ vương lại huy động binh lực cả nước tấn công Thần Nông, ép Viêm Đế phải dốc toàn lực ứng phó, song phương quyết chiến nhanh như vậy.”

Thiếu Hạo vừa nghe nói liền đứng phắt dậy, biến sắc mặt.

Toàn lực đấu toàn lực! Tính tình Hoàng Đế vốn không phải như vậy! Đây chính là chỗ bất bình thường!

Mấy ngàn năm trước, Hiên Viên tộc chỉ là một Thần tộc nhược tiểu nên Hoàng Đế buộc phải quý binh lực như vàng, bởi ông ta không thể lãng phí được! Lấy cái nhỏ yếu nuốt dần cái hùng mạnh, tránh không giao đấu chính diện, ra sức bảo toàn lực lượng quân ta mới là phong cách xưa nay của Hoàng Đế. Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời, Hoàng Đế sao có thể đột ngột như vậy được? Vả lại, ông ta thừa biết Cao Tân như hổ đói đang rình bên cạnh, chỉ mong sao hai bên đều bại vong, vậy điều này càng không thể nào!

A Hành vọt miệng hỏi: “Sao thế?”

Thiếu Hạo định thần lại, trân trân nhìn địa đồ nói: “Cả đại hoang đều bị Hoàng Đế gạt hết rồi, tuy ca dao xưa vẫn có câu ‘Mất Phản thành, mất Trung nguyên, được Phản thành, được Trung nguyên’, nhưng mục tiêu của Hoàng Đế không phải là thành trì quan trọng nhất Thần Nông quốc đó đâu.”

“Vậy phụ vương thiếp huy động binh lực toàn quốc làm gì?”

“Ông ta muốn lấy mạng Viêm Đế!”

A Hành đứng phắt dậy, vẻ mặt kinh hãi.

Thiếu Hạo giải thích: “Chiến tranh không chỉ cần vũ lực, mà còn cần cả quốc lực, hiện nay dưới sự trị vì của hai người Du Võng và Xi Vưu, một cương một nhu, Thần Nông ngày càng giàu mạnh, dân chúng no đủ, Hiên Viên nghèo đói sao có thể đối chọi Thần Nông trù phú đây? Hai trăm năm nay, phụ vương nàng đã dùng mọi cách để chia rẽ Du Võng và Xi Vưu, nhưng Xi Vưu giảo hoạt như hồ ly, trước sau chẳng hề mắc bẫy, còn Du Võng lại là kẻ bảo thủ, một khi nhận định điều gì là đúng thì chẳng buồn để ý người khác khuyên ngăn. Trước sự phồn thịnh của Thần Nông, nguyện vọng Đông tiến của Hoàng Đế cơ hồ bất khả, nhưng chỉ cần Du Võng chết đi, tình thế sẽ thay đổi lập tức. Xi Vưu hành xử quá cương liệt, cứng quá thì gãy, hơn hai trăm năm nay, mâu thuẫn giữa các phương với Xi Vưu đều phải dựa vào Du Võng mềm mỏng hóa giải, dù đám chư hầu kia có bất mãn đến mấy chăng nữa, hễ Du Võng còn sống, chúng cũng chỉ dám hy vọng làm suy yếu quyền lực của Xi Vưu chứ không nghĩ tới chuyện làm phản, nhưng một khi Du Võng nằm xuống, bọn chúng nhất định không quỳ gối trước kẻ bất đồng về xuất thân, xung đột về lợi ích với chúng như Xi Vưu đâu…”

A Hành tái mặt, lẩm bẩm: “Nếu Thần Nông quốc chia năm xẻ bảy, phụ vương có thể phân ra tấn công đánh chiếm từng phần rồi.”

Thiếu Hạo trầm ngâm quan sát địa đồ, rồi kính phục buông lời cảm thán: “Thần Nông Viêm Đế! Hiên Viên Hoàng Đế!” Nếu Viêm Đế đời trước đã khéo léo lợi dụng xuất thân và tính tình đặc biệt của Xi Vưu để đi một nước cờ tuyệt diệu chưa từng thấy, thì Hoàng Đế hiện giờ cũng lợi dụng chính những đặc điểm đó phá giải thành công cục thế mà Viêm Đế bày ra, hơn nữa còn ăn lại một quân cờ của Viêm Đế.

Hai bậc đế vương, kẻ còn người mất, cùng chơi một cuộc cờ suốt mấy trăm năm đến giờ, kẻ đứng ngoài quan sát cục diện là Thiếu Hạo mới sực tỉnh, thì ra mấy người bọn họ so với hai lão hồ ly kia còn khờ khạo lắm. Bất giác y cảm thấy vừa sợ hãi vừa nôn nóng, chỉ muốn biết nếu Viêm Đế còn tại thế, sẽ đối phó nước cờ này của Hoàng Đế ra sao. Tiếc rằng Viêm Đế đã qua đời, bởi thế, ông chẳng thể đánh cờ được nữa. Hoàng Đế coi như nắm chắc phần thắng!

Người như Hoàng Đế, Thiếu Hạo y sao có thể đối phó bằng mấy mẹo vặt như đối phó với phụ vương mình được? Nghĩ vậy, y chợt thấy sởn cả gai ốc, Thanh Dương chỉ cần nổi sát tâm, ắt khó giữ được mạng!

Thiếu Hạo lập tức huýt gọi Huyền điểu.

Bên tai A Hành cứ lùng bùng mấy câu: Hoàng Đế muốn lấy mạng Du Võng, Hoàng Đế muốn lấy mạng Du Võng, Hoàng Đế muốn lấy mạng Du Võng… Có thể quyền lực, địa vị, danh dự, thậm chí sinh tử đối với Xi Vưu chỉ là cuộc ngao du giữa hồng trần, vốn chẳng có gì đáng trọng, nhưng Du Võng thì khác.

A Hành vội gọi A Tệ tức tốc bay về phía Tây Bắc, chẳng kịp cả chào Thiếu Hạo, nào ngờ, Thiếu Hạo cũng thúc Huyền điểu dốc toàn lực bay về phía Tây Bắc.

Hai người đều làm thinh không nói, thần sắc căng thẳng, chỉ chăm chăm vận linh lực thúc tọa kỵ bay thật mau, lòng thầm gào thét.

Nhanh lên, nhanh nữa lên!

Nếu chậm một bước, e rằng thứ mà mình muốn gìn giữ cả đời này sẽ vĩnh viễn tuột khỏi tay.

Nhưng dù linh lực bọn họ có cao đến chừng nào, A Tệ và Huyền điểu có bay nhanh tới đâu chăng nữa, cũng chẳng thể nháy mắt băng qua mấy vạn dặm trường, đến quan ải tức thì được.

Vùng hoang dã quanh Phản Tuyền đương độ hoàng hôn.

Tịch dương đỏ như máu nhuốm thắm núi sông, biển cả dải nước non thành một bức tranh thủy mặc họa bằng máu.

Phản sơn hùng vĩ sừng sững giữa đồng hoang tựa bậc anh hùng đã đến tuổi xế chiều, chỉ còn lại thê lương bàng bạc.

A Hành cùng Thiếu Hạo cưỡi tọa kỵ bay thẳng đến Phản sơn, quân lính xông ra cản đường chưa kịp nhìn rõ mặt hai người đã bị đánh bật khỏi tọa kỵ.

Giữa Phản sơn và Phản hà là một khe suối còn sót lại sau khi Phản hà đổi dòng, bây giờ Hoàng Đế và Xi Vưu đang suất lĩnh binh mã ác đấu ngay trên bờ khe, vì Thần tộc giao chiến với Thần tộc, lại không vận dụng trận pháp nên các chủng loại linh lực cứ đan chéo vào nhau, tỏa ra ánh sáng rực rỡ muôn màu, thật chẳng khác cầu vồng, nhìn mà hoa cả mắt.

Thiếu Hạo trông thấy “Hoàng Đế”, A Hành trông thấy Xi Vưu, đều nhất loạt thở phào nhẹ nhõm, may quá, người đó vẫn còn sống!

Đột nhiên, cả đất trời chợt vang lên một tiếng thét lồng lộng, “Du Võng chết rồi!”

Du Võng chết rồi!

Binh lính đôi bên đều ngẩng phắt lên theo phản xạ.

Giữa không trung bỗng hiện ra một vị Hoàng Đế khác, mình vận giáp vàng, uy phong lẫm liệt, đứng trên lưng Trùng Minh điểu, một tay cầm thương vàng, tay kia xách một chiếc đầu lâu.

Đầu lâu mới bị chặt xuống, vẫn còn ròng ròng máu tươi, linh lực cũng trút ra theo dòng máu, biến những vết máu thành từng vệt sáng xanh lét như vô số cánh đom đóm dập dờn bay lượn.

Dưới ánh sáng xanh lét, ai nấy đều trông rõ chiếc đầu lâu mang vương quan gỗ chạm, dung mạo vẫn sinh động như người sống, cặp mắt kinh ngạc mở trừng trừng, khóe môi còn hằn vẻ áy náy như đang tạ lỗi với muôn dân của mình, xin lỗi, ta không thể bảo vệ cho các người được nữa; lại tựa hồ đang thỉnh tội với phụ vương, cha, con xin lỗi, con chưa hoàn thành được lời hứa với cha; còn như thể xin lỗi Xi Vưu, xin lỗi, hảo huynh đệ, ta không thể sánh vai chiến đấu bên ngươi nữa rồi!

Trước cơn kịch biến bất ngờ, hết thảy binh lính Thần Nông đều lần lượt quỳ xuống, quân tướng Hiên Viên cũng ngớ người ra.

A Hành gục xuống trên lưng A Tệ, qua màn nước mắt, nàng trông thấy Xi Vưu và Tiêu Dao nhanh như chớp xông thẳng về phía Hoàng Đế đang cưỡi Trùng Minh điểu. Nàng vội thét lên thê thiết, “Đừng!” nhưng chẳng cản nổi tốc độ của Tiêu Dao.

Hoàng Đế đã tính toán kỹ, đứng xa như vậy dù có là tọa kỵ nào cũng chẳng thể thoắt chốc bay vọt tới được ngay, một khi có biến, thị vệ tùy thân của ông ta có thể lập tức ứng phó. Tiếc rằng Hoàng Đế chẳng ngờ tọa kỵ của Xi Vưu vốn không phải là đại bàng thường, mà là giống đại bàng do cá côn Bắc Minh hóa thành, mỗi lần đập cánh có thể bay xa chín vạn dặm, bởi thế hắn vọt tới trước mặt, Hoàng Đế hết sức ngỡ ngàng.

Xi Vưu vồ lấy thủ cấp trong tay Hoàng Đế rồi bi phẫn gào lên với Du Võng: “Du Võng, ngươi mở to mắt mà xem ta báo thù cho ngươi đây!”

Nói rồi hắn cắn vào búi tóc Du Võng, đầu Du Võng lủng lẳng dưới cằm Xi Vưu, hai mắt trừng trừng nhìn về phía trước, đối diện với Hoàng Đế. Xi Vưu buông thõng hai tay, lòng bàn tay chợt đỏ rực lên, linh lực khắp núi cao sông dài rừng thẳm đều tụ về hai bàn tay hắn.

Hoàng Đế kinh hoàng giương mắt nhìn Xi Vưu, mọi tin tức tình báo đều nói Xi Vưu tu luyện mộc linh, nhưng giờ đây ông mới bàng hoàng nhận ra, Xi Vưu kiêm hết thảy ngũ linh! Trong cơn cuồng nộ cùng bi ai, hắn đã bất chấp tính mạng, tập hợp toàn bộ ngũ linh quanh Phản Tuyền, tuy ngũ linh tương khắc nhưng đồng thời tương sinh, một khi Xi Vưu mở trận, ngũ linh kim mộc thủy hỏa thôt sẽ tác động lên nhau, đổ dồn về phía hắn như gió lốc.

Hoàng Đế chợt thấy tất cả linh lực quanh mình đều bị hút cạn, chỉ biết trơ mắt nhìn linh lực của Xi Vưu như thần long cuồn cuộn bổ về phía mình. Hàng ngày, ông thường vẫn nhắc nhở Thanh Dương, phạm sai lầm tức là chết! Vậy mà hôm nay, ông lại dùng mạng sống của mình để kiểm chứng đạo lý này.

Uỳnh!

Một tiếng nổ tung trời chuyển đất vang lên. Bụi đất bay mù mịt, bầu trời tối sầm lại, trăng sao đều biến mất.

Giữa bóng tối như bưng, cả đất trời dường như đã diệt vong.

Thoắt chốc, mọi người dụi mắt, trông thấy Xi Vưu đang sừng sững giữa không trung, chân đạp trên lưng đại bàng, hai mắt bừng bừng lửa giận, mái tóc xõa tung, tà áo đỏ như máu phần phật bay trước gió, sắc mặt tái rợn cả người, thất khiếu ứa máu, đầu lâu Du Võng vẫn lủng lẳng trên miệng, dáng vẻ vô cùng khủng khiếp, hệt như ma vương trỗi dậy từ ma vực.

Tất cả mọi người đều kinh hồn táng đởm, thậm chí binh lính Hiên Viên còn nhất loạt lui xuống, sợ bị Xi Vưu xé xác.

Đột nhiên Xi Vưu lảo đảo rồi ngất lịm, thân mình rớt khỏi lưng Tiêu Dao rơi xuống đất, Tiêu Dao rít lên một tiếng, vội lao xuống chụp hắn lại.

Ứng Long chớp thời cơ hạ lệnh: “Bắn!”, lập tức có vô số mũi tên bay rào rào lên không.

A Hành lòng như lửa đốt vừa tung tay gạt tên nhào xuống cứu Xi Vưu, chỉ sợ chậm một bước, linh thể hắn sẽ tan thành mây khói.

Bỗng Thiếu Hạo thất thanh gọi: “A Hành!”

A Hành ngoảnh lại, liền trông thấy một “Hoàng Đế” khác chắn trước mặt Hoàng Đế, thất khiếu ứa máu, đang gục xuống.

Thiếu Hạo vội đỡ lấy “Hoàng Đế”, dần dà linh lực tan đi, dung mạo y cũng từ từ biến đổi, lại hiện nguyên hình là Thanh Dương.

Vốn dĩ Hoàng Đế giao chiến với Xi Vưu khi nãy là hóa thân của Thanh Dương, y biến thành Hoàng Đế dẫn dụ kẻ địch để Hoàng Đế thực sự đem quân đi ám sát Du Võng. Khi Xi Vưu cưỡi đại bàng lao thẳng vào Hoàng Đế, Thanh Dương ứng biến mau lẹ, lập tức túm lấy chân Tiêu Dao, cùng lao đến theo Xi Vưu. Trong nháy mắt Xi Vưu đoạt lại đầu lâu Du Võng rồi dốc toàn lực tấn công Hoàng Đế, Thanh Dương đã xông ra nhận lấy đòn chí mạng thay cho ông.

A Hành trợn mắt kinh hoàng nhìn Thanh Dương, không sao tin được rằng Đại ca linh lực cao cường của nàng cũng có ngày gục ngã.

Một bên là Xi Vưu sống chết chưa rõ, một bên là đại ca chưa rõ tử sinh, A Hành bỗng thấy tim mình như bị xẻ làm hai nửa, mà nửa nào cũng đau đớn đến nghẹt thở, nàng bối rối không biết nên lao theo cứu ai mới phải.

Thiếu Hạo ngưng tụ toàn bộ linh lực, ra sức ngăn không để linh thể Thanh Dương tiêu tán, nhưng linh thể đã tan nát thành muôn vàn hạt bụi li ti, còn nhỏ hơn cả thủy linh, dù y có làm gì cũng vô dụng. Thiếu Hạo toát mồ hôi lạnh, cuống quýt réo gọi A Hành, chỉ mong y thuật Thần Nông Thị có thể cứu mạng Thanh Dương.

A Hành như bị bắt mất hồn, đờ đẫn bay về phía Đại ca theo tiếng gọi của Thiếu Hạo. Trong lúc hoảng loạn, nàng trông thấy Tiêu Dao quắp lấy Xi Vưu, rít lên từng hồi, tiếng rít sắc nhọn như dao, đâm vào tai nàng đau nhói. Thấy bọn Ứng Long định đuổi theo, Tiêu Dao vội dang cánh bay vút lên chín tầng mây rồi biến mất.

Lần đầu tiên A Hành nghe thấy Tiêu Dao rít lên thê thảm nhường ấy, tuy nàng bay về phía Đại ca, nhưng bên tai cứ văng vẳng tiếng kêu bi thiết của Tiêu Dao, một tiếng rít như một câu hỏi xoáy vào lòng nàng, Xi Vưu đang bị trọng thương, vì sao cô có y thuật cao siêu lại không ra tay cứu hắn? Vì sao cô nhẫn tâm nhìn Xi Vưu mất mạng? Vì sao? Vì sao hả?

Lòng nàng như băng ướp lửa thiêu, trái tim bị vô số lưỡi dao cào xé, cả người bỗng run lên bần bật.

Đằng kia, Thiếu Hạo đang cuống quýt gọi nàng, gần như van nài: “Nàng nhất định phải cứu Thanh Dương!”

A Hành đành nghiến răng, nén lòng chạy tới kiểm tra thương thế Đại ca. Thấy linh thể y sắp tiêu tan, tiếng rít thê thiết bên tai nàng chợt biến mất, tất cả âm thanh đều biến mất, đất trời vắng lặng, lòng chẳng thấy đau, thân mình cũng ngừng run rẩy, tựa như kẻ đang bị đẩy tới mép vực vậy, thoạt đầu rất đau khổ, nhưng một khi rơi xuống tan xương nát thịt, vạn kiếp bất phục thì chẳng còn đau đớn nữa, thay vào đó là tuyệt vọng vô bờ.

Thiếu Hạo cuống cuồng vặn hỏi nàng, “Không hề gì, phải không? Nhất định không sao chứ hả? Nàng nhất định cứu được y mà!”

A Hành sắc mặt xám như tro tàn, cắn môi đến ứa máu cũng chẳng thấy đau, chỉ thẩn thờ dùng kim châm vào huyệt vị Đại ca.

Trái lại, Thanh Dương mỉm cười nhìn cả hai: “Hay lắm, cả hai người đều ở đây, tiếc rằng không có Xương Ý. Vậy cũng tốt, đừng để nó thấy ta thê thảm thế này, ta là Đại ca toàn năng kia mà.”

Thiếu Hạo run bắn người lên, nhưng vẫn không cam tâm, tiếp tục thúc đẩy thủy linh trị thương cho Thanh Dương, “Đừng nói nhảm, chúng ta lập tức tới Quy khư ngay, nhất định sẽ có cách! Ta nhất định cứu được ngươi mà!”

Thanh Dương cười, “Ta có chuyện muốn nói với ngươi.”

Thiếu Hạo vẫn trút thủy linh cuồn cuộn vào người Thanh Dương, “Đợi ngươi khỏe lại rồi nói.”

“Hai ta đánh nhau bao nhiêu năm rồi?”

“Hơn hai ngàn năm rồi.”

“Hơn hai ngàn tám trăm năm rồi.” Thanh Dương nhoẻn miệng cười rạng rỡ, “Ta chợt thấy nhẹ cả người, sau này khỏi phải phân thắng bại với ngươi nữa.”

Sau hơn hai ngàn năm, cuối cùng Thiếu Hạo lại trông thấy gã thiếu niên lưng đeo thanh kiếm gãy, miệng ngậm ngọn cỏ, nhoẻn cười tươi tắn bước vào lò rèn, khiến y không khỏi ghen thầm.

Cơn cuồng nộ bỗng trào lên trong lòng, y quát vào mặt Thanh Dương: “Chúng ta đã nói sẽ sánh vai chiến đấu rồi sau đó mới quyết một trận sống mái kia mà, sao ngươi dám thất hẹn hả?”

Thanh Dương không đáp, chỉ từ từ dời mắt nhìn sang Hoàng Đế, “Phụ vương, Người đã biết con muốn hại Người, phải không?”

Hoàng Đế lại gần, ngạo nghễ lạnh lùng nhìn xuống Thanh Dương nằm đó, giễu cợt: “Chúc mừng chúc mừng, ngươi đã cứu ta trước mặt bao nhiêu thiên quân vạn mã, sau này soán vị đăng cơ nhất định sẽ càng thuận lợi.”

Thanh Dương buồn bã nói nhỏ: “Phụ vương, con thừa nhận mình từng có ý hãm hại người. Vì không muốn Xương Ý và A Hành trở thành Vân Trạch thứ hai nên con đã bỏ độc vào vò nước của Người, nhưng cùng con lại không nỡ ra tay, giữa đêm con đột nhập vào cung, tráo vò nước khác, đổ chỗ nước có độc đi rồi.”

Hoàng Đế giật thót mình, liếc nhìn Di Bành đằng xa rồi lại nhìn Thanh Dương, ánh mắt đã dịu đi nhiều, vẻ lạnh lùng tan biến, thay vào đó là vô số ưu tư phức tạp rối ren, người ngoài không sao nhìn ra được. Ông hờ hững đáp: “Thật ra, vò nước mà con đánh tráo cũng không có độc từ lâu rồi.”

Thanh Dương mỉm cười, “Con hiểu rồi. Thì ra chính con đã uống phải chỗ nước độc đó, phụ vương để con nhận lấy quả báo, tự quyết định sống chết của mình.”

A Hành nghe hai người đối đáp chỉ hiểu lơ mơ nhưng Thiếu Hạo thì hiểu cả, Thanh Dương đã uống phải độc dược mà A Hành phối chế, đúng lúc độc phát nên y không sao chống nổi đòn chí mạng của Xi Vưu.

Chợt Di Bành cao giọng thỉnh thị Hoàng Đế: “Phụ vương, hiện giờ lòng quân Thần Nông đang rối loạn, chúng ta có nên chớp thời cơ tấn công không?”

Hoàng Đế đưa mắt nhìn giang sơn như họa dưới chân, đây là cơ hội mấy ngàn năm mới có, là mộng tưởng ông ta theo đuổi cả đời. Nhưng còn Thanh Dương…

Nhìn vẻ mặt Hoàng Đế, Thanh Dương liền lên tiếng: “Cha, con không sao đâu, chất độc này đâu có chí mạng.” Từ khi y hiểu chuyện, Hoàng Đế đã đặt y ngồi trên đầu gối, kể cho y nghe về thời niên thiếu gian truân cùng hùng tâm tráng chí của mình. Trên đời này, e rằng chẳng ai hiểu mộng tưởng của Hoàng Đế hơn y, đó là ước mơ mà người đàn ông vĩ đại này dốc cả đời theo đuổi.

Tiếng “cha” của Thanh Dương khiến Hoàng Đế nhói buốt cả lòng, bao hình ảnh mơ hồ xa xăm bỗng vụt qua trước mắt, trong đám con cái, chỉ có Thanh Dương và Vân Trạch gọi ông là “cha”, nhưng tiếng “cha” ngọng nghịu non nớt đó chứa chan tình phụ tử nguyên sơ nhất trong đời ông. Chợt thấy thái dương mình giật giật, Hoàng Đế trầm giọng dặn dò: “Con trai, con phải sống nhé!”

Thanh Dương cười mà nước mắt rưng rưng, một tiếng “con trai” đã xóa tan bao hiềm khích giữa hai cha con, dường như, y đang được quay về thuở ấu thơ.

Đoạn Hoàng Đế quay sang bảo A Hành: “Con chăm sóc Đại ca.” Dứt lời, ông hú lên lanh lảnh, thúc Trùng Minh điểu xông vào trận, phát lệnh: “Tấn công!”

“Tấn công!”

“Tấn công!”

“Phụ vương!” A Hành ròng ròng nước mắt gọi với theo hy vọng Hoàng Đế nán lại chốc lát nhưng chỉ thấy bóng lưng ông lao vụt đi. Di Bành ném lại cho nàng một nụ cười khinh khỉnh rồi bám theo Hoàng Đế, xông vào trận.

Trong tiếng kèn xung trận chói tai, đại quân Hiên Viên đổ xô về phía binh lính Thần Nông. Vì đất đai cằn cỗi, dân chúng khổ sở nên binh lính Hiên Viên vô cùng kiêu dũng thiện chiến, thêm vào đó, thấy Hoàng Đế hạ sát Viêm Đế, sĩ khí ba quân cũng được khích lệ rất nhiều, dưới sự chỉ huy của Hoàng Đế, quân đội Hiên Viên trở nên dũng mãnh như hổ sói, trong khi quân Thần Nông vừa mất đế vương, lòng quân rối loạn, không thể nào chống lại được Hiên Viên, chẳng mấy chốc, chiến trường đã biến thành lò sát sinh, binh lính Hiên Viên ai nấy đều hung hăng khát máu hệ như ma thú, đi tới đâu là giết chóc tới đó. Tiếng gào khóc bi thương chìm trong tiếng giáo vàng ngựa sắt rầm rập quét qua, khắp nơi chỉ nghe thấy những tiếng hô “giết”, “giết”, “giết”.

Thiếu Hạo vận linh lực bảo vệ tâm mạch Thanh Dương rồi bế xốc y lên, tức tốc trở về Quy khư.

Thanh Dương ngẩn ngơ cười, “Ta biết ngươi giận ta làm việc thiếu quyết đoán, nếu ta có thể nhẫn tâm như ngươi thì chẳng có ngày nay. Nhưng ta cứ lẩn thẩn nhớ mãi những chuyện ngày nhỏ, hồi đó mẹ không cho ta lại gần Trùng Minh điểu, sợ nó quá hung mãnh, cha liền ôm ta vào lòng, lén dạy ta điều khiển Trùng Minh điểu, hai cha con cùng cưỡi Trùng Minh điểu bay lên, vừa bay vừa cười khanh khách. Thanh kiếm đầu tiên của ta cũng là cha tự tay làm cho, lần đó cha ngồi ngoài hiên đẽo kiếm cho ta, đẽo xong còn sợ ta bị dằm đâm vào tay, bèn dùng vải gai mài nhẵn nhụi, ta ngồi bên cạnh chờ sốt ruột, bèn nhào lên giành lấy thanh kiếm, cha bèn giơ kiếm lên cao, vừa mài vừa cười, ‘Tới đây tới đây lấy đi, nhảy cao nữa lên, khi nào con cao bằng ta, hai cha con có thể cùng ra trận rồi’. Lần đầu ra trận ta căng thẳng đến nhũn cả chân, cha bèn lôi ta đi uống rượu, hễ gặp bá bá thúc thúc nào chào hỏi, cha đều hãnh diện giới thiệu, ‘Con trai ta đây, sau này nhất định nó sẽ dũng mãnh hơn cả ta’…” Nói tới đây, Thanh Dương đuối sức không kể tiếp được nữa, chỉ thều thào, “Ông ấy là cha ta, ta không thể giết cha mình được!”

Thiếu Hạo vội cắt ngang: “Đừng nói nữa! Đợi ngươi khỏe rồi, chúng ta sẽ lại tới quán rượu nát đó uống ba ngày ba đêm, nói chuyện ba ngày ba đêm.”

Thanh Dương cười, “Ngươi nói thứ đó không phải độc dược, cũng chẳng lấy mạng người ta, nhưng con đường đi tới quyền lực tột đỉnh chính là tuyệt lộ, một khi đặt chân lên, sẽ phải đi mãi về phía bóng tối, ta không muốn có một ngày mình trở thành kẻ không cha không mẹ không huynh muội.”

Đôi tay Thiếu Hạo run bắn lên, y cứ ngỡ gã thiếu niên nhiệt tình thiện lương, rạng rỡ hồ hởi khi xưa đã biến mấy từ lâu, nào ngờ, gã vẫn luôn luôn tồn tại!

Ánh mắt Thanh Dương ảm đạm dần, sinh mệnh cũng theo đó mà tàn lụi. Thấy vậy, A Hành cuống quýt lấy kim châm vào tất cả huyệt vị trên người y, khóc òa lên, “Đại ca, đừng bỏ muội mà, sau này muội nhất định sẽ nghe lời huynh, chăm chỉ tu luyện, không mải chơi nữa, huynh bảo gì muội cũng nghe theo hết!”

Thanh Dương đặt tay lên đầu A Hành, vò tóc nàng rối như quạ rồi phì cười ranh mãnh, “Ài, bao năm nay, mỗi lần muội ở sau lưng vung tay vung chân định đánh ta đá ta, ta chỉ muốn quay lại vò cho tóc muội rối tung lên như thế này…” Giọng y càng lúc càng nhỏ lại, cơ hồ chỉ như tiếng thầm thì, “A Hành, chuyển lời cho mẹ và Xương Ý, nói hai người đừng đau buồn.”

A Hành nước mắt lã chã, nghẹn ngào gật đầu.

Tròng mắt Thanh Dương đã đờ ra, y không nói nổi nên lời nữa, nhưng đôi mắt vẫn chằm chằm nhìn Thiếu Hạo, như còn có điều chưa yên lòng.

Thiếu Hạo nuốt lệ nói: “ Ngươi còn nhớ ngàn năm trước, lúc đại quân Thần Nông áp sát, ngươi nửa đêm lặn lội tới Cao Tân, nói với ta ‘Ta chính là Thiếu Hạo’ không? Từ nay trở đi, ta cũng chính là Thanh Dương, ta sẽ coi Luy Tổ như mẹ mình, coi Xương Ý và A Hành như đệ đệ muội muội của ta vậy!”

Được lời này của Thiếu Hạo, Thanh Dương mới yên lòng, y từ từ nhắm nghiền mắt lại, tay trượt khỏi mái tóc A Hành, trên môi vẫn còn vương nụ cười rạng rỡ hệt như ánh mặt trời mùa hạ.

“Đại ca!” A Hành thét lên xé ruột, “Đại ca, Đại ca, Đại ca…” Nàng gào khản cả cổ, tựa hồ cứ gọi như thế, Thanh Dương sẽ nghe thấy, sẽ tỉnh dậy, sẽ lại lạnh lùng lên giọng mắng mỏ nàng. Lần này nàng nhất định sẽ không cãi lại, không oán trách, nhất định sẽ ngoan ngoãn nghe lời Đại ca, nhất định sẽ thành tâm thành ý cảm ơn Đại ca.

Thiếu Hạo điên cuồng trút tất cả linh lực bản thân vào người Thanh Dương, không ngừng nài nỉ, “Thanh Dương, Thanh Dương, chúng ta còn chưa phân thắng bại, ngươi không được đánh bài chuồn. Đồ chết nhát nhà ngươi, chúng ta còn chưa phân thắng bại kia mà…” Linh lực của Thiếu Hạo thừa sức dời non lấp biển, nhưng chẳng làm sao níu được sinh mệnh cho Thanh Dương.

A Hành khóc đến lịm cả người đi, Thiếu Hạo cũng sức tàn lực kiệt, thân mình lảo đảo, nhưng vẫn liên tục đẩy linh lực vào người Thanh Dương, trước mắt chỉ toàn thấy bóng dáng Thanh Dương.

Y xỏ đôi giày rách, lưng đeo thanh kiếm gãy, miệng ngậm cọng cỏ, đi lắc la lắc lư, tiếng cười giòn tan, hồ hởi rạng rỡ, ấm áp hơn cả ánh nắng mai.

Nhưng thi thể trong lòng Thiếu Hạo lại lạnh ngăn ngắt.

Cái lạnh từ đáy lòng Thiếu Hạo lan ra khắp người, khiến thân hình y run lên bần bật, chỉ biết đau thương nhắm nghiền mắt lại.

Hơn ai hết, Thiếu Hạo hiểu rõ tham vọng bản thân, thế nên y luôn tâm tâm niệm niệm sẽ có một ngày Cao Tân Thiếu Hạo đụng độ với Hiên Viên Thanh Dương trên chiến trường, cả hai sẽ phải dốc hết toàn lực, Cao Tân không vong thì Hiên Viên diệt. Nhưng y đâu có ngờ, trong lòng y, Thanh Dương vẫn mãi là Thanh Dương, chỉ là Thanh Dương mà thôi.

Từ nay trở đi, trên dải đất lạnh lẽo đầy gió tuyết miền cực Bắc, sẽ chẳng ai đốt lửa gọi y vào uống rượu nữa.

Từ nay trở đi, đối mặt với thiên quân vạn mã, sẽ chẳng còn ai lặn lội suốt đêm chạy tới, vì y mà máu đẫm bạch bào nữa.

Từ nay trở đi, lúc hân hoan mừng rỡ, sẽ chẳng còn ai nói cười chung vui cùng y nữa.

Từ nay trở đi, thiên hạ rộng lớn này sẽ chẳng còn ai khiến y mỗi khi nhớ đến lại thấy họng nồng vị rượu, lòng ấm tình người, dù vương tọa lạnh lẽo tới đâu, kẻ địch đông đúc nhường nào, đều có một người sánh vai cùng y đối diện…

Từ nay trở đi, thế gian này vĩnh viễn chẳng còn Thanh Dương nữa!

Chương 7: Đời đời xin nguyện làm huynh đệ

]

Suốt mấy trăm năm nay, sao nàng chỉ chìm đắm mải mê với thế giới bên ngoài mà chẳng hề quan tâm đến Đại ca bên cạnh? Liệu có phải tình thân là điều hiển nhiên đối với nàng, nên chưa từng nghĩ đến lúc mất đi? Vì sao mãi tới lúc mất đi rồi, nàng mới nhận ra mình rất quyến luyến Đại ca cơ chứ?

[1] Trích trong bài Gửi cho Tử Do từ trong tù kỳ 1 của Tô Đông Pha (1036 – 1101). (ND)

Xương Ý nhận được tin do Huyền điểu đưa đến, lập tức chạy đến Quy khư, nhưng đã chậm mất hai ngày.

Lúc báo tin, Thiếu Hạo cũng chẳng nói cụ thể nguyên do, chỉ mời y đến ngay tức khắc. Xương Ý ngỡ A Hành xảy ra chuyện nên tức tốc chạy đến, tới nơi, thấy một lá thuyền con dập dềnh theo làn nước. Thiếu Hạo và A Hành người ngồi kẻ đứng trên thuyền, y mới thở phào nhẹ nhõm.

Xương Ý nhảy từ trên lưng Trùng Minh điểu xuống thuyền, cười hỏi A Hành: “Xảy ra chuyện gì mà giục ta đến ngay thế?”

A Hành vừa mở miệng, chưa kịp nói tiếng nào, nước mắt đã chứa chan.

Thiếu Hạo đưa hai tay lên, dưới sự điều khiển của y, mặt nước trước mũi thuyền từ từ dâng lên, nâng theo cả một cỗ quan tài băng xanh biếc. Bên trong quan tài là Thanh Dương đang nằm lặng lẽ, hai mắt nhắm nghiền, vẻ mặt an nhiên, chẳng có chút sinh khí.

Xương Ý gượng cười, “Đừng dùng rối gỗ lừa ta nữa, huynh biết linh lực của ta kém xa huynh mà.”

“Y chính là Thanh Dương đó.”

“Không thể nào! Đại ca là Hiên Viên Thanh Dương, trên đời này làm gì có ai đả thương nổi huynh ấy, cả huynh cũng không đánh bại được huynh ấy cơ mà!” Xương Ý tái mét mặt, nhưng vẫn khăng khăng cố chấp, “Không thể nào! Sao huynh có thể đem chuyện này ra đùa ta được?”

Nước mắt A Hành lã chã rơi, phải rồi, Đại ca là Hiên Viên Thanh Dương, là Hiên Viên Thanh Dương lạnh lùng nhất, hùng mạnh nhất trong thiên hạ, sao có thể chết được chứ?

Trông dáng điệu của A Hành, Xương Ý liền quỳ sụp xuống thuyền, trân trân giương mắt nhìn Đại ca, vẻ mặt đờ đẫn, không khóc lóc, cũng chẳng hề động đậy.

Nhìn biểu hiện của Xương Ý, Thiếu Hạo càng thêm lo lắng, lần trước nghe nói A Hành tử vong, chí ít Xương Ý còn biết nổi giận, nhưng lần này, y chẳng hề phản ứng.

“Xương Ý, Xương Ý, nếu đệ đau lòng thì cứ khóc lên đi.”

Xương Ý chẳng buồn để ý mấy lời của y, chỉ thẫn thờ vịn vào quan tài, hồi lâu sau mới sầm mặt hỏi: “Kẻ nào? Là kẻ nào?”

Thiếu Hạo chẳng cất nổi nên lời, rốt cuộc ai mới là kẻ giết hại Thanh Dương đây? Là Xi Vưu, là Hoàng Đế, Là Di Bành, hay chính là y?

Không thấy ai trả lời mình, Xương Ý quay sang gào lên với A Hành: “ Rốt cuộc là kẻ nào?”

A Hành tái mặt, khóc không ra tiếng, chẳng dám nhìn vào mặt Tứ ca. Nhìn dáng vẻ của nàng, Xương Ý cũng dần hiểu ra, “Là Xi Vưu ư?”

“Phụ vương giết chết Du Võng, Xi Vưu hắn, hắn không cố ý giết chết Đại ca đâu… Đại ca vì cứu phụ vương nên đã hứng một đòn chí mạng của Xi Vưu.” Lòng A Hành đã nguội lạnh như tro tàn, giải thích thế nào cũng có ích gì nữa đâu? Thanh Dương đích thực đã chết dưới tay Xi Vưu kia mà.

Xương Ý ngửa mặt nhìn trời, tròng mắt đầy những lệ, nhưng y chỉ mở to mắt trừng trừng nhìn lên, mãi tới khi nước mắt tan đi cả mới thôi. Y còn mẹ, còn muội muội, y không được phép yếu đuối! Giờ đây y mới hiểu được tâm tình của Đại ca, vì mẹ, vì y, vì A Hành, Đại ca đã trút bỏ sự yếu đuối cùng nụ cười rạng rỡ để chọn lấy vẻ lạnh lùng và cứng cỏi.

Xương Ý bình thản nói: “Dọc đường tới đây, ta chỉ toàn nhận được tin Hiên Viên đại thắng, chẳng ai nói Hiên Viên Thanh Dương đã xảy ra chuyện gì cả.”

Thiếu Hạo giải thích: “Lúc đó tình hình rất căng, quân Thần Nông đang rối loạn, nếu Hoàng Đế bỏ lỡ thời cơ ấy thì trận chiến lần này xem như công cốc, bởi thế ngài lập tức dẫn quân tấn công ngay, chỉ kịp biết Thanh Dương bị trọng thương chứ chưa hay y đã lìa trần.”

Xương Ý thê thảm nghĩ thầm, Đại ca vì cứu phụ vương mới bị trong thương, ấy vậy mà phụ vương chỉ chăm chăm dẫn quân công thành, chẳng buồn nán lại bên Đại ca chốc lát, lẽ nào đối với ông, thiên hạ quan trọng đến thế sao?

“Đại ca thần lực cao cường, nếu đã muốn cứu phụ vương, ắt phải có chuẩn bị sẵn, sao Xi Vưu có thể một đòn… một đòn giết chết Đại ca!”

Nghe Xương Ý hỏi, A Hành cũng sực nghĩ ra, bèn quay sang nhìn chằm chằm Thiếu Hạo, chất vấn: “Mấy năm nay, tuy thần lực của Xi Vưu tăng vọt nhưng nếu giao chiến trực diện cũng không thể nào một chiêu giết chết được chàng hay Đại ca!”

Thiếu Hạo chỉ biết đau đớn làm thinh.

Nỗi kinh hoàng chợt dâng lên ngập lòng A Hành, nàng lớn tiếng hỏi: “Đại ca và phụ vương nhắc tới chuyện thuốc độc gì đó, nhưng thiếp nghiệm thi thấy không có độc, rốt cuộc là sao?”

Thiếu Hạo không dám đối diện ánh mắt nàng, đành cúi gầm mặt, đăm đăm nhìn Thanh Dương, lí nhí: “Để bảo vệ bản thân, Thanh Dương định bức Hoàng Đế thoái vị, Hoàng Đế phát hiện được, liền đánh tráo thuốc độc, khiến Thanh Dương uống phải chính thứ nước mà y chuẩn bị cho Hoàng Đế. Nhưng thật ra đến phút cuối Thanh Dương lại hối hận, y đã lén đổi vò nước độc, thay vào đó là vò nước bình thường, nào ngờ Hoàng Đế đã phát hiện từ sớm, liền ra tay đánh tráo vò nước độc trước cả y, lấy gậy ông đập lưng ông. Khi y thay Hoàng Đế hứng chịu một chiêu chí mạng của Xi Vưu, chất độc đột ngột phát tác khiến linh lực đứt đoạn…” Thiếu Hạo nghẹn lời, phải hít một hơi thật sâu, lấy lại bình tĩnh mới kể tiếp được: “Từ khi nhận ra Thanh Dương có ý khác, Hoàng Đế đã phái Di Bành ngày đêm theo dõi Thanh Dương, hôm đó chính Di Bành phụ trách trấn giữ đại điện, hắn hẳn cũng biết hết mọi chuyện nhưng thay vì kịp thời bẩm báo với Hoàng Đế, hắn lại ém nhẹm đi, mượn tay Hoàng Đế hạ độc Thanh Dương, hung thủ thực sự hại chết Thanh Dương không phải là Xi Vưu, mà là Di Bành.”

Xương Ý và A Hành nghe đến ngẩn cả người, hồ vẫn chưa thủng cái vòng luẩn quẩn người hại ta ta hại người kia.

Hồi lâu, Xương Ý bỗng kinh hãi hỏi: “Huynh nói Đại ca định đánh độc giết phụ vương ư?”

Thiếu Hạo vội thanh minh: “Không phải, chất độc đó chỉ khiến Hoàng Đế bải hoải toàn thân, không thể xử lý triều chính, chứ không chết người. Thanh Dương chưa bao giờ có ý hại chết Hoàng Đế.”

Xương Ý vặn tiếp: “Đồ ăn thức uống của phụ vương đều có thầy thuốc kiểm tra, Đại ca lấy đâu ra thứ độc qua mặt được cả đám thầy thuốc thế?”

Bây giờ A Hành mới hiểu ra tất cả, nàng chợt thấy hai mắt tối sầm lại, đau đớn và phẫn uất ứ đầy lòng, thân hình đổ gục xuống, Xương Ý phải cuống quýt đỡ lấy nàng. A Hành trợn trừng hai mắt nhìn Thiếu Hạo, mấp máy môi mà không sao thốt nổi nên lời, sắc mặt xám ngoét, cả người cứ thế run lên bần bật.

Thiếu Hạo vuốt nhẹ lên quan tài của Thanh Dương, khẽ nói: “Là chất độc mà nàng phối chế cho ta đó, nhưng chuyện này không liên quan gì đến nàng, đây là quyết định của riêng ta và Thanh Dương thôi.”

Xương Ý kinh hoàng trợn mắt nhìn A Hành, “Là, là muội… là thuốc độc muội phối chế?”

“A… a… a…” A Hành chẳng còn nước mắt mà khóc, chỉ biết gào lên thảm thiết, hai tay liên tục đấm ngực mình, chỉ hận không lóc da xẻo thịt bản thân mình ngay được.

Thiếu Hạo quỳ khuỵu một gối xuống, ra sức giữ chặt lấy nàng: “A Hành, nghe này! Là do ta, đều tại ta cả! Tại ta tự mãn, đánh giá thấp Hoàng Đế! Tại ta nhìn nhầm Thanh Dương, ta cứ ngỡ y cũng giống như ta! A Hành, không liên quan gì đến nàng cả, không liên quan gì đến nàng mà! Nàng chẳng hay biết gì cả, là ta đã gạt nàng!”

Thiếu Hạo thuật lại vắn tắt mọi chuyện cho Xương Ý, nói rõ độc dược là mình nhờ A Hành phối chế để hạ độc Yến Long, nhưng rồi lại lén tuồn cho Thanh Dương.

Xương Ý trừng trừng nhìn Thiếu Hạo, mắt long sòng sọc, cánh tay bất giác giơ lên.

Thiếu Hạo quỳ sụp xuống trước quan tài Thanh Dương, “Đệ muốn đánh muốn giết thì cứ đáng cứ giết đi!” Mấy ngày nay, tuy vẫn ráng giữ vẻ bình thản nhưng thật lòng Thiếu Hạo cũng đau đớn chẳng kém gì Xương Ý và A Hành, thế nên lúc này y chỉ hy vọng Xương Ý xuống tay đánh mình.

Xương Ý một chưởng vung ra đập mạnh vào người Thiếu Hạo, Thiếu Hạo cũng chẳng hề vận linh lực để kháng, cứ quỳ thẳng tắp trước linh cửu Thanh Dương, mặc cho khóe miệng ứa máu. Đánh được một chưởng, Xương Ý lại vung tay lên toan bồi thêm chưởng nữa, nhưng nhìn Thanh Dương an lành nằm trong quan tài như ngủ, y không sao xuống tay được, keng một tiếng, rút soạt kiếm ra, “Ta phải đi giết Di Bành!”

A Hành vội kéo y lại, van nài: “Tứ ca, đừng kích động!” Xương Ý rảy mạnh A Hành ra, nhảy lên tọa kỵ toan đi.

Thiếu Hạo liền quay phắt lại, nhào tới nắm lấy lưỡi kiếm của Xương Ý, mặc bàn tay ròng ròng máu, một mực khẩn thiết thuyết phục, “Xương Ý, hiện giờ đệ là con trưởng trong nhà, phải gánh lấy trách nhiệm trông nom mẹ và muội muội thay Thanh Dương!”

Xương Ý bất giác đưa mắt nhìn về phía Đại ca, cả người dần dần xụi lơ, giờ đây y đã trở thành con lớn, không thể kích động như thế được.

Thấy Xương Ý có vẻ xuôi xuôi, Thiếu Hạo bèn buông mũi kiếm ra, khuyên nhủ: “Nếu Thanh Dương qua đời, Di Bành ắt hẳn trở thành kẻ duy nhất có thể kế thừa vương vị, hắn được các quan giúp đỡ, thế lực càng ngày càng bành trướng, đệ chẳng những phải tự lo lấy thân mà còn phải bảo vệ Luy Tổ, nhất định đừng để sơ sẩy.”

Hơn ai hết, Xương Ý hiểu Di Bành rất căm hận mẹ của mình, một khi hắn đăng cơ, chắc chắn sẽ không tha cho họ.

Thiếu Hạo lại nói: “Ta có kế này may ra áp chế được Di Bành, Thanh Dương cũng đã tán đồng rồi.”

A Hành và Xương Ý đều dồn mắt về phía y, Thiếu Hạo trình bày: “Chỉ có ta và A Hành biết được dược tính của thuốc độc mà thôi, Thanh Dương thần lực cao cường, chắc hẳn Hoàng Đế không tin một đòn của Xi Vưu mà giết được y đâu. Ta đã phong tỏa nghiêm ngặt tin này, trừ ba người chúng ta, không còn ai biết về cái chết của Thanh Dương cả.” Thiếu Hạo nhấn mạnh, “Cũng đừng để mọi người biết.”

A Hành và Xương Ý chợt hiểu ra ý định của Thiếu Hạo, chỉ cần Thanh Dương chưa chết, đám triều thần cũng chẳng dám về hùa với Di Bành, đây chính là biện pháp hiệu quả nhất để khắc chế hắn.

Xương Ý còn đang trù trừ, A Hành đã lên tiếng: “Thiếp đồng ý!” Thấy muội muội tán đồng, Xương Ý cũng gật đầu.

Thiếu Hạo nói tiếp: “Ta sẽ viết thư với Hoàng Đế rằng thầy thuốc thấy trong người Thanh Dương vẫn còn chất độc, thương thế rất nặng, phải ở lại Quy khư bế quan trị thương, ít ra cũng tranh thủ được một hai trăm năm.”

A Hành hỏi: “Lỡ phụ vương phái người tới dò xét thì sao? Chúng ta lấy đâu ra Đại ca để đối phó đây?”

Thiếu Hạo trỏ làn nước dưới Quy khư, “Người đời thường nói Cửu vĩ hồ là giống giỏi biến hóa nhất, thật ra còn thứ khác biến hình giỏi hơn Cửu vĩ hồ nhiều. Như nước kia, đựng bầu thì tròn, đựng ống thì dài, ở trên trời hóa thành mây mưa hơi nước, ở dưới đất hóa thành sương tuyết sông ngòi, ở trong người chúng ta lại trở thành máu huyết sinh mạng.”

Nói rồi, Thiếu Hạo lập tức biến Thanh Dương, giọng nói cử chỉ đều như khuôn đúc, “Ta quen biết Thanh Dương đã hai ngàn năm, lại tu luyện thủy linh, nắm rõ pháp thuật của đối phương. Hồi nhỏ chúng ta cũng từng tráo đổi thân phận náo loạn một phen, mọi người đều nói Thiếu Hạo một mình đẩy lui mười vạn đại quân Thần Nông, thật ra không đâu, đó là Thanh Dương và ta cùng làm.”

Xương Ý chăm chú nhìn Thiếu Hạo, thấy y chẳng khác Thanh Dương mảy may nào.

Thiếu Hạo lại tiếp: “Nếu ngày ngày ở bên, ắt sẽ phát hiện ra, nhưng hiện giờ Thanh Dương đang bị trọng thương, nói năng cử động đều khó khăn, người đến thăm cũng chỉ có thể nhìn qua mà thôi, bằng vào thần lực của mình, dẫu là Hoàng Đế đích thân tới đây, ta vẫn tự tin ứng phó được.”

Bây giờ, A Hành mới hiểu lời hứa của Thiếu Hạo với Đại ca trước lúc lâm chung, “Từ nay trở đi, ta chính là Thanh Dương”, chẳng phải một cách so sánh, mà y quả thật đã trở thành Thanh Dương. Đại ca hiểu ý Thiếu Hạo nên mới yên lòng ra đi.

Xét thấy kế sách của Thiếu Hạo rất ổn, A Hành quay sang hỏi Xương Ý: “Có nên nói thật cho mẹ biết không?”

Xương Ý đắn đo một hồi rồi đáp: “Chúng ta đau khổ đến mấy cũng chẳng bằng phân nửa nổi đau của mẹ đâu. Vân Trạch qua đời, mẹ đã chết nửa cõi lòng, tới lượt muội chìm dưới đáy Ngu uyên, nửa cõi lòng của mẹ cũng chết lặng, nếu giờ biết chuyện Đại ca lìa trần, e rằng mẹ…”

A Hành gật gật đầu rồi trừng mắt nhìn Thiếu Hạo, vẻ căm hận vẫn hằn lên trong mắt, hồi lâu, nàng mới buồn rầu nói: “Sau này mọi chuyện đều nhờ cả vào chàng.”

Thiếu Hạo thừ người, lẳng lặng khôi phục nguyên dạng, triệt tiêu linh lực, để quan tài băng mang theo Thanh Dương từ từ chìm xuống Quy khư. Xương Ý và A Hành đứng cạnh nhau, cùng lưu luyến nhìn Đại ca. Y chết đi rồi, nhưng bọn họ vẫn được uy thế của y bảo vệ.

Hoàng Đế nhận được thư Thiếu Hạo liền phái Ly Chu, Ứng Long và Xương Phó đưa Luy Tổ tới Cao Tân thăm Thanh Dương.

Luy Tổ đứng ngoài cửa động nhìn Thanh Dương đang bế quan trị thương dưới đáy Quy khư, lặng thinh không nói.

Biết Ly Chu là tâm phúc của Hoàng Đế, A Hành âm thầm dò xét nét mặt ông ta, nhưng Ly Chu chẳng hề tỏ vẻ nghi ngờ, chỉ mãi buồn rầu an ủi Luy Tổ.

Ứng Long chợt lo lắng hỏi: “Thần có thể làm gì cho điện hạ đây?”

Luy Tổ gượng cười đáp: “Thanh Dương tu luyện thủy linh, Quy khư này lại là cội nguồn vạn thủy, linh khí dồi dào, hiện giờ chỉ cần kiên trì trị thương thôi.”

Luy Tổ định nán lại ít ngày, còn Ly Chu và Ứng Long thấy mình chẳng giúp được gì nên muốn xin về Hiên Viên bẩm báo với Hoàng Đế về tình hình của Thanh Dương.

Trước khi giã biệt, Ứng Long còn tới gặp riêng Xương Ý để tạ tội, vừa nói được một câu đã quỳ xuống trước mặt Xương Ý, Xương Ý phải đỡ y dậy, Ứng Long nói: “Nhờ điện hạ chuyển lời cho Đại điện hạ, nếu không có Đại điện hạ, thần đã chết rũ xương từ lâu rồi, ngày sau nếu gặp việc gì thần có thể góp sức, xin lập tức báo cáo ngay với thần.”

Xương Ý vội vàng cảm tạ. Đợi Ứng Long đi khỏi, y liền kể lại chuyện này với A Hành, nàng nói: “Những bề tôi như thế trong triều chẳng phải chỉ có Ứng Long, có lẽ đây chính là lý do Thiếu Hạo muốn Đại ca sống, chỉ cần Đại ca còn đó, bọn họ nhất định sẽ không về phe Di Bành.”

Mười mấy ngày sau, A Hành, Xương Ý và Xương Phó cùng đưa Luy Tổ về Hiên Viên sơn. Vừa về đến Triêu Vân phong, họ chợt thấy Triêu Vân điện hằng ngày vắng vẻ hôm nay lại náo nhiệt bất ngờ.

Bước vào điện, cả bốn trông thấy Tam phi Đồng Ngư thị đang sai phái đám thị nữ tra xét khắp nơi, lúc thì chê chỗ này sơ sài, khi lại nói màu sắc chỗ nọ không hài hòa.

Chu Du luống cuống theo sau Đồng Ngư thị, tới một hốc tường, bà ta đột nhiên thò tay vào, cầm hộp ngọc vuông vắn trong hốc lên, “Cái giẻ rách gì thế này? Để đây vướng cả mắt!”

Chu Du nôn nóng, liền buột miệng la: “Đừng đụng vào!”

Đồng Ngư thị giận giữ quát: “Ngươi bảo ai đấy hả? Vả vào miệng cho ta!”

Hai ả cung nữ vạm vỡ nhanh như cắt túm lấy Chu Du, bắt đầu vả miệng. Chu Du chẳng dám phản kháng, chỉ biết vật nài: “Đại điện hạ đã căn dặn, không ai được đụng vào hộp ngọc đó.”

Đồng Ngư thị phá lên cười, “Thế hả?” Dứt lời, bà ta đập luôn chiếc hộp xuống đất vỡ tan, mấy mảnh xương người cháy xém vung vãi cả ra sàn.

Đồng Ngư thị cười nhạt, nghiến răng toan giẫm lên đó.

“Các ngươi làm gì ở đây vậy?”

Đồng Ngư thị nghe tiếng ngẩng lên, Luy Tổ bước vào cửa điện, trông thấy mấy mảnh xương dưới chân Đồng Ngư thị, sắc mặt chợt tái nhợt.

Xương Ý cố nén giận, hành lễ với Đồng Ngư thị, “Đó là xương cốt của gia huynh, xin nương nương cẩn thận giùm.”

Đồng Ngư thị làm bộ áy náy, “Ai da, ta không biết, thật là có lỗi.”

Nói rồi bà ta vội vã lùi lại, chẳng những tránh không được mà còn giẫm bừa lên đống xương cốt, khiến mấy mảnh xương vỡ vụn.

Bà ta liền hốt hoảng tạ lỗi: “Cái này, cái này… ai, thật thất lễ quá, ta đã bảo đừng ghé qua đây, nhưng Di Bành lập được công lớn, vừa được phong làm Đại tướng quân, Hoàng Đế thấy ta thích phong cảnh Triêu Vân phong nên mới gia ân cho ta đi dạo một vòng.” Bà ta nhặt mớ xương tàn dưới đất, hai tay dâng tới trước mặt Luy Tổ: “Tỷ tỷ, muội xin lỗi nhé.”

Luy Tổ xám mặt lại, loạng xoạng muốn ngất đi, Xương Phó phải vội vã chạy tới dìu đỡ.

Xương Ý tức giận đầy ruột nhưng miệng lưỡi vụng về, không sao đối đáp được với bà ta, chỉ biết giơ tay toan rút kiếm.

Thấy vậy, A Hành vội giữ tay y lại rồi bước chân trước mặt Luy Tổ, rút khăn lụa ra, thận trọng nhận lấy nắm xương tàn đã cháy sém.

Đồng Ngư thị liền cảm thán: “Ai! Tội nghiệp quá đi mất! Đường đường là một trang nam nhi cao lớn hiên ngang như rồng như hổ, thế mà giờ chỉ còn nắm xương tàn!”

A Hành mỉm cười đáp: “Phải rồi, nỗi khổ của chúng con chỉ có nương nương Người hiểu được thôi, nói gì thì nói, Tam ca cũng bị thiêu cháy thành tro bụi mà, ài.”

Đồng Ngư thị chợt biến sắc, tắt hẳn nụ cười, căm hận trừng mắt nhìn A Hành, nàng cũng cười cười nhìn bà ta, chẳng hề kém cạnh.

Ánh mắt Đồng Ngư thị trừng trừng nhìn Luy Tổ không rời, đoạn bà ra gằn giọng nói: “Trời cao đã nghe thấy lời nguyền của ta rồi, ngươi cứ chờ mà xem!”

Luy Tổ nghe nói tái mặt, ngất lịm đi. Đồng Ngư thị cũng dắt đám cung nhân lũ lượt rời Triêu Vân điện.

Sau khi tỉnh lại, Luy Tổ vật vã đau đớn như chết cả cõi lòng. A Hành mấy lần định hỏi han gì đó, nhưng cứ do dự không dám. Hộp ngọc đó đã đặt trong hốc tường cả mấy ngàn năm nay, vậy mà nàng chẳng hề lưu ý, đến giờ mới biết đó là xương cốt của anh trai mình.

Chu Du đầu bù tóc rối bưng một chiếc hộp thủy tinh lại, A Hành đặt nắm xương tàn gói trong mảnh khăn tay vào đó. Thấy mọi người đều làm thinh chẳng nói chẳng rằng, Chu Du liền an ủi: “Nương nương, điện hạ, vương cơ, các vị đừng giận làm gì, đợi Đại điện hạ khỏe lại, nhất định sẽ tính sổ với mụ đàn bà đó.”

Xương Ý và A Hành vừa nghe đã rơm rớm nước mắt, Đại ca hết lòng che chở cho họ, làm sao còn trở về được nữa đây? Đến giờ A Hành mới hiểu vì sao mỗi lần gặp mặt, Đại ca đều nghiêm khắc mắng nàng trễ nải tu hành, tiếc rằng, trước đây nàng chẳng hề nhận thấy nỗi khổ tâm của Đại ca.

Luy Tổ lệnh cho đám cung nữ vây quanh: “Các người lui cả ra đi, để cả nhà ta trò chuyện riêng một lát.” Chu Du nghe nói cũng định lui ra, lại nghe Luy Tổ bảo: “Ngươi ở lại đây. Về sau, ngươi… ngươi cũng coi như Xương Phó.”

“Dạ!” Chu Du vội ngồi xuống, cười lỏn lẻn cào cào lại mái tóc rối tung trên đầu. A Hành và Xương Ý đang xúc động nên chẳng để ý lời Luy Tổ, chỉ riêng Xương Phó đưa mắt chăm chú nhìn Chu Du.

Luy Tổ quay sang bảo A Hành: “Đưa cho ta chiếc hộp.”

A Hành liền đưa chiếc hộp cho bà. Luy Tổ mở ra, khẽ vuốt nắm xương tàn, đoạn lên tiếng, “Hẳn con đang thắc mắc người này là ai, tại sao y lại thành ra thế này, phải không? Chuyện này dài lắm, phải kể từ đầu kia.”

Xương Ý vội chen vào: “Mẹ mệt rồi, để hôm khác nói đi!”

“Con cũng yên lặng nghe đi, con chỉ biết đây là Vân Trạch, chứ không biết nguồn cơn sự việc phải không?”

Thấy thái độ Luy Tổ rất kiên quyết, Xương Ý đành vâng lời.

Luy Tổ trầm ngâm giây lát rồi kể: “Đó là chuyện rất lâu rất lâu rồi, lâu đến nỗi ta cũng gần như quên mất. Khí đó cha ta vẫn còn tại thế. Tây Lăng Thị là danh gia vọng tộc từ thời thượng cổ, cùng với ba nhà Xích Thủy, Đồ Sơn, Quỷ Phương, được người đại hoang tôn là ‘Tứ thế gia’, thực lực ngang ngửa Xích Thủy Thị. Xưa kia dòng họ nhà ta từng có một vị Viêm Hậu, Phục Hy đại đế cũng rất nể trọng chúng ta. Từ nhỏ, ta đã giỏi điều khiển côn trùng, biết quay xe kéo sợi dệt nên những tấm gấm đoạn rực rỡ tươi đẹp hơn mây trắng, có một dạo ta cũng nổi danh thiên hạ, được xưng tụng là Tây Lăng kỳ nữ, người tới cầu hôn nườm nượp. Hồi đó ta vừa kiêu ngạo vừa phóng khoáng, mắt đặt đỉnh đầu, nào xem ai vào đâu, bèn chuồn khỏi nhà, đi ngao du sơn thủy cùng hai người bạn. Chúng ta kết bái huynh muội, uống rượu, đánh lộn, gây sự phá phách, hành hiệp trượng nghĩa đủ cả.”

Nhìn ánh mắt mẹ rực lên, vẻ hào hứng phấn khởi chưa từng thấy, Xương Ý chợt nhận ra mẹ mình cũng từng có một thời tuổi trẻ sôi nổi nhiệt thành. A Hành sực nhớ lại mấy trăm năm trước, ông lão trên Tiêu Nguyệt đỉnh hồi tưởng chuyện xưa, cũng đã cười sảng khoái thế này.

“Một hôm, ba người chúng ta ngang qua Hiên Viên, bắt gặp một vị thiếu niên anh tuấn, y đứng giữa mọi người, tươi cười rạng rỡ, hệt vầng dương chói lóa trên bầu trời kia, khiến vạn vật xung quanh đều hóa ra ảm đạm.”

Xương Phó khẽ hỏi: “Là phụ vương ư?”

Luy Tổ gật đầu, ánh mắt đượm vẻ thê lương, “Từ nhỏ ta đã được cha mẹ nuông chiều, muốn gì được nấy, cứ ngỡ gã thiếu niên này cũng như muôn vàn kẻ khác, hễ trông thấy ta đều phải đắm đuối si mê. Nhân một đêm trăng, ta bèn lẻn đi tìm y bày tỏ tình cảm, nào ngờ y lại cự tuyệt ta, còn nói rằng đã có người trong mộng rồi. Nghe vậy ta chỉ biết hổ thẹn giận dữ bỏ đi, tiếp tục ngao du với chúng bạn, làm ra vẻ chưa có gì xảy ra. Nhưng lúc nào ta cũng canh cánh nhớ đến y, càng không có được thì lại càng sục sôi muốn giành lấy. Có lần ngắm nhìn hoàng hôn từ từ buông xuống, ta đột ngột hạ quyết tâm, nhất định phải giành được người đàn ông này! Tây Lăng Luy ta lý nào lại không giành được kẻ mà ta muốn chứ? Nghĩ thế, ta bèn rời bỏ chúng bạn, đi tìm gã thiếu niên kia.”

Luy Tổ đưa mắt nhìn khắp lượt các con, “Thuở ấy, Tây Lăng Luy ta nào đã nhận ra thứ quý giá nhất trong đời, càng chưa biết rằng điều đáng trân trọng nhất chính là điều mình vừa tiện tay vứt bỏ.”

Xương Ý, Xương Phó, A Hành đều lặng thinh không nói, chỉ mình Chu Du tâm tính chất phác, chẳng ngại háo hức vọt miệng hỏi: “Về sau thế nào? Làm sao vương hậu đánh bại được tình địch?”

Luy Tổ trầm ngâm một lúc lâu, đoạn kể tiếp: “Tìm thấy gã thiếu niên đó, ta bèn lấy tư cách là bạn y để nán lại Hiên Viên tộc. Ta hiểu y là một kẻ ôm hoài bão lớn, không cam lòng làm tộc trưởng một Thần tộc nhược tiểu suốt đời, bèn dốc hết sức lực giúp y hoàn thành khát vọng. Dù gì ta cũng xuất thân từ danh gia vọng tộc, lại được nuôi dạy như Viêm Hậu tương lai, nắm rõ quy cách phân bố ruộng nương, thiết lập thuế khóa, quản lý nô bộc, còn dạy cho đàn bà con gái Hiên Viên chăn tằm dệt vải, phân tích hình thế thiên hạ với y, nói Viêm Đế và Tuấn Đế càng đấu đá ác liệt thì cơ hội của y càng lớn… Chỉ cần y muốn thực hiện, ta sẽ một lòng một dạ giúp đỡ y, ta không tin rằng, cô gái mà y tơ tưởng có thể đem lại cho y những điều đó. Ngày tháng trôi qua, chúng ta mỗi lúc một thêm thân mật, cơ hồ chuyện gì cũng có thể thổ lộ cùng nhau, cho đến một hôm, y đột nhiên căn vặn thân thế của ta, một cô gái bình thường chẳng thể nào học sâu hiểu rộng nhường ấy được, khi biết ta là Tây Lăng Luy, y đã kinh ngạc không thốt nên lời.”

Luy Tổ nghiêng đầu hồi tưởng chuyện xưa, nét tươi cười hiếm hoi thoáng lướt qua dung nhan tàn tạ, “Thuở ấy, cái tên Tây Lăng Luy nổi tiếng hệt như Thiếu Hạo và Thanh Dương bây giờ vậy, người ta có thể không biết Viêm Đế, nhưng chẳng ai không nghe tiếng Tây Lăng Luy. Hiên Viên tộc khi đó đang cần một chỗ dựa, ta lập tức đáp ứng ngay. Trước ngày hai ta thành thân, cô gái đó đã tới cầu khẩn ta, còn nói với ta rằng, cô ta… cô ta đã mang thai.”

Vẻ mặt Luy Tổ đầy xót xa hoảng hốt, thoắt chốc, mọi người trong phòng đều nín lặng như tờ.

“Cô ta khóc lóc vật nài ta đừng giành mất phu quân của mình, đừng đoạt đi cha của đứa nhỏ, còn nói, ‘Tiểu thư thân là Tây Lăng Luy, có biết bao đàn ông trên đời si mê theo đuổi, nhưng tôi chỉ có một mình y mà thôi, xin tiểu thư trả lại y cho tôi đi.’ Nhưng dù trên đời có bao nhiêu đàn ông, ta cũng chỉ muốn gả cho một mình y, nên dứt khoát cự tuyệt cô ta. Cô ta khóc lóc van nài ta thương lấy đứa bé trong bụng mà thu nhận cô ta làm tiểu thiếp, bằng không người nhà cô ta sẽ giết cả cô ta lẫn đứa bé, nhưng ta vẫn cự tuyệt. Ta là Tây Lăng Luy kia mà! Nếu vừa thành hôn chưa bao lâu, phu quân đã có con với kẻ khác thì ta còn mặt mũi nào nữa? Cha ta và toàn thể gia tộc còn mặt mũi nào nữa đây! Cha ta miễn cưỡng lắm mới chịu chấp nhận cuộc hôn nhân này, nếu Người biết chuyện đó, ắt sẽ hủy hôn là cái chắc. Nghĩ vậy ta liền đuổi cô gái đó đi, coi tất cả như một cơn ác mộng, cố giữ vẻ bình thường để cử hành hôn lễ. Nhưng sau lễ thành hôn, cô ta lại tìm tới gặp ta, chặn xe ta giữa đường, loạng choạng nâng tấm vải đẫm máu bước đến trước mặt ta, trên đó còn dính mấy khối thịt đã khô quắt, căm hận nguyền rủa: ‘Ta lấy máu thịt con ta ra thề rằng các con ngươi sẽ chết sạch không còn một mống, còn ngươi sẽ phải đau đớn cực cùng vì mất con.’”

Nghe đến đây, Xương Ý và A Hành đã đoán ra người đàn bà đó là ai, không hẹn mà cùng ớn lạnh xương sống. Thấy sắc mặt Luy Tổ tái mét, Xương Phó vội dịu giọng khuyên giải, “Mẫu hậu mệt rồi, Người nghỉ một lát đi.”

Luy Tổ lắc đầu, tiếp tục kể, “Nói xong câu đó, cô ta liền bỏ đi.”

Mấy trăm năm sau, ta cũng dần quên khuấy cô ta. Phụ vương các con và ta ngọt bùi ân ái, rời tọa kỵ là vợ chồng, lên tọa kỵ là chiến hữu, hai người đồng tâm hiệp lực, sánh vai tác chiến, qua bao phen chinh chiến, Tây Lăng tộc ra sức chiến đấu vì ta, tử thương ngày càng nhiều rồi mai một dần đi, trong khi đó Hiên Viên tộc mỗi lúc một thêm lớn mạnh, từ một Thần tộc vô danh tiểu tốt đã trở thành Thần tộc lớn, vang danh đại hoang. Ta sinh được hai đứa con trai, đặt tên là Thanh Dương và Vân Trạch. Vân Trạch rất hiểu chuyện, nó thấy Thanh Dương tính tình hào phóng, không thích cầm quân đánh giặc bèn chủ động gánh lấy mọi trách nhiệm thay huynh trưởng, ngày ngày đều theo phụ vương học hỏi.”

Thấy Luy Tổ đã mệt lử, Chu Du liền bưng trà lại, bà đón lấy chung trà hớp mấy ngụm, nghĩ một lát rồi kể tiếp: “Hiên Viên tộc ngày càng lớn mạnh, cũng chuẩn bị lập quốc tôn vương, phụ vương các con muốn nạp con gái tộc trưởng Phương Lôi tộc làm phi tử, bèn ướm hỏi ta, ông ấy cần sự hỗ trợ từ Phương Lôi tộc để lập quốc nên mong ta thông cảm cho. Trước lý lẽ đó, ta chẳng có cách nào phản đối, cũng không làm sao phản đối được. Vì chuyện này, Thanh Dương đã làm ầm lên với ta, còn đòi đi tìm phụ vương các con tranh luận, Vân Trạch từ nhỏ đã học cách xử lý chính sự, hiểu chuyện hơn Thanh Dương rất nhiều, nó phải can ngăn mãi Thanh Dương mới chịu thôi.

May sao phụ vương các con cũng chỉ khách sáo qua quýt với Phương Lôi thị chứ chẳng hề sủng ái, ta mới thở phào nhẹ nhõm. Chẳng bao lâu sau, ta lại có mang rồi mải mê với hạnh phúc làm mẹ, cho tới một ngày, Hoàng Đế dắt một phụ nữ đang mang thai tới gặp ta, nói muốn nạp cô ta làm phi, cô gái đó nhìn ta cười bẽn lẽn, còn ta sởn cả gai ốc, cô ta, cô ta… chính là thiếu nữ hơn ngàn năm trước từng tìm tới cầu khẩn ta, nguyền rủa ta, cũng chính là Đồng Ngư thị vừa rời khỏi Triêu Vân phong khi nãy.”

Chu Du “A” lên kinh ngạc, Xương Ý và A Hành tuy đã đoán được nhưng vẫn thấy lạnh toát sống lưng.

Luy Tổ lại nói: “Hai năm sau, Tam vương tử Hiên Viên Huy của Hiên Viên tộc chào đời, tuy nó không phải con đầu lòng của Hoàng Đế, nhưng lại là vương tử đầu tiên ra đời từ ngày lập quốc của Hiên Viên, Hoàng Đế hết sức phấn khởi, lệnh cho toàn quốc ăn mừng. Hồi đó ta vẫn chưa nghĩ thông, chưa hiểu ra thứ gì là quan trọng nhất nên vì chuyện này mà động thai khí, khiến Xương Ý phải sinh non. Từ nhỏ Xương Ý đã yếu ớt lắm bệnh, linh lực kém cỏi, đều là do lỗi của ta!”

Hồi tưởng lại hình ảnh mẹ mình vò võ lẻ loi giữa Triêu Vân điện lạnh lẽo, trong khi cả nước đang hân hoan đón mừng Tam vương tử chào đời, Xương Ý chợt thấy lòng chua xót: “Mẹ, đó đâu phải lỗi của Người, Người đừng tự trách nữa mà.”

Luy Tổ tiếp lời: “Hồi đó ta vừa ghen ghét, vừa không cam lòng, lại vừa hoang mang sợ hãi, luôn xúi giục Vân Trạch gắng sức lấy lòng Hoàng Đế. Thật ra Vân Trạch hiểu chuyện hơn ta, nó thường khuyên ta trên đời này, thứ khó tranh đoạt nhất chính là lòng dạ đàn ông, dù tranh được chăng nữa, cũng sẽ phải trả giá đắt, nhưng ta một mực không chịu hiểu, càng chẳng làm sao quên được những ân ái vờ vịt hơn ngàn năm qua, về sau…” Luy Tổ ngửa mặt trông lên trần nhà, mọi người ngồi đó đều không nhìn thấy nét mặt bà, nhưng vẫn thấy hai hàng nước mắt từ cằm nhỏ xuống.

“Về sau Hiên Viên giao chiến với Điền tộc ở Tây Nam, phụ vương các con vốn định phái Thanh Dương xuất chinh, nhưng Vân Trạch biết Thanh Dương chán ghét chuyện đó, bèn chủ động xin đi, Hiên Viên Huy cũng được cho đi theo Vân Trạch để rèn luyện. Vân Trạch đại thắng, buộc Điền Vương đầu hàng. Đất Điền rất nhiều núi lửa, Hiên Viên Huy nói Vân Trạch trong lúc dẫn quân phá vây không may rơi vào miệng núi lửa. Thanh Dương không tin, nó tìm được xương cốt Vân Trạch, kết luận Hiên Viên Huy đã hại chết Vân Trạch, đòi Hoàng Đế tra xét. Hoàng Đế liền phái rất đông binh lính tới trấn giữ Chi Nguyệt điện, cấm Thanh Dương tiếp cận Hiên Viên Huy nhưng Thanh Dương vẫn liều mạng xông vào Chi Nguyệt điện, còn đả thương Hiên Viên Huy. Hoàng Đế tức giận bèn hạ lệnh giam Thanh Dương vào Lưu Sa trận không có lấy một giọt nước suốt nửa năm, tới khi nó chịu nhận tội mới thôi. Lúc rời khỏi trận, Thanh Dương chỉ còn da bọc xương, trông chẳng ra hình người nữa.”

Nói đến đây, Luy Tổ nghẹn giọng, khóc không ra tiếng.

Xương Ý đỡ lời: “Thôi mẹ ơi, chuyện về sau cứ để con thuật nốt cho A Hành. Sau khi được thả khỏi Lưu Sa trận, tính tình Đại ca thay đổi hoàn toàn, cũng chẳng ngao du đây đó nữa mà trở về Hiên Viên quốc, trở thành Hiên Viên Thanh Dương quy củ bây giờ. Từ đó về sau, Đại ca càng lúc càng nổi tiếng, sau cùng tề danh với Cao Tân Thiếu Hạo lừng lẫy đã lâu, được người trên đại hoang xưng tụng là “Thiên hạ song hùng, Bắc Thanh Dương, Nam Thiếu Hạo.”

Luy Tổ lại lên tiếng: “Vân Trạch chết đi, ta mới thật sự nhìn rõ con người mà mình quyến luyến bao năm không sao buông xuống được, ta cũng tháo sạch lược vàng trâm ngọc, bỏ hết gấm vóc lụa là, chỉ muốn làm một người mẹ, bảo vệ cho con cái mình bình yên hạnh phúc mà thôi. Nhưng dường như ông trời không chịu cho ta cơ hội, có lẽ, khi ta nhẫn tâm khước từ, để mặc đứa nhỏ kia chết mà chẳng được thấy ánh mặt trời, hết thảy báo ứng đã được định sẵn cả rồi. Nhưng đó là do ta gây ra kia mà! Trăm sai ngàn sai đều tại ta cả, sao báo ứng lại đổ lên đầu các con ta…”

Luy Tổ khóc nức lên, điên dại vì đau đớn.

Xương Ý vội nắm chặt lấy hai tay Luy Tổ, truyền linh lực vào người bà, khiến Luy Tổ thiếp đi.

Chu Du bất mãn buột miệng: “Đồng Ngư nương nương thật quá đáng, nếu nô tỳ là bà ấy, người đáng hận nhất phải là Hoàng Đế mới đúng, chính Hoàng Đế phụ bạc cả hai người đàn bà kia mà! Để tranh đoạt thiên hạ, Hoàng Đế đã ruồng rẫy thanh mai trúc mã, đến khi giành được giang sơn rồi lại đổ tội cho vương hậu khiến mình mất người yêu và con trai…”

Xương Phó giật giật áo Chu Du, tỏ ý ngăn ả đừng nói nữa, dù sao Xương Ý và A Hành cũng là con Hoàng Đế sinh ra, những thị phi phải trái, ân oán giăng mắc kia đều đã thành quá khứ rồi.

Xương Ý nhờ Xương Phó và Chu Du dìu Luy Tổ vào tẩm điện nghỉ ngơi.

Xương Ý lo lắng hỏi A Hành: “Bây giờ mẹ đã loạn cả tâm thần rồi, nếu Đồng Ngư thị còn sinh sự dăm lần nữa, e rằng mẹ sẽ sụp đổ hoàn toàn luôn. Chúng ta làm sao đây?”

A Hành bưng hộp lên, chăm chú nhìn nắm xương tàn bên trong, không sao tin nổi một con người đang sống sờ sờ nay chỉ còn vài mảnh xương cháy sém, buột miệng: “Nhị ca trông thế nào?”

Hai mắt Xương Ý chợt đỏ hoe, “Trong ký ức của ta, Nhị ca cũng bận rộn hệt như Đại ca mà muội từng biết vậy, chẳng mấy khi ta gặp được huynh ấy. Nhị ca theo Đại ca đi chọn đất phong cho ta, thấy Nhược Thủy hoang vu hẻo lánh, dân chúng còn man di, ai cũng chê là chó ăn đá gà ăn sỏi, chẳng kẻ nào thèm chọn, Nhị ca bèn bảo ta dâng thư, xin ban phong Nhược Thủy. Nếu không phải Nhị ca thu xếp cho ta một nơi hẻo lánh xa xôi như thế, e rằng ta cũng đã…”

A Hành đầy vẻ ân hận, xót xa hỏi: “Sao huynh chẳng kể cho muội nghe về Nhị ca? Thế mà có lúc muội đã trách cứ Đại ca về cái chết của Hiên Viên Huy…”

Xương Ý rưng rưng nước mắt: “Đại ca không để bụng chuyện đó đâu.” Đã có lúc y sôi sục căm hờn, chỉ lăm le giết chết Di Bành ngay tức khắc, nhưng giờ đây, thấy hệt mọi tiền nhân hậu quả, bao oán hận trong lòng y đều nhường chỗ cho bi ai khôn xiết, “Ta định dâng thư lên phụ vương, xin đưa mẹ về Nhược Thủy phụng dưỡng, Đồng Ngư thị thèm muốn Triêu Vân điện thì chứ cho bà ta đi!”

A Hành lắc đầu, “Nhược Thủy chẳng phải vẫn là lãnh thổ Hiên Viên ư? Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, có tác dụng gì đâu? Nếu Đồng Ngư thị dời vào ở Triêu Vân điện, dù chúng ta trốn đến chân trời góc bể cũng vô ích.”

“Nhất định phải có một bên chết mới kết thúc được sao? Tuy Đồng Ngư thị đáng hận, nhưng cũng rất đáng thương.”

“Muội cũng thấy bà ta đáng thương, nhưng dây dưa giằng co thế này mãi chẳng tháo gỡ được, còn liên lụy cả người thân thây chất thành núi. Bây giờ chẳng còn đúng sai phải trái gì nữa hết, chỉ có người chết ta sống mới kết thúc được thôi.”

Thấy Xương Ý nín lặng, A Hành lo y lòng dạ thiện lương, dễ bị hãm hại, liền đinh ninh dặn dò: “Tứ ca, sớm muộn Di Bành cũng sẽ động tới huynh, huynh nhất định phải cẩn thận đề phòng đó.”

Vú già từng chứng kiến hai người lớn lên bưng một đĩa dâu lạnh bước vào, cười nói: “Tiếc là Đại điện hạ vắng nhà nên chẳng có dâu tươi ướp lạnh, chắc không được ngon lắm, hai vị cố ăn chút đi.”

Xương Ý và A Hành nhón một chùm dâu lạnh đưa lên miệng, trái dâu chua chua ngòn ngọt mà sao giờ đây chỉ thấy đắng chát nghẹn lòng. Bây giờ hai người mới chợt nhận ra, bao năm nay, hễ Đại ca ở nhà, mỗi lần trở về Hiên Viên sơn, bất kể lúc nào, họ đều được nếm dâu lạnh tươi roi rói.

Để ướp lạnh mấy chùm dâu tươi, Thanh Dương không tiếc hao phí linh lực khiến cả Hiên Viên sơn đổ tuyết, tiếc rằng tình cảm ấm áp quan hoài ẩn sau vẻ bề ngoài lạnh lùng nghiêm khắc ấy, hại người bọn họ chẳng hề nhận ra.

Xương Ý chăm chú nhìn A Hành, rành rọt nói: “Tuy cái chết của Đại ca chẳng phải do một mình Xi Vưu gây ra, nhưng không thể phủ nhận chính tay hắn đã đánh chết Đại ca, mẹ nhất định không chấp thuận cho muội ở bên hắn đâu!”

A Hành rơm rớm nước mắt, “Thế còn huynh? Huynh từng nói sẽ chúc phúc bọn muội kia mà?”

Xương Ý nuốt cay đắng vào lòng, đứng phắt dậy, vừa sải bước ra ngoài vừa trầm giọng đáp: “Ta sẽ không đi tìm hắn báo thù, nhưng ta cũng không thể chúc phúc cho kẻ giết chết Đại ca được. Nếu Xi Vưu chết đi, chuyện này coi như xong, nhưng nếu hắn còn sống, đời này kiếp này, ta cũng không muốn nhìn thấy mặt hắn, muội muốn sống cùng hắn thì vĩnh viễn đừng tới gặp ta nữa!”

A Hành siết chặt chùm dâu lạnh trong tay, nước mắt ầng ậng chỉ chực rơi xuống, nhưng giờ đây mẹ nàng đang bệnh nặng, Tứ ca hiền lành lương thiện, nàng chẳng thể muốn khóc thì khóc, muốn cười thì cười như xưa nữa.

Nàng nghiến chặt răng, cố nén không rơi nước mắt, chùm dâu lạnh trong tay bị bóp nát bét, nước dâu đỏ lòm từ kẽ tay nhỏ xuống tong tong như máu.

Nuốt hết nước mắt vào lòng, A Hành đứng dậy, tới thăm mẫu hậu.

Trong tẩm điện, mẫu hậu nàng đang thiêm thiếp, Xương Phó và Chu Du ngồi cạnh trông nom, đầu tóc Chu Du vẫn bù xù chưa kịp chải gỡ lại, A Hành bước vào lên tiếng: “Hai người đi nghỉ đi, để muội trông mẹ.”

“Cũng được, có chuyện gì muội kêu bọn ta nhé.” Xương Phó kéo Chu Du ra khỏi điện, ngồi dưới gốc phượng hoàng, rút chiếc lược bằng gỗ nhược mộc vừa chải tóc cho Chu Du, vừa thủ thỉ:

“Ngươi theo Đại ca bao lâu rồi?”

“Nô tỳ không nhớ nữa, chỉ biết là lâu lắm rồi, lâu hơn cả ký ức của nô tỳ nữa.”

“Sao lại lâu hơn cả ký ức?”

“Có lần nô tỳ thấy một nữ tử Nhân tộc toan treo cổ tự tử để chết theo chồng, nô tỳ nghĩ mãi mà không sao hiểu được, Thiếu Hạo bèn trêu nô tỳ là gỗ đá, đương nhiên không hiểu nổi tình cảm thương tâm đau lòng, nô tỳ nhất mực bám theo căn vặn y, y mới tiết lộ nô tỳ vốn là một cây thù du mục nát, sắp chết khô đến nơi, nhân một lần Thiếu Hạo cùng Đại điện hạ nô đùa, điện hạ bèn nhét khúc cây khô vào ngực áo, giữ bên người hàng ngày, nhờ linh khí của Đại điện hạ, nô tỳ mới có được linh thức, về sau mới tu thành hình người, vậy chẳng phải trước khi nô tỳ có ý thức đã theo Đại điện hạ rồi sao?”

“Ngươi đã gặp Nhị ca Vân Trạch lần nào chưa?”

“Nô tỳ chưa, nhưng nô tỳ biết Nhị điện hạ. Hồi đó nô tỳ còn là một khúc gỗ, không biết nói năng, chỉ có thể lắng nghe âm thanh bên ngoài, nô tỳ đã lắng nghe Nhị điện hạ từ từ trưởng thành, lại lắng nghe… lắng nghe ngài ấy qua đời. Nô tỳ ở trong lòng Đại điện hạ, cảm nhận được hết thảy đau đớn của ngài, nô tỳ rất muốn an ủi ngài, nhưng không thể cử động, cũng chẳng biết nói năng. Sau đó, sau đó… nô tỳ quá nóng ruột, đột nhiên, một hôm nô tỳ biến thành hình người. Bấy giờ Đại điện hạ đang ngủ, thấy nô tỳ thình lình xuất hiện trên giường, điện hạ giật nảy cả mình, ngã lộn cổ xuống đất, mặt tái xanh tái xám, quả là nhát gan mà…” Chu Du cười phá lên.

Tổ tiên Nhược Thủy tộc chính là Thần tộc Nhược Mộc nên Xương Phó khá am hiểu chuyện mộc yêu hóa thành người, nàng ngập ngừng hỏi, “Lúc đó ngươi không mặc gì, phải không?”

“Ơ… sau đó điện hạ cho nô tỳ mượn y phục của mình mặc tạm.”

Nhìn Chu Du ngây thơ chất phác, Xương Phó đành nuốt câu, “Đại ca lộn cổ xuống đất đâu phải vì sợ” lại, hình dung cảnh Đại ca lạnh lùng nghiêm nghị “giật nảy cả mình”, nàng không khỏi tức cười, nhưng chưa kịp cười đã nghe chua xót ngập lòng, “Từ đó về sau ngươi đi theo Đại ca ư?”

Chu Du bĩu môi ủ rũ, “Ai da! Tuy nô tỳ có thể cười nói cử động nhưng lại ngốc nghếch khù khờ, làm điện hạ bực mình, mấy lần định tống nô tỳ đi rồi đấy.”

“Vậy sao ngươi vẫn ở lại được? Một khi Đại ca đã quyết, đâu dễ gì lay chuyển.”

“Nô tỳ cũng không biết nữa, hồi đó linh lực của nô tỳ rất bất ổn, hễ cuống lên là biến lại nguyên hình, mỗi lần bị điện hạ xua đuổi, nô tỳ đều biến thành khúc gỗ. Điện hạ nổi giận cảnh cáo nô tỳ, nếu còn tiếp tục biến thành gỗ nữa sẽ quăng nô tỳ vào lò lửa luôn. Để làm vừa lòng điện hạ, không chọc giận ngài, cũng không biến thành gỗ nữa, nô tỳ đành dốc hết sức cố gắng tu hành, chỉ nửa người biến thành gỗ thôi, nào ngờ điện hạ vẫn nổi giận đùng đùng, còn giận hơn cả lần trước, điện hạ nói, thà toàn thân ngươi biến quách thành gỗ cho rồi…”

A Hành mải nghe hai người trò chuyện đã bước tới bên song khi nào chẳng rõ, nàng chỉ mong Chu Du kể tiếp vài ba chuyện nữa để mình được hiểu thêm về Đại ca, vị Đại ca luôn đứng đằng sau che chở cho nàng mà nàng chưa bao giờ hiểu rõ.

Suốt mấy trăm năm nay, sao nàng chỉ chìm đắm mải mê với thế giới bên ngoài mà chẳng hề quan tâm đến Đại ca bên cạnh? Liệu có phải tình thân là điều hiển nhiên đối với nàng, nên chưa từng nghĩ đến lúc mất đi? Vì sao mãi tới lúc mất đi rồi, nàng mới nhận ra mình rất quyến luyến Đại ca cơ chứ?

Từ sau cái chết của Băng Nguyệt, Nặc Nại chỉ ôm lấy vò rượu, say sưa tối ngày.

Tin Viêm Đế Du Võng chết thảm truyền đến Cao Tân, khiến y đột nhiên sực tỉnh, vội vàng đi suốt ngày đêm tới Thần Nông, nhưng đến chân núi thì đụng phải lệnh giới nghiêm, lại không tiện bộc lộ thân phận tới gặp Vân Tang, đương lúc bối rối như kiến bò miệng chén, y sực nhớ năm xưa mình âm thầm hẹn gặp Xi Vưu, hắn đã dặn y chờ tại Thảo An lĩnh, về sau y mới biết Thảo An lĩnh là cấm địa của Thần Nông, không ai được lui tới, nên cũng chẳng có thị vệ trông giữ.

Nặc Nại đoán từ Thảo An lĩnh có thể tìm được đường lên Tiểu Nguyệt đỉnh, bèn lẻn vào Thảo An lĩnh.

Thấy căn nhà tranh trên đỉnh núi vẫn leo lét ánh đèn, Nặc Nại mừng rỡ tiến lại, ghé mắt qua nhìn song cửa, chỉ thấy Mộc Cận mình khoác áo tang, tay giơ một viên dạ minh châu Đông hải, vừa đi vừa soi khắp các ngóc ngách trong nhà, khẽ khàng vuốt ve hết bàn tới giường, đôi mắt ăp ắp tình nồng, lệ tràn giàn giụa.

Mộc Cận ngồi xuống giường, cầm manh áo cũ của Xi Vưu áp lên mặt rồi òa khóc, “Xi Vưu, rốt cuộc ngươi còn sống hay đã chết? Tại sao ta phái người tìm kiếm khắp đại hoang mà không thấy? Dù ngươi chết rồi, cũng để ta trông thấy nắm xương tàn của ngươi chứ.”

Nghe vậy Nặc Nại thấy lòng chùng hẳn xuống. Theo y được biết cả Thần Nông, Hiên Viên, thậm chí là Cao Tân đều đang tìm kiếm Xi Vưu, nhưng đến giờ vẫn bặt vô âm tín. E rằng hắn đã chết thật rồi, liệu nắm xương tàn lạnh lẽo của hắn có cảm nhận được những giọt lệ nóng hổi của Mộc Cận không nhỉ?

Nặc Nại đứng bên ngoài một lúc lâu mà Mộc Cận vẫn ôm lấy tấm áo Xi Vưu nức nở, y bèn gõ nhẹ vào song cửa, khẽ an ủi: “Người chết rồi là hết, chỉ còn người sống đau khổ mà thôi.”

Mộc Cận giật mình ngẩng phắt lên trông thấy Nặc Nại, mày liễu dựng ngược mắng, “Giống bội bạc kia còn dám bén mảng đến Thần Nông sơn ư? Để ta giết ngươi trút giận thay Vân Tang tỷ tỷ!” Dứt lời, một dải lụa rực rỡ như mây ráng bay vèo ra cửa sổ thít lấy cổ Nặc Nại, nhưng y vẫn đứng yên, sắc mặt dần sạm lại.

Thấy Nặc Nại sắp nghẹt thở ngất lịm, Mộc Cận liền vung tay thu lại dải lụa, hậm hực hỏi: “Sao ngươi không đánh trả? Lẽ nào ngươi đến chịu chết thật đấy à? Thế thì đi mà tìm Vân Tang tỷ tỷ, ngươi phụ bạc tỷ ấy, chứ đâu có phụ bạc ta!”

Nặc Nại vội hành lễ, “Xin vương cơ tìm cách giúp tôi gặp được Vân Tang, sống chết gì tùy Vân Tang xử trí.”

“Ngươi vội gì chứ, bây giờ Vân Tang tỷ tỷ không còn hơi sức màng tới ngươi đâu!”

Nặc Nại lặng thinh không nói, chỉ ngước mắt nhìn Mộc Cận đầy vẻ khẩn cầu, ánh mắt chan chứa bi thương dằng dặc, tha thiết hơn vạn lời nài nỉ.

Mộc Cận trừng mắt lườm Nặc Nại, “Ta đưa ngươi đi một chuyến vậy.” Trước mặt nàng, Vân Tang luôn kiên cường mạnh mẽ, chưa bao giờ lộ vẻ mềm yếu, nhưng nàng hiểu trong lòng Vân Tang rất đau khổ có lẽ gã bạc tình này sẽ an ủi được Vân Tang chút nào chăng.

Trên Tiểu Nguyệt đỉnh, chỉ có tiếng gió đêm lùa qua rừng cây xao xác, như nức nở oán than.

Trong căn nhà tranh, mấy khúc ảnh mộc[2] rộ hoa đu đưa trên xà, tỏa ra ánh sáng âm u lạnh lẽo, hệt như cả bầu trời sao đang tụ về, soi sáng cỗ quan tài đặt giữa nhà, trong quan tài là một thi thể vận y phục đế vương hóa quý, nhưng không có đầu.

[2] Ảnh mộc. Theo Thập Di ký, đây là một lại cây, ban ngày một phiến lá có tới trăm chiếc bông, tối đến, hoa lại có thể phát quang, sáng như sao trời.

Vân Tang cài thoa gai, vận tang phục, ngồi quỳ trên chiếu, đang mải mê đẽo gọt một bức tượng bằng kiến mộc[3], vừa phác xong dung mạo, trông đã rất giống Du Võng.

[3] Kiến mộc: được tôn xưng là cây thần trong truyền thuyết, có thể nối thông giữa trời và đất, người và thần. Tương truyền Phục Hy, Hoàng Đế v.v… đều đi đi lại lại giữa thiên đình và nhân gian bằng chiếc thang kỳ diệu này.

Nghe tiếng chân, nàng ngừng tay khắc, trông ra cửa.

Mộc Cận dắt theo một nam tử, lẳng lặng tiến lại, nam tử kia thân hình gầy gò, nét mặt bi ai, nhưng chẳng giấu được vẻ sáng sủa tuấn tú, chính là Nặc Nại, người từng có hôn ước với Vân Tang.

Mộc Cận quay sang Nặc Nại nói nhỏ: “Vân Tang tỷ tỷ ở trong đó, ta đợi ngoài này, nếu có người tới, ta sẽ cao giọng chào hỏi, ngươi nhớ trốn ngay đi đấy.”

“Đa tạ Tứ vương cơ.”

Nặc Nại vừa ngẩng đầu đối diện với ánh mắt Vân Tang, vừa bước vào phòng, bao lời muốn nói đã ra tới đầu lưỡi, nhưng không sao thốt nổi thành câu.

Trái lại, Vân Tang chẳng hề bất ngờ trước sự xuất hiện của y, chỉ mỉm cười gật đầu, “Mời ngồi.”

Nặc Nại gập gối quỳ xuống, Vân Tang chăm chú nhìn bức tượng đang khắc, cất tiếng, “Chàng tới đúng lúc lắm, thiếp loay hoay mãi chưa khắc được mắt và mũi, chàng khéo tay như vậy, khắc giùm thiếp được không?”

Nặc Nại cầm lấy dao toan khắc, chợt phát hiện ra trải qua bao ngày đắm chìm trong rượu, tay y đã bắt đầu run, chẳng còn trầm ổn vững vàng như xưa được nữa. Càng căng thẳng muốn làm cho tốt, cánh tay y càng run lên dữ dội.

Đương lúc Nặc Nại bẽ bàng hổ thẹn khôn xiết, Vân Tang bỗng đưa tay nắm chặt lấy tay y, chẳng rõ nhờ nguồn linh lực dồi dào nàng truyền cho, hay nhờ bàn tay dịu dàng kiên định của nàng mà cánh tay y dần thôi run rẩy, chiếc mũi và đôi mắt là phần khó khắc nhất, vậy mà hai người cùng làm lại điêu khắc rất sống động, như thể Du Võng tái sinh, chăm chú nhìn bọn họ vậy.

Nặc Nại đưa mắt nhìn Vân Tang, đầy day dứt, “Vân Tang…”

“Đừng say sưa nữa.” Vân Tang dịu dàng nhìn y, ánh mắt thấu hiểu và khoan dung, chẳng bợn một tia oán trách.

Nặc Nại chợt thấy mũi cay cay, “Ừ!”

Vân Tang khẽ cười, “Thiếp hiểu lòng chàng mà, tình hình Thần Nông hiện giờ không tiện giữ khách lại, chàng về đi thôi!”

“Thế còn nàng? Nàng định thế nào?”

“Thiếp ư? Thiếp là Trưởng vương cơ của Thần Nông, Thần Nông quốc ở đâu, thiếp ở đó.” Đôi vai Vân Tang gầy guộc mỏng manh, nhưng giọng điệu lại vô cùng kiên quyết.

Nặc Nại liền nắm chặt lấy tay nàng, “Theo ta đi! Nàng còn nhớ bóng nước dưới Ao Đột quán không? Ta không làm Nạc Nại, nàng cũng đừng làm Vân Tang nữa, hai ta không cần thân phận, địa vị, không cần gì hết, chỉ sống đúng với bản thân mình thôi được không? Thiên hạ rộng lớn, thế nào cũng có nơi dành cho hai chúng ta!”

Vân Tang đăm đăm nhìn Nặc Nại, lệ dâng lên trong mắt, hồi lâu mới đáp: “Nghe tin Băng Nguyệt treo cổ tự tử giữa cổng thành, thiếp đã biết Nặc Nại Đại tướng quân của Cao Tân Hy Hòa bộ chẳng thể nào kết hôn với một vương cơ dị tộc như thiếp được nữa! Nhưng thiếp nghĩ nam tử từng thiết kế Ao Đột quán nhất định sẽ nhìn thấu mọi chuyện, nhận định rõ tình cảm của mình, sớm muộn gì cũng tới tìm thiếp. Thiếp đã đợi y hết ngày này sang tháng khác, đợi suốt ngày dài đêm thâu, đợi y tới tìm thiếp, nói với thiếp rằng, ‘Nặc Nại không thể cưới Vân Tang, nhưng ta đã đến đây, nàng có bằng lòng từ bỏ mọi thứ, mặc kệ điều tiếng, bỏ đi cùng ta chăng?’, thiếp sẽ nắm chặt lấy tay y, trả lời, ‘Cứ để người đời phỉ nhổ Nặc Nại và Vân Tang đi!’, rồi theo y tới chân trời góc bể. Thiếp đợi ngày lại ngày, đêm lại đêm, đợi đến nỗi đáy mắt và cõi lòng đều hoang hoải cỏ, nhưng chàng mãi không thấy tới!”

Vẻ mặt Nặc Nại đầy thê lương, y sợ hễ mở mắt lại trông thấy thi thể Băng Nguyệt, sợ đối diện với nước mắt Vân Tang, nên suốt ngày đêm chỉ chìm trong rượu, còn lo rượu chẳng đủ say người, bèn kiếm cả Ngọc Hồng thảo[4] tửu chuốc cho mình túy lúy. Mãi tới khi nghe tin Du Võng từ trần, y mới sực tỉnh.

[4] Ngọc Hồng thảo (cỏ Ngọc Hồng), trong Thi từ viết “Côn Luân có loài cỏ gọi là Ngọc Hồng, hễ ai ăn vào sẽ say khướt, ngủ luôn ba trăm năm mới tỉnh lại.”

Y siết chặt tay Vân Tang, “Vân Tang, ta đã đến rồi đây!”

Vân Tang thảm đạm rút tay lại, chăm chú nhìn pho tượng Du Võng, nước mắt từ khóe mi tràn ra, lăn xuống gò má, “Muộn mất rồi!”

Gương mặt buồn bã của Nặc Nại ánh lên vẻ kiên quyết, “Ta sẽ dựng một Ao Đột quán khác cho nàng, chỉ cần núi chưa mòn, sông chưa cạn thì chưa bao giờ muộn cả!”

“Giờ đây thiếp là Trưởng vương cơ của Thần Nông, là chỗ dựa của muôn dân trăm họ, thiếp không thể theo một tướng quân Cao Tân bội tín bạc nghĩa được.”

Nặc Nại khẩn thiết, “Vân Tang, nàng quên mình từng thề độc nếu còn can dự triều chính sẽ chết không toàn thây ư?”

Vân Tang mỉm cười nhìn Nặc Nại, mắt lệ nhòa mi, long lanh như trân châu dưới ánh sáng ảnh mộc lạnh lẽo, xói vào mắt Nặc Nại đau nhói, “Thiếp còn nhiều việc phải xử lý, Tướng quân về đi!”

Nặc Nại đăm đăm nhìn Vân Tang – người con gái mà mình vừa yêu vừa trọng, ánh mắt quyến luyến không nỡ rời, nhưng trong lòng lại rõ hơn ai hết, y chẳng thể nào có lại nàng được nữa, y đã đến muộn mất rồi!

“Vân Tang, nàng đừng…”

“Chàng cứ yên tâm, thiếp biết tự bảo trọng mà, trên Thần Nông sơn có cha mẹ và các em thiếp, dưới Thần Nông sơn còn có muôn dân của thiếp, thiếp nhất định sẽ bảo trọng.” Dứt lời, Vân Tang quay ngoắt đi, không nhìn Nặc Nại, chỉ chăm chú ngắm pho tượng Du Võng, cao giọng gọi, “Mộc Cận, muội đưa Tướng quân xuống núi đi!”

Mộc Cận bước vào xốc Nặc Nại dậy, vừa kéo vừa đẩy y ra khỏi cửa, hậm hực, “Tính tình vương cơ ra sao, Tướng quân ắt phải hiểu hơn ai hết, chỉ cần ngươi đưa tay ra, tỷ ấy sẽ vứt bỏ tất cả, theo ngươi tới chân trời góc bể. Nhưng tỷ ấy đợi suốt ngày dài đêm thâu, ngươi lại hèn nhát mượn rượu giải sầu, say sưa túy lúy, khiến tỷ ấy tan nát cả cõi lòng. Ngươi thật không xứng với Vân Tang tỷ tỷ! Giờ đây…” Mộc Cận rơm rớm nước mắt, “Nếu ngươi thật lòng quan tâm tới Vân Tang thì đừng quấy rầy tỷ ấy nữa!”

Nặc Nại loạng choạng leo xuống Thần Nông sơn, giữa đêm đen thăm thẳm, y chợt nghe văng vẳng tiếng đàn thê lương ai oán, là Vân Tang tấu khúc đàn dẫn đường cho Du Võng, hy vọng em trai bị chặt đầu có thể theo tiếng đàn mà yên nghỉ: hồn về, hồn về đây đi!

Nặc Nại ngẩn ngơ bay về phía Cao Tân, lòng thầm tự hỏi, chẳng rõ còn ai vì y mà tấu một khúc đàn, dẫn đường cho y tìm được nơi yên nghỉ hay chăng?

Về đến nhà, Nặc Nại bước vào phòng, trông thấy cây ngô đồng cầm mà mình làm cho Vân Tang đã phủi đầy bụi bặm.

Sớm sớm chiều chiều Vân Tang từng đàn cho y nghe chẳng biết bao lần, trong phòng tựa hồ còn văng vẳng giọng nói tiếng cười của nàng, ngoài hiên vẫn như thấp thóang dáng kiều hương tóc.

Nặc Nại khẽ vuốt ve dây đàn, cây đàn ngân lên tinh tang mấy tiếng, lạc lõng rơi vào thinh không.

Mấy kẻ hầu bưng vò rượu tiến vào, ngửi thấy hơi rượu, Nặc Nại tiện tay cầm lấy, nhưng vừa đưa lên miệng, y sực nhớ tới lời Vân Tang, liền quăng luôn ra ngoài cửa sổ, rồi mặc cho đám người hầu sợ hãi quỳ sụp cả xuống, y loạng choạng ném tất cả các vò rượu trong tay họ ra ngoài vỡ tan, “Đập hết các vò rượu trong phủ đi, đập hết!”

Đám người hầu lập cập dạ vâng, cuống quýt luồn ra cửa chạy thẳng, đúng lúc Thiếu Hạo bước vào phòng, thấy vò rượu vỡ ngổn ngang đầy đất, “Cuối cùng ngươi cũng tỉnh.”

Nặc Nại ngồi xuống, đầu cúi gục, “Nhưng muộn mất rồi.”

Thiếu Hạo ngồi đối diện với Nặc Nại, thấy ngón tay y không ngừng mân mê hàng chữ nhỏ khắc trên cây đàn – mây soi hồ Ao Tinh, dâu biếc non Đột Bích – hàng chữ ấy chẳng những có tên Vân Tang lồng vào mà còn ám chỉ tình cảnh lần đầu tiên họ gặp nhau, hơn nữa là mượn hình ảnh mày soi hồ, dâu biếc núi bày tỏ tình cảm của y đối với nàng.

Thiếu Hạo thở dài tiếc nuối, “Nặc Nại từng khiến ta ngả mũ khâm phục trước tài hoa phẩm mạo đâu rồi?”

Nặc Nại bất động, chỉ thuận miệng đáp, “Nặc Nại đã phụ lòng kỳ vọng của điện hạ.”

“Ngươi thông minh mẫn tuệ, có từng nghĩ vì sao Hoàng Đế giết được Du Võng như bỡn vậy không?”

Câu hỏi này rốt cuộc cũng lôi kéo được sự chú ý của Nặc Nại, y ngẩng mặt nhìn Thiếu Hạo, vừa ngẫm ngợi vừa đáp: “Hoàng Đế tự tay giết chết Du Võng có thể khích lệ sĩ khí Hiên Viên tăng vọt, đập tan ý chí chiến đấu của Thần Nông, nhưng nếu không nắm rõ nơi ở của Du Võng cùng lực lượng thị vệ quanh y thì không đáng đích thân mạo hiểm hành thích.”

“Hoàng Đế là người rất thận trọng, một khi đã hành động là phải thành công, e rằng cả việc Du Võng ngự giá thân chinh cũng nằm trong kế hoạch của ông ta, mục đích là để ám sát Du Võng.”

Nặc Nại dần đanh mặt lại, “Trong Thần Nông quốc có một tên nội gián địa vị rất cao!”

Thấy Thiếu Hạo gật đầu tán đồng, ánh mắt Nặc Nại chợt hoang mang lo lắng, chẳng rõ Vân Tang đã biết chưa?

“Nặc Nại, ta có một chuyện muốn nhờ ngươi, việc này chẳng những lợi cho Thần Nông, mà còn lợi cả cho Cao Tân nữa.”

“Thần ngu độn, không nghĩ ra việc gì vừa có lợi cho Thần Nông, lại vừa có lợi cho Cao Tân cả.”

“Ta cứ nghĩ Thần Nông quốc lực hùng hậu, Hiên Viên và Thần Nông ắt phải giao chiến khá lâu mới phân thắng bại, ta sẽ có nhiều thời gian cải cách chấn chỉnh Cao Tân. Dù Hiên Viên đánh bại Thần Nông, hẳn cũng hao binh tổn tướng, suy kiệt nguyên khí, tới lúc đó ta có thể ung dung đối phó với Hoàng Đế. Ngờ đâu Hoàng Đế trong ứng ngoài hợp, đưa ra diệu kế này, vừa cất tay đã phá tan đại quân Thần Nông. Nếu ông ta tiêu diệt Thần Nông xuôi chèo mát mái thì Cao Tân sẽ trở thành miếng mồi ngon kế tiếp, chẳng mấy chốc mà máu đổ thành sông, tiếng than dậy đất, mấy chuyện tranh chấp giữa ta và Yến Long, Trung Dung cùng Cao Tân tứ bộ không bằng ngón tay so với cuộc chiến này đâu.”

Ánh mắt Nặc Nại lộ vẻ kiên quyết, y nghiêm trang đáp, “Bệ hạ đâu phải như Du Võng, chúng tướng sĩ nhất định không để lại đại quân Hiên Viên tiến vào Cao Tân một bước!”

Nhận thấy nam tử trung dũng một lòng khi xưa đã trở về trong Nặc Nại, Thiếu Hạo tươi cười gật đầu, “Ta cần thời gian để củng cố ngai vàng, cải cách Cao Tân, huấn luyện quân đội!”

“Phải làm sao mới tranh thủ được thời gian?”

“Hoàng đế chinh phục Thần Nông chậm ngày nào, Cao Tân sẽ được an toàn thêm ngày đó.”

Nặc Nại dần hiểu ra, “Cao Tân là đông minh của Hiên Viên, không tiện công khai hỗ trợ Thần Nông, nhưng cứ âm thầm giúp đỡ, đại quân Thần Nông càng mạnh thì Hoàng Đế càng bị uy hiếp, Cao Tân chúng ta cũng càng được lợi.”

“Đúng! Đây chính là việc có lợi cho cả Thần Nông lẫn Cao Tân mà ta nói đó.”

Nặc Nại biết Thiếu Hạo rất thâm trầm, nói câu này ắt hẳn có dụng ý, y trầm ngâm nghĩ ngợi giây lát rồi quỳ xuống trước mặt Thiếu Hạo, “Thần nguyện làm tất cả mọi việc bệ hạ giao phó!”

Thiếu Hạo nói: “Đáng ra, ngươi xuất thân cao quý, không nên đảm đương việc này, nhưng những kẻ có dũng khí thì lại kém cơ biến, được cơ biến thì lại chẳng trung thành, đủ trung thành thì kém cỏi bất tài, nghĩ đi nghĩ lại chỉ có mình ngươi là phù hợp, có điều, như vậy ngươi phải hy sinh nhiều quá.”

Nặc Nại đáp, “Bệ hạ hiểu lòng thần đối với Vân Tang mà, nếu chẳng phải là tướng lĩnh Cao Tân, lại chịu ân sâu của bệ hạ, thần chỉ muốn đầu quân Thần Nông, lập tức ra chiến trường đẩy lùi Hiên Viên, bảo vệ Vân Tang thôi. Giờ đây khó khăn lắm mới tìm được cơ hội, vừa vẹn toàn tình được tình cảm của thần dành cho Vân Tang, lại vừa đáp đền được ơn nước, dù phải hy sinh thứ gì, thần cũng cam tâm tình nguyện.”

“Chuyện này chỉ có thể âm thầm tiến hành, trừ ta và ngươi, không kẻ nào được biết cả, dù ngươi trợ giúp Vân Tang, nàng ta cũng chẳng biết ngươi là Nặc Nại đâu.”

Nặc Nại cười thê lương, “Thần hiểu, nếu thần tiết lộ thân phận, chẳng những hại đến Vân Tang, mà còn hại cả Cao Tân nữa.”

“Dù phải hy sinh bất cứ thứ gì, ngươi cũng bằng lòng ư?”

“Chết cũng không hối!”

“Được lắm, việc đầu tiên ta muốn ngươi làm là cứ tiếp tục say sưa túy lúy tối ngày. Việc thứ hai…” Thiếu Hạo cầm cây đàn lên. “Ta muốn ngươi nhân lúc say khướt, đập nát cây đàn này dưới cổng thành Băng Nguyệt treo cổ tự sát, trước mặt mọi người.”

Nặc Nại bàng hoàng nhìn cây đàn, hối lâu không đáp.

Thiếu Hạo lạnh lùng hỏi, “Ngươi say đập đàn, cũng có nghĩa là cắt đứt sợi tơ tình cuối cùng giữa ngươi và Vân Tang, khiến nàng ta triệt để lãng quên ngươi, ngươi có chấp nhận hy sinh không?”

Nặc Nại ra sức dập đầu, “Thần chấp nhận.”

Chương 8: nhớ chàng , hận chàng , chàng có hay

Nhiều khi, chính sự ủng hộ của người phụ nữ đã tiếp thêm sức mạnh cho người đàn ông, phụ nữ thường hay dựa giẫm vào đàn ộng, lẽ nào đàn ông không cần dựa vào phụ nữ ư?

[1] Trích trong bài Cây tương tư của Lương Khải Siêu (1873-1929) (ND)

Sau khi đại náo Triêu Vân điện, Đồng Ngư thị vừa đánh trống vừa la làng, tức tốc dâng thư lên Hoàng Đế lu loa rằng mình bị làm nhục, Hoàng Đế liền phái người đem thư của Đồng Ngư thị tới Triêu Vân điện.

Xương Ý đọc xong đến run rẩy toàn thân, nắm chặt phong thư định đến trước mặt phụ vương nói rõ trắng đen phải trái, nhưng A Hành kịp ngăn lại. Nàng mỉm cười cầm bút lên viết thư trả lời, cung kính bác bỏ từng “tội danh” một.

Được tin Luy Tổ bệnh nặng, Thiếu Hạo cho rằng trong trăm điều thiện, chữ hiếu đứng đầu, đồng ý để A Hành ở lại Triêu Vân điện chăm sóc mẹ. Thấm thoắt đã một năm, chẳng biết tự khi nào mọi việc trong nhà đều do A Hành làm chủ, từ bài trí Triêu Vân điện, lo liệu việc sinh hoạt ăn uống hằng ngày cho mẹ đến trả lời thư từ của Hoàng Đế, giải quyết công văn các nơi trình lên, nàng đều xử lý gọn gàng đâu ra đấy.

Nhìn A Hành ung dung tươi cười thu xếp mọi việc, Xương Ý vừa xót xa, vừa kính phục.

Thấy Xương Ý thừ người bên song hồi lâu, Xương Phó bèn lại gần, nhìn theo ánh mắt Xương Ý, nàng trông thấy A Hành đang cùng Luy Tổ tản bộ trong rừng dâu.

Xương phó vòng tay ôm lấy Xương Ý từ phía sau, áp mặt vào lưng y, dịu dàng hỏi: “Chàng nghĩ gì thế?”

Xương Ý không ngoảnh lại, chỉ áp tay lên tay Xương Phó, “Khi trước ta cứ nghĩ A Hành cũng như mình, giờ mới hiểu, thật ra con người muội ấy rất giống Đại ca.”

“Ừm, tiểu muội kiên cường hơn thiếp tưởng nhiều.” Thanh Dương bị Xi Vưu giết, Xi Vưu sống chết không rõ, nếu đổi lại là nàng, e rằng chỉ một biến cố đã đủ gục ngã rồi, vậy mà A Hành vẫn đứng vững vàng, còn có thể chăm lo cho người thân bên cạnh nữa.

Xương Ý hỏi nhỏ: “Ta là bậc đại ca vô dụng, phải không? Sớm biết thế này, thà ta cố gắng tu luyện cho giỏi, còn hơn tốn thời gian đọc sách vẽ tranh.”

Xương Phó đau xót ôm chặt lấy Xương Ý, “Đại ca và tiểu muội giống như lưỡi kiếm vậy, nhìn thì sắc bén lợi hại, nhưng rất dễ làm thương tổn bản thân mình, còn chàng lại chính là vỏ kiếm, bề ngoài giản dị thô sơ, nhưng có thể bảo vệ cho lưỡi kiếm yên tâm ngơi nghỉ. A Hành kiên cường được như vậy vì muội ấy biết, sau lưng mình luôn có Tứ ca.”

Đôi mày Xương Ý dần giãn ra, y lấy tay siết chặt tay Xương Phó. Tuy nỗi đau vẫn ngày đêm canh cánh bên lòng, nhưng y hiểu rằng, bất kể lúc nào, hễ y hoang mang yếu đuối, nàng sẽ dang tay ôm lấy y. Nhiều khi, chính sự ủng hộ của người phụ nữ đã tiếp thêm sức mạnh cho người đàn ông, phụ nữ thường hay dựa giẫm vào đàn ông, lẽ nào đàn ông không cần dựa vào phụ nữ ư?

Thấy mặt trời đã lên quá đỉnh đầu, Xương Phó cười nói: “Hôm nay nắng đẹp quá, chúng ta kê mấy chiếc bàn dưới gốc dâu dùng cơm luôn được không?”

“Được.”

Xếp đặt xong xuôi, Xương Phó hào hứng gọi, “Mẫu hậu, tiểu muội lại dùng cơm thôi.”

A Hành đỡ Luy Tổ tiến lại, nhưng vừa ngửi thấy mùi cơm, nàng bỗng thấy dạ quặn lên, choáng váng đầu óc, chỉ muốn nôn. Nàng ọe ọe nôn khan mấy tiếng, Luy Tổ phải đỡ lấy nàng. Sợ mẹ lo cho mình, nàng cười trấn an, “Con không sao, chắc tại hôm qua ăn nhiều, dạ dày biểu tình đó mà.”

Luy Tổ đổi nét mặt, đặt tay lên bụng A Hành cười hiền hậu, “Nha đầu ngốc, cứ khoe khoang giỏi y thuật, thế mà mang thai cả năm trời không biết.”

Xương Ý biến sắc, A Hành cũng tái mặt, may sao Luy Tổ đang mừng rỡ vô vàn nên chẳng kịp nhận ra vẻ khác thường của hai người, “Phải báo ngay cho Thiếu Hạo, nó mà biết chắc sẽ vui lắm đây!”

Xương Phó vội chen vào: “Mẫu hậu, người dùng cơm đi đã, ăn xong rồi tính chuyện báo cho Thiếu Hạo cũng chưa muộn mà, lỡ như Thiếu Hạo mừng quá đón muội muội về ngay, mẫu hậu lại chẳng quyến luyến không rời ấy chứ.”

A Hành lấy lại bình tĩnh nói: “Mẹ, con muốn chính miệng báo tin này cho Thiếu Hạo.”

Luy Tổ cười, “Cũng phải, mẹ mừng quá đâm hồ đồ mất rồi.”

Xong bữa, Xương Ý đưa mắt ra hiệu cho Xương Phó, nàng liền kiếm cớ đỡ Luy Tổ đi trước.

Còn lại hai người, Xương Ý hỏi: “Muội định thế nào? Đây là con của Xi Vưu đó!”

A Hành cúi đầu không đáp, chuyện này quá bất ngờ đối với nàng, vừa nãy mải lo đối phó với mẹ nên chưa có thời gian nghĩ ngợi cho kỹ. Một lúc lâu sau nàng tươi cười ngẩng lên, ánh mắt đầy vui sướng, “Tứ ca, huynh sắp làm bác rồi.”

Xương Ý ngây người. Dù y hận Xi Vưu tới đâu, đứa nhỏ này vẫn là con của A Hành.

“Phải, ta sắp làm bác rồi.” Xương Ý bật cười, lòng rộn những hân hoan, giờ đây y mới hiểu được niềm vui của mẫu hậu, trên thế gian này, chỉ có sinh mệnh mới xua tan được bóng tối của diệt vong mà thôi.

Tiếng cười của Xương Phó vang lên, “Chàng thích trẻ con như vậy, sau này chúng ta cũng sinh một bầy cho vui.” Nói rồi nàng ngồi xuống cạnh Xương Ý, hai tay chống cằm, nheo mắt nói: “Nếu có một bầy con nít xúm xít quanh mẫu hậu, luôn miệng líu lo bà ơi bà hỡi, chắc mẫu hậu phải cười tít mắt suốt ngày.” Nàng chợt vỗ tay đánh bốp, tuyên bố với Xương Ý, “Quyết định thế đi, hai ta mau sinh con thôi, sinh cả một bầy để khắp Triêu Vân phong đâu đâu cũng nghe thấy tiếng con nít nô đùa.”

Thầm nghĩ mình và Xi Vưu chắc chỉ có một đứa con này, A Hành thấy xót xa vô hạn, đành nén lòng cười góp chuyện: “Vậy thì hay quá, cả đám huynh đệ tỷ muội cùng lớn lên bên nhau, rất thú vị.”

Xương Phó gật lấy gật để, hào hứng như thể mình đã có cả đàn con vậy.

Xương Ý cười giễu: “Chỉ vớ vẩn! Trời cho Thần tộc trường sinh, nhưng lại hạn chế số lượng ngặt nghèo, người trong Thần tộc rất khó hoài thai, các cô tưởng thích là được đấy hả?”

Xương Phó cười tít, “Hai ta chưa nay chưa hề làm chuyện xấu, nhất định trời cao sẽ ban cho chúng ta con cái đầy đàn.”

Xương Ý nghiêm mặt bào A Hành: “Muội tìm cách lựa lời với Thiếu Hạo đi, nếu sinh con gái thì không sao, chứ lỡ là con trai, đứa nhỏ sẽ trở thành Đại vương tử Cao Tân đó, chuyện này không đùa được đâu.”

Xương Phó gật đầu, “Liên quan tới vương vị, e rằng Thiếu Hạo sẽ không nhận bừa con đâu. Nếu người ta biết đứa nhỏ này không phải huyết mạch vương thất, theo luật Cao Tân, nó sẽ bị dìm chết, còn muội sẽ bị tước phong hiệu, nhốt vào lãnh cung.”

Xương Ý tiếp lời: “Không được để ai biết đứa bé này là con của Xi Vưu, mấy trăm năm nay hắn đã gánh lấy đủ điều tiếng xấu để Du Võng hưởng tiếng thơm, khiến bao người căm hận rồi.”

Bỗng chốc cả ba đều trầm ngâm buồn bã. Một năm trước đây, Thần Nông vẫn còn là bá chủ Trung Nguyên, vậy mà bây giờ đã ở bên bờ vực diệt vọng, Du Võng lìa trần, Thanh Dương qua đời, Xi Vưu sống chết chưa rõ…

A Hành gượng cười, “Về đến Cao Tân, muội sẽ bàn bạc chuyện này với Thiếu Hạo, hai người đừng lo.”

Tuy chẳng nỡ xa mẹ và Tứ ca, nhưng lưu lại Triêu Vân phong quá lâu cũng không tiện, hơn nữa bây giờ A Hành đã có mang, buộc phải quay về Cao Tân. Đương lúc thu xếp định đi, Hoàng Đế đột ngột triệu tập nàng và Xương Ý.

A Hành đoán không ra Hoàng Đế nghĩ gì, lại biết rõ Tứ ca bản tính thật thà, bèn dặn dò Xương Ý, “Nếu phụ vương vặn vẹo chuyện gì đó khó trả lời, huynh nhớ đừng nói gì cả, cứ để muội đáp thay.”

Thượng Hiên cung nằm ở phía Bắc Hiên Viên thành, được xây dựng từ khi mới lập quốc, nhằm phô bày uy thế một quốc gia nên tuy cung điện không rộng rãi, nhưng cũng hao phí khá nhiều sức người sức của. Có lẽ vì danh hiệu Hoàng Đế nên Hoàng Đế rất yêu màu vàng, mái ngói hành lang đều dát vàng lóng lánh. A Hành và Xương Ý tới nơi đúng lúc hoàng hôn, cả cung điện lấp loáng như có hào quang bao phủ, huy hoàng lộng lẫy, trang nghiêm tráng lệ khiến người ta chấn động cả tâm thần.

Buổi nghị sự trong điện vừa tan, khắp nơi vẫn bày đầy chung trà đĩa quả, những ấm vàng chén bạc dưới ánh chiều tà như tỏa ra một quầng sáng mờ mờ ấm áp.

Hoàng Đế đang ngồi chễm chệ trên ngai vàng chạm rồng cao giữa điện, toàn thân chìm giữa tầng tầng hào quang, cao lớn mà uy nghiêm.

Xương Ý và A Hành quỳ xuống dập đầu khấu kiến, Hoàng Đế liền đứng lên bảo A Hành, “Con là vương phi Cao Tân, khỏi cần hành đại lễ với ta.”

A Hành thưa: “Ở Hiên Viên, con chỉ là con gái Người, không phải vương phi Cao Tân.”

Hoàng Đế cười hài lòng, gọi bọn họ lại cùng ngồi. Xương Ý và A Hành một trái một phải chia nhau ngồi xuống sạp kê ngay dưới chân ngai vàng.

Đợi cả hai yên vị, Hoàng Đế bèn hỏi thăm sức khỏe Luy Tổ, Xương Ý lễ phép trả lời. Đột nhiên, Hoàng Đế hỏi tới Thanh Dương, “Tình trạng Thanh Dương thế nào rồi?”

A Hành vội đáp: “Đại ca bị thương rất nặng, vẫn hôn mê bất tỉnh, nếu lúc đó không có Thiếu hạo, e rằng huynh ấy đã…”

Hoàng Đế thở dài phán: “Hôm nay ta gọi các con đến là muốn bàn bạc một chuyện. Hẳn hai đứa cũng nghe ngóng được tình hình chiến sự gần đây phải không?”

Xương Ý thưa: “Con thấy tin thắng trận báo về dồn dập mà.”

“Đó chỉ là bề ngoài thôi. Tuy Thần Nông quốc đã chia năm xẻ bảy, nhưng lòng dân vẫn hướng về cố quốc, dễ đâu chịu hàng phục chúng ta. Trừ một phần nhỏ quy hàng, đại bộ phận còn lại mới là mối uy hiếp lớn nhất. Hiện giờ chúng đang sợ vỡ mật, không dám chính diện đối kháng, nhưng hễ chúng ta sơ sảy, chúng sẽ kích động đám điêu dân đó nổi dậy chống lại, đến lúc đó một đám lửa nhỏ cũng thiêu trụi được cả cánh đồng. Bởi thế chúng ta phải thực thi sách lược trên nhiều mặt, tại chiến trường hễ kẻ nào ngoan cố chống cự lập tức thẳng tay trừng trị, nên giết thì giết, nên chém thì chém, mặt khác lại phải đối đãi tốt với dân chúng Thần Nông, để tất cả dân chúng Thần Nông hiểu rằng, chỉ có quốc hiệu thay đổi, còn bọn họ vẫn có thể an cư lạc nghiệp như xưa.”

A Hành tán thưởng: “Kiêm cả ân uy, phụ vương quả là anh minh.”

Hoàng Đế nói tiếp: “Về phần các nước chư hầu của Thần Nông, mọi hứa hẹn đều chỉ là lời nói suông, cách tốt nhất là chứng minh cho họ thấy Hiên Viên tộc và Thần Nông tộc có quan hệ khăng khít, cùng hưởng họa phúc.”

Xương Ý ngỡ ngàng hỏi: “Ý phụ vương muốn Hiên Viên và Thần Nông kết thông gia ư? Phụ vương định phái vị đệ đệ nào đi cầu hôn đây?”

Hoàng Đế ưu tư thở dài: “Không chỉ là kết thông gia bình thường đâu, cuộc hôn nhân này còn phải liên quan chặt chẽ đến vương vị nữa.”

Xương Ý và A Hành nhìn nhau, đồng thanh hỏi: “Sao lại thế?”

“Muốn giành được lãnh thổ, lấy lòng trăm họ Thần Nông, chúng ta phải thể hiện thành ý của mình. Vương tử cầu hôn nhất định phải là người thừa kế vương vị tương lai, bằng không dựa vào cái gì đòi Thần Nông quy thuận? Hơn nữa, tình thế hiện giờ buộc phải làm vậy thôi. Dân chúng Thần Nông chiếm gần một nửa dân số đại hoang, Thần Nông tộc còn là Thần tộc lớn nhất, lại cả những Thần tộc đã thông gia với Thần Nông suốt bao đời nay nữa, tất cả bọn họ đều dốc sức ủng hộ cho kẻ nào kết hôn cùng vương cơ của Thần Nông. Sau khi đầu hàng, dù là vì hổ thẹn hay vì muốn giữ mạng, họ nhất định sẽ tìm trăm phương ngàn cách giúp vị vương tử đó đăng cơ, chỉ có vậy, đứa trẻ mang dòng máu Thần Nông mới có thể thừa kế vương vị ngày sau, bảo vệ lợi ích của Thần Nông tộc mãi mãi.”

A Hành khẽ hỏi: “Phụ vương bằng lòng để một đứa trẻ mang huyết mạch Thần Nông kế thừa vương vị thật ư?”

Hoàng Đế gượng cười, “Ta không bằng lòng thì biết làm sao? Vũ lực chỉ là biện pháp trấn an tạm thời, dù ta có trở thành bạo chúa chăng nữa, cũng đâu giết hết được dân chúng Thần Nông? Có khi chưa giết hết được bọn họ, Hiên Viên đã mất nước rồi cũng nên. Nếu kết hợp huyết mạch hai nhà có thể giúp Hiên Viên thuận lợi nắm giữ thiên hạ, ta đành chấp nhận vậy! Đương nhiên, đây chỉ là kế quyển nghi trước mắt thôi, Thanh Dương đâu thể chỉ có một phi tử, nếu sau này Thần Nông không còn giá trị lợi dụng thì thiên hạ này chẳng có phần cho chúng nữa đâu!”

A Hành chợt thấy vừa nể vừa sợ phụ vương, tầm mắt của ông đã vượt xa thắng lợi hiện giờ, âm thầm suy tính cho cả ngàn năm sau rồi.

Hoàng Đế đưa mắt nhìn Xương Ý rồi lại nhìn sang A Hành, “Chính vì mối thông gia này liên quan mật thiết tới vương vị, các quan trong triều đã cãi nhau ỏm tỏi mấy ngày nay, một phe cho rằng cuộc chiến lần này Di Bành lập được công lớn, nên cử Di Bành đi cầu thân, một phe lại khăng khăng phái Thanh Dương đi mới biểu lộ được thành ý của Hiên Viên tộc. Chắc hẳn các con có thể cho ý kiến thay Thanh Dương, các con nói xem, ta nên chọn Thanh Dương hay Di Bành?”

Xương Ý chẳng biết phải trả lời sao, đành nhìn sang em gái. A Hành cúi đầu trầm ngâm giây lát rồi ngẩng lên nhìn Hoàng Đế, dõng dạc, “Xin phụ vương phái Đại ca đi cầu thân.”

Hoàng Đế hỏi: “Tại sao? Con đừng ca ngợi công trạng Thanh Dương nữa, hôm nay ta nghe chán cả tai rồi.”

Gương mặt A Hành đầy vẻ bi ai, nhưng giọng điệu lại vang vang rành rọt, ẩn hiện sát khí: “Nguyên nhân Thần Nông tộc muốn liên hôn cũng giống như chúng ta thôi, chỉ mình Đại ca mới có thể thực hiện điều đó, vấn đề ở đây không chỉ là thành công hay không, mà còn liên quan tới chuyện sống chết nữa, nếu phụ vương phái Di Bành đi cầu hôn, thì con xin thưa ngay, từ nay về sau, phụ vương chắc chắn sẽ mất sự phò tá của Thanh Dương, đồng thời mất luôn con và Tứ ca!”

Hoàng Đế đanh mặt lại, trừng trừng nhìn A Hành như chất vấn: Ngươi dám uy hiếp ta ư? A Hành cũng thản nhiên nhìn lại, ánh mắt bình tĩnh mà bi ai, mặc cho Xương Ý bên cạnh căng thẳng đến nghẹt cả thở.

Trong nháy mắt, Hoàng Đế chợt phá lên cười, gật gật đầu vẻ tán thưởng, “Giỏi lắm, không hổ danh là con gái ta! Các con nhớ lấy, Hiên Viên tộc chỉ có hai bàn tay trắng, muốn có thứ gì, phải tự mình giành giật mới được!”

Xương Ý và A Hành nhất loạt quỳ xuống, “Tạ phụ vương.”

Hoàng Đế lại hỏi: “Bao lâu nữa Thanh Dương mới khỏe lại được?”

A Hành thưa: “Nếu muốn khôi phục hoàn toàn linh lực, ít ra cũng phải một hai trăm năm, nhưng đây là kết hôn chứ đâu phải giao đấu, đợi thương thế ổn định, chắc Đại ca cũng có thể tạm thời xuất quan một thời gian.”

“Vậy được, Xương Ý thay Đại ca con tới Thần Nông cầu hôn đi, ngày thành thân sẽ bàn sau.”

A Hành vội hỏi: “Chẳng hay phụ vương định chọn cô gái nào trong Thần Nông tộc?”

“Con hỏi đúng lúc lắm, ta đang muốn nghe ý kiến của con đây. Du Võng không con không cái, Viêm Đế đời trước có ba cô con gái, một con gái nuôi, hai người đã mất, hiện giờ chỉ còn lại Vân Tang và Mộc Cận, đương nhiên Trưởng vương cơ Vân Tang xứng đáng đại diện cho Thần Nông hơn cả, có điều…”

“Phụ vương e ngại tỷ ấy từng có hôn ước với Nặc Nại ư?”

“Hiên Viên chúng ta đâu có lắm lễ tiết rườm rà như Cao Tân, đừng nói là hôn ước, dù Vân Tang đã gả chồng, chỉ cần nàng ta mang huyết mạch của Viêm Đế, chúng ta cũng vẫn lấy!”

“Vậy phụ vương còn ngại gì nữa chứ?”

“Ta ngại Vân Tang thôi, nàng ta đâu phải loại người dễ lung lạc, thật ra, ta ưng Mộc Cận hơn, nhưng Mộc Cận chỉ là con nuôi, không chính danh bằng Vân Tang, nên cứ cầu hôn với Vân Tang đi!”

A Hành lẩm bẩm, “Lỡ… lỡ như… Vân Tang không chịu thì sao?”

Hoàng Đế cười nhạt, “Trong quá khứ Thần Nông có hùng mạnh đến mấy thì hiện giờ cũng đã đại bại rồi, họ khiếp sợ cảnh phơi thây đầy nội, máu chảy thành sông, chả cuống quýt kết thông gia để đổi lấy hòa bình ấy chứ!”

A Hành chẳng dám nhiều lời, đành cung kính đáp: “Con hiểu rồi.”

Xương Ý và A Hành hành lễ thoái lui rồi cùng ngự xe mây về Hiên Viên sơn. Ngồi trong xe, Xương Ý hỏi nhỏ: “Làm vậy có ổn không? Chúng ta chưa kịp bàn bạc gì với Thiếu Hạo cả.”

“Nếu Đại ca không lấy thì Di Bành lấy, đứng trước lựa chọn sinh tử này, Thiếu Hạo còn lý trí quả quyết hơn chúng ta nhiều, nhất định y sẽ tán đồng thôi. Huống chi…” A Hành nắm lấy tay Xương Ý, nghiêm trang nói, “Thiếu Hạo chính là Thanh Dương, là Đại ca của chúng mình.”

Xương Ý gật gật đầu, “Ta nhớ mà.”

Về đến chân núi Hiên Viên, hai người vừa khéo gặp ngay Di Bành đang định lên núi. Luận về vai vế, Di Bành phải nhường đường cho Xương Ý, nhưng luận về phẩm tước, Xương Ý lại phải nhường đường cho Di Bành. Đám đánh xe bên nào cũng tranh đi trước, chẳng ai chịu ai, cãi nhau ầm ĩ cả lên.

Xương Ý thấy việc chẳng đáng gì bèn vén rèm xe, toan bảo thị vệ nhường đường nhưng A Hành đã giữ tay y lại, lắc đầu. Vấn đề ở đây không phải là khí thế, mà là thái độ, tuy chuyện này rất nhỏ nhặt, nhưng nếu nhường nhịn sẽ khiến chúng thị vệ nản lòng, họ chẳng nề phạm thượng bảo vệ chủ nhân, vậy mà chủ nhân lại không bảo vệ lấy uy phong của mình, thử hỏi ngày sau họ còn nhiều chuyện làm chi nữa?

Thấy thị vệ hai bên chuẩn bị động thủ, Di Bành nhảy xuống xe quát: “Các ngươi tưởng đây là đâu hả?” Hắn vừa nạt đám thị vệ, vừa bước lại chỗ bọn Xương Ý.

Xương Ý chẳng muốn trò chuyện với kẻ hại chết Đại ca nên chỉ đáp qua loa mấy câu rồi giả bộ ngắm cảnh, lờ hắn đi. Trái lại, A Hành vẫn cười nói vui vẻ với Di Bành, còn chúc mừng hắn được thăng làm Đại tướng quân.

Di Bành đưa mắt nhìn quanh, không thấy cung nữ thị vệ nào gần đó, bèn hạ giọng nói nhỏ: “Gần đây ta bắt được khá nhiều tù binh Thần Nông, để giữ mạng, lời gì chúng cũng phun ra hết, mong vương cơ thận trọng.”

“Chúng nói chuyện gì?”

“Chúng nói vương phi có tư tình với Xi Vưu! Chúng kể có đầu có đuôi, nghe như thật ấy, còn nói trước trận Phản Tuyền, Xi Vưu lén lút hẹn hò với vương phi, ta sợ phụ vương nổi giận nên chẳng dám tấu trình gì cả. Có điều, Cao Tân lễ tiết nghiêm ngặt, nếu có chuyện này chuyển đến Cao Tân, dù là lời đồn nhảm, cũng sẽ gây ra một trận xôn xao, trời long đất lở.”

Theo phản xạ, A Hành chợt đưa tay lên bụng, nhưng miệng vẫn nở nụ cười, “Lại còn có chuyện đó nữa ư? Xi Vưu đánh Đại ca trọng thương, muội hận hắn còn không hết nữa là.”

Di Bành cười, “Thần Nông và Hiên Viên đều đang lùng sục hắn khắp nơi, nhưng suốt cả năm nay vẫn bặt vô âm tín, có lẽ Xi Vưu bỏ mạng thật rồi, nói không chừng xương cốt cũng chẳng còn toàn vẹn, xem như vương phi đã trả được thù.”

A Hành thấy lòng đau thắt, dạ quặn lên, chưa kịp phản ứng, nàng đã ồng ộc nôn hết vào áo Di Bành.

Di Bành cuống quýt lùi ra xa, đám cung nữ theo hầu cũng tái mặt, kẻ bưng nước, người cầm khăn, vội vã xúm lại.

Di Bành chỉ ghê tởm cau mày, mặc đám cung nhân rối rít vậy quanh.

Thấy A Hành vẫn nhoài ra song cửa, không ngừng nôn khan, Xương Ý bèn lấy ô mai đã chuẩn bị sẵn đưa cho nàng ngậm để khỏi cồn ruột.

Nôn hết một chập, A Hành xây xẩm mặt mày, nói chẳng ra hơi.

Thấy vậy, Di Bành bèn bảo Xương Ý: “Vương phi đang khó ở, Tứ ca đi trước đi.”

Đợi đoàn xe Xương Ý đi xa, Di Bành mới tiếp tục lên đường. Hắn cứ thấy trong lòng lấn cấn, như thể mình đã bỏ sót chuyện gì đó rất quan trọng, nhưng rốt cuộc là chuyện gì thì nghĩ mãi không ra.

Vừa về tới Chỉ Nguyệt điện, một cánh Lam Thước liền đậu ngay lên vai Di Bành, thả thẻ ngọc vào tay hắn, Di Bành mỉm cười, vội lật lên đọc.

Hoàng Đế đã quyết định chọn Thanh Dương để kết nhân duyên với Thần Nông tộc!

Di Bành chợt tắt hẳn nụ cười, bóp thẻ ngọc nát vụn ra như cám, Lam Thước cũng phát hoảng vì sát khí của hắn, ré lên một tiếng rồi bay vụt vào rừng.

Đồng Ngư thị ngồi thẫn thờ giữa ngôi đình bát giác trên đỉnh núi, nét mặt nhợt nhạt chẳng chút sinh khí, hệt như một pho tượng có máu có thịt. Từ sau khi Hiên Viên Huy chết đi, bà ta cứ tỉnh táo được vài ngày lại ngây dại mất mấy hôm, lúc tỉnh táo thì chăm chăm tìm cách hãm hại Luy Tổ, khi ngây dại lại đờ đẫn lên đỉnh núi ngồi đợi Hiên Viên Huy trở về, khuyên nhủ sao cũng vô ích.

Thấy Di Bánh tới tìm Đồng Ngư thị, vú già liền bước ra hành lễ rồi bẩm báo: “Có một thị nữ khi xưa từng hầu hạ nương nương tới xin gặp. Vì có tư tình, theo luật ả phải bị đánh roi đến chết, nhưng nương nương khai ân, chẳng những không trách phạt mà còn sắp xếp để ả có thể suôn sẻ gả chồng. Gần đây, ả theo chồng quay về Hiên Viên thành, nghe nói nương nương khó ở, nhớ lại Người vẫn thích mấy món dưa ả muối, nên kiếm cách dâng lên. Nô tỳ nhận lấy rau dưa, bảo ả về nhưng ả vẫn ghi lòng tạc dạ ơn nương nương năm đó, muốn gặp mặt nương nương để đập đầu bái tạ, đã chờ nửa ngày nay rồi.”

Di Bành ôn hòa hạ lệnh, “Hiếm được người có lòng như thế, triệu ả vào gặp nương nương đi.”

Di Bành tế nhị tránh sang một bên, chẳng bao lâu, một phụ nữ bụng chửa vượt mặt bưng một liễn dưa bước vào, thoạt trông thấy Đồng Ngư thị, ả liền quỳ sụp xuống, nhưng Đồng Ngư thị chẳng hề nhận ra, chỉ trân trân dán mắt vào bụng ả.

Nhìn vẻ đờ đẫn của Đồng Ngư thị, ả hết sức đau lòng, nhưng biết cung đình quy củ nghiêm ngặt nên chẳng dám hé răng nửa lời, chỉ trao liễn dưa cho thị nữ rồi dập đầu lui ra.

Nào ngờ ở vừa đứng lên, Đồng Ngư thị đột ngột cất tiếng: “Ngươi nghén lắm hả?” Chẳng đợi ả trả lời, bà ta lẩm bẩm nói tiếp: “Hồi đó ta nghén rất khủng khiếp, hơi tí là nôn ọe. Nhà họ Đỗ ngoài thành Bắc bán ô mai ngon lắm, ngậm một quả là đỡ ngay, ngươi cũng mua chút ít đi. Nhớ lấy, dù nôn cũng gắng ăn uống, không được bỏ cơm, đừng để con nó đói.”

Người đàn bà kia ngẩn ra, gật đầu, vú già bên cạnh liền giơ tay ra hiệu cho ả mau lui.

Di Bành đứng xa xa lắng tai nghe ngóng, chợt sững người, đoạn phá lên cười khoái trá. A Hành có thai rồi ư? Đứa nhỏ này chắc chẳng phải của Thiếu Hạo, xem chừng cơ hội đẩy cả nhà Luy Tổ lên đoạn đầu đài sắp đến rồi đây!

Hắn liền quay sang dặn kẻ hầu: “Đưa người đàn bà đó ra khỏi cung, nhớ ban thưởng hậu hĩnh vào.”

Nói rồi hắn cười đắc ý, cầm lấy áo choàng từ tay thị nữ, rảo bước tiến vào đình, khoác áo lên vai Đồng Ngư thị, “Mẹ, chúng ta vào nhà đi.”

“Sao Huy nhi mãi vẫn chưa về? Sao lâu nay ta chẳng được gặp nó gì cả.”

“Huynh ấy bận theo phụ vương xử lý công vụ, mấy ngày nay chưa về được đâu, chẳng phải mẹ vẫn dạy chúng con phải ra sức nỗ lực đó ư? Tam ca có mẫn cán mới được lòng phụ vương chứ!”

“Đúng đúng, các con phải gắng lên, nhất định không được để con trai của ả tiện nhân trên Triêu Vân phong kia qua mặt.” Đồng Ngư thị cười hài lòng.

Di Bành vừa khép áo choàng lại cho mẹ, vừa tươi cười nói nhỏ: “Vừa nãy, mẹ đã chỉ cho con một con đường rồi, bọn chúng không đắc ý được lâu nữa đâu.”

A Hành và Xương Phó theo Luy Tổ đi dạo trong rừng dâu, chợt thấy Chu Du chốc chốc lại đảo qua, hỏi có chuyện gì ả nhất mực không nói, chỉ lắc đầu quầy quậy: “Không có gì, không có gì cả.”

Lời vừa ra khỏi miệng chẳng bao lâu, chợt thấy bóng áo vàng của ả thấp thoáng giữa rừng cây, Luy Tổ không khỏi phì cười, quay sang bảo A Hành: “Ta thấy con nha đầu đó cứ len lén liếc con, chắc có chuyện gì muốn nói, con qua xem xem!”

A Hành cười vâng dạ, chạy tới bên Chu Du: “Ngươi tìm ta có chuyện gì thế?”

Chu Du đảo mắt nhìn quanh, thấy không có ai mới lên tiếng: “Đại điện hạ có những thuộc hạ chuyên phụ trách nghe ngóng tin tức, vương cơ có biết không?”

“Đại ca chẳng nói gì với ta cả, nhưng khỏi nói cũng biết, đương nhiên là có rồi.”

“Trước khi xuất chinh lần này, điện hạ dặn dò nô tỳ khi ngài vắng mặt, nếu có sự gì, nô tỳ phải báo cáo vương cơ.”

A Hành nghe lòng đau thắt lại, lặng thinh giây lát rồi hỏi: “Có chuyện gì khác thường ư?”

Chu Du gật đầu, “Lạ lắm, Di Bành vẫn không ngừng phái người đi điều tra chuyện của vương cơ và Xi Vưu, còn bỏ rất nhiều tiền mời một vị vu sư tinh thông y thuật từ Thần Nông tới, nghe nói người này rất giỏi chuẩn đoán thai phụ.”

A Hành tái mét mặt, mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa.

Chu Du mau miệng hỏi ngay: “Vương cơ làm sao thế?”

A Hành ráng định thần lại, căn dặn Chu Du: “Chuyện này nhất định không được cho ai biết đâu đấy.”

“Nô tỳ rõ rồi.”

A Hành trầm ngâm nghĩ ngợi, xem tình hình này, chắc hẳn Di Bành đã nghi ngờ nàng có mang với Xi Vưu, nhưng hắn định lợi dụng chuyện này thế nào để hãm hại cả nhà nàng, mới là vấn đề đáng lo ngại.

“Chu Du, người giúp ta tìm mấy vị thảo dược được không?”

Chu Du cười đáp: “Chuyện khác nô tỳ không biết, chứ tìm thảo dược thì dễ như trở bàn tay, dù vương cơ muốn kỳ hoa dị thảo nào, nô tỳ cũng tìm được hết.”

A Hành liền ghé tai Chu Du kể tên mấy vị thảo dược cần tìm, càng nghe, vẻ mặt ả càng kinh ngạc, nhưng từ lâu đi theo Thanh Dương, ả sớm đã tập được thói quen nói ít làm nhiều, chỉ yên lặng vâng lời.

Căn dặn Chu Du xong, A Hành sai A Tệ và Liệt Dương cùng ả đi tìm thảo dược.

Đợi bọn họ đi khuất, vẻ trấn tĩnh trên mặt A Hành cũng hoàn toàn tiêu tan, chỉ còn lại sầu thương vô hạn.

Nàng thẫn thờ rút Trụ Nhan hoa trên tóc xuống, hoa vẫn tươi thắm như xưa mà người tặng hoa giờ nơi đâu?

Suốt một năm trời, Thần Nông, Hiên Viên và Cao Tân đều sai người ráo riết lùng sục khắp nơi, nhưng Xi Vưu vẫn bóng chim tăm cá. Người người đều cho rằng hắn đã chết, kể cả Thiếu Hạo cũng vậy, chỉ mình nàng một mực không tin, dù tất cả mọi nơi có thể tìm, Liệt Dương và A Tệ đã tìm hết, mà Xi Vưu vẫn biệt tăm.

Có lẽ nàng khăng khăng giữ lấy chấp niệm ấy, vì chẳng dám nhìn thẳng vào sự thật đó thôi.

Nàng giơ Trụ Nhan hoa lên khẽ hỏi: “Chàng đang ở đâu? Chúng ta sắp có con rồi đó, chàng có vui không? Ta lo cho chàng lắm.”

Cánh hoa run run trước gió, lặng câm.

Hai hàng nước mắt lăn dài trên má A Hành, nhỏ xuống Trụ Nhan hoa, nhuộm thêm sắc thắm cho đóa hoa kiều diễm.

Hoàng Đế chính thức công bố với triều thần, cử Xương Ý tới Thần Nông tộc thay Thanh Dương cầu hôn.

Xương Ý tưởng Di Bành sẽ phản đối kịch liệt, nào ngờ hắn lại tích cực phối hợp, cùng bàn bạc hoạch định việc cầu hôn, còn chủ động đứng ra xin đi cùng hỗ trợ Xương Ý.

Hoàng Đế xét thấy tình hình hiện giờ rất phức tạp, Xương Ý lại không giỏi ứng biến, phải phái thêm người cơ trí quyền mưu theo hỗ trợ là đương nhiên, nhưng Di Bành thì không ổn, thành ý của hắn chẳng đáng tin chút nào.

Đương lúc phân vân do dự, Di Bành lại tâu: “phụ vương, nhi thần thấy hay nhất là cử tiểu muội đi cùng, muội ấy thân phận cao quý, Thần Nông tộc lại coi trọng địa vị xuất thân, ắt trọng vọng muội ấy hơn bọn con nhiều, như vậy càng tỏ rõ thành ý.”

Hoàng Đế nghĩ bụng, A Hành quả là lựa chọn hay, tuy là vương cơ của HiênViên tộc, nhưng cũng là vương phi Cao Tân, thân phận trung lập, những chuyện Hiên Viên không tiện làm đã có A Hành ra mặt, hơn nữa A Hành đi cùng, ắt Di Bành chẳng dám giở trò.

Xương Ý lập tức phản đối: “Tiểu muội nán lại Triêu Vân phong là để chăm sóc mẫu hậu, mấy hôm nay muội ấy đã thu dọn hành trang, ngày một ngày hai sẽ quay về Cao Tân, sao theo nhi thần đến Thần Nông được.” Thấy Hoàng Đế tỏ vẻ không đồng tình, Xương Ý chẳng kịp suy nghĩ, vội bồi thêm: “Dạo này tiểu muội hơi khó ở, không tiện bôn ba vất vả.”

Di Bành khẩn trương đến nỗi suýt nữa thì giậm chân, cao giọng nói ngay: “Tiểu muội không được khỏe ư? Sao không mời thầy thuốc? Nếu tin này truyền đến Cao Tân, người ta chẳng chê Tứ ca bỏ mặc tiểu muội, mà sẽ cười Hiên Viên chúng ta thất lễ cho coi. Phụ vương, xin người gọi thầy thuốc tới chẩn bệnh cho tiểu muội đi!”

Hoàng Đế gật đầu khen phải, vừa định hạ chỉ, đột nhiên từ ngoài cung điện vang lên tiếng A Hành: “Đa tạ Cửu ca quan tâm, có điều chẳng cần phiền tới thầy thuốc, mấy hôm trước muội hơi khó ở, nhưng hôm nay đã khá rồi.” A Hành thong dong bước vào, hành lễ với Hoàng Đế, “Phụ vương, để nhi thần theo Tứ ca đến Thần Nông, con có chút giao tình với Vân Tang, nếu xảy ra chuyện gì cũng dễ bàn bạc hơn.”

Hoàng Đế chuẩn y lời nàng, lệnh cho ba người mau mau thu xếp hành trang, gấp rút lên đường.

Trước khi ba người lui ra, Hoàng Đế còn lườm Di Bành, cảnh cáo: “Chuyện này liên quan đến vận mệnh Hiên Viên, mọi việc đều phải nghe theo sắp xếp của ta, chỉ được thành công, không được phép thất bại, nếu có gì sơ sảy, ta sẽ trị tội cả con và Xương Ý đấy.”

Di Bành cao giọng vâng dạ.

Về tới Triêu Vân phong, Xương Ý quay sang trách A Hành: “Muội biết mình đang mang thai, sao còn đòi đi Thần Nông?”

Dù cho Xương Ý biết Di Bành phát hiện ra việc nàng có thai, đang lăm le thăm dò từng bước thì cũng chẳng giúp ích được gì, ngược lại chỉ chuốc thêm lo lắng cho Tứ ca nên A Hành giấu tiệt chuyện đó, “Muội đang mang thai chứ đâu có sinh bệnh. Chuyện này nhìn bề ngoài là thông gia, nhưng thực ra là tranh giành vương vị, Di Bành đời nào chịu giúp đỡ chúng ta, chi bằng muội đi cùng huynh, có gì cũng tiện chăm sóc lẫn nhau.”

“Ta hiểu, tiếc rằng ta chẳng được giỏi giang như Đại ca, khiến muội phải nhọc lòng lo lắng.”

A Hành nũng nịu ngả đầu vào vai anh trai, “Tứ ca ngốc ạ, huynh là chỗ dựa tinh thần của muội kia mà.”

Xương Ý khẽ mỉm cười, vòng tay ôm lấy em gái, tựa đầu vào đầu nàng.

Sáng hôm sau, Xương Ý, A Hành và Di Bành cùng khởi hành đi Thần Nông sơn. Đồng thời, Hiên Viên Hưu và Ứng Long phụng mệnh Hoàng Đế, dẫn đại quân Hiên Viên tiếp tục tiến về phía Đông.

Sau khi Du Võng từ trần, các chư hầu vốn ngỡ rằng mình có thể tự lập làm vương lại phải đối mặt với Hoàng Đế đánh đâu thắng đó, đâm ra khiếp sợ, thấy những kẻ đầu hàng Hiên Viên đều được hậu đãi, thì khó tránh xiêu lòng muốn quy hàng. Dẫu sao trước sự uy hiếp của tử vong, cũng chẳng mấy ai đủ can đảm xem nhẹ mạng sống, coi chết như về cội.

Nghĩ sao làm vậy, mấy vị quốc chủ đức cao vọng trọng liền liên hệ với nhau, tập hợp các nước chư hầu về Thần Nông sơn, cùng bàn bạc phương cách đối phó với Hiên Viên tộc, đưa ra ý kiến nên chiến đấu hay nghị hòa.

Cộng công đã thuyết phục các chư hầu đến bã cả bọt mép rằng Thần Nông hiện giờ chia năm xẻ bảy, thân ai nấy giữ nên mới núng thế trước Hiên Viên, chỉ cần mọi người đoàn kết một lòng, rất có khả năng sẽ đánh bại được quân thù.

Ai nấy đồng loạt gật gù, tán thưởng Cộng Công phân tích rất có lý.

Cộng Công mừng rỡ đề nghị các chư hầu họp nhau lại cử ra một vị lãnh tụ rồi chích máu ăn thề, nguyện nghe theo lệnh của người đó, có vậy mới đẩy lùi được Hoàng Đế.

Nghe vậy, chư hầu các nước đều nín lặng làm thing, thậm chí có kẻ còn buông lời châm chọc Cộng Công, “Ra rả suốt nửa ngày đòi toàn tâm toàn ý vì Thần Nông, hóa ra là ngài muốn xưng vương.” Một người vừa lên tiếng, lập tức cả đám hùa theo phụ họa, lôi cả lời nhận xét của Viêm Đế đời trước về Cộng Công “chỉ là tướng mạnh, chẳng phải soái tài” ra dẫn chứng, chỉ sợ có kẻ tiến cử Cộng Công.

Cộng Công vốn mạnh mẽ ngang tàng, vậy mà nghe chúng nói cũng uất trào máu mắt, cuối cùng, hắn cũng hiểu vì sao Chúc Dung không tới tham gia hội nghị hôm nay, xem ra y đã biết tỏng bụng dạ đám người này từ lâu.

Càng nghe càng thấy rát tai, Cộng Công phẫn uất lập ngay lời thề trước mặt mọi người: “Nếu Cộng Công ta có ý xưng vương đoạt quyền, sẽ bị sét đánh tan xác, không được chết yên lành! Xin các bậc liệt tổ liệt tông của Thần Nông làm chứng, thần Cộng Công đã dốc hết sức mình, nếu một mai nước mất nhà tan, Cộng Công này chỉ còn cách lấy thân báo quốc mà thôi!” Nói rồi hắn giận dữ giũ áo đi thẳng.

Bàng hoàng trước khí thế của Cộng Công, các chư hầu cũng lặng phắc hồi lâu, mãi sau mới có người lên tiếng: “Đại quân Hiên Viên sắp kéo đến Thần Nông sơn rồi, chúng ta phải mau chóng bàn bạc tìm cách đối phó đi chứ!”

Tức thời mọi người lại rào lên tranh luận âm ĩ, nhưng ai nấy chỉ biết chăm chăm lo cho an nguy lợi ích của riêng mình, rất sợ bị kẻ khác chiếm phần hơn, để thiệt cho mình, bàn cãi chán chê chẳng đâu vào đâu cả.

Vân tang lặng thinh ngồi nghe bọn họ cãi cọ, đồng thời quan sát thật kỹ vẻ mặt từng người, trong khi Mộc Cận ngồi bên đã giận xanh mặt, mấy lần định xông ra mắng mỏ, đều bị Vân Tang ngăn lại. Hậu Thổ đanh mặt đứng cạnh hai người, trông như thể hộ vệ.

Đột nhiên, một cung nhân cuống quýt chạy vào bẩm báo: “Đại quân Hiên Viên chỉ còn cách Trạch Châu thành sáu mươi dặm nữa thôi!”

Trạch Châu là hàng phòng ngự cuối cùng của Chỉ Ấp, nếu Trạch Châu bị phá, Hiên Viên có thể đánh thẳng vào Chỉ Ấp, cũng có nghĩa là Thần Nông sẽ bị xóa tên trên bản đồ đại hoang.

Kẻ tiểu nhân đê tiện đến đâu cũng khó tránh đau lòng vì mất nước, não ruột mà thương thân, tất cả chư hầu lập tức im phăng phắc.

Giữa bầu không khí trầm lặng đầy đau thương và hoảng loạn, thị vệ bỗng chốc vào thông báo có Hiên Viên Xương Ý cầu kiến.

Cả hội nghị đưa mắt nhìn nhau, vẻ căng thẳng và sợ hãi hằn lên gương mặt, ai nấy đều lúng túng như gà mắc tóc, chẳng biết phải làm sao, đúng lúc này, Vân Tang ung dung hạ lệnh: “Mời vào!”

Xương Ý đi trước, Di Bành và A Hành nối gót tiến vào. Trong các vương tử Hiên Viên, Xương Ý có phong độ xuất chúng hơn cả, y nói năng khiêm tốn, cử chỉ hòa nhã, không hề có vẻ ngạo nghễ của kẻ thắng cuộc, lại am hiểu lễ tiết Thần Nông nên chẳng mấy chốc đã chiếm được thiện cảm của mọi người ở đó.

Hậu Thổ dò hỏi: “Vương tử lặn lội đường xa, hẳn không chỉ tới để hàn huyên, chẳng hay ngài đến có chuyện gì vậy?”

Xương Ý đưa mắt nhìn khắp lượt chư hầu xung quanh, thong thả đáp: “Ta phụng mệnh phụ vương, thay Đại ca Hiên Viên Thanh Dương tới cầu hôn cùng Thần Nông tộc, phụ vương ta nói, một giọt máu đào hơn ao nước lã, chỉ có gắn kết bằng huyết mạch mới hóa giải được chiến sự, giúp thiên hạ thái bình.”

Xương Ý vừa dứt lời, các lộ chư hầu lập tức chụm đầu ghé tai lại bàn bạc, cả đại điện toàn tiếng xì xầm to nhỏ. Những kẻ đã ngả về phe Hoàng Đế liền chớp thời cơ thể hiện, ra vẻ thấu hiểu đại nghĩa, phân tích thiệt hơn, nào là Thanh Dương tương lai đăng cơ Hoàng Đế, nếu phong một nữ tử Thần Nông làm vương hậu, cũng có nghĩa là về sau một vị vương tử mang huyết mạch Thần Nông sẽ trở thành bá chủ thiên hạ này. Giữa tiếng thì thào bàn bạc, vài kẻ đã xiêu xiêu nhưng vẫn e ngại đầu hàng, sợ có lỗi với liệt tổ liệt tông Thần Nông tộc cũng bắt đầu vắt óc tìm một lý do đàng hoàng để bao biện chi hành vi của mình.

Xương Ý tươi cười đợi mọi người bàn bạc chán chê, mới lên tiếng hỏi: “Không biết ý các vị thế nào?”

Quốc vương Quân Tử quốc lớn tuổi nhất ướm hỏi: “Chẳng rõ Thanh Dương điện hạ định cầu hôn vị cô nương nào?”

Thoạt nghe thấy câu này, tất cả các chư hầu mới rồi còn chụm đầu kề tai thảo luận, lập tức nghĩ ngay đến lợi ích cá nhân, vội vã tách hẳn ra, giữ khoảng cách, cảnh giác nhìn nhau.

Xương Ý đáp: “Phụ vương ta nói, Thanh Dương là Đại vương tử của Hiên Viên, nổi danh thiên hạ, chính phi của huynh ấy đương nhiên cũng phải có thân phận tôn quý, tài đức vẹn toàn, bởi vậy ta thay mặt huynh trưởng, xin được cầu hôn với Trưởng vương cơ.”

Ánh mắt mọi người liền đổ dồn về phía Vân Tang, lần đầu tiên họ nhất loạt đồng ý nhìn nhau, không ai phản đối cả, nào ngở Hậu Thổ đột ngột đứng phắt dậy, cao giọng: “Nhất định không được!”

Cả đại điện tức thì rào lên như ong vỡ tổ, tranh cãi náo loạn.

Hậu Thổ đưa mắt khinh miệt nhìn khắp lượt chư hầu, lắc đầu cười nhạt, “Đúng là một đám ô hợp thiển cận!” Đoạn gã quay sang Vân Tang và Mộc Cận: “Để thần hộ tống hai vị vương cơ về Tiểu Nguyệt đỉnh.” Mộc Cận lập tức đỡ lấy Vân Tang bước ra ngoài.

Thấy bọn người kia định ngăn hai nàng lại, Hậu Thổ chậm rãi giơ tay lên, một luồng xoáy cát dữ dội như mãnh thú thét gào đòi mạng cuồn cuộn giữa lòng bàn tay, gả lạnh băng cất tiếng: “Các người muốn cản đường ta?”

Hậu Thổ dáng vẻ văn nhã, dung mạo tuấn tú, xưa nay vẫn bị người ta cười cợt chế nhạo, nhưng mấy trăm năm trước, gã suýt nữa đã lấy mạng Chúc Dung, từ đó trở đi, mọi người mới giật mình nhận ra đằng sau vẻ ngoài thanh mảnh yếu ớt ấy là một kẻ tàn nhẫn hiểm độc hơn rắn rết.

Gã lừ mắt nhìn khắp đại điện, lập tức các chư hầu oai trấn một phương đều nín thin thít, sợ sệt lùi lại nhường đường.

Hậu Thổ hộ tống Vân Tang và Mộc Cận băng qua đám đông bước ra khỏi điện.

Bấy giờ, mọi người trong đại điện mới lấm lét nhìn nhau, bọn họ tính toán đủ đường, lường trước mọi chuyện, nào ngờ Vân Tang lại không đồng ý.

Hồi lâu, quốc vương Chu Nhiêu quốc đành lựa lời: “Vương tử lặn lội đường xa, mời đi nghỉ ngơi cho khỏe, chuyện này quá đỗi bất ngờ nên vương cơ thẹn thùng đó thôi, chúng tôi nhất định sẽ thuyết phục Trưởng vương cơ.”

Xương Ý thầm thở dài trong dạ, dẫn Di Bành và A Hành rời khỏi đó.

Vì là khách nên họ được sắp xếp ngụ tại một đỉnh núi ngoài rìa Thần Nông sơn chứ không được vào trung tâm.

Giữa đêm khuya, A Hành một thân một mình leo lên chóp núi, trông vời Tiểu Nguyệt đỉnh thấp thoáng đằng xa, A Tệ nằm rạp bên cạnh nàng, cũng ngơ ngẩn trông về Tiểu Nguyệt đỉnh. Liệt Dương bản tính lạnh lùng, thấy hai kẻ kia cứ ngây ra, thật là vô vị, bèn biến trở lại nguyên hình, chiếm lấy tổ của hai con quạ, đuổi hết chúng đi rồi ngủ khò.

Một lúc sau, Vân Tang cưỡi Cửu Sắc lộc từ rừng sâu chạy đến, thấy Liệt Dương đang ngủ khò, còn A Tệ hiền hòa nằm dài dưới đất. Giác quan của muôn thú hết sức nhạy bén, Cửu Sắc lộc đánh hơi thấy A Tệ có hơi hướm khác thường, cứ sợ hãi quanh quẩn mãi, không dám tiến lại gần A Hành.

A Hành nhận ra ngay, liền hạ giọng bảo A Tệ: “Mày ra chỗ khác chơi đi.” Dứt lời, nàng chẳng buồn quay lại, vung tay ném vèo một viên sỏi vào cái tổ quạ lủng lẳng trên cành, phá tan giấc ngủ của Liệt Dương, nó trừng mắt lườm nàng rồi hậm hực bay vút khỏi tổ.

Bấy giờ Cửu Sắc lộc mới dám tiến lại. Vân Tang từ trên mình nó nhảy xuống, nghi hoặc nói, “Lạ thật, trước đây tọa kỵ của ta đâu có sợ A Tệ, sao giờ lại sợ đến nỗi không dám lại gần thế nhỉ?”

A Hành chẳng buồn giấu giếm Vân Tang, lập tức đi thẳng vào vấn đề, “Tỷ tỷ có tin gì về Xi Vưu không?”

Vân Tang buồn bã lắc đầu, ngồi xuống cạnh A Hành, “Mộc Cận đã phái người tìm khắp đại hoang suốt một năm nay mà hắn vẫn biệt tăm. Ta cũng không tin rằng hắn đã chết, nhưng với tính tình của hắn, chỉ cần còn một hơi thở, nhất định sẽ không khoanh tay ngồi nhìn Thần Nông ra nông nỗi này đâu.”

A Hành đau xót đặt tay lên bụng, nước mắt giàn giụa, ngước nhìn Tiểu Nguyệt đỉnh ẩn hiện giữa mây mù.

Chính tại nơi đó, nàng đã mở lòng thừa nhận tình cảm với Xi Vưu, cùng hắn hẹn thề hàng năm gặp gỡ dưới cội anh đào. Lại sắp đến một mùa hoa đào nở, lẽ nào năm nay chàng định thất hẹn nữa sao? Chàng từng thề với ta sẽ không có lần thứ ba kia mà!

Vân Tang khẽ an ủi: “Muội muốn khóc thì cứ khóc đi, có ta ở đây!”

A Hành lắc đầu: “Xi Vưu không chết đâu mà! Hắn đã hứa với muội, tính mạng hắn chỉ thuộc về một mình muội mà thôi!”

Việc đến nước này mà A Hành vẫn giữ vững lòng tin, chẳng hề nao núng, không khỏi khiến Vân Tang cảm phục. A Hành gắng lấy lại tinh thần, hỏi sang chuyện khác: “Phụ vương muội đề nghĩ kết thông gia, tỷ thấy thế nào? Nếu tỷ không bằng lòng, chúng ta có thể tìm cách tháo gỡ.”

Vân Tang mở miệng toan nói, nhưng bây giờ đã chẳng còn như lúc trước, tuy mọi chuyện không liên hoan tới A Hành, nhưng dù sao nàng cũng là vương cơ Hiên Viên, giữa bọn họ là trùng trùng thù nhà nợ nước, có rất nhiều điều không thể nói ra, đành mỉm cười đáp: “Chính phi của Thanh Dương rất có thể sẽ trở thành mẫu nghi thiên hạ, trên đời này có mấy ai nỡ cự tuyệt lời cầu hôn của y?”

“Vậy tỷ và Nặc Nại…”

Vân Tang đanh mặt lại: “Nặc Nại mà ta quen biết đã chết từ lâu rồi! Nặc Nại bây giờ chỉ còn là cái bị thịt say sưa tối ngày, táng tận lương tâm thôi!”

A Hành hoảng sợ im bặt, nàng cũng biết Nặc Nại đắm chìm trong rượu, còn liên tục sử dụng ngọc hồng thảo, thứ thảo dược làm mê mẩn tâm trí, lâu ngày thành nghiện, giờ đã trở thành phế nhân. Nàng từng nài nỉ Thiếu Hạo đi khuyên nhủ y, Thiếu Hạo liền đưa nàng cùng tới gặp Nặc Nại, nào ngờ y cao giọng mắng chửi cả Thiếu Hạo rồi quỳ sụp xuống trước mặt nàng, khóc lóc kêu gào xin thuốc để thỏa cơn nghiền.

Thấy A Hành nín thít, Vân Tang dịu nét mặt, trở lại chủ đề cũ: “Hai nhà kết thông gia là chuyện trọng đại, muội muội ngoan, muội giúp ta tranh thủ chút thời gian để cân nhắc được không?”

“Được thôi.”

Vừa nói đến đó, Hậu Thổ đã cưỡi tọa kỵ Hóa Xà tìm đến, trông thấy Vân Tang, gã thở phào nhẹ nhõm: “Vương cơ đột nhiên biến mất làm tôi và Mộc Cận lo quá.”

“Ta không vui nên mới tìm muội muội chuyện phiếm giải sầu thôi mà.”

Hậu Thổ quay sang hành lễ với A Hành, ánh mắt vẫn chân thành tha thiết, nhưng thái độ đã khách sáo hơn nhiều. Trong lòng gã, nàng vẫn là Bạt tỷ tỷ, nhưng nàng cũng chính là vương cơ của Hiên Viên tộc, những kẻ đem quân xâm lược Thần Nông, giết chết Du Võng. Gã chẳng biết đối diện với nàng ra sao, đánh lấy thái độ khách sáo xa lạ để che giấu trái tim mình.

Biểu hiện của Hậu Thổ khiến A Hành thấy lòng chùng hẳn xuống, gượng cười đáp: “Tướng quân, mời.” Cũng khách khí, cũng xa lạ như thế.

Vân Tang liền gọi Cửu Sắc lộc lại, “Chúng ta đi thôi.”

A Hành vẫn quyến luyến Vân Tang, nhưng không sao mở miệng giữ nàng được. Cái chết của Du Võng đã chắn ngang giữa hai người, khiến A Hành chẳng còn mặt mũi nào đối diện với Vân Tang nữa.

Thấy Thần Nông tộc lần lữa trước đề nghị kết thông gia của Hoàng Đế, A Hành bèn hẹn gặp riêng Vân Tang, nhưng chẳng thu được kết quả gì, xem ra nội bộ Thần Nông cũng đang xáo trộn. Xương Ý liền tấu trình lên Hoàng Đế xin thư thả cho một thời gian, có điều chẳng rõ Di Bành đã ton hót những gì khiến Hoàng Đế bực bội, viết thư cho A Hành nếu không có kết quả thì để Di Bành toàn quyền xử lý chuyện này.

Để bức Trạch Châu đầu hàng, Hoàng Đế đã cho cắt đứt nguồn nước, nhưng thành chủ Trạch Châu vẫn kiên quyết cố thủ bên trong, chẳng buồn ra nghênh chiến, chỉ chuyên giở ngón đánh du kích, bắn lén và ám sát khiến binh sĩ Hiên Viên ăn không ngon, ngủ không yên. Hoàng Đế nổi giận truyền lệnh, nếu Trạch Châu còn không đầu hàng thì lập tức cho tấn công vào thành.

A Hành căn vặn Liệt Dương: “Mày đi Trạch Châu thăm dò, thấy tình hình thế nào?”

Liệt Dương thản nhiên đáp: “Cứ đợi xem thành công đi! Tuy Trạch Châu không có địa thế hiểm trở như Phản thành, nhưng cũng là cửa ngõ phía Bắc của đô thành Thần Nông, được xây dựng vô cùng kiên cố, dễ thủ khó công.”

Xương Ý chen vào: “Chẳng lẽ không thể thuyết phục thành chủ đầu hàng được ư? Phụ vương rất giỏi lung lạc lòng người, nhất định lần này cũng tìm ra cách hạ thành không tốn một binh một tốt.”

Liệt Dương cười nhạt: “Du Võng hiền chứ không ngu, y thừa biết tầm quan trọng của Trạch Châu nên đã chọn một người do Xi Vưu huấn luyện, đề bạt làm thành chủ, chẳng rõ tên thật của kẻ đó là gì, chỉ biết hắn thạo điều khiển gió, được xưng tụng là Phong Bá.” Dứt lời Liệt Dương nhún mình nhảy vọt lên cành cây, nhẹ tựa lông hồng, vừa đu lên cành cây, vừa hả hê nói tiếp: “Xi Vưu là đồ vô lại, huấn luyện ra bọn thủ hạ rặt giống vô lại, để chiến thắng, thủ đoạn vô sỉ hạ lưu cỡ nào cũng không từ, có điều xưa nay chưa nghe nói người của hắn biết đầu hàng bao giờ cả!”

Xương Ý phì cười, hỏi tiếp: “Vậy nếu tấn công vào thành, Hiên Viên có tốc chiến tốc thắng được không?”

Liệt Dương lắc đầu cười hăng hắc, “Không thể xem thường thực lực của Phong Bá được! Hơn nữa, nửa năm trước hắn còn kết bái với một kẻ đến từ Xích Thủy Thị, một trong Tứ thế gia, được gọi là Vũ Sư, nghe nói rất giỏi hô mưa và rèn binh khí. Phong Bá và Vũ Sư trợ giúp, e rằng Hiên Viên muốn hạ Trạch Châu cũng đại tổn nguyên khí.”

Xương Ý bất lực đưa mắt nhìn A Hành, nàng liền lên tiếng: “Nhất định Di Bành đã giở trò với Thần Nông tộc, nếu họ đồng ý kết thông gia, chẳng phải chiến sự ở Trạch Châu cũng có thể tạm thời hóa giải ư? Việc cấp bách hiện nay là tra xem Di Bành rốt cuộc đã làm gì, nhân lúc hắn đang ở Trạch Châu, muội sẽ đi Thần Nông sơn thăm dò.”

Xương Ý lập tức cản lại: “Để ta đi! Hiện giờ muội… phải giữ gìn sức khỏe.”

“Vậy cũng được.”

Xương Ý dắt thuộc hạ vội vã lên đường. A Hành ngẩng đầu nhìn Liệt Dương, vẻ nài nỉ nhưng nó ngoảnh phắt đi, vờ như không thấy.

Nàng liền dịu giọng dỗ dành: “Người bên cạnh Tứ ca đều là cao thủ Nhược Thủy tộc, chẳng ngại đấu tay đôi, nhưng đám hán tử Nhược Thủy đó rất thật thà trung hậu, trong khi Di Bành lại là kẻ nham hiểm, ngươi đi theo quan sát tình hình giùm ta với.”

Liệt Dương trợn trừng cặp mắt xanh biếc: “Cô có ý gì đây? Định chửi xéo ta là chim nham hiểm hả?”

A Hành cười trừ, chắp tay vái Liệt Dương lia lịa. Liệt Dương hậm hực lườm nàng rồi biến lại nguyên hình, bay vút đi.

A Hành vừa vào phòng ngồi xuống đã thấy một con anh vũ bay vèo qua cửa sổ, đậu xuống trước mặt, véo von nói tiếng người: “Muốn gặp Xi Vưu thì tới Trạch Châu.”

A Hành đứng phắt dậy, chợt thấy mắt hoa cả lên, choáng váng suýt ngã.

Anh vũ ngây ngơ giơ chân gãi gãi đầu, lặp lại lần nữa: “Muốn gặp Xi Vưu thì tới Trạch Châu.”

Trạch Châu liên quan mật thiết tới an nguy của Chỉ Ấp cũng như của Thần Nông sơn, chỉ cần Xi Vưu còn một hơi thở, nhất định hắn sẽ không để mất Trạch Châu, lẽ nào hiện giờ Xi Vưu ở Trạch Châu thật ư?

A Hành nghiến răng quyết định dù gì cũng phải đi xem thế nào, bèn gọi A Tệ bay về phía Trạch Châu.

Gần tới Trạch Châu, nàng chợt nghe thấy hồi kèn triệu tập binh sĩ của Hiên Viên, liền tái mét mặt. Sắp công thành đến nơi rồi! Rốt cuộc đây là lệnh của phụ vương, hay là chủ trương Di Bành tự tiện đưa ra?

Đột nhiên, phía Tây Bắc Trạch Châu thành vút lên một tiếng sáo quen quen, chính là khúc Thiên Vấn mà Xi Vưu sáng tác, được lưu truyền rộng rãi giữa đám nam nhi Cửu Lê.

Tiếng sáo cứ phập phù lúc vang vang, khi lìm lịm, như thể người tấu đang bị thương. A Hành lắng nghe một chốc rồi thúc A Tệ lần theo tiếng sáo bay tới.

Lần theo tiếng sáo lúc bổng lúc trầm, A Hành bay thẳng về phía Tây Bắc, bỏ lại sau lưng Trạch Châu thành, bỏ lại sau lưng núi non trùng trùng điệp điệp, mãi mới tìm thấy một gã đàn ông thân vận hồng y, tóc đầu xơ xác, đứng giữa hồ thổi sáo.

Gió từ đồng hoang thổi lại, phát ra những tiếng ù ù như khóc, màu tóc đen của hắn cùng vạt áo hồng bay phần phật. Nghe tiếng A Tệ gọi, hắn liền ngẩng lên nhìn, nhoẻn cười âu yếm, mày kiếm chấm tóc mai, gương mặt vẫn còn tái mét vì bệnh, quả đúng là Xi Vưu.

A Hành chạy như bay về phía Xi Vưu, hắn cũng dang tay ra đón lấy nàng vào lòng, nào ngờ A Hành khựng lại quát khẽ: “Ngươi ruốt cuộc là ai?”

Người đàn ông phá lên cười: “Vừa nhìn đã phát hiện ra rồi à! Hẳn cô và Xi Vưu là đôi tình nhân gần gũi thân mật nhất trên đời này ấy nhỉ! Rốt cuộc ta sơ hở ở đâu hả?”

Thấy A Hành nhấc tay, lòng bàn tay lấp loáng ánh sáng, hắn cười nhạt: “Ta khuyên cô đứng động võ, để đứa bé sống thêm khắc nào hay khắc nấy.”

A Hành tái mặt, hắn lại hỏi: “Là con của ta ư?”

A Hành giận dữ vung tay đánh tới, hắn vội nghiêng người né tránh, nhưng vạt áo vẫn cháy sém một mảng.

“Theo ta được biết, Hiên Viên vương cơ tu luyện mộc linh cơ mà, đây đâu phải là pháp thuật mộc linh. Rốt cuộc trong hai trăm năm ốm liệt giường, cô đã xảy ra chuyện gì hả?”

A Hành lạnh lùng: “Ta không muốn giết người, nhưng lần này ta quyết không tha cho ngươi, bản lĩnh của ngươi cũng khá lắm, đáng lẽ chẳng nên đi theo Di Bành.”

Gã đàn ông cười ha hả: “Ta vốn cũng thương hương tiếc ngọc định nương tay đấy, tiếc rằng cô không thèm, vậy ta đành lấy mạng cô thôi.” Nói rồi hắn bắn một quả cầu lửa lên không, cầu lửa nổ bùng giữa trời không, biến thành vô số con cá đỏ rực…

Xa xa cuối chân trời bỗng vang lên tiếng nổ ì ầm như sấm động. Chỉ trong giây lát, một luồng sáng trắng tựa ngân xà từ mạn Tây Bắc uốn lượn đổ ập về phía này.

A Hành thoáng sững sờ rồi nhận ra đó chính là sông Hoạch Trạch bị ngăn dòng, thì ra phụ vương nàng cắt đứt nguồn nước của Trạch Châu không chỉ để lung lạc sĩ khí, mà còn để công thành.

Nàng vội hô A Tệ chuẩn bị chuồn, chợt nghe gã đàn ông cười nói: “Di Bành thận trọng thật, đó không chỉ là nước của Hoạch Trạch, mà còn bao gồm toàn bộ nước của Thấm hà và Đan hà nữa kia, hắn không định dùng nước tấn công Trạch Châu, mà định nhấn chìm Trạch Châu.”

A Hành bàng hoàng sợ hãi: “Các người điên rồi! Làm vậy sẽ bị trời phạt đó!”

Xi Vưu phá lên cười, A Tệ cõng A Hành toan bay vụt đi, nào ngờ hắn lắc mình một cái đã chắn trước mặt A Tệ, cười khẩy. A Tệ sợ sệt không dám giao đấu chính diện, chỉ biết luồn Đông lách Tây chạy trốn nhưng vô ích.

A Hành chẳng hiểu nguyên do, cứ một mực thôi thúc A Tệ. Cảm nhận được tử vong đang đến gần, ma tính trong người A Tệ thình lình bộc phát, lấn át cả nỗi sợ bản năng, nó gầm lên một tiếng khiến Xi Vưu giật nảy mình lùi lại, A Tệ liền cướp đường bay vút lên.

Gã đàn ông nhìn theo bóng họ, dang tay thở dài: “Muộn rồi!”

Luồng nước cuồn cuộn ngất trời đổ ập xuống như sấm sét, cuốn phăng A Hành và A Tệ, tách lìa cả hai.

Nước là khởi nguồn của sự sống, nhưng khi cuội nguồn hóa thành quái vật nuốt chửng sinh mệnh thì chẳng thứ gì ngăn nổi. Bất kể A Hành thúc động bao nhiêu linh lực, dòng nước vô cùng vô tận này đều hấp thu hết bấy nhiêu, không để sót mảy may.

A Hành đành bất lực cuộn tròn người lại, gắng bảo vệ đứa bé trong bụng.

Nhưng khắp bốn bề đều cuồn cuộn nước lũ, không sao nhìn thấy phương hướng, mấy lần nàng toan rẽ nước nhô lên, nhưng lại bị sóng dồi đẩy thốc xuống đáy nước.

Càng lúc A Hành càng đuối dần, chỉ biết dồn tất cả linh lực còn lại vào bụng, che chở cho đứa con đang thành hình.

Tới lúc sống chết cách nhau một đường tơ, mọi thứ đều chẳng còn quan trọng nữa, trước mắt A Hành toàn là hình ảnh của Xi Vưu…

Xi Vưu, rốt cuộc chàng đang ở đâu? Chàng đã hứa sẽ bảo vệ ta, nhưng giờ chàng đâu rồi?

A Hành bị hút vào xoáy nước quay mòng mòng đến choáng váng đầu óc, dòng nước còn liên tục đập mạnh vào bụng nàng, khiến nàng cảm thấy đứa bé đang giãy đạp. Đây là lần đầu cái thai mẩy động, đáng lẽ phải vui mừng, nhưng A Hành chỉ thấy nỗi bi ai và kinh hoàng trước cái chết.

Con của chúng mình, con của chúng mình… Xi Vưu, chàng làm cha rồi đấy! Chàng phải luôn luôn bảo vệ cho con mới đúng chứ?

A Hành cắn mạnh vào lưỡi để máu và cơn đau giữ cho mình khỏi thiếp đi, dồn tất cả linh lực còn sót lại vào bụng.

Xi Vưu, rốt cuộc chàng đang ở đâu? Tại sao cứ để ta một thân một mình chống chọi với mọi chuyện? Vì sao lúc ta cần chàng nhất chàng đều không có mặt?

Hơi thở của A Hành cứ yếu dần đi, đứa bé trong bụng đã được mười hai tháng, bắt đầu có trực giác, dường như nó cũng cảm nhận được nguy cơ nên ra sức đạp nàng, nài nỉ nàng cứu nó, nhưng nàng… Nàng đã cạn sức tàn hơi, cả người cứng đờ, không sao cử động nổi, chỉ biết giương mắt nhìn dòng nước lũ cuồn cuộn đổ ập xuống đầu mình.

Xi Vưu… Xi Vưu…

Trái tim A Hành cứ lạnh dần, mắt nàng từ từ tối sầm lại, bên tai láng máng nghe thấy tiếng khóc của trẻ nít, nước mắt trào ra thành dòng, hòa vào dòng nước lũ lạnh lẽo vô tình, tan đi không dấu vết.

Xi Vưu, ta hận chàng!

Chương 9: Thề hẹn còn đây, tình khôn giữ

Hoa đào lả tả rợp trời, phớt qua má nàng, đậu lên vai nàng, chuyên xưa cũng lần lượt hiện ra rành rành trước mắt. Ngày này năm ngoái, nàng còn hăng hái bày biện nhà cửa, dạt dào hy vọng kề bên nhau suốt cuộc đời.

Chẳng ngờ nhà vẫn đây mà duyên đã dứt.

Từ nay về sau, đào nở, họ sẽ mãi mãi không thể gặp nhau dưới cội hoa đào được nữa.

Truyền thuyết kể rằng, trên đại hoang có năm thánh địa. Thang cốc, nơi mặt trời mọc, Ngu uyên, nơi mặt trời lặn, Quy khư, ngàn vạn con nước đổ về và Ngọc sơn, nơi hội tụ ngọc linh – bốn thánh địa này tuy người thường khó mà đến được, nhưng dù hung hiểm như Ngu uyên cũng có người bôn ba tới tận nơi, duy chỉ có Bắc Minh và Nam Minh, được gọi là hai đầu trời đất chưa ai đặt chân đến, chỉ nghe nói hai chỗ đó được gọi là Nam Bắc Minh, nơi cực Nam và cực Bắc hợp lại làm một, càng chẳng hiểu sao rõ ràng một ở cực Nam, một ở cực Bắc mà lại gọi là Nam Bắc hợp nhất.

Vì chưa ai từng đến nên người đại hoang hầu như không tin có Bắc Minh và Nam Minh[1], nhưng trên đời vẫn tồn tại một loài thú thần tên gọi là Côn, đến từ Bắc Minh, nguyên hình là cá, vừa ra đời đã có thể hóa đại bàng, tương truyền một lần sải cánh có thể bay xa chín vạn dặm. Côn không xưng thần với rồng, cũng không cúi đầu trước phượng, sinh ở Bắc Minh, chết lại về Nam Minh.

[1] Theo Tiêu dao du của Trang Tử: Bắc Minh có loài cá, tên gọi là Côn, thân lớn không biết mấy nghìn dặm. Khi biến thành chim gọi là Bằng (đại bàng), sống lưng rộng không biết mấy ngàn dặm. Mỗi khi cất cánh bay lên, sải cánh che phủ cả bầu trời. Lúc là đại bàng, thường theo sông đào mà đến tận Nam Minh.

Vì Côn có thực, nên sử sách vẫn chép rằng trên đại hoang còn có một thánh địa thứ năm, gọi là Nam Bắc Minh.

Từ đại hoang đi thẳng về hướng Bắc, sẽ đến một vùng hoang dã, băng phủ ngàn năm, tuyết rơi vạn dặm, đi mãi không thấy bến bờ, dù người của Thần tộc thần lực cao cường cũng không sao vượt qua nổi đồng hoang mênh mông tuyết trắng ấy.

Phía cuối đồng hoang bao la buốt giá ấy có một hồ nước thiên nhiên, chính là Bắc Minh.

Tiêu Dao tha thân thể bị ngũ linh phá hủy, chỉ còn thoi thóp của Xi Vưu thả xuống Bắc Minh. Nó làm vậy hoàn toàn dựa vào bản năng của muôn thú, hễ gặp nguy hiểm hoặc bị thương thì quay về nhà tìm nơi trú ngụ.

Xi Vưu nổi lềnh bềnh giữa Bắc Minh, dở sống dở chết, mê man bất tỉnh, mặc cho Tiêu Dao lay gọi. Dần dà Tiêu Dao cũng chán, bèn để mặc hắn nằm đó, bơi đi ngao du khắp Bắc Minh. Bắc Minh rộng mênh mông, xưa nay nó chưa bao giờ đến được tận cùng, thỉnh thoảng nó cũng nảy dạ tò mò, đi hết đại hoang sẽ đến một vùng băng tuyết, vượt qua đồng băng sẽ đến Bắc Minh, vậy nếu băng qua cả Bắc Minh thì sao? Có lẽ tới khi chết, nó mới giải đáp được câu hỏi này.

Hôn mê hơn ba trăm ngày đêm, cuối cùng Xi Vưu cũng tỉnh lại. Vừa mở mắt, trông thấy Tiêu Dao mừng rỡ lượn vòng quanh mình, Xi Vưu toan giơ tay chạm vào nó, nhưng chẳng nhúc nhích nổi một ngón tay.

Hắn cảm giác mình đang bồng bềnh trong nước, có điều thứ nước này rất lạ, hệt như một loại máu màu lam căng tràn nhựa sống.

Xi Vưu tự ngộ được đạo trời, tuy chẳng có lý luận phương pháp gì nhưng hắn hiểu rất rõ thế nào là hòa hợp với tự nhiên, bèn thả lỏng thân thể, trút bỏ cái tôi hòa mình vào Bắc Minh rồi cười hỏi Tiêu Dao: “Đây là Bắc Minh, nơi mày sinh ra ư?”

Tiêu Dao quẫy đuôi, té nước vào mặt Xi Vưu như oán trách: Nếu chẳng phải vì cứu ngươi, đời nào ta chịu mang thứ dơ bẩn như ngươi về nhà.

Xi Vưu phá lên cười sằng sặc, cười mãi cười mãi, đột nhiên hắn sực nhớ lại những chuyện đã xảy ra.

Du Võng chết rồi!

Chính Hoàng Đế giết chết Du Võng!

Trong cơn cuồng nộ, hắn đã giết chết Hoàng Đế!

A Hành… nàng chắc đã biết cả rồi, giờ nàng có khỏe không?

Xi Vưu thầm thở dài, nhắm nghiền mắt, những hình ảnh chập chờn đứt quãng cứ xẹt qua xẹt lại trong đầu.

Dường như hắn thấy có đến hai vị Hoàng Đế, nghe tiếng A Hành thét lên, hắn nảy đom đóm mắt, thoáng thấy A Hành bay vụt về phía mình, vẻ mặt đau đớn tột cùng… rốt cuộc cái gì là thật, cái gì là mơ?

Xi Vưu mở trừng mắt, toan gượng dậy, liền bị Tiêu Dao hậm hực quật đuôi vào mặt.

Hắn khó nhọc lên tiếng: “Ta phải về.”

Tiêu Dao lập tức há miệng phun ra vô số bong bóng nước, trông như thể chạm vào là vỡ, nào ngờ chúng lại khóa chặt tay của Xi Vưu dính vào mặt nước, bất kể hắn vùng vẫy ra sao cũng không làm vỡ nổi. Rõ ràng đây là địa bàn của Tiêu Dao, ở đây, Tiêu Dao mới là lão đại.

Cứng không được, Xi Vưu bèn đổi sang mềm, dịu giọng nài nỉ: “Tiêu Dao, nếu ta lỡ tay giết chết Hoàng Đế, nhất định A Hành sẽ rất đau lòng, ta phải đi an ủi nàng. Còn nếu không phải ta giết lão thì các huynh đệ của ta hẳn đang ác chiến với lão, ta không thể để họ chiến đấu một mình được.”

Tiêu Dao vừa tung tẩy bơi vừa phun bong bóng nô giỡn, chẳng buồn để ý đến Xi Vưu. Dù sao nó không phải là A Tệ ngốc nghếch để Xi Vưu quay như dế.

Xi Vưu lại nói: “Năm xưa chúng ta cắt máu ăn thề, mày cũng ở đó kia mà, bọn họ không phụ ta, ta há lại phụ họ hay sao? Mày tưởng mấy cái bong bóng ấy trói được ta à? Dẫu có phải bò, ta cũng quyết quay trở về!” Tiêu Dao nghe nói chỉ quẩy đuôi bơi ra xa, từ nhỏ, nó bị Xi Vưu dọa dẫm đã quen, cứng mềm gì đều không ăn thua.

“A, phải rồi! Ta vừa nhớ ra, hồi đó cắt máu ăn thề, ta cũng trích ở chân mày vài giọt máu đấy, giờ mày lại định làm giống đại bàng bội tín bạc nghĩa à?”

Tiêu Dao quay ngoắt lại, trợn trừng đôi mắt cá nhìn Xi Vưu, hồi đó nó thấy hay hay nên chen vào góp vui thôi mà, không tính!

Xi Vưu cười ranh mãnh “Mặc kệ!Mày chích máu rồi, cũng uống rượu rồi, không được lật lọng!”

Tiêu Dao phì phì phun ra một chuỗi bong bóng nước rồi lặng yên ngẫm nghĩ, lát sau, nó vẫy vẫy đuôi.

Xi Vưu hiểu ý Tiêu Dao, nó muốn nói thể trạng Xi Vưu phải nghỉ ngơi một thời gian nữa mới được.

Tiêu Dao lặn xuống đáy nước, không nổi lên nữa.

Xi Vưu hiểu Tiêu Dao đã quyết định thì đừng hòng thay đổi, hắn chỉ có thể tranh thủ thời gian dưỡng thương cho mau khỏe lại mà thôi.

Vừa toan nhập định trị thương, hắn sực nhớ ra một chuyện, liền vọt miệng hỏi: “Tiêu Dao, ta hôn mê bao lâu rồi?”

Lâu thật là lâu, vẫn không thấy Tiêu Dao trả lời, có lẽ là tính không ra. Đối với chúng, thời gian chẳng có ý nghĩa gì cả.

Xi Vưu đổi sang hỏi bằng cách khác: “Mày bay đến sườn núi phía Bắc đại hoang, bẻ một cành đào về đây cho ta. Nhanh lên nhanh lên, quan trọng lắm đó!”

Tiêu Dao nghĩ là trò chơi bèn vọt lên khỏi mặt nước, biến thành đại bàng, nháy mắt đã mất hút. Hồi lâu, nó ngậm một cành đào đang kết nụ bay về.

Vùng núi phía Bắc khí hậu lạnh lẽo vậy mà hoa đào đã bắt đầu kết nụ, chắc hẳn ở Trung nguyên bây giờ đang là tiết hoa đào nở rộ, hắn đã ngủ ròng rã một năm trời.

Xi Vưu nghiêm mặt bảo Tiêu Dao: “Thả ta ra đi, ta phải về gặp A Hành.”

Tiêu Dao trố mắt nhìn hắn như muốn hỏi: Ngươi muốn chết hả?

“Thả ta ra!”

Tiêu Dao thở hồng hộc, trợn mắt nhìn Xi Vưu, bất động.

Xi Vưu không buồn nhiều lời, chỉ nghiến răng gắng bức máu trong tim ra, chẳng nề dùng thọ mạng đổi lấy sức mạnh, phá vỡ trói buộc của Tiêu Dao. Thấy vậy, Tiêu Dao vừa giận dữ đập cánh phành phạch, vừa rít lên với hắn: Ta không chở ngươi về, ngươi có phá vỡ trói buộc cũng công cốc!

Xi Vưu bập bềnh nổi trên mặt nước, nhanh nhẹn rạch tay mình, nhúng cành đào Tiêu Dao vừa bẻ vào máu tươi rồi hóa phép biến nó thành một con chim, cắn đầu lưỡi phun tinh huyết lên cành đào, dùng một trăm năm thọ mạng để biến cành đào kia thành một con chim.

Tiêu Dao nín bặt, trợn mắt kinh hoàng nhìn Xi Vưu, nó quên khuấy rằng hắn vốn là kẻ liều mạng, nói được làm được.

Xi Vưu cưỡi lên lưng chim, ngoảnh lại cười với Tiêu Dao: “Ta biết mày lo cho ta, nhưng ta đã hẹn với A Hành, dưới cội hoa đào, không gặp không về, thất hẹn hai lần rồi, nhất định không thể thêm một lần thứ ba nữa.”

Chú chim cõng Xi Vưu bay thẳng về hướng Nam.

Tiêu Dao ngây ra nhìn sững theo bóng hắn mãi tới khi mất dạng, mới đột nhiên sực tỉnh, lập tức đuổi theo.

Trông thấy Tiêu Dao bay đến, Xi Vưu chẳng hề tỏ vẻ bất ngờ, chỉ cười cười nhún mình nhảy lên lưng nó: “Làm phiền nhé!”

Tiêu Dao cõng Xi Vưu trở về Trung nguyên.

Từ xa hắn đã trông thấy nước dâng trắng xóa đất trời, cuồn cuộn đổ về Trạch Châu, đang lúc căng thẳng, hắn đã nghe thấy một tiếng hú thê lương mà quen thuộc, chẳng đợi hắn ra lệnh, Tiêu Dao đã lần theo âm thanh bay vụt đến.

A Tệ không biết bơi nhưng cứ bì bõm dưới nước, như thể kiếm tìm gì đó, hết lần này sang lần khác, nó cứ ngụp đầu lặn xuống, mãi đến khi nghẹt thở mới ngoi lên, hú vang thảm thiết, hít một hơi thật sâu rồi lại liều mạng ngụp xuống.

Có thể khiến A Tệ thương tâm như thế, chỉ có A Hành và Liệt Dương, Xi Vưu lòng như lửa đốt, vội hỏi: “A Tệ, A Hành đâu rồi?”

A Tệ trừng trừng nhìn Xi Vưu giây lát, tựa hồ nhận định thật hay giả rồi cắn chặt chéo áo hắn, nước mắt lã chã.

Xoáy nước cuồn cuộn dưới sông hệt như một con mãng xà, nhấn chìm A Hành xuống vực sâu thăm thẳm.

Đôi tay ôm lấy bụng càng lúc càng rời rã, A Hành đã hoàn toàn kiệt sức, trong khi đó, một vòng xoáy lớn hơn lại phăng phăng cuốn tới, nuốt chửng nàng.

A Hành òa khóc vì tuyệt vọng, rồi lại phẫn nộ khẩn cầu, nhưng mọi cố gắng đều rơi vào thinh không. Giữa bóng tối vô biên, nàng chỉ thấy mình bị một luồng sức mạnh long trời lở đất dìm xuống tận đáy của sự sống.

Cả người A Hành xoay tít theo xoáy nước, rơi thẳng xuống đáy sâu, hơi thở cuối cùng cũng bị dòng nước xiết nuốt chửng, nàng không sợ chết, nhưng còn đứa nhỏ… Xi Vưu, Xi Vưu, chàng ở đâu rồi?

Xi Vưu… Xi Vưu…

Đột nhiên, một bóng áo đỏ nhanh như chớp lao vào giữa xoáy nước, ôm chặt lấy A Hành, mái tóc pha lẫn sợi bạc xõa tung như hai tấm bình phong, ngăn dòng nước lại. Sóng dữ ngợp trời khiến nhật nguyệt cũng phải biến sắc, vậy mà cơn hồng thủy hung hãn như mãnh thú đó lại e dè nhường bước trước Xi Vưu, vòng qua người hắn rồi chảy tiếp.

Không kịp kéo A Hành ngoi lên, Xi Vưu chỉ còn cách cúi đầu hôn A Hành, phà không khí trong lành vào miệng nàng.

A Hành ho sặc lên, từ từ mở mắt ra.

Vừa mở mắt, nàng liền trông thấy gương mặt tái mét của Xi Vưu đang mỉm cười nhìn mình. A Tệ cưỡi lên lưng Tiêu Dao bấy giờ đã hóa thành cá, nhe răng cười không khép được miệng, trong khi Tiêu Dao phồng mang trợn mắt vẻ giận dữ.

Sóng dữ vẫn cuồn cuộn rít gào xung quanh, nhưng giữa vòng tay chàng, chỉ có bình yên.

“Ta đang mơ ư?”

Xi Vưu dụi đầu vào mặt nàng: “Không đâu!”

A Hành giàn giụa nước mắt, yếu ớt than: “Ta gọi chàng mãi, gọi đến khan cả họng, còn tưởng chàng không tới nữa chứ.”

Xi Vưu dịu giọng dỗ dành: “Nàng quên rồi sao? Dưới cội hoa anh đào, không gặp không về, ta đã hứa với nàng sẽ không thất hứa lần nữa mà, sao có thể không tới chứ?”

A Hành mừng mừng tủi tủi, “Tiếc rằng nơi này chẳng phải Cửu Lê, cũng chẳng phải dưới cội hoa đào.”

Xi Vưu cười: “Chờ ta giải quyết xong trận hồng thủy này, sẽ đưa nàng đi ngắm hoa đào.” Nói rồi hắn lao vút lên mặt nước.

A Hành hai tay ôm bụng, rúc vào lòng Xi Vưu, nàng đã hoàn toàn kiệt sức, bải hoải đến từng lỗ chân lông, nhưng có vòng tay hắn chở che, dù phong ba bão táp xung quanh dữ dội chừng nào, nàng cũng chẳng sợ.

Ứng Long phụng lệnh Hoàng Đế cắt đứt nguồn nước của Trạch Châu, có điều y vẫn ngỡ đây là kế công thành như lần trước.

Nghe kèn hiệu xung trận, y cùng Hiên Viên Hưu tập trung quân lên gò đất cao, chuẩn bị tấn công Trạch Châu, thì lại được lệnh của Di Bành án binh bất động.

Ứng Long lấy làm lạ, nhưng vẫn đứng yên tại chỗ đợi lệnh.

Trạch Châu thành nằm lặng bên bờ Hoạch Trạch cạn khô, từ xa trông lại, chỉ thấy từng vệt từng vệt sáng loang loáng, chính là khôi giáp của binh tướng phản chiếu ánh mặt trời, đủ biết trong thành phòng bị nghiêm ngặt tới đâu.

Hồi kèn vừa rúc như một lời tuyên cáo: nếu Trạch Châu thành không chịu đầu hàng, Hiên Viên tộc sẽ phát động tấn công. Lập tức, tất cả các binh sĩ trong thành đều căng thẳng chuẩn bị ứng chiến.

Phong Bá mặc võ phục sát người, ngoài áo khoác choàng đen, hiên ngang đi giữa hàng quân, cả Trạch Châu đều im phăng phắc, chỉ nghe thấy tiếng chân hắn. Bước lên thành lâu, hắn cao giọng nói: “Quân Hiên Viên đông gấp năm lần chúng ta nên nếu các ngươi muốn bỏ chạy, ta cũng rất thông cảm, ai không muốn đánh thì rời hàng ngũ ngay đi.”

Đợi một hồi, chẳng thấy ai bước ra, Phong Bá bật cười sảng khoái: “Các huynh đệ, đã vậy chúng ta quyết tử chiến đến cùng! Vì Xi Vưu!”

“Vì Xi Vưu!”

Tiếng ba quân hô theo vang dội cả đất trời.

Phong Bá tươi cười, đưa mắt nhìn gã gù đứng khuất trong góc tối, mặt gã đeo một chiếc mặt nạ bạc, tỏa ánh sang lạnh lẽo, cộng thêm ngoại hình dị dạng khiến người ta vừa thấy đã gớm, chỉ muốn quay đi.

Kẻ gù mang mặt nạ này chính là Vũ Sư mà Phong Bá hằng kính trọng, hai người bọn họ đã đồng lòng hợp sức đẩy lùi bao đợt tiến công của Hiên Viên.

Hai bên trao đổi một ánh mắt, đều thấu rõ quyết tâm tử chiến của đối phương.

Phong Bá mỉm cười nhoài người trên đầu thành, nhìn về phía quân lính Hiên Viên, thấy họ án binh bất động, hắn lấy làm thắc mắc: Lẽ nào chúng không hiểu sĩ khí chỉ sôi sục chốc lát, giằng dai càng lâu, sĩ khí sẽ từ từ suy giảm sao?

Thấy dòng Hoạch Trạch cạn khô, lại quan sát kỹ thế trận Hiên Viên, Phong Bá nghĩ chắc đối phương không thể xả nước công thành. Nếu xảy ra, nước Hoạch Trạch ào ào trút xuống như thác lũ, quân lính bên đó sẽ bị cuốn trôi trước.

Đột nhiên, hắn nghe thấy mấy tiếng nổ chát chúa, trên trời bỗng xuất hiện vô sô con cá đỏ ối như ráng chiều, sáng rực cả bầu trời, binh sĩ hai bên đều hiếu kỳ ngẩng đầu lên nhìn.

Ứng Long xuất thân từ Thủy tộc, cảm giác rất nhạy bén, y liếc nhìn phía cuối chân trời, lập tức tái mét mặt, rít lên nhìn Di Bành ngạo nghễ đứng trên cao: “Cửu điện hạ, ngài định làm gì thế?”

Di Bành chỉ cười không đáp. Bấy giờ Ứng Long mới bàng hoàng nhận ra, trong mắt Di Bành, Ứng Long và binh sĩ của y đều là người của Thanh Dương, Di Bành chẳng những muốn trừ khử Thanh Dương mà còn muốn nhổ cỏ tận gốc, diệt sạch những người ủng hộ Đại điện hạ.

Phong Bá ngẩn cao đầu nhìn bầy cá tung tăng bơi lội trên không, dường như đã phát hiện ra gì đó, nheo nheo mắt trông về phía chân trời, đột nhiên, hắn giật thót mình, sững sờ không dám tin Di Bành lại điên cuồng phạm vào trọng tội trong trời đất, xả nước nhấn chìm Trạch Châu thành, khiến sinh linh đồ thán, thậm chí nhẫn tâm tuẫn táng cả quân đội của mình.

Phong Bá nghi hoặc đưa mắt nhìn Vũ Sư, Vũ Sư liền khẳng định chắc như đinh đóng cột: “Di Bành điên rồi!” Giọng hắn khàn khàn như thể bị bỏng họng.

Sấm rền dậy đất, nước lũ ngợp trời ào ào đổ đến, thoạt thấy một sợi chỉ trắng bạc lấp lánh chậm rãi bò tới, thoắt chốc, nước đã dâng trắng xóa đất trời.

Khắp nơi nhốn nháo tiếng chim thú kêu gào, nước lũ cuốn tới đâu, sinh linh tan tác tới đấy.

Nhìn cảnh thê lương trước mắt, Phong Bá chỉ biết thở dài, nước từ ba con sông đổ dồn lên, thế mạnh như chẻ tre, có thể sánh ngang với kiếp nạn trời giáng, sức người không cách nào xoay chuyển nổi. Hắn sớm đã coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, nhưng hắn muốn chết hiên ngang trên sa trường chứ không phải chết oan chết ức như thế này.

Binh lính canh gác trên thành bẩm: “Ngài biết cưỡi gió mau chạy ngay đi, hồng thủy có nhanh mấy cũng không đuổi kịp ngài đâu.”

Phong Bá đưa mắt nhìn Vũ Sư cười bảo: “Ngươi tu luyện thủy linh, hồng thủy lớn tới đâu, muốn giữa mạng chắc cũng không khó.”

Vũ Sư trân trân nhìn nước lũ cuồn cuộn ập đến, hờ hững đáp: “Trạch Châu bị phá thì Thần Nông sơn cũng khó toàn, nếu quân Hiên Viên muốn tấn công Thần Nông sơn, phải bước qua xác ta trước đã.”

Phong Bá vỗ vỗ vai Vũ Sư rồi quay sang các binh sĩ khuyên mình chạy trốn: “Từ đầu ta đã nói rõ với Xi Vưu, ta chẳng có hứng thú gì với quyền lực, chỉ muốn cùng y sánh vai tác chiến thế thôi. Đi với y cũng như đi với luồn gió lốc mạnh nhất trên đời vậy, chẳng gì gò bó nổi, muốn đến đâu thì đến. Các ngươi từng thấy gió trốn chạy bao giờ chưa? Dù đụng phải thứ gì đi nữa, gió chỉ biết thổi thốc tới mà thôi!”

Dứt lời Phong Bá cười ha hả, cởi bỏ áo choàng, hiên ngang đối diện với cơn sóng dữ ngợp trời đang ập tới. Vũ Sư cũng rút thần khí Vũ Hổ của mình ra, chiếc mặt nạ trên mặt tỏa ánh sáng lành lạnh.

Sau lưng bọn họ, tất cả binh sĩ đều nhất loạt rút vũ khí, quên cả tính mạng, cười cười nói nói bàn luận thế nước nhỏ to, còn hẹn nhau tỉ thí bản lĩnh cưỡi sóng đạp gió.

Dù phải chôn thây trong trận đại hồng thủy này, họ cũng phải cưỡi lên đầu ngọn sóng, đùa với thủy triều mới cam tâm!

Trong khi đó, quân sĩ Hiên Viên đang kêu la khóc lóc loạn cả lên.

Tùy tùng của Ứng Long khuyên y nên đi. Ứng Long vốn là rồng, nước lớn tới đâu cũng thừa sức bỏ đi, nhưng y chỉ điềm đạm bảo chúng thuộc hạ: “Các ngươi chạy mau đi, thoát được bao nhiêu hay bấy nhiêu.”

Thấy đám tùy tùng định khuyên tiếp, Ứng Long xua tay đi, đi thẳng xuống dưới, xuất cả nguyên thần ra, quyết dốc cạn linh lực và sinh mệnh ngăn cơn hồng thủy lại.

Y biết mình không thể địch nổi thế nước dữ dội nhường này, nhưng ít ra, y chết cũng không hổ thẹn.

Di Bành và Hiên Viên Hưu đóng quân ở nơi địa thế cao nhất, Hiên Viên Hưu có phần bất nhẫn, chẳng nỡ nhìn, bèn quay đầu đi chỗ khác, chỉ mình Di Bành tươi cười thưởng thức thảm cảnh trước mắt.

Nước lũ ngợp trời cuồn cuộn ập tới, bị linh lực của Ứng Long tạm thời chặn lại.

Nhưng trận hồng này do dòng nước tích tụ suốt một tháng của ba con sông dồn lại, dù linh lực của Ứng Long cao cường tới đâu chăng nữa cũng tới lúc cạn kiệt, trong khi nước lũ cứ cuồn cuộn không thôi.

Ứng Long bị ép bật ra khỏi bản thể, hóa thành một con rồng xanh nằm chắn ngang dòng nước.

Nước lũ càng dồn lại càng lớn, nhưng không sao phá nổi sức ngăn của Ứng Long.

Trước sức ép khủng khiếp của dòng nước, vẩy rồng trên mình Ứng Long bắt đầu ứa máu, máu loang đỏ thân rồng, nhuộm đỏ cả lòng sông.

Phong Bá đứng trên thành, gõ nhịp than: “Hảo hán tử! Nếu bỏ mạng dưới tay kẻ này, ta cũng thỏa lòng! Đáng hận! Đáng hận!”

“Đáng hận gì thế?” Bóng áo đỏ nhoáng qua trước mặt Phong Bá, từ trên không nhảy xuống đầu thành.

“Xi Vưu!”

“Đại ca!”

Bốn bề rộn lên tiếng hoan hô, mọi người đều hân hoan mừng rỡ.

Xi Vưu vội đưa tay lên miệng suỵt khẽ, nhưng chẳng kịp, A Hành đã tỉnh giấc. Vừa mở mắt, trông thấy xung quanh toàn người là người, bao cặp mắt sáng rỡ đổ dồn vào mình. A Hành không khỏi đỏ bừng mặt, gắng gượng đứng xuống.

Phong Bá thụi cho Xi Vưu một quả, hỏi: “Đại tẩu đấy à?”

Xi Vưu một tay đỡ A Hành, tay kia thụi lại Phong Bá, một năm qua, tuy trời đất xoay vần nhưng tấm lòng nam tử, tình nghĩa huynh đệ vẫn nồng nàn như thế, chẳng nói vẫn hiểu được lòng nhau.

Phong Bá trỏ Vũ Sư giới thiệu, “Đây là Xích Tùng Tử, ngoại hiệu Vũ Sư, huynh đệ kết bái của đệ sau khi huynh mất tích, huynh đệ của đệ cũng là huynh đệ của huynh.” Tín nhiệm của đàn ông với nhau vốn chẳng cần nhiều lời, chỉ một câu đã có thể giao phó tất cả.

Vũ Sư tuy xấu xí quái dị nhưng lời nói cử chỉ rất lễ độ nho nhã, vội hành lễ ra mắt Xi Vưu.

Phong Bá giơ ngón cái, chỉ chỉ đằng xa cười hì hì bảo Xi Vưu: “Đừng bảo đệ là huynh tới đây tìm chết đấy nhé, có điều…” Hắn ngắm nghía Xi Vưu từ trên xuống dưới, lắc đầu: “Hình như huynh đến tìm chết thật.”

Sóng dữ dâng cao như núi, “ngọn núi” càng cao thì Ứng Long càng đuối sức dần, nhìn đỉnh núi rung rinh chực đổ ập xuống, mọi người đều hiểu, chỉ cần “ngọn núi” kia đổ xuống thì tất cả sẽ chết không có chỗ chôn.

“Đỉnh núi” càng lúc càng rung lên dữ dội.

Xi Vưu vội nói: “Nước lớn như vậy không thể ngăn được, chỉ có thể lựa theo thế nước, mở đường cho nó chảy thôi. Cơn hồng thủy lớn thế này không thể dẫn từ xa tới, dọc đường đến đây, ta thấy ba dòng, Hoạch Trạch, Thấm hà và Đan hà đều cạn trơ đáy, nên biện pháp duy nhất hiện giờ là chia dòng nước lũ thành ba đường, để nó đến từ đâu thì lại chảy về đó. Làm vậy tuy không thể hóa giải nạn lụt nhưng ít ra cũng cứu được một số người. Phong Bá, đệ dẫn người phụ trách Hoạch Trạch, Vũ Sư, ngươi lo phần Thấm hà, còn ta sẽ dẫn nước về Đan hà.”

Mấy tên thuộc hạ linh lực cao cường trợn mắt nhìn đỉnh lũ càng lúc càng cao, mặt xám như tro, lẩm bẩm: “Sao mà làm được, có khi lại như con yêu long kia, cạn kiệt linh lực, bỏ xác dưới đáy nước không chừng.”

Xi Vưu phá lên cười, “Nếu dễ làm như vậy thì còn gì thú vị? Dựa vào năng lực bản thân, biết rõ không thể làm mà vẫn làm mới là bản sắc của đại trượng phu!”

Phong Bá giũ giũ áo choàng, khoác lên người, cười bảo Xi Vưu: “Đệ thì không thành vấn đề, chỉ hy vọng chút nữa huynh vẫn giữ được mạng mà về, đừng làm mồi cho cá thôi.”

Ngoài mặt tếu táo đùa giỡn như vậy nhưng trong lòng Phong Bá rất lo cho Xi Vưu, có điều hắn biết những người khác quyết không có năng lực đối mặt với trận hồng thủy khủng khiếp nhường này, để ngăn được thế nước, không chỉ phụ thuộc vào linh lực cao cường, mà còn đòi hỏi lòng can đảm và quyết đoán nữa.

Mấy người đang chia nhau hành động thì cuồng phong ào ào nổi lên, cùng với nó, Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ đồng loạt kéo đến.

Cộng Công chưa đến nơi đã cất giọng sang sảng như chém đinh chặt sắt: “Để ta đi dẫn nước Đan hà.” Ngoại trừ Thủy thần chuyên thao túng thủy linh, có lẽ chẳng ai dám tự phụ như thế nữa.

Hậu Thổ cười bảo Xi Vưu: “Vũ Sư và Phong Bá đã kết bái, để y đi giúp Phong Bá đi. Ta và Chúc Dung sẽ phụ trách Thấm hà. Đề phòng Hiên Viên thừa dịp công thành, nhờ Đại tướng quân bảo vệ Trạch Châu thành dùm cho.”

Xi Vưu thoáng ngẩn người rồi bật cười sảng khoái, chắp tay thi lễ, “Đa tạ ba vị.”

Chúc Dung ngạo nghễ ngự trên Tất Phương điểu, khinh miệt đáp: “Đừng tưởng ta giúp ngươi, ta mong cho ngươi chết cho mau còn chưa hết nữa là!”

Phong Bá cười ha hả, gọi Vũ Sư: “Đi nào!”, lời vừa ra khỏi miệng, cả hai đã đồng thời biến mất, mọi người chỉ kịp thấy hai luồng gió vút qua mình.

Mấy trăm năm nay, Tứ đại cao thủ Thần Nông mỗi người một cõi, chẳng ai chịu ai, tranh đấu liên miên, đây là lần đầu tiên cả bốn người Xi Vưu, Chúc Dung, Hậu Thổ, Cộng Công chung tay hợp sức để bảo vệ Trạch Châu thành. Thấy các anh hùng dân tộc mình cùng sát cánh khảng khái chống địch, còn gì cổ vũ được sĩ khí ba quân hơn thế nữa?

Niềm tự hào dân tộc dần bị xói mòn từ khi Du Võng chết đi, một lần nữa lại căng đầy lồng ngực binh lính Thần Nông, khiến toàn quân rộ lên hoan hô vang trời dậy đất.

Toàn thân Ứng Long đầm đìa máu, chỉ biết ngẩng đầu bất lực nhìn ngọn sóng cao ngang trời chực chờ đổ xuống.

Chuyện cũ đột nhiên ùa về trong y. Giữa đầm nước lấp lánh vàng, một con quái vật nửa rồng nửa rắn xấu xí yếu ớt cao ngạo tuyên bố với tất cả cá tôm: sớm muộn sẽ có ngày ta biến thành một con rồng được cả Thủy tộc tôn kính!

Tu hành cả ngàn năm, trải qua mưa dập gió vùi, sấm sét thiêu đốt rút xương rút tủy, cuối cùng y cũng trút bỏ được nửa rắn, trở thành một con rồng hoàn thiện.

Bao nhiêu tráng chí, mộng tưởng…

“Gừ…”

Trong tiếng gầm bi thương, Ứng Long bất lực cúi gục đầu, chỉ chờ có thế, ngọn sóng cao ngất kia lập tức ầm ầm ập xuống, chấn động cả đất trời.

Nhưng ngọn thác khổng lồ lại chẳng hề trút xuống Ứng Long, bởi một con cá xanh khổng lồ đã chắn trước mặt y, vận linh lực chặn đứng dòng nước lũ, phân ra làm ba phần, cho chảy về ba hướng rồi quẫy đuôi giương vây, dẫn dắt thế nước từ từ đổ xuống.

Ầm ầm… Ầm ầm…

Con cá xanh đỡ hộ y một đòn nặng nhất, đoạn vội vã bơi đi. Nước lũ tiếp tục trút xuống người Ứng Long ào ào như xối, nhưng dù sao y cũng là rồng, thân mang trọng thương nhưng thừa sức ứng phó chút nước này.

Ứng Long dùng tiếng Thủy tộc âm thầm cảm tạ nhưng con cá kia chẳng buồn để ý, nó đột ngột teo nhỏ thân mình lại chút ít, quẫy đuôi quay vòng vòng giữa dòng như bông vụ, vừa quay vừa lao phăng phăng về phía trước, lập tức quanh người nó hình thành xoáy nước khổng lồ, cuốn theo nước lũ xa khỏi Trạch Châu thành.

Ứng Long yên lòng nhắm mắt, mặc cho sóng gió cuốn mình ra đại dương. Giống cá dám vênh váo nghênh ngang cả với loài rồng như y chắc chỉ có thần Côn Bắc Minh trong truyền thuyết. Loài cá vạn năm khó gặp này đã xuất hiện, hẳn trận hồng thủy này sẽ bị đẩy lùi thôi.

Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ đều cố ý che giấu thân phận nên Di Bành chẳng hề trông thấy bọn họ, chỉ thấy một con cá xanh khổng lồ xuất hiện, trận hồng thủy sắp nhấn chìm cả Trạch Châu thành trong chớp mắt bị ba luồng linh lực mạnh mẽ phân ra, dẫn về ba hướng rồi lần lượt đổ vào ba con sông, tuy dọc đường đã cuốn phăng vô số ruộng nương nhà cửa, để lại vô số cảnh tan tác tiêu điều, nhưng sau cùng cũng chỉ như ba con rồng dữ bị thuần phục, chẳng tác oai tác quái được là bao.

Tuy hậm hực thất vọng, Di Bành vẫn ứng biến hết sức nhanh chóng, lập tức lệnh cho Hiên Viên Hưu đem quân tiến công vào thành. Dù Thần Nông tộc tìm được cách đẩy lui hồng thủy, nhưng toàn bộ linh lực đã dồn vào lo cứu lụt, lực lượng phòng vệ ắt sẽ rất yếu.

Đại quân thừa nước đục thả câu, ùn ùn tiến về phía Trạch Châu thành, đột nhiên, chúng trông thấy một gã đàn ông áo đỏ xếp bằng ngồi trên thành lâu.

“Xi Vưu, là Xi Vưu!”

Quân Hiên Viên đều biết, Xi Vưu cầm quân không khai chiến thì thôi, đã khai chiến, hắn sẽ tàn sát chẳng còn một mống. Thậm chí, rất nhiều người đồn đại rằng hắn thích lấy máu người nhuộm máu nên áo hắn mới đỏ rực như vậy. Nghe tin Xi Vưu bỏ mạng, quân tướng Hiên Viên đều thở phào nhẹ nhõm, nào ngờ hiện giờ hắn lại thình lình xuất hiện trên thành như ma quỷ, khiến bọn chúng trố cả mắt.

Hiên Viên Hưu hốt hoảng hỏi Di Bành: “Chẳng phải hắn chết rồi ư? Sao tự dưng lại lòi ra thế? Giờ tính sao đây?”

Di Bành chắc mẩm lực lượng phòng vệ Trạch Châu hiện giờ rất mỏng nhưng nhìn Xi Vưu ngạo nghễ trên thành, chẳng nói chẳng rằng, cười nửa miệng nhìn xuống dưới, hắn lại phân vân do dự.

Tấn công? Hay là không?

Xi Vưu cười giễu cượt: “Các ngươi có đánh hay không nào?”

Di Bành quay sang hỏi Hiên Viên Hưu: “Chi bằng ta rút quân, lùi lại ba mươi dặm, Ngũ ca thấy sao?”

Hiên Viên Hưu tán đồng ngay: “Ta cũng nghĩ thế. Lương thảo của chúng chẳng cầm cự được bao lâu nữa đâu, sớm muộn cũng phải đầu hàng thôi, ta khỏi cần tốn công nhọc sức.”

Di Bành nhếch mép, âm thầm nhìn Xi Vưu cười lạnh.

Thấy quân Hiên Viên rục rịch rút lui, Xi Vưu như trút được gánh nặng. Hắn đi đứng cũng khó khăn, nói gì đến chiến đấu, nãy giờ đều là gắng gượng đóng kịch mà thôi, chỉ cần một tên tướng lĩnh Thần tộc bình thường xông lên cũng thừa sức hạ gục hắn rồi.

A Hành nấp trong góc khuất quan sát, bấy giờ mới dám thở phào nhẹ nhõm. Xa xa, đồng hoang quanh Trạch Châu thành trắng xóa nước ngập, vô số ruộng nương nhà cửa tiêu điều tan tác. Trong chiến tranh, nhìn từ góc độ nào đó, cả hai bên tham chiến đều thất bại.

Cộng Công dẫn binh lính quay lại đầu tiên, quả không hổ là Thủy thần, chỉ có vài thuộc hạ bị thương nhẹ.

Lát sau, Chúc Dung và Hậu Thổ lũ lượt dẫn quân trở về, sắc mặt Hậu Thổ tái nhợt, Chúc Dung còn thảm hại hơn, tóc tai bù xù, ngọn lửa ngũ sắc thếp vàng trên áo dính đầy bùn đất, đám thuộc hạ có hai tên bị trọng thương. Xem ra, dù thần lực cao đến đâu chăng nữa, cũng khó mà chống chọi được với thiên nhiên.

Ngay sau đó Phong Bá và Vũ Sư dẫn theo quân sĩ cười cười nói nói quay trở về, cả đoàn người cạn kiệt linh lực, đi đứng loạng choạng nhưng ai nấy đều hớn hở như mở cờ trong bụng, chẳng có vẻ gì là vừa từ cõi chết trở về.

Hóa giải được đại nạn, tất cả đều hân hoan mừng rỡ, nói cười rộn rã.

Phong Bá ngồi phịch xuống đất, tựa vào tường, cao giọng: “Cuối cùng cũng xong. Chi bằng mọi người uống rượu ăn mừng luôn?”

Thoắt chốc, không khí vui mừng chợt tan biến. Tất cả đều yên lặng, chẳng nói chẳng rằng, câu hỏi của Phong Bá rơi tõm vào thinh không.

Chúc Dung không buồn chào hỏi, cưỡi Tất Phương điểu bay mất đi.

Cộng Công định nói gì đó, nhưng chẳng biết phải nói gì, mấy trăm năm đấu đá liên miên, tuy chưa tới nỗi không đội trời chung như Xi Vưu và Chúc Dung, nhưng hắn và Xi Vưu cũng bằng mặt chẳng bằng lòng. Hắn đành chắp tay xá xá Xi Vưu rồi cưỡi Tập Tập ngư đi thẳng.

Phong Bá thấy vậy đành lẩm bẩm: “Xem như ta chưa nói gì đi!”

Hậu Thổ cười với Xi Vưu, Phong Bá và Vũ Sư, khách khí cáo từ: “Quân Hiên Viên còn quanh quẩn ngoài trướng của ta, ta cũng phải đi đây, rượu mừng xin hẹn lần sau vậy!” Dứt lời, Hóa xà đã cõng gã bay vút đi.

Xi Vưu nãy giờ vẫn đứng đó cười cười không nói, đột nhiên phun ra một búng máu, ngã ngửa ra sau ngất lịm. Phong Bá hốt hoảng, cuống quýt gọi thầy thuốc.

Thầy thuốc chẩn bệnh xong tái mặt ấp úng: “Tinh khí kiệt quệ, nguyên thần tán loạn, e rằng, e rằng… phải chuẩn bị hậu sự thôi.”

Phong Bá nghe nói sững cả người, bốn tên Si Mỵ Võng Lượng lập tức túm lấy thầy thuốc, vung tay định đánh: “Ngươi nói gì hả?”

A Hành nấp đằng sau thấy vậy liền nhào tới xem xét thân thể Xi Vưu: “Xi Vưu đã bị trọng thương, không chịu tĩnh tâm trị liệu còn hao tổn tinh nguyên, dùng thọ mạng hoán đổi linh lực, khiến thương thế nặng hơn, nếu không cứu chữa kịp thời, e rằng sẽ nguy đến tính mệnh.”

Phong Bá vội hỏi: “Cách tu luyện của Xi Vưu khác hẳn bọn ta nên ta không dám truyền bừa linh lực vào người huynh ấy, liệu có cách nào cứu được không?”

A Hành ngẫm nghĩ một hồi, đoạn đáp: “Ngươi tin ta không? Nếu tin thì giao Xi Vưu cho ta, ta nhất định cứu được chàng.”

Phong Bá không biết A Hành là ai, nhưng nhìn lời nói, cử chỉ của Xi Vưu, hắn cảm thấy tình nhân của Xi Vưu rất có vấn đề, bằng không Xi Vưu ngang ngược liều lĩnh như vậy, hà cớ gì phải đau khổ nhẫn nhịn bấy nhiêu năm?

Đương lúc Phong Bá phân vân do dự, Vũ Sư nãy giờ lặng thinh bỗng khàn khàn cất tiếng: “Xi Vưu đã chọn cô nên ta tin cô.” Thấy Vũ Sư gật đầu ra hiệu cho mình, lại nghĩ đến Xi Vưu đang cơn nguy kịch, Phong Bá đành quyết định: “Ta tin cô.”

“Vậy giao Xi Vưu cho ta. Đợi khi chàng tỉnh lại, linh lực sẽ còn cao hơn bây giờ nữa!” A Hành bế Xi Vưu lên, gọi A Tệ và Tiêu Dao lại nói nhỏ: “Đến Cửu Lê.”

Hoa đào đã nở đỏ sườn núi Cửu Lê, rạng rỡ hơn nắng sớm, mỹ lệ hơn ráng chiều.

Tế đài trắng toát sừng sững giữa rừng hoa, cổ kính tang thương, nghiêm trang tịch mịch.

Dưới bóng hoa rơi rợp trời, những chiếc chuông gió quanh tế đài đinh đinh đang đang, ngân nga reo rắt theo làn gió xuân hây hẩy, như gần như xa. A Hành bề Xi Vưu men theo thềm đá bước lên đài, rồi đặt hắn nằm xuống chính giữa đài tế. Tiêu Dao và A Tệ đã tự động lẩn vào rừng đào, vừa nghỉ ngơi vừa nô giỡn.

Bầu trời tối đen như mực, còn hơn ba canh giờ nữa mới tới bình minh.

A Hành nằm xuống cạnh Xi Vưu, gối lên tay hắn, âu yếm ngắm hắn thiêm thiếp ngủ, ngón tay khe khẽ vuốt ve gương mặt hắn, đắm chìm trong mùi đàn ông phả ra từ hắn, bao lo lắng muộn phiền dồn nén suốt một năm qua đều tan biến cả.

Từ khi quen nhau đến giờ, bọn họ chẳng bao giờ có dịp chuyện trò tâm sự, lúc vắng bóng thì thấy nôn nao trăm ý ngàn lời muốn tỏ bày, nhưng hễ gặp gỡ lại chẳng thốt ra được câu nào.

A Hành tựa vào lòng Xi Vưu, nhắm nghiền mắt thiếp đi.

Đằng Đông dần dần hửng sáng, vầng dương đã bắt đầu nhô lên, nỗ lực xuyên qua tầng mây dày đặc cuối trời, tỏa nắng xuống nhân gian, để vạn vật sinh sôi nảy nở.

A Hành ngồi dậy ngước mắt chăm chú ngắm mặt trời, như thể cảm nhận được những vật lộn và cố gắng không ngừng nghỉ của nó, từng chút từng chút một, bể mây cuồn cuộn mịt mờ cũng bị ánh dương xuyên thấu.

Sau cùng, vầng thái dương cũng nhô hẳn lên, xua tan bóng đêm mù mịt, cả chân trời chan hòa trong ánh nắng mai.

A Hành chẳng nề lòa mắt, cứ đăm đăm nhìn thẳng vào vầng mặt trời vừa ló xuất hiện, tay nắm chặt lấy tay Xi Vưu. Có lẽ tiếp sau bóng tối vẫn là bóng tối, nhưng chỉ cần kiên trì vượt qua vô số bóng tối mênh mông, hẳn sẽ thấy lóe lên một tia sáng cuối đường.

Xi Vưu từ từ mở mắt, thấy nắng vàng ươm rực rỡ quanh mình, đẹp như gấm lụa, nhưng hết thảy những mỹ lệ chói lòa đó đều không sánh nổi người con gái đang nắm tay hắn, ngồi bên cạnh hắn lúc này.

Lòng Xi Vưu rộn lên vui sướng, khẽ thì thầm: “A Hành, chúng mình lại về nhà rồi.”

A Hành đặt ngón tay lên môi hắn lắc đầu, tỏ ý đừng lên tiếng. Nàng cúi đầu lặng thinh ngắm hắn, đầu mày cuối mắt chứa chan tình ý, vấn vấn vương vương, triền miên khắc cốt. Linh lực của A Hành mang theo năng lượng mặt trời từ từ chảy vào thân thể Xi Vưu, khiến lục phủ ngũ tạng, xương cốt tay chân hắn đều giãn ra khoan khoái, đôi mắt từ từ khép lại, ý thức dần chìm vào bóng đêm thăm thẳm dịu dàng, hắn thấy mình bị bao bọc trong một lớp vỏ dày thật dày, dường như đã biến thành một hạt giống vậy, chỉ đợi gieo xuống mảnh đất màu mỡ là nảy mầm bén rễ rồi lớn lên.

Thương thế Xi Vưu dần dần ổn định, nhưng hai tay và vai A Hành lại rộp lên vì bỏng, chỗ đỏ chỗ đen loang lổ, đau đến run bắn người lên. Nàng nén đau bế Xi Vưu bước vào rừng đào, Tiêu Dao lập tức đậu ngay xuống trước mặt.

A Hành hỏi: “Lần này Xi Vưu bị thương rất nặng, nếu linh thể không được bảo quản tại một nơi dồi dào linh khí như Quy khư, e rằng đã hồn phi phách tán từ lâu. Ta nghĩ mãi, thấy nơi ấy chỉ có thể là thành địa Bắc Minh trong truyền thuyết mà thôi, chính mày đã cứu chàng đúng không?”

Tiêu Dao ngẩng cao đầu quác lên một tiếng đầy đắc ý.

“Giữa chàng và mày, chắc chàng sẽ không nói lời cảm tạ đâu, nhưng ta vẫn phải cảm ơn mày.” A Hành giao Xi Vưu cho Tiêu Dao rồi chắp tay hành lễ với nó, “Chàng liều mạng tới tìm ta, đã hao phí quá nhiều tinh nguyên, nếu không lập tức điều dưỡng, chỉ e bất cứ lúc nào cũng có thể linh hủy thể tiêu. Bây giờ thiên hạ đang chia năm xẻ bảy, cứ theo tính tình Xi Vưu, ắt chẳng chịu ngồi yên mà dưỡng thương, nên ta đã phong bế linh thức của chàng lại, phiền mày đưa chàng đến Bắc Minh tĩnh dưỡng. Lần sau, khi chàng tỉnh lại, thân thể sẽ khôi phục hoàn toàn, linh lực cũng tiến lên một tầng cao mới.”

Nghe A Hành dặn dò, Tiêu Dao liền quắp Xi Vưu sải cánh bay vút về phía cuối trời. A Tệ ngẩng đầu trông theo, hú lên buồn bã.

A Hành đứng lặng dưới gốc đào hút mắt nhìn theo Tiêu Dao, mãi đến khi bóng chim khuất giữa ngàn mây, nàng vẫn chưa thôi ngơ ngẩn trông vời.

Hồi lâu, nàng quay đầu lại, bắt gặp đôi mắt to tròn long lanh của A Tệ chăm chú nhìn mình như đang hỏi: Mùa hoa đào sang năm lại được cùng Xi Vưu và Tiêu Dao chơi đùa chứ?

Đối diện với ánh mắt chứa chan hy vọng của A Tệ, A Hành nghe lòng xót xa khôn tả, lệ tràn khóe mắt. A Tệ nào biết được cuộc chiến giữa Hoàng Đế và Viêm Đế đã thay đổi vận mệnh cả đại hoang, nó càng không hiểu cái chết của Thanh Dương đã ngăn cách nàng và Xi Vưu mỗi người một bờ chiến tuyến, sông lớn có thể chèo thuyền mà sang, núi cao có thể cưỡi chim mà lên, nhưng còn hài cốt của người thân sao nỡ bước qua đây?

Hoa đào lả tả ngợp trời, phớt qua má nàng, đậu lên vai nàng, chuyện xưa cũng lần lượt hiện ra rành rành trước mắt. Ngày này năm ngoái, nàng còn hăng hái bày biện nhà cửa, dạt dào hy vọng kề bên nhau suốt cuộc đời.

Chẳng ngờ nhà vẫn đây mà duyên đã dứt.

Từ nay về sau, mỗi mùa đào nở, họ sẽ mãi mãi không thể gặp nhau dưới cội hoa đào được nữa.

A Hành ròng ròng nước mắt, cắn ngón trỏ vạch lên thân cây một hàng chữ bằng máu: “Giữa Thừa Ân điện tình quyến luyến, dưới cội hoa đào hẹn thành không, ly biệt từ đây, xin đừng nhung nhớ.”

Chương 10: Đa tình chỉ chuốc lấy hận sầu[1]

Đáp lại hắn chỉ có căn nhà sàn vắng ngắt, mảnh trúc đứt đoạn cái ngắn cái dài, rèm sa đầy những phân chim, vườn rau um tùm cỏ dại, nếu chẳng thấy bờ đất đắp bằng đá xanh, e rằng không thể nhận ra đây là một mảnh vườn rau. Giậu trúc lưa thưa đã xiêu đổ quá nửa, mấy đóa tường vi đỏ thắm mọc tràn lan, lấp cả lối đi.

Chỉ còn chiếc chuông gió dưới mái hiên ngân lên từng tràng đinh đang thê thiết.

[1] Câu thơ trích trong tiểu thuyết Hoa nguyệt của Hoàng Tử An, thời nhà Thanh, (ND)

Đợi suốt đêm chẳng thấy A Hành, Xương Ý đang phát hoảng lên vì lo sợ thì bắt gặp nàng quay lại, y thở phào nhẹ nhõm, khẽ trách: “Muội chạy đi đâu thế? Làm ta đợi mãi.”

A Hành cúi đầu làm thinh, vừa lúc đó, Di Bành tươi cười bước vào: “Phải rồi, có tin này chẳng hay Tứ ca đã biết chưa, Xi Vưu vẫn còn sống sờ sờ.”

Xương Ý kinh ngạc quay sang A Hành: “Thật ư?”

Di Bành cướp lời đáp: “Hôm qua, rất nhiều người trông thấy Xi Vưu đứng trên Trạch Châu thành, chẳng phải hôm qua tiểu muội cũng tới Trạch Châu ư? Lẽ nào không thấy hắn?”

Xương Ý trừng mắt nhìn A Hành đầy đau xót rồi đột ngột quay lưng đi thẳng.

A Hành căm hận lườm Di Bành, đoạn vội vã đuổi theo Xương Ý.

“Tứ ca, Tứ ca…”

Xương Ý đanh mặt lại, bỏ ngoài tai tiếng gọi của nàng, đi thẳng vào phòng, quay mình toan đóng cửa nhưng A Hành đã nhanh tay đẩy cửa ra lách người vào. Xương Ý ngồi bịch xuống trước bàn, mắt nhìn mũi, mũi nhìn ngực, như đang nhập định. Mặc A Hành cười xí xóa, huyên thuyên hết chuyện này sang chuyện khác, y vẫn lặng yên.

“Tứ ca, huynh nói gì đi chứ.”

Xương Ý làm thinh, không trách cứ một lời khiến A Hành thấy lòng đau đớn như dao cắt. Từ nhỏ đến lớn, Tứ ca luôn chiều theo ý nàng, bất kể nàng bày trò gì, gây ra họa lớn đến đâu, y cũng chỉ lắc đầu cười khổ: “Ai bảo muội là muội muội của ta chứ.”

A Hành vội lắc lắc tay Xương Ý, rơm rớm nước mắt khẩn cầu: “Tứ ca, huynh cứ đánh cứ mắng muội đi, đừng bỏ mặc muội như thế này, muội chỉ còn một ca ca là huynh thôi mà.”

Xương Ý nghẹn ngào nói: “Ta chẳng còn vị ca ca nào nữa cả, muội quên Đại ca đã chết thế nào rồi ư?”

A Hành run lên bần bật, khẽ đáp: “Muội không quên đâu!”

“Vậy đêm qua muội đi đâu?”

Gương mặt A Hành lộ vẻ bi thương, nàng lặng thinh không nói.

Xương Ý gằn giọng: “A Hành, cả đời này, ta sẽ không tha thứ cho Xi Vưu đâu!”

A Hành gục đầu xuống, buồn thảm đáp: “Muội biết chứ, muội đã nói rõ với chàng rồi, từ nay về sau, muội sẽ không gặp lại chàng nữa.”

Nghe nàng nói vậy, cơn giận của Xương Ý nguôi dần, thay vào đó là bi ai khôn xiết. Y chẳng muốn bức bách em gái, nhưng cũng không thể chấp nhận để em gái mình ở bên kẻ thù giết Đại ca.

Đột nhiên, Bán Hạ ở ngoài gõ gõ vào song cửa gọi: “Vương cơ.”

A Hành gắng lấy lại bình tĩnh, hé cửa sổ ra, “Gì thế?”

Bán Hạ ghé tai nàng thì thầm mấy câu, A Hành gật đầu rồi quay lại bảo Xương Ý: “Tứ ca, huynh dắt Liệt Dương đi tìm Di Bành, cầm chân hắn dùm muội, muội ra ngoài có chút việc.”

Thấy A Hành lộ vẻ căng thẳng, hơn nữa Bán Hạ là thân tín do Đại ca đích thân huấn luyện, Xương Ý liền đứng dậy: “Muội đi đi, Di Bành cứ giao cho ta và Liệt Dương.”

Bán Hạ dẫn A Hành ra khỏi dịch quán, đi thẳng vào rừng, vừa đến nơi, một nữ tử áo trắng nấp trong bóng tối lập tức bước tới đón nàng, chính là Vân Tang mấy hôm nay không gặp.

A Hành tinh ý, thấy cổ tay Vân Tang hằn lên vết dây trói, vội kinh hoàng hỏi: “Xảy ra chuyện gì thế, kẻ nào to gan dám trói tỷ vậy?”

Vân Tang buồn bã: “Di Bành và Hậu Thổ đều muốn ngăn Thanh Dương kết hôn với ta. Di Bành bày kế cho Hậu Thổ, chỉ cần bắt giam ta mười ngày, hắn sẽ có cách khiến Hoàng Đế thay đổi chủ ý, Hậu Thổ nghe lời, bèn trói ta nhốt lại. Hôm qua, nhân lúc hắn tất tả ra ngoài, ta liền bỏ trốn, về sau mới nghe nói hắn đi giúp Xi Vưu ngăn lũ. Bao năm nay hắn tranh giành binh quyền với Xi Vưu, thế như nước lửa, vậy mà lần này lại ra tay tương trợ Xi Vưu, không so đo chuyện cũ, xem ra dù hắn hồ đồ chuyện nhỏ, nhưng việc lớn vẫn chu toàn.”

“Di Bành ngăn cản việc kết thông gia vì là căm hận bọn muội, sao Hậu Thổ lại giúp hắn?”

Vân Tang luôn canh cánh mối hận Hiên Viên suýt nữa nhấn chìm Trạch Châu, liền lạnh lùng châm chọc: “Muội sợ Hậu Thổ đầu quân cho Di Bành, đối địch với muội ư? Gã vẫn hàm ơn muội đã bảo vệ mình hồi nhỏ, lại ghét Di Bành nham hiểm tàn độc, nhất định không về phe Di Bành đâu, lần này chúng lợi dụng lẫn nhau đấy thôi.”

“Muội, muội… Hậu Thổ đệ ấy…”

“Đây là chuyện riêng của Thần Nông tộc chúng ta, muội thân là vương cơ Hiên Viên, chớ nên hỏi nhiều.”

Nghe Vân Tang nói, A Hành chợt thấy nghẹn ngào chua xót. Chiến tranh đã đập nát mọi thứ, bao gồm cả tình nghĩa giữa nàng và Vân Tang.

Nhìn nét mặt A Hành, lại hồi tưởng tình thân thuở trước, lòng Vân Tang cũng quặn thắt bi thương, nhưng chẳng biết nói gì, đành kiếm chủ để khác để xoa dịu: “Xi Vưu vẫn còn sống, chúc mừng muội muội.”

A Hành hiểu tâm ý Vân Tang, lòng cũng vơi bớt đôi phần, cười đáp: “Muội cũng chúc mừng tỷ tỷ.”

Vân Tang gật đầu cười, “Mộc Cận đúng là trẻ con, nghe nói Xi Vưu vẫn còn sống bèn tức tốc chạy đến Trạch Châu nhưng không gặp, bèn tức tối báo với ta rằng Xi Vưu trọng thương, bị một yêu nữ đưa đi, đòi ta phái thêm người giúp muội ấy truy tìm yêu nữ kia.” Vân Tang thở dài, “Chắc muội cũng nhận ra Mộc Cận trước giờ nhất mực rất si tình với Xi Vưu, nhưng Xi Vưu chỉ dửng dưng. Muội ấy không biết chuyện giữa Xi Vưu và muội, lỡ như có gì mạo phạm, muội cũng đừng đa nghi ngờ vực Xi Vưu, nên thông cảm cho hắn một chút.”

A Hành khẽ nói: “Muội và Xi Vưu không thể sống bên nhau được, từ nay về sau, muội là muội, hắn là hắn.”

Vân Tang lặng người đi, cuộc chiến này đã xoay chuyển vận mệnh thiên hạ, cũng thay đổi luôn số phận của họ. Lát sau, nàng lại hỏi: “Giờ Xi Vưu đang ở đâu? Thương thế của hắn bao lâu nữa mới lành?”

“Muội đã nhờ Tiêu Dao đưa hắn tới nơi an toàn để dưỡng thương rồi. Đường lối tu luyện của Xi Vưu rất quái dị, có lẽ dăm ba năm là khỏi thôi.”

Vân Tang trầm tư hồi lâu, đoạn nói: “Muội lập tức triệu tập chư hầu Thần Nông về đỉnh Tử Kim đi, ta sẽ tuyên bố nhận lời gả cho Thanh Dương.”

“Tỷ nghĩ kỹ rồi chứ?”

“Đại quân Hiên Viên vẫn đóng ngoài Trạch Châu thành, nếu đổi lại là muội, muội có thể cự tuyệt yêu cầu của Hoàng Đế chăng? Hai chúng ta đều hiểu Hoàng Đế muốn kết thông gia nhằm tạo cầu nối, tiến tới thu phục các bộ tộc Thần Nông dễ dàng hơn, ta cũng nhận lời gả cho Thanh Dương để đổi lấy hòa bình tạm thời, tranh thủ thời gian cho Xi Vưu thôi.”

A Hành trầm ngâm giây lát: “Muội sẽ đi thông báo với Tứ ca, lập tức triệu tập chư hầu Thần Nông.”

“Muội thưa lại với Hoàng Đế, tuy ta chấp nhận hôn sự, nhưng còn phải để tang mấy năm cho Du Võng, mong Hoàng Đế hãy tôn trọng lễ tiết Thần Nông.”

“Được!”

Khi A Hành và Vân Tang đến Tử Kim thành, Xương Ý và chư hầu các bên đã tề tựu đông đủ.

Vân Tang cười nhạt bảo A Hành: “Dạo trước mời mọc gãy lưỡi nào thấy mấy tên này đến, hôm nay Hiên Viên vừa hô một tiếng đã có mặt đông đủ. Thần Nông khó khăn lắm mới thắng được một trận, vậy mà chúng càng lúc càng chịu khó khom lưng uốn gối, chỉ nơm nớp sợ Hoàng Đế trút giận lên đầu thôi.”

A Hành cúi đầu nói nhỏ: “Đây là chuyện của Hiên Viên và Thần Nông, vương phi Cao Tân như muội không vào thì hơn.”

Vân Tang gật đầu với nàng, đoạn tiến thẳng vào đại điện.

Nghe tiếng, hết thảy mọi ánh mắt trong điện đều dồn về phía Vân Tang, chỉ thấy nàng mặc váy trắng, đứng ngay cửa điện, dáng như cây ngọc, anh khí bất phàm.

Bị phong thái của nàng chấn nhiếp, mọi người không hẹn mà lần lượt đứng cả dậy.

Đột nhiên, Vân Tang nhớ lại lần đầu tiên bước vào tòa đại điện này thuở nhỏ, nàng đã chỉ lên ngọc đài, nơi đặt vương tọa, hỏi phụ vương: “Sao thị vệ không cho con lên đó chơi?”

Phụ vương đáp: “Người đứng trên đó phải gánh vác mọi vui buồn hờn giận của muôn dân thiên hạ, con còn quá nhỏ, gánh không nổi đâu.”

“Vậy chừng nào con lớn, đủ sức gánh vác, có thể đứng trên đó ư?”

Phụ vương khẽ búng mũi nàng, cười xòa: “Tốt hơn hết là đừng bao giờ có ngày đó.”

Vân Tang nghiêm trang bước qua khung cửa cao cao, tiến vào đại điện, gót sen hương vướng, gió động màn là khiến khắp điện sực lên ngan ngát.

Nàng lướt qua bấy nhiêu chư hầu đang ngây ngẩn, bước tới trước ngọc đài, ngẩng đầu nhìn lên vương tọa bỏ không, như thể trông thấy phụ vương ngồi đó mỉm cười nhìn mình. Mãi đến hôm nay, nàng mới hiểu được nỗi bi ai lặn sâu trong mắt phụ vương.

Vân Tang nhắm nghiền mắt, hít một hơi thật sâu rồi bước lên ngọc đài, mỉm cười quay lại.

“Vương cơ!” Hậu Thổ từ trên không nhảy xuống, lao thẳng vào điện.

Vân Tang đưa mắt nhìn đám người bên dưới, phớt lờ tiếng gọi của Hậu Thổ, cao giọng tuyên bố: “Thần Nông Vân Tang ta bằng lòng kết hôn với Hiên Viên Thanh Dương.”

Tiếng hoan hô chúc mừng lập tức dậy lên khắp điện đài, át hẳn tiếng gọi tha thiết của Hậu Thổ.

Chỉ một câu, là dâu bể đổi dời, cỏ hoa tàn tạ.

Hậu Thổ đờ người giữa đại điện, mặt như tro tàn, hai mắt trừng trừng dán chặt vào Vân Tang.Vì sao? Vì sao nàng không tin ta có thể bảo vệ trăm họ Thần Nông? Vì sao nàng không để ta đem lại yên bình cho nàng?

Vân Tang một mực mỉm cười nhìn gã, vẻ kiên quyết lộ ra ánh mắt. Ta là Trưởng vương cơ Thần Nông, đây là trách nhiệm của ta! Ta có việc của ta, ngươi cũng có việc của ngươi!

Giữa tiếng cười nói chúc tụng, giữa trùng trùng nhân ảnh, giữa đại đại điện chói lọi vàng son, lung linh châu ngọc… Hậu Thổ khó nhọc quay mình, lết tấm thân đờ dại xuyên qua đám người huyên náo, ra khỏi đại điện.

Hóa xà đã đợi sẵn một bên nhưng gã nhìn mà như không thấy, chỉ men theo thềm điện, lê bước chân cứng ngắc xuống núi.

Bóng Hậu Thổ nhỏ dần nhỏ dần rồi từ từ khuất sau những bậc thềm quanh co ngoắt ngoéo.

Vân Tang đứng giữa thềm ngọc cao cao, đăm đăm trông ra ngoài điện, nụ cười tươi tắn vẫn nguyên vẹn trên môi, eo lưng thẳng tắp.

Vừa về đến Hiên Viên thành, Xương Ý và A Hành đã bị vây chặt giữa đám quần thần tới chúc tụng. Đám đông xúm quanh Xương Ý cười cười nói nói, hàn huyên trò chuyện xôn xao, chỉ có độc Di Bành lẻ loi lút cút đi sau.

Biết ý Hoàng Đế không vui về chuyện ở Trạch Châu, mọi người cũng lợt lạt hẳn đi với Di Bành. Khi trước, hắn chiến công hiển hách, được Hoàng Đế trọng thưởng liên tiếp nên đám triều thần nhất mực vây quanh bợ đỡ, có điều giờ đây gió đã đổi chiều, bao vinh quang xưa đều trở thành quá khứ.

A Hành lẳng lặng quan sát Di Bành nhưng chẳng bao lâu hắn đã phát hiện ra, bèn quay lại cười nhạt với nàng, ánh mắt đầy giễu cợt.

A Hành chợt thấy rùng mình, nàng và Di Bành đều biết, Hoàng Đế làm bộ khiển trách Di Bành như vậy, nhưng thực tế chẳng hề trừng phạt nặng nề gì, mọi thứ mới chỉ bắt đầu mà thôi!

Hoàng Đế ban thưởng cho Xương Ý thật hậu. Đợi hoàn tất mọi lễ tiết, quần thần đều đã cáo lui, chỉ còn lại mấy người bọn họ, Hoàng Đế bèn phán bảo A Hành: “Ta vốn muốn giữ con lại chăm lo cho mẫu hậu một thời gian nữa, nhưng Thiếu Hạo đã phái sứ thần tới đón con về, ta cũng không tiện níu kéo. Hơn nữa, Thanh Dương vẫn phải ở Quy khư bế quan trị thương, con về Cao Tân, nó cũng có người săn sóc.”

A Hành vội dập đầu từ biệt Hoàng Đế: “Con phải về thôi, lần này đi lâu như vậy, cũng là Thiếu Hạo phá lệ đặc cách rồi.”

Hoàng Đế bèn đỡ A Hành dậy, ôn tồn nói: “Con cùng Thiếu Hạo quả là trắc trở, thành hôn chưa lâu thì xảy ra chuyện ở Ngu uyên, con vừa khá lên lại tới lượt Thanh Dương trọng thương, đến giờ mới được sóng yên biển lặng. Con nên về bên Thiếu Hạo, sớm sinh cho nó một đứa con, bằng không dù ta muốn giúp con giành ngôi vương hậu cũng lực bất tòng tâm.”

A Hành dịu dàng đáp: “Phụ vương dạy rất phải.”

Hoàng Đế thở dài: “Con nha đầu này càng lớn càng hay nói dối, con tưởng ta không biết con nghĩ gì hả, con ngỡ ta thèm muốn vương vị Cao Tân chứ gì? Ta là vua một nước, quyền mưu đủ cả, nhưng Hành nhi à, ta cũng là cha con, ta làm vậy là nghĩ cho con thôi.” Nói rồi ông xoa đầu nàng, “Tuấn Đế đời trước vẫn sống sờ sờ trên Ngũ Thần sơn, vương vị của Thiếu Hạo còn chưa ổn định, nó ắt sẽ phải cầu đến sự hỗ trợ của các bộ tộc Cao Tân, mà nạp phi là phương pháp đơn giản hữu hiệu nhất, con không thể là người đàn bà duy nhất của nó được, nếu có sự gì, phụ vương nước xa chẳng cứu được lửa gần, chỉ có đứa nhỏ là chỗ dựa lâu dài của con thôi.”

A Hành làm thinh không nói, chỉ mím chặt môi, lộ vẻ quật cường. Hoàng Đế chăm chú nhìn nàng, đột nhiên thấy mệt mỏi vô chừng, bèn xua tay bảo: “Con mau về Triêu Vân phong với mẹ đi, để bà ấy…” Hoàng Đế trầm ngâm, lưỡng lự hoài không nói tiếp, như chẳng hề nhận thấy mình ngập ngừng đã quá lâu, mãi tới khi A Hành ngước lên dò hỏi, ông mới sực tỉnh: “Khuyên bà ấy nên bảo trọng lấy mình.”

“Vâng!”A Hành dập đầu lặng lẽ lui ra.

Sớm hôm sau, A Hành từ biệt mẹ và anh trai, trở về Cao Tân.

Về tới Thừa Ân cung, trời đã ngả chiều, đám cung nữ ra đón nàng thưa: “Bệ hạ đang bận nghị sự, dặn vương phi cứ dùng cơm trước, đừng đợi ngài.”

A Hành gật đầu, đi thẳng vào tẩm cung.

Dọc đường nàng đi san sát đình đài lầu gác, rường cột chạm trổ, tùng bách xanh um tươi tốt, kỳ hoa dị thảo ngan ngát hương đưa, lối trúc bờ sen lại thông thẳng tới một vòm trời khác. A Hành chưa thấy cung điện nào lộng lẫy hơn Thừa Ân cung, chắc hẳn người đời đều cho rằng chủ nhân nơi này rất xa hoa giàu có, nhưng A Hành nghĩ có lẽ Thiếu Hạo cũng chẳng biết bên trong Thừa Ân cung có những gì, bởi cuộc sống của y chỉ gói gọn giữa tẩm cung và chính điện.

A Hành dùng bữa xong, rửa mặt chải đầu tề chỉnh mà Thiếu Hạo vẫn chưa về. Nàng một mình ngồi đợi cũng chán, nhân lúc trăng sáng, bèn ra ngoài tản bộ.

A Hành chẳng mấy thông thạo đường sá, vô tình lại lạc bước tới một khu vườn quen thuộc – chính là Y Thanh viên mà Tuấn Đế yêu thích nhất.Có lẽ Thiếu Hạo chẳng bao giờ lai vãng tới đây, cũng chẳng có phi tần nào qua lại du ngoạn, nên đám cung nhân lười biếng cũng để mặc cho cỏ dại mọc đầy, che kín cả lối đi.

A Hành thả bộ men theo dòng nước quanh co, dưới ánh trăng, rặng trúc bên bờ xanh ngắt một màu, đu đưa trước gió, phất phơ xào xạc, khiến nàng không khỏi chạnh lòng tự hỏi, vị công tử phong lưu nằm dài bên bờ nước, gối đầu lên đá đọc sách giờ đang làm gì? Nếu ông còn ở đây, trước cảnh trăng thanh gió mát thế này, hẳn sẽ thả bước dưới trăng, tay cầm ống tiêu, vừa đi vừa ngâm vịnh dưới bóng trúc nghiêng nghiêng xanh mướt.

“Nàng nghĩ gì thế? Ta vừa đến đã thấy nàng đứng ngây ra đó rồi.” Thiếu Hạo vận bạch y, đạp lên ánh trăng mà đến, đứng ngay cạnh tảng đá xanh bên bờ nước.Y dáng dấp thanh nhã, lại thêm bóng trúc tầng tầng lớp lớp dập dờn xao động sau lưng, thoạt trông chẳng khác nào người đó.

A Hành lặng lẽ thở dài không đáp.

Giữa đêm khuya thanh vắng, tiếng nước chảy róc rách hòa cùng tiếng lá trúc xào xạc, hệt như một khúc nhạc du dương bất tận.

Thiếu Hạo cúi đầu nhìn bóng trăng lấp loáng trên mặt nước, ánh mắt chợt mông lung, “Lâu lắm rồi, ta chẳng có lúc nào bình tâm lắng nghe tiếng nước chảy cả.”

A Hành nghiêng mình ngồi xuống tảng đá bên bờ, “Thiếp chưa kịp hỏi ý kiến chàng về việc kết thông gia giữa Hiên Viên và Thần Nông đã tự tiện đưa ra quyết định mất rồi.”

“Nàng làm đúng lắm, Hoàng Đế muốn thu phục Thần Nông, phải vận dụng cả cứng lẫn mềm, chuyện kết thông gia là đương nhiên thôi, nếu không phải Thanh Dương thì là Di Bành, không phải sống thì là chết, chỉ có một con đường, chúng ta không đi không được.”

“Phụ vương nói hiện giờ chàng đang lâm vào tình thế khó khăn, tốt nhất là dựa vào việc sách phong phi tần để chia rẽ và lôi kéo các gia tộc, chàng đã chọn được ai vừa ý chưa?”

Thiếu Hạo trân trân nhìn A Hành hồi lâu, đoạn cúi đầu hờ hững đáp: “Thân làm đế vương, còn mơ mộng tư tình viển vông sao được. Phụ vương ta một đời ôn nhu đa tình, khiến hai chị em Thường Hy thị thao túng hậu cung, ảnh hưởng cả tới triều chính. Hoàng Đế anh minh thần võ, nhưng cứ dùng dằng mãi không giải quyết được chuyện giữa mẫu hậu nàng và Đồng Ngư thị, đến nỗi tranh đấu hậu cung suýt biến thành mối họa thiên hạ. Thấy bao nhiêu vết xe đổ đó, ta nào dám có tình cảm với ai nữa chứ?”

A Hành chăm chú nhìn Thiếu Hạo. Tuy ngoài miệng y khăng khăng không mơ mộng viển vông, nhưng từ lúc đăng cơ tới giờ, mặc cho đế vị chông chênh, y vẫn nhất quyết chẳng nạp thêm phi tần, có lẽ không chỉ ôn nhu đa tình mới được gọi là nặng tình vương vấn, lạnh nhạt hờ hững có khi cũng là tình cảm đấy thôi.

“Chàng còn nhớ giao ước khi xưa của chúng ta không? Thiếp giúp chàng đăng cơ, chàng cho thiếp tự do, nhưng tình hình hiện giờ, thiếp không thể ra đi được nữa, có thể đổi điều kiện khác không?”

Thiếu Hạo giật thót mình, phải trấn tĩnh giây lát mới dè dặt hỏi: “Điều kiện gì?”

“Thiếp có mang rồi.”

Thiếu Hạo lặng người không đáp, chẳng rõ tâm tình biến chuyển ra sao.

A Hành nài nỉ: “Thiếp biết, bắt chàng nhận đứa nhỏ này làm con đúng là làm khó cho chàng, thiếp chỉ mong chàng cho nó mang họ Cao Tân, để nó bình yên trưởng thành mà thôi. Thiếp sẽ viết huyết thư nói rõ thân thế của nó, nhất định nó không dám tranh giành đế vị đâu…”

“Đứa trẻ này là máu mủ ruột rà của ta mà, chẳng phải ta đã nói từ rày trở đi, ta chính là Thanh Dương ư?”

A Hành giàn giụa nước mắt, liền phục xuống lạy tạ Thiếu Hạo, “Đa tạ chàng.” Nào ngờ cả người nàng chợt mềm nhũn, ngã dụi xuống đất. Thiếu Hạo vội vã đỡ lấy, đưa tay thăm mạch, không che giấu được vẻ kinh hoàng: “Sao mạch tượng của nàng loạn lên thế này? Để ta gọi thầy thuốc nhé?”

A Hành gượng cười, “Chàng đừng quên sư phụ thiếp là ai chứ, thân thể thiếp thiếp tự biết mà, vừa nãy thiếp có uống ít thuốc…” Nàng ghé tai Thiếu Hạo nói nhỏ mấy câu.

Thiếu Hạo hỏi ngay: “Liệu có nguy đến tính mạng không?”

A Hành cười, “Ai sinh con mà chẳng mạo hiểm? Không sao đâu, chàng đừng lo, chỉ cần phối hợp cùng thiếp diễn cho trót lọt là được.”

Thiếu Hạo bế nàng đưa về tẩm cung, chờ đám thị nữ sắp xếp cho nàng nghỉ ngơi rồi mới lui ra. Đột nhiên, A Hành nắm lấy tay áo Thiếu Hạo, đưa mắt nhìn y.

Thiếu Hạo hiểu ý, liền quay sang lệnh cho đám thị nữ đứng hầu phía sau: “Tối nay ta sẽ nghỉ lại đây.”

Mấy ả thị nữ nhìn nhau, hầu hạ Thiếu Hạo rửa mặt rồi đồng loạt lui ra.

Giữa đêm khuya, chỉ còn A Hành và Thiếu Hạo nằm song song trên giường, mỗi người ôm một bầu tâm sự.

Ban ngày A Hành đã uống thuốc nên bây giờ dược tính phát tác, tuy khắp người rời rã nhưng không sao ngủ được.

Thiếu Hạo trở mình quay sang, đặt tay lên trán nàng, từ từ truyền năng lượng thủy linh nhu nhuyễn dịu dàng vào người A Hành, giúp nàng bớt bứt rứt khó chịu, cơn buồn ngủ cũng theo đó mà kéo đến.

“Cảm ơn chàng.”

“Xi Vưu biết chuyện đứa nhỏ chưa?”

A Hành buồn ngủ đến ríu cả mắt, mơ mơ màng màng đáp: “Chưa biết.”

“Nàng có định cho hắn biết không?”

Không nghe tiếng đáp, A Hành đã mê mệt thiếp đi. Thiếu Hạo vẫn đặt tay trên đầu nàng hồi lâu mới thu tay về.

Y khẽ khàng trở mình, quay lưng lại phía A Hành.

Ánh trăng trong len qua khung cửa gỗ tùng xanh tràn vào phòng như thủy ngân, rọi xuống mặt đất thành từng vũng trăng biêng biếc lập lòe. Bóng cây ngoài song lay động, bóng trăng dưới đất cũng dập dờn theo, chẳng khác nào muôn ngàn đợt sóng. Nhớ lại, sau khi bọn họ thành hôn, lần đầu tiên thẳng thắn trao đổi, kết thành đồng minh, cũng vào một đêm trăng thanh gió mát thế này, đêm ấy, y cũng trằn trọc suốt đêm không ngủ.

Nếu thời gian có quay trở lại để y được lựa chọn lần nữa, liệu y sẽ chọn cái gì đây?

“Làm vương tử phi, hay làm vợ của chàng?”

“Vợ là người đời này kiếp này chỉ có một mà thôi.”

Giọng nói trong trẻo của A Hành vẫn còn văng vẳng bên tai, nhưng y chẳng còn cơ hội trả lời lại nữa.

Vì Vân Tang đã nhận lời cầu hôn của Thanh Dương, Hoàng Đế lập tức ngừng tiến đánh Thần Nông, hai bên tạm thời đình chiến. Lợi dụng cơ hội này, Thiếu Hạo bắt đầu cải cách mạnh mẽ.

Đằng sau vẻ ngoài bình yên là một cơn sóng gió lớn đang âm thầm dấy động, nhưng dù sao, trước mắt vẫn là hòa bình an ổn.

Sáu tháng sau, A Hành nhận được thư Xương Ý, báo tin Xương Phó đã có thai. Xương Ý hào hứng kể, từ khi biết Xương Phó có mang, tinh thần mẹ khá lên nhiều, sức khỏe cũng ổn hơn, lại bắt tay vào chăn tằm dệt vải, may quần áo cho đứa nhỏ.

A Hành cầm lá thư, mỉm cười.

Lại thêm sáu tháng nữa, Thiếu Hạo công bố việc A Hành có thai với bá quan văn võ. Tin này truyền đến Hiên Viên, Hoàng Đế lập tức phái sứ giả mang đủ thứ dược thảo quý hiếm tới hỏi thăm A Hành, đi cùng sứ giả còn có một danh y.

Danh y thỉnh cầu Thiếu Hạo cho phép mình thăm khám cho A Hành, Thiếu Hạo không nói gì nhưng đám danh y cung đình Cao Tân thì rất khó chịu, cảm thấy danh y này nghi ngờ năng lực của bọn họ, làm nhục cả nền y thuật Cao Tân.

Sứ giả vội cười xoa dịu: “Là Hoàng Đế và vương hậu nương nương cứ thấp thỏm nhớ mong vương cơ, nên sai danh y đến thăm mạch rồi về bẩm cáo với Hoàng Đế và nương nương để hai vị yên tâm đó thôi.”

Đám danh y Cao Tân đang định buông lời chế nhạo, Thiếu Hạo liền cười giảng hòa: “Chuyển lời chẩn đoán của các người tới Hiên Viên dù sao cũng cách một tầng, chi bằng để vị danh y này tự thăm khám rồi về bẩm cáo Hoàng Đế cho tiện, vương phi lấy chồng xa, chiều ý mẹ cha để hai vị yên tâm xem như là tận hiếu.”

Bấy giờ, đám danh y Cao Tân mới hậm hực làm thinh.

Danh y bắt mạch xong một lượt, thần tình hoang mang, vẻ lo âu ra mặt, thấy vậy, Thiếu Hạo ngồi bên vội hỏi: “Sao thế?”

Danh y lau mồ hôi trán, lắp bắp thưa: “Không, không sao cả, thần phải xem lại một lần nữa.”

Mấy vị danh y cung đình cười khinh khỉnh. Dưới ánh mắt chòng chọc của mọi người, gã danh y Hiên Viên lại chẩn đoán thật kỹ lần nữa, một lúc lâu sau, gã buộc phải thừa nhận mình nhất trí với kết quả chẩn đoán của các danh y Cao Tân, A Hành đã mang thai sáu tháng, cả hai mẹ con đều khỏe mạnh, có điều huyết khí hơi kém, song chẳng có gì đáng ngại, chỉ cần điều dưỡng tử tế là ổn.

Rõ ràng đây là tin tốt lành, nhưng tay danh y lại không giấu nỗi vẻ thất vọng, đành gượng tươi tỉnh trả lời Thiếu Hạo mấy câu rồi vội vã cáo lui.

Hơn hai năm sau, Xương Phó mẹ tròn con vuông sinh được một bé trai, Hoàng Đế ban tên là Chuyên Húc.

Hoàng Đế lại phái sứ giả tới Cao Tân thăm hỏi A Hành, lần này sứ giả đem theo hai bà mụ tinh thông y thuật, nói rằng phụng mệnh Hoàng Đế đến chăm sóc cho nàng. A Hành biết Di Bành lại giở trò quỷ, nhưng vẫn định tương kế tựu kế, nhân dịp này chứng minh mọi chuyện, nên để mặc cho hai mụ già đó theo bên mình.

Tháng Tư năm sau, dưới sự trợ giúp của các danh y, A Hành trở dạ sinh con.

Đứa bé sinh ra vô cùng khỏe mạnh, nhưng A Hành lại phải trải qua một phen thập tử nhất sinh. Nếu không nhờ Thiếu Hạo dùng linh lực kết thành trận pháp, lại thêm thủy ngọc Quy khư bảo hộ tâm thần, e rằng A Hành không sao chịu đựng nổi tới khi đứa nhỏ chào đời. Hai bà mụ còn chẳng dám đụng vào người A Hành, sợ gánh trách nhiệm, chỉ đứng đờ ra một bên, thấy đứa bé chào đời suôn sẻ lập tức chuồn khỏi tâm cung.

Nghe tiếng đứa nhỏ khóc oa oa, Thiếu Hạo vội chạy vào phòng.

Thấy cả người A Hành dầm dề mồ hôi, mê man bất tỉnh, y liền nắm lấy tay nàng, truyền thêm linh lực vào hỗ trợ.

Bấy giờ A Hành mới hơi tỉnh lại, thì thào gọi: “Con ơi, con!”

Thiếu Hạo lập tức gọi thị nữ, thị nữ liền bế đứa trẻ vừa tắm rửa sạch sẽ tới trước mặt Thiếu Hạo, mừng rỡ thưa: “Chúc mừng bệ hạ, là một vương cơ.”

Thiếu Hạo ẵm đứa bé vào lòng, lạ thay, đứa bé đang gào khóc oa oa đột ngột nín bặt, đôi mắt đen láy tròn xoe nhìn Thiếu Hạo, khóe miệng xinh xinh bỗng nhoẻn cười. Thiếu Hạo mỉm cười, ôm đứa bé cho A Hành ngắm: “Là con gái đó.”

A Hành khó nhọc mở mắt ngắm nhìn gương mặt con, đoạn nàng rút Trụ Nhan hoa, cắn ngón giữa bôi máu lên, biến Trụ Nhan hoa thành một đóa hoa đào nhỏ bằng móng tay. Được nhuộm bằng máu A Hành, đóa hoa càng thắm tươi kiều diễm, hệt như vừa trảy từ cành.

Thiếu Hạo lo lắng: “Nàng định làm gì? Nàng vừa hao tổn rất nhiều linh lực, không được…”

A Hành đặt đóa hoa đào bằng móng tay lên mi tâm đứa nhỏ, cả đóa hoa lập tức đỏ hồng lên, nóng rãy như sắt trong lò, khiến đứa nhỏ bị phỏng khóc ré lên.

A Hành lấy ngón giữa ấn đóa hoa đào lún sâu xuống, làm cho đứa bé đau đớn tím tái cả mặt mày, khóc đến hết hơi. Nước mắt hòa lẫn với mồ hôi đầm đìa trên mặt A Hành, thân hình như chực gục xuống nhưng nàng vẫn nghiến răng gắng gượng ấn đóa hoa lút từ từ vào trán đứa bé.

“Cho thiếp xin một giọt máu trong tim chàng, để phong ấn, phong ấn…” A Hành nhũn người ngã lăn ra, hôn mê bất tỉnh.

Thiếu Hạo vội nắm lấy tay A Hành, truyền linh lực vào người nàng, đồng thời cắn ngón giữa tay trái nhỏ máu lên vết thương hình cánh đào trên trán đứa nhỏ, lập tức vết thương liền lại ngay, vừa may đứa nhỏ đã khóc không ra tiếng, chỉ còn há miệng hớp hớp không khí.

Thiếu Hạo liền đút ngón tay rướm máu vào miệng đứa bé, nó ngậm lấy mút chùn chụt, mút được tinh huyết của y, sắc mặt nó cũng tươi dần lên, bàn tay bé xíu nắm chặt lấy ngón tay Thiếu Hạo, cười tít mắt. Vết thương trên trán nó đã khép miệng hoàn toàn, thoạt trông như một vết bớt nhàn nhạt hình hoa đào.

Thiếu Hạo vừa đùa với nó, vừa rủ rỉ: “Mong rằng suốt đời con sẽ luôn luôn tươi cười như hiện giờ, khỏi phụ tấm lòng mẹ con đã đem cả tính mạng ra bảo vệ cho con.”

Người trong Thần tộc sinh con sẽ hao phí rất nhiều linh lực, những kẻ tu vi thấp kém có khi còn phải lấy mạng đổi mạng, bởi thế tuy Thần tộc sống lâu ngàn tuổi nhưng số lượng hết sức ít ỏi. A Hành dùng thuốc làm chậm ngày sinh, giữ đứa nhỏ trong cơ thể mình, chính là đảo ngược tự nhiên, vô cùng hại sức khỏe, may sao nàng tinh thông y thuật, lại có Thiếu Hạo linh lực cao cường ở sát bên mình bảo hộ nên mới tai qua nạn khỏi.

Tuy giữ được tính mệnh, nhưng từ sau khi sinh con, thân thể A Hành bị tổn thương nghiêm trọng, mê man suốt ngày. Hằng đêm, Thiếu Hạo đều mang nàng tới Thang cốc, để nàng ngâm mình xuống nước. Dù bận rộn tới đâu y cũng phải tự tay chăm sóc A Hành, nhất định không cho người khác nhúng tay vào, chỉ để thị nữ Bán Hạ phụ mình lau rửa thân thể nàng hoặc thay đổi y phục mà thôi.

Thiếu Hạo đặt tên đứa nhỏ là Tiểu Yêu, Tiểu Yêu vừa chào đời thì mẹ đã hôn mê bất tỉnh, được Thiếu Hạo hết lòng chăm chút, luôn đem theo bên mình, khiến trong triều ngoài nội ai ai cũng biết y yêu thương Trưởng vương cơ. Hơn một năm sau, Tiểu Yêu bắt đầu bi bô tập nói, A Hành mới dần dần tỉnh lại.

Thiếu Hạo bước vào tẩm điện, liền trông thấy A Hành đang ngả mình trên sập đùa với Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu tay nắm một chiếc chuông bạc, vừa trông thấy Thiếu Hạo, cô bé liền nhoẻn cười vươn tay đòi bế, cánh tay trắng nõn như ngó sen vung vẩy chiếc chuông leng ca leng keng. Thiếu Hạo bế xốc Tiểu Yêu lên, cô bé níu lấy cổ y cười khanh khách, tiếng cười trong vắt, khiến người ta quên hết mọi buồn phiền.

Thiếu Hạo tươi cười bảo: “Hôm đó nàng mê man bất tỉnh, Tông Bá[2] đến hỏi tên con, ta sực nhớ hồi còn làm thợ rèn, từng nghe dân bản địa hát một khúc dân ca, giờ cũng quên gần hết rồi, chỉ còn nhớ câu đầu tiên là: “đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa[3], bèn thuận miệng đặt nhũ danh cho con là Tiểu Yêu. Tông Bá đã đến thôi thúc hỏi tên con mấy lần rồi, nếu nàng thấy trong mình khỏe khoắn thì nghĩ một cái tên đi.”

[2] Tông Bá: quan thời cổ của Trung Quốc, coi giữ chuyện lễ nghi, phụ giúp đế vương cai quản việc trong tông thất, nắm giữ việc tế lễ tổ tiên, đồng thời quản tất cả phép tắc lễ nghi trong tông miếu và tông tộc.

[3] Nghĩa là: Mơn mởn đào non, rực rỡ nở hoa, trích từ bài Đào yêu trong Kinh Thi. (ND)

A Hành vừa giỡn với Tiểu Yêu, vừa ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đề nghị: “Gọi là Cửu Dao đi!”

Thiếu Hạo hỏi lại: “Cửu Yêu ư? Cửu trong Cửu Lê, Yêu trong đào chi yêu yêu ấy hả?”

“Không phải, là hai chữ này.” A Hành viết lên giường hai chữ Cửu Dao cho Thiếu Hạo xem.

[4] Hai chữ “yêu” và “dao” trong tiếng Trung Quốc phát âm gần giống nhau, đều là “yao”, chỉ khác về thanh, nên Thiếu Hạo hiểu lầm. (ND)

Cửu Dao lên ba, Thiếu Hạo bèn chiếu cáo thiên hạ, sách phong làm Trưởng vương cơ, hưởng bốn trăm thực ấp. Tuy là con gái, nhưng dù sao cô bé cũng là con đầu lòng của Tuấn Đế Cao Tân nên tiệc mừng được tổ chức vô cùng long trọng, kéo dài suốt ba ngày.

Ngày đầu tiên cử hành nghi lễ bái tế trời đất, chúc phúc cho Cửu Dao.

Ngày thứ hai bày tiệc mời vương thất trong Thừa Ân cung, mọi người trong Cao Tân tộc đều tụ họp lại, ăn uống linh đình, nói cười vui vẻ ồn ào.

Trung Dung cắp hồ lô rượu loạng choạng đến trước mặt Thiếu Hạo, mượn rượu giả say nói nhăng nói cuội trước mặt mọi người: “Cửu Dao là cháu gái lớn, thế mà ba tuổi rồi vẫn chưa được gặp mặt phụ vương. Trong triều đồn rằng phụ vương bị ép dọn tới Kỳ viên, chứ không phải tự nguyện, mấy năm nay, chúng đệ chẳng ai được gặp Người, thậm chí đại lễ long trọng như hôm nay cũng chẳng thấy phụ vương tham dự, lẽ nào có chuyện gì đó không thể gặp mặt mọi người ư?”

Lời này vừa buông ra, cả đại điện tức thì im phăng phắc, những tên nhát gan nhất loạt cúi gầm mặt xuống, không dám ngẩng lên, trong khi đó hai mươi mấy người em trai của Thiếu Hạo đều trừng trừng đổ dồn mắt vào y, như hổ đói rình mồi.

A Hành thầm kinh hãi, nàng không sao ngờ được mâu thuẫn giữa Thiếu Hạo và các em lại gay gắt đến nỗi Trung Dung chẳng nề mất mặt, dám buông lời phạm thượng ngay trước mặt mọi người. Có điều chiêu này của y thật vô cùng nham hiểm, hôm nay vương thất Cao Tân đều tề tựu nơi đây, hễ Thiếu Hạo sơ sảy một câu, chứng tỏ tội danh bức cung thoái vị, giam cầm phụ vương là có thực thì dù có dựa vào binh hùng tướng mạnh để giữ vững ngai vị, y cũng mất hết lòng dân, bị người người phỉ báng.

Trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Thiếu Hạo vẫn thản nhiên cười đáp: “Phụ vương bệnh nặng nên dời đến Kỳ viên thanh tâm tĩnh dưỡng, không gặp mọi người đó thôi, ai bảo đệ là hôm nay phụ vương không tới? Chẳng qua sức khỏe Người còn yếu nên tới muộn một chút, không tin đệ đợi một lát nữa có thể gặp trực tiếp hỏi phụ vương.”

Thiếu Hạo còn chưa dứt lời, mấy tên tùy tùng đã khiêng một cái sập mềm bước vào, Tuấn Đế đời trước đang nghiêng mình ngồi trong đó.

Mọi người trong đại điện xôn xao đứng cả dậy, đám Trung Dung càng xúc động hơn ai hết, rưng rưng nước mắt nhìn phụ vương.

Sập của Tuấn Đế vừa được đặt xuống cạnh Thiếu Hạo, mọi người trong điện đều nhất loạt quỳ xuống hành lễ, nhưng chẳng biết phải xưng hô thế nào, đành dập đầu ba cái mà thôi.

Tuấn Đế mỉm cười vẫy ta ra hiệu cho tất cả đứng lên. Lời nói cử chỉ của ông vẫn hệt như vị công tử tiêu sái thuở nào, chỉ có điều mái tóc đã bạc phơ, gương mặt nhăn nheo vì tuổi tác.

Trung Dung quỳ sụp xuống trước mặt Tuấn Đế, nghẹn ngào hỏi: “Phụ vương, Nhị ca và mẫu hậu đều bị giam dưới Ngũ Thần sơn, đây là ý chỉ của Người sao?”

“Là ý của ta, Yến Long phản bội ta, thay thế toàn bộ thị vệ trong cung, toan giám sát ta hằng ngày, tội không thể tha được.”

Trung Dung khóc òa lên: “Nhị ca quyết không có ý bội phản phụ vương đâu, chỉ là Nhị ca sợ…” Trung Dung liếc nhìn Thiếu Hạo, nuốt vội nửa câu sau xuống. Tuấn Đế liền kết thúc chủ đề: “Con lui xuống đi, hôm nay là ngày đại hỷ, đừng nhắc mấy chuyện không vui này nữa.”

Thấy Trung Dung vẫn chần chừ không chịu lui, hai tên thị vệ bèn tiến lại kéo hắn xuống, nào ngờ hắn níu chặt lấy áo Tuấn Đế hỏi dồn: “Phụ vương mắc bệnh phải nhường ngôi cho Thiếu Hạo thật ư? Hôm nay tất cả huynh đệ chúng con đều có mặt ở đây, Người hãy chính miệng nói rõ với mọi người đi!”

Câu hỏi thẳng thừng mà sắc bén này của Trung Dung vừa thốt ra, cả đại điện tức thời lặng ngắt như tờ, nghe được cả tiếng cây kim rơi xuống đất. A Hành ngồi bên sợ cứng cả người, chỉ cần một lời của Tuấn Đế thôi, Thiếu Hạo sẽ trở thành tội nhân thiên cổ, mọi công lao đều đổ sông đổ biển hết.

Tuấn Đế nghiêm giọng hỏi: “Rốt cuộc kẻ nào ở sau lưng đâm bị thóc chọc bị gạo, đơm đặt chia rẽ cha con ta thế? Năm xưa tất cả danh y cung đình cùng thầy thuốc dân gian mà các con tiến cử đều đã thăm bệnh cho ta rồi kia mà, quả thực ta thân mang trọng bệnh, không thể xử lý quốc sự nên mới thoái vị nhường ngôi cho Thiếu Hạo, chẳng lẽ các con thấy mình tài giỏi hơn Thiếu Hạo ư?”

Nói rồi Tuấn Đế đưa mắt nhìn khắp lượt hai mươi mấy người con trai, nhìn đến đâu, họ quỳ rạp xuống đến đó.

Trung Dung hét lên: “Con không tin! Phụ vương, trong chuyện này nhất định có gì mờ ám, Người đã chính miệng nói với mẫu hậu rằng muốn truyền vương vị lại cho…”

Thiếu Hạo trừng mắt nhìn đám thị vệ, lập tức bọn chúng xúm vào giằng tay Trung Dung khỏi vạt áo Tuấn Đế, lôi ra ngoài điện, không để hắn kịp nói hết câu.

Tất cả mọi người trong điện đều nín thin thít, không một ai dám ho he, cả đại điện chỉ nghe thấy tiếng gào khóc của Trung Dung vẳng lại.

Thấy không khí căng thẳng, A Hành bèn quay sang dặn nhỏ Bán Hạ: “Mau bế Cửu Dao ra đây.”

Thị nữ bồng Cửu Dao tới trước mặt Tuấn Đế. Tuấn Đế cúi đầu ngắm cô bé thiêm thiếp ngủ hồi lâu, khẽ đưa tay vuốt ve gương mặt non tơ, ánh mắt đầy trìu mến. Mọi người xung quanh được thể liền xúm lấy nịnh nọt tâng bốc: “Trông vương cơ giống ông nội quá chừng!”

Tuấn Đế ngẩng lên bảo Thiếu Hạo: “Nhớ năm xưa cung nữ bế con tới trước mặt ta, chúc mừng ta vừa có một đứa con trai, ai nấy đều khen con giống ta như tạc. Càng lớn, con càng giỏi giang xuất sắc khiến người ta không thể không thương, ta yêu con đến nỗi chẳng biết phải làm sao cho đúng, muốn ôm con cũng sợ làm thương tổn đến con, vậy mà… Mọi chuyện cứ như vừa mới hôm qua, nào ngờ thời gian thấm thoắt bấy nhiêu năm, hết thảy đều thay đổi cả rồi!”

Mọi người nghe nói đều cười rộ lên tán thưởng, chỉ riêng A Hành lặng thinh không cười nổi.

Nói đến đó, Tuấn Đế lộ vẻ mệt mỏi, liền xua tay ra hiệu cho thị nữ ẵm lấy Cửu Dao rồi quay sang bảo đám tùy tùng: “Ta mệt, về Kỳ viên thôi.”

Mọi người đều quỳ xuống cung tiễn.

Thiếu Hạo nắm lấy tay A Hành đi theo tiễn Tuấn Đế ra tới ngoài điện, A Hành chăm chú nhìn Thiếu Hạo, lần này y nhất định muốn tổ chức sinh nhật cho Tiểu Yêu thật linh đình, không tiếc phô trương lãng phí, chắc hẳn là vì lý do này.

Ngày thứ ba, tất cả muôn dân thiên hạ sẽ tự tay thắp hoa đăng do họ tự làm rồi thả xuống sông, chúc phúc cho Đại vương cơ Cao Tân lớn lên bình an khỏe mạnh, mong sao cô bé sẽ đem lại hạnh phúc và hòa bình cho đất nước.

A Hành cũng tự làm một chiếc đèn hoa sen, gửi gắm tất cả nguyện vọng cầu cho con gái được bình an như ý.

Trời vừa sập tối, Thiếu Hạo và A Hành bước lên thành lâu trông xuống, thấy dân chúng đã tụ tập động nghịt dưới thành, háo hức đợi chiêm ngưỡng ngọn đèn vương phi làm cho vương cơ.

Thiếu Hạo tươi cười cao giọng nói: “Hôm nay ta cũng như tất cả mọi người ở đây, chỉ là một người cha hết lòng mong mỏi cho con mình lớn lên bình an hạnh phúc mà thôi, cảm ơn các người đã tới chúc phúc con gái của ta.”

Dân chúng Cao Tân rộ lên hoan hô như sấm.

A Hành nâng tràn hoa đăng kết bằng tơ băng trên tay, Thiếu Hạo nhanh nhẹn châm lửa, ngọn đèn mỗi lúc một sáng rực lên hệt một đóa sen xanh biếc lung linh giữa lòng bàn tay A Hành, soi tỏ một đôi người ngọc, khiến người ngoài trông thấy cứ ngỡ như cảnh tượng cõi tiên.

Thiếu Hạo cúi xuống bế Tiểu Yêu lên, bước xuống thành lâu, A Hành cũng bưng ngọn hoa đăng, theo sát bên cạnh y.

Xi Vưu đứng giữa đám người, ngẩng đầu nhìn lên thành lâu.

Đêm tối như mực, từ dưới trông lên khó mà nhìn rõ được ba người bọn họ, chỉ thấy một đóa sen xanh biếc nở rộ giữa không trung, tỏa ra ánh xanh nhàn nhạt, bóng dáng ba người nổi lên giữa tầng tầng lớp lớp rường cột trạm trổ, nam tử khôi ngô phóng khoáng, nữ tử thùy mị dịu dàng, lại thêm một cô bé nhỏ xíu cứ cựa quậy nghịch ngợm hoài trong lòng cha, một nhà ba người tràn đầy yêu thương đầm ấm.

Dân chúng Cao Tân ai nấy đều ngưỡng mộ dán mắt vào bọn họ, mãi tới khi ánh đèn xanh biếc xa dần xa dần, bóng ba người họ cũng khuất sau lầu quỳnh điện ngọc, bấy giờ đámg người đông nghịt dưới thành mới lục tục giải tán.

Chỉ còn lại mình Xi Vưu thẫn thờ đứng nguyên chỗ cũ, như không tin nổi vào mắt mình. Nhưng vừa rồi khi Thiếu Hạo châm lửa thắp đèn, hắn đã kịp trông thấy gương mặt A Hành ánh lên bao dịu dàng âu yếm.

Mãi tới hôm qua, Xi Vưu mới tỉnh lại. Vừa tỉnh giấc, hắn thấy mình đang bồng bềnh giữa Bắc Minh, trước mặt là cả một vòm trời xanh ngăn ngắt, tinh thần sảng khoái, năng lượng tràn trề từng đường gân thớ thịt, trong cái rủi có cái may, nhờ bị thương, thần lực của hắn lạ tiến thêm một bậc. Hắn chẳng rõ mình đã ngủ mất bao lâu, chỉ biết rằng trước khi thiếp đi, A Hành vẫn còn nắm chặt tay hắn, dịu dàng nhìn hắn chìm sâu vào giấc ngủ.

Nghĩ vậy, Xi Vưu chợt bật cười hạnh phúc, liền nhảy vọt lên lưng Tiêu Dao đắc ý ra lệnh: “Ta phải về nhà đây! Nhà của mày lớn thật nhưng chỉ có mỗi mình mày, nhà của ta tuy nhỏ, nhưng lại có A Hành!”

Dọc đường về, hắn thấy nơi nơi đều là trời cao biển rộng, sông núi reo vui.

Vừa trông thấy rừng đào đỏ rực Cửu Lê sơn, Xi Vưu bỗng thấy mắt cay lòng nóng, chẳng đợi Tiêu Dao kịp đỗ đã nhảy luôn xuống, xông thẳng vào rừng đào.

“A Hành, A Hành! Ta về rồi! Ta về rồi đây!”

Đáp lại hắn chỉ có căn nhà sàn vắng ngắt, mảnh trúc đứt đoạn cái ngắn cái dài, rèm sa đầy những phân chim, vườn rau um tùm cỏ dại, nếu chẳng thấy bờ đất đắp bằng đá xanh, e rằng không thể nhận ra đây là một mảnh vườn rau. Giậu trúc lưa thưa đã xiêu đổ quá nửa, mấy đóa tường vi đỏ thắm mọc tràn lan, lấp cả lối đi.

Chỉ còn chiếc chuông gió dưới mái hiên ngân lên từng tràng đinh đang thê thiết.

Xi Vưu thẫn thờ nhìn “căn nhà” trước mắt, lòng thắt lại vì hoang mang, không biết mình đã ngủ mất bao lâu? A Hành xảy ra chuyện gì rồi ư?

Hắn điên cuồng xộc vào rừng, chạy đến dưới cội đào, hoa nở đầy cành, rung rinh khoe sắc nhưng chẳng còn người ấy, chỉ còn một hàng chữ đỏ như máu:

“Giữa Thừa Ân điện tình quyến luyến, dưới cội hoa đào hẹn thành không, ly biệt từ đây, xin đừng nhung nhớ.”

Thừa Ân điện chính là nơi ở của Thiếu Hạo, cũng là cung điện hoa lệ nhất trên đời.

“Ta không tin!” Xi Vưu tung chưởng nhổ bật cả cội đào lên rồi nhảy lên lưng Tiêu Dao, bay thẳng tới Cao Tân.

Dọc đường hắn thấy nhà nhà đều chăng hoa kết đèn, nói cười rộn rã, xôn xao bàn tán về đại lễ sinh nhật long trọng của con gái Thiếu Hạo.

Xi Vưu nghe nói liền thở phào nhẹ nhõm, cho rằng Thiếu Hạo đã nạp thêm phi tần mới, bèn níu một người lại hỏi: “Thiếu Hạo cưới nữ tử tộc nào thế?”

“Là Hiên Viên tộc đó!” Người kia tròn mắt nhìn Xi Vưu như nhìn kẻ ngốc.

“Lại cưới một cô gái Hiên Viên tộc nữa ư?” Xi Vưu thấy lòng chùng hẳn xuống, lẽ nào A Hành xảy ra chuyện rồi sao… hắn chẳng lòng dạ nào nghĩ tiếp nữa.

Kẻ kia phì cười: “Ai chẳng biết Thiếu Hạo chỉ có một vị vương phi, chính là vương cơ Hiên Viên tộc đó thôi! Trưởng vương cơ là con gái hai người bọn họ!”

Lời này như sét đánh giữa trời quang, khiến Xi Vưu ngẩn người ra, lỗ tai lùng bùng cả lên. Dù bao nhiêu sự thực phơi bày trước mắt, hắn cũng nhất quyết không tin, chẳng phải A Hành đã tự tay bài trí căn nhà sàn đó, còn nói rằng đó là nhà của hai người đó sao?

Nhưng dưới thành lâu, hắn tận mắt trông thấy Thiếu Hạo và A Hành ẵm con gái nhỏ, tươi cười đón nhận muôn ngàn lời chúc phúc của lê dân bách tính. Niềm hạnh phúc của ba người bọn họ rành rành trước mắt, khiến hắn lần đầu tiên hiểu ra rằng, có những thứ, hắn vĩnh viễn không thể đem lại hạnh phúc cho A Hành được.

Có lẽ, vì lý do này mà nàng rời bỏ hắn.

Cao Tân nhiều hồ ao sông ngòi, đô thành cũng dựa theo dòng nước mà xây nên, phía Bắc thành đô chính là một con sông rộng mênh mông, Thiếu Hạo và A Hành bế Tiểu Yêu men theo thềm đá, xuống gần mép nước.

Thiếu Hạo đặt Tiểu Yêu xuống đất nhưng hai tay vẫn đỡ lấy Tiểu Yêu, sợ cô bé bất cẩn trượt chân ngã xuống sông. A Hành ngội thụp xuống thềm, đặt ngọn đèn hoa sen xuống mặt nước.

Thiếu Hạo dịu dàng: “Nàng cầu nguyện đi.”

A Hành nhắm nghiền mắt, thành tâm cầu nguyện cho con gái bình an hạnh phúc cả đời rồi mở mắt ra, “Thiếp cầu xong rồi.”

Thiếu Hạo chỉ ngọn hoa đăng, nựng nịu Tiểu Yêu: “Cha con ta cùng đẩy cho đèn trôi xa, được không nào?”

Tiểu Yêu rất thích cây đèn xanh biếc này nên chẳng nỡ đẩy đi, ngược lại còn giơ tay níu lại.

Thiếu Hạo tươi cười nắm lấy tay Tiểu Yêu, nhưng không nắm thật chặt mà cứ vờn đùa với cô bé để bé khỏi chạm tay vào ngọn lửa. Tiểu Yêu thích chí ré lên cười khanh khách, khiến A Hành cũng bật cười theo.

Thấy Tiểu Yêu đùa giỡn đã mệt, Thiếu Hạo bèn nắm lấy bàn tay bé bỏng của cô bé đẩy đẩy ngọn đèn, dỗ dành: “Tiểu Yêu ngoan nào, đẩy đi, lát nữa cho sẽ cho con cái khác đẹp hơn.”

Theo tay Thiếu Hạo và Tiểu Yêu, ngọn đèn lặng lẽ trôi xuôi dòng nước, xa dần xa dần…

Thiếu Hạo ẵm Tiểu Yêu đứng dậy, một nhà ba người đưa mắt nhìn theo ánh đèn xanh biếc càng trôi càng xa rồi nhập vào biển đèn lung linh, chẳng nhận ra đâu là ngọn đèn bọn họ vừa thả nữa, bấy giờ, cả ba mới quay người bước lên, nào ngờ vừa quay lại, họ liền trông thấy một nam tử hồng y khí vũ hiên ngang đứng lặng trên thềm tự lúc nào, chẳng biết hắn tới đây bằng cách gì, cũng chẳng rõ hắn đã đứng đó bao lâu.

Cảm nhận được linh lực mạnh mẽ tỏa ra từ đối phương, Thiếu Hạo vội ngưng tụ linh lực theo phản xạ, toan vung chưởng đánh lui kẻ tự tiện xâm nhập, cả người chợt run lên, hiểu ra ngay người đến là ai.

Y liền trao Tiểu Yêu cho A Hành rồi bước xuống thềm, dõi mắt ngắm muôn vàn ngọn đèn lung linh trên sóng.

Xi Vưu tiến lại gần, sắc mặt tái nhợt, hai mắt tối sầm lại, ngùn ngụt bi ai và phẫn nộ.

“Tại sao hả?” Hắn gắng nén cơn giận, cất giọng khản đặc, hệt như một dã thú bị thương.

A Hành ôm chặt lấy Tiểu Yêu, rưng rưng nước mắt, chẳng thốt được tiếng nào.

Tiểu Yêu chẳng hề sợ sệt, cứ giương tròn mắt nhìn Xi Vưu, giơ tay sờ vào người hắn.

Bàn tay măng tơ mềm mại khẽ chạm vào mặt Xi Vưu khiến lòng hắn xao động lạ thường, bèn nắm lấy tay Tiểu Yêu hỏi: “Đây có phải là con ta không?” Tuy biết dựa vào ngày sinh, cô bé khó có thể là con mình, nhưng hắn vẫn ôm ấp chút hy vọng mong manh.

Đột nhiên, trên không trung chợt bay vọt lên mấy quả cầu lửa muôn màu muôn sắc do hỏa linh kết tụ, nở bùng ra thành ngàn vạn đốm pháo hoa rực rỡ, hoa cúc vàng tươi, mẫu đơn đỏ thắm, mai trắng tinh khôi… Bỗng chốc khắp bầu trời tràn ngập ánh sáng lung linh huyền ảo.

Tiểu Yêu mừng rỡ chỉ tay lên trời, rối rít gọi Thiếu Hạo: “Cha, cha.”

Thiếu Hạo ngoảnh lại theo phản xạ, mỉm cười với cô bé.

Ánh pháo hoa rực rỡ soi tỏ mặt gương mặt của Tiểu Yêu, trông cô bé giống Thiếu Hạo đến bảy tám phần, thoạt nhìn đã biết là con y.

Tiểu Yêu với tay về phía Thiếu Hạo, luôn miệng gọi cha đòi bế.

Xi Vưu chợt thấy toàn thân run bần bật như vừa rơi xuống hố băng lạnh ngắt, ngọn lửa ngùn ngụt trong mắt vụt tắt ngấm, xung quanh xán lạn rực rỡ là thế, vậy mà hắn chỉ thấy một mảnh tối đen mờ mịt.

Tây Lăng Hành đã phản bội hắn, lừa gạt hắn!

Ánh mắt Xi Vưu bỗng trở nên lạnh lùng tàn khốc, hắn bắt đầu nổi sát tâm.

A Hành ôm chặt lấy Tiểu Yêu hốt hoảng lùi lại, nhưng Xi Vưu đã giật phăng cô bé ném cho Thiếu Hạo.

Thiếu Hạo thấy tình hình không ổn, toan xông lại ứng cứu, có điều linh lực của Xi Vưu đã tăng tiến vượt bậc, y đỡ được Tiểu Yêu thì chẳng kịp cứu A Hành nữa.

Xi Vưu và A Hành bị bao phủ trong màn đao gió, những lưỡi đao gió xoay vun vút quanh hai người, một con muỗi cũng không bay lọt, mấy ngọn đao đâm từ sau lưng A Hành nhằm thẳng vào tim nàng, đã cắm vào da thịt.

Cảm nhận được lưỡi đao đâm vào mình đau buốt, nét mặt A Hành chợt giãn ra đầy thanh thản như trút bỏ được mọi ràng buộc và gánh nặng, nàng chẳng hề kháng cự, chỉ đăm đăm nhìn Xi Vưu, nước mắt lăn dài trên mi.

Dường như những giọt lệ của nàng đã chạm đến cõi lòng mềm yếu nhất của Xi Vưu, trái tim hắn run lên vì kích động, linh khí không sao duy trì được nữa. Cuồng phong lặng tắt, chỉ còn tấm lưng A Hành đầm đìa máu tươi, nhỏ tong tong xuống đất.

Xi Vưu trân trân nhìn A Hành, lui lại từng bước từng bước một, cười thê thảm: “Cô biết rõ ta rất khó có thể tin tưởng ai đó kia mà! Ta coi Viêm Đế như cha đẻ, coi Du Võng như huynh đệ, vậy mà vẫn đề phòng họ, nhưng đối với cô…” Hắn điên cuồng đấm ngực như muốn đập vỡ trái tim mình, móc ra cho A Hành thấy, “Ta luôn đặt cô ở đây. Nếu cô đã định phản bội, sao không phản bội từ sớm đi? Sao phải đợi đến khi ta phá hủy mọi thứ phòng bị, để cô tiến thẳng vào nơi sâu thẳm nhất, mềm yếu nhất của ta thì lại giở mặt giày xéo ta? Dẫu kẻ khác chặt đầu lột da ta, ta cũng chẳng thấy gì đau đớn, nhưng cô… ta đau lắm, biết không?” Sắc mặt Xi Vưu tái ngắt, ánh mắt không rời A Hành như khẩn cầu, như van vỉ nàng khẳng định một lời, nói với hắn rằng nàng không phản bội hắn!

A Hành cắn môi không đáp, chỉ có thân mình khe khẽ run lên. Tiểu Yêu nào hay vừa rồi mẹ mình đã lượn một vòng qua cửa tử, cô bé thích thú ngắm trận cuồng phong của Xi Vưu, vỗ tay reo: “Cha, cha nhìn gió nhảy múa kìa, thúc thúc áo đỏ kia lợi hại quá nha!”

Giọng nói non nớt của Tiểu Yêu lọt vào tai Xi Vưu khiến hắn sững sờ như bị sét đánh, cả người run rẩy. Con gái của A Hành gọi hắn là thúc thúc!

Xi Vưu trừng trừng nhìn A Hành, nhưng cất tay lên mấy lần vẫn không sao ngưng tụ linh lực tấn công được, đành cười thảm lắc đầu, “Tây Lăng Hành, cô đã hẹn ước với ta, chưa được ta cho phép cô đừng mong rút lại lời thề!” Trong tiếng cười ha hả, hắn nhảy lên lưng Tiêu Dao bay thẳng.

Xi Vưu đi rồi, Thiếu Hạo thấy lòng bàn tay lạnh ngắt. Y đã nghe nói Xi Vưu tính khí thất thường, hung tàn xảo trá từ lâu nhưng lần này mới tận mắt chứng kiến bản tính cực đoan, quyết liệt của hắn. Hắn đối với A Hành chí tình chí nghĩa, bất cứ lúc nào cũng có thể bán mạng vì nàng, vậy mà chỉ trong nháy mắt, vì A Hành phản bội, hắn có thể xuống tay giết nàng bất cứ lúc nào.

Thấy A Hành đứng đờ người ra như mất hồn, Thiếu Hạo ngỡ nàng quá kinh hãi, bèn tiến lại vừa trị thương vừa an ủi nàng: “Tối nay ta sẽ bày trận pháp quanh nhà, chỉ cần Xi Vưu đến, chúng ta lập tức biết ngay thôi.”

A Hành chỉ một mực lắc đầu, thẫn thờ nhìn về phía Tiêu Dao khuất bóng, ánh mắt đầy lo âu. Bấy giờ Thiếu Hạo mới hiểu ra rằng không phải nàng sợ hãi, mà là đang lo lắng cho Xi Vưu.

Thiếu Hạo cùng A Hành lên đến thành lâu, y định đưa nàng về tận Thừa Ân cung, nhưng Tiểu Yêu thấy quang cảnh rực rỡ bên dưới cứ khóc ré lên không chịu về. Y đành sai thị nữ đưa A Hành về trước, để mình bế Tiểu Yêu đứng ngắm cảnh thêm lát nữa.

Từ thành lâu nhìn xuống, mặt sông bạt ngàn ánh đèn lung linh, mỗi lúc một thêm dày đặc, hệt như vô số ngôi sao lấp lánh.

Hai bên bờ sông đông nghịt người tới thả đèn và ngắm cảnh. Bầy con nít xách lồng đèn tung tăng đuổi bắt nhau, các cô gái cứ dăm ba cô tụ lại thành một nhóm, mượn ngọn đèn tự tay chế tác để khoe tài khoe giỏi, trong khi đám đàn ông thơ thẩn men theo bờ nước, vừa ngắm đèn vừa ngắm các thiếu nữ nhà bên, đông nhất là những gia đình đủ cả già trẻ trai gái, bưng đủ loại đủ kiểu hoa đăng, dắt díu nhau đến thả đèn.

Thiếu Hạo chăm chú ngắm cả dòng sông lung linh ánh đèn, đẹp như tranh vẽ dưới thành, ánh mắt mỗi lúc một lạnh dần, y từ từ đi đến chỗ hạ quyết tâm: Xi Vưu đã quay về, thời gian chẳng còn bao lâu nữa, y không thể cứ phân vân do dự mãi!

Về đến tẩm điện, A Hành cho tất cả thị nữ lui ra, chỉ để lại mình nàng thẫn thờ ngồi đó. Nàng sớm biết sẽ phải đối mặt với cơn thịnh nộ của Xi Vưu nên đã chuẩn bị hết mọi điều cần nói, nào ngờ vừa gặp hắn, nàng đã quên sạch.

Ngồi giữa căn phòng tối mịt nhưng cõi lòng A Hành còn tăm tối hơn, thậm chí vĩnh viễn chẳng thể sáng lên được nữa.

Chẳng biết đã ngồi như vậy bao lâu, đột nhiên, A Hành thoáng nghe thấy phía cuối trời vang lên tiếng đại bàng quang quác, giật thót mình, vội nhìn ra cửa sổ.

Bóng cây bên ngoài được ánh trăng trong như lọc hắt lên tấm rèm che màu tùng biếc ngoài song cửa, khẽ đu đưa theo gió. Chỉ lát sau đã thấy một bóng người từ xa bay đến, từ từ choán cả khung cửa, dáng dấp cao lớn khôi ngô, đầy mạnh mẽ tưởng như sắp phá cửa bay thẳng vào phòng, vậy mà hắn chỉ bi ai đứngbên ngoài, im lìm hệt một bức tranh.

A Hành đờ người vì căng thẳng, nàng không sao nhúc nhích nổi một ngón tay, nhưng hơi thở mỗi lúc một thêm gấp gáp. Hiển nhiên, người ngoài song cửa cũng đã nhận ra: “Cô tỉnh rồi à?” Là giọng Xi Vưu.

Thấy A Hành im lặng, hắn chậm rãi nói: “Không phải ta tới giết cô đâu.”

“Ngươi… vậy ngươi quay lại định làm gì?” A Hành cố lấy giọng lạnh lùng hỏi.

“Lúc ở dưới thành, trông thấy cô và Thiếu Hạo, cả… con gái hai người nữa, ta giận quá, không kiềm chế được. Vừa rồi bay đi, gió lạnh tấp vào mặt, ta mới bình tĩnh lại. A Hành, ta biết cô nhất định không phụ lời thề giữa hai chúng ta, chắc chắn cô có nỗi khổ bất đắc dĩ gì đó.”

“Chẳng lẽ sự thật rành rành trước mắt ngươi còn không thấy sao? Ta đã có con với Thiếu Hạo rồi.”

“Ta thấy cả rồi, dù cô có con với Thiếu Hạo cũng chẳng sao, ta biết cô làm vậy nhất định là vì nỗi khổ trong lòng. Mấy năm nay ta không ở bên cô, chắc hẳn đã xảy ra chuyện gì đó, muốn trách thì phải trách ta chẳng thể bầu bạn bên cô, không bảo vệ được cho cô. Có điều, giờ ta đã về rồi, có gì khó khăn, cô cứ để ta giải quyết.”

A Hành run bắn lên, nước mắt nhòa mi. Kẻ kiêu ngạo, đa nghi, hung tàn như Xi Vưu, lại có thể một lòng một dạ tin tưởng nàng, yêu thương nàng, trân trọng nàng đến thế này.

Đợi hồi lâu không thấy trong phòng có động tĩnh gì, Xi Vưu dịu giọng nói tiếp: “A Hành, có nỗi khổ gì nàng cứ nói ra đi, chúng ta nhất định sẽ tìm được cách giải quyết mà, lẽ nào nàng không tin tưởng năng lực của ta ư?”

A Hành trân trân dán mắt vào bóng dáng Xi Vưu in lên rèm cửa, ầng ậng nước mắt. Cách giải quyết duy nhất là cứu Đại ca nàng sống lại, nhưng trên đời làm gì có thuốc cải tử hoàn sinh kia chứ. Đâu phải gian nan nào cũng có thể đạp bằng như Xi Vưu tưởng, dù thần lực cao cường tới đâu chăng nữa, cũng chẳng cách nào hồi sinh người chết.

“A Hành?” Đợi mãi không thấy nàng trả lời, Xi Vưu giơ tay toan đẩy cửa sổ ra.

A Hành lập tức nhào đến chặn cửa sổ lại. Nàng không dám gặp hắn, bởi nàng sợ đối diện với đôi mắt hắn, tất cả dũng khí của nàng sẽ tan biến mất.

“Ta không muốn nhìn thấy ngươi nữa!”

“Nói dối! Nếu không muốn gặp ta, tại sao lúc nhìn thấy ta dưới thành lâu, nàng lại rưng rưng chực khóc? Nàng rơi nước mắt vì ai hả?”

A Hành xoay người lại, lấy lưng chèn cửa, ánh mắt trống rỗng nhìn vào bóng đêm thăm thẳm, rành rọt thốt lên từng câu từng chữ đã được chuẩn bị kỹ càng, “Lúc đó ta vừa hổ thẹn, vừa sợ hãi!”

“Hổ thẹn gì chứ?”

“Dù ta lấy Thiếu Hạo vì lý do gì, hiện giờ chúng ta đã có con, nước chảy đá mòn, ta dần dần cũng nảy sinh tình cảm với chàng, khó tránh hổ thẹn với ngươi, mọi chuyện đã hết cách cứu vãn được rồi.”

“Vậy nàng sợ cái gì?”

“Ta sợ làm tổn thương đến con bé. Giờ đây, con bé là người quan trọng nhất trong lòng ta, nếu ngươi muốn giúp đỡ ta, bảo vệ ta, xin ngươi hãy quên ta đi, đừng tới tìm ta nữa. Lỡ như người ngoài trông thấy, ta sẽ mất hết danh tiết, vạ lây cả đến con bé.”

Xi Vưu lặng thinh không nói, chỉ nghe thấy tiếng thở lúc dập dồn, khi từ tốn của hắn. Toàn thân A Hành như biến thành một tảng đá, ra sức chèn chặt cánh cửa, không dám nhúc nhích, tựa hồ không phải đang đóng cửa, mà là đang khép chặt trái tim mình.

Đột nhiên nghe vang lên một tiếng đại bàng kêu quang quác, tiếng thở ngoài song biến mất.

A Hành vẫn chèn chặt cánh cửa sổ, hồi lâu mới như sực tỉnh, vội quay phắt lại, ngơ ngẩn ngóng ra ngoài song, nhưng chỉ thấy bóng cây thấp thoáng, ánh trăng nhạt nhòa, đâu còn bóng người kia nữa. Nước mắt nàng giàn giụa tràn ra hai má.

Chương 11: Đập đàn hủy rượu, luống lẻ loi

“Ta xin lỗi!” Thiếu Hạo vòng tay ôm lấy nàng, vùi mặt vào mái tóc thướt tha, người không ngừng run bắn lên, y chẳng rõ mình đang an ủi nàng, hay đang tự tìm lấy chút an ủi cho chính bản thân mình nữa.

Mùa hạ ở Cao Tân oi bức vô cùng, Tiểu Yêu lại hiếu động sợ nóng nên A Hành hay dắt bé tới Y Thanh viên hóng mát.

Trong Y Thanh viên nuôi khá nhiều thủy cầm, mấy năm nay lơ là chăm sóc nên một vài con trở nên rất hung hăng dữ tợn. Tiểu Yêu tính tình liều lĩnh, cao không bằng hạc tiên vậy mà dám giơ tay bắt hạc tiên, bị nó mổ, Tiểu Yêu vừa khóc vừa túm chặt lấy cổ nó không buông.

A Hành thường cầm theo cuốn sách, ngồi một góc chăm chú đọc, mặc cho Tiểu Yêu nô đùa, dù bé vấp ngã hay bị chim chóc rượt đuổi, nàng cũng mặc kệ. Bởi thế Tiểu Yêu nói còn chưa sõi nhưng đã rất hiểu chuyện: vấp ngã thì tự đứng dậy, có gan trêu chọc chim chóc thì phải chấp nhận bị rượt, gặp chuyện gì cũng biết tự mình đối mặt.

Hai tay Tiểu Yêu chi chít sẹo do chim chóc mổ, bù lại, bé tự động học được cách đối phó, dần dà đã trở thành Tiểu Bá Vương trong Y Thanh viên, đám hạc tiên, uyên ương, cò vạc nhác thấy bé liền bỏ chạy, trong khi những giống ưng biển, diều hâu, đại bàng lại kết bạn với bé, cùng nhau nô giỡn.

Một hôm, A Hàng đang ngồi trên tảng đá bên bờ suối, ngắm nhìn Tiểu Yêu chơi đùa.

Đột nhiên nghe sau lưng vang lên tiếng bước chân, nàng giật mình ngoảnh đầu, thấy một bà lão đang rảo bước tiến lại, chẳng rõ là cung nhân ở điện nào.

Lão bà đến trước mặt nàng quỳ xuống dập đầu thưa: “Tuấn Đế muốn gặp vương phi.”

A Hành thoáng ngớ người rồi sực hiểu ra Tuấn Đế này không phải Thiếu Hạo, mà là Tuấn Đế tiền nhiệm sống trên đỉnh núi thứ năm. Biết Thiếu Hạo rất kỵ điều này, nàng trầm ngâm không nói, thấy vậy, bà lão càng dập đầu lia lịa, vật nài: “Bệ hạ chẳng được bao lâu nữa đâu.” Vừa dứt lời, nghe có tiếng chân người tiến lại, bà ta vội vã đứng dậy, thoắt cái đã lẩn vào cánh rừng rậm rạp.

Hai ả thị nữ hớt hải chạy đến, “Vừa nãy chúng nô tỳ hơi sơ ý, hình như đã để ai đó lẻn vào.”

A Hành cười: “Các ngươi hoa mắt đấy thôi, trong vườn thường có chim chóc lẩn khuất dưới bóng cây, mọi khi ta cũng hay trông nhầm là người lắm.”

Đuổi hai ả thị nữ đi rồi, A Hành bế xốc Tiểu Yêu đang bắt cá cùng chim ưng biển dậy, hỏi: “Mẹ con ta đi chơi với ông nhé, chịu không?”

Tiểu Yêu chẳng hiểu ông là thế nào, nhưng vẫn vui vẻ vỗ tay, “Ông, ông! Thích ông cơ!”

A Hành liền gọi Liệt Dương và A Tệ lại, cùng đến Kỳ viên trên đỉnh núi thứ năm.

Đỉnh núi thứ năm canh gác nghiêm ngặt, rất khó xâm nhập. A Hành đành giả truyền ý chỉ của Thiếu Hạo, lấy cớ “Tiểu Yêu cứ đòi gặp ông nội, bệ hạ bèn bảo ta ẵm nó đến đây thăm Người.” May sao người ngoài đều tưởng rằng vợ chồng bọn họ ân ái mặn nồng nên chẳng hề hoài nghi nàng, hơn nữa, họ cũng biết Thiếu Hạo hết lòng chiều chuộng con gái, bé đòi sao nhất định y không ban trăng.

Đám thị vệ có phần do dự: “Bệ hạ có chỉ, trừ Ngài ra không cho phép bất kỳ ai vào cả.”

A Hành gỡ mảnh ngọc giác đeo trên cổ Tiểu Yêu xuống, ném vào mặt tên thị vệ, thứ này hôm qua Tiểu Yêu giật được trên người Thiếu Hạo, thấy cô bé thích thú, y cũng mặc cho cô bé lấy đem đi chơi.

“Các ngươi nghi ngờ ta giả truyền thánh chỉ ư?”

Đám thị vệ hốt hoảng quỳ rạp cả xuống, Tiểu Yêu thấy A Hành vẫn chưa đi, liền sốt ruột ngúng nguẩy, hét lên đòi: “Ông, ông! Thích ông cơ!”

Các thị vệ đưa mắt nhìn nhau, lập tức tránh đường.

A Hành ẵm Tiểu Yêu bước vào Kỳ viên.

Trên đỉnh núi này có một dòng suối băng thiên nhiên gọi là Kỳ trì, Tuấn Đế đời nào đó đã cất một khu vườn dựa theo mạch suối ấy, cho người đào thêm mấy hồ nhỏ rồi dẫn nước từ suối băng chảy vào, đem bùn đất đào dưới hồ lên đắp thành một hòn đảo nhỏ, tạo nên một cảnh tượng lạ lùng: trên đảo có hồ, giữa hồ có đảo, bởi thế mà thành tên Kỳ viên.

Suốt dọc đường cây cao rợp bóng, bên hồ tha thướt tử đằng, thả bộ giữa những đình đài lầu gác, dị thảo phồn hoa, sóng nước dập dờn, cầu nhỏ hành lang thông nhau, quanh co ngoắt ngoéo cũng có một ý vị riêng. Đình đài lầu gác nơi đây đều có tên riêng, lấy cảnh làm tên, dùng tên tả cảnh. A Hành không khỏi cảm thán, muốn trở nên hùng mạnh có lẽ chỉ một đời là đủ, nhưng muốn phong thái thì phải tích lũy hết đời này sang đời khác mới thành, cứ so cung điện của Hiên Viên với Cao Tân thật chẳng khác nào so tay giàu xổi với môn đệ thư hương, hèn chi đám con nhà quyền quý chẳng rẻ rúng kẻ nghèo khổ bần hàn.

Tuấn Đế ở Hồng Liễu Lô, hai cung nữ già đang hầu hạ ông, thấy A Hành tiến lại vội lau nước mắt quỳ xuống. A Hành giao Tiểu Yêu cho hai người bọn họ, bảo họ dắt cô bé ra ngoài chơi.

Tuấn Đế đang thiêm thiếp trên sạp, hai má hóp lại, đầu tóc bạc phơ, già hơn hẳn lần gặp trước. Nghe A Hành khe khẽ gọi “Phụ vương”, ông mở mắt, gượng cười, “Con đến rồi ư? Xem ra vẫn còn người biết viết hai chữ ‘nghĩa tình’.”

Nhìn Tuấn Đế, A Hành hết sức băn khoăn. Theo lý mà nói, “thuốc độc” nàng chế ra đã tự hóa giải từ lâu rồi mới phải, sao thân thể ông lại càng ngày càng yếu thế này? Nàng vội quỳ xuống bên giường, cầm tay ông lên thăm bệnh, thúc đẩy linh lực vận hành hết một vòng trong người Tuấn Đế, nàng vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, thấy lòng trầm hẳn xuống, thì ra ông đã trúng thêm một loại độc khác, độc vào đến cao hoang, không thuốc nào trị nổi.

Trông sắc mặt nàng, Tuấn Đế chỉ cười bảo: “Ta biết mệnh mình chỉ còn trong sớm tối, nhưng cũng chẳng sao, dù gì lâu nay ta sống cũng không bằng chết.”

A Hành rưng rưng hai hàng nước mắt. Từ khi gả đến Cao Tân, Tuấn Đế vẫn luôn đối tốt với nàng, coi nàng là tri kỷ, nhưng nàng lại khiến ông từ một công tử hào hoa phong lưu nho nhã biến thành một lão già hấp hối gầy mòn tiều tụy thế này.

Tuấn Đế nói: “Gọi con tới vì có một chuyện ta vẫn canh cánh trong lòng, thực ra nhờ vả con chuyện này cũng không tiện lắm, nhưng Thiếu Hạo canh giữ quá nghiêm ngặt, nghĩ đi nghĩ lại chỉ mình con mới tới được đây thôi.”

“Phụ vương, chỉ cần con làm được, con nhất định sẽ gắng hết sức.”

“Chuyện đến nước này thì chẳng ai xoay chuyển nổi càn khôn nữa, tiếc rằng bọn Yến Long, Trung Long vẫn không chịu nhận ra. Lần trước Thiếu Hạo nhận lời với ta, chỉ cần ta tham dự sinh nhật của Dao Dao, nó sẽ tha mạng cho Yến Long, nhưng ta không tin nó được. Hiện giờ Thiếu Hạo còn giữ mạng bọn họ lại là để uy hiếp ta, sợ rằng một mai ta chết đi, nó sẽ xuống tay hại họ, con giúp ta cứu lấy hai mẹ con Yến Long được không?” Tuấn Đế run rẩy lần tay xuống gối mò mẫm. A Hành vội giúp ông rút một vuông vải trắng xé từ áo cánh ra, bên trên chi chít chữ viết bằng máu.

“Con giao thư này cho Yến Long.”

Tuấn Đế lại loay hoay tháo chiếc nhẫn ngọc tên tay ra, đặt vào tay A Hành. Nhẫn ngọc liền biến thành một chiếc hộp thủy ngọc, bên trong đặt một bàn tay đứt, nhờ có Quy khư thủy ngọc bảo hộ, lại được sinh khí của Tuấn Đế bù trì nên vẫn còn tươi nguyên như vừa mới rời thân thể.

Tuấn Đế giải thích: “Đây là tay của Yến Long, từ nhỏ nó coi đàn như tính mệnh, nghề đàn quán tuyệt thiên hạ, vậy mà bị đứt mất bàn tay, không thể gảy đàn được nữa. Ta vẫn luôn ăn năn vì chuyện đó, bèn tìm danh y khắp nơi giúp nó nối lại bàn tay.”

“Phụ vương, con biết y thuật, có thể nối bàn tay lại cho Yến Long mà.”

“Khỏi cần, con chỉ cần đưa mấy thứ này cho Yến Long là được, trong thư ta đã dặn Yến Long đích thân dâng bàn tay ấy lên Thiếu Hạo rồi.”

Hiểu ra nguyên do bên trong, A Hành không ngăn nổi lệ rơi lã chã.

Tuấn Đế lại nói: “Con nhắn lại với Thiếu Hạo rằng, nó không phải một đứa con ngoan, cũng không phải một huynh trưởng tử tế, chỉ mong nó có thể làm một vị vua tốt.”

Hơi thở của Tuấn Đế chợt dồn dập hẳn lên, nhận ra ông đang tự tán linh lực, A Hành vội kêu to: “Phụ vương, Người đừng như thế mà!”

Tuấn Đế dùng sức siết chặt lấy tay nàng: “Thiếu Hạo có gan hạ độc nhưng lại không có gan tới gặp ta lần cuối, con đã là vợ nó, tội của nó, con cũng phải gánh một nửa, đành phiền con tiễn ta một chặng cuối cùng.”

Linh thể của ông bắt đầu tiêu tán, thân mình không ngừng run bắn lên vì đau đớn, thân thể A Hành cũng run lên theo, nàng phải chịu lấy tất cả đau đớn từ Tuấn Đế, muốn rút tay ra mà không sao rút được, “Phụ vương, con xin Người, Người đừng như vậy mà!”

Hai mắt Tuấn Đế càng lúc càng trợn ngược, gương mặt méo mó đáng sợ, bàn tay càng lúc càng siết chặt A Hành, như muốn cấu vào thịt nàng, để nàng mãi mãi ghi khắc nỗi đau đớn mà ông phải chịu đựng khi hấp hối.

A Hành phải trơ mắt nhìn ông vật vã lìa trần mà chẳng thể làm gì được, chỉ biết gào khóc gọi “phụ vương”.

Sự sống dần dần rời khỏi ông, những đau đớn cũng từ từ giảm xuống, bàn tay Tuấn Đế trượt xuống khỏi cổ tay nàng, bấy giờ nàng lại cuống quýt nắm chặt lấy tay ông, như muốn níu giữ chút hơi tàn sau cuối.

Cặp mắt Tuấn Đế dần ảm đạm, đầu ngật ra gối, vừa khéo đối diện với song cửa.

Tuấn Đế đờ đẫn nhìn ra bên ngoài, khóe miệng hơi hé nụ cười, bờ môi tái ngắt khẽ mấp máy, tựa hồ muốn nói gì đó.

A Hành vội ghé tai lại lắng nghe.

“Mỹ nhân đào, mỹ nhân…”

A Hành ngơ ngác, “Phụ vương, người muốn gặp mỹ nhân nào cơ?”

Tuần Đế mỉm cười, vẻ mặt thanh thản, thở hắt ra một hơi cuối cùng, đáy mắt vẫn in bóng cây đào rợp hoa ngoài song cửa.

“Phụ vương, phụ vương…”

Vị quân vương phong lưu nho nhã nhất đại hoang, một trong Tam đại đế vương, đàn sáo sênh ca dưới bóng hoa giữa buổi hoàng hôn, mặc tình phóng túng trên hồ biếc khói mờ, người đẹp quây quần, con cái hàng đàn, vậy mà cuối cùng lại bị giam lỏng trong một khu vườn, cô độc chết đi giữa giường lạnh chăn đơn.

A Hành phủ phục bên giường, khóc lóc thảm thiết. Tuy chẳng phải nàng giết hại Tuấn Đế, nhưng thảm kịch ngày nay lẽ nào nàng không góp phần?

Thiếu Hạo phát hiện A Hành giả truyền ý chỉ, tự tiện lẻn vào Kỳ viên, lập tức bỏ hết mọi việc, phăng phăng đi thẳng đến đó, lòng đầy tức giận. Vừa bước lên cầu, nghe thấy tiếng khóc nức nở của nàng, y bỗng ngừng phắt lại, sững sờ nhìn về phía Hồng Liễu Lô thấp thoáng sau giàn tử đằng tím ngắt.

Trước Hồng Liễu Lô lăn tăn sóng biếc, bạt ngàn hoa liễu[1] đỏ rực như lửa, một cơn gió nổi thổi tung muôn vàn cánh hoa đỏ bay cả vào màn, chim quyên đầu cành vẫn da diết từng tràng “không khổ, không khổ” như đang kêu ra máu tiễn biệt bậc quân vương.

[1] Liễu ở đây không phải cây dương liễu, mà là một loại cây lá kim, hoa nhỏ li ti, có màu trắng hoặc đỏ, sinh trưởng bên bờ nước hoặc ngay dưới nước. (ND)

Thiếu Hạo nắm chặt lấy trụ cầu chạm trổ, gân xanh nổi đầy tay, mắt loáng ánh lệ.

Dưới cầu nước chảy lững lờ, mặt nước lăn tăn phản chiếu bóng người áo trắng, ngũ quan đoan chính, mày mắt vì bi thương đã chẳng còn uy thế trang nghiêm của núi non, lại thêm vài phần ôn hòa như nước, thoạt trông giống hệt người đó, tựa hồ ông đang đứng ngay trước mặt, Thiếu Hạo giật thót mình, luống cuống che mắt, chẳng dám nhìn nữa.

Không kiềm chế nổi, nước mắt đã thấm qua kẽ tay.

Tiếng quyên vẫn diết da, da diết: “Không khổ, không khổ.”

A Hành thẫn thờ như một u hồn bước ra khỏi phòng, bắt gặp Thiếu Hạo đang đứng lặng trước cửa.

“Chàng đã ưng thuận với thiếp những gì? Người là cha ruột của chàng kia mà! Yến Long năm lần bảy lượt hãm hại chàng, lần nào cũng là tội chết, nhưng Người chưa bao giờ có ý xuống tay giết chàng!” A Hành phẫn nộ vung tay lên, Thiếu Hạo cũng chẳng hề né tránh, bốp một tiếng, nhận ngay cái tát.

A Hành nước mắt như mưa, giơ hai tay lên hỏi dồn Thiếu Hạo, “Sao chàng lại khiến thiếp trở thành hung thủ? Chàng có biết phụ vương đã bóp chặt tay thiếp, để thiếp cảm nhận cái chết của ông không? Ông muốn trừng phạt thiếp…” Trên cổ tay nàng hằn rõ hai dấu tay tím bầm, ăn sâu vào da thịt.

“Ta xin lỗi!” Thiếu Hạo vòng tay ôm lấy nàng, vùi mặt vào mái tóc thướt tha, người không ngừng run bắn lên, y chẳng rõ mình đang an ủi nàng, hay đang tự tìm lấy chút an ủi cho chính bản thân mình nữa.

A Hành vùng vẫy đẩy y ra, khóc không thành tiếng, “Rốt cuộc là vì sao hả? Chàng đã giam lỏng phụ vương, cướp đoạt tất cả của Người, sao còn phải hạ độc giết ông?”

Thiếu Hạo làm thinh không đáp.

Y từng ngây thơ nghĩ rằng chỉ cần giam lỏng phụ vương là sẽ kết thúc được mọi chuyện, tiếc rằng không phải. Cải cách mà y đang tiến hành sẽ đập tan vô số lợi ích của đám vương công quý tộc, hễ phụ vương còn sống ngày nào, bọn quý tộc đó còn lăm le bàn mưu tính kế ủng hộ phụ vương quay về khôi phục lại vương vị ngày đó. Bất luận thế nào, bọn Trung Dung cũng sẽ không nhượng bộ, trước giờ chúng vẫn luôn từng bước bức bách, mưu mô lật đổ y. Nếu chúng khôi phục lại được vương vị của phụ vương, y sẽ trở thành loạn thần tặc tử, cướp đoạt ngai vàng, bị loạn đao phân thây. Một nước không thể có hai vua, không sống thì là chết, y còn đường nào khác nữa đâu?

Thanh Dương nói đúng, con đường này đã bước lên thì chẳng thể quay lui, chỉ còn cách bước thẳng đến cuối đường. Thanh Dương đã nhận ra từ sớm nên không chịu bước lên, còn y…

Nhưng, dù có biện hộ bằng bao nhiêu lý do bất đắc dĩ thì y cũng đã đầu độc phụ vương! Hành động của y rất đáng bị người thân oán hận, miệng đời phỉ nhổ.

Thiếu Hạo càng lúc càng ưỡn thẳng mình, vẻ mặt cũng mỗi lúc một lạnh băng.

A Hành nhìn Thiếu Hạo, sợ sệt lui dần từng bước, như nhìn thấy một kẻ hoàn toàn xa lạ.

Thấy vẻ mặt và hành động của nàng, lòng y thắt lại, đau đớn tưởng chừng nghẹt thở. Vậy mà nét mặt y lại càng lúc càng bình thản, khóe môi mím chặt, không nói một lời.

Hai cung nữ già đã dắt Tiểu Yêu quay lại tự bao giờ, bọn họ quỳ mọp dưới đất, đầu dán sát xuống nền, âm thầm rơi nước mắt.

Tiểu Yêu đứng bên, tay cầm một cành đào đỏ thắm, ngơ ngác nhìn cha mẹ: “Cha, mẹ?”

Bên cầu có trồng một gốc đào, có lẽ vì khí hậu nơi này khá đặc biệt nên gốc đào vẫn còn trổ hoa, những đóa đào cánh kép đỏ rực trĩu cành.

A Hành chợt thẫn thờ tiến lại phía cội đào, mặc Tiểu Yêu réo gọi, nàng cũng chẳng hề phản ứng.

Đứng dưới gốc cây, nàng ngước lên ngắm hoa đào nở rực cành, lại ngoảnh trông về phía phòng Tuấn Đế, vừa khéo nhìn xuyên được qua cửa sổ, thấy gương mặt ông vẫn giữ nguyên nụ cười an lành, ánh mắt nhắm nghiền như thể đang ngắm hoa thì mơ màng thiếp ngủ. Nàng cười mà nước mắt rưng rưng, “Thì ra gốc đào này gọi là mỹ nhân đào.”

Thấy Thiếu Hạo ngỡ ngàng không hiểu, nàng liền giải thích: “Chàng còn nhớ không? Lần đó phụ vương triệu thiếp vào Thừa Ân cung ngắm hoa, đang định giảng giải cho thiếp nghe về gốc đào hiếm có này thì chàng đột ngột xông vào cắt ngang câu chuyện, người cười gọi chàng lại cùng thưởng hoa, còn kể rằng hồi chàng nhỏ xíu, ông đã nói cho chàng biết tên loại đào này, nhưng chàng bỏ ngoài tai tất cả, chỉ một mực đòi ông hạ chỉ giam cầm Yến Long… Từ khi bị giam lỏng ở đây, phụ vương chỉ sợ không thể thật sự thưởng ngoạn cội đào này nữa, vừa rồi ngài mới tiết lộ cho thiếp biết, giống đào này tên gọi mỹ nhân đào.”

Thiếu Hạo ngước mắt ngắm gốc mỹ nhân đào, chỉ thấy hoa nở đầy cành, cười ngạo trong gió. Y làm sao quên được cái tên mỹ nhân đào, năm y lên năm tuổi, phụ vương họa một bức tranh đào hoa mỹ nhân, mỹ nhân là mẹ ruột y, hoa đào chính là mỹ nhân đào, phụ vương còn cầm tay y viết một bài thơ tưởng nhớ mẫu thân lên bức họa.

A Hành thì thầm yếu ớt: “Phụ vương đã tha thứ cho chàng rồi.”

Tuấn Đế vốn rất căm hận Thiếu Hạo hạ độc giết mình, đến nỗi còn bắt vương phi của y phải nếm trải nỗi đau đớn lúc lâm chung cùng mình để trừng phạt, nhưng trong khoảnh khắc trước khi lìa trần, qua cửa sổ, ông chợt trông thấy cả cây đào nở đầy hoa rực rỡ. Phút giây ấy, ông đã buông bỏ hết thảy, mỉm cười tiết lộ với A Hành: “Đó là mỹ nhân đào.” Trong khoảnh khắc cuối cùng, điều duy nhất mà ông đinh ninh mãi chẳng quên không phải là vương vị, cũng không phải hận thù, mà là tất cả những gì tốt đẹp ông từng có trong đời. Hẳn Tuấn Đế đã quên hết những mâu thuẫn giữa cha con, chỉ còn nhớ cái ngày ông bồng Thiếu Hạo, hai cha con vừa cười đùa vừa ngắm hoa đào.

Thiếu Hạo trân trân nhìn những đóa hoa đào nở đầy cành, sắc mặt tái ngắt, toàn thân run bắn, đột nhiên y quay phắt người lao vào phòng, khuỵu xuống trước giường Tuấn Đế, gục đầu lên cánh tay ông, mãi một lúc lâu mới loáng thoáng nghe thấy tiếng khóc tấm tức khẽ đến không thể nghe nổi.

A Hành cúi xuống bế xốc Tiểu Yêu lên, vừa khóc vừa chạy đi. Tiểu Yêu giơ tay lau nước mắt cho mẹ, bắt chước mẹ nói giọng dỗ dành, “Mẹ, mẹ ngoan nào, đừng khóc!”

Chim quyên trên cành đào nghiêng đầu nhìn Thiếu Hạo quỳ sụp trước giường, da diết kêu thương: “Không khổ, không khổ…”

Nếu đời không có khổ đau, có lẽ sẽ chẳng phải rơi nước mắt, nhưng phàm là người ai cũng có thất tình lục dục, thất tình lục dục đều là khổ, mà nỗi khổ đau nhất trong những khổ đau chính là yêu không được, hận cũng không đành.

Ngay đêm đó, A Hành lẻn và địa lao dưới Ngũ Thần sơn.

Địa lao này xây bằng long cốt, lại được thêm linh khí của Ngũ Thần sơn, chuyên dùng giam nhốt những kẻ có linh lực trong Thần tộc và Yêu tộc. Toàn bộ địa lao có ba tầng, phạm nhân càng ở tầng dưới thì linh lực càng cao, thế nên cũng chẳng mấy ai đủ tư cách để bị giam ở tầng thứ ba.

A Hành nhìn quanh, thấy bốn bề rờn rợn âm khí, chẳng biết Yến Long bị giam ở đâu.

Chợt loáng thoáng nghe thấy tiếng nhạc đứt quãng, nàng vội đi theo âm thanh đó, càng đi tiếng nhạc càng rõ dần lên. Chẳng biết là khúc nhạc gì, mà nghe êm tai khôn xiết.

A Hành khẽ khàng tiến lại, trông thấy Yến Long đầu bù tóc rối ngồi bệt dưới đất, trước mặt bày một hàng những chén bể bát vỡ, cái to cái nhỏ, bàn tay còn lại đang cầm một miếng ngọc bội gõ lên đám bát vỡ. Những chén bát này cái to cái nhỏ, âm thanh phát ra cũng khi bổng khi trầm, hợp lại thành một khúc nhạc.

Nàng dừng chân lặng lắng tai nghe, nhớ lại mấy trăm năm trước, dưới gốc đa, cạnh bụi dâm bụt, Yến Long áo gấm đai vàng, thần thái phiêu dật, đi đứng thong dong, để cầu một lời hứa của Tây Lăng công tử, hắn chẳng nề hạ mình, bỏ cả tôn nghiêm vương tử, mặc ý cho nàng sai khiến.

Yến Long xuất thân cao quý, dung mạo hơn người, từ nhỏ lại cần cù học tập, thông minh xuất chúng, còn trẻ mà đã sáng chế ra Âm Tập chi thuật vang danh thiên hạ, trong lúc cười nói chuyện trò, chỉ một khúc đàn mà tiêu diệt được thiên quân vạn mã. Chắc hẳn hắn cũng từng mong được tung cánh bay cao nơi bệ vàng thềm ngọc, ấp lục ôm hồng thúc ngựa phi nhanh, lông trĩ áo cừu chỉ điểm giang sơn. Chỉ tiếc rằng, đã sinh ra Yến Long, sao còn sinh ra Thiếu Hạo? Ngai vàng chỉ có chỗ cho một người duy nhất, thắng làm vua thua thì làm giặc mà thôi.

Yến Long tấu xong khúc nhạc mới ngẩng lên nhìn người đến, chẳng nói năng gì, chỉ ngồi tựa vào tường, mỉm cười nhìn A Hành.

A Hành bước đến trước cửa ngục, chợt thấy miệng khô khốc, nói không nên lời.

Yến Long châm chọc: “Nửa đêm vương phi lặn lội đến tận đây chỉ để chiêm ngưỡng bộ dạng thảm hại của ta thôi ư?”

A Hành trao cho hắn chiếc nhẫn ngọc có chứa bàn tay đứt cùng bức thư ghi trên lụa trắng của Tuấn Đế. Yến Long ghé sát vào ánh lân tinh lập lòe trong nhà lao, đọc lướt qua bức thư rồi thẫn thờ lần tay lên những nét chữ viết bằng máu trên mặt lụa, âm thầm rơi nước mắt.

“Phụ vương đi lúc nào?”

“Chiều nay.”

Hai tay Yến Long nắm chặt vuông lụa, gục đầu vào đó, chẳng trông rõ được vẻ mặt, chỉ thấy toàn thân hắn run lên bần bật.

Một lúc lâu sau, hắn ngẩng lên hỏi: “Người đi có bình yên chăng?”

A Hành thoáng nghĩ ngợi rồi đáp: “Ngoài cửa sổ phòng phụ vương có một cây đào đang trổ hoa, câu nói cuối cùng của người trước lúc ra đi là: ‘Đó là mỹ nhân đào.’”

Yến Long cười khẽ: “Phụ vương vẫn vậy, hồi nhỏ, các sư phụ ra sức đốc thúc ta chăm chỉ học hành, chỉ hận không thể bắt ta học thâu đêm suốt sáng, vậy mà phụ vương lại lén dắt ta ra vườn đi dạo, dạy ta phân biệt các loại cá vàng khác nhau. Có hoa nở đầy cành đưa tiễn, hẳn Người ra đi cũng không đến nỗi quá đau đớn.”

A Hành thấy khóe mắt cay cay, “Ta phải đi đây, ngươi có cần gì không?”

Yến Long mấp máy môi, nhưng rồi chỉ lắc đầu, không nói một lời. Bàn tay hắn vô thức máy động, nhìn kỹ đều là những động tác gảy đàn. Kẻ nghiện rượu không thể thiếu rượu một ngày, Yến Long là kẻ mê nhạc, hàng ngày không thể rời đám nhạc cụ, nhưng nhạc khí trong tay Yến Long lại là thần binh lợi khí, đương lúc một bàn tay Yến Long còn chưa biết ở đâu, Thiếu Hạo sao có thể để hắn chạm vào nhạc cụ được.

A Hành vừa ra khỏi địa lao chưa được mấy bước đã thấy Thiếu Hạo đứng dưới trời sao, gió thổi vạt áo trắng bay phần phật.

Thấy sự việc đã bại lộ, A Hành liền gỡ luôn khăn che mặt ra: “Chàng cũng phải có lúc đoán sai chứ hả?”

Thiếu Hạo bình thản đáp: “Không phải ta tính toán chu toàn, mà là nàng đã quá sơ suất. Địa lao dưới Ngũ Thần sơn được xây dựng từ thời Bàn Cổ Đại Đế, trải qua bảy đời Tuấn Đế không ngừng gia cố, nơi này còn nghiêm mật hơn cả hoàng cung, nếu không phải ta cố ý để nàng vào, nàng làm sao vào được?”

A Hành cảnh giác hỏi: “Chàng muốn thế nào đây?”

Nhìn thái độ A Hành, Thiếu Hạo chợt thấy lòng đau nhói, nhưng y vẫn giữ vẻ thản nhiên, ra lệnh cho đám người phía sau A Hành: “Đưa những nhạc cụ tốt nhất trong cung vào phòng giam để Yến Long lựa chọn.”

“Vâng!” Mấy kẻ nấp trong bóng tối vội hành lễ với Thiếu Hạo.

A Hành liếc Thiếu Hạo, chẳng nói chẳng rằng, lướt qua người y đi thẳng lên núi, bỏ lại Thiếu Hạo một mình đứng lặng, hồi lâu không động đậy.

Thị vệ bưng đến một chiếc hộp thủy ngọc: “Tội thần Yến Long tâu rằng mình cam lòng nhận tội, nhờ dâng chiếc hộp này lên bệ hạ.”

Thiếu Hạo tiện tay cầm ngay lấy, chẳng buồn nhìn, gọi Huyền điểu lại rồi bay thẳng đến Quy khư.

Thanh Dương vẫn lặng lẽ nằm trong quan tài băng. Thiếu Hạo ngồi xuống bên áo quan, mở hộp ra, trông thấy bên trong là bàn tay đứt của Yến Long, y không nén được phá lên cười. Phụ vương của y vốn không tin y, còn nghĩ ra cách này để chứng minh Yến Long không có ý kình chống lại y nữa, xin y tha mạng cho Yến Long.

Thiếu Hạo vừa cười thảm thiết, vừa quăng cả bàn tay đứt lẫn hộp ngọc đi rồi bưng vò rượu bảo Thanh Dương: “Uống với ta nhé, hôm nay hai ta không say không về!” Mọi điều Thanh Dương nói đều đúng cả, từ khi hạ quyết tâm bức cha thoái vị, y đã định sẵn sẽ bị người người xa lánh, từ nay về sau, cũng chỉ có Thanh Dương dám uống rượu cùng y, nghe y trò chuyện mà thôi.

Uống rượu một mình rất dễ say, chẳng bao lâu Thiếu Hạo đã ngà ngà say, mơ màng hỏi Thanh Dương: “Ngươi muốn nghe ta đàn không?”

Thanh Dương lặng thinh không đáp.

Thiếu Hạo so dây gảy một khúc dân ca Cao Tân, người ở Cao Tân ai cũng biết hát. Gảy mãi gảy mãi, toàn thân y chợt co rúm lại, gập người nôn ọe, như muốn nôn cả lục phủ ngũ tạng ra ngoài. Thiếu Hạo cười phá lên, vỗ vào áo quan: “Thanh Dương, đây là khúc nhạc đầu tiên phụ vương dạy ta đàn, hồi đó ta vừa mới bi bô học nói, ông đã cầm tay dạy ta đánh đàn, còn nói rằng người quân tử có cây đàn làm bạn thì vĩnh viễn chẳng bao giờ phải tịch mịch… Ha ha… Ta đã giết chết cha ruột, người dạy ta đánh đàn, mà còn mong mượn tiếng đàn bầu bạn để xua tan cô độc ư… Ha ha ha… Trên đời còn kẻ nào vô liêm sỉ hơn ta không chứ?”

Thiếu Hạo vung tay đập xuống, tuyệt đại danh cầm lập tức gãy đôi, y thả cả cây đàn chìm xuống Quy khư, người dạy y đánh đàn đã bị y chính tay hại chết, y còn mặt mũi nào đánh đàn nữa đây?

Thiếu Hạo say khướt nằm vật cạnh quan tài, bưng vò rượu nốc ừng ực, chỉ trong nháy mắt, cả vò rượu đã cạn sạch. Y cười: “Thanh Dương, ngươi cũng uống đi!” Thấy Thanh Dương say giấc, chẳng hề động đậy, Thiếu Hạo liền nổi giận, “Ngay cả ngươi cũng sợ ta, không dám uống rượu ta cất sao? Ta đâu có hạ độc vào rượu!” Nói rồi y mở nắp quan tài, bưng vò rượu cố dốc vào miệng Thanh Dương, rượu đổ ra ướt đẫm hai má Thanh Dương, làm mờ cả gương mặt y.

Đột nhiên, Thiếu Hạo giật nảy mình, vò rượu đang giơ lên nửa chừng khựng lại. Nhìn những vò rượu la liệt dưới đất, y chợt lạnh cả người. Tất cả ở đây đều là rượu do y cất, có những vò đã niêm phong đem cất từ hơn ngàn năm trước, Thanh Dương nài nỉ mấy lần mới được y tặng cho một vò. Y có thể gạt người khác rằng Thanh Dương còn sống, nhưng không thể gạt chính bản thân mình được, trên đời này, đã chẳng còn kẻ biết phẩm bình rượu y cất, cùng y chuốc chén say mèm nữa rồi.

Rượu không người uống, y còn cất để cho ai?

Thiếu Hạo vừa loạng choạng bước đi vừa vung tay lên, lần lượt đập vỡ từng vò từng vò rượu, chẳng bao lâu, trên mặt đất đã chẳng còn một vò rượu nào nữa.

Đã không còn ai uống rượu y cất, từ nay trở đi, y sẽ không bao giờ cất rượu nữa.

Mấy ngày sau, Thiếu Hạo thông báo toàn dân thiên hạ rằng Tuấn Đế đời thứ bảy đã qua đời vì bệnh, cả Cao Tân quốc để tang.

Tin truyền đến địa lao dưới Ngũ Thần sơn, Tuấn Hậu đã bị phế truất nhân một đêm mưa gió bão bùng bèn dẫn lửa trời xuống, tự thiêu rụi linh thể mà chết.

Thiếu Hạo xuống chiếu khôi phục lại phong hiệu cho Tuấn Hậu, cho phép đưa vào vương lăng, táng bên mộ Tuấn Đế cùng vị Tuấn Hậu đầu tiên đã qua đời từ lâu, kẻ bên trái người bên phải bầu bạn với Tuấn Đế.

Hôm phát tang, Thiếu Hạo cũng thả Yến Long bị giam dưới Ngũ Thần sơn ra. Yến Long khóc ngất trước quan tài Tuấn Đế và Tuấn Hậu, năm người bọn Trung Dung cũng khóc gào thảm thiết, tưởng chừng không đi nổi.

Từ đầu đến cuối, Thiếu Hạo vẫn giữ vẻ mặt thản nhiên, chẳng hề lộ vẻ buồn bã, như thể kẻ được chôn cất đây không phải cha y vậy.

Trung Dung cao giọng chỉ trích y bất hiếu trước mặt mọi người, Thiếu Hạo cũng làm thinh không đáp, chỉ lạnh lùng trừng mắt nhìn hắn rồi quay người đi.

Tuy không để lộ vẻ buồn thương nhưng thân thể Thiếu Hạo lại phản ánh rõ rệt nội tâm, người y chẳng mấy chốc mà xọp hẳn đi, vương bào mới đây còn vừa vặn, giờ khoác lên đã thấy rộng thùnh thình.

Trong mắt quần thần và dân chúng, Thiếu Hạo luôn là bậc quân tử khiêm tốn ôn hòa như ngọc, nhưng dần dà, bọn họ nhận ra y đã thay đổi, tựa hồ cùng với sự gầy mòn của thân thể, bản tính ôn hòa ấm áp của y cũng biến mất luôn.

Y càng lúc càng kiệm lời, hành động cũng mỗi lúc một thêm tàn khốc. Sau một trăm ngày Tuấn Đế, Thiếu Hạo liền lột bỏ tước vị của Trung Dung, biếm y ra một hòn đảo chơ vơ ngoài biển, tuy phong cảnh đẹp như tranh nhưng bốn bề đều là đại dương mênh mông, cách xa đất liền, cũng xem như một hình thức giam lỏng vậy. Yến Long bị phế làm dân thường, lột bỏ Thần tịch, mấy vị vương tử khác cũng kẻ bị biếm người bị đày. Đám võ tướng tích cực xúi giục Trung Dung làm phản đều đem ra lăng trì xử tử. Các triều thần dám mở miệng cầu xin cho họ cũng bị phạt nặng.

Chẳnh một ai dám kề vai sát cánh cùng Thiếu Hạo, chẳng một ai dám nhìn thẳng vào mắt y khi nói chuyện, chẳng một ai dám chất vấn mệnh lệnh y ban, cũng chẳng một ai dám lén lút hội họp bàn mưu lật đổ y nữa.

Thiếu Hạo không còn rèn sắt, cất rượu, cũng thôi hẳn gảy đàn, y không ham nữ sắc, chẳng mê ca múa, càng chẳng thích rong chơi, tựa hồ không có bất cứ thú tiêu khiển nào, suốt ngày chỉ vùi đầu vào công việc. Cách thư giãn duy nhất của y là mỗ khi mệt nhoài lại một mình cưỡi Huyền điểu bay đi ngắm đèn lửa vạn nhà trên khắp Cao Tân, chẳng ai hiểu y lấy đâu ra sở thích quái lạ này.

Dần dà mọi người cũng quên mất Thiếu Hạo ngày cũ ra sao, chỉ nhớ được một Thiếu Hạo kiệm lời ít nói, ánh mắt lạnh băng, vẻ mặt âm trầm, thân thể gầy đét mà ngạo nghễ khắc nghiệt như núi cao vạn trượng, khiến ai nấy đều khiếp sợ từ tận đáy lòng.

 Chương 12: Thế gian khó vẹn cả đôi đàng

A Hành định đón lấy Tiểu Yêu, nào ngờ Xi Vưu một tay bồng Tiểu Yêu, tay kia nắm chặt lấy nàng, “Đi với ta đi!”

A Hành bị Xi Vưu nắm chặt, đau buốt đến tận xương. Hắn một tay ôm con gái, một tay nắm tay nàng, cả nhà ba người ở bên nhau. Chỉ cần khẽ lật tay lại thôi, nàng sẽ có thể nắm lấy tay hắn, theo hắn tiêu dao khắp trời cao đất rộng.

Dưới sự hối thúc năm lần bảy lượt của Hoàng Đế, khi gió thu nhuộm vàng rực những cánh rừng, hai tộc Hiên Viên và Thần Nông đã công bố ngày thành hôn của Hiên Viên Thanh Dương và Thần Nông Vân Tang. Vì Thanh Dương trọng thương chưa khỏi, còn đang phải bế quan trị thương dưới đáy nước Quy khư nên Hoàng Đế quyết định để Xương Ý thay anh trai làm lễ cưới.

Tuấn Đế Thiếu Hạo phái Quý Ly đem lễ vật trọng hậu tới chúc mừng, đi theo còn có cả Cao Tân vương phi Hiên Viên Bạt và vương cơ Cao Tân Cửu Dao.

Quan lại trong triều đều hiểu địa vị thái tử của Thanh Dương đã định, nên người lên Triêu Vân phong chúc mừng cứ nườm nượp không dứt. Có điều Xương Ý một mực đóng cửa không tiếp, chỉ ở bên mẹ và em gái, hưởng niềm vui ruột thịt sum vầy.

Có A Hành cùng hai vợ chồng Xương Ý, Xương Phó, lại thêm hai đứa nhỏ Chuyên Húc và Tiểu Yêu, trên Triêu Vân phong chưa bao giờ náo nhiệt đến thế.

Chuyên Húc lớn lên bên Luy Tổ, được Luy Tổ hết lòng chiều chuộng, đâm ra coi trời bằng vung, tính tình ngang ngược vô cùng. Tuy Tiểu Yêu lần đầu đến Triêu Vân phong nhưng chẳng hề làm khách, hai đứa nhỏ vừa gặp mặt đã coi nhau như kẻ địch, chẳng có tình anh em gì hết, thứ gì cũng giành nhau ỏm tỏi, ngay cả Luy Tổ cũng tranh nhau luôn.

Vì đây là lần đầu Tiểu Yêu đến thăm, Luy Tổ khó tránh khỏi chiều chuộng cô bé hơn đôi chút, khiến Chuyên Húc hậm hực căm tức, tuổi nhỏ mà đã rất ma lanh, đợi khi vắng mặt bề trên, Chuyên Húc bèn hung hăng nạt Tiểu Yêu: “Bà là của ta.”

“Cũng là của ta.”

“Không phải của ngươi, ngươi là người ngoài, ta với bà mới là người một nhà.”

“Còn lâu!”

“Thế tại sao ta gọi là bà nội mà ngươi lại gọi là bà ngoại? Bà ngoại chính là người ngoài!”

Tiểu Yêu nói không lại bèn động thủ, vung tay lên tát: “Ngươi mới là người ngoài ấy!”

Tới lúc Luy Tổ và mọi người nghe thấy tiếng gào khóc ầm ĩ, vội vã chạy lại thì hai đứa nhóc đã quấn lấy nhau đánh đá, một đứa bầm mắt, đứa kia mặt còn hằn năm dấu ngón tay. Bản thân hai đứa nhỏ không đau nhưng Luy Tổ xót cháu, chẳng nỡ mắng bọn chúng, lại quay sang sa sả mắng thị nữ.

Xương Ý than, “Muội nuôi con gái kiểu gì thế, sao chẳng giống muội tí nào cả?”

A Hành dở khóc dở cười, “Chuyên Húc mới là không giống huynh đó! Hồi nhỏ thứ gì huynh chẳng nhường cho muội! Trên đường đến đây, muội còn xuýt xoa liệt kê những điểm tốt của việc có ca ca cho Tiểu Yêu nghe nữa kìa.”

Tiểu Yêu quệt nước mắt ré lên: “Con không thèm có ca ca đâu!”

Chuyên Húc liền dúi cho cô bé một cái: “Ai thèm ngươi hả?”

Tiểu Yêu nào chịu lép, liền ra sức quật lại, Luy Tổ mỗi tay nắm một đứa nhưng không sao giữ nổi, hai đứa nhóc lại lao vào quần nhau.

“Dừng tay hết đi!” Xương Phó quát lớn, lấy uy phong tộc trưởng kéo hai đứa nhóc ra, đét cho mỗi đứa một phát vào mông, “Ai còn đánh nữa sẽ không được tham gia hôn lễ của Đại bá!” Chuyên Húc không sợ bà, chẳng sợ cha, chỉ riêng mẹ là còn có phần kiêng dè, Tiểu Yêu cũng thấy bác dâu không giận mà oai, so ra lại đáng sợ hơn cả mẹ mình. Hai đứa nhóc không dám động thủ nữa, nhưng vẫn hằm hè nhìn nhau, rồi đột nhiên cùng sực tỉnh, vội chạy nhào lại bên Luy Tổ, đứa ôm chân, đứa nắm tay, “Bà nội, bà nội ơi!” “Bà ngoại, bà ngoại!”, tranh nhau đòi bà chiều chuộng, chỉ sợ Luy Tổ cưng đứa kia hơn mình.

Xương Ý và A Hành bất lực nhìn nhau, phì một tiếng phá lên cười.

Vú già đứng bên lắc đầu cười, than thở: “Chẳng biết con Đại điện hạ sinh ra tính tình sẽ thế nào nữa đây, tới chừng đó ba đứa nhỏ tụ lại phá phách, e rằng đến nắm xương già của chúng tôi cũng bị tháo rời ra mất.”

Xương Ý và A Hành ngưng bặt tiếng cười, Luy Tổ cũng sa sầm mặt, liền áp tải hai đứa nhỏ đi rửa mặt thay đồ.

Đợi Luy Tổ đi rồi, A Hành mới thầm hỏi Xương Phó: “Năm xưa Thiếu Hạo biến thành Đại ca dưới đáy nước Quy khư, tẩu có nhận ra không?”

Xương Phó lắc đầu, “Giống y như tạc.”

A Hành đáp: “Muội cũng thấy giống y như tạc, hiển nhiên tâm phúc do phụ vương phái đi không nhận thấy có gì khác lạ nên phụ vương chẳng nghi ngờ gì, có điều hình như phản ứng của mẫu hậu có phần không ổn.”

“Trong mắt người mẹ nào cũng vậy, hôn lễ của con trai luôn là đại sự hàng đầu, vậy mà Đại ca lại bị trọng thương, không thể tự mình hành lễ, mẫu hậu thấy cảnh sinh tình, đương nhiên không vui rồi.”

Xương Ý lạnh lùng giễu cợt, “Phụ vương nhìn kỹ chúng ta được mấy lần? Cái ông ấy quan tâm chỉ là chúng ta có thể giúp ích cho vương đồ bá nghiệp của ông ấy hay không mà thôi. Chuyên Húc là đứa cháu đầu tiên của phụ vương, nhưng từ lúc sinh ra đến giờ, phụ vương mới nhìn nó đúng một lần, vào hôm tròn trăm ngày tuổi.”

A Hành và Xương Phó đều trầm ngâm không nói.

Vì đây là hôn lễ của Đại vương tử Hiên Viên, cũng là dịp kết nối thông gia giữa hai đại Thần tộc, nên Hoàng Đế cố ý tổ chức linh đình, còn to hơn cả Thiếu Hạo cưới A Hành khi trước.

Trong Hiên Viên thành tưng bừng nhộn nhịp, chăng đèn kết hoa, tân khách bốn phương tám hướng đổ về, trên phố người qua kẻ lại tấp nập, chen vai thích cánh mới đi được.

Chuyên Húc và Tiểu Yêu kích động hơn ai hết, tay xách lồng đèn và chong chóng, hễ thấy chỗ nào náo nhiệt là sấn ngay đến, mấy vú già đuổi theo hết hơi không kịp.

A Hành đã dặn dò các vú già, hôm nay đông người, nhất định phải trông nom hai đứa nhỏ thật kỹ, Xương Phó còn phái bốn dũng sĩ Nhược Thủy đi theo hai đứa bé.

Thấy ánh mắt A Hành vẫn đầy vẻ âu lo, Xương Phó hỏi: “Mọi chuyện đều xuôi chèo mát mái cả, muội còn lo gì nữa?”

“Tẩu tẩu không thấy phía Di Bành quá yên ắng ư?”

Xương Phó gật đầu, “Phải đó, khi ta phụ Xương Ý xếp đặt hôn lễ, còn tưởng hắn sẽ lại gây sự, lúc nào cũng phải ngấm ngầm đề phòng nhưng chẳng thấy động tĩnh gì cả, có lẽ từ sau chuyện ở Trạch Châu, hắn đã bị phụ vương trách phạt, không dám lộng hành nữa rồi.”

“Tẩu không hiểu Di Bành rồi, muội cùng Di Bành chơi chung từ nhỏ tới lớn, tuy hắn trông có vẻ hờ hững nhưng một khi đã hạ quyết tâm nhất định sẽ làm đến triệt để. Thuở nhỏ Đồng Ngư thị không cho phép hắn chơi cùng muội, vì chuyện này bà ta đã đánh đập hắn khá nhiều, nếu đổi lại là những đứa nhỏ khác, hắn đã không dám trái lời, nhưng hắn chỉ lẳng lặng chịu phạt rồi ngoảnh đi lại khập khiễng tìm muội chơi cùng. Giờ muội chỉ lo hắn đang đợi tình huống ngày mai để làm khó dễ, khiến Đại ca và mẫu hậu mất mặt trước mọi người thôi.”

Xương Phó cau mày, “Phụ vương rất coi trọng danh dự bản thân, ngày mai khách khứa lại đổ đến nườm nượp, lỡ như Hiên Viên tộc có gì thất thố trước bàn dân thiên hạ, làm hỏng hôn sự của Đại ca và Thần Nông tộc, e rằng sẽ khiến phụ vương nổi trận lôi đình, cách này xem ra còn hiệu quả gấp ngàn lần mấy trò vặt vãnh, nhưng Di Bành định làm thế nào đây?”

A Hành khẽ nói, “Xưa nay Tứ ca chưa từng sai sót, kẻ sai chỉ có muội hoặc Đại ca thôi, chắc hẳn Di Bành chưa biết chuyện Đại ca nên rất có khả năng sẽ hướng vào muội.”

“Nhưng muội chẳng phải đã… hơn nữa Tiểu Yêu và Thiếu Hạo giống nhau như thế, Di Bành không thể nắm lấy cớ đó được.”

A Hành lắc đầu, “Muội chỉ có thể khiến hắn không thu thập được bằng chứng chứng minh nghi ngờ của mình là đúng thôi, chứ không dám khẳng định đã đập tan được nghi ngờ của hắn.”

“Vương tử phi, vương cơ, không hay rồi…” Đám cung nữ hổn hển chạy đến, vừa trông thấy hai người liền quỳ sụp xuống đất.

A Hành và Xương Phó đều biến sắc, vội hỏi, “Tiểu Yêu, Chuyên Húc thế nào rồi?”

Cung nữ nức nở đáp: “Không thấy tiểu vương cơ đâu nữa cả.”

A Hành loạng choạng, Xương Phó phải đỡ ngay lấy nàng, đoạn quay sang quát đám cung nữ: “Nín ngay cho ta, kể lại đầu đuôi sự tình đã nào!”

Một tiểu cung nữ miệng lưỡi lanh lợi liền lên tiếng: “Mấy người bọn nô tỳ dẫn tiểu vương tử và tiểu vương cơ đi xem Đại điện hạ cùng tân nương ngồi xe hoa, chẳng hiểu tiểu vương tử và tiểu vương cơ lại cãi vã chuyện gì, làm ầm lên rồi bắt đầu đánh nhau, chúng nô tỳ khuyên can thế nào cũng vô ích. Tiểu vương tử nói hoa đăng của tiểu vương cơ là do cha mình làm, không cho tiểu vương cơ chơi nữa, đòi lấy lại, tiểu vương cơ bèn tức tối bảo: ‘Có gì hay đâu, hoa đăng của Cao Tân chúng ta đẹp gấp tỷ lần của Hiên Viên các người’, tiểu vương tử nói tiểu vương cơ khoác lác, còn đuổi tiểu vương cơ cút về Cao Tân đi, đừng ở Hiên Viên nữa. Cũng chẳng biết tiểu vương tử nghe lời xằng bậy ở đâu, nói cái gì con gái đã gả chồng như bát nước hắt đi, khiến tiểu vương cơ khóc lóc bỏ chạy, tiểu vương tử còn hung hăng bồi thêm: ‘Đi thì hay rồi, có giỏi thì vĩnh viễn đừng đến nữa!’, nói rồi chạy thẳng về hướng ngược lại, làm chúng nô tỳ nhất thời loạn cả lên, vội chia làm hai nhóm đuổi theo, nhưng chỉ tìm được tiểu vương tử, không thấy tiểu vương cơ đâu cả!”

“Đã tìm hết mọi chỗ chưa?”

“Tìm hết cả rồi, không tìm được tiểu vương cơ, chúng nô tỳ phát hoảng, lập tức điều thị vệ tới cùng tìm giúp nhưng khắp trong thành chỗ nào cũng toàn người là người, tìm mãi không được.”

“Có một vị thúc thúc ẵm nó đi rồi.” Chuyên Húc xị mặt đứng trước cửa.

Xương Phó lập tức túm lấy Chuyên Húc, vung tay định đánh, nhưng A Hành ngăn lại: “Trẻ con với nhau, cãi lộn là chuyện bình thường, không thể trách cháu nó được.” Nói rồi nàng kéo Chuyên Húc lại trước mặt: “Nói cho cô cô biết, sao cháu lại nói có một vị thúc thúc ẵm tiểu muội đi?”

Chuyên Húc lí nhí đáp: “Cháu vừa chạy vừa nhìn trộm Tiểu Yêu, muốn xem nó có trở về Cao Tân thật không. Cháu trông thấy một nam nhân rất giống Tiểu Yêu, Tiểu Yêu nhào đến ôm chân người đó, ông ta bèn ẵm Tiểu Yêu đi.”

Xương Phó xen vào: “Rất giống Tiểu Yêu à? Vậy chắc là người trong Cao Tân vương tộc rồi. Lần này chỉ có Quý Ly tới dự hôn lễ, nhưng Quý Ly không giống Thiếu Hạo, Tiểu Yêu và Quý Ly cũng đâu có giống nhau.”

“Tuy Tiểu Yêu không sợ người lạ, nhưng chỉ với Thiếu Hạo nó mới thân thiết như vậy thôi.”

“Không thể là Thiếu Hạo được, nếu y tới không lẽ nào lại không nói với muội.”

Một ý nghĩ vụt lóe lên trong đầu, A Hành đứng phắt dậy, vội vã chạy thẳng ra ngoài, “Muội biết là ai rồi, Tứ tẩu, chuyện ở đây giao cả lại cho tẩu đấy. Hôn lễ này liên quan tới sự an nguy của mẫu hậu và Tứ ca, bất luận thế nào cũng không được để xảy ra chuyện gì thất thố.”

“Cô cô ơi.”

A Hành ngoảnh lại, thấy gương mặt Chuyên Húc thoắt tái thoắt đỏ: “Tiểu muội sẽ không sao, phải không ạ?”

A Hành gượng cười, “Không sao đâu!”

Ra khỏi đại điện, A Hành đi thẳng tới tìm Di Bành.

Di Bành đang uống rượu mua vui cùng một đám vương tôn công tử. Thấy A Hành tiến lại, mọi người vội cung kính đứng cả dậy, chỉ riêng hắn vẫn ngồi bất động, còn tươi cười nâng chén kính rượu A Hành, “Thật hiếm hoi, mấy trăm năm nay ta không uống rượu cùng muội rồi.”

A Hành vào đề ngay: “Muội có chuyện riêng muốn nói với huynh.”

Mọi người nghe thấy lập tức biết ý lui ra.

A Hành hỏi thẳng: “Tiểu Dao đâu rồi?”

Di Bành cười, “Lạ thật, muội còn không biết con gái muội ở đâu, sao lại chạy đến hỏi ta.”

“Thôi đi, cả hai ta đều biết là huynh bắt Tiểu Dao mà.”

Di Bành nâng chén, thong thả nhâm nhi, “Con gái muội là Đại vương cơ Cao Tân, tội danh lớn thế này ta không gánh nổi đâu. May mà từ chiều đến giờ cả đám bạn bè bọn ta tụ lại cùng uống rượu mua vui, bọn họ là người các tộc khác nhau, không lý nào lại nhất loạt khai man để bao che cho ta được.”

A Hành gắng nén lo âu, ngồi xuống trước mặt Di Bành, giơ tay chặn chén rượu của hắn lại, “Được, cứ coi như huynh không làm gì Tiểu Dao đi, vậy huynh có biết cách nào để đưa được Tiểu Dao về không?”

Di Bành chòng chọc nhìn A Hành, “Ta và muội cùng nhau lớn lên, muội thừa biết ta đã quyết báo thù thì sẽ không dễ dàng ngừng tay, ta cũng thừa hiểu tính tình muội, ta dám khẳng định đứa nhỏ đó không phải của Thiếu Hạo, chỉ là ta nghĩ nát óc cũng không hiểu nổi vì sao Thiếu Hạo lại chịu để một đứa con hoang làm hỗn loạn huyết mạch Cao Tân.”

“Rốt cuộc huynh muốn sao đây?”

“Ta muốn muội thừa nhận trước bàn dân thiên hạ rằng mình đã dâm loạn cung đình Cao Tân, cha đẻ của đứa nhỏ không phải Thiếu Hạo.”

“Ngươi đừng mơ!”

“Phải không đó? Xem ra tính mạng đứa nhỏ cũng chẳng mấy quan trọng với muội nhỉ?” Di Bành đẩy tay A Hành ra, mỉm cười nhấp một ngụm rượu, “Muội đã gặp kẻ đó ngoài Trạch Châu thành, chắc cũng hiểu giết một đứa nhỏ đối với hắn chỉ dễ như trở bàn tay.”

A Hành nghe nói liền tái mét mặt, Di Bành một hơi uống cạn chén rượu, nói tiếp: “Tối nay, trước khi Xương Ý và Vân Tang hành lễ, muội nhớ lấy. Một khi bọn họ hành lễ rồi, muội sẽ vĩnh viễn không bao giờ gặp lại đứa con hoang của muội đâu, vĩnh viễn!”

A Hành trừng mắt nhìn Di Bành, “Nếu con bé bị mất một sợi tóc, ta sẽ khiến ngươi không được chết yên lành đâu.”

Di Bành phá lên cười sằng sặc, cười đến nghẹt cả thở, trỏ về phía Triêu Vân phong: “Nếu làm tổn thương đứa nhỏ sẽ không được chết yên lành thì người không được chết yên lành nhất không phải ta đâu!”

A Hành quay ngoắt người bỏ đi, nhưng tâm hoảng ý loạn, lục thần vô chủ, hai chân cứ mềm nhũn ra, cả người run lên bần bật, không sao cất bước đi được. Bấy giờ nàng mới thật sự hiểu được cảm giác của người làm mẹ, dù bản thân phải chết cả trăm cả ngàn lần cũng không muốn con mình thương tổn một mảy may. Nếu chuyện này chỉ quan hệ đến sự an nguy của riêng bản thân mình, nàng sẽ chẳng hề do dự, đáp ứng Di Bành ngay lập tức, nhưng còn an nguy của mẹ nàng, Tứ ca, Tứ tẩu và Chuyên Húc nữa.

A Hành liêu xiêu bước đi, chợt lảo đảo khuỵu gối xuống đất.

Trên phố đèn đuốc sáng trưng, hoa giăng như biển, người qua lại như mắc cửi, phồn hoa náo nhiệt vô cùng, nhưng nàng lại như đang ở giữa vực sâu tối tăm lạnh lẽo, cả người run bắn lên. Hơn ai hết, nàng hiểu lúc này mình phải trấn tĩnh, nhưng cứ nghĩ đến sự thâm độc của Di Bành, nàng lại thấy hoang mang lo sợ, không sao nghĩ ngợi được gì, chỉ hận chẳng thể quỳ sụp trước mặt Di Bành, hy vọng hắn thả Tiểu Yêu ra.

Một cánh tay rắn chắc bỗng nắm lấy A Hành, kéo nàng đứng dậy. A Hành ngẩng lên nhìn, liền trông thấy Xi Vưu.

Dưới ánh đèn rực rỡ, gương mặt hắn hiện lên rõ ràng đến từng chân tơ kẽ tóc, đầu mày cuối mắt đượm vẻ mệt mỏi, chỉ riêng đôi mắt vẫn sáng như sao.

A Hành chợt thấy lòng nhẹ hẳn đi, nàng khóc òa lên thành tiếng. Bất chấp đang ở giữa phố, bốn bề kẻ lại người qua, Xi Vưu bèn vòng tay ôm chặt lấy nàng, vỗ vỗ lưng nàng an ủi: “Đừng sợ, đừng sợ mà, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”

“Hắn bắt Tiểu Yêu đi rồi.”

“Ai bắt Tiểu Dao đi?”

“Chính là kẻ đã giả dạng chàng đấy.”

“Ai giả dạng ta?”

A Hành khóc nức nở, nói năng lộn xộn hết cả lên. Xi Vưu đành kéo nàng tới chỗ vắng vẻ, dỗ dành: “Đừng khóc nữa, bất kể kẻ nào bắt Tiểu Dao đi, chúng ta cũng phải đem nó về.”

Có lẽ vì lồng ngực Xi Vưu khiến người ta ấm áp, có lẽ vì vòng tay hắn khiến người ta ỷ lại, có lẽ vì lòng tự tin của hắn khiến người ta an tâm nên A Hành đã thôi run lên bần bật, đầu óc cũng dần dần tỉnh táo, vội nắm chặt lấy hai tay Xi Vưu: “Chàng nhất định phải đem Tiểu Yêu về.”

“Nàng quên ta trưởng thành ra sao rồi ư? Nói ta nghe, kẻ đó trông như thế nào, ta sẽ đoán ra ngay rốt cuộc là kẻ nào đã bắt con gái nàng đi.” Xi Vưu lớn lên giữa bầy dã thú, rất giỏi ẩn náu và lần theo dấu vết.

A Hành bèn kể lại chuyện lần trước bị dẫn dụ ra ngoài Trạch Châu thành, lại tường thuật cả việc Tiểu Yêu bị bắt đi.

“A Tệ xưa nay nghe lời nàng răm rắp, cả Thanh Dương nó còn không sợ, vậy mà lại nem nép trước kẻ này. Hơn nữa hắn biến hóa giỏi đến thế, chắc hẳn là Cửu vĩ hồ, vương của Hồ tộc.” Nói đoạn, Xi Vưu cười nhạt, “Thuở xưa ta sống trong rừng sâu núi thẳm, từng ăn thịt không ít hồ ly, có điều chưa được nếm mùi Cửu vĩ hồ bao giờ.”

Đột nhiên, phía cửa thành chợt vang lên tiếng pháo mừng, bốn đóa mẫu đơn tượng trưng cho phú quý cát tường bừng nở giữa không trung, xem ra Xương Ý và Vân Tang đã tiến vào Hiên Viên thành.

Từ bây giờ tới khi Xương Ý và Vân Tang hành lễ ở Thượng Viên cung, còn chưa tới một canh giờ.

Thấy A Hành căng thẳng tính toán thời gian, Xi Vưu chợt hỏi: “Cửu vĩ hồ muốn nàng làm gì?”

“Hả?”

“Hắn bắt Tiểu Dao hẳn là để uy hiếp nàng, hắn muốn cái gì?”

“Hắn là thủ hạ của Di Bành, chúng muốn phá hỏng hôn sự của Thanh Dương và Vân Tang.”

“Phá thế nào?” Xi Vưu xưa nay vốn rất sắc sảo, khó mà quấy quá đáp cho qua được.

“Muốn ta… thừa nhận có tư tình với chàng, dâm loạn cung đình Cao Tân ngay trong hôn lễ của Thanh Dương, trước mặt mọi người.” A Hành đành đáp một nửa.

Xi Vưu giễu cợt, “Sao ta cứ thấy con hồ ly đó đang giúp ta làm một việc trước giờ ta vẫn muốn làm nhỉ? Điều kiện như vậy mà nàng còn không chịu đáp ứng, nàng có thật muốn cứu con gái về không đây? Lẽ nào ta khiến nàng mất mặt đến thế sao?”

A Hành vội đáp: “Nếu làm vậy có thể cứu được Tiểu Yêu thì ta có tiếc gì, nhưng Di Bành đâu phải kẻ giữ lời, dù ta thừa nhận tất cả trước mặt mọi người, cũng chỉ có thể chứng minh Tiểu Yêu vô cùng quan trọng đối với ta, như vậy hắn lại càng không chịu thả nó ra, cuối cùng sẽ đi tới một uy hiếp khác mà thôi.”

Thấy Xi Vưu lộ vẻ bất mãn, A Hành vội hỏi: “Rốt cuộc chàng có chịu giúp ta tìm con gái về hay không?”

Xi Vưu lạnh lùng cải chính: “Con gái của nàng với Thiếu Hạo, ta cứu thì được lợi lộc gì?”

A Hành khổ sở khôn xiết, một bên là mẹ và Tứ ca, một bên là Xi Vưu, nàng đứng giữa đôi đàng, vô cùng khó xử, chưa kể phía trước lại còn phụ vương chỉ chăm chăm lo cho vương đồ bá nghiệp và Di Bành thâm hiểm độc địa sau lưng, tiến không được lùi không xong. Hiện giờ con gái bị bắt đi đâu không biết, Xi Vưu còn đòi bàn thảo điều kiện với nàng, nỗi bi ai từ tận đáy lòng trào lên, khiến nàng ròng ròng nước mắt.

Xi Vưu ôm chặt A Hành vào lòng, nâng cằm nàng lên, ngấu nghiến hôn lên môi như cuồng phong bạo vũ. A Hành giận dữ toan tát vào mặt hắn thì bị tóm lấy cổ tay, môi Xi Vưu mơn trớn môi nàng, hắn thì thầm: “Điều kiện của ta thế này, nàng cũng không chịu đáp ứng sao?”

A Hành rúng động, bao tình cảm nén chặt trong lòng từ sau cái chết của Thanh Dương đến giờ mới được dịp trào dâng, nàng nhiệt tình hôn đáp lại Xi Vưu, triền miên nồng nàn như thể đây là lần cuối trong đời.

Xi Vưu trước vui sau buồn, cuối cùng hắn đẩy phắt A Hành ra, nghênh ngang bỏ đi, “Thời gian cấp bách, phải chia nhau ra mà hành sự, ta đi tìm Cửu vĩ hồ đòi lại con cho nàng, còn nàng cố mà kéo dài hôn lễ.”

Xương Ý và Vân Tang ngồi bên nhau trong xe long phượng, hai bên đường đông nghẹt bách tính chen nhau xem nhiệt náo. Nhờ tấm bình phong do các thị vệ Thần tộc dùng linh lực tạo thành, đám người kia chen lấn xô đẩy thế nào cũng không xông ra được đến ngự đạo.

A Hành gọi Liệt Dương lại bảo: “Mày phun lửa gây hỗn loạn đi, nhớ đừng làm bị thương người đi đường.” Liệt Dương định đi, lại bị A Hành níu lại: “Đừng để bị bắt.”

Liệt Dương hừ mũi: “Dựa vào đám binh tướng Thần tộc ấy à?”

Chỉ lát sau, ngọn lửa bất ngờ bùng lên trong Hiên Viên thành, thế lửa bừng bừng, lập tức khiến đám đông hỗn loạn, A Hành liền nhân cơ hội lén đánh gục mấy Thần tướng. Dòng người tràn lên ngự đạo, đám thị vệ không ngăn nổi hàng ngàn hàng vạn người, đành trơ mặt nhìn ngự đạo tắc nghẽn.

Ý nghĩ xoay chuyển trong mắt Xương Ý và Vân Tang, bách tính bình thường có thể không cảm nhận được, nhưng bọn họ nhận ra ngay đây là do thần linh hoặc yêu quái cố tình phóng hỏa, nguyên nhân khỏi nói cũng biết, đương nhiên là muốn phá hỏng hôn lễ.

Lễ quan đi bên cạnh xe nhẩm tính thời gian, cuống quýt: “Làm thế nào bây giờ? Nếu lỡ giờ tốt thi gay go to.” Bách tính Thần Nông rất coi trọng chuyện này, lỡ có kẻ nào xấu bụng phao tin đồn nhảm, e rằng hôn sự tốt lành sẽ lại hóa thành điềm xấu, không được trời cao phù hộ.

“Hay là dùng Loan điểu kéo xe, bay đến Thượng Viên cung?”

“Tuyệt đối không được!” Đây là điều tối kỵ của Hiên Viên, dân chúng Hiên Viên quốc có đến hơn chín phần là Nhân tộc, lúc mới lập quốc, Hoàng Đế đã quy định mọi chuyện đều phải lấy Nhân tộc làm trọng, các nghi thức trọng đại cũng đều tuân theo lễ nghi của Nhân tộc.

Vân Tang liền đặt hai tay lên ngực, lật tay làm mây, úp tay làm mưa, mây ráng đan xen, kết thành một con đường giữa không trung, lung linh rực rỡ, lộng lẫy khôn xiết, tuấn mã hí vang, kéo xe long phượng chạy băng băng trên đường.

Bách tính đều ngẩn ra chiêm ngưỡng đến hoa cả mắt, rào rào vỗ tay hoan hô.

A Hành đành bất lực nhìn đoàn xe đi tiếp, có điều gây náo loạn một hồi như vậy, cũng coi như tranh thủ được chút thời gian.

Thấy A Hành hớt hải quay về Thượng Viên cung, Xương Phó lo lắng hỏi: “Tìm thấy Tiểu Yêu chưa?”

A Hành ghé tai Xương Phó thì thào: “Xi Vưu đã đi tìm rồi, tẩu nhất định đừng để Tứ ca biết đấy, kẻo Tứ ca lại nổi giận. Muội mệt mỏi lắm rồi, thật đấy…”

Xương Phó thở dài: “Ta hiểu.” Nàng cũng là mẹ, đương nhiên hiểu tâm tình người mẹ khi con nhỏ xảy ra chuyện, nếu đổi lại là nàng, e rằng đã hồn vía lên mây, cuống cuồng hoảng loạn, bất chấp mọi thứ từ lâu rồi, ít ra A Hành còn biết lấy đại cuộc làm trọng.

“Đợi chút nữa Vân Tang đến, phiền tẩu ra sức trì hoãn hôn lễ của họ nhé.” Xương Phó là tộc trưởng Nhược Thủy tộc, nắm binh quyền trong tay nên Hoàng Đế có phần khách khí với nàng hơn với A Hành.

Xương Phó chẳng hỏi gì thêm, lập tức nhận lời: “Được, ta sẽ ráng trì hoãn đến tận lúc phụ vương nổi giận, không thể không hành lễ mới thôi.”

Khi xe long phượng chở Xương Ý và Vân Tang đến cửa điện, Xương Phó bèn dẫn một đám thiếu nữ Nhược Thủy, trang điểm lộng lẫy ra đón Vân Tang.

Mọi người trong đại điện ngớ ra, trong nghi thức đâu có màn này!

Chỉ thấy Xương Phó cười rạng rỡ: “Sớm đã nghe danh Vân Tang của Thần Nông tộc được xưng tụng là sen trắng trong mây, tiếc rằng bấy lâu nay chẳng có duyên kết giao.”

Vân Tang khẽ gật đầu: “Vân Tang cũng nghe nói nữ tộc trưởng Nhược Thủy không chỉ là đóa Nhược Mộc đẹp nhất, mà còn là chiến sĩ dũng cảm nhất Nhược Thủy.”

“Từ rày trở đi hai ta là người một nhà rồi, Nhược Thủy tộc bọn muội khi kết giao bằng hữu, phải thử xem phân lượng của bằng hữu trước, chẳng hay nghi thức kết giao của Thần Nông tộc thế nào? Liệu có chê chúng ta quá hoang dã thô lỗ chăng?”

Vân Tang mỉm cười: “Tuy nghi thức bề ngoài có khác nhưng đạo lý bên trong cũng vậy mà thôi. Ưng tìm bạn để cùng bay, chuột kéo bầy mà đào lỗ.”

Xương Phó bèn cởi chủy thủ đeo bên mình trao cho thị nữ đằng sau, “Theo tập tục Hiên Viên, trong ngày thành hôn kiêng động dao động kiếm, chẳng hay vương cơ có bằng lòng tỉ đấu linh lực với muội chăng? Chúng ta kết giao bằng hữu?”

Dân chúng Hiên Viên vốn dũng mãnh, tỷ võ so tài là chuyện rất thường, trên đại điện lại có không ít võ tướng xuất thân dân gian, nghe nói đều cao giọng hoan hô.

Vân Tang từ nhỏ chỉ ưa tĩnh không ưa động, không mấy thành thạo pháp thuật giao chiến, tự biết mình không phải đối thủ của Xương Phó, nhưng Xương Phó đã có lời mời, nàng cũng không thể từ chối, bằng không sẽ khiến bách tính Hiên Viên kiêu dũng thiện chiến xem thường Thần Nông. Đang lúc do dự, chợt một giọng đàn ông khàn khàn vang lên sau lưng nàng, “Thịnh tình của vương tử phi thật khó khước từ, nhưng theo tập tục Thần Nông, tân nương không được động thủ trong hôn lễ, để tại hạ thay Trưởng vương cơ tiếp mấy chiêu của vương tử phi vậy.”

Xương Phó chỉ muốn kéo dài thời gian, còn đánh nhau với ai mà chẳng vậy, bèn đáp ứng ngay.

Một gã nam tử lưng gù mang mặt nạ khập khiễng bước ra. Mộc Cận từng miêu tả cặn kẽ về gã quái nhân xấu xí dưới trướng Xi Vưu nên Vân Tang thoạt nhìn đã biết ngay y chính là Vũ Sư, trợ thủ đắc lực của Xi Vưu. Nghe nói y thần lực cao cường, xuất thân cũng không tầm thường, vốn là người thuộc Xích Thủy thị, một trong Tứ thế gia, vi phạm gia quy nên bị trục xuất.

Rõ ràng là mới thấy lần đầu, nhưng chẳng rõ tại sao, Vân Tang lại cảm thấy người này quen quen như đã từng gặp gỡ. Nàng ngẩn ra nhìn theo bóng dáng y.

Xương Phó gỡ Nhược Mộc hoa bên mai tóc xuống, búng lên không, một đóa hoa lập tức biến thành hai, hai thành bốn, bốn thành tám… chỉ trong nháy mắt đã thành cả một trận mưa hoa, đổ ập về phía Vũ Sư.

Vũ Sư đứng yên bất động, mây trắng lững lờ bốc lên từ đỉnh đầu y, từng đám trôi bồng bềnh giữa đại điện, rồi mưa đổ xuống thành hàng như một bức rèm châu lóng lánh buông trước mặt Vũ Sư, chặn đứng cơn mưa hoa kia lại, những đóa hoa đỏ rực chạm phải rèm châu, liền tan ra theo làn nước.

Tuy Vũ Sư bộ dạng xấu xí nhưng pháp thuật lại đẹp mắt vô cùng, mây tụ mây tan, mưa đổ mưa tạnh, tiêu sái tùy ý, phối hợp với một trời hoa đỏ của Xương Phó, thật chẳng khác nào bức Giang Nam xuân vũ đồ, những kẻ đứng bên quan sát chẳng hề thấy gì hung hiểm, chỉ thấy ngây ngất cả người.

Di Bành nhìn cảnh gió thổi mưa bay, hoa rơi phấp phới trước điện, quay sang cười bảo A Hành: “Phụ vương đã cau mày khó chịu rồi đấy, muội trì hoãn được một chốc, không trì hoãn được cả đời đâu.”

“Tuy hồ ly giảo hoạt, nhưng thể nào cũng có tay thợ săn bắt được nó.”

Di Bành thoáng sững người, đoạn lại bật cười: “Đã tra ra được lai lịch của nó, hẳn cũng nên biết những tay thợ săn tìm thấy nó đều đã chui vào bụng nó hết rồi.”

A Hành chỉ cười nhạt.

Di Bành nói tiếp: “Để ta nghĩ xem nào, muội đang ở đây, vậy kẻ nào đi tìm đồ con hoang kia giúp muội. Dưới gầm trời này cũng chẳng có mấy kẻ dám đối đầu với Hồ vương đâu nhỉ. Phụ vương có mời Xi Vưu tới tham dự hôn lễ, cả Vũ Sư cũng tới đây rồi mà Xi Vưu vẫn bặt tăm, lẽ nào hắn chính là thợ săn của muội?”

“Huynh đoán đúng đấy!” A Hành cười nhạt, “Chuyện gì huynh cũng tường tận cả, biết thừa chỉ cần nắm được chứng cứ là có thể tuyên án tử cả nhà ta, nhưng lại chẳng có cách nào chứng thực được, chắc bứt rứt lắm nhỉ?”

Di Bành giận tái mặt, âm trầm đáp: “Ăn miếng trả miếng thôi, nếu ta giết đồ con hoang kia, muội cũng chẳng có cách nào chứng minh là ta làm. Nói cho muội hay, ta đã biết nó là con của Xi Vưu, sao có thể không tính đến hắn? Ta đã bày sẵn trận pháp đợi đại giá Xi Vưu rồi, muội cứ chờ mà nhặt xác tên gian phu và đứa con hoang đó đi!”

A Hành xanh mặt, chỉ biết cắn chặt môi, cố trấn tĩnh.

Xương Phó và Vũ Sư tỷ đấu mãi vẫn chưa phân thắng bại, đột nhiên Hoàng Đế hạ lệnh: “Dừng tay cả đi!” Ông nhìn Xương Phó, mỉm cười bảo: “Đã là tỷ thí để kết giao bằng hữu, điểm tới thì nên dừng thôi.”

Tuy Hoàng Đế tươi cười hòa nhã nhưng giọng điệu vẫn không giấu được vẻ uy nghiêm kiên quyết. Xương Phó áy náy lắc đầu với A Hành, tỏ ý đã tận lực.

Hoàng Đế quay sang lệnh tùy tòng ban thưởng cho Vũ Sư.

Vân Tang cũng mềm mỏng góp lời: “Vũ Sư đã thay Vân Tang nghênh chiến, Vân Tang có chút phần thưởng muốn ban cho gã.” Nói rồi, nàng đưa mắt nhìn ả thị tỳ bên cạnh, ả thị tỳ bị bất ngờ, đành đưa chiếc hộp trong tay cho Vân Tang.

Vũ Sư bước lên trước, quỳ xuống tạ ơn rồi đứng dậy nhận lấy phần thưởng, nào ngờ Vân Tang thình lình giơ tay giật phăng mặt nạ của y xuống.

“Á…” Tiếng kêu kinh hoàng vang khắp đại điện, mấy ả thị nữ đứng gần đó hoảng hốt hét ầm lên rồi ngất xỉu.

Chỉ thấy gương mặt đó đã bị hắt độc thủy, máu thịt lẫn lộn, chằng chịt sẹo ngang sẹo dọc, trông còn khủng khiếp hơn mặt quỷ. Vũ Sư luống cuống lấy tay áo che mặt, quỳ sụp xuống đất, tựa hồ hổ thẹn đến nỗi chẳng dám ngẩng lên.

Vân Tang cầm mặt nạ đứng ngây ra, vẻ mặt bần thần như vừa đánh mất thứ gì, lát sau mới đưa trả lại Vũ Sư, “Xin lỗi, ta, ta không biết mặt ngươi… bị thương.” Nàng thầm trách mình lỗ mãng, Xi Vưu tinh minh nhường ấy, sau khi bật tăm mấy năm, thần lực lại càng cao thâm khó lường, các ngón huyễn thuật đều không thể qua được mắt hắn, nếu Vũ Sư là do kẻ khác đóng giả, lẽ nào Xi Vưu chẳng nhận ra?

Vũ Sư nhận lấy mặt nạ, vội vã đeo lên, lặng lẽ dập đầu rồi khập khiễng quay về chỗ cũ, tất cả mọi người đều tự động né tránh y, nhất là các nữ tử càng lộ vẻ ghê sợ.

Hoàng Đế nghiêm nghị lệnh cho Tông Bá, quan chủ quản lễ nghi: “Hành lễ!”

Xương Ý và Vân Tang bước đến trước mặt Hoàng Đế và Luy Tổ, chuẩn bị quỳ xuống hành đại lễ. Vân Tang tâm thần hoảng hốt, tuy nàng hiểu rất rõ mọi chuyện đang diễn ra, nhưng chẳng hiểu sao vẫn quyến luyến không nỡ buông bỏ, ánh mắt liếc về phía Vũ Sư. Y còng lưng xuống, khuất sau đám đông, chiếc mặt nạ che lấp hết nét mặt, giữa đại điện đông nghẹt người, ai nấy đều nghển cổ chăm chú theo dõi, chỉ sợ bỏ lỡ hôn lễ long trọng này, riêng mình y cứ cúi gằm mặt, vẻ không quan tâm.

A Hành kinh hồn bạt vía, nôn nóng nhìn ra cửa điện nhưng chẳng thấy bất cứ động tĩnh gì. Xi Vưu, chàng đã cứu được con gái chưa?

“Tiểu muội, hễ đầu gối Vân Tang chạm đất thì đứa con hoang của muội cũng tắt thở đấy.” Giọng Di Bành lạnh lẽo vẳng lại.

“Quỳ!”

Trong tiếng hô vang của Ty Lễ quan, Xương Ý và Vân Tang từ từ quỳ xuống, sắc mặt A Hành cũng dần dần tái đi. Một bên là tính mạng con gái, một bên là an nguy của mẹ và Tứ ca, nàng rõ hơn ai hết, nếu lúc này mình ra tay cứu con gái chính là giúp cho Di Bành đoạt được vương vị, đẩy mẹ và Tứ ca vào hiểm cảnh, nhưng còn tính mạng con gái nàng, tính mạng con nàng…

Di Bành tàn nhẫn giơ mệnh phù của Tiểu Yêu lên, toan bóp nát.

“Không được hành lễ!” A Hành thét lên.

Di Bành mỉm cười, trong cuộc cờ sinh tử này, cuối cùng hắn đã thắng.

Hoàng Đế xưa nay vẫn điềm đạm, mừng giận không lộ ra mặt, vậy mà giờ cũng lộ vẻ giận dữ, trừng mắt nhìn A Hành: “Nếu con không đưa ra được một lý do hợp lý thì dù là Cao Tân vương phi, ta cũng phải yêu cầu Thiếu Hạo giải thích, tại sao lại ngăn cản hôn lễ của Hiên Viên tộc.”

A Hành nhìn mẹ và anh trai, nước mắt ân hận ầng ậng trên mi, nhưng tình hình trước mắt đành đi bước nào hay bước nấy, phải cứu con gái cái đã, “Thực ra, Tiểu Yêu là… Xi Vưu, Xi Vưu…”

Xương Ý lắc đầu nhìn A Hành. Phút kinh ngạc ban đầu qua đi, y lại mỉm cười, như đang an ủi A Hành: Không sao đâu! Dù muội làm gì đi nữa, ta cũng sẽ giúp đỡ muội, ai bảo muội là muội muội duy nhất của ta?

Di Bành cũng đang cười hí hửng, một khi cuộc hôn nhân giữa Hiên Viên và Thần Nông bị hủy, A Hành sẽ bị Cao Tân tước phong hiệu, Luy Tổ cũng sẽ bị truất phế, Xương Ý mất đi chỗ dựa thì chỉ còn là một gã thư sinh tinh thông mấy môn cầm kỳ thi họa vô dụng mà thôi.

Hoàng Đế bực bội hỏi: “Rốt cuộc con muốn nói gì nào?”

Di Bành cười đắc ý, vận linh lực nói lớn: “Mọi người yên lặng nghe xem Hiên Viên Bạt định nói gì.” Đồng thời, hắn giơ mệnh phù của Tiểu Yêu lên, hạ giọng cảnh cáo A Hành: “Đừng hòng kéo dài thời gian, ta đếm đến ba, nếu muội còn không nói, ta sẽ…”

A Hành lau khô nước mắt, bước lên mấy bước, trước ánh mắt của mọi người trong đại điện, nàng chẳng hề thấy hổ thẹn về mối tình với Xi Vưu, thậm chí nàng còn rất kiêu hãnh vì người mình yêu chính là Xi Vưu! Nàng chỉ cảm thấy áy náy với mẹ và anh trai mình. Hôm nay, nếu phải công bố sự thật này trước mặt mọi người, nàng muốn ngẩng đầu ưỡn ngực hiên ngang tuyên bố với cả đại hoang, người nàng yêu là Xi Vưu, Tiểu Yêu là con gái của nàng và hắn!

Xi Vưu nấp trên xà nhà trong đại điện, lạnh lùng nhìn cảnh tượng bên dưới.

Hắn có bị thương chút đỉnh vì trận pháp đối phương giăng sẵn, nhưng Cửu vĩ hồ còn bị thương nặng hơn.

Khi hắn đưa Tiểu Yêu về, vừa đúng lúc Xương Ý đang thay mặt Thanh Dương dắt Vân Tang tới trước mặt Hoàng Đế và Luy Tổ, nhưng hắn không gọi A Hành mà lặng lẽ náu mình, đợi A Hành thừa nhận tình cảm với mình trước mặt mọi người. Có điều, thấy A Hành dưới sự bức bách của Di Bành, một mình đối diện với ánh mắt tò mò xen lẫn nghi hoặc của mọi người, như thể đối diện với tất cả những phán xét và trừng phạt. Xi Vưu lại chẳng còn lòng dạ nào nấp trên xà nhà nữa, bèn nhảy xuống chạy về phía A Hành.

Ngay lập tức, đám thị vệ hốt hoảng xông ra ngăn Xi Vưu lại, mười mấy vị thần tướng xúm lấy quanh Hoàng Đế, bảo vệ nghiêm mật.

Bốn mắt giao nhau giữa trùng trùng ánh đao bóng kiếm, A Hành và Xi Vưu chỉ nhìn nhau không nói.

“Mẹ!” Giọng nói trong trẻo của Tiểu Yêu chợt vang lên.

Chuyên Húc và Tiểu Yêu nắm tay nhau bước đến, tay vung vẩy một chiếc đuôi hồ ly trắng muốt mượt như nhung, ngươi đập ta, ta đánh ngươi.

A Hành nhũn người ra, quỵ xuống đất, vừa cười vừa khóc. Từ đầu đến cuối, chỉ mình Xương Phó hiểu được những kinh hồn bạt vía mà nàng phải nếm trải vỏn vẹn trong nửa ngày ngắn ngủi này, bèn đỡ lấy nàng, khẽ khuyên nhủ: “Muội ra với Tiểu Yêu đi, chỗ này cứ để cho ta, ta sẽ ứng phó với phụ vương.”

A Hành siết chặt tay chị dâu, chạy như bay đến ôm chầm lấy Tiểu Yêu.

Hoàng Đế xua tay lệnh cho tất cả thị vệ lui xuống. Xi Vưu tỏ vẻ tán thưởng trước sự can đảm của Hoàng Đế, sải bước sấn tới trước mặt ông ta: “Ông không sợ hôm nay tôi tới lấy đầu ông sao?”

Hoàng Đế cười: “Ngươi là nam nhi Cửu Lê tộc, hẳn phải hiểu rõ hơn ta, bất luận là ân oán sâu dày tới đâu, kết oán trên chiến trường thì phải dùng đao kiếm và máu tươi trên chiến trường mà giải quyết, nơi này là hôn lễ, chỉ dùng rượu ngon và ca múa khoản đãi khách quý bốn phương thôi.” Nói đoạn, Hoàng Đế chìa tay mời Xi Vưu ngồi xuống ngay cạnh mình.

Xi Vưu cũng cười thoải mái, ngồi xuống cạnh Hoàng Đế thản nhiên như không, tựa hồ khi nãy chưa từng trông thấy vô số cao thủ đệ nhất của Thần tộc nấp quanh bảo vệ Hoàng Đế.

Hai người bọn họ, kẻ dám mời, người dám ngồi, khiến kết thảy anh hùng đại hoang đều phải tự vấn xem liệu mình có can đảm đó hay không, đáp án khiến bọn họ càng thêm bội phục Xi Vưu và Hoàng Đế.

Di Bành thất thần đứng ngây ra, không sao tin nổi tình thế lại xoay chuyển đột ngột, thời cơ nắm chắc trong tay mà vẫn hỏng việc.

Hoàng Đế không vui, hỏi: “Giữa hôn lễ của Thanh Dương, con nói này nói nọ, rốt cuộc muốn làm gì hả?” Đoạn lại ngó quanh tìm A Hành, “Hành nhi đâu rồi? Chẳng phải vừa nãy nó còn làm loạn ở đây sao?”

Xương Phó đỡ lời: “Tiểu muội đột ngột phát hiện Xi Vưu nấp trong đại điện, sợ lỡ như hắn đối với phụ vương… lại không dám nói thẳng ra… trong lúc nguy cấp, đành giở ra hạ sách này.” Xương Phó nói câu này cũng như không, nhưng Hoàng Đế là người thông minh nhất mực, một câu này cũng đủ rồi. Tâm tư kẻ thông minh vô cùng phức tạp, tự mình cũng sẽ tìm được câu trả lời cho chính mình.

Di Bành liền mượn thang xuống tường, “Nhi thần cũng thấy Xi Vưu lẻn vào đại điện, chẳng rõ hắn định làm gì, nhi thần không dám tùy tiện làm loạn, sợ ảnh hưởng đến mối thông gia giữa Hiên Viên và Thần Nông… Dù sao Xi Vưu cũng là Đại tướng quân Thần Nông…”

“Quỳ!”

Dưới sự dìu đỡ của thị nữ, Vân Tang bắt đầu hành lễ cùng Xương Ý.

Lễ tiết vô cùng rườm rà, nhưng cũng chính vì rườm rà nên lại càng toát ra vẻ long trọng và trang nghiêm, nhất là đến một lạy sau cùng, chiêng trống chợt trỗi lên, hoa bay ngập trời, mọi người đồng thanh chúc mừng, khiến người ta cảm giác như cả thiên hạ cùng chân thành chúc phúc cho cuộc hôn nhân này vậy. Xi Vưu không khỏi có phần hoảng hốt, trong mắt hắn, những lễ tiết này thực là nhàm chán vô vị, nhưng đối với kẻ từ nhỏ đã lớn lên trong hoàn cảnh đó như A Hành, nhất định là rất quan trọng, có lẽ nàng vẫn luôn muốn được như vậy, tiếc rằng hắn mãi mãi không thể cho nàng.

Sau khi đại lễ hoàn tất, sứ thần các tộc lần lượt dâng lễ vật lên, ai nấy đều hiểu ý nghĩa của cuộc hôn nhân này nên tặng phẩm cũng rất hậu hĩnh, ra sức lấy lòng Thanh Dương.

Có kẻ tặng thần khí, kẻ tặng bí bảo, thậm chí có người còn cắt đất dâng tặng… Hoàng Đế mừng rỡ vô cùng, quả nhiên mọi chuyện đều như ông ta dự tính, kết mối thông gia với Thần Nông có thể quy tụ lòng người trong thiên hạ, tất nhiên, vẫn còn những kẻ cứng đầu cứng cổ, trừ Xi Vưu, Hậu Thổ, Chúc Dung, Cộng Công ra, những tên khác đều không đáng bận tâm.

Trong khoảnh khắc, cả đại điện từ ngoài vào trong chợt ắng lặng hẳn đi, rồi im phắc như tờ, chỉ nghe thấy tiếng bước chân “cộp, cộp” nặng nề vang lên, hết thảy mọi người đều đổ dồn mắt ra ngoài điện.

Trong ánh sáng chói mắt, một bóng người vận khôi giáp, toàn thân trùng trùng linh khí, xuất hiện ngay cửa điện, hiên ngang tiến vào như đem theo cả trời hào quang rực rỡ, anh vũ bức nhân, là Hậu Thổ.

Hậu Thổ thong dong bước vào, cả đại điện đông nghịt người là người, vậy mà chỉ nghe tiếng bước chân hắn cồm cộp gõ lên nền đá, từng bước từng bước chân vang vọng trong đại điện, tựa hồ chiến mã hí vang, giáo vàng giao kích, khiến người ta run rẩy cả lên.

Hậu Thổ đứng bên dưới hiên ngang ngước mắt nhìn Hoàng Đế, trao một cuốn lụa trắng cho lễ quan, đoạn tâu lên Hoàng Đế: “Tôi tới dâng lễ vật.”

Lễ quan vừa nhìn lướt qua cuốn lụa trắng, cánh tay chợt run bắn lên, suýt nữa cầm không vững.

Là chiến thư gây hấn ư? Muốn tuyên chiến à?

Mọi người căng thẳng đổ dồn mắt về phía Lễ quan, nhưng ông ta lắp bắp mãi không thốt nổi nên lời. Tông Bá liền bước ra cầm lấy cuốn lụa, vừa nhìn qua, tay cũng bắt đầu run lên. Hoàng Đế thấy vậy lại càng không vui, cau mày toan khiển trách thì Tông Bá đã quỳ xuống, cao giọng hô vang: “Chúc mừng bệ hạ, chúc mùng bệ hạ! Hậu Thổ đại nhân đã dâng tám vạn tướng sĩ dưới trướng làm lễ vật.” Câu này ý là Hậu Thổ đã xuất lĩnh tất cả quân lính đầu hàng.

Hoàng Đế nhất thời không kiềm chế được, giật nảy mình vì kích động nhưng lập tức bình tĩnh lại ngay, rảo bước tiến về phía Hậu Thổ, xá dài một cái, “Người báo đáp ta như quốc sĩ, ta cũng sẽ đãi ngươi như quốc sĩ, lời này có thiên hạ làm chứng, nếu dám làm trái, người người khinh khi!”

Hậu Thổ vẫn thản nhiên chẳng lộ vẻ gì, chỉ quỳ một gối trước mặt Hoàng Đế, tỏ ý thuần phục.

Hoàng Đế giơ hai tay nâng Hậu Thổ đứng dậy, nắm tay gã đi về phía vương tọa, mấy ả thị nữ nhanh nhảu đã bê ngay một chiếc ghế danh dự ra đặt cạnh, cơ hồ ngang bằng với vương tọa.

Trước tình cảnh đó, anh hùng bốn bể cũng lần lượt quỳ xuống, đồng thanh chúc mừng.

Nhìn anh hùng thiên hạ lũ lượt quỳ gối dưới chân mình, Hoàng Đế không nén nổi tiếng cười sảng khoái.

Chỉ riêng một mình Xi Vưu vẫn ngồi trơ trơ bất động, khoanh tay lạnh lùng nhìn cảnh tượng trước mắt, bóng dáng hắn nổi bật lên giữa một rừng người quỳ bái, kỳ quặc vô cùng. Hoàng Đế nhìn hắn, thành khẩn nói: “Trên Hiên Viên điện luôn luôn để trống một chỗ cho Tướng quân.”

Xi Vưu nghe nói bật cười, sải bước đi thẳng ra ngoài: “Hiên Viên có đối đãi tốt đến mấy chăng nữa, cũng không có một Du Võng coi ta như huynh đệ, tuy y đã chết nhưng ta vẫn còn sống, ta sẽ thực hiện di nguyện của y, thay y quét sạch quân Hiên Viên ra khỏi bờ cõi Thần Nông!”

Giọng hắn sang sảng, như ánh chiếu cả càn khôn, soi rọi hết nhật nguyệt, khiến đám người Thần Nông quỳ gối quy hàng không khỏi hổ thẹn, nhưng chúng chẳng lấy thế để tự ngẫm mình, ngược lại còn oán trách tên cầm thú kia thật không hiểu thời thế, đua nhau xì xào chửi rủa Xi Vưu. Trái lại, Hậu Thổ ngồi trên ngai cao nhất tuy vẫn giữ vẻ thản nhiên lạnh lùng, nhưng lại đăm đăm nhìn theo hút bóng Xi Vưu, mượn ánh mắt tiễn hắn ra tận cửa điện.

Hoàng Đế cố nén nỗi thất vọng trong lòng, mỉm cười gật đầu với Lễ quan, Lễ quan liền ra lệnh tấu nhạc ban yến, tức thời cả đại điện tưng bừng náo nhiệt cả lên, múa ca rộn rã, yến tiệc linh đình, xôn xao tiếng cười tiếng nói.

Thấy Xi Vưu đi khỏi, A Hành vội bế Tiểu Yêu đuổi theo, nhưng không dám hiện thân, mãi đến khi ra ngoài cung mới cất tiếng gọi.

A Hành đặt Tiểu Yêu xuống đất: “Con nhớ lời ta dặn chưa?”

Tiểu Yêu liền hớn hở chạy về phía Xi Vưu, ôm chầm lấy chân hắn: “Con tạ ơn thúc thúc.”

Xi Vưu cứng người lại, một thoáng sau mới cúi xuống, chẳng đợi hắn kịp phản ứng, Tiểu Yêu đã giơ tay ôm lấy cổ hắn, thơm má trái hắn một cái, lại quay sang thơm má phải một cái nữa, đoạn bật cười khanh khách, vùi đầu vào lòng Xi Vưu.

Xi Vưu bất giác vòng tay ôm lấy Tiểu Yêu, chỉ thấy hào tình vạn trượng, nhu tình quyến luyến cùng lúc trào lên trong lòng, hắn chăm chú nhìn A Hành, “Rốt cuộc là vì sao?” Trên núi Cửu Lê, nàng đã tự tay cất một mái nhà cho hắn, chính miệng hứa sẽ mau chóng rời khỏi Thiếu Hạo, nhưng đợi đến khi hắn tỉnh lại, nàng lại nói điện Thừa Ân tình khó dứt, còn sinh con gái cho Thiếu Hạo. Đến tận bây giờ, hắn vẫn chẳng hiểu nguyên do vì sao cả, cách giải thích duy nhất chỉ có thể là A Hành có tình cảm với Thiếu Hạo mà thôi.

Xi Vưu trao Tiểu Yêu cho A Hành, “Nếu Tiểu Yêu là con ta, ta nhất định là kẻ hạnh phúc nhất trên đời này.” A Hành định đón lấy Tiểu Yêu, nào ngờ Xi Vưu một tay bồng Tiểu Yêu, tay kia nắm chặt lấy nàng, “Đi với ta đi!”

A Hành bị Xi Vưu nắm chặt, đau buốt đến tận xương. Hắn một tay ôm con gái, một tay nắm tay nàng, cả nhà ba người ở bên nhau. Chỉ cần khẽ lật tay lại thôi, nàng sẽ có thể nắm lấy tay hắn, theo hắn tiêu dao khắp trời cao đất rộng.

Nàng cầm lòng không đậu, toan nắm chặt lấy tay Xi Vưu.

Đột nhiên, trên bầu trời chợt vút lên những đốm pháo hoa mừng đại lễ, sáng rực cả Hiên Viên thành, cũng đồng thời thức tỉnh A Hành.

Trong Hiên Viên thành còn mẹ và anh trai nàng! Từ lâu, giữa hai người bọn họ đã tồn tại một lằn ranh không cách gì vượt qua nổi do Du Võng và Thanh Dương vạch ra!

Nàng giật tay lại, cau mày: “Giờ ta đã là Cao Tân vương phi rồi, tướng quân hãy quên ta đi!”

Trong một khoảnh khắc, Xi Vưu đã cảm nhận được rõ rệt tâm ý của nàng, thậm chí còn cảm thấy tình ý triền miên vương vấn nơi đầu ngón tay nàng, nhưng đúng lúc hắn ngỡ rằng nàng sẽ nguyện ý theo hắn tới tận nơi góc biển chân trời, bên nhau đến bạc đầu, thì nàng lại nhớ tới Thiếu Hạo, lập tức trở mặt lạnh lùng ngay.

Thì ra, mọi thứ chỉ là ảo giác!

Xi Vưu buông tay ra, A Hành ẵm lấy Tiểu Yêu, cúi đầu bảo bé: “Từ biệt thúc thúc đi con.”

Tiểu Yêu tươi cười vẫy tay, “Thúc thúc, lên đường bình an nhé.”

Xi Vưu đăm đắm nhìn A Hành, trong khi nàng không chịu nhìn hắn thêm một lần nào nữa, đoạn lắc đầu, ngửa cổ cười thảm một tiếng, cưỡi Tiêu Dao đi thẳng.

Tiểu Yêu nhìn theo bóng Xi Vưu cưỡi trên lưng Tiêu Dao, áo đỏ phấp phới, phong thái lẫm liệt, xán lạn như ráng sớm, vun vút tựa chớp lóe, bé không khỏi ước ao: “Yêu Yêu cũng muốn cưỡi chim lớn.”

A Hành áp mặt vào trán Tiểu Yêu, hồi lâu vẫn đứng yên bất động, nước mắt lã chã nhỏ xuống mặt bé. Tiểu Yêu đưa tay lau nước mắt cho mẹ, ngoan ngoãn thủ thỉ: “Mẹ đừng khóc, Yêu Yêu không cưỡi chim lớn nữa đâu.”

 Chương 13: Thề đem máu biếc đền nợ nước

Dạo mới gặp A Hành, hắn cứ ngỡ rằng chỉ cần mình đủ mạnh thì trên đời chẳng có chuyện gì không thể làm được cả, nhưng giờ đây, linh lực của hắn càng lúc càng mạnh lên, thuộc hạ dưới quyền cũng mỗi lúc một nhiều, hắn lại cảm thấy càng lúc càng bất lực.

Cũng như hiện giờ, dù linh lực của hắn có mạnh đến đâu cũng không thể nắm được bàn tay A Hành, đành nhẹ nhàng buông nàng ra.

Sau hôn lễ của Thanh Dương, A Hành cũng cáo biệt Hoàng Đế. Hoàng Đế ân cần hỏi han thương thế của Thanh Dương, còn dặn nàng phải chăm sóc cho Đại ca thật tốt, nhắn y gắng dưỡng thương cho khỏi hẳn, không cần nôn nóng.

A Hành sớm đã liệu được Hoàng Đế sẽ dặn dò như thế, trải cả ngàn năm, thế lực của Thanh Dương trong Hiên Viên quốc đã như hổ phục, giờ lại được Thần Nông tộc quy thuận, càng như hổ thêm cánh. Nếu Thanh Dương khỏe mạnh, Hoàng Đế mới phải ưu phiền, còn hiện giờ y đã bị thương không thể tham chính, vừa hay có thể ngăn binh quyền tập trung quá nhiều vào tay Thanh Dương.

Bá quan Hiên Viên cung tiễn A Hành lên đường đều ra sức nịnh nọt tâng bốc nàng, chỉ mình Di Bành lặng lẽ đi giữa đoàn người, phớt lờ tất cả. Tâm trạng A Hành cũng rất nặng nề, thuật làm vua vốn chỉ gói gọn trong hai chiêu: cân bằng và kìm hãm, cùng với sự quy thuận của Hậu Thổ, thế lực của Thanh Dương trong Hiên Viên tộc đã lớn mạnh quá mức, nên Hoàng Đế nhất định sẽ dùng Di Bành để cân bằng và kìm hãm Thanh Dương, có điều một khi Di Bành nắm quyền bính trong tay, ắt hẳn hắn sẽ dốc lòng tìm cách báo thù.

A Hành về tới Ngũ Thần sơn đã thấy Thiếu Hạo đứng chờ trên vọng lâu. Tiểu Yêu chẳng đợi xe mây đỗ lại đã vươn tay ra gọi: “Cha, cha!”

Thiếu Hạo giơ hai tay lên, biến thành hai con thủy long, quấn lấy Tiểu Yêu đỡ cô bé xuống. Tiểu Yêu lập tức kể khổ, nào là Chuyên Húc bắt nạt mình, không chịu tin Cao Tân đẹp gấp ngàn lần Hiên Viên, nào là có kẻ đóng giả làm cha lừa gạt cô bé, may mà hồng y thúc thúc đã đánh bại hắn, thì ra tên lừa đảo đó là một con hồ ly trắng tuyệt đẹp, còn có tới chín cái đuôi, ngay cả A Tệ cũng phải sợ hắn.

“Đó là Cửu vĩ bạch hồ, vương của Hồ tộc, cực giỏi biến hình, dù kẻ khác có thần lực cao cường đến đâu chăng nữa, cũng không nhìn ra được.” Thiếu Hạo ôn tồn giải thích với Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu rút ra một chiếc đuôi hồ ly trắng muốt như tuyết, nhẹ xốp như mây, đẹp đến mê hồn đưa cho Thiếu Hạo, “Hồng y thúc thúc cho con cái này để chơi, Chuyên Húc thối cũng đòi một cái, nhưng đừng hòng con cho.”

Thiếu Hạo cười: “Con cất lấy đi, đó là đuôi của bạch hồ ly, tuy chỉ có một mẩu, nhưng cũng là vật bao nhiêu người ao ước đấy.”

Tiểu Yêu cầm chiếc đuôi phất qua phất lại, thuận miệng “ưm” một tiếng. Thiếu Hạo liền ẵm cô bé giao cho cung nữ, dặn chúng đưa vương cơ đi rửa mặt. Đoạn y thong dong vừa đi vừa trò chuyện với A Hành, nghe nàng thuật lại mọi chuyện xảy ra ở Hiên Viên, còn gạn hỏi thật kỹ chuyện Hậu Thổ quy hàng.

Đưa A Hành về đến tẩm thất, Thiếu Hạo mới từ biệt: “Hai mẹ con nghỉ ngơi trước đi, ta còn có việc phải giải quyết.”

Trở về, Thiếu Hạo bí mật triệu kiến An Dung, hỏi xem gã thấy thế nào về cục thế đại hoang hiện giờ.

An Dung nghiêm trang đáp: “Hiên Viên ít sông ngòi, quá nửa lãnh thổ là hoang mạc, dưới trướng Hoàng Đế thiếu đại tướng thông thạo thủy chiến, kẻ duy nhất thông thạo là Ứng Long đã mất tích từ sau nạn lụt ở Trạch Châu. Hoàng Đế ngỏ lời mời chúng ta xuất binh giúp ông ta trừ diệt Cộng Công, hứa rằng sẽ cắt đất mặt Nam Thần Nông cho chúng ta, thoạt nhìn có vẻ là chúng ta được lợi lớn, nhưng nếu Thần Nông bị tiêu diệt thì tiếp theo sẽ đến lượt Cao Tân.”

Thiếu Hạo đẩy một chồng tấu chương tới trước mặt An Dung, “Thật hiếm thấy kẻ nào thông tỏ như ngươi, đám tấu chương này bức sau đanh thép hơn bức trước, đều thỉnh cầu ta phát binh giúp Hoàng Đế diệt trừ dư nghiệt Thần Nông đấy.”

An Dung cười khổ, “Người ta chỉ biết cười lang sói tham bắt thỏ mà sa vào hố bẫy thợ săn, nào biết mình cũng là một con sói tham lam ngu xuẩn.”

“Ngươi có kế sách gì để ứng phó không?”

“Bề ngoài bệ hạ cứ đáp ứng Hoàng Đế, còn bên trong thì tăng cường huấn luyện quân đội, chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh với Hiên Viên. Cộng Công và Chúc Dung không phải đối thủ của Hoàng Đế, chỉ có thể hy vọng vào cuộc chiến giữa Xi Vưu và Hoàng Đế thôi, mong rằng dù ông ta có thắng được, cũng phải liểng xiểng.”

Thiếu Hạo phì cười, “Ngươi phân tích đúng lắm, có điều chúng ta không thể ngồi ôm hy vọng suông được, mà phải khiến Xi Vưu đánh cho Hoàng Đế dù có thắng cũng phải liểng xiểng, thậm chí lưỡng bại câu thương thì càng tốt.”

Thấy Thiếu Hạo đã có dự tính sẵn, An Dung kích động đến nỗi suýt nhảy cẫng lên, đây mới chính là Thiếu Hạo mà y dốc lòng phò tá chứ! Nhưng phải làm sao mới được đây? Cao Tân không thể phát binh giúp Thần Nông được.

“Thần ngu độn, không hiểu được ý bệ hạ.”

Thiếu Hạo đáp ngắn gọn: “Chuyện này ta đã sắp đặt cả rồi, ngươi và An Tấn chỉ cần an tâm huấn luyện binh sĩ cho thật tốt để ngày sau còn chiến đấu bảo vệ Cao Tân.”

An Dung dập đầu, “Xin nghe theo bệ hạ sai khiến.”

Sau hôn lễ của Thanh Dương, Hoàng Đế bắt đầu bố trí lại quân đội, chuẩn bị thảo phạt tàn dư Thần Nông tộc không chịu quy thuận. Trước mắt, Hoàng Đế chưa muốn giao phong chính diện với Xi Vưu, bởi một khi Hiên Viên thất bại, không những đại tổn sĩ khí mà còn khiến đám binh lính Thần Nông vừa quy hàng không lâu dao động. Cân nhắc thiệt hơn đủ cả, cuối cùng Hoàng Đế quyết định tập trung binh lực thảo phạt Chúc Dung trước. Chúc Dung là dòng dõi chính thống của Thần Nông vương tộc, chỉ cần hắn đầu hàng, đám tàn quân Thần Nông sẽ đại tổn sĩ khí.

Nghĩ trước tính sau chán chê, Hoàng Đế quyết định phái Xương Ý dẫn quân xuất chinh.

Từ sau trận hồng thủy ở Trạch Châu, Ứng Long mất tăm mất tích, Yêu tộc lòng quân bất ổn nên không thể phái tướng lĩnh Yêu tộc xuất chinh được, chỉ có dùng đại tướng Thần tộc suất lĩnh Thần tộc và Nhân tộc xuất chinh mà thôi. Hai viên đại tướng Ly Chu và Tượng Võng đang giằng co với Cộng Công, Hiên Viên Hưu và Thương Lâm lại đang trấn thủ Trạch Châu, lựa chọn thích hợp nhất chính là Di Bành, nhưng Di Bành và Chúc Dung có mối thù giết anh, mà Hoàng Đế hiện giờ chỉ cần Chúc Dung đầu hàng chứ không muốn tử chiến với hắn, nên không thể phái Di Bành đi được, cuối cùng chỉ còn lại mỗi Xương Ý. Hơn nữa năm xưa Hoàng Đế ra sức thúc đẩy cuộc hôn nhân của Xương Ý và Xương Phó, nguyên nhân quan trọng chính là nhắm vào những chiến binh kiêu dũng thiện chiến của Nhược Thủy.

Ý chỉ của Hoàng Đế truyền đến Nhược Thủy, Xương Phó biết Xương Ý căm ghét chiến tranh, bèn hỏi dò xem y có muốn kháng chỉ hay không, “Thiếp tìm lý do gì đó từ chối phắt đi, dù phụ vương tức giận cũng không làm gì được thiếp đâu.”

Nào ngờ, Xương Ý lại nói: “Không, ta sẽ chuẩn bị dẫn binh xuất chinh.”

Xương Phó hết sức bất ngờ, nhưng rồi lập tức hiểu ra ý Xương Ý. Từ sau khi Thanh Dương chết đi, một mình A Hành phải vất vả trù tính, chèo chống cả gia đình. Xương Ý không muốn dựa vào em gái để bảo vệ bản thân và mẹ nên muốn ra chiến trường, dùng hành động thực tế để bảo hộ người nhà.

Xương Ý nắm lấy tay Xương Phó, dịu dàng nói: “Nếu Đại ca còn sống, ta có thể cự tuyệt phụ vương, nhưng giờ huynh ấy đã không còn, nàng đừng tùy tiện cự tuyệt phụ vương nữa nhé. Chẳng qua phụ vương nhường nhịn nàng là vì nàng hữu dụng, ông ấy cần binh lực của nàng, nhưng nếu nàng ương ngạnh không nghe lời, nàng sẽ trở nên vô dụng trong mắt ông ấy, tới chừng đó, ông ấy có thể sẽ… sẽ tìm một kẻ khác biết nghe lời.”

Lòng Xương Phó chợt nghe ấm áp, thì ra, y cũng vì cả nàng nữa! Xương Phó ngả vào lòng Xương Ý: “Thiếp cùng đi với chàng!”

“Được!” Xương Ý mỉm cười ôm chặt lấy nàng.

Sau khi bố trí sắp xếp tỉ mỉ, Xương Ý và Xương Phó quyết định áp dụng chiến thuật đánh chớp nhoáng, dẫn theo hai trăm tướng sĩ Thần tộc và một vạn dũng sĩ Nhược Thủy lặng lẽ lên đường.

Vùng đất nơi Hiên Viên giao cắt với góc Đông Nam của Thần Nông trập trùng đồi núi, nổi tiếng là hào trời khó mà vượt qua nổi, nhưng Nhược Thủy xưa nay vẫn san sát núi non, trẻ con Nhược Thủy bảy tám tuổi đã thi leo trèo với khỉ vượn trên vách đá.

Một vạn người xé lẻ ra thành mười tổ, náu mình vào thâm sơn cùng cốc, vượt qua những rặng núi chưa ai có thể vượt qua, đột nhập vào Tuân Sơn – nơi đại quân Chúc Dung đóng giữ, hội hợp với hai trăm tướng sĩ Thần tộc cưỡi tọa kỵ tiềm nhập vào trước.

Nhạc Uyên suất lĩnh tướng sĩ Thần tộc đề nghị nghỉ ngơi một lát, nhưng Xương Ý phản đối: “Có thể che giấu được tung tích hai trăm binh sĩ Thần tộc, nhưng muốn giấu tung tích của một vạn binh sĩ Nhược Thủy thì khó lắm, mục đích chúng ta băng đèo vượt suối là muốn tiến đánh bất ngờ, khiến chúng không kịp trở tay kia mà.”

Bất chấp tướng sĩ mệt mỏi vì hành quân suốt ngày đêm, Xương Ý hạ lệnh lập tức tiến quân đánh lén Chúc Dung. Quân Hiên Viên tiến đánh quá đột ngột khiến quân đội Thần Nông chẳng kịp trở tay, trận đánh thu được kết quả mỹ mãn: hơn bốn vạn quân của Chúc Dung không địch lại được một vạn người của Xương Ý, đại quân thua tan tác, chỉ còn chưa đầy một vạn người chạy vào Tuân sơn.

Trong trận đánh du kích đó, hơn hai vạn quân Thần Nông tử trận, còn Nhược Thủy chỉ tổn thất hơn một ngàn người, trong đó là hơn một trăm người đang trên đường vượt núi, không may rớt xuống vách núi. Trận thắng lớn này đã tạo nên một kỳ tích, đến nỗi rất nhiều năm về sau, hễ nhắc đến nam nhi Nhược Thủy, người ta lại nhớ đến chiến thuật đánh du kích đáng sợ của họ. Dân gian còn truyền tụng rằng, núi cao đến đâu, sông sâu chừng nào cũng không ngăn nổi bước chân nam nhi Nhược Thủy.

Tin Hiên Viên đại thắng lập tức lan truyền khắp đại hoang, dân chúng Hiên Viên vui mừng nhảy múa, còn Thiếu Hạo lại rầu rĩ ủ ê. Tuy y chẳng trông mong gì vào Chúc Dung, nhưng cũng không ngờ hắn lại thua dễ dàng đến vậy. Hiện giờ Hoàng Đế hẳn đã giở ngón sở trường ra để công kích Chúc Dung, trước là đè bẹp cái sắc bén của hắn, khiến hắn khiếp sợ, rồi sau đó lại dùng thủ đoạn lung lạc, thi ân dụ hàng, thu nạp hắn vào dưới trướng.

Quả nhiên, đúng như Thiếu Hạo dự liệu, Xương Ý và Xương Phó được lệnh đóng quân dưới Tuân sơn, không tiếp tục tấn công lên nữa. Chúc Dung cũng bí mật gặp gỡ với sứ giả của Hoàng Đế, bàn bạc điều kiện, đồng thời sắp xếp nghi thức đầu hàng.

Từ khi Xương Ý xuất chinh, A Hành vẫn sát sao quan tâm từng chút một, mãi tới lúc nghe nói Chúc Dung đã quyết định đầu hàng, nàng mới thở phào nhẹ nhõm.

Lâu lắm không chơi đùa với Tiểu Yêu, hiện giờ mọi chuyện đã tạm ổn, A Hành bèn dắt Tiểu Yêu tới Kỳ viên du ngoạn. Trên đỉnh núi có suối băng nước lạnh tự nhiên. Tiểu Yêu sợ nóng nên rất thích nghịch ngợm trong suối băng. Như tất cả những đứa trẻ Cao Tân, cô bé từ nhỏ đã dầm mình trong nước mà lớn lên, rất thông thạo thủy tính, cứ liên tục leo lên bờ rồi lại lập tức nhảy ào xuống nước, thả sức vui đùa.

“Mẹ ơi, nước ở đây lạnh quá.” Tiểu Yêu ngoi lên mặt nước, thích thú hét.

A Hành thò tay xuống thử nước, cười nói: “Con sợ nóng như thế thì nên ở Hiên Viên mới phải. Tầm này chắc Hiên Viên sắp đổ tuyết rồi.” Nhớ đến mưa tuyết đầy trời, A Hành lại nghĩ đến những trái dâu lạnh chua chua ngọt ngọt, lòng chợt dậy lên nỗi nhớ quê.

Tiểu Yêu nghe mẹ kể chuyện đắp người tuyết, chơi ném tuyết, vô cùng mê mẩn, nhưng nghĩ đến Chuyên Húc lại thấy bực mình, “Hừ! Con không thèm chơi với Chuyên Húc đâu!” Nói xong ùm một cái, lại ngụp xuống nước, tự chơi một mình.

Liệt Dương đứng trên đầu cành bảo A Hành: “Là tiết trời đã chuyển lạnh. Tuy các người là Thần tộc, nhưng không thể mẫn cảm với thiên địa linh khí bằng thực vật được, cô nhìn kỹ cây cối bên bờ mà xem, tất cả đều không ổn.”

A Hành nói: “Làm sao có thể mãi mãi không đổi suốt bao nhiêu năm được? Thời tiết ngẫu nhiên thay đổi cũng là chuyện thường thôi.”

Liệt Dương khinh khỉnh hừ mũi: “Chẳng nhẽ ta không phân biệt được bình thường và khác thường sao? Nói cho cô biết, là địa khí không bình thường đó!”

A Tệ đang dùng cả tứ chi vọc nước, cái đuôi phe phẩy đập lên mặt nước, tỏ ý đồng tình với Liệt Dương.

Chẳng hiểu sao, trước những trận thiên kiếp như động đất sóng thần, kẻ phát hiện ra đầu tiên luôn là động vật và thực vật chứ không phải những kẻ trong Thần tộc tự xưng linh lực cao tường. Nghĩ vậy, A Hành liền cảnh giác hỏi: “Có gì khác thường?”

Liệt Dương đáp: “Phượng Hoàng nội đan của ta tính thuộc hóa, tương thông với hỏa linh trong trời đất, mấy ngày nay, hỏa linh quanh đây biến động rất khác thường, có điều không ở Ngũ Thần sơn nên ta cũng chỉ cảm giác được có vậy mà thôi, không nói rõ ra được.”

Hỏa linh? A Hành lập tức liên tưởng đến Chúc Dung, lòng chợt dâng lên một linh cảm không lành. Nàng vội gọi cung nữ lại, dặn dò bọn họ đưa Tiểu Yêu về Thừa Ân cung.

“Liệt Dương, chúng ta về đại lục ngay, ngươi ráng cảm nhận cho kỹ hỏa linh biến hóa thế nào nhé.”

A Hành, A Tệ và Liệt Dương bay về hướng Tây, băng qua biển cả mênh mông, thẳng đến đại lục. Liệt Dương nhả Phượng Hoàng nội đan ra, chăm chú cảm nhận hỏa linh, lúc nó bay vút lên không, lúc lại nhào xuống đất, A Hành và A Tệ chỉ đứng một bên đợi.

Hồi lâu Liệt Dương mới quay lại báo cáo với A Hành: “Có lẽ là cao thủ Thần tộc đang bày trận pháp, dẫn phát linh khí biến đổi, hỏa linh bên dưới đều tụ lại một nơi cả.”

“Vì sao không phải là Yêu tộc chứ? Biết đâu đại yêu quái nào đang luyện công thì sao?”

Liệt Dương cười nhạt, “Phượng Hoàng sinh ra trong lửa, chết vùi trong lửa, yêu quái nào dám triệu tập hỏa linh trước mặt ta?”

“Hỏa linh hội tụ về phương nào?”

“Bên đó.” Liệt Dương trỏ về phía Thần Nông quốc. “Kẻ bày trận hết sức thận trọng, chỉ điều động hỏa linh từ sâu trong lòng đất lên mà thôi, không động gì tới hỏa linh ở các nơi khác, nên rất khó phát hiện.”

“Hắn triệu tập nhiều hỏa linh như thế làm gì?”

Liệt Dương ngưng thần nghĩ ngợi một lát rồi đáp, “Cô trông thấy núi lửa phun rồi chứ?” Liệt Dương điểm ngón tay một cái, trên mặt đất liền xuất hiện một đám lửa cháy phừng phừng, “Núi lửa phun trào, đất rung núi chuyển, trời đất đều hóa thành biển lửa, dù Thần tộc thần lực cao cường tới đâu cũng chỉ như con sâu cái kiến quằn quại giữa đống lửa này mà thôi.”

Chúc Dung đóng quân ở Tuân sơn, nếu Tuân sơn nổ tung thì Tứ ca và Tứ tẩu… A Hành lạnh toát cả người, vội xé nửa ống tay áo, cắn ngón tay viết vội viết vàng một bức huyết thư, đưa cho Liệt Dương, “Ngươi lập tức bay về Hiên Viên thành, giao phong thư này cho phụ vương, bay nhanh nhất có thể nhé.”

Liệt Dương biết là chuyện nước sôi lửa bỏng, lập tức bay vút về phía Tây.

A Hành tâm hoảng ý loạn, chân nhũn cả ra, phải cấu thật mạnh vào người mới bình tĩnh mà suy nghĩ được. Ngũ hành tương khắc, Thủy khắc Hỏa, tuy Chúc Dung đã sắp bày xong trận pháp nhưng Cao Tân cũng có rất nhiều cao thủ về thủy linh, miễn là Thiếu Hạo đồng ý trợ giúp, có lẽ sẽ hóa giải được kiếp nạn này.

Nghĩ vậy, A Hành vội vã quay về Ngũ Thần sơn tìm Thiếu Hạo.

Thiếu Hạo đang nghị sự với mấy vị đại thần, nhắc tới việc Hiên Viên ngày càng lớn mạnh, sớm muộn sẽ có ngày tấn công Cao Tân, mọi người đều căng thẳng lo lắng.

Thị vệ ngăn A Hành lại, phân trần rằng nàng phải đứng ngoài chờ nghị sự xong, không được bước vào. A Hành đang lúc khẩn trương, chẳng nề đẩy cả thị vệ ra, xông thẳng vào đại điện, đám thị vệ liền nhốn nháo ngăn cản.

Thiếu Hạo nghe tiếng xôn xao bèn ngẩng đầu nhìn ra ngoài, thấy A Hành đang giằng co với đám thị vệ, y liền đưa mắt cho kẻ hầu bên cạnh, tên hầu lĩnh ý vội chạy ra, quát đám thị vệ dừng tay.

“Xin hỏi vương phi có việc gì?” Kẻ hầu hành lễ cung kính hỏi.

A Hành chẳng nói chẳng rằng chạy thẳng tới trước mặt Thiếu Hạo, quỳ sụp xuống, dập đầu.

Thiếu Hạo thấy tay áo nàng rách toạc, nửa cánh tay lộ ra ngoài, quần còn vương vệt máu vội bước xuống ngai vàng, định đỡ nàng dậy, bây giờ mới phát hiện hai tay A Hành lạnh ngắt, “Có chuyện gì thế?”

A Hành nắm chặt lấy tay y, móng tay bấm vào da thịt, như chết đuối vớ được cọc, “Xin bệ hạ xuất chinh cứu mạng Tứ ca thiếp.”

Thiếu Hạo còn đương ngỡ ngàng chưa hiểu, An Tấn tính tình thẳng thắn đã đỡ lời: “Cả thiên hạ đều biết tin Xương Ý vừa đại thắng, dù có phải chết cũng là Chúc Dung bỏ mạng, đâu đến lượt Hiên Viên vương tử.”

“Nhưng Liệt Dương vừa phát hiện ra hỏa linh dưới lòng đất đang tụ về hướng Tuân sơn.”

“Vậy thì sao chứ?” An Tấn vẫn chưa hiểu ra vấn đề.

Thiếu Hạo nghe đến đây liền hiểu ra ngay, một dải Tuân sơn dồi dào hỏa linh nên Chúc Dung định hội tụ địa hỏa, biến nó thành một ngọn núi lửa, một khi núi lửa phun trào thì không cách gì ngăn được, tới chừng đó, chẳng ai có thể chạy thoát.

Quý Ly cũng hiểu ra, bèn góp lời: “Sao có thể chứ? Sao Chúc Dung lại tự mình hại mình như vậy? Nếu núi lửa phun trào thì bản thân hắn cũng chạy không thoát mà? E rằng vương phi hiểu lầm rồi, liệu có phải hắn định dùng chuyện này để uy hiếp Hoàng Đế, đòi thêm điều kiện gì chăng?”

Thiếu Hạo lặng thinh không nói. Tham lam, nhỏ mọn, ghen ghét đều chỉ là tiểu tiết, phục vụ quốc gia và thần dân của mình mới là đại nghĩa. Những kẻ chỉ khư khư tránh tiểu tiết chắc gì đã có đại nghĩa, tựa như các quần thần ngày ngày đứng giữa triều đường Cao Tân rao giảng lễ nghĩa quy củ vậy, thoạt nhìn có vẻ đạo cao đức trọng, nhưng tương lai biết đâu chính họ lại là những kẻ đầu hàng Hoàng Đế trước tiên; còn những kẻ xem trọng tiểu tiết cũng chưa chắc không có đại nghĩa, tựa như những người dân thường trên phố vậy, ngày ngày đều tính toán chi li, so đo từng ly từng tí, vì chút lợi lộc mà chẳng nề trộm cắp đốt nhà, nhưng khi nguy nan ập đến, rất có thể bọn họ lại lấy thân báo quốc.

A Hành thấy Thiếu Hạo làm thinh, bèn nài nỉ: “Thiếp đã gủi thư cho phụ vương, khẩn cầu người lập tức phái binh cứu trợ Tứ ca, nhưng đường sá xa xôi, đi đi về về có nhanh đến mấy cũng phải mất một ngày đêm, chỉ có Cao Tân ở gần đó, lại có nhiều cao thủ thủy linh, nếu hiện tại lập tức xuất chinh thì chỉ một ngày là đến được Tuân sơn, phá vỡ trận pháp của Chúc Dung.”

Thiếu Hạo cúi đầu trầm tư, hồi lâu không đáp, nếu như hôm nay y cứu trợ Hiên Viên, ngày sau Hiên Viên tiến đánh Cao Tân, ai sẽ cứu Cao Tân đây?

Đoán được tâm tư Thiếu Hạo, An Dung cao giọng: “Cao Tân không thể xuất binh được!”

Quý Ly ôn hòa hơn, uyển chuyển lựa lời: “Đã biết là núi lửa bùng nổ, nếu Cao Tân phát binh, chẳng phải là đẩy tướng sĩ đi tìm chết sao?”

A Hành vội thuyết phục: “Trận pháp lớn như vậy, hiện giờ Chúc Dung không đủ nhân lực, lại nôn nóng hoàn thành thật nhanh nên chắc chắn sẽ có nhược điểm. Thủy khắc Hỏa, chỉ cần chúng ta lập tức tiến công, lấy ưu thế tương khắc mà đánh nhanh thắng nhanh, hẳn tỷ lệ tử thương rất thấp. Thiếp xin đi theo đại quân, đảm bảo sẽ là người đầu tiên tấn công, người cuối cùng rút lui.” A Hành nắm chặt lấy tay Thiếu Hạo, ngẩng đầu nhìn y, lấy sự sống chết của mình ra bảo đảm để Thiếu Hạo cho mượn binh.

Thiếu Hạo vẫn lặng thinh không nói, chỉ có An Dung lên tiếng: “Vương phi cũng biết đấy, Cao Tân không giống như Hiên Viên, Cao Tân đã lập quốc mấy vạn năm nay, pháp lệnh quy củ nghiêm ngặt, dẫu là quân vương cũng không thể tùy tiện phát binh. Vả lại, nếu các binh sĩ Thần tộc biết được họ bị đẩy tới chỗ núi lửa sắp phun trào, nhất định sẽ không chấp nhận, mà gia tộc của họ sau này cũng không thể kính phục bậc quân vương đùa bỡn với tính mạng con cháu họ.”

A Hành khẩn khoản nhìn Thiếu Hạo, nước mắt lã chã: “Thiếp biết quân đội Thần tộc của các nước đều rất đáng quý, chàng không thể vì lời thỉnh cầu của một người đàn bà mà mạo hiểm phát binh, huống hồ giữa hai ta lại chẳng hề có tình cảm, nhưng thiếp xin chàng, xin chàng nể giao tình giữa chàng và Đại ca thiếp, cho thiếp mượn một cánh quân đi, thiếp sẽ bảo đảm an toàn cho các binh sĩ Cao Tân?”

An Tấn giễu cợt: “Vương phi bảo đảm an toàn được cho họ ư? Vương phi chỉ là một người đàn bà, chưa từng ra trận, có hiểu chiến trường là thế nào không? Vương phi lấy gì để bảo đảm an toàn cho họ?”

Quý Ly lắc đầu thở dài, “Ngay cả những tướng quân trung thành với bệ hạ nhất trong đại điện này vương phi còn không thuyết phục được, huống gì tộc trưởng các tộc và các vị đại thần?”

Hai vị tướng quân khác cũng lắc đầu phản đối, đua nhau khuyên Thiếu Hạo không thể phái binh vào chỗ chết. An Tấn thấy mọi người tán đồng với mình, lại vàng to mồm phản đối, từng bước lấn át A Hành.

Nghĩ đến Tứ ca đang ngàn cân treo sợi tóc, bi ai và phẫn hận trào lên trong lòng A Hành, nàng đột ngột đứng phắt dậy, tuốt bội đao giắt nơi thắt lưng An Tân, vung đao chém xuống, An Tấn vội né người tránh đi, chỉ thấy máu bắn tóe lên, phun cả vào mặt hắn, ngón út bàn tay trái của A Hành đã biến mất, máu chảy xối xả, nàng đanh giọng hỏi An Tấn: “Ta có thể bảo đảm được chưa?”

An Tấn nào ngờ vị vương phi bề ngoài yếu đuối này lại quyết liệt đến nhường ấy, chỉ biết ngây ra nhìn A Hành. An Dung định mở miệng nói gì đó nhưng đã bị ánh mắt A Hành chấn nhiếp, không sao cất nổi nên lời. Quý Ly và hai vị tướng quân khác cũng sững sờ trước hành động của A Hành, lắp bắp mãi không ra tiếng.

Thiếu Hạo vội vã nắm lấy tay A Hành, toan cầm máu cho nàng nhưng A Hành đã đẩy tay y ra, quỳ sụp xuống, tha thiết vật nài: “Xin bệ hạ cho thiếp mượn một cánh quân thôi.”

Thiếu Hạo lòng đau như cắt, tái mặt đáp, “Nàng cần gì phải như vậy? Trước hết lo cầm máu đi đã.” Đâu phải y không muốn đáp ứng A Hành, nhưng y là vua một nước, hôm nay hứa một lời cũng chẳng mất mát gì, nhưng ngày sau mấy chục vạn bách tính vô tội của Cao Tân phải lấy tính mạng ra đền lại thì sao?

A Hành thấy y trù trừ không chịu đáp ứng, liền nôn nóng sẵng giọng chất vấn: “Khi trước ai từng nói ‘từ rày trở đi, ta chính là Thanh Dương’? Đại ca thiếp thà hy sinh tính mạng, cũng quyết không để kẻ khác làm thương tổn đến bọn thiếp.”

Thanh Dương… Thiếu Hạo run bắn, lồng ngực thoắt lạnh buốt, thoắt nóng rực, tưởng như nỗi đau đớn và tuyệt vọng khi Thanh Dương chết đi lại quay về. Hơn ai hết, y rất mong mình có thể đáp ứng A Hành, thậm chí y không dám mở miệng, chỉ e vừa cất lời sẽ đáp ứng nàng ngay. Y nắm chặt tay lại thành quyền, cố ngăn bản thân không kích động. Hôm nay không cứu trợ Hiên Viên, y cũng không còn mặt mũi nào gặp lại Thanh Dương nằm trong cỗ quan tài thủy tinh kia nữa, chỉ càng thêm căm ghét sự vong ân bội nghĩa của chính mình mà thôi; nhưng nếu cứu quân đội Hiên Viên, y chẳng những phụ chính mình, mà còn phụ Nặc Nại dấn thân vào hang hùm miệng cọp, thâm nhập doanh trại địch, phụ cả An Dung, An Tấn dốc hết nhiệt huyết phò tá y, phụ tất cả thần dân của y, khiến vô số bách tính Cao Tân phải lênh đênh khổ sở, sống không bằng chết.

Thấy Thiếu Hạo mím chặt môi, chẳng nói chẳng rằng. A Hành nước mắt đầm đìa, dập đầu lia lịa thành tiếng, “Chàng đã đáp ứng với Đại ca thiếp thế nào? Đó là Tứ ca Xương Ý của thiếp mà! Chàng đã chứng kiến Tứ ca sinh ra lớn lên, từ bé huynh ấy đã gọi chàng là ‘Thiếu Hạo ca ca’, coi chàng như đại ca mình, thuở nhỏ chàng còn ẵm huynh ấy đi chơi, chiêu kiếm đầu tiên huynh ấy biết cũng là do chàng dạy.”

Thiếu Hạo không hề nhúc nhích, nét mặt trơ trơ, thoạt nhìn có vẻ bình tĩnh, nhưng bàn tay giấu trong tay áo vì linh lực xáo động, máu tươi đã ứa ra theo kẽ móng tay, nhỏ tong tỏng xuống đất, vừa hay nhỏ đúng vũng máu của A Hành nên nhất thời không ai để ý.

A Hành dập đầu đến gần toạc cả trán mà Thiếu Hạo vẫn lạnh lùng đứng đó, cuối cùng nàng tuyệt vọng, bèn đứng dậy, đau đớn nói: “Thiếu Hạo, Đại ca ta nhất định không tha thứ cho ngươi đâu! Giao tình ngàn năm, từ nay cắt đứt!”

Dứt lời nàng quay ngoắt người chạy ra ngoài, huýt một tiếng lanh lảnh, nhảy lên lưng A Tệ, bay vút đi, chớp mắt đã biến mất.

Người Cao Tân tôn thờ màu trắng, nên đai điện lát toàn bạch ngọc, máu đỏ thắm nhỏ lên nền đá bạch ngọc, càng thêm chói mắt.

Thiếu Hạo thần người nhìn những giọt đỏ thẫm tí tách nhỏ xuống.

“Bệ hạ.” Quý Ly định mở miệng tấu trình.

“Ra ngoài cả đi!” Thiếu Hạo xua tay, giọng trầm thấp lạnh lùng, không chút biểu cảm.

Đám cận thần cung kính lui ra khỏi đại điện. Cách một thông đạo dài đằng đẵng, họ thấy giữa đại điện sáng sủa mà trống trải, đấng quân vương của họ vẫn đứng sững đó, không hề nhúc nhích.

Thiếu Hạo thẫn thờ nhìn vũng máu của A Hành đọng lại trên sàn.

Cứ ngỡ rằng, ngày dài tháng rộng, nước chảy đá mòn, rồi sẽ có một ngày y đợi được nàng ngoảnh lại, trông thấy một người vẫn luôn đứng bên nàng. Có lẽ đến lúc ấy nàng sẽ bằng lòng làm vợ y, thực sự làm vợ y, nhưng hết lần này sang lần khác, y đều tự tay đẩy nàng ra xa.

Máu nàng vương trên nền bạch ngọc, đỏ đến nhói lòng, tựa như muôn vàn cánh đào nở rộ.

Lòng y chợt động, sực nhớ ra trong thiên hạ này vẫn còn một kẻ vô câu vô thúc, phóng khoáng tự do, bất chấp tất cả!

Y lật đật rút ra một mảnh khăn lụa cũ, nhúng tay vào vũng máu A Hành trên sàn, bắt chước nét chữ của nàng, viết vội viết vàng một phong thư cầu cứu.

Viết xong, y lại do dự, thật sự phải gửi phong thư này đi ư? Một khi gửi đi rồi, có lẽ mọi ràng buộc giữa y và A Hành sẽ hoàn toàn đứt đoạn, một khi gửi đi rồi, chính là giúp cho A Hành và Xi Vưu nối lại duyên xưa.

Ánh mắt y lạnh ngắt như tro tàn, nhưng chỉ một khắc sau, y đã gọi Huyền điểu lại, nghiêm trang mà rành rọt ra lệnh: “Đưa phong thư này tới Trạch Châu, giao cho Xi Vưu.”

Sáng hôm sau, A Hành đến Tuân sơn, đang len lén lẻn vào trong núi thì một mũi tên xé gió bay vút đến.

Nàng vung tay, mũi tên liền bay ngược trở lại, lập tức một bóng người lao đến tấn công nàng, thanh chủy thủ loang loáng dưới nắng mai, phát ra hàn quang quen thuộc.

A Hành vội gọi: “Tứ tẩu, là muội đây.”

Xương Phó khựng lại, “Sao muội lại ở đây?” Nhác thấy tay áo A Hành rách toạc, khắp người đầy máu, nàng kinh ngạc hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy?”

“Đừng lo cho muội, muội có chuyện cần nói riêng với tẩu.”

Xương Phó cho đám binh sĩ theo mình đi tuần lui ra, bấy giờ A Hành mới hỏi: “Chúc Dung hẹn khi nào thì đầu hàng?”

“Chính là hôm nay, Xương Ý đã đi tiếp nhận đầu hàng rồi. Chúc Dung muốn phụ vương phong cho hắn chức quan cao hơn Hậu Thổ, đất phong cũng phải lớn hơn, phụ vương đều đáp ứng cả. Hắn còn đòi phụ vương đích thân tới đây tiếp nhận sự đầu hàng của hắn, nhưng phụ vương cự tuyệt, chỉ đáp ứng khi nào hắn tới Hiên Viên thành, sẽ cử hành nghi thức long trọng nhất để nghênh tiếp.”

Thấy A Hành tái mặt, Xương Phó hỏi: “Rốt cuộc có chuyện gì?”

“Chúc Dung không thật lòng quy hàng đâu, hắn vờ đầu hàng dụ quân ta tới để giết đó.”

Xương Phó cười đáp: “Việc này ta đã phòng hờ cả rồi, nên mới không đi cùng Xương Ý, một khi xảy ra biến cố, ta sẽ lập tức tiếp ứng ngay.”

A Hành buồn bã nói: “Chúc Dung đã bày bố trận pháp, điều động địa hỏa dưới lòng đất, định sẽ dẫn cho núi lửa bùng nổ, khiến tất cả cùng chết.”

Xương Phó kinh hoàng há hốc miệng, ngay sau đó, nàng quay phắt người định chạy đi nhưng bị A Hành giữ lại, “Tẩu đừng cuống lên, lỡ Chúc Dung phát hiện chúng ta đã biết, hắn sẽ lập tức phát động trận pháp đấy.”

Xương Phó vẫn run lên, “Dù có chết, ta cũng phải chết chung với Xương Ý.”

A Hành trấn an nàng, “Muội hiểu mà, tẩu đi tìm Tứ ca, bảo Tứ ca nói với Chúc Dung rằng, phụ vương đột ngột thay đổi chủ ý, quyết định sẽ đích thân tới tiếp nhận đầu hàng, tối nay là đến nơi.”

“Liệu hắn có tin không?”

“Căm hận làm mờ mắt! Phụ vương khiến Thần Nông quốc sụp đổ, Chúc Dung hận phụ vương hơn ai hết, căm hận sẽ khiến hắn mất đi sáng suốt, tẩu cứ cố gắng trì hoãn nhé, trì hoãn được lúc nào hay lúc nấy. Hôm qua muội đã gửi thư cho phụ vương rồi, cứ theo tốc độ của Liệt Dương thì đến nửa đêm là phụ vương nhận được, chắc hẳn giữa đêm hôm đã điều binh đi rồi, chỉ cần trì hoãn đến chập tối, quân cứu viện của Hiên Viên sẽ đến.”

Xương Phó không hổ là nữ kiệt nổi tiếng đại hoang, chỉ lát sau đã trấn tĩnh lại, khôi phục khí độ tộc trưởng, “Ta vốn đã bàn với Xương Ý, chàng dẫn một trăm tướng sĩ Thần tộc và năm ngàn chiến binh Nhược Thủy đi tiếp nhận đầu hàng, ta chỉ huy những người còn lại trấn giữ ở đây, một khi có biến, ta sẽ lập tức đem binh tiếp ứng. Hiện giờ, những người đi theo Xương Ý tuyệt đối không được manh động, bằng không Chúc Dung sẽ lập tức phát động trận thế. Chỉ cần cố gắng bảo toàn những chiến sĩ đóng ở đây, ta sẽ đi đến chỗ Xương Ý, ra sức trì hoãn Chúc Dung, đợi cứu viện của phụ vương đến, muội hãy dẫn tất cả binh sĩ ở đây rút lui ngay.”

Dứt lời Xương Phó giao binh phù cho A Hành, toan đi ngay, nhưng A Hành kéo nàng lại, chần chừ một thoáng rồi nói: “Thực ra vẫn còn một cách là tẩu và Tứ ca cưỡi Trùng Minh điểu đi ngay bây giờ, phái một chiến sĩ Thần tộc linh lực cao cường giả trang làm Tứ ca đánh lừa Chúc Dung, tuy không kéo dài được lâu, nhưng cũng đủ để hai người rời khỏi đây rồi.”

Xương Phó bình tĩnh đáp: “Nhưng năm ngàn chiến binh Nhược Thủy sẽ không thoát được, trước khi dắt bọn họ rời Nhược Thủy, ta đã kính rượu dập đầu trước Thần thụ Nhược Mộc, tổ tiên của Nhược Thủy tộc, nếu bọn họ không thể quay về, ta cũng chẳng còn mặt mũi nào về nữa. Tứ ca muội cũng sẽ không vứt bỏ một trăm chiến sĩ Hiên Viên tộc mà bỏ chạy một mình đâu.” Xương Phó nắm chặt lấy tay A Hành, “Các tướng sĩ ở đây nhờ muội cả đấy.” Nói rồi, lập tức quay người bỏ đi.

A Hành vỗ đầu A Tệ, lẩm bẩm: “Ta biết mà, nhất định Tứ ca Tứ tẩu không chịu làm theo cách thứ hai đâu. Nếu ta bảo mày đi, chắc chắn mày cũng không chịu, ta cũng chẳng nên nhiều lời nữa nhỉ?”

A Tệ gục gặc đầu.

“Cũng tốt, dù sao Liệt Dương không ở đây, nếu chúng ta… Ít ra cũng còn Liệt Dương nuôi nấng Tiểu Yêu, có điều, không biết Liệt Dương sẽ dạy dỗ Tiểu Yêu thành ra thế nào.”

A Tệ khẽ dụi đầu vào tay A Hành, nét cười lấp lánh trong mắt. A Hành cũng phì cười, xoa xoa đầu A Tệ, nước mắt lăn dài, hạ giọng: “Cảm ơn mày.” Cùng sống cùng chết, không lìa không bỏ, nói thì dễ, nhưng chân chính thực hiện có được mấy ai? Tình nghĩa cả ngàn năm giữa Thanh Dương và Thiếu Hạo cuối cùng cũng không hơn được giang sơn xã tắc của Thiếu Hạo kia mà.

A Hành cầm binh phù bước vào doanh trại, cũng không nói rõ sự tình với tướng sĩ mà chỉ triệu tập hai viên tướng Nhược Thủy tộc, lệnh cho bọn họ lập tức dẫn binh âm thầm rút lui, hành quân thần tốc, giữa đường không được dừng lại nghỉ ngơi, kẻ nào dám trái lôi ra chém.

A Hành lại triệu tập một trăm thần tướng Hiên Viên tộc, lệnh cho bọn họ nhóm lửa thổi cơm khắp xung quanh, làm thật nhiều con rối, cho mặc quần áo như thật rồi dùng linh lực điều khiển chúng đi qua đi lại, tạo nên khung cảnh vui vẻ tưng bừng, người người mừng rỡ, đợi đến tối hẵng kết thúc.

Hơn một giờ sau, thấy mặt trời sắp lên đến đỉnh đầu, A Hành bí mật tập hợp một trăm tướng lĩnh Thần tộc lại. Nàng vốn không định nói sự thật với bọn họ, e họ kinh hoàng hoảng loạn, nhưng lại chẳng biết nên ra lệnh thế nào cho phải. Nhìn những gương mặt bừng bừng nhiệt huyết của họ, nghĩ tới việc họ cũng có cha mẹ người thân, nàng thực không muốn giấu diếm nữa.

“Sâu bên dưới lòng đất nơi chúng ta đang đứng đây đều là địa hỏa, chỉ cần chủ nhân phát động trận pháp, núi lửa lập tức bùng nổ, dải núi này sẽ bốc cháy phừng phừng, phun ra dung nham nóng bỏng làm tan chảy cả đá tảng, tọa kỵ của các người có nhanh đến đâu cũng không thoát nổi.”

Một trăm tướng sĩ Thần tộc biến sắc, ánh mắt lộ vẻ kinh hãi.

“Sáng nay ta đã nói với Xương Phó, bảo Tứ tẩu đi trước, nhưng Tứ tẩu nói dù mình giữ được mạng cũng không còn mặt mũi nào trông thấy cha mẹ người thân của các chiến binh Nhược Thủy nên quyết định ở lại, giúp Tứ ca ta trì hoãn Chúc Dung. Tuy ta nắm giữ binh phù, nhưng ta thấy mình không có quyền bắt các ngươi xông vào chỗ chết, nếu các ngươi muốn đi thì đi ngay bây giờ đi.”

Mọi người lặng yên không đáp, nhưng vẻ mặt lại dần kiên định hẳn lên.

Một thiếu niên mặt mày sáng sủa lên tiếng: “Vương cơ, lẽ nào người quên rằng Hiên Viên tộc nổi danh dũng mãnh thiện chiến ư? Chúng tôi đều là tinh nhuệ do Hoàng Đế đích thân tuyển lựa, còn năm ngàn một trăm huynh đệ ở lại đây, nếu chúng tôi bỏ chạy một mình, đừng nói sẽ không thoát được hình phạt của Hoàng Đế, mà còn trở thành nỗi ô nhục của gia tộc. Người cứ việc ra lệnh đi!”

A Hành chăm chú nhìn những nam nhi này, lần đầu tiên cảm nhận được trong cơ thể mình và bọn họ đều có chung huyết mạch Hiên Viên, vì cùng chung huyết mạch nên có thể chia ngọt sẻ bùi, cùng vào sinh ra tử. Nàng cố nén cảm xúc đang trào lên, cất tiếng: “Trận pháp lớn thế này, không thể chỉ dựa vào linh lực một mình Chúc Dung, nhất định có những người khác đang giúp đỡ hắn, nhiệm vụ của các người là tìm cho được bọn chúng rồi tiêu diệt! Tuy trận pháp đã hình thành, làm thế này không thể phá giải được, nhưng cũng giảm thiểu được phần nào uy lực của nó, giúp thêm nhiều binh sĩ có thể rút lui an toàn.”

Đoạn nàng quay sang hỏi kẻ vừa lên tiếng: “Ngươi tên gì?”

“Mạt tướng Nhạc Uyên.”

“Nhạc Uyên, ta không rành điều binh khiển tướng, ngươi lại đây định đoạt xem nên thực hiện thế nào cho hiệu quả.”

“Vì không biết những người kia ẩn nấp ở đâu, nên chỉ có thể dốc sức lùng tìm trên diện rộng thôi, hai người hợp thành một tổ, chia ra mà hành động!”

“Được, cứ vậy đi!”

Một trăm tướng sĩ nhất loạt quỳ xuống nhận lệnh. Nhạc Uyên xé một mảnh chiến bào, vội vàng lấy máu viết mấy dòng lên đó đưa cho A Hành, “Nếu tôi không thoát được, phiền vương cơ nghĩ cách giao thứ này cho cha tôi.” Những người khác thấy vậy cũng tới tấp noi theo. Chẳng ai nói với ai một lời, tất cả chìm trong không khí trầm mặc mà hào hùng, coi chết như về.

A Hành nuốt lệ, cởi áo khoác ra, gói tất cả những bức huyết thư đó lại, cột lên lưng A Tệ, “Đây là áo làm từ tơ băng tằm do mẫu hậu ta dệt thành, nước lửa không thiêu hủy được, hiện giờ ta phải tới gặp Tứ ca, giúp huynh ấy lần lữa với Chúc Dung, đợi cứu binh tới. Ta cũng không rõ mình có thoát được hay không, nhưng ta bảo đảm, những bức thư này nhất định sẽ đến tay người nhà các ngươi.”

Các tướng sĩ chia ra hai người thành một tổ, tản đi bốn phương tám hướng, khuất dạng giữa rừng cây. Bấy giờ, A Hành mới ngoảnh mặt về phía bọn họ khuất bóng, quỳ xuống, lặng lẽ dập đầu ba cái.

Những nam nhi kiêu dũng ấy là con dân Hiên Viên! Chưa bao giờ nàng kiêu hãnh vì mình là vương cơ Hiên Viên đến thế!

A Hành vơ lấy một bộ khôi giáp của binh sĩ mặc vào, đoạn quay sang bảo A Tệ: “Chúng ta đi gặp Chúc Dung.”

A Tệ đập cánh bay vút lên, cõng nàng đến nơi Chúc Dung ước định đầu hàng.

Đỉnh núi ba bề cao chót vót, chính giữa là một khe sâu, có dòng suối uốn mình chảy qua, nếu núi lửa phun trào, dung nham chẳng mấy chốc sẽ đổ xuống đây.

A Hành bảo A Tệ: “Ta nhờ mày một việc nhé, mau bay đi đem gói thư này đến một nơi an toàn.”

Thấy A Tệ rưng rưng nước mắt, A Hành xoa đầu nó dỗ dành: “Ta biết mày không muốn, nhưng mày nhất định phải thay ta hoàn thành việc này, ta đã hứa với bọn họ rồi.”

A Tệ lưu luyến liếm tay A Hành rồi bay thẳng về hướng Tây. A Hành nhìn theo bóng A Tệ, khẽ mỉm cười, A Tệ, đồ ngốc ạ, nếu chỉ còn lại một mình, hẳn Liệt Dương sẽ cô đơn lắm, mày phải bầu bạn cùng nó nhé!

Thấy Xương Ý và Xương Phó đang ngồi trên phiến đá chơi cờ vẻ nhàn nhã, A Hành liền tiến lại: “Tứ ca, Tứ tẩu.”

Xương Phó kinh ngạc trừng mắt nhìn nàng, còn Xương Ý giận dữ hỏi: “Chẳng phải Xương Phó bảo muội dẫn quân rút lui ư?”

“Bọn họ đều là chiến sĩ đã được huấn luyện, một khi nhận được mệnh lệnh sẽ lập tức chấp hành, cần gì muội chỉ tay năm ngón.”

Xương Ý cương quyết: “Muội đi ngay cho ta.”

A Hành ngồi xuống bên Xương Ý, đặt tay phải lên đầu gối y, “Tứ ca, nếu đổi lại là huynh, huynh có đi không? Huynh đừng ép muội! Huynh có thể đuổi muội, nhưng muội sẽ quay lại, cùng lắm thì trốn đi không để huynh thấy là được chứ gì.”

Xương Ý chăm chăm nhìn A Hành hồi lâu, rồi giơ tay xoa đầu nàng, không nói gì thêm nữa.

A Hành đứng dậy nhìn sang sườn núi bên kia, chỉ thấy thấp thoáng sau bóng cây, một dàn những lá cờ Ngũ Sắc Hỏa Diễm rực rỡ tung bay trong gió, từng đội quân xếp hàng ngay ngắn đứng dưới cờ, khôi giáp lấp loáng, giáo gươm chói lọi khiến người ta chẳng dám nhìn thẳng.

Xương Ý lên tiếng: “Hôm nay vừa thấy bọn chúng ta đã biết là không ổn, đâu ra chuyện hàng binh lại hừng hực khi thế như vậy chứ? Ta cứ ngỡ rằng chúng chỉ trá hàng, nên đã cùng Xương Phó chuẩn bị sẵn cách đối phó, nào ngờ thông minh lại bị thông minh làm hại.”

Đột nhiên, một giọng sang sảng vang lên trong sơn cốc, Chúc Dung đứng trên đầu núi hỏi vọng vào: “Rốt cuộc Hoàng Đế có đến không hả?”

Xương Ý đáp: “Đại tướng quân nói vậy là có ý gì?”

Chúc Dung lạnh lùng: “Chẳng có ý gì cả, Hoàng Đế xưa nay quỷ kế đa đoan, ta chỉ muốn hỏi cho rõ ràng thôi.”

Xương Ý đáp: “Nếu đại tướng quân không muốn đợi thì chúng ta cứ tiếp nhận đầu hàng trước, khi nào phụ vương tới, ta sẽ thỉnh tội sau vậy.”

Im lặng.

Một lúc sau, Chúc Dung lên tiếng: “Đợi thêm lát nữa đi!”

Bấy giờ, trái tim đã thót lên đến cổ họng của Xương Phó và A Hành mới từ từ trôi trở xuống. Xương Phó kể với A Hành: “Chúc Dung đa nghi, cứ chốc chốc lại lên tiếng nói chuyện với Xương Ý để chắc chắn rằng chàng vẫn ở đây, hơn nữa hắn còn vận linh lực nói chuyện, buộc chàng cũng phải vận linh lực trả lời, nếu cho người khác giả mạo, hắn sẽ phát hiện ra ngay.”

A Hành đáp: “ Hắn không chỉ thăm dò đâu, mà dường như đợi mãi sốt ruột rồi, e rằng hắn cũng đang phân vân. Một mặt hắn không tin lời chúng ta, ngỡ ràng chúng ta đã phát hiện ra quỷ kế của hắn nên cố ý lần lữa, mặt khác hắn lại thầm hy vọng phụ vương sẽ đến, để kéo Người chết chung, rửa nhục cho Thần Nông quốc.”

Xương Ý nhìn quanh bảo A Hành: “Tiếc rằng cây ngọc tiêu lại để trong doanh trại, không mang theo người, muội đi chặt dùm ta một đoạn trúc.”

A Hành vội vào rừng chọn lấy một cây trúc, Xương Phó đưa chủy thủ tùy thân cho Xương Ý, chẳng mấy chốc, y đã vót được một cây trúc tiêu, cười nói: “Tuy không dám bì với Ngự Âm thuật của Yến Long, nhưng tiếng tiêu cũng là tiếng lòng, hy vọng có thể khiến Chúc Dung bớt nôn nóng.”

Nói rồi, y đặt trúc tiêu lên môi bắt đầu thổi, tiếng tiêu dìu dặt uyển chuyển, trong trẻo êm ái, như từng trận gió xuân thổi qua mặt đất khiến A Hành thấy lòng bình lặng hẳn. Nàng chợt sinh lòng kính phục Tứ ca, tiếng lòng không thể nào giả dối được, Tứ ca nàng thật sự tâm bình khí hòa, không lo không sợ nên mới cất lên được tiếng tiêu như vậy. Thường nghe nói tới lúc nguy nan mới biết được chí khí con người, khí độ này của Tứ ca thật khó ai bì kịp.

Chúc Dung mang dòng dõi vương tộc, chắc chắn từng học qua lễ nhạc, biết tiếng tiêu là tiếng lòng, tự nhiên nghe tiếng tiêu cũng hiểu được lòng kẻ thổi tiêu, nghi ngờ tiêu tan hết cả.

Xương Ý ngồi trên phiến đá chuyên chú thổi tiêu, Xương Phó ngồi bó gối lặng lẽ nghe, mắt không rời Xương Ý, ánh mắt miên man tình ý.

A Hành ngồi tựa vào gốc cây, ngước nhìn tán lá xanh um trên đầu, thần tình hoảng hốt, lúc thấy Xi Vưu, lúc lại thấy Tiểu Yêu hiện lên trước mắt.

Khúc nhạc đã dứt, núi rừng lại chìm vào tĩnh lặng, mọi người đều lặng thinh chờ đợi, có lẽ vì chờ đợi chính là tử vong, nên trước sự nặng nề của sinh mệnh, cả đỉnh núi cũng lặng ngắt như tờ, sơn cốc im phắc như chết, không một tiếng chim chóc.

Khi mọi người đợi đến phát bực, Xương Ý lại tấu lên một khúc, tiếng tiêu như mưa phùn lất phất, xoa dịu những trái tim đang nôn nóng.

Vầng dương dần ngả về Tây, cứu binh Hiên Viên vẫn chưa thấy đâu.

Xương Phó không nhịn được, hỏi A Hành: “Liệt Dương có tin được không?”

A Hành cũng hoang mang hoảng hốt, tính thời gian, đáng lẽ cứu binh phải đến từ lâu rồi mới phải. Chẳng đợi A Hành đáp, Xương Phó lại cuống quýt hỏi: “Lẽ nào phụ vương không chịu phát binh? Muội có nói với phụ vương là việc rất khẩn cấp không?”

“Xương Phó!” Xương Ý nắm tay Xương Phó, dịu dàng nhìn nàng. Xương phó chợt thấy lòng bình lặng hẳn, bao sợ hãi kinh hoảng đều tiêu tan cả, nàng quay sang nói với A Hành: “Xin lỗi, tiểu muội.”

“Thằng nhãi Xương Ý dám lừa ta!” Rốt cuộc Chúc Dung cũng nhận ra Hoàng Đế sẽ không đến, nổi giận gầm vang cả núi rừng, “Ngươi tưởng kéo dài thời gian thì có thể phá được trận pháp của ta ư? Đừng hòng! Tất cả các ngươi sẽ phải bỏ mạng ở đây! Cả ngọn núi này sẽ biến thành núi lửa, không một kẻ nào thoát được đâu!”

Đám binh sĩ kinh hoàng hoảng hốt, cả đội hình tức thì rối loạn.

Xương Ý đưa mắt nhìn Xương Phó, thấy nàng gật đầu kiên nghị, y siết chặt tay nàng lần nữa, đoạn buông ra, rút phắt trường kiếm, bước đến trước hàng quân, lướt mắt nhìn tất cả mọi người. Trước ánh mắt điềm tĩnh bình thản của y, các binh sĩ dần dần bình tĩnh lại. Một binh sĩ Thần tộc cao giọng hỏi: “Vương tử, núi lửa sẽ bùng nổ thật sao? Chúng tôi đều phải chết à?”

Tất cả binh lính đều yên lặng đổ dồn mắt về phía Xương Ý, khát vọng cầu sinh ánh lên trong mắt. Xương Ý điềm đạm đáp: “Ta không thể cho các ngươi bất cứ hy vọng gì, điều duy nhất ta có thể hứa là, ta nhất định sẽ đứng chắn phía trước tất cả các ngươi.”

Nghe vậy, các binh sĩ đều lặng đi rồi lẳng lặng ai về chỗ nấy, lòng dũng cảm dần dần át đi nỗi sợ bản năng. Chính vì có lý trí nên con người ta mới là người, là linh khí của vạn vật.

Chúc Dung đứng trên đỉnh núi nhìn xuống, dưới chân là đầu lâu của mấy kẻ vừa bị hắn chém bay đầu.

Vì sợ tiết lộ tin tức ra ngoài nên Chúc Dung chỉ nói với tướng sĩ là trá hàng. Vừa rồi, nghe hắn nói núi lửa sẽ bùng nổ, tướng sĩ Hiên Viên tộc kinh hãi đã đành, tướng sĩ Thần Nông tộc cũng hốt hoảng chẳng kém. Vài ba kẻ kinh hoàng toan bỏ chạy liền bị Chúc Dung chém bay đầu, hắn giẫm lên đầu những người đó, hỏi đám binh sĩ còn lại: “Các ngươi muốn chết trong vinh quang hay muốn làm đào binh chết dưới tay ta?”

Hết thảy binh sĩ đều trợn tròn mắt nhìn Chúc Dung, thế này là lựa chọn kiểu gì đây? Chọn thế nào cũng chết cả!

Chúc Dung rống lên: “Đừng hận ta, không phải ta không cho các ngươi cơ hội sống, mà là chúng!” Hỏa đao của hắn chỉ thẳng về phía quân Hiên Viên, “Bọn chúng đã giết người thân của chúng ta, hủy diệt gia viên của chúng ta, triệt đường sống của chúng ta! Lẽ nào các ngươi quên rồi sao?”

“A…” Bị nỗi kinh hoàng dồn đến chân tường, đám binh sĩ Thần Nông tộc tựa hồ đã biến thành một bầy quái vậy khát máu, hú lên thê thiết.

Nước đã mất, nhà đã tan, giờ chỉ còn một cái mạng này thôi! Bất kể là máu của bản thân hay của kẻ địch, chỉ có máu tươi mới có thể xoa dịu được cơn phẫn nộ đang cuộn lên trong lồng ngực.

Chúc Dung đạp lên mấy chiếc đầu lâu, nhìn đám binh sĩ dưới trướng, ngửa mặt cười ha hả.

Một chiếc bóng đỏ rực xẹt ngang trời như ánh chớp, thoắt cái đã đến trước mặt.

Xi Vưu đứng trên lưng đại bàng, ngạo nghễ giữa tầng không.

A Hành tròn mắt nhìn lên trời, như không dám tin, nàng còn tưởng mình vừa bị ảo giác.

Chúc Dung lập tức cưỡi Tất Phương điểu bay tới, “Ta không cần ngươi giúp, đến từ đâu thì cút về chỗ đó đi!”

Xi Vưu cười, “Đừng nóng, ta có đến giúp ngươi đâu!”

Chúc Dung đanh mặt lại, giận dữ hỏi: “Lẽ nào ngươi định giúp Hiên Viên?”

Xi Vưu ôm quyền đáp: “Chính thế.”

Cả Thần Nông lẫn Hiên Viên đều kinh hoàng.

“Ngươi…” Chúc Dung giận đến run bắn người lên, “Ta sớm đã biết ngươi là đồ cầm thú mà! Chỉ không ngờ ngươi còn chẳng bằng cầm thú nữa, ngươi có khác gì mấy tên phản bội kia, rặt một phường hèn nhát!”

Xi Vưu đáp: “Hẳn ngươi cũng biết đám thuộc hạ của ta đều là đồ điên giống ta cả, bọn chúng chỉ thừa nhận ta, chứ không thừa nhận Thần Nông quốc, nếu ta phản bội, chúng cũng sẽ phản bội theo. Có sự hỗ trợ của chúng, lại thêm hiểu biết của ta về sơn thế địa khí, ngươi thử nghĩ xem mình còn cơ hội phát động trận pháp không?”

Nghe câu này, Chúc Dung cứng họng, Xi Vưu bẩm sinh đã rất mẫn cảm đối với địa khí, có hắn ở dây, e rằng không cách nào phát động trận pháp được, “Rốt cuộc ngươi muốn làm gì?”

Xi Vưu thu lại nụ cười, dõng dạc nói với binh sĩ Thần Nông tộc: “Ta và Du Võng đã thề, chỉ cần y không thất tín, ta sẽ vĩnh viễn không phản bội y, đương nhiên cũng phản bội lại con dân của y. Nhưng ta cũng là một người đàn ông, ta từng thề với một cô gái Hiên Viên tộc rằng, bất kể nguy hiểm gian khó tới đâu, ta cũng sẽ bảo vệ cho nàng.” Nói rồi hắn trỏ về phía A Hành, tất cả binh sĩ trên núi dưới núi đều đổ dồn mắt về phía nàng, bấy giờ mới phát hiện kẻ mặc khôi giáp ấy là một nữ tử.

“Ta không thể thất tín với nàng, nên hôm nay ta đến đây để đồng sinh cộng tử với nàng, các người đều là những hán tử dũng cảm nhất Thần Nông tộc, nếu các ngươi nghĩ tới người con gái của mình, hẳn có thể hiểu được lời thề của một người đàn ông với người con gái mà hắn yêu thương nhất mực.”

Nói rồi Xi Vưu đặt tay lên ngực, hành lễ với đám binh sĩ Thần Nông. Mọi người đều im lặng, bầu không khí nặng nề như một trái núi, đè lên trái tim tất cả.

Chúc Dung hừ lạnh: “Một người không thể chia làm hai nửa, ta thật không hiểu ngươi làm thế nào để vửa trung với Thần Nông, vừa trung với Hiên Viên đây!”

Xi Vưu xòe tay ra, chỉ thấy trong lòng bàn tay hắn là chín cây đinh dài màu tím, “Chắc ngươi biết đây là gì chứ hả?”

Chúc Dung biến sắc, “Cửu Tinh Tỏa Linh đinh.” Vật này do Viêm hậu đời thứ ba triệu tập thợ giỏi khắp thiên hạ rèn ra, vì Viêm Đế mắc phải bệnh lạ, linh lực rối loạn, thân thể co quắp, Viêm Hậu tinh thông y thuật, muốn hóa giải đau đớn cho Viêm Đế bèn chế ra Cửu Tinh Tỏa Linh đinh, ghim những cây đinh này vào huyệt vị, có thể phong tỏa linh khí vận hành. Nhưng những cây đinh này luyện thành từ những vị thuốc có tác dụng phá hoại thần lực cực mạnh, khi ghim vào cơ thể sẽ đau đớn như bị ngàn vạn con kiếm cắn xé, khó mà chịu nổi, nghe nói Viêm Đế đời thứ ba mới bị ghim bốn cây đinh vào người đã không sao chịu nổi, thà để cho linh khí giày vò mỗi ngày, còn hơn là ghim thêm đinh vào cơ thể.

Xi Vưu đặt một cây đinh nhắm chuẩn huyệt Thiên Đột trên yết hầu, dùng lực vỗ mạnh, cây đinh cắm phập vào cơ thể, sắc mặt hắn cũng lập tức trắng bệch ra.

Tiếp đến là huyệt Trung Đình ngay giữa ngực, hắn lại dùng lực vỗ mạnh, cây đinh cắm phập vào cơ thể.

Huyệt Thần Khuyết, huyệt Hoàn Khiêu, Tất Dương quan…

Xi Vưu đau đến vã mồ hôi lạnh, sắc mặt thoắt sạm thoắt tái, khiến rất nhiều người không đành lòng nhìn nữa, chỉ mình Chúc Dung vẫn chăm chú quan sát, không hề chớp mắt.

Sau cùng, Xi Vưu đau đến không đứng nổi nữa, phải quỵ một chân xuống, nhưng vẫn gắng gượng ghim nốt cây đinh cuối cùng vào huyệt Kim Môn dưới gan bàn chân, đoạn cười nhìn Chúc Dung: “Một nửa thuộc về Thần Nông, nửa kia thuộc về ta.”

Chúc Dung đáp: “Ta không nương tay đâu, nếu còn gặp lại, ta sẽ nhắm vào nửa người không có linh lực của ngươi.”

Xi Vưu ôm quyền đáp: “Hiện giờ ta không phải Xi Vưu của Thần Nông tộc mà chỉ là một gã đàn ông đang bảo vệ người con gái mình yêu, ta cũng sẽ không nương tay với ngươi đâu.”

“Chỉ dựa vào nửa phần linh lực, nửa bên người của ngươi ấy à? Đồ điên!” Chúc Dung khinh khỉnh hừ mũi, quay người bỏ đi.

Xương Ý nhìn Xi Vưu đang tái nhợt vì đau, thần sắc phức tạp. Xương Phó hạ giọng thì thào: “Chắc hẳn giờ chàng đã hiểu vì sao tiểu muội không quên nổi hắn rồi chứ?”

Xương Ý quyến luyến nhìn Xương Phó, chẳng giữ vẻ điềm đạm ôn nhã khi trước nữa, ánh mắt chỉ còn tình ý miên man không gì ngăn nổi. Xương Phó nhoẻn cười với phu quân, dịu giọng: “Chàng đi đi!” Xương Ý cũng mỉm cười, nhảy lên tọa kỵ Trùng Minh điểu, dẫn một trăm tinh nhuệ Thần tộc từ trên không lao xuống tấn công Chúc Dung, Xương Phó suất lĩnh binh sĩ Nhược Thủy tộc từ chân núi đánh thốc lên.

Tiếng hô “giết” vang động cả sơn cốc.

Xi Vưu đáp xuống bên cạnh A Hành, thấy nàng một mực cúi gằm mặt, gọi mấy tiếng cũng chẳng thưa, bèn cười hỏi: “Ây, ta liều chết chạy đến đây, tốt xấu gì nàng cũng phải tỏ thái độ chứ.”

A Hành không đáp, chỉ lao vụt đi.

Xi Vưu lẵng nhẵng bám theo không rời, vừa đuổi theo vừa hỏi: “Rốt cuộc nàng muốn thế nào? Đầu ta không thể chia làm hai được, đành nhất nhất nghe theo nàng thôi.”

A Hành cúi đầu đáp: “Đi tìm Chúc Dung.”

Xi Vưu nửa bế nửa ném A Hành lên lưng Tiêu Dao, bấy giờ mới phát hiện gương mặt nàng đầm đìa nước mắt, hắn chợt nghe lòng xao động, bèn vòng tay ôm chặt lấy nàng, khẽ hôn lên má: “Nàng khóc vì ta đấy ư? Thế này thì dẫu phải chết cũng đáng lắm.”

A Hành không nói nên lời, chỉ siết chặt tay Xi Vưu. Vừa nãy chứng kiến Xi Vưu bất chấp bị mọi người khinh bỉ, thản nhiên thừa nhận bản thân là tướng quân Thần Nông tộc lại đem lòng yêu thương một cô gái Hiên Viên tộc, còn vì lời thề với nàng mà cắm từng từng cây đinh vào cơ thể, nàng chợt nhận ra, bất luận kẻ trước mặt đây đã giết hại bao nhiêu tộc nhân của nàng, bất luận phải gánh chịu bao nhiêu gian nan đau khổ vì hắn, cũng có hề gì, thậm chí nếu phải chết ngay lúc này đây, nàng cũng chẳng còn gì hối tiếc.

Tiêu Dao bay rất nhanh, chỉ mấy cái chớp mắt đã đến được ngọn núi chính trong dãy Tuân sơn.

A hành đang lo không biết Chúc Dung nấp ở đâu, chợt trông thấy từng chuỗi bong bong do máu tươi hóa thành, từ trong rừng bốc lên.

“Bên kia kìa!”

Tiêu Dao đáp xuống, thấy trên mặt đất có năm thi thể binh sĩ Hiên Viên. Một tên tùy tùng của Chúc Dung vừa chém bay đầu một chiến sĩ Hiên Viên, còn đương kinh ngạc không hiểu sao linh lực kẻ này lại yếu đến vậy, chợt phát hiện ra hắn đã lợi dụng cái chết để biến linh huyết của mình thành tín hiệu.

A Hành liếc nhìn chiếc đầu lâu đó, liền nhận ra Nhạc Uyên, hắn đã dùng cái chết của mình để chỉ điểm cho nàng phương hướng của Chúc Dung, nàng vội quay sang bảo Xi Vưu: “Giúp ta chặn đám binh sĩ Thần Nông kia lại.” Dứt lời nàng vội bổ theo hướng Nhạc Uyên chỉ, đi tìm Chúc Dung.

Sau lưng bắt đầu vang lên tiếng vật lộn giao đấu nhưng A Hành chẳng dám ngoảnh lại nhìn, cứ lao thẳng tới trước. Ngay từ đầu, Chúc Dung hẳn đã dặn kỹ thuộc hạ cách để đối phó Xi Vưu – tập trung tấn công vào nửa bên người không có linh lực.

Xi Vưu chỉ còn lại nửa phần linh lực làm sao địch nổi bấy nhiêu cao thủ Thần tộc, A Hành không biết, cũng chẳng dám nghĩ nhiều, nàng chỉ biết cắm đầu chạy thẳng một mạch, sớm tìm được Chúc Dung chừng nào, hy vọng sống của bọn Tứ ca sẽ lớn thêm chừng ấy.

Cuối cùng, A Hành cũng tìm thấy Chúc Dung trên sườn núi quay về phía mặt trời. Hắn đang hướng về phía Thần Nông sơn, dập đầu bái lạy, đây chính là lễ tiết chính thức của Thần Nông vương tộc, lần trước nàng từng trông thấy lễ tiết này trên Tiểu Nguyệt đỉnh, lúc Viêm Đế lâm bệnh nặng, bên đống lửa, Du Võng cũng hành lễ với Viêm Đế như vậy. Nhớ lại chuyện đó, A Hành chợt thấy long chua xót, dừng sững lại.

Chúc Dung khấu bái xong bèn đứng dậy, hướng về phía Thần Nông sơn nói: “Đời này ta chỉ làm sai duy nhất một việc, là đã để Hoàng Đế lợi dụng sự căm hận của ta đối với Xi Vưu, nghe lời lão ta xúi giục mà kích động Du Võng thân chinh. Ta muốn làm Viêm Đế, muốn giết chết Xi Vưu, nhưng trước giờ, ta chưa từng nghĩ sẽ phản bội Thần Nông tộc!”

A Hành thầm nhủ, chẳng trách Chúc Dung hận Hoàng Đế đến vậy, thì ra Hoàng Đế đã lừa gạt lợi dụng hắn, thông qua đó giết hại Du Võng.

Nói đoạn, Chúc Dung ngoảnh lại nhìn A Hành: “Hạng tiểu nhân đê tiện như Hoàng Đế, làm sao hiểu được mối liên hệ huyết mạch trong gia tộc? Đó là cội rễ từ ngàn đời nay, vậy mà lão lại định dùng quan tước mua chuộc cội rễ duy nhất của ta. Ta những muốn thiêu cháy lão thành tro bụi, để cho lão biết, trong thiên hạ không phải cái gì cũng có thể mua chuộc được! Nể tình ngươi vừa nãy không đánh lén ta, cũng không quấy rầy ta hành lễ, ta tha mạng cho ngươi đấy, ngươi mau chạy đi!”

Thấy A Hành ngơ ngác, Chúc Dung cười, “Ta chính là trận pháp! Dù hiện giờ ngươi giết ta, cũng không thể ngăn ta phát động trận pháp!” Thì ra Chúc Dung lấy thân thể mình làm trận nhãn, bất kể hắn sống hay chết, cũng không thể ngăn trận pháp phát động.

Chúc Dung thúc đẩy linh lực, ngọn lửa ngũ sắc thêu trên chiến bào lập tức biến thành lửa thật, bừng bừng bốc cháy dưới chân hắn. Cả người hắn dần đỏ hồng lên, rọi sáng rực cả nửa bầu trời, không ngờ hắn đã điểm U Minh hỏa vào trong cơ thể, ngọn lửa càng cháy càng bốc cao, thấy rõ đến từng chiếc xương của hắn.

A Hành thấy đất dưới chân rung lên, vội loạng choạng lùi lại, kinh hoàng nhìn Chúc Dung. Nàng từng bị U Minh hỏa thiêu đốt nên rất hiểu cảm giác đau đớn đến tận xương tủy ấy, vậy mà Chúc Dung vẫn bất chấp lửa đỏ thiêu đốt, chẳng ngại trả giá đắt, hủy diệt cả linh thể và nhục thể để bố trí tử cục này.

Chúc Dung đứng giữa ngọn lửa ngũ sắc phừng phừng, dang hai tay cười lớn, “Cháy đi, cháy lên đi! Liệt tổ liệt tông Thần Nông tộc, đây là tế phẩm cuối cùng ta dâng lên các người!”

A Hành sực tỉnh, vội quay người lao thẳng xuống núi, đồng thời Xi Vưu cũng đang xông lên núi. Lúc này, cả hai đều có chung một ý nghĩ, dù có chết cũng phải chết bên nhau.

Trên một đỉnh núi cách đó khá xa, Xương Ý và Xương Phó đang ở giữa chiến trường cũng cảm thấy đất dưới chân chấn động mạnh, nhìn ngọn lửa ngút trời bốc lên từ đỉnh núi chính trong dãy Tuân sơn, mọi người đều biết đã không còn đường thoát, trước kiếp nạn khủng khiếp ập tới, tất cả đều mất hết ý chí chiến đấu, binh khí lần lượt rời tay rơi xuống đất.

Xương Ý cưỡi Trùng Minh điểu chấp chới bay về phía Xương Phó, Xương Phó cũng loạng choạng chạy về phía y. Trong khoảnh khắc cuối cùng của sinh mạng, họ chỉ muốn được ở bên nhau.

Khí nóng bốc lên cuồn cuộn, mặt đất rung lắc dữ dội, cây cối gãy đổ, đất đá nứt vỡ, Trùng Minh điểu mỗi lúc một thêm kinh hãi, không chịu tuân theo Xương Ý điều khiển nữa. Xương Ý sốt ruột bèn bỏ luôn tọa kỵ nhảy xuống chạy bộ, vừa né tránh những khối đá rào rào rơi xuống, vừa băng qua mặt đất đang không ngừng nứt toạc ra, chạy về phía Xương Phó.

Chỉ một đoạn đường ngắn ngủi, vậy mà lúc này cơ hồ không cách nào vượt qua được.

Chợt mấy tiếng nổ rung trời chuyển đất vang lên, cả bầu trời chuyển thành màu đỏ tía, núi lửa bắt đầu phun trào, khói đen dày đặc cuộn lên như những con rồng khổng lồ, mặt đất biến thành lò lửa, dung nham đỏ rực ào ào trút xuống như nước lũ.

Giữa cảnh khói bụi cuồn cuộn, ánh lửa ngút trời, nghiêng trời lệch đất, cuối cùng Xương Ý và Xương Phó cũng quờ quạng siết chặt được tay đối phương.

Xương Phó nhoẻn cười hạnh phúc, ôm lấy Xương Ý, tựa vào lòng y.

Hai người ngoảnh đầu nhìn khói lửa ngút trời, dung nham tràn ngập khắp nơi, ánh lửa đỏ hồng, ánh sáng tím biếc, dung nham đỏ sẫm, cả đất trời bỗng trở nên tươi đẹp vô cùng.

“Trước khi lìa trần, được chiêm ngưỡng cảnh này, coi như cũng không uổng một đời.” Xương Ý ôm lấy thê tử, mỉm cười ngắm quang cảnh xung quanh.

Xương Phó vừa cười vừa trỏ dòng dung nham: “Chàng xem, bên kia có một con suối dung nham đỏ rực kìa!” “Nhìn kìa, mấy đám mây lớn kia đẹp quá, chàng bảo có giống đỗ quyên nở trên núi không?”

Trong khoảnh khắc này, có thể tực kề bên nhau, sống chết đối với họ đã chẳng còn gì quan trọng nữa.

Một thoáng sau, văng vẳng nghe thấy có âm thanh truyền lại.

Xương Ý giỏi âm luật nên rất mẫn cảm với âm thanh, y ngoảnh lại nhìn về phía thanh âm truyền đến rồi cúi đầu nhìn thê tử.

Xương Phó ngẩng đầu nhìn y: “Sao thế?”

Xương Ý cười: “Chẳng phải nàng vẫn trách ta không dám hôn nàng trước mặt mọi người ư?”

“Hở?”

Xương Ý cúi đầu hôn lên môi Xương Phó nồng nàn đắm đuối, mãnh liệt triền miên, Xương Phó bị hôn đến nỗi tim đập chân run, hai má đỏ hồng, thần trí choáng váng, đứng còn không vững, lòng ngập tràn hạnh phúc.

Xương Ý dịu giọng dặn dò: “Nàng gắng nuôi nấng Chuyên Húc, nhắn lại với tiểu muội, ta không trách Xi Vưu giết chết Đại ca nữa đâu.”

Xương Phó còn chưa kịp phản ứng, chợt thấy gáy đau buốt lên, trước mắt tối sầm, mất hết ý thức, ngất lịm trong lòng Xương Ý.

Xương Ý rút cây trúc tiêu giắt thắt lưng ra, vận linh lực thổi mấy tiếng.

A Tệ đang kêu lanh lảnh, sục sạo khắp nơi tìm A Hành, nghe tiếng tiêu lập tức bay đến. Xương Ý đặt Xương Phó lên lưng A Tệ, cởi áo ngoài, cố định nàng thật vững, đoạn bảo A Tệ: “Đi tìm A Hành đi, chỉ cần tìm thấy Xi Vưu, có lẽ các người có thể chạy thoát.”

A Tệ ngậm chặt vạt áo Xương Ý, tỏ ý rằng mình có thể chở cả Xương ý đi cùng, nhưng y chỉ lắc đầu, dùng lực đẩy A Tệ một cái, thét lên: “Mau đi đi!”

A Tệ hú lên một tiếng dài thê thiết rồi đập cánh bay lên, đi tìm A Hành.

Xương Ý đi lên phía sườn núi cao, ở đó, cả đám tướng sĩ Hiên Viên đông nghịt đang hướng về phía Hiên Viên quốc dập đầu bái lạy, y đã hứa với bọn họ, bất kể xảy ra chuyện gì, y cũng sẽ đứng ra chắn trước mặt bọn họ.

Những đám mây lửa càng tụ càng dày, chẳng bao lâu nữa núi lửa sẽ bùng nổ, nơi này sẽ ngập trong dung nham.

“Xi Vưu! Xi Vưu!” A Hành vừa gọi vừa chạy.

“A Hành! A Hành!” Xi Vưu vừa chạy vừa gọi.

Trước cảnh trời long đất lở, núi lửa phun trào, dù dốc hết linh lực, bọn họ cũng chỉ mong manh vô thường như cát bụi mà thôi. Hơn nữa họ đang ở ngay dưới miệng núi lửa, nếu còn chần chừ không đi, dẫu không bị dung nham cuốn phăng thì cũng chết vì lửa nóng.

Có điều, còn chưa tìm được người kia, họ nhất quyết chưa thể đi được.

A Hành chợt đứng lại, không chạy tìm nhớn nhác nữa, cứ chạy loạn lên thế này, biết đâu lại đang chạy ngược hướng với Xi Vưu cũng nên.

Nàng vội vã rạch lòng bàn tay, vẩy máu lên không trung, từng giọt máu lập tức biến thành từng đóa hoa đào, nở rực rỡ giữa bầu không, ánh lửa đỏ hồng cũng không át nổi sắc hoa đỏ thắm.

Xi Vưu trông thấy từng đóa từng đóa hoa đào nở rộ rồi lụi tàn, bật cười, “Dưới cội hoa đào, không gặp không về!”

Xuyên qua khói bụi, băng qua khe sâu.

Hắn trông thấy A Hành đang đứng giữa một trời hoa đào rực rỡ, mỗi lần nàng vung tay lên, lên thêm vô số đóa hoa nở rộ. Hắn vội dang tay ra, gọi lớn: “A Hành!”

Nghe tiếng gọi A Hành sáng mắt lên, nhoẻn cười tươi tắn, nhào vào lòng Xi Vưu. Lúc này, họ chẳng thể thốt lên bất cứ lời nào nữa, chỉ biết siết chặt lấy nhau.

A Hành run lẩy bẩy, nước mắt đẫm vai Xi Vưu.

Xi Vưu vuốt vuốt lưng nàng, dịu dàng an ủi: “Thôi mà, nàng đã tận lực rồi!”

Xi Vưu ôm lấy A Hành nhảy lên lưng Tiêu Dao, Họ vừa bay lên thì dung nham ào ạt tuôn xuống, phủ kín chỗ vừa đứng khi nãy, cả ngọn núi đều bốc cháy phừng phừng, nhiệt độ không khí khiến tóc tai hia người bắt đầu xoăn tít.

Xi Vưu lệnh cho Tiêu Dao bay đi tìm Xương Ý, nhưng khắp trời toàn những quả cầu lửa, khói đen, đất đá bay loạn xạ, Tiêu Dao chẳng dám bay nhanh, đành vửa thận trọng né tránh, vừa ngó quanh tìm kiếm.

Nghe thấy mấy tiếng kêu lanh lảnh vọng tới, A Hành vội bảo Tiêu Dao bay chậm lại.

Thấy A Tệ bay đến trước mặt, lại trông thấy Xương Phó đang hôn mê trên lưng nó, A Hành hiểu Xương Ý đã quyết hy sinh, bèn cuống quýt bảo Tiêu Dao: “Bay nhanh lên đi!” Tìm được Tứ ca, chắc phải đánh ngất y rồi cưỡng chế đưa đi.

Trông thấy Xương Ý đang đứng chắn trước mặt một đám người trên sườn núi xa xa, A Hành vội mừng rỡ gọi Tiêu Dao: “Ở kia ở kia, mau mau đến đó đi!”

“Tứ ca, Tứ ca!”

Nàng chưa dứt lời, thình lình miệng núi “đùng” một tiếng nổ tung, lửa bốc ngút trời, dung nham theo khói đen phụt ra.

Đứng trước thiên kiếp, tất cả sinh linh đều nhỏ nhoi như con sâu cái kiến, chỉ trong nháy mắt, hết thảy đã tan thành tro bụi, chẳng còn dấu vết. Tất cả mọi người, tất cả mọi thứ đều tan biến trong dung nham nóng rãy, chẳng còn sót lại một mảy may.

A Hành mở trừng mắt, há hốc miệng, cơ hồ không tin nổi tất cả những điều vừa chứng kiến.

Mây lửa càng lúc càng dày đặc, dần dần lan ra khắp mặt đất, nếu không lập tức rời khỏi đây, ắt sẽ nghẹt thở mà chết.

Nhưng Xi Vưu chẳng hề giục giã A Hành, chỉ lặng lẽ ôm lấy nàng.

A Hành thẫn thờ, cứ ngây ra nhìn chằm chặp nơi Tứ ca vừa biến mất, hồi lâu, trong họng mới phát ra mấy tiếng thổn thức tựa như khóc mà không phải khóc, nàng cúi xuống cởi tấm áo đang buộc chặt Xương Phó vào lưng A Tệ, ôm Tứ tẩu vào lòng, bảo Xi Vưu: “Mình đi thôi.”

Xi Vưu dùng mấy sợi dây leo quấn chặt lấy A Tệ rồi dặn Tiêu Dao mấy câu, Tiêu Dao liền quắp lấy dây leo, ngửa cổ hót vang, trong tiếng hót lanh lảnh, nó vỗ cánh bay vút lên như một cơn lốc, thẳng đến chín tầng trời, lập tức rời khỏi biển lửa nhanh như chớp.

Một giờ sau, Tiêu Dao thở hổn hển đỗ xuống Trạch Châu thành, vừa kéo vừa cõng nặng như vậy, dù là đại bàng chao liệng chín tầng trời cũng chịu không thấu.

Trên Trạch Châu thành lâu đông nghẹt người, ai nấy đều nhìn về phía Đông Nam, cười cười nói nói, vừa tò mò vừa thắc mắc, không hiểu tại sao núi lửa lại đột nhiên bùng nổ.

Vũ Sư nghi hoặc hỏi Xi Vưu: “Đó là địa bàn của Chúc Dung mà, chẳng phải hắn đã đầu hàng rồi ư?”

Xi Vưu lắc đầu: “Chúc Dung lấy thân mình làm trận nhãn, dẫn phát cho núi lửa bùng nổ, quyết tử cùng quân đội Hiên Viên.”

Tiếng cười nói lập tức ngưng bặt, tất cả mọi người đếu biến sắc, Si, thuộc hạ của Phong Bá khẽ nói: “Thật không ngờ, Hậu Thổ được người người kính trọng lại đầu hàng Hoàng Đế, trong khi Chúc Dung lại bị miệt thị là đê tiện tiểu nhân lại thà chết không hàng.”

Vũ Sư nhìn về phía Đông Nam, không nói nửa lời, chỉ lặng lẽ cởi chiếc mũ trên đầu ra. Thì ra những kẻ ti tiện hèn hạ cũng có tôn nghiêm của riêng mình, những kẻ bỉ ổi vô sỉ cũng có vinh dự của riêng mình!

Phong Bá, Si, Mị, Võng, Lượng… tất cả mọi người đều ngả mũ, trang nghiêm lặng lẽ từ biệt Chúc Dung.

A Hành ôm lấy Xương Phó, cưỡi lên lưng A Tệ, chuẩn bị lên đường.

Vừa nãy chỉ lo chạy trốn, A Hành lại cố ý che giấu nên Xi Vưu không phát hiện ra, giờ mới để ý thấy ngón út bàn tay trái nàng đã cụt tận gốc.

“Là kẻ nào gây ra?” Xi Vưu vừa xót xa vừa giận dữ.

“Tự ta.” A Hành bình thản đáp.

“Tại sao?” Xi Vưu nắm chặt tay nàng.

“Ta phải đi đây.” A Hành từ từ rút tay ra.

Xi Vưu định nói gì đó, nhưng chẳng thốt nổi nên lời. Hắn còn có thể nói gì đây? Xương Ý chết vì Chúc Dung, nhưng các huynh đệ thuộc hạ của hắn lại cung kính ngả mũ mặc niệm Chúc Dung ngay trên đầu thành.

Dạo mới gặp A Hành, hắn cứ ngỡ rằng chỉ cần mình đủ mạnh thì trên đời chẳng có chuyện gì không thể làm được cả, nhưng giờ đây, linh lực của hắn càng lúc càng mạnh lên, thuộc hạ dưới quyền cũng mỗi lúc một nhiều, hắn lại cảm thấy càng lúc càng bất lực.

Cũng như hiện giờ, dù linh lực của hắn có mạnh đến đâu cũng không thể nắm được bàn tay A Hành, đành nhẹ nhàng buông nàng ra.

A Hành vỗ nhẹ lên mình A Tệ, A Tệ liền cất cánh bay vút lên.

Biết không giữ được nhưng Xi Vưu vẫn không nhịn được mà đuổi theo bóng nàng, cứ thế chạy dọc theo tường thành, tựa hồ làm vậy có thể gần nàng hơn một chút. Tiếc rằng độ dài tường thành có hạn, cuối cùng hắn cũng chạy đến đầu bên kia thành lâu, chỉ có thể nhìn theo bóng nàng mỗi lúc một xa, rồi biến mất trong bóng chiều.

Ráng đỏ mây trời, ánh vàng lấp loáng, xán lạn huy hoàng, đẹp khôn tả xiết, nhưng trong mắt Xi Vưu chẳng khác nào dòng dung nham đỏ rực tuôn trào, hủy hoại tất cả.

Dung nham đỏ rực ấy, tựa như máu đỏ, chảy tràn khắp núi rừng, cũng chảy tràn khắp trái tim A Hành.

Chương 14: Hẹn thề sinh tử mãi bên nhau

[1] Trích trong bài Kích cổ (Gióng trống) trong Kinh Thi (ND)

Tòa cung điện này dựng nên vì Đồng Ngư, nhưng cả ngàn năm nay, ông chưa hề cùng Đồng Ngư sánh vai ngắm nhìn trăng sáng, ông đã không còn là ông năm ấy, nàng cũng không còn là nàng khi xưa, sánh vai cùng ngồi còn ý nghĩa gì nữa chứ. Có điều, chẳng rõ tại sao, sau một ngày mệt mỏi, ông luôn thích nằm dài ở đây, ngắm nhìn trăng sáng, dưới ánh trăng mờ ảo ấy, có ông một thời trẻ trung sôi nổi, còn có cả một thiếu nữ có thể làm chứng cho thời niên thiếu sôi nổi của ông. Có điều thời gian đằng đẵng xóa nhòa tất cả, ông đã chẳng còn phân rõ được người con gái mình nhung nhớ là ai, là cô gái yểu điệu run lên trong lòng ông, hay nàng thiếu nữ ngạo nghễ băng qua ánh trăng vằng vặc bước đến trước mặt ông, hay đều không phải?

A Tệ kêu lên một tiếng, nhắc A Hành rằng đã đến Triêu Vân phong.

A Hành lòng như dao cắt, chẳng còn dũng khí nào bước vào Triêu Vân điện, nhưng tin Chúc Dung và Xương Ý cùng chết chẳng bao lâu sẽ truyền khắp đại hoang, nàng không muốn để kẻ khác thông báo tin này cho mẹ. Nếu phải báo, chi bằng để nàng chính miệng báo với bà.

Nàng ôm Xương Phó bước vào Triêu Vân điện đúng lúc Luy Tổ đang dạy Chuyên Húc đọc sách. Nghe tiếng bước chân, bà mỉm cười ngẩng lên, trông thấy bộ dạng A Hành, bà liền biến sắc.

Chuyên Húc chạy nhao đến, “Mẹ, mẹ con làm sao thế? Cha đâu? Sao cha không về?”

Luy Tổ dịu giọng dỗ Chuyên Húc: “Con ra ngoài chơi đi, để người lớn nói chuyện.”

A Hành quỳ xuống trước mặt mẹ, môi run lên bần bật mà không thốt nổi nên lời. Giờ đây, cuối cùng nàng cũng hiểu được càm giác tuyệt vọng và tự trách của Đại ca khi quỳ trước mặt mẹ năm ấy.

Luy Tổ tái mét mặt, ngồi lặng giây lát, đột nhiên bà đứng phắt dậy, ôn tồn nói: “Con đi rửa mặt thay áo trước đi, để ta chăm sóc Xương Phó.”

“Mẹ…”

Luy Tổ xua tay: “Rửa mặt thay áo sạch sẽ rồi từ từ nói.”

A Hành vội vã rửa mặt rồi tới gặp mẹ. Xương Phó đã được thay y phục, đang nằm trên giường thiêm thiếp ngủ. Luy Tổ ngồi bên giường hai tay cầm chiếc áo của Xương Ý, dịu dàng vuốt đi vuốt lại.

A Hành khẽ khàng bước vào, quỳ xuống bên gối bà.

Luy Tổ khẽ hỏi: “Xương Ý anh dũng lắm phải không? Nó không bỏ lại thuộc hạ mà chạy thoát một mình chứ?”

A Hành nghẹn ngào, nói chẳng nên lời, chỉ có thể gật đầu. Luy Tổ mỉm cười, “Giỏi lắm, giống như ông ngoại nó vậy!”

“Mẹ!” A Hành nắm lấy tay bà, “Nếu mẹ đau lòng thì cứ khóc đi!”

Luy Tổ xoa đầu A Hành, dung nhan khô héo, thân tình tiều tụy, chỉ có đôi mắt là sáng rỡ, dường như tất cả sức lực còn lại đều kết tinh trong mắt, “Con ở đây trông chừng Xương Phó, tính nó cương cường, cứng quá thì dễ gãy, để ta đi thăm Chuyên Húc. Ta không muốn nó nghe ngóng tin cha nó từ miệng người khác, cha nó đã hy sinh anh dũng, phải đường đường chính chính nói cho nó biết.”

Luy Tổ cẩn thận gấp manh áo của Xương Ý lại, đặt bên gối Xương Phó rồi loạng choạng bước ra ngoài, ra đến rừng dâu, bà kéo tay Chuyên Húc, “Bà nội có chuyện muốn nói với cháu.”

Một già một trẻ lững thững thả bộ trong rừng dâu. Bước chân Luy Tổ loạng choạng, lưng còng gập xuống, nhưng bà vẫn là chỗ dựa tinh thần của tất cả đám trẻ.

“Xương Ý!”

Xương Phó vừa tỉnh giấc liền kêu thét lên, giơ tay ra chụp, nhưng chỉ chụp vào khoảng không.

A Hành đang đứng bên cửa sổ nhìn về phía Luy Tổ và Chuyên Húc, lập tức ngoảnh lại: “Tẩu tẩu.”

Xương Phó nhìn quanh, nhận ra bọn họ đang ở trong Triêu Vân điện: “Còn Xương Ý? Xương Ý đâu rồi?”

A Hành chẳng biết đáp sao cho phải. Xương Phó chằm chằm nhìn A Hành, tựa hồ đang cầu khẩn nàng ban cho mình chút hy vọng, ánh mắt ấy như một lưỡi dao nhọn, chốc chốc lại đâm vào tim A Hành khiến nàng đau đến không thở nổi, cũng không cách nào né tránh, bởi càng né tránh lại càng đau.

“Tứ ca, Tứ ca…” A Hành lúng túng, nói không nên lời.

Trông thấy chiếc áo đặt bên gối, ánh sáng trong mắt Xương Phó vụt tắt lịm, nàng nắm lấy vai A Hành lắc như điên dại, gào lên: “ Sao muội lại bỏ chạy một mình? Sao muội không cứu y? Y là Tứ ca của muội, sao muội không cứu y…” A Hành như một phiến lá vàng quay cuồng trong gió lớn, hoàn toàn không thể tự chủ, chỉ cần mạnh thêm chút nữa, có lẽ sẽ bị cuồng phong nghiền nát.

Xương Phó lắc lắc A Hành, thân thể chợt nhũn ra, đột nhiên nàng gục đầu vào vai A Hành, khóc ngất, “Vì sao? Vì sao…” Vì sao? Rõ ràng họ đã thề phu thê một lòng, cùng sống cùng chết, vì sao y không giữ lời thề, bỏ lại nàng một mình?

Nháy mắt trước đây thôi, y còn ôm nàng, hôn nàng, khiến nàng chìm trong hạnh phúc ngọt ngào, vậy mà giờ y đã tan xương nát thịt, tất cả đều thành mây thành khói. Nàng không tin! Xương Ý chưa chết, nhất định chưa chết!

Tiếng khóc của Xương Phó dần biến thành tiếng gào nát gan xé ruột, như một con thú đang rên rĩ khóc than. A Hành cũng không nén nổi nữa, nước mắt tràn ra như vỡ đê, nhưng nàng không dám khóc thành tiếng, đành mím chặt môi, gắng hết sức ưỡn lưng thật thẳng, không cho phép mình gục xuống.

Xương Phó khóc đến tan lòng nát ruột, bi nộ công tâm, ngất lịm đi.

A Hành không dám thả lỏng bản thân mà thương tâm khóc lóc, vội lau khô nước mắt, chăm non cho Xương Phó.

Luy Tổ dắt tay Chuyên Húc bước vào, chỉ một chốc lát ngắn ngủi, vậy mà Chuyên Húc dường như đã đột ngột lớn bổng, gương mặt bé bỏng đanh lại, nước mắt thập thò trên mi nhưng nó vẫn quật cường nín nhịn, nhất quyết không khóc, kìm nén đến nỗi đỏ bừng cả mặt.

Chuyên Húc đứng bên giường chạm tay vào mặt Xương Phó, vẻ mặt rất nghiêm trọng.

Luy Tổ bảo A Hành: “Con kể lại đầu đuôi mọi chuyện đi.”

Thấy A Hành chần chừ nhìn Chuyên Húc, Luy Tổ nói: “Hiện giờ nó là nam đinh duy nhất trong nhà ta, bất kể nó hiểu được đến chừng nào, cũng phải để nó nghe!”

Nhận ra ý tứ của Luy Tổ, A Hành chợt táo mặt: “Đại ca, còn Đại ca nữa mà!”

Luy Tổ bình thản nói: “Các con tưởng ta không biết ư? Thanh Dương là do ta sinh ra, một tay ta nuôi nấng từ nhỏ đến lớn. Hành nhi, con có thể không nhận ra con gái con không? Đó là núm ruột của con, nó cau mày hay nhoẻn miệng con đều rõ như lòng bàn tay. Vậy mà con và Xương Ý lại dám lớn gan giấu trời qua biển, nghĩ ra kế sách này.”

A Hành vội giải thích: “Mẹ, con, con… không phải tại Tứ ca, là tại con.”

“Ta hiểu nỗi khổ của các con, các con sợ ta đau lòng, sợ ta không chịu nổi, có điều các con xem thường mẹ mình quá. Hiên Viên quốc có ngày nay cũng là do ta một tay tạo dựng, tuy hiện giờ ta chẳng thể ra trận nữa, nhưng không có nghĩa là ta đã hồ đồ.”

A Hành quỳ xuống bên gối Luy Tổ, Luy Tổ quay sang bảo Chuyên Húc: “Cháu nghe cho kỹ, chỗ nào không hiểu cũng đừng hỏi, chỉ cần nhớ kỹ là được.”

A Hành bắt đầu thuật lại đầu đuôi câu chuyện, từ khi nàng phát hiện ra sự việc có điểm dị thường, phái Liệt Dương đưa thư về Hiên Viên cầu cứu, mượn binh Cao Tân, bị Thiếu Hạo cự tuyệt, cho đến khi Chúc Dung đem thân làm trận nhãn, dẫn cho núi lửa bùng nổ.

Luy Tổ từ đầu đến cuối không nói một lời, còn Xương Phó chẳng biết đã tỉnh lại tự lúc nào, cứ trừng trừng nhìn lên đỉnh màn, nghe A Hành kể chuyện.

Đột nhiên, Xương Phó lên tiếng hỏi: “Sao phụ vương không hề phát binh? Nếu chiến binh Thần tộc của chúng ta nhiều hơn nữa, chỉ cần có một vị Thần tộc đại tướng tinh thông trận pháp bày trận, dù Chúc Dung đem thân làm trận nhãn, chúng ta cũng không tới nỗi toàn quân bị diệt.”

A Hành nói: “Muội có thể lấy tính mạng ra bảo đảm, Liệt Dương tuyệt đối đáng tin, chiến dịch này hết sức quan trọng với Hiên Viên, nhất định phụ vương không muốn thua, chỉ cần ông nhận được tin, chắc chắn sẽ dốc toàn lực ngăn cản Chúc Dung, cách giải thích duy nhất chính là phụ vương không nhận được bức thư Liệt Dương đưa về.”

Kẻ nào dám chen ngang đoạt lấy thư tín gửi cho Hoàng Đế? Kẻ nào có thể lớn gan chừng ấy, lại có thể có năng lực ấy?

A Hành sực nghĩ ra, tức thì đau đớn trào lên cùng giận dữ, lạc giọng hỏi: “Đêm qua phụ vương nghỉ lại Chỉ Nguyệt điện ư?”

Luy Tổ đột ngột lảo đảo, ngã ngửa ra sau, A Hành vội đỡ lấy bà: “Mẹ, mẹ!”

Luy Tổ hơi tỉnh lại, liền quay sang nhìn Xương Phó khóc: “Xin lỗi con, là tại ta nuôi ong tay áo!”

Xương Phó nuốt lệ nói: “Mẹ, mẹ nói gì thế?”

Luy Tổ nước mắt vòng quanh: “Vì lỗi lầm thơi trẻ nên ta vẫn lấy làm áy náy với Đồng Ngư thị, thật không ngờ đã sai lại càng sai! Đáng lẽ ta phải nhận ra từ sớm, nếu đã phạm sai lầm, thà rằng bản thân bị trời phạt, cũng phải làm cho đến cùng, nếu năm xưa ta xuống tay tàn độc, giết phăng mẹ con Đồng Ngư thị đi, thì chẳng bao giờ có ngày này!”

Xương Phó gắng gượng bước xuống giường, quỳ xuống trước mặt Luy Tổ, khóc nức lên: “Mẹ, nếu mẹ còn tự trách bản thân nữa thì Xương Ý có chết cũng chẳng được yên lòng đâu.”

Luy Tổ ôm lấy Xương Phó và A Hành, khóc đến khàn giọng, A Hành và Xương Phó cũng lã chã nước mắt.

Chuyên Húc ngồi im một góc, nhìn mẹ, cô cô, và bà nội khóc nức nở, như hiểu mà lại không hiểu, chỉ đinh ninh nhớ lời dặn của bà, gắng nhớ lấy tất cả. Bà nội đã nói, hiện giờ cậu là nam tử hán duy nhất trong nhà, nhất định phải kiên cường.

Một cung nữ liêu xiêu chạy vào, “Vương hậu, cả đoàn người đang đến ngoài kia, họ đều mặc áo tang, chít khăn tang…”

Xem ra phụ vương đã nhận được tin nên phái người tới bẩm với mẫu hậu. A Hành nói: “Cứ nói chúng ta biết cả rồi, bảo bọn họ về đi.”

Cung nữ nọ luống cuống nuốt khan, lắp bắp thưa: “Không, không được đâu, cả Hoàng Đế cũng tới.”

Nhất thời, mọi người trong phòng đều lặng đi.

Luy Tổ căm giận quát: “Bảo ông ta cút về đi! Nói rằng ta không muốn gặp ông ta, đời này kiếp này không muốn trông thấy ông ta nữa!”

Thấy ả cung nữ kinh hãi há hốc miệng. A Hành liền đứng dậy kéo kéo tay áo ả, ý bảo ả theo mình ra ngoài, nào ngờ Xương Phó cũng đuổi theo: “Ta có lời muốn nói cùng phụ vương.”

A Hành và Xương Phó ra đến tiền điện, thấy Hoàng Đế toàn thân vận áo tang, vẻ mặt đau xót, vừa thấy A Hành liền hỏi ngay: “Mẫu hậu con thế nào rồi?”

A Hành đáp: “Mẫu hậu không khỏe lắm, đang nằm nghỉ.”

Hoàng Đế dợm bước: “Để ta vào xem.”

A Hành vội giơ tay cản ông lại, “Phụ vương, mẫu hậu không chịu được kích động.”

Hoàng Đế khựng lại, “Vậy… vậy để hôm khác.”

Đoạn ông quay ra bảo Xương Phó: “Hai trăm binh sĩ Thần tộc đều hy sinh, còn bốn ngàn chiến sĩ Nhược Thủy rút lui theo lệnh Hành nhi còn sống cả, ta đã phái người tiếp tục tìm kiếm, có lẽ còn có thể cứu thêm vài ba chiến sĩ Nhược Thủy nữa, nếu con có yêu cầu gì, cứ nói ra đi.”

Xương Phó vẻ mặt lạnh lùng, đang định lên tiếng thì bị A Hành cướp lời: “Phụ vương, ba ngày trước con đã sai Liệt Dương đem thư về bảo Chúc Dung định dẫn phát cho núi lửa mổ tung, xin người lập tức phái binh chi viện, hiện giờ Liệt Dương ở đâu không rõ, còn thư chẳng hay phụ vương có nhận được không?”

Hoàng Đế tâm niệm xoay chuyển như chớp, lập tức hiểu ngay mọi chuyện, giận đến tím mặt, nét mặt méo mó đi vì phẫn nộ, nhưng dần dà, ông lại khôi phục vẻ thản nhiên, “Chuyện này ta sẽ phái người tra xét.”

A Hành hoàn toàn mất hết hy vọng vào Hoàng Đế, nhất định ông sẽ dùng một phương pháp để trừng trị Di Bành đích đáng, nhưng đó không phải hình phạt mà nàng muốn.

Xương Phó quỳ xuống nói: “Phụ vương, tuy Xương Ý đã tan xương nát thịt, nhưng con muốn xin Người cử hành tang lễ long trọng cho chàng.”

Hoàng Đế đáp: “Ta đã định sắp xếp như thế rồi, con còn yêu cầu gì khác không?”

Xương Phó lắc đầu.

Hoàng Đế nói: “Vậy ta đi đây, nếu cần gì các con cứ phái người tới trực tiếp bẩm với ta.”

Vân Tang nấp ngoài điện thấy Hoàng Đế đã đi khỏi, mới dần theo Chu Du bước vào tiền điện. Tuy nàng đã được gả cho Thanh Dương nhưng tại Triêu Vân điện, nàng vẫn là người ngoài, bởi thế nàng chỉ một mực ru rú trong nhà, phàm việc gì cũng ra sức tránh né.

A Hành vấn an nàng, còn Xương Phó cứ ngồi ngây ra như phỗng, tựa hồ chẳng còn biết gì tới mọi chuyện xung quanh nữa.

Trước tình cảnh ấy, Vân Tang cũng xót xa vô hạn, nàng còn nhớ buổi hôn lễ mấy trăm năm trước, dưới bóng Nhược Mộc hoa đỏ thắm, Xương Phó cứng cỏi ranh mãnh, thông minh tinh quái nhường nào. Trong lòng nàng, Xương Ý và Xương Phó là đôi phu thê duy nhất khiến nàng ngưỡng mộ, khiến nàng tin rằng trên đời này vẫn tồn tại tình cảm vợ chồng son sắt, chỉ tiếc rằng trời cao quá đỗi nhỏ nhen, ghen ghét cảnh viên mãn, lại bắt bọn họ cách trở âm dương.

Vân Tang nói với A Hành: “Mấy ngày trước, ta nửa đêm mất ngủ bèn ra ngoài cho khuây khỏa, trông thấy dưới Hiên Viên sơn có ánh lửa bèn chạy đến xem, vừa khéo bắt gặp Di Bành dẫn theo mấy tên Yêu tộc vậy đánh một con Lang điểu, một tên trong số đó hình như thuộc Hồ tộc, nói cái gì muốn đoạt Phượng Hoàng nội đan của Lang điểu dâng lên cho Hồ vương trị thương. Ta nghĩ là Liệt Dương, bèn ra tay cứu nó, vốn định hôm nay muội về sẽ nói lại với muội, nhưng lúc đến đây tìm lại loáng thoáng nghe thấy tiếng khóc, ta thấy không tiện lắm bèn tránh đi, nào ngờ lại xảy ra chuyện lớn như vậy.”

A Hành vội hành lễ với nàng, cảm kích nói: “Đa tạ tỷ, hiện giờ Liệt Dương đâu rồi?”

Vân Tang đáp: “Ở đằng Hậu Thổ. Thương thế của Liệt Dương rất nặng, ta không giúp được nó, đành đưa đến chỗ Hậu Thổ, để Hậu Thổ trị thương cho nó.”

Vừa rồi chỉ mãi lo đến an nguy của Liệt Dương, không suy nghĩ được kỹ càng, mãi đến giờ A Hành mới phát hiện những lời Vân Tang nói có rất nhiều nghi vấn. Công lực của Liệt Dương cao hơn Vân Tang, kẻ mà Liệt Dương không đối phó nổi, nhất định Vân Tang cũng chẳng thể địch lại, cách giải thích duy nhất chính là lúc đó Hậu Thổ cũng ở đây, và kẻ cứu Liệt Dương là Hậu Thổ.

Vân Tang băng tuyết thông minh, thoạt nhìn vẻ mặt A Hành liền nhận ra ngay nàng đã đoán được sự tình, bèn thản nhiên thừa nhận, “Ta cũng biết là không giấu được muội, thực ra tối hôm đó ta ra ngoài gặp Hậu Thổ. Nghe nói Chúc Dung định đầu hàng, ta có phần nghi ngờ, bèn đi tìm Hậu Thổ gạn hỏi tình hình chiến trận, tiếc rằng khi bọn ta đến Liệt Dương đã hôn mê nên không hỏi được nó đến vì việc gì.”

Dù đến sớm thì sao chứ? Tuy Vân Tang đã gả cho Thanh Dương, nhưng đôi bên chỉ là lợi dụng lẫn nhau, dù nhận được tin từ sớm, chắc gì Vân Tang đã báo với Hoàng Đế. Thậm chí A Hành còn mừng thầm vì họ không biết, bằng không có lẽ Vân Tang sẽ nghĩ cách báo với Chúc Dung, đến chừng đó e rằng ngay cả bốn ngàn binh sĩ và Xương Phó cũng không sao thoát được.

Nghĩ đến đó, A Hành bỗng toát mồ hôi lạnh, sao bây giờ nàng lại thành ra thế này? Vân Tang và Hậu Thổ luôn thân thiết với nàng, thân là dị tộc bại trận, vậy mà họ vẫn mạo hiểm, bất chấp đắc tội Di Bành để cứu Liệt Dương, sao nàng có thể đa nghi như vậy? Nhưng nàng có thể không đa nghi ư? Nhưng dù có tốt đến mấy cũng chỉ là tư tình, đứng trước đại nghĩa, những kẻ sinh ra trong vương thất, lớn lên trong vương thất như bọn họ đều phải vứt bỏ tư tình để giữ trọn đại nghĩa.

Xương Phó đang ngồi ngây ra như phỗng đột nhiên đứng bật dậy, chạy vụt ra ngoài, A Hành vội kéo nàng lại: “Tứ tẩu, tẩu đi đâu đấy?”

“Muội không nghe thấy tiếng tiêu của Xương Ý à? Muội nghe mà xem.” Xương Phó ngưng thần lắng tai nghe, chợt cuống quýt: “Sao lại không nghe nữa rồi? Rõ ràng vừa nãy ta nghe thấy mà. Đại tẩu, A Hành, hai người có nghe thấy không?”

Vân Tang nước mắt lã chã, A Hành lòng đau như cắt, nhưng chẳng có cách nào khả dĩ khuyên giải Xương Phó, chỉ biết đặt hết hy vọng vào thời gian.

Đối với một số người, thời gian sẽ xóa nhòa tất cả, nhưng đối với Xương Phó, có lẽ thời gian chỉ đay đi đay lại nhắc nàng: Xương Ý đã không còn nữa!

Cũng như Viêm Đế từng nói với A Hành khi đứng trước mộ thê tử vậy, sinh mệnh đằng đẵng chỉ càng khiến nỗi đau dài ra đến vô chừng!

Hoàng Đế hạ lệnh toàn quốc để tang cho Xương Ý.

Hiên Viên quốc giờ đây đang hưng thịnh, các tộc các nước trên dại hoang đều phái sứ giả tới điếu tang, Thiếu Hạo là người thân, tuy không thể đích thân đến, nhưng cũng phái sứ giả đưa vương cơ Cửu Dao tới để tang cho bác.

Hoàng Đế cử hành tang lễ trọng thể cho Xương Ý trong Hiên Viên thành, A Hành không muốn Luy Tổ người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh nên ra sức khuyên bà đừng đi, cứ ở lại Triêu Vân điện.

Sau khi nghi thức hoàn tất, tới lúc an tang, Xương Phó đột ngột yêu cầu tất cả lui ra, chỉ có người Hiên Viên tộc ở lại.

Đợi quan tài đựng đầy những vật dụng Xương Ý từng sử dụng hạ xuống huyệt, Tông Bá đang định hạ lệnh lấp đất, bỗng Xương Phó từ đầu đến cuối vẫn làm thinh đột ngột lên tiếng: “Đợi đã!”

Mọi người đều ngạc nhiên đổ dồn ánh mắt về phía nàng. Xương Phó chăm chú nhìn quan tài Xương Ý một thoáng, rồi ngoảnh lại nghẹn giọng tuyên bố: “Hôm nay, ta ở đây đau đớn tiễn đưa Xương Ý, phu quân của ta. Ở Nhược Thủy, còn hơn sáu ngàn phụ nữ cũng đang khóc lóc tiễn đưa phu quân của họ như ta. Đối với Nhược Thủy tộc chúng ta, oanh liệt hy sinh trên sa trường là hành vi hết sức vinh quang! Nhưng chúng ta không thể chấp nhận được nếu người thân của mình bị người hãm hại mà chết, đó chính là xúc phạm vong linh! Là bất kính đối với người chết! Cái chết của người thân giống như móc mất trái tim chúng ta vậy, nhưng nếu họ chết vì bị người hãm hại, thì cũng giống như trái tim sau khi bị móc ra, lại bị đâm vào thuốc độc! Ngày nào chưa thể trả hận, ngày đó trái tim chúng ta còn bị ngâm trong thuốc độc!”

Nói rồi, Xương Phó trừng mắt nhìn Di Bành: “Hiên Viên Di Bành, ngươi có nghe thấy tiếng rít gào phẫn nộ của đám vong linh dưới đất, tiếng khóc than đau đớn của những phụ nữ Nhược Thủy tộc chăng?”

Di Bành hờ hững đáp: “Ta chẳng hiểu Tứ tẩu nói gì cả, xin Tứ tẩu nén đau thương, chấp nhận sự thật, đừng nói quàng nói xiên nữa.”

Hoàng Đế vội ra lệnh cho thị nữ: “Vương tử phi đau lòng quá độ, thần trí không tỉnh táo, các người còn không mau đỡ vương tử phi lui xuống.”

Đám thị nữ định kéo Xương Phó đi, nhưng các đại hán Nhược Thủy “soạt” một tiếng nhất tề rút đao ra, chắn trước mặt Xương Phó, sát khí đằng đằng.

Xương Phó cao giọng nói: “Vương cơ phát hiện ra Chúc Dung đang bày trận dẫn phát cho núi lửa nổ tung, bèn phái người đưa thư cho Hoàng Đế, thỉnh cầu ngài phái thần tướng tới phá trận, trong lúc đó, ta và Xương Ý đã phải trăm phương ngàn kế lần lữa với Chúc Dung kéo dài đến chập tối. Nếu viện binh đến kịp thì đâu có tang lễ hôm nay. Nhưng thư của vương cơ giữa đường đã bị kẻ khác đoạt mất, kẻ đó chính là hắn, Cửu vương tử của Hiên Viên!” Xương Phó chỉ thẳng vào Di Bành, tất cả mọi người đều kinh hoàng nhìn theo tay nàng.

Xương Phó chầm chậm quét mắt qua tất cả người Hiên Viên tộc, ánh mắt lạnh lùng, vẻ mặt đanh lại, khiến Hoàng Đế nhất thời cũng cứng họng, nói không nên lời.

Xương Phó lại nói: “Ta sau khi cha ta quỳ xuống dưới chân Hoàng Đế, hai tay dâng Nhược Mộc hoa cổ xưa nhất lên ngài, chấp nhận quy thuận Hiên Viên quốc, chúng ta đã trở thành con dân Hiên Viên, cũng chính là con dân của Hiên Viên Cửu vương tử, nhưng hắn lại vì thù hận cá nhân mà phản bội con dân của mình. Thân là tộc trưởng Nhược Thủy, vì vong linh của sáu ngàn tộc dân, vì nỗi đau của sáu ngàn nữ tử, ta không thể tha thứ cho hắn được, nếu tha thứ cho hắn, ta còn mặt mũi nào trở về Nhược Thủy nữa! Thân là thê tử của Xương Ý, hắn giết phu quân ta, ta càng không thể tha thứ cho hắn!” Vừa nói, Xương Phó vừa rút phắt chủy thủ giấu sẵn trong tay áo, phi thân vọt lên, dốc toàn lực, đâm thẳng về phía Di Bành. Thần khí do Thiếu Hạo rèn ra lập tức phát huy uy lực đáng sợ của mình, nhân khí hợp nhất, khí thế như cầu vồng, không gì ngăn cản được.

Di Bành đã quen nấp trong bóng tối ném đá giấu tay, đâu có ngờ Xương Phó lại dám ra tay giết mình ngay trước mặt mọi người, vội cuống quýt lùi lại, hấp tấp bày kết giới, nhưng Xương Phó đã có dự định sẵn, hắn làm sao cản nổi một đòn dốc hết toàn lực bất chấp sinh tử của nàng. Xương Phó thế như chẻ tre lao tới, tất cả chướng ngại đều bị nàng phá tan tành.

Di Bành chỉ trông thấy một vầng sáng lao tới như tên bắn, càng lúc càng gần, càng gần càng chói lọi, có tránh cũng không sao tránh nổi, hồng quang bùng nổ ngay trước mắt hắn, nhắm thẳng vào tim hắn, con ngươi hắn chợt co rút, chẳng cách nào tránh thoát, hắn đành tuyệt vọng nhắm nghiền mắt lại.

Cả thế giới tựa hồ đều tan biến, bên tai chỉ còn sự im lặng chết chóc.

Di Bành cứ ngỡ rằng tử vong sẽ rất đau đớn, nhưng lạ thay, hắn chẳng hề thấy cảm giác đau đớn khi trái tim bị đam thủng. Hắn bất giác đưa tay sờ lên ngực, tiếc rằng chẳng sờ thấy gì cả.

Thực ra Di Bành cảm thấy lâu thật lâu, nhưng Xương Phó ra tay thần tốc, một đòn sấm sét chỉ diễn ra trong một chớp mắt ngắn ngủi. Bấy giờ mới nghe tiếng Hoàng Đế quát thị vệ, Di Bành chợt mở bừng mắt ra, còn chưa kịp nhìn rõ tình hình đã thấy một thân hình mềm nhũn ngả vào lòng, theo phản xạ, hắn vội đón lấy, ra là mẹ hắn, máu phun ra từ ngực bà ướt đẫm cả hai tay hắn.

Xương Phó không ngờ Đồng Ngư thị lại nhào tới, lấy thân mình đón một đòn chí mạng của nàng, bây giờ dù muốn giết Di Bành cũng đã muộn, đám thị vệ đang xúm quanh hắn bảo vệ rồi.

Từng đóa hoa máu trả giá bằng sinh mệnh đỏ đến chói chang, thắm tươi rực rỡ, nhưng trong mắt Di Bành, thế giới giờ đây chỉ còn hai màu đen trắng, thê lương tuyệt vọng.

“Mẹ, mẹ!” Di Bành gào lên thê thiết.

Hắn ôm chầm lấy mẹ, ra sức ấn lên vết thương toan cầm máu, nhưng chỉ cảm thấy thân thể mẹ lạnh dần đi.

Mẹ đã tắt thở, nhưng bà vẫn mỉm cười, chủy thủ cắm vào tim nhất định rất đau đớn, nhưng biết được con mình không bị tổn thương, dù có phải chịu đau đớn gấp nghìn lần, bà cũng cam lòng.

“Mẹ!” Di Bành gào lên thê thảm như sói hú.

Rất đông thị vệ xúm lại, dường như định giúp hắn, nhưng hắn phẫn nộ đẩy bọn chúng ra.

Cút, cút ra đi!

Hoàng Đế chạy lại, run run định bế Đồng Ngư thị lên, nhưng bị Di Bành một chưởng đẩy bật ra: “Không được chạm vào mẹ ta! Ông cũng cút ra! Ông là đồ bạc bẽo, quân vong ân phụ nghĩa, ông không xứng với mẹ ta!”

Mấy ngàn năm trước, vì hắn, mẹ đã quỳ xuống chân Hoàng Đế khóc lóc van xin, vậy mà ông ta còn quát mắng bà, nói cái gì chút tình xưa còn sót lại đã bị sự điên cuồng và ác độc của bà làm tiêu tan hết, rồi mặc cho mẹ nắm lấy vạt áo ông ta khóc lóc, Hoàng Đế lạnh lùng đá văng mẹ ra, xông xông bỏ đi.

Di Bành ôm lấy Đồng Ngư thị, vừa khóc vừa gọi như điên cuồng, “Mẹ ơi, mẹ tỉnh lại đi, mẹ còn chưa chứng kiến mụ đàn bà trong Triêu vân điện kia chết kia mà, chẳng phải mẹ nói sẽ không tha cho bà ta ư? Mẹ mở mắt ra đi, con nhất định sẽ giúp mẹ giết bọn chúng, giết sạch bọn chúng, không chừa một mống, con nhất định sẽ báo thù cho hai huynh…”

Nói rồi, hắn bế thi thể Đồng Ngư thị, loạng choạng chạy vào rừng.

Không ai ngờ ngay trong tang lễ lại xảy ra biến cố thế này, còn liên quan cả tới bí mật của vương thất, mọi người nhất loạt quỳ xuống, lòng nơm nớp lo âu, đến thở cũng không dám thở mạnh.

Hoàng Đế sầm mặt ra lệnh: “Giam tất cả người Nhược Thủy tộc lại, nhốt Xương Phó vào thiên lao, giao cho Thu quan ti khấu đích thân thẩm vấn, xử trí theo luật.”

Xương Phó ngoảnh lại bảo đám tùy tùng: “Bỏ binh khí xuống, không được phản kháng.”

Nói đoạn, nàng quay sang bế Chuyên Húc lên, thì thầm nói: “Con ngoan, mẹ rất muốn chứng kiến con trưởng thành, nhưng không được nữa rồi, mẹ nhớ cha lắm. Có lẽ con sẽ giận mẹ, nhưng đến một ngày nào đó, khi con gặp được cô gái con yêu thương, hẹn thề sống chết cùng cô ấy, con sẽ hiểu cho mẹ.” Nàng rút Nhược Mộc hoa gài bên mai tóc, đặt vào tay Chuyên Húc: “Khi nào con gặp cô gái ấy, nhớ tặng bông hoa này cho cô ấy, dắt cô ấy tới trước mộ cha mẹ nhé.”

Chuyên Húc cũng có dự cảm không lành, liền khóc ré lên:, “Mẹ, mẹ ơi!”

Xương Phó ôm chặt lấy con trai, vừa hôn vừa dặn dò: “Về sau con phải nghe lời cô cô, cô cô sẽ chăm lo cho con, mẹ đi tìm cha con đây. Dù con có hận mẹ, cũng nhất định phải trưởng thành, lấy vợ sinh con, sinh một bầy cháu nhỏ nhé, cha con chắc chắn sẽ vui lắm đấy…”

A Hành biết Hoàng Đế nhất định không nhân nhượng cho hành vi hành thích ngay trước mặt mọi người của Xương Phó, không chỉ vì Xương Phó đã giết vương phi của Hiên Viên quốc, mà còn bởi nếu bỏ qua cho Xương Phó một lần, thì những người khác cũng được đà, chẳng coi vương pháp ra gì, tùy ý hành thích, quốc gia sẽ loạn.

Hiện giờ trước hết phải tuân lệnh, ngoan ngoãn vào ngục trước đã, sau đó sẽ tính kế hóa giải, xem ra Xương Phó cũng hiểu điều này, nên mới ra lệnh cho tất cả thị vệ của mình lập tức bỏ binh khí xuống.

A Hành vừa thở phào nhẹ nhõm, chợt thấy Xương Phó bế Chuyên Húc lên, thì thầm dặn dò, không hiểu dặn điều gì nhưng nhìn có vẻ vô cùng lưu luyến Chuyên Húc, ánh mắt lại không rời huyệt mộ của Xương Ý, vừa cười vừa khóc, khi cười thì rạng ngời hạnh phúc, khi khóc lại bi ai thảm thiết. A Hành bất giác lạnh toát người, lập tức chạy đến, “Tứ tẩu, nhất định không được làm chuyện dại dột!” Nói rồi nàng với tay ra, toan kéo Xương Phó lại.

Xương Phó đặt Chuyên Húc vào tay A Hành đang đưa tới, “Tiểu muội, xin lỗi, phải nhờ muội lo liệu mọi chuyện rồi, nhớ chăm sóc Chuyên Húc giùm ta nhé.”

Thấy Chuyên Húc được đưa đến tay, A Hành vội ẵm lấy nó theo phản xạ, những ngón tay lạnh buốt của Xương Phó liền lướt qua kẽ tay nàng, “Tứ ca muội nhờ ta nhắn lại rằng, chàng không trách Xi Vưu nữa đâu.”

A Hành thoáng ngẩn người, chỉ trong chớp mắt, Xương Phó đã xoay tay lại cắm phập thanh chủy thủ vào ngực mình.

Đám thị vệ đang chạy tới bắt giữ Xương Phó thất thanh la lên, ngây người ra không hiểu mô tê gì cả.

A Hành há hốc miệng, cổ họng nghẹn ngào, ra sức ấn đầu Chuyên Húc vào lòng mình, không để cậu trông thấy, thân hình nàng run lên bần bật, khiến Chuyên Húc cũng run bắn lên theo.

Chuyên Húc khóc ré lên gọi mẹ, đột nhiên cắn mạnh vào tay A Hành, thừa dịp quay phắt lại, trông thấy trên ngực mẹ cậu cắm một thanh chủy thủ, thân mình loạng choạng tiến về phía huyệt mộ của cha. Y phục mẹ cậu nhuộm đầy máu tươi, đỏ đến chói mắt, hệt như tấm áo cưới đỏ rực mà cậu trông thấy trong hôn lễ của Đại bá vậy.

Xương Phó giẫm lên vùng máu lênh láng, từng bước, từng bước, cuối cùng cũng bước đến bên huyệt mộ của Xương Ý. Nàng chăm chú nhìn A Hành rồi từ từ rút chủy thủ ra, tựa hồ định trao lại cho A Hành, nhưng đã sức tàn lực kiệt, cánh tay rũ xuống, chủy thủ cũng theo tay rơi xuống đất, keng một tiếng rất khẽ, lại chấn động tất cả mọi người ở đó.

A Hành nước mắt như mưa, gật gật đầu, “Muội hiểu mà, Tứ tẩu, tẩu yên tâm đi đi! Nhắn lại với Tứ ca, muội nhất định không để bất cứ kẻ nào làm tổn hại đến Chuyên Húc đâu!”

Xương Phó nhoẻn cười rạng rỡ, buông mình rơi xuống mộ huyệt tối đen sâu hút.

Chuyên Húc rào lên thảm thiết: “Mẹ, mẹ ơi, đừng bỏ con!” Đột nhiên, chẳng hiểu cậu lấy đâu ra sức mạnh, đẩy phắt A Hành ra, lảo đảo chạy về phía mộ huyệt, “Mẹ, cha, đừng bỏ con mà!”

Thật lạ lùng, có lẽ vì linh lực của Xương Phó tản mác, làm biến đổi cả cảnh vật xung quanh, huyệt mộ đột nhiên tự động khép lại.

Mặt đất bốn bề lập tức gồ lên rồi từ từ hợp lại, tạo thành một nấm đất như bát úp, cản Chuyên Húc lại bên ngoài.

Phía trên huyệt mộ, từ những vết máu loang lồ Xương Phó để lại, chợt mọc ra vô vàn đóa hoa nhỏ không tên. Cứ hai đóa chung một cánh, cùng một cuống, nương tựa vào nhau, rỡ ràng đón gió, chẳng mấy chốc, cả nấm mồ đã phủ kiến những đóa hoa đỏ thắm. Gió thổi qua, trăm ngàn đóa hoa đung đưa trước gió, dường như loáng thoáng nghe thấy tiếng cười rộn rã đâu đây.

Tất cả mọi người đều trố mắt nhìn cảnh tượng trước mặt, không thốt nổi một lời, chỉ mình Chuyên Húc vẫn ra sức đấm vào nấm mộ, khóc lóc gọi: “Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ ơi…”

A Hành nhặt thanh chủy thủ đẫm máu Xương Phó lên, quỳ xuống trước mộ Tứ ca, Tứ tẩu, gương mặt tái nhợt chết lặng, như một pho tượng vô hồn.

Hoàng Đế ngồi lặng trong Chỉ Nguyệt điện, nét mặt tiều tụy mệt mỏi, liên tiếp cử hành ba tang lễ, con trai, con dâu, rồi đến vợ, dẫu là người kiên cường như ông cũng không sao chịu nổi.

Dường như vì mọi sự xảy ra quá nhanh, mãi đến giờ ông vẫn còn ngỡ ngàng, chưa hề tin đó là sự thật. Đồng Ngư đi thật rồi sao?

Từ lần đầu gặp gỡ khi còn nhỏ tuổi vô tư, đến sau này nghi kỵ lẫn nhau, tuy ngày ngày Đồng Ngư đều kề cận bên giường, nhưng ông lại thấy nàng mỗi lúc một xa lạ, không còn là cô bé nấp trong ruộng cao lương ném quả lê vào ông ngày nào nữa. Mấy ngàn năm yêu hận dây dưa, mỗi lần ông nhẫn nhịn, chỉ là vì nhớ đến cái đêm trăng sáng sao thưa ấy, trên đỉnh núi mọc đầy cỏ dại, ông từ một chàng trai biến thành một người đàn ông, Đồng Ngư cũng từ một cô bé biến thành một người phụ nữ, nàng đã rúc vào lòng ông run lên, chẳng rõ là lạnh vì gió núi, hay là vì căng thẳng sợ hãi. Ông đã hứa với Đồng Ngư: “Ta sẽ cất căn nhà thật lớn để cưới nàng về.” Đồng Ngư phì một tiếng: “Ai thèm? Mông Đàm mấy ngày trước đến cầu hôn với cha ta cũng có căn nhà lớn lắm rồi.” Ông cười trỏ vầng trăng trên trời: “Căn nhà ta cất có thể trông thấy ánh trăng đẹp nhất trần đời, giống như đêm nay vậy, hai ta có thể ngày ngày ngắm trăng cùng nhau.” Đồng Ngư vùi mặt vào ngực ông cười thầm, thân mình không run lên nữa, chỉ nghe tiếng thì thào khe khẽ: “Ta không muốn ngắm trăng, chỉ muốn ngắm tên ngốc trỏ vầng trăng kia thôi!”

Năm ấy, hai người bọn họ bất kể thế nào cũng không ngờ được, mấy ngàn năm sau, ngay giữa Chỉ Nguyệt điện mà ông xây dựng cho Đồng Ngư, ông lại giận dữ tuyên bố cắt đứt tình xưa, còn nói nếu Đồng Ngư dám động vào người trên Triêu Vân điện nữa, ông sẽ khiến nàng tan thành tro bụi. Rồi mặc cho nàng khóc lóc thảm thiết, ông đá văng nàng ra, quyết định dứt khoát rời bỏ, mà đâu có ngờ, nàng còn dứt khoát rời bỏ hơn ông.

Hoàng Đế đẩy cửa ra, liền trông thấy vầng trăng khuyết cong cong như móc câu ngoài cửa sổ. Ông tựa người vào sập, lặng lẽ ngắm trăng.

Tòa cung điện này dựng nên vì Đồng Ngư, nhưng cả ngàn năm nay, ông chưa hề cùng Đồng Ngư sánh vai ngắm nhìn trăng sáng, ông đã không còn là ông năm ấy, nàng cũng không còn là nàng khi xưa, sánh vai cùng ngồi còn ý nghĩa gì nữa chứ. Có điều, chẳng rõ tại sao, sau một ngày mệt mỏi, ông luôn thích nằm dài ở đây, ngắm nhìn trăng sáng, dưới ánh trăng mờ ảo ấy, có ông một thời trẻ trung sôi nổi, còn có cả một thiếu nữ có thể làm chứng cho thời niên thiếu sôi nổi của ông. Có điều thời gian đằng đẵng xóa nhòa tất cả, ông đã chẳng còn phân rõ được người con gái mình nhung nhớ là ai, là cô gái yểu điệu run lên trong lòng ông, hay nàng thiếu nữ ngạo nghễ băng qua ánh trăng vằng vặc bước đến trước mặt ông, hay đều không phải?

Hoàng Đế tựa mình vào gối ngọc, tựa ngủ mà không phải ngủ, chẳng biết bao lâu sau, có thầy thuốc tới cầu kiến.

“Muộn thế này, thần vốn không nên tới quấy rầy bệ hạ nghỉ ngơi, nhưng bệ hạ đã căn dặn phải lập tức bẩm báo bệnh tình của vương hậu nương nương, bất kể lúc nào.”

Hoàng Đế ôn hòa mà uy nghiêm nói: “Ngươi làm đúng lắm.”

“Nghe các cung nữ hầu hạ vương hậu kể, vừa nghe tin Tứ vương tử phi tự vẫn, vương hậu nương nương tức thì ngất lịm, bọn họ vội tuyên triệu thần, khi thần đến nơi thì vương hậu đã tỉnh lại, mặc cho thần khuyên can đủ mọi cách, nương nương vẫn bắt đám cung nữ kể lại tường tận sự tình. Nghe nói Đồng Ngư nương nương vì cứu Cửu điện hạ mà đem thân đỡ đao, chết ngay tại chỗ, nương nương lại kích động cười rộ lên, cười mãi cười mãi rồi bắt đầu òa lên khóc, vừa khóc vừa ho rũ rượi, ho ra toàn là máu. Các cung nữ quỳ đầy dưới đất, kẻ van vỉ người khuyên nhủ, nhưng vương hậu vẫn kích động, không sao bình tĩnh lại được, cũng không chịu cho thần xem bệnh, may sao bấy giờ vương cơ về kịp, dẫn theo Chuyên Húc vương tử và Cửu Dao vương cơ quỳ trước giường vương hậu, dập đầu lia lịa, bấy giờ vương hậu mới chịu để cho thần chẩn mạch.”

“Bệnh tình bà ấy thế nào?”

“Uất khí tích tụ trong ngực, nhiều năm không tan, tâm mạch đã thương tổn, từ sau khi Chuyên Húc tiểu vương tử ra đời, bệnh tình vương hậu đã có biến chuyển, có điều mấy ngày nay liên tiếp bị kích động, cơn bệnh không còn khống chết được nữa, linh khí rối loạn hoàn toàn, hiện giờ thần cũng không dám dùng thuốc, chỉ dám kê vài vị an thần thôi.”

“Rốt cuộc là sao?”

Thầy thuốc thoáng do dự, đoạn dập đầu binh binh, khẽ đáp: “Trầm kha khó chữa, không cách nào cứu vãn, sớm muộn ắt sẽ… Thần không dám thưa thật với vương hậu, chỉ nói là nhất thời đau buồn quá độ, yên lòng tĩnh dưỡng sẽ khỏe.”

Hoàng Đế kinh ngạc sững sờ, bất giác lại đưa mắt nhìn ra cửa sổ.

Thầy thuốc căng thẳng đợi hồi lâu, chẳng thấy Hoàng Đế ừ hữ gì. Y len lén nghiêng đầu nhìn trộm Hoàng Đế, từ góc độ của y, chẳng thể thấy được nét mặt Hoàng Đế, chỉ thấy rõ mồn một khung cảnh ngoài song. Vành trăng cong vút như một chiếc móc câu ngọc ngà nghiêng nghiêng treo dưới song cửa.

Hoàng Đế vẫn không lên tiếng, thầy thuốc cũng chẳng dám ho he.

Mãi đến khi đầu gối gã thầy thuốc đã tê dại cả đi, Hoàng Đế mới đột ngột định thần lại, trông thấy y, Hoàng Đế ngạc nhiên hỏi: “Sao ngươi còn ở đây?”

Thầy thuốc vội dập đầu: “Thần cáo lui.” Đoạn tức tốc lùi ra khỏi đại điện.

Trăng lên quá đỉnh đầu, mọi âm thanh đều bặt tiếng.

Chu Du ngồi trông Luy Tổ, cứ tựa người bên sập gật gà gật gù. Vân Tang đã dắt Chuyên Húc và Cửu Dao đi nghỉ. A Hành còn đang tất bật giã thuốc, nhưng giã xong lại bỏ đi, đổ xong lại giã, ánh mắt đầy đau khổ và lo lắng.

Thiếu Hạo nhân đêm tối đã chạy đến Triêu Vân phong, thoạt tiên y lặng lẽ tới thăm Luy Tổ, rồi sau đó, được Chu Du chỉ dẫn, lại ta sau đình viện tìm A Hành. Y khe khẽ gọi nàng nhưng A Hành một mực làm ngơ, đi lướt qua y, như không nghe thấy.

Thiếu Hạo đành ngồi xuống thềm đá, lặng lẽ nhìn A Hành đi qua đi lại.

Chu Du nói thầy thuốc bảo không có gì đáng ngại, nhưng y vốn rõ hơn ai hết, thầy thuốc trong cung đình hễ gặp bệnh nặng thường sẽ không dám nói thật. Nhìn tình trạng Luy Tổ, lại nhìn dáng vẻ A Hành, y hiểu Luy Tổ e rằng chỉ còn sớm tối.

Như ý nguyện của y, cả Hiên Viên và Thần Nông đều tổn thất không nhỏ, nhưng y chẳng hề thấy vui vẻ chút nào.

Mỗi lần A Hành chìa tay ra cầm nắm gì đó, y lại trông thấy bàn tay mất đi ngón út của nàng, trái tim bất giác nhói lên, như thể ngón tay bị cắt đứt là của y vậy.

Vô vàn đom đóm múa lượn trên bãi cỏ, tỏa sáng lập lòe, tựa như vô vàn vì sao nho nhỏ lung linh, y tiện tay bắt lấy một con, nắm trong lòng bàn tay như một ngọn đèn nhỏ xíu, dưới ánh trăng mờ mờ, rất nhiều chuyện xưa chợt hiện ra.

Y nhớ lần đầu tiên gặp Xương Ý, Xương Ý còn ngượng ngập nấp sau lưng Thanh Dương, ngọng nghịu gọi “Thiếu Hạo ca ca”; nhớ lúc y, Thanh Dương và Vân Trạch uống rượu, Xương Ý đều ngoan ngoãn ngồi một bên, cặp mắt sáng rực chăm chú nhìn bọn họ; nhớ hồi nhỏ Xương Ý cầm thanh kiếm, y lại cầm tay Xương Ý, dạy Xương Ý chiêu kiếm đầu tiên, trong khi Thanh Dương đứng bên cạnh vỗ tay cổ vũ, Xương Ý cũng cười nói “Cám ơn Thiếu Hạo ca ca”; nhớ sau khi Vân Trạch qua đời, Thanh Dương bị giam ở Lưu Sa, Xương Ý cuống quýt chạy tới tìm y, khóc lóc, “Thiếu Hạo ca ca, huynh mau tới thăm Đại ca đi, Đại ca sắp chết rồi.”

Y cũng nhớ lần đầu tiên gặp A Hành, khắp người nàng toàn là máu, nằm lịm trên tế đài. Lúc bế nàng lên, lòng y chợt rung lên một cảm giác vi diệu, thiếu nữ này là tân nương của y đấy ư? Đột nhiên, y bỗng lạnh người vì sợ, suýt nữa y đã đến muộn một bước rồi.

Từ Ngọc sơn về đến Triêu Vân phong, A Hành cùng y trò chuyện thâu đêm dưới bầu trời đầy sao sáng, tuy nàng cố làm bộ tự nhiên, nhưng cứ nhấp một ngụm rượu, nàng lại đỏ bừng mặt. Có lẽ biết được vẻ thẹn thùng kia là do mình, nên y chẳng dám nhìn lâu.

Trong Thừa Hoa điện, y cùng nàng nắm tay du ngoạn, gảy đàn thưởng nhạc, trồng cây ngắm hoa, ủ rượu chuốc chén, vốn chỉ để che mắt người đời. Nhưng tiếng đàn ấy vì có nàng thưởng thức, nên mới du dương thánh thót, hoa trong vườn vì có nàng nắm tay cùng ngắm nên mới diễm lệ vô song, rượu ngon y ủ vì có nàng cùng uống cùng say nên mới đượm nồng thơm ngát. Nàng cười, nàng cau mày, nhất cử nhất động của nàng đều tươi tắn sinh động, biến cả tòa cung điện vắng lạnh mênh mông thành một ngôi nhà, y vì nàng mà vui vẻ, vì nàng mà tươi cười, tất cả đều là chân thành, quãng thời gian sớm tối bên nhau đó, tuyệt không giả dối.

Dưới Ngu uyên, trong bóng đêm tăm tối tưởng chừng nuốt trọn được tất cả, y nhắm mắt chờ chết, vậy mà A Hành đã đi rồi còn quay lại vì y, xưa nay nàng chẳng thề hẹn gì với y, vậy mà nàng vẫn không lìa bỏ. Lần ấy, tuy y ở trong bóng tối nhưng lại cảm nhận được ánh sáng, còn lần này, y đang nắm lấy ánh sáng, vậy mà chỉ cảm thấy đêm tối mịt mùng.

“A Hành!”

Y nắm lấy gấu quần xanh biếc lướt qua bên mình, định giải thích, định cứu vãn, nhưng chính y cũng chẳng biết phải nói gì. Giải thích rằng y không hề muốn Xương Ý chết ư, hay phân bua rằng y không ngờ Xương Ý lại cố chấp đến vậy, rõ ràng đã nhận được tin, có thể đi trước nhưng lại không chịu sống nhục, càng không ngờ Xương Phó lại cương liệt đến thế, quyết không sống một mình.

“Buông ra!”

A Hành ra sức giật gấu quần ra, Thiếu Hạo không nói một lời, nhưng bất kể thế nào cũng không chịu buông.

A Hành rút phắt chủy thủ ra, đó chính là thanh chủy thủ y và nàng cùng rèn làm quà kết hôn cho Xương Ý và Xương Phó, cũng là thanh chủy thủ hôm nay Xương Phó dùng để tự vẫn, trên chủy thủ vẫn còn vệt máu. Thiếu Hạo run bắn lên, vật còn đây mà người đã mất, lời chúc phúc năm ấy y đích thân rèn lên, giờ đây, chỉ còn như một lời châm chọc.

A Hành nắm chủy thủ bằng bàn tay chỉ còn bốn ngón, chủy thủ lướt qua chiếc quần, nửa ống quần lập tức bị cắt lìa. Trong nháy mắt, bóng nàng đã xa tít.

Thiếu Hạo nắm lấy nửa ống quần, bất lực thõng tay xuống.

Từ nay về sau, ân đoạn nghĩa tuyệt!

Tất cả chẳng còn cách nào cứu vãn nữa!

Thanh Dương, Vân Trạch, Xương Ý, Xương Phó, từng người lần lượt ra đi mãi mãi, A Hành cũng kiên quyết rời bỏ y!

Trong rừng dâu, Xi Vưu đang đứng tực vào một thân cây, lặng lẽ nhìn Thiếu Hạo và A Hành.

Biết được hôm nay là ngày đưa tang Xương Ý, hắn không yên tâm về A Hành nên định tới xem thử, nào ngờ lại nghe nói Xương Phó tự vẫn. Hắn vốn không định lên Triêu Vân phong, không phải vì sợ, mà e sự xuất hiện của mình sẽ làm A Hành đau khổ, giờ đây những đau khổ mà nàng phải gánh chịu đã quá nhiều, hắn chỉ muốn xác nhận rằng nàng bình an, rồi sẽ âm thầm quay về.

Nhưng nàng chẳng hề bình an, Xi Vưu cũng chẳng đành lòng bỏ đi, đành ẩn mình giữa rừng dâu, nấp trong bóng tối bầu bạn với nàng. Nhìn đám thầy thuốc lũ lượt ra vào Triêu Vân điện, tuy không nghe được thầy thuốc nói gì, nhưng nhìn dáng vẻ A Hành, hắn cũng có thể đoán được, bệnh tình Luy Tổ nhất định không nhẹ.

Cỏ dại mọc đầy dưới nền đất rải đá xanh, không ai cắt xén, lại thêm sương đêm ướt đẫm, A Hành giẫm lên đám cỏ ướt sũng, liền trượt chân ngã nhào.

Nàng định đứng dậy nhưng vừa gượng dậy, cổ chân đã đau buốt, lại ngồi phịch xuống. Đột nhiên, nước mắt A Hành trào ra như mưa, nàng không dám khóc ra tiếng, đành gắng sức kìm lại, kìm nén đến nỗi cả người run lên lẩy bẩy, chỉ thấy từ trong ra ngoài đều buốt giá đến tận xương tủy, tựa hồ rơi xuống hố băng vậy.

Thiếu Hạo vội vàng đứng dậy, định chạy đến đỡ nàng, chợt phát hiện có người nấp trong rừng dâu, “Ai đó?” Xi Vưu rất giỏi ẩn nấp, Thiếu Hạo lại đang hoảng hốt tâm thần, vốn không hề phát hiện ra, nhưng trông thấy A Hành trượt ngã, Xi Vưu đương lúc khẩn trương, quên cả thu liễm khí tức.

Thấy Thiếu Hạo đã phát hiện ra mình, Xi Vưu chẳng buồn né tránh, cứ thế hiên ngang hiện thân. Hắn chỉ hờ hững liếc qua Thiếu Hạo rồi đi thẳng về phía A Hành, coi Thiếu Hạo như không khí, kéo nàng đứng dậy.

A Hành cứ ngỡ là Thiếu Hạo, dụng lực định đẩy ra, nào ngờ lại là Xi Vưu, hai tay nàng bất giác biến đẩy thành nắm, nắm chặt lấy cánh tay hắn, chứa chan nước mắt nhìn Xi Vưu, vẻ mặt đau đớn bơ vơ như muốn tìm một nơi nương tựa, để trút bỏ đau thương không cách nào chịu đựng.

Xi Vưu ôm lấy A Hành, không nói một lời, chỉ siết chặt lấy nàng, siết thật mạnh, như muốn dùng hơi ấm của mình sưởi ấm cõi lòng nàng, giấu nàng vào máu thịt mình, không để nàng phải chịu bất kỳ đau khổ nào nữa.

A Hành gục đầu vào cổ Xi Vưu, cắn mạnh vào vai hắn, khóc lặng đi. Nước mắt nàng trào ra như suối, không có vòng tay ấm áp của hắn, trái tim nàng đã chẳng còn đơn độc lạnh lẽo nữa.

Thiếu Hạo ngẩn ra nhìn Xi Vưu và A Hành, nhưng trong mắt hai người bọn họ chỉ có nhau. Y đành lặng lẽ quay người, ưỡn thẳng lưng, ngẩng cao đầu, từng bước từng bước đi khỏi, duy có ánh mắt vẫn tan tác hư vô.

Huyền điểu chở y bay vút lên không, đêm nay trăng nhạt sao sáng, muôn ngàn ngôi sao lấp lánh hệt như muôn ngàn ngọn đèn lung linh, y ngửa mặt nhìn lên cả trời sao sáng, chợt bật cười như điên dại, cười đến gập cả người, suýt nữa thì ngã xuống. Ngàn vạn ngọn đèn trên sông nước Cao Tân đều an toàn, nhưng ngọn đèn cuối cùng của y đã hoàn toàn tắt lịm!

Bảy ngày sau, theo lệ tục, phải làm lễ tế Xương Phó.

Xương Phó giết Đồng Ngư thị tội không thể tha, nhưng nàng đã lấy mạng đền mạng. Nhờ A Hành thuyết phục, cuối cùng Hoàng Đế cũng hạ lệnh phóng thích tất cả chiến sĩ Nhược Thủy tộc bị giam giữ, còn cho phép bọn họ dự lễ tế Xương Phó, có điều không được trở về Nhược Thủy nữa, mà trở thành thị vệ bên cạnh Chuyên Húc, mãi mãi ở lại Hiên Viên sơn.

Hoàng Đế đích thân tới dự lễ tế Xương Phó, nghi thức do Chuyên Húc thực hiện dưới sự chỉ dẫn của Tiểu Tông Bá, nhưng Chuyên Húc lần lữa mãi vẫn không chịu bắt đầu, nói phải đợi cô cô.

Tiểu Tông Bá giục giã mấy lần, Chuyên Húc chỉ mím môi không nói. Trước khi cậu đi, cô cô đã dặn: “Con đi trước đi, cô cô phải đi lấy mấy thứ cho mẹ con, để mẹ con an tâm đi cùng cha con.”

Hoàng Đế hờ hững đứng ngoài quan sát.

Chuyên Húc toàn thân vận đồ tang, đứng ngay đầu tiên, gương mặt nhỏ đanh lại. Có lẽ vừa phải trải qua hai cái tang lớn, cặp mắt cậu đượm vẻ chín chắn trước tuổi, ánh mắt nhìn người khác luôn luôn lạnh lùng, đầy cảnh giác và thăm dò, bởi tuổi còn quá nhỏ, chưa biết che đậy nên vẻ sắc bén bức người đó của cậu lại càng khiến người ta kinh hãi.

Tiểu Tông Bá nhìn giờ, không dám lần lữa thêm nữa, bèn hạ lệnh cử hành nghi thức, nào ngờ Chuyên Húc đã bước lên trước, cương quyết tuyên bố trước tất cả mọi người: “Ta nói khi nào bắt đầu thì khi nấy mới được bắt đầu!”

“Nhưng còn giờ giấc…”

Chuyên Húc trừng mắt nhìn Tiểu Tông Bá, “Người nằm đây là cha mẹ ta, ta phải làm chủ!”

Tiểu Tông Bá không nói được nửa lời, lúng túng đưa mắt nhìn Hoàng Đế, nào ngờ Hoàng Đế chẳng nói gì, chỉ chăm chú nhìn Chuyên Húc.

Hoàng Đế còn nhớ lần đầu tiên nhìn thấy Chuyên Húc là lúc cậu còn quấn tã, ông ôm Chuyên Húc vào lòng, phát hiện thấy cậu rất mẫn cảm với tiếng đàn, khi nhạc sư cung đình đàn sai một nốt, Chuyên Húc thuở ấy còn chưa biết nói đã cau mày. Hoàng Đế ngỡ rằng tính tình Chuyên Húc cũng giống như Xương Ý, chỉ mê mải với những thứ vô dụng cầm kỳ thi họa, từ đó chẳng ngó ngàng gì đến cậu nữa. Nhưng lần này, Hoàng Đế đã bắt đầu nhìn Chuyên Húc bằng con mắt khác.

Hôm nay cũng là ngày tế lễ Đồng Ngư thị, nhưng Luy Tổ là vương hậu, Thanh Dương là Hoàng Đế tương lai trong lòng mọi người, Hoàng Đế lại loan tin ra ngoài là Xương Phó bị thương trên chiến trường, thương thế quá nặng mà qua đời, nên lễ tế đương nhiên cũng phải long trọng hơn Đồng Ngư thị “bệnh nặng mà chết” nhiều.

Trước mộ Đồng Ngư thị vắng tanh, chỉ có một mình Di Bành đang quỳ.

Thấy A Hành tiến lại, Di Bành quát: “Cút xa ra!”

A Hành chẳng buồn để ý tới hắn, vẫn đến bên mộ. Di Bành nổi giận, liền vung quyền đánh A Hành, chiêu nào chiêu ấy đều chí mạng, “Ngươi tới đây diễu võ dương oai chứ gì?”

A Hành vừa tránh vừa đáp: “Ta diễu võ dương oai cái gì đây? Diễu võ dương oai rằng ba người anh ruột của ta đều bị các ngươi hại chết ư? Diễu võ dương oai rằng mẹ ta đã bị mẹ ngươi ép đến nỗi mạng sống chỉ còn sớm tối ư?”

Di Bành nghi hoặc hỏi: “Ngươi nói bậy gì thế? Chẳng phải Thanh Dương vẫn sống sờ sờ ra đó ư?”

“Đại ca chết rồi, khi ngươi bày kế khiến phụ vương hiểu lầm rằng Đại ca định đầu độc phụ vương, huynh ấy đã uống phải thuốc độc, đúng lúc giao đấu với Xi Vưu thì độc dược phát tác, Đại ca chết dưới tay Xi Vưu.”

“Vậy Thanh Dương bế quan trị thương dưới đáy Quy khư là giả à?” Di Bành phá lên cười ha hả, cười đến đứt cả hơi, “Mẹ, mẹ nghe thấy chưa? Hung thủ hại chết ca ca con đã chết! Mụ già ác độc ấy cũng sắp chết rồi!”

A Hành lạnh lùng quan sát, Di Bành cười chán, mới đưa mắt nhìn A Hành, hỏi: “Cứ theo tính tình của ngươi, đây hẳn là tế lễ ngươi tặng cho ta. Tiểu muội à, ngươi định giết ta thế nào đây?”

A Hành đáp: “Ta đã ra tay rồi.”

Di Bành cười: “Ta tin, nhưng ta không hiểu.”

“Mấy ngàn năm trước, mẹ ta đã kết bái huynh muội với Viêm Đế, khi ông ấy lâm bệnh nặng, bèn đem Thần Nông Bản Thảo Kinh kết tinh tâm huyết cả đời tặng lại cho ta.”

Di Bành sực hiểu ra, “Hèn chi ngươi có thể trì hoãn ngày sinh của đồ con hoang kia, nhưng dù có Thần Nông Bản Thảo Kinh, cũng không thể dễ dàng hạ độc ta được.”

“Ta biết, nhưng ngươi quên rồi sao? Chúng ta từng học cùng một thầy, ta nắm rõ cách vận hành linh khí của ngươi. Chất độc dược chia làm hai phần, phần thứ nhất, chính là ở đây.” A Hành nhìn về phía mộ Đồng Ngư thị, “Mấy ngày nay ngươi luôn quỳ ở đây suốt đêm, trong lúc thương tâm, linh lực hộ thể cũng yếu đi nhiều, tà khí rất dễ xâm nhập.”

“Đây là mộ huyệt có linh lực gia trì, nếu có độc nhất định sẽ xảy ra biến hóa.”

“Phải, nên thứ ta dùng không thể gọi là độc dược, ngược lại còn là thuốc bổ, rất có ích trong việc nâng cao linh lực, có thể giúp linh lực của ngươi tăng vọt chỉ trong một khoảng thời gian ngắn. Vừa rồi ta vừa tiết lộ với ngươi rằng Thanh Dương đã chết, khiến ngươi kích động, trong lúc cười sằng sặc đã hít phải rất nhiều thứ không nên hít phải, những thứ đó cũng không phải là độc dược, nhưng khi gặp phải dược chất trong cơ thể ngươi, lại kết hợp với phương thức vận hành linh lực đặc thù của ngươi nữa, sẽ dẫn tất cả linh lực của ngươi tụ về tim, sau cùng, tim ngươi sẽ không chịu đựng nổi linh lực mạnh mẽ của bản thân mà nổ tung.”

Thấy Di Bành sững người, A Hành lại nói: “Ta là đồ đệ của Viêm Đế Thần Nông Thị, chứ không phải đồ đệ của Cửu Lê Độc vương, không nhất thiết phải hạ độc mới có thể lấy mạng người.”

Sống đã chẳng có gì vui, thì chết có gì đáng sợ? Di Bành cười, ngưng tụ linh lực toàn thân, toan một chưởng đánh chết A Hành, “Vậy cũng hay, chúng ta cùng lên đường thôi!”

A Hành đứng yên không nhúc nhích. Chưởng lực của Di Bành mới đánh xuống nửa chừng, hắn đã ngã gục trước mộ.

Tất cả linh lực vừa rồi hắn ngưng tụ đều cuộn lên đổ về tim, huyết quản trong ngực cơ hồ muốn vỡ tung, đau đến nỗi hắn co rúm người lại.

Di Bành ra sức khắc chế linh khí chạy loạn trong mình, sắc mặt từ trắng đổi sang xanh, lại từ xanh đổi sang đỏ, vô số linh khí tựa như vô số con rắn độc cắn xé trái tim hắn, khiến cơ mặt hắn giật giật vì đau đớn.

A Hành ngồi xuống bên cạnh Di Bành, ánh mắt vô cùng phức tạp, nàng hận hắn, nên mới bày ra cách chết đầy đau đớn này dành cho hắn, nhưng hiện giờ nhìn hắn đau đớn vật vã, lòng nàng cũng đau khổ chẳng kém.

“Di Bành, nếu ta không giết ngươi, ngươi có hạ sát thủ với Chuyên Húc chăng?”

Di Bành đau đến méo mặt, nhưng vẫn cười sằng sặc, hung hăng đáp: “Có! Mẹ nó đã giết mẹ ta, sao ta có thể tha cho nó được? Các ngươi đều phải chết… Á á!” Di Bành đau đến nói không nên lời, hai tay bắt đầu cào cấu lên ngực. Y phục đều bị hắn xé rách, để lộ vết thương trên vai trái, là năm vết thâm tròn tròn, nhìn giống hệt một dấu thần chú.

A Hành chợt biến sắc mặt, hai mắt ầng ậng nước.

“A… A…” Di Bành đau đớn thét lên, ngã xuống dưới chân A Hành, cả ngươi co rúm ró, vết thương trên vai càng hiện rõ hơn.

A Hành run rẩy đưa tay ra, đặt lên vai Di Bành, truyền linh lực vào cơ thể hắn, toan làm giảm đau đớn. Di Bành vung tay hất nàng ra, “Ngươi cút ra!” Nàng vẫn chẳng hề tránh né, mặc cho Di Bành đánh đã, tay áo bị hắn xé toạc, lộ ra cả cánh tay. Trên cánh tay nàng cũng có một vết thương, giống hệt vết thương trên vai Di Bành, trông như nửa dấu chân thú vậy.

Cánh tay Di Bành đang định đánh vào tay nàng, chợt khựng lại.

Linh lực của A Hành bắt đầu phát huy tác dụng, cơn đau dần dần dịu hẳn. Cơn đau lui đi, dường như cũng cuốn theo tất cả bi thương oán hận trong lòng, trái tim hắn tựa hồ biến thành một đầm nước trong veo, ánh mặt trời rọi xuống, xuyên qua thời gian dằng dặc, nhìn thấu tận đáy đầm, nơi đó, có một cậu thiếu niên vô tư vô lự, còn chưa biết ưu sầu.

Phụ vương quy định cho hắn và A Hành cùng nhau đọc sách, còn chọn cho cả hai một vị sư phụ, nhưng mẹ lại cấm hắn nói chuyện với A Hành. Mỗi sáng A Hành đều nấp bên góc tường đợi hắn, cùng hắm nắm tay nhau tới lớp.

Chiều hè, cả hai lại cùng nhau nhảy từ trên cây cầu cao ngất xuống nước, đọ xem bọt nước của ai làm bắn lên to hơn. Mùa đông tuyết rơi, hai người cùng nằm lăn ra trên mặt tuyết, dùng sọt úp chim tước. Hắn tặng A Hành con anh vũ mình yêu thích nhất, A Hành cũng thêu hầu bao cho hắn, một chiếc hầu bao có tua tuyệt đẹp.

Trên núi vắng mọc đầy cỏ dại là khu vườn bí mật của họ, cùng đuổi nhau, cùng bắt bướm, cùng vồ dế, đào giun, A Hành gọi “Cửu ca, từ từ thôi”, hắn sẽ gọi “A Hành, mau lên”.

Có lẽ vì mẹ và các anh đều cấm họ chơi chung, mà cả hai lại quá bướng bỉnh, nên càng cấm họ càng thân thiết. Rõ ràng rất thân nhau, nhưng mỗi lần cả nhà họp mặt, đều phải lờ nhau đi, vờ như không quen, đợi đến nơi không có ai, lại nhìn nhau cười, lén làm mặt quỷ chòng nhau, hí hửng vì cha mẹ và các anh không biết bí mật nhỏ của họ.

Mỗi lúc ăn cơm cùng, vì ngang hàng, hai người ngồi cạnh nhau, chẳng ai dám nói với ai câu nào, nhưng dưới gầm bàn lại lén lút ta đẩy ngươi, ngươi đánh ta, cùng mím môi cười vụng.

Nghe nói Tượng Võng thúc thúc bắt được một con yêu quái rất lợi hại, cả hai rủ nhau trốn học đi xem đại yêu quái, hai mái đầu chụm lại, thì thầm bàn tính một lát đã ra được vô số âm mưu quy kế, gạt được tất cả thị vệ. Hai người lẻn vào, vô ý phá vỡ cầm chế, khiến con yêu quái hung bạo xông ra. Cả hai sợ cuống quýt, vội co cẳng chạy như bay. A Hành mặc váy nên chạy không được nhanh, bị yêu quái vồ được, bẻ gãy lìa tay. Hắn ngoảnh lại nhìn A Hành, thấy nửa nửa người A Hành toàn máu là máu, vẫn không quên hét bảo hắn: “Cửu ca, chạy mau, chạy mau!”

Hắn vô cùng sợ hãi, rất muốn bỏ chạy, nhưng hắn còn sợ A Hành bị yêu quái ăn thịt hơn, bèn chạy ngược lại cứu A Hành, nhảy tưng tưng, huơ huơ tay trước mặt yêu quái, “Đến đây, đến đây, đến mà bắt tao đây này!”

Con yêu quái bị chọc giận, bèn bỏ lại A Hành đuổi theo hắn. Hắn chạy không thoát, liền bị yêu quái tóm được, móng vuốt sắc nhọn của nó xuyên thủng cả vai hắn, chưa hết, một chân kia của nó sắp cắm ngập vào tim hắn. A Hành kéo lê cánh tay gãy, nhảy vọt lên vai yêu quái, ra sức nện vào mắt nó, vừa nên vừa khóc: “Cửu ca, Cửu ca, huynh có đau không?”

Hắn không muốn tỏ vẻ yếu đuối như con gái, bèn gắng gượng làm mặt quỷ với A Hành, vờ như không hề gì, hít một hơi khí lạnh, nói: “Con yêu quái này cũng lợi hại ghê.”

Nhìn hắn làm mặt quỷ, A Hành phá lên cười.

May sao Tượng Võng thúc thúc đến kịp, cứu được hai đứa. Tuy thúc thúc cùng các anh đều xin cho, nhưng phụ vương vẫn vô cùng giận dữ, đem nhốt cả hai lại, còn nói thầy thuốc không được chữa lành sẹo cho hai người, để cả hai trông thấy mà nhớ kỹ lời người lớn.

Những tháng ngày cùng nhau học hành, cùng nhau nô đùa, cùng nhau đối phó với cha mẹ, cùng nhau lừa gạt các anh trai…

Di Bành nắm lấy tay A Hành, vẻ mặt hoang mang vô hạn, tựa hồ không hiểu sao bọn họ lại thành ra thế này.

“A Hành.” Di Bành khẽ gọi. Từ khi Tam ca Hiên Viên Huy chết đi, hắn vẫn khách khí gọi nàng là tiểu muội.

A Hành ròng ròng nước mắt, “Cửu ca.” Từ sau khi Thanh Dương chết đi, đây là lần đầu tiên nàng thật lòng xem hắn là anh trai.

Di Bành mỉm cười, “Nếu chúng ta không bao giờ lớn lên thì hay quá, ta thực muốn được quay về ngày nhỏ như xưa.”

Linh lực của A Hành không kiềm chế nổi linh lực của Di Bành nữa, cơn đau lại tăng lên, Di Bành nhẹ nhàng gỡ thanh chủy thủ A Hành đeo bên eo, cũng chính là thanh chủy thủ Xương Phó dùng để tự vẫn, gắng chút sức tàn đâm thẳng vào ngực mình, “A Hành, con yêu quái lần này lợi hại quá, chúng ta đều thua cả rồi.”

“Cửu ca, Cửu ca…”

A Hành hốt hoảng gọi, mắt nhòe nhoẹt nước mắt, đột nhiên, Di Bành lè lưỡi làm mặt quỷ với nàng.

Gương mặt quỷ bỗng cứng đờ, trở thành lời cáo biệt vĩnh hằng.

“Cửu ca!” A Hành ôm lấy Di Bành, khóc không ra tiếng.

Trên triền núi, bươm bướm dập dờn, một đôi thiếu niên thiếu nữ đang chạy nhảy trong gió, tiếng cười rộn rã lan xa.

A Hành, A Hành, mau lên, mau lên!

Cửu ca, Cửu ca, từ từ, từ từ thôi!

Ha ha ha ha… Ha ha ha ha…

Dưới sự cố chấp của Chuyên Húc, mọi người đành đứng đợi trước mộ Xương Ý và Xương Phó.

Trông thấy A Hành sắc mặt tái nhợt, lảo đảo tiến lại, Tiểu Tông Bá lập tức tuyên bố bắt đầu nghi thức.

Trong tay A Hành nắm chặt một thanh chủy thủ nhuộm máu là lễ vật nàng và Thiếu Hạo tặng cho Xương Ý và Xương Phó nhân ngày thành hôn, là thanh chủy thủ đâm chết Đồng Ngư thị, cũng là thanh chủy thủ Xương Phó dùng để tự vẫn, nhưng hôm nay, sao nó lại nhuốm máu?

Trong tiếng nhạc ai oán, A Hành cắm phập thanh chủy thủ trước mộ, “Tứ tẩu, tẩu yên tâm đi cùng Tứ ca đi, không còn ai có thể làm hại Chuyên Húc nữa đâu.”

Người khác không hiểu nàng đang nói gì, chỉ mình Hoàng Đế biến sắc mặt: “Hành nhi, rốt cuộc con đã làm gì hả?”

“Con kết thúc tất cả mọi chuyện rồi!” A Hành đứng đó, thân mình lảo đảo như thể gió thổi cũng ngã, nhưng gương mặt lại quật cường lạnh lẽo đến không ngờ.

Hoàng Đế giật thót mình, vội quay phắt người chạy về phía mộ Đồng Ngư thị.

Hồi lâu sau, chợt nghe trong rừng sâu vọng ra một tiếng kêu thê lương mà ngắn ngủi. Thân mình A Hành lảo đảo như sắp ngã, nhưng nàng vẫn cắn lưỡi, gắng gượng đứng vững.

Nàng bế Chuyên Húc lên, “Chúng ta về nhà thôi, về xem bà nội và Tiểu Yêu thế nào.”

Chuyên Húc nắm lấy thanh chủy thủ bằng cả hai tay, “Vậy còn cái này? Để lại cho mẹ con à?”

“Con giữ lấy mà hộ thân, để mẹ con được yên lòng.”

Chuyên Húc ôm lấy thanh chủy thủ, khóe môi mím chặt, chăm chú nhìn ngôi mộ cha mẹ, kiên quyết gật đầu như thầm hứa.

A Hành vừa đặt chân vào Triêu Vân điện, Hoàng Đế đã xách kiếm bám theo sát gót.

Chẳng để đám thị nữ bẩm cáo, Hoàng Đế xông thẳng vào, vung kiếm toan lấy mạng A Hành, Chu Du định ngăn lại mà không ngăn nổi, Cửu Dao hoảng sợ khóc ré lên, vừa khóc vừa cùng Chuyên Húc một trái một phải ôm ghì lấy chân Hoàng Đế, nhưng chẳng cản được bước chân ông.

A Hành ngồi yên bất động, ngẩng đầu chăm chú nhìn Hoàng đế, không hề sợ hãi.

Hoàng Đế giơ cao kiếm, bàn tay run bắn lên, vung kiếm định chém xuống.

“Ông muốn giết thì giết tôi trước đi!” Giọng già nua yếu ớt của Luy Tổ chợt vang lên.

Thì ra, Vân Tang thấy tình hình không ổn, lập tức chạy đi tìm Luy Tổ, bấy giờ nàng vừa đỡ Luy Tổ hớt hải chạy đến.

Hoàng Đế giật mình, nhát kiếm lệch đi, không chém trúng A Hành. Ông ngoảnh lại trừng mắt nhìn Luy Tổ, trỏ vào A Hành hỏi: “Bà có biết nó đã làm gì không? Nó giết Di Bành ngay trước mộ Đồng Ngư đấy, máu Di Bành loang đỏ cả nấm mộ…” Hoàng Đế run giọng, không nói tiếp được nữa.

Luy Tổ lạnh lùng hỏi lại: “Ông đã điều tra chưa? Sao có thể không truy xét gì đã định tội cho Hành nhỉ?”

Hoàng Đế cười thâm, giễu cợt hỏi: “Còn cần tra xét nữa ư?” Ông trợn mắt nhìn A Hành, “Là mày làm phải không?”

A Hành thản nhiên nhìn Hoàng Đế, hờ hững hỏi: “Phụ vương thấy thế à? Ngàn năm trước, khi Nhị ca chết đi, nếu phụ vương có thể trả lời rõ ràng câu hỏi của Đại ca, thì đâu có câu hỏi ngày hôm nay.”

Hoàng Đế chợt run bắn lên, thanh kiếm trong tay keng một tiếng rơi xuống sàn: “Mày đã không còn là Hành nhi con gái ta nữa rồi!” Ông trừng trừng nhìn A Hành, thê lương nói: “Sau khi Vân Trạch chết đi, ta đã sợ rằng sẽ có ngày này. Ta bất chấp mọi người phản đối, cố ý cho mày và Di Bành học chung một thầy, để cả hai cùng học cùng chơi, cùng nhau lớn lên, chính là hy vọng không xảy ra sự việc ngày nay.”

Đoạn ông tóm lấy cánh tay A Hành, “Nhìn thấy vết thương này không? Còn nhớ Di Bành đã cứu mày thế nào không? Ta lệnh cho thầy thuốc không chữa lành sẹo, không phải để trừng phạt hai đứa bướng bỉnh, mà là để hai đứa suốt đời phải ghi nhớ, hai đứa là huynh muội, một giọt máu đào hơn ao nước lã!” Nói rồi ông ném cánh tay A Hành xuống: “Vết thương này cả đời mày cũng không xóa được, ngày ngày mày sẽ phải ghi nhớ rằng mày đã giết chết Di Bành, mày cứ ôm lấy ký ức ấy mà sống đi, sống một ngày là đau khổ một ngày!”. Dứt lời, Hoàng Đế quay phắt người, rời khỏi Triêu Vân điện.

 Chương 15: Đương quyến luyến, hiệu kèn đã giục

Xi Vưu nâng cằm A Hành lên, nhìn sâu vào mắt nàng, nghiêm trang nói: “Nếu ta chết đi, nàng đừng oán phụ vương nàng, nếu Hoàng Đế chết, mong rằng nàng cũng sẽ tha thứ cho ta, đây chỉ là trận quyết đấu công bằng của hai nam tử mà thôi.”

Khóe mắt A Hành chợt đỏ hoe, “Ta lên tới đây gặp chàng, vậy mà chàng lại nói với ta rằng chàng nhất định phải giết phụ vương ta ư?”

Từ sau khi Du Võng bị chém đầu trước trận tiền, sĩ khí quân Thần Nông tan tác, lòng dân phân tán, liên tiếp thua trận, nhưng cái chết bi thảm của Chúc Dung đã khiến tất cả dân Thần Nông phấn chấn tinh thần, giống như đương lúc bị dồn vào đường cùng, lại nghe thấy tiếng kèn lệnh xung phong hùng dũng vậy.

Chúc Dung chẳng những đã đem thân mình thắp sáng núi lửa, mà còn thắp sáng lên vô số ý chí phản kháng của nam nhi Thần Nông. Tuy Thần Nông quốc đã tan rã, nhưng dân chúng Thần Nông còn đó. Vô số người ùn ùn từ bốn phương tám hướng đổ về, phất cao ngọn cờ chống đối, dùng máu và mạng sống để chống lại Hoàng Đế.

E rằng chính Chúc Dung cũng không tưởng tượng nổi, cái chết của hắn có thể xoay chuyển hoàn toàn cục thể đại hoang, cuộc đấu tranh của hai phe Viêm, Hoàng từ đây bắt đầu kéo dài suốt mấy trăm năm, vô số nam nhi đã khảng khái hy sinh, làm nên một trang sử bi tráng hào hùng nhất trong lịch sự Thần tộc. Đến nỗi sau này khi Chuyên Húc đăng cơ trở thành Thiên đế, cắt đứt giao lưu giữa trời và đất, đốt hết điền tịch, thì câu chuyện về cuộc đại chiến của Thần tộc vẫn còn lưu truyền giữa nhân gian.

Khác hẳn Chúc Dung, Hoàng Đế đã lường trước cục diện ngày nay, nên ông nhất quyết không dám bại, bèn lựa cách mềm mỏng để đối phó Chúc Dung. Nhưng người tính chẳng bằng trời tính, Chúc Dung lại dùng một đám cháy kinh thiên động địa thắp lên cả Thần Nông. Thần Nông hiện giờ tựa như những con suối nhỏ róc rách đang dần dần hội tụ lại thành dòng sông lớn cuồn cuộn chảy, đợi sĩ khí của chúng tụ lại rồi bùng phát, chi bằng ra tay tấn công ngay khi chúng còn chưa hoàn toàn tụ lại, nắm lấy quyền chủ động.

Hoàng Đế lệnh cho Hiên Viên Hưu và Thương Lâm tấn công Trạch Châu thành.

Hiên Viên Hưu dẫn hai vạn tinh nhuệ Hiên Viên, bày trận thế công thành, bắt đầu tấn công.

Theo thông lệ, Trạch Châu là cứ điểm quân sự quan trọng, có ưu thế về địa lý, chỉ cần tử thủ trong thành lấy tĩnh chế động là ổn. Làm vậy vừa phát huy được trọn vẹn ưu thế của tòa thành này, vừa có thể giảm thiểu thương vong, tiết kiệm binh lực. Nào ngờ Xi Vưu chơi cờ chẳng buồn tuân theo luật lệ gì hết, lại dẫn một cánh quân chừng trăm người xông ra, chính diện giao phong với đại quân Hiên Viên.

Nhờ quân số ít, hành động thần tốc, tấn công hay tập kích đều hết sức mau lẹ, lại thêm Xi Vưu khí thế dũng mãnh, tựa như mãnh hổ hạ sơn, xông xáo khi bên trái lúc bên phải, đánh cho đội hình hai vạn người của Hiên Viên rối loạn cả lên, giết liền một lúc hơn hai ngàn người. Đợi Hiên Viên Hưu kịp phản ứng, khống chế quân đội, hạ lệnh bao vây tiêu diệt Xi Vưu thì hắn đã rút trở vào thành như gió lốc.

Vừa đụng độ một trận, khí thế đã nghiêng về phía Xi Vưu, Hiên Viên Hưu nháo nhác gào lên đòi chính diện giao chiến, nhưng bất luận hắn ở trước cổng thành chửi rủa thế nào, Xi Vưu cũng chỉ cười hề hề đứng trên đầu thành nhìn xuống như đang ngắm cảnh.

Xi Vưu còn cho người đem hơn hai ngàn đầu lâu vừa chém xuống, chưa khô hết máu, xâu lại thành từng chuỗi, mỗi chuỗi trăm cái, treo trên đầu thành, máu nhuộm đỏ thẫm cả tường thành nâu xám.

Binh sĩ Hiên Viên trông thấy chuỗi đầu lâu lõng thõng trên đầu thành, không rét mà run, vừa hận vừa sợ Xi Vưu.

Những ngày này, mỗi lần Hiên Viên và Thần Nông giao tranh, số đầu lâu treo trên thành lại tăng lên, tựa như những chiếc đèn lồng lắc lư trên cao vậy, hết lớp này say lớp khác, sin sít dày đặc, ngay cả kẻ to gan nhất trông thấy cũng phải giật thót mình.

Thoạt đầu, hành vi ngông cuồng tàn nhẫn của Xi Vưu đã chọc giận binh lính Hiên Viên vốn nổi danh dũng mãnh, khiến đấu chí của họ bốc cao ngùn ngụt, quyết lấy mạng Xi Vưu, trả thù cho đồng đội. Nhưng chiến thuật của Xi Vưu biến hóa đa đoan, khi hung mãnh như hổ, lúc kín đáo như rắn, khi lại giảo hoạt như hồ ly, bất luận binh sĩ Hiên Viên kiêu dũng thiện chiến chừng nào, số đầu lâu trên tường thành không ngừng tăng lên từng ngày.

Cảm giác của binh lính Hiên Viên đối với Xi Vưu càng ngày càng phức tạp, thoạt đầu họ tưởng Xi Vưu là một tảng đá, chỉ cần dốc sức là có thể khiêng đi, về sau họ lại phát hiện Xi Vưu là một ngọn núi, không cách nào lay chuyển được, họ cứ ngỡ chỉ cần tìm được chiến thuật thỏa đáng, đồng tâm hiệp lực, nhất định có thể vượt qua Xi Vưu, nhưng bất luận họ trèo thế nào, dùng phương pháp gì cũng vậy, càng leo lên cao thì càng nhận ra Xi Vưu đang ở cao hơn, vả lại bất cứ lúc nào hắn đều có thể lắc mình biến thành vực sâu, khiến bọn họ từng người ngã xuống chết.

Các chiến sĩ Hiên Viên tộc từ nhỏ đã sinh ra và lớn lên trên mảnh đất cằn cỗi, dân chúng hiếu chiến, tính tình dũng mãnh, kẻ càng dũng mãnh càng không biết sợ, nhưng một khi có kẻ dũng mãnh hơn khiến bọn họ sợ hãi, thì nỗi sợ hãi đó còn có sức uy hiếp hơn cả tử vong. Dù ngoài miệng họ không chịu thừa nhận, nhưng nỗi sợ hãi cũng giống như ôn dịch, chưa nảy sinh thì không sao, một khi nảy sinh rồi, liền cứ thế lan ra, không cách nào không chế.

Cứ gián đoạn như thế, chiến dịch này đã kéo dài hơn một năm. Hiên Viên Hưu tổ chức hai đợt tấn công lớn cùng vô số đợt tấn công nhỏ, hết thảy đều bị Xi Vưu đập tan. Trạch Châu thành vẫn sừng sững đứng đó, chẳng hề suy suyễn, có chăng là số đầu lâu treo trên tường thành đã tăng lên đến hơn một vạn chiếc.

Treo lủng lẳng hơn một vạn đầu lâu trước thành, Trạch Châu thành trở nên đáng sợ hơn cả Ma vực Ngu uyên, mỗi lần nhác thấy bóng áo đỏ của Xi Vưu đứng trên đầu thành, mọi người đều như thấy Ma vương xuất hiện, cần cổ bất giác lạnh buốt, tựa hồ đã bị thanh trường đao của Xi Vưu cắt mất đầu vậy.

Một sớm nắng đẹp, Xi Vưu đứng trên đầu thành vươn vai, nheo mắt nhìn vầng thái dương xán lạn một lát, đột ngột hạ lệnh cho Phong Bá và Vũ Sư: “Mở hết các cửa thành ra, dẫn mọi người cùng tấn công.”

Vũ Sư và Phong Bá mừng rỡ hô vang, chia nhau đi gọi các huynh đệ.

Binh sĩ Hiên Viên trợn mắt há miệng nhìn tất cả các cánh cửa thành lần lượt mở ra – họ vất vả giành co tại nơi này suốt một năm cũng chỉ vì mục đích ấy. Giờ đây cửa thành đều đã mở, nhưng họ lại thấy ớn lạnh.

Xi Vưu cưỡi Tiêu Dao xông ra khỏi thành, quân đội Thần Nông đông như kiến cũng từ trong thành tràn ra, như một bầy dã thú bị nhốt trong chuồng lâu ngày, con nào con nấy đều dũng mãnh vô song, khiến binh sĩ Hiên Viên tộc phát hoảng, không sao chống cự nổi, đành liên tiếp thoái lui.

Chiều hôm ấy, Hoàng Đế nhận được tin Hiên Viên đại bại. Hơn tám vạn chỉ còn chưa đến bốn vạn người.

Nỗi sợ hãi nhanh chóng như ôn dịch lan ra, từ chiến trường truyền đến cả Hiên Viên quốc. Trong quân doanh, các binh sĩ đều thao thao kể chuyện, sinh động như thật, nói mỗi lần Xi Vưu giết một người, hắn đều tắm trong máu người đó, giết càng nhiều người thì linh lực càng tăng cao. Cùng với những lời đồn đại, hình ảnh Xi Vưu trong lòng binh sĩ Hiên Viên vừa là tên ác ma tàn độc hung ác, vừa là vị chiến thần không thể đánh bại.

Mất thành trì đất đai cũng chưa phải điều đáng lo nhất, Hoàng Đế e ngại nhất là nỗi kinh hoàng của binh sĩ đối với Xi Vưu. Hơn ai hết, ông hiểu rõ sức mạnh của nỗi sợ hãi, chẳng phải Thần Nông vì sợ hãi mà tan rã trong một đêm đó ư? Trước đây, Hiên Viên liên tiếp giành thắng lợi, quyết không phải vì chiến sĩ Hiên Viên thiện chiến hơn chiến sĩ Thần Nông, mà chỉ bởi bọn họ tin rằng mình sẽ thắng, hai bên giao đấu, kẻ gan dạ hơn tất thắng.

Hoàng Đế hạ lệnh, hễ phát hiện kẻ nào bàn tán về Xi Vưu, liền định tội nói nhảm dụ người, lập tức nghiêm trị, nhưng chính ông cũng biết đây chỉ là uống rượu độc giải khát, tạm thời thì hữu hiệu, còn về lâu về dài, càng cấm đoán sẽ càng khiến mọi người sợ Xi Vưu.

Chỉ chiến thắng mới có thể đập tan nỗi sợ!

Hoàng Đế phái thêm đại quân, lệnh cho Ly Chu và Tượng Võng, hai phụ tá đắc lực của mình cầm quân, dẫn mười hai vạn người vây đánh Xi Vưu.

Hơn một năm sau, Hiên Viên tiếp tục đại bại, mười hai vạn quân chỉ còn lại năm vạn, bị Xi Vưu dồn đến Phản Tuyền.

Tin báo về Hiên Viên thành, Hoàng Đế thất thần đến nổi bủn rủn ngồi phịch xuống sập.

Phản Tuyền! Được Phản Tuyền thì được Trung Nguyên. Mất Phản Tuyền thì mất Trung Nguyên! Ông không thể để mất Phản Tuyền được!

Nhưng hiện giờ sĩ khí Hiên Viên đang suy yếu, trong khi sĩ khí Thần Nông lại tăng cao. Binh sĩ Hiên Viên chẳng có tình cảm gì đối với Phản Tuyền nên không có động lực tử thủ. Nhưng đối với binh sĩ Thần Nông, Phản Tuyền lại là cố hương của họ, Viêm Đế Du Võng cũng chết tại Phản Tuyền, nên đó còn là mảnh đất ô nhục của Thần Nông tộc. Con người ta vì hổ thẹn mà dũng mãnh, binh sĩ Thần Nông ắt không tiếc bất cứ giá nào để đoạt lại Phản Tuyền, rửa mối nhục khi xưa.

Đôi bên giao tranh, ai thắng ai thua dường như chỉ thoáng qua đã rõ cả rồi.

Vì binh lực không đủ, Hoàng Đế chẳng còn lòng dạ nào lo lắng Cộng Công nữa, bèn triệu hồi quân đội đang truy kích Cộng Công tăng cường cho Phản Tuyền, lại hạ tử lệnh cho Ly Chu và Tượng Võng phải tử thủ tường thành, không được ra ngoài nghênh chiến, nếu không giữ được Phản Tuyền thì cả hai đừng về nữa.

Nhưng Hoàng Đế cũng biết, đây chỉ là kế tạm thời mà thôi. Trừ khi viên đại tướng cầm quân khích lệ được sĩ khí của binh sĩ Hiên Viên, đập tan nỗi sợ hãi của họ đối với Xi Vưu. Nhìn khắp Hiên Viên quốc chỉ có hai người làm được điều này: người thứ nhất là Thanh Dương, người thứ hai là Hoàng Đế. Có điều ai cũng biết, Thanh Dương đang bị trọng thương không cách nào cầm quân tác chiến được.

Hoàng Đế bước vào Binh Khí thất trong Hiên Viên sơn, đám tùy tùng định vào theo nhưng Hoàng Đế xua tay, ý bảo họ chờ bên ngoài.

Hoàng Đế trọng võ nên Binh Khí thất được xây dựng xa hoa hơn cung điện nhiều, bố cục hình chữ nhật, ở giữa để trống, dưới đất nạm ngọc tủy của Ngọc sơn, trần nhà lại dùng thạch anh Quy khư, hai bên trái phải bày đầy những vũ khí và khôi giáp, thoạt nhìn có vẻ rất nhiều nhưng thực tế là chỉ đủ cho hai người sử dụng. Khôi giáp vũ khí bên tay trái là của ông, còn bên phải là của Luy Tổ. Những bộ khôi giáp bên trái đều được pha lẫn hoàng kim vào đúc, còn bên phải thì pha bạch ngân, lấp loáng chói lọi, một bên ánh vàng lóa mắt, một nên ánh bạc lung linh, ánh chiếu lẫn nhau, sáng rực cả phòng.

Hoàng Đế bước sang trái, quan sát kỹ từng bộ khôi giáp, mãi đến khi chọn được một bộ ưng ý. Ông tỉ mỉ lao chùi bộ khôi giáp đó, lau xong ngắm kỹ lại, mới nhận ra đó là bộ khôi giáp đầu tiên của mình.

Mấy ngàn năm trước, bản đồ lãnh thổ Hiên Viên ngày càng mở rộng, thì kẻ địch mà bọn họ phải đối mặt lại càng hùng mạnh, một đám thanh niên vừa có chút danh tiếng hi hi ha ha nói phải rèn cho ông một bộ khôi giáp ra dáng, bằng không sẽ rất mất mặt mỗi khi ra ngoài! Từng người lần lượt lấy ra những thứ bảo bối mình cất giữ bao năm nay, sau đó lại tranh cải ỏm tỏi không biết phải chọn chất liệu, màu sắc và hình dạng ra sao, chợt A Luy từ đầu chí cuối vẫn lặng thinh đột ngột lên tiếng, nói khôi giáp nên để thuần một màu vàng rực, chói lòa như vầng thái dương vậy, một khi xuất hiện sẽ giống như mặt trời ló dạng, khiến tất cả mọi người trên chiến trường đều trông thấy.

Ai nấy nhao nhao phản đối, nói nếu quá thu hút, chẳng phải sẽ trở thành đích nắm cho quân địch hay sao?

A Luy chẳng buồn cãi lại, chỉ đưa mắt nhìn ông. Ông liền mỉm cười, sang sảng tuyên bố, cứ dùng thuần một màu vàng rực như lời A Luy đi!

Mấy ngàn năm sau, bộ giáp vàng của ông đã trở thành dũng khí cho Hiên Viên tộc. Mấy lần rơi vào tuyệt cảnh, toàn quân sắp bị diệt tới nơi, nhưng chỉ cần ông mặc khôi giáp xông lên chiến trường, các chiến sĩ Hiên Viên ở bất cứ đâu cũng đều trông thấy, đều biết rằng tộc trưởng của họ không hề chùn bước, những chiến sĩ dũng mãnh can đảm nhất thế gian ấy sẽ lại theo ông chiến đấu đến giọt máu cuối cùng.

Đối với tất cả chiến sĩ Hiên Viên, bộ giáp vàng ấy còn chói lọi hơn cả mặt trời, bởi nó có thể soi sáng dũng khí của họ, nhưng đối với kẻ địch, bộ giáp vàng lại là biều tượng của tử vong, ánh sáng rọi tới đâu, nỗi kinh hoàng sẽ lan tới đó.

Hoàng Đế lại quay sang nhìn một dãy khôi giáp bày đầy bên phải, phía sau mỗi bộ khôi giáp là một trận huyết chiến. Bộ giáp vàng chói lọi đến nỗi người ta nhăng mắt, bóng áo giáp bạc đứng khuất sau vầng thái dương, nhưng những kẻ từng bôn ba chinh chiến, tắm máu sa trường như họ đều hiểu cả.

Sau khi Hiên Viên lập quốc, đã mấy lần ông định bỏ đám khôi giáp bên phải này đi, nhưng đều gặp phải sự phản đối kịch liệt của Tri Mạt. Tượng Võng đứng về phía của Tri Mạt, chỉ riêng Ly Chu không lên tiếng, nhưng rõ ràng cũng chẳng tán đồng. Qua đó, ông biết được địa vị của Luy Tổ trong lòng bọn họ vẫn không hề suy suyển.

Suốt ngàn năm ấy, đây là lần đầu Hoàng Đế nhìn kỹ lại những bộ giáp vàng giáp bạc của hai người.

Ông bước đến trước một tấm nhuyễn y màu bạc rất rộng, chuyện xưa lại chợt cuộn lên trong lòng, chiếc áo này không phải áo giáp, nhưng đáng sánh ngang với tất cả áo giáp ở đây.

Thụ Sa quốc và ba bộ tộc khác liên kết lại vây đánh Hiên Viên quốc, A Luy lúc đó đang có mang Thanh Dương, không thể ra trận, ông bèn phái thị vệ hộ tống nàng tránh vào tận trong núi sâu. Sau mấy ngày kịch chiến, ông rơi vào Lưu Sa trận, bị trận thế lôi kéo, bộ giáp vàng càng lúc càng nặng trịch, Ly Chu khuyên ông cởi giáp mà chạy, nhưng ông biết rõ là mình không thể. Chừng nào ông chưa cởi áo giáp, tất cả các binh sỹ còn bám vào chút hy vọng mong manh ông đem lại mà kiên trì chiến đấu, một khi áo giáp cởi ra rồi, chắc ông có thể chạy thoát, nhưng Hiên Viên tộc sẽ chấm dứt ở đây.

Trong Lưu Sa trận mù mịt cát vàng, dần dà che mờ cả ánh sáng chói lòa của áo giáp vàng. Khi tất cả mọi người tưởng như đã tuyệt vọng, chợt ông nhác thấy một vệt sáng bạc lấp lánh vụt qua chân trời. Thoạt tiên ông ngỡ ngàng mình hoa mắt, nhưng một thoáng sau, ông trông thấy A Luy vận tấm áo mềm dệt từ tơ tằm bạc, cưỡi trên Tứ Si Bạch nga[1] đã bị bịt hai mắt dẫn theo năm trăm binh sĩ mượn được từ Xích Thủy thị băng băng chạy tới.

[1] Bướm trắng bốn cánh. (ND)

Chỉ trong chớp mắt, toàn thân ông chợt căng tràn sinh lực, liền giơ tay hô vang, xốc lại sĩ khí toàn quân. Nhân lúc kẻ địch kinh hoàng thất thố, mà khí thế quân ta lại đang lên, ông và A Luy nội ứng ngoại hợp, cuối cùng chuyển bại thành thắng. Trận ấy không chỉ khiến Thụy Sa quốc quy thuận Hiên Viên mà còn có tác dụng răn đe, khiến các quốc gia miệt Tây Bắc không dám xâm phạm Hiên Viên nữa.

Hoàng Đế khẽ miết tay lên tấm nhuyễn giáp màu bạc, chỉ thấy lạnh thấu xương. Mới thế mà đã mấy ngàn năm rồi!

Hoàng Đế ra khỏi Binh Khí thất, men theo con đường mòn trên núi, đám tùy tùng toan đi theo đều bị ông ngăn lại: “Ta muốn đi một mình.”

Cứ dọc theo con đường mòn trong núi sẽ đến một hang động khuất nẻo có lối thông thẳng đến Triêu Vân điện, đây là thông đạo bí mật mà năm xưa khi xây điện ông đã phát hiện ra.

Phía sau Triêu Vân điện um tùm cỏ dại vì nhãng sửa sang. Hoàng Đế băng qua đám cỏ hoang lúc đầu gối, lặng lẽ đi thẳng đến sương điện.

Phượng hoàng trong sân đang nở rộ, đỏ rực cả tàng cây, từng chùm hoa rủ xuống trĩu cành, mỗi trận gió nhẹ thổi qua lại cuốn theo một cơn mưa hoa lả tả.

Trên cây mắc một chiếc đu, Cửu Dao đang đứng trên đó, vừa đu vừa gọi: “Bà ngoại, xem cháu này, bà xem, cháu đu cao hơn ngọn cây rồi này!”

Dưới hiên nhà kê một chiếc sập gỗ dâu, Luy Tổ dáng vẻ tiều tụy, mái tóc bạc trắng đang ngả mình trên sập, tựa hồ thiêm thiếp ngủ, nhưng mỗi khi nghe Cửu Dao gọi, bà lại hé môi cười.

Chuyên Húc ngồi xếp bằng dưới đất, tựa mình vào chân sập, cúi đầu đọc sách.

Chu Du và Vân Tang mỗi người bưng một chiếc giỏ trúc ngồi trên thềm đá, vừa lựa chồi non, vừa bàn xem tối nay ăn gì.

“Bác ơi, nhìn con đi”

“Ta thấy rồi, thấy rồi, con đu cao hơn ngọn cây chứ gì.” Vân Tang cười nói

“Biểu ca…”

Chuyên Húc giơ tay bịt tai, làm bộ không muốn nghe.

Cửu Dao đu lên đến đỉnh, đột nhiên buông đu nhảy xuống, ngắt một đóa Phượng Hoàng hoa trên ngọn cây, tà tà đáp xuống, được nửa chừng, bỗng cô bé vung tay ném cành hoa vào đầu Chuyên Húc, vênh vênh đắc ý.

Chuyên Húc khinh khỉnh lườm Cửu Dao, đột ngột từ dưới đất vọt lên tuốt ngọn cây, bẻ một đóa Phượng Hoàng hoa, rồi ung dung xoay người, vững vàng đáp xuống.

Cửu Dao đầy vẻ hậm hực, đang định bật lại thì A Hành ra tay can thiệp: “Không được cãi nhau! Hai đứa giỏi thế thì động tay động chân vào rừng dâu nhặt ít lá khô đi, bà thích uống canh cá hấp lá dâu.”

Cửu Dao ủ rũ gục mặt xuống, nguýt Chuyên Húc một cái, làu bàu: “Tại huynh hết.”

Chuyên Húc rất nghe lời, lập tức xách sọt chạy vào rừng dâu, còn Cửu Dao lại tức tốc chạy đến bên Luy Tổ, tấn công: “Bà ngoại, canh cá hôm nay là con nấu cho bà đấy, bà uống nhiều vào nhé.”

Vân Tang và Chu Du nghe vậy cười phá lên, Hoàng Đế cũng không nhịn được lắc đầu cười, con nhỏ này quả có tố chất làm gian thần, chuyên nịnh nọt bề trên, nói không thành có, vơ hết công lao vào mình.

Thấy mặt trời đã khuất núi, hơi ẩm dưới đất sắp bốc lên, A Hành bèn cùng Chu Du bê chiếc sập gỗ dâu vào nhà.

Cửu Dao nằm ườn trên sập, tựa vào người bà ngoại, lẩm bẩm nói gì đó. Động chân động tay? Động chân động tay nỗi gì? Bà ngoại kéo bé lại nói chuyện cơ mà!

Vân Tang đứng dậy, giũ hết những phiến lá vụn bám trên gấu váy, xách giỏ trúc bước vào sương điện, không quên ném lại một câu qua cửa sổ: “Tiểu Dao, khi nào con đi nấu canh cá?”

Cửu Dao làm mặt quỷ với Vân Tang.

Chuyên Húc đã bê sọt lá về, Chu Du đang hấp cá trong sân còn Vân Tang làm cơm dưới bếp.

Mùi khói bếp lan tỏa trong không gian – đối với Hoàng Đế lại vô cùng lạ lẫm, đã bao lâu rồi chưa ngửi thấy mùi này? Thậm chí ông còn chẳng biết nhà bếp trong cung ở đâu nữa. Nhưng đối với Hoàng Đế, thứ mùi này cũng rất thân quen, trước đây, tất cả những thứ này đều gắn bó với ông hằng ngày, ông còn nhớ, chính mình đã dạy A Luy hấp cá, chứ Tây Lăng đại tiểu thư ngày ấy chỉ biết ăn, nào biết hấp cá gì.

A Hành vào bếp phụ Vân Tang, còn Chuyên Húc và Cửu Dao ngồi chồm hổm bên sập của Luy Tổ nô đùa, lấy cuống lá dâu chơi kéo co, ai thua bị búng mũi, Luy Tổ làm trọng tài, giám sát cả hai đứa.

Bóng tối dần buông, cơm chiều đã dọn, mọi người đều vào nhà, chỉ để lại một khoảnh sân vắng tanh, lặng ngắt, tối mù.

Trong phòng sáng rực ánh đèn, cả nhà đang quay quần quanh Luy Tổ.

Cánh tay Luy Tổ cử động khó khăn nên A Hành phải bưng bát bón cho bà, như cho trẻ con ăn vậy. Nhìn cảnh tượng ấy, Hoàng Đế chợt thấy sống mũi cay cay, người đàn bà kia một thuở từng mặc khôi giáp, xuất lĩnh thiên binh vạn mã, oai phong lẫm liệt mà!

Dùng cơm xong, A Hành và Vân Tang lại cùng Luy Tổ uống trà nói chuyện. Chừng xuôi cơm, Vân Tang mới dắt bọn nhỏ đi rửa mặt nghỉ ngơi, A Hành và Chu Du ở lại chăm sóc Luy Tổ.

Sắp xếp cho mẹ nghỉ ngơi xong, A Hành bảo chu Du đi nghỉ, còn nàng ngủ trên chiếc sập kê ở gian ngoài, phòng khi nửa đêm Luy Tổ có khó ở, nàng cũng tiện trở dậy săn sóc.

A Hành ngả người nắm xuống sập, vừa lật được mấy trang sách, chợt một làn gió thơm ngát lùa qua, mí mắt bỗng nặng trĩu, nàng lịm người đi, chẳng còn biết gì nữa.

Hoàng Đế đẩy cửa sổ nhảy vào phòng, bước đến bên giường Luy Tổ.

Trướng rủ màn che, không trông rõ được nét mặt người bên trong.

Hoàng Đế đứng ngoài màn, hạ giọng nói: “Tôi biết bà đã quyết đoạn tuyệt ân tình, đành nhân lúc bà thiếp ngủ mà đến từ biệt. Hiện giờ quân đội Hiên Viên có vẻ hùng mạnh, nhưng thật sự tin tưởng được vẫn chỉ có mấy cánh quân khi xưa cùng chúng ta xông pha sa trường, tắm máu kẻ thù mà thôi, các cánh quân đầu hàng chẳng qua là thêu hoa trên gấm, chứ mong gì chúng ra tay tương trợ. Quân đội của Xi Vưu đã đến Phản Tuyền, tôi quyết định sẽ đích thân cầm quân nghênh chiến, chọn lựa cả nửa ngày mới được một bộ giáp, lại chính là bộ giáp đầu tiên các người rèn cho tôi. Bà còn nhớ năm đó mọi người đều phản đối chúng ta dùng màu vàng lóa mắt không?”

Trong người A Hành có ma lực của Ngu uyên, linh lực của Hoàng Đế vẫn chưa thể khiến nàng hoàn toàn mê mệt. Nàng sực tỉnh dậy, phát hiện chiếc vỏ sò đựng đầy dạ minh châu mở toang, bản thân lại đang ngồi lên cuốn sách ngủ mê mệt, thẻ trúc cấn vào làm ê ẩm cả mặt.

A Hành vừa toan nhỏm dậy gom đóng thẻ trúc lại, chợt ngẩng lên trông thấy một bóng người hắt lên tường. Nàng giật thót mình, vội vận lực vào bàn tay, nín thở, rón rén tiến đến, nào ngờ lại trông thấy phụ vương đang đứng trước ngay giường mẹ nàng, hình như còn chăm chú nhìn bà qua lớp rèm sa dày.

A Hành sửng sốt, không hiểu sao phụ vương nửa đêm lại lẻn vào tẩm cung của Luy Tổ, bèn len lén núp sau lớp màn che, âm thầm quan sát.

Hoàng Đế mỉm cười, khẽ lẩm bẩm một mình: “Bọn họ làm sao hiểu được, một kẻ muốn sở hữu hào quang chói lọi, ắt chẳng sợ bị thương vì ánh hào quang đó. Còn sắc màu gì chói lòa rạng rỡ hơn được ánh thái dương đây?”

Ánh mắt Hoàng Đế đầy kiên định, nhưng giọng điệu lại rất dịu dàng, như đang thổ lộ với người mình thương mến: “Thống nhất Trung Nguyên, quân lâm thiên hạ là chí nguyện từ nhỏ của tôi, nếu kiếp này chẳng được sinh ra trên Thần Nông sơn, chỉ mong rằng được chôn xác ở Phản Tuyền.” Hoàng Đế tiến lại gần, đưa tay ra, tựa hồ định vén màn lên. Lần này ly biệt, rất có thề là chia cắt muôn đời! Nhưng đột nhiên cánh tay ông khựng lại nửa chừng, vẻ mặt càng lúc càng lạnh đi, sau cùng, ông rụt phắt tay về. Thân hình thoáng cái đã ra đến ngoài sân, hai cánh cửa sổ từ từ khép lại sau lưng.

Ngoảnh đầu lại, chỉ trông thấy gió thổi trướng sa, cánh màn lay động, ánh trăng mờ ảo xóa nhòa hết thảy thời gian đằng đẵng vô tình, bóng người trên giường thấp thoáng, tựa hồ vẫn như năm ấy.

Hoàng Đế đang bàng hoàng ngơ ngẩn, chợt buông miệng: “ A Luy, ta đi đây.” Hệt như mấy ngàn năm trước, mỗi lần từ biệt ra chiến trường.

Trùng Minh điểu, mãnh cầm hàng đầu đại hoang đáp xuống, Hoàng Đế nhảy lên lưng Trùng Minh điểu, bay vút lên, biến mất sau làn mây.

A Hành liêu xiêu bước đến bên giường, phụ vương nàng đang định cầm quân xuất chinh, quyết một trận tử chiến với Xi Vưu.

Nàng yếu ớt khép chiếc vỏ sò đựng đầy dạ minh châu lại, ngồi thần người ra.

Đã mấy năm rồi nàng chưa gặp Xi Vưu, cũng chẳng nhắc nhỏm gì đến hắn, nhưng hắn vẫn luôn ở trong đáy lòng nàng, ngày đêm kề cận bên nàng.

Trước khi Tứ tẩu tự vẫn còn trối rằng Tứ ca không còn hận Xi Vưu nữa, nhưng mẹ nàng biết Đại ca đã chết, nàng sợ mẹ gặp Xi Vưu sẽ lại kích động. Bởi thế, lần trước khi Xi Vưu đến tìm, nàng đã nài nỉ hắn đừng lên Triêu Vân phong nữa.

Mấy năm nay, có nàng chăm sóc, những tháng ngày cuối đời của mẹ thật thực bình lặng yên ổn.

Nàng cũng cố không màng đến cuộc chiến của Xi Vưu và Hiên Viên, chỉ biết rằng hắn liên tiếp thắng lợi.

Nhưng hiện giờ, phụ vương nàng lại định cầm quân xuất chinh, giao tranh với Xi Vưu!

A Hành đột ngột đứng bật dậy, nhanh nhẹn bước ra ngoài đánh thức Chu Du, dặn ả săn sóc cho Luy Tổ.

Chạy đến chỗ Vân Tang, chỉ thấy trên chiếc giường ở gian ngoài có một tấm chăn cuộn lại, nhưng chẳng thấy Vân Tang. A Hành không kịp nghỉ ngợi nhiều, đi thẳng vào gian trong, thấy Chuyên Húc và Tiểu Yêu đang nằm cạnh nhau say giấc nồng. Nàng hiện tại vớ tấm áo choàng quấn lấy Tiểu Yêu, cưỡi lên Lang điểu do Liệt Dương hóa thành, bay thẳng đến Phản Tuyền.

Từ sau khi rời khỏi Ngu uyên, trong cơ thể của Liệt Dương đã ngưng tụ ma lực, tuy tốc độ không bì được với Tiêu Dao, nhưng cũng hơn xa các loại tọa kỵ khác.

Đại quân Xi Vưu đóng bên ngoài Phản Tuyền, giằng co với đội quân của Hoàng Đế trong Phản Tuyền thành.

Trong trướng đèn đuốc sáng trưng, mấy viên đại tướng Thần Nông, cả Tứ vương cơ Mộc Cận đều có mặt.

Nghe Phong Bá, Vũ Sư báo cáo tình hình hằng ngày xong, Xi Vưu lên tiếng: “Nhất định Hoàng Đế không bỏ được Phản Tuyền, giờ Thanh Dương đang trọng thương, không thể ra trận, cả Hiên Viên quốc chẳng còn đại tướng nào đủ sức đối đầu với ta, theo ta đoán, chắc Hoàng Đế sẽ cầm quân thân chinh ra trận.”

Vũ Sư làm thinh không nói, Phong Bá lộ vẻ đăm chiêu, chỉ mình Mộc Cận hào hứng: “Vậy chúng ta có thể báo thù cho Du Võng ca ca rồi.” Sực nghĩ đến Hoàng Đế không như các bậc đế vương khác, ông ta từng Nam chinh Bắc chiến, một tay gây dựng nên đế quốc Hiên Viên hùng cường, nỗi hứng khởi của Mộc Cận vụt tắt lịm, thay vào đó là sợ hãi, nàng chăm chú nhìn Xi Vưu: “Ngươi có chắc đánh bại được Hoàng Đế không?”

Xi Vưu cười nhạt: “Sáng mai cô về Thần Nông sơn đi, đây không phải chỗ cho cô du ngoạn đâu.”

Mộc Cận bất mãn lườm Xi Vưu, nửa giận dữ nửa nũng nịu phản bác: “Ta đâu có du ngoạn? Ta tới giúp ngươi mà, không được sao? Lẽ nào ta không phải con dân Thần Nông? Ngươi đừng tưởng ta là con gái thì không chiến đấu được, ta nói ngươi hay…”

Xi Vưu ngáp dài, vươn vai đứng dậy, “Nửa đêm rồi, đi ngủ thôi!” Nói rồi hắn rảo chân bước vội ra ngoài.

Mộc Cận phùng mang trợn mắt, tức tối nhìn theo bóng Xi Vưu, đột nhiên, gương mặt nàng dần đổi sang vẻ bi ai, trên sa trường sống nay chết mai, nàng giận hắn làm gì chứ?

Nàng quay vào trướng rửa mặt đi nằm, nhưng trằn trọc mãi không sao ngủ được. Từ sau khi Du Võng chết đi, nàng vẫn mong ngày đoạt lại được Phản Tuyền, vậy mà giờ đây Xi Vưu sắp giao chiến với Hoàng Đế tại Phản Tuyền, nàng lại đâm ra lo sợ, lỡ, lỡ như… Xi Vưu thua thì sao?

Trên sa trường, thua, tức là chết.

Mộc Cận trở dậy, ngẩng ra một thoáng, đoạn chẳng buồn khoác áo ngoài, chỉ quàng một chiếc áo choàng, lặng lẽ ra ngoài.

Xi Vưu đã có lệnh nên quanh trướng của hắn không hề có thị vệ canh giữ, Mộc Cận có thể dễ dàng lẻn vào.

Xi Vưu đang nhắm nghiền mắt, ngủ say trần tấm da hổ, Mộc Cận đỏ bừng mặt, cắn môi, nhẹ nhàng cởi áo ra, mon men lại gần hắn.

Vừa đến gần, đột nhiên Xi Vưu vươn tay túm lấy cổ nàng bóp nghẹt, mở bừng mắt ra.

Nhận ra Mộc Cận nửa người lõa lồ, Xi Vưu chợt sững ra, vội phát tán hết linh lực trên tay, lạnh lùng cảnh cáo: “Đừng tùy tiện lại gần ta, vừa nãy nếu ta phát lực rồi mới mở mắt thì cô chết chắc.”

Nào ngờ, Mộc Cận lại nhào đến nắm lấy tay Xi Vưu, gần như quỳ xuống bên hắn, “Ngươi còn nhớ không? Hồi nhỏ, ta toàn hùa theo mọi người, lấy đá ném ngươi, chửi ngươi là cầm thú, yêu quái.”

Xi Vưu rút tay lại, lạnh nhạt hỏi: “Nửa đêm nửa hôm cô chạy đến đây để nói chuyện này đấy à? Nếu muốn xin lỗi thì khỏi đi, ta chẳng quan tâm các ngươi nói ta gì đâu.”

“Bấy nhiêu năm nay, ta hết lần này đến lần khác tỏ bày, lẽ nào ngươi vẫn không hiểu lòng ta? Thực ra, hồi ấy ta không hề ghét ngươi, thậm chí còn thấy ngươi thật lợi hại, có thể điều khiển được muôn thú, chẳng qua ta hậm hực vì ngươi chưa bao giờ chịu lấy lòng ta. Ta là vương cơ, dung mạo đẹp đẽ, ai nấy đều phải chiều chuộng tâng bốc, chỉ mình ngươi một mực lạnh lùng với ta. Ta nuốt không trôi cục tức đó, bèn đầu têu bọn họ chửi rủa miệt thị ngươi. Thuở ấy ta còn quá nhỏ, đâu hiểu được rằng thật ra trong lòng ta rất muốn làm thân với ngươi, giờ có hối hận cũng muộn rồi.”

Mộc Cận cởi nốt manh áo cuối cùng, dán sát mình vào Xi Vưu, rưng rưng nước mắt nài nỉ: “Mấy trăm năm rồi, ta đâu phải kẻ ngốc, ta biết ngươi không yêu ta, ta cũng chẳng dám hy vọng gì, nhưng ta rất sợ, sợ sau này không còn cơ hội nữa, sợ rằng ta sẽ hối hận. Một đêm thôi mà, chỉ một đêm nay thôi, sáng mai ta sẽ quay về Thần Nông sơn, nếu ngươi thắng trận thì coi như chưa có chuyện gì xảy ra, nếu ngươi thua trận, ta sẽ ghi nhớ mãi đêm nay, không còn gì hối tiếc…”

Chẳng hiểu do sợ hãi hay ngại ngùng, toàn thân Mộc Cận cứ run bắn lên, nước mắt chảy thành dòng. Dưới sự dẫn dắt của bản năng phụ nữ, chẳng cần ai chỉ dạy, nàng khiêu khích quấn lấy Xi Vưu như rắn nước, thân hình mềm oặt tưởng chừng không có xương, làn da nõn nà như mỡ đông, hơi thở thơm ngát tựa hoa lan, thì thầm bên tay Xi Vưu: “Xi Vưu, chỉ một đêm, một đêm nay thôi mà!”

Hương thơm dìu dịu, người ngọc trong tay, tình mềm như nước, Mộc Cận tin rằng lần này Xi Vưu không thể cự tuyệt nàng.

Nào ngờ Xi Vưu nắm lấy hai vai nàng kiên quyết đẩy ra, đoạn đứng phắt dậy quơ lấy một chiếc áo phủ lên mình nàng, đưa mắt khinh khỉnh nhìn xuống Mộc Cận bên dưới.

Tình cảm tha thiết chân thành của Mộc Cận bị đập vỡ tan tành, nàng ngẩng đầu trừng trừng nhìn Xi Vưu, mặt chan hòa nước mắt, nhưng chẳng còn dũng khí thử lại nữa.

Xi Vưu lạnh lùng nói: “Để ta phái thị vệ lập tức đưa cô về Thần Nông sơn.”

“Khỏi cần!” Mộc Cận đứng phắt dậy, lảo đảo chạy ra khỏi trướng.

Xi Vưu ngồi lặng, chẳng hiểu đang nghĩ gì, nét mặt trơ trơ, không mừng không giận, không lo không sợ.

Hắn cầm tấm áo đỏ gắp vuông vắn dưới gối lên, nhẹ vuốt ve như đang ấu yếm da thịt tình nhân.

Lại một người rón rén tiến vào, Xi Vưu bực bội dùng tinh lực hất ra, “Sao cô còn đến nữa?”

“Xi Vưu.” A Hành ngã ngửa ra sau, may mà Xi Vưu chỉ định đẩy Môc Cận ra ngoài chứ không có ý làm nàng bị thương, nghe tiếng A Hành, hắn cuống lên, vội lao tới đỡ A Hành trước khi nàng ngã xuống.

Xi Vưu vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ: “A Hành, là nàng thất đấy ư?” Mấy năm không gặp, nay lại bất ngờ gặp gỡ, khiến hắn cứ ngỡ mình đang nằm mộng.

A Hành cũng mừng mừng tủi tủi, chăm chú nhìn Xi Vưu như mới gặp lần đầu, hồi lâu mới cụp mi xuống, cười hỏi: “Vừa rồi chàng nói ai còn đến nữa? Nửa đêm có cô nào tìm đến chàng à?”

Xi Vưu nửa cười nửa không: “Chẳng phải nàng đấy ư!”

A Hành lườm hắn, khẽ nói: “Ta mắt kém không nhìn rõ, nhưng Liệt Dương tinh mắt đã trông thấy Mộc Cận quần áo xốc xếch chạy ra từ trướng của chàng!”

Thấy Xi Vưu toan giải thích, A Hành lắc đầu, tỏ ý không cần nhiều lời: “Nếu là Mộc Cận, chàng cũng đừng gò bó kiêng dè nhiều thế làm gì. Đôi khi, ta cũng hy vọng chàng có thể ở bên Mộc Cận.”

“Nếu không phải vì ta, nàng cũng chẳng cần mạo hiểm nửa đêm lẻn vào trại địch. Nàng có hối hận không?”

A Hành không đáp, chỉ dựa vào lòng hắn.

Xi Vưu quàng tay ôm chặt lấy nàng: “Bất kể xảy ra chuyện gì, trong lòng ta cũng chỉ có một mình nàng thôi, lúc trước đã thế, bây giờ là thế, sau này vẫn thế.”

A Hành khẽ nói: “Phụ vương ta đã quyết thân chinh ra trận rồi.”

Xi Vưu đáp: “Ta biết, đó là kế hoạch của ta, ta muốn ép Hoàng Đế phải đích thân nghênh chiến với ta tại Phản Tuyền. Ông ta đã giết Du Võng tại đó, ta phải báo thù cho Du Võng.”

“Chàng không sợ thua phụ vương ta ư? Mấy ngàn năm nay, ông ấy chưa bao giờ thua cả!”

“Quả thật, ta có thể thua, nhưng ta không sợ. Ta giết người thì người giết ta, đó vốn là đạo trời, nếu ta thắng, ta còn sợ hơn!” Xi Vưu nâng cằm A Hành lên, nhìn sâu vào mắt nàng, nghiêm trang nói: “Nếu ta chết đi, nàng đừng oán phụ vương nàng, nếu Hoàng Đế chết, mong nàng cũng sẻ tha thứ cho ta, đây chỉ là trận quyết đấu công bằng của hai nam tử mà thôi.”

Khóe mắt A Hành chợt đỏ hoe, “Ta lên tới đây gặp chàng, mà chàng lại nói với ta rằng chàng nhất định phải giết phụ vương ta ư?” Nói rồi nàng đẩy phắt Xi Vưu ra, quay người định đi.

Xi Vưu vội kéo nàng lại, “Khó khăn lắm chúng ta mới gặp được nhau, từ lần gặp trước đến giờ là bao nhiêu năm rồi? A Hành, nàng đành lòng đi như thế sao?”

A Hành lộ vẻ thê lương, không bảo đi, cũng chẳng bảo ở.

Nhìn bộ dạng của nàng, Xi Vưu vô cùng xót xa, chần chừ một thoáng rồi hỏi: “Ta cả đời ngang dọc phóng khoáng, chẳng còn điều gì nuối tiếc, nhưng có một điều ta canh cánh mãi, chết đi cũng không buông xuống được: trong lòng nàng, rốt cuộc ta là gì đây? Thiếu Hạo…”

A Hành quay phắt lại, ôm ghì lấy hắn, “Không được nói đến chuyện chết!” Vòng tay càng siết chặt, nước mắt thấm ướt cả vạt áo hắn.

“Thôi, được rồi, được rồi, không nhắc tới hắn nữa, dù sao ta cũng là dã thú, không để ý những chuyện đó.” Xi Vưu cúi đầu hôn A Hành, thì thào bên tai nàng, “Thật ra, nàng mạo hiểm tới đây tìm ta, đã đủ chứng minh nàng không đành bỏ ta rồi.”

A Hành kéo Xi Vưu ra ngoài trướng, “Còn một người nữa cũng tới gặp chàng đấy.” Xi Vưu ngỡ ngàng không hiểu, nhưng cũng chẳng hỏi nhiều.

Giữa khu rừng vắng vẻ, Liệt Dương đang canh giấc cho Tiểu Yêu, thấy hai người tiến lại, nó liền chủ động bay vút đi. A Hành bồng Tiểu Yêu trao cho Xi Vưu, Xi Vưu ngoài miệng không để ý, nhưng thấy Tiểu Yêu giống đúc Thiếu Hạo, cũng chẳng vui vẻ gì, không muốn đón lấy bé.

A Hành cứ ấn Tiểu Yêu vào lòng hắn, thấy cô bé đang say ngủ, A Hành lay lay bé: “Thúc thúc sắp ra chiến trường rồi, con từ biệt thúc thúc đi.”

Tiểu Yêu miễn cưỡng mở mắt ra nhìn Xi Vưu, gọi một tiếng “thúc thúc” đoạn lại ngáp dài nhắm nghiền mắt, hai tay ôm lấy cổ Xi Vưu, ngả đầu vào ngực hắn ngủ tiếp.

A Hành định gọi nữa, nhưng Xi Vưu đã ngăn lại: “Đừng gọi nữa, gọi dậy nó lại quấy khóc.”

A Hành khẽ thở dài, đành mặc cho Tiểu Yêu ngủ.

Xi Vưu tinh minh sắc sảo, há chẳng sinh nghi, bèn mượn ánh trăng quan sát kỹ dung mạo Tiểu Yêu. Vì Tiểu Yêu rất giống Thiếu Hạo nên Xi Vưu xưa nay chẳng nhìn kỹ bé bao giờ, lần này mới phát hiện ra giữa trán bé lờ mờ một dấu hoa đào, lòng chợt rung động, vội hỏi: “A Hành, Tiểu Dao có phải con ta không?”

A Hành mở miệng toan đáp, nhưng chợt nén lại, nhoẻn cười ranh mãnh: “Chàng phải sống, chàng sống thì sẽ biết nó là con ai.”

Tuy không nhận được câu trả lời như ý, nhưng hắn còn mừng hơn biết được bất cứ đáp án nào, bởi A Hành muốn hắn sống!

Xi Vưu tay phải ôm Tiểu Yêu, tay trái vòng ra kéo A Hành vào lòng.

A Hành một tay ôm eo hắn, tay kia nắm tay con gái, dựa vào lòng hắn. Ánh trăng chênh chếch chiếu xuống cánh rừng, dịu dàng tỏa sáng cho ba người bọn họ.

Nàng xiết bao hy vọng khoảnh khắc này kéo dài vĩnh viễn.

Tiếc rằng mây tía dễ tan, mộng đẹp mau tỉnh.

“Ra là ngươi, Cao Tân vương phi, Hiên Viên vương cơ! Ngươi là đồ dâm phụ, không biết xấu hổ!” Mộc Cận cưỡi tọa kỵ Tuyết nhạn từ trên trời đáp xuống, rít lên the thé đầy phẫn nộ, “Xi Vưu, sao ngươi có thể cùng ả… Ngươi thích ai chẳng được, nhưng ả là vương cơ Hiên Viên, lại đã thành hôn rồi mà!”

A Hành lặng thinh không đáp, chỉ vội vàng vận linh lực giăng cấm chế, để Tiểu Yêu không nghe được động tĩnh gì, nhưng Xi Vưu lại vô cùng phẫn nộ: “Cút về Thần Nông sơn ngay!”

Mộc Cận căm hận đáp: “Giờ ta sẽ đi nói cho bọn Phong Bá, Vũ Sư biết, để xem có bao nhiêu tướng sĩ Thần Nông chịu chấp nhận con dâm phụ Hiên Viên này?”

Dứt lời, Mộc Cận ngoay ngoắt người chạy vụt đi, Xi Vưu xòe tay, vận linh lực, toan hạ sát chiêu nhưng A Hành kịp níu lại: “Cô ấy là nghĩa nữ của Viêm Đế, nghĩa muội của Du Võng mà!” Đoạn cất tiếng gọi Mộc Cận, “Vương cơ, cô nghe tôi nói đã.” Nhưng Mộc Cận tính tình xốc nổi, lời khuyên nhủ nào lọt tay cho được.

“Mộc Cận, đứng lại.”

Bỗng một tiếng quát vang lên lanh lảnh, Mộc Cận đang vừa buồn, vừa hận cũng khựng lại, nghi hoặc nhìn quanh, “Vân Tang tỷ tỷ?”

Thấy Vân Tang lững thững bước ra, Mộc Cận trỏ A Hành, bừng bừng giận dữ tố cáo: “Thì ra ả yêu nữ quyến rũ Xi Vưu là con dâm phụ đã có chồng con đề huề nay.”

Vân Tang lạnh nhạt đáp, “Ta biết lâu rồi, Phong Bá và Vũ Sư cũng không để tâm chuyện Xi Vưu thích ai đâu.”

“Nhưng những bách tính Thần Nông bị Hiên Viên đốt phá cửa nhà, giết hại người thân lại để tâm! Tỷ tỷ, tỷ mang nặng trọng trách, cam chịu gả đến Hiên Viên là vì cái gì? Các chiến sĩ Thần Nông đổ máu chiến đấu ở đây là vì cái gì? Tất cả bách tính Thần Nông đều mong Xi Vưu đánh bại Hoàng Đế, gây dựng lại Thần Nông, vậy mà hắn lại lén lút ở bên con dâm phụ Hiên Viên này! Ta nhất định phải công bố điều này cho tất cả các binh sĩ, để cả Thần Nông được biết!”

“Mộc Cận, đại chiến sắp tới rồi, nếu hiện giờ muội công bố chuyện này cho cả thiên hạ, khiến sĩ khí Thần Nông tan tác, bị Hoàng Đế đánh bại, dẫu muội được hả giận, nhưng còn Thần Nông thì sao? Muội làm thế là muốn tốt cho Thần Nông ư?”

Thấy Mộc Cận sững người, Vân Tang khẽ thở dài: “Trong mắt muội, không đúng thì là sai, không yêu thì là hận, không phải bạn thì là thù, nếu mọi chuyện thất sự đơn giản như vậy thì tốt biết bao! Nhưng nhiều khi đúng sai không phân rõ được, yêu hận phức tạp, vừa là bạn cũng vừa là thù. Nghe lời tỷ, ngoan ngoãn về Thần Nông cố gắng tu luyện đi, sớm muộn sẽ có ngày muội hiểu những lời ta nói hôm nay.”

Mộc Cận là người bộc trực, tính tình xốc nổi, nhưng từ nhỏ phục nhất là Vân Tang. Lúc này, tuy nàng không cam tâm, chỉ muốn ngay lập tức ra tay trừng phạt ả dâm phụ Hiên Viên quyến rũ Xi Vưu, nhưng nàng cũng hiểu trận quyết chiến giữa Hoàng Đế và Xi Vưu sắp đến không thể làm càn. Nàng đành trừng mắt lườm A Hành, đoạn nhảy lên lưng Tuyết nhạn, bay thẳng về Thần Nông sơn.

A Hành hành lễ cảm tạ Vân Tang: “May mà có tẩu, Đại tẩu đi theo muội ư?”

Vân Tang đáp: “Tọa kỵ của ta không đuổi kịp Liệt Dương, ta đi trước muội mà lại đến sau.”

A Hành ngỡ ngàng không hiểu, nàng vốn tưởng rằng Vân Tang phát hiện hành tung quỷ dị của mình, bèn bám theo đến đây, nhưng nghe ý tứ hình như không phải, lẽ nào Vân Tang cũng tới gặp Xi Vưu?

Vân Tang tiến lại mấy bước, đối diện với cả hai người, hạ giọng nói: “Mấy ngày trước, ta lên tới Cao Tân một chuyến, thấy Nặc Nại đã chìm đắm trong rượu thuốc đến mê loạn cả thần trí. Đêm nay ta tới đây gặp Vũ Sư, nghe nói y là trợ thủ đắc lực, là đại tướng tâm phúc của ngươi.” Vân Tang dùng giọng trần thuật nhưng ánh mắt lại không rời Xi Vưu, như vừa đặt câu hỏi, vừa tìm đáp án trong mắt hắn.

Xi Vưu cười, nhưng ánh mắt lại khóe lên sắc lạnh: “Đánh trận cần một lượng lớn binh khí, Cao Tân là đồng minh của Hiên Viên, dù Thần Nông có tiền cũng không thể mua binh khí từ Cao Tân được. Vũ Sư chẳng những thần lực cao cường, mà còn giỏi rèn binh khí, may mà có y, chúng ta mới có nguồn cung cấp binh khí dồi dào. Hiện giờ, y đúng là trợ thủ đắc lực của ta.”

Tựa hồ đã tìm được đáp án vừa ý trong mắt Xi Vưu, Vân Tang như trút được gánh nặng: “Vậy thì tốt.” Liền sau đó, sắc mặt nàng chợt đổi sang bi thảm, mắt ầng ậng nước, nhưng trước khi nước mắt kịp rơi, nàng đã quay ngoắt người, rảo bước bỏ đi. “Ta đi đây, A Hành, muội cũng mau đi đi, nấn ná ở đây đối với muội hay Xi Vưu đều quá nguy hiểm.”

A Hành nói nhỏ: “Ta phải đi rồi.” Xi Vưu khẽ khàng đặt Tiểu Yêu vào lòng A Hành, đoạn hôn lên trán nàng.

Bốn mắt nhìn nhau, Xi Vưu và A Hành lặng thinh, nhưng ánh mắt quyến luyến chẳng nỡ rời, ngay sau đó, cả hai không hẹn mà cùng nhoẻn cười. Nếu từ đây phải biệt ly, bọn họ đều mong đối phương ghi nhớ nụ cười của mình.

A Hành ôm lấy Tiểu Yêu nhảy lên lưng của Liệt Dương, bay xa dần. Nâng giơ cánh tay Tiểu Yêu lên vẫy vẫy Xi Vưu, thì thầm bên tai bé: “Tiểu Yêu, từ biệt cha đi con.”

Tiểu Yêu mơ màng mở mắt nhìn Xi Vưu.

A Hành vẫn đứng quay mặt về phía Xi Vưu, hắn tiễn nàng, nàng cũng tiễn hắn, hai người mỗi lúc một xa, mỗi lúc một nhỏ dần đi trong mắt nhau, dần dà, trong mắt cả hai chỉ còn một trời tịch mịch.

Chương 16: Đào rụng tơi bời, người ly biệt

“Nàng quên ngôi nhà trong núi Cửu Lê mà nàng tự tay bài trí rồi ư? Chúng ta có gia đình của chúng ta. Tuy bấy nhiêu năm nay nàng chưa hề quay lại, nhưng hàng năm ta đều ở đó sửa sang, cây mướp trong vườn đã leo đầy cả giàn rồi; ta còn đào một cái giếng, nước giếng mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát, ngày hè nóng nực, bỏ dưa vào giỏ rồi thả xuống giếng ướp lạnh, ăn vào mát lạnh cả người, phải rồi, ta còn bứng một góc tường vi từ Thanh Khâu quốc đem trồng trong vườn, hoa nở ra đẹp như ráng chiều vậy, nàng có thể ngắt lấy chế thành son môi…”

Đối diện với đại quân dũng mãnh thiện chiến, hung tàn hiếu sát của Xi Vưu, binh sĩ Hiên Viên không khỏi nhụt chí, cả Phản Tuyền chìm trong không khí nặng nề chết chóc. Ly Chu và Tượng Võng đã phò tá Hoàng Đế suốt mấy ngàn năm, từng trải vô số trận chiến, lần đầu tiên gặp phải tình huống này, nghĩ đủ mọi cách cũng không vực dậy được sĩ khí.

Vầng dương đằng Đông vừa nhô lên, ánh sáng chan hòa mặt đất, Phản Tuyền thành sừng sững cao ngất như được phủ một lớp phấn vàng, tỏa hào quang nhàn nhạt.

“Xem kìa! Cái gì kia?” Đám binh sĩ xôn xao kinh ngạc.

Dưới ánh nắng rực rỡ, chân trời phía Tây dường như đang đùn lên một vầng mây ráng bảy màu.

Vầng mây ráng từ từ bay lại gần, bây giờ mọi người mới trông rõ là một con chim cực lớn, bộ lông sặc sỡ đủ màu, đầu có mào, mỗi bên mắt có hai con ngươi, chính là Trùng Minh điểu, được xưng tụng là đệ nhất mãnh cầm của đại hoang.

Nhìn “đám mây ráng” bay có vẻ lững lờ nhưng thực tế tốc độ của Trùng Minh điểu rất nhanh, mọi người vừa nheo mắt toan nhìn cho kỹ, chợt thấy trên lưng Trùng Minh điểu cũng đang cõng một vầng dương, tỏa ánh vàng rực chói mắt. Vầng dương này cùng vầng dương đằng Đông phản chiếu lẫn nhau, tự như trên bầu trời xuất hiện hai mặt trời, tỏa sáng chói lòa khiến mọi người không mở nổi mắt.

Ly Chu và Tượng Võng tỉnh ra trước nhất, mừng rỡ đưa mắt nhìn nhau, cùng giơ tay lên hoan hô. Là ông ta! Gã thiếu niên từng thề trước mọi người, nhất định sẽ đưa Hiên Viên rời khỏi mảnh đất cằn cỗi ấy lại khoác áo giáp lên rồi!

Trùng Minh điểu lượn vòng phía trên Phản Tuyền, Hoàng Đế mình vận giáp vàng, oai phong lẫm liệt đứng sừng sững trên không, đưa mắt nhìn xuống bên dưới.

“Hoàng Đế, Hoàng Đế!”

Tựa hồ vầng dương ló dạng xua tan hết mây mù, sự xuất hiện của Hoàng Đế khiến cả Phản Tuyền thành bừng lên sức sống.

Giọng nói ôn hòa của Hoàng Đế thong thả vang lên: “Hiên Viên quốc từng được gọi là Hiên Viên tộc, nằm ở phía Tây Bắc đại hoang, đất đai cằn cỗi, sản vật nghèo nàn. Hồi trẻ tới Trung Nguyên du ngoạn, chỉ vì nói giọng Hiên Viên mà ta luôn bị người ta khinh miệt, thậm chí mua món nữ trang có giá một chút cho cô gái mình yêu quý cũng bị nghi là ăn cắp. Mấy ngàn năm trước, ta đã đứng trên Hiên Viên sơn hỏi tổ tiên các người có dũng khí theo ta ra khỏi Hiên Viên sơn hay không, bọn họ đều đồng thanh đáp: “có.” khí thế ngất trời! Vì câu trả lời của họ nên bây giờ các ngươi mới có Hiên Viên quốc, không phải lo miếng cơm manh áo, dù đi đến bất cứ đâu, hễ nói giọng Hiên Viên, đều được người ta trọng nể! Kẻ yếu chỉ biết khóc than cho hiện tại, còn kẻ mạnh sẽ đổ máu tranh đấu cho tương lai! Các ngươi là kẻ yếu hay là kẻ mạnh?”

Hết thảy binh sĩ đều bừng bừng nhiệt huyết, tựa hồ sự anh dũng khí thái của tổ tiên ngàn năm trước lại đang rần rật cháy lên trong lồng ngực họ.

Hoàng Đế đáp xuống đầu thành, giọng rền vang như sấm: “Hôm nay ta lại hỏi các ngươi, có dũng khí tử thủ Phản Tuyền không?”

“Có!” Tiếng hô đồng thanh rung chuyển cả núi rừng, chấn động đất trời, vang xa tít tắp.

Phong Bá phóng mắt trông về phía Phản Tuyền, chặc lưỡi than, “Chẳng trách lão ta hùng bá một phương, ta cứ ngỡ lão chỉ giỏi giở âm mưu, nào ngờ dương mưu của lão còn bài bản hơn, mới có mấy câu mà xoay chuyển hoàn toàn cục thế, từ cầm chắc thất bại đổi ngay thành thắng bại khó đoán.”

Vũ Sư chỉ huy một tốp thợ khiêng đống binh khí vừa rèn lại, ưu tư hỏi: “Xi Vưu đâu rồi?”

Phong Bá liếc vào trướng lớn: “Đang ngủ!”

“Ầm ĩ thế này mà vẫn ngủ được à?”

Phong Bá cười, “Nếu huynh ấy muốn ngủ thì dù có đút đầu vào miệng cọp cũng không tỉnh đâu.”

Si đáp: “Khi nãy vừa tỉnh, hỏi “Hoàng Đế đến rồi à?”, ta đáp “Phải”, huynh ấy lại ngủ tiếp.”

“Vậy chúng ta phải chuẩn bị thế nào đây?” Vũ Sư hỏi.

“Nhóm lửa nấu cơm đi, à, thêm nhiều thịt vào nhé, cả gia vị nữa. Mẹ nó chứ, trời cao đất rộng cũng không bằng cơm nóng canh sốt!” Khép lại vạt áo choàng, Phong Bá bắt đầu đi tuần, cũng như mọi ngày hắn vừa đi vừa cười tít mắt chào hỏi mọi người. Bốn huynh đệ Si Mỵ, Võng Lượng đang căng thẳng vì tiếng hô vang từ phía quân Hiên Viên đưa lại, nhưng thấy Xi Vưu vẫn trở mình ngủ tiếp, Phong Bá thì nhơn nhơn cười đùa, họ cũng phá lên cười theo.

Không khí thoải mái lan nhanh chẳng kém gì căng thẳng, các binh sĩ thấy bọn họ vẫn thản nhiên như thường, liền tự động ai vào việc nấy, chẳng mấy chốc lại ngửi thấy mùi thức ăn thơm nức mũi, mọi người vừa cười nói vừa uống bát canh thịt nóng hổi, người nóng bừng lên, áp lực do Hoàng Đế gây ra bất giác tiêu tan đâu hết.

Sau khi đến Phản Tuyền, Hoàng Đế cũng chẳng thay đổi chiến thuật, chỉ lo cố thủ thành trì, bất kể Vũ Sư nửa đêm mưa gió dẫn quân đánh lén hay Phong Bá đột ngột kéo binh tập kích như vũ bão, Hoàng Đế vẫn phòng thủ thật vững, mưa đến đất ngăn, gió về cây cản.

Cuộc chiến này đã kéo dài hơn hai năm, song phương đều kiệt quệ rồi.

Hiên Viên là một quốc gia hoàn chỉnh, lương thảo được cung ứng đầy đủ, binh sĩ lại ở trong thành, có thể cố thủ, còn Thần Nông đã mất nước, lương thảo lúc có lúc không, binh sĩ phải đóng trại giữa đồng hoang, sĩ khí cũng dần dần giảm sút.

Nhưng Xi Vưu chẳng hề lưu tâm chuyện đó, hắn lấy dạ dày của một con yêu thú làm thành một quả cầu, mỗi lúc không phải ra trận, hắn lại cùng cả đám huynh đệ Si Mỵ Võng Lượng chơi đá cầu, quả cầu nặng như một hòn núi nhỏ bị họ đá bay đi bay lại trên không, muốn đá trúng ai thì đá trúng người đó.

Phong Bá vẫn thả sức thích làm gì làm nấy nên tâm tình thoải mái như thường, chẳng hề bị ảnh hưởng, chỉ có Vũ Sư hơi bồn chồn, bèn kéo Phong Bá tới gặp Xi Vưu, hành lễ hỏi: “Tại hạ có một việc không hiểu, xin thỉnh giáo đại nhân.”

Vũ Sư xuất thân từ Xích Thủy Thị, một trong Tứ thế gia. Cũng như Tây Lăng Thị, Xích Thủy Thị là thị tộc từ thời thượng cổ, chỉ xem trọng dòng dõi chứ không để tâm quốc gia, không thuộc về bất cứ quốc gia nào, nhưng lại được tất cả các quốc gia coi trọng, xem như danh gia vọng tộc. Xích Thủy Thị gia phong nghiêm cẩn, giáo dục con cháu rất nghiêm khắc, tuy Vũ Sư đã bị trục xuất khỏi gia tộc, còn bị trừng phạt nặng nề, thành ra xấu xí tật nguyền, nhưng vẫn giữ nề nếp từ nhỏ, lời nói cử chỉ hết sức khiêm tốn lễ độ. Đám huynh đệ của Xi Vưu đa phần lỗ mãng, thoạt đầu thấy rất khó chịu, còn sinh ra mâu thuẫn, phải nhờ Phong Bá đứng ra hòa giải, nhưng sống chung lâu ngày, mọi người lại sinh lòng kính phục vị tướng quân ăn nói lễ độ, hành xử chu đáo, giỏi hô mưa gọi gió, lại giỏi nghề rèn binh khí này.

Xi Vưu vốn cũng là kẻ thô lỗ, nhưng được Viêm Đế rèn cặp mấy trăm năm, tạm xem như thông văn hiểu võ, hắn chiếu theo lễ tiết Thần Nông, cùng Vũ Sư chia nhau ngồi xuống, bây giờ mới lên tiếng: “Mời tiên sinh cứ nói.”

Vũ Sư nói: “Hai quân giao tranh, càng kéo dài càng bất lợi cho chúng ta, hiện giờ sĩ khí đã có phần giảm sút, nếu còn kéo dài, e rằng sẽ đến lúc Hiên Viên ồ ạt tấn công.”

Xi Vưu cười hỏi: “Tiên sinh có thượng sách gì chăng?”

Vũ Sư than: “Thật hổ thẹn, tại hạ vắt óc nghĩ mãi chẳng tìm được kế sách gì. Hoàng Đế quả là tướng tài thiên cổ, hành quân bày trận rất nghiêm mật kỹ càng. Hiện giờ chỉ còn một cách duy nhất là nhân lúc quân tâm chưa tan rã hẳn, phải tìm biện pháp vực dậy sĩ khí, sau đó dốc toàn lực công thành, dù sao Phản Tuyền cũng là cố hương của chúng ta, chắc sẽ nắm được năm phần thắng.”

Phong Bá lên tiếng: “Phản Tuyền dễ thủ khó công, nếu chủ soái đổi lại là kẻ khác, có lẽ chúng ta còn có cơ lợi dụng, nhưng hiện giờ Hoàng Đế đích thân cầm quân, có thể nói là vững như thành đồng, lỡ dốc toàn lực tấn công mà thất bại, bóng đen từ trận thất thủ Phản Tuyền lần trước sẽ tiếp tục ám ảnh quân sĩ, đến chừng đó, áo giáp vàng của Hoàng Đế sẽ trở thành phướn chiêu hồn, bùa đòi mạng của chúng ta đó.”

“Nhưng cứ giằng dai thế này, chúng ta còn thảm hơn. Nếu đánh, may ra còn chút cơ hội, nhược bằng không đánh, có lẽ sẽ bị tiêu diệt toàn quân.”

Phong Bá cười hì hì nhìn Xi Vưu, “Này, ta nói huynh đó! Tuy Hoàng Đế lợi dụng Phản Tuyền nhãn, bày cái gì Thất tinh trận chuyên để đối phó huynh, khiến huynh xông pha mấy lần chưa được, nhưng huynh định bó tay chịu trói thật ư?”

Xi Vưu trả lời qua quýt: “Vậy ta lại dẫn quân công thành.” Nói là làm, hắn lập tức đi điểm binh, tấn công Phản Tuyền thành.

Nửa ngày sau, Xi Vưu hậm hực quay về, mặt nặng như chì, khiến tất cả im re không ai dám nói với hắn một câu, không khí trong doanh trại càng thêm nặng nề bức bối.

Đến tối, tướng sĩ coi quản lương thảo lại đến báo sắp cạn lương, mà lương thảo mới còn chưa đến, hiện giờ buộc phải thắt lưng buộc bụng, nếu mỗi người chỉ ăn lưng lửng dạ, thì may ra còn kéo dài được bảy ngày nữa.

Lương thảo không đủ, e rằng tướng sĩ có anh dũng đến mấy chăng nữa cũng chẳng đánh trận nổi, việc này ngay đến Phong Bá cũng phải tái mặt.

Tám ngày sau, giữa canh khuya.

Binh sĩ Thần Nông tộc đang nhịn đói nằm ngủ, chợt các chiến sĩ đi tuần phát hiện có quân sĩ Hiên Viên xuất hiện phía sau doanh trại của họ, từng tên nối đuôi nhau từ trong rừng đi ra.

Té ra, Hoàng Đế lợi dụng khoảng thời gian hơn hai năm này, ngoài mặt giao chiến với Xi Vưu, bên trong lại ngầm sai người đào một đường hầm, đầu ra chính là ngọn núi mà quân đội Thần Nông vẫn xem như bức bình phong.

Đợi tới khi thời cơ chín muồi, sĩ khí Thần Nông đã tan tác cả, lương thảo cũng cạn kiệt, bấy giờ Hoàng Đế mới phái quân tinh nhuệ đi suốt đêm theo phong đạo vòng ra phía sau doanh trại Thần Nông.

Quân tinh nhuệ đánh lén từ phía sau, đại quân từ Phản Tuyền thành tấn công trực diện.

Tiếng la thảm xé toang màn đêm yên tĩnh.

Quân lính Thần Nông đang đói bụng, lại bị bất ngờ, trở tay không kịp, lập tức thua tơi tả, bỏ chạy tứ tán. Phía trước là Phản Tuyền thành, hàng ngàn hàng vạn binh sĩ Hiên Viên đang xông tới, phía sau là quân tinh nhuệ của Hiên Viên được trang bị kỹ càng, sát khí đằng đằng, bên trái là dòng Tế thủy cuồn cuộn sóng, bọn họ đành men theo cánh phải, chạy vào Phản Tuyền sơn cốc.

Thấy sơn cốc địa thế quanh co, khó mà truy kích, tướng sĩ Thần Nông đều thở vào nhẹ nhõm, nhưng họ đâu có ngờ Hoàng Đế đã nghiên cứu kỹ lưỡng địa hình Phản Tuyền, sớm đoán được khi bị hai mặt giáp công, Thần Nông tộc chỉ có thể chạy về hướng này, bởi vậy đã tập trung tất cả binh lực của Thần tộc bày trận đợi sẵn.

Vì trận chiến này, Hoàng Đế đã phải thao luyện hơn một năm, bảo đảm mấy trăm tướng sĩ Thần tộc có thể tức tốc vào vị trí, phát động thế công.

Tiếng trống trận vang rền như sấm dậy lên từ hai vách núi, khiến tướng sĩ Thần Nông sợ vỡ mật, tuyệt vọng hoàn toàn.

Hoàng Đế đứng trên lưng Trùng Minh điểu, từ trên trời đáp xuống: “Xi Vưu, ta cho ngươi một cơ hội để bảo toàn tính mạng cho binh sĩ, hoặc ngươi lập tức quy hàng, thề trung thành với Hiên Viên, hoặc ngươi lặp tức tự vẫn, bất kể ngươi chọn đường nào, ta cũng sẽ đối xử tốt với tất cả tướng sĩ.”

Hoàng Đế buông ra những câu ly gián lòng người trong tình cảnh này thật hiểm độc vô cùng, nào ngờ Xi Vưu chỉ ngẩng đầu cười hỏi: “Nếu ta không chọn đường nào cả thì sao?”

Hoàng Đế thoạt nhìn đã nhận ra kẻ kia là Phong Bá giả trang, liền biến sắc mặt, Phong Bá nhìn nét mặt Hoàng Đế cũng biết đã bị vạch trần, bèn cởi phăng hồng bào, biến lại nguyên hình, cười nói: “Trong lúc ngươi đuổi theo Xi Vưu giả này, chắc Xi Vưu thật đã tiến vào Phản Tuyền thành rồi.”

Hoàng Đế mặt sạm như tro, năm xưa ông ta bảo Thanh Dương đóng giả làm mình để dụ địch, đến hôm nay Xi Vưu lại lấy chính gậy ông đập lưng ông. Hoàng Đế cứ ngỡ Xi Vưu đã trúng kế mình, nào ngờ mình phải trúng lại kế của hắn.

Trong Phản Tuyền thành đã xảy ra đại biến, trước thế công như vũ bão của Xi Vưu và Vũ Sư, chỉ trong thời gian uống cạn tách trà, Phản Tuyền thành binh mỏng lực yếu liền đổi chủ. Khi ngọn cờ vàng của Hiên Viên tộc bị hạ xuống, thay vào đó là ngọn cờ đỏ phấp phới giữa không trung, cả dải đồng hoang im phăng phắc. Hiên Viên tộc và Thần Nông tộc đều không thể tin được rằng Phản Thành đã lại bị mất! Phản Thành cũng đã lại quay về!

Hoàng Đế không hổ là Hoàng Đế, chỉ một thoáng đã trấn tĩnh lại ngay. Tuy Xi Vưu đã chỉ huy tướng sĩ Thần tộc và Yêu tộc khống chế Phản Tuyền thành, nhưng đại quân Nhân tộc bị Xi Vưu dùng làm mồi nhử vẫn còn ở trong sơn cốc.

Hoàng Đế vận linh lực để tiếng nói vang đi thật xa: “Xi Vưu, chỉ cần ta hạ lệnh một tiếng, đỉnh núi hai bên sơn cốc này sẽ đổ sụp, mấy vạn tướng sĩ bị ngươi dùng làm mồi nhử đều phải vùi thây tại đây.”

Tiếng nói như sấm rền, xua tan nỗi tuyệt vọng trong lòng tướng sĩ Hiên Viên, đánh tan niềm hân hoan của tướng sĩ Thần Nông.

Xi Vưu cưỡi đại bàng, chớp mắt đã tới trước mặt Hoàng Đế, “Vậy chúng ta quyết một trận sinh tử ngay tại đây đi!”

Tấm áo choàng của Phong Bá bay vụt lên, cả trời vần vũ gió mây, khiến người ta cơ hồ không đứng vững nổi.

Tượng Võng quăng đôi đũa trúc trong tay ra, đũa trúc vừa gặp gió liền dài ra, biến thành một khu rừng trúc san sát, ngăn cuồng phong lại.

Vũ Sư đứng trên đầu thành Phản Tuyền, dựa vào Phản Tuyền thủy linh ngưng tụ trong thành làm thành mưa lớn, mực nước Tế thủy chẳng mấy chốc đã dâng lên, một khi nước dâng cao quá mặt đê, tướng sĩ Hiên Viên ngoài thành sẽ chôn thây dưới đáy nước.

“Ly Chu!” Hoàng Đế thét lớn, mấy ngàn năm sánh vai chiến đấu bên nhau, đôi bên vô cùng ăn ý, ông ta chẳng cần hạ mệnh lệnh gì, tự khắc Ly Chu sẽ hiểu.

Ly Chu đứng ngay lối vào sơn cốc, ngoảnh mặt về phía Tế thủy, hai chân dang ra, biến thành trụ đất, cắm sâu xuống đất, hấp thu thổ linh từ lòng đất, đất vàng nổi lên, nước dâng đến đâu, bờ đê cũng dâng cao theo đến đấy.

Trận chiến giữa hai đại Thần tộc đến giờ mới thật sự mở màn.

Hoàng Đế và Xi Vưu đứng giữa chừng không, trừng trừng nhìn nhau.

Hoàng Đế vung tay phát động thế công, lập tức vách núi hai bên đứt gãy, đá tảng rào rào đổ xuống, Si Mỵ Võng Lượng đã đợi sẵn, dẫn một đám quân sĩ Yêu tộc xông ra, thoắt ẩn thoắt hiện như quỷ mỵ, lần lượt đá văng từng viên đá tảng như đá cầu. Nhờ luyện tập hơn một năm, tất cả đá đều nhắm trúng vào Hiên Viên tộc, chuẩn hơn cả tên bắn.

Nhưng dù vậy, vẫn còn không ít đá tảng rơi xuống, đè chết khá nhiều quân Thần Nông, họ nháo nhào chen lấn xông ra khỏi sơn cốc, liền đụng phải đám binh sĩ Hiên Viên cuống cuồng tràn vào sơn cốc vì sợ nước dâng, đôi bên lập tức lao vào nhau chém giết.

Xi Vưu và Hoàng Đế kịch chiến trên không, bóng đại bàng đen tuyền và Trùng Minh điểu rực rỡ thoắt phân thoắt hợp, Hoàng Đế dùng một ngọn kim thương, Xi Vưu cầm một thanh trường đao, đao thế của Xi Vưu khi mở rộng, lúc thu lại, hóa thành một con mãnh hổ lộng lẫy đủ màu, thương pháp của Hoàng Đế lại nhanh nhẹn dứt khoát, hóa thành một con giao long vàng rực.

Giao long cùng mãnh hổ giao đấu, thoạt đầu khó phân cao thấp, về sau, Hoàng Đế dù sao cũng dựa vào mưu kế mà xưng hùng chứ không phải nổi danh vì võ nghệ, nên thần lực không bì được Xi Vưu, dần dà bị linh lực của Xi Vưu bao phủ, chiêu đòn càng lúc càng chậm, động tác của giao long cũng càng lúc càng chậm theo, mấy lần đã bị mãnh hổ cắn, tuy vẫn vùng vẫy giằng ra được, nhưng thân hình mỗi lúc một nhỏ lại.

Hoàng Đế biết linh lực của mình không bì được Xi Vưu, chỉ có thể tốc chiến tốc thắng. Giao long bèn cố ý để lộ sơ hở, mãnh hổ vừa cắn vào bụng nó, lập tức giao long quẫy đuôi đập thẳng vào mình mãnh hổ, mãnh hổ nhảy lên tránh thoát, giao long thừa cơ quay lại cắn trả, nhưng vừa ngẩng đầu lên, chợt trông thấy từ phía chân trời đằng Tây bắn vọt lên một luồng sáng chói mắt.

Giao long bất giác khựng lại, để lộ sơ hở, liền bị mãnh hổ ngoạm trúng chỗ bảy tấc trên mình.

Giao long đau đớn gầm lên, ngửa đầu ra sau, nhưng cặp mắt vẫn đau đáu nhìn về hướng Tây, từ khóe mắt, hai hàng linh lệ trong veo ứa ra.

Xi Vưu cũng cảm thấy hướng Tây có vẻ khác thường, nhìn phản ứng của Hoàng Đế, hắn càng thêm kinh ngạc, vội ngoái đầu nhìn về hướng Tây, thấy luồng sáng chói lọi kia đang bao lấy một con chim phượng trắng bạc chao liệng cuối trời Tây, ánh sáng từ từ nhạt đi, dường như cánh phượng kia cũng mòn mỏi chết dần.

Xi Vưu biết, nhất định Hiên Viên quốc đã xảy ra chuyện, nhưng còn chưa hiểu rốt cuộc là chuyện gì, chợt nghe thấy bên dưới có kẻ rú lên thê thiết: “Vương hậu qua đời rồi!”

Xi Vưu sững người, mẹ A Hành chết rồi ư?

Hoàng Đế vẫn giữ vẻ thản nhiên, vờ như đang vốc toàn lực chiến đấu với Xi Vưu, nhưng trong lòng lại cuộn trào bão tố.

Suốt mấy ngàn năm, trải vô vàn trận đánh, mỗi lần rời vào tình huống nguy cấp nhất, ngoảnh đầu lại, ông đều trông thấy bóng giáp bạc kia, lần nào như lần ấy, đều chuyển nguy thành an. Nhưng lần này ngoảnh lại, ông chẳng hề thấy bóng giáp bạc của nàng, thay vào đó, lại trông thấy cái chết của nàng.

Đáng lẽ ông nên thấy nhẹ nhõm mới phải, chẳng phải ông vẫn muốn thoát khỏi nàng từ lâu đó sao?

Từ sau khi Hiên Viên lập quốc, cùng với sự ổn định của Hiên Viên quốc, ông càng ngày càng ghét nghe đám khai quốc công thần hở ra là nói: “Chỉ sợ vương hậu không đồng ý.”; ghét nghe người các tộc xì xào sau lưng rằng ông phải dựa vào một người đàn bà mới đạt thành đại nghiệp; ghét phải nhẫn nhịn tính tình cương liệt không khoan nhượng của nàng, sự thông tuệ sắc sảo của nàng… Ông cứ ngỡ rằng mình chẳng hề có tình cảm với nàng, rằng mình cưới nàng chỉ để hoàn thành hùng tâm tráng chí, vì nể tình nàng tương trợ mà ban Triêu Vân điện cho nàng. Nhưng, trong khoảnh khắc chứng kiến cánh phượng kia lìa trần, ông chợt nhận ra, từ nay về sau, dù ông có ngoái lại bao nhiêu lần chăng nữa, cũng chẳng còn bóng giáp bạc chạy đến bên cạnh, sát cánh chiến đấu cùng ông, đồng sinh cộng tử. Giao long không kiềm được mà rơi lệ, từng giọt lệ vàng óng do linh lực kết thành, thoắt đến thoắt đi, không tâm không tích, ngay bản thân ông cũng chẳng hiểu đó là vì lẽ gì.

Ông đã sớm biết nàng chẳng còn được bao lâu, đáng lẽ ông phải lấy nhẹ nhõm…

Linh lực của Hoàng Đế và Xi Vưu giao kích khiến bầu trời vần vũ mây đen, sấm sét ùng oàng, mưa to gió lớn xối xả trút xuống. Mãnh hổ ngoạm chặt chỗ bảy tấc trên mình giao long, bất kể nó vùng vẫy quằn quại ra sao cũng không nhả. Thân mình giao long từ từ thu nhỏ lại, Hoàng Đế đứng trên lưng Trùng Minh điểu thấy vậy liền tái mặt, thân hình lảo đảo muốn ngả.

Chỉ cần thêm một đòn nữa, Hoàng Đế sẽ phải bỏ mạng. Chợt trước mắt Xi Vưu hiện lên gương mặt bi ai cùng cực của A Hành, lòng hắng bỗng nhói lên, đao thế lập tức biến đổi, mãnh hổ nhả giao long ra, giao long liền cuống cuồng bỏ chạy, nào ngờ mãnh hổ há to cái miệng đỏ lòm như chậu máu, cắn một nhát, thân mình giao long đứt làm đôi.

Ngọn kim thương trong tay Hoàng Đế gãy đôi, Hoàng Đế phun ra mấy búng máu, rớt khỏi lưng Trùng Minh điểu.

Xi Vưu mỗi tay cầm một đoạn kim thương, vung tay ném ra, hai ngọn đoạn thương cắm phập vào ngọn núi, hóa thành hai đỉnh núi hình dạng như ngọn nến, đối diện với Phản Tuyền thành, dáng nghiêng nghiêng như tế bái.

“Du Võng, lễ vật ta dâng lên ngươi nhân ngày giỗ đây!” Xi Vưu cao giọng thét lớn.

Trong tiếng thét của Xi Vưu, sĩ khí quân Thần Nông chợt tăng vọt, trong khi quân Hiên Viên bại trận tan tác như núi đổ. Phong Bá và Vũ Sư xuất lĩnh binh sĩ Thần tộc tấn công hai bên trái phải, Si Mỵ Võng Lượng dẫn binh sĩ Thần tộc ùa theo truy kích tiêu diệt ngót năm vạn quân Hiên Viên tộc. Ly Chu và Tượng Võng dốc sức cố ngăn sự truy sát của Phong Bá và Vũ Sư, nhưng Tế thủy cắt ngang đường, không cách nào dẫn quân lội qua song chạy về biên giới Hiên Viên được, mắt thấy toàn quân sắp bị tận diệt đến nơi, chợt một con thanh long bơi lại, kê đầu lên một bờ Tế thủy, đuôi vắt sang tận bờ bên kia, sống lưng rộng rãi như một cây cầu xanh ngắt, thanh long bảo Tượng Võng: “Bước trên người ta mà qua sông.”

Té ra là Ứng Long mất tích bấy lâu, Tượng Võng chẳng kịp cám ơn, vội cõng Hoàng Đế bị trọng thương đang hôn mê, dẫn các binh sĩ còn lại qua sông, Ly Chu cùng các chiến sĩ còn lại đoạn hậu.

Tuy Vũ Sư có tài hô mưa không ai bì nổi nhưng trước mặt loài rồng được xưng là vương của Thủy tộc, y cũng đành chịu bó tay. Bất kể y dấy lên sóng to gió mạnh đến đâu, Ứng Long đều có cách ứng phó.

Nhờ Ứng Long bất ngờ ra tay tiếp cứu nên Hiên Viên tộc mới bảo toàn được hơn một vạn chiến sĩ. Trong trận chiến Phản Tuyền lần này, có thể nói Hiên Viên tộc đã thảm hại.

Trong Phản Tuyền thành râm ran tiếng cười tiếng nói, mọi người đều uống tràn lan, mừng thắng lợi.

Chỉ riêng Xi Vưu một mình đứng trên đầu thành, dõi mắt trông về cuối trời Tây.

Vũ Sư và Phong Bá dìu nhau loạng choạng bước lên thành lâu, Phong Bá hỏi Xi Vưu: “Huynh như vậy là sao hả? Kẻ nào không biết còn tưởng là chúng ta thua nữa đó.”

Vũ Sư cũng đã say đến bảy tám phần, lè nhè hỏi: “Đến giờ ta vẫn chưa hiểu chuyện này rốt cuộc là sao nữa, rõ ràng chúng ta đã lâm vào đường cùng, nói thực, ta đã nghĩ lần này thua chắc, vậy mà giờ lại có thể ngồi trong Phản Tuyền thành uống rượu.”

Xi Vưu đáp: “Vừa đúng lúc, để ta dẫn ngươi đi gặp Hình Thiên tướng quân!”

Một đại hán cao chừng một trượng bước ra, Xi Vưu giới thiệu: “Đây chính là đại tướng quân phụ trách lương thảo của chúng ta, vì tướng quân luôn ở hậu phương nên các ngươi không có cơ hội gặp mặt.”

Hình Thiên hỏi Xi Vưu: “Ta thật không sao chịu nổi ngươi nữa, may mà lần này ta đích thân áp tải lương thảo, giờ gặp nhau ở đây, ta phải hỏi cho ra lẽ mới được, rốt cuộc ngươi định làm gì vậy? Mọi người đều biết chiến sự ở Phản Tuyền liên quan tới sinh tử của Thần Nông, chúng ta ở hậu phương thà nhịn ăn nhịn uống cũng phải gom đủ lương thảo, vậy mà ngươi khi thì bảo ta đưa ít đi, lúc lại bảo ta đưa chậm lại, lần này rõ ràng ta đã nghĩ ra cách, mượn được lương thảo từ Đồ Sơn Thị, vậy mà ngươi lại bảo ta tạm thời giấu cả đi.”

Vũ Sư kinh ngạc hỏi thất thanh: “Chúng ta có lương thảo ư?”

Hình Thiên hừ mũi: “Tuy chúng ta đã mất nước nhưng còn dân, còn đất, chỉ còn người Hiên Viên không tới quấy phá, thứ gì nên trồng cây thì trồng cây, thứ gì nên thu hoạch thì thu hoạch, vẫn tích trữ được chút lương thảo. Lần này biết không thể thất bại trong chiến dịch Phản Tuyền nên mỗi ngày chúng ta chỉ ăn một bữa cơm, để dành lương thảo đưa ra chiến trường. Ta còn đi cầu khẩn Đồ Sơn Thị, gia tộc giàu có nhất trong Tứ thế gia, Viêm Đế từng có ơn cứu mạng chủ mẫu của họ, nên Đồ Sơn Thị tặng cho chúng ta một ít lương thảo, xem như báo đáp. Ngày sau thì không dám nói chắc, nhưng lúc này, ta không thể để binh sĩ đói được.”

Vũ Sư và Phong Bá đều trợn tròn mắt nhìn Xi Vưu, Vũ Sư ngỡ ngàng hỏi: “Sao huynh không cho các chiến sĩ ăn no?”

Hình Thiên phẫn nộ: “Nếu chẳng phải năm xưa Viêm Đế đinh ninh dặn ta nghe lời ngươi, ta đã tìm tới hỏi tội ngươi rồi.”

Xi Vưu biết tình tình Hình Thiên thẳng thắng bộc trực, bèn nhẫn nại giải thích: “Xưa nay Hoàng Đế cầm quân, không nổi tiếng vì dũng mãnh, mà vang danh nhờ mưu lược. Ông ta rất quý trọng binh lực, luôn muốn sắp sẵn mọi chuyện, đánh một đòn dứt điểm, trận Phản Tuyền lần trước chính là một ví dụ. Lần này nếu Hoàng Đế lấy cứng chọi cứng với chúng ta, thì cũng chỉ năm ăn năm thua, đôi bên lưỡng bại câu thương, Cao Tân sẽ được hưởng lợi, Hoàng Đế không đời nào chịu như vậy. Thế nên, ông ta lợi dụng việc quân đội Hiên Viên được cung ứng đầy đủ, cứ giằng dai kéo dài để tiêu hao sinh lực chúng ta, đợi chúng ta hoàn toàn suy kiệt, ông ta chỉ cần cất tay là dẹp tan, đó là kế sách thứ nhất. Những viên đại tướng bình thường trù tính được đến bậc này hẳn đã vừa ý rồi, nhưng Hoàng Đế lại rất cẩn thận, còn phái binh sĩ đào đường hầm để trước sau giáp kích, kẹp chúng ta vào giữa, đó là kế sách thứ hai. Đến đây, có thể coi như cầm chắc thắng lợi nhưng Hoàng Đế vẫn chưa vừa lòng, lại điều động Thần tộc bày trận thế tại Phản Tuyền sơn cốc, quyết không để xảy ra điều gì sơ sót.”

Vũ Sư tán thưởng: “Quả là lợi hại, hết kế này đến kế khác đan cài vào nhau!”

Phong Bá gật đầu: “Kế sách thứ nhất là quan trọng nhất, có điều Xi Vưu còn lợi hại hơn, rõ ràng Hình Thiên đã mượn được lương thảo từ Đồ Sơn Thị, vậy mà Xi Vưu vẫn hạ lênh giấu lương đi, để Hoàng Đế ngỡ rằng lương thảo của chúng ta đã cạn kiệt, bấy giờ mới chịu dốc toàn lực tấn công ta. Bằng không chúng ta đâu thể dễ dàng tiến vào Phản Tuyền thành như vậy?”

Xi Vưu nói: “Không thể nói là ta giỏi cầm quân hơn Hoàng Đế được, ta chỉ có ưu thế là nghiên cứu được tất cả các trận chiến của ông ta suốt mấy ngàn năm nay, còn ông ta lại chỉ có thể quan sát những trận chiến của ta trong thời gian này mà thôi, nên ta hiểu về ông ta hơn ông ta hiểu về ta nhiều. Bởi vậy, ta biết ông ta sẽ không tấn công trực diện một cách tùy tiện như thế, bèn nghĩ cách phối hợp với ông ta, lấy gậy ông đập lưng ông. Thực ra, trận chiến này, Hoàng Đế đã thua chính bản thân mình.”

Vũ Sư và Phong Bá cùng bật cười: “Huynh cần gì phải khiêm tốn? Đây cũng là nhờ huynh khéo léo ứng phó được tất cả những kế sách của ông ta. Ít ra chúng ta cũng không ai biết được huynh bày ra trò đá cầu là để thao luyện binh sĩ, nếu không có bọn Si Mỵ Võng Lượng cùng các huynh đệ Yêu tộc giỏi đá cầu, chẳng hiểu sẽ có bao nhiêu chiến sĩ phe ta phải bỏ mạng nữa.”

Chỉ mình Hình Thiên cố chấp lắc đầu: “Xi Vưu, nếu Viêm Đế còn sống, nhất định không tán thành cách làm này của ngươi đâu. Để dụ Hoàng Đế vào tròng, ngươi chẳng nề để tướng sĩ nhịn đói nhịn khát, nếu những binh sĩ hy sinh kia được ăn thêm chút thịt thà, biết đâu họ lại có sức chiến đấu, không đến nỗi phải chết. Ngươi còn chính tay đẩy họ vào trận thế của Hoàng Đế để làm mồi nhử, ngươi có biết bao nhiêu binh sĩ đã bị đá đè chết không? Mấy ngàn người đó!”

Thấy Xi Vưu lặng thinh, Hình Thiên lại nói: “Để giành thắng lợi, ngươi không tiếc bất cứ thủ đoạn nào cả, lần này ngươi hy sinh tướng sĩ, lần sau ngươi định hy sinh ai đây?”

Thấy Phong Bá toan nói gì đó, Xi Vưu liền giơ tay ngăn lại. Hắn bình thản đối diện với Hình Thiên: “Ngươi từng theo hầu sư phụ, hẳn biết rõ lai lịch xuất thân của ta. Trong mắt ta không có đúng sai đạo nghĩa, cũng chẳng có lễ nghĩa liêm sỉ, chỉ biết giở mọi thủ đoạn để sinh tồn mà thôi. Nếu bất mãn, ngươi cứ việc ra đi, nhưng nếu ngươi muốn ở lại thì phải tuyệt đối trung thành, bằng không…” Xi Vưu cười lạnh lẽo, “Lang vương thường cắn chết con sói phản bội rồi quẳng cho bấy sói xé xác ăn thịt, có điều hình phạt của nó vẫn chưa hung tàn bằng ta đâu.”

Thấy Hình Thiên phẫn nộ trợn trừng hai mắt, Vũ Sư ngỡ hắn định tấn công Xi Vưu, nào ngờ hắn trừng trừng nhìn Xi Vưu một hồi rồi quay phắt đi, “Ta chỉ trung thành với Viêm Đế thôi.”

Phong Bá và Vũ Sư định nói thêm gì đó, nhưng Xi Vưu đã xua tay, “Ta muốn ở lại một mình.” Hai người đành lui xuống.

Xi Vưu đứng trên đầu thành, dõi mắt về phía trời Tây.

Mẹ A Hành qua đời rồi!

Đến giờ hắn vẫn nhớ như in nỗi đau chết nửa cõi lòng lúc Viêm Đế qua đời, huống chi A Hành vốn gắn bó với Luy Tổ, nhất định sẽ còn đau đớn hơn.

Hắn chỉ hận không thể bay ngay đến Triêu Vân phong, nhưng đến rồi hắn phải nói gì đây? Ta đánh bại cha nàng, giết chết mấy vạn tộc nhân của nàng ư? Dùng đôi tay dính đầy máu tươi này ôm lấy nàng an ủi ư?

Tiêu Dao đậu xuống đầu thành, nghiêng đầu nhìn hắn như đang hỏi: Ngươi làm gì thế?

Xi Vưu cười nói: “Ta đang nhớ A Hành.” Nụ cười bất lực vô chừng, khác hẳn vẻ lãnh khốc bên ngoài.

Tiêu Dao lườm hắn rồi kêu lên một tiếng, khẽ vỗ cánh như thể muốn bay đi.

Xi Vưu liền nhảy lên lưng nó, “Nào thì đi!” Bất kể ra sao cũng phải tới trông thấy nàng, mới có thể yên tâm.

Đã tảng tảng sáng, nhưng trong Triêu Vân điện vẫn vắng lặng như tờ, tưởng chừng nghe được cả tiếng lá rơi, hồ như tất cả mọi người đều đang say ngủ.

Xi Vưu tìm từ tiền điện đến sương điện cũng chẳng thấy A Hành, đang lo lắng chợt thấy một bóng người chớp lên, hắn vội vàng lẩn đi.

“Xi Vưu.” Vân Tang gọi giật hắn lại, “A Hành đang ở trên đỉnh núi.”

Xi Vưu đang định đi, chợt nghe Vân Tang hỏi: “Nghe nói ngươi hiện giờ thiếu thốn lương thảo, sắp không duy trì được nữa ư?” Tốc độ của Tiêu Dao quá nhanh, lại đến trước cả khi tin thắng bại truyền về Hiên Viên thành.

Xi Vưu ngoảnh lại đáp: “Chiến dịch đã kết thúc, Hoàng Đế bị trọng thương, Thần Nông thu lại Phản Tuyền rồi.”

Sắc trời vẫn còn lờ mờ, Vân Tang lại đứng quay lưng về phía ánh sáng nên không trông rõ được nét mặt, hồi lâu, nàng mới hỏi: “Tiếp sau đây, ngươi định thế nào?”

“Đợi thu hồi được toàn bộ lãnh thổ Thần Nông, buộc Hoàng Đế đầu hàng, ta cũng hoàn thành lời hứa với hai đời Viêm Đế, trả hết ơn nghĩa, chừng đó ta sẽ giao lại binh quyền, chuyện về sau là của Thần Nông vương tộc các người.”

“Vậy còn ngươi?”

“Ta sẽ dắt A Hành vĩnh viễn rời đi.”

Vân Tang trỏ con đường mòn tít tắp sâu trong rừng dâu, “Ngươi men theo con đường này sẽ gặp A Hành, đêm qua mẫu hậu vừa qua đời, hiện giờ muội ấy đang vô cùng thương tâm, ngươi đừng khiến muội ấy bị kích động, cũng đừng nhắc tới chiến dịch.”

“Đa tạ”

Xi Vưu men theo con đường mòn đầy cỏ dại, thẳng lên tận đỉnh núi. A Hành đang ngồi bó gối trên sườn núi. Nghe tiếng bước chân, nàng liền ngoảnh lại, trông thấy Xi Vưu, nàng cũng chẳng nói chẳng rằng, chỉ hơi nhích người ngồi lùi vào trong một chút. Xi Vưu bèn ngồi xuống sát bên nàng.

Phóng mắt nhìn ra xa, chỉ thấy mây tía lững lờ tựa một dải lụa, rực rỡ mỏng tan như khói, vầng dương vẫn chưa ló dạng.

Xi Vưu đưa mắt nhìn A Hành, thấy gương mặt nàng vừa tái nhợt vừa gầy vò, trong ánh sáng nhàn nhạt đầu ngày, dường như trông rõ mồn một mạch máu xanh ngắt dưới làn da, hắn chợt xót xa khôn xiết, liền quàng tay ôm lấy nàng.

A Hành tựa đầu vào vai hắn, nước mắt lã chã: “Xi Vưu, từ nay về sau ta chỉ còn một thân một mình thôi, ta không còn mẹ, cũng không còn ca ca nữa.”

Xi Vưu an ủi: “Thanh Dương còn đó, sao nàng lại bảo chỉ còn một thân một mình?”

Nỗi bi ai trong lòng quặn lên, A Hành khóc nức: “Đại ca đã chết lâu rồi, trong trận Phản Tuyền lần trước, chính chàng đã lầm lẫn lỡ tay đánh chết Đại ca. Ta vốn đã sắp đặt mọi chuyện, quyết từ bỏ tất cả để ra đi cùng chàng, làm Tây Lăng Hành, không làm Hiên Viên Bạt nữa, Đại ca và Thiếu Hạo đều hứa sẽ giúp ta, Tứ ca cũng ủng hộ hai ta. Nhưng sau khi Đại ca qua đời, mẫu hậu và Tứ ca không còn chỗ dựa, ta không thể bỏ thân phận Cao Tân vương phi được nữa. Vì bảo vệ cho mẫu hậu và Tứ ca, ta buộc phải mượn sức Thiếu Hạo, để Thanh Dương tiếp tục “sống.” Tứ ca cũng đem lòng hận chàng, cấm ta và chàng ở bên nhau…”

Qua những lời nghẹn ngào nức nở ngắt quãng của A Hành, Xi Vưu mới hiểu ra đầu đuôi mọi chuyện, thì ra, hạnh phúc của hắn đã bị hắn chính tay đánh mất. Trong lúc hắn hôn mê ở Bắc Minh, A Hành vừa phải gánh nỗi đau tang tóc, vừa phải lo lắng bảo hộ cho mẫu hậu và Tứ ca. Nỗi xót xa vô hạn trào dâng trong lòng, chợt một ý nghĩ lóe lên, nếu A Hành không hề thay lòng, chỉ vì bảo vệ mẹ với Tứ ca mới cùng Thiếu Hạo…

“Vậy Tiểu Yêu là… là… con gái ta ư?” Xi Vưu bỗng cảm thấy tim đập thình thịch, ngay cả lúc giao đấu sinh tử cùng Hoàng Đế, hắn cũng không căng thẳng và sợ hãi đến vậy.

A Hành đánh hắn mấy cái, khóc lóc hỏi ngược lại: “Vậy chàng tưởng nó là con ai? Tên nó là Tiểu Yêu, ẩn ý nhắc tới hoa đào, khi ấy chàng sống chết không rõ, bị kẻ thù săn lùng khắp đại hoang, ta còn có thể làm sao đây?”

Xi Vưu vừa mừng rỡ lại vừa buồn bã, hắn có con gái, cuối cùng hắn cũng có con gái thật rồi! Nhưng hắn chưa ngày nào làm tròn trách nhiệm người cha, ngược lại còn vì sát nghiệp của mình, hại con gái từ khi sinh ra đã rơi vào nguy hiểm. Hắn dịu dàng ôm lấy A Hành, thì thầm bên tai: “Xin lỗi nàng, cho ta xin lỗi.”

A Hành phải gánh vác trọng trách, xưa nay vẫn gắn nén bi thương vào lòng. Đại ca chết, không dám khóc, sợ mẹ và Tứ ca đau lòng; Tứ ca chết, không dám chết, sợ mẹ và Tứ tẩu thêm đau lòng; giờ đây, cuối cùng nàng cũng vứt bỏ mọi cố kỵ, mặc cho đau thương tràn ra như nước vỡ bờ, vùi đầu vào vai Xi Vưu khóc thảm thiết.

Xi Vưu cũng chẳng khuyên giải, chỉ ôm chặt lấy nàng, khẽ vỗ vỗ lưng nàng, như thể đang an ủi một đứa bé.

A Hành vừa khóc vừa nói: “Từ nhỏ đến lớn, ta luôn thích ra ngoài chơi, chuyện gì cũng dám làm, bởi ta biết, dù xảy ra chuyện gì, chỉ cần chạy về Triêu Vân điện, sẽ có mẹ và các ca ca ở đó. Nhưng tới khi phát hiện ra gia đình là thứ quý giá nhất, thì đã chẳng còn gì nữa cả. Đại ca đi rồi, ta còn mẹ và Tứ ca, Tứ ca đi rồi, ta chỉ còn mẹ, chỉ cần mẹ vẫn còn sống thì ta vẫn còn gia đình. Hiện giờ mẹ cũng đã đi rồi, ta đã chẳng còn gia đình nữa…”

Xi Vưu cúi đầu hôn lên tóc mai nàng, “Nàng quên ngôi nhà trong núi Cửu Lê mà nàng tự tay bài trí rồi ư? Chúng ta có gia đình của chúng ta. Tuy bấy nhiêu năm nay nàng chưa hề quay lại, nhưng hàng năm ta đều ở đó sửa sang, cây mướp trong vườn đã leo đầy cả giàn rồi; ta còn đào một cái giếng, nước giếng mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát, ngày hè nóng nực, bỏ dưa vào giỏ rồi thả xuống giếng ướp lạnh, ăn vào mát lạnh cả người, phải rồi, ta còn bứng một góc tường vi từ Thanh Khâu quốc đem trồng trong vườn, hoa nở ra đẹp như ráng chiều vậy, nàng có thể ngắt lấy chế thành son môi…”

A Hành nước mắt rưng rưng, cảnh tượng lúc Luy Tổ lâm chung lại hiện ra trước mắt.

Mẹ nắm lấy tay nàng dặn dò: “Hành nhi, tuy ta mất đi, nhưng đổi lại, con có thể được tự do. Nếu con thật sự yêu Xi Vưu, thì đi theo hắn đi.” Nàng kinh ngạc nhìn mẹ, ấp úng mãi không nói nên lời. Mẹ nàng cười yếu ớt: “Đồ ngốc ạ, con tưởng đến giờ ta vẫn không nhận ra tâm sự của con ư? Chỉ cần Xi Vưu có thể cho con một gia đình, chăm sóc tốt cho con, thì nó là con rể của ta. Hiện giờ, điều duy nhất ta còn chưa yên lòng, là con đấy!”

Nghe Xi Vưu miêu tả, A Hành tựa hồ trông thấy căn nhà nhỏ thấp thoáng giữa bóng hoa đào, khu vườn rau cạnh nhà, từng ngọn non loăn xoăn xanh mướt từ giàn mướp rủ xuống, giếng đá xanh trước nhà, cái gầu nằm lăn lóc bên miệng giếng, hoa tường vi hồng thắm nở đầy quanh giếng, từng chùm từng cụm, đẹp như ráng chiều…

Dường như mẹ cũng trông thấy căn nhà mới của nàng, đang đứng trước nhà hân hoan mỉm cười.

Mẹ ơi, con có thể tự do đi cùng Xi Vưu thật ư?

Mẹ gật gật đầu với nàng, rồi bóng xa dần, lẫn vào giữa bong hoa đào, vẻ mặt thanh thản, chẳng còn gì vướng bận.

A Hành ngẩng đầu nhìn Xi Vưu, nước mắt chan hòa, chợt khóe môi nàng lại nở nụ cười rạng rỡ, vui mừng nói: “Mẹ nói kể từ giờ ta đã tự do rồi, mẹ bảo mẹ bằng lòng nhận chàng làm rể.”

Xi Vưu sững ra, như không dám tin, một thoáng sau, mới lộ vẻ mừng rỡ như điên cuồng, lắp bắp hỏi: “Mẹ nàng, mẹ nàng… thật… thật…”

A Hành gật đầu.

Xi Vưu xưa nay vẫn cho rằng mình không thể được người thân của A Hành chấp thuận, nên luôn ngang ngược tuyên bố không để tâm, ngờ đâu được người thân thừa nhận và chúc phúc lại có thể làm người ta yên lòng, khiến niềm hạnh phúc càng tăng lên gấp bội. Xi Vưu mừng đến nỗi nói không nên lời, chỉ biết ngẩn ra nhìn A Hành, cười ngây ngô.

Chân trời đằng đông chợt bừng lên, A Hành liền ngoảnh lại nhìn, khẽ lẩm bẩm: “Chàng xem, mặt trời mọc kìa, một ngày mới lại đến rồi.”

Vầng mặt trời đỏ ối như ngọn lửa cháy rực nhô lên khỏi bể mây cuồn cuộn, rọi sáng cả đất trời, khiến vạn vật cũng thành ra rạng rỡ.

Xi Vưu ôm chặt lấy A Hành: “Về sau, ngày ngày chúng ta sẽ cùng nhau ngắm mặt trời mọc nhé?”

A Hành nhoẻn cười, gật đầu. Chẳng rõ nhờ ánh nắng của mặt trời, hay vì hơi ấm của đối phương, cả hai đều thấy thân mình nóng bừng lên.

Nhìn vào đôi mắt sáng long lanh của A Hành, Xi Vưu máy môi toan nói với nàng: chiến dịch đã kết thúc, nhưng lời ra đến miệng lại không thốt lên nổi. Lúc này đây, hắn chỉ muốn ôm lấy nàng, yên lặng ngắm nhìn vầng dương chiếu rọi khắp nơi.

Ráng đỏ như lửa phủ ngập chân trời, đỗ quyên đỏ như lửa nở đầy sườn núi, hai người yên lặng ngồi trên đỉnh núi, tựa vào nhau, xung quanh là nắng mai tực khói, là hoa dại rực rỡ, thân mình cả hai tựa hồ đã ngưng kết lại thành đá núi, chỉ khi gió sớm thổi qua, mới thấy tà áo nhẹ bay bay.

Xi Vưu khẽ hỏi: “Tây Lăng Hành, sau này nàng định làm gì?”

Tây Lăng Hành, cái tên tượng trưng cho hạnh phúc và tự do ấy, đã bao lâu rổi chưa xuất hiện trong đời nàng? A Hành mơ màng như đang nằm mộng, hạ giọng thì thầm, “Ta muốn ngày ngày đều được ở bên chàng, nhìn Tiểu Yêu, Chuyên Húc bình an lớn lên, chứng kiến bọn chúng dựng vợ gả chồng, rồi cùng chàng hạnh phúc lìa khỏi thế gian này.”

Xi Vưu cười, “Nguyện vọng quá đơn giản, ta nhất định sẽ giúp nàng thực hiện!”

“Thật không?”

“Thật.”

Chợt nghe tiếng Chu Du từ rừng dâu gọi vóng lên: “Vương cơ, A Hành!”

A Hành đứng dậy, nhưng Xi Vưu vẫn nắm lấy tay nàng, quyến luyến chẳng nỡ rời. A Hành từ từ lùi lại, bàn tay cũng từ từ tuột khỏi tay hắn. Nàng dặn: “Ta phải lo liệu tang lễ cho mẹ, chàng về trước đi. Giờ này ngày mai, chàng sẽ nhận được quà ta tặng, coi như… ta đền cho chàng vì bấy nhiêu năm nay lỡ hẹn.”

Chiều hôm đó, tin tức về trận Phản Tuyền truyền đến Cao Tân, các đại thần lại được dịp đua nhau tán tụng Thiếu Hạo anh minh cơ trí, không phái binh tham chiến, bằng không đã bị vạ lây với Hoàng Đế.

Đối mặt với lời xưng tụng của quần hùng, Thiếu Hạo chỉ lặng yên không nói.

Đám đại thần thấy vậy cũng chẳng dám dông dài nữa, Thiếu Hạo bây giờ đã không còn là kẻ ôn hòa khiêm tốn, lấy lễ đối đãi với bề tôi như trước, y luôn lạnh lùng nghiêm khắc, trầm mặc kiệm lời, vui giận khó lường, thủ đoạn tàn nhẫn, quần thần mỗi lần bắt gặp ánh mắt y đều run lên sợ hãi.

Thiếu Hạo đang định cho mọi người lui ra, bỗng một tên nội thị hồng hộc chạy vào đại điện, giơ cao một phong thư trắng toát.

Thiếu Hạo khẽ phất tay, phong thư liền bay thẳng tới tay y. Giở ra đọc xong, sắc mặt y chợt trầm xuống, y trân trân nhìn phong thư, hồi lâu chẳng nói chẳng rằng.

Quý Ly xưa nay chưa hề thấy Thiếu Hạo như vậy, đánh liều hỏi: “Bệ hạ có gì căn dặn chăng?”

Thiếu Hạo đưa phong thư cho y, Quý Ly thoạt nhìn đã biến sắc mặt, là giấy tự từ hôn của Hiên Viên Bạt, nàng tuyên bố hủy bỏ hôn nhân với Thiếu Hạo, từ nay trở đi, đôi bên tự do dựng vợ gả chồng, không liên quan đến nhau nữa.

Thiếu Hạo bình thản nói: “Chuyện này có lẽ thiên hạ đều biết cả rồi, ngươi đưa cho bọn họ đọc đi, đọc xong thử trình bày ý kiến xem.”

Mấy vị đại thần xem xong, lòng vô cùng căm phẫn, nhưng không sao dò đoán được thái độ của Thiếu Hạo, nên chẳng ai dám ra lời. Quý Ly đành lên tiếng: “Tân bệ hạ, Cao Tân lập quốc mấy vạn năm nay, chưa từng nghe nói có chuyện như vậy bao giờ, chúng thần cũng không biết nên làm sao mới phải.”

Đám triều thần lao xao gật đầu, xưa nay chỉ nghe nói đế vương hắt hủi phi tử, chưa từng thấy phi tử tự động ra đi bao giờ.

Đột nhiên, một kẻ buông miệng hỏi: “Đây là ý của Hoàng Đế sao? Có phải đằng sau có âm mưu gì không?”

Thiếu Hạo đáp: “Văn thư này mới được ban bố sáng nay thôi, lúc này dù Hoàng Đế còn sống, cũng đang trên đường trốn chạy từ Phản Tuyền, không thể phát ra ý chỉ này được, trên này chỉ có dấu ấn của Vương hậu, không có dấu của Hoàng Đế, hẳn là ý riêng của Hiên Viên vương cơ thôi.”

Triều thần vội tâu: “Vậy thì không tính.”

Thiếu Hạo phán: “Các ngươi lui cả xuống, chuyện này cứ như vậy đi!” Nói rồi, y đứng dậy đi thẳng.

Cả đám triều thần ngơ ngác nhìn nhau, đều lúng túng như gà mắc tóc. Cứ như vậy đi! Là như thế nào đây? Thiếu Hạo xưa nay nói năng rất rõ ràng rành mạch, đây là lần đầu tiên bọn họ nhận được một mệnh lệnh mơ hồ thế này, thật không biết phải chấp hành ra sao nữa.

Thiếu Hạo không quay về Thừa Ân cung mà đi thẳng tới Thừa Hoa cung – phủ đệ của y thời còn là vương tử.

Đẩy cửa phòng ngủ, mọi thứ vẫn y như cũ.

Y còn nhớ, đêm tân hôn mình đã vờ say, lảo đảo đẩy cửa phòng ra. Bây giờ A Hành ngẩng phắt đầu lên, chăm chú nhìn y, tựa hồ nhìn thấu hết thảy tâm tư y.

Chiếc sập kê sát cửa sổ, ngay cạnh án thư, mỗi tối, khi y ngồi trước án thư xử lý công văn, A Hành thường nằm trên sập đọc sách thuốc.

Cửa sổ trông thẳng ra vườn hoa, hoa cỏ trong vườn đều do nàng tự tay trồng, nàng vừa nghiên cứu Thần Nông Bản Thảo Kinh, vừa mê mải thực hành, trồng ra đủ loại kỳ hoa dị thảo, nổi danh khắp Cao Tân thần tộc, ngay cả phụ vương cũng phải phái cung nhân tới xin giống hoa cỏ về.

A Hành tâm tư tinh tế, biết y thính mùi nên hằng ngày đều hái hoa tươi đặt lên án thư, khiến y luôn được dịp bất ngờ .

Hương rượu thoang thoảng trong gió đêm đưa lại, là túy hải đường do A Hành trồng, chỉ chuyên tưới bằng rượu, không thể tưới bằng nước, đóa hoa lớn mà trắng muốt, khiến người ta vừa ngửi đã say, nàng từng đùa rằng, “Đây là bậc quân tử say trong các loài hoa, có thể đặt tên là Thiếu Hạo hoa.”

Thiếu Hạo đứng dậy, ra vườn ngắt mấy cành túy hải đường cắm vào bình ngọc trên án thư, lập tức cả phòng sực nức hương thơm, khiến người ta ngất ngây chỉ muốn say.

Y ngả người nằm xuống sập, rút trong tay áo ra một chiếc hộp nhỏ bằng thủy ngọc, trong hộp đặt một ngón tay út.

Hôm A Hành không mượn được binh bèn chặt ngón tay bỏ đi, y thực sự không ngờ Xương Ý và Xương Phó lại lần lượt qua đời, từ đó trở đi, A Hành cũng chẳng trở về Ngũ Thần sơn nữa, sau này, càng không thể trở về.

Thiếu Hạo mê mệt thiếp đi giữa căn phòng nồng nàn mùi rượu.

Ánh nắng chói chang, cỏ xanh mơn mởn, hoa nở rực rỡ. Thanh Dương, A Hành, Xương Ý đều có mặt, hệt như hôm Xương Ý thành hôn, tất cả túm tụm cười cười nói nói. Thiếu Hạo thấy vui vẻ vô cùng, nhưng trong lòng lại thấp thoáng một nỗi đau xót khó gọi thành tên, tựa hồ biết ngày vui ngắn chẳng tày gang vậy.

Y đem ra hết vò rượu này đến vò rượu khác do mình tự cất, còn luôn miệng giục họ uống, như sợ chậm trễ thì họ sẽ không uống được.

Thanh Dương cười bảo Xương Ý: “Tên này đổi tính rồi, trước đây muốn uống hớp rượu ngon của hắn phải nài nỉ năm lần bảy lượt mới được đấy.”

Thiếu Hạo rót rượu cho Thanh Dương, Thanh Dương vừa nâng chén lên, chợt thấy Vân Trạch đứng dưới gốc phượng hoàng cười gọi: “Đại ca!”

Thanh Dương lập tức đứng dậy, đi về phía Vân Trạch, ba huynh đệ họ đứng dưới gốc phượng hoàng cười cười nói nói, chẳng nhìn nhõi gì đến Thiếu Hạo.

Y vội ôm vò rượu chạy tới, “Thanh Dương, Vân Trạch, Xương Ý! Mọi người lại cùng nhau uống rượu đi, chỉ một lần này thôi mà!” Nhưng bất kể y chạy bao lâu, cũng không chạy tới được.

“Thanh Dương, Vân Trạch, Xương Ý…”

Y đã mệt đến nỗi mồ hôi đầy đầu, mắt thấy sắp đuổi đến nơi, đột nhiên Thanh Dương rút kiếm ra chỉ thẳng vào y: “Tại sao ngươi không cứu Xương Ý? Chẳng phải ngươi đã thề rằng ngươi chính là Thanh Dương ư? Đồ tiểu nhân bội tín bạc nghĩa nhà ngươi!”

Thiếu Hạo không sao tránh né, đành giương mắt nhìn thanh kiếm cắm ngập vào tim mình, “A…”

Thiếu Hạo bừng tỉnh, mồ hôi đầm đìa, nằm giữa căn phòng nồng nàn mùi rượu, Thiếu Hạo nhất thời cũng chẳng biết bản thân đang ở đâu nữa, đương lúc mơ màng, y còn tưởng mình đang uống rượu với Thanh Dương, bèn trở mình gọi: “Thanh Dương, ta vừa gặp ác mộng.” Coong một tiếng, chẳng rõ thứ gì vừa rơi xuống đất, y cúi đầu nhìn, thấy trong miếng thủy ngọc xanh biếc đặt một ngón tay út, đột nhiên, cả người toát mồ hôi lạnh.

Thanh Dương không còn nữa, Vân Trạch không còn nữa, Xương Ý không còn nữa, A Hành cũng đi rồi!

Y ngơ ngác ngẩng đầu, lại chẳng hiểu rốt cuộc muốn nhìn gì, chỉ thấy một vành trắng lạnh in bóng lên rèm lụa, cô quạnh tịch liêu.

Bốn anh em Si Mỵ Võng Lượng chạy xộc vào phòng hô hoán: “Tin động trời, tin động trời đây.”

Phong Bá nghe hò hét mà ong cả óc, liền nạt: “Nếu không phải tin động trời, ta sẽ phạt mỗi tên ba mươi roi.”

Mỵ dương dương đắc ý cười nói: “Lần này huynh không phạt được bọn ta đâu, quả là tin động trời đó.”

Thấy chúng lại tiếp tục đấu võ mồm với Phong Bá, Xi Vưu bực bội quát: “Nói!”

Nghe tiếng quát, Si Mỵ Võng Lượng tức thì đứng nghiêm, Si nói: “Hiên Viên vương cơ thôi không làm Cao Tân vương phi nữa rồi.”

“Gì cơ?” Phong Bá và Vũ Sư đồng thanh hỏi.

Si nháy mắt với cả hai, như thể nói: Thấy chưa, rõ ràng là tin động trời mà, không ngoa tí nào nhé!.

Xi Vưu chống hay tay lên bàn, chồm người tới trước, nôn nóng: “Các ngươi nói lại nghe nào.”

Mỵ đáp: “Cao Tân vương phi nói mình tài hèn đức mọn, không xứng với Thiếu Hạo nên tự động từ hôn, từ nay trở đi chỉ còn là Hiên Viên vương cơ, chứ không phải là Cao Tân vương phi nữa, có thể tự do kết hôn.”

Phong Bá nghi hoặc hỏi: “Rốt cuộc Hiên Viên vương cơ có ý gì vậy? Giờ đang là lúc Hiên Viên cần Cao Tân nhất, vậy mà cô ta phải phá hủy mối liên minh với Cao Tân là sao?” Chợt nghĩ lại, y vụt hỏi: “Tin này công bố lúc nào?”

Si đáp: “Sáng sớm nay.”

“Thảo nào, đây nhất định không phải ý của Hoàng Đế, mà là Hiên Viên cơ tự tiện đưa ra.” Phong Bá cười với Xi Vưu, “Đúng là trời giúp Thần Nông rồi, ắt hẳn Cao Tân sẽ coi đây là mối nhục lớn, dẫu Hiên Viên vương cơ muốn rút lời lại cũng chẳng dễ dàng gì đâu.”

Xi Vưu từ từ ngồi xuống, vẻ mặt vừa bi ai lại vừa mừng rỡ. Thì ra đây chính là lễ vật A Hành tặng cho hắn – tự do của nàng!

Nhưng lúc này đây, hẳn A Hành đã biết mọi chuyện rồi?

Từ sáng, sau khi công bố hủy bỏ cuộc hôn nhân với Thiếu Hạo, A Hành vẫn ở lì trên Triêu Vân phong, thu dọn di vật của Luy Tổ, nàng đang đợi cơn thịnh nộ của Hoàng Đế giáng xuống.

Mãi đến chập choạng tối mới thấy cung nữ hớt hơ hớt hãi chạy vào thông báo: “Hoàng Đế, Hoàng Đế đến rồi!”

A Hành chậm rãi đứng dậy bước ra ngoài, nàng cứ ngỡ rằng sẽ trông thấy Hoàng Đế bừng bừng lửa giận, đứng giữa đám thị vệ dương dương tự đắc, trợn trừng mắt phẫn nộ nhìn nàng. Nhưng ra đến ngoài điện, nàng chỉ thấy Tượng Võng thúc thúc te tua thảm hại, Ly Chu thúc thúc khắp người đầy máu.

Bắt gặp ánh mắt nghi hoặc của nàng, Tượng Võng và Ly Chu đồng loạt quỳ xuống: “Xin vương cơ lập tức phái tâm phúc tới Quy khư mời Đại điện hạ xuất quan.”

A Hành nhìn vào điện, thấy đám thầy thuốc đang xúm xít tất bật quang giường: “Xảy ra chuyện gì vậy?”

Tượng Võng bẩm: “Chúng ta trúng kế Xi Vưu, Hoàng Đế bị trọng thương e rằng không ổn…phải mời nagy Thanh Dương điện hạ về, gặp bệ hạ lần cuối.”

Như sấm nổ giữa trời quang, A Hành chợt thấy thần trí trống rỗng, đờ người tại chỗ. Nàng không tin! Phụ vương nàng là Hoàng Đế oai phong lẫm liệt, chẳng ai dám trái ý kia mà, sao có thể nguy cấp được? Hôm qua nàng còn láng máng nghe đồn Xi Vưu bị ép đến nổi cạn lương hết đạn, sắp thất bại rồi mà.

A Hành tức tốc chạy vào đại điện, rẽ đám đông ra, xông đến bên giường, chỉ thấy Hoàng Đế hai mắt nhắm nghiền, sắt mặt tái nhợt.

“Phụ vương, phụ vương…” A Hành không kiềm được gọi ầm lên. Hoàng Đế chợt mở bừng mắt, mơ màng nhìn A Hành, mỉm cười nhẹ nhõm: “A Luy, ta biết thế nào nàng cũng đến mà, thấy nàng là ta yên tâm rồi.”

Tượng Võng và Ly Chu đứng bên nghe thấy, sống mũi bỗng cay xè, lệ tràn lên mắt. Trước là Vương hậu qua đời, rồi lại tới Hoàng Đế trọng thương, chỉ trong một đêm, Hiên Viên đã chao đảo sắp sụp đổ.

Thứ phi Phương Lôi, Tứ phi Mô Mẫu đều hay tin chạy đến, Phương Lôi đã hoảng loạn, chỉ biết khóc nức nở, còn Mô Mẫu vẫn giữ được bình tĩnh, hỏi: “Thương thế ra sao?”

Đám thầy thuốc đều nhất loạt quỳ xuống, dập đầu lia lịa, không dám lên tiếng, chỉ có một lão thầy thuốc già đánh bạo lên tiếng thưa: “Thương thế rất nặng, phải mau mau mời Đại điện hạ về thôi, nếu về nhanh, may ra còn kịp gặp mặt lần cuối.”

Nghe thấy câu đó, Phương Lôi liền ngất xỉu, Mô Mẫu cũng bủn rủn ngồi phệch xuống đất, nhất thời trong điện hỗn loạn cả lên.

A Hành nắm lấy hai cổ tay Hoàng Đế, thăm mạch cho ông, lát sau, nàng rút ngọc trâm trên đầu xuống, phong bế mạch tức vài ba nơi trên người ông, đoạn quay ra bảo Ly Chu và Tượng Võng: “Phiền hai vị thúc thúc cho tất cả mọi người lui ra ngoài.”

Tượng Võng nôn nóng thưa: “Vương cơ, chúng ta phải lập tức mời Thanh Dương điện hạ về ngay, bằng không Hiên Viên sẽ đại loạn mất.”

A Hành đáp: “Việc cấp bách hiện giờ của chúng ta là phải cứu phụ vương đã.”

Tượng Võng tính tình nóng nảy, lại là đại tướng khai quốc từng theo Hoàng Đế Nam chinh Bắc chiến giành lấy thiên hạ, trong lúc cấp bách cũng chẳng lựa lời, cứ thế nói thẳng toẹt: “Đương nhiên phải cứu bệ hạ, nhưng ngay cả những thầy thuốc giỏi nhất nước cũng đã chẩn đoán rồi, trừ khi Viêm Đế Thần Nông tái sinh, bằng không làm sao cứu được?”

A Hành hỏi: “Phụ vương trước sau trọng thương hai lần, lần thứ nhất là linh thể bị trường đao chém trúng, thoạt nhìn có vẻ nghiêm trọng nhưng cũng như đánh rắn vậy, dù chém rắn đứt làm đôi mà không trúng chỗ hiểm, thì vẫn còn cứu được. Có điều ngay sau đó, phụ vương lại trúng một chưởng vào ngực, đã thương lại thêm thương, tính mạng như ngàn cân treo sợi tóc, hai vị thúc thúc, con đoán có đúng không?”

Tượng Võng nghe nói tới vết thương đầu tiên liền gật đầu lia lịa, nhưng đến vết thương thứ hai, ông ta càng nghe càng lộ vẻ quái lạ, mở miệng toan nói.

Ly Chu chợt ấn vào vai Tượng Võng, kinh ngạc hỏi: “Hành nha đầu, con biết y thuật từ bao giờ thế? Tình hình khi đó đúng như con nói, thoạt đầu Xi Vưu vung đao chém linh long của Hoàng Đế, tuy linh long bị chém thành hai đoạn, nhưng Hoàng Đế vẫn tránh được, không trúng phải chỗ yếu hại. Thấy Hoàng Đế ngã từ trên tọa kỵ xuống, không còn sức tự vệ, Xi Vưu bèn đuổi theo, bồi thêm một chưởng.”

A Hành đáp: “Nói ra thì dài lắm, tóm lại hai vị thúc thúc có tin con không? Nếu để cho con an bài mọi sự thì vẫn còn cứu được phụ vương.”

Tượng Võng không nói gì, chỉ nhìn sang Ly Chu. Ly Chu liền nói: “Chúng ta không tin con thì còn biết tin ai? Con cứ tùy ý quyết định mọi chuyện đi.”

“Cần tìm một vị cao thủ tinh thông trận pháp để bày trận, sau đó con sẽ dùng linh dược giúp phụ vương điều dưỡng, nếu mọi việc thuận lợi, chắc có thể giữ được tính mạng. Linh dược con đã có đủ đầy rồi, chỉ thiếu cao thủ bày trận…”

Tri Mạt chợt bước vào nói: “Xin để vi thần bày trận.”

Tượng Võng vô cùng kinh ngạc, mừng đến nỗi thiếu điều nhảy cẩng lên: “Rốt cuộc ông cũng quay về rồi!”

Thuở nhỏ, A Hành đã lớn lên cùng những câu chuyện của Tri Mạt, theo nàng được biết, ông ta vốn thuộc tầng lớp hạ lưu ở Cao Tân khi quen biết phụ vương, ông ta rất tinh thông trận pháp, giỏi bày mưu tính kế, từng phò tá phụ vương lập ra Hiên Viên quốc, là khai quốc công thần bậc nhất Hiên Viện, được tôn vinh là Đế sư. Nhưng sau khi Hiên Viên lập quốc, ông ta và Hoàng Đế nảy sinh bất đồng, quan hệ ngày càng lạt lẽo, trước trận Phản Tuyền lần thứ nhất, ông đã treo ấn từ quan, ẩn cư lánh đời.

Luy Tổ rất mực kính trọng Tri Mạt nên trước mặt ông, xưa nay A Hành chưa hề coi mình là vương cơ, vội hành lễ với Tri Mạt: “Mọi chuyện xin trông cả vào bá bá.”

Theo yêu cầu của A Hành, Tri Mạt dốc hết tâm sức bày bố trận pháp, còn nàng phong ấn thân thể Hoàng Đế vào trận, tạm thời tính mạng Hoàng Đế không có gì đáng ngại, nhưng rốt cuộc có trị khỏi được hay không, còn phải trông vào y thuật của A Hành và sức khỏe của Hoàng Đế.

Nửa đêm, A Hành dỗ Chuyên Húc và Tiểu Yêu ngủ xong, vừa bước ra khỏi phòng, chợt thấy trước mắt tối sầm lại, xuýt nữa ngất xỉu. Bây giờ nàng mới sực nhớ ra mình đã không ăn không uống suốt một ngày trời, định tìm gì đó ăn đỡ, nhưng lại thấy nôn nao trong dạ, chẳng biết phải ăn gì nữa.

Nàng tìm được trong bếp nửa hũ dâu lạnh chính tay Luy Tổ làm, bèn lặng lẽ ôm vào lòng, ngồi xuống chiếc sập bên cửa sổ, nhón mấy chum đưa lên miệng, vị dâu lành lạnh man mát, chua chua ngòn ngọt tan ra trong miệng.

A Hành nhắm nghiền mắt lại, tựa như trông thấy tuyết rơi lả tả, Đại ca vận áo lam đứng giữa một trời tuyết trắng, mẫu hậu đẩy cửa sổ, nhìn mưa tuyết đầy trời, liền sai cung nữ đi hái dâu lạnh tươi rói, trong khi nàng và Tứ ca đang nằm dài ra tuyết cười đùa, chuẩn bị bắc bếp lò hâm rượu, Xương Phó mặc chiếc váy đỏ hồng, vốc tuyết ném vào đầu cả hai. A Hành bật dậy đuổi theo Xương Phó, hai người đều ngả nhào xuống tuyết.

A Hành nhoẻn miệng cười, lại nhón một vốc bia lạnh đưa lên miệng, những mong kéo dài niềm hạnh phúc ngòn ngọt chua chua ấy.

Xương Phó bị huynh muội nàng ảnh hưởng, cũng rất thích ăn dâu lạnh, ba người chẳng hề ngại rét, còn đứng ngay dưới gốc dâu, vừa cười đùa vừa hái dâu ăn. Những lúc ấy, Đại ca thường đứng xa xa nhìn lại, dẫu có bắt chuyện, y cũng chỉ ơ hờ vài câu rồi thôi. Nhiều lúc A Hành phát cáu, liền lấy tuyết ném y, tới chừng y ngoảnh đầu nhìn, nàng liền chạy đến nấp sau lưng Xương Phó, đại ca rất nghiêm khắc với nàng và Tứ ca, nhưng rất ôn hòa với Xương Phó.

Đợi Đại ca quay đi, nàng lại tiếp tục dương oai diễu võ, tay đấm chân đá với bóng lưng y, nhưng hễ y ngoái đầu là nàng nem nép, còn ngoan hơn thỏ, Xương Phó đứng bên vừa cười vừa ghẹo nàng.

A Hành cười, lại thò tay vào hũ, nhưng chỉ bốc vào khoảng không, thì ra nàng đã ăn hết nửa hũ dâu lạnh, chẳng còn sót mảy may! Bao nhiêu mộng mơ đều tan cả rồi!

A Hành lần tay vét nốt bên thành hũ, cuối cùng cũng vét được mấy mẩu vụn dính trên thành, nàng nhìn nhúm dâu lạnh còn sót lại, toan đưa lên miệng, nhưng lại tiếc rẻ không đành, ngẩn người ra nhìn một lúc lâu, mới dè dặt đưa từng mẩu nhỏ vào miệng.

Chua chua ngòn ngọt, lành lạnh man mát.

Nàng ôm lấy chiếc hũ không, nước mắt như mưa.

Xi Vưu đáp xuống giữa sân, nhìn vào thấy trong nhà tối om. Gió động song sa, phát ra những tiếng nức nở nghẹn ngào.

Xi Vưu bước lại gần bên song, tiếng động kia càng lúc càng rõ hơn, hóa ra là tiếng khóc tức tưởi.

Tiếng thổn thức đứt quãng, nhưng lại liên tục cứa vào lòng hắn.

Tay hắn đặt lên cửa sổ, chỉ cần đẩy khẽ một cái là mở được cửa sổ ra, lau khô nước mắt cho nàng, nhưng hắn quyết không dám dùng đôi tay đẫm máu này chạm tới nàng, vỗ về nàng.

A Hành áp mặt vào hũ dâu lạnh rỗng không, giọng khản đặc, “Chàng ở ngoài ư?”

“Ừm.”

“Sao sáng nay chàng không nói thực với ta?”

Xi Vưu lặng thinh.

“Ta biết chàng muốn báo thù cho Du Võng, nhưng dù sao đó cũng là người đã sinh ra ta, nuôi nấng ta.”

Xi Vưu máy môi, nhưng chẳng thốt nổi lời nào. Kẻ đả thương Hoàng Đế là hắn, hạ lệnh đồ sát binh sĩ Hiên Viên là hắn, có giải thích cũng chỉ là viện cớ, nên hắn không muốn, càng không buồn giải thích.

A Hành khẽ nói: “Chàng về đi, hiện giờ phụ vương đang trọng thương hôn mê, sống chết khó liệu, ta phải chăm sóc cho người.”

Xi Vưu vẫn bình thản đứng đó, nhưng bàn tay đặt trên khung cửa lại run bắn lên, linh khí tràn ra như nước vỡ bờ, không sao khống chế, song cửa lục lăng chạm trỗ từ gỗ đào chợt bừng lên sức sống, lá xanh mơn mởn nhú ra, vô vàng nụ hoa phấn trắng ló ra từ kẽ lá, từ từ xòe nở, chớp mắt, cả khung cửa chằng chịt cánh nhánh, rực rỡ muôn hoa.

A Hành thần người nhìn hoa đào nở đầy cửa sổ, nước mắt thánh thót rơi, nhỏ lên cánh hoa đỏ thắm.

“Mẹ, sao mẹ còn chưa ngủ?” Tiểu Yêu dụi mắt, lệt xệt bước lại. Thấy A Hành đang khóc, bé lập tức leo lên sập, ngoan ngoãn lau nước mắt cho nàng, “Mẹ đừng khóc, ông ngoại sẽ khỏe thôi mà.”

Nghe thấy tiếng bé, Xi Vưu rung động cả tâm thần, bất giác đẩy cửa sổ ra, vươn tay qua khung cửa rực hoa, toan ẵm con gái, “Tiểu Yêu.”

Nào ngờ, Tiểu Yêu lại hung hăn cắn phập vào tay hắn. Cả ngày nay nghe đám cung nhân kể lể chuyện Xi Vưu đả thương ông ngoại, Chuyên Húc còn nói Xi Vưu chính là thúc thúc áo đỏ lần trước đã cứu bé về, nên Tiểu Yêu sinh lòng căm hận Xi Vưu vô kể.

A Hành vội bế xốc Tiểu Yêu, kéo bé ra, nhưng Tiểu Yêu vẫn tay đấm chân đá, hét toáng lên: “Đồ xấu xa! Ta phải giết ngươi báo thù cho ông ngoại.”

Cánh tay Xi Vưu bị Tiểu Yêu rứt mất một miếng thịt, máu chảy đầm đìa, ướt đẫm vạt hoa đào, nhưng hắn như chẳng biết đau, cứ ngây ra nhìn đôi mắt thù hận của Tiểu Yêu, thoắt chốc, nhu tình dào dạt đều hóa thành buốt giá thấu xương, ánh mắt con gái như một thanh kiếm nhọn hoắt, khoét sâu vào trái tim hắn, khiến hắn đau đến nghẹt thở.

A Hành vừa bịt chặt miệng con gái, không cho bé la hét, vừa nhìn Xi Vưu, nước mắt như mưa, “Còn chưa đi đi? Thị vệ sắp tới bây giờ, lẽ nào chàng muốn đại khai sát giới trước mặt con gái ư?”

Xi Vưu đau đáu nhìn A Hành và Tiểu Yêu rồi cưỡi Tiêu Dao bay vụt lên chín tầng trời, để gió lạnh cứa vào rát mặt. Xi Vưu ngửa cổ nhìn trời, rống lên thê thiết như loài sói, hắn không làm gì sai, nàng cũng không làm gì sai, tại sao lại thành ra thế này?

Mất đi linh lực của Xi Vưu, hoa đào dần tàn héo rơi rụng, những cánh hoa vấy máu lần lượt lìa cành rơi xuống, như từng mảnh tim vỡ nát. A Hành ôm Tiểu Yêu trong lòng, chẳng nói chẳng rằng, chỉ thần người ra nhìn những cánh hoa.

Vân Tang, Chu Du nghe thấy tiếng kêu khóc của Tiểu Yêu, liền vội vã dẫn thị vệ chạy tới, nhưng chẳng có gì cả, chỉ thấy A Hành đang ẵm Tiểu Yêu, ngẩn ngơ ngồi giữa muôn ngàn cánh đào đẫm máu.

“A Hành, sao thế?”

A Hành chậm chạp quay đầu lại, nhìn về phía bọn họ. Thoạt trông thấy nàng, Vân Tang bỗng giựt thót mình, dung nhan A Hành vô cùng tiều tụy, ánh mắt buồn hiu hắt, dường như chỉ trong một đêm đã già sọm hẳn đi.

Chương 17: Gió tung bông liễu,m giang sơn ngả

Chờ đợi suốt ngàn vạn năm, tự mua dây buộc mình, thời gian đằng đẳng như ngưng kết lại trong khoảnh khắc chia tay, mãi mãi dừng lại ở phút giây người đó cất bước ra đi, còn đương đinh ninh dặn dò, thiết tha nhắn gửi, nhìn bề ngoài cứ ngỡ là si ngốc, nhưng đó chẳng phải một dạng thông minh đấy ư?

[1] Trích trong bài qua biển Linh Đinh của Văn Thiên Tường (1236-1283). (ND)

Hơn một năm sau, nhờ A Hành dốc hết tâm sức săn sóc, cuối cùng Hoàng Đế cũng giữ được tính mạng.

Vì linh thể đã trọng thương nên Hoàng Đế bắt đầu lộ vẻ già nua, mái tóc bạc trắng, gương mặt đầy nếp nhăn, cặp mắt cũng trở nên lờ đờ chậm chạp, chỉ thỉnh thoảng khi liếc mắt mới lại thấy sắc lạnh như xưa.

Hơn một năm nay tuy có Tri Mạt bày mưu tính kế, Ly Chu, Tượng Võng phụ tá, nhưng dù sao nước không có vua cũng như rắn mất đầu, quân của Xi Vưu liên tiếp giành thắng lợi, đã thu hồi lại toàn bộ lãnh thổ Thần Nông.

Từ sau khi tỉnh lại, ngày ngày Hoàng Đế đều thần người nhìn bức địa đồ do thổ linh ngưng tụ lại, trầm tư suy nghĩ.

Chuyên Húc và Tiểu Yêu nhón chân ghé mắt nhìn trộm qua cửa sổ, chợt Hoàng Đế ngoảnh lại, cả hai giật thót mình, soạt một tiếng, rụt đầu lại núp dưới khung cửa.

Hoàng Đế gọi: “Các cháu vào đây đi.”

Chuyên Húc và Tiểu Yêu nắm tay nhau bước tới trước mặt Hoàng Đế, Chuyên Húc chỉ bức địa đồ màu vàng đầy đủ núi non sông ngòi do thổ linh ngưng tụ thành, hỏi: “Ông nội, cái gì đây ạ?”

Tiểu Yêu nhanh miệng đáp: “Địa đồ, địa đồ của phụ vương cháu màu lam, do thủy linh ngưng tụ thành.”

Hoàng Đế giải thích cho Chuyên Húc: “Đây là địa đồ Hiên Viên quốc.”

“Con sông này tên gì?”

“Hắc hà.”

“Còn ngọn núi này?”

“Đôn Vật sơn.”

Chuyên Húc luôn miệng hỏi, còn Hoàng Đế cũng ân cần giảng giải từng vấn đề một, cậu nhóc nghe rất chăm chú, trong khi Tiểu Yêu chán nản ngáp dài, tựa vào sập gà gật ngủ.

Chuyên Húc trỏ xuống cực Đông Nam của địa đồ, hỏi: “Sông gì đây ạ?”

“Tương thủy, có điều nó thuộc về Cao Tân, cháu có muốn ngắm cảnh Tương thủy không?”

Chuyên Húc gật đầu lia lịa.

Hoàng Đế ngưng tụ linh lực, lập tức một bức tranh phong cảnh Tương thủy trải ra ngay trước mắt Chuyên Húc, non xanh nước biếc, hoa thơm cỏ lạ, quả là muôn màu muôn vẻ.

Chuyên Húc liếc trộm Tiểu Yêu, thấy cô bé đã lơ mơ ngủ, không thể cười mình được nữa, bấy giờ mới yên tâm nói thật: “Đẹp quá, đẹp hơn Tiểu Yêu mô tả nhiều, đúng là khác hẳn Hiên Viên chúng ta.”

Hoàng Đế mỉm cười: “Phải tới Trung Nguyên, cháu mới biết thế nào gọi là rừng vàng biển bạc.”

Chuyên Húc nghe nói không giấu được vẻ háo hức.

A Hành bước vào bế Tiểu Yêu lên, vẻ trách móc: “Hiện giờ thân thể phụ vương vẫn chưa hoàn toàn bình phục, người đừng lạm dụng linh lực. Chuyên Húc, về đi ngủ thôi.”

Chuyên Húc theo A Hành ra đến cửa, chợt ngoảnh lại hỏi Hoàng Đế: “Ông ơi, sáng mai cháu đến tìm ông được không?”

A Hành nhắc: “Sáng mai con phải học vẽ.”

Chuyên Húc phản bác: “Con không thích học mấy thứ đó, thích nghe ông và Tri Mạt, Ly Chu và Tượng Võng bàn bạc công việc kia.”

A Hành sững người, con trai Tứ ca lại không thích học vẽ là sao?

Chuyên Húc kéo tay áo nàng, nài nỉ: “Đi mà, cô cô.”

Hoàng Đế cũng bảo A Hành: “Ta vốn định nói chuyện này với con, nào ngờ cháu nó đã tự động nói trước. Ta muốn giữ Chuyên Húc bên mình để đích thân dạy dỗ nó.”

A Hành đưa mắt nhìn Chuyên Húc, thấy cậu nhóc vẫn chưa hiểu được ý nghĩa thật sự của câu nói này. Trong mắt Chuyên Húc ăm ắp khát vọng, cậu bé nhìn nàng đầy van nỉ, luôn miệng nài xin: “Đi mà, cô cô, cô cô.”

A Hành dịu giọng: “Con đã muốn vậy thì từ mai trở đi, con sẽ theo ông nội để ông nội dạy bảo.”

Chuyên Húc mừng rỡ nắm chặt lấy tay A Hành.

Về đến tẩm điện A Hành giao Tiểu Yêu cho Chu Du chăm sóc, còn mình giúp Chuyên Húc rửa mặt thay áo. Tuy ngoài mặt Chuyên Húc chẳng lộ vẻ gì, nhưng trong lòng cậu cũng biết, cô cô thương mình hơn cả Tiểu Yêu.

A Hành đắp chăn cho Chuyên Húc, đậy chiếc vỏ sò đựng đầy Dạ Minh Châu bên giường lại, căn phòng tức thì tối om.

Nàng định quay ra, chợt Chuyên Húc cất tiếng: “Sau này lớn lên, con nhất định sẽ bảo vệ cô cô và Tiểu Yêu, cả Chu Du nữa, không để ai hà hiếp mọi người đâu!”

A Hành bật cười mà lòng không khỏi xót xa. Một đứa trẻ đang tuổi vô tư lự, vậy mà phải nếm trải nỗi đau mất cha mất mẹ, đến nỗi chỉ mong mình nhanh nhanh trưởng thành để bảo vệ những người thân cận, không muốn mất thêm một người nào nữa. Nàng ngồi xuống bên giường nhìn Chuyên Húc nhưng cậu nhóc đã nhắm nghiền mắt lại, dường như kẻ vừa rồi lên tiếng chẳng phải mình. A Hành khẽ hôn lên trán cậu, đáp khẽ: “Được.”

Đại quân Xi Vưu tiếng sát biên giới Hiên Viên thì dừng lại, Xi Vưu yêu cầu Hoàng Đế đầu hàng, chỉ cần Hoàng Đế không bao giờ tấn công Thần Nông nữa, đồng thời tạ tội với Viêm Đế Du Võng, hắn sẽ không tiến đánh Hiên Viên.

Tri Mạt cực lực khuyên Hoàng Đế nhận lời, ký hiệp ước với Thần Nông, thề không tiến đánh Thần Nông nữa để đổi lấy hòa bình. Tất cả triều thần đều cho rằng Hoàng Đế sẽ chấp thuận lời đề nghị của Xi Vưu, dù sao hắn cũng chỉ thu lại phần lãnh thổ thuộc về Thần Nông, chẳng xâm phạm gì đến Hiên Viên cả.

Trái với dự liệu của mọi người, Hoàng Đế không chấp thuận lời đề nghị của Xi Vưu. Ông cương quyết tuyên bố: “Muốn ta thề trước toàn thiên hạ vĩnh viễn không xâm phạm Thần Nông, tuyệt không thể được! Mộng tưởng cả đời ta chính là thống nhất Trung Nguyên, ta thà chết cũng quyết không từ bỏ giấc mộng này!”

Tri Mạt đương lúc khẩn khiết, cao giọng chất vấn: “Vậy còn bách tính Hiên Viên thì sao? Bệ hạ hãy hỏi xem bọn họ có nguyện chết vì Trung Nguyên hay không? Họ nhất định không bằng lòng! Họ chỉ muốn sống yên ổn mà thôi!”

Hoàng Đế còn phải trông cậy vào Tri Mạt, không muốn phát sinh xung đột với ông ta về vấn đề này, nghĩ ngợi giây lát rồi hỏi: “Ngươi thấy ta có thể được coi là anh hùng chăng? Trong thiên hạ có mấy kẻ có thể sánh được với ta?”

Tri Mạt nhất thời không nhận ra ý của Hoàng Đế, chỉ biết thành thật đáp: “Bệ hạ chẳng những là anh hùng, mà còn là bá chủ thiên cổ! Xin bỏ qua cho thần cuồng vọng, thần thấy Phục Hy đại đế cũng không bì được với bệ hạ.”

Hoàng Đế lạnh lùng nhìn Tri Mạt: “Thần Nông nằm giữa Trung Nguyên, lãnh thổ mênh mông, sản vật dồi dào, địa linh nhân kiệt, hai đời Viêm Đế đều không ham chiến tranh, vậy mà vị bá chủ thiên cổ trong mắt ngươi như ta, tấn công Thần Nông còn khó khăn như vậy, ngươi cho rằng Hoàng Đế tương lai của Hiên Viên có thể làm được hơn ư?”

Bây giờ Tri Mạt mới hiểu ý Hoàng Đế, ông ta trầm ngăm hồi lâu, đoạn khó nhọc đáp: “Không thể.”

“Ngươi nghĩ cứ yên phận ở mãi miệt Tây Bắc có thể khiến bách tính an cư lạc nghiệp ư? Lỡ như Thần Nông tương lai sản sinh ra một vị Viêm Đế có hùng tâm tráng chí thì Hiên Viên bị diệt quốc chỉ là chuyện trong chớp mắt thôi. Nếu hiện giờ ta không nhổ cỏ tận gốc, nên đánh Thần Nông tới cùng, thì mấy ngàn năm nữa, sẽ tới lượt Thần Nông đánh chiếm Hiên Viên!”

Ánh mắt sắc bén của Hoàng Đế nhìn xoáy vào Tượng Võng và Ly Chu dưới thềm, “Các ngươi có bằng lòng theo ta thống nhất Trung Nguyên không?”

Tượng Võng và Ly Chu lập tức quỳ xuống, hệt như mấy ngàn năm trước, khảng khái đáp: “Chúng thần thề chết phò tá bệ hạ!”

Tri Mạt chăm chú nhìn Hoàng Đế, ông không hề tán thành mộng tưởng của Hoàng Đế, nhưng Hoàng Đế cũng là người ông tôn kính tận đáy lòng, trên thế gian này, có được mấy nam nhân can tâm xả thân vì mộng tưởng của mình đây? Lại có được bao nhiêu nam nhân ôm ấp lý tưởng vô tiền khoáng hậu như vậy?

Hoàng Đế tươi nét mặt, bước đến đứng giữa Ly Chu và Tượng Võng, cười nhìn Tri Mạt hỏi: “Ba người chúng ta đều ở đây, huynh đài, ngươi có bằng lòng ở lại, cùng chúng ta gầy dựng nên đại nghiệp oanh liệt ngàn đời chăng?”

Hơn bốn ngàn năm trước, trên Hiên Viên sơn, Hoàng Đế cũng đã hỏi Tri Mạt câu này. Vẻ mặt Tri Mạt dần dịu lại, chỉ biết lắc đầu cười khổ. Bốn ngàn măm trước, ông đã bị người đàn ông này khuất phục, bốn ngàn năm sau, ông vẫn bị người đàn ông này khuất phục. Thế nên, dù căm ghét chiến tranh, ông vẫn nguyện dốc lòng dốc sức vì ông ta. Tri Mạt lặng lẽ tiến lại, quỳ xuống trước mặt Hoàng Đế.

Hoàng Đế cười lớn, đỡ cả ba dậy, tràn trề tự tin nói: “Bốn huynh đệ chúng ta nhất định sẽ có ngày bước lên đỉnh Thần Nông sơn! Đến chừng đó, sẽ uống tràn cùng mây, ôn lại chuyện xưa, cười xem thiên hạ!” Trong phút chốc, dường như tất cả tóc bạc nếp nhăn đều biến mất, Hoàng Đế lại trở thành gã thiếu niên hào tình vạn trượng, tráng chí ngút trời năm ấy.

Hiên Viên cự tuyệt đầu hàng, không những thế, còn tuyên bố sẽ thay Thần Nông thảo phạt Xi Vưu.

Hoàng Đế chính tay thảo một bài hịch hơn ngàn từ chiếu cáo thiên hạ, liệt kê hơn trăm tội danh của Xi Vưu: độc đoán chuyên quyền, tàn bạo hiếu sát, chỉ vẻn vẹn hơn hai trăm năm đã tận diệt tám mươi bảy gia tộc trung thành son sắt, đời đời phò tá Viêm Đế, khiến năm ngàn ba trăm chín mươi sáu vị trung thần chết dưới cực hình, chưa kể vô số tội trạng khinh nhờn bề trên, hiếp đáp kẻ dưới nữa.

Hoàng Đế trùng trùng lo lắng, khẩn thiết hỏi: mới hơn hai trăm năm đã giết bấy nhiêu người, nếu Xi Vưu nắm giữ Thần Nông quốc, tương lai sẽ còn giết bao nhiêu người, tận diệt nao nhiêu gia tộc nữa đây? Đoạn lại khéo léo lái sang chỉ trích Du Võng ngu dốt bất tài, rõ ràng biết gian thần lộng quyền, vô số đại thần liều chết dâng sớ, xin biểm chức Xi Vưu, y đều phớt lờ, chẳng những không trị tội Xi Vưu, mà còn ngồi nhìn hết trung thần này tới trung thần khác chết thảm, quả là nhu nhược như đàn bà. Bởi thế, Thần Nông quốc mới sinh ra quân thân lục đục, lòng dân tan tác. Hoàng Đế lại giải bày gan ruột cùng thiên hạ: từ khi Hiên Viên lập quốc, ông nhất mực cần mẫn lo việc triều chính, chăm sóc cho bách tính, đối đãi với dân chúng Thần Nông quy hàng chẳng khác nào con dân của mình, Du Võng dung túng Xi Vưu làm nhục những bậc lương đống như Hậu Thổ, còn ông ta lại ban cho Hậu Thổ vinh hoa phú quý tương xứng với thân phận. Ông khẳng định mình không phải kẻ hiếu chiến, mà chỉ vì không đành lòng nhìn Xi Vưu tàn nhẫn giết choc, mới ra tay thay Thần Nông thảo phạt Xi Vưu.

Bài hịch của Hoàng Đế xuất hiện rất đúng thời điểm. Quân đội của Xi Vưu đã giành lại Thần Nông từ tay Hiên Viên, Hiên Viên không còn là kẻ xâm lược nữa, vô số quý tộc Thần Nông từng nắm giữ quyền hành da liền sẹo thì cũng quên cả đau, bắt đầu luyến tiếc quyền lực phú quý của mình, nhưng binh quyền đều nằm cả trong tay Xi Vưu, họ chẳng cách nào có được vinh hoa phú quý như xưa nữa, phải làm sao đây? Đúng lúc này, Hoàng Đế ra mặt thay bọn họ tru diệt Xi Vưu, còn hứa hẹn Thần Nông về sau vẫn là của họ, khiến họ mừng rỡ khôn xiết.

Vô số bô lão Thần Nông nhận được bài hịch tha thiết chân thành, văn hoa trôi chảy của Hoàng Đế, nghĩ lại những tháng ngày thê thảm luôn phải nơm nớp lo âu, sống nay chết mai sau khi Du Võng đăng cơ, thảy đều rơi nước mắt. Đám quý tộc Thần Nông luôn ôm hận với Xi Vưu, lại được thêm vô số thuyết khách của Hoàng Đế đi khắp nơi uốn ba tấc lưỡi du thuyết, phân tích lợi hại, khiến rất nhiều già trẻ lớn bé Thần Nông bắt đầu ngã theo Hoàng Đế, cho rằng Du Võng quả thật ngu dốt bất tài, nếu không phải Du Võng dung túng Xi Vưu, Thần Nông sao có thể diệt quốc? Nếu Thần Nông còn nằm trong tay Xi Vưu, bọn họ sớm muộn cũng sẽ mất mạng.

Tóm lại, bài hịch đã giúp Hoàng Đế được chính danh, đồng thời tàn hủy thanh danh Du Võng, chẳng khác nào một thứ độc dược.

Nhận được bài hịch yêu cầu đầu hàng của Hoàng Đế, Xi Vưu bưng vò rượu vừa uống vừa đọc, đọc đến đoạn kiệt kê tội trạng của mình, gương mặt hắn đầy vẻ cười cợt, chẳng buồn để tâm, nhưng khi đọc tới tội trạng của Du Võng, hắn sa sầm mặt xuống, bóp vỡ cả vò rượu bằng đồng trong tay.

Du Võng là kẻ trung hậu nhân từ nhất mà Xi Vưu từng thấy: khi Chúc Dung truy sát hắn, là Du Võng chẳng nề nửa đêm tới khẩn cầu Viêm Đế thu hồi mệnh lệnh tru diệt Xi Vưu; khi tất cả mọi người trên Thần Nông sơn đều chửi rủa hắn là cầm thú, là Du Võng đứng ra bênh vực hắn, la rầy bọn họ; khi Xi Vưu hắn nổi giận đánh bị thương tất cả mọi người, trốn khỏi Thần Nông sơn, là Du Võng suốt đêm đuổi theo, ở bên hắn mấy ngày mấy đêm; khi Xi Vưu cô độc phẫn nộ ở cấm địa Thảo Ao lĩnh, là Du Võng trộm rượu đem lên núi cho hắn.

Suốt mấy trăm năm, Du Võng tự hồ một vị huynh trưởng ôn hòa nhẫn nãi, đã khiến cho một kẻ hung hăng tàn bạo như Xi Vưu cảm nhận được thế nào là tình người.

Sau khi Viêm Đế qua đời, vô số người từng tấu trình lên Du Võng, ngay cả Vân Tang cũng e ngại Xi Vưu một tay nắm giữ bình quyền, sợ rằng sau này sẽ soán ngôi đoạt vị, chỉ mình Du Võng chưa hề nghi ngờ mảy may.

Tuy ngoài miệng chưa từng thừa nhận, nhưng trong lòng Xi Vưu, Du Võng chính là huynh trưởng của hắn, là người duy nhất khiến hắn tin rằng trên đời này thật sự còn có thiện lương. Vậy mà giờ đây, vị quân vương thiện lương nhân hậu, một lòng lo lắng cho bách tính Thần Nông lại bị Hoàng Đế đảo lộn đen trắng, thả sức vu khống như vậy.

Phong Bá lẩm bẩm: “Sao đọc bài hịch này, ta lại thấy mình đúng là tội nặng như núi thế nhỉ? Cứ như là gian thần tặc tử soán vị đổi ngôi ấy.”

Vũ Sư giải thích: “Đó là nguyên nhân vì sao bậc đế vương thông minh dù hùng mạnh đến đâu cũng không thể dựa vào vũ lực mà lập quốc được. Vũ khí chỉ chinh phục được thân thể, văn tự và ngôn ngữ mới chinh phục được con người.

“Chúng ta tính sao đây? Lẽ nào định đầu hàng Hoàng Đế?”

Vũ Sư xuất thân thế gia, đương nhiên hiểu rõ mấy chuyện tranh quyền đoạt lợi, bèn nói: “Đám chư hầu quý tộc Thần Nông vừa hận vừa sợ chúng ta, hiện giờ dù chúng ta từ bỏ binh quyền, chúng cũng suy bụng ta ra bụng người, đời nào chịu tin tưởng, sớm muộn ắt sẽ giết sạch chúng ta mà thôi. Huống hồ, nếu quy hàng Hoàng Đế, ông ta nhất định sẽ chém đầu Xi Vưu để lấy lòng đám quý tộc Thần Nông. Chúng ta đã lâm vào đường cùng rồi, chỉ còn cách duy nhất là đánh bại Hoàng Đế mà thôi. Đến khi giành được thắng lợi, chúng ta có thể muốn gì nói đó, kẻ thất bại chẳng có tư cách lên tiếng, những gì được lưu truyền cho hậu thế, đều là tiếng nói của người thắng cuộc.”

Phong Bá lại hỏi: “Lỡ như thất bại thì sao?”

“Thì chúng ta sẽ vĩnh viễn là quân gian thần tặc tử theo lời Hoàng Đế.” Vũ Sư nhìn Xi Vưu, lòng đầy thấp thỏm, chẳng rõ hắn đang nghĩ gì.

Phong Bá chợt vỗ đùi đánh đét: “Mẹ nó, không thể để tiếng thơm ngàn đời thì lưu tiếng thối muôn thuở cũng hay, dù gì ông đây cũng sảng khoái mà sống, mặc xác kẻ khác nói gì!”

Bọn Si Mỵ Võng Lượng đua nhau hùa theo: “Phải rồi, phải rồi.”

Phong Bá trịnh trọng bảo Xi Vưu: “Xưa nay ta hành sự không thẹn với lương tâm, mà đầu hàng chính là nhận sai, dù có giết ta, ta cũng nhất định không đầu hàng Hoàng Đế. Ta đã theo huynh mấy trăm năm, Du Võng đối với chúng ta ra sao, ta đều ghi nhớ trong lòng, chúng ta quyết không thể để Hoàng Đế nhục mạ huynh đệ mình như vậy được. Xi Vưu, huynh hạ lệnh đi!”

Xi Vưu đưa mắt nhìn tất cả huynh đệ đi theo mình, bọn họ đang lũ lượt quỳ xuống, chăm chú đổ dồn ánh mắt về phía hắn.

Đối mặt với tám mươi mốt cặp mắt rừng rực nhiệt huyết, cam nguyện vì mình mà hiến dâng tính mạng, Xi Vưu bật cười lớn, tiếng cười phảng phất vẻ bất lực và chua xót. Hắn dõi mắt nhìn về hướng Hiên Viên quốc, một lúc lâu sau mới cao giọng ra lệnh: “Chuẩn bị toàn lực tấn công Hiên Viên quốc, chừng nào Hoàng Đế chịu đầu hàng, tạ tội với Du Võng, bấy giờ mới ngừng tấn công.”

Quân đội của Hiên Viên liên tiếp thất bại trước đại quân của Xi Vưu.

Chẳng những Hiên Viên và Thần Nông chiến hỏa liên miên mà Cao Tân cũng chẳng được thái bình. Trung Dung bị giam trên đảo hoang bỗng nhiên biến mất, mấy tháng sau, đã thấy y tự xưng vương ở mé Tây Cao Tân, tuyên bố thảo phạt Thiếu Hạo.

Binh lực Thần tộc của Cao Tân có tổng cộng bốn bộ, Thanh Long bộ là đích hệ của Thiếu Hạo, Hy Hòa bộ đã quy thuận Thiếu Hạo từ lâu, còn hai bộ Thường Hy và Bạch Hổ do hai anh em Trung Dung nắm giữ, sau khi Tuấn Đế đời trước qua đời, Thiếu Hạo sợ hai bộ này dấy binh nổi dậy nên ra sức thanh trừng bọn họ. Nhưng quan hệ mắc míu phức tạp mấy vạn năm, nào phải một sớm một chiều mà cắt đứt được ngay, lúc này dưới sự hiệu triệu của Trung Dung và mấy vương tử khác, lấy cái chết đáng ngờ của Tuấn Đế làm cớ dấy binh, hai bộ này liền tuyên bố chỉ thừa nhận Trung Dung, không thừa nhận Thiếu Hạo. Thiếu Hạo đụng phải nội loạn, đành kết minh với Hiên Viên Hoàng Đế, hứa hẹn sẽ chi viện binh sĩ Thần tộc cho Hiên Viên khi cần, cùng nhau thảo phạt Xi Vưu, tiếc rằng Hiên Viên vẫn thất bại liên tiếp, không cách nào cứu vãn được.

Xi Vưu thế như chẻ tre, một đường đánh thẳng đến Hắc thủy. Trong Hiên Viên thành, khắp nơi đều là bách tính chạy nạn, lòng dân hoang mang, râm ran đồn đại rằng đại quân Xi Vưu chẳng mấy chốc sẽ đánh đến Hiên Viên thành.

Trong Thượng Viên cung, Tri Mạt, Ly Chu, Tượng Võng, mấy cận thần bên cạnh Hoàng Đế, cùng Hiên Viên Hưu, Hiên Viên Thương Lâm, mấy viên đại tướng đang bàn bạc kế sách đối phó với Xi Vưu, Hoàng Đế ngả người trên sập, Chuyên Húc đứng bên cạnh, đều đang bình thản lắng nghe.

Hiên Viên Hưu và Hiên Viên Thương Lâm đều không dám hỏi thẳng Hoàng Đế, cứ liên tục ra hiệu cho Ly Chu, Ly Chu đành tâu: “Chúng thần nhiều lời như vậy, nhưng quyền quyết định cuối cùng vẫn phải trông vào bệ hạ.”

Bấy giờ Hoàng Đế mới chậm rãi nói: “Từ sau trận Phản Tuyền, chúng ta thất bại liên tiếp là lẽ thường, bởi binh bại như núi đổ, thủ đoạn của Xi Vưu lại nham hiểm độc ác. Chẳng những binh sĩ sợ hắn, mà ngay cả các ngươi từ sâu thẳm đáy lòng cũng sợ hắn, trong các ngươi kẻ nào dám nói mình không sợ Xi Vưu?”

Ánh mắt Hoàng Đế quét qua khắp lượt những kẻ có mặt trong điện, Tượng Võng đỏ bừng mặt, bọn Hiên Viên Hưu nhất loạt cúi gầm đầu, Hoàng Đế lại nói: “Hiện giờ cách duy nhất để xoay chuyển cục thế là phải đánh thắng một trận, có vậy mới chấn hưng được sĩ khí, giải trừ được nỗi sợ hãi trong lòng các ngươi.”

Mọi người nghe nói đều gật đầu hưởng ứng, Tri Mạt tâu: “Nhưng muốn thắng được, cần có một viên đại tướng không sợ Xi Vưu.”

Mọi người trong điện lại nhìn nhau, ai nấy đều ngẩn người ra, các đại tướng có thể cầm quân trong Hiên Viên tộc đều ở đây cả rồi.

Quen biết đã lâu, Hoàng Đế hiểu Tri Mạt trầm mặc kiệm lời nhưng lời nói ra luôn có ẩn ý, bèn xua tay ra hiệu, “Các ngươi lui xuống trước đi.”

Trong đại điện chỉ còn lại Tượng Võng, Ly Chu và Tri Mạt.

Hoàng Đế lại quay sang bảo Ly Chu: “Nói cho Tri Mạt biết chuyện của Trung Dung đi.”

Thấy Ly Chu đưa mắt nhìn Chuyên Húc, Hoàng Đế lại phán: “Không cần kiêng kỵ nó.”

Ly Chu bắt đầu thuật lại: “Nhiều năm trước, Tuấn Đế qua đời, Thiếu Hạo hạ lệnh giam cầm Trung Dung, Hoàng Đế liền sai ta bí mật liên hệ với Trung Dung, dốc sức giúp hắn truyền tin ra ngoài. Sau khi Hoàng Đế bị Xi Vưu đánh trọng thương, việc đầu tiên ngài giao phó cho ta, chính là bằng mọi giá giúp Trung Dung vượt ngục. Chúng ta đã hy sinh hơn một trăm cao thủ tuyệt đỉnh được huấn luyện từ nhỏ mới có thề giúp y trốn thoát. Sự việc về sau các ngươi đều đã biết, Trung Dung dấy binh tự lập làm vương. Có lẽ Thiếu Hạo cũng đoán được chúng ta âm thầm giúp đỡ Trung Dung, nên cực chẳng đã mới phải từ bỏ thế trung lập, kết minh với chúng ta, hứa sẽ cho mượn binh sĩ Thần tộc, cùng đối phó Xi Vưu.”

Tượng Võng và Tri Mạt biết Hoàng Đế đa mưu túc trí nên tuy bất ngờ nhưng không đến nổi kinh ngạc, chỉ riêng Chuyên Húc rúng động nhìn ông nội, thì ra đi một nước cờ lại phải tính toán nhiều năm như vậy, con cờ kẻ khác vứt bỏ vẫn có thể trở thành tuyệt chiêu của mình.

Hoàng Đế bình thản nói: “Hiện giờ nhìn bề ngoài Hiên Viên có vẻ rất gay go, nhưng thực ra cũng chưa có gì đáng ngại. Xi Vưu cương mãnh thật đấy, nhưng cương quá thì dễ gãy, mãnh quá lại dễ tổn thương. Tốc chiến tốc thắng thì ăn thua nhau ở chỗ quân đội dũng mãnh, nhưng kháng chiến trường kỳ phải trông vào quốc lực tài phú. Dù sao Thần Nông cũng đã mất nước, bách tính ly tán, tiền tài tập trung cả trong tay đám quý tộc, mà bọn này đa phần đều quy thuận chúng ta, chỉ còn lại mấy tên cứng đầu cứng cổ chủ trương tự lập, cũng chẳng chịu hợp tác với Xi Vưu, bởi vậy Xi Vưu không lấy đâu ra được nguồn tài lực lâu dài. Hắn am tường binh pháp, hắn cũng hiểu việc này nên luôn dùng thủ đoạn đẫm máu để đẩy nhanh tiến độ, trận nào trận nấy đều muốn đánh nhanh thắng nhanh là vì vậy.”

Bấy giờ người trong đại điện mới phần nào hiểu được Xi Vưu, thì ra sự hung tàn hiếu sát của hắn là có nguyên nhân, đồng thời cũng là một cách dùng binh.

Hoàng Đế lại nói: “Xi Vưu nhờ hung tàn mà đánh bại Hiên Viên, nhưng cũng khiến thiên hạ kinh hãi, quân đội và bách tính Hiên Viên đều căm hận hắn, chúng ta chỉ cần đánh thắng một trận, vãn hồi lại nhân tâm đang rối loạn, tức thì có thể xoay chuyển tình thế, biến thù hận thành sĩ khí. Chỉ một trận thắng thôi!”

Mấy người trong đại điện vốn đã tuyệt vọng, nghe những lời này lại thấy hy vọng le lói, kích động dồn mắt về phía Hoàng Đế.

Hoàng Đế nhìn Chuyên Húc, mỉm cười nói: “Số mệnh con người nói đến cùng, đều do tự mình quyết định cả. Lần trước ta thua, thật ra không phải thua Xi Vưu, mà là thua trước tính cách của mình. Lần này nếu Xi Vưu thua, cũng không phải là thua ta, mà là thua trước tính cách của hắn đó thôi.”

Chuyên Húc thầm kinh sợ, hiểu rằng Hoàng Đế đang dạy bảo mình, cậu nhóc bèn nhẩm đi nhẩm lại, nghiền ngẫm lời dạy của ông.

Tượng Võng ồm ồm cất tiếng: “Vừa rồi ông định ám chỉ viên đại tướng nào không sợ Xi Vưu?”

Tri Mạt đáp: “Ứng Long, xin bệ hạ phái người mời Ứng Long về.”

Ly Chu chen vào: “Đã phái rất nhiều người đi rồi, nhưng y đều từ chối.”

Tri Mạt giải thích: “Các ông không phái đúng người, Yêu tộc trọng nghĩa khí, Ứng Long cũng vì thế mà rời bỏ Hiên Viên, muốn mời y quay lại, tự nhiên cũng phải bắt đầu từ đây, ông nên nhờ vương cơ đi mời Ứng Long về mới được.” Nói rồi, Tri Mạt thầm kinh ngạc, nói về thu phục nhân tâm, trong thiên hạ không ai hơn được Hoàng Đế, chuyện ông ta nhìn thấu được, lẽ nào Hoàng Đế lại nhìn không ra? Tại sao Hiên Viên liên tiếp thất bại, lũ lụt khắp nơi mà Hoàng Đế không vời Ứng Long?

Bắt gặp ánh mắt hờ hững của Hoàng Đế, Tri Mạt lập tức cúi đầu, chỉ nghe Hoàng Đế nói: “Ứng Long đúng là mãnh tướng, nhưng thân phận của y không hợp làm chủ soái, không thể khiến ba quân cúi đầu tuân theo. Chúng ta nhất định phải tìm một người vừa danh chính ngôn thuận, lại vừa có thể khiến Ứng Long kính phục để làm chủ soái.”

Tượng Võng nôn nóng hỏi: “Phải tìm ai đây? Xem ra chỉ mình Thanh Dương điện hạ là phù hợp, nhưng điện hạ đang bị trọng thương.”

“Con gái ta, Hiên Viên vương cơ – Hiên Viên Bạt.”

Ly Chu và Tượng Võng đưa mắt nhìn nhau, đều nghĩ tới Luy Tổ. Mấy người con của Luy Tổ tuy tính tình khác biệt, nhưng đều được hưởng thiên phú từ cha mẹ, rất giỏi cầm quân đánh trận, ngay đến Xương Ý tính tình hòa nhã cũng là tướng tài thiên bẩm.

Hoàng Đế lại nói: “Con nhỏ A Hành có phần giống ta và A Luy thời trẻ, tiếc rằng chẳng có được hùng tâm tráng chí như cha mẹ khi xưa. Nếu chẳng phải lần này ta bất ngờ bị thương, phải nhờ vào y thuật của nó mới kéo dài mạng sống, e rằng nó đã rời khỏi Hiên Viên từ lâu rồi. Trong mắt nó, ta không phải người cha tốt, nếu ta hạ lênh cho nó cầm quân ra trận, nhất định nó sẽ cự tuyệt. Nếu bức bách quá, có lẽ nó sẽ trực tiếp chiếu cáo thiên hạ, đoạn tuyệt tình cha con với ta, như trước đây từng làm với Thiếu Hạo không chừng.”

Nghĩ đến ân oán mấy ngàn năm giữa Luy Tổ và Đông Ngư thị, Ly Chu và Tượng Võng không nén được tiếng thở dài: “Vậy phải làm sao mới thuyết phục được vương cơ đây?”

Hoàng Đế đưa mắt nhìn Tri Mạt: “Ông có thể thuyết phục nó.”

Tri Mạt làm thinh không đáp.

Hoàng Đế lại nói: “Không phải ta muốn ép buộc con gái mình, nhưng giữa ta và Xi Vưu, giữa Hiên Viên và Thần Nông chỉ có một bên được sống mà thôi. Cái họa vong quốc diệt tộc đã rành rành trước mắt, chúng ta còn đường nào để đi đây? Tri Mạt, lẽ nào ngươi quên nỗi đau như cắt mình từng trải qua rồi ư? Lẽ nào ngươi muốn con dân Hiên Viên cũng phải chịu đọa đầy đau đớn như vậy ư? Lẽ nào ngươi quên chúng ta vì cái gì mà lập nên Hiên Viên quốc rồi ư?

Tri Mạt ngẩng phắt lên, chằm chằm nhìn thẳng vào mắt Hoàng Đế, đêu bên đều nhận ra đối phương đã đi guốc vào bụng mình. Hoàng Đế hiểu Tri Mạt đã phát giác ra mưu kế của mình, Tri Mạt cũng hiểu Hoàng Đế đã nhận ra ông ta phát giác. Nhưng Hoàng Đế chẳng hề lo lắng, bởi ông đã dùng Tri Mạt đến đường cùng, thuật chế ngự lòng người của Hoàng Đế, quả là vô địch thiên hạ.

Một hồi lâu, Tri Mạt quỳ sụp xuống, “Thần sẽ đi thuyết phục vương cơ.”

Một phong thư lạ hoắc được đưa lên Triêu Vân phong, nói là gửi cho vương cơ, nhưng trên thẻ trúc lại chẳng ghi gì ngoài một dòng địa chỉ, quay sang hỏi A Hành: “Vương cơ có bạn bè gì ở đó chăng?”

A Hành lắc đầu: “Không có.”

Chu Du nghe nói liền quăng tấm thẻ trúc lên án thư, nào ngờ bên trong lại rơi ra một mảnh vải rách: “Ồ, cái gì đây? Hình như là thư tuyệt mệnh dùng máu viết thành đó.”

A Hành vội cầm lên xem. Vết máu đã ngả nâu, nhưng sức mạnh sụt sôi giữa từng nét chữ vẫn phả vào rát mặt.

Bao nhiêu năm đã trôi qua, nhưng cảnh tượng bi tráng ngày ấy vẫn rõ mồn một trong trí nàng như mới hôm qua. Một trăm chiến sĩ Hiên Viên tộc xé quần áo trên người lấy vải, dùng máu mình viết thư vĩnh biệt gửi người thân, rồi xông thẳng vào Tuân Sơn, sau cùng, kẻ bị giết, người chôn thân trong biển lửa. Chính bọn họ đã dùng tuổi xuân của mình đổi lấy tính mạng cho Xương Phó và bốn ngàn dũng sĩ Nhược Thủy tộc.

A Hành định thần xem lại, thấy phong thư này ký tên Nhạc Uyên. Nàng còn nhớ gã thiếu niên đó, kẻ đầu tiên đứng ra khẳng khái tâu trình, ổn định lòng quân; kẻ đầu tiên xông vào Tuân Sơn, bình thản đón nhận cái chết; sau cùng còn can đảm buông tay không kháng cự, dốc toàn bộ linh lực hóa thành tín hiệu cảnh báo với nàng, chỉ rõ phương hướng của Chúc Dung, bằng không, e rằng cả nàng và Xi Vưu cũng không tránh khỏi cái chết.

Một thiếu niên như thế lại hy sinh âm thầm lặng lẽ nhường kia, vĩnh viễn chẳng thể được người đời ghi nhớ và ca tụng như Chúc Dung, nhưng chính những thiếu niên dũng mãnh vô danh ấy, mới chèo chống được quốc gia này.

A Hành vội gọi A Tệ hạ sơn, theo địa chỉ ghi trên thư mà tìm đến.

Quân đội của Xi Vưu đã tiến đến Hắc thủy. Để tránh chiến hỏa, dân chúng đua nhau đổ dồn về phía Tây, ngoài Hiên Viên thành đầy những dân chạy loạn, họ không có tiền ở khách điếm, cũng không có bạn bè người thân để nương nhờ, đành phải sống cảnh màn trời chiếu đất. Ban ngày trời ấm áp, kể cũng không tới nỗi nào, nhưng ban đêm trời lạnh thấu xương, những người này ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, lại lặn lội đường xa tới đây, đa phần đều không gắn gượng nổi mà bỏ mạng. Không có nghĩa địa, xác họ được vùi ngay tại chỗ.

Đám nhỏ còn chưa biết thế nào, đau khổ, vẫn ôm bụng đói nô đùa ầm ĩ, chạy nhãy giỡn hớt giữa những nấm mồ, nhưng tiếng cười rộn rã chẳng bợn ưu sầu của chúng chỉ càng làm nổi bật cái gọi là nhân thế vô tình.

A Hành trông thấy một bé gài cao xấp xỉ Tiểu Yêu đang thẫn thờ đứng trước một nấm mồ, bèn tiến lại. Cô bé ngẩng lên trông thấy A Hành, lẩm bẩm nói: “Đói quá.”

“Cha cháu đâu?”

“Đi đánh trận rồi.”

“Thế còn mẹ?”

Bé trỏ nắm đất trước mặt, ngây thơ đáp: “Mẹ đang ngủ bên dưới.”

A Hành xót xa ẵm đứa nhỏ lên, nhìn khắp sườn đồi đều là những kẻ rách rưới bần hàn, nàng chợt thấy choáng váng không sao chịu nổi, lẽ nào đây là Hiên Viên mỹ lệ nơi nàng sinh ra và lớn lên ư?

Tri Mạt bước lại gần, đưa cho bé gái một tấm bánh.

“Cám ơn ông.” Bé cẩn thận bẻ tấm bánh thành hai phần, nhét một nửa vào ngực áo, còn mình chỉ ăn một nửa.

Tri Mạt thắc mắc: “Sao cháu chỉ ăn một nửa?”

“Một nửa đề dành cho mẹ cháu, mẹ cũng đói lắm.”

Tri Mạt cười gượng: “Ngoan quá, cháu cứ ăn đi, khi nào mẹ cháu tỉnh dậy, ông lại mua cho hai mẹ con cái khác.”

“Thật không?”

“Thật mà.”

Bấy giờ cô bé mới hớn hở lấy nửa tấm bánh kia ra ăn ngấu nghiến.

A Hành đã làm mẹ, trông thấy cô bé như vậy, lòng lại càng đau xót khôn tả. Trên ngọn núi này còn bao nhiêu đứa nhỏ thế này? Trên toàn Hiên Viên còn bao nhiêu đứa nhỏ thế này nữa?

Nhìn đám người trên sườn núi, vẻ mặt Tri Mạt đầy đau xót: “Vương cơ chưa từng trải qua cảnh nghèo hèn loạn lạc, nhưng thần từ nhỏ đã lênh đênh lưu lạc, nếm đủ đắng cay, mới hiểu thế nào là: thà làm chó thời bình, hơn làm người thời loạn.”

A Hành nhìn quanh, “Dù khi trước chưa hiểu, thì giờ cũng hiểu rồi.”

“Thần dùng bức thư kia dẫn dụ vương cơ tới đây, vốn đã chuẩn bị rất nhiều lời để thuyết phục, nhưng giờ lại chẳng thốt nổi ra miệng. Xưa nay thần vẫn không ủng hộ bệ hạ tấn công Thần Nông, hay nói khác đi là không ủng hộ khát vọng thống nhất Trung Nguyên của bệ hạ, bởi vậy trước trận Phản Tuyền lần thứ nhất, thần đã rời khỏi Hiên Viên thành, ẩn cư tại Đồng Nhĩ sơn. Nhưng sau trận Phản Tuyền lần thứ hai, Hoàng Đế lâm nguy, thần lại quay về Hiên Viên thành, giúp bệ hạ chèo chống Hiên Viên, không phải vì nể tình cũ giữa đôi bên, mà vì những người dân đang sống trên mảnh đất Hiên Viên này. Vương hậu đã dốc hết tâm sức, giúp bệ hạ lập nên Hiên Viên quốc này, không phải chỉ vỉ bệ hạ, mà bởi vương hậu cũng giống như thần, đều muốn xây dựng một nơi mà dân đen, dân lưu lạc và Yêu tộc bị kỳ thị hắt hủi đều có thể sống bình đẳng cùng nhau. Dưới sự mỗ lực của mọi người, cuối cùng Hiên Viên quốc đã thật sự trở thành một nơi như thế. Có lẽ vương hậu hối hận vì đã yêu bệ hạ, nhưng thần tin rằng, xưa nay bà chưa hề hối hận vì tất cả những gì đã bỏ ra cho Hiên Viên quốc.”

A Hành rút bức huyết thư trong ngực áo ra: “Sao bá bá lại có thứ này? Năm đó, con vốn định đích thân đem những bức thư này tới tay người nhà bọn họ, nhưng Tứ tẩu đột ngột qua đời, rồi mẫu hậu lại ngã bệnh, con đành phải phái thị vệ đi đưa giùm.”

Tri Mạt cười bình thản, nhưng nét mặt lại thê lương khôn xiết: “Đó là thư con trai thần gửi lại, lúc đó thần đang ẩn cư tại Đồng Nhĩ sơn, nên địa chỉ nó ghi cũng là Đồng Nhĩ sơn.”

A Hành sững người, mắt long lanh nước: “Bá bá.”

Tri Mạt vỗ vai nàng, “A Hành, khắp Hiên Viên quốc đâu đâu cũng có những chiến sĩ giống như con trai ta. Có lẽ cha của đứa nhỏ kia cũng vậy, có điều y còn bất hạnh hơn, chẳng có cơ hội để lại cho người thân một phong thư vĩnh biệt nữa. Ít ra, ta còn biết được con trai mình chết tại Tuân sơn, có thể đi Tuân sơn bái tế, nhưng đứa nhỏ này ngay cả cha mình hy sinh ở chốn nào cũng không biết. Nếu cuộc chiến này cứ thế kéo dài, sẽ còn bao nhiêu người cha phải hy sinh? Còn bao nhiêu người mẹ phải ôm hận chết đi? Còn bao nhiêu đứa nhỏ phải chết đói? Con đã là mẹ, hẳn cũng hiểu được nỗi lòng người mẹ, không thể bảo vệ cho con mình, không thể trông thấy con mình lớn lên bình an, đồi với người làm mẹ, là điều tàn khốc đến độ nào.”

“Phải làm sao mới có thể chấm dứt chiến tranh?”

“Đã đi đến bước này, chỉ còn cách lấy chiến tranh để chấm dứt chiến tranh thôi. Bá bá biết con chất chứa rất nhiều nỗi khổ trong lòng, càng biết con không muốn cầm quân đánh trận, nhưng ta tin nếu vương hậu còn tại thế, chứng kiến thảm cảnh hiện giờ, cũng sẽ nói rằng: con là vương cơ của Hiên Viên, những đứa trẻ này, những người mẹ này đều là con dân của con, con có trách nhiệm phải bảo vệ họ.”

A Hành nhìn cô bé trong lòng mình, lặng thinh không đáp. Trước mắt nàng lại hiện lên dáng hình cùng gương mặt khẳng khái quyết tử của Nhạc Uyên, rồi bóng dáng ấy dần dần tan nhòa ra, hòa lẫn với bóng dáng một nam tử không rõ mặt mày, đó là cha của cô bé, y đang nhìn nàng đầy cầu khẩn.

Tri Mạt giơ tay ẵm lấy cô bé đang thiêm thiếp trong lòng A Hành: “Chuyện này cứ để thần lo, vương cơ nên đi làm những việc mình không thể không làm đi.”

A Hành lặng lẽ nhìn đám người bần hàn khốn khổ nhan nhãn khắp sườn núi, ánh mắt toát lên vẻ bi thương khôn tả xen lẫn tuyệt vọng cực cùng. Tri Mạt cũng chẳng giục giã nàng. Một hồi lâu sau, A Hành rảo bước chảy thẳng xuống núi, mới nghe tiếng Tri Mạt gọi với đằng sau: “Ứng Long đang ở Hà thủy.”

A Hành bước vào Triêu Vân điện đúng lúc Hoàng Đế đang dạy Chuyên Húc học, bài hịch chính là một đoạn hịch ông viết gửi Xi Vưu cũng như toàn thiên hạ.

Mặt trời đang chính ngọ mà không phơi phóng, chính là để lỡ thời cơ, cầm dao mà không cắt, chính là để lỡ thời điểm thuận lợi, cầm búa mà không công phạt, kẻ xấu sẽ tràn đến. Mạch nước nhỏ mà không ngăn chặn, sẽ hội tụ thành sông suối, đốm lửa nhỏ mà không dập, sẽ bùng lên thành ngọn lửa ngút trời, cái mầm mới nhú mà không trừ, ngày sau sẽ trở thành cây đại thụ.

Chuyên Húc hỏi: “Vậy vẫn phải động võ ư? Hôm qua ông dạy cháu rằng: lấy đức thu phục thiên hạ mới là thượng sách, không nên tùy tiện động võ kia mà?”

Hoàng Đế đưa mắt nhìn A Hành, đáp: “Có lúc chiến tranh đã nổ ra thì chẳng còn đúng sai phải trái gì nữa, cách duy nhất để chấm dứt chính là dùng vũ lực để kiềm chế vũ lực, dùng chiến tranh để chấm dứt chiến tranh.”

A Hành bước đến trước mặt Hoàng Đế, “Phụ vương ủy thác cho Tri Mạt bá bá tới thuyết phục con ư?”

“Phải.”

“Con bằng lòng cầm quân ra trận không phải vì phụ vương, phụ vương có ngày hôm nay đều là tự làm tự chịu! Nếu Hiên Viên chỉ là của riêng phụ vương thì dù nó có bị hủy diệt cũng chẳng liên quan gì đến con hết. Tiếc rằng Hiên Viên quốc không chỉ thuộc về một mình phụ vương, mà còn là tâm huyết cả đời của mẹ, cùng những người như Tri Mạt bá bá, còn là của vô số chiến sĩ Hiên Viên đã hy sinh, hơn nữa, còn là của toàn thể trăm họ Hiên Viên.”

Hoàng Đế đáp: “Ta hiểu.”

“Khi Tứ ca bị vây ở Tuân sơn, con van nài Thiếu Hạo cho mượn binh, ngỡ rằng y sẽ nể mặt Đại ca mà chấp thuận, nào ngờ y vẫn cự tuyệt. Sau đó… hẳn phụ vương cũng biết rồi, Xi Vưu đã đến, tuy hắn có lòng muốn giúp con, nhưng chỉ có thể cho con một nửa sức mạnh của hắn mà thôi. Cuối cùng quân sĩ Hiên Viên tộc để cứu những huynh đệ khác đã dốc hết tâm sức, chẳng nề hy sinh bản thân. Lúc bấy giờ con mới hiểu được ý nghĩa thật sự của huyết mạch thân tộc, của gia quốc tử dân: chính là dù ta không biết ngươi, nhưng ta nguyện chết để bảo hộ cho ngươi! Mới đây, con vừa biết được Nhạc Uyên, con trai duy nhất của Tri Mạt bá bá cũng hy sinh ở Tuân sơn. Khắp Hiên Viên quốc, đâu đâu cũng có những binh sĩ như Nhạc Uyên vậy, nếu Hiên Viên quốc bị diệt, người nhà của họ sẽ phải lầm than khổ sở, người già không ai phụng dưỡng, trẻ nhỏ chẳng chốn nương nhờ. Trước đây, con không hiểu được tại sao Tứ ca lại cam tâm chịu chết, chẳng phải Tứ ca rất yêu Tứ tẩu đấy sao? Lẽ nào huynh ấy nhẫn tâm bỏ lại Chuyên Húc vẫn còn trứng nước? Nhưng hiện giờ con đã hiểu tâm trạng Tứ ca rồi, Nhạc Uyên cùng các huynh đệ bọn họ không phụ con, con cũng không thể phụ lòng bọn họ!”

Nói đoạn, nàng quỳ xuống trước mặt Hoàng Đế, “Phụ vương, con sẽ bảo hộ Hiên Viên cho Người, đổi lại, Người có thể bảo vệ Chuyên Húc không?”

Hoàng Đế nghiêm trang đáp: “Ta xin thề trước giang sơn xã tắc, không để bất cứ ai làm hại Chuyên Húc, ta sẽ dốc lòng dạy dỗ nó, những gì con bảo vệ, ngày sau đều thuộc về Chuyên Húc tất cả.”

Được lời này của Hoàng Đế, A Hành chẳng còn gì vướng bận, nàng kính cẩn dập đầu ba cái rồi dắt Chuyên Húc đi thẳng ra ngoài.

Tiểu Yêu đang chán nản ngồi đánh đu một mình, trông thấy mẹ và Chuyên Húc tiến lại, liền sáng mắt lên, nhảy ngay xuống chạy về phía hai người.

A Hành hai tay dắt hai đứa nhỏ, “Chúng ta đi thăm bà và bác đi.”

Dọc đường đi, mặc cho Tiểu Yêu ríu ra ríu rít, Chuyên Húc chỉ cắn môi làm thinh. Đến trước mộ, Chuyên Húc và Tiểu Yêu đều quỳ xuống dập đầu hành lễ.

A Hành ôm lấy Chuyên Húc, dặn dò: “Bà không muốn chôn ở Hiên Viên, trước lúc chết có trăn trối, muốn được đưa về chôn ở Thanh Long Chi Thủ, quê cũ của bà. Nhưng bà là vương hậu, ông nội con không chấp thuận đưa về an táng ở quê nhà. Có lẽ cô cô cũng không kịp thực hiện tâm nguyện này của bà, con giúp cô cô được không? Sau này, nếu con có thể làm chủ, nhớ đưa bà nội về chôn tại Thanh Long Chi Thủ, bất kể kẻ khác ngăn cản thế nào, cũng không được hợp táng ông nội và bà nội[1].”

[1] Lăng mộ của Hoàng Đế nằm ở vùng Trung Nguyên xưa, căn cứ theo ghi chép “Luy Tổ thánh địa bỉ” thời đường, Luy Tổ được chôn ở Thanh Long Chi Thủ, nằm trong địa giới nước Thục xưa, theo lời trăn trối trước lúc lâm chung, mộ phần của Hoàng Đế và vương hậu cách nhau ngàn dặm. Sau này, cháu là Chuyên Húc sửa lại hành cung của Hoàng Đế thành Luy Hiên cung, ngàn đời cúng tế, để Luy Tổ được hưởng mọi thứ tôn quý nhất.

Chuyên Húc nghiêm trang gật đầu: “Vâng, con nhất định sẽ thực hiện tâm nguyện của bà nội, quyết không để ông nội và bà nội hợp táng.”

A Hành lại ôm Tiểu Yêu vào lòng: “Tiểu Yêu, mai mẹ sẽ dẫn con đến một chỗ này.”

“Đến đâu cơ?”

“Nơi mẹ từng sống. Ở đó có rất nhiều đào, đẹp lắm, bốn mùa đều nở hoa rực rỡ.”

“Ca ca đi cùng chứ?”

“Ca ca có việc của ca ca không thể đi cùng con được.”

“Vậy mình đi bao lâu hả mẹ?”

A Hành không đáp, chỉ mỉm cười nói: “Các con đi chơi đi, mẹ muốn ngồi lại với bà và bác một lát.”

Tiểu Yêu làm mặt quỷ với Chuyên Húc rồi tung tăng chạy đi hái hoa. Chuyên Húc vẫn ngồi yên tại chỗ, “Cô cô phải cầm quân ra trận thật ư?”

“Ừm.”

“Nguy hiểm lắm phải không ạ?”

“Ta không biết nữa.”

“Không đi không được ư?”

Thấy A Hành lắc đầu, Chuyên Húc rớm rớm nước mắt, “Sao cô cô phải đưa Tiểu Yêu đi? Không để muội muội ở lại đây được ư? Con sẽ chăm sóc cho muội ấy mà.”

A Hành đặt hai tay lên vai Chuyên Húc: “Ta biết con là một vị ca ca tốt! Nhưng con còn nhỏ, nhiệm vụ bây giờ của con là học tập, ông nội đã thề trước giang sơn xã tắc rằng sẽ chăm sóc cho con, ta không phải lo cho an nguy của con nữa. Thân thế Tiểu Yêu khác với con, sau này có thể sẽ có rất nhiều người muốn giết nó, e rằng còn liên lụy cả đến con, nên ta phải đưa nó đến một nơi tuyệt đối an toàn.”

“Con không sợ liên lụy đâu.”

A Hành cười, dỗ dành Chuyên Húc: “Nhưng hiện giờ ngay cả năng lực bảo vệ mình con cũng chưa có, làm sao bảo vệ Tiểu Yêu cho được. Chỉ can đảm thôi thì không đủ đâu con.”

Chuyên Húc siết chặt nắm tay, lồng ngực nhỏ bé phập phồng mãnh liệt, hồi lâu mới nghẹn giọng hỏi: “Vậy bao giờ muội muội có thể trở về?”

“Chắc là nhanh thôi.” A Hành trầm ngâm giây lát rồi gượng cười: “Khi nào con có đủ năng lực bảo vệ nó.”

Chuyên Húc cúi đầu, buồn buồn, “Con hiểu rồi.” Dứt lời, cậu nhóc nhanh chóng quẹt tay lau khô nước mắt, quay ngoắt người chạy đi.

Tiểu Yêu đứng giữa đồng hoa vẫy tay với Chuyên Húc, “Ca ca, ở đây này.”

Chuyên Húc chạy đến bên cô bé: “Muội thích hái hoa gì? Để ta hái cho.”

Tiểu Yêu nghiêng đầu, ngạc nhiên nhìn cậu nhóc. Xưa nay, Chuyên Húc rất khắc khổ, không mấy khi chịu chơi cùng bé, vậy mà hôm nay lại đòi hái hoa cho bé là sao?

Chuyên Húc bực dọc hỏi: “Rốt cuộc có thích hái hay không nào?”

“Có, có!” Tiểu Yêu nắm lấy tay Chuyên Húc, “Muội thích loại hoa hồng thế này này, muội muốn tết một miện hoa.”

Chuyên Húc hái được rất nhiều hoa, tết cho Tiểu Yêu một chiếc miện hoa, còn giúp cô bé đội lên nữa.

Tiểu Yêu cười hì hì hỏi, “Huynh không nỡ để muội đi chứ gì?”

Chuyên Húc lườm cô bé: “Ta chỉ mong muội đi sớm cho khuất mắt!”

Tiểu Yêu gỡ món trang sức lông hồ ly vẫn đeo ở lưng ra, đây là đuôi hồ ly do tên xấu xa Xi Vưu chặt, mẹ thấy bé cả ngày cứ cầm vung vẩy, bèn tìm một miếng ngọc hoàn, làm thành trang sức cho bé đeo.

“Cái này tặng huynh đấy.”

Chuyên Húc lặng lẽ nhận lấy, giơ tay vuốt vuốt lớp lông hồ ly mềm mại. Cậu biết Tiểu Yêu rất thích vật này, nên định trả lại cho bé. Tiểu Yêu nghĩ đi nghĩ lại, vẫn tiếc rẻ không nỡ cho, cuối cùng đành dặn: “Đợi khi nào muội về, huynh phải trả lại cho muội nhé. Muội chỉ cho huynh mượn chơi thôi, huynh nhớ không được làm hỏng đâu đấy.”

Chuyên Húc phì cười, cũng chẳng định trả lại cho Tiểu Yêu nữa, bèn đeo luôn vào thắt lưng, chạy lại tìm cô cô. Tiểu Yêu chạy theo sau, luôn miệng liếng thoắng: “Huynh đừng làm hỏng, đừng làm mất đấy nhé, phụ vương muội nói đây là cái đuôi Cửu vĩ hồ, hiếm lắm đấy.”

Chuyên Húc đang chạy chợt khựng lại, Tiểu Yêu liền hỏi: “Sao huynh lại dừng?” Đoạn cô bé nhìn theo ánh mắt Chuyên Húc, thấy mẹ mình đang ngồi lặng trước mấy nấm mộ.

Trên mộ nở đầy hoa dại đủ màu, đẹp tươi rực rỡ, nhưng lại toát lên vẻ thê lương vô hạn. Trong khung cảnh ấy, bóng dáng mẹ bé càng đơn độc xót xa. Tiểu Yêu bỗng thấy lòng mình nghẹn ứ những xúc cảm chẳng thể gọi thành tên. Bé toan gọi Chuyên Húc, nhưng chạm phải ánh mắt cậu, cảm giác nghẹn ứ trong lòng ngực bé càng thêm mãnh liệt, không dám cất tiếng nói nữa, tựa hồ chỉ cần lên tiếng, nước mắt sẽ lập tức tràn ra. Bé đành khẽ khàng nắm lấy tay áo Chuyên Húc.

Hồi lâu Chuyên Húc cắn môi nói: “Không có gì, chúng ta qua đó đi.” Dứt lời cậu nhóc kéo Tiểu Yêu chạy về phía cô cô, Tiểu Yêu đặt miện hoa lên đầu A Hành, thỏ thẻ: “Cái này con và ca ca cùng làm, tặng cho mẹ đấy.” A Hành mỉm cười, vòng tay ôm cả hai vào lòng.

Quay về Triêu Vân điện, sau khi thu xếp xong cho Chuyên Húc và Tiểu Yêu, A Hành liền tới gặp Vân Tang.

Luy Tổ dùng uy quyền của vương hậu nghiêm cấm thế lực của Hoàng Đế đặt chân vào Triêu Vân điện, nên từ khi Vân Tang gả tới Hiên Viên, cũng được Luy Tổ coi như con gái trong nhà, đối đãi không khác gì A Hành. Nhưng sau khi Luy Tổ qua đời, không còn sự bảo hộ của bà, Hoàng Đế lại thảm bại tại Phản Tuyền, Hiên Viên tộc đang từ vị thế của người chiến thắng vẻ vang thoắt đã đổi sang thành kẻ chiến bại, sắp lâm vào cảnh nước mất nhà tan, thái độ đối với Vân Tang cũng chuyển từ thương hại thành đề phòng. Hiện giờ, mỗi lúc ra vào Vân Tang đều bị thị nữ giám thị, cả ngày nàng chỉ nhốt mình trong đại điện, gảy đàn, nuôi tằm, dệt lụa, vẽ tranh.

A Hành đến tìm đúng lúc Vân tang đang đùa giỡn với bầy bướm, từng đôi bướm rực rỡ đủ màu phấp phới bay giữa rừng dâu, lượn vòng quanh thiếu nữ áo trắng như mây, tựa hồ trăm hoa tụ lại vờn múa quanh nàng, vô cùng mỹ lệ.

A Hành lặng ngắm hồi lâu mới lên tiếng: “Muội chẳng học được thuật điều khiển côn trùng của mẫu hậu, nhưng tỷ lại học được toàn bộ thế này, nhất định mẫu hậu sẽ vui lắm đó.”

Vân Tang chạnh nhớ thời thiếu nữ, khi còn sống trên Triêu Vân phong, bấy giờ A Hành còn là đứa bé lẫm chẫm tập đi, cả ngày luôn miệng bập bẹ gọi tỷ tỷ tỷ tỷ, nàng cũng hết lòng thương yêu A Hành như em ruột, có điều bây giờ chẳng thể nào trở lại như năm xưa được nữa. Vân Tang không nén được tiếng thở dài, “Hai ta vốn là đôi tỷ muội thân thiết, tiếc rằng muội lại là vương cơ Hiên Viên, ta lại là vương cơ Thần Nông.”

“Có một việc muội vẫn chưa cho tỷ hay. Thực ra tỷ không thể trở thành Đại tẩu của muội được, bởi Đại ca muội đã chết trong trận Phản Tuyền lần thứ nhất.”

Vân Tang kinh ngạc trừng mắt nhìn A Hành, như không dám tin. Trái lại, A Hành thở vào nhẹ nhõm, như vừa trút được gánh nặng, “Cuối cùng muội cũng nói ra được bí mật bao năm nay chôn giấu trong lòng rồi.”

Một lúc lâu thật lâu, Vân Tang mới chấp nhận được sự thật này: “Mẫu hậu có biết không?”

“Biết. Trước lúc lâm chung, mẫu hậu còn dặn đi dặn lại, bảo muội lựa lúc thích hợp nói cho tỷ biết. Mẫu hậu nói tỷ mãi mãi là con gái của người, người và Viêm Đế đều mong tỷ được hạnh phúc.”

Vân Tang thẫn thờ nhìn từng đôi bướm bay qua bay lại, trầm ngâm không nói.

A Hành lại nói: “Đại ca muội đã không còn, tỷ không thể nào trở thành vương hậu tương lai của Hiên Viên, tiến tới can dự vào triều chính được. Chi bằng tỷ đi đi, đừng gắng gượng chịu khổ ở lại Hiên Viên nữa, nhân lúc còn có thể chạy được, tỷ hãy cao chạy xa bay, càng xa càng tốt.”

Nước mắt Vân Tang lăn dài trên má, “Muội không hiểu đâu, có những chuyện đã định sẵn từ khi chúng ta sinh ra rồi, dù có chạy tới đâu, cũng không thể giũ bỏ được dòng máu trong người mình.”

Nỗi tê tái trong lòng A Hành từ từ dâng lên từng chút một, dần dà lan khắp toàn thân, giá buốt đến tận xương tủy. Một hồi lâu, nàng nới lên tiếng: “Muội hiểu lắm chứ, nên muội mới nhận lời phụ vương cầm quân ra trận.”

Vân Tang chợt quay phắt lại trừng trừng nhìn A Hành, ánh mắt đầy kinh hoàng, phẫn nộ và khinh miệt, sau cùng, tất cả đều biến thành bi ai khôn xiết.

A Hành né tránh ánh mắt Vân Tang, đứng dậy: “Chúng ta từ biệt ở đây, tỷ nhớ bảo trọng.”

“Đợi đã.” Vân Tang đưa mắt nhìn bầy bướm bay qua bay lại từng đôi từng đôi, song song chắp cánh, thong thả nói: “Ta luôn bị giám thị, khi trước còn có thể nhờ Hậu Thổ truyền đạt tin tức, nhưng sau khi phụ vương muội bị thương, liền phái Hậu Thổ tới tận Thụ Sa quốc, mấy tháng nay rồi ta chắng có tin gì về gã cả. Ta có chút chuyện muốn nói với Xi Vưu, muội đưa giùm ta một phong thư cho hắn được không?”

A Hành nhẹ nhàng đáp: “Tỷ vừa nói rồi đấy thôi, muội là Hiên Viên vương cơ, tỷ lại là Thần Nông vương cơ.”

Vân Tang cười buồn, “Muội xem qua nội dung đi, rồi hẵng quyết định.”

Nói rồi nàng rút ra một mảnh khăn lụa, chấm phấn trên cánh bướm viết: “Nếu hắn làm loạn, cứ…” Bàn tay nàng run bắn lên, hồi lâu không cách nào viết tiếp. A Hành ngạc nhiên nhìn Vân Tang, một lúc thật lâu sau, Vân Tang mới dụng lực mắm môi viết tiếp: “Cứ giết hắn đi!” chữ “giết” trong rối loạn vô cùng.

Vân Tang đưa mảnh khăn lụa cho A Hành, “Có tám chữ thôi, muội xem có thể đưa giùm không?” Ta không hề tiết lộ cơ mật gì của Hiên Viên, chỉ là chút chuyện trong nội bộ Thần Nông tộc, có một viên tướng có chút vướng mắc với ta, ta sợ Xi Vưu nể tình ta mà không thể hạ sát thủ.”

A Hành thẳng thắn: “Được, muội sẽ kêu Chu Du đưa thư này đến tận tay Xi Vưu.”

Chưa nói dứt câu, A Hành đã thấy Chu Du từ trong rừng dâu liêu xiêu bước ra, chân đi loạng choạng, tựa hồ sắp ngã tới nơi, nhưng cặp mắt vẫn trừng trừng nhìn xoáy vào nàng.

A Hành than thầm trong bụng, nàng cứ nghĩ có bầy bướm của Vân Tang bảo hộ, chẳng còn sợ bất cứ kẻ nào rình mò nghe lén, ngờ đâu lại quên khuấy mấy trăm năm trước, Chu Du từng vâng lệnh Đại ca bày thảo mộc trận trên Triêu Vân phong để bảo vệ cho mẫu hậu.

“Đại ca mà vương cơ nói là ai? Nếu Thanh Dương điện hạ biết vương cơ nhận xằng Đại ca, nhất định sẽ nổi giận. Chừng nào về, điện hạ quyết không bỏ qua cho vương cơ đâu.”

A Hành nghẹn ứ trong cổ họng, hồi lâu không thốt nổi nên lời, Vân Tang định đáp thay nhưng A Hành đã giơ tay ngăn lại, tỏ ý để mình chính miệng nói ra. Nàng nhìn Chu Du, chậm rãi nói: “Thanh Dương đại ca ta, đã chết rồi.”

Chu Du đờ người ra, một hồi lâu sau mới lẩm bẩm như tự nói một mình: “Thanh Dương điện hạ chết rồi ư? Điện hả bảo nô tỳ trông nom Triêu Vân điện, chờ ngày quay về kia mà, nô tỳ vẫn đang đợi, sao điện hạ có thể không về được? Không, không phải, vương cơ nói dối!”

Chu Du vừa lẩm nhẩm nói, vừa run bắn lên, cả người đổ sập xuống, A Hành và Vân Tang phải đỡ lấy ả, “Chu Du, Chu Du…”

“Nô tỳ làm sao thế này? Sao đột nhiên lại mất hết khí lực, không đứng vững được?” Chu Du đặt tay lên ngực, “Sao lồng ngực đau như cắt thế này? Bị thương rồi ư? Nhưng nô tỳ đâu có giao đấu với ai…”

A Hành đặt tay lên cổ tay Chu Du, lòng chợt rung động, sững sờ nhìn ả.

Vân Tang thấy Chu Du đau đến nỗi run lên bần bật, còn A Hành cứ sững ra hồi lâu chẳng nói năng gì, cuống quýt giục: “Rốt cuộc Chu Du làm sao thế? Sinh bệnh phải không?”

“Chu Du không sinh bệnh, cũng không bị thương, chỉ là…” A Hành nghẹn giọng ánh mắt đầy xót xa.

“Chỉ là sao?” Vân Tang gặng.

“Chỉ là đau lòng… thương tâm mà thôi.”

“Đau lòng ư? Thương tâm ư? Nô tỳ… Nô tỳ chỉ là khúc gỗ, làm sao có thể đau lòng, thương tâm được? Thiếu Hạo và Điện hạ đều nói nô tỳ không biết thế nào là thương tâm, có lần nô tỳ tò mò bèn năn nỉ điện hạ dùng pháp thuật để nô tỳ cảm nhận được thương tâm, nhưng điện hạ nói mình không thể. Điện hạ còn bảo không biết thương tâm là tốt, cả đời khỏi phải thương tâm… các người đều nhầm cả rồi!” Chu Du đẩy A Hành và Vân Tang ra, lảo đảo đứng dậy, giật lấy mảnh lụa của Vân Tang từ tay A Hành, “Muốn nô tỳ đưa thứ này đến cho Xi Vưu hả? Nô tỳ đi ngay đây.” Ả vừa nói vừa liêu xiêu quay đi.

“Chu Du, đại ca không thể quay về được nữa đâu, từ nay ngươi được tự do, nếu ngươi muốn rời khỏi Triêu Vân phong…”

“Suỵt!” Chu Du quay phắt lại, đặt ngón trỏ trên môi, ra hiệu cho A Hành im lặng, “Nô tỳ không tin vương cơ đâu, Thanh Dương điện hạ nhất định sẽ về! Tuy vương cơ là muội muội của điện hạ, nhưng vương cơ đâu hiểu được điện hạ. Vương cơ có biết, lúc Vân Trạch điện hạ chết đi, Đại điện hạ đã phẫn nộ thế náo không? Vương cơ có biết, lúc vương cơ thành hôn, điện hạ đã đau khổ thế nào không? Vương cơ có biết, khi vương hậu tức giận thành bệnh, điện hạ đã tự trách ra sao không?”

Thấy A Hành nghẹn lời, Chu Du càng nói càng hậm hực: “Vương cơ chẳng biết gì hết! Vương cơ chẳng hiểu gì về Thanh Dương điện hả cả, dựa vào cái gì mà dám nói điện hạ sẽ không quay về? Mấy ngàn năm nay, nô tì đã bầu bạn bên điện hạ. Từ khi còn là một khúc gỗ nằm trong ngực áo điện hạ, nô tỳ đã theo người đi khắp trời Nam đất Bắc, về sau tu thành hình người, lại luôn luôn kề cận bên ngài, tất cả hành động cử chỉ, mừng giận buồn vui của điện hạ nô tỳ đều hiểu. Xưa nay Thanh Dương điện hạ đã nói là làm, chưa từng thất tín, chỉ có kẻ khác không phải với điện hạ, chứ điện hạ chưa từng có lỗi với ai, điện hạ bảo nô tỳ đợi thì nhất định sẽ về.” Nói rồi, Chu Du giận dữ ngoảy đầu đi thẳng.

“Chu Du!” A Hành gọi với theo.

“Gì cơ?” Chu Du hằm hằm ngoảnh lại, sắc mặt trắng bệch, đôi mày nhíu chặt, hiển nhiên vẫn chưa nguôi đau đớn trong lòng.

A Hành trầm mặc một hồi, khẽ lắc đầu, “Không có gì, Ngươi nhớ chăm lo cho Chuyên Húc, chừng nào đại ca về, nhất định sẽ khen ngươi!”

Chu Du nhoẻn cười tươi tắn, “Nô tỳ biết rồi!” Nói đoạn gật đầu lia lịa, loạng choạng đi thẳng.

Vân Tang đăm đắm trông theo bóng lưng Chu Du, cảm thán: “Nha đầu ngốc, thì ra cô ấy đối với Thanh Dương… Chúng ta không nhận ra đã đành, ngay bản thân cô ấy cũng không ý thức được. Muội nói xem, hiện giờ cô ấy có hiểu được tình cảm của mình dành cho Đại ca muội không?”

“Đại ca đã không còn, hiểu hay không hiểu có ý nghĩa gì nữa đâu.” Nói là nói vậy, nhưng A Hành vẫn lã chã hai hàng nước mắt. Có lẽ, Đại ca đã hiểu cả, nhưng lại mặc cho Chu Du mơ mơ hồ hồ, cũng bởi trách nhiệm trên vai Đại ca quá nặng nề. Có lẽ Đại ca cũng mong đến một ngày nào đó, mình có thể đặt gánh nặng trên vai xuống, dắt Chu Du ngao du khắp trời Nam đất Bắc, giống như khi bọn họ mới gặp nhau vậy. Nếu không thể có một ngày như thế, Đại ca thà rằng Chu Du vĩnh viễn chẳng bao giờ nhận ra, vĩnh viễn không hiểu thế nào là thương tâm, nhưng Đại ca không biết rằng, cuối cùng Chu Du cũng chẳng tránh khỏi thương tâm.

“Chu Du cứ đợi mãi như thế ư? Mộc yêu bọn họ hình như cũng sống lâu như Thần tộc vậy.”

“Muội không biết, muội chỉ biết rằng Chu Du rất vâng lời Đại ca. Năm xưa, ở ngoài Ngu uyên, cô ấy suýt nữa đã bị Ngu uyên nuốt chửng, nhưng đại ca bảo cô ấy đợi nên cô ấy cứ đợi như thế, không di không dịch một bước chân.”

Chờ đợi suốt ngàn vạn năm, tự mua dây buộc mình, thời gian đằng đẵng như ngưng kết lại trong khoảnh khắc chia tay, mãi mãi dừng ở phút giây người đó chuẩn bị cất bước ra đi, còn đương đinh ninh dặn dò, thiết tha nhắn gửi, nhìn bề ngoài cứ ngỡ là si ngốc, nhưng đó chẳng phải một dạng thông minh đấy ư? Vân Tang khẽ thở dài, lặng lẽ đi thẳng vào rừng dâu, bầy bướm vẫn lượn quanh mình nàng, như một đóa hoa nở rộ, từ từ khuất bóng trong rừng dâu xanh mướt.

Sáng hôm sau, A Hành dẫn Tiểu Yêu lên Ngọc sơn.

Mấy trăm năm trước khi vội vã cùng Thiếu Hạo rời khỏi Ngọc sơn, nàng chẳng hề nghĩ sẽ có ngày mình quay lại nơi này, hơn nữa còn dắt theo con gái của nàng và Xi Vưu.

Được quay lại Ngọc sơn, A Tệ có vẻ rất cao hứng, vừa nhảy nhót vừa kêu líu ríu. Cung nữ ra đón nồng nhiệt hoan nghênh A Tệ, nhưng lại ngăn Liệt Dương lại, “Tiểu công tử, xin hãy dừng bước.”

Thấy Liệt Dương ngẩn người, A Hành mím môi cười, “Tỷ tỷ không nhận ra ư? Đây là Liệt Dương đó.”

Cung nữ trợn tròn mắt nhìn Liệt Dương, lắp bắp hỏi: “Liệt Dương, sao mày lại tu thành người lùn thế này?”

A Hành nghe nói phá lên cười, A Tệ cũng lăn ra cười ngặt nghẽo, Liệt Dương tức tối liền biến lại nguyên hình, bay vút lên cành cây.

Cung nữ hạ giọng thì thào với A Hành: “Vẫn nóng nảy như xưa nhỉ.”

Tiểu Yêu nhìn Đông ngó Tây, thỏ thẻ hỏi: “Mẹ bảo ở đây khắp nơi đều có hoa đào kia mà? Sao con không thấy?”

A Hành cũng không ngờ, lần này trở lại Ngọc sơn, mọi thứ đã hoàn toàn thay đổi.

Ngọc sơn mấy trăm năm trước bốn mùa nở rợp hoa đào, đình đài lầu các thấp thoáng dưới bóng hoa, cỏ non ngút mắt, hoa rơi lả tả, đi giữa khung cảnh đó, chẳng khác nào lọt vào tranh vẽ. Còn Ngọc sơn hiện giờ chẳng có lấy một bông hoa đào, chỉ có những cây đào rậm rì xanh um.

Nếu chỉ vậy còn đỡ, dù gì A Hành cũng nghe nói, lúc Viêm Đế qua đời, Ngọc sơn đổ tuyết lớn, núi xanh chưa già, vì tuyết rơi mà bạc trắng mái đầu. Nhưng dung mạo của Vương mẫu…

Vương Mẫu năm xưa tóc xanh tha thướt, hoa dung nguyệt mạo, cặp mắt trong veo lạnh lùng như nước, đứng dưới cội hoa đào ngoảnh đầu trông lại, quả là đẹp hơn đào lý, lạnh tựa băng sương, vậy mà giờ đây chỉ còn là một bà lão tóc trắng như bông, dung nhan tiều tụy, ánh mắt tịch liêu.

A Hành sững sờ nhìn Vương Mẫu trong khi Tiểu Yêu cười hì hì chạy lại bên cạnh bà, như quen thuộc từ lâu, níu áo bà ríu rít hỏi: “Bà ơi, hoa đào đâu rồi? Mẹ cháu bảo ở đây có rất nhiều hoa đào.”

Vương Mẫu đáp: “Hoa đào tàn cả rồi.”

Tiểu Yêu hành lễ với Vương mẫu theo lời A Hành, rồi cùng các cung nữ đi chơi, để lại A Hành cùng Vương Mẫu tản bộ trong vườn đào. A Hành lên tiếng: “Lần này con lên Ngọc sơn có hai việc.”

Vương Mẫu làm thinh không đáp. Đột nhiên, A Hành đổi giọng gọi, “Dì Mi.”

Vương Mẫu lạnh nhạt cười, “Trước lúc lâm chung, mẫu hậu ngươi mới chịu nhắc đến chuyện năm xưa hả?”

“Thực ra con đã biết từ lâu, hồi đó nán lại trên Tiểu Nguyệt đỉnh mấy ngày, bá bá đã kể hết cho con chuyện của các vị rồi.”

Vương Mẫu nghe đến đó chợt run bắn lên, dừng sững lại. A Hành gắng lấy can đảm nói tiếp: “Bá bá nói, ông vẫn luôn hoài niệm những tháng ngày ba người ở bên nhau, đó là quãng thời gian vui vẻ nhất, thoải mái nhất trong đời bá bá.”

Sắc mặt Vương Mẫu trầm xuống, bà thong thả đi tiếp, chẳng tỏ vẻ gì.

A Hành lại nói: “Trước lúc lâm chung, con hỏi mẫu hậu có muốn đi Ngọc sơn một chuyến không, nhưng mẫu hậu chỉ lặng thinh, sau đó dặn con giao thứ này lại cho dì.”

A Hành mở gói lấy ra một chiếc áo tơ vàng nhạt trao cho Vương Mẫu, bên trên còn đặt một người gỗ nho nhỏ đẽo bằng gỗ dâu. Vương Mẫu chẳng buồn đón lấy, chỉ lạnh lùng đưa mắt nhìn, năm xưa Luy Tổ quyết dứt áo ra đi, mấy ngàn năm nay chưa từng ngoảnh lại, giờ có muốn ngoảnh lại cũng muộn rồi!

Vương Mẫu không tiếp nhận, A Hành cũng chẳng biết làm sao, đành đặt người gỗ xuống đất. Người gỗ vừa tiếp được hơi đất, lập tức lớn bổng lên, biến thành một thiếu nữ xinh đẹp, dung mạo giống hệt Vương Mẫu mấy ngàn năm trước, nhưng thần thái khí độ lại khác hẳn. Cặp mắt thiếu nữ đen láy linh hoạt, nét cười rạng rỡ trên môi, mái tóc dài búi thành hai búi trên đầu, dùng tơ vàng quấn quanh, từng sợi từng sợi tơ vàng lòa xòa rủ xuống, vô cùng hoạt bát xinh đẹp.

A Hành khe khẽ hát lên khúc ca dao xưa cũ mẹ nàng truyền dạy.

Thiếu nữ nhẹ nhàng xoay một vòng, bắt đầu nhảy múa, tay áo dài phấp phới, tà áo bay bay, tư thế hết sức uyển chuyển.

Vương Mẫu sững người nhìn cảnh tượng trước mắt.

Chiếc áo tơ vàng của thiếu nữ còn mới tinh, vậy mà ống tay đã bị toạc một mảng, mỗi lúc khiêu vũ, cánh tay giơ lên, ống tay áo lại rẽ làm đôi, để lộ cánh tay trắng nuột như tuyết.

Vương Mẫu còn nhớ, sáng hôm ấy tay áo mình bị cành cây cào rách, bà vụng đường kim chỉ nhưng A Luy lại rất thạo khâu vá, đã hứa sẽ vá giùm bà.

Tiếc rằng điệu múa ấy bà vĩnh viễn không bao giờ múa xong, buổi hoàng hôn ấy, cũng vĩnh viễn không bao giờ trở lại.

Khúc ca dứt, thiếu nữ cũng múa xong, lập tức biến thành tro bụi, tan đi theo gió, tự như lớp lớp chuyện xưa đều bị cuồng phong vô tình cuốn đi, chẳng còn tăm tích.

Cả cánh rừng chợt lặng phắc, nghe rõ mồn một tiếng gió thổi qua tàng cây.

Vương Mẫu bỗng phá lên cười ngặt nghẽo, cười đến chảy cả nước mắt, “Thế này là gì đây?”

A Hành đáp: “Xin lỗi! Mẹ con bảo con nói lại với người một câu ‘xin lỗi’!”

Vương Mẫu tắt hẳn tiếng cười. A Luy là nữ tử kiêu ngạo nhất mà bà từng gặp, xưa nay chưa hề biết cúi đầu, dù đánh gãy răng cũng cười mà nuốt cả răng lẫn máu, nàng Tây Lăng Luy kiêu ngạo đến cơ hồ độc đoán ấy, bây giờ ở đâu?

Vương Mẫu trầm mặc hồi lâu, lại hỏi: “Sao mẹ ngươi không tự đến mà nói?”

A Hành đáp: “Con không biết, có hỏi, mẹ con cũng chỉ làm thinh. Khi đã ngã bệnh, bà vẫn chính tay xe tơ dệt lụa, may chiếc áo này, bảo con giao lại cho dì.”

Vương Mẫu đứng lặng, ánh mắt dán chặt vào A Hành, nhưng dường như lại đang xuyên thấu qua nàng, quay ngược về mấy ngàn năm trước.

A Luy đã hứa vá lại áo cho bà, nhưng không làm được, mấy ngàn năm sau, lại đưa đến một chiếc áo tự tay dệt nên. Nỗi canh cánh trong lòng bà cả ngàn năm nay, há chẳng phải là nỗi canh cánh trong lòng A Luy ư?

Vương Mẫu chợt mỉm cười, nụ cười đã không còn vẻ sắc sảo, thay vào đó, lại thêm phần bình thản. “Trông bộ dạng ta bây giờ xem, bà ấy khăng khăng không lên Ngọc sơn là phải.” Nói rồi Vương Mẫu nhận lấy chiếc áo, rảo bước ra khỏi rừng đào.

A Luy khăng khăng không chịu gặp, Vương Mẫu lại kiên trì giữ gìn dung mạo, mong mỏi có thể gặp lại một lần, hai người khác tình mà chung một dạ, đều vì một chữ “si”. Đây có lẽ là hồi ức đẹp đẽ cuối cùng của họ, nên bà không những muốn ghi khắc mãi mãi, mà A Luy cũng không nỡ nào phá hỏng.

Vương Mẫu đứng trước vách núi, ngắm ráng chiều như khói tỏa, tịch dương tựa gấm thêu.

Ba huynh muội nắm tay nhau ngao du năm ấy, có hai người đã lìa trần. Để giờ đây, dưới bóng tà dương đỏ sẫm, chỉ còn trơ lại mình Vương Mẫu.

A Hành bước đến cạnh Vương Mẫu. Có lẽ vì gút mắc trong lòng đã được cởi bỏ, nét mặt Vương Mẫu cũng hòa dịu đi nhiều, chỉ còn nét buồn phảng phất giữa đôi mày là không sao xua tan được, “Ngươi còn chuyện gì nữa?”

“Con định giao con gái cho dì. Nhờ dì bảo hộ cho nó.”

“Cha nó là quốc vương Cao Tân, mẹ lại là vương cơ Hiên Viên, kẻ nào dám đụng đến nó?”

“Tên cháu là Tiểu Yêu.” A Hành viết hai chữ đó lên bàn, “Nó vốn không phải là vương cơ Cao Tân.”

Vương Mẫu ngạc nhiên hỏi: “Là con của Xi Vưu ư?”

A Hành gật đầu.

Vương Mẫu cười nhìn A Hành, ánh mắt đượm vẻ cảm thông, “Ngươi biết không? Năm xưa ta biết rõ Xi Vưu mới là kẻ xông vào địa cung Ngọc sơn, đánh cắp Bàn Cổ cung, nhưng ta cứ thuận nước đẩy thuyền, giữ ngươi trên Ngọc sơn sáu mươi năm, thực ra là cố ý phá hỏng hôn ước giữa ngươi và Thiếu Hạo, tác thành cho ngươi với Xi Vưu.”

“Sau này con cũng đoán vậy.”

“Nếu không có ta nhúng tay vào, chắc ngươi và Thiếu Hạo sẽ đến được với nhau, cũng chẳng dẫn tới tình cảnh hôm nay.”

“Xưa nay con chưa từng hối hận vì đã yêu Xi Vưu. Đời này có thể gặp được chàng là may mắn của con.”

“Ta sẽ chăm sóc cho Tiểu Yêu, có điều, ta rất mong ngươi sẽ cùng Xi Vưu tới đây đón nó.”

A Hành vội hành lễ cảm tạ Vương Mẫu. Nàng gọi Tiểu Yêu lại, đinh ninh dặn dò bé phải nghe lời Vương Mẫu, chăm chỉ luyện tập, không được ham chơi.

Tiểu Yêu từ nhỏ đã bạo dạn không sợ người lạ, được đi chơi thế này, bé mừng còn không hết, nghe mẹ dặn dò, bé vừa gật đầu lia lịa, vừa náo nức chực nhảy chân sáo đi chơi. A Hành ôm bé vào lòng, khẽ gọi: “Tiểu Yêu…” rồi nghẹn lời, chẳng biết nói thêm gì nữa, nhưng ánh mắt vẫn bịn rịn không nỡ rời Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu ngạc nhiên hỏi, “Mẹ?”

A Hành sửa lại quần áo cho bé, đoạn nắm lấy ngọc đồng đeo trên cổ bé, “Con nhớ lời ta dặn rồi chứ?”

“Nhớ rồi, phải luôn đeo bên mình, bên trong có một thứ rất quan trọng.”

A Hành ôm choàng lấy Tiểu Yêu, siết mạnh. Tiểu Yêu vừa kêu khẽ, “Mẹ, đau con” vừa ngọ ngoạy vùng vẫy, A Hành liền buông bé ra, “Đi chơi đi.”

Tiểu Yêu tung tăng chạy theo Vương Mẫu, được vài bước, chợt bé ngoảnh lại dặn, “Mẹ mau mau tới đón con nhé, ca ca còn đang cầm đuôi hồ ly của con.”

“Ừm.” A Hành nói chẳng nên lời, đành gật đầu.

Liệt Dương từ trên cành đáp xuống, biến thành hình người, “Đi được chưa?”

A Hành bảo Liệt Dương: “Ngươi ở lại đây đi, trông nom Tiểu Yêu giùm ta, nếu ta không về nữa, ngươi đợi chừng nào thiên hạ thái bình hẵng cho nó hạ sơn.”

Liệt Dương cười lạnh, “Đừng mơ! Nếu sống thì cùng sống, chết thì cùng chết!”

“Trải qua bấy nhiêu chuyện, ta mới phát hiện chết thực ra rất dễ dàng, sống mới là khó khăn. Có thể sống đến cuối cùng mới là khó nhất.” A Hành quỳ xuống trước mặt Liệt Dương, “Ta buộc phải giao việc khó khăn nhất lại cho ngươi đây, lẽ nào ngươi đành lòng để A Tệ thay ngươi gánh vác ư?”

Liệt Dương không đáp, chỉ chăm chú nhìn A Hành, vẻ mặt lạnh lùng nhưng trong đôi mắt xanh biếc lại lấp loáng ánh lệ.

A Hành ầng ậng nước mắt, đứng dậy bảo A Tệ: “Chúng ta đi thôi.”

A Tệ rưng rưng nhìn Liệt Dương, từ từ bay lên, để lại một mình Liệt Dương lẻ loi đứng đó bất động. Liệt Dương không hề ngẩng lên nhìn bọn họ, chỉ một mực cúi gằm mặt xuống, dán mắt vào mũi chân. Chúng cứ ngỡ suốt đời suốt kiếp này sẽ là người một nhà, sống chết có nhau, dẫu chết cũng chẳng có gì đáng sợ, nào ngờ đâu, lại còn có lúc buộc phải sống.

Chương 18: Vì chưng nạn nước, mang khôi giáp

Giữa ngợp trời hoa bay, Xi Vưu một thân áo đỏ như máu đang đứng giữa rừng đào bên dưới tế đài, lặng lẽ đợi nàng, tựa hồ một ngọn núi sừng sững, mãi mãi không bao giờ thay đổi, trước kia là thế, bây giờ cũng thế, sau này vẫn như thế.

[1] Trích trong bài Thoái tướng thi của Tào Hàn. (ND)

Xi Vưu dẫn quân Tây tiến, liên tiếp phá châu kì, vượt qua Hắc hà, đánh thẳng đến Đôn Vật sơn. Đôn Vật sơn là bức bình phong cuối cùng của Hiên Viên, mắt thấy Hiên Viên mất nước chỉ còn là sớm muộn, bách tính trong Hiên Viên thành lại bắt đầu khăn gói chuẩn bị chạy nạn, tướng sĩ cũng nháo nhác cả lên.

Hiên Viên Bạt lâm nguy thụ mệnh, lĩnh binh xuất chinh khiến tướng sĩ xôn xao bàn luận, quần thần nhao nhao phản đối, ngay cả Tượng Võng và Ly Chu cũng vì thế mà toát mồ hôi hột, chẳng hiểu sao Hoàng Đế và Tri Mạt lại khăng khăng ủng hộ Hiên Viên Bạt.

Hoàng Đế chuẩn bị cho Hiên Viên Bạt một bộ áo giáp tốt nhất, được cải tạo từ hai bộ giáp của ông và Luy Tổ, ánh vàng ánh bạc hòa lẫn vào nhau, “Con mặc áo giáp lên đi, dùng uy nghiêm của mình mà chấn nhiếp tướng sĩ và kẻ địch!”

Tang tảng sáng, tướng sĩ đã đứng đông nghịt bên dưới Hiên Viên thành, trật tự đợi lệnh chủ tướng.

Nhìn Hiên Viên Bạt vận khôi giáp bước lên đài, Tri Mạt vẫn thấy thấp thỏm không yên, liệu cô gái này có làm được như cha mẹ mình chăng? Cô có thể cứu vãn nổi Hiên Viên quốc mà cha mẹ mình gây dựng nên không?

Theo lời Hoàng Đế, Hiên Viên Bạt vung kiếm lên, lập tức tướng sĩ bên dưới cao giọng hô vang, nhưng tiếng hô ấy chỉ mang tính nghi thức, chẳng có nhiệt tình hay khí thế gì cả.

Hiên Viên Bạt lại vung kiếm, tiếng hô bên dưới có to hơn, nhưng vẫn chẳng có chút khí thế hay nhiệt tình nào hết.

Tượng Võng và Ly Chu lo lắng nhìn Hoàng Đế, hiện giờ đổi chủ soái hẵng còn kịp, nói cho cùng đâu cứ phải mặc khôi giáp của Hoàng Đế và Luy Tổ là có được lòng can đảm của Hoàng Đế và cơ linh của Luy Tổ.

Hiên Viên Bạt trầm mặc nhìn xuống dưới đài, từng gương mặt dưới kia hoặc non nớt, hoặc căng thẳng, hoặc ngỡ ngàng, hoặc lo sợ, nhưng dù có sợ đến đâu chăng nữa, họ vẫn cầm vũ khí lên, chiến đấu bảo vệ quê hương mình. Lần đầu tiên, nàng thật sự hiểu được nguyên nhân vì sao mẹ mình ân đoạn nghĩa tuyệt với cha, nhưng chưa bao giờ hối hận về việc hi sinh tất cả, cùng Hoàng Đế sáng lập nên Hiên Viên quốc.

Đột nhiên Hiên Viên Bạt giơ tay gỡ mũ giáp ra, mái tóc đen dài lập tức xõa tung, phất phơ giữa ánh nắng mai nhàn nhạt. “Ta là nữ nhân, dù giấu mặt dưới chiếc mũ này, các người vẫn biết ta là nữ, là một người phụ nữ giống như mẹ, như vợ, như muội muội, như con gái các người vậy, đáng ra phải đứng phía sau để các người bảo vệ, chứ đâu lại đứng trước mặt các người, chỉ huy các người tấn công một đội quân toàn những nam nhân còn hung mãnh tàn nhẫn hơn cả các người.”

Tướng sĩ dưới thành đều im phăng phắc, tỏ vẻ tán thành. Tượng Võng giậm chân giận dữ, “Con bé này điên thật rồi…” lão chỉ hận không thể xông ngay lên đài, cứu vãn cục diện.

Trí Mạt níu Tượng Võng lại, “Đừng nóng.”

Hiên Viên Bạt bắt đầu cởi khôi giáp, vừa cởi vừa ném cả xuống đất, vàng đá va nhau, phát ra tiếng lanh canh chói tai, phá vỡ bầu không khí tĩnh lặng.

Thoắt chốc, dưới ánh nắng mai vàng nhạt, chỉ còn một nữ tử vận tấm áo chẽn xanh ngắt, đứng trên đài đôi diện với mấy vạn tướng sĩ.

“Các người tưởng ta muốn đánh trận lắm ư? Không hề! Nhưng phụ thân ta đã thua Xi Vưu, huynh trưởng của ta cũng thua Xi Vưu, chính là vì nam nhi các người liên tiếp thua hết trận này sang trận khác, nên ta mới buộc phải đứng ở đây. Ta không muốn ra trận, nhưng ta sợ quân Thần Nông đánh thốc đến tận Hiên Viên thành, Hiên Viên thành là nhà của ta, ta không muốn mất nhà! Ta không muốn con gái ta bị người ta khinh khi lăng nhục, không muốn cháu trai ta phải quỳ gối trước kẻ thù, không muốn phần mộ của mẹ ta bị kẻ khác giày xéo. Hôm nay các người cười nhạo ta, nhưng ta nói cho các người hay, kẻ địch đã đánh đến cửa rồi, nếu các người còn thua thêm trận nữa, thì mẹ các người, vợ các người, muội muội các người sẽ phải bước lên đây giống như ta vậy! Nam nhân các người đã không thể bảo hộ nữ nhân chúng ta, dù chúng ta có phải cần kim thêu lên, cũng quyết bảo vệ quê hương và con cái mình!”

Hiên Viên Bạt bi thương nhìn xuống tướng sĩ bên dưới, tất cả tướng sĩ đều thẹn đỏ cả mặt, lồng ngực phập phồng dữ dội.

Hiên Viên Bạt lại phóng mắt nhìn trăm họ đang xúm đông xúm đỏ quanh cửa thành, vận linh lực sang sảng nói: “Đồng Nhĩ quan thất thủ, các người chạy về Tỏa Vân quan, Tỏa Vân quan thất thủ, các người lại rút về Hắc hà… Các người chạy mãi, chạy đến tận Hiên Viên thành, giờ còn chưa đánh mà các người đã định chạy, các người định chạy đi đâu nữa đây? Tiếp tục chạy sang phía Tây là đến hoang mạc Qua Bích, các người cùng đường rồi! Hiên Viên, Thần Nông, Cao Tân đều có chiến loạn, trong thiên hạ chẳng còn nơi đâu yên bình cả, nếu Hiên Viên thành bị phá, các người sẽ trở thành những kẻ lưu vong, nước mất nhà tan, dù chạy đến đâu cũng không tìm được chốn dung thân, vĩnh viễn bị người ta kỳ thị và lăng nhục.”

Đám dân đen khoác tay nải đều đều lộ vẻ buồn rầu, hoang mang.

Hiên Viên Bạt lại chỉ những chiến sĩ Hiên Viên đã xếp thành đội hình, “Hiện giờ bọn họ sắp lên đường, lao ra trước đầu đao mũi kiếm, chính là để giữ cho các người một mảnh đất yên bình, không phải trốn chạy nữa, nhưng các ngươi lại không hề tin tưởng họ. Ngay cả các người còn không tin họ, vậy họ chiến đấu vì cái gì? Họ dựa vào cái gì để khiến kẻ thù sợ hãi đây?”

Hiên Viên Bạt lại quay ra cao giọng chất vấn các tướng sĩ, lệ nóng nhòa mi: “Các người đánh trận này chính là đứng ngay trước cửa bảo vệ cho mẹ già, vợ dại, tỷ muội, con cái của các người, nếu các người thua trận, kẻ địch phá cửa xông vào, các người có quyết tử chiến đến cùng, thề không lùi bước chăng?”

“Có!” Nỗi hổ thẹn, giận dữ, bi ai, phẫn nộ, tất thảy đều hòa thành dũng khí, các tướng sĩ đồng thanh hô vang, chấn động cả đất trời.

Hiên Viên Bạt chăm chú nhìn dân chúng tụ tập đông nghẹt hai bên cửa thành một lượt, đoạn phi thân lên ngựa, “Xuất phát!” Nói rồi nàng ra roi phi lên trước, tất cả các tướng sĩ lũ lượt theo sau, vó ngựa rầm rập, bụi tung mù mịt, tiến thẳng về phía mặt trời lên, khiến buổi bình minh xán lạn rực rỡ cũng nhuốm phần bi tráng.

Dân chúng hai bên đường đăm đăm nhìn theo đại quân xa dần, rồi lần lượt từng người bắt đầu trở vào thành, kẻ đang gói ghém cũng dỡ đồ đạc xuống khỏi lưng ngựa, đặt trở vào chỗ cũ, bác thợ rèn quát đồ đệ lắp lại bếp lò, đoạn vừa vung búa lên vừa cao giọng rao: “Mọi người phải tự bảo vệ lấy gia đình mình, ai có thể cầm gươm cầm kiếm cứ đến đây lấy binh khí đi, không mất tiền, không mất tiền đâu!”

Tri Mạt rưng rưng lệ, gật gật đầu cười, quay sang bảo Ly Chu và Tượng Võng, “Con nhỏ A Hành chẳng cần mượn oai danh Hoàng Đế và Luy Tổ làm gì, nó chính là tiểu vương cơ của Hiên Viên chúng ta, là con gái, là tiểu muội của mỗi nhà, tất cả tướng sĩ sẽ tử chiến để bảo vệ nó! Bảo vệ nó cũng chính là họ đang bảo vệ cho tiểu muội, con gái của mình đó!”

Hoàng Đế bước lên đài, cúi xuống nhặt bộ khôi giáp A Hành vứt lăn lóc dưới đất, phóng mắt trông ra đám bụi hồng mờ mịt cuối trời, lòng ngổn ngang trăm mối, vừa kiêu ngạo, vừa xót xa, lại vừa hổ thẹn, nhưng chỉ trong nháy mắt, hết thảy những tình cảm yếu đuối đó đều bị khát vọng chinh phục Trung Nguyên quét sạch.

Ông ngoảnh sang lệnh cho Ly Chu: “Chúng ta chuẩn bị xuất phát thôi.”

“Vâng!”

Ly Chu quỳ xuống nhận lệnh, Tri Mạt kinh ngạc ra mặt, còn Tượng Võng ngỡ ngàng nhìn Hoàng Đế và Ly Chu. Xuất phát? Xuất phát đi đâu?

Tin Hiên Viên Bạt cầm quân truyền tới Thần Nông tộc. Si Mỵ Võng Lượng đều cười ngặt nghẽo, bỉ bai Hiên Viên quốc đã hết người, sắp sửa mất nước tới nơi, phải để một người đàn bà lĩnh binh ra trận.

Vũ Sư cũng thắc mắc không hiểu, Hiên Viên vẫn còn mấy vị lão tướng khai quốc đó, sao họ lại để Hiên Viên Bạt cầm quân?

Phong Bá góp lời: “Đừng có coi thường Hiên Viên Bạt, Hoàng Đế xưa nay tinh minh mưu trí, ông ta chọn Hiên Viên Bạt, nhất định là có cái lý của ông ta. Chẳng phải bấy nhiêu người tới vời Ứng Long đều không được, nhưng ả ta chỉ nói một tiếng, Ứng Long đã nhận lời đấy sao?

Vũ Sư lộ vẻ đắc ý, “Vậy chúng ta quyết chiến ở Đôn Vật sơn, để xem ta và Ứng Long ai tài ngự thủy hơn?”

Đôn Vật sơn nhiều sông hồ, có Hà thủy, Hắc thủy, cùng mười mấy dòng sông lớn nhỏ khác, Ứng Long là vua của Thủy tộc, có bản lĩnh ngự thủy trời sinh, nhưng trong trận chiến lần trước, vì chủ soái nên y không phát huy được hết năng lực của mình. Lần này Hiên Viên Bạt và Ứng Long quan hệ không tầm thường, nhất định sẽ trọng dụng y.

Mọi người đều đổ dồn mắt về phía Xi Vưu, đợi hắn định đoạt.

Một hồi lâu Xi Vưu ra lệnh: “Lui!”

“Gì cơ?” Ai nấy đều nhốn nháo bất mãn, vất vả bấy nhiêu năm, bao nhiêu huynh đệ phải đổ máu, đã đánh đến tận cửa nhà Hoàng Đế, chỉ cần vượt qua Đôn Vật sơn là có thể đánh thẳng vào Hiên Viên thành, sao lại có thể lui được? Dù bọn họ có bằng lòng thì những chiến sĩ đổ máu chiến đấu phía sau họ cũng nhất định không chấp nhận.

Xi Vưu lạnh lùng lừ mắt nhìn khắp lượt, bấy giờ các tướng mới khôi phục được trật tự. Xi Vưu giải thích: “Tướng sĩ Hiên Viên hiện giờ như bầy sói bị dồn đến đường cùng, Đôn Vật sơn là bức bình phong cuối cùng của Hiên Viên, một khi thất thủ, cũng đồng nghĩa với quê hương bản quán của chúng sẽ bị chúng ta giày xéo, người thân bị chúng ta giết hại, vì cha mẹ vợ con mình, bọn chúng không được phép thất bại.”

Vũ Sư phản bác, “Thì chúng ta ra lệnh không được làm hại thường dân, đồng thời tuyên bố nếu tướng sĩ Hiên Viên nào đầu hàng nhất định sẽ đối đãi thật hậu, dần dà làm tiêu giảm ý chí của Hiên Viên tộc, khiến chúng không thể tử chiến.”

Phong Bá im lặng nghĩ thầm, Xi Vưu vốn chấn nhiếp được đám binh lính Hiên Viên kiêu dũng thiện chiến, là nhờ vào thủ đoạn tàn nhẫn hung mãnh, nhưng cũng chính vì thế mà khiến tướng sĩ Hiên Viên hận hắn thấu xương, cừu hận đã nổi lên, lẽ nào mấy mệnh lệnh giả nhân giả nghĩa kia có thể hóa giải được sao?

Xi Vưu trỏ những căn lều trại đằng sau, nói tiếp: “Ngươi cho rằng họ dựa vào cái gì mà liều chết viễn chinh? Đừng đem mấy thứ nhân nghĩa trung hiếu ra đây, đối với bọn họ, bất luận Hoàng Đế hay Viêm Đế, miễn có thể cho họ cơm no áo ấm thì tức là minh quân. Bọn họ chiến đấu không phải vì Viêm Đế, cũng không phải vì chúng ta, mà là vì mối thù với Hiên Viên, Hiên Viên đã giày xéo quê hương họ, giết hại người thân họ, nên họ phải báo thù! Họ dốc lòng phò tá ta, chính là vì ta có thể báo thù cho họ!”

Vũ Sư cũng là người sáng dạ, thoạt nghe đã hiểu nỗi khổ của Xi Vưu. Nếu Xi Vưu lệnh cho quân lính không được làm hại người Hiên Viên tộc, e rằng đám người lòng đầy oán hận này sẽ lập tức quay sang nương nhờ kẻ cho phép họ báo thù.

Xi Vưu lại nói: “Những giống chim nhỏ, để bảo vệ tổ và chim non, có thể đánh lui được cả diều hâu, cớ gì chúng ta cứ nhất định phải giao chiến với Hiên Viên ngay trước cửa ngõ nhà chúng. Chi bằng lùi lại xa xa một chút, đợi chiến ý của chúng suy giảm, bấy giờ tấn công càng dễ.”

Phong Bá và Vũ Sư sực hiểu ý Xi Vưu. Hiện giờ Hiên Viên giống như một kẻ bừng bừng lửa giận, dốc hết sức bình sinh tung ra một cú đấm, bọn họ lắc người tránh né, để đối phương đánh hụt, chính là đã phong tỏa nhuệ khí của đối phương.

Trận đầu tiên, Hiên Viên Bạt lệnh cho Ứng Long xuất chiến.

Không phụ sự kỳ vọng của mọi người, Ứng Long ra trận đã đẩy lui được được quân đội của Xi Vưu, khiến Xi Vưu phải rút lui ba lần, lui đến tận Ký Châu.

Tướng sĩ Hiên Viên hừng hực khí thế, hân hoan cổ vũ, nhưng Ứng Long quan sát địa hình Ký Châu lại tỏ vẻ lo lắng vô cùng.

Y tấu lên Hiên Viên Bạt: “Thần cảm thấy Xi Vưu lui quân không phải vì sợ giao chiến với ta ở Đôn Vật sơn, mà là muốn quyết chiến với chúng ta tại nơi này, đây mới là nơi quân Thần Nông có thể phát huy uy lực cao nhất.”

Hiên Viên Bạt tán thành, “Địa hình này quả là bất lợi cho ta.”

Ứng Long đề xuất: “Chúng ta có thể rút lui theo hướng Tây Nam hơn hai trăm dặm.” Y trỏ địa đồ, “Nơi đây lợi cho chúng ta hơn.”

“Nếu hạ lệnh lui quân là trúng kế của Xi Vưu, tướng sĩ vì nước mất nhà tan mới bùng lên khí thế chống giặc, lỡ sĩ khí ấy tan tác cả, Xi Vưu sẽ nhất định thừa cơ truy sát. Ngươi quên lời thề của chúng ta trước toàn thể tướng sĩ khi xuất phát rồi ư? Chúng ta chỉ có một con đường là liều chết xông lên, quyết không lùi bước, đánh bại Xi Vưu thôi.”

Sĩ khí dẽ tan mà khó tụ, nghĩ đến điểm này, Ứng Long giật thót người, gật đầu, “Thần hiểu.”

Chợt nghe bên ngoài thùng thùng tiếng trống trận, một tên lính truyền tin hớt hải chạy vào: “Thần Nông sắp tấn công rồi.”

Hiên Viên Bạt đưa mắt nhìn khắp lượt tướng sĩ xung quanh, bình thản đáp: “Thì đánh đuổi chúng về.”

Ứng Long sai người rúc kèn xung trận.

Từ trận Phản Tuyền lần thứ nhất đến nay, Hiên Viên và Thần Nông đã giao chiến suốt mười năm, chết mấy chục vạn người, tướng sĩ hai bên đều mang nặng thù nhà nợ nước, chỉ hận không thể lập tức ăn tươi nuốt sống đối phương.

Si Mỵ Võng Lượng giăng mây mù khắp chốn, trắng xóa cả vùng Ký Châu hoang dã, chẳng ai nhìn rõ được lối đi. Tướng sĩ Thần Nông đều đã được huấn luyện, lấy tiếng chiêng trống của Xi Vưu làm hiệu, tiến lui công thủ đều đâu vào đấy, trong khi đại quân Hiên Viên lạc giữa đám sương mù, chẳng biết đâu là phương hướng nữa, tức thời bị tướng sĩ Thần Nông đuổi tận giết tuyệt.

Ứng Long liền lênh cho Ly Oán, kẻ chuyên gọi gió, nổi gió lên xua tan mây mù. Nhưng trận gió của Ly Oán đụng phải Phong Bá, chẳng khác nào làn gió xuân Giang Nam hây hẩy đụng độ với cơn gió bắc cuồng nộ ngoài Mạc Bắc, Ly Oán chẳng xua tan được mây mù đã đành, còn bị thương dưới tay Phong Bá.

Ứng Long không quan sát được chiến trường, chỉ lên tục nghe thấy tiếng rú thảm thiết của tướng sĩ Hiên Viên, cuống quá toan đánh chiêng thu quân. Các tướng sĩ chưa hề qua huấn luyện, không thể dựa vào tiếng chiêng mà phán đoán được phương hướng rút lui, thậm chí còn có thể đụng độ với quân mình, tử thương vô số, nhưng ít nhất cũng tránh khỏi cảnh toàn quân bị diệt.

Thấy y chuẩn bị đánh chiêng, hiên Viên Bạt chợt ngăn lại: “Đợi đã, ngươi giúp ta làm một trận mưa phùn lâm thâm đi.”

“Hơi mưa sẽ khiến mây mù thêm dày đặc, tướng sĩ phe ta càng khó tác chiến.”

Hiên Viên Bạt liền đưa cho y một gói phấn, “Hòa phấn này vào nước mưa, Phong Bá sẽ phải nổi gió lên, đến chừng đó, mây mù tự khắc tiêu tan.”

“Nhưng tướng sĩ của chúng ta trúng độc thì sao?”

“Ta đã cho giải dược vào cơm nước của họ từ trước rồi.”

Ứng Long theo lời Hiên Viên Bạt, chuẩn bị làm mưa, Vũ Sư ngửi ngửi, phát hiện thấy thủy linh trong không khí có vẻ khác thường vội thốt, “Lạ thật, mây mù giăng kín thế này, quân Hiên Viên đã khốn đốn lắm rồi, sao chúng còn định làm mưa?”

Xi Vưu phóng mắt về phía Tây Nam thấy A Hành vận áo xanh ung dung đứng trên lưng A Tệ, vội hạ lệnh: “Trong mưa có độc, Phong Bá, mau nổi gió lên.”

Phong Bá vâng lệnh nổi gió, xua tan hết mưa phùn cùng sương mù.

Thoạt trông thấy đường, A Hành lập tức cầm tù và, vừa thổi vừa xông lên phía trước, tướng sĩ Hiên Viên trông thấy một nữ tử yếu đuối xông xáo dẫn đầu, nỗi hổ thẹn át hẳn niềm hoang mang do sương mù đem lại, họ nhất loạt xông lên theo nàng.

Thế trận của Thần Nông lập tức bị sĩ khí vô tiền khoáng hậu xé tan, Xi Vưu đành đánh chiêng thu binh. Tướng sĩ Hiên Viên đuổi theo truy kích, nhưng đến gần bãi cỏ, chợt A Hành ra lệnh ngừng lại, thu quân quay về.

Si Mỵ Võng Lượng chửi với theo: “Ả đàn bà thối tha, sao không đuổi nữa đi?”

A Hành quay lại, nửa cười nửa không đáp: “Ta chưa ngu đến mức đưa chân giẫm lên lưỡi đao đâu.” Tất cả cây cỏ nơi này đều nằm trong phạm vi khống chế của Xi Vưu, chỉ cần hắn thúc động linh lực, toàn bộ sẽ biến thành đao kiếm.

Giữa màn sương mù, Xi Vưu thắng, đem quân truy kích, A Hành thắng. Mỗi bên tử thương hơn ngàn người, xem như hòa.

Võng hậm hực nhìn theo bóng A Hành, gãi đầu lầm bầm: “Sao ả biết Đại ca thi thuật với đám cỏ này nhỉ?” Chợt gã vỗ đùi đánh đét, quay sang hỏi Xi Vưu, “Sao huynh biết ả hạ độc vào nước mưa? Trên đời được mấy ai tinh thông dược tính đến thế.”

Phong Bá trước đây từng gặp A Hành, biết nàng từng là tình nhân của Xi Vưu, vừa rồi khi mây mù tan đi, trông thấy người dẫn đầu tướng sĩ Hiên Viên truy sát bọn họ chính là nàng, gã tức thời ngây ra, bây giờ mới hay nàng là Hiên Viên vương cơ, cũng là Cao Tân vương phi, bất giác gã đưa mắt nhìn về phía Xi Vưu, thấy rõ mồn một vẻ đau đớn lóe lên trong mắt hắn.

Xi Vưu chẳng buồn đáp lời Võng, đứng phắt dậy bỏ đi. Mỵ thì thào nhỏ như tiếng muỗi kêu: “Ta nghe đồn Xi Vưu và Hiên Viên Bạt có tư tình thật đó.”

Phong Bá lần đầu tiên nổi giận, hầm hầm cảnh cáo: “Sau này kẻ nào còn dám nói bậy, ta sẽ chém đầu kẻ đó.”

Phong Bá ra ngoài tìm Xi Vưu, thấy hắn đang ngồi một mình trên cao, lặng lẽ trông về phía doanh trại Hiên Viên.

Trời đã ngả tối, mưa tuyết bắt đầu trút xuống, nhưng hắn chẳng hề có ý định tránh đi, cứ ngồi thẫn thờ ngóng nhìn căn lều trại đằng xa, mặc cho tuyết đổ đầy người. Trong đêm tối, gió sắt se, tuyết lả tả, ánh đèn trước doanh trại leo lét phản chiếu sơn hà tan tác, bóng lưng Xi Vưu cũng toát lên vẻ tĩnh mịch thê lương vô hạn, khiến Phong Bá không khỏi cảm khái trước nỗi bất lực của kẻ kiêu hùng.

Gã bước đến sau lưng Xi Vưu, cười cười rút ra một vò rượu, “Sao huynh lại ngồi đó? Đến đây, đến đây, uống rượu nào! Ai gục trước kẻ đó là rùa đen!” Nam nhân thường nói ít làm nhiều, thà đổ máu chứ không rơi lệ, Phong Bá không phải là kẻ biết an ủi, Xi Vưu cũng chẳng phải người dễ dàng thổ lộ tâm can, gã chỉ có thể cùng Xi Vưu say túy lúy một trận mà thôi.

Cả hai nốc rượu như nước lã, chẳng mấy chốc Phong Bá đã say đến bảy tám phần, đùa cợt hỏi: “Nghe nói các cô nương Cửu Lê đều xinh đẹp đa tình, đợi chiến tranh kết thúc, đệ phải tới kiếm cô vợ mới được.”

Xi Vưu lắc đầu, lại hớp một ngụm rượu, “Đệ thì không được, con gái Cửu Lê không thích người đẹp, chỉ ham người biết hát thôi.”

“Ai bảo huynh đệ không biết hát?” Phong Bá hắng giọng rống lên loạn xạ, làm Xi Vưu bò lăn ra cười.

Xi Vưu thẫn thờ nhìn vào màn đêm, thoáng trầm mặc, đoạn cất giọng hát.

“A ối à ối a

Mắt ta mình cứ khoét ra

Để cho máu thấm đầy tà áo xanh

Ví bằng lọt được mắt mình

Máu như hoa rải đầy cành cũng cam.

A ối a ối à

Tim ta mình cứ móc ra

Để đồng hoang thắm máu ta chan hòa

Ví lòng mình có bóng ta

Cam lòng tưới máu như hoa khắp đồi.

Các anh em

Một mai ta chết đi rồi

Đường nàng đi đó, xin vùi xác ta

Dù nàng đi khắp gần xa

Đều ngang qua nấm mộ ta bên đường.”

Tiếng ca thê lương vô hạn văng vẳng lan xa, giữa cảnh sông núi tiêu điều, quốc gia nghiêng ngả này lại càng khiến người ta rung động. Phong Bá tỉnh hẳn rượu, sững sờ nhìn Xi Vưu, hồi lâu mới hỏi: “Khúc tình ca tuyệt như vậy, phải hát đáp lại thế nào?”

Xi Vưu hờ hững đáp: “Có hai cách hồi đáp, một cách là: “Nếu ta không quên được bóng ngươi, ta sẽ tự móc mắt mình ra; nếu ta không quên được dáng ngươi, ta sẽ tự khoét tim mình ném đi”; cách thứ hai là…” Xi Vưu ngập ngừng không nói, chỉ đăm đăm ngóng về phía ngàn ánh đèn sáng rực đằng xa.

Mưa hắt hiu, gió hắt hiu, trời đất ủ ê, non sông quạnh quẽ, Phong Bá chợt cảm thấy anh hùng khí đoản, nhi nữ tình trường, giáo vàng ngựa sắt mấy trăm năm cũng mệt mỏi quá rồi. Đợi cuộc chiến này kết thúc, bất kể là thua hay thắng, gã cũng phải kiếm cho mình một cô gái, cùng sống vui vẻ một đời thôi.

Giữa cảnh mưa gió tiêu điều, chợt một giọng ca lanh lảnh từ đâu đó cất lên:

“Cây cao ngất ngưởng giữa non xanh

Vấn vít dây mây quấn quýt cành

Cây níu chặt mây, mây quấn quýt

Khăng khăng khít khít giữ vẹn tình.

Vào sinh ra tử bạn cùng nhau

Sống chết bên nhau đến bạc đầu

Cây chết mây còn còn quấn quýt

Cây còn mây chết chẳng rời nhau.”

Phong Bá dỏng tai nghe hồi lâu, chỉ toàn nghe thấy cái gì sống sống chết chết, cảm giác không lành, nhưng Xi Vưu lại tươi cười rạng rỡ, vỗ vai Phong Bá, “Về kêu các huynh đệ lại cùng uống đi.” Có vẻ tâm trạng đã khá lên nhiều.

Phong Bá chẳng hiểu mô tê gì, nhưng đã biết, Xi Vưu đã đợi được câu trả lời mà hắn muốn. Phong Bá vừa đi vừa ngoảnh lại trông, chỉ thấy non sông tiêu điều, mưa gió hắt hiu, khói lam mờ mịt, đèn lửa lập lòe.

Giữa thời loạn lạc này, tìm đâu ra chốn bình yên?

Nhưng sống giữa thời loạn này, có được một người thấu hiểu lòng mình, cùng sống cùng chết thì dẫu phải da ngựa bọc thây, say khướt sa trường, cũng coi như không uổng một đời.

Thần Nông và Hiên Viên đã giao chiến mấy bận, đôi bên đều có thương vong, mà vẫn chưa phân thắng bại.

Xi Vưu quỷ kế đa đoan, bày đủ mưu mẹo thật giả mạnh yếu để dụ địch giết địch. Trong mắt kẻ khác, những kế sách ấy đều được coi là tuyệt diệu, nhưng A Hành chỉ thoáng nhìn là phát hiện ra ngay. Có điều, A Hành cũng chẳng làm sao chế ngự được Xi Vưu, bất kể nàng làm gì, hắn thoạt trông là đoán được ngọn nguồn, lập tức phản ứng lại.

Đôi bên là hai địch thủ hiểu nhau nhất dưới gầm trời này, nhắm mắt cũng đoán được chiêu đòn của đối phương. Cứ đánh mãi về sau, không chỉ bọn họ, mà cả tướng sĩ cũng nhận ra, trận chiến này không thể phân thắng bại bằng mưu kế được, họ buộc phải dựa vào thực lực bản thân, quyết một trận sống mái. Nhất định trận đánh đó sẽ rất ác liệt, dù bên nào thắng đi chăng nữa, cũng chẳng tránh khỏi thương tổn nặng nề.

Nỗi lo âu đè nặng trong lòng tướng sĩ, ngay cả Phong Bá ngày thường vẫn hi hi ha ha cũng sa sầm mặt mày, chỉ mình Xi Vưu là nhàn tản ung dung, giữa mày mi thấp thoáng vẻ ngông cuồng bất chấp mọi thứ. Phong Bá thật sự không sao hiểu được, theo gã thấy, Xi Vưu phải là kẻ bi thương nhất mới đúng.

Thăm dò suốt mấy tháng, cuối cùng Ứng Long hào hứng báo cáo với Hiên Viên Bạt, tuy một dải Ký Châu hoang dã chẳng có sông ngòi gì trên mặt đất, nhưng sông ngầm lại rất nhiều, y đã tìm được một kế sách tuyệt diệu, có điều cần một vài tướng sĩ Thần tộc biết khống chế thủy linh giúp đỡ.

Hiên Viên Bạt đáp: “Ngươi tiếp tục chuẩn bị đi, ta sẽ tìm mấy tướng sĩ Thần tộc giỏi ngự thủy.”

Nàng viết thư cho Hoàng Đế, xin ông nhờ Thiếu Hạo phái binh.

Cao Tân lắm sông ngòi, có không ít tướng sĩ Thần tộc giỏi ngự thủy, Thiếu Hạo đã hứa với Hoàng Đế sẽ cùng Hiên Viên đối phó Xi Vưu, đổi lại Hoàng Đế sẽ không tiếp tay cho Trung Dung ở mạn Tây Nam tự lập làm vua. Hiện giờ chính là lúc Thiếu Hạo thực hiện lời hứa.

Mấy ngày sau, Hiên Viên Bạt và Ứng Long đang bàn việc trong trướng, bỗng thị vệ dẫn theo một người vén rèm bước vào, kẻ vừa tới từ đầu đến chân đều mặc đồ trắng, chính là phục sức của Cao Tân vương tộc. Hiên Viên Bạt thoáng cau mày, lẽ nào Thiếu Hạo chỉ phái một người này đến thôi ư? Ứng Long cũng ngấm ngầm thở dài thất vọng, từ trên người kẻ mới đến, y chẳng cảm thấy linh lực mạnh mẽ gì cả.

Người đó thưa với Hiên Viên Bạt: “Tại hạ Tử Thần, phụng mệnh bệ hạ tới đây có chuyện muốn nói riêng với vương cơ.”

Hiên Viên Bạt lạnh nhạt: “Ngươi tới đây là để trợ giúp Ứng Long tướng quân, mọi sự cứ nghe theo tướng quân điều khiển.”

Hình như kẻ đó lặng lẽ thở dài, dung mạo y đột ngột biến đổi, ngũ quan đoan chính, nhưng ánh mắt lại lạnh lẽo vô chừng, đứng nguyên tại chỗ mà đã toát lên khí độ bất phàm, không giận mà uy.

Chính là Cao Tân Thiếu Hạo!

Ứng Long kinh ngạc, lập tức đứng phắt dậy, cuống quýt hành lễ.

Thiếu Hạo chỉ bình thản hỏi: “Tướng quân thấy ta có thể trợ giúp được chăng?”

Ứng Long ghe hỏi gật đầu lia lịa. Tuy người trên đại hoang Cộng Công là Thủy thần, nhưng trong mắt Ứng Long, Thiếu Hạo mới là kẻ ngự thủy giỏi nhất thiên hạ, có điều Thiếu Hạo quá nổi danh ở những phương diện khác, nên người đời đã quên khuấy mất rằng, y cũng tu luyện thủy linh.

Hiên Viên Bạt nhìn xoáy vào Thiếu Hạo: “Bệ hạ không bận công vụ trong nước ư?”

“Trung Dung cũng không phải là đại họa gì, chẳng qua ta không muốn giết hại lẫn nhau, tiêu hao binh lực để Hoàng Đế rung đùi ngồi hưởng lợi, nên mới tốn chút thời gian thu phục quân đội của hắn đó thôi. Hiện giờ Xi Vưu mới là mối họa lớn nhất, nếu hắn còn thắng thêm một trận nữa, ắt Cao Tân nguy mất.”

“Đa tạ bệ hạ đích thân tới tận nơi trợ giúp, có điều đây là doanh trại Hiên Viên, tuy bệ hạ là quốc vương Cao Tân, nhưng cũng phải tuân theo quân lệnh.”

“Ta nói rồi đấy thôi, ta tên Tử Thần, phụng mệnh bệ hạ tới đây, mọi sự xin nghe vương cơ điều khiển.”

“Ứng Long sẽ trao đổi với ngươi, ngươi cứ nghe lệnh y là được.” Hiên Viên Bạt đứng dậy toan đi.

“A Hành.” Thiếu Hạo giơ tay nắm lấy nàng kéo lại.

“Mạt tướng sực nhớ ra mình còn có việc chưa làm.” Ứng Long lập tức cúi đầu, rảo chân bước ra ngoài.

“A Hành.” Thiếu Hạo chẳng biết nói gì, nhưng cứ một mực nắm lấy A Hành không buông.

A Hành rút ra một tấm khăn lụa, bên trên đầy chữ viết bằng máu: “Bệ hạ mô phỏng nét chữ của ta, gọi Xi Vưu tới Tuân sơn cứu ta và Tứ ca ư?”

Thiếu Hạo nhìn những hàng chữ giàn giụa máu kia, bất giác lại đưa mắt về phía ngón tay út bị cắt cụt của nàng, thân mình khẽ run lên.

Thấy y không phủ nhận, A Hành mỉm cười: “Cảm ơn bệ hạ. Thực ra, ta đâu còn oán hận bệ hạ nữa. Nói cho cùng, bệ hạ cũng chẳng phải Đại ca ta, ta cầu bệ hạ cứu Tứ ca, đúng là đã làm khó bệ hạ rồi.”

“Ta đã thề sẽ săn sóc nàng và Xương Ý, là ta không giữ trọn được lời thề với Thanh Dương, nàng oán hận ta cũng phải.”

A Hành thở dài, “Thuở còn thiên thiếu, chúng ta cứ ngỡ rằng chỉ cần mình muốn thì chuyện gì cũng có thể làm được. Về sau mới biết, chúng ta không thể nào giũ bỏ được gia tộc và xuất thân của mình. Bệ hạ là Cao Tân Thiếu Hạo, nhưng chẳng thể cứu nổi người mà mình muốn cứu, ta là Hiên Viên Bạt, nên người ta không muốn giết mà vẫn không thể không giết. Có những chuyện thực lòng rất muốn làm, nhưng chẳng thể không làm. Đến ta còn như thế, nữa là bệ hạ, những chuyên bệ hạ không thể làm, hay không thể không làm, hẳn còn nhiều hơn ta.”

Xưa nay Thiếu Hạo chỉ mong A Hành lượng thứ, vậy mà đến hôm nay, khi A Hành đã cảm thông và thấu hiểu cho nỗi khổ của y, y lại chẳng hề thấy vui mừng, ngược lại càng thêm bi ai chồng chất. Thanh Dương và y đều muốn bảo vệ A Hành, để nàng không trở nên như bọn họ, nhưng cuối cùng, A Hành vẫn trở thành một người như họ. Nếu Thanh Dương còn sống, trông thấy A Hành vận khôi giáp, cầm kiếm xông trận, hô hào thiên quân vạn mã, chẳng hiểu sẽ đau đớn đến nhường nào.

Bọn họ bảo hộ được cho cả thiên hạ, nhưng lại không thể che chở nổi người thân cận nhất bên mình!

“A Hành…”

Khóe mắt nét mày A Hành toát lên vẻ mệt mỏi khôn cùng, nàng cúi mặt nhìn xuống tay Thiếu Hạo: “Buông tay đi, tuy ta không còn hận bệ hạ nữa, nhưng chúng ta cũng chẳng thể quay về được ngày xưa đâu. Chính vì quá hiểu bệ hạ, nên ta biết rõ chúng ta vĩnh viễn không thể làm bằng hữu được, ai bảo bệ hạ là Cao Tân Thiếu Hạo, còn ta lại là Hiên Viên Bạt!”

Thiếu Hạo lạnh buốt cả cõi lòng, toàn thân rời rã, bàn tay từ từ thõng xuống.

A Hành vén rèm lên, đi thẳng.

Đêm đã khuya, trừ những binh sĩ đi tuần, còn lại mọi người đều chìm trong giấc ngủ.

A Hành dẫn theo A Tệ đi khảo sát thực địa, trên sườn núi lác đác mấy ngôi nhà hoang, có lẽ chủ nhân đã bỏ mình trong chiến hỏa, hoặc chạy nạn từ lâu, bỏ lại vườn không nhà trống. A Hành lại gần, trông thấy cội đào trong sân đã nở hoa rực rỡ, những đóa hoa đào rung rinh đùa trước gió xuân, chỉ không biết người trồng giờ đã nơi đâu?

Thì ra, thấm thoát đã đến mùa hoa đào tự lúc nào, Ký Châu cách Cửu Lê không xa, hẳn hoa đào ở Cửu Lê cũng đang nở rộ, chẳng hiểu có còn rực rỡ như năm cũ?

A Hành chợt nảy ra một ý, bèn bảo A Tệ: “Chúng ta đi Cửu Lê.”

Cả thôn bản vắng tanh vắng ngắt, thỉnh thoảng mới bắt gặp vài ba thiếu nữ trang điểm lộng lẫy đang thẫn thờ ngồi trên hiên nhà, chẳng một ai đi dự tết Khiêu Hoa.

A Hành tiến vào sơn cốc, thấy hoa đào đã nở đầy sườn núi, nhưng lời ca tiếng hát bặt tăm. Nàng ngỡ ngàng không hiểu, những thiếu niên thiếu nữ ấy đi đâu cả rồi? Chẳng phải vào ngày này, họ vẫn vây quanh đống lửa, ca hát tỏ tình ư?

Chợt nghe tiếng ca văng vẳng đưa lại, A Hành bèn lần theo giọng ca mà tìm tới.

“Canh một em thổi tắt đèn

Lên giường nằm đợi chàng tìm đến thăm

Canh hai đảy cửa ngắm trăng

Chong chong mắt ngóng mà không thấy chàng

Canh ba xé rách trướng màn

Cởi bỏ quần áo chẳng mang thứ gì

Canh tư kẹt cửa ngoài kia

Vội vàng xuống đón chàng thì ở đâu

Canh năm gió mát đầy lầu

Chờ suốt đêm trắng nào đâu thấy chàng

Chỉ mong chàng ở chiến trường

Mau đánh thắng trận, giong cương quay về.”

Người đang ngồi dưới gốc đào cao giọng hát hóa ra là một phụ nữ tóc mai bạc trắng. Trông thấy A Hành, chị ta cười: “Cô là người nơi khác tới xem tết Khiêu Hoa của chúng tôi ư? Mấy năm nữa cô hẵng tới, hiện giờ đàn ông đều ra trận cả rồi, mấy năm nữa mới về.”

A Hành dè dặt hỏi: “Chị đợi tình lang bao năm rồi?”

“Mười sáu năm.”

A Hành lặng người đi. Những thi thể vô danh phơi đầy đồng hoang kia, có lẽ đã bị mưa gió dòi bọ róc rỉa chỉ còn trơ xương trắng, nhưng trong lòng những người con gái, họ vẫn là tình lang rất mực thương yêu. Tháng tháng năm năm, năm năm tháng tháng, những người con gái ấy đã đợi đến bạc cả tóc mai, còn những nắm xương khô kia vẫn phơi đầy nội cỏ, dãi nắng dầm mưa, mặc cho vó ngựa giày xéo.

Bắt gặp ánh mắt xót xa của A Hành, người phụ nữ bỗng quát lên: “Chàng sẽ về! Chàng nhất định sẽ về mà…” Càng về sau, giọng chị ta càng nhỏ lại, dần dần chuyển thành lẩm nhẩm một mình: “Chiến tranh sẽ kết thúc, nhất định sẽ kết thúc thôi! Cuộc chiến giữa Thần Nông và Hiên Viên sắp kết thúc rồi, chàng nhất định sẽ về…”

A Hành chợt lạnh buốt cõi lòng, thì ra, chốn đào nguyên ngoài cõi thế này trở nên tiêu điều hoang vu như vậy đều là do bọn họ! Đối với bách tính hai tộc, ai thắng ai thua cũng chẳng có gì quan trọng, quan trọng nhất là chiến tranh mau mau kết thúc, để dân chúng được an cư lạc nghiệp.

Nàng nghiêm trang hứa với chị ta: “Phải rồi, chiến tranh nhất định sẽ kết thúc thôi.”

A Hành băng qua rừng đào, đi thẳng ra sau núi, tế đài trắng toát vẫn sừng sững giữa rừng hoa.

Cỏ xanh mơn mởn, cánh đào tả tơi, A Hành bước lên thềm đá thẳng tới tế đài, dưới chân dày đặc những cánh hoa rơi. Thấy một chiếc chuông gió bằng xương thú nằm chơ vơ dưới đất, nàng liền cúi xuống nhặt lấy, treo lại lên mái hiên.

Khẽ rung chuông, những âm thanh tinh tang êm ái lại vang lên.

Sáu mươi năm đằng đẵng trên Ngọc sơn cũng trôi qua trong những tiếng tinh tang thế này, rõ ràng đã động lòng, nhưng lại thà chết không thừa nhận; để hắn lại bản Xi Vưu, dứt áo ra đi trong những tiếng tinh tang thế này; sống giữa bản Đức Ngõa cách đó không xa, rõ ràng vẫn canh cánh lo cho hắn, nhưng lại không chịu đối diện với lòng mình…

Tinh tang tinh tang, tinh tinh tang tang…

Tiếng chuông vẫn thế, mà thấm thoát đã mấy trăm năm. Dung nhan nàng vẫn như xưa, nhưng cõi lòng đã già cỗi mệt nhoài rồi.

A Hành đứng lặng hồi lâu, vừa định quay về, chợt trong khoảnh khắc ngoảnh đầu, nàng bỗng thấy cả đất trời như ngưng đọng lại…

Giữa ngợp trời hoa bay, Xi Vưu một thân áo đỏ như máu đang đứng giữa rừng đào bên dưới tế đài, lặng lẽ đợi nàng, tựa hồ một ngọn núi sừng sững, mãi mãi không bao giờ thay đổi, trước kia là thế, bây giờ cũng thế, sau này vẫn như thế.

Xi Vưu cười rạng rỡ, dang tay ra với nàng, A Hành cũng nhoẻn cười theo, chạy xuống tế đài, băng qua cả trời hoa bay lả tả, hướng về phía Xi Vưu.

Hai bàn tay đan chặt vào nhau, cả hai nhìn nhau cười.

Sao sáng đầy trời, hoa như gấm đoạn, đều không sánh được với nụ cười chếnh choáng gió xuân, ngây ngất sông núi của hai người

Xi Vưu dắt tay A Hành chầm chậm xuyên qua rừng đào, đi về phía căn nhà sàn của họ.

Giậu trúc trước nhà vẫn ngay ngắn thẳng lối, bên trên nở đầy tường vi đỏ thắm, sơn trà trắng muốt, khiên ngưu xanh biếc, đỗ quyên vàng rực… Hồ lô và mướp đã bắt đầu leo lên chiếc giàn bắc ngay giữa mảnh sân. Thùng gỗ nằm lăn lóc trên bệ đá cạnh giếng, nước chảy ra thành vũng, ướt đẫm cả khoảnh đất bên dưới, mấy chú chim nhỏ đang đứng châu đầu uống nước trong vũng, trông thấy người cũng chẳng hề sợ hãi, ngược lại còn ngẩng cổ gù gù.

Vén bức màn bích loa lên, mọi thứ trong nhà đều được sắp xếp gọn gàng đâu vào đấy, sạch sẽ ngăn nắp. Tấm rèm lụa thiên thanh bên cửa sổ như sắc trời xanh biếc sau mưa, hoa đào đỏ thắm bên ngoài ánh lên song sa, chẳng khác nào một bức tranh lụa tuyệt mỹ.

A Hành đăm đăm nhìn Xi Vưu, lòng bỗng nghe nghẹn ứ, bấy nhiêu năm nay, hắn đã trông nom ngôi nhà này chu đáo biết bao.

Xi Vưu mỉm cười ôm lấy A Hành, hôn lên trán nàng.

Trúc phượng vĩ rì rào, hoa đào bay lất phất, hai người ngồi tựa vai nhau, hút Ca tửu chung một cần trúc, hệt như mấy trăm năm trước.

Hai người đều không nói một lời, như sợ trò chuyện cũng làm lãng phí thời gian vậy, họ chỉ đắm đuối nhìn sâu vào mắt nhau không nỡ rời, tựa hồ trong nháy mắt nữa thôi, tất cả sẽ tan thành tro bụi.

A Hành đưa tay cởi áo Xi Vưu, hắn chỉ mỉm cười nhìn nàng, không hề cử động, thỉnh thoảng mới nhấc tay lên phối hợp cùng nàng. Đợi toàn bộ quần áo trên người đã được cởi bỏ hết, hắn mới đẩy nàng ngã ra, nghiêng người cầm cần rượu từ từ khều áo nàng từng chút, cần trúc mỗi lúc một chênh chao, rượu vương ra cả người A Hành, Xi Vưu bèn cúi xuống, hôn lên những ngấn rượu loang.

Rên rỉ, quấn quýt, triền miên. Trong gian nhà nho nhỏ này, chẳng có Hiên Viên, chẳng có Thần Nông, chỉ có hai người yêu nhau say đắm, cùng chung hưởng niềm khoái lạc cổ xưa nhất, giản đơn nhất, nhưng cũng mãnh liệt nhất, dài lâu nhất trên thế gian này.

Nửa đêm, cả hai cùng tỉnh giấc.

Ánh trăng trong len qua song cửa, A Hành đắm đuối ngắm nhìn Xi Vưu, ngón tay khẽ vuốt ve gương mặt hắn, như muốn ghi khắc tất cả vào tâm khảm.

Xi Vưu mỉm cười nhìn A Hành, thấy mắt nàng long lanh lệ, hắn bèn quàng tay siết chặt nàng vào lòng.

Ngón tay nàng vô thức vạch từng chữ lên ngực hắn, “Cây chết mây còn, còn quấn quýt, cây còn mây chết chẳng rời nhau.”

Thoạt đầu, Xi Vưu chưa nhận ra A Hành đang viết chữ, tới chừng nhận ra rồi, hắn bèn tập trung cảm nhận, phát hiện nàng cứ viết đi viết lại một câu đó.

Xi Vưu nắm lấy tay nàng đưa lên miệng hôn nhẹ, rồi hai đôi bàn tay lại đan cài vào nhau.

A Hành lim dim mắt nhìn Xi Vưu, hắn mỉm miệng cười, cả hai lại quấn riết lấy nhau, như muốn hòa tan đối phương vào thân thể mình, hòa mình vào thân thể đối phương, đòi hỏi và dâng hiến mãnh liệt đến gần như điên dại.

Cuối cùng, hai người đều sức cùng lực kiệt, nhưng vẫn dán chặt lấy nhau không rời.

Xi Vưu khẽ hỏi: “Con gái đâu rồi? Có an toàn không? Nàng biết đấy, kẻ thù của ta trong thiên hạ rất nhiều.” Đây là lần đầu tiên Xi Vưu tỏ ra quan ngại về kẻ thù.

“Đang ở trên Ngọc sơn, có Vương Mẫu bảo vệ, còn có cả Liệt Dương trông nom.”

Bấy giờ Xi Vưu mới yên tâm, “Vậy ổn rồi.”

Ánh trăng hắt lên vách tường đỏ lòe, A Hành vùi mặt vào vai Xi Vưu, hỏi: “Gì thế?”

Xi Vưu nhấc tay lên, cây cung treo trên tường liền bay vèo tới tay hắn, ánh đỏ tan đi, chỉ còn to bằng lòng bàn tay. Ra là Bàn Cổ cung, vậy mà lại bị Xi Vưu tùy tiện treo trên vách một căn nhà sàn bỏ hoang.

A Hành khẽ bật cười: “Chàng còn chưa chịu quăng đi à?”

Xi Vưu cầm lấy cung, giơ lên săm soi dưới ánh trăng, “Tuy ta đã thử giương vô số lần mà chẳng thấy phản ứng, nhưng ta vẫn cảm giác nó không phải phế vật, chỉ là chưa khám phá ra cách dùng đó thôi.”

Hồi còn trên Ngọc sơn, A Hành từng nghe qua câu chuyện về Bàn Cổ cung, chính là cây cung Bàn Cổ tạo ra để tìm kiếm người con gái mình yêu thương. Nhưng chẳng hiểu sao Bàn Cổ không hề dùng đến nó, mà chỉ liệt nó vào hạng nhất trong số các thần binh rồi giao cho Ngọc sơn Vương Mẫu cất giữ.

A Hành cầm lấy cây cung từ tay Xi Vưu, chợt trông thấy trên cánh cung dường như có khắc chữ, thầm nghĩ chữ quá nhỏ không sao nhìn rõ, thì cây cung đã lớn vụt lên, “Trên cánh cung khắc chữ này.”

Xi Vưu chăm chú nhìn, thấy trên cánh cung khắc những hoa văn gấp khúc, vừa giống nòng nọc, lại giống hình trang trí, nhưng chẳng giống chữ chút nào.

“Đây là văn tự đã thất truyền, nghe đồn là chú ngữ để tế trời đất, may mà Tứ ca thích thưởng ngoạn cổ vật nên ta cũng lõm bõm được vài ba chữ.”

Xi Vưu tò mò hỏi: “Khắc chữ gì vậy?”

A Hành nhỏm dậy, nằm úp sấp, chống khuỷu tay lên ngực Xi Vưu, săm soi từng chữ thật lâu, đoạn ngập ngừng đọc: “Dĩ tâm hoán tâm.”

Bốn chữ này vô cùng đơn giản, hẳn không có nghĩa gì khác. Xi Vưu lặng thinh không nói, chỉ trầm ngâm suy nghĩ.

A Hành đặt cây cung sang một bên, khẽ nói: “Có lẽ Bàn Cổ cung là do Bàn Cổ tạo ra thật, có điều lời đồn rằng bất kể thần ma, bất kể sinh tử, bất kể xa gần, đều có thể gặp lại người mình yêu thương nhất chắc là đồn nhảm.”

Xi Vưu cười: “Mặc kệ Bàn Cổ cung là thật hay giả, bốn chữ này cũng rất đúng. Nếu thật sự hiểu được thế nào là “dĩ tâm hoán tâm”, hẳn Bàn Cổ không để mất người ông ta yêu nhất.”

Trong tiếng nói cười, ánh nắng ban mai đã rọi vào bên cửa.

Dù trân trọng, mê mải, lưu luyến, níu kéo đến đâu chăng nữa, một đêm này cuối cùng cũng phải trôi qua.

A Hành ngồi dậy, mặc lại áo bước ra.

Xi Vưu chẳng nói nửa lời, chỉ lặng ngắm nàng.

Ra đến cửa, A Hành chợt ngoái lại: “Phía sau chàng là Thần Nông, là các huynh đệ không tiếc máu xương chiến đấu cho chàng, là Viêm Đế và Du Võng, còn sau lưng ta là Hiên Viên, là vô vàn cô nhi quả phụ, là ca ca và cháu của ta. Ta sẽ dốc hết toàn lực, cũng xin chàng đừng hạ thủ lưu tình, nếu không, ta sẽ rất căm hận bản thân mình.”

“Nàng biết ta không thể mà.” Xi Vưu nhỏm người dậy, chiếc áo đỏ đắp ngang eo, mái tóc điểm màu xõa trên chiếu, ánh mắt chất chứa đau thương nhưng nụ cười vẫn ngông cuồng như cũ.

Sáng sớm, đến lượt Phong Bá đi tuần, nhưng Vũ Sư lại đòi đi cùng, còn kéo theo cả bọn Si Mỵ Võng Lượng.

Lên đến đỉnh núi, cả bọn bắt gặp Hiên Viên Bạt và Xi Vưu kẻ trước người sau bay lại, tọa kỵ của Xi Vưu bay rất nhanh, nhưng hắn vẫn bám theo sau, cách Hiên Viên Bạt một khoảng không xa không gần. Với tu vi của mình, Hiên Viên Bạt chắc chắn cũng nhận ra Xi Vưu đang ở phía đằng sau, nhưng chẳng hề phản ứng.

Sắp đến doanh trại, Xi Vưu chợt tăng tốc bay vụt lên, ngang với Hiên Viên Bạt, đoạn vươn tay kéo nàng lại, hôn lên môi nàng. Hiên Viên Bạt cũng chẳng phản kháng, ngược lại còn ôm chặt lấy Xi Vưu. Chỉ thoáng qua trong một khắc, rồi nàng lập tức buông hắn ra, bay thẳng về phía doanh trại Hiên Viên, nhưng đã đủ khiến bọn Si Mỵ Võng Lượng tròn mắt kinh ngạc.

Võng lắp bắp hỏi: “Thế, thế này là sao? Bọn họ yêu nhau, vậy trận này làm sao đánh được!”

Si tính tình nóng nảy, lập tức nhảy vọt lên, chắn trước mặt Xi Vưu và Hiên Viên Bạt, giận đến đỏ mặt tía tai, chất vấn Xi Vưu: “Ta cứ ngỡ chỉ là đồn nhảm, nào ngờ lại là thật, chẳng trách các người đánh mãi vẫn không phân thắng bại! Huynh định giải thích thế nào với mọi người? Huynh làm vậy có phải với những hán tử Thần Nông thề chết phò tá huynh không, có phải với Du Võng thật lòng đối đãi huynh không?”

Xi Vưu vốn ưa mềm không ưa cứng, lạnh lùng cười vặn lại: “Ta cần gì phải giải thích với các người? Ta có lỗi với họ hay không, đến lượt ngươi bình phẩm đấy à?”

Đúng lúc Ứng Long dậy sớm đi tuần gần đó, nghe động bèn lần tới, vừa khéo nghe hết những gì Si nói.

Si trỏ Hiên Viên Bạt, quát hỏi Xi Vưu: “Còn chẳng phải huynh tư thông với ả?”

Ứng Long nổi giận quát: “Nếu ngươi còn dám nói xằng nữa, chúng ta sẽ không khách khí đâu!”

“Ta không nói xằng, chúng ta đều tận mắt chứng kiến cả, vừa rồi bọn họ còn ôm hôn nhau, phải không Vũ Sư?”

Ứng Long đua mắt nhìn Tử Thần, sực nghĩ tới chuyện vương cơ tự động từ hôn Thiếu Hạo, lòng đầy nghi hoặc, nhưng chẳng dám lên tiếng hỏi. Ly Oán bên cạnh nôn nóng: “Tâu vương cơ, bọn chúng nói có đúng không? Vương cơ và Xi Vưu… thật sự… thật sự có tư tình sao?”

Tướng sĩ Thần Nông tộc đi theo Phong Bá cũng xôn xao chất vấn Xi Vưu, nhưng dù bọn họ hỏi gì đi chăng nữa, hắn vẫn một mực làm thinh không đáp, chỉ lặng lẽ nhìn A Hành, ánh mắt vô cùng phức tạp, có lo lắng, có mong đợi, có giễu cợt, còn có cả xót xa.

Xi Vưu không phải quân tử, nhưng xưa nay hành sự luôn quang minh chính đại, ngay cả lúc tàn sát toàn thành, cũng thẳng tay kiên quyết, chưa từng che giấu bản tính tàn nhẫn. Ta tàn sát đó, thì sao nào? Ta tàn nhẫn với kẻ thù đó, làm sao? Chỉ riêng tình cảm với A Hành, xưa nay hắn vẫn luôn giấu giếm như ăn vụng vậy.

Dưới sự truy vấn của mọi người, A Hành đã mấy lần toan phủ nhận, nhưng ánh mắt Xi Vưu cứ như xoáy vào lòng, nàng đã khiến hắn chịu ủy khuất mấy trăm năm nay, lẽ nào đến thời khắc cuối cùng này cũng không thể quang minh chính đại thừa nhận hắn ư? Xi Vưu vốn không quan tâm tới người đời, nhưng hắn rất để tâm tới việc mình có được đường đường chính chính hay không.

Trong chớp mắt, A Hành liền hạ quyết tâm, thản nhiên tuyên bố: “Ta và Xi Vưu đúng là có tư tình.” Giọng nàng không lớn, nhưng tất cả mọi người đứng đó đều kinh ngạc sững sờ, tưởng như mình nghe lầm, ngay cả Xi Vưu cũng ngỡ đó là ảo giác do chờ đợi suốt mấy trăm năm mà ra.

“Ta đã yêu chàng suốt mấy trăm năm nay rồi!” A Hành cao giọng lặp lại lần nữa, như muốn công bố trước toàn thiên hạ.

Tướng sĩ hai bên đều hồn phi phách tán, nghe như sét đánh ngang tai. Thiếu Hạo lo lắng nhìn A Hành, y vốn chỉ định phá hủy uy tín của Xi Vưu trước mặt đám thuộc hạ thân tín, nên mới dàn cảnh để bọn Phong Bá phát hiện ra tư tình giữa Xi Vưu và A Hành, nào ngờ Ứng Long lại lù lù xuất hiện, thành ra A Hành cũng bị kéo xuống bùn. Hiện giờ chỉ cần xử lý không ổn thỏa thì tướng sĩ Hiên Viên chẳng những không phục A Hành mà có lẽ còn khinh miệt chửi rủa nàng nữa.

Xi Vưu phá lên cười sảng khoái, không hề che giấu niềm hân hoan đắc ý toát lên từ tận đáy lòng.

Tất cả mọi người đều ngây ra nhìn hắn cười ha hả, một hồi lâu sau, Xi Vưu mới ngưng cười, nhưng vẫn âu yếm nhìn A Hành, vẻ dịu dàng lộ hẳn ra mặt. Võng lắp bắp lên tiếng: “Đại tướng quân, ngài, ngài không phải lòng ả yêu nữ Hiên Viên này đấy chứ?”

Xi Vưu đang lúc vui vẻ, bèn nháy mắt cười đáp: “Không phải lòng nàng, lẽ nào lại phải lòng ngươi?”

Võng và Lượng sắp khóc rống lên: “Nhưng ả đó là xấu xa, lẳng lơ buông thả, rõ ràng đã gả cho Thiếu Hạo, còn quyến rũ Đại tướng quân; hơn nữa lại tàn độc hiếu sát, nghe đồn ả đã chính tay đã đâm chết ca ca mình, mấy tháng nay, tướng sĩ của ta chết trong tay ả cũng đến bảy tám ngàn người rồi.”

“Thế thì sao? Bất kể thế nào, miễn là nàng, ta đều yêu.” Xi Vưu đăm đăm nhìn A Hành không rời mắt, cười đáp lại.

Thiếu Hạo trà trộn giữa đám người, chăm chú quan sát Xi Vưu, ánh mắt đầy phức tạp.

A Hành vừa thẹn vừa giận, trừng mắt lườm Xi Vưu rồi quay sang nói với Ứng Long và Ly Oán: “Ta biết các người muốn nghe ta giải thích và xin lỗi, cho các người một lý do để lượng thứ, nhưng ta tự thấy mình không sai, ta không cần các người lượng thứ. Người duy nhất ta cần xin lượng thứ chính là Xi Vưu, suốt mấy trăm năm nay, ta vì mẹ, vì ca ca, thậm chí vì con gái mình mà hy sinh chàng hết lần này tới lần khác. Ba năm trước, khi mẫu hậu lâm chung đã đồng ý cho ta lấy Xi Vưu, ta cũng đã hứa nhất định sẽ ở bên chàng, tiếc rằng ta lại một lần nữa phản bội lời hứa. Vì tộc nhân của mình, ta chẳng những không đi theo chàng, mà còn dẫn các người tới đây giết chàng. Từ đầu chí cuối, ta vẫn giữ tròn trách nhiệm của Hiên Viên vương cơ, chưa từng làm gì có lỗi với Hiên Viên, nhưng lại luôn có lỗi với chàng. Nếu các người còn tin theo ta thì ta sẽ cầm quân, nhược bằng không, ta sẽ giao binh quyền cho Ứng Long ngay bây giờ.”

Ứng Long lập tức quỳ xuống chân A Hành, “Mạt tướng thề chết phò tá vương cơ.”

Quân nhân trên sa trường luôn sống trước lằn ranh sinh tử, khác hẳn các đại thần trong triều, khái niệm đúng sai phải trái của họ cũng vô cùng đơn giản rõ ràng, không sai tức là đúng. Năm xưa Ứng Long bất chấp bị hủy diệt long thể cũng quyết cứu cho được thuộc hạ, chuyện này đã được truyền tụng từ lâu, uy tín của y trong quân đội rất cao, lại thêm tướng sĩ theo y đi tuần đều là thân tín, trông thấy y quỳ xuống, như nghe thấy quân lệnh, liền lũ lượt quỳ xuống theo.

Bọn Ly Oán cũng đồng thời quỳ cả xuống, “Nếu không có vương cơ cầm quân ra trận, e rằng Hiên Viên thành đã bị phá từ lâu rồi.” từ lúc cầm quân ra trận, nhất cử nhất động của Hiên Viên Bạt đều bị vô số con mắt trông vào. Huống hồ Thần Nông và Hiên Viên xưa nay vẫn kết mối thông gia với nhau, từ khi khai chiến đến nay, họ đã nghe qua rất nhiều chuyện thù nhà nợ nước khó vẹn toàn, tư tình và đại nghĩa chỉ được chọn một như vậy rồi. Hơn nữa, dân chúng hiên Viên vốn phóng khoáng, khá thoải mái trong chuyên nam nữ, nếu Hiên Viên Bạt thề thốt phủ nhận, có thể ngoài mặt họ tỏ vẻ tin tưởng, nhưng trong lòng sẽ nghi hoặc không thôi, trái lại Hiên Viên Bạt thẳng thắn thừa nhận, còn khiến họ lấy làm khâm phục.

Thiếu Hạo thầm thở dài nhẹ nhõm, một chuyện hung hiểm đến vậy, nào ngờ chính nhờ sự chân thành thẳng thắn của A Hành mà được hóa giải nhẹ như không. Lòng người có lúc phức tạp vô cùng, nhưng cũng có lúc lại rất đơn giản, chỉ đòi hỏi sự thật mà thôi.

A Hành đưa mắt nhìn Si Mỵ Võng Lượng, “Các người đi theo Xi Vưu mấy trăm năm nay, tính tình chàng thế nào, các người còn phải nghi ngờ ư? Nếu chàng bán đứng các người, hẳn Hiên Viên đã đánh sập Thần Nông sơn lâu rồi, bấy lâu chàng gánh đủ tiếng ác trong thiên hạ, chẳng lẽ vì bản thân mình hay sao? Thật uổng công chàng đã coi các người như huynh đệ!” Giọng điệu nàng đầy vẻ kiêu ngạo, đồng thời cũng nặng trĩu bi ai, khiến tướng sĩ Hiên Viên và Thần Nông bất giác đều cảm thấy thê lương bất lực.

Si Mỵ Võng Lượng thẹn đỏ mặt, lần lượt cúi gằm xuống.

A Hành đăm đăm nhìn Xi Vưu, đoạn dẫn quân đi khỏi.

Xi Vưu mỉm cười trông theo A Hành, lần đầu tiên, trước mặt mọi người, ánh mắt hắn nhìn nàng không bợn một tia u ám, chỉ chan chứa tình ý nồng nàn đắm đuối, quang minh lỗi lạc như vầng dương giữa trời kia.

Chương 19: Sống đoàn tụ, thác ôm hoài niệm

Nàng tươi cười ôm chặt lấy Xi Vưu, hệt như dây mây quấn lấy thân cây. Bất luận ra sao, cuối cùng họ cũng được ở bên nhau, sống chết giờ đây chẳng còn quan trọng nữa, cứ thế này mà vĩnh bất phân ly, cứ thế này mà thiên trường địa cửu.

A Hành đứng lặng giữa đồng hoang, hơi ngẩng đầu nhìn trời.

Giữa bầu trời xanh ngắt đầy những đám mây trắng nhởn nhơ trôi, hai cánh chim ưng đang chao liệng, lúc bay ra xa tắp, lúc lại bay trở về.

Ứng Long và Thiếu Hạo lại gần A Hành, Ứng Long toan tiến lên bẩm báo, chợt Thiếu Hạo giơ tay ra ngăn lại, tỏ ý bảo y đừng vội.

Ngọn gió vi vu quét qua đồng hoang, chẳng biết gió từ đâu đến, cũng chẳng rõ sẽ thổi tới đâu, cỏ dại cao đến thắt lưng dập dờn như sóng bể, từng con sóng xanh mướt cứ cuộn lên, không bờ không bến, tĩnh mịch thê lương.

Gió đêm thổi tung mái tóc A Hành, dây lưng nàng cũng phấp phới bay trước gió, nhưng nàng vẫn đứng nguyên tại chỗ, chăm chăm ngóng nhìn cánh chim ưng sải cánh giữa trời, khóe môi thấp thoáng nụ cười mơ màng. Hồi lâu nàng mới phát hiện ra Ứng Long và Thiếu Hạo đứng phía sau, lập tức nét cười trên môi nhạt hẳn đi, thay vào đó là vẻ uể oải chán chường, “Có việc gì ư?”

Ứng Long vội tâu: “Thần và… Tử Thần đã chuẩn bị xong tất cả, bất cứ lúc nào cũng có thể phát động tấn công.”

A Hành gật đầu, bình tĩnh ra lệnh, “Vậy chuẩn bị tấn công toàn diện, cùng Thần Nông quyết một trận tử chiến.”

“Vâng!” Ứng Long nhận lệnh lui xuống.

Thiếu Hạo lấy làm kinh hãi. Tình cảm của A Hành dành cho Xi Vưu thế nào, y hiểu rõ hơn ai hết, vậy mà khi nàng hạ lệnh tất sát lại bình tĩnh đến nhường kia, trong lòng y chợt đầy ắp dự cảm bất tường, lo lắng hỏi: “Nàng đã nghĩ kỹ chưa? Hẳn nàng cũng biết, Xi Vưu giống như một ngọn núi vậy, hoặc là sừng sững ngẩng cao đầu hoặc là sụp đổ tan tành, tuyệt đối không có chuyện khom lưng uốn gối, lẽ nào nàng dám giết Xi Vưu thật sao? Một khi khai chiến rồi, sẽ không còn cách nào quay đầu được đâu.”

“Nếu không khai chiến, chẳng lẽ còn con đường nào khác hay sao?”

Thiếu Hạo nín lặng, chẳng biết phải đáp thế nào. Chỉ cần Hoàng Đế còn sống một ngày, nhất định sẽ không từ bỏ khát vọng thống nhất Trung nguyên, mà hễ Xi Vưu còn sống một ngày, cũng quyết không để Hoàng Đế xâm phạm Thần Nông, bôi nhọ Du Võng. Từ trận Phản Tuyền lần thứ nhất đến nay, Hoàng Đế và Xi Vưu đã giao chiến gần hai mươi năm, tổn thất mấy chục vạn người, bấy nhiêu xương trắng cốt khô ấy đã lấp kín mọi đường lui rồi.

Thiếu Hạo đứng lặng hồi lâu, bao nhiêu chuyện xưa như sống lại trong lòng, khiến y thấy chua chát khôn cùng: “A Hành, lúc nàng gả cho ta, hai ta đều ôm đầy nhiệt huyết, quyết không cam lòng làm quân cờ cho người ta xếp đặt, cứ ngỡ rằng chỉ cần trong tay có sức mạnh thì có thể làm chủ được số mệnh của chính mình. Nay ta đã thành vua của một nước, nàng cũng nắm binh mã cả nước trong tay, vậy mà sao vẫn thân bất do kỷ?”

Hồi tưởng lại hôm ấy, trong trướng lụa màn là, hai người cười nói vui vẻ, đập tay thề thốt, vậy mà chớp mắt đã xa vời như chuyện tự kiếp nào, A Hành chợt thấy khoảng cách giữa mình và Thiếu Hạo bỗng rút ngắn lại mấy phần. Nàng ôn hòa nói: “Mọi sự đâu thể như ý mình tất cả? Quan trọng nhất là bệ hạ đã trở thành Tuấn Đế, bảo hộ cho dòng sông ngân giữa nhân gian, thực hiện được nguyện vọng lớn nhất của mình rồi đấy thôi.”

“Trên đời này, nàng là người duy nhất biết được ta đã từng bước tiến lên ngai vị đó như thế nào, cũng là người duy nhất mà ta chẳng ngại ngần cùng say khướt. Dù nàng căm hận ta, ta vẫn luôn mong mỏi nàng ở lại, bởi ta không muốn từ nay về sau rượu mình ủ ra không người thưởng thức, uống say rồi cũng chẳng có ai chuyện trò.”

Gió thổi qua đồng hoang lồng lộng, cỏ cây xào xạc, hồng liễu phất phơ. Hai người cũng bị gió táp mờ cả mắt.

Trên Ngọc sơn, Thiếu Hạo áo trắng phau, cưỡi Huyền điểu bay đến. Nam tử gom đủ thần thái của non xanh nước biếc xé toạc hào quang đầy trời mà xuất hiện, kinh động tất cả mọi người, vậy mà năm tháng vô tình đã cuốn trôi toàn bộ những ôn nhu hòa nhã như nước biếc của y, chỉ còn lại vẻ lạnh lùng nghiêm nghị như non cao ngàn trượng.

Dưới bầu trời lấp lánh ngàn sao, Hiên Viên Bạt áo xanh phấp phới, chuốc chén nói cười, chẳng hề cố kỵ, thiếu nữ vô tư trong sáng ấy đã dốc hết tâm sức chỉ mong giữ chân Thiếu Hạo thêm chốc lát, bấy giờ, nàng đâu có ngờ, mấy trăm năm sau này, nàng lại phải vắt óc nghĩ trăm phương ngàn kế để thoát khỏi y.

A Hành chăm chú quan sát Thiếu Hạo, thấy y càng ngày càng giống một vị đế vương dù trong lòng không nỡ, nhưng vẫn sẽ tàn nhẫn vứt vỏ tất cả, kiên định tiến thẳng tới trước. Có lẽ nàng là người cuối cùng được trông thấy Thiếu Hạo, bởi trong tương lai, có thể y sẽ trở nên như Hoàng Đế vậy, người đời chỉ biết y là Tuấn Đế nắm toàn quyền sinh sát, mà quên khuấy mất rằng, y cũng từng có một cái tên rất mực thân mật ôn hòa – Thiếu Hạo.

Thanh Dương, Xương Ý, Xương Phó… những người có thể thân mật gọi thẳng tên y đều bị chôn vùi trong quá khứ. Cùng với cái tên Thiếu Hạo.

Nhưng nàng và Xi Vưu thì không thể, bọn họ vĩnh viễn cũng không thể lãng quên những người đã sưởi ấm cõi lòng mình.

A Hành chợt trỏ về phía Cao Tân, hỏi: “Bên đó là gì vậy?”

Thiếu Hạo phóng mắt nhìn rồi thành thật đáp: “Đất đai, sông núi, con người.”

A Hành lại trỏ về hướng Thần Nông, “Vậy còn bên kia?”

Thiếu Hạo căng mắt nhìn, “Đất đai, sông núi, con người.”

A Hành tiếp tục trỏ về hướng Hiên Viên, “Bên ấy thì sao?”

Thiếu Hạo không hiểu, nhưng vận linh lực quan sát thật kỹ, “Cũng là đất đai, sông núi, con người.”

A Hành thong thả nói: “Thiên hạ này không thể chỉ có mình Cao Tân tộc, cũng không thể chỉ có Hiên Viên tộc hay Thần Nông tộc, nếu bệ hạ muốn giành được thiên hạ, trước hết phải có một trái tim có thể bao dung cả thiên hạ đã, bất kể là Cao Tân, hay là Hiên Viên, Thần Nông, đều gồm đất đai, sông núi, con người.”

Thiếu Hạo rúng động, trầm tư nghiền ngẫm lời nàng.

A Hành lại nói tiếp: “Bệ hạ đừng chỉ chăm chăm nghĩ đến dòng sông ngân mỹ lệ của Cao Tân, Hiên Viên có núi cao vạn trượng hùng vĩ hiểm trở, Thần Nông có đồng bằng ngàn dặm sản vật dồi dào, bậc đế vương quân lâm thiên hạ phải coi tất cả là con dân của mình, không phân Cao Tân, Thần Nông, Hiên Viên gì hết.”

Thiếu Hạo biến sắc, ranh giới về chủng tộc đã hình thành ngàn năm nay trong lòng y bỗng chốc đổ sụp, mở ra trước mắt cả một vùng trời đất rộng lớn thênh thang. Y vội cúi người vái A Hành một vái thật dài, đoạn đứng thẳng dậy, “Nàng lại giúp ta lần nữa, vậy mà ta chưa lúc nào làm tròn được lời hứa với nàng. A Hành, nàng đừng để ta làm kẻ thất ước chứ.”

A Hành cúi đầu, vẻ buồn bã, hồi lâu mới ngẩng đầu lên đáp: “Người người đều nói Xi Vưu vô tình, thực ra bệ hạ mới là kẻ vô tình nhất thiên hạ, trong lòng bệ hạ, quyền vị luôn luôn xếp hàng đầu, tới lúc khẩn cấp, bệ hạ có thể vứt bỏ bất cứ ai. Bởi thế, ta chẳng nên đưa ra yêu cầu gì cả, chỉ tổ làm khó bệ hạ, đồng thời khiến bản thân thất vọng mà thôi.”

Ánh mắt Thiếu Hạo đầy đau đớn, môi mấp máy toan phản bác, nhưng y chợt nhận ra A Hành đã nói lên một sự thực tàn nhẫn. Phụ vương, huynh đệ, Xương Ý, Thanh Dương, Nặc Nại, thậm chí cả A Hành, từ người thân đến bạn bè, chẳng phải đều bị y vứt bỏ đấy ư?

A Hành mỉm vười, ánh mắt thoáng vẻ khẩn cầu: “Chỉ có chuyện này, nếu có thể, xin bệ hạ dùng quyền lực của mình bảo hộ cho Tiểu Yêu. Đứa bé này có lẽ là mối nhục lớn nhất trong đời bệ hạ, nếu bệ hạ vì thế mà oán hận, xin cứ hận ta đây, đừng trút giận lên nó!”

Đáy mắt Thiếu Hạo loáng ánh lệ: “Nàng quên rồi ư, lúc nàng hôn mê, ta vẫn ngày đêm săn sóc cho Tiểu Yêu mà. Mỗi ngày sau khi bãi triều, chỉ có nó hớn hở chạy lại ôm chầm lấy ta, thấy ta cau mày, nó lại giơ bàn tay nhỏ xíu xoa xoa vuốt giãn, cũng chỉ có nó dám chê ta làm mặt nghiêm nghị rất xấu, dám nổi cáu với ta. Tiểu Yêu là người duy nhất trên Ngũ Thần sơn thật lòng đối đãi với ta, nó đã đem đến cho ta bao nhiêu hạnh phúc, chuyện khác thì ta không dám hứa, nhưng ta hứa với nàng, nó sẽ mãi mãi là con gái của ta!”

A Hành vúi mình vái thật dài, “Đa tạ bệ hạ.” Đoạn nàng thẳng người dậy, sải bước bỏ đi.

“A Hành.”

A Hành ngoảnh lại, nghiêm trang hạ lệnh, “Xin Tử Thần tướng quân lập tức đi phối hợp cùng Ứng Long tướng quân, chuẩn bị tấn công Thần Nông.”

Thiếu Hạo hiểu A Hành đã hạ quyết tâm, từ giờ khắc này trở đi, mọi lời nói ra sẽ chỉ còn là quân lệnh. Y đành khom người nhận lệnh, “Vâng!”

Từ lúc A Hành xuất chinh, Vân Tang vẫn thấp thỏm không yên.

Vì bị canh giữ nghiêm ngặt, khó mà nhận được thông tin chính xác từ bên ngoài, Vân Tang đành len lén quan sát cử chỉ lời nói của Hoàng Đế để đoán biết tình hình chiến trận.

Mấy ngày trước, nàng phát hiện ra Hoàng Đế hành tung khác lạ, tựa hồ đang bí mật trù tính gì đó, bèn đánh liều thử cầu kiến. Nếu như bình thường, Hoàng Đế sẽ lập tức triệu kiến nàng, nhưng lần này ông ta lại cự tuyệt.

Vân Tang thận trọng dò xét, cuối cùng từ lời nói của Chuyên Húc và đám cung nhân, nàng cũng nghe được tin Hoàng Đế đã rời khỏi Hiên Viên thành, không những thế, cùng đi còn có cả Ly Chu và Tượng Võng. Vân Tang không đoán được rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, nhưng nàng biết đại tướng cầm quân một khi đi khỏi, nhất định có điều không ổn.

Suy đi tính lại, nàng quyết định trốn khỏi Hiên Viên, đích thân đem chuyện này tới báo với Xi Vưu.

Nửa đêm, nàng len lén chuồn xuống núi, chạy thẳng tới Ký Châu, nơi A Hành cùng Xi Vưu đang quyết chiến.

Có điều vừa rời khỏi Hiên Viên sơn, Vân Tang lập tức bị thị vệ Hoàng Đế phái tới giám sát phát hiện. Mấy chục tên thị vệ đuổi riết đằng sau, khuyên nàng quay lại, nhưng Vân Tang vẫn một mực cự tuyệt. Đám thị vệ hết cách, đành tuân theo mật lệnh của Hoàng Đế, cưỡng chế bắt nàng trở lại.

Vân Tang cưỡi Bạch Thước, vừa đánh vừa chạy, vừa chạy vừa trốn, hướng thẳng đến Trung nguyên.

Tuy mấy năm gần đây, Vân Tang được Luy Tổ dạy bảo, thần lực tiến bộ đáng kể, nhưng dù sao cũng không chống nổi mấy chục tên thị vệ, chạy đến gần Tuyên sơn, nàng đã bị trọng thương. Bạch Thước cũng bị thương một bên cánh, khó mà bay tiếp được.

Bất đắc dĩ, Vân Tang đành đáp xuống Tuyên sơn.

Mấy tên thị vệ định thừa cơ khống chế nàng, bắt về Hiên Viên sơn. Vân Tang vừa cao giọng mắng mỏ uy hiếp chúng, vừa lấy ngón tay đào đất, trồng xuống đó một hạt dâu giống vẫn giấu trong khuyên tai, đoạn cắt cổ tay, lấy máu tưới cho cây. Hạt dâu giống này là phụ vương để lại cho nàng, lúc còn ở Triêu Vân điện, khi nhắc tới phụ vương, nàng từng đưa cho Luy Tổ xem qua, định tặng lại luôn cho bà. Luy Tổ bỏ vào kén tằm ủ thêm ba năm, lại trao cho nàng, dặn nàng luôn mang theo bên mình, gặp lúc nguy cấp thì trồng xuống đất, dùng máu tưới lên để tương thông linh lực với cây này.

Vân Tang cũng chẳng hiểu hạt dâu giống này có thể giúp gì được cho mình, chỉ đành ôm lấy hi vọng cuối cùng mà thử một lần thôi.

Được máu tươi tưới tắm, hạt dâu tức tốc nảy mầm, đâm chồi, chẳng mấy chốc đã trở thành một gốc dâu cực lớn, chu vi chừng năm mươi thước, cành nhánh đan xen chỉa ra bốn phía, như một chiếc ô khổng lồ, chu vi mỗi phiến lá cũng đến hơn một thước, giữa sắc xanh biếc lại ẩn hiện những vân đỏ, như những sợi tơ máu. Giữa kẽ lá là vô vàn chùm hoa vàng rực, đài hoa xanh ngắt, đẹp đến lóa mắt, tỏa ra hương thơm ngan ngát.

Cái cây lớn lên vùn vụt, linh khí trong trời đất cũng đồng loạt tụ lại quanh thân cây. Vô vàn cánh bướm rực rỡ đánh hơi thấy liền bay đến theo lời hiệu triệu, càng lúc càng đông, rợp cả đất trời, cơ hồ che phủ luôn cả ngọn núi này. Phấn lân tinh trên người chúng bay tứ tán, làm vẩn đục cả bầu không khí.

Đám thị vệ xưa nay đâu có ngờ mấy con côn trùng nhỏ xíu tụ tập lại thành ra khủng khiếp đến vậy. Một chút phấn thì không sao, nhưng bụi phấn dày đặc thế này khiến bọn chúng không sao thở được, dùng thần lực tiêu diệt một bầy, lại có cả đống bu đến đông nghẹt. Đám thị vệ không thể tiếp cận Vân Tang, nhưng lại sợ mệnh lệnh của Hoàng Đế, không dám bỏ đi, chỉ biết luẩn quẩn dưới núi.

Vân Tang bải hoải dựa vào thân cây, thầm nói với Viêm Đế và Luy Tổ: “Đa tạ phụ vương, đa tạ mẫu hậu.”

Luy Tổ từng dạy nàng rằng, loài vật mạnh nhất trên đời không phải là hổ, cũng chẳng phải báo hay gấu, mà chính là côn trùng. Côn trùng tuy nhỏ nhưng số lượng lại lớn vô cùng, đâu đâu cũng có, hơn nữa còn sống quần cư, chia sẻ tin tức cùng nhau, mọi chuyện trên đời đều không thể lọt khỏi tai mắt chúng.

Trước đây, Vân Tang chưa hiểu được câu nói này, nhưng hiện giờ nàng đã rõ. Gốc dâu này sinh trưởng nhờ máu nàng tưới tắm, nàng tựa vào thân dâu, tương thông cùng cây dâu, từng cánh bướm bay qua bay lại, hoặc đậu lên cành, hoặc bám vào phiến lá, chỉ cần điều khiển đàn bướm, nàng có thể biết được tất cả mọi chuyện xảy ra dưới gầm trời này.

Tuy làm vậy rất hao tổn linh lực, mà bản thân nàng đang bị trọng thương, nhưng nàng muốn biết trận chiến giữa Xi Vưu và A Hành đã bắt đầu hay chưa, nàng muốn thấy lại quê cũ Thần Nông của mình, nàng còn muốn trông thấy y!

Vân Tang ngoảnh mặt về phía Đông. Như cảm nhận được tâm ý của nàng, đàn bướm cũng lũ lượt bay về phía Đông, kết thành từng bầy đàn đông nghịt, rực rỡ tựa ráng chiều, vô cùng đẹp đẽ.

Đám mây rực rỡ bay đi, trước mắt Vân Tang cũng trải ra một dải đất mênh mông vô bờ bến.

Cảnh trí càng lúc càng quen thuộc, bay nhanh lên nào, bay nhanh thêm chút nữa đi!

Máu tươi ròng ròng nhỏ xuống, tưới tắm cho cây, Vân Tang tựa mình vào thân cây, khóe môi lộ nét cười. Sắp về đến Thần Nông rồi, là Thần Nông mà nàng sớm nhớ chiều mong, là quê hương của nàng!

Mây ráng cuộn lên cuối trời Đông, ánh vàng chói lọi ló ra, lại một bình minh nữa bắt đầu.

Mặt trời vừa ló dạng, trên dải đồng hoang Ký Châu đã dậy lên tiếng kèn hiệu lảnh lót hào hùng, tiếp đó là tiếng trống trận thùng thùng như sấm, kinh thiên động địa, xé toang bầu không khí tĩnh lặng. Tất cả tướng sĩ ai vào chỗ nấy, kết thành trận thế dưới sự chỉ huy của Ứng Long, chuẩn bị tấn công.

Si Mỵ Võng Lượng lập tức chạy đi gọi Xi Vưu: “Đại tướng quân, đại tướng quân…” Nào ngờ Xi Vưu đã rời trướng tự lúc nào, đang phóng mắt trông về phía Hiên Viên.

A Hành toàn thân vận chiến bào, đứng trên mây, hai tay cầm dùi, liên tục thúc trống, tiếng trống thì thùng, bi tráng kịch liệt, như thể đang nhắc nhở Xi Vưu, hôm nay là trận quyết chiến giữa đôi bên, phải dốc toàn lực ứng phó!

Xi Vưu lệnh cho Phong Bá và Vũ Sư: “Hôm nay Hiên Viên tất có kỳ mưu, quyết dồn chúng ta vào đường cùng, các ngươi phải dốc toàn lực ứng phó!”

“Vâng!” Phong Bá và Vũ Sư lập tức tập kết toàn quân, chuẩn bị nghênh chiến.

Ứng Long thúc động trận thế, khơi thông dòng nước, dẫn nước sông ngầm tràn lên mặt đất.

Tướng sĩ Thần Nông vừa xếp thành trận thế ngay hàng thẳng lối, chuẩn bị nghênh địch, chợt trông thấy giữa cánh đồng hoang cuộn lên vô vàn con sóng dữ, ào ào đổ ập về phía mình, không khỏi rú lên kinh khiếp.

Phong Bá và Vũ Sư lập tức dàn quân bày trận, chống lại trận thế của Ứng Long.

Cuồng phong nổi lên tứ phía, nhổ bật cả rễ đại thụ, mưa rào rào trút xuống, mù mịt cả đất trời, đá tảng bị cuốn lên, dòng chảy từ từ đổi hướng lại ập về Hiên Viên tộc.

Ứng Long thét gọi: “Tử Thần.”

Thiếu Hạo lập tức đứng vào trận nhãn, có linh lực của y điều khiển, tình thế tức thì xoay ngược, dòng nước cuộn lại đổ về phía Thần Nông tộc.

Si, Mỵ, Võng, Lượng trấn giữ bốn phương vị Đông, Tây, Nam, Bắc, hội tụ linh lực trời đất hỗ trợ cho Phong Bá và Vũ Sư, nhưng cả mấy người bọn họ hợp lại cũng không địch nổi thế công của Ứng Long.

Phong Bá cau mày cười phá lên: “Ứng Long tuy là Long tộc, nhưng thần lực của ta và Vũ Sư nhất định không kém gì y. Nghịch chuyển địa thế, dẫn nước sông ngầm từ dưới lòng đất lên, dựa vào linh lực của Ứng Long, quyết không thể thực hiện được, rốt cuộc là kẻ nào đang giúp y thế nhỉ?”

Nước sông cuồn cuộn mỗi lúc một nhiều, càng lúc càng thêm chảy xiết, mênh mông khắp đồng hoang, khiến cả đất trời đều trở nên âm u ảm đạm, toát lên vẻ kinh khủng khôn tả.

Phong Bá và Vũ Sư đã sức cùng lực kiệt, nhưng nước lũ vẫn cuồn cuộn đổ ập tới, tốc độ không hề suy giảm, sắp nhấn chìm cả đại quân tới nơi.

Si Mỵ Võng Lượng tuyệt vọng thét lên: “Xi Vưu, làm sao bây giờ?”

Xi Vưu cưỡi đại bàng bay đến, ngưng tụ toàn bộ linh lực, vung đao chém xuống, chỉ nghe một tiếng động long trời lở đất vang lên, cát bụi mù mịt khắp nơi. Giữa màn sương mù, mặt đất nứt ra một khe sâu thăm thẳm không thấy đáy, toàn bộ nước sông đều trút cả xuống khe, tựa như một ngọn thác khổng lồ.

Thần Nông đại quân như chết đuối vơ được cọc, đồng thanh hô vang, thị uy với quân đội Hiên Viên. Tướng sĩ Hiên Viên vừa trông thấy Xi Vưu áo đỏ phấp phới, đạp trên lưng đại bàng, uy phong lẫm liệt giữa tầng không đã sợ mất mật.

Xi Vưu phóng mắt trông xuống đại quân Hiên Viên, nhưng chẳng thấy A Hành.

“Tiêu Dao!”

Tiêu Dao hiểu ý Xi Vưu, liền biến thân thành cá. Xi Vưu đứng trên lưng Bắc Minh côn, theo thác nước rơi thẳng xuống khe sâu hun hút, chớp mắt đã mất dạng.

Thoắt chốc, mọi người thấy mặt đất từ từ nâng lên, nước sông bắt đầu đổi hướng, đổ xuống nơi địa thế thấp hơn.

Ứng Long biết Xi Vưu đang giở trò dưới lòng đất, lập tức vận toàn bộ linh lực, hóa thành vô số rắn đủ màu đủ loại, theo dòng nước lao tới. Linh xà nhanh nhẹn bơi lặn dưới nước như điện xẹt, chỉ thấy từng vệt sáng nào đỏ, nào lam, nào tím, nào vàng, nào bạc lấp loáng lóe lên, như vờn như múa, đẹp đến mê hồn. Dưới sự thúc động của linh xà, dòng nước như có sinh mệnh, bắt đầu băng đèo vượt núi, đổ ập về phía Thần Nông.

Xi Vưu ngưng tụ thổ linh, bắn ra hàng ngàn lưỡi thổ kiếm màu vàng, hàn quang lấp loáng, xuyên nước phá đất, đâm thẳng vào chỗ hiểm của linh xà, từng vệt sáng vàng liên tục lóe lên, diệt sạch đám linh xà đang dẫn dòng.

Thân mình Ứng Long chao đảo, mắt mũi ứa máu, hiển nhiên đã bị trọng thương.

“Tướng quân nghỉ ngơi chút đi.” Thiếu Hạo biết Ứng Long không phải đối thủ của Xi Vưu, bèn bước lên khống chế cả trận pháp.

Dưới sự thúc động của Thiếu Hạo, nước trên mặt đất bắt đầu tụ lại một chỗ, như sóng biển phẫn nộ thét gào lao tới, toan xông qua gò đồi Xi Vưu vừa nâng lên.

Mắt thấy sóng lớn đã tràn qua gò đồi, sắp ập xuống đầu quân Thần Nông, Xi Vưu lập tức cưỡi Tiêu Dao từ dưới lòng đất vọt lên, đứng giữa không trung, hai tay kéo gò đồi cao thành đỉnh núi.

Linh lực của Xi Vưu và Thiếu Hạo đụng độ trực tiếp với nhau, nước sông biến thành năm con rồng lớn, quấn lấy đỉnh núi cao ngất, thủy long muốn đánh đổ núi, núi lại muốn đè chết thủy long.

Hai vị thần linh lực cao cường nhất thiên hạ giao chiến khiến đất rung núi chuyển, cát bay đá chạy, trời đất tối sầm, tựa hồ trời long đất lở tới nơi, thế giới sắp đến hồi hủy diệt, ngay mấy kẻ thần lực cao cường như Phong Bá, Vũ Sư cũng chẳng dám lại gần, mọi người đều hốt hoảng tránh né, cả đất trời đều biến thành chiến trường của Xi Vưu và Thiếu Hạo.

Kịch chiến hồi lâu, năm con thủy long thân mình to lù như ang nước đã riết chặt ngọn núi, khiến nó càng lúc càng nhỏ lại, sắp sụp đổ tới nơi. Xi Vưu đứng trên lưng đại bàng quát lên một tiếng, xông thẳng về phía thủy long, vận sức ném trường đao trong tay ra, trường đao biến thành một lưỡi dao khổng lồ đỏ lòe màu máu, thế như sấm sét bổ xuống, chém chết hai con thủy long. Trong tiếng rú đau đớn của thủy long, Xi Vưu cũng bị đám thủy long cuồng nộ đánh rớt khỏi lưng đại bàng, rơi thẳng xuống vực sâu, bị dòng nước xiết cuốn đi mất tích.

Bọn Ứng Long, Ly Oán đồng loạt rộ lên hoan hô trong khi bọn Vũ Sư, Phong Bá lại đùng đùng phẫn nộ, bi thương tràn lòng ngực, thét lên: “Xi Vưu!”

Tiêu Dao rít lên, lao bổ xuống vực, xông pha dưới nước, quyết tìm cho được Xi Vưu.

Thời gian nặng nề trôi qua, khi mọi người đều ngỡ rằng Xi Vưu đã chết chắc, bắt đầu rơi vào tuyệt vọng, chợt thấy hắn ngạo nghễ đứng trên lưng đại bàng vọt lên khỏi vực nước sâu, sắc mặt lạnh băng, khóe môi còn vương vết máu, lớn tiếng quát: “Nổi trống!” Hắn đánh đối phương trọng thương, đối phương cũng đả thương hắn. Nhìn khắp đại hoang hiện giờ, có thể dựa vào thần lực đả thương hắn chỉ có mình Thiếu Hạo, té ra trận này Thiếu Hạo lại đích thân tới hỗ trợ.

Xi Vưu bất ngờ đã đành, Thiếu Hạo còn kinh ngạc hơn. Y đã dốc toàn bộ linh lực kết hợp cùng trận pháp được bố trí cẩn mật, vậy mà vẫn địch không lại một Xi Vưu chỉ tùy cơ ứng biến. Tuy y và Thanh Dương thần lực cao cường nhưng vẫn phải dùng tâm pháp khống chế linh khí trong thiên địa theo ý mình, còn Xi Vưu lại như hùng ưng giữa trời cao, cá bơi trong làn nước, hòa làm một thể với thiên địa tạo hóa, đại đao vô hình, tùy ý sử dụng.

Si Mỵ Võng Lượng thúc trống thùng thùng, Phong Bá và Vũ Sư nhận lệnh toàn lực tấn công, mưa lớn nghiền nát tất cả, gió to tấn công mọi thứ, lại thêm địa hình đảo ngược khiến nước lụt tràn lan khắp nơi, phá tan trận thế của Hiên Viên tộc, tướng sĩ Hiên Viên bỏ chạy tứ tán.

Ứng Long đành biến lại nguyên hình, toan xông ra ngăn dòng nước lũ. A Hành hỏi Thiếu Hạo: “Không thể khiến nước rút trở về sông ngầm dưới đất ư?”

Thiếu Hạo sắc mặt tái nhợt, máu tươi thấm ra đỏ ngực. Vừa rồi Xi Vưu chém đứt hai con thủy long của y, hiển nhiên cũng đã đả thương y, dẫu có tái đấu, e rằng vẫn sẽ thất bại. Y lắc đầu, “Để ngăn nước lũ, Xi Vưu đã lao xuống lòng đất, nâng cao mặt đất lên, thực ra vẫn có thể hồi phục lại như cũ, nhưng vừa nãy Bắc Minh côn vì cứu Xi Vưu đã quẫy loạn dưới đó, vô tình phá hủy tất cả mạch ngầm bên dưới rồi. Địa thế bị hủy, nghịch chuyển trời đất, nhất định sẽ xảy ra nạn lớn, hiện giờ bấy nhiêu nước lũ mênh mông này chẳng biết đổ đi đâu, chỉ có thể hoặc nhấn chìm Thần Nông, hoặc nhấn chìm Hiên Viên, không phải chúng chết thì là ta chết mà thôi.”

Dòng nước lũ phía trước bị Xi Vưu nâng núi lên ngăn chặn đã đổ ngược trở lại, trong khi nước phía sau vẫn cuồn cuộn tràn ra như một con sông trên mặt đất, mắt thấy cả vùng hoang sắp hóa thành biển nước tới nơi, Thiếu Hạo vội bảo A Hành: “Nàng lập tức đem quân rút lui, ta sẽ mở một nhánh sông, dẫn nước lũ chảy ra biển.”

Ứng Long cũng khuyên A Hành: “Vương cơ, mau rút đi thôi, thần không chống chọi được lâu nữa đâu.”

Phong Bá và Si Mỵ Võng Lượng đứng trên đỉnh núi, trông thấy trận thế Hiên Viên bị nước lũ chia năm xẻ bảy, tướng sĩ bỏ chạy tán loạn, nhất loạt ồ lên hoan hô: “Chúng ta thắng rồi, chúng ta thắng rồi!”

Xi Vưu đứng lặng quan sát mọi thứ, vẻ mặt mệt mỏi khôn kham, ánh mắt chất ngất bất lực và đau đớn.

A Hành cưỡi A Tệ bay lên, phóng mắt nhìn ra xa, chỉ thấy mặt đất mênh mông nước, nhánh sông của Thiếu Hạo vẫn chưa mở xong, mà Ứng Long đã kiệt sức trước đòn hợp công của Phong Bá và Vũ Sư, Hiên Viên tộc đang dần rơi vào đường cùng.

Đưa mắt nhìn những gương mặt kinh hoàng của tộc nhân, nàng hiểu chỉ cần rút lui một lần này thôi, bọn họ sẽ thất bại liên tiếp, cứ thế cho tới ngày rút khỏi Hiên Viên sơn.

Gương mặt non nớt cố làm ra vẻ kiên cường của Chuyên Húc, dung nhan tiều tụy già nua của Hoàng Đế, bách tính tuyệt vọng bi ai trong Hiên Viên thành, vô số nam tử Hiên Viên vì nước quên thân như Nhạc Uyên, cùng vợ và con gái họ… Nàng không thể để bọn họ chết đói như mẹ của cô bé kia được! Nàng không thể để bọn Nhạc Uyên chết không nhắm mắt!

Không, quyết không thể rút lui!

Ứng Long ngẩng đầu rống lên, van nài A Hành lập tức dẫn quân rút lui.

A Hành đau đáu nhìn về phía vầng dương chói lòa, ánh mặt trời xói vào mắt nàng, nhưng nàng không hề chớp mắt, chỉ vuốt ve A Tệ, khẽ hỏi: “Giúp ta làm một việc này, được không?”

A Tệ chẳng chút do dự, gật đầu ngay.

“Mày phải sống nhé!”

Vừa dứt lời, A Hành liền nhảy khỏi lưng A Tệ, rơi thẳng xuống đất, chợt nàng ngoái đầu lại, mỉm cười: “Về Ngọc sơn tìm Liệt Dương đi.”

Trong lúc rơi xuống, A Hành đồng thời dang hai tay ra, phát tán toàn bộ nguồn sức mạnh bị phong ấn trong thân thể. Lúc này vầng dương vừa lên tới đỉnh đầu, chính là lúc năng lượng mặt trời mạnh nhất trong ngày, sức mạnh trong người A Hành cũng bùng lên như núi lửa phun trào, toàn thân tỏa sáng chói lọi.

Cảm nhận thấy khí tức của A Hành tắt lịm, A Tệ kinh hoàng ngửa cổ tru lên thảm thiết, Xi Vưu và Thiếu Hạo nghe tiếng A Tệ, vội nghoảnh lại, liền trông thấy toàn thân A Hành phát sáng rực rỡ, đồng loạt thét lên thất thanh: “A Hành, đừng!” Nhưng đã chậm một bước, bóng A Hành dần dần tan biến giữa vầng sáng chói lòa.

A Hành từ từ rơi xuống đất, tỏa ra ánh sáng chói lọi, tựa hồ mặt đất vừa có thêm một vầng mặt trời nóng bỏng, ánh mặt trời rọi tới đâu, nước lũ lập tức bốc hơi đến đó, dưới sự thiêu đốt của mặt trời, cả biển nước dần dần tan biến, đất đai từ từ khô nứt, cây cối đều héo rũ.

Si Mỵ Võng Lượng xông đến ngăn căn A Hành, nhưng vừa tới gần đã bị bỏng, vội thét lên lui lại, may mà Vũ Sư kịp thời hô mây làm mưa, cản A Hành lại giây lát, mới cứu được mạng bọn chúng.

Thoạt đầu A Hành còn có thể khống chế sức mạnh bản thân, nàng vốn chỉ định làm biển nước bên dưới bốc hơi mà thôi, nhưng tựa như con đê ngăn lũ bị phá thủng một lỗ, nước lũ cứ thế ào ào tràn sang, không sao ngăn nổi, xé toang hoác lỗ thủng ra, cuối cùng phá hủy cả con đê.

Luồng sức mạnh trong người A Hành tương thông với vầng dương trên trời, càng tuôn càng nhiều, dưới tác động của nguồn năng lượng mạnh mẽ ấy, cặp mắt nàng dần biến thành đỏ rực, thần trí bắt đầu mơ hồ.

A Hành bước tới đâu, tướng sĩ kêu gào ngã gục tới đó, nước trong thân thể họ đều bốc hơi rồi cạn kiệt nhanh chóng, chẳng mấy chốc đã biến thành xác khô.

Vũ Sư từ trên không ngã nhào xuống đất, y vốn tu luyện thủy linh, năng lượng thái dương của A Hành là khắc tinh của y, thân thể y bị trọng thương, ngay cả đi lại cũng rất khó nhọc.

Ứng Long chẳng còn trông rõ được nguyên thần của A Hành, chỉ thấy một cặp mắt đỏ ngầu như máu giữa vầng sáng chói lòa, chẳng khác nào ác ma, lướt đến đâu là phá hủy tới đó. Y vội biến thành hình người, cuống quýt thoái lui, may mà phía trước có nước cản, phía sau lại có Thiếu Hạo hỗ trợ, bằng không hẳn y cũng bị nướng chín. Ứng Long hốt hoảng hỏi Thiếu Hạo: “Đó là gì vậy? Rốt cuộc vương cơ đã biến thành cái gì?”

Thiếu Hạo thần sắc thê lương, không nói một lời, gấp rút đổi dòng nhánh sông vốn định dẫn thẳng ra biển chặn ngang trước mặt bọn họ, lợi dụng dòng nước cuồn cuộn để bảo vệ tướng sĩ Hiên Viên, đây là việc duy nhất y có thể làm cho A Hành trong lúc này.

Phong Bá đỡ Vũ Sư, trợn mắt nhìn A Hành đang từng bước tiến lại gần bọn họ, kinh hoàng hỏi Xi Vưu: “Cái gì thế kia?” Thứ pháp thuật này hùng mạnh là vậy, nhưng chẳng phân biệt địch ta, sẵn sàng hủy diệt tất cả, có phần quá vô nhân đạo.

Xi Vưu toan lợi dụng dòng nước bảo vệ tướng sĩ Thần Nông, nhưng nước đã chảy cả xuống chỗ trũng, bị Thiếu Hạo khống chế để bảo hộ binh sĩ Hiên Viên. Tuy hắn thông thạo cả ngũ linh, nhưng luận về năng lực ngự thủy, dù sao không thể bì được với Thiếu Hạo chuyên tu thủy linh, chẳng cách nào đoạt được khống chế thủy linh trong tay Thiếu Hạo.

Thấy những xác khô la liệt đầy mặt đất đều bị A Hành hun đốt đến cháy đen, tan thành tro bụi, tướng sĩ Thần Nông kinh hoàng hoảng loạn, sĩ khí tan tác, mệnh ai nấy tháo chạy.

Đám tùy tùng của Xi Vưu tuy cũng sợ hãi nhưng tất cả đều thẳng lưng ưỡn ngực, chưa được lệnh của hắn, quyết không lùi nửa bước. Si Mỵ Võng Lượng nhìn các huynh đệ xung quanh, phẫn nộ gào lên: “Rốt cuộc là thứ ma vật gì thế kia? Lẽ nào trời muốn diệt chúng ta thật ư?”

Xi Vưu cởi phăng tấm áo A Hành tặng xé nát rồi ném tung ra, từng mảnh áo bào mang linh khí của Ngọc sơn rơi xuống đất, lập tức mọc lên vô số cây đào, chẳng mấy chốc đã thành một khoảnh rừng đào xanh ngắt mát rượi, ngăn hơi nóng phả đến.

Phong Bá và Vũ Sư thấy Xi Vưu xưa nay cuồng vọng ngạo nghễ, vậy mà giờ chỉ thủ không công, cũng thầm đoán được mấy phần, vội khuyên nhủ: “Ả đã mất hết thần trí, bất phân địch ta, tiến nhập ma đạo rồi, huynh quyết đừng nể tình xưa mà nương tay.”

Xi Vưu đưa mắt nhìn A Hành đang từ từ tiến lại, vội hạ lệnh: “Quân đội giao cả cho các người, mau rút lui ngay đi, ta sẽ dẫn nàng rời khỏi đây.”

“Vậy chừng nào huynh quay lại? Chúng ta hẹn gặp ở đâu đây?

Xi Vưu lảng đi: “Ta vốn là kẻ thô lỗ sinh trưởng giữa núi rừng, quen thói phóng khoáng tùy tiện, cầm quân ra trận thì được, nhưng chẳng thể trị quốc an dân, đem lại thái bình cho muôn dân thiên hạ. Hoàng Đế tuy chẳng trọn tư tình, không vẹn đại nghĩa, có điều bậc quân vương đều phải vô sỉ vô tình như vậy mới có thể giữ vững ngai vị và thiên hạ, khiến bách tính an cư lạc nghiệp. Chinh chiến bấy nhiêu năm, muôn dân thiên hạ cạn kiệt lắm rồi, các người thân là con dân Thần Nông, những việc có thể làm cho Thần Nông đều đã làm cả, đánh xong trận này, nếu như còn sống thì tìm một cô vợ, sinh con đẻ cái, vui hưởng thái bình đi thôi.”

Vũ Sư Xích Tùng Tử chăm chú nhìn Xi Vưu, ánh mắt lấp loáng, cứ chần chừ muốn nói lại thôi.

Xi Vưu thản nhiên cười, “Người người đều nói Nặc Nại tướng quân của Cao Tân dung mạo xuất chúng, tài hoa cái thế, tính tình văn nhã phong lưu, là người trong mộng của vô số thiếu nữ Cao Tân, chỉ tiếc lại vì tư tình nam nữ hoang đường mà cả ngày đắm chìm trong rượu, biến thành phế nhân. E rằng các thiếu nữ Cao Tân từng mê mẩn y chẳng có ai ngờ được y lại tự hủy hoại dung mạo lẫn thân thể, ẩn náu tại Thần Nông hai mươi năm.”

Phong Bá trợn mắt ngạc nhiên nhìn Vũ Sư, vẻ đề phòng. Vũ Sư cũng giật nảy mình kinh hãi, biết rõ Xi Vưu thủ đoạn tàn nhẫn, y lẳng lặng nắm chặt binh khí, sẵn sàng tự vẫn bất cứ lúc nào, “Ngươi biết từ bao giờ?”

“Ta biết lâu rồi. Tuy ngươi và Thiếu Hạo tính toán rất chu toàn, biết mọi trò biến hình và dịch dung đều không thể qua được mắt ta, bèn dùng thuốc độc hủy hoại dung mạo, thân thể, lại biết rằng khí chất quý tộc được rèn luyện từ nhỏ của các người khó mà che giấu được, bèn cố tình mạo danh Xích Thủy Thị trong Tứ thế gia, Thiếu Hạo còn buộc Xích Thủy Thị phối hợp, ngụy tạo lai lịch và quá khứ của ngươi. Có điều ta xưa nay vốn tính đa nghi, ngay đến người yêu ta còn không dễ gì tin tưởng, huống hồ là ngươi?”

“Vậy vì sao ngươi không giết ta? Trái lại, hai mươi năm nay còn coi ta như huynh đệ?”

“Nếu là mấy trăm năm trước đây, một khi phát hiện ngươi lừa gạt, nhất định ta sẽ lấy mạng ngươi. Nhưng mấy trăm năm trước, khi A Hành bị ta ép rơi xuống Ngu uyên, ta mới hiểu ra một điều, không thể chỉ quan sát bằng mắt, mà phải dùng trái tim để cảm nhận, bởi vậy ta bèn cho ngươi thời gian, để phân tích xem ngươi rốt cuộc là ai. Bấy nhiêu năm nay, bất kể ngươi là Nặc Nại hay Xích Tùng Tử, ngươi cũng đã dùng kỹ nghệ rèn đúc tinh xảo của Cao Tân rèn binh khí cho quân ta, giúp tướng sĩ Thần Nông có binh khí đối phó với Hoàng Đế; lúc cầm quân tác chiến, ngươi luôn dũng cảm xông lên trước nhất, dốc hết tâm sức giúp Thần Nông đối kháng Hiên Viên. Mọi việc ngươi làm đều có lợi cho Thần Nông, tại sao ta phải giết ngươi?”

Vũ Sư lặng thinh khômg đáp, bàn tay cầm binh khí từ từ lỏng ra.

Xi Vưu cười hỏi: “Hẳn Thiếu Hạo dặn ngươi phải tìm cách khiến ta và Hoàng Đế lưỡng bại câu thương, để Cao Tân đứng giữa thủ lợi, ngươi cũng đã thuận lợi hoàn thành nhiệm vụ rồi. Vừa nãy rõ ràng ngươi chẳng cần dốc hết sức lực như thế, cứ làm quấy quả rồi lẳng lặng chuồn đi là xong, nhưng ngươi lại vì cứu Si Mỵ Võng Lượng mà không ngại đối kháng với A Hành đến nỗi trọng thương. Không biết hiện giờ ngươi có còn phân biệt được mình rốt cuộc là Nặc Nại thuộc hạ của Thiếu Hạo hay là Xích Tùng Tử, huynh đệ của Xi Vưu không?”

Gần hai mươi năm, đối với Thần tộc cũng chẳng phải là dài, nếu gặp lúc thái bình thanh nhàn thì chỉ chớp mắt là qua, nhưng hai mươi năm giáo vàng ngựa sắt, chinh chiến tứ phương, sớm chiều bầu bạn, sinh tử ký thác, cùng xung phong ra trận, cùng chuốc chén say khướt, cùng bị thương, cùng cười nói… Trên thế gian này, còn quãng thời gian nào khiến người ta kích động hơn những năm tháng thiết huyết hào tình đó chứ? Còn thứ tình cảm gì sâu nặng hơn tình đồng chí sống chết có nhau?

Hai mươi năm trước, y kiên cường tự hạ độc hủy hoại dung mạo mình, hủy dung cũng chẳng có gì quan trọng, chỉ cần trong lòng ghi nhớ mình là ai thì được rồi, có điều hai mươi năm sau, lòng y đã hoàn toàn đổi khác, rốt cuộc y là ai đây? Là Xích Tùng Tử huynh đệ của Xi Vưu, hay Nặc Nại thuộc hạ của Thiếu Hạo? Vũ Sư lộ vẻ bi ai khôn xiết.

Phong Bá đã hoàn toàn bỏ hết cảnh giác, vỗ mạnh vào vai Vũ Sư, thân mật đỡ lấy y. Đúng như Xi Vưu nói, dù y là ai chăng nữa, trong lòng Phong Bá, Vũ Sư vẫn là hảo huynh đệ từng cứu mạng gã trên chiến trường vô số lần.

Xi Vưu cười, “Không chỉ mình ta biết ngươi là Nạc Nại đâu, còn có một người nữa kìa. Tuy ngươi đã hủy hoại dung mạo, tàn hủy thân thể, nhưng kể từ sau khi gặp ngươi trong hôn lễ, nàng ta vẫn luôn nghi ngờ.” Xi Vưu đưa mắt nhìn A Hành hai mắt đỏ ngầu, đã hoàn toàn biến thành ác ma, “Bất kể ngươi biến thành hình dạng gì, xấu xí đáng sợ ra sao, chỉ cần trái tim ngươi không thay đổi, thì trong lòng nàng ấy, ngươi vẫn mãi là ngươi.”

Vũ Sư ngẩn người kinh ngạc, hóa ra Vân Tang đã nhận ra từ lâu ư? Nàng vẫn biết y ở đây ư?

Bấy nhiêu tình tiết vụn vặt mơ hồ bỗng trở nên rõ ràng sáng tỏ hơn bao giờ hết.

Chẳng biết từ lúc nào, y luôn có những con bướm đêm bám theo bên người, lúc y ngồi một mình cô độc, cánh bướm đêm khẽ khàng đậu lên tay y, lặng lẽ bầu bạn với y; lúc y đi tuần đêm, cánh bướm đêm sẽ dập dờn bay lượn xung quanh, âm thầm ở bên.

Biết bao đêm dài, chất độc trên mặt cùng vết thương trên người thi nhau hành hạ, khiến y ngủ cũng vật vã không yên. Giữa lúc nửa mơ nửa tỉnh, y luôn thấy bướm đêm phấp phới bay đến, lượn vòng trong trướng, rắc bột phấn lên vết thương cho y, xoa dịu bớt cơn đau.

Như thật như ảo, như mộng như mơ…

Tỉnh giấc, mọi thứ đã tan biến chẳng còn dấu vết, chỉ còn xác thiêu thân rơi bên giường, khiến y cứ ngỡ mình đêm qua lại quên thổi tắt đèn.

Thì ra tất cả đều là thật, dù cách xa ngàn dặm, nàng vẫn dốc hết linh lực bảo vệ cho y.

Mỗi sớm mai, khi người khác khoan khoái thức dậy sau một đêm say ngủ, Vân Tang lại xanh xao tái nhợt, kiệt quệ tinh thần bước ra khỏi nga trận ư?

Rốt cuộc, nàng đã bầu bạn cùng y qua bao nhiêu đêm trường cô tịch như thế?

Y cứ đinh ninh rằng mình đang lặng lẽ bảo vệ nàng, chứ đâu có ngờ, bấy nhiêu năm nay, nàng cũng luôn lặng lẽ bảo vệ cho y mà y không hay.

Đôi dòng nước mắt lăn dài trên chiếc mặt nạ lạnh băng của Vũ Sư.

A Hành mỗi lúc một bước đến gần, vạt rừng đào phía ngoài dần dần khô héo, thân mình Xi Vưu chao đảo, sắc mặt chợt tái nhợt.

“Ta phải dẫn nàng rời khỏi nơi đây ngay, còn chần chừ nữa mọi người sẽ chết cả nút, các ngươi cũng mau rút lui đi.”

Thấy Xi Vưu sắp đi, Phong Bá liền kéo hắn lại rưng rưng: “Xi Vưu, huynh nhất định phải quay lại nhé!” Si Mỵ Võng Lượng cùng mấy chục huynh đệ nhất loạt quỳ xuống trước mặt Xi Vưu, cả vạn tướng sĩ phía sau cũng lần lượt quỳ xuống theo.

Xi Vưu chẳng nhìn bọn họ lấy nửa mắt, sốt ruột mắng: “Đến lúc đi thì phải đi thôi, đừng có lằng nhằng khóc lóc, không đáng mặt đàn ông!” Hắn đã tận lực, không phụ lời thề xưa với Viêm Đế và Du Võng, không thẹn với tám mươi mốt huynh đệ cắt máu ăn thề, không hổ với trời đất, không thẹn với lòng mình, cầm lên được thì cũng bỏ xuống được.

Xi Vưu bước tiến thẳng về phía A Hành.

A Hành đã bước đến bên ngoài rừng đào, đi đến đâu, cây cối héo tàn đến đó, khiến Xi Vưu lại phải gia tăng linh lực.

Rừng đào xanh mướt một màu, lại thêm không khí đang ấm lên, bắt đầu nảy nụ đơm hoa, từng đóa hoa đào thi nhau khoe sắc, rực rỡ như mây ráng, kiều diễm tựa môi son.

Cặp mắt đờ đẫn của A Hành chợt lay động, toát lên vẻ đau khổ khôn cùng. Thân thể nàng vốn không chịu nổi nguồn năng lượng khủng khiếp nhường này, sức mạnh hủy diệt thiên địa ấy trong lúc hủy diệt thiên địa cũng đồng thời hủy diệt luôn nàng, khiến thần trí của nàng bị phá hủy, trở thành một cái xác không hồn, chỉ biết đi trong vô thức, hủy diệt thiên địa, để rồi cuối cùng cũng bị thiên địa hủy diệt.

Nhưng, khi trông thấy ngàn vạn gốc đào xòe nở, cảnh sắc rực rỡ mà quen thuộc ấy đã đánh thức chút ý thức còn sót lại của nàng.

Dưới cả trời rợp bóng hoa bay, nàng trông thấy Xi Vưu khí độ hiên ngang đang ngạo nghễ đứng dưới cội đào đợi mình!

Nàng chẳng còn biết mình đang ở đâu, thậm chí không biết mình rốt cuộc đã ra sao nữa, chỉ thấy mừng rỡ vô hạn, như thể quay lại lần đầu gặp gỡ dưới cội hoa đào, lại đến tết Khiêu Hoa rồi dó ư? Cuối cùng nàng có thể ở bên hắn mãi mãi rồi ư?

Thấy Xi Vưu mỉm cười, dang rộng hai tay, nàng cũng nhoẻn cười chạy thẳng về phía hắn. Nàng chẳng nhớ nổi rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì nữa, chỉ cảm thấy mệt mỏi vô chừng, như thể vừa bôn ba thiên sơn vạn thủy, thân thể đau như giần, tim cũng đau buốt, những muốn ngả vào lòng Xi Vưu ngủ vùi.

Nàng mỉm cười với tay về phía Xi Vưu, toan nắm lấy tay hắn, giữ chặt lấy niềm hạnh phúc này.

Nhưng nàng kinh hoàng nhận ra mặt đất dưới chân Xi Vưu đang khô nứt, làn da hắn cũng phỏng rộp lên, cả cánh tay cháy xém như xương khô.

“A Hành, không sao đâu, lại đây nào!” Xi Vưu vươn tay ra, mỉm cười tiến về phía nàng.

A Hành hốt hoảng lùi lại, là nàng! Lại chính là nàng! Rốt cuộc nàng đã biến thành thứ gì thế này?

Nàng kinh hãi sờ lên người mình, phát hiện trên đầu chẳng có lấy một sợi tóc, da dẻ cũng cháy sém nứt nẻ, khắp người không còn tấc da thịt nào lành lặn, nàng đã biến thành con quái vật xấu xí ghê tởm nhất thế gian này!

A Hành ôm lấy đầu, co rúm lùi lại, đoạn khóc lóc òa lên thảm thiết, nhưng nước mắt của nàng chưa kịp tràn ra khỏi khóe mắt đã bay hơi. Giờ đây, ngay cả khóc, nàng cũng không thể nữa rồi!

“A Hành, nàng còn nhớ ta không? Ta từng nói với nàng, nếu nàng thành ma, ta cũng sẽ cùng nàng trầm luân trong ma đạo kia mà!”

Xi Vưu ra sức lại gần nàng, nhưng nàng một mực khóc lóc né tránh.

Xi Vưu thê thiết gọi: “A Hành, đừng tránh ta, ta không sợ nàng đâu.”

Nhưng ta sợ, sợ quái vật xấu xí ghê tởm như ta sẽ thiêu đốt chàng thành tro bụi. A Hành vừa quyến luyến vô hạn nhìn Xi Vưu, vừa bi ai vô hạn lùi lại.

Nhìn bộ dạng đau khổ của A Hành, Xi Vưu cũng tan lòng nát dạ.

Yêu thương nhau sâu đậm là thế, vậy mà ngay cả đến gần cũng không thể, trên đời còn chuyện gì tàn khốc hơn thế nữa chăng?

Ánh mặt trời rạng rỡ rọi xuống rừng đào, khiến muôn đóa ngàn hoa đều rực lên lộng lẫy, nhưng dưới ánh mặt trời, năng lượng hủy diệt trong người A Hành lại càng mạnh thêm, chút ý thức cuối cùng của nàng cũng bắt đầu tiêu tán.

Dần dà, nàng đã quên hết tất thảy, quên Hiên Viên, quên Thần Nông, quên bản thân mình, quên Xi Vưu, quên tất cả mọi chuyện, chỉ đinh ninh ghi khắc một ý niệm cuối cùng: phải tránh xa nam tử dưới gốc đào kia, không được thiêu cháy hắn thành tro bụi.

A Hành xua xua tay với Xi Vưu, ý bảo hắn đừng lại gần, cổ họng phát ra tiếng gào ú ớ, nhưng không sao thốt nổi thành lời.

Xi Vưu rảo bước tiến về phía nàng, chợt A Hành quay ngoắt người, chạy vụt đi.

“A Hành!” Xi Vưu đuổi theo.

Hai bóng người một trước một sau, một nóng nảy, một lạnh buốt lướt ngang đồng hoang như gió, thoắt đã biến mất.

A Hành chạy xa dần, không khí cũng dần dần dịu đi, không còn nóng nực nữa, tướng sĩ hai bên đều thở dài nhẹ nhõm.

Phong Bá và Vũ Sư ra lệnh rút lui, Ứng Long trông thấy cũng không hề có ý tấn công. Vừa trải qua kiếp nạn hủy thiên diệt địa, quân sĩ đều kinh hồn bạt vía, đại tướng toàn bộ trọng thương, chẳng còn năng lực truy kích Thần Nông nữa.

Đột nhiên, tiếng kèn xung trận hào hùng lại nổi lên. Hiên Viên và Thần Nông đều kinh ngạc ngẩng lên, nhìn về phía tiếng kèn.

Bụi hồng cuồn cuộn, vó ngựa rầm rập, hơn một vạn quân sĩ đột nhiên xuất hiện đằng xa, người cầm đầu cưỡi Trùng Minh điểu ngũ sắc, mình vận giáp vàng, tỏa ánh hào quang rực rỡ.

Vũ Sư kinh hãi thốt: “Chẳng phải Hoàng Đế trọng thương rồi ư? Sao ông ta lại ra trận được? chẳng phải vẫn nói bảo vệ đất nước nên đã giao toàn bộ quân lực Hiên Viên cho Hiên Viên vương cơ rồi đấy sao? Sao lại còn một cánh quân?”

Bóng giáp vàng dẫn thiên quân vạn mã xông lên, hào quang chói lóa xói vào đáy mắt tất cả mọi người.

Tướng sĩ Hiên Viên tộc phấn khởi reo vang: “Hiên Viên Hoàng Đế!”

Tướng sĩ Thần Nông tộc kinh hoàng rú lên: “Hiên Viên Hoàng Đế!”

Giọng nói của Hoàng Đế cất lên, uy nghiêm mà ôn hòa, vang vọng khắp đất trời: “Các tướng sĩ Hiên Viên, đây là trận chiến cuối cùng, sau trận này, các ngươi có thể về nhà!”

Về nhà! Về nhà! Về nhà…

Giọng nói sang sảng đầy linh lực không ngừng văng vẳng giữa đồng hoang, có tác dụng cổ vũ nhân tâm hơn bất cứ hồi kèn nào, khích lệ sĩ khí hơn mọi lời đao to búa lớn.

Tướng sĩ Hiên Viên đang mệt mỏi rã rời lại được khích lệ đấu chí, vì mẹ, vì vợ, vì con gái, vì sắp được về nhà… Ai nấy đều dốc hết toàn bộ sức lực, theo Hoàng Đế xông thẳng về phía Thần Nông. Hùng phong của đội quân thiết kỵ Hiên Viên kiêu dũng thiện chiến nổi tiếng khắp đại hoang một lần nữa lại tái hiện.

Quân Thần Nông đã tổn thất quá nửa, Phong Bá, Vũ Sư, Si, Mỵ, Võng, Lượng dù bị trọng thương, khó mà chống đỡ nổi đòn phục kích được Hoàng Đế hoạch định từ lâu, tất cả đều biết trận này Thần Nông thua chắc.

Phong Bá cởi phăng áo áo choàng ra, quay sang chửi Vũ Sư: “Đồ gián điệp Cao Tân nhà ngươi, còn chưa mau cút về Cao Tân tìm Thiếu Hạo đi.”

Vũ Sư bước lên sánh vai cùng Phong Bá đối kháng Hoàng Đế, không quên quát trả: “Đợi đánh thắng trận này, ngươi có quỳ xuống cầu xin ông đây cũng không ở đâu.”

Cặp mắt Phong Bá lấp loáng ánh lệ, Si Mỵ Võng Lượng cũng phá lên cười hùa theo: “Đánh thắng trận này, chúng ta phải tới thăm phủ đệ trang nhã hào hoa của phong lưu công tử Nặc Nại mới được, nghe nói con gái Cao Tân yểu điệu lắm nha!”

“Giết!”

“Giết!”

Trong tiếng hò hét vang trời quân đội hai bên bắt đầu lao vào nhau.

Bóng đao ánh kiếm loang loáng, máu thịt tung tóe, nói là chiến đấu, chi bằng bảo là đồ sát còn đúng hơn.

Tướng sĩ Thần Nông tộc rừng người ngã xuống, từng người hi sinh.

Si, Mỵ, Võng, Lượng gục trong vũng máu.

Phong Bá bị ngọn thương vàng của Hoàng Đế đâm trúng, cả người đầy máu, ngã nhào từ trên không xuống, như một phiến lá úa mùa thu, bồng bềnh rơi xuống đất, gương mặt vẫn nguyên nét cười. Đó là điệu múa cuối cùng trong gió của gã, đến tận lúc lìa đời, gã vẫn như một cơn gió, không hề úy kỵ.

Vũ Sư bị cả trăm cây đũa của Tượng Võng bắn trúng, máu tươi phun ra, thân mình lảo đảo, nhưng mãi không chịu ngã xuống, cánh tay còn run rẩy đưa lên khiến Tượng Võng kinh hoàng lùi lại, đoạn rút thêm một chiếc đũa, bắn vào yết hầu Vũ Sư.

Thân hình Thiếu Hạo chợt nhoáng lên, đánh văng cây đũa của Tượng Võng ra, cứu lấy Nặc Nại, bế xốc y rời khỏi chiến trường.

“Ngươi đã hoàn thành nhiệm vụ, ta cũng đã cho phép ngươi rút khỏi đó, tại sao không đi? Để ta đưa ngươi về Cao Tân.”

Nặc Nại tựa hồ không nghe thấy gì, chỉ run rẩy với tay ra, như muốn làm gì đó.

Thiếu Hạo kiểm tra thương thế cho y, phát hiện kinh mạch toàn thân y đều đã đứt đoạn, không thể cứu chữa, đành đau xót hỏi: “Nặc Nại, ngươi còn tâm nguyện gì chưa hoàn thành, cần ta giúp không?”

Nặc Nại nghe mà như không thấy, chỉ trân trân nhìn lên trời. Vòm không trên đầu y mênh mông bát ngát, xanh biếc một màu, dăm ba cánh bướm sặc sỡ chẳng biết từ đâu bay lại, lướt ngang bầu trời, như từng đóa hoa tươi nở rộ, phiêu phất giữa không trung.

Y giơ tay lên, gắng gượng mấy lần, cuối cùng cũng run rẩy gỡ được chiếc mặt nạ trên mặt xuống, ném qua một bên, gương mặt méo mó khủng khiếp phơi ra dưới ánh mặt trời.

Mười mấy năm nay, đã bao lâu Vân Tang đi lướt qua y, cặp mắt dán chặt vào y không chớp, bi ai phẫn nộ đan xen, như đang chất vấn: “Ngươi là ai? Là Nặc Nại từng thề bảo vệ ta, hay là Vũ Sư Xích Tùng Tử họa loạn Thần Nông?”

Y cũng chẳng rõ mình là ai, chỉ biết nấp bên dưới chiếc mặt tăm tối, né tránh ánh mắt của nàng, nhưng hiện giờ, y có thể đường đường chính chính tuyên bố với nàng, trái tim của y chưa hề thay đổi! Y muốn đối diện với nàng bằng gương mặt thật của mình!

Cánh tay Nạc Nại run rẩy với lên trời cao, từng cánh bướm lần lượt tụ lại, càng tụ càng đông, muôn màu muôn vẻ, nào trắng, nào hồng, nào lam, nào vàng… hệt như mùa xuân đã về, muôn hoa khoe sắc quanh mình y. mấy cánh bướm rực rỡ còn đậu lên cả ngón tay y. Nặc Nại đắm đuối nhìn đàn bướm, ôn nhu vô hạn, quyến luyến vô chừng.

Còn nhớ mấy trăm năm trước, lần đầu gặp gỡ bên Ao Tinh trì, nàng hồn nhiên tươi cười khuấy động mặt hồ, cũng khuấy động cả cõi lòng y; trên Đột Bích sơn, nàng phong tư phơi phới, thông tuệ tài hoa, khiến y hết lòng ngưỡng mộ, đồng thời âm thầm chua xót, tri âm khó gặp, vậy mà nàng lại là vị hôn thê của Thiếu Hạo.

Người đời nguyền rủa, máu nhuộm sa trường, bao đêm dài quạnh quẽ đau đớn, điểm tựa duy nhất của y chính là tiếng cười trong trẻo của Vân Tang bên Ao Tinh trì, là dáng nàng tha thướt trên Đột Bích sơn.

Y muốn gặp nàng xiết bao, muốn trông thấy nàng tươi cười xiết bao, nhưng hai mươi năm nay, suốt hai mươi năm nay, y luôn nấp sau mặt nạ, chẳng dám nhìn nàng lấy một lần.

Vân Tang, hiện giờ ta có thể nhìn thẳng vào nàng rồi, ta chỉ muốn nhìn nàng một lần mà thôi! Một lần cuối cùng thôi!

Có điều, ta biết chẳng thể được nữa rồi, hiện giờ nhất định nàng còn đang ở Hiên Viên sơn, Hiên Viên Thanh Dương vang danh thiên hạ là hảo nam tử, chỉ hi vọng sau này y đối xử tốt với nàng.

Vân Tang, ta không thể dựng cho nàng một căn nhà có hồ sâu núi cao, lại thất hứa với nàng rồi. Ta hứa với nàng bao nhiêu điều, dường như ta chưa làm được điều gì cả, nhưng nam tử mà nàng gặp bên Ao Tinh trì, dưới Đột Bích sơn, xưa nay chưa hề phụ nàng.

Từng cánh bướm bay về phía Nặc Nại, đậu lên tay y, ngực y, má y, đập cánh liên tục, như muốn truyền đạt điều gì đó, nhưng Nạc Nại không hiểu, y chỉ tha thiết nhìn bầy bướm, ôn nhu vô hạn, lưu luyến vô chừng.

Cuối cùng, y ôm đầy tiếc nuối, thở hắt ra một hơi, cánh tay thõng xuống, cặp mắt đã lạc thần vẫn trân trân dán chặt vào những cánh bướm dập dờn bên cạnh.

Ngàn vạn cánh bướm mỹ lệ lượn vòng quanh Nặc Nại rồi phấp phới bay lên, tựa như chua xuân rời gót, hoa rụng ngợp trời.

Trên đỉnh Tuyên sơn.

Từ lúc cuộc chiến mở màn, Vân Tang đã gắng gượng leo lên cành dâu, ngóng về phía Đông. Quanh nàng là những cánh bướm đủ màu, tầng tầng lớp lớp, đàn đàn lũ lũ như gấm như lụa, ngập trời rợp đất.

Nàng đang đợi.

Đợi khả năng thắng lợi của cuộc chiến, và cái chết của Nặc Nại. Nếu Thần Nông thắng, thân là mật thám của Cao Tân, y nhất định sẽ dấy loạn. nàng đã hạ lệnh cho Xi Vưu phải giết y.

Đợi khả năng thất bại của của cuộc chiến, và tin Nặc Nại còn sống. Nếu Thần Nông thất bại, nhiệm vụ của y cũng hoàn thành, chắc chắn sẽ rời khỏi.

Bất kể kết quả ra sao, nàng cũng tự quyết định vận mệnh cho mình. Nếu thất bại, Thần Nông quốc diệt vong, thân là Trưởng vương cơ, nàng chẳng còn mặt mũi nào sống tiếp, đành lấy thân tuẫn quốc; nếu thắng lợi, Nặc Nại bị giết, thân là kẻ đích thân hạ lệnh giết y, nàng cũng không thể sống một mình, nàng phải đi theo y.

Nhưng, nàng đâu có ngờ, tin tức nàng đợi được lại là: Thần Nông thất bại, Nặc Nại tử vong.

Nặc Nại, sao chàng không rời khỏi đó? Chẳng phải nhiệm vụ của chàng đã hoàn thành rồi ư? Sao không quay về Cao Tân?

Cách xa ngàn dặm, khi đối diện với ánh mắt ôn nhu lưu luyến của Nạc Nại đắm đuối nhìn những cánh bướm rợp trời, Vân Tang đã hiểu mọi điều y muốn nói với nàng, nhưng Nạc Nại không sao nghe được những điều nàng muốn tỏ cùng y.

Không sao, chúng ta sắp đoàn tụ rồi, thiếp sẽ thổ lộ hết với chàng bấy nhiêu tương tư trong từng ấy năm đằng đẵng.

Khi trái tim Nặc Nại ngừng đập, cánh tay thõng xuống, từng cánh bướm lũ lượt bay lên, lượn vòng quanh Nặc Nại, như những cánh hoa chất chứa bi ai bay lả tả ngập trời, đàn bướm vây quanh Vân Tang cũng chấp chới bay cả lên, như mây màu tản mác, gấm đoạn rách tan.

Vân Tang chan hòa nước mắt, nhưng khóe môi lại he hé một nụ cười kiều diễm ôn nhu vô hạn.

Nặc Nại, thiếp đến đây, thiếp sẽ đến ngay đây, đợi thiếp với!

Vân Tang dồn chút linh lực cuối cùng hóa thành hỏa cầu, ngọn lửa bùng lên từ gốc dâu, rồi lan dần lên trên, bốc cháy rừng rực, chẳng mấy chốc, cả gốc dâu đại thụ đã biến thành bó đuốc khổng lồ hình cây nấm.

Vân Tang áo trắng như tuyết, đứng giữa ngọn lửa, dáng người tha thướt, không vướng bụi trần.

Ngọn lửa ngùn ngụt mang theo linh khí từ sinh mạng của Thần Nông vương tộc, bốc cao ngút trời, dù cách ngoài ngàn dặm cũng có thể trông thấy.

Trên thế gian này, còn ai sở hữu linh khí tinh thuần nhường ấy của Thần Nông vương tộc?

Thì ra, đây chính là nguyên nhân Nặc Nại thà tử chiến sa trường chứ không chịu quay về Cao Tân.

Thiếu Hạo đỡ Nặc Nại, nâng đầu y lên, để đôi mắt mở trừng trừng của y trông về phía ngọn lửa rực rỡ cuối trời, từng cuộn khói trôi ngang trời ấy, là vì y mà nhen lên.

“Nặc Nại, ngươi thấy không? Vân Tang sợ ngươi cô đơn, tới tìm ngươi này.”

Trên Tuyên sơn, thế lửa càng lúc càng mạnh, ánh đỏ ngút trời, lung linh rực rỡ, như một tràng thịnh thế yên hỏa. Cả người Vân Tang đã bén lửa, tỏa bạch quang chói ngời tựa đóa sơn trà trắng tinh khôi.

Ngọn lửa thiêu đốt ruột gan, khiến nàng đau đớn khôn xiết.

Giữa vầng bạch quang lóa mắt, Vân Tang trông thấy Nặc Nại mình vận cẩm y, khoan thai tiến lại phía nàng, dáng dấp phong lưu, hòa hoa nho nhã, hệt như lần đầu gặp gỡ trên Ngọc sơn, bên Ao Tinh trì, dưới Đột Bích sơn.

Vân Tang mơ màng hoảng hốt, quên khuấy cả nỗi đau bị lửa thiêu đốt, chỉ thấy ánh sánh lung linh rợp trời, ngọn lửa rực rỡ ngút mắt, như dành riêng cho hôn lễ của họ. Cả đất trời chói lọi vàng son, đẹp đẽ vô chừng, hân hoan rộ rã, tựa hồ toàn thiên hạ đều đang chúc phúc cho họ. Nàng vừa mừng vừa giận, khẽ hỏi: “Sao giờ chàng mới tới? Thiếp đợi chàng mấy ngày mấy đêm rồi, chàng có biết thiếp lo lắng chừng nào không? Mọi người đều nói chàng sẽ không đến rước dâu, bảo thiếp đừng chờ đợi nữa, nhưng thiếp không tin!”

Nặc Nại chỉ cười không đáp, hai tay dang ra, dịu dàng ôm chặt lấy nàng.

Vân Tang tựa vào người Nặc Nại, thì thầm: “Chàng đã hứa xây cho thiếp một Ao Tinh trì, một Đột Bích sơn còn đẹp đẽ tinh xảo hơn cả trên Ngọc sơn nữa mà…”

Bóng dáng yêu kiều của Vân Tang chìm trong biển lửa.

Ngọn lửa càng cháy càng dữ dội, ráng tím ngợp trời, lung linh rực rỡ, từng cụm lửa đỏ tan tác như hoa rơi, diễm lệ mà thê lương khôn tả.

Chút linh khí cuối cùng từ sinh mệnh Vân Tang cũng tan biến.

Tiếng chém giết vẫn vang lại từng chập, mặt đất la liệt thi thể, lênh láng máu tươi.

Thiếu Hạo nhẹ nhàng đưa tay vuốt mắt cho Nặc Nại, cách ly y khỏi tất cả những máu me chém giết này.

Trong thế giới của họ, không nên tồn tại những thứ đó, chỉ mình Thiếu Hạo y vẫn phải dấn bước giữa bể máu tanh mà thôi.

Bằng hữu cuối cùng của y từ thời niên thiếu đã đi rồi, còn do y đích thân đưa tiễn. A Hành nói đúng, y chính là kẻ vô tình nhất thế gian này. Năm ấy, y hiểu tình cảm sâu nặng cùng nỗi hổ thẹn của Nặc Nại đối với Vân Tang, nên mới lấy cớ giúp đỡ Thần Nông, phái y tới Thần Nông làm gián điệp, há không phải là lợi dụng ư? Khi Thiếu Hạo y đang vắt óc nghĩ cách qua mặt Xi Vưu, Nặc Nại lại chủ động đề nghị hạ độc hủy dung, tự tàn hủy thân thể, y có từng phản đối chưa? Cái chết của Nặc Nại, lẽ nào không có phần của y ư? Chẳng lẽ chỉ mình Hoàng Đế vì tranh đoạt thiên hạ mà bất chấp thủ đoạn thôi ư? Chẳng phải y từng bước sắp đặt để Hoàng Đế quyết đấu với Xi Vưu thế nên Xi Vưu và A Hành rơi vào tình cảnh hôm nay, chẳng phải là do y và Hoàng Đế chung tay tạo nên ư?

A Hành chạy như bay, chẳng phân biệt phương hướng xa gần, chỉ biết dựa vào bản năng, guồng chân mà chạy.

Xi Vưu đuổi riết đằng sau.

A Hành chạy đến đâu, tức thì sông suối cạn kiệt, đất đai nứt nẻ, cây cỏ héo úa, muông thú rít gào đến đó, cả thiên địa dường như đều biến thành một lò lửa khổng lồ, ngàn dặm khô hạn, vạn dặm héo hắt.

Dân chúng dọc đường kinh hoàng la hét chửi rủa nàng, “Ác ma đến kìa, mau giết ác ma, giết ác ma!” Nói đoạn lũ lượt lấy tên bắn nàng, vung dao chém nàng, dùng kiếm đâm nàng, chỉ muốn đuổi nàng đi.

A Hành co rúm người lại, ôm lấy đầu, gào lên thảm thiết, tránh trái né phải, rõ ràng thừa sức giết tất cả bọn họ, nhưng nhất quyết không chịu trả đòn, chỉ vừa kêu la vừa bỏ chạy.

Xi Vưu lòng đau như cắt, ầng ậng nước mắt, để chấm dứt chiến tranh, để dân chúng được an cư lạc nghiệp, nàng chẳng tiếc từ bỏ cả tự do trong tầm tay với, hóa thân thành ma, vậy mà bọn họ nào có hiểu, còn hò nhau định giết nàng. Hắn vừa gạt những kẻ tấn công nàng ra, vừa tha thiết gọi: “A Hành.”

Nghe tiếng Xi Vưu gọi, A Hành chợt thấy tim nhói lên, ngơ ngác đứng sững lại, ngoảnh đầu nhìn hắn, như muốn chạy lại phía hắn. Nhưng hắn vừa đến gần, nàng liền xua tay lia lịa, vừa ngăn hắn tiến lại, vừa khóc lóc giật lùi quay người bỏ chạy.

A Hành càng chạy càng nhanh, càng chạy nhiệt độ càng tăng lên, mãi tới khi đến một vùng núi non trùng điệp, bị chấn động bởi phong cảnh trước mắt, nàng mới chậm lại.

Tế đài trắng toát, nhà sàn xanh ngắt, hoa đào đỏ thắm… Cảnh trí xung quanh toát lên cảm giác vô cùng thân thuộc, khiến nàng không sao chạy tiếp nữa, chỉ muốn dừng chân ngơi nghỉ tại đây.

Nhưng hạn hán kéo đến, hết thảy đều bị chính nàng hủy diệt. Nàng chỉ biết ngẩng đầu gào khóc van xin, đừng, đừng mà, xin đừng! Nàng không nỡ rời khỏi, nhưng càng không nỡ hủy diệt tất cả nơi đây, đành đau đớn lùi lại, chạy ra xa.

“A Hành, không sao đâu, lại đây.” Xi Vưu rạch cổ tay, máu tươi ròng ròng nhỏ xuống, thấm vào lòng đất, bảo vệ cho Cửu Lê.

Cả đất trời nhuốm màu đỏ rực, hạn hán hoành hành khắp nơi, vạn vật đều bị hủy diệt.

Chỉ riêng ngọn núi này vẫn nở rực hoa đào, thắm tươi như máu, cũng diễm lệ như máu.

Xi Vưu mỉm cười dỗ dành: “Nàng xem, hoa đào nở đẹp như vậy, nhà chúng ta vẫn yên ổn mà.”

A Hành đứng cuối rừng đào, đau đớn nghi hoặc nhìn Xi Vưu. Đào hoa nở tràn trước mắt, bóng người ngạo nghễ đứng dưới cả trời hương ngát, đều thân thuộc khôn xiết, như đang mời gọi nàng, nàng phải đến đó. Nhưng, trong đầu nàng lại vang lên một giọng nói khác, ngăn nàng bước tới.

A Hành vừa khao khát muốn bước lại, vừa sợ hãi giật lùi.

Xi Vưu đứng giữa rừng đào, bi ai chua xót nhìn A Hành đau đớn hoang mang, chỉ muốn ôm lấy nàng vào lòng, nhưng chính hắn cũng biết, mình không cách nào có thể lại gần nàng, hễ hắn đến gần, nhất định sẽ tan thành tro bụi.

Đứng ngay dưới cội hoa đào mà chẳng thể gặp nhau, ở ngay trước cổng nhà mà không thể cùng nhau chung sống. Lẽ nào, giờ đây, ngay cả ôm lấy nàng cũng chỉ là vọng tưởng sao? Lẽ nào, dù chết đi cũng chẳng thể bên nhau ư?

A Hành đờ dẫn nhìn căn nhà thấp thoáng giữa rừng đào, chiếc giếng đá kia, giàn mướp lúc lỉu kia, bức rèm xanh ngắt kia, những đóa tường vi đẹp như ráng chiều kia, dường như đều thân thiết như máu thịt nàng.

Tinh tang, tinh tang…

Tinh tang, tinh tang…

Tiếng chuông vang vọng trong óc nàng, như có thứ gì đó bên trong đang khóc lóc cào xé nàng, A Hành đau đớn ôm lấy đầu, gào lên thảm thiết, rốt cuộc đó là thừ nào đây?

“A Hành, lại đây đi, chúng ta về đến nhà rồi!”

Nam tử đứng trước cửa căn nhà sàn giữa rừng đào đang cao giọng gọi tên nàng. A Hành nghe mà chẳng hiểu gì hết, nhưng không rõ tại sao lại bị mấy tiếng “chúng ta về đến nhà rồi” hấp dẫn, dè dặt tiến về phía Xi Vưu.

Đây, đây rốt cuộc là đâu? Vì sao nàng luôn khao khát muốn chạy đến, nhưng lại không ngừng ép bản thân lùi lại.

Vì sao tim nàng lại đau như muốn vỡ tung thế này? Nàng điên cuồng đấm ngực mình, gào lên thê thiết.

“A Hành!”

Tiếng gọi dịu dàng mà bi thương khôn xiết thốt ra từ miệng nam tử kia, lại tựa như vang lên tự sâu thẳm đáy lòng nàng. A Hành chăm chú nhìn nam tử đứng giữa rừng hoa, trước căn nhà sàn, không kiềm nổi lao đến, toan nhào vào lòng hắn. Nhưng đột nhiên, một giọng nói lại vang lên từ trong tiềm thức, cảnh cáo nàng không được tới gần! Nàng sẽ hủy diệt tất cả! A Hành khoảng hốt lùi lại, cứ thế ngập ngưng lưỡng lự hoài không sao quyết định được.

Sức mạnh của A Hành càng lúc càng bành trướng, ngay đến máu rút từ sinh mệnh Xi Vưu cũng không bảo hộ nổi Cửu Lê, cả rừng đào cứ từ từ khô héo. Nhìn những cách đào rụng rơi lả tả, A Hành không kìm được thét lên, đừng mà, đừng tàn úa! Đừng tan biến!

Khi gốc đào gần nàng nhất tan thành tro bụi, A Hành cũng hạ quyết tâm, buộc bản thân không được lưu luyến nữa, nàng đăm đăm nhìn Xi Vưu, giật lùi từng bước một.

“A Hành, đừng đi, nàng sẽ không hủy diệt nơi này đâu.” Xi Vưu bi thương chìa tay ra, máu tươi từ cổ tay bị hắn thúc động ròng ròng chảy xuống, nhưng còn chưa kịp thấm xuống đất đã hóa thành khói đỏ, tiêu tan giữa chừng không.

Thân hình A Hành dần dần mờ đi, mông lung như một cuộn khói xanh nhàn nhạt. Xi Vưu sực hiểu ra, sức nóng của mặt trời thiêu hủy vạn vật, đồng thời thiêu hủy luôn cả A Hành, trái tim nàng đang từ từ tiêu tan, chẳng bao lâu nữa, nàng cũng sẽ tan thành mây khói.

Lại thêm mấy gốc đào hóa thành tro bụi, giữa màn khói đen mịt mờ, A Hành nhếch miệng, như cười như khóc, rồi đột ngột quay phắt người chạy vụt đi như gió, nàng phải rời khỏi đây ngay, sau đó sẽ tan biến vĩnh viễn.

“A Hành, đừng rời bỏ ta!” Chợt một tiếng gọi vang động cả đất trời cất lên.

A Hành nghe mà không hiểu gì cả, nhưng lại bị chấn động bởi nỗi bi ai cùng thâm tình tha thiết trong tiếng gọi đó, nàng vô thức dừng lại, ngoái đầu nhìn.

Xi Vưu thần sắc thê lương, giơ tay lên, lập tức Bàn Cổ cung từ trong nhà bay vụt vào tay, tỏa ra hồng quang chói lọi.

“A Hành, nàng còn nhớ cây cung này không? Xưa nay ta chưa từng kể nàng hay, năm đó ta lẻn vào địa cung Ngọc sơn trộm đồ, không phải vì quen thói phóng túng tùy tiện, mà là bởi nhớ nhung quá đỗi không cách nào nguôi ngoai được.”

Xi Vưu đăm đăm nhìn A Hành, từ từ giương Bàn Cổ cung lên, ngắm đúng vào tim nàng. Trên thế gian này không có mũi tên nào để phối với cung, mũi tên duy nhất có thể dùng chính là trái tim. Mười ngón liền tâm, mười ngón nắm chặt lấy cung, Xi Vưu dốc chút thần lực cuối cùng, thông qua mười ngón tay, nối liền trái tim mình vào cây cung.

Hắn vận sức kéo dây cung, cánh cung thoạt nhìn trống không, nhưng lại thấy máu tươi tí tách nhỏ xuống, cung càng giương căng, máu tuơi càng ròng ròng chảy, Xi Vưu đã đau đến tái xám mặt mày, thân mình run bắn lên, hệt như đang bị khoét tim.

Cánh cung cuối cùng cũng được giương hết cỡ, Xi Vưu đắm đuối nhìn A Hành, dịu dàng buông tay bắn ra: “A Hành, ta không để nàng xa ta lần nữa.”

Bang!

Bàn Cổ cung chợt rền vang, tỏa hào quang ngập trời, trời rung đất chuyển, cả rừng đào lả tả rụng rơi.

“Á a a a a!!!”

Giữa muôn vàn cánh đào đỏ thắm rợp trời, A Hành thét lên thê thiết, như thể lồng ngực bị xé toang, rồi một thứ gì đó cắm phập vào, nàng đau đớn ôm lấy ngực, hơi nóng rừng rực thiêu đốt ruột gan trong ngoài dần dịu lại.

Xi Vưu cũng đau đớn ôm lấy ngực, khuỵu một chân xuống đất, nhưng vẫn gắng gượng ngẩng đầu, nồng nàn tha thiết nhìn A Hành.

Dần dà, nguồn sức mạnh kinh khủng trong người A Hành từ từ tan biến, cặp mắt nàng cũng thôi đỏ ngầu, nàng bắt đầu khôi phục lại thần trí.

Đào hoa rợp trời, phấp phới lả tả, chẳng khác nào làn mưa bụi Giang Nam ôn nhu diễm lệ.

Giữa trận mưa hoa, Xi Vưu khuỵu một chân xuống đất, một tay ôm ngực, tay kia chìa ra cho nàng, dịu giọng gọi: “A Hành, lại đây nào.”

A Hành không rời mắt khỏi Xi Vưu, loạng choạng bước về phía hắn, Xi Vưu cũng gượng đứng dậy, lảo đảo tiến lại phía nàng.

Nền trời đỏ rực, mặt đất đỏ thẫm, cả đất trời nhuộm thắm màu máu, vạn vật đều hôn mê bất tỉnh, xung quanh không một tiếng động, chỉ có hai người đang liêu xiêu đi về phía nhau, tựa hồ như bọn họ đã trở thành nam tử duy nhất, nữ tử duy nhất trên thế gian này.

Hoa đào ngàn dặm đua nhau khoe sắc, cuối cùng, nàng và hắn cũng gặp nhau dưới cội đào.

Giữa rợp trời hoa nở, Xi Vưu mỉm cười ôm chặt A Hành vào lòng, siết mạnh, rối siết mạnh hơn nữa. A Hành vùi mặt vào ngực hắn, nhoẻn cười hạnh phúc, chợt nàng thấy có gì đó không ổn, nghỉ ngơi một thoáng mới phát hiện ra, nàng không nghe được tiếng tim hắn dồn dập đập nữa rồi. Lồng ngực Xi Vưu đã lạnh băng, chẳng còn nồng nàn ấm sực, dồi dào sinh lực như xưa.

A Hành kinh hoảng ngẩng lên nhìn Xi Vưu, Xi Vưu chỉ mỉm cười nhìn nàng, đáy mắt chan chứa nhu tình. Nàng dần dà vỡ lẽ, thì ra đây chính là ý nghĩa của bốn chữ “dĩ tâm hoán tâm” trên Bàn Cổ cung, hắn đã dùng trái tim mình, thay cho trái tim nàng bị sức nóng của mặt trời hủy hoại.

Xi Vưu không còn tim nữa… Xi Vưu sắp chết!

A Hành đăm đăm nhìn Xi Vưu, từ từ nhoẻn miệng cười theo hắn, đôi mắt ánh lên vẻ bình thản mà cương quyết. Cây chết mây còn còn quấn quýt, cây còn mây chết chẳng rời nhau!

Nàng tươi cười ôm chặt lấy Xi Vưu, hệt như dây mây quấn lấy thân cây. Bất luận ra sao, cuối cùng họ cũng được ở bên nhau, sống chết giờ đây chẳng còn quan trọng nữa, cứ thế này mà vĩnh bất phân ly, cứ thế này mà thiên trường địa cửu.

Xi Vưu ôm lấy nàng, thều thào hỏi: “Còn nhớ những lời nàng nói trên Triêu Vân phong không? Nàng nói “muốn nhìn Tiểu Yêu, Chuyên Húc bình an lớn lên, nhìn bọn chúng dựng vợ gả chồng”, ta đã hứa nhất định sẽ thực hiện ý nguyện của nàng. Nếu hiện giờ chết đi, nàng sẽ phải ôm hận suốt đời, vĩnh viễn không sao yên lòng về Tiểu Yêu được. Lẽ nào nàng không muốn chứng kiến con gái chúng ta lấy chồng ư? Không muốn biết nó sẽ kết hôn với người ra sao ư?”

Thấy A Hành máy môi, Xi Vưu liền đặt ngón tay lên miệng nàng, cười nói: “Ta biết ta biết, ta còn hứa với nàng, ngày ngày đều ở bên nhau.”

A Hành nắm lấy tay Xi Vưu, gật đầu.

Ánh mắt Xi Vưu thoáng vẻ giễu cợt, hắn lạnh nhạt nói: “Lịch sử trên thế gian này đều do kẻ thắng dựng nên, sau này khi Tiểu Yêu lớn lên, nghe thiên hạ nói cha nó là là một tên đại ma đầu nịnh trên nạt dưới, tàn nhẫn hiếu sát, dụ dỗ mẹ nó, nhất định sẽ đem lòng căm hận ta, thậm chí cả nàng. A Hành, nàng giúp ta một việc được không, nàng phải chính miệng nói cho Tiểu Yêu biết, cha nó rất yêu nó. Nói cho nó hay, cha nó chưa bao giờ làm bất cứ việc gì trái đạo, để nó khỏi phải hổ thẹn về chúng ta. Từ nhỏ ta đã không cha không mẹ, ta không muốn con gái ta lại phải sống cảnh không cha không mẹ nữa. Từ lúc Tiểu Yêu ra đời, ta chưa một ngày làm tròn trách nhiệm người cha, việc duy nhất ta có thể làm cho nó là giữ cho nó một người mẹ, để nó có cơ hội biết cha mẹ nó là người như thế nào, để nó khỏi phải cả đời sống trong hổ thẹn.”

A Hành ròng ròng nước mắt, lắc đầu quầy quậy, không, không, nàng không muốn sống một mình!

Xi Vưu dịu dàng nói: “Ta biết nàng sẽ rất đau khổ, nhưng nàng phải sống nhé, vì ta, vì cả con gái chúng ta nữa. Chừng nào trông thấy con gái trưởng thành, nàng nhất định sẽ hiểu sự lựa chọn hôm nay của ta, nhất định sẽ thấy dù phải đau khổ đến đâu cũng xứng đáng. Nàng nhận lời ta đi, có được không?”

A Hành đăm đăm nhìn Xi Vưu, không nói một lời, chỉ giàn giụa nước mắt. Xi Vưu run lên, giọng nói càng thêm yếu ớt: “A Hành, nhận lời ta đi!” Ánh mắt đầy vẻ khẩn cầu. Xi Vưu cả đời ngang dọc, A Hành chưa bao giờ thấy hắn lộ ra ánh mắt này, không cách nào cự tuyệt, cuối cùng đành khó nhọc gật đầu.

Xi Vưu nắm lấy tay A Hành, đặt lên ngực nàng, để nàng cảm nhận được tiếng tim đập, “Ta sẽ vĩnh viễn ở bên cạnh nàng, ta đợi nàng tới tìm ta, chính miệng nói với ta, con gái chúng ta sống rất hạnh phúc. Nàng nhất định phải bảo nó ngẩng lên trời gọi mấy tiếng ‘cha’ cho ta nghe, ta chưa từng được nghe nó gọi cha…” Thân mình Xi Vưu mềm nhũn, gục vào lòng A Hành, “Chẳng biết tiếng ‘cha’ của nó sẽ như thế nào nhỉ, chắc chắn sẽ là âm thanh êm ái ngọt ngào nhất trên đời…”

“Chúng ta lập tức đi tìm Tiểu Yêu, để chàng chính tai nghe nó gọi cha.” A Hành cuống cuồng cõng Xi Vưu dậy, liêu xiêu chạy đi.

Xi Vưu khẽ bật cười, hôn nhẹ lên tai nàng, thì thầm: “A Hành ngốc, A Hành ngốc của ta…”

A Hành ngơ ngác không hiểu hắn cười gì, một thoáng sau mới sực nghĩ ra, trên Bác Phụ sơn, nàng cũng từng cõng hắn như thế này, để hắn hưởng lợi.

“Nàng ngu ngơ như vậy, dễ bị gạt như vậy, để nàng lại một mình ta chẳng yên tâm chút nào. Nhớ nhé, về sau không được dễ dàng tin tưởng bất kỳ ai…” Giọng Xi Vưu mỗi lúc một nhỏ dần, mỗi lúc một yếu dần đi.

A Hành hoảng hốt gọi: “Xi Vưu, Xi Vưu, chàng phải gắng lên, ta lập tức đưa chàng đi gặp con gái, chàng còn chưa nghe nó gọi cha kia mà.”

Xi Vưu gắng gượng đáp: “Được, ta sẽ cố gắng…” Nhưng cặp mắt đã từ từ khép lại.

A Hành cố lấy giọng hào hứng kể: “Ta đâu có ngốc, là chàng xảo trá vô lại thôi, chàng tưởng chàng gạt được ta đấy hả? Chàng không biết đâu, ta vẫn có một bí mật này, xưa nay ta chưa từng nói với chàng, thật ra kẻ bị gạt là chàng đấy, không phải ta đâu. Chàng còn nhớ lần đầu tiên hai ta gặp nhau không? Không phải là lần gặp gỡ mà ta không biết đâu, là lần đầu tiên chính thức gặp nhau đó…”

Xi Vưu rất muốn lên tiếng đáp lại nàng: Nhớ chứ, tất cả mọi thứ liên quan đến nàng, ta đều ghi khắc trong lòng, đời này kiếp này không bao giờ quên. Nhưng hắn gắng hết sức cũng không nghe được tiếng nói của mình, chỉ thấy giọng A Hành càng lúc càng xa dần, rồi từ từ tan biến.

“Đó là một buổi hoàng hôn, cả bầu trời phủ đầy mây ráng, chàng đứng giữa đồng hoang…”

Lần đầu tiên nàng gặp Xi Vưu, là một buổi hoàng hôn mây ráng đầy trời.

Hắn vận một tấm áo đỏ cũ rách, mái tóc đen dài xõa tung, nhìn hệt như dã nhân, hiên ngang đứng giữa đồng hoang, ngẩng đầu nhìn về phía xa, không trông rõ diện mạo, chỉ thấy mái tóc dài xõa tung trước gió, toát lên vẻ cuồng ngạo không để bất cứ ai vào mắt.

Phong thái ngạo nghễ như thể cả đất trời đều đang nằm dưới chân hắn, đã khiến A Hành như bị thu hút, bất giác tiến lại gần.

Trong khoảnh khắc hắn ngoảnh lại, nàng trông thấy tịch dương mênh mông, ráng chiều rực rỡ in trong đôi mắt ấy, còn có cả vẻ gì đó, vô cùng phức tạp, vô cùng mãnh liệt mà không sao hiểu được, trái tim nàng chợt khựng lại một nhịp.

Rõ ràng nàng biết Bác Phụ quốc nằm ở phía hắn ngẩng đầu nhìn vừa nãy, vậy mà ma xui quỷ khiến thế nào, nàng vẫn bước lại, làm bộ ngơ ngác hỏi: “Xin hỏi công tử, muốn tới Bác phụ quốc phải đi thế nào?”

Hắn hờ hững liếc nàng bằng nửa con mắt rồi nghênh ngang bỏ đi, chẳng nói chẳng rằng. Nào ngờ lòng nàng đột nhiên lại thấy hụt hẫng, nàng vội đuổi theo, nắm lấy tay áo hắn. Trong khoảnh khắc ấy, tim nàng bỗng đập thình thịch như trống làng, cảm thấy mình đúng là điên rồ, chẳng hiểu vì sao cứ khăng khăng đòi giữ chân một kẻ hoàn toàn xa lạ kia chứ.

Hắn đứng thẳng lưng, chăm chú nhìn về phía ráng hồng cuối chân trời, chần chừ mãi chẳng chịu quay lại, nàng cũng nhất quyết không buông tay, đó có lẽ là khoảnh khắc dài nhất trong đời nàng kể từ lúc được sinh ra. Đúng lúc nàng hết cả kiên nhẫn, đã toan rụt tay lại thì hắn mỉm cười ngoái đầu.

Cặp mắt vẫn là cặp mắt đó, có điều thần sắc nồng nàn mê người kia đã không còn nữa.

A Hành thất vọng, nhưng không tiện nói: “Ta biết đường đi rồi”, đành phải theo tên vô lại này, dở khóc dở cười tiến vào Bác Phụ thành.

Mãi đến rất nhiều năm sau, nàng mới hiểu ánh mắt nồng nàn mê người kia của hắn là gì, cũng mới hiểu lần gặp gỡ mà nàng cứ ngỡ là đầu tiên, đối với hắn, chỉ là lần tái ngộ sau một trăm năm, thậm chí còn là lần tái ngộ không hề mong đợi.

Nếu lần đó nàng không níu kéo hắn, hẳn bọn họ sẽ lại đi lướt qua nhau. Có lẽ đời này kiếp này, cũng chẳng bao giờ gặp lại. Hắn sẽ giữ chức tướng quân Thần Nông của hắn, nàng sẽ ngồi lên ngai vi vương phi Cao Tân của nàng.

Hắn vẫn cho rằng vì mình khăng khăng theo đuổi, nên có thể biến một lần gặp gỡ vô tình thành mối duyên một đời, mà đâu có hay, người níu giữ đầu tiên, chính là nàng.

Nếu lần đó hắn không ngẫu nhiên ngoảnh lại, nàng không liều lĩnh níu kéo, có lẽ nàng sẽ vĩnh viễn không bước vào lòng hắn, có lẽ hắn sẽ mãi mãi là Xi Vưu không sợ trời không sợ đất, có lẽ sẽ không có mọi chuyện ngày nay.

Nếu có thể quay ngược thời gian, A Hành cũng chẳng biết mình liệu có lên tiếng hỏi: “Công tử, xin hỏi muốn tới Bác Phụ quốc phải đi đường nào?” nữa hay không.

“Xi Vưu, chàng nói xem, ta có nên hỏi không?”

Kẻ trên lưng lặng yên, chẳng hề đáp lại. hai tay thõng xuống trước ngực nàng. Nước mắt A Hành trào ra, nhưng nàng vẫn vờ như không biết, ra sức thúc động thần lực, truyền vào cơ thể hắn, “Ta biết chàng lại cười ta, không được cười! chàng còn cười nữa, ta sẽ ném chàng xuống vách núi luôn đấy! Để ta kể cho chàng nghe một chuyện này nữa, con bé Tiểu Yêu đó chẳng có bản lĩnh gì, chỉ hoành hành ngang ngược là không ai bằng, thật giống hệt như chàng, có lần ta dẫn con đi…”

A Hành nước mắt chan hòa, chẳng biết mình nên đi về đâu nữa, nàng cứ liêu xiêu đi mãi, gắng hết sức lực mà đi, tựa hồ chỉ cần con đường trước mặt mà còn tiếp tục, hắn sẽ vĩnh viễn ở trên lưng nàng.

“Xi Vưu, chàng xem ráng chiều ở cuối trời kia, có đẹp không? Ta thấy không đẹp bằng lần đầu chúng ta gặp nhau…”

Cuối chân trời, hào quang xán lạn, lửa đỏ rực rỡ, A Hành vừa thao thao nói, vừa liêu xiêu bước đi.

Đột nhiên chân nàng vấp phải thứ gì đó, ngã nhào ra đất, nàng khuỵu một gối xuống đất, ngẩn ngơ nhìn hồ nước đỏ lòm máu dưới chân mình. Làn nước trong hồ in bóng một nữ tử đầu trọc lóc, diện mạo xấu xí, ngớ ra một thoáng, A Hành mới nhận ra đó chính là mình, mà hồ nước đỏ lòm này lại là một vũng máu.

Nàng chậm chạp ngẩng lên, đưa mắt nhìn quanh.

Chẳng biết từ lúc nào, nàng đã ở giữa đồng hoang, từ dưới chân nàng trải đến ngút ngát cuối trời, đều ngổn ngang la liệt những thi thể tướng sĩ Thần Nông.

Si, Mỵ, Võng, Lượng.

Phong Bá.

Vũ Sư…

Xa xa đằng kia là quân đội Hiên Viên, cờ xí rợp trời, khí thế ngùn ngụt, bộ giáp vàng của Hoàng Đế dưới bóng chiều chập choạng, lại càng lấp loáng chói mắt.

A Hành thật không dám tin Hiên Viên vẫn còn có phục binh, mà phụ vương mình lại vẫn có thể cầm quân tác chiến.

Thì ra, từ sau trận Phản Tuyền lần thứ hai, Hoàng Đế nhận ra rằng, Xi Vưu thần lực mạnh mẽ, tâm tư xảo trá, ông ta không thể nào đánh bại hắn trên chiến trường.

Hoàng Đế biết trong thân thể A Hành tiềm tàng một nguồn sức mạnh đáng sợ, có thể hủy thiên diệt địa, mà Xi Vưu dường như lại có tình cảm với A Hành, trên thế gian này, chỉ mình A Hành mới có thể khắc chế thần lực của Xi Vưu, đồng thời kiềm chế hắn.

Nhưng làm sao mới có thể ép A Hành cùng Xi Vưu quyết một trận sinh tử đây?

Trên đường rút chạy về Hiên Viên sơn, cũng như Thiếu Hạo và Xi Vưu, Hoàng Đế nghe được tin A Hành đã tự động từ hôn với Thiếu Hạo, thôi không làm Cao Tân vương phi nữa, lại thêm cái chết của Luy Tổ cắt đứt mối ràng buộc của A Hành, A Hành ắt sẽ rời khỏi Hiên Viên.

Rõ ràng Xi Vưu đã nương tay, không lấy mạng Hoàng Đế, nhưng Hoàng Đế đã lệnh cho Ly Chu bồi thêm một chưởng, khiến thương thế nặng thêm, dùng tính mạng mình ép A Hành lưu lại, sau đó lợi dụng bản tính trọng tình trọng nghĩa của nàng, biến toàn bộ trăm họ Hiên Viên làm quân cờ, buộc A Hành ra trận, còn mình dẫn quân ngầm mai phục. Bất kể A Hành và Xi Vưu ai thua ai thắng, Hoàng Đế chỉ cần lựa thời cơ thích hợp, đánh một mẻ lưới, tiêu diệt toàn bộ quân đội của Xi Vưu.

Cuối cùng Hoàng Đế cũng đánh bại Thần Nông, thống nhất Trung nguyên, dân chúng hai nước rốt cuộc có thể an cư lạc nghiệp rồi!

Nhưng, Si, Mỵ, Võng, Lượng, Phong Bá, Vũ Sư…

A Hành đôi mắt trông về phía cuối trời, thì ra vầng sáng rực rỡ kia không phải ráng chiều, mà là sinh mạng của Vân Tang, gương mặt tươi cười của Vân Tang hiện ra giữa vô vàn bông pháo hoa lả tả rụng rơi, như đâng cáo biệt nàng lần cuối.

Thuở nhỏ sớm chiều bầu bạn trên Triêu Vân phong, thân như tỷ muội, cùng sẻ chia tâm sự; khi mẫu hậu lâm bệnh nặng, cả hai lại cùng hầu hạ dưới gối, nương tựa vào nhau…

“Tỷ tỷ.”

Nước mắt lã chã nhỏ xuống, A Hành chỉ muốn nhắm nghiền mắt lại, ngăn cách bản thân với hết thảy những gió tanh mưa máu, nhưng nàng không cách nào làm được, Xi Vưu đang nằm bên cạnh nàng, khóe môi nhếch lên, vẫn phảng phất nét cười ngạo nghễ ngang tàng như thế, diện mạo tươi tắn như khi còn sống, tựa hồ chỉ lát nữa thôi, hắn sẽ lại mở mắt ra, ngồi bật dậy, cười phá lên, kéo nàng vào lòng xiết chặt.

Hai tay A Hành tun rẩy vươn ra, vỗ vỗ vào má Xi Vưu, “Xi Vưu, Xi Vưu.”

Nhưng, không thể, không thể, vĩnh viễn không thể nữa rồi! Hắn sẽ mãi mãi không mở mắt ra, tươi cười gọi nàng một tiếng “A Hành” nữa.

A Hành ôm lấy đầu Xi Vưu, quỳ giữa bãi chiến trường la liệt thi thể, đau đớn gào lên với trời xanh, “A a a a a.”

Tiếng gào thê thiết lan đi giữa đồng hoang, nhưng chẳng cách nào đánh thức những thi thể im lìm ngút ngàn dưới đất kia.

Xi Vưu, sao chàng bỏ lại ta trơ trọi một mình? Sao lại buộc ta phải một mình đối diện với hết thảy những chuyện này? Giờ đây ta thần không ra thần, ma không ra ma, yêu không ra yêu, người không ra người, thiên hạ rộng lớn, nhưng làm gì có chỗ cho ta dung thân?

Mọi người đều đi cả rồi, chỉ còn mình ta vất vưởng sống tiếp, gánh vác bấy nhiêu ký ức mà sống tiếp, đau khổ biết chừng nào. Ta không kiên trì nổi đâu, ta cũng không đợi được đến ngày con gái khôn lớn, ta muốn đi theo chàng ngay bây giờ.

Trái tim trong lồng ngực như cảm nhận được nỗi bi thương tuyệt vọng của nàng, bỗng đập rộn lên, trong tiếng tim đập mãnh liệt, thi thể của Xi Vưu cũng từ từ bay lên, rồi tan ra như mây khói, biến thành vô vàn cánh đào đỏ thắm, dịu dàng vây lấy A Hành, múa lượn quanh nàng.

Xi Vưu, chàng muốn nói gì với ta?

A Hành từ từ nhắm nghiền mắt lại, ngẩng đầu lên, một tay đặt lên chỗ trái tim, một tay chìa ra.

Giữa rợp rời hoa đào bay, tựa hồ nàng có thể cảm nhận được khí tức của hắn, từng cánh đào lướt qua má, chạm vào ngón tay, chính là bàn tay dịu dàng của hắn, còn dưới tay nàng đây, trái tim thuộc về hắn, đang đập trong mình nàng.

Thình thịch, thình thịch…

Thình thịch, thình thịch…

Đột nhiên, nước mắt A Hành tuôn đầy mặt, thì ra, chàng vẫn luôn ở đây ư! Thì ra, chàng sẽ mãi mãi ở bên ta!

Nàng lẩm nhẩm: “Ta hiểu rồi, bất kể đau khổ đến đâu ta vẫn sẽ gắng sống, vì những người đã khuất, vì Tiểu Yêu, vì cả chàng nữa! Ta phải chính miệng nói với Tiểu Yêu tất cả mọi chuyện, để con biết được, cha nó chính là người anh hùng vĩ đại nhất trên đời này.” Dần dần, hoa đào mỗi lúc một nhiều thêm, bắt đầu tản đi, lan ra khắp đồng hoang, cả dải đồng hoang ngợp đầy hoa đào lả tả, phiêu phiêu phất phất, che lấp bấy nhiêu thi thể, như một trường tuyết tế.

Từng cánh hoa đào tan vào lòng đất, đột nhiên mặt đất cuộn lên như nổi sóng, từ từ chôn vùi hết thảy Si, Mỵ, Võng, Lượng, Phong Bá… Tất cả thi thể đều chỉ chìm sâu xuống lòng đất, biến mất chẳng còn dấu vết.

Chẳng bao lâu, một dải đồng hoang lại mọc lên vô số gốc đào, dần dà biến thành một cánh rừng đào xanh ngắt, phấp phới khoe tươi dưới vòm trời xanh, hiên ngang ngạo nghễ, rạng rỡ thắm tươi, căng tràn nhựa sống.

A Hành thong thả bước vào rừng đào, một tay đặt lên chỗ trái tim, một tay dịu dàng vuốt ve từng gốc đào một.

Xi Vưu, đây là căn nhà chàng kiến tạo cho ta đấy ư?

Ta sẽ ở lại đây, mãi mãi sống bên chàng, không bao giờ rời xa nữa.

Bóng áo xanh gầy gò cô lẻ liêu xiêu đi giữa rừng đào, càng đi càng xa, rồi dần khuất trong biển hoa.

Chỉ thấy ngàn vạn gốc đào thắm tươi rực rỡ, lung linh ngợp trời rợp đất.

Ngoại truyện:

Vĩ thanh

Sau khi đánh tan Xi Vưu, Hoàng Đế cuối cùng cũng bước lên đỉnh Thần Nông sơn, thống nhất Trung nguyên.

Tuy còn tàn dư Thần Nông như bọn Cộng Công, Hình Thiên, cương quyết không chịu đầu hàng, vẫn giương cao lá cờ của Thần Nông, suất lĩnh đám tàn binh tàn tướng phản kháng Hoang Đế, nhưng đại thể đã thành, những phản kháng yếu ớt ấy chẳng thể vực dậy được Thần Nông quốc.

Thời gian thấm thoắt, năm tháng thoi đưa, chớp mắt đã mấy trăm năm. Vô số máu tươi của nam tử cùng nước mắt của nữ nhi đều tan biến theo cát bụi thời gian, dù oanh liệt hào hùng, khẳng khái bi tráng tới đâu chăng nữa, chẳng qua cũng chỉ còn lại vỏn vẹn mấy dòng trong sách sử, tất cả bị người đời quên lãng.

Có điều, ngọn gió giữa hoang mạc mênh mông ngàn dặm phía Bắc Xích thủy năm này qua năm khác vẫn rít gào quét qua đất liền. Nghe đồn, ở giữa hoang mạc, nơi không ai có thể đến được, mọc lên một cánh rừng đào rậm rì xanh ngắt, mỗi khi màn đêm buông xuống, lại thấy một bóng áo xanh thơ thẩn đi giữa rừng đào, ê a những lời không ai hiểu nổi.

Thường ngày nơi này cát yên gió lặng, thương khách qua lại rất an toàn. Có điều, mỗi độ xuân về, hoa đào nở rộ, tiết trời lại thay đổi, cát vàng vần vũ, cuồng phong gào thét như than như khóc, nhưng hễ khách lữ hành lựa theo tiết tấu trái tim mình mà đánh trống, thì có thể thuận lợi đi qua.

Vì vậy, hàng năm cứ đến mùa xuân, khi cuồng phong vần vũ, cát bụi mịt mù, trong tiếng gió gào như than như khóc, lại văng vẳng nghe thấy tiếng trống thì thùng thì thùng, mạnh mẽ như nhịp đập trái tim nam tử.

Thình thịch, thình thịch, thình thịch…

Cát vàng vần vũ, quạnh quẽ hoang lương.

Thời gian đằng đẵng, lạnh lẽo vô tình.

Nỗi nhớ ngày lại thêm tăng, đau khổ dai dẳng chẳng biết bao giờ mới dứt.

Vô vàn ngày dài đêm thâu, chỉ có hồi tưởng về chàng hết lần này sang lần khác mới có thể giúp ta kiên cường mà sống tiếp, nhưng ký ức càng rõ rệt thì nỗi nhớ càng hằn sâu vào trong xương tủy, đau đớn càng dày xéo con tim, hóa ra, bấy nhiêu lần ôm ấp triền miên, cuối cùng lại chỉ có thể sống chết đôi đàng ngóng vọng về nhau.

Từng muốn cùng chàng hân thưởng mọi âm thanh mỹ diệu nhất trên đời, nhưng khi chàng đi rồi, ta mới hiểu rằng, âm thanh mỹ diệu nhất trên đời này, chính là tiếng chàng dịu dàng gọi “A Hành”. Vậy mà giờ đây, bất kể ta khóc thương tới chừng nào, cũng chẳng thể nghe chàng dịu dàng gọi ta một tiếng “A Hành” nũa.

Từng muốn cùng chàng ngao du thiên hạ, nhưng khi chỉ còn lại một mình ta trơ trọi giữa đời, ta mới hiểu, chàng chính là thiên hạ của ta, cảnh đẹp nhất trên đời này chính là nụ cười của chàng. Tiếc rằng giờ đây, dù ta khản giọng gọi chàng, cũng chẳng cách nào thấy lại nụ cười của chàng nữa.

Chàng hay quen thói kéo ta ngã vào lòng, áp sát ngực chàng để nghe tiếng trái tim chàng sôi nổi đập trong lồng ngực. Nhưng hiện giờ, trái tim vốn thuộc về chàng, lại đang đập trong ngực ta. Rõ ràng gần trong gang tấc, sớm chiều bên nhau, vậy mà lại sống chết đôi đàng, không sao chạm tới, ta cũng chẳng thể nào nghe được tiếng trái tim chàng nữa.

Nỗi nhớ như độc thảo, ngày ngày giày vò ta, đau đớn như dao nhọn, đêm đêm đục khoét ta.

Mỗi độ hoa đào nở rộ, nỗi nhớ nhung và đau dớn của ta không sao nguôi được, thế nên…

Ta lại dấy cuồng phong vần vũ, cát bụi mịt mù, chỉ mong được nghe thấy tiếng trái tim chàng lần nữa.

Thình thịch, thình thịch, thình thịch…

Ngoại truyện

Hậu ký

Về trận chiến giữa Hoàng Đế và Xi Vưu, những ghi chép truyền lại vô cùng hàm hồ, nói Hoàng Đế và Viêm Đế giao chiến bảy trận đều thắng, sau đó giao chiến với Xi Vưu, thuộc hạ của Viên Đế đánh chín trận thua cả chín. Phe chính nghĩa của Hoàng Đế sắp bại dưới tay bè lũ Xi Vưu hung tàn ác độc, sau cùng nhờ con gái, Hoàng Đế mới có thể lập nên kỳ tích, chuyển bại thành thắng, nhưng chẳng rõ tại sao, Thiên nữ Bạt lại trở thành Hạn Bạt hung ác, không thể quay về Thần tộc nữa. Theo Đại Hoang Bắc kinh trong Sơn Hải kinh ghi chép: “Có người con gái mặc áo xanh, tên Bạt, là con gái Hoàng Đế. Xi Vưu rèn đúc binh khí chống lại Hoàng Đế, Hoàng Đế liền phái Ứng Long tới vùng đồng hoang Ký Châu tấn công Xi Vưu. Ứng Long tích trữ thật nhiều nước, nhưng Xi Vưu lại mời Phong Bá và Vũ Sư tới, làm mưa to gió lớn. Hoàng Đế lại lệnh cho Thiên Nữ Bạt giáng phàm trợ chiến, chặn đứng mưa gió, cuối cùng giết Xi Vưu. Bạt vì cạn kiệt thần lực, cũng không thể quay về trời nữa, nơi nàng cư trú quanh năm không có một giọt mưa. Thúc Quân đem chuyện này bẩm lại với Hoàng Đế, Hoàng Đế bèn an trí Bạt ở phía Bắc Xích thủy.”

Về con gái Viêm Đế Thần Nông Thị, theo truyền thuyết, trên Tuyên sơn có một giống dâu, vì con gái của Viêm Đế bốc cháy tại chính gốc cây này, đuổi theo Vũ Sư Xích Tùng Tử, thăng thiên mà đi, nên được gọi là dâu Đế Nữ. Theo Trung Sơn kinh trong Sơn Hải kinh chép lại: “Về phía Đông năm mươi lăm dặm, có ngọn núi tên Tuyên sơn… Trên có giống dâu, bề ngang năm mươi thước, cành chẽ làm bốn nhánh, lá to hơn một thước, gỗ đỏ, hoa vàng, đài xanh, gọi là dâu Đế Nữ.”

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: