cuuuuuuuu
Trước hết, các bạn có biết là 2 chân của chúng ta KHÔNG BAO GIỜ DÀI BẰNG NHAU KHÔNG? Nếu bạn ngồi dựa vào tường, hoặc ghế có lưng dựa thẳng, rồi duỗi 2 chân ra, sao cho chân và thân tạo thành 90 độ. (hãy nhờ ai đó dùng bàn tay nâng 2 gót chân của mình lên) Bạn hỏi họ xem hai gót chân có bằng nhau không? Bạn sẽ được trả lời là...so-le, cái dài, cái ngắn!
Nãm 1970, tôi có dịp du học ở Mỹ, và đến Salt Lake City thuộc Bang Utah. Một hôm tôi mượn con ngựa của 1 anh Mỹ dân địa-phương, và định cỡi chạy 1 vòng nhỏ chơi, nhưng không ngờ con ngựa trở chứng, nó phi nước đại, thẳng vào rừng, có những đoạn lên đồi, trên lớp lá khô, phía duới là lá mục nên con ngựa cũng trợt lên trợt xuống, làm tôi phát hoảng, nhưng vẫn cố đeo dính nó, vì sợ nó chạy mất, phải bồi thường! Ðến khi lên đỉnh của 1 cái đồi nhỏ, có một căn nhà rất lớn. Sau này tôi mới biết đó là căn Nhà Nguyện của Ðạo Mormon, Ðây cũng như Ðạo Tin-Lành, tách ra từ Ðạo Thiên-Chúạ. Chỉ có chút khác biệt là họ không có nhà Thờ, không Thờ hình-tượng của Ðức Chúa Giê-Su, mà họ chỉ có Nhà Nguyện, và cây Thập Tự Giá....Con ngựa dừng lại trước sân Nhà Nguyện, và thản-nhiên đứng ăn những cành lá của 1 loại cây lạ trước sân. Tôi bèn vội vàng phóng xuống và cột con ngựa vào luôn cây đó.
Có lẽ tiếng vó ngựa đã làm người trong nhà nghe tiếng, nên họ chạy ra, toàn là Mỹ Trắng, khoảng 30 người, và cỡ từ 15 cho ðến 50 tuổị Họ rất ngạc-nhiên khi thấy tôi, hỏi tôi là người nước nàỏ tôi chỉ đáp chung chung là ngườị."Du Học-Sinh"... Nhưng họ rất thân-thiện và sốt-sắng mời tôi vào nhà Nguyện, mời ăn uống, đồng-thời họ cũng trình-bày sơ về Ðạo, cũng như căn nhà Nguyện của họ. Họ nói cho tôi biết về 2 cái chân...so le của tôi!, coi như chênh-lệch khoảng 1,5cm!. tôi nghe chưa biết phải kiểm- chứng ra sao, thì may quá, cô con gái của chủ Ngựa chạy đi kiếm tôi cũng vừa mò đến trước sân. Tôi vội vàng kéo cô ta vàọ (Cô ta là người Mỹ gốc Ðức, theo Thiên-Chúa Giáo, và cũng là lần đầu tiên mới lên đến đồi này), Tôi nói cô ngồi trên ghế, cởi giày duỗi chân ra và...đúng vậy đó các bạn!, chân của cô ta cũng so-le!. Lúc ấy, nhóm người đạo Mormon mới nói là nếu tôi tin, họ sẽ đọc phép cầu Thiên-Chúa ban ơn cho 2 chân của cô bạn tôi, và tôi dài bằng nhau!. Tôi đề-nghị là để chân cô ta trên lòng bàn tay của tôi cho tôi coi trong khi họ cầu-nguyện, sau đó sẽ đến lượt cô bạn của tôi cầm chân của tôi !. Họ đồng ý và khoảng 10 người đứng sắp lại nắm tay nhau thành 1 vòng tròn, cô bạn tôi ngồi chính giữa trên 1 cái ghế có lưng dựa, tôi ngồi dưới đất và xoè bàn tay của mình, để 2 gót chân của cô bạn lên. Trước mắt tôi là 2 gót chân cái dài, cái ngắn!.
Nhóm người Mỹ bắt đầu đọc lời cầu-nguyện Thiên Chúa, dĩ-nhiên bằng tiếng Anh...Nhưng khi họ đọc được 1 chút thì bỗng nhiên cái tiếng Anh đó biến ra tiếng khác, không phải là tiếng Pháp (Tôi cũng có học Pháp Văn hồi nhỏ), cũng không phải tiếng Ðức (tôi biết chút tiếng Ðức vì cô bồ của tôi lúc đó là người Ðức!)... Thứ tiếng lạ lùng, nó gần như tiếng trộn lẫn của Tiếng Ấn-Ðộ, tiếng Miên, tiếng Lào, và tiếng Tháị! Lúc đó, tôi nhìn thấy 2 cái gót chân của cô bạn từ từ dài ra và bằng nhau ngay trên lòng bàn tay của tôi, cũng là lúc những người Mỹ ngưng đọc chú. Trong lúc họ đọc chú, ai cũng nhắm mắt lạị Tôi bèn hỏi là họ vừa đọc bằng ngôn-ngữ gì vậy, thì được trả lời rằng: "Lúc đầu chúng tôi chỉ cầu-nguyện bằng tiếng Anh, nhưng khi Ơn Trên làm phép lạ thì tự nhiên trong miệng chúng tôi phát ra thứ ngôn-ngữ đó và chính chúng tôi cũng không hiểu là gì cả. Ðó là...Holly Language!"
Ðiểm quan trọng tôi muốn thưa với quý vị là ở chỗ này, đây là TIẾNG ÂM ! Thứ tiếng mà người Mỹ trên 1 ngọn đồi ở Utah năm 1970 đọc lên đúng là thứ tiếng ở VN các Thầy-cao-tay-ấn đều biết dùng (Nhưng không có nhiều Thầy lắm đâu ) và chuyện trò với nhau, gọi là TIẾNG ÂM ! Vì thứ ngôn-ngữ này chỉ Thầy với Thầy nói với nhau, hiểu được nhau mà thôi, không có chữ viết!
Người Mỹ không biết đó là tiếng Âm, họ chỉ cho là tiếng của Trời, và họ phát ra bằng miệng, nhưng họ không hiểu ý-nghĩa của nó...Tôi không muốn làm họ phật lòng nên không dám nói, là vì 3 năm trước đó, khi tôi còn ở VN, 1967, 1 buổi tụ-họp huynh đệ trong Môn Phái tại nhà Thầy tôi, vì anh em gom lại cả 100 người nên tất cả đành quây quần ngồi xếp bằng trước sân nhà Thầy tạo thành 1 vòng tròn rất rộng.
Tôi, hôm đó được ngồi sát Ông Sư-Bá, trong khi các đệ-tử lần lượt ra đứng giữa vòng tròn để báo-cáo về thành quả võ-thuật hoặc phép-tắc đã luyện được cho Sư-Phụ và Sư-Thúc, Sư-Bá coi, bỗng có 1 anh đến sau, từ ngoài chạy chiếc xe đạp vào, thắng 1 cái két rồi phóng xuống đất, cho chiếc xe chạy không lủi vào bụi chuốị Anh ta mặt đỏ gay, làm tôi tưởng anh chàng này say, nhưng khi anh ta tiến gần đến vòng người ngồi, anh ta vội tháo cái đồng hồ ra, liệng vô bụi, rồi chắp tay lại xá lung tung và xổ ra 1 hơi tiếng gì lạ quá.. Thầy tôi (ngồi ở phía bên kia đốiđiện với tôi, rất xa vì quá nhiều người), lên tiếng nói 1 hơi cũng toàn là tiếng kiểu như vậy Tôi chẳng hiểu gì hết, bèn ghé tai hỏi nhỏ Chú Sư-Bá, Chú Sư-Bá liền trả lời tỉnh bơ: "Ðó là Tiếng Âm", đồng thời Sư-Bá cũng khẽ dịch từng câu đối-thoại giữa Thầy tôi và anh chàng mặt đỏ đó. Ðại-khái là Thầy tôi hỏi: "Ngài là aỉ tại sao lại nhập vô người nàỷ" Thì "Ông kia" xin lỗi, xưng danh là Thần...gì đó, nhân người đệ-tử của Thầy tôi luyện phép, hợp duyên nên muốn nhập vào để chào và thamđự cuộc hội của nhóm chúng tôi..." Hai người chuyện trò 1 lúc thì chàng mặt đỏ cung tay vái chào tứ phía rồi...té cái bịch! (Ðó là Thần đã rời xác thân anh ta) nên anh ta liền lồm cồm ngồi dậy, mặt hết đỏ, và ngỡ-ngàng, sượng-sùng chào mọi người, đồng thời hỏi: "Có Huynh nào thấy chiếc xe của tôi và cái đồng-hồ của tôi không?"
Lúc đó, tôi liền bỏ chỗ ngồi mà đi lại chen vô ngồi cạnh Thầy, khi mọi chuyệm êm xuống bình-thường, tôi liền hỏi Thầy là hồi nãy Thầy nói tiếng gì? chuyện gị vậỷ có thể chỉ cho tôi được không? " Thầy tôi cũng từ từ kể lại, đặc biệt là Tên của 1 Vị Thần nhập vào lúc nãy, 1 cái tên rất lạ với tôi nhưng lại đúng y như Chú Sư-Bá đã thầm dịch cho tôi nghe lúc trước! Như vậy, Sư-Bá của tôi và Thầy tôi đều biết dùng Tiếng Âm!. Sau đó tôi đi vòng vòng hỏi hết mọi người, thì mới biết là trên cả 100 người, chỉ có 5 người trong buổi Hội đó biết Tiếng Âm mà thôị
Hôm nay khi viết lại những giòng này, tôi vẫn thích thú khi thấy sự huyền-bí vô-biên của Trời Ðất. Các bạn có ngạc nhiên không khi nghe chuyện Ngư
ĐIÉU CÀY
"Nhớ ai như nhớ thuốc lào". Đặng Vi Yên, ngụ lâu đời ở Nam Định. Tầm thước, khoẻ, thông minh, sống rất điều độ. Mỗi tội nghiện hút thuốc lào từ ít tuổi. Khi Yên lên Hà Nội học đại học, hành trang có chiếc điếu cày.
Chiếc điếu Yên tự tay làm bằng tre đốt, dáng thon đẹp, nỏ cũng bằng tre. Dùng lâu năm, điếu lên nước nâu bóng; tiếng giòn, khói đượm.
Nhân gia đình còn chút của cũ, Yên thuê một túp nhà nhỏ ngay gần trường. Bạn bè thấy Yên ở một mình, thường tụ tập chơi bời ở nhà Yên. Lại trữ sẵn rượu và thuốc lào, góp vài chiếc cả điếu cày, điếu bát. Trong nhà Yên, ngọn đèn dầu không tắt bao giờ.
Được độ hai năm, Yên sinh chứng ho, ngày càng nặng. Cổ họng đau rát, kém ăn mất ngủ, gầy rộc. Ngậm thuốc gì cũng không khỏi. Yên quyết định bỏ thuốc lào. Khốn nỗi ngồi nhìn người khác hút suốt ngày đêm, thèm không nhịn nổi. Yên bèn cất đèn, giấu điếu, cáo bệnh chối khách. Bạn bè thưa dần, bệnh Yên cũng thuyên giảm. Những điếu cũ mỗi bạn cắp đi một chiếc, riêng điếu đem từ Nam Định lên, Yên nhất định không cho ai. Chẳng phải đề phòng có ngày hút lại, chỉ vì đã gắn bó với nhau, không nỡ trao vào tay người khác.
Qua nửa năm, chẳng thuốc thang gì, bệnh Yên khỏi hẳn. Yên sống còn điều độ hơn trước, tập cả dưỡng sinh. Song, không hút thuốc, Yên lại sa vào đam mê mới. Đó là một người con gái gần nhà.
Người con gái này, Yên mới gặp vài bận gần đây. Khi thì rửa chân bên máy nước, khi thì hóng mát cạnh hồ, lúc nào cũng xinh xắn, đáng yêu. Rất trẻ, chỉ độ mười lăm, mười sáu, thon thả yểu điệu. Khuôn mặt lúc nào cũng phảng phất buồn. Chỉ riêng những lần gặp Yên, nàng đều nhìn âu yếm và hơi mỉm cười. Yên thì thấy như đã yêu nàng từ những ngày xưa rồi. Đêm trăng sáng ấy, gặp nàng ở con đường nhỏ trong xóm, Yên rủ vào nhà chơi, nàng nhận lời ngay. Từ khi hỏi chuyện làm quen đến lúc Yên bế lên giường, nàng đều giữ vẻ mặt u buồn cũ. Chỉ đến khi hai đứa sung sướng tột độ nàng mới bật cười rít lên. Yên trước đó chưa gần gũi con gái bao giờ, cũng không thấy lạ, cứ tái diễn vài lần cho thoả. Qua nửa đêm nàng đòi về, chỉ cho Yên đưa đến chỗ hồ nước sau nhà.
Từ đó, đêm nào cũng lại, chiều chuộng Yên rất thành thục, chỉ có điều không bao giờ chịu tắt hết đèn trong phòng, đòi phải để một ngọn đèn dầu leo lét bên giường. Yên nghĩ nàng sợ ma nên cũngchiều; hơn nữa được ngắm khuôn mặt xinh đẹp của nàng trong lúc đầu gối tay ấp, lại càng thoả mãn.
Được một thời gian, bạn bè thấy Yên gầy hẳn đi, sinh nghi, hỏi han, Yên giữ kín không nói. Nhưng cũng tự thấy mình xuống sức, nhất là cổ họng đau lại, tức ngực khó thở, Yên bỏ cả tập khí công. Bị ho còn nặng hơn trước, Yên đâm ngờ bệnh trước cũng không phải tại thuốc lào. Nhân một bữa ngồi quán nước trong trường, Yên nghiễm nhiên vê một điếu, châm lửa hút trước con mắt kinh ngạc của chúng bạn. Lạ ở chỗ Yên bỏ lâu không hút mà không hề bị sặc khói, lại thấy thuốc có phần nhẹ. Nhân thể, Yên hút liền ba bốn điếu. Bạn bè rất mừng, toan bàn chuyện tụ tập ở nhà Yên, Yên nhất định gạt đi.
Tối hôm ấy, Yên đợi mãi không thấy tình nhân tới. Qua mấy hôm sau mới lại, vẻ hờn giận in hằn khoé miệng, không chịu nói với Yên một lời. Gặng mãi thì nàng khóc, rồi trách Yên không chung tình, đòi cắt đứt quan hệ. Yên cuống cả người, kêu oan. Van xin mãi nàng mới nguôi.
Hôm sau, Yên tìm chiếc điếu cũ cất dưới giường, đem ra đánh rửa sạch sẽ để hút lại. Thấy nõ điếu đóng xao sái dày, Yên thảo hẳn ra, cạo sạch, rồi bỏ đi mua thuốc lào.
Đem thuốc về tới ngõ, Yên gặp ngay người anh cả ở quê lên thăm. Yên vốn hiếu đễ, gặp anh mừng lắm, dặn anh ở nhà tắm rửa nghỉ ngơi, mình chạy ra chợ mua thức ăn về làm cơm thết. Trong bữa ăn, Yên lựa lời xin lỗi anh, nói dối là đang kỳ thi, tối có bạn đến cùng học, không còn chỗ. Cơm nước xong, anh vào nhà bà con trong phố.
Anh Yên vừa đi khỏi, cô gái đến ngay. Trông tươi tỉnh hơn mọi ngày, nhưng lại có vẻ bứt rứt khó tả. Đến khi Yên thắp đèn dầu, tắt điện, kéo nàng vào giường, nàng một mực chống cự, không chịu. Lấy làm lạ, hỏi, nàng cáo rằng đang kỳ thấy tháng, phải kiêng. Yên đâm ngờ, bèn ra chiều lả lơi, bất chợt đưa tay rờ, lạnh người vì thấy dưới lớp vải chỉ là một lỗ hổng lớn. Bị lộ, nàng vùng ra toan chạy, Yên lôi lại xem cho rõ. Bỗng thấy tay tóm vào khoảng không, mất đà suýt ngã người con gái biến mất. Bật đèn ngó quanh, chỉ thấy điếu mới rửa lúc chiều, còn quên chưa tra nõ.
Từ đó không ai thấy Yên hút thuốc lào nữa. Chỉ nghe đến tiếng rít điếu cày, Yên đã bủn rủn chân tay.
MỤ PHÙ THỦY
Đọc lướt xong bức thư sau cùng, tôi lơ đãng bóc một bức thư mà người thư ký của tôi để nguyên chưa mở. Có lẽ cô ấy nghĩ đây là thư riêng nên để nguyên niêm. Không biết đầu óc để ở đâu, tôi quên không coi địa chỉ người gởi, vì thế nội dung bức thư làm tôi giật mình.
"Vì chúng tôi không tìm thấy người bà con nào, trong khi dường như ông là người liên lạc thư từ và là khách thăm duy nhất của bà ấy nên chúng tôi xin báo cho ông biết là bà Miriam Winters đã qua đời. Bà ấy chết thanh thản trong giấc ngủ vào ngày 25 vừa qua". Ánh nắng đang chiếu qua mành cửa sổ văn phòng tôi bỗng trở nên lạnh lẽo. Tôi đang đứng khi mở bức thư, bây giờ, tôi đã ngồi xuống, xoay cái ghế bọc da một vòng, nhìn đăm đăm ra cửa sổ. Thế là, sau cùng, bà ấy đã chết. "Khách thăm duy nhất". Lạy Chúa, không hẳn thế ! Lần sau cùng gặp bà ấy là khi nào nhỉ? Năm năm? Sáu năm? Tôi nhớ có nhận được một thiệp mừng Giáng sinh và bà ấy cứ nhắc đi nhắc lại là tôi phải viết thư cho bà ấy. Bà ấy cô đơn, cô đơn ghê gớm vào những năm cuối cùng trong đời, ắt hẳn thế. Lòng tôi bỗng tràn ngập một nỗi ân hận, thứ cảm giác mà bạn thấy khi một người đã chết mà chưa thu xếp xong những việc còn dang dở.
Tôi chỉ là một thằng nhóc mười sáu tuổi khi họ thả ông Winters và vì thế, tôi có trách nhiệm về việc giải cứu ông ta. Tôi đi lăng quăng mùa thu năm đó, vênh váo như một anh hùng đáng nguyền rủa. Tôi không ý thức được sự lố bịch của mình cho đến sau này. Tôi không trở lại Wilton Falls nhiều năm qua và tôi không biết họ có còn kể cho con cháu họ nghe chuyện xảy ra mùa thu năm ấy hay không. Tôi không biết họ vẫn cứ kể lại câu chuyện theo cách đó - tạo ra một huyền thoại Miriam - mụ phù thủy? Vâng, họ lầm. Bà ấy không phải là phù thủy. Tôi đã được nghe bà ấy kể lại hết.
Xoay cái ghế bọc lại bàn giấy, tôi nhìn bức thư một lần nữa. Thật kỳ lạ ! Nhưng có thể tôi là người còn sống duy nhất đã nghe tất cả câu chuyện kể lại bởi chính bà ấy. Chắc chắn báo chí không cho bà ấy có cái quyền đó. Chắc chắn báo chí không bao giờ cho bà ấy có được dịp kể lại tất cả sự việc. Họ quá mê mải viết những bài giật gân về sự khủng khiếp bà ấy đã gây ra.
Quả thật, đó là một chuyện khủng khiếp.
Tôi không bao giờ chối bỏ điều đó. Tôi cũng không tha thứ việc bà ấy đã làm. Nhưng định mệnh đã đưa vào tay tôi trọn vẹn tấn bi kịch mà không ai có được. Vì thế, tôi luôn luôn nghĩ khác về Miriam Winters.
Lâu Đài Ma quỷ
1. Ngày ... tháng ... - Chương trình chào buổi sáng xin kính chào quý vị. Tôi là Pai và đây là Zen zen. - Cô phát thanh viên mặc bộ đầm màu hồng nhạt vừa mỉm cười vừa quay sang nhìn bạn mình - Chào Zen zen, hôm nay chúng ta có gì đây?
Zen zen, cô phát thanh viên có nụ cười rất xinh với hai má lúm đồng tiền và bộ trang phục màu vàng nhạt khẽ lật mấy trang tư liệu:
- Xin chào mọi người, chào Pai, hôm nay chúng ta có rất nhiều điều thú vị. Harry Potter cuối cùng đã được xuất bản tới tập 6, cuộc đua xe toàn quốc đang bước vào vòng cuối, và cái gì đây nhỉ, một đám cháy lớn.
- Ồ đúng rồi - Pai tiếp lời - Tin tức lớn nhất mà hôm nay chúng tôi muốn gửi đến quý vị xem truyền hình là tin về vụ cháy lớn tối hôm qua tại ngoại vi thành phố. Chắc rằng các bạn đều đã biết, lâu đài Oil là một trong những di tích lịch sử lâu đời nhất ở nước ta. Con số khách thăm quan lâu đài hàng năm chiếm tỷ trọng hơn 70% số lượt khách du lịch tới thành phố ta. Nhưng một điều đáng tiếc đã xảy ra, vào tối hôm qua, lúc khoảng 1 giờ sáng, lâu đài đã thình lình phát hoả. Dù lực lượng cứu hoả đã cố gắng hết sức và đám cháy đã được dập tắt vào lúc 5 giờ sáng nay nhưng lâu đài đã bị cháy rụi hoàn toàn.
- Vâng, và mặc dù có sự cố gắng rất lớn của đoàn cứu hộ, bà quả phụ Kea và con trai bà, Patmol cùng toàn bộ gia nhân trong nhà đều đã thiệt mạng trong đám cháy - Zen zen nói tiếp - Quả là một mất mát rất lớn. Ngài Oil đã mất cách đây hai năm và giờ đây, vợ và con trai duy nhất của ngài cũng cùng gặp nạn một lúc. Dòng họ Oil là một trong những dòng họ có truyền thống lâu đời... - Chờ đã Zen zen - Pai vội ngắt lời - Không phải tất cả đều chết hết. Vẫn còn một người sống sót, đó là cô cháu gái 16 tuổi của bà Kea, Umidol. Cô bé đã đến chơi tại lâu đài Oil nhân dịp nghỉ hè. May mắn cho cô bé là lúc lâu đài phát hoả, nữ cảnh sát Rei Hino đã có mặt kịp thời để cứu cô. Cô bé đã được đưa vào viện trong tình trạng rất hoảng loạn về mặt tinh thần, nhưng may mắn là không có một vết thương nào nghiêm trọng trừ một vài vết bầm tím xây xát. Hiện tại, phóng viên của đài chúng tôi vẫn không thể tiếp cận được với cô bé vì lí do sức khoẻ. Theo một nguồn tin đáng tin cậy, lâu đài phát hoả là do có một người hầu đã bất cẩn trong lúc sử dụng đường ống dẫn gas lần cuối cùng. Ngọn lửa bùng lên quá bất ngờ trong lúc mọi người đã đi ngủ, nên không ai kịp kêu cứu. Đây là bài học cảnh báo lớn cho những gia đình sử dụng gas nhưng không có thiết bị đảm bảo an toàn.
- Ồ, lại là Rei Hino, nữ cảnh sát quả cảm xinh đẹp của chúng ta - Zen zen reo lên - Tôi rất mê cô ấy đấy. Thật là một kỳ tích. Lao mình vào đám cháy để cứu một cô bé trong khi cả một quân đoàn cứu hoả đã không làm được gì, biết nói thế nào đây nhỉ. Pai này, ngài thị trưởng có nên đặc cách bổ nhiệm cô Rei làm đội trưởng đội cứu hoả không, khi mà họ đã mất ba tiếng đồng hồ chỉ để kéo sập nốt những phần còn lại không cháy hết của lâu đài.
- Có lẽ nên như vậy, cô ấy sẽ có cách để cải tổ những chàng trai áo cam của chúng ta. Và bây giờ là tin về vòng đua cuối cùng của ....
Người đàn ông vận bộ vest màu xám từ nãy vẫn ngồi chăm chú bỗng đưa tay tắt phụt vô tuyến. Ông quay lại nói với hai người đứng sát sau lưng:
- Lại hỏng việc rồi, Kitanai, Lucifer. Chúng ta lại phải đợi ít nhất là 16 năm nữa rồi. Đó không phải là một thời gian dài, nhưng cũng làm ta thấy hơi mệt mỏi đó.
Ông ta đưa cặp mắt nghiêm khắc nhìn hai người. Kitanai và Lucife cùng cúi đầu, không dám nói gì. Không khí trong phòng ngột ngạt mặc dù điều hoà đang chạy hết công suất. Bỗng cánh cửa phòng bật mở, rồi một cô hầu gái bước vào:
- Thưa ngài, bữa tối đã sẵn sàng rồi ạ.
Người đàn ông đặt cái điều khiển vô tuyến lên bàn, không quay đầu lại:
- Vậy hả, là tóc vàng hay tóc đen.
Cô gái cúi đầu:
- Là tóc nâu ạ. Da trắng, mười bảy tuổi.
- Hừm, hơi già một chút, nhưng thôi cũng được. Dấm đã đun sôi chưa.
- Dạ, tất cả đã sẵn sàng hết rồi ạ.
- Vậy thì tốt - Người đàn ông thong thả đứng lên - Lần sau các ngươi phải cần thẩn thận hơn đó, Kitanai, Lucife, không có nhiều thời gian đâu. Giờ chúng ta đi thôi. Món này không nên để lâu, sẽ mất tươi đó.
Kitanai và Lucifer thở phào, bước vội theo, không ngờ được rằng mình đã qua truông một cách đơn giản như thế. Dù sao đây cũng có thể coi là một may mắn sau những chuỗi thất bại mà hai người vừa gây ra.
Họ đều đã có mặt ở đó, tất cả sáu người. Ông Sen trong bộ "đồ lớn" lịch sự, đi đi lại lại tỏ vẻ sốt ruột. Ông Huyện Lý hai tay chắp sau lưng, ngắm nghía bức vẽ thủy mặc, thản nhiên như một khách dự cuộc triên lãm. Ngồi trên hai chiếc ghế gỗ trắc, khảm xà cừ đối diện nhau là Phan Vỹ và Dương Ba. Họ không trò chuyện cùng nhau, vì cả hai cùng như đương mê mải suy tính một việc gì... Còn hai vợ chồng ông Ba Cự thì đứng ở bên cửa sổ, trò chuyện thầm thì bằng tiếng Quảng Đông, vì tuy ăn vận Việt phục, bà Ba Cự, một Hoa kiều, thường nhật vẫn rất ít khi dùng tiếng Việt...
Khi thanh tra Trúc Tâm tay xách chiếc cặp da bước vào phòng thì mọi người cùng dồn nhìn về phía chàng thám tử. Lê Vương đi theo sau, lặng lẽ ngồi xuống bên chiếc bàn nhỏ, sửa soạn giấy tờ đê sẵn sàng ghi chép...
Mọi người đều đã ngồi xuống ghế, chung quanh chiếc bàn rộng kê ở giữa phòng... Trúc Tâm đằng hắng, rồi mở đầu:
- Thưa quý vị, hôm nay tôi mời quý vị tới họp tại đây là vì tôi đã tìm ra manh mối vụ án mạng ông Phạm Viên, xảy ra trong ngôi biệt thự này, cách đây mấy ngày, đúng vào ngày 14 tháng mười...
Nói tới đây, Trúc Tâm ngừng lại, liếc mắt nhìn cử tọa, như muốn tìm xem phản ứng họ ra sao... Một lát, chàng thám tử trẻ tuổi mới lại tiếp:
- Tôi chỉ xin nhắc sơ lược lại câu chuyện đã xảy ra... Thứ bảy tuần trước, ông Phạm Viên, giám đốc hãng xuất nhập khẩu đã bị ám sát. Quý vị sáu người đều có mặt khi xảy ra án mạng. Quý vị đều là bạn quen biết lâu ngày của ông Phạm Viên, nên thường lệ, hàng tuần, cứ tối thứ bảy thì ông lại mời tới chơi đây, họp mặt làm vui... Như chỗ tôi biết thì ông Huyện Lý là một người bạn cũ từ thời cắp sách đi học của ông Phạm Viên, còn ông Dương Ba thì là người vẫn thường giao dịch buôn bán với kẻ bị thiệt mạng cũng đã có tới non chục năm nay.
Ông Dương Ba gật đầu, công nhận lời nói của Trúc Tâm là đúng. Viên thanh tra lại tiếp:
- Còn ông Phan Vỹ thì lại là cháu của Phạm Viên. Thường thường mỗi khi ở dưới tỉnh lên có công chuyện gì thì ông vẫn thường lưu lại ở nhà chú ông, như nhiều người đều biết. Ông Sen thì tuy giữ chức trưởng văn phòng trong hãng xuất nhập khẩu nhưng có thê cũng là một thư ký riêng của Phạm Viên, hơn nữa lại là một người bạn thân tín mà có lẽ Phạm Viên không hề giấu giếm một chuyện gì. Hình như kẻ bị thiệt mạng, bữa đó mời ông dự bữa cơm tối thứ bảy, cũng còn có ý muốn nhân dịp này tính toán kỹ lại một vụ "làm ăn" gì đó...
Ông Sen gật đầu:
- Ông nói đúng, tối hôm ấy, hãng cũng đang dự định đê xin xuất cảng lông vịt sang Nhật Bản...
Trúc Tâm hỏi lại:
- Hình như ông Sen tới nhà riêng của Phạm Viên dùng cơm là lần đầu, phải không?
- Vâng... và tôi nói thêm đê ông biết rằng: tuy ý ông Phạm Viên định bàn bạc với tôi về vụ lông vịt, nhưng rốt cuộc, câu chuyện lan man ông cũng không có dịp nói riêng với tôi lúc nào cả...
Trúc Tâm gật đầu, đồng ý rồi quay sang phía vợ chồng ông Ba Cự, nói tiếp:
- Ông bà Ba đây thì ai ai cũng biết là người đại diện cho hãng tại Hương Cảng. Ông bà mới về chơi thăm quê, nên tiện dịp, ông Phạm Viên mới mời ông bà lại ăn cơm tối.
Bà Ba Cự quay sang nói với chồng một câu tiếng Tàu. Kế đó ông Ba gật gù mà bảo thanh tra Trúc Tâm rằng:
- Nhà tôi đương tỏ ý lo lắng rằng ông Phạm Viên đột ngột chết đi như thế này thì không hiêu rằng chi nhánh của chúng tôi ở Hương Cảng sẽ hoạt động cách nào đây?
Trúc Tâm gật đầu, nói:
- Việc ấy kê ra cũng hơi phiền phức đấy, nhưng chắc sao rồi cũng có cách tiếp tục mọi công việc doanh thương... Ngay bây giờ, chúng tôi cùng quý vị sẽ cố gắng tìm cho ra thủ phạm đê cho người thiệt mạng đỡ phần uất hận. Trước hết, tôi xin phép quý vị tường thuật lại việc xảy ra trong đêm ấy như thế nào... Sau khi mọi người ăn uống xong xuôi, thì ông Phạm Viên xin lỗi mọi người trở về phòng riêng, vì trong người ông hơi mệt mỏi.
