Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

cvvvvvvvvvv

Trình Tinh là cô gái hiện đại vô tình xuyên không ngược về một thời đại lạ lùng không có trong lịch sử. Linh hồn cô nhập vào thân xác một cô bé sáu tuổi tên là Thanh La, con gái vị Thất phu nhân của Lý tướng Ninh quốc. Thanh La từ đó đã biết giấu mình để tránh sự chú ý của người khác nhằm sau này dễ bề đưa mẹ trốn khỏi Lý phủ, sống đời tiêu dao.

Năm mười ba tuổi, trong Đào hoa yến của Hộ quốc công chúa, Thanh La giả trang thành a hoàn trốn khỏi trướng của tướng phủ để dò la. Duyên trời xui khiến, nàng gặp phải một vị tiểu vương gia kiêu ngạo trong vườn đào, hai người hiểu lầm, Thanh La đánh ngất tiểu vương gia Lưu Giác và bỏ đi.

Cũng trong lần trốn ra ngoài này, Thanh La còn vô tình quen tứ hoàng tử Tử Ly. Chàng là người đầu tiên ở Ninh quốc này đối xử tốt với Thanh La, khiến nàng cảm động.

Hai chàng trai anh tuấn, cùng yêu thương Thanh La. Nhưng vì cả hai chàng đều là những người có địa vị cao sang, ngoài tình yêu họ vẫn ấp ủ giấc mơ quyền lực. Mối quan hệ với hai chàng đã đẩy Thanh La vào cảnh nước sôi lửa bỏng trong cuộc chiến quyền lực chốn hoàng cung.

Sau bao thăng trầm, lưu lạc, Thanh La liệu có tìm được hạnh phúc cho mình?

\CHƯƠNG 1

Vừa mở mắt, Trình Tinh lập tức nhắm lại, mở ra lần nữa, lại nhắm lại. Sau mấy lần như thế, cô quả quyết tuyệt đối không phải mình đang nằm mơ, cô không nằm trên giường nhà mình, mà ở một nơi lạ hoắc nào đó.

Thử động đậy, chân tay vẫn nguyên vẹn, không hề suy chuyển, lắc lắc đầu, đầu hơi nhẹ, nhưng vẫn tỉnh táo. Cô ngồi dậy, cơ thể không sao. Trình Tinh ngồi trên giường ngơ ngẩn, không lẽ có người nửa đêm bí mật đưa cô từ nhà đến đây? Thậm chí không hề làm cô tỉnh giấc.

Trình Tinh vốn rất thính ngủ. Nhất là những lúc cha mẹ vắng nhà, thính giác của cô cơ hồ càng nhạy, một con chuột chui vào lùng sục thùng rác trong bếp, chân nó vừa chạm nắp thùng, cô đã nhảy khỏi giường xộc vào bếp, vớ lấy quả bóng rổ tung lên. Con chuột mai phục trong bếp đã lâu kinh hãi nhảy dựng, lặng lẽ chuồn thẳng, chạy đến cái hõm tường để quạt thông gió, nó còn dừng lại, quay đầu khinh miệt nhìn Trình Tinh bằng đôi mắt đen hạt đỗ, hình như muốn nói, chỉ bới rác thôi mà, có đáng phải thế không?

Đuổi xong con chuột, cô lại lên giường ngủ tiếp. Không còn tiếng động quấy rầy, cô lập tức ngủ say, không hề mộng mị, vừạ thức giấc, mở mắt đã thẩỵ đang ở chỗ này.

Quay đầu nhìn quanh, căn phòng không rộng, chừng mười mét vuông, trên tường quét vôi trắng treo bức tranh sơn thủy và đôi câu đối rất trang nhã: “Tùy phong hòa bích nguyệt thanh minh, thính đào thanh trúc vũ vô ý".(*)

Ngước mắt nhìn, trần nhà được ghép bằng những ván gỗ, nền lát đá xanh khổ rộng. Trước cửa sổ có một cái án chạm trổ hoa văn, trên đặt một chiếc đàn, và một chậu lan thảo. Bài trí đơn giản mà tao nhã.

Đột nhiên cảm thấy người hơi đau, đưa tay sờ, chạm ngay ván giường cứng queo, người quen nằm đệm, ngủ trên giường lát ván thế này đương nhiên thấy đau mình. Lại nhìn cái giường, đây là loại giường cổ, hình như là thời Minh, Thanh, cửa giường có bình phong đuợc ghép mộng bằng những hoa văn tứ hợp như ý vả hoa văn chữ thập, gia công cầu kỳ tinh xảo, màn quây bằng lụa màu vàng nhạt. Trình Tinh thầm nghĩ, chiếc giường nảy quả là rất đẹp, chế tác tinh xảo, giá cả chắc cũng rất đắt. Gối dài, trên thêu hoa, cô đưa tay khẽ vuốt, chạm phải những hạt nhỏ bên trong, bỗng bật cười, trong ruột chiếc gối thêu lại là một túi trấu, thì ra đúng là như vậy.

Bốn bề vô cùng tĩnh mịch, một khi đã tỉnh ngủ Trình Tinh không muốn nán lại trên giường nữa, cô muốn biết đây là chốn nào, ai đã đưa cô đến đây. Định xỏ dép nhưng chân vừa giơ ra bỗng sững người, chìa tay trước mặt nhìn, lại sững người, lại nhìn toàn thân, cuống quýt sờ soạng, Trinh Tinh kinh hoàng, đầu óc hoảng loạn, chỉ thấy tim đập như trống trận, nước mắt ứa ra. Cơ thể này, cơ thể này không phải là của cô! Quần áo cô mặc cũng không phải là trang phục hiện đại.

Trình Tinh thở dốc, vô thức há miệng hét: "Mẹ!".

Có tiếng đẩy cửa, một cô gái xấp xỉ đôi mươi vội vã đi vào: “Tam Nhi, mẹ đây, con thấy ác mộng phải không?”.

Trình Tinh một lần lần nữa kinh ngạc: “Mẹ ư?".

Cô gái bước đến dịu dàng ôm Trình Tinh, dỗ dành: “Tam Nhi, có mẹ ở đây, đừng sợ, con gặp ác mộng hả? Nhìn con này, người đẫm mồ hôi rồi”. Nói đoạn, dùng chiếc khăn lụa trong tay lau mồ hôi cho cô.

Một làn hương nhè nhẹ từ cơ thể người đó phả ra, Trinh Tinh sợ hãi đến phát run, đây đúng là không phải nằm mơ! Cô gái dường như cảm nhận được người cô đang run bần bật, nhẹ nhàng ôm cô, bế cô đặt ngồi lên đùi mình, tay khẽ vỗ lưng dỗ dành: “Mẹ đây, Tam Nhi ngoan nào, đừng sợ!”.

Lúc này Trình Tinh đã rơi vào trạng thái kinh sợ tột cùng, toàn thân cứng đờ, lưỡi cứng không thể nói được. Lúc này, cô gái đã phát hiện ra, bắt đầu lay cô: “Tam Nhi, con sao thế? Tam Nhi? Người đâu!”.

Có hai người ngoài cửa chạy vào, một người có ơdáng a hoàn, một người có dáng quản gia, giọng sợ sệt hỏi: “Thất phu nhân, tiểu thư làm sao ạ?".

Giọng cô gái đã có phần bực bội: “Tiểu thư xưa nay sợ ngủ một mình, ngay cả các người cũng không coi mẹ con ta ra gì, dám lơ là như vậy?".

Hai người quỳ sụp xuống, mặt trắng nhợt. Người có tuổi bạo dạn hơn, mở miệng: “Thất phu nhàn, lão nô thấy trời đã sáng, không còn sớm nữa, bèn đi lấy trang phục để tiểu thư mặc chuẩn bi đi thi, chẳng ngờ tiểu thư lại thấy ác mộng!”.

A hoàn kia nói giọng suýt khóc: “Hôm nay tiểu thư dậy muộn, Tiểu Ngọc gọi hai lần, tiểu thư có trả lời, con tưởng tiểu thư đả tỉnh, bèn đi chuẩn bị nước nóng. Xin phu nhân tha cho Tiểu Ngọc, từ nay tiểu thư chưa dậy Tiếu Ngọc quyết không dám rời một bước!”.

Thất phu nhân thấy bộ dạng sợ hãi của bọn họ, thở dài một tiếng: “Còn không mau đi chuẩn bị, hôm nay không được sơ suất!”.

Vú Trương và Tiểu Ngọc nhìn thất phu nhân, cúi chào, vội vàng đi ra.

Thất phu nhân nhỏ nhẹ dỗ Trình Tinh: "Tam Nhi, vú Trương và Tiểu Ngọc đều là những người mẹ chọn từ lâu, họ đều rất tốt”.

Răng Trinh Tinh vẫn va vào nhau lập cập, cô không hiểu đã xảy ra chuyện gì, chỉ vô thức gật gật đầu, cuối cùng miệng cũng lí nhí vọt ra một từ: “Vâng”.

Thất phu nhân nâng mặt Trình Tinh, giọng vẫn dịu dàng: “Tam Nhi, mẹ biết con rất sợ cuộc thi hôm nay, nhưng mẹ chỉ có một mình con, nếu con giận dỗi làm hỏng cuộc thi, mất mặt là chuyện nhỏ, nhưng mẹ sao đành lòng để con bị phạt đòn? Cuộc sống sau này của mẹ con ta ở tướng phủ sẽ càng khó khăn”. Nói đoạn, nét mặt lộ vẻ bi thương. 

Lúc đó vú Trương mang một xấp quần áo, Tiểu Ngọc bê một chiếc thau đồng đi vào.

Thất phu nhân đặt Trình Tinh xuống giường, nắm bàn tay nhỏ bé của cô, dịu dàng nói: “Nào, hôm nay mẹ chải đầu cho con”.

Vú Trương giũ ra một chiếc váy màu xanh mặc cho cô, sau đó lại mặc thêm chiếc áo ngắn màu tím hồng, thắt dải hai bên sườn. Trình Tinh đứng ngây như hình nộm để mặc mọi người làm gì thì làm.

Thay xong trạng phục, thất phu nhân dẫn Trình Tinh đến ngồi trước bàn trang điểm. Đột nhiên, nhìn thấy trong chiếc gương đồng một khuôn mặt nhỏ bé xa lạ, hai tay Trình Tinh hốt hoảng ôm lấy mặt, bật ra một tiếng kêu kinh hoàng: “Ôi!”.

Thất phu nhân nhìn ra ngoài, nét mặt lộ vẻ lo lắng: “Tam Nhi, muộn rồi, nếu không trang điểm sẽ không kịp, nếu đến muộn cha con... Ôi, mẹ biết làm sao!”.

Cuộc thi ư? Cha con ư? Trình Tinh từ từ buông tay, hé mắt nhìn, trước mặt lại nổi lên một đám sương mù. Đây là ai? Sao mình lại trở nên nhỏ bé thế này? Sao mình lại biến thành như thế này? Cô không thể nào tin nổi, ngơ ngác nhìn đứa trẻ trong gương, mắt đỏ hoe, sắc mặt xanh xao, nhiều nhất cũng chỉ sáu tuổi.

Thấy Trình Tinh ngoan ngoãn ngồi trước gương, thất phu nhân, vú Trương, Tiểu Ngọc nhanh chóng trang điểm cho cô. Một lúc sau, trong gương lại xuất hiện một tiểu mỹ nhân, mắt to, khuôn mặt trang điểm tinh tế gọn gàng, có hàng tóc mái ngay ngắn, hai bím tóc nhỏ xíu. Thất phu nhân hài lòng thắt hai dải lụa màu lên hai bím tóc ấy, nghiêng đầu ngắm nghía, nét mặt tươi cười.

Vú Trương cười xởi lởi: “Tiểu thư giống phu nhân quá, sau này lớn lên nhất định cũng là một mỹ nhân”. 

Thất phu nhân nắm tay Trình Tinh dắt ra ngoài. Trinh Tinh ra khỏi cửa phòng, nhìn thấy một khoảng không vuông vắn, bên dưới là mảnh sân, đặt hai cái bể cá to bằng đá, giữa có một khóm hải đường đương độ ra hoa. Sáng sớm chắc có mưa, sần đầy ắp nước, hoa hải đường được tắm mưa càng mơn mởn, thắm sắc, nhưng bây giờ không phải là lúc thưởng thức phong cảnh. Tiếng bước chân của thất phu nhân đã có phần vội vã, hình như đang tranh thủ thời gian vì lo bị muộn.

Đột nhiên Trình Tinh nghĩ, phu nhân muốn đưa mình tham gia cuộc thi nào đó, hình như rất quan trọng, vừa rồi hình như phu nhân có nói, nó liên quan đến cuộc sống nào đó sau này của mẹ con họ ở Lý gia. Hai mẹ con sao? Tim Trình Tinh lại nhảy lên. Thất phu nhân nhiều nhất cũng chỉ hai mươi ba, hai mươi tư tuổi, mình phải gọi cô ta là mẹ ư?

Cố gắng trấn tĩnh, cô muốn biết cuộc thi mình sắp phải tham dự rút cục là gì, rồi lại nghĩ đến sự biến đổi kỳ dị này. Cô kéo tay thất phu nhân, ngẩng mặt hỏi: “Cuộc thi này, con phải chú ý những gì?”.

Đây là lần đầu tiên sau khi chức dậy thất phu nhân thấy cô nhắc đến cuộc thi, bỗng dừng chân, âu yếm xoa đầu cô: “Tam Nhi, mẹ biết con đã cố gắng, cố gắng muốn học tốt cầm kỳ thi họa, ngâm thơ làm câu đối, nhưng con không thích những thứ đó, đương nhiên học không được tốt lắm. Nhưng, Tam Nhi, con phải hứa với mẹ, dù con có trả lời được hay không, nhất định không được khóc, không được làm chúng ta bẽ mặt”.

Nói đến đây, trong mắt thất phu nhân thoáng lộ ra vẻ uất hận: “Mặc cho bọn họ xoay thế nào, chúng ta tuyệt đối không được rơi một giọt nước mắt! Nhớ chưa, Tam Nhi?”.

Trinh Tinh nhìn vẻ ân cần trong mắt thất phu nhân, gật gật đầu. Chỉ cần không khóc là được! Cô thở dài, đây là hoàn cảnh gì không biết? Cái cơ thể này mang tính cách gì? Người cha ít nhất đã cưới bảy bà vợ kia dung mạo ra sao?

Thất phu nhân dắt tay Trình Tinh đưa vào một gian phòng lớn. Những tiếng nói chuyện rầm rì chợt im bặt. Cô nhìn thấy trên hai dãy ghế bên phải, bên trái trong gian phòng có năm người đàn bà đang ngồi, đầu cài đầy đồ trang sức châu báu. Hai chiếc ghế đặt ờ chính giữa còn bỏ trống, có lẽ là vị trí của người cha và chính thê của ông ta.

Thất phu nhân hơi mỉm cười, cúi đầu về bên phải nói: “Muội đến muộn, các tỉ tha tội”. Lại quay về phía trái, cũng cúi chào như vậy, mấy người ngồi đó miễn cưỡng gật đầu. Thất phu nhân có lẽ đã quen với sự lạnh nhạt của họ, không đợi đáp lễ, dắt Trình Tinh đến ngồi ở ghế cuối cùng phía bên phải.

Trình Tinh đứng bên cạnh, thất phu nhân lúc đó mới buông tay. Trình Tinh nhìn về phía đối diện, ba người đàn bà này có lẽ là ba vị phu nhân của người cha đó, bên cạnh hai người đàn bà có hai đứa con gái đứng, đứa lớn khoảng mười tuổi, đứa nhỏ chừng bảy tuổi. Trình Tinh nghĩ, thất phu nhân gọi cô là Tam Nhi, có lẽ hai đứa bé kia là chị của cô. Phía đầu bên phải cũng có hai phu nhân không có con.

Cô thầm so sánh mấy bà phu nhân và thất phu nhân, thấy ngưòi béo người gầy, mỗi người một kiểu. Thất phu nhân có khuôn mặt nhỏ xinh xắn, cằm nhọn, đôi mắt long lanh, dáng người thon thả, rất dịu dàng yểu điệu, là người đẹp nhất trong bảy vị phu nhân. Trình Tinh thầm nghĩ, sau này mình lớn lên ngoại hình chắc cũng giống thất phu nhân này.

Chính vào lúc mắt Trình Tinh liếc nhìn xung quanh, chợt bắt gặp hai đứa trẻ đối diện bĩu môi nhìn cô, rồi quay ngoắt đầu vẻ khinh thường, dáng điệu kiêu căng tột độ. Cô bỗng thấy buồn cười, đúng là trẻ ranh! Đột nhiên nghĩ đến cơ thể mình bị biến thành bé hơn chúng, lòng bội phần khó chịu, bất giác cúi đầu. 

(*) Tạm dịch: Gió hiu nhẹ bóng trăng tròn vằng vặc, mưa bụi mờ rừng trúc tiêu sơ.

Lúc đó, vang lên chuỗi âm thanh của các đồ trang sức va vào nhau, các phu nhân đứng dậy, giọng sang sảng: “Thỉnh an lão gia, thỉnh an đại tỷ".

Sau đó là giọng đàn ông: “Ngồi cả đi, cuộc thi hôm nay, A Lôi, A Phỉ, A La đã chuẩn bị tốt chưa? Không biết lần này các con có gì tiến bộ!”.

Trình Tinh ngẩng đầu, nhìn thấy một người đàn ông mặc áo chùng màu nâu, chừng trên dưới bốn mươi, ngồi ở chiếc ghế chính giữa, khuôn mặt vuông vức uy nghiêm. Bên cạnh là một phụ nữ trung niên bận áo ngắn màu nhạt và váy dài màu tím.

Nếu xếp theo tuổi, tên của mình có lẽ là A La. Trình Tinh nhìn kỹ người cha xa lạ, người này cũng giống cha cô, vừa nhìn đã biết là người làm chính trị. Vừa rồi hình như thất phu nhân nhắc đến tướng phủ, làm thừa tướng một nước thật không đơn giản, cử chỉ trang nghiêm, mực thước, đôi mắt chuyển động tinh anh. Vị phu nhân kia mặt tròn tròn hơi béo, nhìn rất ôn hòa nhưng ánh mắt đầy mưu mô.

Người đàn ông chậm rãi nói: “A Lôi, con lại đây!”.

Trình Tinh nhìn đứa con gái mười tuổi nghe gọi, vội bước lên đi đến giữa phòng, nét mặt bình tĩnh, nhưng hai tay lẩn trong ống tay áo thoáng nắm lại. Trình Tinh cúi đầu giấu nụ cười. Thầm nghĩ, đã tưởng cô bé ấy không sợ thật, hóa ra vẫn là trẻ con.

Người đàn ông hỏi: “A Lôi, ba tháng nay con học tốt nhất ngón gì?"

Giọng A Lôi lanh lảnh trả lời: ‘‘Bẩm cha, gảy đàn ạ”.

Người đàn ông vẫy tay, gia nhân chuyển vào mấy cái ghế, đặt cây đàn lên rồi lui ra.

A Lôi ngồi cạnh cây cổ cầm, nét mặt bình thản, vuốt nhẹ dây đàn, nói: “Bây giờ A Lôi sẽ chơi khúc “Mai hoa tam lộng”.

Liền sau đó tiếng đàn cất lên, trong vút bay bổng. Rồi uyển chuyển chập chùng, lạnh như những tảng băng xô. Trình Tinh thầm khen hay. Trong thế giới hiện đại cô đã từng nghe khúc cổ cầm “Mai hoa tam lộng”, không khác bản này bao nhiêu. Chỉ có điều được nghe biểu diễn trực tiếp thế này thì đây là lần đầu.

Cô lại ngắm A Lôi mười tuổi, sắc mặt bình thản, khuôn mặt trái xoan xinh đẹp thoáng vẻ kiêu sa. Trình Tinh thầm nghĩ, mới mười tuổi đã biết chơi đàn hay như vậy thật quá siêu. Cô nhớ hồi nhỏ, cha mẹ sống chết ép cô học dương cầm, cô cực lực phản đối. Bây giờ biến thành như thế này, nếu lúc đầu mình chịu khó học chút nghệ thuật cổ điển như đàn, tiêu sáo hay thư họa gì đó, có phải bây giờ hữu dụng bao nhiêu! Nghĩ đến sự biến hóa kỳ dị này, Trình Tinh lại khó chịu, hai tay bất giác nắm nhàu vạt áo.

Thất phu nhân nhận ra, bàn tay khẽ vỗ tay cô, ánh mắt hàm ý bảo, không biết thì thôi, không quan trọng.

Trình Tinh đột nhiên cảm thấy thất phu nhân đối xử với đứa bé này thật tốt, lòng bỗng thấy ấm áp. Sau khi thay hình đổi dạng, người đầu tiên gặp trong thế giới kỳ lạ này đã đối xử tốt với cô như vậy, coi như may mắn rồi.

Lúc đó khúc nhạc đã vang lên những âm thanh cuối cùng, A Lôi dừng tay, ngửa khuôn mặt nhỏ xinh nhìn người đàn ông.

Người cha gật đầu cười: “A Lội, sao lại chọn khúc này?".

Mắt A Lôi lộ vẻ đắc ý, dõng dạc nói: "A Lôi thấy hoa mai trưóc sân đã tàn, mặc dù đã là tháng hai xuân sớm, nhưng con vẫn nhớ sắc hoa tinh bạch, hương thơm sực nức lúc mai nở rộ suốt mùa đông, con thích nhất khí tiết kiên cường không sợ tuyết sương của nó”. 

Người đàn ông vuốt chòm râu dưới cằm, khen: “Tốt, con gái ta chắc sẽ có cốt cách như mai! Tiếp tục. Tối nay cha sẽ đến vườn mai ngắm cảnh mai tàn như con nói!”.

Câu nói vừa dứt, Trình Tinh nhìn thấy vị phu nhân ngồi phía trái - chắc là thân mẫu của A Lôi - sắc mặt sáng lên vẻ đắc ý, lại cúi đầu nhỏ nhẹ: “A Lôi còn nhỏ, ngón đàn chưa thạo, lão gia quá khen!”.

Trình Tinh mắt đảo một lượt khắp phòng. Ngoài thất phu nhân mặt không biểu cảm, các vị phu nhân ngồi đó nét mặt ít nhiều đều lộ vẻ đố kỵ. Cô thầm nghĩ, bao nhiêu phụ nữ tranh giành một ông chồng, người xưa sao lại có thú vui như thế, có lẽ không có gì để chơi, họ đấu đá lẫn nhau, người đấu với người chắc là thú lắm.

A Lôi lùi về chỗ của mình bên cạnh mẹ, A Phỉ bước ra. Cô bé có khuôn mặt trái xoan, một đôi mắt vừa to vừa đen, linh hoạt thông minh. Cô bé không hề run, nói to: “Cha, mấy tháng nay A Phỉ luyện thư pháp có ít điều tâm đắc”.

Vậy là gia nhân lại khiêng ra một chiếc bàn thấp, đặt lên đó bút nghiên, giấy mực. Một a hoàn bước lên chỉnh lại trang phục cho A Phỉ. Cô bé trầm ngâm suy nghĩ một lát, đột nhiên cúi người nghiêng mình qua phải, rồi lại qua trái viết một mạch đôi câu đối, đoạn ngắm nghía một hồi, mới buông bút, nói dõng dạc: “Xin cha chỉ giáo!”.

Trình Tinh nhìn nét chữ phóng khoáng tươi rói màu mực trên giấy, đúng là chữ đẹp! Vế phải vế trái đều như nhau, nghĩ đến nét chữ như giun bò của mình mà toát mồ hỏi.

Người đản ông chăm chú ngắm nghía hồi lâu, nói với A Phỉ: “Phỉ Nhi, chữ con đúng là tiến bộ rất lớn, tuổi còn nhỏ bút lực chưa đủ, nếu luyện tập thêm, chắc chắn rất đẹp!”.

Lời khen khiến A Phỉ mặt mày hớn hở, ngoái đầu nhìn mẹ cười, xúc động vui sướng, điệu bộ vừa kiêu kỳ vừa đáng yêu. Trình Tinh nghĩ, A Lôi xinh đẹp, A Phỉ kiêu kỳ, may là mình giống mẹ, sau này lớn lên mình cũng là mỹ nhân! Đang mải mê quan sát, đột nhiên nghe thấy người đàn ông gọi: “A La, con lại đây!”.

Trình Tinh ngẩn người, thất phu nhân lo lắng nhìn cô, nhẹ nhàng nhắc: “Tam Nhi, cha gọi con!".

Trình Tinh hốt hoảng, suýt quên mất cô bé A La này cũng phải ứng thí. Mình không biết chơi đàn, không biết thư pháp, mình biết gì nhỉ? Ngay cả đây là thời nào, nơi nào cũng không biết. Trình Tinh đi thẳng đến đứng giữa phòng.

Nghe thấy giọng nói lạnh lùng của người cha: “Hai chị con, một người đàn hay, một người thư pháp giỏi. A La, ba tháng nay con nợ bài thi, mẹ con đã khất mười roi, đám bảo sau ba tháng nhất định con sẽ tiến bộ, ba tháng nay con học được gì?”.

Mười roi? Không được, vừa bị đưa đến thế giới này, còn chưa hiểu đầu cua tai nheo thế nào lại còn bị đánh, tuyệt đối không được! Làm gì đây? Đọc những bài cổ thi còn nhớ là được chứ gì, chỉ sợ những người ở đây cũng biết. Trình Tinh đứng giữa phòng, đầu óc suy nghĩ rất lung. Thấy cô mãi không mở miệng, mấy vị phu nhân lộ vẻ mừng thầm. Trình Tinh quyết định, đọc thơ vậy, nếu họ biết là thơ của ai, thì nói mình thích nên học thuộc. Nếu không biết thi sẽ nói là của mình làm. Cô ngẩng đầu, nói: “Con thích thơ, con có thể đọc thơ cho cha nghe”.

Người đàn ông ấy mở to mắt, ngạc nhiên nhìn cô, thất phu nhân khẽ nhướn mày. Ngưòi cha cười: “Tốt, tốt, tam tiểu thư nhà ta lại biết đọc thơ, đọc cha nghe nào”.

Trong phòng có tiếng cười nhạo. Trình Tinh quay đầu, thấy sắc mặt thất phu nhân đã trắng bệch, bất giác thầm thở dài, chầm chậm đọc: “Nhị nguyệt cô đình nhật nhật phong, xuân hàn vị liễu du nhân không. Hải đường bất tích yên chi sắc, độc lập mông mông tế vũ trung”(*).

Đây là bài “Xuân hàn” của thi nhân Trần Dữ Nghĩa thời Tống. Trình Tinh sửa mấy chữ, dùng chất giọng non nớt không phải của mình đọc xong, thấy mọi người trong phòng ngồi ngây, người có vẻ kinh ngạc, người sa sầm đố kỵ. Bụng nghĩ, ngay bản thân nghe cái giọng trẻ con của mình đọc một bài thơ như vậy cũng thấy giật mình nữa là. Đúng là chưa quen, giọng nói này đâu phải của mình. Rõ ràng là miệng mình phát ra mà lại nghe như người khác nói.

Nguời đàn ông trầm ngâm một lát, rồí nhìn về phía thất phu nhân, ánh mắt đầy ẩn ý. Trình Tinh lại ngoái nhìn, mắt thất phu nhân đã ngấn nước, trong dáng yểu điệu dịu hiền có phần buồn bã.

Trình Tinh thở phào. Thấy mọi người không biết bài thơ này. Có nghĩa là đây không phải thời Tống, vậy thì bản quyền những bài thơ sau thời Tống thuộc về mình rồi!

Người cha cười ha hả: “Hay, A La mới sáu tuổi đã làm đưọc thơ như vậy, mẹ con vất vả rồi. Miễn đánh đòn, hôm nào cha sẽ đến Đường viên nghe con đọc thơ!”.

Lời vừa dứt, trong phòng “sè sè" như tiếng ruồi bay, đó là những tiếng cười khẩy và những ánh mắt gay gắt đổ dồn vào thất phu nhân. Trình Tinh cúi đầu suy nghĩ về câu nói ẩn ý, xem ra rất nặng nề của người đàn ông kia “mẹ con vất vả rồi”. Thầm nghĩ, có lẽ ông ta cho rằng bài thơ vừa rồi là do thất phu nhân dạy mình. Có điều, một đứa trẻ ba tháng trước không trả được bài, suýt bị phạt đòn, đột nhiên lại đọc được bài thơ như vậy, ai chẳng thấy lạ. Thất phu nhân cũng nói cô bé A La này không thích thơ phú, học cũng không chăm mà. Trình Tinh lui về đứng yên cạnh thất phu nhân suy nghĩ. Thất phu nhân không hề dạy con gái bài thơ đó, sau này sẽ tìm cơ hội xóa bỏ nỗi ngờ vực của mọi người mới được.

Người cha lại nói: “Nhà họ Lý chúng ta được tiếng là danh gia vọng tộc của Ninh quốc, dòng dõi thư hương. Sau này phải học hành chăm chỉ mới không bị thiên hạ chê cười!”. Nói đến đây giọng ông ta trở nên nghiêm khắc.

Mọi người trong phòng vội vâng vâng dạ dạ, rồi dần dần giải tán, ai về phòng ấy.

Thất phu nhân nắm tay Trình Tinh đợi các vị phu nhân ra trước, cuối cùng mới rời khỏi phòng đi về phía Đường viên. Trình Tinh cảm thấy thất phu nhân lúc này đang run run xác động, bàn tay nắm tay cô càng chặt, tiếng chân bước càng mau. Có vẻ như bài thơ đó lại vô tình nói lên tâm tư của phu nhân. Trình Tinh tổng hợp những lời thất phu nhân đã nói với cô và những gì vừa nhìn thấy trong cuộc thi vừa rồi, phán đoán thất phu nhân chắc chắn không được sủng ái. Người đẹp như vậy mà lại không được yêu chiều? Chắc có nguyên do.

Ninh quốc? Là thế giới chưa biết ư? Các bà phu nhân kia đối địch với thất phu nhân, người cha vừa nhìn đã biết ngay là kiểu người giáo lý giả tạo, hai người chị kiêu kỳ nhưng rất có tài, một vụ ân oán chốn danh gia! Mình phải thế nào đây! Xem rất nhiều tiểu thuyết vượt thời gian, mình có thể hiểu biết càn khôn, thích nghi được cuộc chơi quay về quá khứ như những nhân vật trong đó không? Liệu có bị chết yểu? Liệu có một ngày kia thức dậy lại trở về thế giới hiện tại hay không? Trình Tinh nghĩ, cô bé A La trước đây chắc là đứa trẻ hướng nội, không thạo ăn nói. Hướng nội thì hướng nội, cũng may từ nhỏ mình đã sống độc lập, gặp chuyện gì cũng vẫn bình tĩnh, không kêu ca phàn nàn, nếu không, ngay người mẹ xinh đẹp này cũng không có, sáu tuổi không chừng bị chết đói? Chết đói là chuyện nhỏ, thất tiết là chuyện lớn, nếu bị bán vào lầu xanh, chẳng thà chết còn hơn?

Ngẩng đầu nhìn thất phu nhân, sắc mặc đã trở lại bình thường, hầu như không cảm thấy sự bất thường của A La. Trình Tinh nghĩ, đã đến thế giới này một cách kỳ lạ, kỳ lạ nhưng cũng là ý trời. Hơn nữa A La mới sáu tuổi, nếu lớn hơn một chút, chẳng lẽ phải giả bộ mất trí nhớ?

Trên đường về, vừa đi cô vừa nhìn ngắm những lầu gác, hành lang quanh co cổ kính xung quanh, thầm nghĩ, gia đình này chắc chắn là nhà quyền thế, giàu có, trang viên rất rộng. Người cha kia tề gia rất nghiêm khắc, thỉnh thoảng gặp gia nhân, họ đều cúi gập người chào thất phu nhân và cô.

Rút cục nên vào nhà giàu hay vào nhà nghèo? Trình Tinh nghĩ, có lẽ vào nhà giàu vẫn hơn, dân thời xưa nghèo khổ, không có cái ăn cái mặc, sưu cao thuế nặng, bữa ăn chỉ có rau cám. Nếu gặp ác bá địa chủ, hoặc năm mất mùa đói kém, cắm cọng rơm lên đầu(*) chết thế nào cũng không biết. Vào nhà giàu mặc dù có mưu mô, tranh giành, nhưng tốt xấu có cha mẹ làm quan. Bản thân cũng từng nghe nhiều, thấy nhiều cảnh đấu đá công khai ngấm ngầm trong chốn quan trường, đối phó coi như cũng không khó lắm.Những chuyện như vậy thời nào chả có, tranh giành đấu đá vốn là bản tính con người.

Lúc này, cô nắm chặt tay thất phu nhân trở về nhà. 

(*) Tạm địch: Tháng hai gió thổi đinh không, xuân lạnh chưa dứt khách chừng ngại qua. Hải đường ngàn màu son pha, cô đơn đứng giữa nhạt nhòa mưa bay (BTV).

(*) Trung Quốc xưa đội một chiếc vòng nhỏ tết bằng rơm, cắm ngọn cờ, rơm trên đầu đứng ở chợ là dấu hiện bán mình đi ở đợ (ND

CHƯƠNG 2

Về đến Đường viên, thất phu nhân đứng trước khóm hải đường nở rộ hoa trước sân, thở dài, đoạn sai vú Trương mang đến chiếc ghế, ngồi trên hành lang, ôm Trình Tinh vào lòng thầm thì: “Tam Nhi, con tốt quá. Con ít nói, cả năm không nói với mẹ mấy câu, cũng không thích thơ phú văn chương, vẫn tưởng là con tính tình lạnh lùng, không ngờ, nỗi. khổ của mẹ con đều ghi trong lòng. Trong nhà này, mẹ chỉ có con là người thân, cha con, ông ấy có đến hay không mẹ cũng không màng. Nhưng bài thơ đó vừa thấm thía nỗi buồn đau lại vừa có chí khí quật cường, con sáu tuổi đã viết được bài thơ như vậy, không biết là tốt hay xấu”.

Đứa trẻ sáu tuổi sao có thể giỏi như vậy, lúc sáu tuổi mình đọc thuộc lòng bài thơ còn ngắc ngứ, huống hồ làm thơ! Trình Tinh đang muốn thanh minh vài câu, đã thấy giọng thất phu nhân trở nên phẫn hận: “Mấy người đó vẫn chưa cam lòng, họ đang hận là chưa đuổi được mẹ con ta đi, nếu có thể ra đi thật... Ôi! Lúc nào cũng mang chuyện con không biết cầm kỳ thi họa để gây sự. Hôm nay quả là mẹ rất lo, sợ con phải đòn, mà lại không biết làm gì để bênh vực con. Con gái Lý gia nếu bất tài, không giúp gì được cha sao bằng lòng cho lão gia lấy mấy vợ bé, mẹ chẳng qua cũng là người đẻ mướn cho nhà họ Lý mà thôi!”.

Thất phu nhân cúi đầu dịu dàng mỉm cười với Trình Tinh: “Mẹ không mong Tam Nhi giỏi giang hơn người, chỉ sợ con không biết nghe lời, khiến cha con nổi giận, thì ngay miếng cơm cũng không có mà ăn. Con rất giống tính mẹ lúc nhỏ, ương bướng, nghịch ngợm, luôn làm khó vú Trương, chẳng chịu học hành. Mẹ không nỡ trách con, nhưng Tam Nhi, thời buổi này phận nữ nhi luôn chịu thiệt thòi, nếu con không lấy được một đám tốt, sau này sẽ rất khổ”. Nói đoạn, hai hàng lệ tuôn rơi.

Trình Tinh nhìn vẻ đau buồn trên gương mặt như ngọc của thất phu nhân, thầm hiểu, vận mệnh của hai người từ nay gắn với nhau. Cô nhìn cơ thể bé nhỏ của mình, vượt thời gian không gian trở về quá khứ một cách kỳ lạ, linh hồn tá túc vào thân thể khác, không lai lịch. Cô vốn là nữ sinh đại học năm thứ tư, gia cảnh ưu việt, tiền đồ xán lạn, bây giờ tất cả đều bất định. Nghe thất phu nhân nói, con gái ở đây đều chịu nhiều thiệt thòi, không nhịn nổi bật khóc.

Thất phu nhân vội ôm lấy cô, nói: "Tam Nhi, tại sao làm con gái lại khổ như vậy? Tại sao phải làm con gái nhà họ Lý?".

Trình Tinh khóc mãi, rồi ngủ thiếp.

Thất phu nhân âu yếm nhìn con gái sáu tuổi. Khuôn mặt giống phu nhân, không cần suy đoán cũng biết sau này A La lớn lên sẽ vô cùng xinh đẹp. Tuổi xuân và nhan sắc của nàng ta đã bị chôn vùi trong Đường viên Lý phủ, nàng ta hy vọng số phận con gái sẽ tốt hơn mình, không phải vò võ suốt đời trong mảnh sân quạnh quẽ bốn bề kín mít này.

Ngơ ngẩn nhìn A La rất lâu, nàng ta gọi vú Trương và Tiểu Ngọc, nhẹ nhàng nói vói họ: “Tiểu thư còn nhỏ chưa hiểu chuyện, các người chiều nó một chút, nó không phái là đứa trẻ lạnh lùng, chỉ có điều hơi bướng”.

Vú Trương và Tiểu Ngọc mắt đỏ hoe, nói: “Phu nhân đối với chúng tôi đại ân đại đức, chúng tôi nhất định hết lòng vì tiểu thư”.

Thất phu nhân trao đứa bé trong lòng cho vú Trương bế về phòng. Một mình ngơ ngẩn nhìn vườn hải đường, nghĩ đến bài thơ A La đọc lúc trước, nước mắt lại tuôn lã chã.

Trình Tinh vừa thức dậy, vội cúi nhìn người mình. Vẫn cơ thể nhỏ bé. Xung quanh lặng ngắt như tờ, không có tiếng ô tô qua đường, khộng có tiếng người, hình như cả thế giới chỉ còn lại một mình cô. Đôi mắt đỏ hoe, nước mắt trào ra, ánh trăng chiếu vào phòng, càng thêm vắng lạnh. Trình Tinh thầm nghĩ, lẽ nào mình mãi mãi ớ lại xứ này, với thân xác của A La, dần dần lớn lên trong thế giới này, rồi lấy chồng, kết thúc cuộc đời? Bỗng thấy sợ hãi khôn cùng, òa khóc thành tiếng.

Ngoài bức màn sa, lóe lên ánh nến, Tiểu Ngọc vén màn, lo lắng dỗ cô: “Tiểu thư, lại gặp ác mộng sao? Tiểu Ngọc ở đây, tiểu thư, đừng sợ”.

Trình Tinh nhìn mái tóc xổ tung của Tiểu Ngọc, có lẽ cô bé chỉ chừng mười tuổi, vậy mà lại đến an ủi mình. Thầm nghĩ, mình đã hai mươi hai tuổi, sao có thể để cho cô bé bảo vệ ? Dần dần nín khóc, nói với Tiểu Ngọc: “Ta không ngủ đưọc, Tiểu Ngọc lên nằm với ta đi, kể chuyện cho ta nghe”.

Tiểu Ngọc nhìn khuôn mặt nhỏ bé với những giọt nước mắt chưa khô lóng lánh của A La dưới ánh nến, đầy băn khoăn, cầu khẩn, trong lòng xúc động không nói nên lời. Tiểu thư mới sáu tuổi, đã khiến người ta thương cảm, sau này lớn lên không biết sẽ thành trang quốc sắc thiên hương thế nào, liền đồng ý, lên giường ngủ cùng A La.

Trình Tinh nói với Tiểu Ngọc: “Tiểu Ngọc nói cho tôi biết, thế giới bên ngoài như thế nào, Ninh quốc là một nước như thế nào?”.

Tiểu Ngọc cười gượng: “Tiểu Ngọc chỉ biết thiên hạ có năm nước, phía tây có nước Khởi, tây nam có nước Hạ, bắc có nưóc An, nam có nước Trần, Ninh quốc ở phía đông, là nước lớn nhất, cường thịnh nhất. Chúng ta ở Phong thành kinh đô Ninh quốc. Tiểu thư, Phong thành của chúng ta rất to, đi ngựa từ đông sang tây cũng phải chạy hết mấy canh giờ, Tết Nguyên tiêu đông vui nhất, bên bờ sông Ninh người thả đèn, người bán đèn, tấp nập còn có rất nhiều thuyền hoa, tối đến giống như là nơi ở của thần tiên ấy”.

Trình Tinh nghĩ, đây là nơi nào! Có phải là một thời đại kỳ dị? Thôi tìm hiểu sau vậy. Mình cần phải suy nghĩ đã, liền nhắm mắt. Tiểu Ngọc tưởng cô đã ngủ, cũng không nói nữa, dần dần cũng ngủ thiếp.

Một lát sau cô mở mắt nhìn lên đình màn. Xem ra mình thực sự biến thành cô bé A La sống trong Lý phủ rồi. Cố kìm nén nỗi lo sợ lúc đầu. May mà mình còn nhỏ, Lý lão gia là vị thừa tướng thế nào, chuyện cơm áo tạm thời không phải lo. Trước khi lớn lên đối diện với nhiều chuyện khác vẫn còn mấy năm nữa. Chưa biết chừng có ngày tỉnh giấc đã lại quay về trên chiếc giường của nhà mình, tất cả chỉ là giấc Nam Kha(*) mà thôi. Lòng dần dần yên tĩnh.

Tiếp đó bắt đầu suy nghĩ về bản thân. Vốn là sinh viên năm thứ tư chuyên ngành tiếng Anh, học hành hơi lười biếng, nhưng hai mươi hai năm sống trong thế giới hiện đại, những tri thức đã có, sẽ ít nhiều hữu dụng. Nếu thời đại khác nhau, những bài thơ bài phú có thể sao chép, những gì cô biết cũng đủ dùng. Đường thi, Tống từ, nhớ không nguyên vẹn cũng chẳng sao, những bài thơ hay, những câu châm ngôn cách cú nổi tiếng cô vẫn nhớ. Hát cũng tàm tạm, chỉ có hay sai nhạc, cũng không sao, những ca từ còn nhớ biết đâu cũng có thể dùng đuợc. Biết chơi bài, luyện tập Karate từ nhỏ, cái này cô thông thạo nhất, có thể chấp cả mấy đứa con trai. Ít nhất cũng không phải loại con gái trói gà không chặt! Trình Tinh thở phào, may mà ông bố bà mẹ làm quan của cô thường xuyên bận công việc, ít thời gian để mắt đến cô, cho nên cô có thể học Karate để tự vệ. Cũng do không ai chăm sóc, năm, sáu tuổi Trình Tinh đã biết tự chăm sóc mình, có thể tự nấu ăn, đúng rồi, nấu ăn!

Giống như Robinson trên hoang đảo, phát hiện thêm được khả năng gì của mình Trình Tinh mừng ran. Nghĩ một lúc nữa thấy vốn liếng của mình chỉ có vậy.

A La sáu tuổi, nghe nói ngày xưa, con gái mười sáu tuổi đã gả chồng, mình ít nhất vẫn còn khá nhiều thời gian để học. Đây là xã hội nào, sau này phải đối diện với những con người và sự việc như thế nào, để sau hẵng hay.

Hôm nay cô đã kịp quan sát, phụ nữ ở đây không bó chân, thầm thở phào, cô đã từng thấy bàn chân bị bó của bà ngoại, biến dạng xấu xí, các ngón quặp xuống lòng bàn chân, đi không đau mới lạ.

Nghĩ đến những người đã gặp trong căn phòng lớn sáng nay, không biết Lý lão gia có phải là một vị tướng quyền lực, những quyền tướng thời cổ đại thựờng không có kết cục tốt đẹp, một khi công lao lớn hơn hoàng đế hoặc lợi dụng quyền thế là bị hoàng đế kiếm cớ giết hại. Cô cầu thần khấn Phật mong Lý lão gia không gặp oan trái thảm cảnh như bị bãi quan, chém đầu. Nghĩ đến những cực hình thời trung cổ, thấy rùng mình khiếp sợ. Trình Tinh tự nhủ, sau này mình là tam tiểu thư của nhà họ Lý, chỉ cần không phạm tội gì, có thể sống bình yên là được.

Lại suy nghĩ về hoàn cảnh sống hiện tại, Đường viên hình như ở một góc khuất, vắng nhất trong Lý phủ, chỉ có hai người hầu là vú Trương và Tiểu Ngọc. Vú Trương ở bên thất phu nhân nhiều hơn, Tiểu Ngọc hầu hạ cô. Đồ đạc cũng rất sơ sài, không thấy vàng bạc châu báu gì đáng tiền. Ngay thất phu nhân, hôm nay đầu cũng chỉ cài hai chiếc trâm ngọc, một đóa hoa cũng bằng ngọc, giản dị hơn nhiều so với sáu bà kia. Thất phu nhân sợ nhất tranh giành đấu đá ngấm ngầm, nhưng sáu vị phu nhân kia rõ ràng không thích cô ấy, họ đố kỵ nhan sắc của cô sao? Nhưng Lý tướng rõ ràng không sủng ái vị phu nhân xinh đẹp này. Thật kỳ lạ, có ẩn tình gì chăng? Nghĩ đến vẻ dịu hiền và đau buồn của thất phu nhân, Trình Tinh thầm nghĩ, có lẽ là do cô ấy không sinh được con trai nên bị Lý tướng lạnh nhạt.

Lý lão gia chỉ sinh được ba gái, mình có nên trở thành đứa con được ông ta thích nhất? Có cái hay cái dở, cái hay là có thể cải thiện đối xử của ông ta đối với thất phu nhân, được hưởng một số đặc quyền, cái dở là thu hút chú ý, đã được sủng ái muốn sống yên ổn cũng khó. Trí tuệ của tuổi hai mươi hai trong cơ thể sáu tuổi, dựa vào đầu óc trưởng thành và tri thức hiện đại, khiến Lý lão gia yêu thích có lẽ cũng không khó. Nhưng nghĩ đến lời răn của người xưa, đạn luôn trúng những con chim đầu đàn, cây to thì dễ đổ, cô quyết định trước mắt cứ tạm bình tĩnh, tìm hiểu kỹ tình hình, yên phận mấy năm rồi tính.

Chập chờn ngủ một lát, nhưng giấc không sâu. Khi tỉnh dậy lần nữa, mở mắt thì trời đã mờ mờ sáng, có lẽ khoảng năm sáu giờ. 

Trình Tinh (A La) ra khỏi giường, nhìn bộ y phục liền thân mỏng mảnh trên người, cảm thấy mặc thế này mà chơ thể thao thì không phù hợp lắm.

Tiểu Ngọc cũng đã thức, hỏi A La: “Tiểu thư, dậy sớm thế sao? Bây giờ mới là giờ Mão, mọi ngày chưa đến giờ Thìn tiểu thư chưa dậy cơ mà".

A La thầm nhẩm lại mười hai chi, bụng nghĩ, mình phải làm quen cách tính giờ ở đây mới được, cười nói: “Hôm qua đi thi, vui quá ngủ không yên. Tiểu Ngọc, có thể gọi vú Trương may giúp tôi bộ quần áo không?”.

Tiểu Ngọc mang nước cho nàng rửa mặt, vừa chải đầu vừa hỏi: “Tiểu thư muốn may quần áo thế nào? Tiểu Ngọc đều làm được hết”.

Mới mười tuổi, mà quần áo nào cũng may được! A La lại thầm cảm phục, may mà mình trở về quá khứ trong thân phận thiên kim tiểu thư, nếu gửi hồn vào thân thể Tiểu Ngọc, đánh chết mình cũng không may được bộ quần áo nào. Bất giác mỉm cười, “Để tôi vẽ kiểu nhé. À, Tiểu Ngọc, buổi sáng tôi phải làm gì, có cần đi thỉnh an không?”. A La vẫn chưa quen gọi thất phu nhân là mẹ.

Tiểu Ngọc bặm môi cười, trên má hiện lên lúm đồng tiền nhỏ, rất đáng yêu: “Phu nhân ưa yên tĩnh, thích ngồi thêu thùa giải khuây, giờ Thìn phu nhân phải đi vấn an đại phu nhân, trở về là ở luôn một mình trong phòng, tiểu thư không cần đến đó”.

A La lạ lùng hỏi: "Tôi muốn học mấy thứ thì cần gặp ai?”.

Tiểu Ngọc kinh ngạc “Đại tiểu thư, nhị tiểu thư đều thỉnh bốn vị tiên sinh đến dạy, tam phu nhân, tứ phu nhân cũng tinh thông cầm kỳ thi họa. Trước đây tiểu thư đã đuổi ba bốn tiên sinh, phu nhân bảo đợi khi nào tiểu thư muốn học, lại mời tiên sinh. Nhưng, tiểu thư à, phu nhân của chúng ta mới thật là tài nữ, cái gì cũng biết”.

A La cười, tốt quá, thầy dạy có sẵn! Nói với Tiểu Ngọc: “Tôi nằm lâu khó chịu, muốn vận động gân cốt một chút, chị đưa tôi đi dạo một lát! Đợi bà mẹ xinh đẹp của tôi trở về, sẽ nhờ bà dạy học!”. Thêm vào hai chữ “xinh đẹp” A La cảm thấy dễ gọi hơn.

Tiểu Ngọc cười tán đồng. Chải xong đầu, A La vội kéo Tiểu Ngọc ra khỏi viện. Tiểu Ngọc thấy A La cười cũng vui lây, giọng hào hứng: “Tiểu thư trước đây không chịu ra ngoài, chỉ thích thui thủi một mình, sao hôm nay bỗng đổi tính như thế?”

A La ngẩng đầu nhìn Tiểu Ngọc: “Tôi không muốn để mẹ xinh đẹp của tôi khóc, sau này tôi sẽ không để bà ấy quanh quẩn đến già trong cái sân này, Tiểu Ngọc, chị phải giúp tôi, chúng ta không thể để người khác ức hiếp”.

Tiểu Ngọc nghe vậy tròng mắt đỏ hoe, môi hé cười, đưa A La đi dạo xung quanh, kiên nhẫn kể cho nàng tình hình trong phủ.

A La đột nhiên nhớ ra, không biết đại danh của mình là gì, nghẹo đầu hỏi Tiểu Ngọc: “Đại tiểu thư A Lôi do tam phu nhân sinh ra, nhị tiểu thư A Phỉ do tứ phu nhân sinh ra đều rất kiêu kỳ”.

Tiểu Ngọc ngó xung quanh không có ai, mới nói nhỏ với A La: “Tiểu thư, tam phu nhân, tứ phu nhân đều có tai mắt khắp nơi, cô đừng nói đại tiểu thư và nhị tiểu thư như vậy. Có ai nghe thấy lại trách thất phu nhân không biết dạy con”.

A La nhân cơ hội mới hỏi tình hình của tam phu nhân và tứ phu nhân. Được biết, một vị là ái nữ của Trang viên ngoại danh tiếng của Phong thành, một người là em họ của bản triều Công bộ thị lang. Mấy phu nhân kia bên ngoại cũng là bậc gia thế thanh bạch nề nếp, chỉ có thất phu nhân xuất thân lầu xanh, ngay trong đêm được chuộc ra ngoài thì bị người bỏ nhiều vàng mua tặng Lý lão gia làm thiếp, thảo nào bị mấy bà phu nhân kia coi thường.

A Lôi tên đầy đủ là Lý Thanh Lôi, A Phỉ là Lý Thanh Phỉ, mình ắt là Lý Thanh La. A La lại thầm thở dài, chỉ có bà mẹ xinh đẹp nhưng xuất thân chốn thanh lâu bèo bọt, địa vị thấp kém, chưa biết chừng con chó bên cạnh đại phu nhân cũng được coi trọng hơn.

Đi dạo một canh giờ, dạo hết một lượt trong nội đường, cũng cơ bản nắm được tình hình. Nàng nắm tay Tiểu Ngọc trở về phòng, xem thất phu nhân đã về chưa.

A La lấy bút vẽ sơ đồ bố trí trong tướng phủ. Đường viên quả nhiên hoang vắng, kề sát một vườn rau, phía sau là vạt rừng trúc lớn, tiếp đến là tường bao. Vị trí như thế này nàng rất hài lòng, nếu sau này vượt tường ra ngoài, có lẽ không lo bị phát hiện.

Thất phu nhân nghe nói A La dậy sớm muốn học, lòng cảm động chạy đến tìm nàng: “Tam Nhi, con muốn học gì? Vì sao lại muốn học? Nói mẹ nghe nào!”.

A La nhìn vẻ xúc động và ánh mắt dịu dàng của thất phu nhân, bước đến nắm vạt áo bà nói: “Mẹ, con không học quá cao siêu, chỉ cần đủ đối phó người ta là được, không thể để họ coi thường chúng ta!”. 

Tròng mắt thất phu nhân đỏ hoe: “Mẹ biết, con gái mẹ sao có thể vô dụng! Nhìn hải đường trước sân mà làm được bài thơ hay như vậy, Tam Nhi con rất có khiếu!”.

A La cười nhăn nhó, cái “khiếu” đó là trộm của ngưòi khác, bây giờ mới học thật. Nữ công, cầm kỳ thi họa ở đây cảm giác giống như bằng đại học thời hiện đại, có những cái đó mới có thể tìm được công việc tốt, đương nhiên ở đây là tìm được tấm chồng tốt, chà chà! Tấm chồng thì thôi, cứ học đã chắc cũng có lúc dùng đến.

Bắt đầu từ hôm đó, ngày nào thất phu nhân cũng dạy nàng đánh đàn học vẽ. A La phát hiện đầu óc trẻ con tiếp thu cái món nghệ thuật này rất nhanh. Nàng chỉ cần học qua là nhớ, lại thêm trí tuệ tuổi hai mươi hai, thất phu nhân chỉ dạy một lần là nàng nắm được ngay. Sau khi biết chơi đàn, A La phát hiện biết chơi đàn cũng là chuyện hay, giọng nàng giờ đã thay đổi, vừa đàn vừa hát vẫn không sai nhịp, say sưa hát những ca khúc hiện đại mà nàng thích nhất, thời gian trôi rất nhanh. Càng ngày càng dành nhiều thời gian để đàn hát.

Mãi đến một hôm thất phu nhân sau khi nghe nàng chơi khúc “Thủy điệu ca đầu” đột nhiên rơi lệ, nước mắt ướt đẫm chiếc khăn tay, nghẹn ngào nói với A La: “Tam Nhi, con đàn hay quá, tiếng đàn của con rất tình cảm, con chơi hay hơn đại tỷ của con rất nhiều”. A La không dám tin, nói với thất phu nhân: “Là do khúc nhạc hay, không phải con đàn giỏi”. Nói xong lại đánh bài “Mai Hoa tam lộng” thầm nghĩ, như thế này mẹ xinh đẹp sẽ có cái để so sánh.

Không ngờ thất phu nhân tự hào nói: “Mẹ bốn tuổi bắt đầu học đàn, năm tuổi tiếng đàn cả Phong thành đã không ai sánh kịp, lẽ nào con nghi ngờ nhĩ lực của mẹ? Khúc “Mai hoa tam lộng” con càng thể hiện được cốt cách của hoa mai, ta có thể tự hào về con gái rồi”.

A La cảm thán, được một tay đàn bậc nhất Phong thành khen ngợi, xem ra đúng là thật rồi. Đây có thể coi là cái hay của hai mươi hai năm sống trong thời hiện đại, cảm xúc nhiều, hiểu biết rộng, tình cảm gửi vào tiếng đàn làm sao một tiểu thư chưa hề bước chân ra khỏi nhà như A Lôi có thể lĩnh ngộ được. Nàng nói với thất phu nhân: “Mẹ xinh đẹp à, chuyện này nhất định không được cho ai biết, A La chỉ có thể đàn cho mẹ nghe thôi được khộng?”.

Mắt thất phu nhân như cười, hỏi: “Con sợ trội hơn đại tỷ, sẽ khó yên thân?".

A La làm bộ vênh mặt, nói: “Chơi đàn là để tri âm nghe, nếu hay hơn tỷ ấy, có khách quý đến, gọi con ra đàn, sao con chịu nổi?”.

Thất phu nhân véo má nàng, ôm nàng vào lòng: “Tam Nhi, con thật thông minh! Con là tâm tình duy nhất của mẹ, như thương con bao nhiêu cũng không đủ vậy!”.

A La cũng ngày càng thích người mẹ xinh đẹp, hiền lương dịu dàng, và chủ yếu là chân tình vói nàng. Trình Tinh thầm nghĩ, mình có cách rồi, nhất định phải chăm sóc thật tốt người mẹ này!

Sau khi vượt thời không gian, trở về quá khứ dị thường này, qua miệng thất phu nhân và Tiểu Ngọc, Trình Tinh có thể láng máng cảm thấy đây là thời đại trước đời nhà Hán, nhưng lại cảm giác Hạ Thương, Chu, Tần có vẻ đều là những triều đại xa lắc. Hơn nữa địa lý và diện mạo cũng không giống đại lục Trung Quốc. Lẽ nào giống như khủng long kỷ Jura tuyệt diệt, xảy ra những biến thiên dâu bể trọng đại? Người ở đây y phục giống thời nhà Đường, kiến trúc lại hơi giống thời Tống và thời Minh. Thật sự không thể làm rõ được.

Sau khi A La biết những điều đại khái như vậy rồi cũng không nghĩ thêm nữa. Mỗi sáng vừa ngủ dậy, mặc bộ cánh áo rộng thùng thình do Tiểu Ngọc may, bắt đầu chạy khởi động. Chạy đến rừng trúc sau nhà, liền để cho Tiểu Ngọc đứng canh bên ngoài, một mình luyện tập Karate hiện đại. Buổi tối lại tập khí công nửa tiếng rồi mới đi ngủ. Sắc mặt A La mỗi ngày một hồng hào, tiếng chân bước cũng ngày càng nhẹ nhàng khỏe khoắn.

Chớp mắt lại đến kỳ thi quý, A La thản nhiên nhìn đại tỷ, nhị tỷ biểu diễn cầm ca và thư pháp, cúi đầu mãi mới bẽn lẽn hát một khúc khá hay, ca từ rất hay nhưng sai nhịp. Lý lão gia luôn đến sớm, vẫn cầm trịch cuộc thi, tưởng bài thơ lần trước do thất phu nhân dạy, nên không bảo A La tiếp tục làm thơ, bây giờ thấy nàng học hát, rất vui, lại khen ngợi một hồi.

Mấy vị phu nhân lòng cũng nghĩ như lão gia, vậy là càng ghét thất phu nhân, cho rằng lợi dụng đứa con gái để lấy lòng lão gia thật là mất mặt. May mà bảy vị phu nhân trong ngần ấy năm cũng chỉ sinh được ba mụn con gái. Lý gia không có người nối dõi, đại phu nhân không muốn lão gia sủng ái người khác, mấy vị phu nhân kia cũng tìm đủ cách níu kéo Lý tướng, vì vậy sau khi A La đến đây, Lý tướng cũng chỉ ghé qua Đường viên vài lần. 

Đường viên càng hiu quạnh, thất phu nhân không nhiệt tình, Lý tướng cũng nhạt lòng. Các vị phu nhân do đó cũng yên tâm, quay ra châm chọc thất phu nhân đã dùng hết độc chiêu của lầu xanh mà vẫn không chiếm được lão gia.

Về sau mỗi lần đến kỳ thi quý của tướng phủ, A La lúc đánh cờ, lúc thêu thùa, lúc chơi đàn, rất nhiều ngón nhưng không tinh thông ngón nào. Lý thừa tướng thấy nàng học nhiều nhưng chẳng thứ nào đến nơi đến chốn, cầm kỳ thi họa thi phú học lâu như vậy nhưng không môn nào xuất sắc, ánh mắt nhìn A La và thất phu nhân ngày càng lạnh nhạt. Nhưng dù bị chê trách thế nào, đến kỳ thi sau A La lại có môn mới học, luôn nói một cách tội nghiệp: “A La kính mong phụ thân chỉ giáo, ba tháng nay chuyên cần học hành, mới học được xxx, xin phụ thân thưởng thức”. Đương nhiên cũng không hay không dở. Lý thừa tướng khuyên nàng nên chuyên tâm vào một thứ, nhưng lại nghĩ con bé này có học nữa cũng không thể sánh với A Lôi và A Phỉ, thầm lắc đầu thở dài, chỉ mong nó xinh đẹp một chút, có sắc không tài cũng được. Còn ánh mắt mấy bà phu nhân nhìn A La lại dần dần hòa dịu.

Thất phu nhân hỏi A La: “Tam Nhi, con định giấu đến bao giờ?”.

A La cười: “Mẹ à, binh pháp viết, phàm lông cánh chưa đủ tối kỵ va chạm với vật cứng. Mẹ không cảm thấy ngoài đại phu nhân, mấy phu nhân không có con kia thích con hơn hai tỷ hay sao?”.

Thất phu nhân cả mừng, thầm nghĩ: “Nửa đời sau mình có thể dựa vào con bé tinh ranh này rồi”. 

Vậy là, sáu năm vụt trôi, A La mười hai tuổi, Lý Thanh Lôi mười sáu tuổi, Lý Thanh Phỉ cũng mười bốn tuổi.

Đến đây được sáu năm, Trình Tinh đã hết ý nghĩ quay trở về thế giới hiện đại, chỉ suy nghĩ một điều duy nhất, làm thế nào trụ vững ở đây. A La cần có nền tảng, nghĩ mãi, quyết định sau này sẽ mở một quán rượu, kiếm được tiền sẽ đưa mẹ xinh đẹp cùng vú Trương, Tiểu Ngọc đi thăm thú du ngoạn mấy nước kia, chuyến du lịch như vậy, trong thời hiện đại e có muốn cũng không được. Có thể một ngày nào đó gặp người nào đó, lấy được thì lấy, nếu không gặp, làm một bà chủ ung dung tự tại sống qua một đời cũng tốt.

Với suy nghĩ như vậy, A La say sưa trong biển cả tri thức của thời quá khứ dị thường. Kết hợp tri thức cổ đại và hiện đại, cảm thấy nếu ngộ nhỡ có ngày quay trở lại, nàng sẽ không làm gì khác, sẽ mở một cửa hiệu kinh doanh đồ cổ, cũng kiếm được khối tiền.

A La vô cùng khao khát thế giới bên ngoài, nhưng không được ra, sáu năm rồi, không bước một bước khỏi tướng phủ. Lòng căm hận xã hội phong kiến vạn ác, không ra khỏi nhà, không ra khỏi cửa, phụ nữ không khác gì con chim trong lồng.

(*) Giấc Nam Kha thường được dùng để chỉ những gì tốt đẹp của cuộc đời thường ngắn ngủi, công danh phú quý tựa chiêm bao (BTV

CHƯƠNG 3

Cùng với thời gian, Lý Thanh Lôi, Lý Thanh Phỉ dung mạo ngày càng xinh đẹp, A La và họ cũng chẳng thù ghét gì, nhưng do quan hệ của các bà mẹ, nên không qua lại với nhau. 

Ngón đàn của Thanh Lôi và Thanh Phỉ ngày càng nức tiếng nơi khuê các. Tiếng thơm Lý tướng gia có hai tài nữ không biết từ lúc nào đã được thiên hạ xa gần đồn đại, chỉ có tam tiểu thư Thanh La chưa ai biết đến.

Ngay từ hai năm trước, những người đến cầu thân với hai tiểu thư đã đi mòn bậc tướng phủ. Lý tướng chỉ lắc đầu, rằng con gái còn nhỏ, không muốn gả sớm.

Tuy nhiên, vào dịp Đào hoa yến của Phong thành mùa xuân năm đó, Lý tướng nhận được thiệp mời của Hộ quốc công chúa.

Đào hoa yến là yến tiệc mùa xuân long trọng nhất Phong thành. Hộ quốc công chúa vốn là em gái của Ninh vương, gả cho đại tướng quân họ Trần, không lâu sau thì góa bụa. Đào hoa yến này chính là cuộc hội ngộ riêng tư do công chúa tổ chức ở biệt uyển Thập Thúy sơn trang của mình trong ngày xuân rỗi rãi. Mỗi dịp hoa nở khắp sơn trang, công chúa lại mời nội quyến của hoàng thân quốc thích, đại thần trong triều tề tựu cùng ngắm cảnh thưởng hoa. Về sau dần dần cũng mời cả các bậc tài tử phong lưu, công tử thiếu gia anh tú ở Phong thành, cuối cùng trở thành yến tiệc tìm bạn đời cao cấp của giới thượng lưu.

Phong thành nghe nói có năm vị đại công tử. Năm vị này là thái tử bản triều Lưu Giám, tứ hoàng tử Lưu Phi, Lưu Giác con trai An Thanh Vương, tân khoa trạng nguyên Thành Tư Duyệt và Cố Thiên Tường con trai Cố tướng. Nge nói đều là những bậc anh tú phong lưu tuổi ngoài đôi mươi, nói đến các chàng tất thảy thiếu nữ Phong thành đều sáng mắt.

Lý tướng sau khi nhận được thiệp mời suy nghĩ rất lung, nghe nói Đào hoa yến lần này cả năm vị đại công tử của Phong thành gần như đều có mặt, có ba vị thân vương, đều chưa có hôn ước. Mấy hôm trước Ninh vương đã nói xa xôi, rằng có ý nhắm con gái lớn Thanh Lôi, nếu không có gì thay đổi sẽ trở thành thái tử phi tương lai, Lý tướng muôn phần cảm kích. Về sau được tin, Cố tướng cũng nhận được ngầm ý như vậy của Ninh vương, có ý muốn con gái Cố Thiên Lâm của ông ta, cô nương này và Thanh Lôi được mệnh danh là Song tuyệt Phong thành, ông lại cảm thấy bất an.

Về sau nghe đâu, Vương hoàng hậu lại có ý tiến cử cháu gái của mình là Vương Yến Hồi, ái nữ của thái úy đương triều. Nghe nói, Yến Hồi tiểu thư mưu lược hơn người, thông minh tuyệt đỉnh, dung mạo có phần thua kém chút đỉnh so với Cố Thiên Lâm và Lý Thanh Lôi, nhưng cũng có thể coi là bậc giai nhân, gia thế càng khiến thiên hạ kính nể.

Hoàng đế và hoàng hậu ý kiến bất đồng, Hộ quốc công chúa nảy ra sáng kiến mở Đào hoa yến để thiếu nữ ba nhà có cơ thể hiện tài mạo trước mọi người, có thể công khai so sánh. Ninh vương xưa nay vốn sủng ái thái tử, luôn chiều cheo ý chàng. Vậy là Đào hoa yến trở thành đại yến tuyển phi, ai cũng biết đại yến lần này có mục đích khác, đều chờ đợi ba giai nhân tranh tài, xem ai cuối cùng trở thành thái tử phi.

Lý tướng điểm lại ba cô con gái, Thanh Lôi kín đáo với vẻ kiều diễm lạnh lùng, Thanh Phỉ nhanh nhẹn hoạt bát, Thanh La yêu kiều dịu dàng, xuân lan thu cúc mỗi cô mỗi vẻ, ngoài Thanh La không có tài hơn người, hai cô chị đều khiến ông hài lòng rất mực.

Nhưng suy đi tính lại, ông vẫn chưa quyết bề nào, đi đi lại lại trong thư phòng vẻ nôn nóng. Đại phu nhân tươi cười, góp lời: “Lão gia, sao không để cho cả ba tiểu thư đều đến dự tiệc? Chẳng phải nghe nói cả năm vị công cử Phong thành đều đến đó sao?”.

Không được làm chính phi của thái tử, thì làm thứ phi cũng tốt. Ngoài ra, hai tiểu thư nhà mình được vị nào trong năm công tử để mắt đến, đều là vụ trao đổi không thua lỗ. Câu nói của đại phu nhân đã thức tỉnh Lý tướng, ông vuốt râu cả cười nói: “Thì ra, vẫn là phu nhân có mắt nhìn xa trông rộng”.

Thất phu nhân nghe nói A La cũng được đi dự Đào hoa yến, mắt sáng lên, trở về Đường viên ôm lấy A La nói: “A La, dù mới mười hai tuổi, nhưng con không hề thua kém hai chị, đại yến lần này các vị công tử quyền quý của Ninh quốc đều có mặt, con nhớ để tâm quan sát kỹ, tìm trước nơi chốn để tính chuyện về sau”.

A La ngạc nhiên: “Mẹ, con mới mười hai tuổi! Mười hai tuổi đã xem mặt hôn phu sao?”. Cảm thấy chuyện không thể tưởng tượng nổi, bất luận phong tục ở đây thế nào, nàng nhất định không chịu. Có điều, được ra khỏi phủ khiến A La mừng khôn xiết, sáu năm rồi, cuối cùng cũng được ra ngoài, không biết thế có đồng nghĩa với sau này có thể thường xuyên xuất phủ hay không?

Thất phu nhân cười: “Con gái Ninh quốc mười lăm tuổi đã xuất giá được rồi. A La của mẹ rất có thể sẽ tìm được một đám vừa ý, đợi sau này lớn lên tính chuyện cũng không muộn”.

A La than thở: “Con không muốn xa mẹ, càng không muốn tính chuyện hôn nhân sớm như vậy”.

Thất phu nhân nói: “Mẹ cũng không muốn xa con, nhưng con gái không thể ở với mẹ suốt đời, nếu gặp được đám tốt, chẳng hay hơn sao. Mẹ chỉ muốn con quan sát kỹ, tìm được người ưng ý, để chọn hôn phu sau này”.

A La không muốn nói nữa, tìm hiểu sớm như vậy, ba năm sau đã phải lấy người ta, lại chuyển đến một phủ khác không thể ra ngoài, đánh chết nàng cũng không chịu. Chỉ muốn nhân cơ hội này được ra ngoài một chuyến, thả sức ngắm nhìn phong cảnh, ở đây đã buồn nẫu ruột, sắp không chịu nổi nữa rồi.

Ngày mùng bảy tháng ba, gió xuân phơi phới trên mặt, ánh nắng ấm chan hòa trên cao, đúng là ngày đẹp trời cho hội đạp thanh, đại phu nhân đưa ba cô gái đi dự Đào hoa yến. Đây là điểm đại phu nhân hài lòng nhất, chỉ có bà mới có thể đàng hoàng sánh vai cùng các bậc mệnh phụ phu nhân của Ninh quốc. Hôm nay bà đặc biệt chải kiểu tóc búi cao, mình vận bộ váy thêu vàng rực có chữ “Phúc” thêu chìm, cài một đóa đỗ quyên vàng, tiếng châu báu rung rinh theo mỗi bước chân. Dáng đẫy đà tuổi trung niên được y phục và đồ trang súc tô điểm càng tôn thêm vẻ cao quý của vị phu nhân tướng quốc.

A La liếc nhìn Lý Thanh Lôi áo chẽn màu xanh nhạt, váy liền chít eo màu trắng, có thêu những cành mai tinh tế bằng kim tuyến, đầy những nụ hoa ấp nhụy, dáng thon ngọc ngà, nét mặt an nhiên, có vẻ diễm lệ lạnh lùng vô song. Lại nhìn Lý Thanh Phỉ, áo chẽn màu ngọc, ngoài choàng áo lụa hồng, viền váy và cứa tay nổi bật vô số những bông hoa thêu chỉ sẫm màu, cao nhất trong ba cô gái, mười bốn tuổi đã cao một mét sáu mươi bảy, gió thổi tà áo choàng lụa bay phấp phới tựa chim hồng nhạn tung cánh.

Lại nhìn bản thân, áo ngắn màu xanh, váy liền màu xanh sẫm, hai bím tóc nhỏ, trước trán có tóc mái bờm do Tiểu Ngọc cắt, che nửa khuôn mặt, bím tóc thắt hai dải nơ, đứng bên cạnh Thanh Lôi và Thanh Phỉ, thấp hơn một cái đầu không nói, trông lại giống như a hoàn của họ.

Thanh Lôi, Thanh Phỉ liếc nhìn nàng phì cười. Đại phu nhân cau mày, song lại nghĩ Thanh La còn nhỏ, vai chính hôm nay là hai cô chị, nên cũng không bảo Thanh La trang điểm lại.

A La ngoan ngoãn nịnh hai chị: “Đại tỷ, nhị tỷ hôm nay đẹp quá, A La làm a hoàn cho hai tỷ được rồi, sẽ giúp hai tỷ chọn một lang quân như ý”.

Thanh Lôi, Thanh Phỉ đỏ mặt, mắng: “Tiểu yêu xấu tính từ bao giờ vậy!" .

A La cười hì hì không đáp.

Lên xe ngựa rời phủ, đây là lần đầu tiên nàng được ra khỏi tướng phủ từ khi trở về quá khứ dị thường. A La càng hiếu kỳ, suốt đường không nén nổi tò mò vén rèm, nhìn ra ngoài. Đại phu nhân đằng hắng hai tiếng “A La, trước khi đi cha con đã dặn, nhất định phải chú ý thân phận khuê các danh gia, không được để cha mất mặt, nếu không sẽ bị xử theo gia pháp. Con nhìn hai chị, lại nhìn con đi, thất muội nông nổi phóng đãng lại truyền tính xấu cho con gái rồi!”.

A La lòng phẫn nộ, đành thu hồi ánh mắt hiểu kỳ, chỉnh lại xiêm y ngồi ngay ngắn trở lại. Bụng nghĩ, đợi đến ngày ta có thể tự bảo vệ, nhất định sẽ đưa mẹ xinh đẹp của ta ra khỏi tướng phủ!

Cỗ xe đi về hướng tây chạy đúng hai canh giờ mới dừng lại. Dưới ánh mắt trông chừng nghiêm ngặt của đại phu nhân, ba cô gái ngồi ngay ngắn, A La đang tập khí công, nhưng lúc xuống xe chân vẫn hơi tê. Không biết Thanh Lôi, Thanh Phỉ ngồi thiền từ khi nào, mà từ xe ngựa bước xuống vẫn nhanh nhẹn như cánh bướm.

Nhìn mãi mảnh trời hình vuông trên không tướng phủ, lúc này ngắm đồng nội mênh mông, A La cảm thán, tự do tuyệt quá! Đến bao giờ ta có thể tự do du ngoạn?

Thập Thúy sơn trang lưng dựa vào núi, thấp thoáng những mái ngói cong, tường hồng ẩn hiện trong rừng cây trên sườn núi. A La lại ngạc nhiên thán phục, thì ra đây là biệt thự của người giàu.

Đi vào cổng lớn, một đám gia nhân khiêng kiệu đứng chờ, đưa họ vào trong, đi tiếp nửa canh giờ, đến một thung lũng, trước mắt hiện lên một tấm thảm sắc màu, ở đây, địa thế bằng phẳng, suối nóng xanh ngắt nửa tự nhiên nửa nhân tạo uốn lượn quanh co trong rừng đào, trên mặt nước thỉnh thoảng phiêu dạt những cánh hoa, thoáng mùi hương mê đắm. A La lần thứ ba cảm thán, thế giới đào nguyên không ô nhiễm là đây!

Nghe gia nhân bẩm báo Lý tướng phu nhân đã đến, Hộ quốc công chúa mỉm cười nghênh đón. Sau khi cùng thi lễ, nghe tiếng công chúa hỏi đại phu nhân: “Nghe đồn tướng phủ có hai thiên kim tài sắc nức tiếng Phong thành, đẹp tựa tiên nữ, lại đây để ta ngắm nào”.

Đại phu nhân vội lên tiếng gọi Thanh Lôi, Thanh Phỉ.

A La và tỳ nữ Quyên Nhi đứng một bên lén nhìn Hộ quốc công chúa. Công chúa đoan trang diễm lệ, tuổi chừng ba mươi, cử chỉ tao nhã cao quý, có khí chất của mỹ nhân được giáo dưỡng từ nhỏ.

Lại nhìn xung quanh, trên khu đất trống dựng rất nhiều lều trướng nhỏ quây màn sa dùng làm chỗ nghỉ cho tân khách, chỉ có trướng của các nữ tân khách là buông rèm. Bên trong thấp thoáng bóng các mệnh phụ và tiểu thư ngồi, ai nấy xiêm y lộng lẫy trang điểm tỉ mỉ, rõ ràng đã bỏ rất nhiều công chuẩn bị.

A La cười thầm, may hôm nay có gió, gió thổi tung những bức rèm sa, lộ ra dung nhan các kiều nữ. Chỉ hời cho đám tài tử ngồi ngay ngắn, nhưng cổ vươn dài mắt không ngừng đảo qua liếc lại.

Một lát sau, đại phu nhân dung quang rạng rỡ đưa hai cô gái đi vào trong trướng của tướng phủ. A La tò mò túm lấy Thanh Lôi, Thanh Phỉ hỏi Hộ quốc công chúa nói những gì.

Thanh Phỉ tỏ vẻ e thẹn. Đại phu nhân lại phải mở miệng: “Công chúa rất thích Thanh Lôi và Thanh Phỉ, người nói lát nữa sẽ mời thái tử và tứ điện hạ tặng hoa”. Nói đoạn chỉ về lều trướng đối diện: “Kia là trướng của thái tử, kế bên là của tứ điện hạ”. Lại hạ giọng nói: “Bên trái chúng ta là của Cố tướng, bên phải là của phủ thái úy. Nghe nói thiên kim của Cố tướng và thiên kim của Vương thái úy đều đã đến”.

Nghe đại phu nhân nói vậy, Thanh Lôi, Thanh Phỉ không nén nổi tò mò liếc nhìn sang phía đối diện, trong trướng không có người. Lại nhìn sang phải, sang trái, hai trướng đều buông rèm, chỉ loáng thoáng thấy vài nữ nhân, nhưng không rõ mặt, họ hơi thất vọng, cũng hơi sốt ruột. Thanh La cười hi hí: “Mẹ cả, A La đi thăm dò động tĩnh rồi về báo cáo được không?”.

Đại phu nhân có phần do dự: “Nếu xảy ra chuyện gì thất lễ thì làm thế nào? Con xấu tốt cũng là thiên kim tướng phủ”.

Thanh La cười cười, nói: “Mẹ cả, bây giờ vẫn chưa ai biết con là tam tiểu thư của tướng phủ đúng không? Ánh mắt mọi người đều nhằm vào đại tỷ, nhị tỷ. Con cứ nhận là a hoàn của tướng phủ. Mẹ cả xem, trông rất giống mà”.

Đại phu nhân mắt cười cười: “Ý hay đấy, hôm nay không ai biết tam tiểu thư của tướng phú cũng đến, người ta có biết tướng phủ có tam tiểu thư hay không cũng khó nói. Vậy con đi nghe ngóng, xem mặt hai vị tiểu thư kia, nghe xem người ta nói gì”. Nói đoạn lại dặn dò Quyên Nhi, “Ngươi đi cùng tam tiểu thư, không được để xảy ra chuyện gì”.

Quyên Nhi vội gật đầu. A La cười với hai chị, nói nhỏ: “Các tỷ đừng sốt ruột, A La đi rồi về ngay”.

Cuối cùng đã có thể không phải ngoan ngoãn ngồi trong trướng giả làm thục nữ, A La như chim sổ lồng, cùng Quyên Nhi tay đeo cái làn, đi về phía rừng hoa.

Biệt uyển hoa đào của Hộ quốc công chúa vô cùng đặc sắc, cho phép tân khách tùy ý hái hoa, nếu gặp được tri kỷ có thể viết thơ cài lên cành hoa để tặng, ngõ hầu đẹp lòng ý trung nhân. Nếu không gặp được, trong mỗi trướng đều để sẵn hoa, các vị nữ khách cũng không đến nỗi cảm thấy khó xử vì không được tặng hoa. Mặt khác, tân khách cũng có thể tặng hoa cho nhau, để bày tỏ tình thân, A La chính là lấy cớ phụng mệnh tướng quốc phu nhân đi tặng hoa cho các nữ tân khách ở mấy trướng lân cận, để lén xem mặt tiểu thư Thiên Lâm, ái nữ của Cố tướng và tiểu thư Yến Hồi thiên kim của Vương thái úy. Đương nhiên, ngang qua trướng của cánh nam nhi cũng nhân tiện ngó nghiêng.

Đi vào hoa viên, A La cảm thấy nhẹ nhõm sảng khoái như trở về với thiên nhiên, trước mặt một dải màu hồng, dưới chân cỏ xanh như thảm lụa, nước suối ngát hương. Cô cười nói với Quyên Nhi: “Ở đây đẹp quá!".

Quyên Nhi mới chỉ mười ba, mười bốn, cũng là tuổi ham chơi, đi theo tam tiểu thư vừa ngắm cảnh vừa xem hoa, hai người đi mỗi lúc càng xa dần trang viên. Không biết được bao lâu, Quyên Nhi quay đầu, không nhìn thấy lều trướng, xung quanh toàn rừng hoa, bỗng hốt hoảng kêu lên: “Tam tiểu thư, có phải chúng ta lạc đường rồi không?”.

A La đang phấn chấn chợt ngây người, quay đầu nhìn, rừng hoa san sát, lều trướng ở chỗ nào? Tự dưng cũng bắt đầu lo lắng: “Thảm rồi, Quyên Nhi, mình về muộn nhất định bị đại phu nhân trách mắng, chúng mình đi từ hướng nào đến?”.

Quyên Nhi khổ sở không nói được. A La nhìn bóng nắng, nhớ lại vị trí của lều trướng, đưa Quyên Nhi đi về phía bắc. Được một lát, phấn khởi reo lên: “Quyên Nhi, nhìn kìa, sơn trang phía kia!”.

Hai người chạy về phía những dãy lều trướng. Tưởng chừng sắp về đến nơi, nhưng thấy con suối trước mặt lòng suối mở rộng hơn. A La lấy một cành cây cắm xuống nước thăm dò, sâu không đến bắp đùi. Đi tìm đường khác, lại e bị muộn. Đưa mắt nhìn quanh, rất yên tĩnh, loáng thoáng nghe thấy tiếng cười đùa từ những lều trướng vọng ra. Nàng dứt khoát cởi tất giày, xắn cao ống quần, nói với Quyên Nhi: “Nhân lúc không có người, nhanh lên Quyên Nhi, có ai nhìn thấy, phiền lắm”.

Quyên Nhi đã sợ suýt khóc, thấy tiểu thư lội xuống nước, đưa tay dắt mình, đành bắt chước cởi tất giày, đội chiếc làn lên đầu, nắm tay A La lội từng bước. Lúc sắp sang bờ bên kia, Quyên Nhi vấp phải hòn đá, người loạng choạng, chiếc làn đựng giày tất và hoa rơi xuống nước, buột miệng kêu to “Cái làn!”.

A La buông tay Quyên Nhi, vớ lấy cái làn, người mất thăng bằng, lúc sắp ngã, không biết từ đâu một bóng người bay đến nắm lấy cánh tay nàng, kéo giật trở lại.

“A!“. A La kêu thất thanh, ngay sau đó chân đã chạm bờ suối. Còn đang kinh hoàng chưa kịp định thần, mở to mắt nhìn người trước mặt. Đó là một chàng trai trẻ, dáng cao tuấn tú, đang mỉm cười nhìn nàng, mắt liếc xuống dưới, vẻ rất chuyên chú. A La đỏ mặt cúi đầu, thấy chàng ta đang nhìn bắp vế mình và Quyên Nhi chân trần, tức khí trào lên: “Quay mặt đi, đàn bà con gái chúng ta đang phải xỏ giày”.

Người đó mới nhận ra mình thất lễ, quay lưng đi. A La nhìn lưng chàng ta rung rung, biết chàng đang cười, buột miệng chửi chầm. Quyên Nhi lên bờ, hai người vội vàng chỉnh đốn xong y phục. A La mới thong thả nói với người đó: “Chuyện vừa rồi, cảm ơn ngươi, ngươi đừng quay lại, chúng ta vẫn chưa mặc xong”. Vốn định cảm ơn cho tử tế, “Nhưng...”, nàng lập tức chuyển chủ đề:“... Ai bảo ngươi nhìn lung tung!”.

Dứt lời, A La lập tức xuất chiêu, người đó hoàn toàn không thể ngờ, cô bé suýt ngã xuống nước này lại biết võ công, lại ra đòn rất manh, chàng vừạ nghiêng người đã ngã xuống nước. Chỉ thấy chàng liên tục lắc người, một tay đập xuống mặt nước, nửa ống tay ướt đầm, thuận thế xoay người nhảy phắt lên bờ bên kia.

A La kinh ngạc, người này có võ công truyền kỳ! Vội kéo Quyên Nhi chạy thẳng. 

Sau khi định thân, người đó quay đầu, thấy hai cô bé tay cầm làn, chân chạy cuống cuồng, thì bật cười, rồi giũ tay áo, nói thầm: “Nghịch nữ của phủ nào không biết, chỉ cần nàng xuất hiện trong Đào hoa yến, khó gì mà ta chẳng tìm được?”.

A La lòng rối bời, chỉ lo xảy ra chuyện, lại dặn Quyên Nhi nhất định không được tiết lộ chuyện bên suối vừa rồi, Quyên Nhi đâu dám mở miệng, tam tiểu thư không nói ra là may mắn lắm rồi, vậy là gật đầu lia lịa.

Đi đến cạnh trướng của Cố phủ, A La hướng vào trong, nói giọng nhỏ nhẹ: “Nô tỳ phụng mệnh Lý tướng quốc phu nhân tặng hoa cho Cố tướng quốc phu nhân”.

Trong lều vọng ra giọng nói thân thiện hòa nhã: “Mời vào”.

A La cúi đầu chào, hay tay nâng cành hoa mới hái dâng tặng. Giọng nói hòa nhã kia lại cất lên: “Phu nhân nhà ngươi khách khí rồi, có đi không có lại là thất lễ. Hà Tâm, con theo cô gái này sang cảm tạ tướng quốc phu nhân, nhân tiện biếu ít hoa quả”. Cô gái tên Hà Tâm vội vâng lời, bê đĩa hoa quả theo A La ra khỏi trướng.

Chẳng phải nghe nói Thiên Lâm tiểu thư, thiên kim của Cố gia cũng đến rồi? Sao trong trướng chỉ có Cố phu nhân và hai a hoàn? A La hơi thất vọng. Nghiêng đầu nhìn Hà Tâm, nhận thấy Hà Tâm rất đẹp, đầu hơi ngửa, lộ ra cái cổ thon, mảnh dẻ trắng ngần như tuyết, đôi tay nõn nà như ngọc. A La cười nói: “Hà Tâm tỷ tỷ, tỷ đẹp quá, không biết tiểu thư bên đó còn đẹp thế nào?”.

Hà Tâm khóe miệng lộ nụ cười. A La ngây người, bụng nghĩ, nếu như Thanh Lôi có vẻ đẹp tĩnh như lan, thì Hà Tâm này cốt cách điềm đạm như cúc. Nàng đột nhiên có cảm giác, cô gái này là chính là Cố Thiên Lâm, một trong hai tuyệt sắc của Phong thành.

Hà Tâm cười nhạt nói: “Tiểu nha đầu của Lý phủ đều thông minh xinh đẹp như tiểu muội này ư?”.

A La ngớ người, cười hì hì: “Vâng, đáng tiếc, đều là a hoàn, nhưng muội lại không bằng ngón chân Hà Tâm tỷ tỷ”.

Hai người mải nói chuyện, không để ý, mấy người trong trướng đối diện đang ngẩn ra nhìn họ, thầm nghĩ, tiểu cô nương ăn vận giống như a hoàn từ Cố phủ đi ra phong tư thật trác việt, ghé tai nhau thì thầm, không biết Cố tiểu thư là bậc quốc sắc thiên hương thế nào.

Hà Tâm dừng bên ngoài trướng chuyển lời cảm tạ của Cố phu nhân. Đại phu nhân đang định mời vào, A La đã một tay đón đĩa hoa quả từ tay Hà Tâm, nháy mắt cười: “Hà Tâm tỷ tỷ, muội giúp tỷ đem vào là được, tỷ cần hầu hạ Cố phu nhân, không dám phiền”.

Hà Tâm cũng cười: “Dù gì cũng phải tận mặt cảm tạ chứ!”.

“Không cần đâu. Sớm muộn phu nhân cũng nhận ra tỷ, a hoàn của Cố phủ! Nói ra mất mặt quá, Thiên Lâm tỷ tỷ!”. A La mạnh dạn thăm dò.

Hà Tâm giật mình, nụ cười trên mặt biến mất, chợt nghĩ, lấy thân phận a đầu đáp lễ với Lý phu nhân, sau này bị phát hiện, quả thực cũng khó coi. Giơ tay véo má A La: “Tiểu quỷ, có thời gian đến Cố phủ chơi với ta!”. Trước lúc đi lại hỏi nhỏ: “Có đúng muội chỉ là a hoàn của Lý phủ?”.

A La cười híp mắt không đáp. Vừa ướm lời, Hà Tâm quả nhiên đúng là Cố Thiên Lâm. Xem ra nàng ta nôn nóng muốn nhìn mặt Lý Thanh Lôi và Lý Thanh Phỉ như thế nào, mới không tiếc hạ mình cải trang thành nô tỳ đến đây. Chỉ xem mặt cũng không sao, nhưng không nghĩ, nếu bị phát hiện hậu quả sẽ thế nào. Ngăn nàng ta cũng có cái hay, khỏi gây phiền hà về sau, chốn quan trường lắm mưu mô, là bạn hay là thù cũng khó nói rõ, nếu không lưu tâm sẽ bị đối thủ chà đạp không thể ngóc đầu. Nàng vẫn muốn bình yên sống trong tướng phủ vài năm.

Nhìn bóng lưng thon thả của Cố Thiên Lâm, A La bụm môi cười, vén rèm bước vào. Đại phu nhân nghi ngờ nhìn nàng, không hiểu vì sao nàng ngăn không cho a hoàn của Cố phủ vào.

A La cười, nói: “Con đã nhìn thấy thiên kim Cố phủ rồi”. Chỉ một câu nói lập tức chuyển chủ đề thành công. Mấy người vây lấy A La nghe kể, nụ cười nhạt thoáng trên mặt Thanh Lôi, tựa hồ không bận tâm, nhưng khi nghe đến đoạn A La nói, Cố Thiên Lâm dáng điệu tao nhã lại thông tuệ hơn người, khẽ hừ một tiếng, tỏ vẻ khinh thường. A La thấy vậy thở dài, đại tỷ này cũng có chút tài, nhưng quá tự cao.

Đại phu nhân lại hỏi: “Còn nghe được gì nữa? Đi lâu như thế, đã gặp hai vị điện hạ chưa?”.

A La cứng mồm, Quyên Nhi mặt cũng tái nhợt. A La nhanh nhẩu ứng phó: “Không gặp hai vị điện hạ, nhưng thiên kim họ Vương chắc chắn không đẹp bằng đại tỷ, còn không bằng nhị tỷ nữa kia”.

Thanh Lôi, Thanh Phỉ bật cười.

Lúc đó nghe tiếng Hộ quốc công chúa nói to: “Sáng sớm phong cảnh đẹp thế này, nếu được thưởng thức khúc đàn mới càng thi vị. Nghe đồn nhị vị thiên kim của Cố tướng và Lý tướng được mệnh danh là Song tuyệt phong thành, nức tiếng đàn hay, không biết hai vị có chịu cho bản cung thưởng thức một khúc chăng?”.

A La lè lưỡi, một cuộc so tài trần trụi. Lát sau, người hầu vào bẩm hồi âm, hai nhà sao dám không nể mặt công chúa, đại phu nhân lấy cớ vì tôn nghiêm của Tả tướng, mời tiểu thư Cố gia tấu trước.

Lát sau, từ trong trướng bên cạnh vang lên tiếng đàn. Âm thanh thánh thót, như ngọc bội giao chen, chính là khúc “Bội lan” lấy ý từ câu “Khâm phục thay cho lan mùa thu” trong “Ly tao” của Khuất Nguyên. Chỉ nghe thấy tiếng ca uyển chuyển du dương vọng ra: “Lan nở trong cốc vắng, âm thầm tự ngát hương; Tao nhân mặc khách, đâu người tri âm”.

Tâm ý của Thiên Lâm Cố gia tiểu thư đã rõ, mượn tiếng đàn thay lời muốn tìm tri kỷ.

A La ngẫm nghĩ, người xưa có câu, đem tâm tư gửi vào tiếng đàn, tri âm khó gặp, đàn đứt dây còn ai nghe? Cố Thiên Lâm lựa chọn khúc này rõ ràng là nhằm vào thái tử, nhưng lại thiên về ý muốn tìm tri âm, tự ví mình như đóa lan lặng lẽ nơi khe núi, tỏ ý không màng phú quý. Khúc “Bội lan” giai điệu tinh tế mà khoan thai, chậm mà du dương, kiêu sa mà không cao ngạo. Nếu lấy được người này làm vợ, tất có thể sắt cầm hòa hợp. Có lẽ Cố Thiên Lâm đoán biết tâm ý của thái tử, biết chàng không muốn lựa chọn người có dã tâm, một lòng muốn tìm nữ chủ Đông cung. Đàn khúc này, ngày sau trở thành thái tử phi cũng không bị tiếng là với cao. Nếu không thành, cũng chỉ là không tìm thấy tri âm mà thôi. Cố Thiên Lâm thật khéo suy tính.

Ánh mắt A La vừa di chuyển, thấy ghế của thái tử và tứ điện hạ trong trướng đối diện bỏ trống, các ghế khác đã được những bậc tài tử của Phong thành ngồi kín. Nghe xong khúc nhạc có người lắc đầu, có người ngơ ngẩn. Lại nhìn Thanh Lôi trầm mặc không nói, có lẽ khúc “Bội lan” cũng nói lên tâm ý của đại tỷ. Không biết Thanh Lôi lựa chọn khúc nào đối lại.

Cố Thanh Lôi khẽ chau mày, lúc này không hiểu tại sao A La bỗng thấy cảm thông với người chị muốn so tài với Cố Thiên Lâm trước mặt mọi người. Thanh Lôi có thể cùng với Cố Thiên Lâm được mệnh danh Song tuyệt Phong thành, ngón đàn ngang ngửa, nhưng khúc nhạc sao nói hết tâm tư, ngay lựa khúc đã thua về khí thế, sẽ thành trò cười cho bàn dân Phong thành về sau. Chưa nói nếu Thanh Lôi không thắng được Cố tiểu thư, tướng phủ cũng bẽ bàng.

Lúc này khúc nhạc của Cố Thiên Lâm đã dứt. Hộ quốc công chúa đằng hắng hai tiếng, khen rằng: “Khen cho khúc “Bội lan", khen cho cô nương tâm như lan mà trí thông tuệ! Cố tiểu thư, vừa hay ở đây bản cung có cây trâm Phỉ thúy lan, lại đây ai gia cài cho”.

Cố Thiên Lâm khoan thai bước ra ngoài trướng, chính là Hà Tâm. Lúc này nàng đã thay y phục tỳ nữ, váy vừa nâng, gót sen khẽ cất, đến quỳ trước công chúa. Hộ quốc công chúa rút chiếc trâm hoa lan trên đầu cài lên tóc mây của nàng. Cố Thiên Lâm cảm tạ, lại uyển chuyển đứng lên, khoan thai trở về.

A La nhìn về phía đối diện, Cố Thiên Lâm vừa thể hiện, quả nhiên làm chấn động những người trong đó. Ánh mắt nàng vừa chạm phải bóng người quen thuộc, sợ hãi lùi thẳng về sau, giấu mặt vào lưng Thanh Phỉ. Lại lén nhìn ra, trong tay chàng đại hiệp ban nãy bị mình đẩy xuống suối cầm một cành đào đưa lên hít nhẹ, tiện tay đưa hoa cho người hầu sau lưng, đoạn quay người bỏ đi.

Người hầu cầm cành hoa đi về phía trướng của Cố phủ. Lát sau, những người hầu mang hoa của chủ nhân đến tặng càng đông, đi lại tấp nập trước lều Cố phủ. Vậy là, các vị nữ khách cảm thấy nóng mặt. Hộ quốc công chúa cũng nhận ra điều đó, cười nói: “Đại tiểu thư Lý tướng, chẳng hay định hiến khúc nào?”.

Thanh Lôi dịu dàng đáp: “Xin hầu khúc “Thu thủy”.

Nét mặt A La như nở hoa. Cố Thiên Lâm dùng hoa lan nói hộ lòng mình, Thanh Lôi cũng không kém, “Thu thủy” trong trẻo, thanh tịnh, chí hướng cao xa, khúc này ý cũng không kém Cố Thiên Lâm. Sắp có trò hay xem đây.

Sau khi trả lời, Thanh Lôi hít sâu một hơi, giơ hai tay, không biết vì sao, ngón tay hơi run. Đại phu nhân hơi cuống, giục: “A Lôi, con nhất định phải thắng, đừng để mất mặt Lý phủ!

Thanh Lôi nhắm mắt, lại hít một hơi trấn tĩnh, ngón tay càng run hơn, vừa chạm dây đàn lại rụt về, buồn rầu nói: “Mẹ cả, con thua rồi, con không thể tĩnh tâm”.

Lúc đó ngoài trướng đã có người sốt ruột, ghé tai nhau bàn tán.

Đại phu nhân, Thanh Phỉ, Thanh La đều lo lắng nhìn Thanh Lôi. Trán đại phu nhân râm rấp mồ hôi, mặt sa sầm: “Thế này thì tướng phủ chúng ta biết giấu mặt đi đâu? Con mau chơi đi, nếu không về nhà, ta dùng gia pháp!".

Thanh Lôi mặt trắng bệch, người mềm nhũn, mắt vừa sợ hãi vừa sầu thảm.

A La không nén nổi nói: “Đại tỷ, tỷ cứ coi như đang chơi đàn ở nhà, chơi cho một mình tỷ nghe, đừng bận tâm chuyện thắng thua”.

Thanh Lôi cười đau khổ: “Tất có được mất, sao có chuyện không bận tâm?”. Nói đoạn cúi đầu, dung nhan ngà ngọc ảo não. Ba tuổi Thanh Lôi đã chơi đàn, tâm cao chí ngạo tột cùng, Lý tướng hàng ngày nghiêm khắc giáo huấn, muốn gả nàng vào chốn vương thất, mặc dù nghe nói mình và Cố Thiên Lâm được mệnh danh là Song tuyệt Phong thành nhưng cũng không bận lòng. Hôm nay, vừa nghe tiếng đàn của Cố Thiên Lâm đã kinh động, lại thấy Cố tiểu thư được công chúa ban thưởng, bao người ngưỡng mộ, càng dao động tột cùng. Nàng và Cố Thiên Lâm thực lực tương đương. Cố Thiên Lâm đàn trước đã chiếm được thiện cảm của tân khách, muốn vượt qua đâu có dễ! Lòng tơ vò trăm mối, đã không còn chút đấu trí. Lại thở dài nói: “Nếu con đàn trước, Cố Thiên Lâm chắc cũng thế này!”. Mượn tiếng đàn nói hộ tâm tư, nàng có phần hiểu Cố Thiên Lâm.

Đại phu nhân càng cuống: “Bây giờ là lúc nào, còn do dự nữa, tân khách không đợi được, công chúa chờ lâu cũng nản”. Mắt lóe lên một tia sắc lạnh.

Thanh Lôi run người vì ánh mắt đại phu nhân, sợ hãi run lẩy bẩy ngã vào lòng Quyên Nhi như người ngất xỉu.

A La nhìn Thanh Phỉ, Thanh Phỉ lắc đầu, chơi đàn không phải là sở trường của nàng. Lại nhìn Thanh Lôi, lại thầm thở dài, rút cục vẫn là người đáng thương. Nàng nói nhỏ với đại phu nhân: “Mẹ cả, Thanh La nguyện giải vây cho tỷ tỷ, nhưng nhất thiết không được để lộ ra ngoài”.

Phu nhân kinh ngạc: “Ngón đàn của con thế nào?”.

A La hơi ngẩng đầu: “Nhất định không bẽ mặt bằng không có ai đàn, phải không mẹ cả?”.

Nói đoạn, ngồi xuống bên cây đàn, định tâm tĩnh khí, tay vuốt nhẹ phím, trong đầu tưởng tượng ra mình đang ngồi trên mạn thuyền ngắm nhìn biển cả vào một ngày thu. Mây trời cao lộng, tầng không trong vắt, nước biển xanh phẳng lặng như tấm lụa màu lam, trước mắt chỉ có sự mênh mông khôn cùng và lòng biển bao la, mình là cánh chim bằng, lúc nhẹ nhàng nhảy sóng, lúc tung cánh vút lên, chao liệng giữa mây trời bát ngát, đùa giỡn coi biển cả tựa ao nhà.

Thanh Lôi kinh ngạc nhìn cô em gái vốn không thạo ngón đàn, chỉ cảm thấy cơ thể bé nhỏ đó như tỏa muôn ngàn hào quang, chói lọi khó bề tiếp cận. Dưới ngón tay những âm thanh dồn dập trong veo tựa tiếng sóng xô ghềnh tung bọt trắng, trong sương khói mênh mang cuồn cuộn tuôn trào ẩn hiện cao sơn tráng lệ uy nghi, đỉnh chạm mây trời, vực thẳm ngàn trượng mở ra hun hút. Nếu không phải Thanh Lôi tận mắt chứng kiến, sẽ tưởng tiếng đàn này là của đấng nam nhi, chứ không phải là nữ đồng bé nhỏ, nàng bỗng cất tiếng hát: “Xuân sớm đẹp đào hoa thắm rỡ, sắc lung linh sương quẩn đỉnh non. Nước gương thu êm xuôi không tận, tâm phiêu diêu, chí viễn ngạo cao xanh...”.

Giọng Thanh Lôi trong trẻo, thể hiện niềm cảm kích chủ nhân Đào hoa yến, lại bộc lộ khí độ cao xa, hòa với tiếng đàn tràn trề tráng chí, dư âm réo rắt của Thanh La, càng muôn phần tương hợp!

Hòa xong những âm thanh cuối cùng, Thanh La và Thanh Lôi nhìn nhau cười. Những người có mặt không ai ngờ một nữ nhi lại có thể chơi được khúc “Thu thủy" hừng tâm tráng chí như vậy, vừa kinh ngạc cảm thán lại khâm phục bội phần. Chỉ nghe thấy một giọng nam nhân thanh sảng: “Sớm nghe danh Lý đại tiểu thư lấy cầm ngụ ý, từ thuở thiếu thời đã ngưỡng mộ đào hoa cốt cách thanh cao. Trăm nghe không bằng một thấy, chẳng hay Lý đại tiểu thư có bằng lòng cùng cô nhân du ngoạn thưởng hoa?".

Nghe nói vậy, mặt đại phu nhân bỗng sững sờ sung sướng, giọng run run: “A Lôi là... là thái tử điện hạ mời đó!”.

Thanh Lôi như trong mơ, thảng thốt mỉm cười. A La và Thanh Phỉ vội đẩy nàng giục: “Đại tỷ đáp lời đi, là thái tử đích thân mời đó!”.

Thanh Lôi lúc này mới hoàn hồn, nhìn Thanh La, mắt nhòe ướt: “A La... tỷ... khúc này không phải...”.

A La ngắt lời: “Đại tỷ, khúc này do tỷ đàn, ca từ do tỷ hát, mau trả lời đi!”. Nói xong cùng với Thanh Phỉ dìu nàng đi ra.

Hộ quốc công chúa cười xởi lởi: “Tốt, tốt, tốt, thái tử mời trước, các vị nam nhi, đã có thái tử mở đường, hãy đi tìm tri âm của lòng mình. Các phu nhân, có đồng ý cùng bản cung đi dạo hoa viên?”.

Các phu nhân đứng lên: “Rất vinh hạnh".

Công chúa nói vui: “Chúng ta già rồi, đi thôi, để khỏi làm phiền bọn trẻ”.

Tiếng cười rộ lên, không khí thoải mái hẳn.

Cách bức màn sa, bên ngoài trướng có một trang nam nhi tựa tay đứng. Gió thổi, bức màn bay nhẹ, thấy chàng vận áo chùng vàng chói, dáng cao tuấn tú, mày thanh mắt sáng, dáng vẻ thâm trầm, A La kêu lên, một chàng đẹp trai cổ đại! Thì ra đàn ông dáng đẹp, mặc áo chùng còn phong độ hơn nhiều.

Thanh Lôi cảm kích nhìn Thanh La, trấn tĩnh, cánh tay ngọc nhẹ vén bức màn sa, bước ra ngoài.

Trong trướng đối diện, lố nhố những cái đầu hiếu kỳ ngó ra, tranh nhau nhìn thiếu nữ được thái tử ưng ý, mà tài sắc đã vượt qua thiên kim của Cố tướng. Thanh Lôi vừa xuất hiện, những tiếng trầm trồ ào lên. Mọi người từ lâu đã biết Cố tiểu thư khí chất phi phàm, không ngờ, Lý Thanh Lôi cũng tuyệt sắc vô song. Thái tử cũng thoáng ngây người, nhẹ giọng nói: “Lý tiểu thư dung mạo như thu thủy, tài năng hơn người, cô vương ngưỡng mộ đã lâu”.

Thanh Lôi đỏ bừng hai má, ngước nhìn thái tử, bắt gặp đôi mắt đen thăm thẳm, vội vàng cúi đầu, thẹn thùng: “Chút tài mọn, đâu dám phiền điện hạ bận lòng”.

A La và Thanh Phỉ trong lều nghe thấy, bịt miệng cười. Thấy hai người sánh vai đi xa vào hoa viên, mới phá lên cười. Đây là lúc hòa hợp nhất giữa Thanh La và hai cô chị trong sáu năm qua, lúc này nàng không hề nghĩ đến, thay chị chơi một khúc đàn sẽ dẫn đến hậu quả thế nào, tiềm ẩn bao mầm họa ra sao.

Thanh Phỉ nhìn ra ngoài, phía bên kia có một đám người đứng quây tròn, có không ít thiếu nữ đứng xem, liền kéo Thanh La đến đó. A La ngó quanh, không thấy chàng đại hiệp kia, mạnh dạn hẳn lên, bụng nghĩ, người dân ở đây phong tục cũng khá cởi mở, cảnh tượng này không khác mấy cuộc hò hẹn công khai của hàng vạn nam nữ từng nhìn thấy trong công viên, vậy là nắm tay kéo Thanh Phỉ chạy đến đó.

Hóa ra đám người này đang xem thi câu đối. A La lập tức nghĩ đến những cuộc hát đối, uống rượu đánh bài trên núi. Chỉ có điều, đàn ông ở đây xem ra vô cùng lịch thiệp, nếu có cô gái nào không đối được hoặc đối không chỉnh, họ bèn nhận xét một câu rất lịch sự khiêm nhường: “Tiểu thư có lòng ứng đối đã là vinh dự của tiểu sinh rồi”.

Hai người chen vào đám đông, A La người thấp, không nhìn thấy tình hình bên trong, Thanh Phỉ nói nhỏ: “Có một công tử ra vế đối, rất đắc ý, hình như không ai đối được”.

Thanh La hiếu kỳ hỏi: “Vế đối thế nào?”.

Thanh Phỉ đọc khe khẽ: “Tân nguyệt như cung, tàn nguyệt như cung, thượng huyền cung, hạ huyền cung”(*).

A La nhìn nét mặt Thanh Phỉ, cười ranh mãnh: “Nhị tỷ đối được, phảỉ không?”.

Thanh Phỉ cười tự đắc: “Có gì khó!”.

A La lại hỏi: “Là công tử nào ra đối?”.

“Một chàng rất trẻ, không biết là ai”.

“Có khôi ngô không?”.

Thanh Phỉ đỏ mặt, khẽ gật đầu, sợ người ngoài nghe thấy, lại lườm Thanh La một cái. 

Thanh La bỗng nói to: “Vế này có gì khó, tiểu thư nhà tôi đối được!”.

Giọng nàng lanh lảnh, những người đứng trước tới tấp ngoái nhìn, A La đã trốn ra sau lưng Thanh Phỉ. Thanh Phỉ vốn người cao, càng nổi bật trong đám đông. Mắt mọi người sáng lên, nhìn thấy một thiếu nữ áo đỏ, sắc mặt hồng tươi như cánh hoa đào, dáng điệu có phần kiêu kỳ. Chàng công tử vừa ra vế đối vội chắp tay vái chào: “Tại hạ là Thành Tư Duyệt thị lang bộ Lễ, dám hỏi phải chăng cô nương đối được?”.

Thanh Phỉ đã cưỡi lên lưng hổ khó mà xuống được, đành mỉm cười cất tiếng: "Chiêu hà dĩ cẩm, vãn hà dĩ cẩm, đông thành cẩm, tây thành cẩm(*). Công tử thấy thế nào?”.

Thành Tư Duyệt vốn tự hào văn tài xuất chúng, mười tám tuổi đã đỗ trạng nguyên, một năm sau được thăng chức thị lang bộ Lễ, trẻ tuổi sớm thành danh. Nghe Thanh Phỉ ứng đối, lại thấy người thuộc bậc tài nữ phong lưu, lòng bỗng muôn phần sung sướng: “Tiểu thư đối rất chỉnh! Khâm phục, khâm phục, tại hạ ở đây có bức họa, liệu có thể mời tiểu thư đề từ?”.

A La cười thầm, viết chữ à, đây mới là tuyệt chiêu của Thanh Phỉ, chẳng cần đông tây giương cung cũng khiến chàng ta ngất xỉu.

Thanh Phỉ ung dung nhận lời, thong thả đi đến trước đài, thấy trên án có bức tranh vẽ cảnh núi non trong mưa, ngẫm nghĩ một lát, đoạn nhấc bút viết lên chỗ trống dành cho đề từ.

Thành Tư Duyệt nhìn dáng điệu Thanh Phỉ cầm bút đã biết là bậc cao nhân, ngắm kỹ nét chữ trên bức họa, nét thanh thoát mềm mại, như thoáng mùi hương của hạnh hoa tiết mưa xuân xứ Giang Nam, hòa hợp diệu kỳ với ý họa. Lần này thật sự lòng vui tâm phục, cúi gập người trước Thanh Phỉ: “Tại hạ sính thư pháp, ham chơi cờ, chẳng hay có thể mời tiểu thư cùng chơi một ván?”.

Đám đông xung quanh che miệng cười. Thanh Phỉ cho dù hoạt bát, cũng là lần đầu tiên tham gia yến hội, không khỏi ngượng ngùng, quay đầu không đáp, rảo bước đi về phía rừng hoa. A La theo sau. Được mấy bước ngoái nhìn, thấy Thành Tư Duyệt vẫn ngơ ngẩn đứng nhìn theo, liền khoát tay ra hiệu bảo chàng đi theo.

Thành Tư Duyệt là một trong năm đại công tử nổi tiếng Phong thành, sao có chuyện không phong tình, bèn chắp tay cáo từ mọi người, vội đi theo. Đợi chàng đến gần, A La nháy mắt ra hiệu chàng cứ đi, còn mình nấp qua một bên.

Thành Tư Duyệt cười thầm, một cô bé láu lỉnh. Thanh Phỉ đã đi vào rừng hoa, cách xa đám người, mới nói: “A La, đều tại muội bắt tỷ lộ diện, mất mặt quá!”.

Phía sau bỗng vọng lại tiếng nói của Thành Tư Duyệt: “Tiểu thư tài hoa là thế, sao có thể nói là mất mặt, người mất mặt chính là tại hạ”.

Thanh Phỉ giật thột, đưa tay bịt miệng, suýt kinh ngạc kêu lên, quay đầu thấy Thành Tư Duyệt đang mỉm cười nhìn mình, tim bỗng đập rộn ràng.

(*) Tạm dịch: Trăng non như cánh cung, trăng tàn như cánh cung, trăng thượng huyền như cung, trăng hạ huyền như cung (ND).

(*) Tạm dịch: Mây sớm như gấm, mây chiều như gấm, vừng trời đông như gấm, vừng trời tây như gấm (ND).

CHƯƠNG 4

Từ xa, A La nhìn thấy hai người chuyện trò vui vẻ trong rừng đào, thoảng hoặc còn nghe thấy tiếng nói vui tai của Thanh Phỉ, bụng nghĩ, nếu là thời hiện đại, nhìn thấy một đám hời thế này, không biết có bao nhiêu cô nàng lao vào, người đỏ mặt có lẽ chính là anh chàng đẹp trai kia! Lại nghĩ, năm vị công tử Phong thành, mình đã gặp được hai, không biết ba vị kia mặt mũi ra sao.

Nghĩ mãi liền đi tìm một nơi yên tĩnh nghỉ chân. Đến đây đã sáu năm, lần đầu tiên tiếp xúc với thiên nhiên, mà lại là một nơi đẹp như tranh thế này, nếu muộn hơn sẽ chẳng nhìn thấy gì nữa. Tiếng nói cười dần dần biến mất, A La nhớ lại con đường lúc đến, nhìn thấy một tảng đá to nhô ra từ khóm đào. Vòng ra phía sau, lại nhìn phía trước, thì ra đó là một tấm bình phong thiên nhiên, bèn ngả người nằm bên dưới khóm hoa, phía xa có tiếng suối chảy, cỏ bên dưới ken dày xanh mướt. Từ mặt đất nhìn lên, những cành đào hồng rực đan nhau trong khoảng trời xanh ngắt, A La thốt lên: “Ồ, đẹp thật!”.

“Đẹp thật!”. Một giọng nói xen vào.

A La hơi hoảng, nhưng vẫn nằm yên, nhắm mắt: “Nếu không bị một con gián làm hỏng thì cảnh quan còn đẹp hơn!”.

Người kia bật cười: “Nếu có kẻ ướt như chuột lột, không chỉ làm hỏng cảnh quan mà còn khiến thiên hạ sợ chết khiếp!”.

A La biết chàng đại hiệp đã đến, chắc chắn mình không địch nổi chàng ta, đây là biệt uyển của Hộ quốc công chúa, người này chắc cũng là anh tài đến dự hội, mình dù sao cũng là thiên kim tiểu thư của tướng phủ, chàng ta chắc cũng không dám làm gì, liền bạo dạn hơn, tiếp tục nhắm mắt không tiếp lời.

Đại hiệp thấy nàng không nói gì, lại nói: “Ném ngươi xuống suối thật đấy, không sợ hả?”.

A La hai tay để sau gáy, hai chân vắt chéo, nhắm mắt nói lơ đãng: “Trái với lễ thì đừng nhìn, thấy đàn bà con gái nghỉ ngơi, người biết lễ nên xin lỗi mới phải, đỏ mặt bỏ đi mới là người đứng đắn!”.

Đại hiệp hừ một tiếng: “Trông bộ dạng ngươi thế này cũng đâu phải là thục nữ danh môn! Không biết nha đầu của phủ nào, nếu ở phủ của ta, ta đã sớm cho ăn đòn để biết phép tắc”.

A La nghĩ, sáu năm nay mới được ra khỏi phủ một lần, đang muốn ngắm cảnh thỏa thích lại bị quấy rầy, xúi quẩy quá chừng! Nghe khẩu khí của người này, chắc cũng con nhà quyền thế, không nên dây vào, chuồn thôi. Nàng chồm dậy, phủi áo, nhìn trên nhìn dưới, không vướng một hạt bụi, vụn cỏ, liền bỏ đi thẳng, không ngoái lại, vừa đi vừa nói: “Trả chỗ cho nhà ngươi, xấu tính!”.

Chợt thấy mắt hoa lên, chàng trai đã đứng trước mặt nàng. A La lùi một bước, bụng nghĩ, cậy mình biết khinh công nhảy ra dọạ người. Nàng nheo mắt ngắm chàng ta, thân hình đẹp, cũng cao như thái tử, mặt khôi ngô, đường nét đẹp, vầng trán thông minh. Mấy nam nhân gặp hôm nay, sao chàng nào cũng ưu tú thế không biết?

Chàng trai khoanh tay trước ngực: “Nói, là a đầu của phủ nào?”.

A La nhìn chàng trai chỉ khoảng mười tám, mười chín, thầm nghĩ, tưởng ta dễ bắt nạt vậy sao? Bèn chắp tay vào eo nghiêng đầu hỏi: “Nói, là tiểu tử phủ nào!”.

Mắt chàng ta sáng lên, khóe miệng hiện lên nụ cười lạnh lùng: “Khách đến dự Đào hoa yến hôm nay cũng chỉ có bấy nhiêu, ngươi hãy tự nói ra, đợi ta tra soát được, đưa về phủ, xem ta dạy ngươi thế nào! Loại a đầu vô giáo dưỡng, chịu ơn không biết báo đáp, lại còn dám lén ra tay với thiếu gia đây, ta ghét nhất loại người mưu mô sau lưng!”.

A La cũng bắt chước chàng ta cười lạnh lùng: “Ai bảo mắt ngươi nhìn ngó lung tung, hình như luật hình Ninh quốc có điều quy định, nhìn ngó đàn bà con gái nhà lành bị tội phạt móc mắt. Ta không báo quan phủ đã là may cho ngươi rồi, ở chỗ cảnh đẹp thế này, ta thực lòng không muốn thấy những chuyện tàn nhẫn xảy ra, dâm tặc!”.

Người kia nghe nói vậy, mặt biến sắc: “Làm gì có chuyện đó!”. Giơ tay định tóm A la.

Nàng né người tránh được, chân trái tung ra. Chàng trai lắc đầu tránh, nhướn mày, nói: “Thì ra là con mèo hoang vuốt sắc. Thử lại lần nữa đi!”. Nói đoạn, vung nắm đấm, kéo theo luồng gió phả thẳng vào mặt A La.

A La thầm kêu khổ, người ta biết khinh công, chẳng phải loại thường dân không biết võ, mình sao có thể đánh được? Miệng hét lên: “Nam tử đứng đắn không đấu với nữ nhi, bắt nạt đàn bà con gái còn gì là anh hùng!”. Nói đoạn, tức thì xuất mấy chiêu Karate phản ứng nhanh đã luyện nhiều năm nay, nhanh chóng tránh được mấy đòn phản công.

Chàng trai vốn không vận nội lực, nghe nàng nói cứng như vậy liền dừng tay: “Được rồi, người bé thế mà qua được mấy chiêu của ta, nói đi, là người phủ nào? Nói rồi ta sẽ thả cho đi”.

A La cúi đầu thầm trách mình xúi quẩy, sáu năm không ra khỏi phủ, hầu như cách ly với thế giới bên ngoài, tính cách người hiện đại vẫn nguyên vẹn, hoàn toàn không cảm thấy mình đã đắc tội với ai. Vậy là ánh mắt thay đổi, lẩm bẩm một câu gì đó, chàng trai nghe không rõ, vội bước tới gần. A La đột nhiên ngẩng đầu nhìn phía trước, reo lên: “A! Phu nhân!”.

Chàng trai sửng sốt, A La dùng đầu gối thúc mạnh, trúng chỗ hiểm, hai tay chém xuống dưới, chàng trai không kịp đề phòng bị A La quật ngã, nhưng không bị ngất, miệng hét: “Ngươi, ngươi!”.

A La nhảy lên, tay lại bổ một nhát, khiến chàng ta ngất hẳn. Lúc đó mới đắc ý phủi tay: “Sư phụ ta nói, đàn ông bình thường chỉ một cú chém tay của ta là ngã gục. Có lẽ bây giờ ta còn nhỏ, lực chưa đủ! Dâm tặc, ai bảo nhà người làm ta nổi hứng!”. Nhìn trời, thấy không còn sớm nữa, sắp phải trở về mảnh trời nhỏ trong tướng phủ rồi, cảnh đẹp thế này không biết bao giờ mới lại được thưởng ngoạn, lòng lại càng phiền não. Cởi áo ngoài của chàng trai, xé rách, trói chàng ta vào gốc đào. Nhìn bộ dạng thảm hại của chàng ta, nỗi hận trong lòng cũng dần tiêu tan.

Từ túi áo chàng trai rơi ra một chiếc túi thêu, gia công tinh xảo. A La mở ra xem, có mấy tờ ngân phiếu mệnh giá cao, một ít bạc vụn, mấy hạt đậu vàng và một miếng ngọc bài. A La cười khanh khách, tiểu tử à, coi như cướp của nhà giàu cứu nhà nghèo, làm chút lưng vốn đầu tiên của ta, ai bảo nhà ngươi làm hỏng hứng thú của ta, đây là lần đầu ta được xuất phủ mà! A La cười đắc ý, giấu tờ ngân phiếu vào người, đoạn xem kỹ mấy chữ trên miếng ngọc bài, bỗng ngẩn người! Người này là Lưu Giác? Con trai An Thanh vương, cháu ruột Ninh Vương? Chẳng trách hống hách như vậy, ác giả ác báo! Trời ơi, sao mình lại gây sự với hắn ta?

A La nhìn miếng ngọc bài, lại nhìn Lưu Giác bị trói trên cây, thầm mắng mình gây sự, vội vàng cởi trói cho chàng ta. Cởi được một nửa, Lưu Giác khẽ rên một tiếng, nàng sợ đến nỗi tay mềm oặt. Đúng là đại hiệp, tỉnh nhanh vậy sao? Không dám đánh thêm, nhưng khi Lưu Giác tỉnh lại, nàng sẽ không còn bản lĩnh khống chế chàng ta nữa. A La đành bất chấp, đằng nào dây trói cũng cởi gần hết, bèn bỏ miếng ngọc bài vào lòng chàng ta, co cẳng chạy.

Nàng còn chưa kịp chạy khỏi tầm mắt Lưu Giác thì chàng đã tỉnh, nhìn bóng áo xanh chạy phía xa, lại nhìn xuống người, vùng dậy, dây trói tuột ra. Lưu Giác đứng dậy, sờ sau gáy: “A đầu xấu xa! Bé tý mà ra tay lợi hại như vậy, không biết dùng võ công gì? Lưu Anh!”.

Một gã trai khỏe khoắn từ sau khóm hoa cách đó không xa chạy ra, cung kính trả lời: “Hình như Thiếu Lâm thốn quyền, nhưng không giống lắm!”.

Lưu Giác nhìn miếng ngọc bài trong lòng, xem ra a đầu này đã biết thân phận của mình: “Ngươi đến từ lúc nào?”. Lưu Anh ngẩn người, vẫn cung kính đáp: “Lúc cô nương ấy trói chúa thượng”.

Lưu Giác cười khẩy: “Khi nó trói ta cũng dùng Thiếu Lâm thốn quyền?”.

Lưu Anh quỳ sụp xuống: “Chúa thượng trách phạt”.

Lưu Giác cười ha hả: “Giương mắt nhìn thấy tiểu vương gia nhà ngươi bị một tiểu cô nương đánh ngất, chuyện không thể tin được, lúc đầu ngươi tưởng ta có tà ý với người ta, không dám ra tay, sau lại sợ ta trách phạt không dám xông ra cứu, đúng không?".

Lưu Anh đỏ mặt: “Chúa thượng anh minh”.

Lưu Giác nghiêm mặt: “Đi tra xem đó là nha đầu của phủ nào, đưa về vương phủ cho ta! Ta sẽ từ từ dạy nó!”.

Lưu Anh vội nhặt chiếc áo rách đem đi, lát sau mang chiếc áo khác khoác lên người chủ nhân. Lưu Giác chầm chậm đi về phía Đào hoa yến, con nha đầu thối tha, dám đánh ngất tiểu vương gia! Đột nhiên nhớ lại khi kéo nàng ta từ suối lên, gió thổi tung mái bờm trước trán lộ ra cặp mắt lóng lánh như thủy tinh, khóe miệng bất giác nở nụ cười, thú vị thật!

A La tự biết đã gây ra họa, nếu bị Lưu Giác bắt, chàng ta không báo thù mới lạ. Vội vàng trở về hội yến, kêu đau đầu, đại phu nhân và Thanh Lôi, Thanh Phỉ đang cao hứng, thấy Thanh La làm hỏng cuộc vui, sầm mặt: “Vừa rồi còn khỏe thế, sao lại đau đầu?”.

A La nói giọng yếu ớt: “Có lẽ trong lúc đi dạo bị trúng gió. Mẹ cả, bao giờ chúng ta rời khỏi đây?”.

Phu nhân bực tức vì việc chưa thành, nhìn nàng: “Bây giờ bữa tiệc tối còn chưa bắt đầu, công chúa không nói đùa, thái tử điện hạ đang có ý với Thanh Lôi, sao con không có thành tâm, lại muốn phá chuyện tốt của tỷ tỷ như vậy?”.

A La thầm thở dài, khi mình giúp họ sao không nói? Sớm biết thế này mình đã không ra tay, cứ để mặc cho Thanh Lôi tận mắt nhìn tướng phủ bẽ mặt! Đều là con chồng, sao phân biệt đối xử như thế? Lầu xanh thì sao, mẹ xinh đẹp của mình mới mười sáu tuổi đã đường hoàng bước vào Lý phủ, do tài mạo song toàn, đã từng nổi danh Phong thành, các người đã sợ đến thế sao? Ta thấy các vị mỗi người mỗi vẻ cũng không tồi, thật không hiểu nổi. Miệng lại bất giác bật cười, tỏ vẻ vô cùng đau khổ.

Thanh Lôi cắn môi nói nhỏ với đại phu nhân, đại phu nhân nghĩ một lát nói với Thanh La: “Còn hai canh giờ nữa mới đến tiệc tối, xe ngựa đưa con về trước, rồi quay lại đón chúng ta”.

Thanh La nghi hoặc nhìn Thanh Lôi, Thanh Lôi nháy mắt với nàng. Lẽ nào do mình đánh đàn giải vây, đại tỷ này cuối cùng đã chịu đối xử tốt với mình một chút? Thanh Phỉ không nói gì, A La liếc nhìn, nhận thấy toàn thân Thanh Phỉ như tràn sức xuân. Bụng nghĩ mình nhất thiết phải rời khỏi đây, rời khỏi mối họa Lưu Giác kia, lập tức để cho Quyên Nhi dìu ra ngoài.

Đi được vài bước, A La quay đầu, cũng là lúc phu nhân mở miệng, hai người gần như cùng nói: “Chuyện đến dự Đào hoa yến, sau này không nên nhắc lại nữa”. A La đang vui mừng vì câu nói đó, lại bổ sung thêm: “Nếu công chúa biết tam tiểu thư của Lý gia đến dự mà không bái kiến, như vậy là thất lễ. Bây giờ A La lại khó chịu trong người, từ chối dự tiệc lại càng thất kính”.

Phu nhân gật đầu tán thành.

Lúc ra đi A La quan sát xung quanh, không thấy ai chú ý đến mình, mới vững dạ lên xe ngựa.

Trở về đến phủ, từ xa đã thấy thất phu nhân đang đứng ngóng, trong lòng thấy ấm áp, cười hớn hở gọi: “Con về rồi, mẹ!”.

Ánh mắt thất phu nhân rất dịu dàng, phu nhân vẫn đứng tựa cổng chờ, lần đầu tiên xa A La có một ngày đã thấy nhớ. Nhìn trời, thất phu nhân lại cau mày: “Tam Nhi, sao chưa đến tiệc tối con đã quay về? Chỉ có một mình ư?”.

A La nói to: “Có thể vừa ăn vừa kể không? Con đói lắm rồi”.

Thất phu nhân lắc đầu cười sai vú Trương dọn cơm, nói với A La: “Mẹ biết, ra ngoài ăn không no, nào lại đây ăn với mẹ”.

A La mệt suốt một ngày, quả thực rất đói, cảm thấy cơm nhà mình vẫn ngon hơn: “Tiệc trưa của công chúa chỉ có bánh và đồ điểm tâm, con lại không dám ăn nhiều, nếu không lại bị đại phu nhân trách là không ý tứ, không chú ý thân phận. Tiệc tối thịnh soạn như thế lại không thể ăn”.

Thất phu nhân hỏi: “Tại sao không thể ăn?”.

A La sợ phu nhân lo lắng, không dám kể chuyện mình đã gây sự với tiểu vương gia của phủ An Thanh vương, nghĩ mãi mới kể chuyện đánh đàn thay Thanh Lôi. Thấy thất phu nhân mặt tái nhợt, nàng vội an ủi: “Trong trướng chỉ có năm người của phủ mình, chúng ta không nói ra, không ai biết đâu”.

Thất phu nhân chảy nước mắt: “Tam Nhi, con gây họa lớn rồi! A đầu Quyên Nhi e là là không thể mở miệng nữa”.

A La kinh ngạc: “Chúng ta không nói, sao có thể gây họa! Đại phu nhân không xấu thế đâu? Quyên Nhi đã thề không nói lộ nửa câu”.

Thất phu nhân lại thở dài: “Có câu, trời biết, đất biết, ta biết, người biết, bây giờ đại phu nhân biết, đại tiểu thư, nhị tiểu thư biết, Quyên Nhi biết, con và mẹ biết, khi họ trở về lẽ nào lão gia không biết? Tam phu nhân, tứ phu nhân không biết? Thanh Lôi và mẹ nó đương nhiên không dám nói, lão gia và đại phu nhân tuyệt đối không nói, nhưng còn Thanh Phỉ và mẹ nó? Hai người ấy vốn từ lâu đã khó chịu vì tam phu nhân dựa vào con gái để được lão gia sủng ái, ngộ nhỡ họ nói ra, thì biết làm sao?".

A La sững người: “Mẹ à, lúc đó con thấy Thanh Lôi tội nghiệp quá. Mặc dù không qua lại nhiều, nhưng cũng chẳng hận thù, tỷ ấy mới mười sáu tuổi”.

Thất phu nhân ngẫm nghĩ rồi nói: “Chuyện đã thế này, đành chờ xem ý tứ lão gia".

A La nghĩ bụng, lúc đó mình đâu có nghĩ sẽ có hậu quả thế này! Xem ra kinh nghiệm chưa đủ, suy nghĩ chưa chín chắn, sáu năm nay không ra ngoài, đã xem thường tư duy của người cổ đại rồi. Chỉ là thay Thanh Lôi chơi khúc đàn cho xong, không ngờ nhờ vậy nàng ta lại được thái tử say mê, như vậy là lừa dối, đại bất kính, không khéo vì thế mà chuốc tội chém đầu cũng nên. Lòng hơi sợ hãi, xem ra chế độ pháp chế xã hội chủ nghĩa vẫn tốt hơn! Thi đại học có quay cóp, nhiều nhất cũng chỉ bị hủy tư cách thi, ở đây làm giả coi như phải lấy mạng mà đền, mình vẫn chưa nghĩ kỹ điều này. Sáu năm không tiếp xúc với xã hội bên ngoài, giam mình trong mảnh trời cỏn con như ếch ngồi đáy giếng. Hình pháp ở đây không giống xã hội hiện đại, giai cấp đặc quyền cũng khác, một người thợ ở đây dù khéo tay nếu không cẩn thận cũng bị mất mạng như chơi. A La hầu như không có niềm tin tiếp tục ở lại thế giới này, cảm thấy mình hoàn toàn bất lực, đành để cho người khác hãm hại.

Thất phu nhân thấy sắc mặt A La xanh xám, vội an ủi: “Dù gì cha con cũng là tả thừa tướng đương triều, nếu chuyện bại lộ, có thể nói thác là đại tỷ bị bệnh đột ngột, con còn nhỏ, thay tỷ tỷ đánh đàn, một là tình nghĩa chị em, hai là sợ tướng phủ mất mặt”.

A La nhìn đăm đăm thất phu nhân, nói: “Vậy còn Quyên Nhi, liệu có bị làm sao?”.

Thất phu nhân sợ A La lo nghĩ, lại an ủi: “Mẹ chỉ lo xa vậy thôi, chưa chắc đã có chuyện gì”.

A La hỏi nhỏ: “Con không biết quý tộc Phong thành có thế lực đến đâu, nếu họ muốn một a hoàn, người khác không cho, họ có đi cướp không? Nếu thấy ai ngứa mắt liệu có giết không”. Nàng bỗng lại nghĩ tới những lời Lưu Giác nói muốn tìm nàng, đưa về phủ, buộc nàng vào khuôn phép.

Thất phu nhân lại thở dài: “Không cướp công khai, nhưng bí mật thì ai biết? Năm xưa mẹ...”. A La ngạc nhiên nhìn thất phu nhân: “Năm xưa mẹ thế nào?”.

Thất phu nhân nhìn ra khóm hải đường trước sân, ánh trăng đổ bóng hải đường xuống mặt đất, lốm đốm lay động, cô quạnh như đời bà: “Năm xưa mẹ nổi tiếng nhất Uyển hoa lầu, gặp một khách nhân, hai bên tâm đầu ý hợp đã hẹn ước vào mùa hoa nở chàng sẽ bỏ tiền chuộc mẹ ra, hai người cùng sống bên nhau... Cuối cùng chàng đã chuộc được mẹ, nhưng lại bị đột tử ngay trong đêm đó, mẹ cũng bị đánh thuốc mê... tỉnh lại đã là thất phu nhân trong Lý phủ... thậm chí kẻ thù là ai mẹ cũng không biết. Cha con sủng ái mẹ ít ngày, thấy mẹ lạnh lùng cũng không hứng thú... Cứ như vậy mẹ thui thủi trong khu nhà này mười bốn năm”. Thất phu nhân giọng bình tĩnh, không còn xúc động, nhưng nỗi oán hờn vẫn không thể che giấu.

A La nghe vậy buồn nản vô chừng, đột nhiên nghĩ đến số ngân lượng lấy được của Lưu Giác, vội đưa ra cho thất phu nhân: “Chúng ta có thể bỏ trốn không, chỗ bạc này đủ để cho chúng ta sống chứ?”.

Thất phu nhân kinh ngạc nhìn số ngân phiếu: “Tam Nhi, ở đâu ra số bạc này, sao lại nhiều như vậy?”.

A La đành phải kể đầu đuôi câu chuyện gây sự với Lưu Giác thế nào. Thất phu nhân càng nghe mặt càng tái nhợt, đến đoạn A La xé áo chùng của Lưu Giác trói vào gốc cây, lấy bạc của người ta, mắt vừa đảo liền ngất xỉu. A La sợ hãi mặt trắng bệch, vội ấn mạnh đầu ngón tay vào huyệt Nhân Trung của phu nhân. Hôm nay nếu không ra khỏi phủ thì đã không xảy ra chuyện gì, nếu không thấy vẻ tội nghiệp của Thanh Lôi đã không đánh đàn, tướng phủ mất mặt, Lý Thanh Lôi mất mặt không can hệ đến mình. Còn nữa, nếu không gây chuyện với Lưu Giác có phải tốt không. Nhưng hối hận thì ích gì?

Thất phu nhân một lúc lâu sau mới từ từ mở mắt, thấy ánh mắt lo âu của A La nhìn mình, choàng tay ôm chầm nàng bật khóc: “Tam Nhi, phải làm thế nào bây giờ?”.

A La nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, phân tích tình hình với thất phu nhân: “Mẹ à, tiểu vương gia của An Thanh vương không biết con là ai. Đào hoa yến hôm nay cũng không ai biết tam tiểu thư của Lý phủ cũng đến, con vẫn cải trang thành tỳ nữ. Con nghĩ sau khi cha suy tính lợi hại, quyết không để con làm hỏng ý đồ bấy lâu của cha, rắp tâm gả Thanh Lôi cho thái tử, ông ấy sẽ tìm mọi cách giấu nhẹm mọi sự. Thanh Phỉ hôm nay cũng nói chuyện rất vui vẻ với Thành Tư Duyệt, một trong năm công tử Phong thành, nếu Lý phủ xảy ra chuyện xấu, tiền đồ như gấm của tân nương trạng nguyên liệu có còn? Cho nên Thanh Phỉ và tứ phu nhân cũng sẽ không nói ra. Còn con, rút cục vẫn là con gái ông ấy. Chỉ lo cho Quyên Nhi không trụ nổi, hôm nay con phải nhắc nó mới được, tốt nhất nên bỏ trốn”.

Thất phu nhân kéo tay A La: “Tam Nhi à, Quyên Nhi cũng chạy không thoát, gia nô bỏ trốn nếu bị bắt lại càng thê thảm, đa phần đều bị đánh chết”.

Đánh chết? A La kinh ngạc, vô cùng hối hận. Do sự xúc động và bất cẩn nhất thời của mình làm hại Quyên Nhi, chưa bỉết chừng Quyên Nhi sẽ mất mạng, mà mình lại không thể nào ngăn cản. Nàng thầm quyết tâm, sau này phải bớt nôn nóng bớt kiêu ngạo, nhất định không được đem quan điểm của người hiện đại áp dụng ở xứ này, làm việc gi cũng phải suy tính thận trọng.

Lúc đó Tiểu Ngọc vào báo, đại phu nhân và hai tiểu thư đã về, lão gia mời thất phu nhân và tam tiểu thư qua đó. A La nhìn thất phu nhân, nói: “Mẹ nhất định phải tỏ ra không biết chuyện gì, thêm một người biết là không hay”.

Thất phu nhân lại rơi lệ: “Tam Nhi, con mới mười hai tuổi, những chuyện lớn như thế này sao mẹ có thể để mình con đứng ra gánh vác?”.

A La lau nước mắt cho mẹ: ‘‘Con có thể giả bộ ngây ngô, vì con còn nhỏ, họ cũng không đề phòng nhiều. Nhưng nếu mẹ biết, họ sẽ cảnh giác với mẹ, vì vậy, mẹ càng thêm nguy hiểm. Mẹ cứ nói con về nhà kêu đau đầu đi ngủ ngay, vừa rồi mới đánh thức”.

Khi vào đến phòng lớn, chỉ có Lý tướng và đại phu nhân. Thất phu nhân cùng A La cúi chào. Lý tướng thở dài: “Ngọc Đường, nàng giấu ta làm ta khổ sở! Ta vốn rất ngạc nhiên, năm xưa ngón đàn của nàng nức tiếng Phong thành, tại sao không dạy được con gái?”.

A La đang định nói, thất phu nhân đã tranh trả lời: “Lão gia, là thiếp không muốn A La bộc lộ, để còn dạy thêm, mong có ngày vừa ra mắt đã thành danh”.

Đại phu nhân lao như tên về phía trước, tay vung lên, một cái tát vào mặt thất phu nhân: “Tiện nhân! Thế nào là vừa ra mắt đã thành danh! Hôm nay A La đã thành danh, nổi tiếng rồi đấy”.

Thất phu nhân ôm mặt cười: “Con gái bọn họ được tìm đám tốt, sao con gái tôi không thể!”. Thất phu nhân cười, quay người lườm A La lúc này đang hận run người, nhất định không cho nàng nói.

A La quỳ sụp xuống: “Là con đã sai, hôm nay con không nên đánh đàn giúp đại tỷ!”. Bây giờ chỉ có thể tỏ ra nhún nhường, nhưng lòng nàng bừng bừng uất hận, hận là không thể xông ra quật đại phu nhân và Lý tướng xuống đất.

Lý tướng nãy giờ vẫn mặt lạnh quan sát, bỗng cười ha hả: “Ai bảo con sai? Nếu con không đàn khúc đó, thái tử có thích Thanh Lôi không, A La công con lớn lắm!”. Đoạn giơ tay đỡ A La đứng dậy, rồi ôm vào lòng, nhẹ nhàng xoa đầu nàng: “Cha chỉ giận mẹ con giấu cha mà thôi, cha rất vui, thì ra A La của cha cũng là giai nhân có tiếng đàn tuyệt mỹ vô song!”.

Lưng A La dựng chân lông, da gà nổi từng đám, lòng bừng bừng phẫn hận. Biểu hiện của Lý tướng có khác nào cái mặt hỉ hả của gã lái buôn phát hiện món hàng trong tay mình có thể bán được giá hơn? Mình quyết không làm một món hàng để Lý tướng cầu vinh! Chủ ý đã định, nàng nén nước mắt ngẩng đầu nhìn Lý tướng nói: “Mẹ cũng chỉ nghĩ cho A La thôi, cha đừng trách mẹ. Huống hồ A La chỉ biết chơi đàn, thi họa thơ từ không học nổi một phần của mẹ, nếu cha vui, A La sẽ nhờ mẹ dạy từng thứ một”. Giọng A La rất dịu dàng, nước mắt đã đầm đìa.

Lý tướng nhìn đôi mắt đẫm nước của nàng, cười ha hả: “Thế mới là con ngoan của cha. Sau này không được giấu cha điều gì biết không! Rất tốt!”.

Đại phu nhân thừa cơ mới nói: “Thiếp sợ nhất công chúa và thái tử biết chuyện sẽ trách tội. Thất muội à, lúc đó A Lôi không có ý tranh giành, A La cũng chỉ vì không muốn tướng phủ mất mặt ở hội yến, cũng là tốt, nhưng nếu chuyện lộ ra phải làm sao!”.

“A La từ nay sẽ không chơi đàn nữa, đằng nào cũng không ai biết nó biết chơi đàn. Các thứ khác sẽ học thêm ít nhiều, tin là cũng không đến nỗi”. Thất phu nhân lập tức tiếp lời.

Lý tướng gật đầu: ‘‘Cũng được, có Thanh Lôi giỏi đàn, Thanh Phỉ giỏi thư họa là được rồi. A La, vậy con hãy theo mẹ học ngâm thơ đi”.

A La thấy ánh mắt gian giảo của Lý tướng nhìn bàn tay mình, liếc đảo lia lịa, bỗng dưng sợ hãi vô cùng, mới bật lên tiếng: “A La còn biết thổi sáo! Mẹ nói con cũng có năng khiếu về nhạc lý, đang định dạy con”.

Ánh mắt Lý tướng cuối cùng dịu đi: “Tốt, biết ngâm thơ, biết thổi sáo, cũng tốt”.

Cuối cùng A La đỡ thất phu nhân ra khỏi phòng, lại nghe giọng Lý tướng lạnh lùng: “Ngọc Đường, nàng nhớ dạy A La cho tốt, nó còn nhỏ nhiều chuyện chưa hiểu, nhưng nàng thì hiểu”.

Thất phu nhân cúi đầu vâng lời.

Trở về Đường viên, A La ứa nước mắt, bất luận trong thời hiện đại hay cổ đại chưa bao giờ nàng khiếp sợ như hôm nay. Ngay cả khi lúc bỗng dưng bị quay trở về quá khứ kỳ dị này, nàng cũng chưa từng cảm thấy nỗi sợ hãi rõ ràng khủng khiếp như vừa rồi. Nếu không nói ra là mình biết thổi sáo, đôi tay này liệu có bị Lý tướng làm cho tàn phế? A La càng nghĩ càng thấy kinh sợ, liên tục tự nhủ, mình phải động não suy nghĩ tìm cách thay đổi cục diện bị động này.

Trong ngôi lầu ba tầng ở vạt rừng góc đông bắc phủ An Thanh vương đèn thắp sáng trưng, phòng yên ắng không một tiếng động. Nghe nói trong vương phủ từng có một a đầu tò mò, khi đi qua vạt rừng ở Tùng phong đường, nhìn thấy một con thỏ chạy vào đó, bèn đuổi theo, rồi không thấy ra. Người trong phủ coi nơi đây là cấm địa, thường đi đường vòng, không dám qua đó.

Tiểu vương gia từng vời Hồng Ngọc vốn là đào nương nổi tiếng nhất Vân hoa lầu đất Phong thành vào Tùng phong đường ca hát. Hồng Ngọc trở về kể, tiểu vương gia đãi khách rất mực hào phóng lịch thiệp, lầu gác thanh tĩnh trang nhã. Vậy là Tùng phong đường trở thành giấc mộng đẹp của biết bao thiếu nữ Phong thành mơ tưởng cuộc sống lứa đôi ở đó cùng với tiểu vương gia.

Lúc này tiểu vương gia đang vẽ, tỳ nữ Tư Họa chăm chú mài mực, hoàn toàn để tâm vào thỏi mực và đài nghiên, tay đưa đều đều, chậm rãi, cố không để một tia mực bắn ra ngoài, không để phát ra một tiếng động dù nhỏ.

Lưu Giác đang phác họa một thiếu nữ, tà váy dài bay bay, một phần tà váy bị chặn bởi miếng ngọc bội với những tua rua đeo trên eo. Một thân hình uyển chuyển, cổ cao thon thả, bờ vai mảnh dẻ, mái tóc cuốn cao như mây khói, cài chiếc trâm ngọc hình đóa hoa lan, phong tư trác việt, chính là dung mạo của Cố Thiên Lâm, thiên kim của Cố gia.

Lưu Giác hài lòng ngắm nghía, lại nâng bút trầm ngâm, vẽ đôi mắt trên khuôn mặt mỹ nhân. Người ta bảo họa long điểm nhãn, dưới nét bút của Lưu Giác, Cố tiểu thư sống động như sắp bước ra từ bức họa. Trong đầu chàng không hiểu sao vụt hiện lên một đôi mắt lóng lánh như nước mùa thu, chàng khẽ chớp mắt lại hình dung ra đôi mắt Cố Thiên Lâm, lập tức hạ bút. Khi bức họa hoàn thành, ngắm nghía hồi lâu, tay cầm bút ngẩn ngơ, sao mình lại vẽ mắt a đầu đó nhỉ?

Nữ tỳ Tư Họa liếc trộm bức vẽ, thầm nghĩ, một cô nương thật kiều diễm, chỉ có đôi mắt sao lại có phần hoang dã, long lanh như biết nói, cứ như không phải sinh ra trên khuôn mặt đoan trang hiền thục như vậy của tiểu thư Cố Thiên Lâm.

Khóe mắt Lưu Giác bắt gặp cái nhìn của Tư Họa, thấy bức vẽ như vậy lại bị đôi mắt làm cho thiếu hài hòa, chàng giơ tay định vò nát, ánh mắt lại chạm vào đôi mắt lóng lánh trong đó, bèn dừng lại, ngắm nhìn hồi lâu, đoạn sai Tư Họa: “Hồ giấy lại cho cẩn thận..”.

Tư Họa cúi đầu vâng lời.

Ngón tay Lưu Giác gõ nhẹ trên án thư hồi lâu, bỗng nói: “Tân khách đến dự Đào hoa yến có bao nhiêu nhà mang theo a đầu, tỳ nữ? Hả?”.

Lưu Anh đã quỳ bên ngoài đúng một canh giờ, vừa thấy tiểu vương gia mở miệng, lập tức trả lời: "Công chúa mời bảy hộ thân vương, bốn hộ nội quyến của đại thần trong triều, a đầu, tỳ nữ mang theo tổng cộng năm mươi bảy người, còn mời thêm hai mươi ba công tử Phong thành, ai cũng mang theo a đầu, tỳ nữ. Tổng cộng có năm mươi bảy người đi theo, thuộc hạ đã tra kỹ từng người, không có cô nương đó. Công chúa có tám nô tỳ theo hầu, biệt uyển có một trăm bốn mươi sáu nữ tỳ cả thảy, cũng không có người nào như thế ”.

Lưu Giác càng nghe mặt càng khó chịu, trong một ngày nàng ta hai lần ra tay với chàng, vậy mà không sao tìm ra? Đường đường là tiểu vương gia của An Thanh vương mà bị nàng ta đánh ngất trói vào cây, còn cướp mất ngân lượng, chuyện mà đồn ra chẳng thà nhảy xuống sông Đồ Ninh chết cho rồi.

Lưu Anh nhìn những đường gân nổi lên trên bàn tay tiểu vương gia, lòng biết đây là nỗi nhục lớn của chúa thượng, vậy mà lúc đó mình lại đứng một chỗ nghi ngờ chúa thượng có tà ý, nhưng mà cũng không thể trách mình, với thân thủ của chúa thượng, sao có thể bị một tiểu cô nương đánh ngất? Bây giờ lại không tìm ra người. Lưu Anh suy nghĩ đắn đo, đoạn mạnh dạn nói: “Bẩm chúa thượng, liệu có phải là con gái các phường săn ở thôn bản quanh đây?”.

Lưu Giác trợn mắt: “Tra xem!”.

Lưu Anh cúi đầu vội vàng đi ra.

CHƯƠNG 5

Tiền chi tiêu hàng tháng của thất phu nhân và A La cộng lại không quá mười lạng bạc, tằn tiện mới đủ trang trải cho cả Đường viên. Từ khi Lý tướng biết Thanh La không phải hạng bất tài, tiền chi tiêu tháng tăng vọt lên đến hai chục lượng. Thất phu nhân xem kỹ tấm ngân phiếu lấy được của Lưu Giác, không có ký hiệu gì đặc biệt, liền giao cho vú Trương lén tìm người đổi tiền, được hơn bốn trăm lượng, so ra thật là một trời một vực, công tử nhà giàu giắt túi sơ sơ cũng mấy trăm lạng bạc, đủ cho bốn người của Đường viên ăn trong vài năm. A La nhất quyết cho rằng, có tiền mới dám mạnh mồm, đi đến đâu, đồng kẽm có ô vuông cũng là quan ngoại giao tốt nhất, vậy là quyết chí ra khỏi phủ tìm cơ hội kiếm tiền.

Thất phu nhân buồn rầu nhìn A La: “Tháng sau con mới tròn mười ba, ngày thường không ra khỏi nhà, sao mẹ có thể yên tâm?”.

A La đáp: “Những ngày qua con cũng được nghe nhiều về phong thổ nhân tình của Phong thành, cũng lén đọc khá nhiều thư tịch, không đến nỗi chẳng biết gì về Ninh quốc, huống hồ, đầu óc của A La đâu có giống đứa trẻ mười ba?”.

Thất phu nhân vẫn không yên tâm, A La cũng hết cách, bèn kéo phu nhân đến rừng trúc. Khi nàng vận nội công dùng tay chẻ toác một cây tre to ngay trước mặt bà. Lại tung một loạt quyền cước, đòn ra đến đâu, lá trúc bay rào rào, trông rất khí thế, thất phu nhân mới sửng sốt. A La cười kéo tay mẹ: “Lúc nhỏ có lần không ngủ được, con chạy ra vườn chơi, gặp một đại thúc tinh thông quyền cước, ông ấy dạy con, dạy xong thì đi, dặn không được nói với bất kỳ ai. Mẹ à, trong phủ này cũng chỉ có mình mẹ biết. Lần trước, tiểu vương gia của phủ An Thanh vương đã bị con một chưởng đánh ngất xỉu”.

Thất phu nhân giơ tay bịt miệng A La, nhìn vẻ dương dương đắc ý của nàng, vừa bực vừa buồn cười vừa vui: “A La, thế này được rồi, nếu quả thực không ổn, con rời tướng phủ xem ra cũng có thể một mình bỏ trốn”.

A La ôm mẹ: “Đã đi thì cùng đi, con quyết không để mẹ một mình ở đây”. Trong thế giới kỳ dị này thất phu nhân là hồi ức ấm áp nhất của nàng. Con người không phải cỏ cây, bảy năm chung sống, A La đã coi thất phu nhân, vú Trương và Tiểu Ngọc là người thân.

Tiểu Ngọc đã mười bốn, thất phu nhân đưa cho một trăm lạng bạc, để sau này rời phủ có chút lưng vốn, rồi tìm người tử tế xây dựng gia đình, Tiểu Ngọc không chịu, quỳ khóc nói: “Tiểu Ngọc không người thân thích, năm xưa thất phu nhân cho ngân lượng để Tiểu Ngọc mai táng cho mẹ, bây giờ phu nhân bảo con đi đâu?”.

Thất phu nhân nói: “Ở mãi trong phủ sẽ lỡ dở chuyện cả đời”.

Tiểu Ngọc chỉ lắc đầu: “Phu nhân, tiểu thư đã coi Tiểu Ngọc như người nhà, cứ cho con ở lại, tiểu thư vẫn còn nhỏ”.

A La đỡ Tiểu Ngọc đứng dậy: “Sau này Tiểu Ngọc là tỷ tỷ của ta, chúng ta là người một nhà, ta đi đến đâu cũng không bỏ tỷ”. Từ hôm đó, thất phu nhân bắt đầu dạy Tiểu Ngọc thổi sáo, đề phòng có ngày A La ra khỏi phủ, Tiểu Ngọc có thể đứng trong rừng trúc thổi sáo đánh lừa tai mắt của mấy bà phu nhân.

Sau khi hứa với Lý tướng sẽ chuyên tâm học thổi sáo, A La thường dậy sớm vào rừng trúc tập luyện. Rừng trúc vắng vẻ, không khí thanh tĩnh trong lành, chim chóc ríu rít, không ai quấy rầy.

Hôm đó, nàng vừa thổi một lúc chợt nghe có tiếng tiêu từ bên ngoài vọng vào, hòa tấu với tiếng sáo của nàng. A La giật thót, tiếng tiêu vẫn tiếp tục. Nàng chầm chậm thổi hết một khúc, buông cây sáo, tiếng tiêu bên ngoài cũng nhỏ dần, rồi dứt hẳn .

Tiếng tiêu đó xuất hiện khoảng một tháng sau khi A La đến rừng trúc tập sáo. Sau đó sáng sớm mỗi ngày khi nàng đến đây luyện sáo, tiếng tiêu lại cất lên hòa tấu. Lúc đầu tiếng sáo của A La chưa thành thục, dần dần càng hòa hợp với tiếng tiêu. Thất phu nhân an ủi nàng: “Tam nhi, tiêu sáo đều cùng một họ, con chơi đàn đã vượt qua mẹ năm xưa, sáo cũng học rất nhanh, đủ để đối phó với cha con rồi”.

Từ đó A La không bỏ nhiều công sức luyện sáo nữa, chỉ cần có thể giao lưu là được. Nàng nghĩ, phải ra ngoài xem xét mới nhanh chóng thông thuộc Phong thành, mới dễ tìm lối thoát.

Tường bao quanh tướng phủ cao tám thước, xây bằng gạch xanh, không hề có kẽ hở. Tiểu Ngọc đứng canh bên ngoài rừng trúc, hai bên thỏa thuận nếu có tình hình sẽ dùng tiếng sáo làm hiệu. A La thong thả đi về phía bức tường bao sau rừng trúc. Thận trọng men theo tường đi một vòng, không phát hiện thấy lối ra, rủa thầm giá lúc này gặp công trình rởm như thời hiện đại có phải tốt không! Đang lúc thất vọng, đột nhiên nhìn thấy bên cạnh tường có mấy đống đá chỏng chơ, đoán là chỗ đá thừa khi xây tường. Đá chất đống đã lâu, bên trên rêu cỏ mọc đầy.

Nàng xắn tay thử bẻ một phiến, đá vỡ dù bé, nhưng phiến to cứng hơn năm chục ký. A La hít một hơi cố sức nhấc, phiến đá chỉ hơi nhúc nhích. Lòng mừng thầm, nhớ kỹ vị trí, đi ra khỏi rừng trúc, mỉm cười với Tiểu Ngọc.

Ngày hôm sau, thất phu nhân đích thân đứng canh bên ngoài rừng trúc, A La và Tiểu Ngọc đem theo hai cái gậy đến chỗ đống đá hôm trước. Tiểu Ngọc nhìn đống đá không biết làm gì: “Tiểu thư, chỗ đá này phải mấy người đàn ông khỏe mới chuyển đi được, chúng ta có làm được không?”.

A La cười: “Chúng ta bẩy, không cần dùng quá nhiều sức lực. Archimedes nói, cho tôi một điểm tựa tôi sẽ nâng cả trái đất, mấy hòn đá này có là gì”.

Tiểu Ngọc nghe mù tịt: “Trái đất gì? Archimedes gì, tiểu thư nói gì vậy?”.

A La cười khanh khách: “Không cần phải hiểu, cứ làm theo ta”. Sau đó dạy Tiểu Ngọc dùng gậy tre luồn dưới tảng đá, tìm một hòn đá khác kê dưới gậy, A La ra sức ấn cây gậy, bẩy tảng đá lên, Tiểu Ngọc ở phía trước đẩy, tảng đá nhích dần từng tý tới bên tường.

Tiểu Ngọc vui mừng vỗ tay, A La suỵt một tiếng, hai người chuyển một hòn đá nhỏ hơn bắt đầu kê xếp.

Mấy ngày sau, khi thất phu nhân đến bên tường, chỉ nhìn thấy mấy khóm trúc và đám dây leo, không có đường ra ngoài phủ. Đang buồn, A La đã kéo bà quay ra sau, đống đá đã được xếp từng bậc cao dần sát tường, đi theo các bậc đó, dễ dàng trèo lên mặt tường.

Thất phu nhân và A La thử ngó ra. Bên ngoài có một con đường nhỏ, tiếp nữa là một dòng sông. Xung quanh không có ai, hai người cười thầm từ trên mặt tường nhảy xuống, vòng ra phía trước. Thất phu nhân thốt lên: “Đứng ở chỗ này chẳng thấy dấu vết gì”.

A La đắc ý cười: “Con và Tiểu Ngọc đã mất bao nhiêu công sức lấy dây leo che lên đấy”.

Trở về phòng, thất phu nhân bắt đầu vẽ sơ đồ trong phủ, phán đoán con sông bên ngoài là từ núi Ngọc Tượng trong vương cung chảy ra, ra khỏi đông môn, nhập vào sông Đô Ninh. Thất phu nhân còn vẽ cả bản đồ Phong thành theo trí nhớ.

A La kết hợp sơ đồ do thất phu nhân vẽ và những điều đọc được trong sách, mới có sơ đồ toàn cảnh của Phong thành.

Phía nam ngoài Phong thành là sông Đô Ninh. Phía tây là bình nguyên, đi thẳng mãi về phía tây sẽ đến Khởi quốc. Phía đông là núi Ngọc Thúy, biệt uyển Thập Thúy sơn trang của Hộ quốc công chúa xây dưới chân núi, lâm viên của hoàng gia cũng ở đó. Vượt qua núi Ngọc Thúy là khu rừng rậm Hắc Sơn bạt ngàn, tiếp đến là bình nguyên Mãng Độ, cũng chính là biên giới giữa Ninh quốc và An quốc, đi tiếp về đông là biển Nguyệt Ly mênh mông.

Phía bắc Phong thành là dãy Ngọc Tượng. Vương cung xây dựa vào núi, các đỉnh núi thuộc dãy Ngọc Tượng cao chót vót chạm mây, quanh năm tuyết phủ, tuyết tan tạo thành suối Toái Ngọc, bốn mùa không bao giờ cạn, chảy qua vương cung ra ngoài, lại phân lưu thành những nhánh nhỏ chảy vào thành làm nguồn nước, phía sau dãy Ngọc Tượng cũng là rừng rậm, đi tiếp là biên giới với An quốc.

Phía nam qua sông Đô Ninh, qua mười ba trấn là đến Hán Thủy, tiếp đến là Trần quốc. Phía tây nam cách Hán Thủy là Hạ quốc.

Phong thành chỉ có ba cổng lớn, tựa núi kề sông vững chãi. Cách An quốc một khu rừng rậm, là không còn phải lo gì nữa. Phong thành là tuyến phòng thủ cuối cùng của Ninh quốc. Ninh quốc phồn thịnh thanh bình, mấy chục năm không xảy ra chiến tranh.

Từ vương cung có một con đường thẳng tắp dẫn tới cổng bắc Phong thành, đoạn đường trong thành lại gặp con đường thông với cổng đông bắc. Phong thành tự nhiên được chia thành bốn khu. Phía tây bắc là khu cung thất và công đường; đông bắc là cung thất của hoàng thân, đại thần và công quán của sứ thần các nước, đây là khu vực giàu sang; tây nam là khu thường dân; đông nam là khu thương mại.

Trong các khu chỗ nào cũng trà quán, tửu lầu, quán cơm chi chít như bàn cờ. Khu thương mại là nơi ăn chơi giải trí phong lưu, ở đây có dinh thự lộng lẫy của thương gia, các tửu quán, lầu xanh, ngoại thương quán xa hoa cao cấp nhất. Ra khỏi cửa nam, trên sông Đô Ninh thuyền hoa dày đặc. Tóm lại, đây chính là đô hội quốc tế lớn sầm uất náo nhiệt, được phân chia chức năng rõ ràng.

A La ra ngoài, đầu tiên đi tham quan khu thương mại. Nàng cần kiếm tiền, cần thu thập thông tin, cần tìm hiểu phong tục tập quán của một nơi xa lạ. Những nơi chưa phát triển luôn tàng ẩn thể giới đào viên. A La tin là nàng nhất định tìm được. Lúc này nàng không mong lập nên nghiệp lớn ở thế giới cổ đại, chỉ muốn sống yên ổn, có thể tự quyết định mọi chuyện của mình.

Hôm đó Thanh La dậy sớm, bên trong mặc áo ngắn bó sát, bên ngoài choàng áo chùng rộng màu bạc, tóc cột chặt, thắt đai lưng gọn gàng, soi gương thấy một tiểu nam nhi mặt mày khôi ngô, ngũ quan rạng ngời như ngọc.

Thất phu nhân giúp nàng dùng bột nâu bôi những chỗ lộ da thịt, tô đậm lông mày. A La ép cho giọng nói thấp trầm, sải bước dài, sao cho dáng điệu cử chỉ không còn vẻ yểu điệu của một tiểu thư khuê các. A La rất vừa ý, thất phu nhân tạm yên lòng, cười nói: “Nếu không phải là người quen, nhất định không nhận ra con là gái”.

Lần đầu hành động cảm giác có chút xúc động, căng thẳng, A La nhẹ nhàng vượt qua tường, rồi rút thang dây giấu kỹ, bụng nghĩ, như thế này đơn giản hơn cả leo núi. Nếu biết khinh công nữa thì tốt, bay đi bay lại tự do quá. Nghĩ đến tài khinh công của Lưu Giác, A La bất giác thấy ngưỡng mộ vô cùng, nếu không có chuyện với nhau, tìm chàng ta làm sư phụ thì tốt quá.

Sau khi tiếp đất bình an, xác định phương vị, A La rảo bước đi về khu thương mại, nhìn con sông nhỏ phía xa, lại đổi ý. Đi đến một góc vắng của tường viện, lấy sáo thổi khúc bình an thường ngày vẫn hòa tấu với tiêu. Tiếng sáo vừa vang lên, A La chú ý nhìn quanh, lát sau đã thấy tiếng tiêu vọng đến. Nghiêng tai lắng nghe, chính là từ phía sông vọng lại, bèn cất sáo đi về phía đó.

Tiếng sáo vừa dứt, tiếng tiêu liền ngập ngùng, cơ hồ cảm thấy lạ hôm nay sao tiếng sáo lại ngắn ngủi như vậy, sau đó lại tiếp tục vang lên.

A La đến gần bờ sông mới đi chậm lại, làm ra vẻ nhàn tản vãn cảnh. Không lâu sau nhìn thấy dưới rặng thùy liễu ven sông có một chàng trai đang ngồi, mình vận áo chùng màu tím, tay cầm cây ngọc tiêu. Thì ra người thổi tiêu là chàng ta, vì sao ngày nào cũng đến đây thổi tiêu? Chỉ vì muốn họa xướng với tiếng sáo của mình ư?

Cảm thấy phía sau có người, chàng trai quay đầu, thấy một tiểu công tử tuấn tú đang nhìn cây tiêu trong tay mình, bỗng bật cười: “Tiểu đệ đệ, đệ cũng thích tiêu ư?”.

A La nhìn chàng công tử tuổi chừng đôi mươi, lông mày dài hình lưỡi mác vếch đến tận tóc mai, ánh mắt thâm trầm, khóe môi thấp thoáng nụ cười mơ hồ, lại là một chàng thượng lưu. Nhìn diện mạo không phải hạng tiểu nhân, lại thêm chàng ta đã hòa tấu với mình lâu như thế, A La bỗng có thiện cảm, trả lời: “Tại hạ đi dạo bên sông, nghe tiếng tiêu du dương, lần theo tiếng ngọc đến đây, làm phiền công tử rồi”.

Chàng trai cười khe khẽ: “Đừng ngại, đừng ngại, hôm nay cũng chỉ một lát này thôi”.

A La cảm thấy chàng ta có gì buồn bã, biết đó là do không có tiếng sáo xướng họa, liền cười nói: “Tại hạ thích thổi sáo, liệu có thể cùng công tử hợp tấu một khúc?”.

Mắt công tử sáng lên vui mừng: “Tiểu huynh đệ cũng biết thổi sáo ư? Tốt quá!”.

Ngay lúc đó hai người lấy tiêu và sáo hòa tấu, hợp khúc vừa dứt, tình đã thêm phần gắn bó. Chàng công tử nhìn A La hỏi: “Gặp được tri kỷ lòng mừng khôn xiết, nhìn tiểu huynh đệ rất thân thiện, liệu có thể mời tiểu huynh đệ vào Thiên phong lầu hàn huyên chút đỉnh?".

A La nghĩ, Thiên phong lầu có lẽ là những nơi có trà quán, tửu lầu, vừa hay đang muốn đi, có người bạn đường càng tốt. “Đệ tên La Sơn, còn quý danh đại ca?”. A La tự nhiên thắt chặt chêm quan hệ.

Công tử cười nói: “Tốt, hôm nay không chỉ gặp tri kỷ lại quen thêm một huynh đệ, ta họ Trần, đệ cứ gọi Tử Ly cũng được, đại ca cũng được”.

A La thân thiết gọi đại ca. Hai người vừa đi vừa trò chuyện, A La vui mừng phát hiện vị đại ca mới quen này rất thông thạo Phong thành, theo chàng ta coi như có người hướng dẫn, có một tấm bản đồ sống, tự chúc mừng đã gặp vận may. Ở nơi lạ nước lạ cái này, có một người bạn quý biết bao, hơn nữa người bạn này xem ra cũng là một anh chàng đẹp trai đứng đắn. A La che miệng, cười thầm.

Hai người men bờ sông theo hướng đông, lên mặt đê, đã thấy quán trà, A La lần đầu tiên đi trên đường phố của Phong thành, nhìn gì cũng mới lạ, cái gì cũng hiếm gặp, đầu ngó nghiêng hai bên, không muốn bỏ sót thứ gì, quay đầu nhìn, hai người đã cách khá xa khu lầu gác cao cấp. Đột nhiên Tử Ly gọi nàng: “Sơn đệ, cứ đi thế này, tối mịt cũng không đến được Thiên phong lầu”.

A La đỏ mặt, ngẩng đầu nhìn: “Đại ca, Thiên phong lầu còn xa không?”.

Tử Ly đáp: “Cưỡi ngựa không đến hai khắc, đi bộ phải một canh giờ”.

A La bụng nghĩ, đi mất hai tiếng đồng hồ? Phong thành lớn thật, xem ra có ngựa là tốt nhất. Nói ngựa là ngựa đến, một tiếng ngựa hý vang, A La nhìn ra, thấy cái đầu ngựa to đùng đã thò ra trước mặt.

Tử Ly nói: “Ta cho gia nhân dắt ngựa đứng chờ ở đây, Sơn đệ có biết cưỡi ngựa không?”.

“Ngồi trên lưng ngựa để người khác dắt, có gọi là biết cưỡi không?”.

Tử Ly thấy ánh mắt lóng lánh, tinh anh nhìn mình không chớp, lòng thầm thốt lên, quả là một đôi mắt đẹp. Chàng nhanh nhẹn nhảy lên lưng ngựa, chìa tay cho A La: “Nào cùng cưỡi với đại ca”.

A La ngần ngừ nắm bàn tay chàng, thấy một luồng lực lớn xộc đến, người đã được kéo lên ngựa nhẹ tênh. Chàng ta cũng biết võ công? A La bất giác nhướn mày, hiệp khách giang hồ thời cổ đại sao mà nhiều đến thế.

Tử Ly cười: “Ngồi cho vững!”. Khẽ huýt một tiếng, con ngựa tung vó lao đi. A La nhắm mắt cố không để tiếng hét vọt ra khỏi miệng, tay nắm chặt cương, người hơi ngả về sau, cả người đã rơi vào lòng Tử Ly. Hơi thở nóng hổi trên đỉnh đầu, một giọng trầm dịu vang lên: “Đừng sợ, có đại ca ở đây, không rơi được đâu”.

A La dở khóc dở cười, huynh nói không sợ là không sợ hay sao. Nàng vẫn cứng người, toát mồ hôi lạnh, mỗi lần ngựa lồng lên là nàng hồn siêu phách lạc. Nhìn mọi thứ bên đường như bay về phía sau, cuối cùng nàng hét lên: “Đại ca, chậm một chút có được không!”.

Tử Ly nghe giọng nàng run run, biết đây là loại công tử nhà giàu được nuông chiều, nhát gan chưa bao giờ cưỡi ngựa. Nhìn thấy đã vào cửa thành phía đông, liền cho ngựa đi chậm lại: “Sơn đệ, bây giờ tốt rồi, để ngựa đi nước kiệu, đệ có thể cưỡi ngựa ngắm phố phường”.

Lúc này A La mới ngồi thẳng người, nhìn thấy con đường trước mặt có lẽ rộng đến hai, ba chục thước, thỉnh thoảng có cỗ xe ngựa đi qua cũng không cần tránh, dưới chân, mặt đường phẳng phiu, lát đá tảng xanh trơn nhẵn. Từ chỗ này có thể nhìn thấy khí thế của Phong thành. Hai bên đường vô cùng náo nhiệt, các quán ăn, bán đồ vặt, chỗ xem bói, chỗ vui chơi, tiếng hò reo không ngớt. Nhà cửa nhìn chung đều là lầu gác hai, ba tầng, dựng men theo mặt đường, san sát chen nhau. Dưới lầu là cửa hiệu, trên lầu hầu như đều là tửu quán hoặc trà quán, trên đường nam thanh nữ tú, tốp năm tốp ba qua lại tấp nập.

Tử Ly thúc ngựa đi về hướng nam, vào một con phố hẹp. Ở đây toàn những tòa lầu biệt lập, cây cối xanh um bao quanh một tòa lầu nhỏ. Đi đến trước một tòa lầu, A La ngước mắc nhìn thấy ba chữ màu đen nổi bật - “Thiên phong lầu”, biết là đã đến nơi. Tử Ly xuống ngựa, đón A La. Đi vài bước, cảm thấy mông hơi mỏi, không chịu nổi lấy tay khẽ xoa, thấy Tử Ly nhìn mình nửa cười nửa không, cảm thấy có phần tủi thân: “Đại ca phóng ngựa nhanh quá”.

Tử Ly nén cười: “Là đại ca không phải, xin lỗi tiểu đệ”.

A La bạo dạn, nói: “Tha cho huynh, ai bảo đệ không biết cưỡi ngựa”. Trước đây nàng chỉ ngồi lên ngựa có người dắt đi dạo trong những khu vui chơi, đương nhiên khó thích nghi khi ngựa phi như bay. Nghĩ tới sau này có thể có nhiều cơ hội cưỡi ngựa, bèn nói: “Hôm nào đại ca dạy đệ cưỡi ngựa được không?”. Tử Ly gật đầu, cảm thấy Sơn đệ này tính tình xởi lởi, lại thêm phần quý mến.

Hai người đi vào Thiên phong lầu. Tiểu nhị mắt sáng lên. Hàng ngày đón khách ở đây, dần dần cũng biết nhận định con người. Khách đến Thiên phong lầu đa phần thuộc hạng giàu sang. Hai người này, người cao phong độ quý phái, người thấp hơn có lẽ cũng là tiểu công tử nhà giàu. Vậy là tiểu nhị bước lên ân cần chào hỏi: “Xin mời hai vị công tử lên lầu”.

A La nhìn thấy phòng lớn ở dưới lầu không hề có bàn ghế, chỉ có vài quầy trà bằng gỗ mun. Trên tường treo mấy bức tranh chữ sơn thủy, rất văn hoa. Bụng nghĩ ông chủ đã lãng phí tầng một, món ăn lầu hai chắc là rất đắt.

Lên lầu, có những tấm bình phong ngăn cách các bàn, cũng có những phòng riêng. Tử Ly chọn một phòng riêng, đợi A La ngồi xong, nói: “Ở đây nói chuyện yên tĩnh hơn”.

A La gật đầu, ngồi bên cửa sổ ngắm cảnh bên ngoài. Nghe tiếng Tử Ly nói với tiểu nhị: “Nghe đồn Thiên phong lầu có ba món đặc sắc, ba loại rượu đặc sắc, hôm nay lần đầu đến đây, mong không để bọn ta thất vọng”.

Tiểu nhị cười hề hề gật đầu: “Công tử lần đầu đến đây sao? Vậy nhất định phải thưởng thức tài nghệ của đầu bếp chỗ chúng tôi".

Một lát sau, món ăn được đưa lên, A La nhìn, đậu phụ, rau cải, cà tím xào cay, không hề có thịt. Lại nhìn Tử Ly, chàng ta mỉm cười lắc đầu tỏ ý bản thân cũng chưa ăn. A La thầm nghĩ, càng chay tịnh càng khó làm, dùng đũa gắp miếng đậu phụ nếm thử, còn chưa kịp nhận xét đã thấy Tử Ly khen: “Ngon, đậu phụ rất mịn, vẫn giữ nguyên vị thuần khiết của đậu, nuốt xuống cổ vẫn còn thơm”.

A La vội nếm món rau cải và cà tím, thấy Tử Ly miệng khen hết lời, những là khoái khẩu mỹ vị, không nén nổi, hỏi Tử Ly: “Đại ca, món này có gì ngon?”. Nàng ăn thử lại thấy rất bình thường.

Tử Ly nói: “Lẽ nào khẩu vị của Sơn đệ khác người? Bữa ăn trong phủ món đậu phụ đâu còn vị nữa, thảo nào tiểu vương gia phủ An Thanh vương khoe rằng, muốn nếm vị đậu phụ thuần khiết, chỉ có đến Thiên phong lầu”.

A La vừa nghe thấy ba chữ “tiểu vương gia” tập tức bật ho, uống một ngụm trà cho bình tĩnh lại, mới nói: “Đại ca rất thân với Lưu Giác?”. Lòng bỗng sợ hãi vô cùng, sợ nhất vị đại ca mới quen này là bằng hữu thân thiết của Lưu Giác, mình cũng bị đưa đến ra mắt hắn ta.

Mắt Tử Ly thoáng vẻ hồ nghi, nhưng giọng vẫn bình thường: “Không thân lắm, có gặp vài lần. Sơn đệ quen hay sao?”.

“Có gặp ở Đào hoa yến”. Nhìn ba món ăn nổi tiếng của Thiên phong lầu trước mặt, A La vội chuyển chủ đề: “Đệ nghĩ chắc là Thiên phong lầu nhằm vào đám thực khách nhà giàu chán ngấy sơn hào hải vị, cho nên mới chế những món chay tịnh để thay đổi khẩu vị. Những thứ này, quả thật chẳng ra gì”.

Nghe A La nói vậy, một nụ cười hiện lên môi Tử Ly. Thấy nàng lắc đầu bĩu môi, ánh mắt lóng lánh, thật cuốn hút. Thầm nghĩ, nếu mình thích đàn ông, nhất định sẽ đưa tiểu tử này đi. Rồi bất chợt nghĩ đến tiếng sáo ngắn ngủi sáng nay. Dạo trước có lần ngẫu nhiên nghe thấy tiếng sáo bèn cùng hợp tấu, tiếng sáo ngày càng hay, kỹ năng cũng càng thuần thục, để cuối cùng như ẩn chứa bao tâm tư. Chàng thích dùng tiếng tiêu để giao lưu với tiếng sáo đó, để cảm nhận những biến thiên cõi lòng của người thổi sáo, cho nên, buổi sáng mỗi ngày chàng đều chờ ở bên sông. Không ngờ tiếng sáo hôm nay rất ngắn ngủi, rồi lại gặp tiểu huynh đệ dung mạo khôi ngô, hoạt bát mà tiếng sáo rất giống tiếng sáo bên trong bức tường kia, tự dưng thấy muốn thân thiện gần gũi.

Tử Ly ngẫm nghĩ, uống liền mấy chén tam tuyệt tửu. Lúc này lại nhìn A La, đột nhiên nghĩ đến con báo gấm có lần chàng bắn sổng, mắt cũng lóng lánh tinh ranh như vậy. Thầm nghĩ, tiểu tử này nếu nước da trắng hơn, e phụ nữ cũng phải ghen tỵ.

A La vừa nhận xét như vậy, lại thấy Tử Ly ngồi ngơ ngẩn, bèn hỏi: “Đại ca, nếu có cơ hội, tiểu đệ xuống phủ làm mấy món hầu đại ca, đảm bảo đại ca thấy ngon không nỡ ăn”.

Tử Ly như tỉnh mộng, cười: “Coi thường tam tuyệt của Thiên phong lầu, Phong thành này chỉ có tiểu đệ là một”.

A La kinh ngạc: “Thật không? Đệ thấy Phong thành phồn hoa như vậy, lẽ nào ẩm thực lại kém thế?”.

Tử Ly tò mò hỏi A La: “Đệ không phải là người Phong thành?”.

“Đây là lần đầu đệ xuất phủ, lần đầu dùng bữa ở tửu lầu. Cơm ở phủ nhà đệ ăn vẫn còn khá hợp khẩu vị”. Bữa ăn bình thường ở Đường viên, vú Trương và thất phu nhân thay nhau vào bếp. Thỉnh thoảng cũng cùng ăn với mọi người trong đại gia đình tướng phủ, nhưng tâm trạng nơm nớp không dám gắp nhiều, cảm thấy bếp lớn kém xa bếp nhà, cứ tưởng Lý lão gia lạnh nhạt với Đường viên, nên không chiêu đãi tử tế. Không ngờ hôm nay đến Thiên phong lầu, được nếm cái gọi là tam tuyệt lại nguyên sơ chay tịnh như vậy!

Tử Ly lại nói: “Thiên phong lầu lấy món chay là chính, cũng được coi là tửu lầu có tiếng nhất Phong thành. Có lẽ tài nấu ăn ở tư gia Sơn đệ rất cao minh?”.

A La nghĩ một lát, nói: “Đại ca, lần sau có thể đưa tiểu đệ đến những tửu lầu có tiếng khác được không? Thưởng thức món ăn là đệ nhất thú vui của tiểu đệ”.

Tử Ly nhìn đôi mắt sáng ngời, vẻ cầu khẩn trước mặt, không kịp nghĩ, gật đầu: “Sơn đệ, đệ có biết khi đệ nhìn người khác với ánh mắt như vậy, sẽ không một ai có thể từ chối đệ?".

A La đỏ mặt, cúi đầu. Tử Ly mỉm cười: “Nếu ta có một tiểu đệ như vậy, muốn gì ta cũng cho. Sơn đệ, Tử Ly này rất thích đệ gọi ta là đại ca”.

Dùng bữa xong, trả tiền, tiểu nhị nói: “Mười ba lạng”.

A La nhảy dựng lên, kinh ngạc “Ba... ba cái món này mà nhiều bạc thế ư?”.

Tử Ly nhìn nàng cười: “Không đắt, Sơn đệ!”. Đoạn móc túi đưa ngân lượng cho tiểu nhị.

A La đi khỏi tửu lầu, ngoái đầu nhìn. Coi như đã biết tại sao lầu một không bày bàn ăn, tầng hai khách ít cũng không sao. Một bữa ăn ở đây bằng chi ăn cả tháng của Đường viên, vậy mà còn kêu không đắt? Thật không thể hiểu được. Lại nghĩ, nếu mở một tửu lầu như thế, chẳng phải kiếm bộn tiền hay sao?

Ra khỏi Thiên phong lầu, Tử Ly đứng yên ngẫm nghĩ, đoạn cười nhạt: “Tam tuyệt tửu ngấm lâu, uống thêm vài chén vì đệ, hơi chếnh choáng, ta đi bộ cho tỉnh được không?”.

A La gật đầu. Tử Ly dắt ngựa, hai người tản bộ về hướng nam, vừa rẽ vào con ngõ, đột nhiên có mấy kẻ bịt mặt, tay cầm dao xông ra, không nói không rằng, tay dao lăm lăm xông vào hai người.

Tử Ly đẩy A La về phía sau lưng, tay phải không biết lấy ở đâu ra một thanh kiếm lao vào đấu với mấy kẻ bịt mặt. A La nhìn hoa cả mắt. Nàng tập Karate đã nhiều năm, nhưng chứng kiến cảnh đao kiếm đánh giáp lá cà như vậy cũng không quen, chỉ thấy tay mình bị Tử Ly xiết chặt. Chàng vẫn bảo vệ nàng. A La né phải né trái theo chàng; dần nhận ra đường kiếm, bỗng tay kia nắm lấy Tử Ly, mượn lực lấy đà vọt lên tung cú song phi khiến một tên đang cầm đao lao tới, ngã nhào.

Tử Ly nhìn nàng một cái, mắt lộ vẻ kinh ngạc, nhân cơ hội lao vào vung kiếm lia lịa, đoạn tránh một bên, kéo A La nói nhỏ: “Lên ngựa!”.

Chàng tung người nhảy lên lưng ngựa, đột nhiên thấy eo đau buốt, cả người đổ xuống, A La cũng ngã theo. Bất chấp mông đau ê ẩm, nàng chạy đến bên Tử Ly: “Đại ca, sao thế?”.

Tử Ly đột nhiên bật cười: “Tiểu đệ ngốc, sao không cưỡi ngựa đi đi?”. Trong hơi thở gấp, mặt đã xanh tái, chàng nói nhỏ: “Trên yên có cắm kim độc”.

Những kẻ bịt mặt lúc này từ từ áp sát, một tên cười sằng sặc: “Nếu không dùng kế đó, mấy người bọn này, sao địch nổi đại ca?”.

A La sợ hãi, nhưng bất chấp, nhảy ra đứng chắn trước mặt Tử Ly, phẫn nộ hét: “Bí ổi thế mà vẫn cười được? Đưa thuốc giải độc ra đây!”. Dù mạnh mồm như thế, nhưng bụng thầm cầu khấn: Đừng giết ta!

Mấy kẻ bịt mặt nhìn tiểu công tử áo gấm, cười nhạo: “Tiểu công tử kháu trai, lần này thu hoạch to rồi đây. Công tử lui ra, nếu không máu vọt ra công tử lại sợ chết khiếp!”.

A La ngoái nhìn Tử Ly, mặt chàng vẫn cười cười: “Đại ca, đại ca cố lên!”. Nói đoạn, dắt ngựa lại gần, giật yên ra, cố sức xốc Tử Ly lên: “Đại ca, đệ đỡ ca, đại ca cố lên ngựa đi!”.

Mấy kẻ bịt mặt càng cười to: “Tiểu công tử, công tử đỡ được sao? Có cần đại ca này giúp không?”.

A La lườm chúng, quay đầu nhìn Tử Ly, mặt chàng hơi xanh, nhưng vẫn như cười, người lại hơi nhũn ra. A La biết chàng không thể lên ngựa, bèn buông dây cương vỗ vào mông thả cho ngựa đi, hy vọng có kỳ tích xảy ra, kiểu như ngựa quen đường, dẫn cứu binh đến. Nàng dìu Tử Ly đến ngồi dựa vào chân tường, lúc đó một người bịt mặt cười, nói: “Ngõ cụt làm gì có ai qua, đây nói thật, hôm nay chúng mày có cánh cũng không chạy thoát”.

A La nhắm mắt, vọt người lên cao. Tên bịt mặt ngớ ra, không biết nàng định làm gì. A La khởi động mấy nhát dừng lại, cởi phắt áo choàng, lạnh lùng nhìn tên bịt mặt: “Đã lâu không đánh nhau, các người định lần lượt từng người hay cả đám?”. Trong bụng không dám chắc, nhưng không thể ngồi giương mắt chờ chết, cho nên quyết liều một phen.

Một trận cười rộ lên, có kẻ múa dao xông đến, cười to: “Không ngờ ta có phúc đến thế, nào để đại ca ôm công tử đã”. Không đợi gã lại gần, A La tung chân đá trúng đầu gã, rồi xoay người, tay phải chém vào lưng gã, chỉ nghe tiếng xương gãy rắc một tiếng, tên bịt mặt đổ xuống.

Nàng cố giữ cho thân người linh hoạt, nhảy sang phải, né sang trái, thỉnh thoảng vung tay chém một nhát, tự mình cũng thấy tay đã hết lực. Chỉ nghe thấy Tử Ly kêu lên, đứng dậy, đẩy nàng về sau. Lúc đó không biết từ đâu, tên bay đến rào rào, những kẻ bịt mặt kêu lên thảm thiết từ từ ngã gục.

Liền sau đó, mấy người từ trên tường nhảy xuống, quỳ sụp trước mặt Tử Ly, hoảng hốt: “Thuộc hạ đến chậm, xin chúa công trách tội!”.

Tử Ly nhìn họ: "Đứng lên đi!”.

Mấy người nhanh nhẹn khiêng những xác chết đi, lau sạch vết máu trên đất, tất cả đều làm nhanh chóng gọn gàng. Lát sau trong ngõ đã như không xảy ra chuyện gì. Ngay sau đó có tùy tùng dắt ngựa đến, đứng hầu một bên.

A La kinh ngạc nhìn cảnh tượng trước mặt, miệng thở hổn hển, tay vẫn còn run, trời ơi, chuyện gì thế này? Quay đầu nhìn thấy Tử Ly mặt như cười, bèn hỏi: “Đại ca không trúng độc sao?”.

Mắt Tử Ly cười: “Chút độc đó, một lát là hết. Huống hồ, kẻ mọc cánh cũng không thoát chính là bọn chúng!”.

A La mới hiểu tại sao vừa rồi Tử Ly không hề tỏ vẻ lo lắng, lòng hơi buồn, mình vẫn nghĩ về con người ở đây đơn giản quá. Băn khoăn hỏi Tử Ly: “Vậy đại ca còn đứng nhìn đệ bị đâm? Thật thiếu nghĩa khí! Không nhận là đại ca nữa! Sau này đừng nói chúng ta quen nhau, coi như ta ngốc nghếch một phen”. Nói xong nhặt áo choàng bỏ đi.

Tiếng Tử Ly vang lên đằng sau: “Vừa rồi sao đệ không cưỡi ngựa bỏ chạy?".

A La quay đầu lườm chàng: “Không phải không muốn cưỡi, mà ta bị ngã xuống!”.

Tử Ly mỉm cười: “Đệ có thể đi, bọn chúng đâu có muốn mạng của đệ!”.

A La càng giận: “Không nghe bọn chúng nói đệ là tiểu công tử xinh đẹp hay sao? Đệ muốn cũng không đi được! Cáo biệt, sẽ không gặp lại nữa!”.

Đi được mấy bước, Tử Ly đã đuổi kịp: “Có muốn học cưỡi ngựa không?”

A La không thèm nghe, Tử Ly lại tiếp: “Có muốn thử tất cả sơn hào hải vị của Phong thành không?”.

A La vẫn không thèm, Tử Ly lại than vãn: “Ta chỉ muốn xem võ công của đệ mà thôi. Đòn tung chân của đệ rất lợi hại, ta biết đệ có luyện công. Nếu đệ nguy cấp, ta nhất định ra tay, ta không ra tay, thị vệ của ta cũng ra tay. Thế này nhé, đệ cần gì nói đi, nếu làm được nhất định ta sẽ giúp”.

A La dừng lại, người này xem chừng chỉ có một mình, nhưng lại có thị vệ võ nghệ giỏi như vậy ngầm bảo vệ, thân thế chắc chắn không đơn giản, không thể đắc tội được. “Thật không?”.

“Thật”. Tử Ly mỉm cười.

A La lại hỏi: "Huynh rất giàu phải không?”.

Tử Ly cau mày: “Coi như thế đi!”.

A La cười: “Có tiền là được, liệu đệ có thể hỏi, cần bao nhiêu bạc có thể mua được Thiên phong lầu?”.

Tử Ly cười: “Đệ muốn Thiên phong lầu?”.

A La lắc đầu. Tử Ly ngẫm nghĩ, nói: “Một vạn ngân lượng”.

A La hỏi: “Nếu muốn mua một ngôi nhà ở Phong thành, cần bao nhiêu bạc thì đủ?”.

Tử Ly cười: “Mấy trăm lạng là có thể mua được một chỗ vừa vừa, thườngdân sống tằn tiện nhất, thì năm mươi đến một trăm lượng là có thể đủ chi trong vòng một năm”.

“Vậy mấy món vừa rồi đã ăn hết chi tiêu một tháng của thường dân!“, A La cảm thấy ở đây sự chênh lệch giàu nghèo quá lớn.

Tử Ly vẫn mỉm cười: “Mua một a đầu chỉ cần hai chục lượng”

A La nói: “Đệ cần một ngàn lượng, đại ca có thể cho đệ không?”

Tử Ly nhìn nàng vẻ lạ lùng: “Đệ cần một ngàn lượng để làm gì?”.

A La nói: “Để trả công cho đệ! Cứu mạng huynh, đệ đã suýt mất mạng! Mạng của huynh đáng giá một ngàn lạng chứ!”.

Tùy tùng đứng bên phẫn nộ: “Dám hạ nhục chủ nhân bọn ta?".

Tử Ly nhìn bọn họ, bọn tùy tùng cúi đầu không dám nói, nét mặt vẫn hậm hực. A La hỏi: “Chê ta mua rẻ chủ nhân các người sao? Vậy thì hai ngàn lượng vậy”.

Tùy tùng không dám mở miệng, nhưng mặt đỏ phừng phừng. Tử Ly cười: “Đệ muốn kinh doanh ẩm thực như Thiên phong lầu?”.

A La cười: “Đệ không tham lam, hai ngàn lượng, chúng ta ân oán rạch ròi, sau này không ai nợ ai”.

Tử Ly nhìn nàng chằm chằm: “Hay là đệ giận ta đã có chuẩn bị lại không ra tay?”.

A La cười: “Đệ biết võ công, lại vừa quen nhau, huynh nghi ngờ cũng không phải là lạ. Nhưng đệ không thích”.

Tử Ly vừa giơ ngón tay ra hiệu, tùy tùng đưa ra một bọc bạc, chẳng buồn nhìn trao ngay cho A La. A La mở ra đếm đủ hai ngàn lượng, trả lại số bạc thừa, xong xuôi quay người bỏ đi.

Khi sắp ra khỏi con ngõ, nghe thấy tiếng vó ngựa sau lưng, chưa kịp phản ứng, một cánh tay đã vung ra, nhấc bổng nàng lên ngựa. Tử Ly cười: “Ta tiễn đệ về, nhà đệ ở đâu?”.

A La lúc này đã kiệt sức, thấy của cho không, nên cũng không từ chối, nói: “Đưa đệ đến chỗ ta gặp nhau là được”.

Tử Ly không nói gì thêm, ra roi thúc ngựa đi về hướng đông, vòng đến bờ sông.

A La xuống ngựa đi thẳng, Tử Ly kéo lại, tháo miếng ngọc bội trên thắt lưng đưa cho nàng: “Sau này có chuyện gì, cứ đến Hưng Nguyên quán trong thành tìm chủ quán, đưa cái này nói là của Tử Ly công tử cho đệ”.

A La nghĩ ngợi rồi cầm miếng ngọc bội.

Tử Ly lẳng lặng lên ngựa, ra roi phóng đi. A La đi đến bên tường bao tướng phủ, nhìn quanh không thấy ai, bèn lấy sáo thổi ám hiệu. Lát sau Tiểu Ngọc xuất hiện ở đầu tường.

Trở về nhà toàn thân A La rã rời, chỉ muốn tắm nước nóng. Thất phu nhân thấy nàng mệt như vậy nên cũng không hỏi nhiều.

A La ngâm mình trong bồn nước nóng, thật dễ chịu, đầu óc bắt đầu hoạt động. Tử Ly công tử thân thế phi phàm, thủ đoạn ra tay cũng khác thường này rút cục là người thế nào? Nhìn cách quản thuộc hạ của chàng ta, có vẻ rất có tài quản !ý. Nghĩ lại nàng lại thấy tức khí, mất công đánh nhau một trận, để cho người ta đùa bỡn như con khỉ, nếu mình không biết karate, Tử Ly cũng không ngồi đợi chết. Người ở đây sao ai cũng cáo già thành tinh như vậy, không một ai đơn giản.

Điều mừng nhất là kiếm được hai ngàn lượng bạc, lại còn được tặng miếng ngọc bội khi cần sẽ được giúp đỡ. Đây đúng là bảo bối, chưa biết chừng có ngày phải đến cầu cứu Tử Ly. Chàng ta sẽ giúp mình, không biết tại sao, nàng rất tin lời Tử Ly.

Tắm xong, A La đưa bạc cho thất phu nhân giữ. Thất phu nhân kinh ngạc hỏi: “Sao đi có một ngày mà kiếm được nhiều bạc thế? Tam Nhi, không phải con lại đánh ngất người ta rồi cướp tiền chứ?”.

A La cười hớn hở: “Hôm nay đánh ngất mấy người. Con cứu được một người, đây là bạc người đó trả ơn, nguồn gốc tuyệt đối minh bạch. Mẹ à, chúng ta mua nhà bên ngoài được không? Con nghĩ bạc đủ rồi”. Nàng đã tính, định trốn khỏi tướng phủ, nhất định phải có chỗ nương thân.

Thất phu nhân cũng đồng tình: “Ý này rất hay, nếu có ngày chúng ta rời tướng phủ, phải có chỗ nương náu. A, nghe nói hoàng hậu đã hạ chỉ, triệu nội quyến ngày rằm vào cung thưởng nguyệt. Có lẽ là người muốn xem mặt Thanh Lôi, định rõ đã tuyển được thái tử phi”.

CHƯƠNG 6

Đại sảnh trong tướng phủ đèn đuốc sáng rực thâu đêm, chỉ những khi phủ có việc trọng đại mới thấy cảnh tượng long trọng linh đình như thế. Khi thất phu nhân đưa A La vào đại sảnh, mọi người đều đã tề tựu đông đủ. Nàng vẫn ngồi bên thất phu nhân ở cuối dãy ghế bên phải, lắng nghe bề trên chỉ giáo. Lý tướng hắng vài tiếng cho trong giọng rồi cất lời: “Rằm tháng tám này hoàng hậu có ý triệu nội quyến các quan tam phẩm trở lên vào cung thưởng nguyệt, lại còn nói rõ muốn xem tiểu thư các nhà trổ tài. A Lôi, A Phỉ, A La, các con thấy thế nào?”.

A La ngớ người, “các con thấy thế nào”, còn thế nào nữa, chẳng phải bề trên nói sao là vậy ư? Ông thân làm tả thừa tướng, không có người nối dõi, chẳng phải rất mong bán mỗi con gái sao cho thật đắt hay sao, mưu đã tính sẵn từ lúc các con còn nhỏ, tuyên bố là xong, hỏi như vậy là có ý gì? Nàng nhất thời không tìm ra ý đồ thật sự của Lý tướng. Ưu tú nhất nhà đương nhiên là đại tỷ, nhị tỷ, còn nàng vui lòng lên tiếng sau cùng.

Thanh Lôi nhẹ nhàng: “Cha không định để con tiếp tục chơi đàn nữa chứ? Khuê nữ mọi nhà mười người có đến tám người chơi đàn, ngón đàn của con ngang ngửa Cố tiểu thư. Những ngày vừa qua được thái tử điện hạ càng thêm mến mộ, si mê, không cần chơi đàn nữa cũng được”. Thấy tình cảm của thái tử đối với mình mười phần chắc chắn, khẩu khí của Thanh Lôi đã có vẻ kiêu kiêu tự đắc.

Mắt Lý tướng lộ ra nụ cười, xem ra ông cũng không định để Thanh Lôi lại thể hiện ngón đàn. Dù biết rõ tâm tư của thái tử đã đặt vào Thanh Lôi, hoàng hậu chẳng qua tức khí vì cháu gái Vương Yến Hồi chưa kịp đua tài đã bị loại. Lý tướng mỉm cười, nói: “Lần thưởng nguyệt này, hoàng hậu có ý để tiểu thư Yến Hồi vãn hồi một phen, chủ đề so tài có lẽ sẽ không phải là những trò giải trí như đàn, hát".

A La đột nhiên vỡ lẽ, Lý lão gia vốn đã tính đến điều này, triệu tập cả nhà là muốn mọi người cho ý kiến, để Thanh Lôi có thể thắng Vương Yến Hồi, danh chính ngôn thuận trở thành chủ nhân Đông cung.

Đại phu nhân chậm rãi lên tiếng: “Vương Yến Hồi ta đã gặp từ nhỏ, thường đi theo cha là Vương thái úy, lớn lên trong quân doanh, thông thuộc binh thư, am tường binh pháp. Năm xưa khi ta được gả vào tướng phủ không lâu có về thăm nhà, đúng lúc Vương thái úy mời, ta được cha đưa đến phủ thái úy. Khi đi dạo một mình trong hoa viên, không tìm thấy lối ra, lúc đó một nữ đồng ba tuổi từ trên cây nhảy xuống vỗ tay cười nói: “Mê hồn trận mà sách xưa nói thì ra cũng có cái hay”, ta hiếu kỳ hỏi, có phải hoa viên bố trí theo trận pháp, cô bé cười hớn hở nói, đọc sách thấy viết như vậy, bèn thử bày bố trong hoa viên xem sao. Ta không thể tin nổi, đứa trẻ mới ba tuổi, mà đã có thủ đoạn như vậy”.

Lý tướng tiếp lời: “Nay đã qua mười bốn năm, Vương Yến hồi đã mười bảy tuổi, nghe đồn mưu lược hơn người, thông minh tuyệt đỉnh, có lẽ không phải là lời đồn suông”.

Nghe xong câu chuyện, cả phòng lặng phắc như tờ. Nếu trong yến tiệc, hoàng hậu bảo Vương Yến Hồi hiến kế, thì đúng là không phải chuyện hay. Chưa biết chừng Ninh vương nghe vậy hiếu kỳ, muốn biết thái tử phi tương lai liệu có đầu to mà óc nhỏ. Bởi vì sau này thái tử đăng cơ, thái tử phi sẽ được tấn phong làm quốc mẫu. Thái tử sủng ái mỹ nhân nào có thể tùy tiện phong phi tử, nhưng quốc mẫu thống lãnh hậu cung, không mưu lược thủ đoạn e không được.

Lý tướng lại tiếp: “A Lôi, con chơi đàn rất hay, văn thơ cũng khá, bây giờ cũng không biết chuyện gì sẽ xảy ra trong yến tiệc, hôm nay cha chỉ nhắc con, khi đó phải linh hoạt cẩn trọng, vạn sự nên lấy hai chữ cẩn trọng làm đầu”. Ánh mắt chuyển đến Thanh Phỉ và Thanh La, “Mục đích vào cung lần này của hai con là giúp Thanh Lôi thuận lợi vượt qua cửa ải, luôn đi theo sát đại tỷ, cần ra tay vẫn nên ra tay, chỉ có điều nên thận trọng đừng để bị phát hiện! Phải ghi nhớ một điều, vinh cùng vinh, nhục cùng nhục! Cha già rồi, mọi hy vọng của Lý gia bây giờ đều trông cậy vào đại tỷ các con, hiểu chưa?”.

Mọi người đồng thanh “Rõ”, A La muốn cười không được, mối quan hệ xã hội của Trung Quốc mấy nghìn năm trước là thế, mấy nghìn năm sau vẫn thế. Dựa vào một con nhện nhả tơ dệt mạng, thêm mấy con khác liên kết thành mạng lớn, bè phái liên minh. Chỉ có điều mình ở trong đó chỉ muốn vùng ra, không muốn cùng họ mưu cầu vinh lợi, điều này cũng khác quan điểm tư tưởng hiện đại. Những thứ mà người trong tướng phủ cần không giống những thứ nàng cần.

Lại thấy Lý tướng hỏi Thanh Phỉ: “A Phỉ, bà mối của Thành thị lang đã đánh tiếng dạm hỏi, nhưng tỷ tỷ con chưa xuất giá, con đi trước cũng không hay, cha nghĩ nên đợi chuyện của tỷ tỷ con định đoạt xong xuôi rồi hãy tính”.

Tứ phu nhân vội trả lời: “Lão gia nói chí phải, nhà chúng ta dòng dõi thư hương, tuyệt đối không nên có chuyện thất lễ như vậy”.

A La thấy mắt Thanh Phỉ sáng lên rồi lại tối đi, biết ngay mẹ con họ bị Lý lão gia thừa cơ đánh vào điểm yếu. Thành thị lang kia hào hoa phong lưu, văn tài xuất chúng, tuổi còn trẻ mà đã làm quan cao, Thanh Phỉ gả cho chàng ta xem ra cũng xứng đôi vừa lứa. Chỉ có điều nhanh quá, nhanh chóng thành thân như vậy, trong thời hiện đại vẫn còn có người yêu đến chết đi sống lại, ở đây bỏ qua giai đoạn yêu đương, lấy nhau rồi có hối cũng không kịp. A La đã quyết rời khỏi tướng phủ, tuyệt đối không để cho Lý lão gia biến hôn nhân đại sự của mình thành cuộc buôn bán trao đổi, cho nên bây giờ vẫn nên ít tiếp xúc với những bậc anh tài thì hơn. Nghĩ đến những bậc anh tài, nàng đột nhiên nghĩ đến tiểu vương gia của phủ An Thanh vương và Tử Ly công tử thân thế bí hiểm. Người trước nàng trốn còn không kịp. Còn người sau, nàng lại thầm thở dài, chẳng phải đã được trả công sòng phẳng rồi sao?

Lý tướng cười khà khà: “Thành thị lang nói, kết thân với Lý gia ta quả thật là đã với cao. Khi nói như vậy vẻ mặt Thành thị lang rất phấn chấn, có thể cùng cánh với thái tử, tiền đồ của người ta cũng hanh thông”.

Vậy là điều đó đã được nói rõ ra rồi. Nếu Thanh Lôi được gả cho thái tử là Thanh Phỉ có thể thành thân với Thành Tư Duyệt, vận mệnh vẫn còn ở chỗ đại tỷ có đắc sủng hay không. Sao lại có một người cha đem con gái ra toan tính như Lý tướng chứ?

A La đang mãi nghĩ, thì nghe thấy Lý tướng cười nói với nàng: “A La tháng sau con đã mười ba tuổi rồi, đi xem xét mở rộng tầm mắt cũng tốt, con sớm muộn cũng được gả cho một đám tốt”.

Kế hoạch đã nhanh chóng chuyển sang nàng vậy sao? A La cúi đầu trả lời: “Con còn nhỏ, vẫn muốn sống với cha mẹ vài năm nữa”.

Lý tướng cười: “Cha cũng không muốn xa con, nhưng cứ định sẵn hôn sự, đến tuổi cập kê tính chuyện cũng không muộn”.

A La cúi đầu ra bộ xấu hổ, sự phẫn nộ trong lòng lại bùng lên. Nàng sẽ không nghe theo sắp đặt của ông ta, tuyệt đối không!

Mấy ngày liền, A La không đến rừng trúc thổi sáo. Nghe tiếng tiêu vẳng lại, ngẫm nghĩ một hồi vẫn quyết định không lên tiếng. Tiếng tiêu mỗi lúc càng thêm âu sầu. Có một hôm cuối cùng không chịu nổi, nàng trèo qua tường nấp vào một chỗ nhìn ra, từ xa thấy bóng dáng tiêu sơ của Tử Ly công tử ngồi bên gốc liễu ven sông. A La cảm thấy không nỡ, nhưng vẫn không chịu ra. Mục tiêu hiện nay của nàng là cuộc sống tự do ngoài phủ, kiểu đàn ông ưu tú bí hiểm này vẫn nên ít tiếp xúc thì hơn.

Lại qua mấy ngày, không thấy tiếng tiêu nữa. Liền mấy ngày A La nằm mơ, trong mơ nàng bay bổng trên bầu trời trong tiếng tiêu du dương của Tử Ly. Sau đó nàng ra khỏi phủ nhưng không đến bờ sông, miếng ngọc bội Tử Ly tặng nàng cũng cất vào một chỗ.

Sinh nhật mười ba tuổi của A La thoắt cái đã qua, nàng vẫn lén trốn khỏi phủ, đã tìm mua được hai gian nhà ở đông nam kinh thành, hai nhà chỉ cách nhau một bức tường, thuê người lén xây một cái cửa bí mật thông nhau. Ngôi to hơn nàng đã thuê quản gia, mua mấy thứ đồ dùng, nàng có thể lộ mặt với tư cách tiểu thiếu gia, chỉ dặn họ, nói là để có chỗ nghỉ ngơi mỗi khi vào thành buôn bán. Ngôi nhà nhỏ hơn, nhờ một đôi vợ chồng hiền lành trông coi, để cho vú Trương đứng ra giao dịch, nói là của một người bà con sinh sống ở phương nam muốn sau này trở về cố hương, nên đã chuẩn bị trước.

Lại một tháng nữa trôi qua, trời thu xanh thẳm. Dạ yến thưởng trăng do hoàng hậu mời đã đến.

Lý phủ, người trên kẻ dưới đều tất bật quay quanh Thanh Lôi, bàn tính nên vận trang phục thế nào, dùng đồ trang sức gì, trang điểm ra sao. Lý tướng đã dặn, bữa tiệc này hết sức đặc biệt, không thể ăn vận giản dị, nhưng cũng không được quá hào nhoáng cầu kỳ. Lý tướng định vời một sư phụ may y phục nổi tiếng nhất Phong thành của phường Ngọc cẩm đến tận nhà cắt may y phục cho Thanh Lôi. Sau lại nghe tin các nhà khác hầu như cũng mời vị sư phụ này, nên lại thôi. Đang lúc bối rối, nhị phu nhân, ngũ phu nhân, lục phu nhân lại mủm mỉm cười, bê ra một bộ y phục lộng lẫy, nói đó là chút lòng của ba người.

Giở ra xem, chất liệu bằng lụa hương la, có thêu những bông hoa mai Thanh Lôi yêu thích nhất bằng những sợi chỉ tơ óng ánh, trong nhụy mỗi đóa hoa đều đính một hạt đá hồng bảo. Không đặc biệt hào nhoáng nhưng tỏa sáng rực rỡ dưới ánh dèn. Thanh Lôi mặc lên người rất mực yểu điệu phú quý, kiều diễm vô song. Lý tướng mừng đến độ mấy ngày liền lần lượt đến phòng các phu nhân kia để tỏ ý khen ngợi.

Thất phu nhân đưa đồ trang sức gia truyền cho Thanh Lôi đeo. Tứ phu nhân sợ mình lạc hậu, cẩn thận vẽ mấy kiểu trâm cài để Thanh Lôi tham khảo.

Trở về Đường viên, thất phu nhân cười nói với A La: “Con có muốn ngày mai đẹp hơn đại tỷ không?”. A La xua tay: “Con còn đang tiếc không được hóa trang theo kiểu a hoàn lần nữa để nâng váy cho đại tỷ. Mẹ à, chúng ta cũng nên làm chút gì, nếu không cha và mấy phu nhân kia sẽ không vui. Lúc này không nên làm bất cứ chuyện gì để ông ấy nghi ngờ”.

Thất phu nhân cười, nói: “Đương nhiên rồi, những gì cần làm mẹ sẽ làm”. Thất phu nhân tự tay chải đầu đeo đồ trang sức cho Thanh Lôi theo mẫu vẽ đã chọn. Dưới bàn tay khéo léo của thất phu nhân, khi Thanh Lôi bước ra, mọi người trong Lý phủ đều ngây người sửng sốt. Thái tử phi lý tưởng có lẽ nên có dáng vẻ như Thanh Lôi, đoan trang quý phái mà vẫn yểu điệu dịu dàng. Khuôn mặt trái xoan của Thanh Lôi như tỏa hào quang, A La nghĩ, một Thanh Lôi như thế này cũng xứng với phong độ của thái tử. Không biết Cố Thiên Lâm và Vương Yến Hồi trang điểm thế nào, nàng quả thật rất hiếu kỳ.

Để làm nền cho nhân vật chính, Thanh Phỉ và Thanh La không trang điểm nhiều, chỉ đủ xứng với thân phận, cũng xiêm y mới, đồ trang sức mới. A La ngồi trước gương nói với thất phu nhân: “Mẹ à, không nên chải hất mái bờm của con, cứ để như mọi ngày là được”.

Thất phu nhân thở dài: “Tam Nhi, mẹ rất muốn trang điểm cẩn thận cho con”.

A La cười: “Sau này còn nhiều cơ hội, hôm nay không được. Con cũng muốn xem mình trang điểm tử tế trông sẽ thế nào. Mẹ của con đẹp thế này, A La có lẽ cũng không đến nỗi nào đâu”.

Thất phu nhân đột nhiên trở nên trẻ trung: “Mẹ thử trang điểm cho con, sau đó lau đi cũng được, để chúng ta tự ngắm thôi mà”.

A La cười hi hí: "Gọi Tiểu Ngọc ra cửa canh chừng, nhỡ có ai vào”. Hai người nhìn nhau cùng cười.

A La nghĩ đến đêm dạ hội với bạn bè ngày nàng mới vào đại học, cả khu ký túc nữ bận tíu tít, ai cũng thử váy áo, son phấn, trang điểm, náo nhiệt vô cùng. Bây giờ bọn họ, người ra nước ngoài, kẻ lấy chồng, có lẽ đều sống rất tốt. Đột nhiên nghĩ đến cha mẹ, bảy năm rồi, có lẽ họ cũng đã quen cuộc sống không có mình. Nghĩ vậy, hai hàng nước mắt ứa ra. Thất phu nhân thấy vậy thở dài hỏi: “Tam Nhi, con khóc ư?".

A La vội lau nước mắt: “Không có gì, chỉ không muốn đi dự tiệc mà vẫn phải đi”. Nói đoạn nhìn vào gương, sửng người. Sau khi chải hất mái bờm, vầng trán trong ngần, rờ rỡ tỏa sáng của nàng lộ ra hoàn toàn, một khuôn mặt hoàn mỹ như tạc bằng ngọc, cặp mắt to, rạng ngời long lanh ngấn nước. Khuôn mặt vẫn còn nét thơ trẻ nhưng đã lay động vô ngần, nàng không nén nổi giơ tay chạm vào người trong gương.

Thất phu nhân lại thở than: “Tam Nhi, bây giờ con đã khiến người ta nhìn không muốn rời, mấy năm nữa sẽ thế nào, đẹp quá cũng không phải chuyện hay”.

“Cho nên vừa rồi con mới bảo mẹ cứ để mái bờm che nửa mặt, con không muốn là hồng nhan bạc phận, rất khổ”. Nói xong lè lưỡi, khuôn mặt trong gương sinh động hẳn lên. A La nhìn mãi, quay đầu nói với thất phu nhân: “Mẹ à, sửa đi nào”.

Thất phu nhân chải lại đầu giúp nàng, hỏi: “Tam Nhi, sau này con muốn tìm một phu quân như thế nào?”.

A La ngẫm nghĩ, đáp: “Ít nhất cũng không phải là người thích con chỉ vì khuôn mặt này. Sau đó, là người có thể bảo vệ con, chỉ có một mình con, và không có quá nhiều phép tắc. À, có lẽ yêu cầu này quá cao rồi, ở đây không có đâu. Nhưng bây giờ con vẫn chưa nghĩ nhiều, giờ đây cả ngày con chỉ nghĩ một điều, làm sao không bị người ta ức hiếp là tốt rồi. Con sợ nhất là chết, động tý là chém đầu, đúng là xã hội phong kiến vạn ác”.

Thất phu nhân băn khoăn hỏi: “Xã hội phong kiến? Là cái gì thế?”.

A La cười: “Chính là cái đất nước này, mọi thứ xung quanh. Đại khái là như thế”. Nàng cười thầm, không thể dùng những từ ngữ hiện đại, kẻo lại phải giải thích mệt lắm.

Sau khi chải đầu, thay trang phục, A La lại ăn khá nhiều đồ ăn vặt, thấy sắp đến giờ, mới cùng đại phu nhân, Thanh Lôi, Thanh Phỉ lên xe ngựa vào cung dự tiệc.

Văn hào Victor Hugo đã từng miêu tả nhà thờ Đức bà Paris là một dàn nhạc giao hưởng bằng đá đồ sộ, kiến trúc là âm nhạc lắng đọng, mỗi phiến đá được lắp ghép tinh tế tạo nên kiến trúc đều là một âm phù tuyệt diệu, những tổ hợp kết phối khác nhau tấu nên những khúc nhạc khác nhau. Trình Tinh từng đến Cố cung ở Bắc Kinh, Cố cung ở Thẩm Dương, cung điện Bangkok ở Thái Lan, bảo tàng Louvre của Pháp, cũng đã nhìn thấy trường quay mô phỏng Tần cung, Hán cung, nhưng nhìn thấy vương cung Ninh quốc xây dựa vào núi lúc này vẫn không khỏi kinh ngạc thán phục. Từ quảng trường mênh mông dưới chân núi nhìn lên, cổ ngửa hết cỡ, mà dường như vẫn không thể nhìn hết vương cung trên núi.

Người sống trên đó, lên xuống không mệt hay sao? Nàng hỏi đại phu nhân: “Mẹ cả, vương cung nơi cao nhất là bao nhiêu? Người lên xuống núi liệu có mệt lắm không? Hơn nữa hình như lại còn có tuyết”.

Đại phu nhân nhìn nàng: “Cao nhất là lãnh cung, người trong đó khỏi cần xuống núi. Bây giờ nói cho các con biết, để các con vào cung không chạy lung tung. Kim điện chỗ vương thượng nghị sự tọa lạc dưới chân núi, lên một chút thực ra là một khe núi, hậu cung đều ở đó, chỉ hơi cao hơn một chút. Lên chút nữa là khu lưu trữ thư tịch, giặt giũ trang phục của vương cung, tiếp đến là ty tông nhân và lãnh cung, đỉnh của dãy Ngọc Tượng chính là hoàng lăng. Ngự hoa viên ở khe núi hơi chệch về phía tây nam, hôm nay hoàng hậu nương nương mở tiệc ở đó. Ngự hoa viên rộng vô chừng, các con nhất định không được chạy lung tung, đề phòng lạc đường gây họa, nhớ chưa?”.

Ba cô gái vội đáp: “Rõ ạ”.

Vào cửa cung, tất cả chuyển sang kiệu nhỏ. A La lén vén rèm nhìn ra, bầu trời một màu lam xám đang dần tối. Trong vương cung đèn thắp sáng như ban ngày. Đến cổng ngự hoa viên, mọi người xuống kiệu, A La kinh ngạc phát hiện mặt đường nhấp nháy phát sáng, giống như đèn ngầm dưới mặt đường thời hiện đại. Nàng lén lùi lại một chút, nhìn quanh không ai để ý, nhanh tay cúi xuống sờ, toàn là đá. Thầm nghĩ chắc là được lát bằng loại đá lân tinh, phát sáng mà không chói mắt, nàng bất giác thầm khen Ninh quốc đúng là biết hưởng thụ. Nhìn ra xa, toàn bộ ngự hoa viên như chìm trong biển ánh sáng.

A La nheo mắt, bỗng nhận ra những con đường trong vương cung tạo nên hình chim đại bàng. Khách được dẫn đến vị trí đã định dành cho từng phủ, nàng vừa nhìn hình họa thì phát hiện chỗ họ ngồi vừa đúng bộ phận đầu chim. Vừa rồi họ từ phía móng vuốt đại bàng tiến vào. Vậy hai bên đông tây đương nhiên là phần cánh chim. Đầu đại bàng rộng như vậy, hai cánh giương lên, ngự hoa viên thực sự rộng khủng khiếp.

Nhìn các cung nữ đi đi lại lại, A La thầm nghĩ, tỳ nữ mà đại phu nhân mang theo hôm nay là người khác, không phải Quyên Nhi. Lâu lắm không thấy Quyên Nhi, không biết vẫn ở chỗ đại phu nhân hay đã đi đâu, đành phải trông chờ vào mệnh của Quyên Nhi vậy. Nàng thở dài, một lần nữa tự nhắc mình phải thận trọng từng lời ăn tiếng nói, nếu không muốn rước họa vào thân.

Lúc này tân khách được mời đã lục tục kéo đến. Đối diện với bàn của A La có lẽ sẽ là chỗ của phủ Cố tướng. Ghế bên cạnh nàng có một thiếu nữ chừng mười mấy tuổi đang ngồi một mình trên ghế, thần thái ung dung, khuôn mặt nhìn nghiêng rất xinh đẹp, A La thầm đoán có lẽ là Vương Yến Hồi?

Hình như cảm thấy có người nhìn, cô nương đó nghiêng mặt nhìn A La mỉm cười, hai mắt lóe sáng. A La cũng cười tươi đáp trả, ánh mắt gặp nhau, bất chợt thấy chột dạ, có cảm giác hình như nàng ta nhìn thấu suy nghĩ của mình.

Thanh Lôi khẽ hắng một tiếng, thiếu nữ ngoảnh nhìn về phía đối diện, A La cũng ngoái đầu theo, đúng lúc nhìn thấy Cố Thiên Lâm đang dìu mẫu thân đi vào. A La suýt bật cười, Thanh Lôi và Cố Thiên Lâm đúng là kỳ phùng địch thủ, Thanh Lôi đêm nay đoan trang quý phái, Cố Thiên Lâm lẽ nào không thế. Hai người trang điểm gần giống nhau, chỉ có màu sắc y phục của Cố Thiên Lâm nhạt hơn, của Thanh Lôi đậm hơn. Y phục của Thanh Lôi thêu hoa mai, dưới ánh đèn, những hạt đá quý lóng lánh phát sáng, cả người cũng tỏa hào quang. Lại nhìn Cố Thiên Lâm, những đường chỉ thêu trên y phục hình như hơi đặc biệt, chúng phát ra ánh sáng rực rỡ giống như ánh lân tinh trong hoa viên. Lại nhìn Vương Yến Hồi, y phục không có gì đặc biệt, trên cổ đeo chuỗi ngọc minh châu quý giá, làm cho khuôn mặt có một vẻ dịu hiền đặc biệt.

Nếu trên đầu mỗi người có một ngọn đèn xạ quang thì tốt, giống như những quầng ánh sáng trên sân khấu. A La đột nhiên nghĩ đến Đức mẹ đồng trinh Maria, cúi đầu nén cười.

Nội thị hô: “Vương thượng, hoàng hậu giá đáo!”.

Khách vội rời khỏi chỗ quỳ sụp xuống, hô vạn tuế. Lúc đã yên vị, A La lén nhìn lên phía trước, Ninh vương tuổi trạc ngũ tuần, dung mạo rất giống thái tử, thời trẻ chắc cũng là một trang tuấn kiệt. Hoàng hậu đầu đội vương miện, xấp xỉ tứ tuần, dung mạo phóng khoáng, tầm vóc trung bình.

Thái tử đứng bên Ninh vương. Mắt đang nhìn về phía này, A La liếc sang bên, thấy mặt Thanh Lôi đỏ bừng, cúi đầu, rồi lại ngẩng lên, đã nhanh chóng trao cho thái tử ánh mắt e thẹn. A La thấy miệng thái tử mủm mỉm cười nụ.

Ninh vương nói: “Hôm nay hoàng hậu mở yến, quả nhân cũng chỉ là khách, xin mời hoàng hậu chủ trì”.

Hoàng hậu không từ chối, tạ ơn rồi nói: “Trung thu trăng tròn, rất hợp để thưởng lãm. Hôm nay chỉ cầu vui, không nói chuyện gì khác. Đã sớm mời các tiểu thư quý phủ chuẩn bị trổ tài, lúc này xin mời thể hiện mới không phụ một đêm đẹp thế này”.

Hai người họ đã thương lượng với nhau rồi. Hoàng hậu đưa ra trò chơi, cha con hoàng đế xem diễn để so sánh. A La nghĩ, trò hay sắp bắt đầu rồi đây. Lúc đó cung nữ đứng sau hoàng hậu bước ra dõng dạc tuyên: “Hôm nay nữ tài hội tụ, kính thỉnh chư gia đại diện lên bốc thăm tiết mục biểu diễn, hoàng hậu đã có chỉ, bất luận hay dở đều có thưởng, mỗi bàn lại có phiếu hoa, chư vị cô nương biểu diễn xong, tân khách có thể bình chọn anh tài, theo số phiếu hoa sẽ bình ra ba vị nữ tài đầu bảng”.

A La thầm kêu, đúng là cuộc thi nữ sinh thanh lịch thời cổ đại, mình trở thành giám khảo quần chúng rồi.

Ninh vương cười: "Quả nhân, hoàng hậu và các vị hoàng thân đều có phiếu bầu, chỉ được bầu một phiếu. Chư vị cân nhắc kỹ hãy bỏ phiếu!”. Lúc đó thấy bóng người đứng phía sau Ninh vương cười nói: “Tuân chỉ".

A La cố nhìn mới phát hiện, trên mỏ đại bàng còn mấy chiếc bàn có người ngồi, nhưng bị cây cảnh che khuất, không nhìn rõ, chỉ có thái tử ngồi phía trước Ninh vương và hoàng hậu.

Lát sau, có vị nữ quan cầm hòm hoa đến các bàn để cho các nhà bốc thăm. Đại phu nhân thò tay lấy một tờ, cung nữ ghi lại số phiếu.

Đại phu nhân dè dặt mở ra xem, trong đó viết: Nói gieo vần. Đại phu nhân sững người, đề gì thế này? Cau mày hỏi: “Thanh Lôi, cái này con phải suy nghĩ kỹ”.

A La nghĩ, chuyện này quá đơn giản, chắc là muốn thử xem miệng lưỡi Thanh Lôi có linh hoạt không. Nhìn xung quanh, biểu hiện mỗi người một kiểu, có người phấn khởi ra mặt, có người thất vọng cau mày.

Lát sau, thấy hoàng hậu nói nhỏ gì đó với cung nữ, cung nữ dõng dạc nói: “Kính thỉnh nhị vị cô nương phiếu hoa số ba và số bảy lên phía trước”. Cố Thiên Lâm từ từ đến trước ngự tiền hành lễ. Cung nữ lại nói: “Phiếu số ba là của Cố tướng thiên kim, đầu đề là vừa nhảy múa vừa vẽ tranh. Phiếu số bảy là của thiên kim Cao thượng thư, đầu đề là chơi khúc đàn “Vũ đả ba tiêu”. Yêu cầu Cố tiểu thư vừa nhảy múa vừa vẽ tranh, sao cho bước vũ phải hòa nhịp với điệu khúc, yêu cầu đối với Cao tiểu thư là tiếng đàn phải tương hòa với tranh vẽ của Cố tiểu thư, khúc đàn vừa dứt thì tranh cũng phải hoàn thành”.

Mọi người sửng sốt, nếu hai vị tiểu thư phối hợp không tốt, thì hỏng bét. Đề ra như vậy có vẻ như muốn xem các giai nhân làm trò cười.

Chợt thấy ngón tay Cao tiểu thư lay động, tiếng đàn tựa châu ngọc tuôn rơi, liên miên không dứt, Cố Thiên Lâm nga ngẩn giây lát, ống tay vừa vung lên, bước nhảy rất chậm. Vung lần nữa nhịp cũng không khớp với tiếng nhạc, thân người bắt đầu uốn nhịp nhanh hơn, một tay nhanh chóng bắt đầu vẽ tranh trên giấy họa. Nhưng tiếng nhạc mỗi lúc một mau. Cố Thiên Lâm soạt soạt vài nét, bước chân múa gấp gáp. Chiếc váy trên người cuốn thành đóa hoa, những đường thêu lóng lánh phát quang vô cùng đẹp mắt.

Bên này những ngón tay Cao tiểu thư vẫn lướt trên phím đàn, thấy Cố tiểu thư vẫn chưa vẽ xong, nhận ra khúc nhạc của mình sắp hết, vậy là đành chơi chậm lại, khúc “Vũ đả ba tiêu” cảnh vườn chuối trong mưa lúc này chỉ còn từng giọt mưa rớt trên tàu lá. Xung quanh bắt đầu nổi lên tiếng cười.

Cố Thiên Lâm do chậm hơn, lại vẫy nhẹ ống tay, thong thả uốn mình, tay vẫn chầm chậm hoàn thành bức họa, đoạn liếc nhìn Cao tiểu chư, mỉm cười hạ nốt nét bút cuối cùng. Cao tiểu thư mới vội vàng đánh cả mười ngón tay, những giọt mưa biến thành con mưa rào rào trên tàu lá, kết thúc khúc nhạc.

Hai cô nương lui về chỗ ngồi. A La liếc nhìn bức họa của Cố Thiên Lâm, trong đó chính là cảnh vườn chuối trong mưa, tuy những tia nước hơi rối một chút, nhưng vẫn là bức họa tuyệt vời. Bất giác thầm khâm phục thiếu nữ cốt cách như lan mà trí thông tuệ này.

Cung nữ lại tuyên: “Kính thỉnh phiếu hoa số bốn và số sáu”.

Lần này là Thanh Lôi và thiên kim của Trần thượng thư. Trần tiểu thư gieo vần, số câu tăng dần. Nàng ta nói một câu Thanh Lôi nói lại một câu, đọc xong Trần tiểu thư sẽ phải đọc thuộc lòng từ đầu chí cuối, Thanh Lôi bắt chước đọc lại, không được sai, không được lẫn.

Lần này biểu diễn của hai tiểu thư rất xuất sắc, bây giờ A La mới phát hiện thì ra Thanh Lôi có khẩu tài tốt như vậy.

Lại một vòng nữa, Vương Yến Hồi đứng lên, nhưng chỉ có một mình. Đề bốc được là thiết kế một trò chơi, để mọi người cùng tham gia. Vương tiểu thư cười nói: “Liệu có thể cho vài cung nhân phụ giúp tiểu nữ?”.

Hoàng hậu gật đầu, cung nữ tiến đến trước mặt Vương Yến Hồi, nghe phân công xong liền tản đi. Vương tiểu thư nói, chất giọng trong trẻo vô cùng: “Yến Hồi thấy ngự hoa viên đêm mà sáng như ban ngày, đường đi lại chằng chịt ngoắt ngoéo, nhưng cuối cùng đều trở về chỗ này. Giờ đã sai cung nữ để câu đố ở các ngã rẽ, quý vị nào đoán trúng sẽ biết lộ tuyến tiếp theo, điểm xuất phát và điểm cuối cùng đều ở đây, quý vị nào không đoán ra cũng có thể tự thưởng lãm cảnh đẹp rồi trở về. Quý vị thắng cuộc là người có nhiều sơ đồ lộ tuyến nhất, trò chơi này một là được thưởng thức phong cảnh, hai là được giải câu đố, thêm phần thú vị, không biết nương nương thấy thế nào?”. 

Hoàng hậu còn chưa kịp mở miệng, Ninh vương đã phấn khởi cưới lớn: “Tốt, đề này ra rất tuyệt, hoàng hậu có muốn cùng quả nhân tham gia?”.

Hoàng hậu cười: “Nếu hoàng thượng giải được ít câu đố nhất, thần thiếp sẽ không đi theo người nữa!”.

Ninh vương cười khà khà dắt tay hoàng hậu đi trước, mọi người tới tấp đứng dậy đi vào vườn hoa.

Đại phu nhân cười, nói: “Chúng ta có bốn người, tất cả hợp lực, nghĩ cũng không khó”. Lập tức cùng ba cô gái đi vào hoa viên.

A La đã quyết, lần này đánh chết cũng không mở miệng. Vào hoa viên, cây cối được đèn chiếu sáng choang, mặt đường ánh lân tinh nhấp nháy, cả hoa viên giống như một mê cung. Nếu không thuộc đường, muốn vãn cảnh trở về như Vương Yến Hồi nói, e rằng cũng khó. Nếu bị bỏ sau mọi người thì sẽ rất khó coi.

A La vừa đi vừa quan sát, đi một lát đến một ngã ba, đã có cung nữ đứng chờ, đại phu nhân bước lên rút một câu đố, mở ra đọc, Thanh Lôi đã nói ngay đáp án. Cung nữ cúi chào, lại đưa sơ đồ lộ tuyến tiếp theo. Đại phu nhân nhận lấy, tất cả lại đi về phía trước. Đến khi qua hai, ba ngã tư, A La phát hiện nhiều quan khách đã quay trở lại không đi tiếp nữa. Bụng nghĩ có lẽ họ sợ trở về muộn, chỉ cần được vài sơ đồ lộ tuyến trong tay là được rồi.

Đại phu nhân cũng thấy như vậy, lại nhìn Thanh Lôi, Thanh Lôi mỉm cười: “Mẹ cả à, không vào hang cọp sao bắt được cọp con, muốn vượt qua người khác, phải đi tiếp thôi”.

Đại phu nhân nói: “Mẹ nghĩ Cố gia thiên kim và Vương gia tiểu thư có lẽ cũng nghĩ như vậy, nếu giữa đường bỏ về, thái tử sẽ coi thường chúng ta”.

Bốn người lại đi tiếp, đến một chỗ, đọc câu đố nhưng không sao giải được, cung nữ lại cúi chào nói: “Phu nhân và tiểu thư là người đầu tiên đến được chỗ này”. Ý nói họ đã vượt qua nhiều người khác.

Đại phu nhân cười nói: “Được rồi, ta quay về thôi”.

Sau khi bốn người quay lại, nhưng chưa đi qua được hai ngã rẽ đã thấy khó khăn. Lộ tuyến lúc đến chỉ ghi nên đi về phía trước, nhưng ngã rẽ lúc này xuất hiện mấy ngả. Nhìn dấu đánh trên bản đồ cơ hồ đều là đường về. A La chỉ biết điểm đích là vị trí đầu con đại bàng, nhưng sau khi đi vào phần thân và cánh mới biết vườn quá rộng, nàng cũng không tìm được phương hướng. Bốn người đều không biết làm thế nào, đại phu nhân nghĩ hồi lâu, nhớ ra con đường lúc đi. Nhưng đi về phía trước một đoạn, lại thấy một ngã ba, đại phu nhân đành dẫn các con đi theo cảm giác, nhưng quanh co một hồi, vẫn không tìm ra đường về.

Trước mặt có bốn con đường, đại phu nhân lập tức quyết định mỗi người đi một ngả. Thanh Lôi phản đối: “Đi riêng lẻ như vậy nếu vẫn không tìm được đường về thì làm thế nào?".

Đại phu nhân trợn mắt: “Chỉ cần nhìn thấy thị vệ, chúng ta sẽ nhờ họ chỉ đường”.

Vậy là mỗi người đi một đường.

A La ngẩng đầu nhìn sao trời, sao Bắc Đẩu rực rỡ, ánh trăng trong vắt như nước, cây cối, hoa cỏ lay động, mùi hương bảng lảng đâu đây, kỳ ảo như tiên cảnh. Nàng bắt đầu hình dung lại con đường lúc đến, lại nhìn sao trời, đoán phương hướng, quyết định đi về phía trước. Vừa rẽ qua một khúc quanh, nhìn thấy một bóng người dáng cao thanh tú đứng phía trước. A La tim đập thình thình, máu như đông lại, vừa định thần, cúi đầu, quay người trở lại đường cũ, thì đã nghe thấy tiếng Lưu Giác hỏi: “Cô nương lạc đường phải không?”.

A La không dám trả lời, vội vàng đi thẳng. Tiếng gió bạt bên tai, bóng người đã lại đứng trước mặt nàng. A La cúi đầu thật thấp.

Lại vẫn tiếng Lưu Giác: “Nàng là thiên kim nhà ai, lạc người nhà phải không?”.

A La nén giọng nói gọn lỏn, “Phải”. Lưu Giác nói: “Đi theo ta. Nàng đi đường này không đúng”.

Có lẽ chàng ta tưởng nàng xấu hổ. A La lại nén giọng nói: “Cô nam quả nữ đi cùng không tiện, công tử chỉ đường là được”.

Lưu Giác “À” một tiếng, nói: “Nàng đi theo hướng lúc ta đến, gặp ngã ba thì rẽ phải, đi qua ngã ba thứ ba lại đi thẳng, đến đó có thể nhìn thấy người rồi”.

A La vội cúi chào, lí nhí cảm tạ, vội đi theo hướng chàng ta chỉ, chỉ sợ bị nhận ra. Đi một lát, đang định thở phào, lại thấy tiếng Lưu Giác: “Cô nương, xin dừng bước”.

A La muốn khóc, trời sắp hại mình rồi, sao lại để mình đi đúng đường này, gặp hắn ta rồi ư? Lòng bấn loạn, tay đã nắm thành nắm đấm, chân dừng lại, đầu vẫn cúi. Lưu Giác hỏi: “Cô nương, trên đường có gặp Cố tiểu thư không?”.

A La lắc đầu, thấy Lưu Giác hình như có chút thất vọng thở dài, lại cắm cúi bước. Lúc này Lưu Giác không đi theo nữa, vừa rồi nàng sợ hút chết. Lưu Giác đi tìm Cố Thiên Lâm sao? Nàng ta vẫn chưa quay về ư? Có phải hắn ta có tình ý với Cố gia thiên kim? A La nhớ lại trong Đào hoa yến, hắn ta đã tặng hoa cho Cố Thiên Lâm. May mà Lưu Giác không có ý với mình, Diêm Vương này mình tuyệt đối không được dây dưa. Nàng thở một hơi, bây giờ phải nhanh chóng quay trở về, không biết đại phu nhân và hai tỷ đã về chưa.

Đi theo đường Lưu Giác vừa chỉ, quả nhiên lát sau đã nhìn thấy cung nữ. A La vội nói với cung nữ, Cố phu nhân và hai tiểu thư có thể vẫn còn trong hoa viên. Cung nữ cười tươi roi rói: “Tiểu thư đừng ngại, có người dẫn họ ra khỏi ngự hoa viên rồi”.

Trở về bàn tiệc, nhìn thấy đại phu nhân đang nói chuyện với hai tỷ, A La bèn đi đến đó. Thấy nàng đã quay về, đại phu nhân cũng rất mừng, bà vẫn sợ A La đi nhầm đường gây ra chuyện. Một lúc lâu sau A La mới nhìn thấy Cố Thiên Lâm quay trở lại, Lưu Giác không đi cùng, không biết anh chàng có gặp nàng ta không. A La nhìn Cố Thiên Lâm, đột nhiên nghĩ, Lưu Giác thích nàng ta, vậy mà nàng ta lại đi tranh giành ngôi thái tử phi, quan hệ phức tạp quá.

Cung nữ lục tục dẫn khách trở về. Một lát sau, nghe tiếng nữ quan tuyên: “Người chiến thắng trong trò chơi đoán đường trong ngự hoa viên này là Lý tướng phu nhân và thiên kim”.

Hoàng hậu cười, nói: “Lý phu nhân và thiên kim cơ mưu hơn người, mời lên lĩnh thưởng”.

Lý phu nhân sung sướng kinh ngạc dẫn ba cô gái đến trước ngự tiền hành lễ lĩnh thưởng. Nghe thấy hoàng hậu hỏi: “Được nghe, Thanh Lôi ngón đàn cao minh, Thanh Phỉ giỏi thư họa, nhưng chưa biết gì về tài của tam tiểu thư”.

Đại phu nhân vội đáp: “Thanh La còn nhỏ, chưa bằng hai chị, đây là lần đầu vào cung”.

Hoàng hậu cười: “Ngẩng đầu để ai gia nhìn nào!”.

A La vội quỳ xuống, ngoan ngoãn từ từ ngẩng đầu. Hoàng hậu chỉ thấy nửa khuôn mặt và chiếc cằm nhọn, cảm thấy tam tiểu thư của Lý gia không như Thanh Lôi và Thanh Phỉ vừa nhìn đã thấy ngay là mỹ nhân. Bèn hỏi: “Ở nhà Thanh La học gì?”.

A La đành trả lời: “Tiểu nữ vừa học thổi sáo mấy ngày, vẫn chưa thành thạo”.

A La ngẩng đầu, vừa dứt lời, trong mấy bóng người khuất sau lưng Ninh vương có người “ồ” một tiếng. Nàng giật nảy mình, giọng này hơi quen, là ai thế? Lưu Giác sao? Nàng lại càng sợ hãi vội cúi đầu.

Hoàng hậu đang muốn tìm điểm yếu nào đó của Lý gia. Trò chơi giải đố này là do Vương Yến Hồi đưa ra, khiến ngay cả Ninh vương cũng vô cùng hứng thú, tân khách hồ hởi tham gia, nhưng người thắng cuộc lại là Lý Thanh Lôi. Nghe Thanh La nói, mới học thổi sáo ít ngày, bình thường cũng không nghe nói tam tiểu thư của Lý phủ có tài cán gì, bèn nảy ra một ý định, nói: “Đứng lên đi, thổi một khúc cho ai gia nghe nào”.

A La nhẹ giọng vâng lời, đầu rối như tơ: Nên thổi hay, hay là thổi dở? Lúc này đại phu nhân và hai tỷ đã quay về chỗ, cung nữ mang cây sáo đến. A La đứng dậy, khi đại phu nhân đi ngang qua nàng đã nói nhỏ: “Không được để tướng phủ mất mặt”. A La thầm nghĩ, không hay không dở vậy, chỉ cần ứng phó là được.

Nghĩ vậy, nàng bình thản thổi một khúc, thổi xong cầm sáo đứng đó. Chỉ thấy hoàng hậu buông một câu: “Xem ra thiên kim Lý tướng cũng không xoàng, ai cũng tuyệt nghệ vô song, cho ngươi lui”. A La vội cúi đầu lùi ra. Đại phu nhân lườm nàng, nói nhỏ: “Sao không học hành cho tử tế, về nhà ta hỏi tội!”.

Coi như là xong, đằng nào cũng không nên làm con chim đầu đàn! A La thầm nhủ.

Cuộc thi tài trong dạ yến kết thúc. Đội ca vũ trong cung bắt đầu biểu diễn. Lúc đó cung nữ mới đi thu các phiếu hoa bình chọn. Lát sau, Ninh vương vẫy tay ra hiệu nhạc dừng, mỉm cười vui vẻ: “Phiếu hoa đã thống kê xong, ba người đầu bảng là Cố tướng thiên kim, Lý tướng thiên kim và Vương thái úy thiên kim, quà thưởng sẽ đưa đến các phủ". 

Ba tiểu thư đứng dậy đến trước ngự tiền tạ ơn. Mặt đại phu nhân lúc đó mới từ sầm sì trở thành tươi cười như hoa nở.

Ngồi xem múa hát một lát, Thanh Lôi đột nhiên đỏ bừng mặt, cúi đầu nói nhỏ với Lý phu nhân. Đại phu nhân mỉm cười: “Bảo A La đưa con đi”.

A La ngẩn người: “Mẹ cả, con...”.

“Bảo đi thì đi nhanh lên”. Đại phu nhân vẻ sốt ruột.

A La thở dài đứng lên, nàng không muốn ra ngoài, sợ nhỡ gặp Lưu Giác. Họ cùng đi ra, cung nữ dẫn đường đưa họ vào một động có cửa hình bán nguyêt, chỉ chiếc lều phía xa, Thanh Lôi bèn đi vào, A La đứng ngoài chờ. Lát sau Thanh Lôi đi ra, hai người quay trở lại bàn tiệc, đang đi, bỗng thấy thái tử đứng bên đường. Thanh Lôi nhìn Thanh La, thái tử cũng nhìn Thanh La. A La nghĩ, hai người có lẽ đã hẹn trước, kéo mình theo làm bình phong đây, vậy là tươi cười nói với Thanh Lôi: “Đại tỷ, muội về trước”.

Thanh Lôi vội gọi lại: “Chúng ta cùng về”.

A La nghĩ, sao mà xúi quẩy thế, không cho về, để mình đi đâu đây? Không còn cách nào đành nhận lời: “Muội ra phía kia ngắm trăng, lúc nào về gọi muội”. 

Thanh Lôi đỏ mặt gật đầu, A La vòng qua con đường nhỏ, nhìn thấy dãy hành lang, liền đến đó ngồi. Lòng thầm mong hai người nói chuyện nhanh nhanh, yến hội nhanh kết thúc, nhất định không nên gặp Lưu Giác, nhất định không để cho hắn ta nhận ra mình. Đang nghĩ, đột nhiên toàn thân tê dại, người dựa vào cột, không thể động đậy, há miệng cũng không nói được, A La kinh ngạc, sao lại thế này?

Một người từ phía sau vòng lên trước mặt, chính là Lưu Giác. A La toàn thân lạnh toát, thầm rên, hỏng rồi. Oan gia ngõ hẹp sao lại gặp đúng người của vương cung? Ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì, bị chém đầu chẳng chơi! A La nhìn Lưu Giác, hoảng hốt. Thấy chàng ta ngồi xuống cạnh mình, mặt đầy phấn khích: “Thì ra là tam tiểu thư của Lý tướng gia, cuối cùng ta đã tìm được”.

A La lúc này chỉ có thể ngồi nhìn chàng ta. Đúng là tránh một ngày, không tránh được cả tháng, càng muốn tránh xa các công tử hoàng gia thì họ càng sáp lại.

Đột nhiên Lưu Giác ghé mặt lại gần, nhìn thẳng vào mắt A La một lát, rồi ngoảnh đầu ra, chép miệng “chà chà”: “Chính là đôi mắt này, không sai”. Tiếp đó là giọng nói gay gắt: “Để ta tìm mãi! Hừ, dám ra tay với tiểu vương gia, cảm giác bị điểm huyệt thế nào?”.

A La hốt hoảng nhìn chàng ta không nói câu gì. Lưu Giác lại tiếp: “Muốn nói phải không? Có điều, ta phải nhắc ngươi trước, đừng có hô hoán ầm ĩ, kinh động thánh giá”. Nói xong hơi giơ tay ra.

A La mở miệng: “Ngươi định thế nào?”.

Lưu Giác nghiêng đầu nghĩ một lát: “Tạm giữ cô nương ở đây hai canh giờ, huyệt đạo giải xong cô lại quay về được chứ?".

A La hoảng hốt: “Hôm nay không được, đây là hoàng cung, lần trước là ta sai, huynh là đại nhân nên rộng lượng, giơ cao đánh khẽ được không?”. Kịp thời nhận định tình hình mới gọi là đầu óc thông minh, chỉ có ngu ngốc mới cứng cổ giơ đầu chịu báng.

“Dựa vào đâu? Đánh ngất người lại còn cướp ngân lượng, làm gì có chuyện như thế!”. 

Gã công tử nhà giàu hống hách bị ta đánh ngất trói gô, lại cướp ngân lượng là đáng đời! Bây giờ A La không thấy hối hận nữa, bụng rủa chầm, nhưng mặt vẫn tươi cười. Thanh Lôi đứng xa vẫy nàng, A La vội đáp: “Đại tỷ, muội đến ngay”. Thấy Lưu Giác không chịu giải huyệt cho mình, nước mắt trào ra nàng nói: “Ta phải về, nếu gây họa, cha ta đánh chết! Huynh lén ra tay với ta cũng không phải là anh hùng hảo hán, hay là hôm nào chúng ta tỷ thí lại?”.

Lưu Giác thấy nàng mặt đỏ gay, mắt ngấn nước long lanh, vẻ rất tội nghiệp, bật cười “khì” một tiếng. Tìm suốt nửa năm cuối cùng đã biết nàng ta là ai, nỗi phẫn nộ trong lòng đã vơi một nửa. Lại nghĩ đây là vương cung, liền giải huyệt cho nàng, nói với vẻ bề trên: “Chiều mai chờ tiểu vương gia ta ở ven sông phía nam thành”.

A La chạy như bay đến chỗ Thanh Lôi, bụng nghĩ chuyện ngày mai, để mai tính, hôm nay nhất định mình phải về nhà bình yên, càng nghĩ càng thấy ghét Lưu Giác.

Lưu Giác nhìn theo bóng nàng, tâm trạng rất sảng khoái, như vớ được món đồ chơi mới mẻ thú vị, bắt đầu suy nghĩ ngày mai tìm trò hay gì để giỡn Lý Thanh La.

Thanh Lôi chờ đã sốt ruột, nhìn thấy A La chạy đến trợn mắt: “Chuyện hôm nay không được nói với ai! Nếu không thái tử sẽ không bằng lòng”. A La vội gật đầu. Hai người trở về bàn tiệc không lâu thì yến tiệc giải tán, đại phu nhân phấn khởi đưa ba cô gái quay về phủ.

A La kể cho thất phu nhân nghe chuyện trên bàn tiệc, tuyệt nhiên không đả động đến chuyện bị Lưu Giác nhận ra, sợ mẹ lo lắng. Khi lên giường, lại một mình trằn trọc suy nghĩ, ngày mai không thể không đi, có thể làm dịu nộ khí của Lưu Giác là tốt nhất, tránh để hắn ta suốt ngày đến tìm mình gây chuyện. Nàng rất hiểu kiểu người như Lưu Giác, càng đấu hắn ta càng hung hăng. Nghĩ mãi, rồi “hừ” một tiếng, đồ trẻ ranh!

CHƯƠNG 7

Sáng sớm hôm sau, khi A La vừa ngủ dậy, đã văng vẳng nghe thấy tiếng tiêu từ rừng trúc vọng lại, nàng chợt nghĩ tới Tử Ly. Thực ra nàng đã không cảm thấy bực mình nữa, nghĩ kỹ lại, có người muốn giết chàng ta, chàng ta cẩn thận một chút cũng là bình thường. Không muốn qua lại với chàng ta là bởi vì cảm thấy Tử Ly thân thế quá bí hiểm, nàng sợ gây ra những chuyện khó cứu vãn. Bây giờ ngoài thất phu nhân, Tiểu Ngọc và vú Trương, nàng không biết có thể tin vào ai. Nghĩ đến lời hẹn với Lưu Giác, A La hơi buồn. Lúc đi vào rừng trúc mới đột nhiên phát hiện tiếng tiêu hôm nay sao gần thế? Vừa ngẩng đầu đã thấy Tử Ly đứng tựa vào thân trúc, thổi tiêu.

Thấy có người đến, Tử Ly dừng lại, quay đầu. A La sững người, theo phản xạ nàng muốn bỏ chạy.

Tử Ly hỏi: “Người dạy nàng thổi sáo là ai?".

A La ngớ người: “Mẹ ta”. Bụng nghĩ sao chàng ta biết mình biết thổi sáo? Chàng ta nhận ra mình rồi ư?

Tử Ly băn khoăn: “Người hàng ngày thổi sáo trong rừng trúc là ai?”.

A La nói bừa: “Mẹ ta”. Nàng càng nghi ngờ thân phận của Tử Ly, càng không muốn để chàng ta biết mình chính là Sơn đệ của chàng ta, cũng là người ngày ngày thổi sáo ở đây.

Tử Ly nhìn A La, như cười như không: “Nhìn thấy ta, nàng không hề giật mình, người thổi sáo là nàng đúng không?”. 

“Đây là tướng phủ, ngươi tự tiện xông vào, không sợ bị giải lên quan phủ?”. A La không đáp, hỏi vặn lại.

Tử Ly cười: “Với thân thủ của ta, người còn chưa thấy đâu, ta đã cao chạy xa bay rồi. Thổi tiêu quanh đây đã lâu, ta không khỏi tò mò muốn biết người thổi sáo là ai, thì ra là tam tiểu thư của Lý phủ”.

A La giật mình, không dám nhìn chàng ta. Nàng chưa hỏi tại sao ngày nào Tử Ly cũng đến đây hòa tấu với một người không quen biết. Hơn nữa lại biết thân phận của nàng, cũng nhận ra nàng chính là người thổi sáo. Chàng ta tuyệt đối không đơn giản! Lúc này bên ngoài rừng trúc vang lên mấy tiếng sáo, đó là ám hiệu Tiểu Ngọc báo có chuyện, A La vênh mặt, nói: “Đã nhìn thấy rồi, còn không đi đi?”. 

Tử Ly không nhúc nhích, khuôn mặt anh tú thoáng nụ cười: “Tại sao chúng ta không hòa tấu một khúc?”.

A La đầu óc đang bấn loạn, không biết nhà có chuyện gì, cũng không muốn tiếp chuyện chàng ta, vội buông một câu: “Nhà đang có việc, không nói với ngươi nữa”. Nói đoạn, vội bỏ đi.

Tử Ly hơi ngỡ ngàng, lại hơi băn khoăn. Bây giờ cuối cùng mình đã biết người thổi sáo là ai, sao nàng ta lại vội vàng bỏ đi như vậy. Chàng thở dài rồi nhảy qua tường.

A La vội chạy về nhà, thất phu nhân kéo nàng vào phòng, vừa đi vừa nói: “Thánh chỉ đến rồi, mọi người trong phủ ra tiếp chỉ”.

Đi vào đại sảnh, cả nhà đã có mặt đông đủ, một vị thái giám tay nâng thánh chỉ mở ra tuyên đọc.

A La quỳ bên cạnh thất phu nhân, cúi đầu, khi nghe thái giám đọc đến câu “Lý gia trưởng nữ Thanh Lôi, phẩm mạo đoan thục được chọn làm thái tử lương đệ(*)...”, bỗng sững người, những người khác cũng ngơ ngác không hiểu. Thái tử lương đệ, là thiếp của thái tử sao? Liếc trộm Thanh Lôi, thấy mặt Thanh Lôi tái nhợt rồi xanh xám, cố kìm nước mắt.

Thái giám vừa đi khỏi, Thanh Lôi bật khóc: “Tại sao? Tại sao là nàng ta mà không phải là ta? Người điện hạ thích rõ ràng là ta!”.

Lý tướng trái lại, mỉm cười nói: “Ý trời đã vậy, ai biết thái hậu và hoàng hậu liệu có liên thủ gièm pha chuyện con chỉ là con gái thứ thiếp của ta. A Lôi, con đừng buồn, không được làm thái tử phi, nhưng là người thái tử sủng ái nhất cũng tốt. Sau này không được làm hoàng hậu, thái tử cũng không để con thiệt thòi”.

Thanh Lôi đành nước mắt rưng rưng. Lý tướng lại tiếp: “Nếu con gặp lại thái tử nhất định không được tỏ ra oán giận, Vương Yến Hồi mưu lược hơn người, cũng không nên đối đầu với cô ta, con phải giữ chặt trái tim thái tử mới có thể đảm bảo địa vị của mình và vinh hoa phú quý của Lý gia. Mà mọi thứ của Lý gia cũng là hậu thuẫn vững chắc cho con, hiểu chưa?”. Giọng Lý tướng đã trở nên nghiêm khắc.

Thanh Lôi bất lực dựa vào người tam phu nhân gật gật đầu.

A La nghe vậy rụng rời chân tay, lấy hoàng tử phiền phức vậy sao? Chưa kịp kết hôn đã bắt đầu mưu tính.

Trở về Đường viên, mới nghe thất phu nhân than vãn: “Tam Nhi, lần này thái tử tốt rồi, cưới luôn một lúc cả hai người. Thanh Lôi đáng tiếc lại là thiếp, con cái của thứ thiếp không có địa vị gì đâu”.

“Còn Cố Thiên Lâm? Sao không thấy nói đến nàng ta?”.

“Nghe nói hôm nay thánh thượng đã hạ chỉ xuống Cố phủ, Cố tiểu thư làm chính phi của tứ điện hạ”.

A La ồ một tiếng, trong năm vị đại công tử Phong thành nàng vẫn chưa nhìn thấy tứ hoàng tử và Cố Thiên Tường. Xem ra mệnh của Cố Thiên Lâm còn tốt hơn Thanh Lôi nhiều. Tứ hoàng tử sau này dù thế nào cũng là một vương gia, hơn nữa ít nhất cũng không một lúc cưới hai vợ. Nghĩ đến sau khi lấy người ở đây phải đối mặt với vô số các bà vợ của họ, A La đã rùng mình. Bất luận thế nào nàng cũng không chịu nổi cảnh đa thê. Cứ nhìn tốc độ gả con của Lý tướng, nếu nàng không muốn lại bị nhốt vào một cái lồng khác, thì nên nhanh chóng kiếm ít ngân lượng, cao chạy xa bay trước khi bị Lý tướng bán đi, thế mới là thượng sách.

A La chầm chậm đi vào rừng trúc, nhìn mặt trời, biết là không thể nào đến chỗ hẹn với Lưu Giác ở bờ sông phía nam thành. Nhưng quả thực không muốn ở trong phủ, bèn nói với thất phu nhân và Tiểu Ngọc, cải trang một chút rồi vượt tường ra ngoài.

Mình nên làm gì bây giờ, mua hai căn nhà, bạc đã vơi một nửa, chỗ còn lại phải để duy trì hai căn nhà kia. A La chầm chậm đi về phía bờ sông, ngồi suy nghĩ, đi kiếm bạc ở đâu? Gió sông rất dễ chịu, nàng ngồi dựa gốc liễu, dần dần ngủ thiếp đi.

Khi Tử Ly đi đến bờ sông, nhìn thấy dáng A La đang thiu thiu ngủ, bỗng cảm thấy thích thú, nhẹ nhàng vòng qua, cúi gần ngắm nghía, không muốn làm nàng thức giấc, càng nhìn càng thấy giống tam tiểu thư của Lý tướng, Tử Ly cau mày dùng ngón tay chấm tý nước sông nhỏ lên cổ A La rồi lau nhẹ.

A La bị đánh thức, mở mắt, ngơ ngác: “Tử Ly, sao huynh lại đến đây?”.

Mắt Tử Ly sáng lên: “Sơn đệ, sao đệ lại đến đây?”.

A La cười, “Ở trong phủ mãi thấy chán, ra ngoài dạo quanh quanh, ở đây yên tĩnh, không ngờ ngồi chơi một lúc lại ngủ mất”. Nghĩ đến lời hẹn với Lưu Giác, cảm thấy nhất định xảy ra chuyện. Nhìn mặt trời, đoán là đã đến giờ Mùi, Lưu Giác không thể đợi ba canh giờ ở bờ sông. Nàng đã thất hẹn, không biết hắn ta giận đến mức nào, sẽ đối phó với nàng thế nào, nghĩ vậy bất giác thở dài.

“Vẫn còn giận đại ca sao?”. Vừa dứt lời, Tử Ly đã thấy kinh ngạc, tại sao mình lại lây tâm trạng của Sơn đệ, cũng thấy nóng ruột như vậy. Tử Ly mím môi, ánh mắt nhìn A La đã có phần thiếu tự nhiên.

A La cười: “Sao có thể? Hôm nay có người hẹn gặp đệ vào giờ Ngọ, nhà có việc không kịp đi, lòng áy náy sợ người ta giận, đại ca sao lại đến đây?”.

“Ở đây yên tĩnh, đúng lúc lòng có tâm sự”.

A La ồ một tiếng, không nói nữa.

Tử Ly hiếu kỳ: “Sao đệ không hỏi ta có tâm sự gì?”.

A La liếc nhìn chàng ta: “Đệ tôn trọng chuyện riêng tư của người khác, nếu huynh muốn nói tự khắc nói ra, nếu không muốn, hỏi cũng vô ích”.

Tử Ly nói: “Đệ hỏi huynh sẽ nói”.

A La bất lực: “Vậy được, huynh có tâm sự gì?”.

Miệng Tử Ly hé cười: “Huynh quen một cô nương biết thổi sáo, huynh thường xuyên đến đây thổi tiêu hòa tấu với tiếng sáo của nàng ấy, huynh luôn nhận ra tâm sự của cô nương đó qua tiếng sáo, có lúc rất vui, nhưng đa phần đầy uẩn khúc tâm tư. Cô nương ấy rất thông minh, học sáo rất nhanh, nhưng đến một hôm nàng ấy đột nhiên không thổi sáo nữa, mặc cho huynh dùng tiếng tiêu mời gọi, trách móc, nàng ấy cũng nhất định không xuất hiện. Sơn đệ, đệ nói xem cô nương ấy làm sao?”.

Mắt Tử Ly như phát ra tia sáng, hai đồng tử ánh lên một thứ khiến A La không dám nghĩ. Nàng không thể nhìn thẳng vào mắt chàng ta, trầm ngâm lúc lâu mới nói: “Huynh đã nghe ra rất nhiều tâm tư của cô nương ấy, vậy thì chắc chắn nàng ấy có nỗi phiền lớn, có nỗi phiền tất nhiên không thể hòa tấu với huynh”.

Tử Ly nhìn mái đầu cúi xuống của A La, không muốn ép nàng nữa, vui vẻ trở lại: “Sơn đệ, chẳng phải đệ rất thích món ngon, huynh đưa đệ đến một nhà hàng thưởng thức, được không?”. 

A La lườm chàng ta: “Không có người cầm dao đâm huynh nữa chứ? Đệ sợ chết lắm”.

Tử Ly cười lớn: “Có đại ca ở đây, bảo đảm không kẻ nào dám làm đệ bị thương một tấc”.

A La nghiêm túc, nói: “Đệ rất sợ những chuyện rắc rối, bởi vì đệ không có khả năng xử lý rắc rối, huynh có đảm bảo không để đệ rơi vào những chuyện rắc rối không?”

Tử Ly cũng nghiêm túc: “Đương nhiên”.

“Huynh không phải là người xấu chứ, đệ khẳng định đệ là người tốt”.

Tử Ly cảm thấy buồn cười: “Huynh khẳng định huynh không phải là người xấu. Sơn đệ, sao mới có mấy ngày mà đệ đã trở nên đa nghi như vậy?”.

A La cúi đầu thở dài: “Bởi vì huynh nghi ngờ đệ trước. Hơn nữa lại có người muốn giết huynh, lai lịch của huynh không đơn giản, đệ khẳng định đệ không địch nổi”.

“Sơn đệ, lòng đệ đang lo sợ điều gì?”.

A La nghĩ, tôi chẳng sợ gì hết, những thứ tôi sợ quá nhiều. Chỉ cần nghĩ đến có ngày bị Lý tướng mang đi bán là tôi không thể nào vui lên được.

Tử Ly nhìn khuôn mặt tủi thân của A La, thầm thở dài, mỉm cười nói với nàng: “Sơn đệ, nhăn mày lần nữa thì không còn là tiểu công tử khôi ngô nữa rồi, vui lên đi, có việc gì đại ca sẽ giúp. Bây giờ chúng ta đi ăn được không?”.

A La nghĩ, buồn cũng chẳng ích gì, trước hết cứ đi ăn chiêu đãi đã, nhân tiện xem có việc gì có thể kiếm tiền. Hai người vẫn cưỡi chung ngựa đến khu thương mại, lần này đến một tửu lầu khác, theo lời của Tử Ly, Tửu phong lầu này tốt nhất Phong thành. A La hỏi: “Đại ca, món ăn ở đây cũng đắt như lần trước sao? Một bữa bằng thường dân ăn cả tháng”.

Tử Ly cười: “Không đâu, chỉ cần không gọi món đắt nhất là được. Thế nào, định tiết kiệm tiền cho đại ca ư?”.

A La lắc đầu: “Đệ muốn nói, nếu vẫn đắt như vậy, huynh không cần mời đệ ăn, đưa thẳng bạc cho đệ cũng được”.

Tử Ly bật cười thành tiếng: “Sao đệ lại thích bạc đến thế!”.

A La nói thẳng: “Không có tiền đi một bước cũng khó, có tiền đi khắp thiên hạ! Bạc rất quý, yêu bạc có nghĩa là yêu cuộc sống”.

Tử Ly nhìn nàng, mỉm cười không nói gì. Nàng ấy luôn có thể làm cho chàng bật cười, đạo lý nói ra cũng có phần khác lạ.

Vào đến tửu lầu, tiểu nhị dẫn họ lên lầu hai. A La hiếu kỳ quan sát lầu một, ánh mắt lập tức bắt gặp Lưu Giác đang ngồi ở bên cửa sổ, hoảng hốt, cúi đầu vội quay trở lại.

Tử Ly theo sau A La, khẽ cau mày, nhìn Lưu Giác ngồi bên cửa sổ, lại nhìn A La đang quay người đi xuống lầu, chàng cũng xuống theo.

A La nặn ra nụ cười: “Đại ca, đệ muốn về nhà, hôm khác ăn được không?”.

Tử Ly đoán biết giữa nàng và Lưu Giác chắc chắn có chuyện gì. A La không chịu nói, chàng cũng không nài, chỉ cười nhạt đưa nàng lên ngựa trở về bờ sông, rồi quay đi.

Đến khi chàng quay trở về Tửu phong lầu, Lưu Giác đã đi khỏi. Tử Ly gọi một nậm ruợu, ngồi bên cửa sổ, chìa ngón trỏ trái ra xem, đầu ngón tay còn dính lớp bột màu nâu. Tử Ly bất giác bật cười, rồi thôi cười, uống liên tục, hết chén này sang chén khác, một nỗi u uẩn hiện dần trong mắt chàng.

A La trở về nhà, tối đó hơi khó ngủ. Luôn cảm thấy Lưu Giác sẽ đến tìm mình gây sự, trằn trọc mãi không nghĩ ra đối sách. Đến bây giờ nàng vẫn chưa tìm được cách nào kiếm ra tiền, ngày rời tướng phủ cũng càng xa vời, cuộc sống cứ thế này trôi qua, đến một ngày Lý tướng đem nàng đóng gói đưa đi bán thì biết làm sao? Tử Ly có thể giúp nàng không? Chàng ta có tin nàng không? A La cảm thấy khổ sở vô cùng.

(*) Lương đệ tức là thiếp của hoàng thái tử, là người có phẩm cấp tương đối cao trong số thiếp của thái tử, địa vị chỉ đứng sau thái tử phi (BTV)

Sáng sớm hôm sau, tiếng tiêu của Tử Ly lại từ rừng trúc vọng đến. A La thầm nghĩ, tại sao Tử Ly lại hứng thú với tam tiểu thư của Lý phủ như vậy? Là bởi vì hai người đã hòa tấu với nhau suốt hai tháng qua ư? Cải trang thành người khác trước mặt Tử Ly, nàng cảm thấy quá khó khăn. Hơn nữa, tài hóa trang của thất phu nhân, nhiều nhất cũng chỉ thay đổi được hàng lông mày và làn da, lâu dần Tử Ly sẽ nhận ra. Bây giờ mỗi khi ở bên chàng ta, nàng lại thấp thỏm, hay là nên nói sớm với chàng ta. Không biết Tử Ly có giúp được mình không, bởi vì Lưu Giác là tiểu vương gia của phủ An Thanh vương kia mà. A La thở dài đi vào rừng trúc.

Tử Ly cười dịu dàng. Chàng đang đợi, đợi A La nói với chàng, nàng chính là La Sơn, La Sơn chính là nàng.

Nhìn thấy Tử Ly, A La cũng không còn ngạc nhiên nữa: “Sao huynh lại đến?”

“Hôm qua nàng đi vội quá không kịp trả lời, vì sao không hòa tấu với ta nữa”.

A La đến ngồi xuống một tảng đá, hai tay che cằm, suy nghĩ lại lần nữa, rồi ngẩng đầu nhìn Tử Ly: “Đại ca! Ta... ta chính là La Sơn”. Nói xong cúi đầu có vẻ rất xấu hổ.

Tử Ly làm bộ ngạc nhiên: “Đệ nói đệ là Sơn đệ sao?”.

A La nói: “Muội cải nam trang, bôi mặt”.

Tử Ly đi đến trước mặt nàng, quỳ xuống nhìn nàng: “Để ta ngắm kỹ xem nào”.

A La nghiêm nghị nhìn thẳng vào mắt chàng. Tử Ly nhìn kỹ A La, khuôn mặt nhỏ nhắn, cằm nhọn xinh xinh, môi như cánh hoa, cặp mày khuất dưới mái bờm, hai mắt ướt long lanh như ngọc nổi bật giữa làn da trắng tuyết. Không nhìn kỹ, sẽ không nhận ra A La lại đẹp mê hồn như vậy. Tử Ly nhìn mắt A La, trong đó lóe lên điểm đen huyền bí mà chàng không quen, giống như dòng nước xoáy hút chàng vào đó, bất giác ngây ra nhìn.

Tử Ly nhìn không muốn rời, A La đỏ mặt, nghiêng đầu, tưởng chàng không tin: “Đại ca, chúng ta lần đầu gặp nhau ở ven sông, lúc đó huynh đang thổi tiêu, muội đã quấy rầy”.

Tử Ly sực tỉnh, khẽ cười: “Ta biết, muội lấy tên Sơn đệ, là có hàm ý con thứ ba trong nhà phải không?”(*).

A La gật đầu.

Tử Ly ngồi xuống bên nàng hỏi: “Sơn đệ, à, bây giờ nên gọi thế nào?”.

“Cứ gọi tên cũng được, mẹ thích gọi muội là Tam Nhi, những người khác trong nhà gọi là A La, họ tên đầy đủ là Lý Thanh La, tùy huynh gọi”.

“Làm gì có cô nương nào để người ta tùy tiện gọi tên lúc còn con gái, muội to gan thật”.

A La lúc này mới sực nhớ họ không cùng thời đại, không thể tùy tiện gọi tên. Bèn nhẹ nhàng nói: “Đại ca cứ gọi muội là A La, tên chỉ là một ký hiệu, gọi thế nào cũng vậy”.

Tử Ly cảm thấy A La là người rất mực cởi mở, cười nói: “Được thôi, A La muội có điều gì phiền muộn?”.

A La buồn bã, nói: “Muội không biết làm thế nào để kiếm ra bạc”.

Tử Ly hiếu kỳ: “Muội cần kiếm bạc làm gì?”.

A La tư lự: “Có bạc mới có thể rời tướng phủ đi du ngoạn khắp nơi”.

“Lý tướng tuyệt đối không cho phép”.

“Cho nên muội mới định tự mình kiếm tiền”.

Tử Ly cau mày: “Thực ra bên ngoài rất nguy hiểm, mấy chiêu quyền cước của muội có thể ứng phó người không biết võ công, nhưng nếu gặp người có võ công thực sự thì khỏi nói”.

A La thở dài, nghĩ tới Lưu Giác biết khinh công, lại biết điểm huyệt, Tử Ly cũng có khinh công nhảy vọt qua tường, trong khi bản thân hì hục trèo tường vất vả, “Đại ca, nhưng muội rất muốn chu du khắp nơi, huynh dạy muội cách kiếm tiền được không?”.

Tử Ly nhìn đôi mắt cầu khẩn của A La, không thể nào từ chối, cười nói: “Vậy muội biết những gì, nói huynh nghe nào”.

Mắt A La sáng lên: “Muội biết nấu ăn, chắc chắn ngon hơn ba món đặc sắc ở Thiên phong lầu”.

Tử Ly lắc đầu, không tin: “Nấu cho huynh ăn huynh mới tin”.

A La vui sướng nhảy lên, hỏi: “Đại ca, nếu muội nấu ngon hơn Thiên phong lầu, huynh có chịu bỏ tiền mở tửu lầu cho muội làm không, bạc kiếm được chúng ta chia đôi”.

Tử Ly không nhịn được cười: “Được, cứ quyết như vậy, ta đi thôi”.

A La vui sướng nhảy chân sáo, nhất thời quên mất Tử Ly cũng biết khinh công, kéo chàng ta trèo tường. A La mấy bước đã lên mặt tường, vẫy Tử Ly: “Đại ca, lên đi, mau lên!”.

Tử Ly ngẩng đầu nhìn A La, lúc đó trông nàng như một tiểu đồng lanh lợi. Tiếng sáo u hoài không hợp lứa tuổi nàng, nhưng chỉ cần nàng cất tiếng cười là tựa như thủy tinh trong vắt, không chút sầu vương. Tử Ly thấy lòng xao động, bỗng muốn cùng nàng vượt tường. Chàng sải mấy bước đã tới mặt tường, thấy A La mang ra chiếc thang dây, chàng cười to, ôm lấy nàng cùng vọt ra ngoài.

A La cười hớn hở: “Vui quá, quên mất đại ca biết khinh công”.

A La không cải trang, Tử Ly gọi tùy tùng thuê chiếc kiệu, nói với nàng: “Khi nào muội cải nam trang, đại ca sẽ dạy muội cưỡi ngựa”.

Ngồi kiệu cũng tốt, vừa đi vừa thong thả ngắm cảnh bên đường, A La ngồi trong kiệu vén rèm, háo hức nhìn ra. Tử Ly cưỡi ngựa đi bên cạnh, thỉnh thoảng ngoái đầu nhìn nàng, A La bịt miệng cười thầm, dáng chàng cưỡi ngựa tuyệt thật. Đến Thiên phong lầu, không biết Tử Ly nói gì, một vị sư phụ ân cần nói với A La: “Tiểu thư, mời theo tôi vào bếp”.

Nàng nhìn Tử Ly. Chàng ngồi bên bàn giả bộ nghiêm nghị: “Khó ăn quá là không được đâu”.

A La đắc ý ngẩng đẩu, đi theo sư phụ vào trong. Gần một canh giờ sau mới bê đồ ăn lên bàn.

“Muội vào bếp lâu như vậy, chỉ làm được món canh suông thế này ư? Món này chẳng phải chỉ cần cho rau vào nồi đun sôi là xong hay sao?”.

A La bĩu môi: “Tam tuyệt mỹ vị của Thiên phong lầu còn lâu mới sánh được, cái hay của món này là ở chỗ, mới thoạt nhìn thực khách cứ tưởng chỉ là canh suông bình thường. Đại ca nếm đi”.

Tử Ly cười, múc một thìa đưa lên miệng. Thấy chàng cau mày, rồi vẻ kinh ngạc sung sướng dần dần hiện trên khuôn mặt: “Thiên phong lầu phen này phải đóng cửa thôi”. Chàng nhìn A La, mắt đầy tán thưởng: “Vị thanh mà ngọt lịm, thơm ngon khác thường, làm thế nào vậy?”.

A La bắt đầu tán: “Rau cải trắng chỉ lấy phần nõn trong cùng có màu hơi vàng, để lửa vừa chín tới không được nát. Nước dùng được hầm bằng gà già, vịt già, móng giò, xương sườn, gân bò khô, lại thêm rất nhiều gia vị, mới có được vị ngọt mát như vậy, lại phải hớt hết bọt sao cho nước dùng trong vắt không một mảy may váng mỡ. Một canh giờ ư? Là muội sợ huynh đợi lâu sốt ruột mới làm vội như thế”.

Tử Ly cười: “Là đầu bếp của tướng phủ dạy muội sao?”.

“Bí mật, chuyện này không thể tiết lộ”.

Tử Ly bắt đầu vừa húp nước canh vừa ăn rau cải. Nhìn chàng ăn rất ngon lành, lòng nàng cũng thấy vui vui. A La nhớ lại, trong thời hiện đại có lần được ăn món canh này, lúc đó không biết nguồn cơn, chỉ thấy một bát canh bẩn những mười tám đồng thì quá đắt, suýt cãi nhau với chủ quán. Sau mới biết đó là đề thi dùng cho đầu bếp cấp một, bèn đi học nấu bằng được.

“Quá ngon, quá ngon, tốt quá, huynh sẽ mở tửu lầu, muội không cần động tay, dạy nhà bếp làm là được. Một bát canh bán mười lượng bạc, chúng ta mỗi người một nửa”.

A La kinh ngạc: “Đắt vậy sao? Có người ăn không?”.

“Muội yên tâm, của hiếm là của quý. Người giàu sẽ thích món này”.

A La nhẩm nhanh con tính, nếu vậy, không đầy mấy tháng mình đã trở thành triệu phú thời cổ đại rồi! Có thể rời tướng phủ, có thể đi ngao du tứ xứ, có thể tự do! A La chắp hai tay, mắt lim dim, miệng thầm thì: “Thời cổ đại cái gì có thể giúp kiếm được nhiều tiền nhất? Trí tuệ hiện đại! Cảm tạ thần linh đưa tôi đến đây mà không cướp đi ký ức của tôi, cảm tạ bà mẹ luôn bận rộn để tôi sống tự lập, cảm tạ bà chủ quán đã thu mười tám đồng bát canh...”.

Tử Ly cảm thấy buồn cười nhìn A La xúc động cầu khấn, khuôn mặt nhỏ nhắn như phát sáng, hàng mi rung rung như cánh bướm sắp bay, trong lòng trào lên nỗi thương cảm, chàng thở dài, nắm tay A La nói giọng chân thành: “A La, để đại ca chăm sóc muội được không?”.

A La sững sờ nhìn chàng. Trong mắt Tử Ly có một thứ khiến nàng giật mình, khiến nàng mơ hồ, khiến nàng lờ mờ hiểu ra, giống như khẩn cầu, giống như thương xót, giống như... Nàng kinh ngạc, cúi đầu cười: “Muội không ngờ ở đây muội lại gặp được một đại ca tốt với muội như vậy! Hy vọng huynh vẫn là bằng hữu cùng phường làm ăn của muội”.

Tử Ly vừa bực vừa buồn cười, ngẫm nghĩ có lẽ là do nàng ấy còn nhỏ, không hiểu ý mình. Đang định mở miệng thì có tiếng cười lạnh lùng vang lên: “Thì ra đã tìm được chỗ dựa mới ngang nhiên như vậy, khiến tiểu vương gia ta phí công chờ đợi!”.

Giọng nói lọt vào tai A La giống như tiếng sét, nàng sợ đến mức toàn thân run rẩy, ra sức trấn tĩnh, ngoái đầu nhìn, người đứng ở chân cầu thang chẳng phải Lưu Giác sao? Hắn ta đứng tựa vào đó một cách uể oải, dáng người thanh, ngũ quan tuyệt đẹp có một vẻ tuấn tú rõ ràng. Chỉ có điều mặt cười nhưng mắt lạnh như băng.

Tử Ly nói: “Tiểu vương gia cũng đến Thiên phong lầu dùng cơm?”.

“Vốn định thế, nhưng bây giờ không muốn nữa, cáo từ!”. Trong ngữ khí của Lưu Giác đã đặc mùi thuốc súng, lúc bỏ đi, A La cảm thấy ánh mắt lạnh băng của hắn ta dừng lại trên người mình, bỗng thấy tóc gáy dựng ngược.

Tử Ly nhìn vẻ khiếp sợ của A La, không nén nổi tò mò nên vội hỏi: “Hôm qua không đến chỗ hẹn với người ta sao?".

Tử Ly quen Lưu Giác ư? Phải một lúc lâu sau A La mới phục hồi thần trí: “Trong Đào hoa yến, muội không biết chàng ta là ai, đánh chàng ta ngất xỉu, trói vào cây, cướp bạc của chàng ta. Trong dạ tiệc thưởng nguyệt trung thu vừa rồi bị chàng ta nhận ra, hôm qua hẹn muội đến ven sông nam thành tỉ thí, nhưng nhà có việc muội không đi được”.

Tử Ly càng nghe, nụ cười trong mắt càng lộ rõ, không ngờ người như Lưu Giác lại bị chết đứng trong tay một cô nương bé nhỏ. Hình dung ra cảnh đó, không nhịn nổi, chàng cười ngất: “A La muội thú vị thật! Đừng sợ! Đại ca sẽ bảo vệ muội”.

A La nhìn Tử Ly thần sắc không đổi, cảm thấy tự tin hơn nhiều, nhưng cũng lại càng thấp thỏm, không biết thân thế người này lớn thế nào, dám chọc giận tiểu vương gia của phủ An Thanh vương. Tử Ly không nói, nàng cũng không tiện hỏi, thầm nghĩ, dù thế nào Lưu Giác cũng là tiểu vương gia của An Thanh vương, cháu ruột Ninh vương, loại công tử quý tộc này là không bao giờ chịu nổi ấm ức. Oán thù nên cởi không nên buộc, vẫn nên tìm Lưu Giác giải thích rõ, ngộ nhỡ liên lụy đến Tử Ly thì phiền lắm.

(*) Tiếng Trung Quốc "Sơn đệ" đọc là shan di, đồng âm với di san, nghĩa là người con thứ ba (ND).

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #leehom