Chủ nhân có nói:
- Xin quý bạn hãy cứ tự nhiên ở chơi đây... Vị nào ưa âm nhạc thì nghe nhạc... vị nào muốn xoa mạt chược thì cũng cứ tùy thích lập bàn. Có lẽ lúc nãy tôi uống hơi quá chén, nên bắt nhức đầu... Tôi xin phép về phòng riêng nằm nghỉ trong chốc lát, không chừng, tôi sẽ trở qua.
Chừng một giờ sau, lúc ấy đã 11 giờ 15, ông Phan Vỹ vừa đánh xong ván mạt chược, đứng dậy, nói:
- Quý ngài có ai dùng Bisquit không? Đê tôi đi rót vài ly uống chơi cho hứng thêm!
Mọi người cùng đồng ý nhưng khi Phan Vỹ cầm chai Bisquit lại thì rượu chỉ còn vừa rót đầy hai ly thôi... Phan Vỹ bèn đi xuống nhà dưới đê lấy chai khác lên uống... Mọi việc xảy ra như vậy có đúng không?
Chính Phan Vỹ gật đầu, bảo:
- Đúng, tôi thường ở đây, nên biết nhà chú tôi cất rượu, ở căn phòng thứ hai, tầng dưới...
Trúc Tâm kê tiếp:
- Ông Phan Vỹ xuống dưới nhà, và trong khi ông cầm chai rượu lên tầng trên, ông có khai rằng: không hề nghe thấy tiếng gì khác lạ cả. Lại theo lời khai của toàn thê quý vị thì sau chừng ba, bốn phút, ông Phan Vỹ cầm chai rượu lênvừa kịp mở cửa phòng ra, vừa toan bước vào, thì có tiếng súng nổ ở phía trên lầu ba, tức là nơi phòng riêng của ông Phạm Viên...
Mọi người cùng gật đầu:
- Mọi việc đã xảy ra đúng thế!
Trúc Tâm lại tiếp:
- Sau đó, mọi người cùng nhau chạy lên trên lầu, và thấy cửa phòng ông Phạm Viên mở hé, chiếc tủ cũng như mấy ngăn kéo bị kẻ lạ mặt lục tung, vứt bừa bộn, còn chính chủ nhân thì nằm sóng sượt trên chiếc ghế xích-đu, ngực bị trúng một viên đạn súng lục cỡ 6,35 xuyên thủng phổi, nên đã chết tự lúc nào... Cuộc điều tra tiến hành cho biết: hung phạm vào hạ sát ông Phạm Viên có lấy được số bạc chừng 7, 8 ngàn đồng mà ông bỏ trong hộc tủ...
Nhìn khắp mọi người một lượt, Trúc Tâm lại thong thả tiếp:
- Theo lệ thường, trong các cuộc điều tra, trước hết chúng tôi tìm biết: kẻ nào sẽ được lợi sau khi Phạm Viên chết đi. Nhưng đối với tất cả 6 vị ở đây, tôi đều thấy ai ai cũng có thê có duyên cớ hợp lý đê... hạ sát Phạm Viên đê hoặc là cầu lợi, hoặc là trả một mối thù riêng, mà họ đã giữ kín từ lâu nay...
Thấy cử tọa có vài người muốn nói, Trúc Tâm giơ tay cản lại, mà tiếp luôn:
- Những điều tôi nói đây đều có chứng cớ xác thực, vậy xin bất tất ai phải chối cãi làm gì... Riêng có điều: khi tiếng súng nổ, kết liêu đời Phạm Viên, thì tất cả 6 quý vị ở đây, đều có mặt trong phòng khách cả, vậy lý đương nhiên, không một ai có thê nhúng tay vào vụ ám sát này...
Nghe Trúc Tâm nói tới đây, mọi người như trút được gánh nặng, thở phào khoan khoái... Ngưng lại ít phút, Trúc Tâm lại nhìn mọi người mà hỏi:
- Trong quý vị đây, mấy bữa trước có ai đi xem chiếu bóng hay tuồng kịch gì không?
Ông Ba Cự đáp:
- Tôi và nhà tôi mấy bữa trước có đi coi gánh Hoàng Thanh diên vở Huyền Châu Nữ...
Vừa nói, ông Ba Cự vừa sờ vào túi, như có ý định tìm hai cuống vé vào cửa, nhưng ông bỗng lắc đầu:
- Quái, tôi nhớ lúc tôi móc túi lấy gói thuốc hút, còn thấy hai cuống vé trong túi, không hiêu tôi lại vứt đâu lúc nào rồi...
Trúc Tâm mỉm cười, nói:
- Cái đó không sao... Bây giờ, tôi chỉ xin quý vị hãy chú ý lắng nghe tôi nói...
Tuy tuyên bố như vậy, nhưng Trúc Tâm chỉ vén tay áo coi giờ, rồi ngồi lặng thinh, như chờ đợi cái gì, chứ chửa nói năng chi hết. Khoảng năm phút sau, chàng thanh tra thám tử mới lớn tiếng hỏi:
- Anh Năm có đấy không?
Một tiếng trả lời vọng lại, đáp:
- Có, cái chi đó, anh?
Trúc Tâm ra lệnh:
- Khởi sự đi anh Năm!
Thế là chưa đầy hai phút sau, một tiếng nổ rền từ lầu ba vọng xuống... Trúc Tâm hỏi mọi người:
- Quý vị có nghe thấy gì không?
Mọi người cùng đáp:
- Có tiếng súng nổ, đúng như đêm xảy ra vụ án mạng.
Trúc Tâm mỉm cười, rồi đúng lúc Phan Vỹ vùng đứng lên thì Trúc Tâm cũng đã áp tới, rút khóa tay, còng ngay hắn lại. Và Trúc Tâm cắt nghĩa:
- Phan Vỹ giết ông Phạm Viên không ngoài ý muốn sang đoạt gia tài, vì ông Phạm Viên không có con cái chi hết. Tên cháu bất lương này có lẽ đã tính toán từ lâu... Mà không chừng, hắn đã tập diên thử và thấy mọi lớp lang sắp đặt đều hoàn toàn đúng nhịp... Chai Bisquit, hắn cũng đã đê sẵn từ trước, chai gần cạn thì là một cớ cho hắn đi ra ngoài, còn chai đầy hắn đê sẵn giấu trong chiếc giỏ đựng đầy giấy, bên phòng làm việc bên cạnh đấy.
Nghe tới đoạn này, ông Ba Cự nói:
- A, tôi nhớ ra rồi, hai cuống vé coi hát, hồi chiều hôm ấy, tôi có vứt vào giỏ đựng giấy, khi ngồi tính toán công chuyện với ông Phạm Viên...
Trúc Tâm mỉm cười nói tiếp:
- Chính nhờ có cuống vé coi hát, dính ở dưới trôn chai rượu mà tôi biết được rõ rệt vụ này... Khi nói đi lấy rượu thì Phan Vỹ đã lên nhanh trên lầu, bắn chết Phạm Viên, rồi hắn đặt một chiếc pháo vào trong một chiếc lư đồng lớn, bày trên tủ chè, châm ngòi đốt. Nhanh nhẹn, Phan Vỹ trở xuống dưới nhà, lấy chai rượu đầy, mở cửa vào phòng khách... Vì lần trước cửa đóng nên không ai nghe thấy tiếng súng nổ, còn lần sau, tiếng pháo nổ mọi người cùng nghe vì hung phạm đã khôn ngoan mở rộng cửa lúc bước vào trong... Tất cả kế hoạch của Phan Vỹ chỉ nhằm một mục đích: làm sao cho mọi người tưởng ông Phạm Viên bị bắn khi hắn lại có mặt ở đây!
giấc mơ
Khi vô tình nghe mấy nữ đồng nghiệp trong phòng kể nhau nghe về mộng mị chiêm bao, anh giật mình. Bất chợt, anh nhận ra đã rất lâu, mình không có một giấc mơ nào. Bất kể đó là một giấc ngủ ngắn ban ngày hay cả giấc ngủ dài ban đêm. Anh không thể nhớ một chút gì. Trống trải hoàn toàn trong bộ nhớ của anh. Dĩ nhiên, anh không phải là một nhân vật ra gì để được đưa vào một phòng thí nghiệm Y khoa nào đó mà ghim mà gắn vào đầu những dây nhợ lằng ngoằng, xem anh thật sự không mơ hay chỉ đơn thuần vì anh không thể nhớ ra được khi tỉnh thức.
Anh loay hoay với sự việc kỳ lạ xảy ra cho bản thân cả tuần vất vả. Anh chẳng dám hỏi ai, kể cả mấy thằng bạn thân nhứt, mà thật ra anh thì có mơ mà có bạn thân. Vợ anh thì khỏi bàn, cô ấy thậm chí không quan tâm tới chuyện anh có ngủ hay không nữa. Giá có một thằng con - dù nhỏ xíu - anh sẽ thầm thì với nó như cái gã trong truyện đời xưa nói thầm chuyện bí mật vào đất để chôn đi.
Loay hoay mãi, anh đâm ra khủng hoảng. Như một cơn bão đến từ từ, chậm mà chắc, lừ đừ mà mạnh dần lên trông thấy.
Anh thử cho đông hồ reo giữa đêm - vào nhiều giờ giấc khác nhau - thầm mong việc bất chợt thức giấc sẽ không làm anh quên béng cái chiêm bao vừa xảy ra - nếu nó có trong giấc ngủ của anh. Suốt một tuần sau đó, anh trắng tay, thua cuộc hoàn toàn. Không một tăm tích, không một mảy may. Những giấc mơ đã bỏ rơi anh thiệt tình, bỏ rơi mà không thèm một thông tin báo trước nào.
Anh đứng khổ ngồi sở. Sẵn sàng nổi cọc với bất cứ ai. Anh tin mình mắc một cơn bịnh khắc nghiệt. Vô phương cứu chữa.
Tự dày vò mình thêm một tuần, rồi một tuần nữa, anh đi tới một quyết định.
Nơi văn phòng anh làm việc ở lầu tư một cao ốc mười lăm từng, có một cửa sổ trông xuống sân sau một chung cư. Cái sân thường xuyên vắng ngắt bởi đa số dân cư ngụ nơi ấy là công nhân viên. Họ đi làm suốt ngày, đám con nít thì vùi đầu vào trường bán trú tới chiều. Anh ước lượng từ thành cửa sổ xuống tới cái mặt sân tráng xi-măng lúc nào cũng ướt át ấy cũng đâu mười hai mười ba mét. Một khoảng cách đủ để một người dù nhẹ cân một cách khó tin như anh phải đạt được thoả nguyện chấm dứt đời mình, khi lao ra từ thành cửa sổ.
Chắc như bắp.
Khỏi có vụ chấn thương sọ não hay dập ngực dập bụng sơ sơ.
Là xong. Khỏi phiền luỵ cả Nhà lẫn Nước. Ngành Y tế đâu rảnh mà phải bỏ tiền tài sức lực mà lo cho một công dân rệp bọ như anh.
Chẳng có gì để chuẩn bị nhiều ngoài một chúc thơ đơn giản và ngắn gọn. Chỉ để những đồng nghiệp trong phòng khỏi khi không dính vô rắc rối lãng òm.
Đợi cho đám đồng nghiệp cả nam lẫn nữ rời phòng xuống ăn bữa trưa, anh đứng lên, bước tới cánh cửa, gài chốt. Phải tránh rủi ro cho thiên hạ, lỡ ra một kẻ nào đột ngột quay trở lại lúc anh đang leo lên thành cửa sổ. Lúc đó, rắc rối phát sinh, cái hình ảnh chẳng lấy gì làm đẹp đẽ của anh biết đâu sẽ ám ảnh không tha trong đầu óc kẻ kia. Điều đó thiệt chẳng nên.
Trước khi leo lên thành cửa, anh quay nhìn một lần chót nơi mình làm việc đằng đẵng năm năm trời. Quen thuộc đến nhàm chán. Anh chợt nhận ra một điều. Nếu cõi bên kia là có, và anh còn đủ thông minh để có hồi ức, có lẽ đây là nơi duy nhất anh sẽ nhớ. Ký ức thời sinh viên nhạt nhoà như bóng ma thoắt ẩn thoắt hiện. Mối tình duy nhứt lạt lẽo như nước ốc để nguội. Căn nhà trọ ở với vợ trước khi ly thân vỏn vẹn hai tháng anh còn chẳng nhớ được quét vôi màu gì. Người vợ tốc hành con nít sau một cơn say xỉn đang nguyền rủa. Chỉ chưa đầy sáu mươi ngày đêm đã đùng đùng cuốn gói về nhà Mẹ chờ ngày ly dị. Chẳng có gì đáng nhớ trong cái chuỗi ngày dài vô vị của đời anh.
Một cái gì thật ngậm ngùi buồn tủi dâng lên cổ làm anh muốn nghẹn. Anh cảm thấy khó thở. Anh vội vội vàng vàng đi như chạy tới thành cửa sổ. Leo lên, không nhìn xuống, anh cẩn thận một cách tỉ mỉ và chậm rãi, gài lại nút túi áo mà trong đó anh đã xếp làm tư lá chúc thơ viết ngắn gọn đại thể tự nhận hết trách nhiệm về hành động của mình, ngỏ lời xin lỗi cấp trên và đồng nghiệp về những công tác bị bỏ dở.
Ngước mặt lên bầu trời đang nắng gắt, anh hít rất sâu một hơi thở. Nhắm mắt lại và bước ra.
Trong khoảnh khắc và khoảng cách giữa cửa sổ với mặt sân xi-măng, trong anh nổ bùng một thứ gì có thể coi như chân lý.
Bất chợt, anh nhớ ra, anh đã thật sự vuột mất, trong một thời gian dài, những giấc mơ không chỉ trong khi ngủ, mà quan trọng hơn, cả khi tỉnh thức. Anh đã sống mà không còn mang trong đầu bất cứ một giấc mơ nào. Hy vọng, mộng mơ, là một cái gì cực kỳ xa lạ với anh. Anh chợt cười rú lên, mừng đến điên loạn khi tìm thấy cái nguyên nhân làm mình trở thành một người không đáng sống.
Những người có mặt gần nơi xảy ra vụ việc, đoan chắc với nhà chức trách rằng họ có nghe một tiếng rú thảng thốt. Tuy nhiên, căn cứ vào lá chúc thơ, và nhất là, cánh cửa khoá trái từ bên trong, người cán bộ công an phụ trách điều tra, kết luận đây là một vụ tự sát hoàn chỉnh. Người vợ - người thân độc nhất của đương sự - khai rằng đã không gặp mặt anh ta suốt ba tháng qua, cô vừa trở về sau chuyến du lịch bốn nước Âu châu kéo dài hai mươi ngày với bạn mình.
--------------------
Dưới đây là một truyện ngắn giá trị của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Nhung, mô tả những diễn biến rùng rợn của một chuyến vượt biên, trong đó tác giả là nạn nhân. Truyện được viết dưới dạng tự thuật, nên lôi cuốn từ đầu đến cuối, khiến người đọc vô cùng hồi hộp, như được sống lại những kỷ niệm hãi hùng của ngày xưa vượt biên.
Ghe chòng chành giữa dòng nước, tôi sợ hãi ngồi bám chặt mạn thuyền, mắt láo liên nhìn trời đêm sáng lờ mờ ánh trăng mười chín. Chúng tôi ngồi dồn đống trong khoang thuyền. Hai tên đàn ông to người chèo ghe gõ nhẹ trên mui báo hiệu đã đến nơi tạm an toàn, chúng tôi có thể cử động đôi chút. Người chèo mũi vén tấm lá che mui nhìn vào.
"Bây giờ mình phải đi bộ một khoảng, tui dẫn hai người một lần. Chia ra để khỏi lộ. Mấy người khác cứ ngồi đợi đến phiên, nhớ đừng nói chuyện lớn tiếng."
Hắn dẫn hai người đàn bà ngồi sát cửa mui đi trước. Cả đám ngồi đợi ẩn nhẫn. Tim tôi chưa hết hồi hộp đập thình thịch thể như bất cứ người nào ngồi gần cũng đều có thể nghe được nhịp ấy. Phong nắm tay tôi. Tay Phong đẫm mồ hôi và lạnh. Tôi phải ngồi bệt và khom lưng, hai đầu gối co đụng cằm, gọn lỏn trong lòng Phong. Khoang ghe quá chật cho mười người ngồi lèn nhau, phía ngoài còn tấn mấy buồng chuối mùi nhựa nồng chát. Bên trái tôi, cha mẹ Phong dúi sát nhau. Một bé trai độ bốn, năm tuổi, bị uống thuốc ngủ, nằm im lìm trong lòng cha nó. Bà vợ ngồi kế bên, chân trái đạp chân tôi nhưng hình như bà không biết và tôi cũng không thể dời chân đi nơi khác. Đành chịu. Người con gái ngồi kế có lẽ là em gái bà, mặc bà ba đen như gái quê, mặt từa tựa nét.
Khí trời đêm hơi lạnh nhưng bên trong khoang, nóng hầm hơi người. Hình như cái nóng hậm hực ấy tăng gấp bội vì trộn lẫn với nỗi căng thẳng bập bùng ngập ngụa không gian. Tôi lén nhìn đồng hồ giấu trong ngực áo. Khoảng 2g15 sáng. Tôi thì thầm nơi tai Phong "Hơn hai giờ sáng rồi anh." Phong gật nhẹ đầu. Người đàn ông chèo lái ngồi im như pho tượng. Đôi khi ánh mắt của hắn lấp lánh nhẹ dưới ánh trăng khi chớp. Cái mũi dài mang nét khoằm khiến mặt hắn lộ đầy vẻ gian ác nhưng nụ cười nở rộng với hàm răng thưa làm giảm bớt ấn tượng xấu nơi người đối diện. Hắn mặc áo bà ba đen, tay áo xắn quá cùi chỏ.
Người đàn ông đưa hai người đàn bà lội bộ băng qua hàng cây thấp trở lại. Hơi thở của hắn nóng hôi hổi phà ngay mặt tôi khi thò đầu vào khoang kêu người đàn ông ẵm đứa con ngủ mê mệt. Người chồng bò ra đằng lái, vác đứa bé trên vai như vác bị gạo mò mẫm bước lên bờ. Vấp phải vật gì trên bờ đất, ông chúi nhủi suýt té, tay cố giữ thằng bé, người lảo đảo bước quàng xiên lòm khòm rồi mới đứng thẳng lên được.
Tên đàn ông dẫn đường mặc áo sơ mi màu nâu đen, quần tây nhàu nát ống nhỏ túm hơi ngắn trên mắt cá, có chỗ sờn, đôi dép mỏng. Hắn ta tương đối trông được hơn người ngồi lái. Với nước da tái, môi thâm vì thuốc lá nhưng lại vẽ nên một nụ cười thật đẹp với lúm đồng tiền bên trái, kẽ răng đóng nhựa thuốc. Đôi mắt mí to với hàng mi rậm, duy có ánh mắt của hắn là không thẳng thắn, còn ngoài ra hắn dễ dàng lấy cảm tình của người xa lạ với giọng nói trầm và chậm.
Tôi và Phong chưa bao giờ gặp hai người đàn ông này. Chuyến đi này chúng tôi qua trung gian bởi người bạn thân giới thiệu. Người bạn đó đã đến Mã Lai an toàn, chính vì vậy mà tôi và Phong mới tin tưởng nơi người trung gian này. Hơn nữa, chuyến đi có cả gia đình người thân gì đó của người trung gian cùng đi, như vậy thì không có gì để chúng tôi lo ngại. Thường là chắc ăn, người trung gian mới dẫn gia đình đi sau khi đã mối lái nhiều lần có vàng có tiền làm của hoặc manh mối bắt đầu bị lộ. Ba mẹ Phong và tôi phải xuống Cần Thơ, giả đi thăm bà con. Tôi mặc hai bộ đồ trên người, giấu theo ít vàng và nữ trang. Phong mặc quần áo nhăn nhíu không ủi. Mẹ Phong thì mặc bà ba quần thâm. Ba Phong thì vận đồ rách, vá chùm vá đụp mấy chỗ, chân mang dép rách quai cột nối bằng cọng kẽm. Tất nhiên là không dễ gì qua mắt người miệt quê đó nhưng hình như họ cảm thông (hay tội nghiệp) trước sự trá hình không mấy chỉnh nên tôi thường bắt gặp ánh mắt ái ngại nhìn mà không dám hỏi vài lần suốt đường đi.
Đến nơi, cả bốn được dẫn đến một căn nhà nằm dựa mé sông chờ đến tối mới xuống ghe nhỏ theo sông ra cửa biển nơi có ghe lớn đợi sẵn. Trong nhà có độ hơn mười người khác đợi sẵn khi chúng tôi đến rồi chia nhóm theo ghe. Tôi dặn Phong tìm cách đi chung với người trung gian, bảo đảm hơn. Phong gật nhưng gia đình người đó cả thảy là tám, thêm hai người thì vừa đủ cho một chuyến. Nhưng tôi lẫn Phong đều không muốn đi tẻ riêng thành ra đành phải chờ chuyến chót, mười người, hơn mười giờ tối.
Thoạt đầu, ngồi chen chúc trong khoang, tôi muốn ngộp thở với hơi người và mùi bùn non lẫn mùi nước đọng hôi hám nơi đáy ghe. Hai người chèo bắt chúng tôi khom lưng gần như nằm mọp xuống, tấn bên ngoài dằn bên trên, mấy buồng chuối xanh ngắt sau khi đậy bao bố tời dơ bẩn lên đầu mọi người. Đường đi may mắn yên tĩnh không có chuyện gì xảy ra tuy rất chậm và kéo dài như không bao giờ đến nơi.
Người đàn ông dẫn đường trở lại, kêu bà vợ và cô em gái của bà cùng đi. Tôi chợt ngửi phải mùi nồng tanh tưởi nơi áo hắn khi hắn nghiêng người khều vai bà vợ. Bỗng dưng tôi nghe lợm giọng không hiểu tại sao. Cái mùi thật lạ lùng. Bóng tối trong khoang không cho phép tôi nhìn rõ mặt hắn. Mùi tanh đến lạ. Hơi thở của hắn cũng nặng nề hơn. Tôi thì thào với Phong sau khi hắn đã đi.
"Anh có nghe mùi gì không?"
"Không. Mùi gì?"
"Có mùi tanh tanh kỳ lắm... "
Phong bâng quơ qua chuyện.
Mùi bùn đó mà."
Cũng khá lâu người đàn ông dẫn đường mới trở lại. Có thể hắn đi không lâu lắm nhưng khi chờ đợi thì năm ba phút dễ biến thành năm ba giờ. Chỉ còn bốn người trong khoang. Hai tên đàn ông bàn tính nho nhỏ trên bờ. Tôi bỗng nghe gai ốc nổi đầy người. Tôi nắm chặt tay Phong. Mồ hôi tươm ướt lưng. Người đàn ông đẹp trai kêu chúng tôi ra khỏi khoang. Hắn nói, giọng khoan thai.
"Bây giờ tui dẫn ông bà đi, hai người một. Để khỏi mất thì giờ, hai người đi với anh Ban, hai người đi với tui. Tụi tui đi hai đường nhưng đường nào cũng dẫn tới chỗ ghe lớn. Đi đông nhiều tiếng động dễ bị lộ. "
Rồi không đợi phản ứng của người nào hết, hắn hất hàm người mũi khoằm tên Ban, đẩy cha mẹ Phong về phía đó. Quay nhìn hai đứa tôi, hắn cười, hàm răng lởn nhởn dưới ánh trăng, bóng đen lúm đồng tiền nổi rõ trên má, rồi hắn quay lui bắt đầu đi về phía rừng cây thấp. Phong nắm tay tôi đi theo hắn. Rừng cây tối mờ dù là rừng thưa, bóng lá đen ngòm trên đường lồi lõm. Tôi vấp té loạng choạng nhiều lần, đi chậm hẳn lại.
Chợt một nhánh cây đập vào mặt đau điếng, tôi khựng lại, giằng tay khỏi tay Phong rồi đỡ nhánh cây cúi người lom khom. Bỗng dưng, tôi nghe thấy... không chắc mình nghe đúng, nhưng tứ chi chai cứng. Thứ âm thanh nhọn như tiếng mèo gào giữa khuya. Tim tôi đập nhịp cuồng. Tôi quờ quạng tìm tay Phong. Chàng đứng sát tôi, chợt tôi cảm thấy cả người mệt mỏi và thỏng dài. Người đàn ông dẫn đường quay nhìn hai đứa tôi. Bóng tối mờ nhưng tôi vẫn thấy được ánh mắt kỳ lạ của hắn. Bỗng nhiên nỗi sợ hãi ùa tới tràn ngập người tôi với sự im lặng kỳ lạ của người dẫn đường không thúc hối khi thấy chúng tôi khựng lại. Hắn không hề kêu chúng tôi nhanh bước. Thời gian đứng khựng và cả ba đứng im như chờ đợi phản ứng của nhau. Chợt Phong kéo ngược tay tôi chạy trở lại hướng vừa rời đi lúc nãy. Tôi chạy cuống cuồng theo tay kéo mù loà. Rừng cây như mê hồn trận, chúng tôi chạy bất kể mọi thứ.
Rồi cả hai cũng trở lại được bờ sông nơi ghe cặp bến. Người đàn ông tên Ban đang cúi khom lục lọi chi nơi bóng đen nằm im bên chân hắn. Tôi đứng sựng kêu không ra tiếng. Miệng lưỡi dính thành một khối nghèn nghẹn. Bóng đen dưới chân hắn là mẹ Phong, nửa trên loã thể, tư thế co quắp, mặt úp xuống bùn. Ban hình như cũng không ngờ sự có mặt của tôi và Phong. Hắn đờ người, tay còn cầm sợi dây chuyền vàng lòng thòng. Trong khoảnh khắc chúng tôi nhìn hắn, nhìn cái búa bửa củi vất bên chân. Tôi không thấy máu vì bóng đêm làm nhoè bẩn mọi thứ. Nỗi sợ hãi dâng lấp trí óc. Ý nghĩ lướt thật nhanh trong đầu. Tôi đã hiểu tại sao chúng muốn dẫn từng hai người một. Tôi sực nhớ đến người dẫn đường. Đầu óc hoảng sợ nhưng vẫn còn sáng suốt để nghe rõ tiếng chân chạy đuổi và tiếng la của hắn đâu đó "Ê Ban, coi chừng tụi nó chạy. Ban! Ban! Tụi nó chạy rồi!" Phong vụt chạy về chỗ neo ghe. Tôi chạy theo tay níu của Phong đến sát mé nước, chân vấp vật gì. Tôi ré lên như đạp phải giòi. Nhìn xuống, ba Phong nằm nửa người vùi dưới nước. Phong khựng lại vì tiếng la của tôi rồi đẩy tôi ra sông. Tôi sặc sục, nước mới ngang ngực. Phong hét vào tai tôi.
"Lội mau lên, lội ra giữa sông."
Tôi bơi hối hả, tay chân nặng chình chịch vì hai bộ đồ ướt nước. Tôi quay cuồng tứ phía, không rõ mình bơi về hướng nào mới đúng. Tiếng người la hét sau lưng nghe chói tai đến độ hãi hùng. Một tràng đạn bắn vãi quanh tôi và Phong. Chàng đè đầu tôi ngụp xuống nước. Không mấy lâu, tôi ngộp thở hất tay Phong trồi lên hớp không khí. Súng nổ liên hồi như sát mang tai. Tôi luýnh quýnh đập tay chân loạn xạ, chưa đầy mấy phút đã mệt lả. Tôi càng ráng trồi lên chừng nào thì lại càng chìm xuống nhanh chừng nấy. Tôi lặn hụp lên xuống như người sắp chết đuối. Có lẽ nhờ vậy mà tôi tránh được đạn bắn xối xả chung quanh. Phong khi lặn kéo tôi hụp xuống, khi nổi đẩy tôi trùi tới. Tôi bơi tới tấp với cảm tưởng mình nổi ì một chỗ. Đầu óc tôi rối loạn nhưng hình như vẫn tỉnh táo, rất tỉnh táo để thấy ánh trăng mờ trên cao, cây cối đứng im nơi bờ, bóng nước lấp lánh quanh mình, hơi thở hào hễn, cơn mệt muốn đứt hơi và mấy bóng đen trên bờ với loạt đạn dữ dội. Tôi bơi như máy, hơi thở dần ngắn với nước tuôn vào mũi mồm sặc sục. Biết mình không đủ sức, tôi thả ngửa để Phong vịn vai đẩy đi. Hình như chúng tôi đã ra được giữa sông. Tôi nhìn vào bờ, chỉ thấy dạng cái ghe, hai bóng đen tàn ác nhoè lẫn trong bóng đêm nhưng ánh lửa nháng với tiếng nổ vẫn hiện hữu. Tôi đạp chân phụ sức với Phong, mắt nhìn thẳng lên lòng đêm có trăng sao đầy đủ. Trời đất có đó nhưng hình như bịt tai im lặng trước hành động dã man. Tôi nhẩm cầu những đấng tối cao mà tôi có thể nghĩ đến trong nhịp tim hỗn loạn.
Tiếng súng bỗng im. Sự im lặng hãi hùng đè chụp lấy tôi. Tiếng đập nước vùng vẫy của chúng tôi bỗng trở thành tiếng động duy nhất rõ mồn một trong đêm. Tôi lật sấp người lại tiếp tục bơi, bờ bên kia vẫn còn xa thăm thẳm. Có bơi mới thấy con sông không nhỏ như tôi tưởng khi còn ngồi trên ghe. Phong nhìn lại rồi nói qua hơi thở đứt quãng.
Ánh Sáng Xanh Trên Mồ
Tác Giả: K. Walton
Bạn tôi mang thai vì bị cưỡng hiếp, nhưng cô ta can đảm giữ lại cái thai đó cho đến chín tháng khổ nhọc. Sau đó, cô đã sanh ra một đứa bé trai vào tháng mười hai năm 1992. Lúc đó chúng tôi chỉ là bạn ở cùng phòng.
Khi sanh ra, đứa bé rất là yếu. Vừa chào đời, đứa bé phải vào phòng mổ để mổ tim. Bạn tôi thấy vậy nên nói với tôi rằng cô không thể chăm sóc một đứa bé bệnh hoạn như thế, nên tôi đã nhận đứa bé làm con nuôi và chăm sóc cho nó.
Ðứa bé ở trong bệnh viện được sáu tháng. Rồi, chúng tôi đem về nhà, nhưng đứa bé chỉ sống được thêm một tháng rưỡi nữa thì chết. Tôi rất là đau khổ vì tôi thương đứa bé thật nhiềụ Khi đứa bé chết, tôi đau lòng như là chính con ruột của mình chết vậỵ Tôi thường ra nghĩa địa thăm mộ đứa bé đến 4 - 5 lần mỗi ngàỵ Vì tôi nghe có người đồn rằng đừng nên vào nghĩa địa sau 4 giờ chiều vì sẽ quấy nhiễu người chết, cho nên tôi chỉ đến nghĩa địa thăm mộ đứa bé trước khi trời tốị
Nhưng một đêm, vì cái gì đó thúc giục tôi phải đi đến nghĩa địạ Ðêm đó khoảng mười giờ, tôi không ngần ngại lên xe và lái đến nghĩa địạ Mộ của đứa bé nằm ở ngay cổng trước, thường thường khi vào trong nghĩa địa tôi lái thẳng đến mộ của đứa bé và tắt máy ngồi ở trong xe chứ tôi không dám bước ra ngoài vì sợ thú hoang ở chung quanh (vì lúc trước tôi đã thấy một con gấu), vì vậy nên tôi ngồi trong xe và nhìn ngôi mộ đứa bé rồi thúc thít khóc. Ðêm hôm đó, nhằm ngày rằm nên trăng tròn sáng tỏ, vì vậy tôi mới mạnh dạn bước ra khỏi xẹ Bỗng nhiên, ngay khi ấ y, một vùng ánh sáng màu xanh dịu hiện ra phía trên ngôi mộ. ánh sáng màu xanh đó tỏa sáng khoảng năm thước ngay trên ngôi mộ của em và có hình dạng giống như chữ V lật ngược, nó đã chiếu sáng trong vòng mười phút. Lúc đó tôi không thấy sợ sệt gì hết, nhưng vì thấy hơi kỳ lạ cho nên tôi vội vã bước lên xe rời nghĩa địa ngay sau khi ánh sáng đó hiện lên chừng hai phút. Tôi lên xe và đề máỵ Tôi đề đến 5, 6 lần nhưng máy vẫn không nổ. Cuối cùng tôi đành ngồi đó trố mắt nhìn vì kinh ngạc. ánh sáng hiện ra trong vòng mười phút thì tan đị Ngay khi ánh sáng biến mất, tôi liền đề thử máy xe một lần nữa thì chiếc xe lại nổ máy được và tôi vội lái ra nghĩa địa liền.
Ðúng một tuần sau, khoảng tám giờ tối, tôi và bạn của tôi (người mẹ của đứa bé) cùng với bà chị của cô ấ y, đang ngồi trong phòng khách xem truyền hình thì tôi thấy chiếc nôi nhỏ, mà chính tay tôi đã chọn mua, đang lơ lửng bay trên không ngang qua phòng khách. Lúc đó tôi cũng không sợ gì cả, vì tôi nghĩ là đứa bé làm. Ngoài ra, vào một đêm giữa khuya khi thức giấc, tôi thấy đứa bé mặc bộ đồ khi chôn ngồi trên một đám mây, ngay dưới chân giường của tôi, bé đã mỉm cười với tôi rồi từ từ biến mất.
Tôi nghĩ tất cả những hiện tượng đó đều là dấu hiệu từ em muốn cho tôi biết rằng đừng có buồn phiền vì cái chết của bé, vì bé đã không còn đau đớn vì bệnh hoạn nữa
Khi tôi đến bấm chuông ở ngôi nhà số 2924 Garden Avẹ, San Jose, CA 95111 vào lúc 03:00 giờ chiều ngày 26-11-2002 thì một người đàn bà đứng tuổi, có làn da mịn hồng đã mở cửa bước ra mời tôi vào nhà. Cánh cửa rất hẹp mặc dầu ngôi nhà cũng khá rộng. Qua khỏi cửa, tôi ngửi thấy mùi nhang khói và mùi trầm hương cùng với mùi nước hoa quyện vào nhau ở bên trong căn nhà. Người đàn bà lại mở một cánh cửa rất hẹp vừa cho tôi nghiêng người lách qua để đi vào một căn phòng khác nằm chếch bên trái của cửa chính ra vào. Đây là cả một thế giới huyền bí của người đàn bà đã gọi điện thoại cho tòa soạn Việt Báo để mời tôi đến thăm cơ sở kinh doanh của bà ta.
Cơ sở của bà là một căn phòng nhỏ lối hơn 10 thước vuông. Khắp bốn bức tường và ngay trên cánh cửa vào phòng đều được dán kín với những hình bùa phép, các tượng ảnh mang những biểu trưng bí ẩn gì đó. Phía tường ngay lối cửa là một bàn thờ đủ các loại thần linh và tượng Phật theo điêu khắc của Thái Lan. Chung quanh bàn thờ là các lá bùa vẽ rồng rắn khó hiểu và dưới chân tượng Phật là các loại hoa quả, và đặc biệt có mấy mâm chứa đầy trứng vịt sống với nhang đèn nghi ngút. Bức tường đối diện với bàn thờ là bàn làm việc của người đàn bà được đặt sát một cửa sổ nhỏ làm bằng kính mờ.
Người đàn bà ngồi vào chiếc ghế phía sau bàn làm việc, lưng bà sát vào cái kệ tủ có nhiều ngăn lộ thiên đặt những cái khay lớn nhỏ khác nhaụ Trên từng mỗi cái khay có những hàng chữ viết bằng chữ Việt dán lên như những ngăn tủ thuốc có đề tên trong một tiệm thuốc bắc. Các hàng chữ ghi rõ như "Bùa đem chồng con về", "Phép uống thương", "Bùa hộ mệnh bình an", "Phép sang bán xe nhà tiệm quán", "Phép đốt móng", "Giải bùa thư yếm", "Phép đốt", "Bùa lớn", "Nàng Quốc", v.v...
Tôi ngồi xuống cái ghế duy nhất đặt đối diện với người đàn bà. Sát cái bàn ngay bên cạnh tôi là một tủ sắt nhỏ có từng ngăn chia thành nhiều hàng và mỗi hàng lại ngăn ra từng ô nhỏ bên ngoài đề các tên khác nhaụ Nhìn qua lớp kính mỏng tôi thấy bên trong giống như là những loại rễ cây hoặc lá khô.. Người đàn bà đưa tay bật sáng cây đèn loại dành cho bàn viết và chiếu ánh sáng vào phía những ngăn nhỏ trên tủ sắt rồi nói:
- Đây là 100 loại Ngãi quý nhất mà tôi có đủ. Tôi cam chắc rằng hiện nay có nhiều người nuôi Ngãi, nhưng không ai có những loại Ngãi quý hiếm nầy.
Người đàn nhìn tôi chăm chú như muốn xem phản ứng của tôi như thế nàọ Bà ta chìa ra trước mặt tôi một tờ Việt Báo đã cũ và một tờ giấy ghi tên tôi, địa chỉ tòa soạn Việt Báo và số điện thoại:
- Tôi đã đọc bài của ông viết về nhiều cơ sở trên Việt Báo rất vô tư và xây dựng. Có một cái chợ tôi tưởng rằng nó đã chết, nhưng nhờ bài viết của ông mà nó sống lại sầm uất. Tôi đã ghi tên ông và địa chỉ để liên lạc nhưng tôi phải đi về Thái-Lan thỉnh phép một thời gian. Nay trở lại San Jose, tôi mạnh dạn gọi điện thoại mời ông đến xem xét công việc của tôi đang làm.
- Bà có thể vui lòng cho tôi biết bà làm nghề gì? Việt Báo chỉ giới thiệu người thật, việc thật, công việc hợp pháp mà thôị Sự giới thiệu là hoàn toàn miễn phí.
Người đàn bà đưa ra Giấy Phép Hành Nghề và nói: "Xin gọi tôi bằng Cô là được rồi." Tôi chưa có chồng và không bao giờ được phép gần đàn ông về thể xác. Đây là License của tôị Việc làm chính của tôi hiện nay là "Làm phúc, là cứu người".
Tôi nhìn khắp căn phòng, dưới chân bàn thờ có hình mấy người đã chết... Trên khung cửa vào phòng có thờ hàng chữ của Đức Mohammed là nhà Tiên Tri của Hồi Giáo. Tôi hỏi người đàn bà:
- Cô xem chỉ tay, tướng số, bói bài phải không?
- Không, tất cả những thứ đó tôi đều biết, nhưng không xem bói toán cho aị Ngoại trừ có ai đó thân tình cần tôi giúp. Tôi xin nói thẳng rằng tôi là một Thầy về Bùa Ngãi chuyên nghiệp nhưng tôi không làm chuyện thất đức, không dùng Bùa Ngãi để thư yếm hại ai bao giờ. Ngược lại tôi đã giúp cho bao nhiêu gia đình tan nát được đoàn tụ hạnh phúc. Những người bỏ vợ, bỏ chồng đi lang chạy theo người khác tôi đã giúp kéo họ trở về sống lại với nhau.
Tôi giúp cho những người bị mất của được tìm lại tài sản đã mất; giúp cho người ta tránh được tai nạn chết chóc; giúp cho các người kinh doanh được mua may bán đắt, có nhiều khách... Nói tóm lại, tôi chỉ muốn giúp ngườị. Tôi cũng giúp giải cứu nhiều người bị các thầy bùa ngãi độc ác thư yếm mà đã đi nhiều nơi nhưng không ai giải phá cứu được. Và đặc biệt là tôi có thể chữa được một số bệnh như bị phong thấp bại xuội, bị mặt đầy mụn nhọt ghẻ lở.
Tôi sẽ chữa lành cấp tốc mà tôi không hề lấy của ai đồng xu nào khi tôi chữa trị giúp họ. Những ai bị tê thấp không giở tay lên được hay không bước đi được, tôi chỉ đọc lời cầu chú và cào vuốt chỗ đau lập tức họ sẽ khỏi trong vòng lối 15 phút. Người bị bệnh lâu vài chục năm thì ít ra cũng phải được tôi chữa trong lối 3 lần mới hết.
Trong khi nói chuyện với bà thầy Bùa Ngãi, phái viên Việt Báo nghe điện thoại của bà hầu như cứ năm bảy phút lại reo lên liên tục. Nhiều người gọi xin hẹn giờ hay xin thỉnh bùa, thỉnh phép. Tôi hỏi người đàn bà:
- Mỗi người khách cô lấy bao nhiêu tiền?
- Tôi không lấy bao nhiêu cả. Chữa trị bệnh hoàn toàn miễn phí. Những ai đến thỉnh Bùa, Ngãi hay cần giải cứu thì tùy theo kết quả mà họ đạt được, họ đến trả lễ bao nhiêu là tùy hỷ. Có người cho tôi vài đồng, có người cho vài chục, nhưng cũng có nhiều người cho tới vài trăm hoặc vài nghìn Đô-La.
- Như vậy chắc cô kiếm được nhiều tiền lắm vì tôi nghe điện thoại xin gặp cô liên tục.
Ngưới đàn bà đưa ra trước mặt tôi nhiều tờ báo xuất bản tại Việt Nam như Báo Lao-Động, báo Tuổi Trẻ, báo Công An, báo Phụ Nữ và cả báo viết bằng tiếng Anh có tên là Saigon Times. Những báo đó xuất bản phát hành các năm khác nhau và đều có bài viết và hình ảnh đăng tải về người đàn bà mà tôi đang tiếp xúc. Trên báo Saigon Times xuất bản tháng 9 năm 2000 có bài viết ký tên Le Toan với tựa đề "ỤS. Family Gives Food Parcels to The Poor" đã viết rằng "SGT-HCMC) A Vietnamese family living in the ỤS. town of San Jose have donated 2,000 food parcels valued at VND40,000 each for distribution among poor residents of HCMC's District 4 during the family matriarch's annual Vietnam visit..." (Tạm dịch: Một gia đình ở San Jose đã tặng 2,000 gói lương thực trị giá 40,000 đồng VN mỗi gói cho dân nghèo Quận 4, Sài Gòn, khi họ về thăm nhà hàng năm...)
Bên cạnh bài viết là hình của người đàn bà đang trao gói quà cho một phụ nữ nghèọ Dưới tấn hình ghi là "Mrs Le Khanh hands a food parcel to a poor woman".
Trong khi đó tờ báo Kinh Doanh & Tiếp Thị trong một bài khác có đăng hình ảnh của bà LỆ KHANH đang trao quà cho những gia đình nghèo tại Quận 4 Sài-gòn vào ngày 04-9-2001. Bài báo thường thuật rằng Bà Lệ Khanh sống tại San Jose đã về Việt Nam tặng quà lần thứ 13 cho 2.000 gia đình nghèo mỗi gia đình một phần quà gồm gạo, bột ngọt, mì gói, dầu ăn, nước tương, muối bột.
Ngoài ra bà Lệ Khanh cũng tặng 300 phần quà tại Quận 8 Sài-gòn trong dịp Tết Trung Thu và cho các Hội Bảo Trợ, các nhà tình thương, các mái ấm trẻ em đánh dày và thiếu nhi ngoài đường phố mỗi nơi 100 Mỹ-kim. Bài và ảnh chụp do phóng viên Cẩm Thanh viết nói rằng đây là lần thứ 13 bà Lệ Khanh phát tặng quà cho người nghèo tại Sài-gòn. Những bài báo khác xuất bản tại Sài-gòn có đăng hình ảnh và bài tường thuật bà Lệ Khanh đang phát tặng quà Noel cho 1,000 hộ gia đình nghèo tại Phường 12 Quận 4 Sàigòn.
Người đàn bà chuyên nghề Bùa Ngãi đưa cho tôi xem các quảng cáo của bà đăng trên vài tờ báo tại San Jose và nói với tôi:
- Tôi không được ăn thịt. Hằng ngày khách thập phương đưa gà, vịt và hằng giỏ đầy trứng, trái cây đến cúng tổ, tôi nuôi Ngãi xong là cũng bỏ đị Thực phẩm hằng ngày của tôi là do người thập phương cho tôi ăn. Tôi chẳng thiếu thốn gì cả. Tôi chỉ giúp người và nếu có ai cho tiền bạc hay gởi tiền cúng tổ, tạ ơn thì tôi thu gom mang đi làm việc nghĩa, làm việc bố thí từ thiện cho dân nghèọ Tôi về Việt Nam và đã tặng thực phẩm cho người nghèo được 13 lần. Những lần đầu thì chỉ tặng cho 1.000 gia đình nghèo thôi, nhưng những lần sau thì 2.000 gia đình, rồi mới đây là nhiều hơn.
Khi tôi tặng quà thì có chính quyền địa phương, báo chí và cả Công An của CSVN đến kiểm soát. Tôi chỉ giúp người nghèo mà thôị Và vì vậy, tôi chỉ làm chuyện tốt, không dùng bùa ngãi để trục lợi cho cá nhân mình hay đi hại người khác. Tôi không cần tiền cho cá nhân tôi nên chẳng có ai có thể dùng tiền bạc để sai khiến tôi làm bậy như thư yếm hại phá người nào.
Báo Saigòn Times ghi bà Lệ Khanh 68 tuổi, tôi hỏi về cá nhân bà, bà kể:
- Tôi có thể nói tiếng Việt Nam và có tên Việt Nam là LỆ KHANH, nhưng tôi không phải là người Việt. Tôi là người Thái-Lan, thuộc một bộ tộc thiểu số gốc Chăm tại vùng núi Shakhon miền Bắc Thái-Lan. Bộ tộc tôi theo Mẫu Hệ, tên ông ngoại của tôi là Thầy Bùa Ngãi Kha-Mắt-Kham Bi-Rô kiêm Già Làng trong toàn bộ tộc. Tên thật của tôi là KHA-LAY-MAỴ Chúng tôi theo Hồi Giáo nhưng không cuồng tín và không chấp nhận khủng bố. Theo tục lệ, mỗi đứa trẻ sinh ra đều được bộ tộc dành cho một cái hủ chứa các viên sỏi để tính tuổi của mình.
Lúc tôi được 8 viên sỏi thì tôi bị bệnh nặng và mê man nhiều ngày. Ngoại của tôi đã dùng bùa ngãi chữa cho tôi lành bệnh. Nhưng ngay sau đó trong bộ tộc bị bệnh dịch tả gây chết hằng loạt và dân khắp vùng kéo đến yêu cầu đốt tôi thành tro vì cho rằng tôi đã chết mà nay sống lại làm con Ma Lai về giết hại dân buôn bản. Ông Nội tôi là nhà chân tu Phật Giáo Thái Lan đã bàn với ông Ngoại tôi và hai gia đình đành chuẩn bị thực phẩm gởi tôi cho một đoàn người buôn lậu đưa ra khỏi vùng. Khi ra đi, ông ngoại tôi cho tôi mang theo một túi bùa ngãi mà tôi được huấn luyện từ khi mới lên 3 viên sỏi.
Ngoại đọc bùa chú cho tôi đi và nói rằng khi tôi lớn lên là không được gần đàn ông và phải làm nghề bùa ngãi để cứu nhân độ thế. Đoàn buôn lậu đưa tôi băng rừng trong nhiều ngày đêm và cuối cùng đến gởi tôi tại một già làng thuộc buôn Thượng ở khu vực Mai Thôn gần Đà-Lạt. Khi tôi được 12 tuổi thì tôi hái lan rừng mang ra chợ Đà-Lạt bán và tôi được gặp một phụ nữ Việt Nam tên là LỆ KHANH, đã đưa tôi về nhà ở chung để giúp đỡ tôị Tôi thực sự ở với chị Lệ Khanh vào lúc tôi 16 tuổi và tên thật của tôi là KHA-LAY-MAY nên cả nhà gọi tôi là MAY.
Tôi nói được tiếng Thượng, tiếng Thái và nay chị Lệ Khanh dạy thêm cho tôi tiếng Việt. Chồng chị Lệ Khanh là anh Trần Văn Hải, đã quyết định đưa gia đình về Sài-gòn sinh sống vào khoảng năm 1970. Tôi đi theo và nhờ đó tôi có dịp quen với các anh chị đào kép Cải Lương. Tôi kiếm được ít tiền và sang lại Đoàn Cải Lương Hoa Anh Đào - Kim Chưởng để làm bầu gánh một thời gian. Thời gian nầy tôi có dịp trở lại Thái-Lan tìm về nguồn gốc của tôi. Tôi đã tìm được các thầy Bùa Ngãi cấp đẳng cao cường và được truyền lại các bí quyết trong nghề Bùa Ngãi nhưng tôi phải thề không được dùng Bùa Ngãi để ếm hại người khác.
Đến năm 1971 thì chị Lệ Khanh bị bệnh và qua đời. Anh Trần Văn Hải chồng chị làm việc cho Mỹ ở Kho 5 có 3 đứa con gái và tôi thay chị Lệ Khanh để lo cho các con của chị mà tôi xem như con ruột của mình. Chúng cũng gọi tôi bằng mẹ mặc dầu tôi nhỏ tuổi hơn chị Lệ Khanh. Sau khi Việt Cộng chiến Sài-gòn, anh Hải đưa các con về làm rẫy tại Long Khánh gần Trại giam K3 tức Z30D. Tôi cũng đi theo và một hôm lúc tôi đang làm rẫy, thấy anh em tù Sĩ quan cải tạo đi qua rách rưới và đói khát, tôi kiếm tiền mua đường thẻ ném cho anh em chia nhaụ Tụi Việt Cộng bắt gặp và bắt giam tôi, đánh đập tôi tàn nhẫn rồi nhốt tôi 2 năm tại trại B5 Biên Hòa về tội làm gián điệp cho Mỹ Ngụy
Bà Kha-Lay-May kể tiếp: "Khi ra khỏi tù, tôi nghĩ phải tìm mọi cách ra khỏi Việt Nam vì sống với Cộng Sản thì các con của chị Lệ Khanh chẳng thể nào có được tương laị Thế rồi, tôi quyết định dùng bùa ngãi để nói chuyện với Cục Quản Lý Xuất Nhập Cảnh của Cộng Sản tại Sài-gòn. Tôi lấy giấy tờ của chị Lệ Khanh sinh năm 1940 nay đã chết và khai là giấy tờ của tôi. Anh Hải là chồng của chị Lệ Khanh nay trên giấy tờ là chồng của tôi và các con của chị đều là con tôi cả. Tôi lấy Oxy Già để nhuộm vàng tóc của một đứa con gái và Cán bộ Công An ở Sài-gòn đã giúp tôi khai giấy tờ là tôi có chồng tên là Trần Văn Hải, sau đó chồng tôi bỏ mấy mẹ con tôi đi theo người khác nên tôi đi làm sở Mỹ nên quen với một lính Mỹ và có riêng một đứa con gái lai Mỹ.
Rồi sau khi Cộng Sản vào thì chồng tôi trở về lại nên gia đình tôi sum họp và chồng tôi cũng có công giúp tôi nuôi đứa con gái lai Mỹ thành ngườị Nhờ đó, khi đi phỏng vấn thì cả gia đình anh Hải và tôi đã được xuất cảnh đến San Josẹ Chúng tôi nay vào quốc tịch Mỹ và mua nhà tại 2924 Garden Avẹ, San Jose, CA 95111, Tel. (408) 365-8043. Tôi mang ơn Việt Nam và nay tôi hành nghề bùa ngãi để nếu được ai cho đồng nào thì tôi lại mang về giúp đỡ những người nghèo khổ tại Sài-gòn. Ở San Jose, nhiều thầy bùa ngãi người Miên thường ăn tiền để đi thư yếm người khác.
Tôi đã giải bùa cho nhiều người Việt Nam gặp nạn bị thư yếm và tôi đã cứu họ được sống. Tôi giúp cho nhiều người làm ăn thịnh vượng và giúp trị các người bị phong tê thấp liệt tay chân. Những bệnh như thế tôi chỉ đọc lời khấn và vuốt vài cái là họ có thể hết ngay tức thì. Tôi không lấy tiền khi giúp người bệnh. Những ai bị mụn đầy mặt, tôi cũng chữa khỏi ngay và da mặt họ sẽ láng o như da mặt của tôi. Những người đến trị mụn tôi cũng không lấy tiền, tuy nhiên họ có thể cho anh Hải một vài đồng vì anh ấy sát trùng dụng cụ. Những ai mất của, hãy mang theo một đứa bé trai từ 8 tuổi đến 10 tuổi. Ðứa bé đó sẽ nhìn vào bàn tay của tôi và thấy được ai là người đã ăn cắp giống như nhìn lên màn ảnh TV để xem phim vậy.
Việt Báo viết bài nầy như một chuyện lạ để đọc giả tìm hiểu. Giữa thời đại văn minh tại sao có những hiện tượng bùa ngãi lạ lùng nầy. Những ngày kế tiếp sau đó, phái viên Việt Báo bất chợt đến xem một số khách đến xin giải bùa hay xin tìm của bị mất. Một phụ nữ bỏ toàn bộ nữ trang và $30,000 tiền mặt vào trong một chiếc giày ống cao cổ để định mua Mobile Home, nhưng đã bị mất sạch và bị người chồng chửi rủa thậm tệ là lấy tiền cho traị Người vợ được bạn giới thiệu đến xem và đã dắt theo một đứa cháu trai 9 tuổi của bên chồng và không cho đứa bé biết trước chuyện gì.
Khi thằng bé nhìn vào bàn tay phải của bà Kha-Lay-May, nó nói: "Cô ơi, con thấy chú Tám lấy một chiếc giày ở dưới giường ra và thò tay vào trong chiếc giày lấy ra một gói đồ gì đó...và...chú Tám lái xe đem gói đồ đến đưa cho Cô Út".
Người phụ nữ mất của đứng bật dậy như cái lò xo: "Trời ơi, ông chồng tui. thế mà cứ chửi tui hoàị. lấy hết gia sản qua đưa cho em ruột không biết đang tính chuyện gì đây!" Người phụ nữ mừng rỡ bỏ vào lọ cúng tổ 30 Mỹ-kim và bước ra ngoài. Người phụ nữ xin miễn ghi tên tuổi vì sợ nói ra bỉ mặt người chồng! Chuyện nghe thật khó tin, nhưng đang có thật trong một đất nước văn minh hiện đại như Hoa Kỳ.
Bút Máu
Tác Giả: Vũ Hạnh
Tìm Kiếm:
Lương Sinh người ở Mãn Châu, con nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh đỉnh ngộ từ khi tóc để trái đàọ Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng.
Năm lên mười hai, gặp thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết. Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn, mất ngủ, lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng, luôn luôn giật mình, nằm mơ thấy toàn là máu lửa, sọ xương. May có người cậu đem về săn sóc đêm ngàỵ Sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa Dương dùng biệt dược trị liệu nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh điều hòạ Khi lên mười lăm, Sinh được người cậu gởi đến Lã Công, một quan thủ hiệu bãi chức từ lâu ở nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông cả mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho Sinh luyện tập. Giữa buổi Sinh đang múa kiếm, bỗng dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi rồi cau mày, kêu lên:
- Máu người tanh quá!
Ðoạn đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về.
Ðến nhà, lạy cậu thưa lên:
- Võ nghệ không phải là con đường cháu nên theọ Máu người chảy trong cơ thể quý vô cùng nhưng dính ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi dao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người! Ðiều tàn nhẫn ấy cháu không làm được.
Người cậu giận lắm, bảo rằng:
- Mày thực cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu naỵ Ðành rằng máu người là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng có hại cho người, lại càng có tội!
Lương Sinh cúi thưa:
- Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói tốt xấu rõ ràng? Làm thiện một cách hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội vì đã lừa mình, lừa ngườị Trộm nghĩ binh đao là điều dứt khoát, cháu chưa dứt khoát trong người, tự thấy không dám theo đuổị
Cậu nói:
- Hoài nghi như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với màỵ Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác, làm sao có thể tự tin mà sống trên đời! Xã hội chưa đâu có thể gọi là chốn thiên đường, bên cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi dao, không thể chỉ lấy một chiều, chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao loạn, những mong cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày, ta không nói nữạ
Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà giàu đủ, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm vịnh tháng ngàỵ Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng như sóng trên biển chiều nổi gió. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng cảm mến, tiếp đãi hết sức trọng hậụ Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của Sinh trong một tháng trường. Khi quan giao trả, Sinh thấy có những bài thơ hay họa lại những bài đắc ý nhất của mình dưới ký tên Tuyết Hồng, con gái của viên quan. Sinh vui mừng nghĩ rằng gặp được người hợp ý. Sau quan lệnh ngỏ lời kén Sinh làm giai tế. Sinh sung sướng nhận lờị
Sau lễ hôn phối, Sinh mới ngỡ ngàng biết rằng Tuyết Hồng không đẹp, cũng không biết làm thơ. Càng ngày Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng tình đờị Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cỗị Nhân tết nguyên đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp, noi gương Tử Trường ngày xưa phiếm du xuân thủỵ
Sinh chọn đường ven theo suối đẹp, đi mãi đã mười ngày, tiền lương muốn cạn, ý thơ chừng đầy, chợt đến một miền tiêu điều, dân cư thưa thớt, Sinh chán nản định quay về, nhưng ruột đói lưỡi khô, bèn đi tìm một tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy bóng một người để hỏi thăm nơị Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chuông lẫn tiếng reo cườị Dò theo âm thanh vọng lại, lần bước đến nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết, đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội lớn, vì quan khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữạ Chợt có tiếng hò hét và mọi người sợ hãi dạt ra, từ xa là chiếc kiệu hoa của tiểu thư Lý Duyên Hương, con quan Tổng Ðốc. Người đẹp vừa kiêu hãnh vừa sắc sảo khiến Sinh ngây ngất, nhìn đến quên ly rượu trong tay rơi xuống vỡ toang. Người đẹp quay nhìn thấy, nhoẽn miệng cườị Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời tình. Sinh lảo đảo đứng lên trả tiền rồi theo chiếc kiệu chen vào chùạ Vào trong thấy Lý tiểu thư thành kính đàm đạo với mấy vị Tăng già rồi lên chánh điện lễ Phật. Sinh đến phòng kế lấy bút và giấy hoa tiên theo phỏng mấy câu:
Tiên hoa gài mộng, vấn vương đền Phật bâng khuâng
Ðông biếc, thoáng cười tiên nữ
Mặt nước hồ in, xao động bốn mùa sóng gió
Bóng đêm hang thẳm, long lanh một vẻ giai nhân.
Rồi bẻ cành hoa kẹp vàọ Khi Lý tiểu thư lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hãi bật ra hai bên thì Sinh vội vã đi theọ Ðến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồị Lính hầu thoáng thấy kêu lên:
- Có người ám hại tiểu thư.
Lập tức mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất sắc lùi lại, dồn dập đẩy vào nhau kêu la náo động. Tiểu thư ngồi trên, vén rèm nhìn xuống không nói một lờị Vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời khống chế, nhưng lính xông vào trói chàng.
Ðám đông có tiếng thì thàọ
- Anh ta chỉ ném một cành hoa thôi đấỵ
- Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời rồị
- Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống đã là bay đầu, nói chi xúc phạm đến tiểu thơ vàng ngọc!
Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam, rồi tâu trình lên Tổng trấn. Lương Sinh nằm rầu rĩ trong bốn bức vách đá, e phải mang nhục phen nàỵ Ðang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc dạng phương phi, hàm én râu hàm, trên tay còn cầm tang vật là mảnh hoa tiên.
Sinh cúi đầu thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở tróị Trước sự kinh ngạc của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo ngồi, Sinh từ chối hai ba lần không được. Quan nói:
- Ta thường ước ao gặp được một người tài đức, nay biết người là danh sĩ nên thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ xuất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác đằng thuận nẽo gió đưa, người hãy cùng ta ở đây hưởng mấy ngày xuân vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta khao khát lâu naỵ
Ðoạn truyền đem rượu ngon thịt béo ra thết đãi nồng hậụ Lương Sinh thích thú uống rượu ngâm thơ suốt ngày Tổng trấn có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh. Ðộ chỉ hôm sau, quan tổ chức cuộc du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo lập cho dân: Kia là dòng suối quanh co quan đã khai thông để để dân lấy nước cày cấy, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt.
Ngồi trên kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối thấy đồng nhiều vẽ khác màu miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn, lòng Sinh chứa chan nhiệt tình đối với những bậc "Dân chi phụ mẫu" mà xưa nay Sinh thường tỏ ý rẻ khinh.
Ðến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng. Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt. Mực thơm bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêụ Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán tổng kết công đức của quan để khắc vào chốn công đường và bài minh, ký để ghi tạc vào mấy cổ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạt. Quan ân cần tiễn Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa bạch, mấy nén vàng, nhưng Sinh một mực từ chối từ không nhận để giữ vẹn lòng thanh khiết.
Giữa mùa xuân ấy Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền, Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấc ngủ chập chờn ác mộng.
Mấy lần chống tay ngồi dậy, nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửạ Một sớm đang nằm, nghe tiếng chim hoàng anh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn. Sinh hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mớị Sinh gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc. Nghiên mực đỏ tươi sắc máụ Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt, từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sửng sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vệt huyết khô trên cát. Sinh vội buông bút, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầỵ Ðưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo, đau nhói trong ngườị Sinh nằm vật xuống mê man bất tỉnh. Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, lòng lại khao khát cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại. Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư vừa cầm bút lại thấy lãng vãng sắc máu, không sao có đủ can đảm vạch được nét nàọ Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ, tưởng như xôn xao chung quanh vô số hồn oan đòi mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.
Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược, rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác mà trách nhiệm rõ ràng, lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyển hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua vì mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôị Làm cho thiếu nữ băn khoăn sầu muộn, làm cho thanh niên khinh bạc hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên nhân ái, kêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đạo nghĩa của tha nhân, hát trên bi cảnh của đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạỏ Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dãy Thiên Sơn! Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậỵ Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chậm thêm ngày nào!
Lương Sinh nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như minh mẫn hơn nhiều, cơn bệnh do đó lui được khá xạ Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình đọc lại từng câu, dò lại từng chữ, thấy toàn là ý bướm tình hoa, phát triển cảm xúc mà xao lãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ kỹ vẫn chưa dò được lối máu từ đâụ Bỗng sực nhớ đến những lời phóng bút viết cho quan Tổng trấn, không ghi lại trong thi tuyển, tâm não trở nên bàng hoàng. Ðồng thời bao nhiêu gương mặt hốc hác trong ngày hội chùa lại hiện rõ, mấy cánh đồng trơ trọi, những tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác sợ hãi, những đòn dây trói, mấy dãy nhà giam, lần lượt như sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thật trái ngược với những bài tán bài mình đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên được, quyết định trở lại chốn cũ để tìm hiểu sự thật.
Sinh đến chốn cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều xơ xác. Qua khỏi dòng suối cạn, Sinh bước vào một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo, không một bóng người thấp thoáng. Ðến một gò cỏ úa héo chợt thấy một người nông phu ủ rủ trước nấm mộ mới hiu hiu mấy nén hương tàn, Sinh dừng bước, lại gần ngồi một bên, khẽ hỏi:
- Bác khóc thương thân quyến nào vậỷ
Người kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lại bụi đường trường bạc thếch trên quần áo của Sinh, dịu đôi mắt xuống:
- Người nằm dưới mồ không phải là bà con quen thuộc của tôị
Sinh nghĩ: "Chẳng lẽ người này cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng?"
Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi:
- Ông từ đâu mà đến đâỷ
- Tôi ở chốn xa, nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôị Buồn thấy miền này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác.
Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén bật lên những tiếng căn hờn:
- Nói cho muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ nàỵ Ví dù phải chết ngày nay thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thật uất hận từ lâụ Ðã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Tổng trấn họ Lý độc dữ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Ðầu xuân này có khâm sai đi về, cụ thôn trưởng của chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản trần tình, cản đầu ngựa, níu bánh xe mà tỏ bày sự thật. Thế nhưng khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá cột đồng đầy lời hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh sĩ đốn mạt nào đó nên ném bản trần tình, không xét, bảo rằng: "Muôn ngàn lời nói của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nhọ Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài". Thế đã thôi đâu, khâm sai đi rồị Tổng trấn phái sai nha về tróc nã những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người phải chết vì nỗi cực hình thảm khốc, vợ góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đây dành để nuôi loài cỏ dại mà thôi!
Sinh chết điếng cả người, giây lát mới gượng gạo hỏị
- Chẳng hay bác có biết... danh sĩ ấy tên gì không?
Người nông phu trợn trừng cặp mắt, gào lên:
- Làm gì mà biết! Mà biết làm gì? Những hạng hiếu lợi hiếu danh, trốn trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh cao, hạng ấy thì đâu chẳng có! Dân làng đây ai cũng nguyền rủa hắn mà hắn nào có biết đâu! Nghĩ thương cho cụ trưởng tôi mấy lần đứng ra chịu nhận tội để cứu bao người mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp người này rồi đến lớp người khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máu ra mà chết để khỏi bị đày đọạ Trước khi nhắm mắt cụ còn gượng nói: "Ðược chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi ta, thế là quý rồị Chôn ta ở đây cho ta gần gũi với các người". Hơi thở gần tàn cụ nói tiếp: "Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vịn vào mà che lấp sự thật. Ðừng oán hờn tên danh sĩ. Ðáng thương cho nó!".
Người nông phu dừng lại nghẹn ngào nói tiếp:
-Nhưng bao nhiêu người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia, nghĩ còn đáng thương xót gấp trăm ngàn lần!
Ðoạn gục đầu trước mồ khóc thảm thiết.Sinh cũng sụp xuống hòa tiếng khóc theọ
Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh có cảm giác như theo cơn gió, oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành.
Bùa Nhức Răng
Tác Giả: atoanmt
Tìm Kiếm:
Năm 1968, mình cùng với 1 Sư Huynh và 2 người bạn (một người Chàm, do bạn mình kéo đến) họp nhau lại...Nhậu (!) tại nhà cô bồ của Sư Huynh mình. Lúc nửa tiệc, thì Cô chủ nhà có cái răng đau đã mấy bữa, nay bỗng hành cô ta đau đến nỗi chảy nước mắt. Người bạn Chàm bèn nói: "Cô lấy 1 miếng giấy trắng đưa tôi làm hết đau răng cho" Cô chủ nhà xé đại 1 trang giấy tập học trò rồi đưa cho anh Người Chàm, anh ta trải tờ giấy ngay trên bàn nhậu (chung quanh là đũa chén, dầu mỡ, nước mắm...trông rất...ô uế, không thanh tịnh để làm bùa phép gì cả !) Xong anh Chàm đó lấy cây viết Bic ra, vẽ 1 hình vuông nguệch ngoạc trên giữa trang giấy, tôi còn nhớ là mỗi cạnh của hình vuông đó khoảng 3 lóng tay, Anh ta chấm cây viết vào giữa hình vuông và nói: "Cô em nè, đây là cái răng đau của cô em đó, biết không? Cô cứ ừ sau khi tôi nói như vậy 3 lần đi..." sau khi Cô chủ nhà Ừ theo, thì anh Chàm nghiêng cán bút qua 1 phía, đầu bút vẫn còn điểm giữa tâm hình vuông, thì cô chủ nhà...giựt mình thét lên đau đớn...anh Chàm tiếp tục nghiêng cây viết đủ 4 hướng như vậy, mỗi lần nghiêng là cô chủ lạt thét lên có vẻ đau dữ lắm !!!! Khi đủ 4 hướng rồi, anh Chàm mới nhấc cây viết lên và cô chủ nhà hết đau ngay! Coi như hoàn toàn không có đau rãng nữạ
Mình thấy hay quá nên hỏi xin học, anh Chàm nói là Ba của ảnh chỉ, nhưng anh ta lại chưa "Xuất Sư" nên không chỉ mình được, tuy nhiên anh Chàm lại sốt sắng cho mình địa chỉ của Ba ảnh. Ở xóm Chàm Tây Ninh (Nhà người Chàm cất nhà sàn, ở trên, còn dưới là nuôi Trâu Bò, ) Mình thấy phép trị bịnh quá độc đáo, nên mò đến tận nhà Ba của anh Chàm. Khi leo lên cái gác nhỏ của Ông Thầy Chàm, thì mình...hỡi ôi!, vì thấy Ông Thầy trông có vẻ...dơ dáy quá ! Nhưng mình cũng nêu rõ ý xin học phép trị đau răng. Ông Thầy cười khà khà nói: "Học cái đó dễ lắm, sao không học Bùa Yêu? học xong thì bất cứ con gái nào đi ngang qua, chỉ cần búng tay 1 cái là họ theo mình luôn, hoặc muốn làm ai khóc hoặc làm cười từ sáng tới chiều, cũng chỉ cần búng tay 1 cái là xong....Ông Thầy còn nói nhiều phép nữa, mà phép nào cũng đều phá hại người cả. Ổng nói là sẽ dạy cho mình hết những phép đó, nếu mình đem đủ lễ vật đến (vài chục thước vải trắng, gà rượu, hoa quả...)
Mình càng nghe càng...nóng lỗ tai, tự dằn lòng lại chứ lúc đó mình bỗng thèm...đá cho ông Thầy Chàm đó 1 đá lọt xuống sàn luôn...Mình bèn làm bộ nói vả lả chuyện khác rồi rút lui chạy luôn, Vừa về vừa tức....
Một năm sau, gặp cô chủ nhà, mình hỏi, thì cô cho biết là chỉ 1 lần như vậy mà cái răng của cô ta tự...bít lỗ sâu lại, cứng và không bao giờ bị đau trở lại!. (Kể cả đến bây giờ, cái răng đó còn tốt nguyên) Mình sau này có kể lại cho Thầy của mình nghe, Ổng cười nói: "Nhà ngươi...ngu quá, đó là Ông Thầy Chàm nói thử coi nhà ngươi là người có ác tánh không? nếu lúc đó mà mang đủ lễ vật đến, thì Ông Thấy Chàm cũng không dạy cho những phép ác độc đó đâu...Lẽ ra nhà ngươi phải thẳng thắn nói là Không muốn học các phép đó, mà chỉ muốn học phép trị bịnh thôi thì đã được rồi....Có lẽ nhà ngươi không có duyên với ông Thầy đó...". Mình đến bây giờ đôi khi nhớ lại, vẫn còn tiếc mãi là không học được cái phép trị đau rẵng độc đáo, và hay tuyệt đó.... (Mà bi giờ nếu mình trị được, dám bị mấy Ông Nha-Sĩ thưa mình mệt xỉu luôn...Hì hì..
Ngôi Nhà Ma Ở Đà Lạt
Tác Giả: Truyện Ma
Tìm Kiếm:
Trong dịp tết này tôi có dịp lên ĐÀ LẠT chơi.Tất nhiên thú vị nhất là NGÔI NHÀ MA nổi tiếng ở TP ĐÀ LẠT mà khi hỏi ai cũng biết hết á Sau đây là những chiện tui nghe đuợc về NGÔI NHÀ MA
Con đường đèo lên khu vực hồ TUYỀN LÂM hai bên đường chỉ có cây cỏ , không hề có bóng dáng một ngôi nhà nào khác. Sau khi xe đi được một đoạn thì gần giữa đèo thấp thoáng có một ngôi nhà lớn , theo lời giới thiệu của chị hướng dẫn tôi đuợc biết đó là NGÔI NHÀ MA , tất cả các cửa của ngôi nhà đều đóng kín mít có rất nhiều ô cửa sổ , trước cửa ngôi nhà có một bảng màu xanh đề là ''không phận sự miễn vào ''.
Nhìn sơ qua căn nhà này cũng bình thường không có gì khác biệt cũng như bao căn nhà khác.Theo lời của 1 chị thì căn nhà được xây từ rất xưa do một gia đình nguời Pháp , vì họ rất thích khí hậu mát mẻ cũa ĐÀ LẠT nên quyết định xây nhà và định cư luôn ở VN.Đến một ngày đó cả gia đình người Pháp bị giết rất tàn độc, kể từ đó căn nhà bị bõ hoang.
Còn một nguời khác lại nói rằng chính ông Pháp đã tư tình với cô người làm nên bà vợ biết được đã giết chết cô nguờii làm chặt người của cô ra từng phần rồi chôn dưới nền gạch.Kể từ đó họ đã dọn đi chỗ khác
2 câu chuyện trên không biết là thật hay là giả nhưng câu chuyện này báo đã từng đăng rối
Có một cô gái sinh sống ở VŨNG TÀU cô đang thất tình nên lên Đà Lạt để nghỉ ngơi, sau khi nghe người dân bàn tán về NGÔI NHÀ MA cô gái mới lên xem thử , không hiểu sao cô gái rất thích ngôi nhà này và quyết kêu gia đình của mình mua cho bằng đươc. Sau một tháng ở ngôi nhà này cô gái đã treo cổ tự tử chết trong căn phòng của mình. Những vật dụng của cô vẫn còn được bào quản trong ngôi nhà như: kẹp tóc , bàn , giường (bạn nào muốn kiểm chứng thì dzô thử ngen)
MỘ của cô gái được lập sau ngôi nhà đọ
Một đêm đó (theo lời kể của một chú sinh sống lâu năm ở ĐÀ LẠT) một người chở rau để đi bán , con đường ra chợ phải bắc buộc wa đèo này , lúc đó cũng khỏang 2-3g sáng khi đi đến giửa đèo thì có một người con gái xin quá giang ,tóc dài , bận bồ đồ ngủ mỏng,trông cô gái rất lạnh, vì nghĩ là đường đèo quá vắng vẻ nên ông đã cho cô gái quá giang một đoạn , đi được một quãng thì ông sợ cô gái lạnh nên đã đưa áo khóac của mình cho cô gái bận.Khi ông ngừng xe thì quay lại đã thấy cô gái biến mất từ lúc nao.
Sáng hôm sau khi ông quay trở lại đường đèo đó khi đi ngang qua ngôi nhà thì thấy chiếc áo khoác của mỉnh nằm trên ngôi mộ
NGÔI NHÀ này chỉ lắp một thứ đèn đó lả đèn vàng , không có đèn trắng ,có một cái hầm ở dưới ngôi nhà ,có 1 trệt và một lầu , khi bước vào sẽ thấy một bức tranh vẽ môt gương mặt tưa như sọ người có 2 rănh nanh thè ra nhỉn rất ghê.......
Bây giờ chỉ có một nguời quản gia sống ở ngôi nhà đó
ai có dịp lên đà lạt chơi thì nhớ lên coi thử nghen....
Cái mặt nạ của Thần Rhê
Note: Chuyện này được viết theo lời kể của một người quen ở Massachusetts (trước kia sống tại Ban Mê Thuột, VN.) Và cũng được gợi hứng từ phim "MASK" của Mỹ !
Tôi xin mạn phép ghi chú mấy từ địa phương mà có lẽ các bạn sống ở thành thị hay vùng đồng bằng ít quen thuộc!
_Bao cát: Bao dùng để đựng cát. Dùng để đắp bờ chống lụt ở Mỹ! Các người lính cũng dùng các bao này để làm các công sự phòng thủ (bunkers)
_Lán: Căn nhà rất dài lợp tranh, dùng làm chổ ở tập thể cho các công nhân hay thanh niên đi công trường (Mỹ gọi là barrack.)
_Nhà Giàng: Nhà sàn dài trong buôn Thượng được dành để các dụng cụ và đồ trang sức và vật thờ cúng. Người Thượng hàng năm tổ chức các cuộc nhảy múa cúng Giàng (Trời, Thần) trong căn nhà này !
_Cúng Giàng: Cúng Trời và các Vị Thần Thánh của buôn. Trong các cuộc cúng Giàng, các thanh niên thiếu nữ vẽ mặt mày, hay đeo các mặt nạ để nhảy múa để triệu hồn các vị Thần về chứng giám buổi lễ !
_Chúa làng: Trưởng làng, thường là cha truyền con nối và có uy quyền nhất trong Buôn (như Tù Trưởng của các bộ lạc Da Đỏ bên Mỹ)
_Rượu cần: Rượu được làm bằng cách lấy một loại lá cỏ cho vào hủ đất (khá to và cao) rồi cho một vài chất mà người Thượng dùng để lên men rượu! Rượu này chua chua chứ không giống như rượu đế của người Kinh ta! Khi uống rượu này, người dân tộc dùng các ống dài (long straws) bỏ vào hủ để hút uống vì thế được gọi là rượu cần !
Vào mùa hè năm 78, anh tôi cũng như các thanh niên cùng lứa tuổi phải đi "Thanh Niên Xung Phong" cho nhà nước 3 năm. Chổ anh tôi làm công trình thủy lợi gần một Buôn Thượng. Buôn này thuộc huyện Lạc Thiện, huyện này cách TP/BMT khoảng gần 50 cây số về hướng Tây Nam. Thỉnh thoảng anh về thăm nhà vài bữa rồi lại đi. Một lần kia, anh tôi mang về khoe mọi người trong gia đình một cái mặt nạ bằng gỗ đen sì sì, trông rất gớm ghiếc và dữ tợn! Trong nhà chẳng có ai tỏ ra thích nó cả, chỉ riêng anh ấy là có vẻ hảnh diện vì nó lắm! Anh tôi để nó trong ngăn kính của tủ buffet như để khoe với các khách lạ đến nhà chơi về cái mặt nạ kỳ bí của mình! Chúng tôi thấy nó quá xấu xí nên không ai muốn rờ mó gì đến nó hết! Còn anh tôi thì một năm chỉ về nhà chơi vài lần ! Cái mặt nạ nằm chình ình trong đó không ai màng chú ý đến!
Chừng gần một năm sau đó, một người bà con xa ở quê lên phố ghé nhà tôi chơi, thấy cái mặt nạ trong tủ bèn tới lấy ra ngắm nghía và hỏi mẹ tôi về nó. Mẹ tôi nói là do anh tôi lấy ở một Buôn Thượng về! Ông ta ở chơi đến chiều rồi ra chợ đón xe về! Hôm sau có người ra báo cho gia đình tôi là ông ấy bị lật xe chết chiều hôm qua ! Gia đình tôi xuống chia buồn và dự lễ an táng! Ai cũng nghĩ đó là tai nạn xui xẻo thôi! Chừng hai tuần sau đó, một anh công an khu vực ghé vào nhà tôi chơi ! Anh ta nói là sắp về thăm quê ngoài Bắc, và nói manh mánh để xin ít tiền làm lộ phí! (Chả là mẹ tôi buôn bán ngoài chợ nên có đồng ra đồng vào nên công an khu vực thường tới xin xỏ, và vì muốn yên thân mẹ tôi cũng như các người buôn bán khác thường phải biếu xén cho khỏi bị phiền hà!) Khi sắp ra về, anh ta thấy cái mặt nạ trong tủ bèn cầm xem và xin nó mang về Bắc làm kỷ niệm ! Mẹ tôi từ chối và nói đó là của anh tôi, mẹ tôi không có quyền lấy cho ai cả ! Anh ta kiếu từ ra về ! Hôm sau, mọi người trong phường nghe tin anh ta bị đạn nổ chết trong lúc lau súng ở trong phòng anh ta ! Trong nhà tôi cũng chẳng ai để ý đến sự trùng hợp đó cả _ Hai người đến chơi nhà tôi khi về thì bị chết _ Mọi người đều cho đó là tai nạn rủi ro !
Nhưng trong tháng đó, tự dưng tiền điện nhà tôi lên đến gần cả 400 đồng! Lúc đó điện nước đều bị hạn chế, xài nhiều là bị phạt, và còn có thể bị cúp nữa ! Gia đình tôi chỉ giám xài theo mức hạn chế của nhà nước mà thôi, thế sao tiền điện lại cao như vậy kìa! Không ai biết cả ! Trong nhà có một bàn ủi điện, một cái bếp điện hai lò tư trước 75 còn lại, nhưng bố mẹ tôi đâu cho ai dùng các thứ xa xỉ này! Tôi lấy làm thắc mắc về việc này lắm ! Một đêm kia, khi tôi xuống bếp để lấy ly uống nước. Tôi xanh mặt vì thấy hai cái lò trên cái bếp điện cháy đỏ rực! Tôi chạy lại định vặn công tắc để tắt nó đi! Nhưng cái nắm vặn vẫn ở vị thế OFF! Tôi không biết làm sao kỳ lạ vậy nữa! Tôi bèn cúi xuống gầm bếp nắm sợi giây điện kéo cái phích ra khỏi ổ cắm, rồi chạy lên nói với bố tôi về việc này, và đoán chắc tiền điện lên là do cái bếp điện mà ra! Bố tôi đoán là cái bếp điện bị chạm hay hư nên có tắt mà vẫn bị chạm hồng lên ! Mẹ tôi lên tiếng! Nếu nó chạm thì cũng chỉ mới hôm nay thôi chứ lâu thì mẹ tôi đã thấy khi nấu nướng rồi ! Cái bếp đó chỉ để làm kiểng chứ có ai dám nấu nướng bằng nó đâu! Tiền điện quá cao giống như ngày nào cũng nấu bằng bếp điện vậy ! Bố tôi liền xuống bưng cái bếp điện đem cất vào nhà kho !
Hôm sau, bố tôi dẫn cái xe Honda ra để đi xuống rẫy, ông đạp hoài mà chẳng làm sao cho nó nổ máy được ! Bố tôi xem lại xăng nhớt, mọi thứ đều còn đầy ! Ông tháo lau bugi, đạp thử để xem lửa! Lửa bắn rất mạnh! Nhưng khi ráp bugi vào rồi đạp cũng chẳng làm nổ nổi cái xe! Bố tôi dắt xe ra tiệm đầu phố để nhờ anh thợ sửa xe xem hộ ! Anh thợ máy xem xét mọi thứ và nói là không có gì hư cả ! Lạ là ngay cả anh ta cũng chẳng làm sao đạp nổ máy được ! Bố tôi đành chịu thua, dẫn xe về và phải ở nhà hôm đó ! Đến tối bố tôi bổng bị sốt nặng! Mẹ tôi đi mua thuốc cảm sốt của mấy bà bán chợ đen về cho bố tôi uống, nhưng bệnh mỗi ngày một nặng thêm! Mấy hôm trước bố tôi vẫn còn khoẻ như voi mà bây giờ ông nằm liệt giường như là người ốm nặng cả năm rồi! Mẹ con tôi lo lắng lắm, cứ sợ bố tôi chết thì không biết xoay sở ra sao trong cái thời buổi khó khăn này !!
Cả nhà đang lo lắng thì anh tôi lại về, vẻ lo lắng hiện trên nét mặt! Mới vào đến nhà, anh tôi hỏi mọi người trong nhà đều bình yên cả chứ! Và khi nghe mẹ nói bố tôi bị đau nặng đột ngột mấy hôm nay, anh ấy nhào ngay về phía tủ trà buffet, mở lấy cái mặt nạ bỏ vào cái ba lô anh đang xách trên tay! Xin mẹ 200 đồng (lúc này 200 đồng rất lớn) nói là có việc khẩn cấp phải dùng nó, xong anh ấy phóng ra cửa đi một mạch chẳng ai kịp hỏi lấy thêm một lời nào cả ! Sáng hôm sau bố tôi ngồi dậy, tỉnh táo như chẳng có một tí gì là bệnh hoạn hết ! Cả nhà đều ngạc nhiên ! Mẹ tôi hỏi bố cảm thấy trong người thế nào! Ông nói là rất khoẻ khoắn chẳng cảm thấy mệt mỏi hay bệnh hoạn gì cả !
Chiều hôm đó anh tôi lại trở về nhà , mặt lộ vẻ hân hoan vui vẻ chứ không hốt hoảng như hôm qua! Tối đó sau khi tắm rửa, ăn uống xong, cả nhà tôi quây quần trong phòng khách và anh tôi bắt đầu kể chuyện:
"Vào một ngày Chủ Nhật khoảng 10 tháng trước đây, tụi con được nghỉ nên rủ nhau vào Buôn Thượng chơi. Uống rượu cần và hút thuốc vấn với mấy người dân tộc ở trong buôn! Tối về, một thằng bạn con móc ra từ bao cát một cái mặt nạ bằng gỗ khoe với mọi người trong lán. Tụi con hỏi nó lấy được ở đâụ Nó nói là nó đã lẻn vào "Nhà Giàng" của Buôn, và chôm cái mặt nạ này! Nó khoe là có rất nhiều mặt nạ khác nhau ở đó, nhưng thấy cái này có vẻ kỳ lạ nên lấy về chơi! Nó để cái mặt nạ này ở đầu giường của nó ! Bẳng đi cả tháng chẳng còn ai để ý đến cái mặt nạ đen thui đó nữa! Hôm con về phép nó nhờ con tới nhà nó để xin mẹ nó ít đồ tiếp tế, và để trả công trước, nó cho con cái mặt nạ đó, và lần đó con mang về để chưng trong tủ buffet!
Đầu tháng rồi, thằng bạn cho con cái mặt nạ đang đứng trên bờ mương thủy lợi thì bị trượt chân té đập đầu vào cục đá to ở đáy mương chết liền tại chổ. Mấy thằng thanh niên Thượng trong toán con nói là nó bị Thần Rhê vật chết ! Bọn con không tin, nhưng bọn dân tộc này nói với giọng rất là nghiêm trọng lắm làm tụi con cũng không dám giỡn thêm! Tối đó về tới lán, tụi con hỏi ai là Thần Rhê vậy, tụi nó mới kể lại là tuần trước đây trong Buôn có cúng Giàng và họ khám phá ra là bị mất cái mặt nạ của Thần Rhê (Đó là tên của Thần Núi Lửạ) Trong buổi cúng đó, họ cầu thần hãy giết bọn trộm vật đại diện cho Thần! Và người đầu tiên bị Thần giết là thằng đã lẻn vào ăn cắp cái mặt nạ trong Nhà Giàng! Tụi con hỏi thế thì có thể làm gì để Thần tha cho không, bọn nó nói phải mang cái mặt nạ về giao trả cho Chúa Làng và xin dân làng làm lễ cầu Thần tha tội thì mới xong! Con lo lắm vì cái mặt nạ nằm trong nhà mình! Con muốn về để mang nó trả lại cho Buôn, nhưng bố mẹ biết đó đâu phải con muốn về lúc nào là về được đâu! Con đành phải đợi cơ hội mới xin phép về được! Hôm qua con về đến và biết bố bị bệnh nặng đột ngột là con biết không xong rồi! Con mang cái mặt nạ vào Buôn đưa cho Chúa Làng và nhờ thằng bạn người Thượng giải thích cho ông ta biết là do đâu con có được nó, rồi đưa cho ông ấy 200 đồng xin ông và dân làng làm lễ cúng Thần cho con! Ngay chiều tối ấy họ làm lễ cúng có con ngồi xem tận mắt ! Trông họ la múa, trống chiêng con cũng thấy rợn người! Đến khi tan buổi lễ con mới về sau khi đã được Chúa Làng trấn an là mọi chuyện sẽ êm xuôi, đừng sợ gì nữa cả vì Thần đã hứa tha rồi! Hôm nay về nhà thấy bố tự nhiên hết bệnh, có lẽ ông Chúa Làng nói đúng! Và nhất là sau khi biết các việc xảy ra trong vòng một tháng nay, cái chết của thằng bạn, của bác Bảy, của anh công an khu vực, và các sự lạ xảy ra trong nhà mình, con nghĩ rằng đúng là cái mặt nạ đó đã mang lại các điều xui xẻo cho người nào cầm nó ! Con và bố may mắm là chưa bị Thần Rhê làm chết !! Từ giờ trở đi con tởn tới già không giám nhặt ba cái vật kỳ quái hay dị hợm về nhà nữa đâu ! "
Nói là làm, anh tôi chẳng bao giờ mò vào các Buôn Thượng nữa! Sau này khi đã sang Mỹ rồi mà trong những kỳ đi chơi ở các thác hay vùng núi, mọi người đua nhau nhặt các viên đá đẹp, các hòn có hình dáng kỳ lạ giống mặt người về làm kỷ niệm thì anh tôi dửng dưng như không! Ai hỏi tại sao, anh ấy chỉ trả lời là không thích chơi nghịch các hòn đá thôi ! Nhưng tôi biết ngay rằng anh ấy vẫn bị ám ảnh bởi cái mặt nạ ghê gớm ngày xưa đó !!
Hết
--------------------
tamvinh
240/9 cách mạng tháng 8 P10 quận 3
dt 9351166
0915133333 Avinh
0915022222 CTâm
web
dịch vụ mới hot hot hot....
nhận chạy phần mềm O2 vô galerry hay vô nhạc bị treo 50K...
nêú ở xa vaò đây nghen
minhtrung-mobile
View Member Profile Sep 29 2007, 05:07 PM Post #16
admin
Group: SMod
Posts: 793
Joined: 10-January 07
Member No.: 893
Vũ đến trọ học ở hàng cơm bà cụ Đỗ đã ba tháng rồị Nhà chật chội, mái lợp tôn, nên mùa hè rất nóng nực. Nhưng Vũ không muốn tìm chỗ trọ khác, bởi bà cụ Đỗ tính giá rẻ, phần vì mọi việc trong nhà, cụ làm lấy, ít phải thuê mượn, phần vì chính gian nhà ấy, cụ cũng không phải mất tiền thuê.
Bà cụ Đỗ hồi cư rất sớm, thấy gian nhà bị chiến tranh tàn phá, chỉ còn trơ lại hai bức tường và một gian gác xép đằng sau, nên dựng mái tạm trú. Mãi, chủ nhà chưa thấy về, nên cụ yên chí ở, tưởng chừng như đất của mình.
Gian gác xép ấy bỏ không. Có lẽ vì thấy có nhiều chiếc rầm gỗ bị cháy xém, sắp rơi, trần lại nhiều chỗ nứt lở, nên chẳng ai dại gì hứng lấy tai nạn. Mùa hè đến, cùng với những kỳ thị Vũ cần phải học nhiều lắm, nhưng không được như ý. Nhà chật chội quá. Khách ăn hàng lại thường đông, ăn uống bi bô rầm rĩ.
Hơn nữa, mái tôn càng làm nắng hè gay gắt. Bởi vậy, Vũ đã nghĩ nhiều đến gian gác xép bỏ hoang ấỵ Một chiều chủ nhật, Vũ mượn được thang, dựng trèo lên xem. Gác tuy bỏ hoang nhưng không đến nỗi bẩn quá. Sàn vẫn còn nguyên vẹn, chỉ có nhiều bụi cát, cùng một ít vôi vữa long trên trần xuống.
Tường cũng còn khá sạch. Riêng các cánh cửa đều đã mất hết. Gió bên ngoài lùa vào mát rượị Vũ suy tính nếu mình quét dọn qua loa, mỗi buổi tối, trèo lên gác xép này, thắp nến mà học rồi giải (trải) chiếu ngủ thì tốt quá. Vừa yên tĩnh, vừa mát mẻ.
Cẩn thận Vũ hỏi qua bà cụ thì được ưng thuận ngay, bà chỉ dặn thêm rằng:
- Nhưng cậu phải coi chừng, nhà cửa ọp ẹp lắm, khéo mà?oan giả.
Ngay buổi chiều, Vũ hì hục quét dọn. Gió lùa vào mát rợị Gian gác bỏ hoang đã được Vũ đặt cho cái tên văn vẻ:?Nghênh Phong Các. Mấy chồng sách, vừa để học, vừa để gối đầu, một ngọn nến, một manh chiếu, đó là tất cả đồ đạc trần thiết trong căn gái?đón gió? nàỵ
Tối đến, Vũ sung sướng trèo lên gác của mình. Lại rút luôn thang lên theo, vì e ngại mấy ông Tổng, Xã rượu say rồi lên phá quấỵ
Thật là tĩnh-mịch. Tiếng huyên áo trong hàng cơm vẳng xa hẳn; bên ngọn lửa nến lập lòe Vũ yên chí học.
Nhưng chưa ôn bài được mấy lần, Vũ đã thiu thiu ngủ gục. Cho đến lúc tiếng chuông đồng hồ nhà thờ dóng dả, Vũ mới choàng mở mắt. Trời bạch nhật, có lẽ đã sáu giờ sáng. Cây nến cháy đến gốc còn lưu lại vũng nến đọng. Cuốn sách đêm trước vẫn còn mở ở trang học dở.
Vũ bực mình quá, vì thường rất tỉnh táo, có khuya, mệt thì đi ngủ, chứ không bao giờ ngủ gục như vậỵ
Vũ cho đó là vì gác mát mẻ quá lại yên tĩnh nên dễ làm cho người ta chợp mắt.
Đêm hôm sau, Vũ đề phòng cẩn thận. Ăn cơm xong, Vũ uống một cốc cà phê thật đặc. Lại mang lên theo một bao thuốc lá nữạ Gió lùa mát rợị Tiếng cười nói văng vẳng xa...
Dưới ánh nến, chập chờn theo gió, Vũ ngồi chăm chú học, nhưng không hơn gì đêm trước chốc lát đã thiu thiu buồn ngủ. Sực nhớ, Vũ với tay cầm lấy bao thuốc lá. Nhưng lại nghĩ: Hãy cố dùng nghị lực chống chọi đã, cùng lắm hãy nhờ đến thuốc lá, dùng ngay e sẽ thành thói quen. Và Vũ không bóc bao thuốc vội, để bao lên chồng sách.
Nhưng chỉ một lát sau, Vũ đã ngủ gục, cho tới khi tỉnh dậy thì đã thấy cây nến hao quá nửạ Vũ giận mình vô cùng.
Vũ nhất định lấy thuốc lá để chống lại cơn buồn ngủ lạ lùng. Nhưng bao thuốc lúc nãy để trên chồng sách đã không thấy nữạ Có lẽ khi ngả lưng xuống, tôi đã quơ tay làm rơi bao thuốc chăng. Vũ bèn nhìn quanh và quả nhiên thấy bao thuốc lá ở ngay sau lưng mình. Nhưng lạ thay bao thuốc lá đã bị bốc ra tự bao giờ. Một điếu thuốc lại kéo lùi ra khỏi bao chút ít như sẵn sàng mời Vũ hút.
Vũ dụi con mắt, kinh ngạc! Chàng cố nhớ lại, và đinh ninh quả quyết lúc trước chàng chưa hề bóc bao thuốc mà chỉ để bao nguyên lên trên chồng sách. Vừa suy nghĩ Vũ vừa rút điếu thuốc ra ngậm lên môị Ngay phía sau Vũ, bỗng một que diêm xòe lên. Một bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại, đưa que lửa mời Vũ châm thuốc.
Vũ hoảng hốt nhìn lạị Và thấy đó là một nữ lang rất đẹp, tuổi khoảng 16, 17, có vẻ như một nữ học sinh.
Vũ liếc mắt nhìn cái thang tre, thấy vẫn còn để nằm yên chỗ chân tường.
Nữ lang mỉm cười và nhắc:
- Anh châm thuốc.
Tiếng nói nhẹ nhàng như gió thụ Vũ ngập ngừng mãi mới thốt ra lời:
- Cô, cô đến đây? Đêm khuya...
Nữ lang ngắt lời:
- Nhà em ở gần đâỵ Nhân nhìn qua cửa sổ, thấy cây nến bị anh quờ tay đổ nghiêng, nên vào dựng lạị Vừa toan quay về, thì anh chợt tỉnh...
Vũ nhìn lại, quả nhiên thấy trên mặt chiếu, có vết sáp nến loang. Nếu vậy, không có nữ lang, lửa nến có thể bén dần qua chống sách! Nhưng Vũ vẫn tò mò muốn biết:
- Xin cảm ơn cộ Nhưng cô là...
Nữ lang mỉm cười:
- Em tên là Ngọc Bách, nhà ở cạnh đây... Nhân đêm khuya, trằn trọc không ngủ được, thấy gian gác này trước bỏ không, nay có ánh lửa và bóng người, nên tò mò nhìn vào... anh tha lỗi cho em nhé!
Vũ hỏi tiếp:
- Nhưng cô làm cách nào mà vào đây được?
Nàng mỉm cười:
- Anh không nên hỏi nhiềụ Em là phận gái, lại chưa hề quen anh bao giờ, nên đột ngột đến đây, thực quá ư trơ trẽn... Chính vì vậy mà em không muốn nói rõ, anh biết nhiều để làm chị Ngừng một lát, nàng lại tiếp:
- Chúng ta quả là tình cờ gặp gỡ, thời gian họp mặt chưa thể biết dài ngắn ra saọ Vậy tốt hơn hết là chúng a cứ vui khi chùng nhau gần gũị
Vừa nói xong, nàng đến ngồi xuống chiếu, sát bên cạnh Vũ. Vốn tính người đứng đắn, Vũ nghiêm sắc mặt nói:
- Trai gái gặp gỡ đêm khuya, là một sự chẳng haỵ Hơn nữa, cô và tôi lại chưa hề quen biết bao giờ. Vã lại, tôi đang cần yên tĩnh để học vì kỳ thi đã tới nơi... Nếu cô có lòng mến, xin để trưa mai, tôi có thì giờ rỗi rãi, tôi sẽ tiếng chuyện với cô.
Nữ lang làm ra bộ hờn dỗị Nàng đứng dậy, liếc nhìn chồng sách trên chiếu cười nhạt:
- Có lẽ anh tưởng chỉ có anh là học thôi ư? Và anh tưởng những?hình học không gian? những?phân tích hóa học? kia của anh là ghê gớm lắm rồi saỏ Có lẽ vì thế nên anh mới dám đem so sánh giữa Học với Tình!
Vũ sốt ruột:
- Cô muốn tranh luận gì, xin cũng hãy để đến trưa mai!
Nữ lang không nói gì hơn nữa, quay ngoắt đị Vũ xiết nỗi ngạc nhiên, khi thấy nàng không xuống lối cầu thang, mà lại vượt qua cửa sổ.
Gió đêm khuya càng thêm lạnh lẽọ Vũ bất chợt thấy rùng mình nhưng được cái không buồn ngủ nữạ Đêm ấy chàng học được kỹ càng cho đến ba giờ sáng mới dọn dẹp đi ngủ.
Hôm sau, lúc đi học về, ngồi ăn cơm, Vũ lại lựa lời hỏi bà cụ Đỗ. Nhưng bà cụ cho biết hai bên hàng xóm không hề có một thiếu nữ nàọ Và cả quanh đây không có cô con gái nào tên là Ngọc Bách giống như hình dáng của lời Vũ tả. Vũ ngạc nhiên nhưng chưa nói rõ sự thực ý muốn đợi xem trưa nay, người con gái kỳ dị ấy có đến gặp mình như lời đã yêu cầu không. Nhưng không thấy đến.
Buổi tới hôm ấy, Vũ lại lên căn gác của mình ngồi học. Chàng lại thấy thiu thiu buồn ngủ, khi gió mát lùa vàọ Tuy vậy, chàng đã biết trước việc xảy ra, nên ung dung lấy thuốc lá châm hút. Rồi ngồi đợị
Quả nhiên, chốc lát thấy Ngọc Bách đến. Lần này, Vũ thấy rõ ràng nàng do lối cửa sổ mà bước vào, nhẹ nhàng như một cái bóng.
Ra chiều thân mật, Ngọc Bách ngồi ngay xuống cạnh Vũ. Rồi lã lơi trách:
- Em hôm nay lại hơi muộn, anh có giận không?
Vũ lặng thinh không nói, chỉ lấy sách vở ra học. Nàng lại nhìn chăm chăm vào mặt Vũ rồi tiếp:
- Có lẽ không giận nhưng ý chừng cũng mong đợi lắm thì phảỉ
Vũ thẳng lời cự:
- Hôm qua tôi đã nói với cô rằng tôi bận học thi không tiện tiếp chuyện. Tôi đã hẹn buổi trưa, muốn nói năng gì, sao cô không lạỉ
Ngọc Bách ra vẻ phụng phịu:
- Anh tưởng con gái muốn gặp đàn ông một cách tự nhiên lúc nào cũng được hay saỏ Anh không sợ người ta trông thấy dị nghị ư? Về phần em thì không ngại, nhưng lo cho anh bị người chế riễụ
Vũ lắc đầu:
- Tôi không sợ. Việc làm đàng hoàng, chẳng sợ ai cười hết, mặc cho có người ngờ vực, nhưng lòng mình thẳng thắn thì dư luận sai lạc ấy tôi cũng chẳng quan tâm. Tôi ngại là ngại sự đêm hôm khuya khoắt cô lại đây, nguyên một sự gặp gỡ ấy cũng đã là bất chính rồị Vậy mong từ sau, cô đừng đến đây nữa, muốn hỏi gì xin đợi ban ngàỵ
Ngọc Bách rưng rưng ngồi khóc. Một lát sau mới nói:
- Em biết khi người con gái tự tìm đến gặp người con trai, bao giờ cũng bị khinh rẻ. Nhưng em dám đường đột, chẳng qua là tưởng anh khoáng đạt, không chấp nê những nhỏ nhặt thường tình. Không ngờ anh cũng chẳng hơn gì người khác...
Vừa nói nàng vừa gục xuống gối Vũ mà khóc nức nở.
Nhưng Vũ gạt ra, nghiêm giọng bảo:
- Những lời tôi nói đã đầy đủ. Cô nên hiểu biết và đừng quấy rầy thêm nữa!
Rồi quay sang phía khác mà ngồi học lớn tiếng làm như không có ai ở cạnh mình.
Ngọc Bích vùng đứng dậỵ Nàng biến sắc, nói:
- Số anh sắp chết đến nơi, ta thương tình đến cứụ Lại không biết thân, còn làm ra bộ kiêu kỳ, vậy hãy coi chừng.
Nói rồi, bước ra cửa sổ biến mất.
Vũ vừa ngạc nhiên vừa bâng khuâng. Chàng không hiểu người con gái ấy là ai, ma quái chăng, người thực chăng? Trước lời dọa nạt kia chàng không sợ. Những cảnh chinh chiến đã làm cho Vũ tin tưởng ở số mệnh. Sống, chết, chẳng phải là những thứ có thể tìm, hoặc tránh được dễ dàng...
Vũ vừa toan gác bỏ những ý nghĩ vẩn vơ ấy để chuyên tâm ngồi học, thì chợt cơn gió mạnh từ đâu ào ào tới làm cho ngọn nến tắt phụt. Vũ định sờ lấy bao diêm châm, nhưng không thấỵ Gió như lạnh hơn lúc trước, làm cho Vũ chợ rùng mình. Ngoài trời không đến nỗi tối lắm. Những lùm cây rung động như những bóng đen hình dáng to lớn lạ kỳ...
Giữa khung cửa sổ, Vũ bỗng thấy hiện ra một bộ xương người trắng xóa, dập dờn đi lạị
Vũ biết lời dọa nạt của người con gái kỳ dị đã thực hiện. Đã suy nghĩ từ trước, nên Vũ không lấy làm kinh hoảng. Bộ xương ấy bước vào, tiến đến trước mặt Vũ. Cái đầu nhe bộ răng trắng nhởn nhơ cười một cách rùng rợn.
Vũ ráng bình tĩnh, vẫn cứ ngồi yên giả bộ học.
Thoáng cái, bộ xương đã biến đâu mất. Vũ cười thầm:
- Mi dọa ai thì được, chớ dọa ta sao nổỉ
Chưa dứt lời, một thanh xương tay bỗng từ trên treần nhà rơi xuống, ngay trước mặt Vũ. Tiếp đó, là thanh xương mỗi chốc thêm nhiều, đến mấy chiếc xương sườn... Thấy đống xương mỗi chốc thêm nhiều, lù lù trước mặt... sẵn lọ mực trên bàn Vũ cầm luôn ném vào bộ xương. Mực đổ tung tóe, bộ xương vụt biến mất.
Vũ tưởng vậy là yên. Không ngờ Ngọc Bách lại hiện ra đứng cạnh chàng, nghiêm giọng trách:
- Anh thực là tệ! Lại là người đã hấp thụ văn minh Tây Âu, sao không biết quý người phái yếủ
Vũ thẳng lời, cự lại:
- Người ta chỉ có thể lịch sự đối với người lịch sự! Quấy rầy làm mất tự do của kẻ khác, đó có phải là cách cư xư của hạng người có giáo dục hay không?
Nữ lang không nói lại được, tần ngần đứng lặng người, chốc lát mới thở dàị Vũ thấy sắc mặt nàng vô cùng buồn thảm, cũng động lòng, hỏi:
- Cô là ai, xin nói thật: Nếu còn giấu diếm ta không bao giờ muốn nói chuyện.
Ngọc Bách hỏi lại:
- Nói thiệt liệu anh có khỏi sợ hay không?
Vũ cười:
- Hỏi thế là thừa, nếu là kẻ nhút nhác thì ngay từ đêm trước tôi đã không dám lên căn gác này ngồi mà học nữạ
Nữ lang gật đầu:
- Chính đó là một điều mà em lấy làm kính phục. Em không phải là người, chính là mạ
Vũ thản nhiên:
- Tôi cũng đã đoán biết ngaỵ
Rồi Vũ lại nói:
- Thường thường tôi nghe thấy nói đến oan hồn, song chưa tin là thực; hồn ma còn ẩn hiện lẩn quất nơi đây, ý hẳn cũng có điều oan khuất chứ chẳng không?
Ngọc Bách rơm rướm nước mắt, thưa:
- Sự đời man mác những nỗi oan khiêng nhiều không kể xiết, nhất là trong thời chiến tranh ly loạn này, chẳng phải là trường hợp riêng em. Có điều kẻ chết đi, dù sao cũng mong nắm xương tàn được vùi sâu, chôn chặt, thế mà em thì bộc lộ, gián nhấm, chuột gậm, thê thảm vô cùng...
Vũ thấy nàng từ nãy giờ vẫn đứng trước mặt mình, chớ không dám suồng sã như trước, nên dịu dàng bảo:
- Dù sao nữa cũng xin mời cô ngồi xuống đâỵ Theo luân lý Khổng Mạnh, trai gái?bất tương thân?, nhưng thiển nghĩ: đã là âm dương cách biệt, thì hai thế giới khác nhau, chúng ta là ngay thẳng nói chuyện, tất cũng không ai chê trách vào đâu được!
Nữ lang bùi ngùi nói:
- Nghe lời anh, em chợ nhớ đến ba em ngày xưa, tuy là người Tây học, mà vẫn giữ được nền nếp Đông Phương, quả thực cũng là hiếm có vậỵ Càng nhớ lại trong mấy hôm nay, có biết bao nhiêu cử chỉ hành động suồng sã, thẹn chết đi một lần nữa được.
Vũ gật gù, tán thưởng:
- Nghe lời, thấy rõ ràng là người có học thức. Mong rằng đừng giấu diếm, xin cô kể rành mạch câu chuyện từ đầụ
Ngọc Bách lau nước mắt thưa:
- Nguyên những lời vàng ngọc ấy cũng đủ an ủi em được ngàn phần. Em tên thật là Ngọc Bách, họ Nguyễn, vốn quên ở tỉnh Bắc, con của một ông Tham tá, đã từ trần từ lúc em mới lên 15 tuổi...
Mỉm cười chua chát, Ngọc Bách lại tiếp:
- Năm nay em 18 tuổi! Nói như vậy, nghĩa là: khi chết thì em mới 18 tuổi, nhưng nếu tính theo người sống, qua mấy năm tao loạn thì hiện nay em đã ngoài 20... già mất rồị
Vũ nghĩa thầm trong bụng:
- Khi đã là đàn bà, dù chết đi rồi, cũng vẫn còn lo lắng đến sắc đẹp tàn phaị
Nữ lang lại kể tiếp:
- Trong gia đình, tuy em là lớn nhất, nhưng vì em theo lời trối trăn của cha em dặn lại, nhất định cho em đi học đến nơi đến chốn. Bởi vậy, sua khi đỗ bằng cơ-thủy ở tỉnh Bắc, em được mẹ em cho về học bậc Trung học tại Hà Nộị Cẩn thận mẹ em cho em ăn trọ tại nhà bà Phán Tâm ở ngay liền vách nhà nàỵ
Nhừng lại giây phút, Ngọc Bách lại kể:
- Nếu không có chiến tranh thì không đâu đến nỗi... Khi được lệnh tản cư, bà Phán cùng những trẻ nhỏ đều về quê cả, chỉ còn lại một người con trai lớn, đi làm công sở và em cùng một người vú già ở lạị Bỗng đô thành khói lửa mù trời, căn nhà bên cạnh này (tức là nhà em ở) bị sụp đổ. Người u già, cũng như con trai bà Phán, đều bị chết vùi trong đống gạch ngóị Riêng có em là may mắn núp dưới chân cầu thang được thoát chết. Nghe tiếng bom đạn rầm ran, em sợ hãi vô cùng, bò lần sang hàng xóm, tức là căn nhà này, lúc đó bỏ không, vì người trong nhà đều đã tản cư từ trước. Sợ hãi, em tìm được chiếc thang, treo ẩn lên trên trần căn gác này, vì em cho đó là chỗ ẩn náu kín đáo nhất.
Thân gái trong thời binh lửa, may ra nhờ đó mà được an toàn chăng. Thường lệ, mỗi khi tìm kiếm thức ăn, nước uốn đầy đủ rồi thì em lại trèo lên trần nhà, và rút thang lên theọ Em có ngờ đâu, chính gian nhà này cũng bị sụp đổ, chiếc thang em vừa trèo lên bị rơi xuống. Thế là bỗng dưng bị giam gọn trên trần gác, với một số lượng thức ăn đủ chừng ba ngàỵ Em chỉ còn một hy vọng có thấy bóng người nào thì kêu cứu, không những trong lúc khói lửa tơi bời, ai cũng lo lẩn trốn nên em ngồi yên trên trần đã bốn ngày liền mà cũng không hề thấy có một bóng người nào... Vừa đói và khát, em đành phải chịu cực hình, giống hệt như người bị lạc lõng giữa nơi xa mạc. Cho đến khi sức một yếu dần em thở hơi cuối cùng, thiệt oan một đời xuân xanh đầy hứa hẹn.
Vũ nói tiếp:
- Rồi sao nữa, xin cô cứ kể tiếp cho nghe!
Ngọc Bách thở dài:
- Rồi ngày tháng trôi quạ Cảnh đô thành dần dần trở lại đông đúc, vui vẻ hơn xưạ Riêng có tấm oan hồn của em vẫn bị ngậm ngùi, đáng thương hại nhất là một nắm xương tàn rụi vẫn bị bộc lộ trên trần nhà này, làm mồi cho gián, chuột.
Vũ ngắt lời:
- Nhưng tại sao thấy tôi lên học trên đây, cô lại hiện hình bỡn cợt? Hồn oan đau tủi, há lại còn ưa thích những chuyện cợt đùa...
Ngọc Bách rơm rớm nước mắt:
- Anh quở trách như vậy, em xin nhận lỗi, nhưng chỉ vì em ngu muội, lóng nghe thấy bọn yêu quái thường bàn nhau rằng nếu chúng tìm được người thế mạng thì sẽ được đầu thai thành kiếp khác! Thoạt đầu thấy anh lên học trên căn gác trống này, em dùng tà khí làm cho tinh thần anh bị hôn quyện, rồi sau đó, định hiện nguyên hình người con gái đẹp, để nhờ nhan sắc mà quyến rũ anh... nhưng anh không hề vì sắc đẹp mà động tâm. Em lại định tác quái để cho anh sợ hãi... nhưng kết cục cũng bị thất bại... Em thực đã đắc tội với anh nhiều lắm.
Vũ ngắt lời hỏi:
- Bây giờ cô muốn gì?
Ngọc Bách gạt nước mắt, thưa:
- Em chỉ mong anh vì thương người bạc phận, ra tay tế độ, chôn cất cho yên đẹp nắm xương tàn của em mà thôị Như vậy, em không còn phải oán hận gì nữa...
Vũ nhận lời, Ngọc Bách sụp lại tạ Ơn, nhưng Vũ giục nàng hãy ra đi, vì âm dương cách biệt, lần lửa lâu lai, cũng e hại cho cả đôi bên.
Ngay sáng hôm sau, Vũ hỏi thăm những người ở gần đấy, họ đều nhận rằng có thực, tại nhà bà Phán Tâm khi xưa có cô con gái tỉnh Bắc trọ học, nhưng hình như đã thiệt mạng trong những ngày khói lửa đô thành... Vũ lại tìm thang trèo lên trên trần nhà lục lạo khắp nơi, quả nhiên có một đống xương người, nhện chăng, bụi phủ, riêng lạ một điều là có mấy khúc xương rõ ràng có vấy mực. Sau khi tìm được xương cốt của cô gái Vũ bèn nhờ người chôn cất, cho đúng lời hẹn với hồn ai!
--------------------
tamvinh
240/9 cách mạng tháng 8 P10 quận 3
dt 9351166
0915133333 Avinh
0915022222 CTâm
web
dịch vụ mới hot hot hot....
nhận chạy phần mềm O2 vô galerry hay vô nhạc bị treo 50K...
nêú ở xa vaò đây nghen
minhtrung-mobile
View Member Profile Sep 29 2007, 05:08 PM Post #17
admin
Group: SMod
Posts: 793
Joined: 10-January 07
Member No.: 893
Thái, người trên bốn mươi, làm một chức sở trưởng sở tại Phủ đường Khiêm Chương ở Tứ Xuyên. Phủ quan là một người họ Chu, đồng liêu với ông ta là hai viên phụ tá Lê và Bạch. Mùa thu năm 758, Thái bị ốm kịch liệt. Chàng bị sốt rét kinh khủng, gia đình chàng tốn công chạy thầy, chạy thuốc cũng đều vô ích. Tới ngày thứ bảy, chàng mê man bất tỉnh, nằm trở như vậy hàng bao nhiêu ngàỵ Bè bạn và gia đình cầm chắc là chàng sẽ chết. Mới đầu, chàng thấy khát và còn nói được đòi nước uống, về sau chàng mê man thiêm thiếp không ăn uống được gì cả. Chàng cứ ngủ li bì cho tới ngày thứ hai mươi thì bổng nhiên chàng ngáp một cái và ngồi dậỵ
Chàng hỏi vợ:
- Ta ngủ được bao lâu rồỉ
- Độ ba tuần.
- Phải, chắc là lâu như vậỵ Nàng đi tìm các bạn đồng liêu của ta, bảo họ rằng ta đã khỏi bệnh rồị Hỏi xem họ có ăn gỏi cá chép và giờ khắc này không. Nếu có ăn, bảo họ phải bỏ bữa ăn ngaỵ Ta có việc muốn bàn với họ. Gọi thằng hầu Chương tới phủ đường. Ta muốn gặp cả nó nữạ
Tên hầu được phái tới phủ đường. Nó thấy quả thật các quan chức đương dùng cơm trưa, và có một đĩa gỏi cá chép nóng hổi, khói lên nghi ngút. Tên hầu đưa thư cho mấy ông đó và mọi người đồng ý đến nhà Thái, họ sung sướng nghe tin bạn đã khỏi bệnh.
Thái hỏi:
- Có phải các bác đã sai thằng hầu Chương mua cá không?
- Có, chúng tôi sai nó.
Thái ngoảnh lại nhìn Chương và hỏi nó:
- Có phải nhà người đã mua cá ở nhà lão chài Triệu Cao, và có phải lão ta từ chối không bán cho nhà ngươi con cá lớn không? Đừng ngắt lời tạ Nhà người thấy con cá chép lớn giấu trong cái thùng nhỏ có phủ bèo, rồi nhà ngươi mua con cá, nhưng nổi giận vì lão chài đã nói dối nên bắt lão đi theọ Khi nhà ngươi đi vào phủ đường, người viên chức thu thuế ngồi ở phía tây, đương đánh cờ. Đúng vậy không? Rồi nhà ngươi đi lên sảnh đường, nhà người trông thấy Chu Phủ quan và Lê Phụ tá đương đánh bài, còn Bạch thì đương ngồi xem, miệng bỏm bẻm nhai lê. Nhà ngươi trình với Bạch về lão chài, rồi Bạch đá cho lão ta một cái lăn chiêng xuống sân. Rồi thì nhà ngươi mang cá xuống bếp, tên đầu bếp Hoàng Triết Lương mổ nó làm bữa trưạ Có phải đúng là sự việc xảy ra như vậy không?
Mọi người hỏi Chương và ai nấy hỏi lại lẫn nhau, và thấy rằng mọi chi tiết đều đúng vậỵ Kinh ngạc quá, họ hỏi Thái làm cách nào mà biết hết được như vậy, và đây là câu chuyện ông ta kể cho các bạn nghe:
Khi tôi bị ốm, tôi sốt nóng kinh khủng, như các bác biết. Không chịu được cơn nóng dữ dội, tôi mê man đi, nhưng cái cảm giác nóng sốt vẫn còn và tôi tự hỏi làm cách nào cho bớt nóng đị Tôi nghĩ đến việc đi dạo chơi trên một bờ sống tuyệt đẹp, rồi cầm một cây trượng và ra đị Vừa ra khỏi thành là tôi đã thấy ngay không khí mát mẻ hơn lên, tôi cảm thấy dễ chịu ngay tức thì. Tôi thấy khí nóng từ các mái nhà bốc lên và tôi thấy khoan khoái đã bỏ xa chúng ở lại phía sau mình. Tôi đi về phía chân đồi, nơi đó Đông Hồ nối liền với sông.
Tới bờ hồ, nghỉ ngơi trên bờ dưới cây dương liễụ Non nước xanh lơ sao mà quyến rũ thế. Một cơn gió nam nhẹ nhàng thổi qua mặt nước làm cho nước gợn lên như vẩy cá, do đó, tôi có thể theo dõi rõ ràng cử động và phương hướng của gió nam trên mặt hồ. Cảnh vật đều im lặng và bình thản. Bổng tôi ao ước được tắm một cáị Tôi quen thói bơi lội như một đứa trẻ con, nhưng từ lâu lắm tôi không tắm ở trong hồ. Tôi cởi bỏ quần áo và nhào xuống nước, tôi thấy cảm giác mê ly khi nước bao bọc và mơn trớn thân mình và chân tay tôị Tôi ngụp lặn ướng nước nhiều lần, thấy khoan khoái vô cùng. Tôi chỉ còn nhớ là lúc đó tôi nghĩ rằng: "Thương thay cho Bạch cho Lê và Chu, và tất cả bè bạn cả ngày chúi mũi trong công đường. Ước gì ta được hóa thành con cá một lát để khỏi lôi thôi vướng víu trát với niêm, với công văn, tài liệụ Ta sẽ khoan khoái chừng nào nếu mà ta hóa thành con cá bơi ngày, bơi đêm với nước, chung quanh ta chỉ thấy nước thôị"
Một con cá bơi tới chân ta lúc đó nói ngay rằng:
- Tôi tưởng điều đó dễ làm lắm. Ông có thể hóa cá suốt đời như tôi đây, nếu ông muốn vậỵ Tôi có thể giúp ông việc đó được chăng?
- Nếu ngươi có lòng tốt như vậy, ta lấy làm cảm kích vô cùng. Tên ta là Thái Vệ, hiện làm trưởng sở ở phủ lỵ. Bảo với đồng loại ngươi rằng ta rất lấy làm hân hạnh được đổi ngôi vị với bất cứ một người nào trong bọn họ. Chỉ cần cho ta được bơi lội và bơi lội mãi thôị
Con cá bỏ đi một lát rồi trở lại với một người đầu như đầu cá, người này cỡi trên một con Oa Oa - các bác biết đó, giống vật có bốn chân, sống dưới nước nhưng có thể trèo cây được, khi người ta bắt nó hay giết nó, nó kêu như tiếng trẻ con khóc vậỵ Người đầu cá này tới với một đoàn tùy tùng độ mười hai con cá cùng một loại, y đọc chiếu chỉ của vua Thủy Tề. Các bác hãy tin tôi đi, chiếu đã được thảo bằng lối văn xuôi diễm lệ, chiếu đó bắt đầu như sau:
"Con người, một sinh vật trên đất có những lề lối khác biệt với thủy tộc. Chừng nào con người còn giữ hình thể của mình, y không thể tiến bộ mau lẹ ở dưới nước được. Trưởng sở Thái Vệ có một tâm hồn cao cả và sâu sắc, đã đi tìm sự thư thái và siêu thoát ở một đời sống Tự dọ Bất mãn và buồn phiền vì những công việc quan, y mơ tưởng đến lạch sông, đáy hồ nước trong xanh mát mẻ, mơ tưởng tới thú tự do và tháng ngày vô tận cùng các trò du hí ở thủy quốc chúng tạ Ước vọng trở thành thần dân thủy tộc của y từ đây được chấp thuận. Y sẽ được làm một con cá chép nâu và được phái tới Đông Hồ làm nơi cư ngụ thường nhật. Than ôi! Đời sống của thủy tộc ở sông và biển có vô vàn sự cám dỗ và cạm bẩỵ Có kẻ đã ngốc nghếch cản phá tàu bè; có kẻ vì thiếu từng trải và không kềm chế nổi lòng mình đã bị mắc bẩy, bị bắt bởi đủ các loại dụng cụ của loài ngườị Không có ở đâu chân lý được rõ ràng bằng dưới nước rằng sự thận trọng là sự bảo đảm tốt nhất cho một đời sống lâu dàị Chúc cho ngươi cư sử khéo léo và đường hoàng, hợp với phong độ cao cả của loài thủy tộc mà ngươi được may mắn làm một thần dân mớị Ngươi hãy làm một con cá khôn ngoan!"
Vừa nghe chiếu chỉ, tôi vừa thấy mình biến đổi thành một con cá, mình tôi được phủ một lớp vẩy đẹp, óng ánh. Sung sướng với sự thay đổi đó, tôi bơi lội ung dung thoải mái, ngoi lên mặt nước rồi lặn xuống tùy theo ý thích với sự cử động nhẹ nhàng của những vây của tôị Tôi ngoi ra sông, tôi thám hiểm tất cả những hang hốc ở bờ và mọi nguồn, mọi suối, nhưng bao giờ tối đến tôi cũng trở về hồ.
Tuy vậy, một ngày kia, tôi bị đói ghê gớm không thể kiếm được thức gì ăn. Tôi nhìn thấy Triệu Cao quăng cần câu xuống và đợi bắt tôị Trông con mồi ngon lành cám dỗ quá, hai mang tôi cứ việc chảy rãi rạ Tôi rõ ràng đó là một vật ghê gớm mà tôi rất sợ không dám đụng vào, nhưng tôi cảm thấy đó chính là thứ tôi cần, và tôi không thể tưởng tượng thứ gì khoái hơn nó được đối với miệng tôị Rồi thì tôi nghĩ tới những lời căn dặn cẩn trọng và tôi bỏ đi, với một sự kiềm chế lớn lao, tôi bơi đi nơi khác.
Nhưng một cái đói kinh khủng vò xé lòng tôi, và tôi không thể chịu đựng được nữạ Tôi tự nhủ lòng: "Mình biết Triệu Cao, và lão ta cũng biết mình. Chắc lão không dám giết mình đâụ Nếu bị bắt, mình sẽ bảo lão mang mình về phủ đường!"
Tôi quay trở lại đớp ngay lấy con mồi, và tôi bị tóm cổ, tất nhiên vậỵ Tôi chống cự và vùng vẫy nhưng Triệu Cao lôi tôi lên, môi dưới tôi đẫm máu, thế là tôi đành chịụ Khi lão ta sắp nâng tôi lên, tôi kêu:
- Triệu Cao, Triệu Cao, nghe ta đây! Ta là Thái Vệ, trưởng sở đây! Nhà ngươi sẽ bị tội về việc này đó!
Triệu Cao không nghe thấy lời nói của tôi, lão luồn một sợi dây gai vào mép tôi và quăng tôi vào một cái thùng có phủ bèọ
Tôi nằm đó chờ đợị Một lát sau, hình như để đáp lại lời cầu khẩn của tôi, Chương từ phủ đường của ta tớị Tôi nghe thấy câu chuyện trong đó Triệu Cao từ chối không bán cho Chương con cá lớn. Vậy mà y cũng nhìn thấy tôi, lôi tôi ra khỏi cái thùng, tôi bị xách tòn ten bởi sợi dây, thật là nguy hiểm.
- Chương, sao mi dám như vậỷ Ta là chủ của mi đâỵ Ta là trưởng sở Thái đây, ta chỉ nhất thời đội lốt cá thôị Lại đây, bái yết ta đi!
Nhưng Chương không nghe lời tôi, hoặc là có nghe thấy mà cố lờ đị Tôi gào to thất thanh lên, vùng vẫy lăn lộn mãi nhưng tất cả đều vô hiệu quả.
Khi tôi vào cổng, tôi thấy các viên chức đang đánh cờ gần cửa lớn, tôi kêu lớn lên gọi họ, nói cho họ biết tôi là aị Tôi lại bị lờ đị Một viên chức trong bọn họ reo lên:
- A ha! Đẹp đẽ biết bao! Nó phải cân tới ba cân rưỡị
Các bạn hãy tưởng tượng xem tôi uất ức như thế nào!
Trong sảnh đường, tôi nhìn thấy các bác, như tôi đã kể lại một khắc trước đâỵ Chương trình với các bác về việc Triệu Cao giấu cá lớn, toan bán nguyên cá nhỏ thế nào, rồi Bạch cáu quá đá một cái thật mạnh vào lão ta, các bác đều khoái trá vì con cá lớn.
- Đem nó vào cho thằng bếp. Bảo nó làm một dĩa gỏi cá chép thật ngon, cho hành, cho nấm, và trộn chút rượu nhé!
Tôi tưởng như là Bạch nói câu đó. Tôi bảo với tất cả các bác:
- Các bạn đồng liêu ơi, đợi một chút đã. Nghe lời tôi đâỵ Thật là cả một sự lầm lẫn. Tôi là Thái đâỵ Các bác phải biết tôi chứ. Các bác không thể giết tôi được. Sao các bác lại tàn ác như vậy được?
Tôi cứ phản đối hoài, cãi hoàị
Tôi thấy cãi cũng vô ích vì các bác đều điếc cả. Tôi nhìn các bác với cặp mắt van lơn cầu khẩn, miệng tôi há ra cầu xin tha thiết:
- Hành, nấm và một chút rượu trộn! Sao cái lũ quỷ quái vô lương tâm này nỡ đối xử với bạn của họ như vậy!
Tôi tự nghĩ thế, nhưng tôi không thể làm gì được cả.
Rồi Chương xách tôi vào bếp. Thằng đầu bếp trợn to mắt ra mà nhìn tôị Mặt nó tươi lên khi nó mài con dao, và đặt tôi lên cái thớt.
- Hoàng Triết Lương! Mi là tên bếp của ta! Chớ có giết ta! Ta xin mi đó!
Hoàng Triết Lương nắm chặt lấy mình tôị Tôi thấy ánh dao sáng loáng sắp bổ xuống đầu tôị Phập, lưỡi dao đã hạ xuống, và vừa lúc đó tôi tỉnh dậỵ
Nghe chuyện đó, bạn bè của Thái rất xúc động và càng kinh dị hơn vì những điều mà chàng nói với họ đều đúng sự thật từng chi tiết một. Có người nói rằng họ nhìn thấy miệng con cá động đậy nhưng không ai nghe thấy một lời nào cả. Từ đó trở đi, Thái hoàn toàn bình phục, và bạn bè của chàng mãi cho tới già không dám ăn thịt cá chép nữa
--------------------
tamvinh
240/9 cách mạng tháng 8 P10 quận 3
dt 9351166
0915133333 Avinh
0915022222 CTâm
web
dịch vụ mới hot hot hot....
nhận chạy phần mềm O2 vô galerry hay vô nhạc bị treo 50K...
nêú ở xa vaò đây nghen
minhtrung-mobile
View Member Profile Sep 29 2007, 05:09 PM Post #18
admin
Group: SMod
Posts: 793
Joined: 10-January 07
Member No.: 893
Hồn Ma Báo Oán
Tác Giả: Vida Derby
Tìm Kiếm:
Có lẽ những người ít bị gây ấn tượng nhất đôi lúc cũng cảm thấy những hiện tượng không nhìn thấy, đặc biệt là tại một thời điểm xác định, dường như có thế lực vô hình nào đấy tồn tại chung quanh.
Phải người chết vĩnh viễn rời xa chúng ta, hay họ vẫn ám ảnh cuộc sống chúng ta? Lý giải điều này là không tưởng, nhưng hồn ma người chết có thể lởn vởn quanh ta, và còn hiện hình làm cho chúng ta cảm tưởng như bị bắt quả tang. Họ xuất hiện với mục đích rõ ràng, để phù hộ hoặc đe doạta.
Vợ của Arthur Noakes là Edith, người hay ghen một cách ảo giác. Do chồng cô rất yếu đuối trước phụ nữ nên nàng thường ghen và phải chịu nhiều cay đắng, nhục nhã với những cơn đau tim khi còn sống.
Trước lúc lâm chung nàng thề độc rằng nếu Arthur cứ tiếp tục tán tỉnh phụ nữ và quan hệ chăn gối với họ, nàng sẽ trở về ám ảnh để ông không còn dám nhìn mặt bất cứ một phụ nữ nào. Những gì chưa thực hiện được khi sống cô hy vọng sẽ làm được từ cõi âm.
Arthur Noakes không quan tâm tới lời đe doạ của người vợ quá cố, ông nhanh chóng tìm kiếm một người đàn bà hấp dẫn. Arthur nghĩ rằng lúc này ông đã là người tự do và có thể hưởng thụ cuộc sống tự do đó đến khi cạn sinh lực. Có lẽ ông sẽ cưới vợ lần nữa. Vợ thì có ích, nhưng không kém những giờ phút buồn chán.
Là chủ cửa hàng vải và đồ tạp hoá duy nhất ở thị trấn nhỏ Sussex, Arthur có điều kiện lựa chọn rộng rãi trong số phụ nữ khách hàng, thế nhưng hầu hết người đẹp đều dửng dưng đối với đàn ông. Là người goá vợ nhưng đẹp mã, ông hy vọng sẽ có ngày thành công.
Chẳng bao lâu sau, con mắt thèm khát của ông chạm vào một quả phụ trẻ thường xuyên đến cửa hàng đăng ten và dải lụa, tuy sống cảnh sống goá bụa song nàng không làm mất nét đẹp tự nhiên và niềm tin yêu cuộc sống. Thế nhưng, khi Arthur tìm cách tán tỉnh thì nàng hơi lưỡng lự, nhưng đôi mắt xanh tuyệt đẹp lại cho thấy lời thúc giục chào mời.
\"Ông Noakes, việc ông kiếm người đàn bà khác trong khi người vợ tội nghiệp của ông mồ chưa xanh cỏ, ông thấy có vội vã quá không?\"
Arthur rùng mình lưỡng lự, nhưng sự nòng lòng chiếm hữu người đẹp đoan trang giả tạo này nhanh chóng xâm chiếm lòng ông. Arthur cũng nhận ra Mabel, nàng vốn xuất thân từ một gia đình nghèo túng điển hình, đơn giản là nàng đang đắn đo trước danh tiết của mình.
\"Thưa cô yêu quý, tôi cảm thấy đã yêu cô từ lâu lắm rồi. Tình cảm của tôi lớn đến nổi tôi phải bộc phát, nghĩa là phải nói cho cô biết được. Nếu cô ngại dạo phố bên cạnh tôi - thật ra tôi đánh giá cao sự dè dặt đó - nhưng sao chúng ta không thể hẹn gặp nhau ở một nơi nào đó ngoài thị trấn để không ai nhìn thấy?\"
Lúc này Mabel đang ngắm vẻ tao nhã của mình, đôi giày bấm khuy, chân phải đung đưa làm đỏm. Hy vọng càng tăng khiến ông càng sốt ruột khi dán chặt vào hai cổ chân mảnh mai, vào sự run rẩy của đôi gò má và sự bẽn lẽn trong nụ cười của người đàn bà goá.
Nàng ngước mắt nhìn ông. \"Thế chúng ta có thể gặp nhau ở đâu để không bị phát hiện?\" Nàng giả vờ xấu hổ khi hỏi ông câu ấy.
Arthur đã biết một nơi mà trước đây ông đã từng đến. Sống giữa cộng đồng dân cư ít ỏi này, sự bí mật đôi khi thật hữu ích để việc riêng thành công. Ông kể với Mabel về địa điểm ấy bằng giọng nói mơ màng và nàng đồng ý gặp ông tối hôm sau.
Nơi đấy quả là địa điểm thơ mộng, lý tưởng cho những đôi tình nhân, bên cạnh một chiếc cầu bắt ngang con suối chảy yên bình. Arthur đến trước và người tình mới không để ông phải đợi lâu. Niềm vui của ông được trọn vẹn ngay khi ông nhìn thấy cô gái qua cầu. Trước nay không mấy ai đi bộ qua đây, ngay cả vào những đêm hè mát mẻ này. Họ gặp nhau nhiều lần, hôn nhau, làm tình và không ngại bị quấy rầy.
Tối nọ Mabel đến muộn. Arthur sốt ruột, liên tục nhìn cây cầu chập chờn ánh đèn pha ô tô. Chuyện gì xảy ra nhỉ? Chẳng lẽ nàng cố tình bắt ông chờ để ông hăng hái hơn, hay nàng không đến được tối nay? Vừa lúc ông định đi về thì thấy bóng Mabel vội vã băng qua cầu.
Chợt nghĩ hay là cho cô ta một bài học, Arthur nấp sau gốc cây chờ đến tận khi cô tới nơi hẹn quen thuộc, ông nhẹ nhàng lại gần và đột ngột ôm gọn eo lưng thon thả của người yêu.
Arthur chợt rùng mình. Dường như Mabel tan ra hư ảo, đúng lúc đó cô quay mặt về phía ông. Kinh khủng qua - Arthur không tài nào hình dung được. Thay vì gương mặt tươi cười xinh đẹp, đôi mắt nhí nhảnh, đôi má hồng của Mabel, ông lại thấy gương mặt đã chết của vợ ông - trắng bệt như phấn, đôi mắt đờ đẫn đầy tử khí đang đe doạ ông khiến ông vô cùng sợ hãi. Arthur nhảy bật về phía sau, thét lên khiếp đảm.
Bóng ma chỉ một ngón tay cảnh cáo về phía ông rồi biến mất ngay trước mắt ông. Arthur bỗng nhớ lại lời nguyền trước phút lâm chung của vợ và ông vội vã bỏ chạy khỏi chỗ hẹn bằng đôi chân run rẩy.
Lên đến chân cầu, chạy được quãng ngắn, ông thấy Mabel đang đi về phía mình. Nhưng đó có phải cô gái goá trẻ đẹp hay hồn ma kinh dị giả dạng Mabel? Ông đợi trong nỗi sợ hãi, run lẩy bẩy, thở hổn hển sau cơn vận động quá sức vừa qua. Trong đời chưa bao giờ Arthur chạy nhanh như thế, và giữa bóng tối nhập nhoà ông không dám chắc thật giả cho đến khi cô gái đến gần.
\"Anh sốt ruột quá phải không anh yêu?\" Mabel cười nhẹ nhàng, hai tay ôm choàng lấy cổ ông, hôn nồng nàn.
Arthur thở phào nhẹ cả người vì thân thể cô gái có ấm ấp và ông ngửi thấy mùi nước hoa huệ quen thuộc của Mabel. Arthur run rẩy gỡ tay cô gái ra, ông chợt nhớ đến mùi mộ người chết và ngón tay cảnh cáo của hồn ma.
\"Có chuyện gì thế anh Arthur? Người anh run quá. Anh giận em đến muộn phải không? Hay cái gì đó chụp vồ anh từ sau bụi rậm?\"
Arthur cố lùi người ra xa, tránh né câu hỏi bằng cách tỏ vẻ khó chịu vì sự chậm trễ của người yêu. Ông hỏi việc gì đã khiến cô đến muộn.
\"Em xin lỗi, Arthur ạ. Bà mẹ nuôi tới thăm nên em không thể nào bỏ bà một mình. Nhưng có gì đâu, giờ em đang ở đây. Chúng ta đến chỗ cũ ngồi đi rồi em sẽ kể cho.\"
Cử chỉ của người đẹp đầy quyến rũ. Nàng âu yếm ông đến nỗi nếu là ngày thường máu trong người ông sôi lên rồi. Nhưng tối nay ông run rẩy sợ hãi vì phải trở lại nơi đã gặp hồn ma của người vợ quá cố vừa hiện về đe doạ. Arthur đề nghị tối nay họ nên đi nghe hoà nhạc. Ông thích nơi vui vẻ, giải trí và nhất là vài giọt Scotch giúp ông quên đi cơn ác mộng vừa qua.
Nhưng Mabel nhất quyết từ chối đến bất cứ nơi công cộng nào với ông và khi ông không muốn thay đổi ý kiến thì cô nói rằng ông không còn yêu cô nữa. \"Nếu anh tới nơi đó anh sẽ gặp bọn đàn bà cũng chỉ lăm le tới đó để tìm bạn tình, Arthur ạ.\"
Arthur giải thích rằng ông vẫn yêu cô nhưng Mabel mặc cảm và cố chấp, cảnh cáo nếu ông bỏ cô để đến lúc này thì cô sẽ không còn gặp ông nữa, điều này có nghĩa là tình yêu và sự âu yếm của cô không giữ nỗi khát khao và sự cần thiết đối với ông. Thế thì họ nên chấm dứt từ đây.
Nhưng Arthur vẫn sợ hãi, ông không tin là cô sẽ từ chối gặp lại nếu có lời đề nghị. Một việc mà ông chắc chắn nhất - ông sẽ không bao giờ dùng địa điểm trữ tình cạnh bờ sông để làm nơi hẹn hò nữa.
Arthur đến phòng hoà nhạc một mình và sau vài cốc rượu, trong không khí sôi động của âm nhạc, ông chỉ còn nghĩ chuyện vừa qua chỉ là tưởng tượng. Làm sao một người chết có thể hiện về như thế?
Sáng hôm sau Arthur thấy Mabel đến cửa hàng, nhưng lần này bên cạnh nàng là một chàng trai mới và nàng phớt lờ ông. Ồ, thưa bà quả phụ trẻ, nếu bà làm như thế thì tôi cũng sớm tìm người khác, một người hấp dẫn hơn và không sợ bị nhìn thấy ở nơi công cộng như bà.
Sau đó Arthur chọn một cô chồng còn sống nhưng ở trong hải quân, phải xa nhà quanh năm. Tên cô ấy là Alice. Nàng không đẹp nhưng dễ nhìn, có trái tim nồng cháy và thân thể rất khêu gợi. Alice thường mời ông đến nhà chơi.
Alice nấu một bữa ăn ngon, có cả bia và rượu gin. Nàng còn mời ông hút xì gà, có lẽ của chồng nàng, Arthur nghĩ thầm. Alice tự tay châm cho ông hút rất ân cần. Arthur ngã người xuống ghế, cảm thấy rất dễ chịu, khoan khoái. Alice ngồi bên ông, họ vuốt ve, âu yếm và hôn nhau. Lát sau nàng đứng dậy.
\"Anh hút nốt điếu xì gà đi, còn em đi thay quần áo đây, Arthur.\" Mắt nàng nhìn ông khêu gợi, mời mọc. \"Lúc nào xong em gọi anh lên nhé. Em biết là anh nóng lòng mà,\" ông đáp lại, \"đừng lâu quá nhé em yêu.\"
Vài phút sau, Alice quay xuống, quần áo vẫn mặc trên người, nhưng là bộ quần áo khác, xung quanh nàng nhuốm bầu không khí lành lạnh, ghê rợn. Arthur đứng chồm dậy, điếu xì gà rơi xuống thảm, không còn tâm trí đâu để thấy nó đã bắt lửa cháy âm ỉ.
Một nỗi sợ hãi ập đến, không phải Alice đang đứng trước mặt ông, mà là hồn ma của Edith, gương mặt người chết nhợt nhạt nhìn ông. Mới vài phút trước Arthur còn đứng đây lòng tràn ngập hạnh phúc và thèm khát, còn giờ đây hai chân ông chôn chặt xuống sàn, cứng người vì sợ. Chợt hai cánh tay khô khốc, xương xẩu và lạnh lẽo ôm lấy cổ ông, hai con mắt nguyền rủa ông, từ hai vành môi xám xịt phun ra luồng hơi thối của cơ thể người chết đang phân huỷ.
Đúng lúc đó giọng nói nhẹ nhàng từ trên gác vọng xuống: \"Anh lên được rồi đấy, Arthur yêu dấu.\" Bóng ma lại biến mất. Nhưng cảm giác hai cánh tay toàn xương vẫn đè trên cổ Arthur, mùi xì gà không át nổi mùi mộ và cơ thể người chết.
Arthur bị kích động. Ông chạy thoát ra ngoài mặc bóng người mời gọi ông đã xuất hiện trên cầu thang. Alice hốt hoảng thấy ông lao vụt ra, không kịp đóng cửa lại. Arthur chạy như bị ma đuổi sau lưng.
Cuộc tình ngắn ngủi với Alice chấm dứt ở đấy. Suốt cả tuần sau đó Arthur nằm nhà và tự an ủi bằng rượu Scotch. Cửa hàng gặp khó khăn vì ông bỏ bê công việc. Arthur nhận thấy không thể tiếp tục sống ở nơi này được nữa. Ông quyết định đóng cửa hàng và chuyển tới London. Ở thành phố lớn ấy, bóng ma Edith không còn ám ảnh ông và ông có thể bắt đầu cuộc sống mới. Công việc tiến hành thuận lợi khiến Arthur cảm thấy hạnh phúc và thoải mái hơn.
Arthur có hai cô trợ lý và cô nàng Mary Thompson đã nhanh chóng cuốn hút ông. Không bao lâu sau quan hệ của họ đi xa hơn quan hệ bè bạn.
Đôi khi nỗi ám ảnh cũ trở về đe doạ ông. Như cái hôm ông cùng Mary đi xem vở Vụ án mạng ở kho thóc màu đỏ. Đến cảnh người đàn ông rủ bạn gái vào kho thóc rồi giết cô khiến ông giật nảy người; quyển sách đang cầm trên tay tuột rơi xuống nền nhà. Mary đứng cạnh thấy người ông run rẩy. Arthur sợ hãi quay sang nhìn cô. Người bên cạnh có phải là Mary thật không? Hay Edith giả dạng để quấy phá ông?
Arthur nắm chặt bàn tay đang chìa ra, nó ấm và mềm mại. Ông cố gắng trấn tĩnh và an ủi Mary rằng tâm trạng ông đã ổn, có lẽ vừa rồi là do nhiễm lạnh và hơi mệt. Nhưng từ lúc đó ông luôn bị ám ảnh rằng hồn ma đáng ghét vợ ông đã theo ông lên London.
Vở kịch kết thúc, Mary đề nghị đưa Arthur về nhà, trên đường nàng ghé tiệm rượu mua thêm chai whishky.
\"Anh cần một cốc rượu nóng và sữa,\" cô nói. Chừng nào anh uống hết em mới về.
Ngày thường Arthur sẽ vui vẻ chấp nhận, nhưng hôm nay ông sợ và tìm mọi cách xua đuổi nàng.
\"Anh hứa là sẽ uống sữa nóng và whishky. Em không cần bận tâm quá, em rất tốt với anh, Mary thân yêu ạ.\"
Nói thế nhưng Arthur không từ chối mãi được. Ông mở cửa cho Mary vào, không quên quay lại sau lưng nhìn xem có bóng nào không. Ông bật bếp ga đun sữa. Mary thầm cười khi thấy ông hôm nay làm gì cũng vội vã, thậm chí ông quên cả việc hôn nàng từ khi họ vào nhà đến giờ; hiếm khi ông bỏ lỡ chuyện này lúc chỉ có hai người với nhau.
Đang hôn Mary thì Arthur giật mình khi nghe tiếng đập cửa dưới gác. Mary cũng nghe và nói có lẽ ông quên đóng cửa lúc vào nhà.
\"Anh xuống khoá cửa lại đi,\" nàng nói. Arthur lưỡng lự.
Ông thấy ớn lạnh, nổi cả da gà. Chắc chắn ông đã khoá cửa cẩn thận lúc họ vào nhà nhưng làm sao có thể nói với Mary rằng ông sợ bóng tối và sẽ ngất đi nếu ông gặp hồn ma dưới tầng một.
Arthur vội vàng chạy xuống, nhanh chóng cho xong việc. Cửa vẫn đóng, ông run run cài thêm chiếc then cửa.
Bất chợt Arthur ngửi thấy mùi xác chết, ông hoảng hốt quay lại, khiếp sợ vì biết trước sẽ nhìn thấy gì. Vợ ông đứng ngay giữa đường đi, chặn đường lên gác của ông. Mặt nàng chuyển sang màu lục, hai gò má chảy nước nhờn kinh tởm, môi bị gặm gần hết khiến hai hàm răng nhô cả ra ngoài. Lúc hai cánh tay xương xẩu đưa lên cổ ông buộc ông phải nhìn thẳng vào hai hốc mắt sâu hoắm không còn con ngươi, sức chịu đựng của ông đã cạn.
Đúng lúc đó Mary gọi ông trên gác, bóng ma biến mất còn Arthur thì run rẩy đến mức làm cho các cơ thịt méo xệch đi, buồn mửa vì mùi xác thối vừa hít phải. Khi Mary thấy ông thì nàng cũng chết khiếp: thân thể Arthur trắng bệch, run run liên tục.
Việc duy nhất mà Arthur muốn lúc này là rời xa tình nhân ngay lập tức. Nhưng Mary quá sốt sắng, bắt ông phải đến ngồi bên lò sưởi và đưa cho ông sữa nóng cùng rượu whishky. \"Chắc anh vừa trải qua một cơn sợ hãi kinh khủng, Arthur thân yêu, vì thế em nghĩ anh nên nằm tịnh dưỡng cả ngày mai cho khoẻ. Tụi em có thể quản lý cửa hàng được, lúc nào rảnh em sẽ đến thăm anh ngay.\"
Lời đề nghị chân tình của Mary lại khiến Arthur cảnh giác. Edith đời nào chấp nhận chuyện đó! Hồn ma đó trở về doạ ông lần nữa thì ông chết mất. Vậy thì chẳng còn cách nào khác hơn là Mary phải ra đi, nhưng ông chưa biết nói với nàng thế nào.
Cuối cùng Mary cũng ra về, Arthur lên giường nhưng giấc ngủ mệt nhọc đôi khi bị ngắt quãng bởi những cơn ác mộng hãi hùng. Người vợ quá cố cùng ngủ trên giường với ông, mùi xác chết không tan khỏi khứu giác ông. Hai cánh tay xương xẩu nặng nề vắt ngang ngực ông khiến ông thở nặng nhọc. Arthur không thể ngồi dậy dù cố bao nhiêu đi nữa. Một sức nặng vô hình đè chặt không cho ông thoát. Arthur vật lộn mãi với nó, cuối cùng rồi cũng thức dậy, nhưng lúc nào không biết.
Sáng hôm sau Mary khóc sướt mướt khi ông viện đủ lý do để chấm dứt mối quan hệ nửa vời của họ. Arthur thương hại tình nhân nhưng ông không làm khác được. Edith là người thắng cuộc. Lời nguyền của cô ấy trước lúc chết đã trở thành sự thật. Arthur không tránh được hồn ma.
Dạo này ông thường bỏ bê công việc ở cửa hàng, và đến quán rượu liên tục. Arthur hay về muộn, say mèm. Mary cảm thấy ái ngại. Cô gái tốt bụng thuê về một nhân viên trẻ, nhưng hắn tỏ ra không thích hợp. Arthur cũng không quan tâm. Hồn ma Edith cũng không còn về doạ ông nữa nhưng sức khoẻ Arthur yếu đi thấy rõ. Ông ăn ít, uống nhiều.
Một buổi sáng chủ nhật, Arthur đi lang thang rồi lạc bước vào nhà thờ. Nơi đây vắng lặng chỉ có... bóng ma Edith. Một Edith trẻ tuổi như hồi họ mới cưới. Nàng đề nghị ông đi theo ra nghĩa địa. Arthur sốt sắng cất bước xiêu vẹo đến bên mộ Edith.
Đứng cạnh mộ đá ẩm ướt, Edith giang rộng hai tay và Arthur lao vào vòng tay ấy như đứa trẻ sà vào lòng mẹ. Hai cánh tay vừa khép lại thì bộ mặt Edith ông nhìn thấy lần cuối cùng hiện về - vẫn hai gò má chảy rửa, hốc mắt rỗng sâu hoắm. Tim ông co thắt dữ dội, cổ họng bị nghẽn không thở được. Giống như cơn ác mộng ông phải chịu đựng bấy lâu nay, nhưng không phải giấc mơ, vì ông cảm thấy rõ ràng những giọt nước mưa - hay nước mắt - ướt nhoà mặt ông.
Sáng hôm sau, người ta tìm thấy xác Arthur nằm ngang mộ vợ. Họ không nhận ra ông nếu không tìm thấy chiếc ví ở trong túi. Arthur được chôn cất cẩn thận ngay cạnh ngôi mộ của vợ. Bạn bè đều nghĩ ông muốn gần vợ ở thế giới bên kia.
Về sau, nhiều người đồn rằng Arthur hiện về và tổ chức họp mặt, trình bày rõ nguyên nhân cái chết năm xưa. Không ai dám chắc điều đó là sự thật...
--------------------
tamvinh
240/9 cách mạng tháng 8 P10 quận 3
dt 9351166
0915133333 Avinh
0915022222 CTâm
web
dịch vụ mới hot hot hot....
nhận chạy phần mềm O2 vô galerry hay vô nhạc bị treo 50K...
nêú ở xa vaò đây nghen
minhtrung-mobile
View Member Profile Sep 29 2007, 05:10 PM Post #19
admin
Group: SMod
Posts: 793
Joined: 10-January 07
Member No.: 893
người trong gương
Nàng trở mình thức giấc. Tấm chăn bông trượt xuống một bên giường, để lộ cánh tay và một bên ngực nàng lạnh buốt. Nàng với tay kéo mền đắp lại, co ro cố tìm chút hơi ấm. Bên cạnh nàng, đứa con gái nhỏ ngủ ngon lành, đôi má ửng hồng bầu bĩnh trông thật đáng yêu. Nàng choàng tay ôm con, áp mặt vào cái thân thể bé xíu ấm áp và cảm thấy thương con vô hạn. Nàng thường cảm thấy hạnh phúc pha lẫn chút tội lỗi mỗi khi được gần gũi, trìu mến với con vì ít khi nào nàng có được nhiều thì giờ để vui chơi và âu yếm con như vậy. Luôn luôn công việc, học hành, và nhất là lúc này, khi chồng đi công tác xa, một mình nàng cáng đáng mọi việc và chăm sóc con đầy đủ đã chiếm hết thì giờ của nàng.
Nàng cố dỗ giấc ngủ nhưng bao nhiêu ý nghĩ trong đầu tiếp tục xoay tròn. Nàng nhớ đến những việc phải làm ngày mai, gấp có, thư thả có mà ngày thường chồng nàng đảm trách. Nàng nhớ chồng và ước sao thời gian qua mau. Một tháng công tác! Thoạt nghe thấy cũng không gì đáng ngại. Thế nhưng từ hôm anh đi, nàng thật sự cảm thấy bận rộn, mệt mỏi và cô đơn. Cô đơn? Thật ra nàng có phút nào được nghỉ ngơi để mà cô đơn đâu, ngoại trừ lúc lên giường sau một ngày mệt nhoài, hoặc lúc thức giấc nửa đêm như bây giờ nàng mới thật sự nhớ đến chồng, nhớ tha thiết và thèm hơi ấm của anh, thèm vòng tay vững vàng, ấm áp của chồng và những cái hôn thật âu yếm, dịu dàng. Nhất là cảm giác an tâm khi có chồng bên cạnh và biết rằng mọi việc đều được lo lắng đầy đủ. Nàng cảm thấy thật may mắn khi được chồng thương yêu trọn vẹn và dành hết thì giờ cho vợ con. Nàng cảm thấy thật hạnh phúc khi được bảo bọc trong tình thương yêu của chồng.
Mới có ba ngày mà nàng ngỡ như đã lâu lắm từ ngày anh đi. Càng cố dỗ giấc ngủ, nàng càng trằn trọc. Lại muốn đi tiểu, thật là phiền. Thôi, ráng ngủ đi vậy để mai còn đi làm, nàng tự nhủ, nhưng cuối cùng nàng đành phải chịu thua và dậy đi. Lười biếng bật đèn, nàng đi qua hành lang mờ tối, ánh sáng hắt ra từ trong phòng ngủ đủ soi sáng lối đi. Khi đi ngang tấm gương lớn về lại phòng ngủ, nàng lơ mơ có cảm giác mình cao lớn hơn ngày thường. 'Có lẽ là ảo giác của cơn buồn ngủ', nàng nhủ thầm và cuộn tròn trong chăn ấm rồi thiếp đi.
Những ngày tiếp theo trôi qua đều đặn, giống nhau, bận rộn và mỏi mệt. Anh vẫn gọi điện về hàng đêm thăm hai mẹ con và nàng cố kéo dài những giây phút ấy đến mức tối đa để xua đi nỗi cô đơn, nhung nhớ. Cuối tuần ấy, nàng quyết định phải đưa con đi chơi giải khuây và hai mẹ con đi sở thú, vào công viên, đi mua sắm, ăn nhà hàng và cuối cùng, mệt nhoài, nàng dắt con vào thư viện địa phương đọc sách thư giãn, thú vui cả gia đình nàng ưa chuộng. Trời chạng vạng tối, hai mẹ con còn nấn ná đến lúc thư viện đóng cửa mới chịu ra về. Trong lúc giúp con gái mặc áo choàng trước khi ra cửa, nàng chợt có cảm giác có ai đang nhìn mình. Ngước nhìn lên, đối diện tấm gương, nàng thấy một khuôn mặt đàn ông đang cười với mình thật thân thiện, và vô tình, nàng cũng mỉm cười lại. Vội vã quay đi, nàng ngạc nhiên nhìn quanh mình chẳng thấy có ai, có lẽ nào người ấy có thể biến đi nhanh đến vậy. Nàng nhìn dọc hành lang mờ tối và lối ra đàng sau mình, tuyệt nhiên chẳng có ai. Gió lạnh lùa vào lồng lộng từ khung cửa mở rộng ra đường phố. Nếu có ai đi ra có lẽ nàng phải thấy chứ? Cố xua đi cảm giác lạ lùng, nàng kéo tay con về và như mọi lần, con gái nàng ríu rít kể cho mẹ nghe những mẩu chuyện lý thú vừa đọc được chiều nay và nàng quên đi sự kiện thiếu logic vừa qua.
* Có lẽ nàng sẽ chẳng bao giờ nhớ lại buổi chiều hôm ấy nếu như nàng không vô tình gặp lại người đàn ông ấy lần nữa. Chiều hôm ấy trời lạnh buốt, mưa dầm dề cả ngày mà xe nàng hư đã hai ngày và nàng phải chen chúc ở trạm xe bus chờ xe về nhà. Đang rầu rĩ vì lại phải đón con muộn, nàng có cảm giác có ai nhìn mình. Xuyên qua tấm kính chắn mưa, nàng thấy có người mỉm cười với mình, một khuôn mặt quen quen mà nàng không nhận ra ngay là ai. Dưới ánh đèn đường nhập nhoạng trong cơn mưa, nàng cố vắt óc để nghĩ ra tên người ấy trong khi người đàn ông bắt chuyện với nàng một cách thân thiện.
"Thời tiết tệ thật đấy nhỉ," chàng nói.
"Vâng," nàng gật đầu, vẫn chưa nghĩ ra là ai.
Qua tấm kính chắn mưa, nàng thấy chàng nhìn mình với một nụ cười vừa thân thiện vừa như là giễu cợt. 'Có lẽ mình trông ũ rũ buồn cười lắm nhỉ ', nàng tự nhủ. Xe bus trờ tới, nàng vội vã lên xe, chàng lẫn vào đoàn người đi về tuyến khác. Nàng chợt nhớ ra khuôn mặt ấy nàng đã gặp hôm nào ở thư viện gần nhà. 'Có lẽ một người thường lui tới thư viện mà mình hay vô tình gặp', nàng nghĩ. Rồi những tính toán, lo nghĩ khác dồn đến, nàng quên đi người lạ-quen này và lên chương trình đặc biệt để đền bù cho con gái lại phải về trễ tối nay.
Nàng còn gặp lại người đàn ông ấy vài lần nữa, thường là ngắn ngủi vài câu trao đổi, khi thì ở quầy tính tiền ở quán nước tại khu phố gần nhà khi nàng sắp sửa ra về, khi thì ở tiệm cắt tóc và một số nơi khác. Hai người chỉ mỉm cười chào nhau, chưa bao giờ họ hỏi tên nhau nhưng nàng đã bắt đầu cảm thấy mến người đàn ông xa lạ này và cảm thấy vui sau mỗi lần gặp mặt.
* Cho đến một lần nàng vô tình gặp lại người đàn ông ấy trong nhà vệ sinh công cộng ở Hội chợ Xuân. Bối rối và ngượng ngùng, nàng chào anh và nhỏ nhẹ nhắc chàng đã vào nhầm toilet.
"Không, anh chỉ vào để gặp em, anh thấy em từ đàng xa và theo em vào đây." Nàng bàng hoàng, khuôn mặt ửng đỏ, sửng sốt trước lời thú nhận của người đàn ông xa lạ. Nói xong, chàng quay ngoắt đi và biến mất sau cánh cửa. Trong cơn bối rối, nàng không nhận ra rằng không hề có tiếng cửa ra vào mở ra hay đóng lại. Nàng choáng váng hoang mang trước sự xuất hiện và ra đi đột ngột của người đàn ông. Lẫn lộn trong mớ cảm giác kỳ lạ không thể phân tích được, nàng nhận ra có cái gì đó gần như là niềm vui, một sự hài lòng và hãnh diện rằng mình vẫn còn có sức hấp dẫn người khác phái. Nàng đã quên đi cái cảm giác rộn ràng này từ lâu lắm rồi, từ thời còn thiếu nữ và đám thanh niên cùng lứa theo đuổi và tỏ tình một cách đột ngột như vậy. Nàng chột dạ khi nghĩ đến chồng, tuy nhiên nàng tự nhủ nàng đã chẳng làm gì sai và cảm thấy yên tâm hơn. Đưa con gái về nhà, nàng còn miên man suy nghĩ không biết mình phải nên xử sự thế nào nếu gặp mặt người đàn ông ấy lần nữa.
Hai hôm sau, nhân lúc con gái nàng ngủ sớm sau một ngày du ngoạn ngoài trời với lớp, nàng tự thưởng cho mình một tối thư giãn bằng một chầu tắm spa nóng và đọc sách, một thú vui mà hoạ hoằn lắm nàng mới được hưởng từ ngày có con. Trong lúc chờ nước xả vào bồn tắm, nàng cởi đồ đứng ngắm mình trước tấm gương toàn thân.
'Mình gầy quá', nàng tự nhủ, 'gầy như là một con mèo đói'. Nàng tự hứa sau kỳ công tác của chồng, nàng sễ lấy phép vài tuần để thư giãn, tẩm bổ và có thể sẽ xin làm ít giờ lại. Chỉ cần vài đêm mất ngủ, thêm cái căng thẳng của một mớ công việc nàng phải làm từ ngày anh đi, đủ làm cho nàng thêm hốc hác. Nàng tự hứa từ nay phải đi ngủ sớm hơn và bớt lười ăn để trông khá hơn lúc anh về.
Đang miên man với dòng suy nghĩ, nàng chợt giật thót mình khi thấy một khuôn mặt với nụ cười thật tươi bên cạnh mình trong gương. Vội vã chụp lấy chiếc khăn tắm che thân, nàng quay ngoắt lại người đàn ông đang đứng bên cạnh mình. Nàng giận dữ lắp bắp, quên mất điều hiển nhiên vô lý rằng nàng không hề nghe tiếng mở cửa hoặc tiếng chân người đến gần.
"Anh.... Anh làm gì ở đây?" "Anh đang ngắm em như mọi khi." "Mọi khi?" Nàng kinh ngạc, quên đi giận dữ.
"Phải, mọi khi. Dĩ nhiên là em không biết rằng anh vẫn đi theo em hàng ngày, khắp mọi nơi. Em chỉ không nhìn thấy thôi." Nàng kinh ngạc đến tột bực.
"Sao có chuyện ấy được? Làm sao anh vào được đây?" Chàng mỉm cười:
"Có lẽ em không để ý đấy thôi, nhưng em chỉ thấy được anh khi em soi gương." Nàng nhanh chóng điểm lại những lần gặp chàng. Thư viện, quán nước, trạm xe bus, toilet công cộng..., phải, lần nào nàng cũng đứng trước một tấm gương và anh cũng thế. Nhưng vậy có nghĩa là thế nào, phải chăng anh không phải là người thường?
"Đúng vậy," anh mỉm cười, đọc được ý nghĩ của nàng. "Anh chết cách đây gần hai mươi năm và cũng theo em gần chừng ấy năm," anh nói một cách đơn giản.
Nàng vịn tay vào thành bồn tắm, từ từ ngồi xuống bệ đá cạnh bồn. Nước tắm tràn ra xung quanh, nàng vội tắt đi trong khi cố nhận định mẩu tin này. Nàng ngạc nhiên không thấy mình sợ hãi, chỉ kinh ngạc, bối rối và cảm động vì biết rằng anh đã theo mình chừng ấy năm. Nàng nhìn anh, cố tìm ra một nét gì đó không bình thường để tin điều anh nói là sự thật nhưng hoàn toàn không có gì cả.
"Anh không giống như những hồn ma người ta hay miêu tả phải không?" Anh giễu. "Người ta bảo những người chết một cách bình yên thường giữ lại được diện mạo lúc còn sống, có vậy anh mới dám theo em chứ!" Nàng bật cười, thấy dễ chịu với máu khôi hài của anh. Anh đưa mắt nhìn nàng âu yếm.
"Em tắm đi, kẻo nước nguội." Nàng bối rối thẹn thùng. Có cái gì đó gần như là thân mật giữa hai người nhưng sao nàng không cảm thấy khó chịu. Nàng lặng lẽ quay lưng bước vào bồn tắm và từ từ tháo khăn tắm ra. Giấu mình dưới lớp bọt xà phòng, nàng đỏ mặt nghĩ đến chàng đã nhìn thấy nàng tắm bao nhiêu lần, và những lúc khác nữa... Người nàng nóng lên và chàng mỉm cười như thể đọc được ý nghĩ của nàng.
Nàng tò mò muốn biết thêm về con người kỳ lạ này. Có cái gì đó như là một sức hấp dẫn từ chàng làm nàng thấy náo nức.
"Ngồi xuống đi anh," nàng bảo, "và kể cho em nghe về anh, làm sao anh gặp được em?
Chàng chậm rãi ngồi xuống bậc đá cạnh bồn tắm. Nhìn thẳng vào mắt nàng, chàng kể, giọng đều đều, trầm ấm.
"Anh bị bệnh tim mãn tính từ nhỏ. Năm anh mười tám tuổi, anh chết trong lúc ngủ. Trước đó vài tháng, Bố anh cũng mất đi như thế nên Mẹ anh suy sụp hẳn và anh nghĩ bà cụ cần được chăm sóc nên anh thường hay quanh quẩn bên bà. Bố anh ra đi vĩnh viễn, anh chưa bao giờ nhìn thấy Bố anh từ khi ông cụ mất, anh không biết bây giờ ông cụ ở đâu? Có nhiều con đường một người chết đi có thể chọn, nhưng anh chưa bao giờ chọn một con đường nào vì ngay từ phút đầu, anh đã quyết định ở lại bên cạnh Mẹ cho đến ngày bà cụ mất." "Thế có bao giờ bà cụ nhìn thấy anh không?" "Có chứ, chỉ một vài lần năm anh vừa mất, nhưng chỉ thoáng qua thôi và không trò chuyện gì cả. Em biết mấy người già mà, họ mê tín lắm, anh không muốn bà cụ lo lắng là anh không được siêu thoát." "Thế nhưng cụ vẫn thấy anh mà?" "Anh chỉ cho mẹ thấy vài lần, ban đêm lúc nhập nhoạng tối lúc cụ soi gương. Anh chỉ cười và ôm lấy mẹ rồi biến đi, anh muốn để mẹ nghĩ rằng anh chỉ là ảo giác." "Thế bà cụ có sợ không?" "Không, không hề," anh mỉm cười. "Anh là con duy nhất của Mẹ nên bà cụ thương anh lắm. Thường sau khi thấy anh, bà cụ có vẻ vui lên. Nhưng không được lâu, cuối năm đó mẹ anh mất. Anh không bao giờ gặp lại mẹ anh nữa. Anh nghĩ bà cụ đã đến với Bố anh. Người ta có thể chọn nơi nào mình muốn đến trước khi chết." Chàng im lặng một lúc, trầm ngâm nghĩ ngợi. Nàng lặng lẽ theo dõi, ngạc nhiên về những điều nghe được.
"Sau đó, anh gặp em. Anh nhớ hôm ấy anh lang thang trong thư viện thành phố, cố tìm lại cảm giác an bình ngày xưa thời còn đi học. Thường thường mỗi khi cô đơn, anh hay vào đó ngồi hàng giờ trong góc, ngắm nhìn tụi nhỏ trò chuyện, đọc sách và thấy thật thư thái. Thế nhưng hôm ấy anh cảm thấy bồn chồn làm sao. Suốt một ngày rảo quanh thư viện, anh không cảm thấy thanh thản chút nào. Cuối cùng, anh quyết định đi dạo phố và ngay lúc anh sắp rời thư viện thì em đến. Anh còn nhớ em đi với hai cô bạn thân, cười nói ríu rít thật hồn nhiên. Anh bị choáng váng trước dáng vẻ tươi sáng của em và anh theo đuổi em từ đó. Anh nhớ những ngày em học miệt mài hay lang thang chọn sách trong thư viện, lúc nào anh cũng ở sát bên cạnh. Anh như bị hớp hồn, anh say mê em điên cuồng, và dần dần anh theo em khắp mọi nơi. Anh đau khổ cùng cực khi em hẹn hò rồi tan vỡ những mối tình, và rồi em lấy chồng. Bẵng đi một thời gian, anh đi lang thang khắp nơi, tránh xa em nhưng rồi anh không chịu nổi, anh phải tìm về, về quanh quẩn bên em, chỉ cần thấy em là anh đã thấy hạnh phúc. Thế mà đã gần hai mươi năm. Đối với anh, thời gian không có ý nghĩa gì cả nhưng anh lần lượt nhìn thấy những người quen già đi, chết đi. Cả em cũng vậy, anh không thể nói em cũng vẫn như xưa. Anh lo sợ một ngày nào đó anh sẽ mất em vĩnh viễn mà không một lần chia sẻ những điều anh hằng ấp ủ. Đã nhiều lần anh muốn đến với em nhưng anh ngại làm em sợ hãi. Anh cũng lo sợ làm đảo lộn cuộc sống phẳng lặng của em. Mặc dù anh thấy em có những điều không được hài lòng trong cuộc sống, nhìn chung, em có một cuộc sống dễ chịu và em xứng đáng được hưởng. Hôm trước, lần đầu em thấy anh trong thư viện địa phương, thú thật là anh không cố tình để em thấy. Anh chỉ theo em như mọi lần nhưng lúc ấy em trông thật tội nghiệp và buồn cười, lúc nào cũng tất bật, vội vã và anh vô tình quên ẩn mình đi. Lúc ấy anh nghĩ là em sợ nên anh vội lẩn đi, nhưng em không có vẻ sợ hãi nên anh liều lĩnh gặp em lần nữa, và sau đó thế nào thì em đã biết." Chàng dừng lại, mắt nhìn xuống hai bàn tay thon dài đan vào nhau.
Nàng hít một hơi sâu, đè xuống cảm giác nghẹn ngào đang dâng lên ngực. Nước mắt nàng chảy xuống lặng lẽ. Nàng chưa bao giờ cảm thấy xúc động và thương cảm như lúc này. Nàng chưa bao giờ biết đến một tấm tình say đắm và chung thủy như vậy. Ở một nơi nào đó sâu xa trong tiềm thức, nàng có cảm giác có một cái gì đó rạn vỡ, mở ra, nàng như bị nhận chìm trong một dòng lũ của vô số cảm xúc và ý nghĩ quyện vào nhau.
Hai người im lặng thật lâu. Một lúc sau, chàng nhẹ nhàng đứng lên.
"Nước nguội rồi, em đi ngủ đi." Không hề nhìn lại, chàng lặng lẽ quay đi, biến mất sau cánh cửa.
Đêm ấy, nàng không ngủ, hay đúng hơn, chỉ ngủ chập chờn. Những ngày sau đó, nàng sống như trong mơ, làm việc, sinh hoạt một cách máy móc. Nàng thường xuyên thấy chàng, hầu như bất cứ nơi nào có gương nàng đều nhìn thấy chàng, lúc vui, lúc trầm ngâm và đôi mắt luôn ánh lên niềm chờ đợi. Thỉnh thoảng, họ chuyện trò với nhau, máu khôi hài của chàng làm vơi đi nỗi bứt rứt trong nàng mỗi lần gặp gỡ, nhưng mỗi ngày sự thân thiết, gắn bó giữa hai người càng mạnh hơn làm nàng cảm thấy nghẹt thở.
* Một buổi chiều nọ, quá căng thẳng và mệt mỏi, nàng đành dừng làm việc và xuống canteen uống cà phê cho tỉnh táo. Canteen vắng tanh, nàng ủ rũ ngồi uống một mình. Trời lạnh buốt, nàng cầm ly cà phê bằng cả hai tay, cố tìm chút hơi ấm. Có tiếng động nhỏ bên cạnh, ngước mắt lên, nàng thấy chàng ngồi bên cạnh. Cố kiếm một chỗ khuất gió, nàng vô tình ngồi cạnh quầy tính tiền trang trí bằng những mảnh gương đủ màu sắc.
"Em làm sao vậy?" Chàng hỏi, giọng ân cần.
"Em mệt quá," nàng thầm thì, sợ có ai vô tình nghe được tường nàng điên, nói chuyện một mình. "Em mệt quá, công việc dồn dập chồng chất, làm mãi không xong." Nàng không dám thú thật là mình mất ngủ và mối quan hệ giữa hai người làm nàng bị dao động, không thể tập trung làm việc.
Anh nhìn nàng ái ngại.
"Em xin nghỉ vài bữa đi, để lấy lại sức." "Còn có mấy hôm nữa là chồng em về, em đã xin nghỉ phép sau đó nên bây giờ không nghỉ được." 'Vả lại', nàng nghĩ, 'em chắc phát điên nếu ở nhà một mình mấy ngày với anh quanh quẩn bên cạnh luôn luôn. Em cần phải đi làm để bớt nghĩ đến anh'.
Chàng nhìn nàng đăm đăm như đọc thấu suy nghĩ của nàng.
"Anh lo cho em," chàng nói một cách đơn giản và cuối xuống hôn nàng dịu dàng.
Nàng run bắn và rung động sâu xa khi chàng dừng lại. Nàng hoảng hốt nhận ra mình đã yêu chàng, một bóng ma từ quá khứ. Nàng chợt đọc thấy nét mừng rỡ kinh ngạc trong mắt chàng.
"Em cảm thấy được anh ư?" Chàng hỏi gấp gáp qua hơi thở.
"Vâng," nàng ấp úng.
Chàng lảo đảo ngồi xuống ghế, nét mặt chàng khó diễn tả được. Mắt chàng ánh lên dáng dấp một nụ cười pha lẫn điều không thể tin được.
"Thật sao... thật vậy sao?" Chàng nói không ra lời. "Đã bao nhiêu năm anh ở bên em, lén hôn lên tóc em, lên vai em, lên khuôn mặt em bao nhiêu lần, em không bao giờ biết, sao lại có điều kỳ diệu này?" Cũng như chàng, nàng chuyển từ kinh ngạc sang hân hoan, một nỗi vui sướng thật tinh khôi như đứa trẻ vừa khám phá ra kho tàng kỳ diệu. Trong một khoảnh khắc, nàng quên đi tất cả xung quanh -- cuộc sống của nàng, công việc, chồng con, cả cái canteen lạnh lẽo, tối tăm -- chỉ thấy tâm hồn tràn ngập niềm vui sướng, hạnh phúc.
Có tiếng người lao xao kéo qua hành lang. Nàng chợt nhớ ra sắp đến giờ tan việc và con gái đang đợi. Họ vội vã chào nhau.
"Hẹn gặp em," chàng thì thầm, siết chặt bàn tay nhỏ bé của nàng.
Nàng cảm thấy hoàn toàn chàng là một CON NGƯỜI, vững chắc, mạnh mẽ và THẬT, như những người ngoài kia. Nàng chạy lên thang lầu, lòng phơi phới hạnh phúc. Tim nàng ca hát như lần đầu tiên biết yêu.
Đêm hôm ấy, chàng đến thăm nàng trong phòng ngủ, khi nàng đứng chải tóc trước gương lúc sắp sửa lên giường. Trên tấm thảm trước tấm gương lớn, họ yêu nhau cuồng nhiệt, đắm đuối. Như đôi vợ chồng trẻ trong thời kỳ trăng mật, họ quấn quýt mãi nhau và thầm thì trò chuyện đến khi tảng sáng.
Đưa con đi học rồi đi làm, nàng đi lại trong cảm giác lâng lâng bay bổng cho đến khi một cô bạn đồng nghiệp trêu.
"Ê bồ, sao hôm nay trông vui quá vậy, bộ được lên bậc hả?" "Không đâu," một cô bạn khác trêu, "còn có hai ngày nữa là chồng nó đi công tác về, lại được nghỉ bồi dưỡng mấy tuần nữa. Này, hay tối mai mình đi ăn tối để tiễn nó đi nghỉ phép đi mấy bồ ơi!" Nàng ngượng nghịu mỉm cười. Nghe bạn nhắc tới ngày chồng về, nàng chột dạ, không biết rồi đây sẽ ra sao. Chồng nàng vẫn gọi điện thoại hàng đêm thăm hai mẹ con, nàng vẫn kể chuyện chung chung qua loa để anh khỏi lo lắng hay nghi ngờ gì, nhưng nàng có cảm giác anh không được hoàn toàn an tâm khi thỉnh thoảng nàng trả lời ngập ngừng, rời rạc và thường để con gái trò chuyện với Bố. Còn có hai ngày nữa là anh đã về, nàng ray rứt thấy mình bồn chồn khổ sở, nàng cảm thấy tội lỗi khi mong chuyến công tác của anh kéo dài thêm ra, để nàng được tận hưởng hạnh phúc mới tìm được, không, nàng tự bào chữa, để có thì giờ trấn tĩnh lại và thu xếp mọi việc cho ổn thỏa. Nhưng tận sâu trong tâm hồn, nàng biết sẽ không bao giờ nữa nàng có được cuộc sống thanh thản bình an bên chồng con khi người yêu nàng vẫn luôn bên cạnh. Nàng luôn cảm thấy sự có mặt của anh ở khắp mọi nơi, mọi lúc, ngay cả lúc anh không xuất hiện. Sự hiện hữu của anh gần như có thể sờ mó được và đôi lúc nàng cảm thấy ngộp thở trong niềm hạnh phúc lẫn âu lo. Anh nói đúng khi sợ làm đảo lộn cuộc sống phẳng lặng của nàng và đã ẩn mình trong suốt ngần ấy năm. 'Có lẽ mình và anh ấy có nợ gì với nhau từ kiếp trước nên bây giờ phải trả cho nhau', nàng thầm nghĩ và mỉm cười vì thấy mình bắt đầu mê tín giống như mấy bà cụ. 'Nhưng phải có một lý do nào chứ! Một cuộc tình như vậy không thể nào tự xảy ra như vậy được', nàng lẩm bẩm một mình.
Đêm hôm ấy hai người lại đến với nhau và trò chuyện với nhau suốt đêm. Tảng sáng, nàng cố hết sức thản nhiên nói cho anh biết ngày mai chồng nàng về và họ nên thôi không gặp nhau nữa.
Anh nhìn nàng thăm thẳm buồn, giọng anh trầm xuống, gần như nói với chính mình.
"Anh biết rồi cũng sẽ đến lúc này," anh thở dài. "Anh cũng nghĩ thế là tốt nhất cho em. Anh không thể nói rằng anh sẽ tìm được hạnh phúc khác khi xa em nhưng em còn một đời trước mặt, còn con cái..., em xứng đáng hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Có lẽ anh sẽ không đi lang thang nữa, có lẽ đã đến lúc anh chấm dứt cuộc sống lưng chừng này và đi đến chốn cuối cùng." Họ nhìn vào mắt nhau. Trăm lời yêu thương nồng thắm dâng tràn và mỗi người tự hiểu rằng họ đã được yêu thật chân thành, trọn vẹn.
Anh lặng lẽ biến mất, nàng chập chờn trong một giấc ngủ rã rời. Hạnh phúc và khổ đau quyện vào nhau thành một khối nặng trĩu trong tâm hồn. Ngày hôm ấy nàng đi lại như kẻ mộng du. Cái chấn đông của những sự kiện vừa qua làm thần kinh nàng như tê liệt. Nàng thầm cảm ơn mấy cô bạn đồng nghiệp luôn miệng trò chuyện chọc ghẹo nhau giúp nàng bớt căng thẳng, và cũng nhờ họ hiểu lầm là nàng quá nôn nóng mong chồng về nên không thể tập trung vào công việc.
Đêm hôm ấy nàng đi ăn tối với mấy cô bạn đồng nghiệp đến quá nửa đêm mới về đến nhà. Nàng cố kéo dài bữa ăn để tránh nghĩ đến chồng và người tình, nàng sợ phải đối diện với những tấm gương im lìm không có bóng anh. Nàng sợ phải lặng lẽ chống chọi một mình trong đêm với những cảm xúc như đang nhấn chìm mình xuống. Nàng thầm cảm ơn mấy cô bạn quý đã cứu nàng thoát khỏi một đêm cực hình. Nàng thiếp đi trong một giấc ngủ ngột ngạt, nặng nề.
* Hôm sau, chồng nàng về. Anh ngạc nhiên thấy nàng hốc hác, xanh xao.
"Em làm sao vậy, em có bệnh không?" "Không, không..." Nàng bối rối trả lời.
Anh nhìn vào mắt vợ. Đôi mắt quầng thâm trên khuôn mặt gầy gò, hốc hác làm anh xót xa.
"Em lại làm việc nhiều quá phải không? Hay em không ngủ được khi vắng anh hả?" Chàng trêu vợ. Vẻ xanh xao của nàng làm anh lo lắng. "Hay là em có thai?" Nàng giật mình như bị bắt gặp quả tang đang làm việc bất chính, nhưng nàng cười khoả lấp.
"Làm sao em có thai được khi anh đi xa cả tháng rồi." Và cùng một lúc, nàng thầm nghĩ 'Phải chi anh ấy...', nhưng nàng vội gạt ra ngay cái ý nghĩ ngông cuồng kia. Nàng có thể có thai lắm, nếu anh ấy không phải chỉ là một cái bóng, nàng tự nhủ.
Thấy vợ trầm ngâm, anh nghĩ nàng lại muốn có con lần nữa. Anh biết nàng rất muốn có thêm con, mặc dù bác sĩ vẫn khuyên rằng nàng e không đủ sức khỏe để có thêm con nữa. Anh nghĩ sẽ khuyên vợ nghỉ việc một thời gian và nếu nàng thật sự muốn có con, anh sẽ khuyên nàng nghỉ hẳn để đủ sức khỏe. Anh âu yếm nhìn vợ, anh muốn làm bất cứ điều gì có thể được để nàng được hạnh phúc.
"Em muốn có con nữa phải không?" Anh âu yếm hỏi. "Cũng đến lúc em có thêm một đứa nữa rồi, nếu em muốn." Nàng ngạc nhiên nhìn anh như vừa rơi xuống từ cung trăng. Nàng đang suy nghĩ và lo lắng một điều hoàn toàn khác, đó là làm sao có thể gần gũi chồng từ nay khi biết người yêu vẫn luôn ở sát bên cạnh. Nhìn nét mặt khó hiểu của nàng, anh nghĩ chắc nàng còn đang do dự nên anh thôi, không bàn tiếp, để vợ tùy ý lựa chọn. Nhưng dù sao, anh vẫn thấy có điều gì đó không được bình thường.
Bữa tiệc gia đình đón chồng về nàng chuẩn bị thật chu đáo. Nàng ước sao nàng cũng chuẩn bị tinh thần được chu đáo như vậy. Anh vui vẻ kể đủ mọi chuyện và mang quà ra cho hai mẹ con. May mắn cho nàng, đứa con gái mừng rỡ quấn lấy bố, đỡ cho nàng cảm giác ngượng nghịu, và anh cũng không nhận ra rằng nàng không tíu tít mừng rỡ như mọi lần khác anh đi công tác xa về.
Đến gần nửa đêm con gái họ mới chịu đi ngủ. Anh âu yếm ôm vợ và yêu nàng thật thắm thiết. Một tháng xa cách thật quá lâu đối với anh, và có thể còn lâu hơn nữa đối với nàng nếu không có người thứ ba. Quá say đắm bên vợ, anh không nhận ra vẻ ngượng nghịu bối rối của nàng, anh cho rằng đó là điều tự nhiên sau nhiều ngày xa cách. Nàng khổ sở bên chồng, nàng không muốn làm anh buồn hay tránh né anh, nhưng nàng không thể không cảm thấy căng thẳng khi biết rằng người yêu của nàng đang ở đâu đó bên cạnh, nhìn thấy tất cả những âu yếm họ dành cho nhau.
Những ngày sau đó vẫn tiếp diễn như vậy nhưng đối với nàng, nỗi căng thẳng bồn chồn càng tăng lên như một cực hình. Sau kỳ công tác, anh được nghỉ phép ở nhà thêm một tuần. Suốt những ngày ở nhà, anh luôn quấn quít bên vợ và nàng có cảm giác anh cố gắng chiều chuộng nàng hết mực. Anh đối với vợ như những ngày trăng mật, anh làm thức ăn sáng mang đến giường cho nàng mỗi ngày. Đưa đón con đi học xong, anh giành làm hết việc nhà, nấu nướng cho nàng. Anh đưa nàng đi xem phim, đi chơi biển, anh càng âu yếm tình tứ càng làm cho nàng khổ sỏ. Anh cứ nghĩ nàng hốc hác ủ rũ vì quá bận rộn công việc, nay có dịp ở nhà, anh ráng làm mọi việc để nàng được thảnh thơi, khuây khỏa. Thế nhưng anh cảm thấy có điều gì đó bất an trong nàng. Mỗi lần nhìn vào mắt vợ, anh không thấy được nụ cười ấm áp như ngày xưa, có một cái gì đó như là sự chịu đựng hay tránh né mà anh không hiểu được. Anh không nhìn thấy nét thanh thản trong nàng, anh nghĩ nàng qua lo lắng với công việc và cố làm mọi cách để nàng khỏi nghĩ đến những chuyện ở sở. Anh khuyên nàng nên làm ít giờ lại để nghỉ ngơi, nàng bằng lòng ngay và anh thấy yên tâm hơn.
Tuần kế tiếp anh đi làm lại. Nàng cảm thấy thật trống vắng khi phải ở nhà một mình. Vốn quen luôn luôn bận rộn tất bật, nàng thấy một ngày ở nhà sao quá dài. Làm hết việc nhà, nàng mang sách ra đọc. Thường thì mỗi khi đọc sách, nàng quên đi tất cả, có lúc quên cả giờ giấc, ăn uống, thế nhưng lúc này nàng không thể tập trung vào câu chuyện. Đọc mãi vẫn không hiểu được gì nàng đành gác sách lại, mang giá vẽ ra vườn. Vẽ đi vẽ lại hàng chục lần không được một bức nào, nàng bồn chồn cất đi rồi đi dạo phố. Nàng cố không suy nghĩ gì cả, cố để đầu óc trống rỗng nhưng sao mọi việc nàng làm, mọi nơi nàng đi qua đều gợi nhớ đến người đàn ông yêu dấu. Những quán nước nàng đến, khu phố quanh nhà, ngay cả nơi yêu thích nhất của nàng là thư viện nàng cũng không dám đến, vì nó gợi lại những kỷ niệm ngày nàng còn có anh bên cạnh.
Mới chỉ một tháng quen nhau mà sao nhiều kỷ niệm, nàng miên man suy nghĩ. Nghĩ đi nghĩ lại, nàng không biết liệu nếu bắt đầu lại từ đầu, nàng có làm khác đi không hay mọi chuyện vẫn sẽ diễn ra như vậy. Nàng cảm thấy có lỗi với chồng con, nhưng nàng không biết nàng đã làm sai chỗ nào, ngoại trừ để cho tình cảm riêng tư ấy chiếm hết tâm hồn, trí óc, thì giờ của nàng. Nàng đã cảm động sâu sắc với tấm tình của anh ấy và điều đó nàng không thể cưỡng lại được, cũng như đó không phải là điều sai trái. Bản tính con người là muốn được quý trọng và thương yêu. Người đàn ông ấy đã dành cho nàng điều quý báu ấy, lặng lẽ suốt bao nhiêu năm, và nàng, như mọi con người khác, đã đáp lại như luật thiên nhiên. Họ đã đến với nhau thật trong sáng, chân thành và đã chia tay nhau vì lợi ích riêng của nàng và gia đình nàng. Đó là một sự hy sinh lớn cho cả hai, nhưng còn lớn hơn nhiều đối với anh vì ít nhất, về phía nàng, nàng còn gia đình, chồng con, bạn bè... để nâng đỡ và thương yêu, còn anh, anh chẳng còn ai, chẳng còn gì khác. Nàng đã xua anh đi một cách phũ phàng và giờ đây, khi nhìn lại toàn thể những điều đã xảy ra một cách bình tĩnh, nàng cảm thấy mình thật ích kỷ. Tất cả những điều nàng làm là đúng theo cuộc sống bình thường, theo quy luật xã hội, nhưng nó chỉ đem lại lợi ích riêng cho nàng, nó giữ gìn cho nàng những điều nàng đã có và cướp thêm những điều anh đã từng có. Nàng cảm thấy đau khổ hơn khi nhận ra rằng mình đã đón nhận tình yêu của anh một cách dễ dàng nhưng cùng một lúc, đòi hỏi anh phải hy sinh cho nàng khi nàng không cần đến anh nữa. Nói một cách khác, nàng muốn cả hai: một cuộc sống gia đình êm đẹp và một cuộc tình thơ mộng mà cái giá phải trả là nỗi đau khổ giày vò của anh. Nàng bứt rứt bồn chồn, nàng muốn gặp lại anh để phân bua, để giãi bày tâm tư tình cảm của mình, nhưng hơn thế nữa, nàng muốn đền bù cho anh những đau khổ, mất mát mà vì nàng, anh phải chịu.
Nàng tìm kiếm bóng anh ở mọi nơi, nàng nhìn vào bất cứ tấm gương nào thấy được, nhưng chỉ có bóng nàng, ngơ ngác, lạc lõng. Nhiều ngày trôi qua như vậy, nàng càng thêm quay quắt. Có lúc nàng đứng hàng giờ trước gương, thì thầm trò chuyện một mình. Nàng van xin anh hãy tha thứ cho nàng quá ích kỷ, nông nổi, nàng mong mỏi được gặp lại anh nhưng tuyệt nhiên không có lời đáp lại. Nàng oà khóc tức tưởi, chắc anh đã đi xa, đi xa vĩnh viễn và nàng không còn bao giờ được thấy nữa. Đó là sự trừng phạt xứng đáng dành cho nàng và nàng cảm thấy tuyệt vọng. Nỗi đau khổ giày vò làm nàng như kiệt sức. Nàng cố gắng hoà mình vào cuộc sống xung quanh nhưng tất cả đối với nàng như một màn kịch. Mỗi ngày đến rồi đi như trên sân khấu, nàng giữ một vai quan trọng mà nàng cố diễn xuất cho đạt.
Hết kỳ nghỉ, nàng trở lại sở làm việc. Mọi người thân ái hỏi han, bạn bè nàng ngạc nhiên thấy nàng vẫn gầy gò, xanh xao và có phần ũ rũ hơn. Ai cũng nghĩ nàng sẽ khá hơn sau kỳ phép nhưng nàng nói dối đã thức khuya đọc sách, xem phim nhiều và đi chơi luôn luôn nên hơi mệt mỏi. Nàng lao vào làm việc như một cái máy, làm miệt mài để quên đi nỗi nhớ, quên đi bóng hình người yêu dấu, nhưng sao nàng bắt gặp mình vẫn đứng thẫn thờ trước gương chờ đợi, có lúc nàng quên cả thời gian, không biết mình đã đứng trước gương trong phòng vệ sinh hay phòng ngủ bao nhiêu lâu.
Cho đến một ngày nàng kiệt sức thật sự và ngất đi ở sở làm việc. Bạn bè nàng hốt hoảng gọi cho chồng nàng. Anh đến mang vợ về nhà, lo lắng tột bực khi nhận ra nàng gầy rộc, mắt trũng sâu. Vốn đã quen vợ gầy yếu mảnh mai, anh không để ý lắm khi nàng từ từ gầy đi nhiều. Vả lại cuộc sống quá bận rộn, cả ngày hai người đi làm, chỉ có tối về mới gặp nhau, lại vội vã với công việc nhà rồi lên giường. Hơn nữa, dạo này nàng thường làm việc thật muộn, anh thường đi ngủ sớm một mình trong khi nàng còn mải mê làm việc đến thật khuya. Anh đâu biết rằng công việc chỉ là cái cớ và cũng là cái lối thoát duy nhất cho nàng để một lúc giải quyết được ba điều khó khăn cho nàng: tránh né chồng, quên đi người yêu, và trị chứng mất ngủ. Nàng đâu biết rằng có đêm nàng thức đến gần sáng, đến lúc mệt rũ ra lê gót lên giường, nàng chỉ thiếp đi có vài giờ là đã đến lúc thức dậy, nhưng nàng hầu như đã mất hết khái niệm về thời gian, có lúc cả khái niệm về không gian cũng không còn rõ rệt nữa. Đôi khi nàng đi như trong mơ, giật mỉnh không biết là đang ở đâu, đi về đâu cho đến khi định thần lại. Cứ như thế, nàng vật vờ trong suốt thời gian qua cho đến lúc kiệt sức. Chồng nàng đưa nàng đi bác sĩ, hoá ra nàng chỉ thiếu dinh dưỡng và thiếu ngủ. Bác sĩ khuyên nàng ăn ngủ điều độ và uống thêm thuốc bổ. Nghỉ ngơi vài hôm lại sức, nàng lại tiếp tục đi làm.
Từ ngày ấy, nàng hứa với chồng sẽ ráng làm việc ít hơn. Tuy nhiên, nỗi đau khổ của nàng ngày càng gia tăng và nàng thường lén chồng nửa đêm vào phòng làm việc. Thuốc bổ giúp nàng thêm sức lực, nhưng không giúp nàng ngủ yên và nỗi nhớ nhung dày vò nàng hàng đêm. Nàng cố làm việc, thỉnh thoảng ngồi trước gương thì thầm với bóng mình. Nàng không còn hy vọng được gặp lại anh, chỉ là một thói quen nàng có được từ ngày biết anh. Đến một hôm, nàng mệt quá thiếp đi trước gương trong phòng làm việc. Một cánh tay êm ái đặt lên vai nàng, giật mình, nàng định phân bua với chồng rằng nàng chỉ vào phòng làm việc kiếm một ít tài liệu. Ngước mắt nhìn lên, nàng mừng rỡ tột cùng khi thấy người yêu bên cạnh. Anh nhìn nàng âu yếm tha thiết. Nước mắt nàng lăn xuống đôi má gầy gò. Nàng khóc thắm thiết trong nỗi hạnh phúc và khổ đau. Họ ôm nhau không rời. Cuối cùng, anh bảo anh không thể cầm lòng được khi thấy nàng quá khổ sở nên để cho nàng gặp lại. Dù mai sau có thế nào cũng mặc, họ chỉ cần có nhau lúc này. Họ yêu nhau tha thiết nồng nàn, nàng như quên đi cuộc sống quanh mình, quên đi những khổ đau đã qua, quên cả mối nguy cơ có thể bị chồng bắt gặp trong phòng làm việc.
Từ hôm ấy, họ lại gặp nhau hàng đêm trong phòng làm việc. Tình yêu như mang lại cho nàng thêm sức lực, nàng lấy lại vẻ tưoi sáng, rạng rỡ. Ai cũng nghĩ thuốc bổ và giảm giờ làm việc đã giúp nàng phục hồi sức lực. Họ đâu biết mỗi đêm nàng vẫn chỉ ngủ có vài giờ, nhưng hạnh phúc đã làm cho nàng ăn uống ngon lành và tâm hồn phơi phới niềm vui. Nàng như trẻ lại, chồng nàng vui sướng thấy vợ lại ca hát như xưa, đôi má nàng đầy lên một chút và phớt hồng. Cuộc sống như thêm sắc màu cho nàng và mỗi bước chân nàng đi như có thêm đôi cánh. Nàng hay cười đùa vui nhộn, nàng như sống lại thời son trẻ với mối tình đầu đời.
Nhưng hạnh phúc của nàng không kéo dài lâu. Sau một thời gian vui sướng được gặp lại nhau, nàng rơi về thực tại với một tương lai mù mịt. Họ không thể kéo dài cuộc tình khác thường như vậy mãi. Nàng canh cánh lo sợ chồng biết được, nàng sợ làm anh thất vọng và đau khổ. Nàng lại không thể chia tay với người yêu. Hai người đã trở nên thân thiết gắn bó như đã bên nhau suốt đời. Họ hiểu nhau và yêu nhau một cách bền chặt. Họ đến với nhau hơn cả đam mê và gần gũi nhau một cách tuyệt đối. Nàng nhận ra nàng không thể sống thiếu anh và đây là một nỗi lo sợ lớn hơn bất cứ điều gì có thể đến với nàng. Trách nhiệm không cho phép nàng xa rời gia đình nhưng ở một nơi sâu xa trong tâm hồn, nàng biết nàng đã tìm được người tri kỷ. Anh mang lại cho nàng một hạnh phúc trong tâm hồn thật toàn vẹn mà nàng chưa bao giờ từng biết đến. Mất anh, nàng biết nàng sẽ không đứng vững nổi và sẽ không còn thiết đến cuộc đời này.
Mặc dù trò chuyện với nhau rất ít, anh vẫn hiểu được điều này và nhiều lần anh do dự, có lẽ anh không nên tiếp tục gặp nàng để nàng khỏi phải lún sâu hơn trong cuộc tình bế tắc này. Nàng hoảng sợ khi anh có ý định từ giã, lần này sẽ là mãi mãi xa cách. Nàng van xin anh để cho nàng có thì giờ ổn định tinh thần, anh mỉm cười bao dung. Mãi mãi nàng sẽ chẳng bao giờ tìm lại được cuộc sống ngày xưa, anh là kẻ đã cướp đi cuộc sống ấy ở nàng, nay anh không còn cách nào để trao trả, cho dù cả hai đều cố gắng hết mình. Hơn nữa, anh đã đè nén mình quá lâu. Anh sẵn sàng hy sinh để nàng được hạnh phúc, nhưng giờ đây, hạnh phúc của nàng là được sống bên anh, không có lý do nào anh lại từ chối mình và từ chối nàng hạnh phúc ấy. Anh do dự nghĩ đến một điều mà nhiều lần anh đã gạt đi, nhưng mỗi lần thấy nàng khổ sở bế tắc, anh không khỏi nghĩ đến. Cho đến một đêm, sau bao nhiêu yêu thương thắm thiết, nàng lại nức nở khóc, họ lại sắp phải chia tay nhau. Anh do dự bảo nàng.
"Hay là em đi với anh?" "Đi đâu hả anh?" Nàng ngạc nhiên hỏi.
"Đi qua bên kia, nơi có Bố Mẹ anh. Có lần anh thấy một người đàn bà mang con bà ấy đi bởi đứa bé ấy quá khổ sở vì nhớ mẹ." "Làm thế nào em đi được hả anh?" Nàng tò mò. Nàng chưa bao giờ nghĩ đến điều này và cái khả năng nó có thể xảy ra làm nàng thấy thú vị.
"Đơn giản lắm, anh chỉ cầm tay em và em bước vào gương cùng với anh. Anh nhìn thấy người mẹ ấy nắm tay đứa bé và hai mẹ con chỉ bước vào trong gương, thế là đứa bé theo mẹ đi đến nơi bà ấy ở." Hai người nhìn nhau, cùng đọc được ý nghĩ của nhau. Họ nhìn thấy một tương lai đầy hạnh phúc, sẽ mãi mãi được bên nhau không còn phải chia cách. Nhưng cả hai cùng nghĩ đến gia đình nàng. Nàng còn Bố Mẹ, anh em, còn chồng con và con gái nàng sẽ khổ sở lạc loài khi mất mẹ. Nàng nhìn thấy mắt anh tối lại, anh vội vã xin lỗi nàng vì đã có ý nghĩ ngông cuồng ấy. Nàng hiểu, anh không cần phải giải thích. Họ yêu quý và tôn trọng nhau và đặt hạnh phúc của nhau lên trên lợi ích của bản thân. Nàng không trách được anh có ý nghĩ ấy, khi người ta bế tắc, bất cứ con đường nào có thể dẫn đến một lối thoát đều được cân nhắc, nhất là khi cả hai người đều muốn đạt được cùng một mục đích.
Họ chia tay nhau trong một trạng thái kỳ lạ. Nàng cảm thấy nhẹ nhõm hơn khi biết được có một lối đi khác để thoát khỏi tình trạng hiện tại. Dĩ nhiên nàng sẽ không làm điều đó, nàng thương yêu gia đình nàng vô vàn, nhất là đứa con gái bé bỏng mà nàng hầu như quên đi trong suốt thời gian qua. 'May mà có bố nó về', nàng nghĩ. Anh thay vợ chăm sóc con lúc nàng bị khủng hoảng suy sụp cả thể xác lẫn tinh thần. 'Có lẽ họ sẽ phải chia tay nhau một ngày nào đó', nàng nghĩ. Không phải lúc này, khi nàng vẫn còn đắm đuối cháy bỏng trong cuộc tình đầy trắc trở. Dù sao đi nữa, nàng vẫn có thể chấp nhận hiện tại, rồi sẽ có lúc cơn sốt ban đầu nguôi đi và hai người sẽ chia tay nhau dễ dàng hơn.
Thế nhưng mọi việc không dễ dàng như nàng tưởng. Trước kia, khi chưa biết đến cái khả năng được đến với nhau, nàng chấp nhận cuộc tình bế tắc, và mặc dù khổ đau, cũng đã một phần chuẩn bị tinh thần cho ngày chia tay. Nhưng từ khi anh gợi ý cho nàng, không một ngày nào nàng không nghĩ đến điều ấy, có lúc nàng như vô tình bước lại gần hơn những tấm gương lớn, như có một sức hút vô hình nào kéo nàng vào. Nàng cố xua đi ý nghĩ ấy nhưng mỗi khi chia tay anh, nàng lại càng thêm nung nấu. Nàng muốn đi theo anh khắp mọi nơi, nàng mãi mãi muốn có anh bên cạnh. Anh đọc được ý nghĩ đó của nàng, ánh mắt nàng phơi bày tất cả nỗi niềm và anh khổ sở khi nhìn thấy điều ấy. Họ không bao giờ nhắc lại chuyện ấy, nhưng mỗi lúc gặp nhau, họ đều cùng nghĩ đến và đều cùng gạt đi.
Cuộc tình của họ đã đi đến lúc sâu đậm. Họ ít nói với nhau, chỉ tận hưởng những giây phút ngắn ngủi bên nhau. Không còn giới hạn vào những lần gặp gỡ ban đêm trong phòng làm việc nữa, bất cứ nơi đâu có những tấm gương ở những nơi kín đáo, họ đều gặp nhau. Có lần nàng ở hàng giờ trong phòng vệ sinh ở chỗ làm việc, đến khi ra ngoài, mấy cô bạn lo lắng hỏi nàng có sao không. Nàng mỉm cười trấn an bạn, nàng đâu có ốm đau gì đâu, chỉ có "sốt tình" thôi, nàng nghĩ. Nàng không biết rằng dần dần, nàng đã rơi vào trạng thái ngơ ngẩn như ngày xưa, lúc nào cũng chờ đợi cơ hội để được gặp anh.
* Thế rồi một ngày kia nàng không về nhà ăn tối. Chờ mãi đến nửa đêm, chồng nàng cuống quýt gọi cho sở cảnh sát. Họ bảo ráng chờ tối nay và hứa sẽ đi tìm nàng sáng hôm sau. Hôm sau, cảnh sát đến sở làm việc của nàng để điều tra. Họ thấy xe hơi của nàng vẫn còn nằm trong bãi đậu xe cho nhân viên. Trong phòng vệ sinh nữ, họ tìm thấy túi xách tay và chùm chìa khoá của nàng trước tấm gương lớn.
--------------------
tamvinh
240/9 cách mạng tháng 8 P10 quận 3
dt 9351166
0915133333 Avinh
0915022222 CTâm
web
dịch vụ mới hot hot hot....
nhận chạy phần mềm O2 vô galerry hay vô nhạc bị treo 50K...
nêú ở xa vaò đây nghen
minhtrung-mobile
View Member Profile Sep 29 2007, 05:11 PM Post #20
admin
Group: SMod
Posts: 793
Joined: 10-January 07
Member No.: 893
án mạng đêm cuối năm
Luật sư Mayher chăm chú quan sát chàng trai ngồi trước mặt ông, con người bị buộc tội giết người có dự mưu.
- Voler, tôi thiết nghĩ, anh nên thành thật khai báo, tôi mới có thể bào chữa cho anh được.
- Biết nói thế nào nhỉ. Tôi không thể bị buộc một tội mà tôi không hề làm. Tôi vô tội, tôi vô tội. Ông phải hiểu điều đó.
- Vâng. Tôi đang cố gắng lo cho anh được tự dọ Nhưng mọi bằng cớ đều chống lại anh. Không phải cứ la lên là mình sẽ vô tội.
- Tôi xin thề trước Thượng đế là tôi bị nghi oan. Tôi đã rơi vào một cái lưới không thể thoát ra được.
- Anh đừng thề mà hãy nói rõ cho tôi nghe, anh quen bà Fren trong trường hợp nào?
- Hôm đó, bà Fren suýt bị xe buýt tông, nên hoảng hồn đánh rơi đồ đạc tung toé ra đường. Tôi có mặt ở đó nên đã nhặt giùm cho bà ấy. Sau đó, tôi gặp lại bà trong một bữa tiệc tại nhà người bạn. Bà nhận ra tôi, nói chuyện với tôi rất thân mật, và khi ra về, bà yêu cầu tôi ghé thăm bà. Bạn tôi nói bà là một cô gái già rất giàu có, sống một mình với chị người làm và tám con mèo.
- Anh đang túng thiếu, lại làm quen với một bà già giàu sụ và cố tình kéo dài sự liên hệ thân mật. Nếu chúng ta chứng tỏ rằng anh không hề biết bà Fren giàu và anh chỉ đến thăm vì xã giao...
Mặt Voler tái đi:
- Havey, bạn tôi đã nói vụ bà Fren giàu trước mặt tôi và rất nhiều người, một vài người còn chế giễu tôi là chuột sa hũ nếp nữa chứ.
- Như vậy thì tôi phải giải thích sao khi một người trẻ tuổi đẹp trai như anh lại mất thì giờ cho một bà đã luống tuổi có tính khí khác thường.
- Thú thật với ông, sau lần viếng thăm đầu tiên, bà đã khẩn khoản mời tôi đến nữa. Bà than rằng bà cô đơn quá, nên xem tôi như con. Bà tử tế, nuông chiều tôi, do đó, tôi thực sự cảm mến bà như một người mẹ.
- Đến lúc nào thì bà ấy yêu cầu anh trông nom sổ sách cho bà?
- Sau bốn, năm lần viếng thăm. Bà ấy tính toán kém trong việc hùn hạp làm ăn.
- Vậy mà chị hầu phòng Jannette quả quyết rằng bà chủ của chị rất thạo việc. Đấy cũng là ý kiến của các ngân hàng có tài khoản của bà ấy.
- Họ nói sao ấy chứ trước mặt tôi, bà ấy tỏ ra rất vụng về.
Luật sư Mayher nhìn Voler. Ông tin vào sự vô tội của chàng thanh niên. Voler đã nói thật. Tâm lý các cô gái già là thường giả bộ ngây thơ để nhận ở những người đàn ông sự giúp đỡ. Và Voler đã đáp ứng được điều đó. Tằng hắng, ông hỏi:
- Có bao giờ anh lợi dụng lòng tin của Fren để kiếm lợi riêng cho anh không? Tôi sẽ có hai cách để bào chữa. Nếu trung thực, anh sẽ không cần nhúng tay vào máu để kiếm được món tiền mà anh có thể kiếm được một cách lương thiện. Bằng ngược lại, anh có những thủ đoạn mà bên công tố biết và sẽ đưa ra. Khi đó, tôi sẽ bảo rằng anh chẳng dài gì mà giết con gà đẻ trứng vàng ấy cả.
- Cảm ơn lòng tốt của ông. Tôi lúc nào cũng ngay thẳng khi làm việc với bà ấy. Nếu người ta cho rằng, tôi lợi dụng vật chất nơi bà ấy, thì cái chết của bà chỉ thiệt hại cho tôi thôi.
Luật sư Mayher nhìn thẳng vào mắt Voler:
- Anh có biết là bà Fren đã lập di chúc để một phần lớn tài sản cho anh không?
Voler nhỏm dậy như bị điện giật"
- Ông nói sao? Bà ấy để của cho tôi à? Vô lý.
Giọng luật sư vẫn điềm tĩnh:
- Anh không biết việc này thật à?
- Ồ, tôi hoàn toàn không biết gì cả.
- Vậy mà cô Jannette lại quả quyết là anh biết cơ đấy. Chính bà Fren đã tiết lộ với cô ta về chuyện này.
- Jannette ghét tôi nên bịa đặt đấy. Ông phải tin lời tôi.
- Anh đã đến nhà bà Fren vài buổi tối, chỉ có mình bà, và sáng hôm sau bà bị giết ở phòng khách. Quả thật tối hôm đó, lúc 9 giờ rưỡi, Jannette có ghé nhà bằng cửa sau để lấy một vài món lặt vặt ở phòng riêng rồi đi ngaỵ Cô ấy khai là có nghe thấy tiếng nói chuyện giữa bà chủ và một người đàn ông từ phòng khách.
Voler đứng phắt dậy:
- Vậy là tôi thoát nạn rồi. Vào lúc chín rưỡi, tôi đã về tới nhà. Vợ tôi có thể chứng minh cho tôi. Cảm ơn Thượng đế xui khiến Jannette ghé về đúng lúc.
Nét mặt luật sư vẫn không bớt đăm chiêu:
- Vậy theo ý anh, ai đã giết bà Fren?
- Một tên cướp. Y đã dùng thanh sắt đập vào đầu bà Fren. Một cánh cửa sổ bị phá vỡ, một số đồ vật bị lấy đi. Nếu không có sự nghi ngờ vô lý của Jannette và ác cảm của cô ta đối với tôi...
- Sự việc không đơn giản như vậy đâu. Anh nói anh về nhà lúc chín rưỡi, vậy mà Jannette lại nghe tiếng đàn ông nói chuyện với bà chủ trong phòng khách. Không lý bà ấy đi nói chuyện bình thường với một tên cướp?
- Dù sao đi nữa, người đó cũng không phải là tôi. Tôi đã có mặt tại nhà lúc chín rưỡi. Xin ông hãy đến gặp Romen, vợ tôi sẽ xác nhận lời khai của tôi.
- Bà Fren biết anh có vợ không?
- Dĩ nhiên là có.
- Jannette đã khai là chưa bao giờ anh đem vợ đến thăm bà Fren, cho nên bà ấy tưởng anh độc thân và có ý định sẽ lập gia đình với anh.
- Vô lý, bà ta quá già.
- Chuyện đó không thành vấn đề.
Voler đỏ mặt:
- Đó chỉ là sự tưởng tượng của Jannettẹ Tôi van ông, hãy đến gặp vợ tôi.
Romen, vợ Voler là một phụ nữ cao lớn, tiều tụy. Bà tiếp luật sư Mayher với vẻ hững hờ. Trông bà bình tĩnh đến lạnh lùng, điều này đã làm cho luật sư e ngại. Dù muốn dù không, ông cũng phải trình bày mọi việc cho người đàn bà ấy nghe. Im lặng một lát, Romen cất giọng đanh thép:
- Voler muốn tôi xác nhận là tối hôm đó, hắn trở về nhà lúc 9 giờ 20 phút chứ gì. Đừng hòng. Tôi không bao giờ đồng lõa với kẻ sát nhân đâu. Ông hãy nghe cho rõ đây, tôi xác nhận là Voler đã biết Fren có để lại gia tài cho hắn nên hắn đã giết mụ già để sớm được vinh thân. Tối hôm đó hắn trở về lúc 10 giờ hai mươi, trên áo đầy máu. Hắn thú nhận tất cả với tôi. Tôi sẽ là nhân chứng buộc tội hắn.
- Chị không thể làm chứng chống lại chồng.
- Hắn không phải là chồng tôi mà là một người đàn ông tồi tệ. Tôi căm thù hắn. Tôi muốn trông thấy hắn bị treo cổ.
- Tôi sẽ đến gặp chị sau khi liên hệ với Voler.
Romen bĩu môi:
- Ông tin là hắn vô tội ư? Thật đáng thương!
Trước ngày tòa xử, luật sư Mayher nhận được một lá thư, nét chữ nguệch ngoạc: "Nếu ông muốn vạch mặt mụ đàn bà đã hại chồng mình như thế nào, mời ông mang theo 2.000 đô la, đến địa chỉ X... vào lúc 19 giờ, hỏi bà Motion".
Khó khăn lắm, luật sư Mayher mới tìm thấy địa chỉ căn nhà. Đó là một túp lều ổ chuột nằm trong một con hẻm lầy lội, dơ dáy. Một mụ già lưng còng đợi ông sau cánh cửa:
- Chào anh chàng luật sự Vào đây, vào đây.
Ngọn đèn trên trần tỏa ánh sáng lờ mờ. Luật sư Mayher giật mình khi thấy gương mặt mụ già đầy những vết sần sùi đỏ hỏn. Mụ cất tiếng the thé:
- Axit đấy, anh bạn trẻ ạ. Tôi sẽ trả thù, trả thù.
- Thôi đi, bà hãy vào vấn đề nhanh lên.
Bàn tay gầy đét với những ngón cáu bẩn đưa ra:
- Thế tiền đâu? Phải đủ hai ngàn đấy nhé.
- Nếu bà biết điều gì đó, bà có bổn phận ra tòa làm chứng.
- Không. Tôi chả biết quái gì cả, nhưng tôi có thể cho anh một vài thứ rất haỵ Anh có thích đọc một lá thư của mụ Romen không? Rất cần thiết cho anh đấy. Đưa tiền đây.
- Tôi chỉ có một ngàn thôi. Nếu bà không chịu tôi xin kiếu.
- Quỷ tha ma bắt anh đi. Nào, bốc xỉa ngay.
Mụ già rút dưới tấm nệm rách ra một xấp bì thư, ném trước mặt Mayher:
- Chắc chắn anh sẽ khoái lá thư trên cùng.
Tất cả đều là những bức thư tình, do Romen viết gửi cho một người tên Mac. Lá thư cuối cùng viết đúng ngày Voler bị bắt: "Mac yêu quý, Voler vừa bị bắt vì tình nghi giết người. Em biết, Voler là một tên hiền như bụt, không hại đến một con ruồi. Nhưng em sẽ khai trước tòa là hắn trở về nhà với máu me đầy mình và đã thú nhận tội lỗi với em. Hắn sẽ bị treo cổ và chúng ta sẽ có nhau... ".
Mụ già nói thêm:
- Mac là chồng tôi. Ngày xưa, vì con bé Romen mà anh ta đã tạt axit vào mặt tôi. Tôi thù nó và đã theo dõi, rình rập nó trong bao nhiêu năm trời. Bây giờ nó sẽ bị trừng phạt vì tội khai man để đẩy chồng vào tù. Anh cứ tin đi. Hãy đến rạp chiếu bóng Eden đưa tấm hình Romen ra, người ta sẽ cho anh biết sự thật.
Không bỏ phí thời gian, luật sư Mayher đến ngay rạp chiếu bóng và ông đã đạt được ý muốn. Chẳng qua, trước khi lấy Voler, Romen từng là diễn viên kịch, nên nhiều người biết mặt. Họ xác nhận, đêm hôm xảy ra án mạng, Romen vào rạp coi xuất chót, vào lúc 10 giờ 20.
Ngày họp tòa. Romen khai rằng buổi tối hôm xảy ra án mạng, Voler ra khỏi nhà mang theo một thanh sắt. Hắn trở về lúc 10 giờ 20 và thú nhận với chị là đã giết bà Fren, hắn còn dọa sẽ giết chị nếu chị nói sự thật.
Lập tức, lá thư tội lỗi được đưa ra. Các chuyên viên về chữ viết đã xác nhận chữ trong thư đúng là của Romen. Người đàn bà điêu ngoa đã phải gục đầu thú nhận. Quả thật, Voler đã trở về nhà lúc 9 giờ 20 như lời anh đã khai.
Voler được trắng án.
Nhưng sự việc không ngừng ở đây, bởi lương tâm luật sư Mayher cảm thấy không yên. Lòng dạ Ông bồn chồn khi nhớ lại những cử chỉ của Romen trước vành móng ngựa. Lưng chị hơi còng, bàn tay phải luôn xòe ra, một thói quen kỳ la... hình như ông đã thấy một người cũng có cái tật như thế. Ai? Luật sư giật nẩy mình. Đúng rồi, Romen đã từng là kịch sĩ... mụ già mặt thẹo!
Ông tìm đến nơi Romen đang trả giá ba tháng tù vì tội khai man. Đầu óc ông quay cuồng với bao câu hỏi. Tại sao? Tại sao?
Người đàn bà trở lại vẻ lạnh lùng cố hữu:
- Tại sao tôi lại chơi cái trò ấy à? Tôi phải cứu chồng tôi chứ. Một lời khai của người vợ thương chồng đâu có thuyết phục được ai. Nếu những lời nói của tôi không tự ý mình, mà do những tác động bên ngoài bắt buộc thì ai cũng phải tin. Tôi bị phạt tù vì khai man hại chồng, nhưng chồng tôi sẽ được cảm tình của tòa và mọi việc sẽ thuận theo chiều hướng tốt đẹp.
- Còn tập thử Còn anh chàng Mac?
- Nếu chỉ viết một lá thư thì có vẻ giả tạo quá. Còn anh chàng Mac ư? Làm gì có, đó chỉ là một cái tên ma.
Luật sư Mayher hậm hực:
- Lẽ ra chị không nên làm thế. Chúng ta có thể chứng minh sự vô tội của Voler bằng một cách hợp pháp hơn.
Romen nhếch mép:
- Thế ông vẫn tin Voler vô tội ư?
- Dĩ nhiên. Chị đã rõ là tôi tin như vậy.
- Tôi thì chả rõ gì cả. Tôi biết chắc là chồng tôi đã giết bà Fren. Để làm gì ư? Vì chúng tôi quá nghèo, ngài luật sư ạ.
--------------------
tamvinh
240/9 cách mạng tháng 8 P10 quận 3
dt 9351166
0915133333 Avinh
0915022222 CTâm
web
dịch vụ mới hot hot hot....
nhận chạy phần mềm O2 vô galerry hay vô nhạc bị treo 50K...
nêú ở xa vaò đây nghen
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro